Chương 27: Quần đảo Salut, chiếc bè trong ngôi
mộ
Trong
vòng năm tháng, tôi đã dần dần am hiểu tường tận từng góc ngách của Quần đảo.
Kết luận hiện giờ của tôi là khu vườn ở cạnh nghĩa địa mà Carbonieri bạn tôi
làm việc trước đây - bây giờ anh không ở đó nữa - là nơi chắc chắn nhất để đóng
bè. Cho nên tôi yêu cầu Carbonieri trở lại khu vườn ấy, không xin thêm người
phụ việc. Anh ta bằng lòng.
Nhờ có
Dega xin cho, Carbonieri được trở về khu vườn cũ. Sáng hôm nay, khi đi qua nhà
viên chỉ huy trại mới đổi đến, tay cầm một xâu lớn cá hồng, tôi nghe thấy anh
tù trẻ làm gia đinh cho nhà này nói với một thiếu phụ:
- Thưa
bà chỉ huy, anh này chính là người trước đây vẫn hàng ngày đem cá về cho bà
Barrot đấy ạ.
Rồi tôi
nghe người kia, một thiếu phụ tóc đen xinh đẹp, kiểu đàn bà Algérie, nước da
màu đồng đỏ, nói với anh ta: "Thế ra anh là Papillon à". Đoạn quay ra
phía tôi, người thiếu phụ nói:
- Tôi đã
được ăn mấy con tôm he rất ngon của anh câu do bà Barrot biếu tôi. Anh vào nhà
đi. Anh phải uống ly rượu vang nhắm với ít pho-mát sữa dê tôi vừa nhận được từ
bên Pháp gửi sang.
- Cám ơn
bà, thôi ạ, tôi không vào đâu.
- Sao
thế? Anh vẫn vào với bà Barrot đấy thôi, sao anh lại không vào với tôi?
- Vì
chính ông Barrot cho phép tôi vào nhà ông ấy.
-
Papillon ạ, chồng tôi chỉ huy trại, còn tôi, tôi chỉ huy ở nhà... Anh cứ vào
đi, đừng sợ.
Tôi cảm
thấy cô thiếu phụ xinh đẹp này đã muốn gì là làm cho bằng được: một người như
thế có thể rất hữu ích hoặc rất nguy hiểm.
Trong
phòng ăn, bà chỉ huy mới dọn ra bàn cho tôi một đĩa giăm-bông hun khói và một
lát pho-mát. Không chút kiểu cách, bà ta xuề xòa ngồi xuống trước mặt tôi, rót
rượu vang cho tôi, rồi sau đó lại rót cà- phê, và cuối cùng là một ly rượu rhum
Jamaique rất ngon. Bà nói:
-
Papillon ạ, mặc dầu lúi búi vì phải sửa soạn ra đi và phải đón tiếp chúng tôi
khi mới về, bà Barrot đã có đủ thì giờ để cho tôi biết được ít nhiều về anh.
Tôi biết rằng bà ấy là người phụ nữ duy nhất trên Quần đảo được anh đem cá về
cho. Tôi hy vọng rằng tôi sẽ được kế chân bà ấy hưởng cái ân huệ này của anh.
- Vì là
bà ấy ốm, còn bà thì tôi thấy hình như rất khỏe mạnh.
- Tôi
không biết nói dối, Papillon ạ. Đúng, tôi khỏe mạnh, nhưng tôi vốn sinh trưởng
ở hải cảng cho nên chỉ thích ăn cá thôi. Tôi là người Oran. Chỉ một điều làm
cho tôi thấy khó xử: tôi cũng được biết là anh không bao giờ bán cá lấy tiền.
Cái này thì phiền quá.
Nói qua
nói lại một lúc, cuối cùng rồi cũng đi đến chỗ thỏa thuận là tôi sẽ đem cá đến
cho bà.
Một hôm
tôi đem đến ba ki-lô cá hồng và sáu con tôm he, đang ngồi hút thuốc thì ông chỉ
huy về. Trông thấy tôi, ông nói:
-
Juliette à, anh đã bảo với em là ngoài chú gia đình ra không được cho một phạm
nhân nào vào nhà kia mà.
Tôi vội
đứng dậy, nhưng bà Juliette nói:
- Anh cứ
ngồi yên. Phạm nhân này là người mà bà Barrot đã gửi gắm cho em trước khi ra
đi. Vậy thì anh đừng có ý kiến gì cả. Ngoài anh này ra sẽ không có phạm nhân
nào vào đây hết. Mặt khác, anh ta sẽ đưa cá cho em khi nào em cần.
- Thế
thì được, - Ông chỉ huy nói. - Anh tên gì?
Tôi toan
đứng dậy trả lời thì Juliette đặt bàn tay lên vai tôi bắt tôi ngồi xuống, nói:
- Đây là
nhà của tôi. Ở đây ông chỉ huy không còn là ông chỉ huy nữa, mà là chồng tôi,
ông Prouillet.
- Cám ơn
bà. Tên tôi là Papillon.
- À! Tôi
có nghe nói về anh và về cuộc vượt ngục của anh cách đây hơn ba năm từ bệnh
viện Saint- Laurent du-Maroni. Vả lại một trong hai viên giám thị bị anh đánh
ngất trong khi vượt ngục lại chính là cháu tôi và là cháu nhà tôi - người đang
bảo hộ cho anh.
Đến đây,
Juliette cười phá lên, tiếng cười trẻ trung và tươi mát.
- Thế ra
anh là kẻ đã phang vào đầu Gaston à? Không sao, việc này sẽ không làm thay đổi
tình hình đâu.
Ông chỉ
huy vẫn chưa ngồi xuống, nói:
- Cái số
án mạng xảy ra hàng năm trên Quần đảo thật khó tin nổi: nhiều hơn ở Đất liền
nhiều. Anh có hiểu tại sao không Papillon?
- Thưa
ông, vì ở đây anh em không vượt ngục được thành ra bẳn tính. Họ sống mãi với
nhau hết năm này sang năm khác, cho nên lẽ tự nhiên là phải hình thành những
tình bạn và những mối thù không có gì tiêu hủy được. Mặt khác, chỉ có không đầy
năm phần trăm số thủ phạm bị phát hiện, cho nên kẻ giết người có thể tin gần
chắc là mình sẽ không bị trừng phạt.
- Cách
giải thích của anh rất lô-gích. Anh câu cá từ bao lâu rồi, và anh nhận loại lao
công gì để có quyền đi câu như vậy?
- Tôi đổ
thùng. Đến sáu giờ sáng tôi đã xong việc, sau đó tôi được đi câu.
- Suốt
thời gian còn lại trong ngày à? - Juliette hỏi.
- Không,
đến mười hai giờ trưa tôi phải về trại, ba giờ mới được ra cho đến sáu giờ
chiều. Như thế rất phiền, vì tùy theo giờ thuỷ triều lên xuống, tôi có thể mất
buổi câu.
- Anh
cho Papillon một tờ giấy phép riêng, nghe anh? - Juliette quay về phía chồng
nói. - Từ sáu giờ sáng đến sáu giờ chiều, như thế anh ta sẽ tha hồ câu cá.
- Xong
ngay, - Ông chủ huy nói.
Tôi ra
về, trong bụng mừng thầm, vì ba cái tiếng đồng hồ từ mười hai đến ba giờ chiều
rất quý giá. Đó là giờ ngủ trưa, bọn giám thị đều ngủ, cho nên việc canh phòng
có chiều lỏng lẻo.
Juliette
đã chiếm lĩnh hoàn toàn cả việc đi câu của tôi lẫn bản thân tôi. Đến mức bà ta
còn sai anh gia đinh đi xem thử tôi đang câu ở đâu để lấy cá về. Có những hôm
anh ta đến, nói: "Bà chỉ huy bảo anh câu được gì đem hết về cho bà, vì hôm
nay bà có khách, muốn làm món xúp tôm cá", hoặc đại loại như vậy. Nói tóm
lại, bà ta quản lý hết thu hoạch của tôi, thậm chí còn dặn tôi câu cá này, cá
nọ, hay phải lặn xuống biển bắt tôm càng. Điều đó có phương hại khá nhiều đối
với thực đơn của tổ tôi, nhưng mặt khác, tôi được che chở hơn hết thảy mọi
người. Bà ta còn có những kiểu quan tâm đặc biệt.
-
Papillon, thủy triều lên lúc một giờ phải không?
- Thưa
bà vâng.
- Thế
thì trưa anh về đây ăn cơm nhé, khỏi về trại.
Thế là
tôi ăn trưa ở nhà bà, hôm nào cũng ăn ở phòng ăn chứ không bao giờ ăn dưới bếp.
Bà ngồi
đối diện với tôi, lấy thức ăn bỏ vào đĩa cho tôi và rót rượu cho tôi. Bà không
được kín đáo tế nhị như bà Barrot. Nhiều lần bà hỏi dò tôi về dĩ vãng. Tôi luôn
luôn phải tránh cái đề tài mà bà quan tâm hơn cả - cuộc sống của tôi ở
Montmartre, chỉ kể thời thiếu niên và thơ ấu của mình. Trong khi đó ông chỉ huy
nghỉ trưa trong phòng ngủ. Một buổi sáng câu được nhiều tôm, tôi về sớm, cầm
hơn sáu chục con tôm càng ghé nhà bà. Bà mặc áo choàng tắm màu trắng, sau lưng
có một cô đang cuốn tóc cho bà. Tôi chào, rồi biếu bà một tá tôm. Bà nói ngay:
- Không,
anh cho tôi tất cơ. Có mấy con?
- Sáu
chục ạ. - Hay quá, anh để cả đấy cho tôi. Anh và các bạn anh cần bao nhiêu cá?
- Tám
con ạ.
- Thế
thì anh giữ lấy tám con, còn bao nhiêu đưa cho cậu bé đem thả vào nước mát đi.
Tôi
chẳng còn biết nói sao.
Xưa nay
chưa bao giờ bà dùng đại từ "tu" nói với tôi, nhất là trước mặt một
người đàn bà khác, vì người này thế nào cũng đi nói lại. Tôi ngượng quá, toan
ra về, thì bà lại nói: "Ngồi yên đấy, uống tí rượu hồi đã. Chắc anh nóng
lắm nhỉ?". Người đàn bà quyền uy này làm cho tôi bàng hoàng đến nỗi tôi
ngồi đực ra. Tôi vừa chậm rãi nhắp rượu hồi vừa hút thuốc lá, người đàn bà kia
chốc chốc lại liếc mắt về phía tôi. Bà chỉ huy nhìn vào cái gương đang cầm ở
tay, biết ngay cô kia nhìn trộm tôi, liền nói "Bồ tôi đẹp trai đây chứ, Simone
nhỉ? Các cô, cô nào cũng ghen với tôi, đúng không nào?" Thế là cả hai cười
khúc khích. Tôi không còn biết độn thổ đi đường nào. Thế rồi tôi nói một cách
ngu xuẩn: "Cũng may là thằng bồ của bà, như bà nói, không nguy hiểm lắm,
vì trong tình cảnh của hắn, hắn không thể phải lòng ai để mà có bồ được".
- Thôi
đi, chẳng lẽ anh dám nói anh không phải lòng tôi? - cô nàng Algérie nói - Chưa
có ai thuần phục được con sư tử như anh, thế mà tôi muốn gì anh làm tất. Phải
có lý do chứ Simone nhỉ?
- Tôi
không biết là lý do gì, - Simone nói, - nhưng có một điều chắc chắn là đối với
mọi người anh là một người hoang dã, chỉ riêng đối với bà chỉ huy là không
thôi, Papillon ạ. Đến nỗi, có hôm anh vác dễ đến hơn mười lăm ki-lô cá, thế mà
bà vợ Ông giám thị trưởng van nài anh bán cho hai con thôi anh cũng không chịu,
bà ấy nói thế, hôm ấy bà ấy thèm đến chết được, vì lò không có thịt.
- Chà
Simone, thế mà đến bây giờ cô mới kể cho tôi nghe.
- Thế
chị cô biết hôm nọ anh ta nói cái gì với bà Kargueret không? Bà ta trông thấy
anh cầm một mớ tôm và một con cá ngừ lớn: "Anh bán tôi con cá đi Papillon,
hay nửa con cũng được. Anh cũng biết là dân Bretagne chúng tôi làm cá ngừ rất
ngon mà?". Papillon nói: "Đâu phải chỉ có người Bretagne mới biết giá
trị của nó? Rất nhiều người, kể cả dân Ardèche chúng tôi, mãi từ thời quân
La-mã sang đã biết đây là món thượng đẳng". Thế là anh ta đi thẳng, chẳng
bán gì cho bà ta cả.
Hai
người đàn bà cười ngặt nghẽo.
Tôi ra
về, trong lòng rất cáu, và đến tối tôi kể cho tổ nghe hết câu chuyện.
- Việc
này rất nghiêm trọng, - Carbonieri nói. - Mụ ấy đưa cậu vào một tình thế rất
nguy. Cậu nên đến đấy càng ít càng tốt, và chỉ khi nào cậu biết là có ông chỉ
huy ở nhà.
Cả tổ
đều tán thành ý ấy. Tôi nhất định phải làm theo ý Carbonieri.
Tôi vừa
phát hiện ra được một anh thợ mộc người Valence. Nơi đó gần như là một quê
hương của tôi, anh này đã giết một người kiểm lâm. Đó là một tay rất máu mê cờ
bạc, lúc nào cũng nợ đìa ra: ban ngày hì hục làm đồ thủ công kiếm được bao
nhiêu thì đến đêm nướng vào sòng bạc hết. Đã nhiều lần anh ta phải lấy đồ thủ
công gán nợ. Thế là bị người ta bắt bí, một cái hộp gỗ quý trị giá ba trăm
francs mà người ta chỉ trừ cho có trăm rưởi hay hai trăm bạc nợ. Tôi đã quyết
định tấn công anh này. Một hôm gặp ở chỗ giặt áo quần, tôi nói với anh ta:
- Đêm
nay tôi có chuyện muốn nói với anh. Tôi đợi anh ở nhà xí. Tôi sẽ ra hiệu.
Đêm ấy
chúng tôi gặp riêng nhau, có thể nói chuyện không sợ ai quấy rầy. Tôi nói:
-
Bourset này, chúng mình là đồng hương đấy cậu ạ.
- Đâu
có! Đồng hương thế nào?
- Cậu
không phải quê ở Valence sao?
- Đúng
thế chứ.
- Tôi
thì quê ở Ardèche, như vậy chúng mình là đồng hương.
- Thế
rồi sao nữa? Có gì quan trọng đâu?
- Có cái
quan trọng là tôi không muốn cậu bị người ta bóc lột khi cậu mắc nợ, tôi không
chịu được khi thấy họ tính giá những đồ của cậu làm không được một nửa giá trị
thật. Lần sau cậu đưa cho tôi, tôi sẽ trả cậu đúng giá. Có thế thôi.
- Cám ơn
cậu, - Bourset nói.
Tôi luôn
luôn can thiệp để giúp đỡ Bourset. Cậu ta thì luôn luôn cãi cọ với những tay
cậu mắc nợ. Mọi sự đều yên ổn cho đến hôm cậu ta có chuyện nợ nần với Vicioli
một tay kẻ cướp rừng ở đảo Corse, một trong những bạn tốt của tôi. Tôi biết
chuyện là do Bourset đến mách với tôi rằng Vicioli đang dọa nạt cậu ta nếu cậu
ta không trả số tiền bảy trăm francs đang mắc nợ. Bourset lại cho tôi biết là
đang sắp sửa làm xong một cái bàn giấy nhỏ có ngăn bí mật, nhưng không dám chắc
bao giờ xong hẳn, vì phải làm lén. Số là phạm nhân không được phép làm những
thứ đồ quá lớn vì như vậy tốn nhiều gỗ. Tôi trả lời là để tôi xem có cách nào
giúp cậu ta được không. Rồi với sự thỏa thuận của Vicioli, tôi dựng lên một màn
kịch nhỏ: Vicioli phải thúc giục Bourset gắt vào, thậm chí dọa dẫm thật dữ. Tôi
sẽ xông vào can thiệp như một vị cứu tinh. Mọi việc đều diễn ra đúng như đã dàn
dựng.
Từ ngày
ấy, cậu Bourset nhất nhất đều nghe tôi và tin tôi một cách tuyệt đối. Lần đầu
tiên trong cuộc đời phạm nhân, cậu ta mới được yên thân. Bây giờ tôi mới quyết
định thử thách số phận. Một hôm tôi nói với Bourset:
- Tôi có
hai ngàn francs biếu cậu nếu cậu làm cho tôi một cái bè chở được hai người, gồm
từng mảng rời có thể lắp nhanh được.
-
Papillon ạ, tôi không đời nào chịu nhận làm một việc như thế cho bất kỳ ai,
nhưng riêng với cậu, tôi sẵn sàng liều chịu hai năm cấm cố nếu bị lộ. Chỉ có
điều là tôi không thể đưa những súc gỗ hơi lớn ra khỏi công xưởng được.
- Tôi đã
có người.
- Ai?
- Hai
anh em Đẩy xe, Naric và Quenier. Cậu định sao?
- Trước
hết phải vẽ một đồ án đúng tỷ lệ, rồi làm từng bộ phận một, có khớp để lắp vào
nhau thật chắc. Cái khó là tìm cho ra thứ gổ nổi thật nhẹ, vì gỗ ở đảo đều là
loại gỗ cứng thả xuống nước không nổi được.
- Bao
giờ cậu sẽ trả lời cho tôi biết?
- Ba hôm
nữa.
- Cậu có
muốn đi với tôi không?
- Không.
- Tại
sao?
- Tại
tôi sợ cá mập và sợ chết đuối.
- Cậu
hứa là sẽ giúp tôi hết mình chứ?
- Tôi
lấy mấy đứa con tôi ra mà thề với anh như vậy. Chỉ có điều là phải làm lâu đấy.
- Cậu
nghe kỹ đây: ngay từ bây giờ tôi sẽ chuẩn bị bằng chứng bênh vực cho cậu phòng
khi bị lộ. Tôi sẽ tự tay chép lại đồ án đóng bè trên giấy học sinh. Phía dưới
tôi sẽ viết: "Bourset, nếu mày không muốn bị ám sát, mày phải đóng chiếc
bè vẽ trên đây" sau đó tôi sẽ viết cho cậu những mảnh giấy dặn dò cách
đóng từng bộ phận. Cứ xong được bộ phận nào, cậu sẽ đem ở nơi tôi sẽ dặn. Nó sẽ
được đưa đi giấu ngay Cậu đừng tìm cách biết ai đến lấy và lấy vào lúc nào (ý
này làm cho cậu ta thấy nhẹ bớt) như vậy tránh cho cậu khỏi bị tra tấn nếu bị
bắt và dù có sao cậu cũng chỉ phải chịu hình phạt nhẹ nhất: chừng sáu tháng cấm
cố thôi.
- Thế
nếu chính cậu bị bắt thì sao?
- Nếu
thế thì sẽ ngược lại. Tôi sẽ nhận tôi đã viết mấy mảnh giấy. Dĩ nhiên cậu phải
giữ những mảnh giấy ấy. Nhất trí chưa?
- Tôi
hứa như vậy. Cậu không sợ chứ?
- Không,
bây giờ tôi không sợ nữa. Tôi thấy vui được giúp cậu..
Tôi chưa
nói gì với ai hết. Tôi còn phải chờ Bourset trả lời về chuyện gỗ. Mãi đến một
tuần sau, một tuần dài dằng dặc tưởng không bao giờ hết, tôi mới có dịp nói
chuyện riêng với Bourset ở thư viện. Ngoài hai chúng tôi ra không có ai ở đấy.
Đó là vào buổi sáng chủ nhật. Ở ngoài sân đang có đám bạc lớn, gần tám mươi
người đánh và ngần ấy người đứng xem. Lập tức Bourset làm cho tôi thấy ấm lòng:
- Cái
khó nhất là làm sao chắc có được đủ gỗ nhẹ và khô. Tôi đã nghĩ được cách làm
một cái khung bằng gỗ nẹp chặt dừa khô, còn nguyên cả thớ vỏ, cố nhiên. Không
có gì nhẹ bằng thớ vỏ dừa, mà nước lại không thấm vào được. Khi bè đóng xong,
chính anh phải lo kiếm cho đủ dừa để nhét vào khung. Vậy thì mai tôi làm mảng
đầu tiên. Mất độ ba ngày. Từ thứ năm cậu cho một trong hai anh em Đẩy xe đến lấy.
Tôi sẽ không bao giờ bắt đầu làm thêm một mảng trước khi cái đó ra khỏi xưởng.
Tôi đã vẽ đồ án rồi đây, cậu chép lại đi rồi viết thêm mảnh giấy như cậu đã
hẹn. Cậu đã nói chuyện với anh em nhà ấy chưa?
- Chưa,
tôi còn chờ cậu trả lời đã chứ.
- Thế
thì tôi trả lời rồi đấy: được.
- Cám ơn
Bourset, tôi không biết lấy gì cảm ơn cậu Thôi, năm trăm francs đây, cậu cầm
lấy.
Bourset
nhìn thẳng vào mắt tôi nói:
- Không,
cậu giữ lấy tiền. Đến đất liền cậu sẽ cần đến để vượt tiếp. Từ hôm nay tôi sẽ
không đánh bạc cho đến khi nào cậu ra đi. Làm một ít đồ thủ công, tôi sẽ có đủ
tiền mua thuốc lá và bít-tết.
- Tại
sao cậu không chịu cầm?
- Vì
việc này dù có trả một vạn francs tôi cũng không làm đâu. Việc quá nguy hiểm
cho tôi, dù đã có đề phòng bất trắc. Chỉ có làm không công mới làm được. Cậu đã
cứu tôi, cậu là người duy nhất đã dang tay ra giúp đỡ tôi. Tôi có sợ thật,
nhưng tôi rất sung sướng được giúp cậu trở lại cuộc sống tự do.
Trong
khi ngồi chép lại đồ án, tôi thấy hổ thẹn trước sự cao thượng lớn lao mà ngây
thơ của Bourset. Cậu ta không chút hồ nghi rằng những cử chỉ tốt đẹp của tôi
đối với cậu là có tính toán vụ lợi. Để khỏi khinh rẻ bản thân, tôi buộc lòng
phải tự nhủ rằng tôi phải vượt ngục bằng bất cứ giá nào, dù cái giá đó là tình
thế éo le và không phải bao giờ cũng tốt đẹp. Đêm hôm ấy tôi nói chuyện với
Naric, biệt hiệu Xúp Nhừ, để sau đó cậu ta nói lại với ông em rể. Naric nói,
không chút phân vân:
- Cậu cứ
để tôi lo việc đưa các mảng bè ra khỏi công xưởng. Chỉ có điều là cậu đừng sốt
ruột, vì chỉ khi nào có dịp đưa vật liệu cồng kềnh ra khỏi xưởng để làm công
trình xây cất trên đảo mới nhân thể đưa luôn đồ của cậu ra. Dù sao tôi cũng hứa
với cậu là sẽ không bao giờ để lỡ một dịp nào.
Thế là
ổn rồi. Chỉ còn phải nói chuyện với Matthieu Carbonieri, vì tôi muốn cùng vượt
ngục với chính anh ta. Anh ta đồng ý trăm phần trăm.
-
Matthieu à, tôi đã tìm được người làm bè, đã tìm được người đưa từng mảng bè ra
khỏi công xưởng. Phần cậu là tìm xem trong khu vườn có chỗ nào giấu được bè
không.
- Không
được đâu. Đây là vườn rau, nguy hiểm lắm, vì ban đêm có những thằng gác mò vào
ăn trộm rau quả. Nếu chúng nó đi đúng vào chỗ giấu, cảm thấy dưới đất rỗng thì
hỏng hết. Tôi sẽ làm một cái hốc trong bức tường bằng cách lấy ra một phiến đá
lớn rồi khoét sâu vào trong. Mỗi khi nhận một mảng bè, tôi sẽ giở hòn đá ra,
giấu vào hốc rồi đặt lại hòn đá như cũ
- Đưa
thẳng các mảng đến vườn cậu được không?
- Không
được. Làm như vậy quá nguy hiểm. Hai anh em Đẩy Xe không có lý do gì vào vườn
của tôi. Tốt hơn cả là thu xếp cho họ mỗi lần đem đến một nơi khác không quá xa
vườn của tôi.
- Nhất
trí.
Mọi việc
đều có vẻ ổn. Còn mấy quả dừa khô. Tôi nghĩ xem có cách nào chuẩn bị một số dừa
đủ dùng mà không lộ liễu quá. Tôi cảm thấy mình đang sống lại.
Chỉ còn
một việc là nói chuyện với Galgani và Grandet. Tôi không có quyền giấu họ, vì
họ có thể bị buộc tội là đồng lõa với tôi. Bình thường ra, tôi phải chính thức
ra khỏi tổ của họ để sống một mình. Khi tôi nói cho họ biết là tôi đang chuẩn
bị một cuộc vượt ngục cho nên phải tách ra khỏi tổ, họ mắng cho tôi một trận và
dứt khoát không chịu. "Cậu hãy lên đường càng sớm càng tốt. Còn chúng tớ
thì khỏi lo, sẽ có cách. Trong khi chờ đợi cậu cứ ở với chúng tớ, chúng tớ có
còn non dại gì đâu". Cuộc chuẩn bị đã tiến hành được hơn một tháng. Tôi đã
nhận được bảy mảng bè, trong đó có hai mảng lớn. Tôi đã đến xem bức tường của
Matthieu có khoét hốc để giấu bè. Không thể nhận thấy phiến đá đã bị tháo ra,
vì cậu ta đã cẩn thận lấy rêu trát vào các khe hở. Chỗ giấu thật hoàn hảo,
nhưng tôi thấy cái hốc hơi chật chưa chắc chứa hết được tất cả. Tuy vậy, cứ như
hiện nay thì vẫn còn đủ chỗ.
Cái ý
thức là mình đang chuẩn bị vượt ngục khích lệ tinh thần tôi dữ dội. Tôi chưa
bao giờ ăn nhiều và ngon miệng như thế, và chế độ ăn cá giữ cho cơ thể tôi hoàn
hảo. Thêm vào đấy, mỗi buổi sáng tôi tập thể dục hai tiếng đồng hồ trên các mỏm
đá. Tôi tập chân nhiều hơn, và khi câu cá tay đã hoạt động nhiều. Tôi nghĩ ra
cách tập chân như sau: Tôi đi ra biển xa hơn khi tôi đứng câu, dể cho sóng xô
vào đùi. Để đón sóng và giữ thăng bằng, tôi gồng các cơ bắp chân và đùi. Kết
quả rất tốt. Juliette, tức bà chỉ huy, vẫn rất niềm nở đối với tôi. Nhưng bà đã
để ý thấy rằng chỉ khi nào có chồng bà ở nhà tôi mới vào. Bà đã nói thẳng với
tôi là bà nhận thấy thế, và để cho tôi khỏi ngượng ngập, bà phân trần với tôi
rằng cái hôm có cô Simone đến quấn tóc cho bà là bà nói đùa cho vui thôi. Tuy
vậy, cô Simone vẫn hay ra đứng trên con đường tôi đi câu về, và mỗi lần gặp tôi
cô đều có đôi lời thăm hỏi thân ái về sức khỏe và tinh thần của tôi. Vậy là mọi
sự đều tốt lành.
Bourset
tận dụng mọi cơ hội để làm bè cho tôi. Công việc bắt đầu thế là đã được hai
tháng rưỡi. Chỗ giữ bè đã chật ních, như tôi đã dự kiến trước đây. Chỉ còn
thiếu hai mảng dài nhất, một mảng dài hai mét, mảng kia dài mét rưỡi. Hai mảng
này không lọt được vào hốc. Nhìn về phía nghĩa trang, tôi trông thấy một ngôi
mộ mới. Đó là mộ của vợ một cảnh binh, mới chết tuần trước. Trên mộ có đặt một
bó hoa héo tồi tàn. Người giữ nghĩa trang là một phạm nhân già mù lòa có biệt
hiệu là Bố già. Suốt ngày ông già ngồi dưới bóng một cây dừa mọc ở góc đối diện
của nghĩa trang; ngồi đấy ông ta không thể nhìn thấy ngôi mộ ấy, mà nếu có ai
đến gần ngôi mộ ông ta cũng không nhìn thấy được. Tôi nảy ra cái ý dùng ngôi mộ
này để lắp bè và nhét thật nhiều dừa vào cái thứ khung gỗ mà anh thợ mộc đã
đóng. Hết khoảng ba mươi đến ba mươi bốn quả: so với số dừa đã dự kiến thì ít
hơn nhiều. Tôi đã kiếm được hơn năm mươi quả, đặt rải rác ở nhiều nơi, mỗi nơi
một ít. Chỉ riêng trong sân nhà Juliette đã được một tá rồi. Anh tù gia đình
tưởng tôi gửi tạm đấy để sau này ép dầu.
Được tin
viên cảnh binh chồng người đàn bà mới chết có việc phải đi lên đất liền, tôi
quyết định bới lên một phần đất bỏ ra khỏi huyệt, đến chỗ đặt quan tài mới
thôi. Matthieu Carhonieri ngồi trên bức tường của anh ta, gác cho tôi đào. Đầu
anh ta đội một chiếc khăn mùi soa trắng bốn góc thắt nút lại. Bên cạnh có một
chiếc khăn đỏ, cũng thắt nút ở bốn góc. Không có gì thì cứ đội khăn trắng. Thấy
ai đến thì đội khăn đỏ lên, dù là ai cũng thế. Công việc này cực kỳ nguy hiểm.
Cũng may là chỉ mất một buổi chiều và một đêm. Tôi không phải đào đến tận quan
tài, vì tôi phải khoét rộng cái huyệt ra cho vừa chiều rộng của chiếc bè: một
mét hai có dôi ra một ít. Tôi có cảm giác thời gian trôi qua chậm quá, và cái
khăn đỏ đã mấy lần hiện ra. Cuối cùng, sáng hôm nay tôi đã làm xong.
Cái
huyệt được phủ bằng lá dừa chặt lại, làm thành một thứ sàn khá chắc. Bên trên
phủ đất, đắp xung quanh lại thành một cái rìa nhỏ. Trông hầu như không có gì
khả nghi. Thần kinh tôi căng thẳng đến tột độ rồi. Cuộc chuẩn bị vượt ngục này
đã kéo dài ba tháng. Được buộc kỹ và có đánh số đâu vào đấy, tất cả các bộ phận
bằng gỗ của chiếc bè đã được đưa ra khỏi chỗ giấu. Bây giờ nó nằm phía trên
quan tài của người đàn bà đã khuất, được lớp đất phủ trên sàn lá dừa che kỹ.
Trong cái hốc ở trên tường, chúng tôi đã để ba cái bao bột và một sợi dây dài
ba mét để làm buồm, một cái chai đựng diêm và vỏ quẹt, một tá hộp sữa, chỉ có
thế thôi. - Bourset càng ngày càng nôn nao, bứt rứt. Cứ như thể chính anh ta sẽ
ra đi chứ không phải tôi. Naric lấy làm tiếc là hồi tôi hỏi anh ta đã từ chối.
Nếu hồi ấy anh đồng ý thì chúng tôi đã tính chuyện đóng một chiếc bè cho ba
người đi chứ không phải hai.
Bấy giờ
là mùa mưa, ngày nào cũng mưa cả, điều đó tiện lợi cho tôi những khi tôi đi
"thăm mộ"; lúc ấy tôi đã lắp gần xong cái bè. Còn thiếu hai thanh gờ
của khung gỗ. Tôi đã chuyển dần mấy chục quả dừa về gần khu vườn của bạn tôi.
Có thể đến lấy dừa một cách dễ dàng và không có gì nguy hiểm trong trại trâu.
Không bao giờ các bạn tôi hỏi tôi đã chuẩn bị đến đâu rồi. Chỉ thỉnh thoáng họ
mới nói: "ổn chứ?" - "ổn". – "Hơi lâu, cậu nhỉ? -
"Làm nhanh hơn thì có cơ hỏng hết". Chỉ thế thôi. Khi tôi đến lấy mấy
quả dừa để tạm ở sân nhà Juliette, bà ta trông thấy và đã cho tôi một mẻ hết
hồn.
- Này
anh Papillon, anh bắt đầu làm dầu dừa đấy à? Sao không làm ngay trong sân này?
Ở đây có cái chày vồ để đập dừa ra, tôi sẽ cho anh mượn cái nổi lớn trong nhà
để đựng cùi dừa.
- Tôi
thấy làm ở trại tiện hơn.
- Lạ
thật. Ở trại bất tiện thì có.
Nhưng
nghĩ một lát, bà ta lại nói:
- Anh có
muốn tôi nói thật không? Tôi không tin là anh lại đi làm dầu dừa đâu.
Tôi lạnh
toát cả người, Juliette lại nói:
- Trước
hết anh việc gì phải làm dầu dừa, trong khi anh có thể lấy bao nhiêu dầu ô-liu
của tôi cũng được? Mấy quả dừa kia để làm một cái gì khác kia, đúng không?
Tôi toát
mồ hôi hột. Ngay từ đầu tôi đã chờ bà ta ném ra hai tiếng "vượt
ngục". Tôi nghẹn cả thở. Tôi nói với Juliette:
- Thưa
bà, chuyện này lẽ ra tôi phải giữ bí mật đến cùng, nhưng tôi thấy bà tò mò sốt
ruột muốn biết quá, cho nên tôi đành phải làm hỏng món quà bất ngờ mà tôi đã
định dành cho bà. Nhưng đã thế này thì tôi chỉ có thể hở cho bà biết rằng mấy
quá dừa lớn này đã được chọn để làm một thứ đồ chơi rất xinh mà bà sẽ rất
thích. Hiện nay tôi chỉ có thể nói đến đấy thôi.
Tôi đã
thắng, vì thấy Juliette trả lời:
-
Papillon ạ, anh đừng vì tôi mà bày vẽ những việc làm anh mất thì giờ, và nhất
là tôi cấm anh không được phí tiền để làm cho tôi một thứ quà cáp gì đặc biệt.
Tôi thành thật cám ơn anh đã nghĩ đến việc đó, nhưng anh chớ có làm như vậy,
tôi thiết tha yêu cầu anh đấy.
- Thôi
được, để tôi xem đã.
Thật hú
vía! Tôi lập tức xin Juliette một ly rượu hồi, điều mà tôi chưa bao giờ làm. Bà
không nhận thấy vẻ thảng thốt của tôi, thật may.
Thượng
đế nhân từ đang đứng về phía tôi. Hôm nào trời cũng mưa, nhất là về chiều và
đêm. Tôi lo nước ngấm qua lớp đất mỏng làm lộ lớp lá dừa đan. Matthieu phải
trông chừng thường xuyên, hễ thấy đất trôi đi là đắp lại ngay. Chắc ở phía dưới
ngập nước hết rồi. Tôi và Matthieu lôi lớp lá dừa lên: nước chảy xuống đã gần
đến nắp quan tài. Tình thế thật nguy kịch. Gần đấy có một ngôi mộ chôn hai đứa
trẻ đã chết từ lâu lắm. Một hôm chúng tôi cạy phiến đá trên mộ, tôi chui xuống
dùng một thanh sắt ngắn đục lớp xi măng ở chỗ thấp nhất về phía ngôi mộ giấu
bè. Lớp xi măng vỡ rồi, tôi vừa cầm thanh sắt cắm xuống đất thì một tia nước
phọt lên. Nước từ ngôi mộ bên kia chảy sang cái huyệt này. Khi nước đã lên đến
đâu gối tôi bước ra ngoài. Chúng tôi đặt phiến đá trở lại chỗ cũ và gắn xung
quanh bằng mát-tit trắng (do Narie kiếm giùm). Biện pháp này đã làm cho lượng
nước bên ngôi mộ giấu bè của chúng tôi bớt được một nửa.
Tối hôm
ấy Carbonien nói với tôi:
- Không
biết đến bao giờ mới hết những chuyện phiền toái vì chuyến vượt ngục này.
- Gần
xong rồi mà, Matthieu!
-
"Gần" rồi hả? Cũng mong như thế.
Thật
chúng tôi như đang ngồi trên đống than hồng.
Sáng hôm
sau, tôi ra bến. Tôi đã yêu cầu Charpar mua cho tôi hai ki-lô cá để đến trưa
tôi sẽ ra lấy. Tôi trở lên vườn Carbomeri. Gần đến, tôi trông thấy ba cái mũ
cối trắng. Tại sao lại có ba tên cảnh sát trong vườn? Chúng nó lục soát gì
chăng? Thật là việc không bình thường. Tôi chưa bao giờ thấy có ba tên cảnh sát
đến vườn Carbomeri. Tôi đợi một giờ đồng hồ, rồi sốt ruột quá không chịu được
nữa, tôi quyết định đi tới tận nơi xem thừ có việc gì xảy ra. Tôi cứ ngang
nhiên đi trên con đường dẫn đến khu vườn. Mấy tên cảnh sát đứng nhìn tôi đi
tới. Tôi đã đến cách họ khoảng hai mươi mét, lòng bồn chồn hồi hộp, thì thấy
Matthieu đội chiếc khăn trắng lên đầu. Tôi thở hắt ra, và có đủ thì giờ trấn
tính lại trước khi đến tận chỗ mấy người kia đứng.
- Chào
các ông giám thị. Chào Matthieu. Tôi đến lấy quả đu đủ cậu hứa cho tôi.
- Tiếc
quá Papillon ạ, sáng nay tớ đi lấy sào để cắm cho cây đỗ leo, khi về mới thấy
mất quả đu đủ. Nhưng chỉ bốn năm hôm nữa lại có quả chín, bây giờ cũng đã có
mấy quả vàng vàng rồi. Thưa các ông giám thị, sao ạ, các ông có lấy một ít rau
xà lách, mấy quả cà chua mí lại mấy củ cải cho các bà ở nhà không ạ?
- Khu
vườn của anh trông nom khá lắm Carbonieri ạ tôi có lời khen anh đấy, - một viên
cảnh sát nói.
Họ nhận
mấy mớ xà lách, cà chua và củ cải rồi ra về. Tôi ra về trước họ một chút cho họ
thấy tôi không có chuyện riêng gì phải bàn với Carbonieri, không quên mang theo
hai cây xà lách.
Tôi đi
ngang qua nghĩa địa. Ngôi mộ bị mưa xói lở cả lớp đất phủ bên trên. Đứng cách
mười bước, tôi trông thấy rõ lớp lá dừa trồi lên. Đến thế này mà chúng tôi chưa
bị lộ thì quả là Chúa phù hộ cho. Đêm đêm gió thổi ào ào như quỷ dữ, tràn qua
ngọn đồi trên đảo với những tiếng gầm thét điên dại, chốc chốc lại đổ cả mưa
rào. Mong sao cứ thế này mãi: đây là một thời tiết lý tưởng để vượt ngục, nhưng
đối với ngôi mộ thì lại khác. Súc gỗ lớn nhất của chiếc bè, cái súc dài hai mét
ấy đã được đưa đến hầm mộ một cách xuôi lọt, để nhập bọn với các bộ phận khác
của bè. Tôi lại còn lắp thử nó vào nữa là khác, nó ăn khớp vào một cách sít sao
mà dễ dàng, không phải tốn sức gì cả.
Bourset
chạy lên tận trên trại để hỏi xem tôi đã nhận được cái bộ phận quan trọng hàng
đầu ấy chưa: nó quan trọng thật, nhưng lại cồng kềnh quá xá. Nghe nói đâu đấy
đều ổn cả, anh ta mừng quýnh. Anh ta có vẻ như không tin là nó lại có thể đến
tay tôi được. Tôi hỏi:
- Cậu có
ngờ vực gì không? Cậu nghĩ là có ai biết được à? Cậu có hở ra với ai không? Trả
lời đi!
- Không,
tuyệt nhiên không?
-Thế
nhưng cậu vẫn có vẻ lo âu vì một điều gì đó. Cậu nói đi!
- Tôi
chỉ có một cảm giác khó chịu vì cái nhìn quá tò mò như có ý soi mói của một gã
tên là Bébert Celier. Tôi thấy hình như hắn đã nhìn thấy Naric lấy súc gỗ dưới
cái bàn thợ mộc bỏ vào cái thùng ton-nô đựng vôi rồi mang đi. Mắt hắn dõi theo
Naric ra đến tận cửa xưởng. Hai anh em Đẩy Xe sắp phải quét vôi một dãy nhà
trong trại. Tôi lo là vì thế đấy.
Tôi hỏi
Grandet:
- Cái
anh Bébert Celier ấy ở khối ta đấy, vậy ắt không phải là một thằng phản trắc.
Grandet
nói:
- Tay
này vốn là tù được giao cho sở Công chánh. Cậu thử hình dung mà xem: hắn đã
từng đánh nhau trong một tiểu đoàn trừng giới ở châu Phi, một tay cứng đầu đã
nếm mùi đủ các thứ nhà pha của quân đội ở Maroc và ở Algérie, chuyên gây sự
đánh nhau, đấu dao loại sừng sỏ, một tay pê- đê cuồng nhiệt, lại máu mê cờ bạc
nữa. Hắn chưa bao giờ sống ngoài xã hội như một thường dân. Kết luận: đó là một
thằng vô lại, cực kỳ nguy hiểm. Trại khổ sai chính là cả cuộc đời của hắn. Nếu
cậu nghi hắn thực sự, thì hãy đi bước trước đi: hãy ám sát hắn ngay đêm nay, để
hắn không có thì giờ tố giác cậu nếu hắn có ý định ấy.
- Không
có gì chứng minh rằng hắn là một thằng chỉ điểm.
- Đúng
thế, - Galgani nói, - nhưng cũng không có gì chứng minh hắn là một thằng khá.
Cậu thừa biết loại phạm nhân như hắn chúa ghét những cuộc vượt ngục. Nó làm đảo
lộn quá nhiều cái nếp sinh hoạt yên ổn và có nền nếp của bọn chúng. Về bất cứ
việc gì khác thì chúng không bao giờ tố giác, nhưng chuyện vượt ngục thì khác,
biết đâu đấy?
Tôi hỏi
ý kiến Matthieu Carbonieri. Anh ta tán thành cái ý kiến là phải giết hắn ngay
đêm nay. Anh ta định đích thân làm việc đó. Tôi có một hành động sai lầm là đã
ngăn cản anh ta. Tôi không thể chấp nhận việc giết một con người mà chỉ căn cứ
vào những hiện tượng bề ngoài. Dù là tự mình giết hay để cho người khác giết,
tôi cũng thấy ghê tay quá. Nếu nhỡ Bourset tưởng tượng ra những chuyện anh ta
vừa kể thì sao? Vì quá lo sợ, anh ta có thể thần hồn nát thần tính mà thành ra
hoang tưởng cũng nên. Tôi hỏi Naric:
- Xúp
nhừ này, cậu có thấy Bébert Celier có cái gì khác thường không?
- Tôi
thì không. Khi đi ra, tôi vác cái thùng trên vai để thằng giữ chìa khóa đừng
trông thấy trong thùng có gì. Theo chiến thuật đã quy ước, tôi phải đứng ngay
trước mặt thằng giữ chìa khóa, không đặt cái thùng ton-nô xuống, cho đến khi
anh rể tôi ra đến cửa. Như thế là để thằng A-rập thấy rõ tôi không vội vã muốn
ra ngay: hắn sẽ không sinh nghi mà đòi khám cái thùng. Nhưng sau đó anh rể tôi
nói là thấy thằng Bébert Celier quan sát chúng tôi một cách chăm chú.
- Ý kiến
của anh ra sao?
- Vì bộ
phận này rất quan trọng, và chỉ nhìn qua cũng biết đó là một bộ phận của một
chiếc bè, cho nên anh rể tôi lo sợ quá mà trông gà hóa cuốc.
- Tôi
cũng nghĩ như vậy. Thôi chuyện này không nói nữa.
Còn lại
bộ phận cuối cùng, trước khi đưa ra phải chú ý xem Bébert Celier ở đâu. Cứ đề
phòng hắn ta như đối với một tên ác.
Suốt đêm
ấy tôi mê mải đánh bài Marseillaise. Tôi được bảy ngàn francs. Tôi càng đánh
bừa lại càng được. Đến bốn giờ rưỡi sáng, tôi thôi đánh bài, nói là phải đi làm
cỏ-vê đổ thùng. Tôi để cho cậu da đen Matinique làm một mình. Mưa đã tạnh.
Trong bóng đêm hãy còn tối mịt, tôi đi ra nghĩa trang. Tôi lấy chân san lại đất
trên ngôi mộ, vì tôi tìm không ra cái xẻng, nhưng với đôi giày của tôi, công
việc cũng tạm ổn. Đến bây giờ, khi tôi xuống biển câu cá, trời đã nắng ráo, rất
đẹp. Tôi đi về phía mũi đá phía nam đảo Royale, nơi tôi đã định cho bè xuống
nước. Nước biển dâng cao, động mạnh. Tôi cũng không biết nữa, nhưng tôi có cảm
giác là sẽ rất khó làm cho bè tách ra khỏi bờ mà bờ mà không bị sóng hắt trở
lại, xô mạnh, vào đá. Tôi câu một mớ cá hồng đá dễ đến hơi năm ki-lô. Rửa sạch
mớ cá xong, tôi không câu nữa. Tôi rất lo, nhất là lại đang mệt vì canh bạc
trắng đêm. Ngồi trong bóng rợp, tôi ôn lại cái thời gian hơn ba tháng chuẩn bị
vừa qua, tự nhủ rằng sự căng thẳng kéo dài đã sắp kết thúc, rồi nghĩ đến trường
hợp Celier, tôi kết luận lại một lần nữa là mình không có quyền ám sát hắn.
Tôi đến
gặp Matthieu. Đằng bên bức tường của khu vườn, có thể trông rõ ngôi mộ. Trên
lối đi vào mộ có đất rải rác. Đến trưa Carbonieri sẽ sang quét sạch nó đi. Tôi
đi qua nhà Juliette, cho bà một nửa số cá vừa câu được Bà ta nói:
-
Papillon ơi, đêm qua tôi chiêm bao chuyện dữ quá: tôi mơ thấy anh máu me đầm
đìa, rồi lại thấy anh bị xiềng xích. Anh đừng làm gì dại dột nhé. Nhỡ anh có
làm sao thì tôi sẽ đau khổ quá sức. Giấc chiêm bao làm cho tôi xúc động đến nỗi
đến bây giờ tôi cũng chưa buồn rửa mặt chải đầu gì cả. Tôi lấy ống nhòm tìm xem
anh đang câu cá ở đâu, mà chẳng thấy. Chỗ cá này anh câu ở đâu thế?
- Ở bên
kia đảo. Cho nên bà không nhìn thấy được
- Tại
sao anh lại phải câu xa thế, ở một nơi mà tôi không thể dùng ống nhòm nhìn tới
được? Nhỡ bị sóng cuốn đi thì sao? Sẽ không có ai trông thấy để mà vớt anh lên
trước khi cá mập đớp mất.
- Ồ, xin
bà đừng quan trọng hóa đi qua như thế.
- Anh
cho tôi là tôi quan trọng hóa! Bây giờ tôi cấm anh câu ở phía bên kia đảo đấy.
Nếu anh không nghe, tôi sẽ bảo người ta rút giấy phép đi câu của anh.
- Kìa,
bà phải biết điều một chút chứ. Để bà vui lòng, từ nay tôi sẽ nói cho anh tù
làm ở nhà bà biết tôi câu ở chỗ nào.
- Thôi
được. Nhưng sao trông anh mệt mỏi thế?
- Vâng,
tôi hơi mệt thật. Tôi sẽ về trại nằm một lát
- Được.
Nhưng đến bốn giờ tôi đợi anh đến uống cà phê đấy nhé. Anh đến chứ?
- Vâng
xin hẹn đến chiều, chào bà tôi về.
Chỉ còn
thiếu có thế nữa thôi để làm cho tôi bình tâm lại sao? Giấc chiêm bao của
Juliette! Làm như thể tôi chưa đủ rối trí với những vấn đề gay cấn trong cõi
thực, còn phải thêm những vấn đề trong cõi mộng nữa?
Bourset
nói là anh ta có cảm giác bị theo dõi thực sự. Chúng tôi đợi cái bộ phận cuối
cùng của bè - cái mảng dài một mét rưỡi - đã mươi lăm hôm naỵ Naric và Quenier
nói không thấy có gì bất thường, nhưng Bourset vẫn không chịu làm cái bộ phận
kia. Giả sử nó không có năm cái khớp phải đục chính xác từng ly, Matthieu có
thể đem ra vườn làm. Đằng này những cái khớp ấy phải lắp cho sít năm đường nẹp
của chiếc bè. Vì Naric và Quenier đang phải sửa chữa ngôi nhà nguyện của trại
cho nên có thể dễ dàng đưa ra đưa vào rất nhiều vật tư trong xưởng. Hơn thế
nữa, thỉnh thoảng họ lại được dùng một chiếc xe trâu nhỏ. Phải lợi dụng cho
được dịp may này. Bourset bị chúng tôi thúc giục quá đành phải làm một cách
miễn cưỡng. Một hôm anh ta nói là biết chắc có người đã lấy cái mảng bè ra xem
rồi để lại chỗ cũ. Chỉ còn một cái khớp phải đục ở đầu mút. Mọi người quyết
định là anh ta phải đục cho xong, rồi giấu cái màng dưới tấm ván ở bàn mộc, ở
trên để một sợi tóc để xem thứ có ai động đến không.
Bourset
đục cái khớp, rồi đến sáu giờ anh ta ra khỏi xưởng sau cùng, sau khi đã biết
chắc là trong xưởng chỉ còn tên gác. Cái mảng bè đã để ở chỗ quy định với sợi
tóc đánh dấu. Đến mười hai giờ trưa tôi có mặt ở trại, chờ những người làm ở
xưởng tới, cả thảy tám mươi người. Naric và Quenier đều có mặt, nhưng Bourset
thì không thấy đâu. Một phạm nhân người Đức đến trao cho tôi một mảnh giấy dán
kỹ. Có thể thấy rõ là chưa có ai bóc ra. Tôi đọc: "Sợi tóc không còn ở đấy
nữa: đã có kẻ sờ đến cái mảng. Tôi đã xin tên gác cho tôi ở lại làm việc trong
giờ nghỉ trưa để làm cho xong cái tráp bằng gỗ hồng tâm tôi đang làm dở. Hắn đã
cho phép. Tôi sẽ lấy cái mảng để vào chỗ để dụng cụ của Naric. Anh nói cho họ
biết đi. Đến ba giờ họ phải đưa ngay súc gỗ đi. May ra thằng cha đang theo dõi
cái mảng bè chưa kịp trở tay". Naric và Quenier đồng ý. Họ sẽ ra đứng ở
hàng đầu đám thợ làm ở xưởng. Trước khi mọi người, vào hết, hai người sẽ bày
chuyện đánh nhau ở gần trước cửa. Chúng tôi đã nhờ hai người đồng hương với
Carbonieri làm giúp việc này. Đó là hai người Corse ở Montmartre: Massani và
Santini. Họ không hề hỏi tại sao phải thế: miễn chúng tôi cần là được rồi, sẵn
sàng ngay. Naric và Quenier sẽ lợi dụng thời cơ ấy để trở ra nhanh, mang theo
một vật liệu gì đấy, làm như thể họ đang vội đi làm và không quan tâm đến vụ
đánh nhau.
Chúng
tôi đều nhất trí rằng hãy còn một khả năng cứu vãn. Nếu chuyến này thành công,
tôi phải án binh bất động một hai tháng, vì chắc chắn là đã có một hay nhiều
người biết là có ai đang chuẩn bị một chiếc bè. Cứ để cho họ tìm xem ai chuẩn
bị, và bè giấu ở đâu. Đã đến hai giờ rưỡi, các bạn tôi chuẩn bị hành động. Từ
lúc điểm danh đến lúc xuất phát đi công trường phải mất ba mươi phút. Họ bắt
đầu đi. Bébert Celier đứng ở khoảng giữa đoàn người xếp thành hai mươi hàng tư.
Naric và Quenier đi đầu, Massani và Santini ở hàng thứ mười hai, Bébert Celier
ở hàng thứ mười. Tôi nghĩ như thế rất tiện, vì khi Naric lấy các thứ gỗ này nọ
trong đó có cả cái mảng bè, những người kia chưa vào hết trong xưởng. Bébert sẽ
gần vào đến cửa xưởng. Khi cuộc ẩu đả nổ ra, vì mọi người sẽ la ó om xòm lên,
lẽ tự nhiên là mọi người, trong đó có Bébert, sẽ quay lại nhìn. Đến bốn giờ,
mọi việc đã diễn ra êm xuôi, cái mảng bè đã được giấu dưới một đống vật liệu để
trong nhà thờ. Họ chưa đưa ra khỏi nhà thờ được, nhưng để tạm ở đấy cũng rất
ổn.
Tôi ghé
chỗ Juliette, nhưng bà ta không có ở nhà. Khi quay về, tôi đi ngang sân trước
nhà ban Quản trị. Tôi trông thấy Massani và Santini đang đứng trong bóng râm
đợi vào xà lim. Cái này chúng tôi đều biết trước. Tôi đi qua chỗ họ, hỏi:
- Bao
nhiêu?
- Tám
ngày - Santini đáp.
Một tên
cảnh binh người Corse nói:
- Đồng
hương mà lại đi đánh nhau, khỉ thật!
Tôi về
trại. Sáu giờ, Bourset rạng rỡ lên, nói với tôi:
- Cứ như
thể mình đang bị ung thư mà bỗng dưng bác sĩ cho biết là đã chẩn bệnh nhầm, chứ
mình chẳng có bệnh gì cả..
Carbonieri
và các bạn tôi đều đắc thắng. Họ khen ngợi tôi về cách tổ chức công chuyện.
Naric và Quenier cũng đều thỏa thuê. Mọi sự đều ổn cả. Tôi ngủ thẳng giấc cho
đến sáng. Tuy hồi tối mấy tay cờ bạc đã đến mời tôi đánh. Tôi nói dối là nhức
đầu. Thật ra tôi buồn ngủ đến chết đi được, nhưng tôi hài lòng và mừng rỡ vì
sắp thành công đến nơi rồi. Cái khó khăn nhất thế là đã vượt qua được. Sáng nay
Matthieu đã giấu tạm cái bộ phận cuối cùng trong hốc tường. Lúc bấy giờ ông già
gác nghĩa địa đang quét những lối đi phía ngôi mộ giấu bè. Lúc này mà mon men
đến đó thì dễ lộ lắm. Sáng sớm nào cũng vậy, từ lúc tờ mờ tôi đã đến nghĩa địa
dùng xẻng gỗ đắp lại đất trên ngôi mộ, cố làm thật nhanh. Tôi dùng chổi quét
sạch lối đi, rồi nhanh chóng quay về đổ thùng, giấu chổi và xẻng trong góc nhà
xí.
Kể từ
lúc bắt đầu chuẩn bị cho đến nay đã đúng bốn tháng, và chúng tôi nhận được bộ
phận cuối cùng của chiếc bè đã được chín hôm. Trời không còn mưa hàng ngày nữa,
và nhiều hôm trời lạnh suốt cả đêm. Tất cả các giác quan của tôi đều luôn luôn
trong tình trạng báo động, để chuẩn bị cho hai cái giờ G sắp tới: trước tiên là
lấy cái bộ phận trứ danh kia trong vườn Matthieu rồi lắp chiếc bè cho thật
khớp. Việc này chỉ có thể làm ban ngày. Sau đó là lên đường. Việc này không thể
tiếp luôn sau việc kia, vì khi lấy bè ra rồi còn phải nhét dừa và lương thực
vào.
Hôm qua
tôi đã kể hết cho Castelli nghe và cho bác ta biết tình hình hiện tại. Bác ta
mừng cho tôi là đã gần đạt đến đích. Bác nói:
- Bây
giờ là tiết trăng non.
- Tôi
biết.
- Vậy
thì lúc nửa đêm không sợ có trăng nước ròng là vào mười giờ, vậy giờ tốt nhất
để hạ thủy vào hai giờ sáng. Carbonieri và tôi đã quyết định làm gấp. Sáng mai
chín giờ, lắp xong bộ phận cuối cùng của bè. Đến đêm là vượt ngục.
Sáng hôm
sau, chúng tôi hành động rất ăn ý với nhau. Tôi đi qua khu vườn, đến nghĩa địa,
chống xẻng nhảy ra tường. Trong khi tôi dùng xẻng gạt đất trên mộ địa, Matthieu
lấy phiến đá ra và đem cái bộ phận bè mới giấu vào đấy sang cho tôi. Chúng tôi
cùng giở lớp lá dừa đan để sang một bên. Chiếc bè hiện ra, dính đất nham nhở,
nhưng tình trạng hoàn hảo. Chúng tôi đưa bè ra khỏi mộ, vì để lắp thêm bộ phận
cuối cùng, bên cạnh phải có chỗ rộng. Chúng tôi lắp năm đường nẹp vào thanh gỗ
có năm khớp. Muốn chặt chúng tôi phải lấy đá gõ. Chúng tôi đã lắp xong đâu vào
đấy, đăng đặt bè vào chỗ cũ, thì một tên cảnh sát hiện ra, tay lăm lăm khẩu
súng trường.
- Đứng
im, không chết ngay!
Chúng
tôi buông cái bè xuống, giơ hai tay lên trời. Tôi nhận ra mặt tên cảnh sát. Đó
là viên giám thị trưởng của xưởng thợ.
- Các
anh đừng kháng cự mà dại. Các anh bị bắt quả tang. Các anh hãy chấp nhận như
thế và ít ra cũng phải lo cứu lấy tính mạng: mạng các anh bây giờ treo trên sợi
tóc, vì tôi chỉ muốn cho các anh một băng. Thôi, đi tay vẫn để nguyên thế!
Đi ra
nhà ban chỉ huy. Khi đi qua cổng nghĩa địa, chúng tôi gặp một thằng A-rập giữ
chìa khóa. Tên cảnh sát nói với hắn:
-
Mohamed, cám ơn cậu đã giúp tôi. Sáng mai ghé tôi tôi sẽ đưa cái ấy cho... món
quà tôi đã hứa thưởng cậu ấy mà.
- Cám ơn
sếp, - thằng A-rập nói. - Tôi sẽ đến, nhưng sếp ạ. Bébert Celier cũng phải trả
công cho tôi chứ, phải không ạ?
- Chuyện
này hai cậu dàn xếp với nhau, - tên cảnh sát nói.
Tôi hỏi
hắn:
- Chính
Bébert Celier đã chơi chúng tôi, phải không sếp?
- Không
phải tôi nói chuyện này với các anh đâu đấy nhé.
- Cũng
thế thôi, chuyện này biết được cũng hay.
Vẫn chĩa
súng vào chúng tôi, tên cảnh sát nói:
-
Mohamed, lục soát chúng đi.
Thằng
A-rập rút con dao tôi giắt ở thắt lưng, cả con dao của Matthieu nữa. Tôi nói
với hắn:
-
Mohamed này, anh tài thật đấy. Anh làm thế nào mà biết được thế?
- Ngày
nào tôi cũng leo lên ngọn cây dừa đằng kia để xem các anh giấu chiếc bè ở đâu.
- Ai bày
cho anh làm như thế?
- Đầu
tiên là Bébert Celier, sau là ông giám thị Bruet.
- Đi
thôi, nói nhiều quá rồi đấy, - tên cảnh sát nói. - Bây giờ các anh có thể bỏ
tay xuống, và đi nhanh lên.
Đoạn
đường bốn trăm mét mà chúng tôi đi để đến trụ sở ban chỉ huy tôi có cảm giác là
đoạn đường dài nhất trong đời tôi. Tôi đã sụm hẳn. Bấy nhiêu hơi sức dốc ra rồi
cuối cùng chuốc lấy một thất bại thảm hại như thế. Trời ơi, sao Người nỡ tàn
nhẫn đối với tôi như vậy? Thật là một cảnh điếm nhục khi chúng tôi đến Ban chỉ
huy Trại, vì trên đường đi chúng tôi lần lượt gặp những tên cảnh binh: họ liền
nối gót theo tên đang chĩa súng vào chúng tôi, thành thử khi đến nơi đã thành
một tốp bảy tám tên đi sau lưng chúng tôi. Viên chỉ huy, được tên giữ khóa
người A-rập chạy về báo trước, đang đứng trước cửa ban chỉ huy cùng với Dega và
năm viên giám thị trưởng.
- Có
chuyện gì thế, ông Bruet? - viên chỉ huy hỏi.
- Có
chuyện là tôi đã bắt quả tang hai người này đang cất giấu một chiếc bè hình như
đã đóng xong.
-
Papillon, anh có cần nói gì không?
- Không.
Tôi sẽ khai trước hội đồng thẩm vấn.
- Đưa
hai người vào xà-lim.
Tôi bị
nhốt vào một căn xà-lim có một khung cửa sổ bịt kín đối diện với cửa ra vào Ban
chỉ huy. Căn xà-lim tối om, nhưng tôi nghe được tiếng nói của những người qua
lại trước trụ sở Ban chỉ huy. Các sự việc diễn ra rất nhanh. Đến ba giờ họ cho
chúng tôi ra và khóa tay chúng tôi lại. Trong phòng có lập một thứ tòa án: chỉ
huy trại, phó chỉ huy, giám thị trưởng. Một viên cảnh binh làm chân lục sự.
Ngồi riêng sau một cái bàn đặt cách xa nhóm kia, Dega cầm cây bút chì, chắc hắn
là để ghi lại những lời vấn đáp sắp tới.
-
Charrière và Carbonieri, các người hãy lắng nghe bản báo cáo của ông Bruet về
các người: "Tôi, Bruet Auguste, giám thị trưởng, quản đốc công xưởng Quần
đảo Salut, xin khởi tố hai phạm nhân khổ sai là Charrière và Carbonieri về tội
lấy trộm, lạm dụng vật liệu thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Tôi tố cáo phạm
nhân thợ mộc Bourset về tội đồng lõa. Tôi thấy có cơ sở để khẳng định rằng hai
phạm nhân Naric và Quenier cũng phạm tội đồng lõa. Tôi xin nói thêm rằng tôi đã
bắt được quả tang Charnère và Carbonicri đang xâm phạm ngôi mộ của bà Privat mà
họ dùng làm nơi cất giấu chiếc bè của họ".
- Các
anh nói sao đây? - Viên chỉ huy trại hỏi.
- Trước
hết, Carbonieri chẳng có dính dáng gì vào đây cả. Chiếc bè được thiết kế để chở
có một người, tức là tôi. Chẳng qua tôi đã bắt Carbonieri phải giúp tôi giở lớp
lá dừa đan trên mộ, vì việc này tôi không thể làm lấy một mình. Vậy thì
Carbonieri không hề phạm tội lạm dụng và lấy cắp vật tư của Nhà nước, mà cũng
không hề phạm tội đồng lõa vượt ngục, vì cuộc vượt ngục chưa hề được thực hiện.
Bourset là một nạn nhân bị buộc phải hành động vì bị dọa giết. Còn Naric và
Quenier thì tôi hầu như không hề quen. Tôi xin quả quyết là họ không hề dính
líu đến việc này.
- Người
chỉ điểm của tôi nói khác kia, - viêm giám thị nói.
- Tên
Bébert Celier, người đã chỉ điểm cho ông, rất có thể lợi dụng việc này đế trả
thù một vài người nào đấy bằng cách nói điêu cho họ. Làm sao có thể tin lời một
tên chỉ điểm?
Viên chỉ
huy nói:
- Tóm
lại, anh bị tố cáo chính thức là đã lấy trộm và lạm dụng vật tư của Nhà nước,
xâm phạm mộ phần và mưu toan vượt ngục. Anh ký vào văn bản đi.
- Tôi
chỉ ký khi nào trong văn bản đã thêm lời tôi khai về Carbonieri, Bourset và hai
anh em rể Naric và Quenier.
- Đồng
ý.
- Các
ông viết thêm vào đi. Tôi sẽ ký.
Tôi
không thể diễn đạt rõ ràng tất cả những gì đã diễn ra trong tâm trí tôi kể từ
khi công việc bị bại lộ vào phút cuối ấy. Tôi như đã phát điên trong xà lim
này, tôi ăn chẳng được, tôi không đi lại, nhưng tôi hút thuốc liên hồi, hết
điếu này sang điếu khác. Cũng may là Dega tiếp tế thuốc lá cho tôi đầy đủ. Hôm
nào chúng tôi cũng được một giờ đi dạo vào buổi sáng, trong khoảng sân của các
xà lim trừng giới, dưới ánh nắng. Sáng nay ông chỉ huy trại có đến nói chuyện
vôi tôi. Kể cũng lạ: nếu cuộc vượt ngục thành công, ông chính là người bị thiệt
hại nặng nề nhất, thế mà chính ông lại là người tức giận tôi ít nhất. Ông ta
mỉm cười kể cho tôi nghe rằng vợ ông có nói là một người bị giam mà còn giữ
được tư cách dĩ nhiên là phải tìm cách vượt ngục.
Rất khéo
léo, ông ta lái câu chuyện như thế nào để tôi xác nhận phần đóng góp của
Carbonierị Tôi có cảm giác là tôi đã thuyết phục được ông, cho ông thấy rõ rằng
Carbonieri ở vào cái thế không thể nào từ chối khi tôi nhờ giúp tôi một tay
trong việc tháo giở lớp lá dừa bên trên ngôi mộ. Bourset đã xuất trình bức thư
đe dọa và tấm đồ án do tôi làm. Về phần tôi thì ông chỉ huy hoàn toàn tin là
mọi việc diễn ra đúng như tôi đã khai. Tôi hỏi ông ta xem theo ý ông thì cái
tội lấy trộm vật tư kia liệu có thể xử đến mấy năm. Ông nói: "Mười tám
tháng là cùng". Nói tóm lại, tôi dần dần leo trở lên cái dốc bờ vực mà tôi
đã lăn xuống. Tôi có nhận được mấy chữ của Chatal, người y tá. Anh ta cho tôi
biết rằng Bébert Celier hiện nay nằm một phòng cách biệt ở bệnh viện, đang được
cứu xét miễn giam vì một kết quả chẩn bệnh ít có: áp xe gan. Chắc đây là một
cách dàn xếp giữa ban Quản trị và ông bác sĩ để che chở cho hắn tránh khỏi
những hành động trả thù.
Căn
xà-lim của tôi không bao giờ bị khám, họ cũng không lần nào khám người tôi. Tôi
lợi dụng tình hình đó để nhờ các bạn tuồn vào cho tôi một con dao. Tôi nói với
Naric và Quenier là họ phải yêu cầu một cuộc đối chất giữa viên giám thị công
xưởng, Bébert Celier, anh thợ mộc và tôi, đệ lên viên chỉ huy trại một lời
thỉnh cầu là sau cuộc đối chất này ông sẽ quyết định cách xử lý mà ông thấy là
thích đáng đối với họ: hoặc giam cầm, hoặc trừng giới, hoặc cho đi lại tự do
trong trại. Trong buổi đi dạo hôm nay, Naric nói với tôi rằng chỉ huy trại đã
đồng ý. Cuộc đối chất sẽ diễn ra lúc mười giờ sáng mai. Dự buổi này sẽ có một
giám thị trưởng làm chức năng dự thẩm. suốt đêm hôm ấy tôi tìm cách tự can
gián, vì tôi có ý định giết Bébert Celier. Nhưng tôi không sao tự can ngăn
được. Không, con người ấy mà được miễn giam vì đã có công phát hiện vụ vượt
ngục, rồi sau đó, xuất phát từ Đất Liền, hắn lại có thể lên đường vượt ngục
nữa, như thể để thưởng công vì đã ngăn chặn tôi vượt ngục, thì thật quá ư bất
công. Phải, nhưng mày có thể bị xử tử, vì người ta có thể coi là mày có chủ
định từ trước. Tôi đếch cần. Đó là kết luận của tôi, vì tôi quá tuyệt vọng.
Bốn
tháng trời hy vọng, vui mừng, lo sợ, suy nghĩ, phát minh, để rồi đến khi đã sắp
thành đạt thì bỗng dưng thất bại thảm hại như vậy chỉ vì miệng lưỡi một thằng
chỉ điểm. Ra sao thì ra, mai tôi sẽ tìm cách giết Celier cho bằng được. Cách
duy nhất để khỏi bị xử tử là làm thế nào để hắn rút dao ra trước. Muốn thế, tôi
phải làm thế nào cho hắn thấy rõ là con dao của tôi cũng đã mở. Chắc chắn là thấy
thế hắn phải rút dao ra ngay. Việc này phải làm trước cuộc đối chất một chút,
hay ngay sau đó. Tôi không thể giết hắn trong khi đang đối chất, vì như thế có
nguy cơ là một tên cảnh sát có thể rút súng bắn tôi ngay. Tôi trông mong vào
cái thói cẩu thả kinh niên của bọn cảnh sát. Suốt đêm tôi vật lộn với ý nghĩ
trên đây. Tôi không sao trấn áp được nó. Quả thật, trong đời có những điều
không thể nào tha thứ được. Tôi biết rằng con người ta không có quyền tự mình
đứng ra xét xử người đời, nhưng đó là nói về những người thuộc một đẳng cấp xã
hội khác kia. Làm sao có thể chấp nhận rằng có thể không nghĩ đến việc trừng
phạt thật đích đáng một con người đáng ghê tởm như thế. Tôi không hề làm điều
gì có hại cho tên tù trại lính ấy, thậm chí hắn cũng không hề quen biết gì tôi.
Như vậy là hắn đã tự dưng xử phạt tôi x năm cấm cố một cách hoàn toàn vô cớ.
Hắn đã tìm cách chôn sống tôi để mưu cầu được miễn giam. Không, nhất định
không? Tôi không thể nào lại để cho hắn được hưởng thành quả của cái hành động
đáng buồn nôn của hắn. Không thể được! Tôi cảm thấy mình chỉ có chết. Thôi,
chết thì chết, nhưng hắn cũng phải chết, mà phải chết khổ chết sở hơn cả tôi
nữa. Nhưng nếu mày bị xử tử, thì thử hỏi chết vì một con người đê tiện như thế
có phải là ngu dại không? Cuối cùng tôi chỉ hứa được với bản thân có một điều:
nếu hắn không rút dao ra, tôi sẽ không giết hắn.
Suốt đêm
ấy tôi không ngủ. Tôi hút hết cả một bao thuốc lá sợi xám. Đến sáu giờ sáng,
lúc họ đưa cà phê vào tôi chỉ còn hai điếu. Thần kinh tôi căng thắng đến nỗi ngay
trước mặt tên gác, tôi nói với người đưa cà- phê (điều này xưa nay cấm):
- Cậu có
thể cho tôi mấy điếu thuốc hay một ít thuốc lá sợi không... nếu sếp đây cho
phép? Thưa sếp, tôi kiệt quệ lắm rồi.
- Ừ!,
anh cứ cho Papillon đi, nếu anh có sẵn. Tôi thì không hút thuốc. Tôi thành thực
phiền lòng cho anh, Papillon ạ. Là người Corse, tôi thương con người và ghét
những việc làm khốn nạn.
Mười giờ
kém mười lăm, tôi đang đứng ngoài sân đợi lúc vào phòng. Naric, Quenier,
Bourset, Carbonieri đều có mặt ở đây. Viên cảnh sát gác chúng tôi là
Antartaglia, người vừa gặp tôi khi đưa cà phê vào. Hắn nói chuyện với
Carbonieri bằng tiếng Corse. Tôi nghe cũng hiểu được ý hắn nói là việc vừa rồi
thật đáng tiếc, và Carbonieri có thể bị ba năm cấm cố. Lúc ấy cánh cửa mở ra và
tên A-rập leo dừa, tên A-rập gác cửa xưởng và Bébert Celier bước vào sân. Nhìn
thấy tôi, hắn hơi chùn bước lại, nhưng tên gác đi kèm hắn nói:
- Đi
tới, đứng sang một bên kia, bên phải ấy. Antartaglia, đừng để cho chúng nó trao
đổi gì với nhau.
Thế là
hắn và tôi đứng cách nhau không đầy hai mét. Antartaglia nói:
- Giữa
hai nhóm cấm nói với nhau.
Carbonieri
lúc bấy giờ vẫn nói chuyện bằng tiếng Corse với viên cảnh sát đồng hương đang
giám thị cả hai nhóm.
Viên
cảnh sát cúi xuống buộc lại dây giày, tôi ra hiệu cho Matthieu đứng nhích ra
phía trước một chút. Cậu ta hiểu ngay. Cậu đưa mắt nhìn Bébert Celier và nhổ
bọt về phía hắn. Khi viên cảnh sát đứng thẳng lên, Carborneri cứ nói chuyện với
hắn không ngớt miệng, thu hút được sự chú ý của hắn đến mức tôi bước lên một
bước mà hắn không hề nhận thấy. Tôi buông cho con dao từ ống áo tụt xuống và
cầm vào tay. Chỉ có Celier có thể trông thấy. Nhanh như cắt, hắn rút con dao đã
mở sẵn trong túi quần đâm một nhát trúng vào bắp tay phải của tôi. Tôi thì lại
thuận tay trái. Tôi đâm thẳng vào ngực hắn một nhát ngập đến tận chuôi. Một
tiếng "A-ãch!" nghe như tiếng đã thú, rồi hắn rơi phịch xuống đất.
Antartaglia rút súng lục cầm tay nói với tôi:
- Cậu
lùi ra, lùi ra ngaỵ Chớ đâm thêm, không tôi buộc lòng phải bắn.
Carbonieri
lại gần Celier, lấy chân chạm thử vào đầu hắn, rồi nói hai tiếng Corse. Tôi
nghe cũng hiểu: hắn chết rồi. Viên cảnh sát nói:
- Cậu
đưa đao đây..
Tôi đưa
con dao, hắn đút súng vào bao, đi ra cánh cửa sắt gõ mấy tiếng. Một tên gác mở
cửa ra. Viên cảnh sát nói:
- Cho
cáng vào khiêng một xác chết.
- Ai vừa
chết thế? - tên gác hỏi.
- Bébert
Celier.
- Thế à?
Thế mà tôi cứ tưởng là Papillon.
Họ lại
nhốt chúng tôi vào xà-lim. Cuộc đối chất thế là phải bãi.
Trước
khi vào hành lang Carbonieri nói với tôi:
- Papi,
tội nghiệp cậu quá, lần này thì cậu lãnh đủ.
- Ừ,
nhưng tớ vẫn còn sống, còn nó thì ngoẻo rồi.
Viên
cảnh sát trở lại một mình, mở cửa rất khẽ khàng rồi nói với tôi, giọng vẫn còn
xúc động:
- Đấm
vào cửa mấy cái đi, kêu là bị thương. Chính hắn đã tấn công trước, tôi trông
thấy rõ ràng. - Đoạn hắn khép cửa lại.
Mấy cái
gã cảnh sát Corse ấy ghê thật: hoặc xấu tất, hoặc tốt cả. Tôi đập cửa, kêu:
"Tôi bị thương rồi, phải đưa tôi vào bệnh viện băng bó chứ"
Viên
cảnh sát trở lại với viên giám thị trưởng của khu trừng giới.
- Anh
làm sao? Có việc gì mà làm ồn lên thế?
- Thưa
sếp, tôi bị thương mà.
- À! Anh
bị thương phỏng? Tôi tưởng hắn đâm có trúng đâu?
- Bắp
thịt tay phải của tôi bị đứt rồi.
- Mở ra,
viên cảnh sát kia nói.
Cửa mở,
tôi bước ra. Quả bắp thịt bị cắt đứt, hở hoác ra.
- Khóa
tay hắn lại, đưa sang bệnh viện. Không được để hắn nằm lại bệnh viện, bất cứ
với lý do gì. Băng bó xong, phải đưa về đây ngay.
Khi
chúng tôi ra ngoài, có đến mười tên cảnh sát với cả ông chỉ huy trại nữa. Viên
giám thị công xưởng nói với tôi:
- Quân
giết người!
Tôi chưa
kịp đáp thì ông chỉ huy đã nói với hắn:
- Giám
thị Bruet, ông im đi, Papillon đã bị hắn tấn công trước.
- Khó
tin lắm, - Bruet nói.
- Tôi có
trông thấy, và tôi sẽ làm chứng, - Antartaglia nói. - Và thưa ông Bruet, xin ông
biết cho rằng một người Corse không nói dối bao giờ.
Ở bệnh
viện, Chatal gọi bác sĩ đến. Ông ta khâu vết thương cho tôi mà không cho thuốc
mê hay gây tê gì cả, rồi đính cho tôi tám cái kẹp, không nói với tôi một lời.
Tôi thì cắn răng chịu đau, không một tiếng kêu than. Cuối cùng, bác sĩ nói:
- Hết
thuốc tê rồi, cho nên tôi không thể tiêm cho anh đỡ đau được. - Đoạn ông ta nói
thêm - Việc anh vừa làm chẳng tốt chút nào.
- Ồ, bác
sĩ cũng biết đấy: đàng nào thì với cái áp- xe gan ấy hắn cũng chẳng sống được
bao lăm nữa.
Câu trả
lời bất ngờ của tôi làm cho ông bác sĩ đớ người ra. Cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục.
Phần trách nhiệm của Bourset bị gạt ra hoàn toàn. Mọi người đều thừa nhận cậu
ấy bị đe dọa đến tính mạng, sợ quá phải làm theo. Tôi cũng góp phần làm cho họ
tin như vậy. Đối với Naric và Quenier cũng không có bằng chứng gì là họ can
phạm hay đồng lõa. Chỉ còn lại tôi và Carbonieri. Đối với Carbonieri, họ gạt bỏ
lời buộc tội lấy trộm và lạm dụng vật tư của Nhà nước. Chỉ còn tội đồng lõa
trong việc mưu toan vượt ngục. Qúa lắm cũng chỉ sáu tháng là cùng.
Đối vôi
tôi thì tình thế đâm ra phức tạp Thật vậy, bất chấp những nhân chứng bênh vực
tôi, viên giám thị lãnh nhiệm vụ thẩm vấn vẫn không chịu thừa nhận đây là
trường hợp tự vệ chính đáng. Dega đã được xem cả tập hồ sơ, bác ta quyết định
rằng mặc dầu viên dự thẩm rất quyết tâm trị tội, họ cũng không thể nào xử tử
tôi được, vì tôi đã bị thương trước khi hành động. Bên buộc tội có một căn cứ
để vịn vào mà đòi xử tôi thật nặng: hai tên A-rập giữ chìa khóa đều khai rằng
tôi đã rút dao ra trước. Cuộc thẩm vấn đã xong. Tôi đợi ngày đi Saint-Laurent
dự phiên xử của tòa án binh. Suốt ngày tôi chỉ hút thuốc, hầu như không đi lại
trong xà-lim. Người ta cho tôi một giờ đi dạo vào buổi chiều. Không một lần nào
viên chỉ huy trại hay bọn giám thị, trừ viên giám thị công xưởng đã là dự thẩm
trong cuộc thẩm vấn vừa qua, có thái độ thù địch đối với tôi. Đến thứ sáu là
tôi phải giải đi Saint-Laurent.
Sáng thứ
tư,lúc mười giờ, tôi đi dạo trong sân đã gần hai tiếng đồng hồ thì viên chỉ huy
trại. gọi tôi lại, nói: "Anh đi theo tôi". Tôi theo ông ta ra khỏi
sân trại, không có ai đi kèm theo. Tôi hỏi ông chỉ huy xem ông đưa tôi đi đâu
nhưng ông chi lẳng lặng bước tiếp trên con đường xuống dốc dẫn về nhà ông. Dọc
đường ông ta nói:
- Nhà tôi
muốn gặp anh một lát trước khi anh đi. Tôi không cho ai áp giải anh, vì nhà tôi
sẽ bị một ấn tượng không hay nếu trông thấy anh bị một viên cảnh sát có súng đi
kèm theo. Tôi hy vọng anh sẽ có thái độ đúng mực.
- Thưa
thiếu tá vâng.
Chúng
tôi đã đến nhà ông chỉ huỵ Ông nói với Juliette: "Anh đưa người được em
che chở về cho em đây như anh đã hứa. Em cũng biết là anh phải đưa anh ta về
trại trước mười hai giờ trưa. Em có được gần một tiếng đồng hồ để nói chuyện
anh ta". Đoạn ông ta lui vào nhà trong một cách tế nhị. Juliette đến gần
tôi và đặt bàn tay lên vai tôi, mắt nhìn thẳng vào mắt tôi. Đôi mắt đen láy của
bà càng sáng hơn mọi khi, vì giờ đây nước mắt bà đã ra long lanh sau đôi hàng
mi đen và dài. Cũng may là bà đủ tự chủ để cầm nước mắt lại.
- Anh
thật là điên rồ, anh bạn của tôi ạ. Giá anh nói cho tôi biết là anh muốn ra đi,
tôi tin là tôi sẽ có cách làm cho mọi việc được dễ dàng hơn. Tôi đã xin nhà tôi
cố cứu giúp anh hết lòng, nhưng nhà tôi nói là tiếc thay ông ấy không có đủ
quyền. Tôi gọi anh đến trước hết là thấy rõ tình trạng anh ra sao. Tôi khâm
phục lòng can đảm của anh, tôi thấy anh còn đáng trọng hơn là trước đây tôi vẫn
nghĩ. Với lại trước đây tôi cũng muốn được đền bù lại những gì anh đã cho tôi
một cách hào phóng trong bấy nhiêu tháng trời. Đây, anh cầm lấy một ngàn
francs, tôi chỉ cho anh được có thế. Tôi lấy làm tiếc là không thể làm gì hơn.
- Bà ơi,
xin bà nghe tôi, tôi không cần tiền đâu. Tôi van bà, bà nên hiểu là tôi không
thể nhận được, vì theo tôi, làm như thế là làm vẩn đục tình bạn của chúng ta.
Đoạn tôi
đẩy hai tờ giấy năm trăm mà bà chỉ huy đã rộng lòng biếu tôi.
- Tôi
van bà đừng nài tôi.
- Thôi,
tùy anh vậy, - Juliette nói. - Uống một chút rượu hồi nhẹ nhé?
Và trong
hơn một tiếng đồng hồ, người đàn bà đáng ngưỡng mộ ấy không ngớt nói với tôi
những lời lẽ dịu dàng, nhân ái.
Bà ta
tin rằng tôi sẽ được trắng án về cái tội đã giết tên Bébert đểu cáng ấy và chỉ
phải ngồi tù cấm cố mười tám tháng cho đến hai năm vì mấy tội kia.
Khi từ
giã, Juliette xiết chặt tay tôi hồi lâu trong đôi tay bà, và nói: "Tạm
biệt anh, chúc anh may mắn nhiều" đoạn khóc òa lên. Ông chỉ huy đưa tôi về
khu trừng giới. Dọc đường tôi nói:
- Thưa
thiếu tá, thiếu tá có được người vợ cao quý nhất trên đời này.
- Tôi
biết, Papillon ạ, cô ấy sinh ra không phải để sống ở đây, những gì diễn ra ở
đây quá tàn nhẫn đối với cô ấy. Nhưng biết làm thế nào được? Thôi, cũng chỉ bốn
năm nữa tôi đã về hưu rồi.
- Nhân
lúc này chỉ có ông và tôi, tôi cũng xin cảm ơn ông đã cố làm sao cho người ta
đối xử với tôi tử tế, mặc dầu nếu tôi thành công, việc ấy sẽ gây cho ông những
chuyện hết sức phiền hà.
- Phải,
anh có thể làm cho tôi đau đầu hết sức. Tuy vậy, anh có muốn tôi nói với anh
điều này không? Anh xứng đáng được hưởng thành công trong chuyến vượt ngục.
Đến cổng
khu trừng giới, ông nói thêm:
- Từ
biệt anh, Papillon. Cầu Chúa phù hộ anh, anh sẽ cần đấy.
- Từ
biệt thiếu tá.
Đúng,
tôi sẽ cần Chúa phù hộ vì tòa án binh do một thiếu tá hiến binh bốn lon chủ tọa
đã tỏ ra cực kỳ khắc nghiệt. Ba năm về tội lấy trộm và lạm dụng vật tư của Nhà
nước, xâm phạm mộ phần và mưu toan vượt ngục, năm năm về tội giết tên Celier.
Tổng cộng là tám năm cấm cố. Giả sử tôi không bị thương, chắc chắn là cái tòa
án ấy đã xử tử tôi rồi. Cái tòa án đã xử tôi nghiệt ngã như vậy lại tỏ ra khoan
dung đối với một phạm nhân Ba Lan tên là Dandowsky vừa phạm tội giết hai người.
Hắn chỉ bị năm năm, tuy vụ án mạng hiển nhiên là đã được tính toán từ trước.
Dandowsky là một người thợ bánh mì, chỉ chuyên làm men bột nở. Hắn chỉ làm việc
từ ba đến bốn giờ sáng. Vì lò bánh mì ở ngay bến, đối diện với biển, cho nên
bao nhiêu thì giờ rỗi hắn đều dành cho việc đi câu. Tính tình điềm đạm, nói
tiếng Pháp không được sõi, hắn chẳng giao du với ai. Người tù khổ sai chung
thân này dồn hết tình thương yêu trìu mến cho một con mèo đen có đôi mắt xanh
biết như màu ngọc bích.
Con mèo
đối với hắn như một người ruột rà thân thiết, cùng ăn cùng ngủ với nhau, mỗi
khi hắn đi làm con mèo đi theo hắn như một con chó, để cho hắn có bạn. Nói tóm
lại, giữa người và vật có cả một mối tình đằm thắm. Còn như nếu trời nắng quá
mà không có nơi nào có bóng râm gần chỗ câu cá, nó trở về lò bánh mì một mình
leo lên võng của bạn nằm chờ. Đến mười hai giờ trưa, khi nghe chuông điểm, nó
liền ra đón anh bạn Ba Lan và nháy nhót bên con cá con mà anh ta treo ở đầu sợi
chỉ, dứ dứ cho con mèo vờn cho đến khi nó chụp được. Tốp thợ bánh mì ở chung
một gian phòng lớn kê bên lò bánh mì. Một hôm, hai người tù khổ sai tên là
Corrazi và Angelo mời Dandowsky ăn món xi-vê thỏ do Corrazi nấu: mỗi tuần anh
này đều nấu xi-vê thỏ chén một lần. Dandowsky ngồi xuống ăn với họ, nhân thể
góp một chai rượu vang để nhắm với thịt thỏ.
Tối hôm
ấy con mèo không về. Anh Ba Lan tìm khắp nơi mà chẳng thấy. Một tuần đã trôi
qua, mà con mèo vẫn chẳng thấy đâu. Dandowsky buồn lắm: sinh vật duy nhất mà
anh yêu thương và cũng yêu thương anh một cách đằm thắm như vậy bỗng dưng đã
biến đi một cách thật khó hiểu. Được biết nỗi đau buồn vô hạn của Dandowsky, vợ
một viên giám thị đem biếu anh ta một con mèo con. Dandowsky liền đuổi nó đi,
và phẫn uất hỏi bà ta: làm sao bà ta lại đang tâm nghĩ rằng anh có thể yêu
thương một con mèo khác được. Anh ta nói rằng đó là một sự xúc phạm nặng nề đối
với hương hồn của người bạn đã khuất của anh. Một hôm tên Corrazi đánh một cậu
bé học nghề làm bánh mì, đồng thời chuyên đưa bánh mì vào trại. Cậu ta không ở
chung với tốp thợ bánh mì, mà thuộc phiên chế của trại. Vốn tính thù dai, cậu
bé tìm gặp Dandowsky nói:
- Anh ạ,
cái con thỏ mà Corrazi và Angelo mời anh ăn ấy, chính là con mèo của anh đấy.
- Chứng
cớ đâu? - anh Ba Lan túm cổ cậu bé quát.
- Dưới
gốc cây xoài ở chênh chếch phía sau cái lán để xuồng, tôi đã nhìn thấy Corrazi
chôn da con mèo của anh đấy.
Như một
người điên, anh Ba Lan ra đấy xem, và quả nhiên tìm thấy bộ da.
Anh ta
nhặt bộ da và cái đầu đều đã bắt đầu thối rữa, đem ra biển rửa sạch, phơi ra
nắng cho khô rồi lấy vải sạch bọc lại và đem chôn ở một nơi khô ráo, chôn rõ
sâu để cho kiến khỏi ăn. Chính anh ta kể lại với tôi như vậy. Đêm hôm ấy, dưới
ánh đèn dầu hỏa, trên một cái ghế dài rất nặng ở phòng ăn của thợ bánh mì,
Corrazi và Engelo ngồi cạnh nhau đánh một ván belote tay bốn. Dandowsky là một
người đàn ông trạc bốn mươi, vóc người tầm thước, vạm vỡ, rộng vai, rất khỏe.
Anh ta đã chuẩn bị một cái gậy lớn bằng gỗ lim nặng như sắt. Từ phía sau bước
vào, anh ta chẳng nói chẳng rằng giáng lên đầu mỗi đứa một đòn khủng khiếp. Hai
cái sọ vỡ tung ra như hai quả lựu, óc chảy cả xuống đất. Như điên như dại,
Dandowsky chưa hả, còn hốt óc hai kẻ thù phết lên tường nữa. Cả căn phòng nhầy
nhụa những máu và óc người. Trong khi tôi không được ngài thiếu tá hiến binh,
chánh án tòa án binh, thông cảm, thì Dandowsky tuy đã giết hai mạng một lúc có
chủ định hắn hoi, lại may mắn được ngài thông cảm, đến mức chỉ bị xử có năm năm
cấm cố
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 28: Cầm cố lần thứ hai
Tôi cùng
trở về Quần đảo với anh chàng Ba Lan, tay tôi và tay anh ta cùng khóa chung một
cái khoá. Chúng tôi đã không phải nằm lì trong các xà-lim ở Saint-Laurent! Đến
đấy vào thứ hai, ra tòa hôm thứ năm, thì thứ sáu đã lên tàu trở về Quần đảo.
Chúng tôi có cả thảy mười sáu người được đưa ra Quần đảo, trong đó có mười hai
người bị cấm cố. Biển động mạnh, chốc chốc lại có một đợt sóng lớn tràn qua
boong tàu. Trong cơn tuyệt vọng, tôi đi đến nước mong sao cho chiếc tàu cà khổ
này đắm quách. Tôi không nói chuyện với ai. Ngọn gió ẩm ướt quất vào mặt tôi
làm cho tôi hướng vào nội tâm. Tôi không tìm cách che gió, ngược lại, tôi còn
cố ý để cho mũ bay mất: trong suốt tám năm ròng cấm cố, tôi còn cần gì đến mũ?
Mặt quay
thẳng ra phía gió, tôi hít làn không khí ướt át đang quất vào tôi cho đến ngạt
thở thì thôi. Sau khi mong tàu đắm, tôi cố định thần lại: "Bébert Celier
đã làm mồi cho cá mập; còn mày, mày mới ba mươi tuổi, và phải ngồi tù cấm cố
tám năm". Nhưng liệu có qua nổi tám năm trong những bức tường của cái
chuồng giam ăn người ấy không? Cứ theo kinh nghiệm của tôi đã qua, tôi nghĩ
rằng không thể nào qua nổi. Bốn hay năm năm hẳn là cái giới hạn tột cùng của
sức đề kháng tối đa có thể có được. Giá tôi không giết Celier, tôi chỉ ngồi có
ba năm, thậm chí chỉ hai năm thôi, vì vụ giết người đã làm cho các khoản kia
nặng thêm, kể cả khoản vượt ngục. Lẽ ra tôi đừng giết cái thằng khốn nạn ấy mới
đúng. Bổn phận làm người của tôi đối với bản thân tôi không phải là xét xử kẻ
khác để lập lại công bằng cho tôi, mà trước hết và trên hết là phải sống, sống
mà để vượt ngục. Làm sao tôi lại có thể phạm một sai lầm như vậy? Đó là chưa kể
chỉ có một chút xiú nữa là hắn giết tôi, cái đồ rác rưởi ấy. Sống, sống cho
bằng được, lẽ ra đó phải là tôn giáo duy nhất của tôi.
Trong số
những viên giám thị đi áp giải đoàn tù có một người tôi đã từng gặp ở nhà lao
cấm cố. Tôi không biết hắn tên là gì, nhưng tôi không sao cưỡng lại được ý muốn
hỏi hắn một câu.
- Thưa
sếp, tôi muốn hỏi sếp một điều này.
Viên
giám thị ngạc nhiên, lại gần tôi nói:
- Điều
gì?
- Sếp đã
từng biết có ai qua được tám năm cấm cố chưa?
Hắn nghĩ
một lát rồi nói:
- Chưa,
nhưng tôi biết có mấy người đã qua được năm năm, và còn có một người, tôi còn
nhớ rất rõ, đã ra khỏi nhà lao khỏe mạnh và cân bằng sau sáu năm cấm cố. Tôi có
mặt ở nhà lao khi người này được thả.
- Cảm ơn
sếp.
- Không
có gì - viên cảnh sát nói. - Anh bị tám năm phải không?
- Thưa
sếp vâng.
- Anh
chỉ có thể qua được nếu anh không bị phạt lần nào.
Nói đoạn
hắn bỏ đi.
Câu này
rất quan trọng. Đúng, tôi chỉ có thể sống sót mà ra khỏi nhà lao nếu tôi không
bị phạt một lần nào. Thật thế, nếu bị phạt, anh sẽ bị giảm một phần hay toàn bộ
suất ăn trong một thời gian nào đấy, và về sau, ngay đến khi đã được trở lại
chế độ ăn bình thường, anh vẫn không tài nào lấy lại sức được nữa. Chỉ cần vài
lần bị phạt hơi nặng một chút là anh không thể chịu đựng đến cùng được nữa, anh
sẽ chết trước khi mãn hạn. Kết luận: tôi không được nhận dừa, hay thuốc lá,
thậm chí cũng không được viết và nhận thư nữa.
Trong phần
còn lại của chuyến đi, tôi không ngừng nhai đi nhai lại cái quyết định này.
Không nhận gì hết, tuyệt đối không, dù từ bên ngoài hay từ bên trong. Tôi nảy
ra một ý: cách duy nhất để được ăn khá hơn một chút là làm sao từ bên ngoài có
ai đút tiền cho mấy tên phát xúp để họ chọn cho tôi miếng thịt to nhất và ngon
nhất trong bữa xúp buổi trưa. Việc này dễ, vì một người múc xúp vào cà-mèn tù
nhân, rồi một người bưng khay đi theo sau bỏ một miếng thịt vào phần xúp đã
múc. Người múc xúp phải vét xuống đáy thùng để vớt thật nhiều rau vào muối..
Nghĩ ra được cách này, tôi thấy vững tâm. Quả thật, tôi rất có thể không bị
đói, và ăn gần đủ chất nếu phương cách kia được thu xếp chu đáo. Tôi chỉ còn
mỗi việc mơ mộng, thá hồn bay đi thật nhiều, cố chọn những đề tài tươi vui để
tưởng tượng, cho khỏi phát điên.
Chúng
tôi đã về đến quần đảo. Lúc bấy giờ là ba giờ chiều. Vừa lên bờ, tôi đã nhìn
thấy tà áo màu vàng nhạt của Juliette đang đứng cạnh chồng, ông chỉ huy trại
bước nhanh đến cạnh tôi, trước khi đoàn tù có đủ thì giờ xếp hàng, và hỏi:
- Bao
nhiêu?
- Tám
năm.
Ông ta
trở lại cạnh vợ và nói cho bà biết. Xúc động mạnh, bà ngồi xuống một tảng đá.
Có thể thấy rõ bà thất vọng ê chề.
Chồng bà
nắm lấy cánh tay bà, bà đứng dậy, và sau khi đưa về phía tôi một cái nhìn nặng
tình thương xót của đôi mắt mênh mông, bà đi theo chồng, không ngoái lại.
-
Papillon, bao nhiêu? - Dega hỏi tôi.
- Tám
năm cấm cố.
Dega
lặng thinh, không dám nhìn tôi. Galgani lại gần. Trước khi anh ta kịp nói, tôi
dặn:
- Đừng
gởi gì cho tôi, cũng đừng viết gì. Thời hạn lâu như vậy, tôi không thể để cho
bọn họ có cớ phạt tôi.
- Tôi
hiểu.
Tôi nói
thầm rất nhanh:
- Cậu
tìm cách làm sao cho họ dành phần khá trong suất ăn tù cho tôi, vào buổi trưa
và buổi tối. Nếu cậu làm được, có lẽ một ngày kia chúng mình sẽ còn gặp lại
nhau. Gửi Chúa".
Tôi tự
động đi về phía chiếc xuồng đầu tiên sẽ đưa tù cấm cố đến Saint-Joseph.
Mọi
người đều nhìn theo tôi như nhìn một cỗ quan tài đang hạ huyệt. Không ai nói
một lời. Trên đoạn đường ngắn ngủi này, tôi nhắc lại với Charpar những điều tôi
đã nói với Galgani. Anh ta đáp:
- Chắc
làm được thôi. Can đảm lên Papi - Rồi anh nói thêm - Thế còn Matthieu
Carbonieri thì sao?
- Tôi
quên mất cậu ấy, cậu tha thứ cho tôi. Chủ tọa Tòa án binh đã yêu cầu bổ sung
tài liệu về trường hợp cậu ấy trước khi ra quyết định, như thế là đáng mừng hay
đáng lo?
- Chắc
là đáng mừng.
Tôi đi ở
hàng đầu một toán gồm mười hai người đang leo lên đốc để đến nhà lao Cấm cố.
Tôi đi rất nhanh, kể cũng lạ: tôi nóng lòng muốn ngồi lại một mình trong buồng
giam. Tôi rảo bước đến nỗi tên lính gác nói:
- Từ từ
chứ Papillon. Có vẻ như anh đang vội quay về ngôi nhà mà anh mới từ giữ cách
đây chẳng bao lâu.
- Đến
nơi rồi.
- Cởi
hết ra! Đây là vị chỉ huy nhà lao Cấm cố.
- Tôi
lấy làm tiếc là anh lại trở lại, Papillon ạ, - Ông nói.
Đoạn lại
chuyển sang bài diễn văn quen thuộc: "Các phạm nhân cấm cố! ở đây v.v...
" Sau đó ông lại nói với tôi: "Nhà A, buồng 127. Buồng giam khá nhất
đấy Papillon ạ, vì anh được ở trước mặt cửa hành lang, do đó anh có nhiều ánh
sáng hơn, và không bao giờ bị thiếu không khí. Tôi hy vọng anh sẽ có hạnh kiểm
tốt. Tám năm là một thời hạn rất dài. Nhưng có lẽ với một hạnh kiểm thật tốt,
anh có hy vọng được án giảm một hai hay năm. Tôi cầu mong anh được như thế, vì
anh là một người can đảm".
Thế là
tôi về buồng giam 127. Quả nhiên nó ở ngay trước mặt một khung cửa lớn có chấn
song đưa vào hành lang. Tuy đã sáu giờ mà trông còn khá rõ. Căn buồng cũng
không có cái mùi và cái vị của một nơi đựng đồ mục ruỗng như căn buồng của tôi
lần trước. Điều đó làm cho tôi vừng lòng đôi chút: "Anh bạn Papillon thân
mến, đây là bốn bức tường sẽ nhìn anh sống trong tám năm. Chớ làm cái việc đếm
tháng đếm giờ, việc đó hoàn toàn vô ích. Nếu anh muốn có một đơn vị khả thủ để
đo thời gian, anh phải tính từng lục cá nguyệt. Mười sáu lần sáu tháng là anh
mãn hạn. Dù sao thì anh cũng được một ưu thế. Anh có chết ở đây thì ít nhất
cũng được chết trong ánh sáng, nếu anh chết vào ban ngày. Điều này rất quan
trọng. Chết trong bóng tối chắc chẳng vui chút nào. Nếu anh ốm, ít ra bác sĩ
cũng nhìn thấy được mặt anh. Anh không việc gì phải tự trách móc vì đã muốn
sống lại bằng cách vượt ngục, và quả tình cũng không nên tự trách mình đã giết
chết thằng Celier.
Anh thử
tưởng tượng xem anh sẽ đau đớn nhường nào khi nghĩ rằng trong lúc anh đang ngồi
đây thì hắn đã lên đường vượt ngục. Thời gian sẽ trả lời. Biết đâu rồi đây
chẳng có một cuộc đại ân xá, một cuộc chiến tranh, một trận động đất, một trận
bão lốc, làm cho cái pháo đài này sụp đổ tan tành? Sao lại không? Biết đâu rồi
đây chẳng có một con người trung trực từ đây trở về Pháp khuấy động được niềm
công phẫn trong lòng dân Pháp, và dân Pháp sẽ buộc ban Quản trị trại trừng giới
bãi bỏ cái lối giết người không cần đến máy chém này? Hoặc giả một ông bác sĩ,
buồn nôn trước cái cảnh này, kể lại cho một nhà báo, một ông linh mục gì đấy,
tôi làm sao biết được? Dù sao thì thằng Celier đã được lũ cá mập tiêu hóa từ
lâu. Còn tôi, tôi vẫn còn đây, và nếu tôi xứng đáng với bản thân, tôi sẽ sống
cho đến cùng để ra khỏi nấm mồ này.
Một,
hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay; một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay; tôi
bắt đầu đi đi lại lại, ngay lập tức tìm lại được cái tư thế tối ưu của đầu, của
tay, và chiều dài chính xác của mỗi bước đi để cho quả lắc hoạt động hoàn hảo.
Tôi quyết định chỉ đi đi lại lại hai giờ vào buổi sáng và hai giờ vào buổi
chiều, cho đến khi nào biết chắc là sẽ có được một chế độ ăn ưu tiên về lượng.
Trong tình trạng tinh thần kích động của những ngày đầu, không nên lãng phí
năng lượng một cách vô ích. Phải, đến phút cuối mà thất bại cũng thật thê thảm.
Tuy đây mới chỉ là phần đầu của cuộc vượt ngục: còn phải gặp may trong một
chuyến vượt biển dài hơn một trăm năm mươi cây số trên chiếc bè mỏng manh này.
Và tùy nơi đổ bộ lên Đất liền, lại phải bắt đầu một hành trình đào tẩu khác.
Nếu hạ
thủy bình yên, cánh buồm làm bằng ba cái bao bột sẽ đưa chiếc bè đi với tốc độ
hơn mười cây một giờ. Không đầy mười lăm tiếng, có lẽ mười hai cũng nên, sẽ đến
đất liền. Dĩ nhiên là nếu ngày hôm ấy trời mưa, vì chỉ có trời mưa mới dám căng
buồm. Tôi nhớ mường tượng hình như hôm tôi bị giam vào xà-lim, trời mưa thì
phải. Tôi không chắc lắm. Tôi tìm thử xem tôi đã phạm những lỗi lầm gì. Tôi chỉ
thấy có hai. Anh thợ mộc đã muốn làm một cái bè quá tốt, quá chắc chắn, cho nên
để ghép dừa vào, đã phải bỏ công ra làm một cái khung phức tạp gần như thành
hai chiếc bè ghép vào nhau. Thành thử phải làm quá nhiều bộ phận và mất quá
nhiều thì giờ vào đấy để làm cho thật cẩn thận và kín đáo.
Thứ hai,
là sai lầm nghiêm trọng nhất: khi đã có nghi vấn nghiêm trọng về Celier, lẽ ra
tôi phải giết hắn ngay đêm hôm ấy. Giá tôi làm như vậy, không biết bây giờ tôi
đã ở tận đâu đâu rồi? Dù có bị bại lộ khi đến Đất liền hay bị bắt ngay khi hạ
thủy, thì tôi cũng chỉ ăn ba năm chứ không phải là tám, mà lại có được sự thỏa
mãn của hành động. Giả sử mọi việc đều xuôi lọt bây giờ tôi đang ở đâu? Có
thánh mà biết được Có lẽ đang nói chuyện với ông Bewen ở Trinidad, hay đang ở
Curacao dưới sự bảo trợ của Giám mục Irénée de Bruyne. Và từ đó, chúng tôi sẽ
chỉ lên đường khi nào đã biết chắc có một nước nào chịu nhận chúng tôi. Nếu
không, tôi sẽ dễ dàng đi một mình, trên một con thuyền nhỏ, hướng thẳng về
Guajira, lãnh thổ của bộ lạc đã dung nạp tôi làm một thành viên.
Rất
khuya tôi mới ngủ được, nhưng giấc ngủ của tôi đêm ấy cũng bình thường. Cái đêm
đầu ấy đã không đến nỗi quá khổ sở. Sống, sống cho bằng được. Tôi sẽ phải tự
nhắc đi nhắc lại, mỗi khi thấy mình sắp buông xuôi vào tuyệt vọng, câu châm
ngôn sau đây của niềm tin ở tương lai: "Chừng nào hãy còn sống là hãy còn
hy vọng". Một tuần lễ đã trôi qua. Kể từ hôm qua tôi đã nhận thấy có sự
thay đổi trong suất ăn hàng ngày. Bữa ăn trưa tôi được một miếng thịt hầm rất
to, rồi bữa tối là cả một cà mèn rau muống, rất ít nước. Như một đứa trẻ, tôi
tự nhủ: "Rau muống có chất sắt, bổ lắm". Nếu tình hình này kéo dài,
tôi sẽ có thể đi đi lại lại mấy ngày từ mười đến mười hai tiếng đồng hồ, và đến
tối, thân thể mỏi mệt, tôi có thể tha hồ du hành giữa cái vì sao. Không, tôi
không đi lan man đâu, tôi đang ở trên trần thế, thực sự đang sống trên trần
thế, tôi nghĩ đến tất cả những trường hợp các phạm nhân đã gặp phải mà tôi được
nghe kể trong thời gian sống trên Quần đảo. Mỗi người đều có thiên lịch sử của
mình, đều có một quá khứ và một hiện tại. Tôi cũng nghĩ đến những truyền thuyết
mà người ta thường kể cho nhau nghe trên quần đảo. Trong đó có một chuyện mà
tôi tự hứa là sẽ kiểm tra lại xem thực hư ra sao: đó là chuyện cái chuông.
Như tôi
đã có dịp nói, phạm nhân chết không được chôn cất, mà bị đem ném xuống biển ở
khoảng giữa đảo Saint-Joseph và đảo Royale, một nơi nhung nhúc những cá mập.
Người chết được bọc trong mấy cái bao bột, chân buộc vào một cục đá lớn. Một
cái thùng hình chữ nhật dài, được dùng thường xuyên cho mọi người, đặt nằm dọc
ở phía trước mũi thuyền. Đến nơi đã ấn định, sáu phạm nhân chèo thuyền nâng mái
chèo lên khỏi mặt nước, ngang tầm mạn thuyền. Một người dốc cái thùng, một
người khác mở cái nắp ở bản lề ở đầu thùng ra. Bấy giờ cái xác chết tụt xuống
biển. Có một điều chắc chắn, không thể hồ nghi gì được, là ngay tức khắc lũ cá
mập cắn đứt sợi thừng buộc đá vào chân tử thi. Không bao giờ tử thi có đủ thì
giờ chìm xuống sâu lắm. Nó lại trồi lên mặt nước, và lũ cá mập bắt đầu tranh
nhau miếng mồi ngon ấy. Theo những người đã chứng kiến cảnh này, nhìn lũ cá mập
ăn thịt người tù đã chết là một cảnh tượng gây cảm giác rất mạnh, vì khi cá mập
đến đông, chúng nâng cả cái bọc vải liệm lên khỏi mặt nước, xé tung nó ra và
đớp từng miếng thịt người to tướng.
Cái thủ
tục mai táng ấy diễn ra đúng như tôi đã tả nhưng có một điều tôi chưa xác minh
được. Các phạm nhân, không trừ một ai, đều nói rằng cái làm cho cá mập tụ tập
đến chỗ ấy chính là tiếng chuông của nhà thờ trại giam đánh lên mỗi khi có
người chết. Họ nói là nếu anh đứng ở đầu con kè dài từ đảo Royale đâm ra biển
vào lúc sáu giờ chiều, có những ngày không thấy có lấy một con cá mập nào.
Nhưng khi ngôi nhà thờ nhỏ của trại giam gióng chuông lên, chỉ một nhoáng ở đấy
đã nhung nhúc một đàn cá mập đến chờ người chết, vì không còn lý do nào khác
khiến cho chúng nó tập trung về đấy đúng vào giờ ấy. Mong sao tôi sẽ không phải
làm món ăn cho lũ cá mập của đảo Royale trong một hoàn cảnh tương tự. Chúng nó
có nhai tươi nuốt sống tôi trong một chuyến vượt ngục thì cũng đành, ít nhất
thì đó cũng là một sự cố xảy ra trên đường đi tìm tự do. Nhưng nếu là sau khi
tôi chết bệnh trong một căn buồng giam thì xin đừng! Một việc như thế không thể
để xảy ra được.
Được ăn
đủ chất nhờ cách dàn xếp của các bạn tôi, sức khỏe tôi vẫn hoàn hảo. Tôi đi đi
lại lại trong phòng giam từ bảy giờ sáng đến sáu giờ chiều, không lúc nào ngưng.
Thành thử cái cà-mèn đầy rau quả khô, rau muống, đậu đũa hay cơm rang của bữa
ăn tôi bao giờ cũng được vét sạch. Bao giờ tôi cũng ăn hết mà không phải cố
gắng gì. Cái môn đi đi lại lại rất có lợi cho cơ thể của tôi, sự mệt mỏi mà nó
đem lại cho tôi là một sự mệt mỏi lành mạnh, và trong khi đi như vậy, tôi lại
còn tìm được cách tự phân thân ra thành hai. Như hôm qua chẳng hạn, tôi đã suốt
ngày rong chơi trên những cánh đồng cỏ của một thôn nhỏ ở Ardèche gọi là thôn
Favras. Hồi mẹ tôi mất rồi, tôi hay đến đấy ở chơi vài tuần với bà dì em ruột
mẹ tôi làm giáo viên trong trường làng. Thế thì hôm qua tôi đã thực sự dạo chơi
trong khóm rừng phong, thấy đâu có nấm lại cúi xuống nhặt, rồi tôi lại nghe bạn
tôi, cậu bé chăn cừu hô lớn những mệnh lệnh sai bảo con chó berger, và con vật
khôn ngoan răm rắp thi hành những mệnh lệnh của cậu chủ, khi thì đi kiếm một
con cừu lạc lôi về, khi thì trừng phạt một con dê quá nghịch ngợm. Hơn nữa,
miệng tôi còn thấm thía cái vị nồng nồng của ly nước mát rượi, khoái trá thưởng
thức cái cảm giác nhột nhột của những đám bọt nhỏ li ti trong nước suối xông
lên tận mũi.
Những
cảm giác rõ như thật này về những giờ phút đã qua hơn mười lăm năm về trước,
cái khả năng sống lại thực sự những cảm giác ấy một cách mãnh liệt như vậy chỉ
có thể thực hiện được trong nhà giam, xa cách mọi tiếng ồn ào, trong cõi im
lặng tuyệt đối. Thậm chí tôi còn trông thấy cả cái màu vàng của tà áo dài của
dì Outine. Tôi nghe thấy tiếng gió vi vu trong rặng phong dương, tiếng động khô
gọn của một quả phong khi rơi xuống chỗ đất khô, và tiếng động mềm khi rơi
xuống lớp lá vàng. Một con lợn lòi to tướng tử trong đám bụi rậm và cao lao ra
đã làm cho tôi sợ hãi đến nỗi tôi bỏ chạy thục mạng, trong cơn hốt hoảng đánh
rơi mất một phần lớn những cây nấm đã nhặt được. Vâng, tôi đã suốt ngày dong
chơi (trong khi đi đi lại lại trong buồng giam) ở Favras với dì tôi và với bạn
tôi cậu bé Julion chăn cừu cho Hội Từ Thiện.
Những kỷ
niệm êm đềm, trong sáng, rõ nét ấy, không ai có thể cấm tôi sống lại một lần
nữa, không ai có thể ngăn tôi lăn xả vào đấy để tìm thấy sự thanh thản rất cần
cho mảnh hồn dập nát của tôi. Xã hội cứ tưởng đâu tôi đang nằm ở một trong
những căn xà lim của cái nhà giam ăn thịt người này. Nó có biết đâu tôi đã ăn
gian được của nó cả một ngày trời, tôi đã sống cái ngày ấy ở trên những bãi cỏ,
trong những rặng phong ở Favras, lại còn uống cả nước khoáng ở con suối được
gọi là Suối cây Đào. Thế rồi sáu tháng đã trôi qua. Tôi đã tự hứa là sẽ tính
từng sáu tháng một: tôi đã giữ đúng lời hứa ấy. Chỉ đến sáng hôm nay, tôi mới
hạ con số mười sáu xuống thành con số mười lăm... Chỉ còn mười lăm lần sáu
tháng nữa. Ta thử sơ kết lại xem: Trong sáu tháng vừa qua cá nhân tôi không có
sự cố gì. Thức ăn hàng ngày trước sau vẫn thế, nhưng với một khẩu phần khá đủ
để duy trì sức khỏe của tôi ở một trạng thái khả quan. Xung quanh tôi đã xảy ra
nhiều vụ tự tử và nhiều trường hợp phát điên dữ dội, may mà họ đưa người điên
đi ngay. Thật nản vô cùng khi phải nghe họ la hét, rên rỉ hay kêu than hàng giờ
liền hay suốt ngày suốt buổi.
Tôi đã
tìm được một cái mẹo khá tốt cho thần kinh, nhưng lại có hại cho lỗ tai. Tôi
cắt một mảnh xà-bông nhét vào hai tai để khỏi nghe những tiếng kêu gào rùng rợn
ấy. Đáng tiếng là xà-bông làm cho ống tai bị đau, chỉ hai ba ngày là trong tai
có nước rỉ ra: Lần đầu tiên kể từ khi tôi đến trại khổ sai, tôi đã hạ mình
xuống xin xỏ một tên cảnh sát. Số là một tên cảnh sát trông coi việc phát xúp
là người Montelimar, gần quê tôi. Tôi có quen hắn ở Royale, nên đã xin hắn đem
vào cho tôi một cục sáp để tôi nhét vào tai cho đỡ nghe những tiếng la hét của
những tù nhân phát điên khi họ chưa được đưa đi. Hôm sau hắn đã đem vào cho tôi
một cục sáp to bằng hạt dẻ. Cái cảm giác nhẹ nhõm khi không còn nghe những
tiếng gào của những người khốn khổ ấy nữa thật dễ chịu không thể tưởng tượng
được.
Tôi đã
thành thạo về cái khoản trị rết. Trong vòng sáu tháng tôi chỉ bị cắn có một
lần, tôi đã tự chủ được hoàn toàn những khi thức giấc mà cảm thấy có một con
rết đang bò trên thân thể trần truồng của tôi. Cái gì rồi người ta cũng quen
đi, chẳng qua đấy là vấn đề tự điều khiển, vì cái cảm giác nhột nhột do chân và
râu gây ra hết sức khó chịu. Nhưng nếu không khéo bắt nó thì bị cắn ngay. Tốt
hơn là nên đợi cho nó tự bò xuống, rồi sau đó mới tìm nó mà xéo cho chết đi.
Trên cái ghế xi măng của tôi lúc nào cũng để sẵn hai ba mẩu bánh mì nho nhỏ.
Thế nào mùi bánh mì cũng hấp dẫn rết đến. Lúc bấy giờ tôi cứ việc giết.
Tôi luôn
luôn phải xua đuổi một ý nghĩ cứ ám ảnh tôi hoài. Tại sao tôi không giết thằng
Bébert Celier ngay cái hôm anh em bắt đầu nghi ngờ hắn có những ý định khốn nạn
ấy? Mỗi lần câu hỏi ấy hiện ra tôi lại phải tranh luận với bản thân: trong
trường hợp nào ta có quyền giết. Rồi kết luận: mục đích biện hộ cho phương
tiện. Mục đích của tôi là vượt ngục cho bằng được; tôi đã có cái may mắn là
đóng xong được một chiếc bè tốt và giấu được bè vào một nơi an toàn. Việc ra đi
chỉ còn tính từng ngày. Một khi tôi đã biết rằng Celier là một mối nguy cơ cho
cái bộ phận cuối cùng của chiếc bè, mà do một sự may mắn lạ lùng đã đem cất
giấu được, thì lẽ ra tôi phải hành quyết nó ngay, không chút do dự. Thế nếu tôi
nhầm, nếu cái mối nguy cơ ấy chỉ là một ảo giác do những hiện tượng bề ngoài
sinh ra thì sao? Thì tôi đã giết một người vô tội. Như thế khủng khiếp quá!
Nhưng
mày đặt vấn đề như thế thật là phi lô-gích, vì mày là một tên tù khổ sai kia
mà! Hơn thế nữa, mày là tù chung thân đã bị xử tám năm cấm cố kia mà! Mày nghĩ
vớ vẩn gì thế, hở cái đồ cặn bã bị coi như rác rưởi hôi tanh của xã hội? Mày
thử tự hỏi xem mười hai miếng pho-mát kia - mười hai tên bồi thẩm đã xử mày, -
có bao giờ tự vấn lương tâm, dù chỉ một lần thôi, xem thử chúng nó xử mày nặng
như vậy có công bằng hay không? Xem viên biện lý - mà tôi chưa quyết định được
là sẽ dùng cái gì để rút lưỡi hắn ra - cũng có tự hỏi xem bản cáo trạng của hắn
có gì quá đáng hay không? Ngay các trạng sư đã bênh vực tôi chắc chắn là cũng
không còn nhớ đến tôi nữa. Có chăng, chắc họ chỉ nhớ chung chung đến "Cái
vụ án đáng buồn xử thằng Papillon" ở Tòa Đại hình 1932: các bạn đồng
nghiệp ạ, hôm ấy tôi không được sung sức cho lắm, trong khi luật sư Pradel thì
lại đang lúc phong độ lên đến tột đỉnh. Ông ta đã làm cho bên nguyên thắng cuộc
một cách oanh liệt. Đó quả là một đối thủ hạng cừ khôi".
Tôi nghe
thấy những điều đó như thể tôi đang đứng cạnh trạng sư Raymond Hubert trong một
cuộc chuyện trò giữa mấy ông luật sư, hay trong một buổi dạ hội của giới thượng
lưu, hay có lẽ đúng hơn là trong một dãy hành lang của Tòa án. Chắc chắn là chỉ
có một người có thể có được lập trường của một vị quan tòa trung thực và lương
thiện, đó là ông chánh án Bé vin. Con người trung chính vô tư ấy rất có thể,
nhân một buổi bàn luận giữa những người đồng nghiệp hay một cuộc hội họp của
giới thượng lưu bàn cãi về cái nguy cơ xử oan một con người khi dựa vào ý kiến
của bọn bồi thẩm. Chắc chắn ông ta phải nói, dĩ nhiên là với những từ ngữ tế
nhị, rằng mười hai miếng pho-mát của hội đồng bồi thẩm không hề được đào tạo
hay trang bị gì để đảm đương một trách nhiệm lớn như vậy, rằng họ quá dễ bị
nghệ thuật ngôn từ của bên nguyên hay bên bị mê hoặc, tùy theo tương quan lực
lượng giữa hai bên trong cuộc đấu khẩu; rằng họ có thể tha bổng quá nhanh, hoặc
ngược lại lên án quá dễ dàng mà chẳng biết rõ cho lắm là mình căn cứ vào cái
gì, tùy theo cái không khí tích cực hay tiêu cực mà phía có tài hùng biện hơn
đã gây nên được.
Ông
chánh án và cả gia đình tôi nữa cũng thế, đúng; nhưng có lẽ gia đình tôi cũng
oán hận tôi chút ít vì chắc chắn là tôi đã gây cho gia đình những chuyện phiền
hà. Chỉ có một người duy nhất, cha tôi, vâng, người cha tội nghiệp của tôi, là
không than phiền về cây thập tự mà đứa con trai đã đặt lên vai người, tôi tin
chắc như vậy. Cây thập tự nặng nề ấy người vẫn cố kéo lê đi mà không lên án
thằng con trai, không hề trách móc, mặc dầu, vốn là một người thầy giáo, người phải
kính trọng pháp luật và, hơn nữa phải dạy cho học trò hiểu và chấp nhận pháp
luật. Tôi tin chắc rằng trong đáy lồng ngực cha tôi, trái tim hiền hậu của
người phải quát lên: "Quân khốn nạn, chúng bay đã giết con ta, tệ hơn nữa,
chúng bay đã đày đọa cho nó chết dần chết mòn, trong khi nó mới hai mươi lăm
tuổi! Giá người biết thằng con trai của người đang ở đâu, người ta đang hành hạ
nó như thế nào, rất có thể người đã trở thành một kẻ vô chính phủ.
Đêm hôm
nay, cái nhà pha ăn thịt người đã xứng đáng với danh hiệu của nó hơn bao giờ
hết. Tôi được biết là có hai người tù đã treo cổ chết và một người đã tự làm
mình chết ngạt bằng cách nhét giẻ vào mồm và vào hai lỗ mũi. Buồng giam 127 ở
gần chỗ bọn cảnh sát đổi gác, cho nên thỉnh thoảng tôi nghe được từng mẩu những
câu chuyện họ trao đổi với nhau. Sáng nay chẳng hạn, họ nói khẽ, nhưng chưa đủ
khẽ để cho tôi đừng nghe những điều họ kể cho nhau nghe về những sự cố đã diễn
ra trong đêm vừa qua. Lại thêm sáu tháng nữa trôi qua. Tôi đã tính sổ, và tôi
vừa khắc lên gỗ một con số "14" rất đẹp. Tôi có một cái đinh, cứ sáu
tháng mới dùng đến một lần. Vâng, tôi đã tính sổ và nhận định tình hình: sức
khỏe tôi vẫn tốt và tinh thần tôi rất vững. Nhờ những chuyến du hành những các
vì sao, rất ít khi tôi bị những cơn tuyệt vọng kéo dài. Những lần lâm vào tình
trạng ấy, tôi khắc phục nỗi tuyệt vọng khá nhanh và tổ chức thật chu đáo một
chuyến du hành thực sự hay tưởng tượng nó xua tan hết những ý nghĩ bi quan.
Cái chết
của Celier đã giúp cho tôi nhiều trong việc chiến thắng những cơn khủng hoảng
tinh thần ác liệt ấy Tôi tự nhủ: còn ta, ta vẫn sống, ta đang sống nhăn răng ra
đây này, và ta phải sống, sống nữa, sống nhiều nữa để một ngày kia sẽ sống lại
thành một người tự do. Hắn đã phá hỏng cuộc vượt ngục của ta, nhưng hắn đã chết
và sẽ không bao giờ được tự do như ta sẽ được tự do sau này: một ngày kia ta sẽ
tự do, đó là điều chắc chắn. là điều tất nhiên. Dù có sao chăng nữa, nếu ta ra
khỏi nhà lao cấm cố vào tuổi ba mươi tám, ta cũng chưa già, và cuộc vượt ngục
tiếp theo sẽ nhất định thành công, chắc chắn là như vậy. Một, hai, ba, bốn,
năm, đằng sau quay: một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay.
Từ mấy
hôm nay hai chân tôi đen lại, chân răng tôi chảy máu..Khai ốm chăng? Tôi lấy
ngón tay cái bấm vào cổ chân: khi buông ra, vết bấm vẫn lõm sâu vào. Có thể
tưởng chừng như trong người tôi toàn nước. Từ một tuần nay tôi chỉ còn đi được
mười cho đến mười hai tiếng một ngày, chỉ đi sau hai lần mà tôi đã mệt lả ra
rồi. Mỗi lần chùi răng bằng khăn mặt rám tẩm xà-bông, tôi thấy đau lắm, và ra máu
nhiều. Thậm chí hôm qua có một cái răng tự nhiên rụng ra - một cái răng cửa hàm
trên. Đợt sáu tháng tiếp theo kết thúc bằng một cuộc cách mạng thực sự. Thật
vậy, hôm qua họ bắt tù nhân thò đầu cả ra ngoài ghi-sê, một bác sĩ đi rảo qua,
banh môi từng người lên. Và sáng nay, đúng mười tám tháng sau khi tôi trở vào
nhà tù cấm cố này, buồng giam của tôi được mở ra, và họ nói với tôi:
- Ra đi,
đứng quay mặt vào tường và đợi đấy.
Tôi là
người đầu tiên kể từ cửa lớn. Cả thảy gần bảy mươi người đã ra. "Quay trái,
quay?" Tôi là người đi sau cùng trong một dãy dài được dẫn ra đầu phía kia
của nhà giam và được đưa ra sân.
Lúc bấy
giờ là chín giờ. Một bác sĩ trẻ tuổi mặc áo sơ mi ka ki cộc tay đang ngồi giữa
sân, sau một cái bàn nhỏ bằng gỗ. Bên cạnh ông ta là hai anh y tá phạm nhân và
một viên giám thị y tá. Trong cả bốn người nay tôi không biết mặt một người
nào, kể cả ông bác sĩ. Mười viên cảnh sát cầm súng trường đứng gác xung quanh.
Viên chỉ huy nhà tù cấm cố và tốp giám thị trưởng đứng nhìn, không nói một câu.
- Tất
cả, cởi hết ra, - viên giám thị trưởng hô - Quần áo cặp nách.
- Người
thứ nhất. Tên là gì? - Mỗ... - Há miệng ra, giang chân ra. Nhổ ngay ra 3 cái
răng này. Tra cồn pha i- Ốt trước, sau đó là xanh méthylène. Xi-rô Cochleria
mỗi ngày hai lần trước bữa ăn.
Tôi là
người cuối cùng.
- Tên
gì?
-
Charrière.
- Chà!
Anh là người duy nhất có một thân thể còn coi được. Mới đến à?
- Không.
- Giam ở
đây bao lâu rồi?
- Mười
tám tháng.
- Tại
sao anh không gầy như mọi người khác.
- Tôi
không biết.
- Được,
tôi sẽ nói cho anh biết. Tại vì anh ăn khá hơn, nếu không phải là vì anh thủ
dâm ít hơn. Há miệng xem. Chân. Mỗi ngày hai quả chanh: một sáng một chiều. Mút
nước chanh, xong xát bã vào lợi, anh bị bệnh scorbut.
Họ dùng
cồn pha i- Ốt lau lợi cho tôi, rồi bôi thuốc xanh méthylène, đoạn phát cho tôi
một quả chanh. Đằng sau quaỵ Tôi là người sau cùng trở về buồng giam.
Việc vừa
xảy ra quả là một cuộc cách mạng: cho phạm nhân bị ốm ra tận ngoài sân, cho họ
nhìn thấy mặt trời, cho bác sĩ khám từng người một. Ở trại giam cấm cố chưa bao
giờ có như vậy. Có chuyện gì xảy ra thế nhỉ? Phải chăng, do một sự tình cờ nào
đấy, rốt cục đã có một ông bác sĩ không chịu làm kẻ tòng phạm câm lặng cửa cái
quy chế trứ danh này? Cái ông bác sĩ này, về sau sẽ trở thành bạn tôi, tên là
Germain Guibert. Bây giờ thì ông chết rồi, chết ở Đông Dương. Vợ ông ta có gửi
thư đến Macaraibo, ở Venezuela, báo cho tôi biết, khá nhiều năm sau cái ngày
ấy.
Cứ mười
ngày lại có một buổi được ra nắng. Thuốc men vẫn chỉ có thế: cồn pha i- Ốt,
xanh méthylène, hai quả chanh. Tình trạng của tôi không trầm trọng thêm nhưng
cũng không thuyên giảm. Đã hai lần tôi xin xi- rô Cocheléria và đã hai lần bác
sĩ không chịu cho, điều đó bắt đầu làm cho tôi xì-nẹc, vì tôi vẫn không đi được
sáu tiếng mỗi ngày, và hai cổ chân tôi vẫn còn sưng phù và bầm đen lại.
Một hôm,
trong khi chờ đến lượt khám, tôi chợt nhận ra rằng cái cây còm cõi mà tôi đang
dùng để nấp chút đỉnh cho đỡ nắng là một cây chanh không ra quả. Tôi bứt một
cái lá chanh bỏ vào miệng nhai, rồi một cách lơ đễnh, không hề có chủ đích, tôi
bẻ một nhánh cây có dăm chiếc lá cầm chơi. Đến khi ông bác sĩ gọi đến tên tôi,
tôi cắp cái nhánh cây sau đít, nói:
- Thưa
bác sĩ, tôi không biết có phải tại mấy quả chanh của bác sĩ không, nhưng xin
bác sĩ xem giùm thử cái gì mọc sau đít tôi đây này.
Nói đoạn
tôi quay người lại cho bác sĩ xem cái nhánh cây cắm sau đít. Thoạt tiên bọn
cảnh sát cười phá lên, nhưng rồi viên giám thị trưởng nói:
-
Papillon anh sẽ bị phạt vì đã có thái độ bất kính đối với bác sĩ.
- Không
hề có như thế, - bác sĩ nói. - Ông không được phạt người này, vì tôi có phàn
nàn gì đâu. Anh không muốn dùng chanh nữa à? Ý anh muốn nói như vậy phải không?
- Vâng,
thưa bác sĩ, tôi chán chanh lắm rồi: mãi có khỏi đâu. Tôi muốn xin xi-rô
Cochléria uống thử xem.
- Trước
đây tôi không cho anh vì tôi chỉ có được rất ít, phải dành cho những người bệnh
nặng. Tuy vậy tôi sẽ cho anh mỗi ngày một thìa, nhưng vẫn phải tiếp tục dùng
chanh.
- Thưa
bác sĩ, tôi đã có dịp trông thấy người Anh- điêng họ ăn rong biển, thứ rong này
ở Royale tôi cũng thấy có. Chắc ở Saint-Joseph cũng phải có thứ rong này.
- Anh đã
gợi cho tôi một ý tuyệt hay. Chính tôi cũng đã thấy có một thứ rong gì đấy ở bờ
biển. Tôi sẽ cho vớt và phát cho các anh mỗi ngày một ít. Người Anh- điêng họ
ăn sống hay đem nấu lên?
- Họ ăn
sống.
- Được
Cám ơn. Và nhất là, thưa ông chỉ huy, tôi yêu cầu đừng phạt người này, xin ông
cam kết với tôi như vậy.
- Tôi
đồng ý, bác sĩ ạ.
Quả là
một phép lạ. Cứ tám ngày lại được ra nắng hai tiếng đồng hồ, đợi đến lượt mình
khám bệnh hoặc chờ cho những người khác được đưa ra, được trông thấy những
gương mặt, được thì thầm với nhau vài câu: trước kia ai mà dám mơ ước những
điều kỳ diệu như vậy? Đây là một sự thay đổi huyễn hoặc đối với mọi người,
những xác chết đã đứng dậy và bước đi dưới ánh nắng; những con người bị chôn
sống ấy nay đã nói lên được đôi lời. Đó là một bình dưỡng khí thổi sự sống vào
cơ thể và tâm hồn của mỗi chúng tôi. Clac, clac, hằng hà sa số những tiếng clac
mở tất cả các cửa ngục vào một buổi sáng thứ năm lúc chín giờ. Mỗi người đều
phải ra đứng ở ngang ngưỡng cửa phòng giam. Một tiếng gọi: "Các phạm nhân
cầm cố! Quan thống đốc đi thanh tra". Cùng đi với năm viên sĩ quan của
quân đội thuộc địa, chắc hẳn đều những sĩ quan quân y, một người cao lớn, trang
nhã, tóc màu hoa râm có ánh bạc, bước chậm rãi đọc hành lang đi qua trước từng
khung cửa phòng giam. Tôi nghe tiếng một viên cảnh binh báo cáo cho ông ta biết
những hình án nặng và những nguyên do đã dẫn đến nó.
Trước
khi đi ngang chỗ tôi, họ phải ra lệnh cho một người đứng dậy, vì người này đứng
đợi lâu quá đã ngồi thụp xuống. Đó là một trong toán tù vượt ngục ăn thịt
người: Graville. Một viên sĩ quan nói:
- Ồ, tên
này chỉ còn là cái xác biết đi!
Quan
thống đốc đáp:
- Tình
trạng tất cả các tù nhân đều thảm hại.
Đoàn
thanh tra đến chỗ tôi. Viên chỉ huy nhà lao nói:
- Người
này là tù nhân bị án hình nặng nhất trong nhà lao.
- Anh
tên gì? - Quan thống đốc nói.
-
Charrière.
- Hình
án?
- Tám
năm vì tội lấy trộm vật tư của nhà nước và giết người, ba cộng năm năm cấm cố,
không có phối án.
- Đã
ngồi được bao lâu?
- Mười
tám tháng.
- Hạnh
kiểm ra sao?
- Tốt. -
Viên chỉ huy nhà lao nói.
- Sức
khoẻ ra sao?
- Tạm
được, - Ông bác sĩ nói.
- Anh có
muốn nói gì không?
- Có:
cái chế độ cấm cố này là vô nhân đạo và không xứng đáng với một dân tộc như
nước Pháp.
- Tại
sao?
- Im
lặng tuyệt đối, không được đi dạo, và trước đây ít hôm không hề có lệ khám sức
khỏe.
- Anh
hãy cố gắng có hạnh kiểm tốt, có lẽ anh sẽ được ân giảm nếu tôi còn làm thống
đốc.
- Cám ơn
ông.
Kể từ
ngày ấy, theo lệnh quan thống đốc và bác sĩ trưởng từ Martinique và từ Cayenne
tới, hôm nào chúng tôi cũng được một buổi đi dạo và tắm biển trong một thứ bể
bơi giả, có những tảng đá lớn ngăn với biển cho cá mập khỏi vào. Mỗi buổi sáng
cứ đến chín giờ, từng toán tù nhân một trăm người một từ nhà lao cấm cố kéo
xuống tắm, mình trần như nhộng. Vợ con của bọn giám thị phải ở nhà, để khỏi
thấy cái cảnh lõa lồ đó. Chế độ này kéo dài đã được một tháng. Sắc diện của lũ
tù đã khác hẳn. Buổi đi dạo giữa nắng, buổi tắm nước mặn, cái quyền được nói mỗi
ngày một giờ, đã làm cho bầy tù cấm cố, cái bầy người đau ốm về tinh thần và
thể chất ấy, thay đổi tận gốc.
Một hôm
tôi đang đi ở các hàng sau trên đường từ chỗ tắm về nhà lao cấm cố, bỗng nghe
có tiếng một người đàn bà hét lên thất thanh và hai phát súng lục.
- Cứu
với! Cứu với! Con tôi chết đuối mất?
Những
tiếng kêu la ấy từ phía bến đưa lại. Bến đây chỉ là một đường dốc xây xi-măng
để cho thuyền đậu. Lại nghe tiếng xôn xao:
- Cá
mập! Cá mập! Rồi lại hai tiếng súng lục nữa.
Trong
khi ai nấy đều quay đầu về phía có tiếng kêu cứu và tiếng súng lục, tôi xô một
tên lính gác ra, không hề suy tính, và người vẫn trần truồng như thế, tôi chạy
thẳng ra bến. Đến nơi, tôi trông thấy hai người đàn bà đang la hét như điên,
cạnh đấy có hai tên lính gác và hai thằng A-rập.
- Nhảy
xuống đỉ - người đàn bà hét. - Nó chưa trôi xa đâu! Tôi không biết bơi, chứ
biết thì tôi đã xuống rồi. Hèn nhát cả một lũ!
- Cá
mập! Một tên lính gác nói, đoạn lại chĩa súng bắn xuống biển.
Một đứa
bé gái mặc chiếc áo dài màu xanh nối trắng đang trôi lềnh bềnh trên mặt biển,
bị một dòng hải lưu yếu đưa từ từ ra xa. Nó trôi thẳng về phía các hải lưu quy
tụ lại, vốn là chỗ dùng làm nơi mai táng các phạm nhân, nhưng hãy còn xa mới
đến chỗ ấy. Bọn lính gác nổ súng liên tục, và chắc hẳn họ đã bắn trúng nhiều
con, vì quanh con bé có những chỗ nước cuộn lên sùng sục.
- Đừng
bắn nữa! - tôi quát.
Rồi
không suy nghĩ đắn đo, tôi nhảy xuống biển. Được dòng hải lưu đẩy đi, tôi bơi
rất nhanh về phía con bé bấy giờ vẫn nổi lềnh bềnh nhờ cái áo dài căng phồng lên.
Tôi vừa bơi vừa đạp chân thật mạnh đế cho cá mập khỏi đớp trúng. Tôi chỉ còn
cách con bé có ba bốn chục mét thì một chiếc xuồng từ đảo Royale vừa chèo ra
đến nơi: bên ấy đã nhìn thấy cái cảnh này từ xa. Người trên thuyền vớt đứa bé
lên. Tôi ức phát khóc lên được khi đến lượt tôi được kéo lên thuyền, ức đến nỗi
quên khuấy cả lũ cá mập: tôi đã liều thân một cách hoàn toàn vô ích. Nói cho
đúng hơn, lúc bấy giờ tôi tưởng là hoàn toàn vô ích, vì một tháng sau, bác sĩ
Germain Guibert đã vận động cho tôi được miễn cấm cố vì lý do sức khỏe, và chỉ
huy trại đã chuẩn y, coi như đây là một cách thường công cho tôi đã liều mình
lao xuống biển để cứu đứa bé.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 29: Trở lại đảo Royale
Như vậy
quả thật là nhờ một phép màu mà tôi được trở lại đảo Royale với chế độ phạm
nhân chịu án bình thường. Tôi rời Royale ra với một án tám năm tù cấm cồ và nhờ
liều thân cứu cho một người bị nạn, mười chín tháng sau, tôi lại được trở về.
Tôi đã gặp lại các bạn cũ: Dega, vẫn làm kế toán, Galgani đi phát thư,
Garbonieri, đã được trắng án sau vụ tôi vượt ngục, Graldet, Bourset thợ mộc,
cùng hai anh em Đẩy Xe: Naric và Quenier, Chatal ở bệnh xá, người đã đồng lõa
với tôi trong chuyến vượt ngục đầu tiên, và Maturette vẫn ở đảo Royale làm phụ
y tá. Tất cả bọn lục lâm vùng rừng núi đảo Corse cũng còn cả đây: Essari,
Vicioli, Cesari, Razori, Fosco, Maucuer và Chapa đã từng làm cho La Griffe bị
chết chém vì câu chuyện chứng khoán ở Marseille. Tất cả các minh tinh của những
vụ tội phạm từ năm 27 đến năm 35 đều còn tại đây.
Marino,
người đã giết Dufréne, vừa chết bệnh cách đây một tuần. Ngày ấy, lũ cá mập đã
được một bữa thịnh soạn. Một chuyên viên bậc nhất về đá quý của thủ đô Paris đã
được dọn cho chúng chén. Barrat, biệt danh là "Nữ diễn viên", còn là
nhà triệu phú kiêm vô địch quần vợt ở Limoges, kẻ đã giết một người tài xế cùng
cậu bạn thân, quá thân là khác, của y. Barrat là trưởng phòng thí nghiệm và là
dược sĩ của bệnh viện đảo Roycale. Một bác sĩ có tính hay bông lơn nói rằng, ở
đảo, người ta bị bệnh lao theo quyền cọ vế. Tóm lại, việc tôi trở về đảo Royale
chẳng khác nào một phát đại bác. Tôi trở lại nhà giam những kẻ cứng đầu, vào
một buổi sáng thứ bảy. Gần như ai nấy đều có mặt đông đủ, và mọi người không từ
ai, đều đến chào tôi, hết sức niềm nở. Cả cái anh thợ sửa đồng hồ, vốn câm nín
không nói bao giờ từ cái buổi sớm trứ danh mà anh ta suýt bị chết chém vì nhầm
lẫn, cũng đến chào tôi.
- Thế
nào, các bạn, khỏe cả chứ!
- Khỏe
cả, Papi ạ, hoan nghênh cậu đã trở về.
- Chỗ
của cậu vẫn còn đấy, Grandet nói. Từ khi cậu đi vẫn để trống.
- Cảm ơn
tất cả. Có gì mới không?
- Có một
tin vui.
- Gì
vậy?
- Đêm
qua, trong nhà xí, trước mấy cái ống thoát nước, người ta đã tìm thấy thằng cha
dạo nọ treo lên ngọn dừa để rình và tố giác cậu, bị giết chết. Chắc một người
bạn thân của cậu vì không muốn để cập gặp mặt thằng cha ấy đã tiết kiệm hộ cậu
cái việc ấy.
- Tớ rất
muốn biết cậu đó là ai để cảm ơn.
- Chắc
sẽ có ngày cậu ấy sẽ nói ra với cậu thôi. Vào giờ điểm danh sáng nay, người ta
thấy thằng cha ấy bị một nhát dao vào tim. Chẳng ai trông thấy hay nghe thấy gì
cả.
- Thế là
hơn. Còn bài bạc ra sao?
- Vẫn
vậy. Chỗ của cậu vẫn còn đấy.
- Hay
lắm. Thế thì có thể bắt đầu sống trở lại cái cảnh khổ sai chung thân rồi. Chả
biết chuyện này sẽ chấm dứt ra sao và vào lúc nào.
- Papi này,
thật tình bọn tớ choáng người đi khi biết là cậu phải lãnh tám tấm lịch. Bây
giờ cậu đã trở về đây, tớ nghĩ rằng trên đảo này, không ai lại có thể từ chối,
không chịu giúp đỡ cậu về bất cứ việc gì, dù mạo hiểm đến mấy.
- Ông
chỉ huy gọi anh đấy, - một tên lính da đen nói.
Tôi theo
hắn ra.
Ở vọng
gác, có vài tên cảnh sát nói vui vài câu với tôi. Tôi theo tên đến gọi tôi và
gặp thiếu tá Prouillet.
- Khỏe
chứ, Papillon?
- Thưa
chỉ huy, khỏe.
- Tôi
mừng thấy anh được đặc xá, và tôi cũng khen anh về hành động can đảm của anh
đối với đứa con gái nhỏ của người bạn đồng sự của tôi.
- Xin
cảm ơn ông.
- Tôi
giao cho anh việc chăn trâu cho đến lúc anh được trả về với việc đổ thùng và
được quyền đi câu.
- Nếu
không có gì phiền đến ông nhiều quá tôi xin tuân lệnh.
- Đấy là
việc của tôi. Giám thị của xưởng không còn ở đây, còn tôi trong ba tuần nữa,
tôi cũng về Pháp. Thế là mai, anh đến nhận việc nhé.
- Thưa
chỉ huy, tôi không biết cảm ơn ông bằng cách nào.
- Bằng
cách chờ một tháng nữa rồi hãy tìm cách vượt ngục, được không? - Prouillet vừa
cười vừa nói.
Trong
phòng giam, tôi thấy vẫn những người ấy, với cách sinh hoạt hàng ngày vẫn như
trước khi tôi đi. Những dân mê cờ bạc thuộc một loại người riêng biệt, chỉ suy
nghĩ và sống vì bài bạc. Những ai có một thằng "bạn trẻ" thì cùng ở,
cùng ăn, cùng ngủ với nó. Đấy là những cặp vợ chồng thật sự, và sự đam mê cùng
tình yêu giữa đàn ông với nhau chiếm hết tâm tư của họ, cả ngày lẫn đêm. Cũng
có những cảnh ghen tuông, những dục vọng không kiềm chế nổi, làm cho "chồng"
và "vợ", cứ rình mò lẫn nhau và gây ra những vụ giết người không sao
tránh khỏi nếu một trong hai "vợ chồng" chán người kia và bay đi tìm
những mối tình mới.
Tuần
qua, vì người đẹp Charlie (tức Barrat), một tù nhân da đen tên là Simplon đã
đâm chết một người tên là Sidero. Đây là người thứ ba bị Simplon đâm chết do
yêu Charlie. Tôi về trại mới được vài giờ đã có hai thằng cha đến tìm tôi.
- Này,
Papillon, tôi muốn biết Maturette có phải là của anh không?
- Hỏi để
làm gì?
- Tôi có
lý do riêng của tôi.
- Anh
hãy nghe tôi nói. Maturette đã vượt ngục đi với tôi một chuyến dài 2500
kilômét, và cậu ấy đã xử sự như một người đàn ông chân chính. Tôi chỉ nói với
anh có vậy thôi.
- Tôi
muốn biết cậu ấy có thuộc về anh không?
- Không,
tôi không hề biết Maturette trong vấn đề tình dục. Tôi quý trọng cậu ấy như một
người bạn thân, ngoài ra, tôi không quan tâm đến cái gì hết trừ phi có ai muốn
hãm hại cậu ấy.
- Nếu có
ngày cậu ấy là vợ tôi thì sao?
- Lúc đó
nếu cậu ấy bằng lòng, thì tôi không xen vào làm gì. Nhưng nếu anh hăm dọa cậu
ấy để buộc cậu ấy theo anh, thì anh sẽ có chuyện với tôi đấy.
Những kẻ
đồng tình luyến ái thì dù bị động hay chủ động, đều như nhau, vì cả hai loại
người đó khi đã đam mê rồi thì chẳng còn nghĩ đến cái gì khác.
Tôi đã
gặp cậu người Ý có cái plan bằng vàng cùng đi một chuyến tàu với tôi. Cậu ta
đến chào tôi. Tôi hỏi:
- Cậu
vẫn ở đây à?
- Tôi đã
xoay đủ cách. Mẹ tôi gửi cho tôi 12000 francs, thằng lính lấy công sáu ngàn,
tôi chi mất bốn ngàn để khỏi bị nhốt, tôi lại được đưa đi chiếu X quang ở
Cayenne rồi cũng chẳng được việc gì. Sau đấy tôi lại bị buộc tội là đã làm một
người bạn bị thương. Anh biết nó đấy, nó là Razori, dân kẻ cướp đảo Corse đấy.
- Ừ! rồi
sao nữa?
- Nó
thỏa thuận với tôi, nó tự gây ra một vết thương ở bụng, và tôi sẽ ra tòa án
binh với nó, nó thì là người buộc tội, còn tôi là người có tội. Bọn tôi còn
không được lên đảo nữa. Chỉ có 15 ngày là xong hết. Tôi lãnh án sáu tháng cấm
cố. Ấy là chuyện ở năm ngoái. Anh còn không biết tôi ở đấy nữa cơ Papi ơi, tôi
chịu hết nổi rồi. Tôi muốn tự vẫn đi cho xong.
- Thà
chết trong một chuyến vượt ngục còn hơn, ít ra cậu được chết tự do.
- Anh
nói đúng, tôi đã sẵn sàng để làm đủ mọi việc. Anh có tính chuyện gì, cho tôi
biết với nhé.
- Đồng
ý.
Cuộc
sống ở đảo Royale cứ tiếp tục. Và tôi đã đi chăn trâu.
Tôi phải
trông một con trâu đực tên là Brutus. Nó nặng hai tấn, khét tiếng là dữ: nó đã
giết hai con trâu đực. Viên giám thị Angosti, chuyên trách phần công việc này,
nói với tôi: "Đây là lần cuối cùng. Nó còn giết một con nữa là phải thịt
nó thôi". Sáng nay, tôi làm quen với Brutus. Anh chàng da đen người
Martnique vẫn chăn dắt nó, phải ở lại một tuần để chỉ dẫn cho tôi. Tôi đã kết
thân được với Brutus ngay từ đầu bằng cách đái vào mũi nó: cái mũi to và dài
của nó ưa liếm chất mặn. Rồi tôi cho nó vài trái xoài ương mà tôi hái được ở
vườn bệnh viện. Tôi thắng nó vào một chiếc xe bò thô sơ, xứng với cái xe bò cổ
lỗ của các đời Vua Lười Biếng xa xưa, và dắt nó đi.
Trên xe,
có một thùng ton-nô chứa ba ngàn lít nước. Công việc của tôi cùng anh bạn
Brutus là xuống bờ biển, đổ nước vào thùng rồi chở lên cái dốc khủng khiếp này
đến tận bãi bằng. Tối đó, tôi mở nắp cho nước chảy vào các cống rãnh cuốn cho
hết chất bẩn còn lại từ buổi sớm. Tôi bắt đầu làm từ sáu giờ, khoảng chín giờ
thì xong việc. Sau bốn ngày, anh chàng người Martinique tuyên bố là tôi đã có
thể xoay xở một mình được. Chỉ có một chuyện phiền: năm giờ sáng, tôi đã phải
bơi đi tìm Brutus trốn trong ao, vì nó không muốn làm việc. Điểm yếu của nó là
ở lỗ mũi cho nên tôi đặt một cái vòng xuyên qua mũi nó, và thường xuyên buộc
với một đoạn dây dài 50 phân. Khi tôi tìm được nó, nó lủi đi, lặn xuống nước
rồi nhô lên ở một chỗ xa hơn.
Đôi khi
tôi mất cả tiếng đồng hồ mới tóm được nó trong cái ao nước tù hãm hôi tanh, đầy
những sâu bọ và hoa súng. Tôi cáu kỉnh rủa một mình: "Đồ khốn nạn. Đồ mặt
dày? Cứng đầu cứng cổ đến thế nữa! Mày có chịu ra không thì bảo!" Nó chỉ
chịu nghe khi tôi đã nắm được sợi xích của nó. Còn chửi rủa, nó cóc cần. Nhưng
cuối cùng, khi nó ra khỏi ao thì nó lại trở thành bạn của tôi. Tôi có hai cái
can trước kia đựng mỡ, nay dùng để chứa nước ngọt. Tôi bắt đầu tắm cho hết nước
nhớp nhúa ở ao. Khi tôi sát xà-phòng và kỳ cọ cấn thận cho mình rồi, còn lại
đến hơn nửa thùng nước ngọt, tôi lấy nắm xơ dừa để cọ rửa cho Brutus. Tôi kỳ cọ
thật kỹ những chỗ kín của nó, vừa cọ vừa dội nước. Thế là Brutus cọ đầu vào tay
tôi rồi tự nó đến đứng trước càng xe. Không bao giờ tôi dùng gậy nhọn thúc nó
đi như anh chàng người Martinique vẫn làm. Chắc nó cũng biết ơn tôi, vì với
tôi, nó rảo bước nhanh hơn.
Có một
con trâu cái nhỏ rất đẹp mê Brutus. Nó luôn đi bên cạnh chúng tôi. Khác với anh
chàng kia, tôi không xua đuổi nó, tôi để cho nó hôn Brutus và theo chúng tôi đi
bất cứ đâu. Ví dụ, khi chúng hôn nhau, tôi không phá bao giờ, và Brutus đã chịu
ơn tôi, vì nó đã kéo ba ngàn lít nước với một tốc độ nhanh không ngờ. Hình như
nó muốn dành lại khoảng thời gian nó đã làm mất đi những khi dừng lại liếm láp
Marguerite (đó là tên con trâu cái). Hôm qua, trong buổi điểm danh sáu giờ, có
một câu chuyện bê bối nho nhỏ do Marguerite gây ra. Hình như anh chàng da đen
người Martinique đã leo lên một bức tường thấp và ở đó ngày nào chàng ta cũng
hôn hít Marguerite. Bị lính gác bất ngờ tóm được, cậu ta lĩnh mười ngày xà-lim.
Về tội "giao cấu với súc vật". Theo đúng quy chế chính thức. Thế mà
hôm qua, khi điểm danh, Marguerite lại dẫn xác vào trại, cô nàng đi ngang qua
hơn sáu chục người và đến trước anh chàng da đen, cô nàng chổng mông lại, giơ
đít ra cho chàng kia. Ai nấy đều cười phá lên và chàng da đen xấu hổ đến xám
mặt.
Mỗi ngày
tôi phải ba lần di chuyển nước. Lâu nhất là việc chờ hai người phụ tôi đổ nước
vào đầy thùng chứa, nhưng công việc cũng khá nhanh. Đến chín giờ, tôi đã xong
việc, được quyền đi câu. Tôi đã liên minh với Marguerite để kéo Bratus ra khỏi
ao. Cứ gãi vào tai là cô ta nghé ọ, nghe giống như thằng ngựa cái động đực. Và
Brutus tự động lên khỏi ao. Tuy tôi không phải tắm rửa cho mình nữa, tôi vẫn cọ
rửa cho nó, còn cẩn thận hơn trước. Sạch sẽ, không còn bị mùi hôi hám của nước
ao tù bám suốt đêm trong lúc nó ngủ ở ao, nó càng được Marguerite ưa thích hơn
và điều đó làm cho nó linh hoạt hẳn lên. Từ bờ biển đi lên, lưng chừng dốc, có
một khoảng bằng; ở đấy có một hòn đá to. Brutus quen nghỉ xả hơi năm phút ở chỗ
đó, tôi lấy đá chèn bánh xe lại: làm như vậy, nó yên tâm nghỉ ngơi hơn.
Nhưng
buổi sáng hôm đó, một con trâu khác, tên là Danton, cũng to như Brutus, nấp sau
những cây dừa nhỏ chỉ có lá không, bởi vì đây là một vườn ươm cây. Chờ sẵn
chúng tôi tại đấy, Danton xồ ra tấn công Brutus. Con này nhảy sang bên, tránh
được cú đánh, con kia đụng phải cái xe. Một bên sừng của nó cắm vào thùng
ton-nô. Danton cố hết sức để gỡ sừng ra, tôi tháo dây thắng cho Brutus ra khỏi
càng xe. Thế là Brutus chạy lấy đà lên phía trên cao, ít ra cũng chừng 30 mét
rồi phi nước đại lao vào Danton. Không biết vì sợ hay do tuyệt vọng, trước khi
con trâu của tôi tới được chỗ nó, con Danton đã giật được sừng ra khỏi thùng
tuy một mẩu sừng bị gãy còn mắc tại đấy, nhưng Brutus không hãm lại kịp thời
nên xô vào và lật đổ cái xe.
Đến đây
tôi được chứng kiến một chuyện kỳ quái nhất. Brutus và Danton đã chạm sừng vào
nhau mà không xô đẩy nhau, chúng chỉ cọ cặp sừng kếch xù của chúng vào nhau
thôi. Dường như chúng nói với nhau, nhưng chúng lại không kêu rống lên mà chỉ
thở phì phò. Con trâu cái từ từ leo lên dốc, theo sau là hai con đực Thỉnh
thoảng hai con này dừng lại, cọ đầu và đan sừng vào nhau.Thấy lâu lắc quá,
Marguerite rên rỉ một cách uể oải rồi lại đi về phía bãi bằng ở trên đảo. Hai
con vật khổng lồ kia vẫn đi song hàng, theo sau. Sau ba lần dừng lại với những
nghi thức như vậy, chúng tôi đã lên tới bãi bằng. Chỗ chúng tôi đứng lại ở
trước cây đèn pha là một khoảng trống dài chừng ba trăm mét. Một phía là trại
tù, bên trái và bên phải là hai tòa nhà của bệnh viện: một cho tù nhân, một cho
cảnh binh. Danton và Brutus vẫn đi phía sau cách hai mươi bước. Còn Marguerite,
nó bình thản đến giữa khoảng đất và dừng lại. Hai con trâu thù địch tiến lên
ngang nó. Thỉnh thoảng nó lại rống lên một tiếng dài nghe ai oán và rõ ràng là
khêu gợi. Hai con kia lại chạm sừng vào nhau một lần nữa nhưng lần này tôi có
cảm giác là chúng thật sự nói chuyện với nhau vì lẫn với hơi thở của chúng, có
cả những âm thanh chắc chắn là có một ý nghĩa nào đó.
Sau cuộc
nói chuyện này, một con trâu chậm chạp đi về phía bên phải, còn con kia về phía
trái. Chúng đến đứng tận hai đầu khoảng trống. Marguerite vẫn đợi ở chính giữa.
Tôi hiểu ngay: đây là một cuộc quyết đấu tay đôi theo đúng thể thức, được cả
hai phía chấp nhận, trong đó con trâu cái sẽ là chiến lợi phẩm. Con trâu cái non
tơ cũng có vẻ đồng ý, nó còn tỏ ra hãnh diện chẳng kém hai chàng mê gái sắp
đánh nhau vì cô nàng. Marguerite cất tiếng rống lên hai con trâu đực mới lao
vào nhau. Trong đoạn đường mà mỗi con vượt qua, mỗi phía dài độ một trăm năm
mươi mét, không cần phải kể rằng cái khối nặng hai ngàn ki-lô của chúng được
nhân lên gấp bội với tốc độ chạy của chúng. Hai cái đầu va phải nhau, mạnh đến
nỗi cả hai chết lặng đi đến năm phút. Con nào cũng khuỵu xuống.
Brutus
đã hồi sức lại trước và dậy được, nó phi về chỗ cũ. Cuộc chiến đấu kéo dài hai
giờ. Lính gác muốn giết chết Brutus, nhưng tôi không chịu, và đến lúc chạm
sừng. Danton bị gẫy rời hẳn đoạn sừng bị hỏng khi mắc vào thùng ton-nô. Nó bỏ
chạy, Brutus đuổi theo. Cuộc chiến đấu còn kéo dài sang ngày hôm sau. Chúng
chạy qua chỗ nào: vườn tược, nghĩa địa, xưởng giặt, thì chỗ đó bị tàn phá tan
tành. Chỉ sau khi đã quần nhau suốt đêm, mãi tận sớm hôm sau, lúc bảy giờ sáng,
Brutus mới dồn được Danton vào chân tường lò sát sinh ở gần bờ bể và tại đấy,
nó đã dùng sừng đâm thủng bụng con Danton. Để kết thúc hẳn địch thủ, Brutus lăn
đi lăn lại hai lần để cho sừng xoáy sâu vào bụng con Danton và con này đã ngã
gục xuống chết, trong một suối máu lẫn với lòng ruột. Cuộc chiến đấu giữa hai
con vật khổng lồ làm Brutus kiệt sức đến nỗi tôi phải đỡ sừng cho nó, nó mới
đứng lên được. Nó loạng choạng rời khỏi nơi ấy theo con đường ven bờ biển và
con Marguerite đã tới đi bên nó, dùng cái đầu không có sừng của mình để đỡ cái
cổ đồ sộ của anh bạn thắng cuộc.
Tôi
không được chứng kiến đêm tân hôn của chúng, vì tên lính gác coi đàn trâu đổ
tội cho tôi là đã cởi dây thắng cho Brutus nên tôi bị mất việc chăn trâu. Tôi
xin được gặp chỉ huy để nói chuyện về Brutus.
- Chuyện
xảy ra thế nào vậy, Papillon? Phải giết Brutus thôi, nó nguy hiểm quá. Nó đã
giết mất ba con trâu tốt rồi.
- Thưa,
tôi đến để xin ông hãy cứu lấy Brutus. Người gác trông coi việc trồng trọt,
chuyên lo lũ trâu không hiểu gì hết. Xin ông cho phép tôi được kể lại là Brutus
đã tự vệ chính đáng ra sao.
Viên
trại trưởng mỉm cười:
- Tôi
nghe đây.
- Như
vậy, như ông chỉ huy đã thấy, con trâu của tôi bị tấn công trước. - Sau khi kể
các chi tiết, tôi kết luận như vậy. - Hơn thế nữa, nếu tôi không cởi dây cho
Brutus thì con Danton đã đâm chết nó mà nó không thể chống đỡ được vì nó còn bị
buộc vào càng xe.
- Đúng
vậy- trại trưởng nói.
Vừa lúc
đó người gác kia tới.
- Xin
chào thiếu tá. Còn Papillon, tôi đang tìm anh, vì sáng nay anh đi trên đảo như
đi làm vậy, mà anh lại không có việc làm.
- Thưa
ông Angosti, tôi đi ra để xem có thể ngăn không cho hai con trâu đánh nhau được
không, nhưng chẳng may, cả hai con đã điên tiết lên cả rồi.
- Có thể
là như thế, nhưng bây giờ anh không chăn trâu nữa, tôi đã nói với anh rồi. Vả
lại, sớm chủ nhật này, cũng phải mổ nó để lấy thịt cho trại giam.
- Ông không
làm thế được.
- Anh
không thể ngăn tôi đâu.
- Tôi
không thể ngăn ông nhưng thiếu tá ngăn được. Nếu thế cũng chưa đủ tôi sẽ nhờ
bác sĩ Germain Guibert can thiệp để cứu Brutus.
- Anh
xen vào chuyện này để làm gì?
- Vì
chuyện này có dính dáng đến tôi. Chính tôi chăn dắt con trâu, và nó là bạn của
tôi.
- Trâu
mà là bạn của anh à? Anh giỡn với tôi đấy hả?
- Ông
Angosti, xin phép ông, ông cho tôi nói một chút chứ?
- Thì cứ
để cho anh ta bênh vực con trâu của anh ta xem, - Ông thiếu tá nói.
- Được,
anh nói đi.
- Ông có
tin là súc vật cũng nói với nhau được không, ông Angosti?
- Sao
lại không, nếu chúng muốn giao thiệp với nhau?
- Nếu
vậy thì Brutus và Danton đã cùng thỏa thuận là sẽ đấu với nhau.
Rồi tôi
kể lại sự việc một lần nữa, từ đầu đến cuối.
- Trời
đất quỷ thần - viên gác người Corse nói. - Anh thật đến là kỳ cục, Papillon ạ.
Anh thu xếp làm sao với Brutus thì làm, nhưng lần sau nó còn giết một con nào
nữa, thì không ai, kể cả thiếu tá, có thể cứu được mạng nó. Tôi lại để anh đi
coi trâu vậy. Nhưng phải bắt Brutus làm việc đi.
Hai ngày
sau, chiếc xe đã được thợ ở công xưởng sửa lại, và Brutus, với cô vợ chính thất
là Marguerite kèm bên, lại tiếp tục công việc chuyên chở nước hàng ngày. Còn
tôi, mỗi lần đến nơi nghỉ, khi chiếc xe đã được chèn đá cẩn thận, tôi lại hỏi,
"Danton đâu rồi, Brutus?" Và con vật khổng lồ kia, kéo mạnh chiếc xe,
chân bước lâng lâng, với tư thế của kẻ chiến thắng, đi một mạch về tới nơi.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 30: Cuộc nổi loạn ở đảo Saint Joseph
Tình
hình trên các đảo cực kỳ nguy hiểm do cảm giác tự do giả tạo mà đám tù nhân
được hưởng. Tôi buồn khi thấy mọi người đều thu xếp cảnh sinh hoạt để sống cho
thật an nhàn. Người thì đợi ngày mãn hạn tù, kẻ thì chẳng làm gì, chỉ ngập ngụa
trong những thói hư tật xấu của mình. Đêm đó, tôi nằm dài trên võng, phía cuối
phòng có một sòng bạc lớn đến nỗi cả hai bạn tôi, Carbonieri và Grandet, phải
cùng điều khiển mới nổi. Một người trông không xuể. Tôi thì đang ôn lại những
hồi ức của dĩ vãng. Những kỷ niệm ấy không chịu đến với tôi: cứ như thể chưa hề
bao giờ có cái phiên tòa đại hình ấy. Tôi cố hết sức làm cho sáng tỏ những hình
ảnh mơ hồ của cái ngày tiền định nọ, nhưng vẫn không thấy rõ nét một nhân vật
nào. Chỉ có viên chưởng lý hiện ra với tất cả sự thật tàn nhẫn.
Tiên sư
đời. Tôi tưởng đã hoàn toàn thắng được số kiếp khi tôi đến Trinidad, ở với gia
đình Bowen. Mi đã yểm bùa gì cho ta để đến nỗi sáu chuyến vượt ngục rồi mà ta
vẫn chưa được tự do, hỡi quân đểu cáng? Qua chuyến thứ nhất, khi nhận được tin
tức của ta do phạm nhân kể lại, mi có ngủ yên được không? Ta muốn biết, mi có
sợ không hay mi chỉ bực tức vì thấy con mồi của mi đã sổng chuồng sau 43 ngày
đi trên đường đến cái nơi thối nát mà mi đày ta đến? Tôi đã phá được cái lồng.
Nghiệp chướng nào đã đeo đuổi tôi để tôi phải trở về nhà tù này mười một tháng
sau? Có thể Trời đã trừng phạt tôi vì đã dám khinh thường cuộc sống nguyên thủy
nhưng đẹp đẽ biết bao mà tôi có thể kéo dài mãi mãi chừng nào tôi còn muốn?
Lali và Zoraima, hai mối tình của tôi, cái bộ lạc không có cảnh sát, không có
luật lệ gì ngoài sự hiểu biết lẫn nhau tường tận giữa những con người làm thành
viên của nó. Phải, tôi về đây chỉ tại tôi thôi, nhưng tôi cũng chỉ tự cho mình
phải nghĩ đến một điều duy nhất là vượt ngục, vượt ngục hay là chết: Nếu như mi
biết rằng ta đã bị bắt và phải trở lại nơi lưu đày, mi sẽ lại nở nụ cười chiến
thắng như tại phiên tòa đại hình nọ và mi sẽ thầm nhủ: "Thế là đẹp rồi, nó
lại phải đi trên con đường đến nơi ruỗng nát mà ta đã đặt nó vào!". Nhưng
mi đã lầm. Không bao giờ tâm hồn ta, trí óc ta thuộc về con đường ô nhục ấy
đâu. Mi chỉ nắm được thân thể ta thôi, những tên lính gác của mi, cả hệ thống
lao tù của mi mỗi ngày hai lần ghi nhận là ta có mặt; với mi, thế là đủ.
Sáu giờ
sáng: "Papillon đâu?" - "Có tôi". Sáu giờ chiều:
"Papillon? – "Có tôi". Mọi việc thế là ổn rồi. Chúng ta tóm được
nó đã gần sáu năm, chắc nó đã bắt đầu rữa ra rồi, chỉ cần chút xíu nữa là có
ngày chuông sẽ gọi lũ cá mập đến tiếp nhận nó với đầy đủ nghi thức, trong bữa
tiệc hàng ngày mà chế độ đào thải theo lối giũa cho mòn của mi vẫn cho không lũ
cá nọ. Mi nhầm rồi, những tính toán của mi không đúng đâu. Sự hiện diện về vật
chất của ta không liên quan gì đến sự tồn tại về tinh thần của ta. Mi có muốn
ta nói cho mi biết điều này không? "Tôi không thuộc về chốn lao tù này,
tôi không bị đồng hóa chút nào với những thói quen của các bạn tù, ngay cả với
những bạn tù thân thiết nhất. Tôi là người luôn luôn có mặt trong các chuyến
vượt ngục".
Tôi đang
đối thoại với kẻ buộc tội tôi ở tòa đại hình thì có hai người đến gần võng tôi.
- Cậu
ngủ à, Papillon?
- Chưa.
- Chúng
tớ muốn nói chuyện với cậu.
- Cứ nói
đi, không có ai ở đây, nói nho nhỏ, không ai nghe được đâu.
- Thế
này nhé. Chúng tớ đang chuẩn bị một cuộc nổi loạn.
- Kế
hoạch của các anh ra sao?
- Chúng
tớ giết hết bọn A-rập, bọn lính gác, tất cả vợ con bọn lính vì đấy là những mầm
mống của sự thối nát. Để làm được như vậy, tớ đây, Arnaud, bạn tớ, Hautin, và
bốn người nữa, đã thỏa thuận sẽ tấn công kho vũ khí của bọn chỉ huy. Tớ làm
việc ở đấy, tớ chuyên bảo trì vũ khí cho tốt. Có hai mươi ba khẩu súng máy và
hơn tám mươi khẩu súng trường mút-cơ-tông và Lebel. Chúng tớ bắt đầu hành động
từ...
- Thôi,
đừng nói thêm gì nữa. Tôi không tham gia đâu Tôi cảm ơn các anh đã tin tôi
nhưng tôi không tán thành.
- Bọn tớ
nghĩ cậu sẽ nhận chỉ huy cuộc nổi loạn này. Cậu cứ để tớ nói hết các chi tiết
bọn tớ đã nghiên cứu và cậu sẽ thấy là không thể nào thất bại được. Chúng tớ
chuẩn bị việc này đã năm tháng nay. Đã có hơn năm mươi người tán thành chúng
tớ.
- Đừng
kể tên ai ra, tôi từ chối việc chỉ huy, và cũng không muốn tham gia vào việc
này.
- Sao
vậy? Cậu phải giải thích cho bọn tớ sau khi bọn tớ đã tin cậu và kể hết cho cậu
nghe.
- Tôi
không yêu cầu các anh kể cho tôi nghe dự định của các anh. Sau nữa, ở đời, tôi
chỉ làm điều gì người khác muốn. Vả lại, tôi cũng không phải là một kẻ giết
người hàng loạt. Tôi có thể giết chết kẻ nào làm điều gì có hại đối với tôi chứ
tôi không giết đàn bà trẻ con, họ chẳng làm gì hại đến tôi cả. Điều nghiêm
trọng nhất, các anh không thấy ra, và tôi sẽ nói cho các anh thấy là: dù cuộc
nổi loạn của các anh đạt được kết quả, các anh cũng thất bại.
- Sao
vậy?
- Bởi vì
việc chính, tức thoát ra khỏi chốn lao tù, sẽ không thực hiện được. Cho là có
một trăm người tham gia cuộc nổi loạn, họ sẽ đi bằng cách nào? Trên đảo chỉ có
hai chiếc xuồng. Cả hai chiếc chở hết mức cũng không được hơn bốn mươi người.
Còn sáu mươi người còn lại, các anh tính sao? Chúng ta sẽ ở trong số bốn mươi
người đi trên hai chiếc xuồng đó. Các anh tưởng thế thôi. Những người khác
không ngốc hơn các anh đâu, họ cũng có súng như các anh, và nếu mỗi người ấy
biết suy nghĩ một chút xíu, thì khi anh nói với những người ấy rằng họ sẽ bị bỏ
lại, hai bên khắc sẽ bắn nhau để dành quyền được đi trên xuồng. Điều quan trọng
hơn nữa là hai chiếc xuồng đó sẽ không có nước nào muốn nhận, vì điện tín sẽ
báo tin này cho tất cả các nước mà các anh có thể đến được, và báo ngay từ
trước khi các anh đến nữa, nhất là với số người chết đông đảo mà các anh để
lại. Các anh đến đâu cũng sẽ bị giữ lại lại và bị trao trả cho nước Pháp. Các
anh biết là tôi từ Colombia trở về chứ, tôi biết rõ điều tôi nói. Tôi bảo đảm
với các anh là sau chuyện ấy, ở đâu người ta cũng trả các anh về.
- Thôi
được. Thế là cậu từ chối phải không?
- Phải.
- Lời
cuối cùng của cậu đấy chứ
- Quyết
định không thay đổi của tôi đấy.
- Vậy
chúng tớ chỉ còn rút lui thôi.
- Chờ
một chút đã, Tôi xin các anh đừng nói về dự định ấy với bất cứ bạn nào của tôi.
- Sao
vậy?
- Vì tôi
biết trước là họ sẽ từ chối, cho nên các anh đừng nói mà mất công.
- Được
lắm.
- Các
anh không thể từ bỏ kế hoạch này được sao?
- Thật
tình mà nói, không được đâu, Papillon ạ.
- Tôi
không hiểu nổi lý tưởng của các anh là gì, bởi vì tôi đã nói một cách rất đứng
đắn với các anh là dù cuộc nổi loạn có thành công, các anh cũng không được tự
do.
- Chúng
tớ chỉ muốn trả thù. Và bây giờ cậu đã giải thích cho chúng tớ thấy là không
thể đến đâu được, rằng không nước nào tiếp nhận chúng tớ, vậy, chúng tớ sẽ vào
rừng và tụ tập thành một toán ở rừng vậy.
- Tôi
hứa với các anh là sẽ không nói việc này ra với ai, ngay cả bạn chí thân.
- Chúng
tớ cũng tin như vậy.
- Tốt.
Một điều cuối cùng nữa: các anh tin cho tôi biết trước tám ngày để tôi đến đảo
Saint-Joseph chứ không ở đảo Royale khi sự việc xảy ra.
- Cậu sẽ
được báo trước kịp thời để có thể chuyển đến đảo khác.
- Tôi
không thể làm gì để các anh thay đổi ý kiến được sao? Các anh có thể phối hợp
với tôi làm điều gì khác được không? Chẳng hạn, ăn cắp bốn khẩu súng trường, và
vào một đêm nào đó, tấn công vọng gác ca-nô, không giết ai cả, chỉ lấy một
chiếc xuồng rồi cũng nhau trốn đi.
- Không,
chúng tớ đã chịu đựng quá nhiều rồi. Cái chính đối với chúng tớ là trả thù, dù
có phải chết.
- Thế
còn những đứa nhỏ, những người đàn bà thì sao?.
- Tất cả
đều cùng một lò, cùng một giòng máu mà ra. Tất cả phải chết.
- Thôi
đừng nói chuyện này nữa.
- Cậu
không chúc chúng tớ được may mắn?
- Không,
tôi chỉ nói với các anh là hãy thôi việc ấy đi, có nhiều việc đáng làm hơn cái
chuyện tồi tệ đó.
- Cậu
không chấp nhận quyền được trả thù?
- Có
chứ, nhưng không phải là bằng cách sát hại những người vô tội. Chào các anh.
- Chào
cậu. Vậy là chúng ta không hề nói gì với nhau đấy nhé, phải không, Papi?
- Đồng
ý.
Cả
Hautin và Arnaud đã rút lui.
Chuyện
này thật là tức cười. Hai thằng cha đúng là khùng, ngoài ra lại còn năm sáu
chục thằng khác có liên can, rồi đến giờ H số ấy còn lên tới một trăm nữa. Thật
là chuyện quái đản. Trong số các bạn tôi không hề có ai đả động gì đến việc
này. Như vậy là hai thằng cha nọ chắc chỉ bàn với bọn trưởng giả thôi. Không hề
có những tay thuộc giới giang hồ tham gia vụ này. Điều nghiêm trọng hơn nữa, là
những kẻ trưởng giả giết người lại là những tên sát nhân thật sự, những kẻ giết
người trong giới giang hồ thì khác hẳn.
Trong
tuần này, tôi đã điều tra rất kín đáo về Arnaud và Hautin. Hình như Arnaud lãnh
oan án chung thân về một tội không đáng tới mười năm tù. Các bồi thẩm kết tội
hắn nặng như vậy do năm trước, anh của hắn đã bị chết chém vì giết một cảnh
sát. Còn hắn thì do công tố viên nói nhiều đến người anh của hắn để tạo một
không khí thù địch, nên hắn bị xử án nặng ghê gớm đến thế. Hắn lại còn bị tra
tấn rất tàn nhẫn trong lúc bị bắt, cũng vẫn do những việc làm của người anh.
Hautin chưa được hưởng tự do bao giờ, hắn ở tù từ năm lên chín. Vào hồi mười
chín tuổi, hắn đã giết một người ngay trước khi ra khỏi nhà trừng giới một ngày
để đăng lính hải quân, với mục đích thoát khỏi tù. Hắn ta có lẽ cũng hơi điên,
vì dự định của hắn hình như là sang Venezuela, vào làm việc tại một mỏ vàng bên
đó rồi sẽ tìm cách tự làm cho gẫy một chân để được hưởng một khoản tiền bồi
thường lớn. Cái chân đó bị tê cứng do hắn tự chích thuốc gì tôi không rõ, từ
hồi ở Saint- Martin de-Ré.
Có sự
thay đổi bất ngờ. Sáng nay, trong buổi điểm danh, Arnaud, Hautin và em của
Matthieu Carbonieri đã bị gọi đi.Cậu em tên Jean, là thợ làm bánh mì, nghĩa là
làm việc tại bến cảng, gần nơi thuyền đậu. Họ bị chuyển đi đảo Saint Joseph mà
không được giải thích gì, và cũng không có lý do rõ rệt. Tôi cố tìm hiểu. Không
ai biết chút gì, thế mà Arnaud trông coi vũ khí đã bốn năm rồi, còn Jean
Carbonieri là thợ làm bánh mì đã năm năm. Không thể là chuyện ngẫu nhiên. -
Chắc phải có rò rỉ ở đâu, nhưng rò rỉ như thế nào và đến mức nào? Tôi quyết
định bàn chuyện đó với ba người bạn thân: Matthieu Carbonieri, Grandet và
Galgani. Cả ba đều không biết chút gì. Thế là Arnaud và Hautin chỉ rủ rê những
tay sừng sỏ không thuộc giới giang hồ.
- Vậy
thì sao bọn họ lại nói với tớ?
- Bởi vì
tất cả ai ai cũng biết là cậu tính vượt ngục với bất kỳ giá nào.
- Nhưng
không phải với giá đó.
- Bọn ấy
không hiểu nồi sự khác biệt.
- Thế
còn thằng Jean, em cậu?
- Làm
sao mà biết được vì lý do gì nó lại đâm đầu vào làm cái việc ngu ngốc đó.
- Có thể
có thằng kéo nó vào cuộc rồi quay ra giao động, và thằng em cậu không biết gì
cả chăng?
Sự việc
diễn biến thật mau lẹ.
Đêm ấy
Girasolo bị giết khi vào nhà cầu. áo của anh da đen chăn trâu người Martinique
có dính máu. Mười năm ngày sau một cuộc điều tra chớp nhoáng diễn ra và qua lời
khai của một tên da đen khác bị cách ly, anh chăn trâu bị một tòa án đặc biệt
kết án tử hình. Một gã giang hồ nhiều tuổi, tên là Garvel, dân Savoie, đến nói
chuyện với tôi ở chỗ giặt áo quần ở ngoài sân.
- Papi
này, tớ khó chịu quá vì tớ đã giết Girasolo. Tớ muốn cứu thằng nhỏ nhưng lại sợ
bị chặt đầu. Phải trả cái giá ấy, thì tớ không nói đâu. Nếu nghĩ lại cái mẹo
nào chỉ bị độ ba hay năm năm thì tớ tự thú rồi.
- Án khổ
sai của anh là bao nhiêu?
- Hai
mươi năm.
- Anh đã
ngồi được bao nhiêu lâu rồi?
- Mươi
hai năm.
- Anh
hãy bằng lòng chịu án chung thân đi, như vậy anh không phải vào nhà lao cấm cố.
- Biết
làm sao bây giờ?
- Cứ để
tôi nghĩ đã. Đêm nay tôi sẽ nói với anh.
Tối đến,
tôi nói với Garvel:
- Anh
không thể tự thú và nhận đã làm việc đó được!
- Sao
vậy?
- Anh có
thể bị án tử hình. Chỉ có một cách để tránh nhà lao cấm cố là lĩnh án chung thân.
Anh cứ tự thú đi. Lý do: lương tâm anh không cho phép anh để một người vô tội
bị chết oan. Anh hãy tìm một cảnh binh người Corse để nhờ bào chữa cho anh. Tôi
sẽ nói cho anh biết tên người đó, để tôi hỏi ý nó trước đã.
- Phải
làm mau mau mới được. Không nên để thằng cha bị chặt đầu quá nhanh.
- Anh
hãy cho hai ba ngày nữa.
Tôi đã
bàn việc này với viên giám thị Collona. Anh ta đã mách cho tôi một ý kiến: tôi
sẽ dẫn hắn đến gặp thiếu tá chỉ huỵ Và tôi nói là Garvel xin tôi bênh vực hắn,
đưa hắn đến gặp ông để nhận tội. Tôi bảo đảm với hắn rằng, với hành động cao
thượng này, không thể kết án tử hình hắn được, nhưng hắn cũng biết trường hợp
của hắn là nghiêm trọng, và đã tính trước là sẽ lãnh án chung thân.
Mọi việc
đều diễn ra một cách ổn thỏa. Garvel đã cứu được cậu oẳn da đen, cậu này được
thả ngay lập tức. Kẻ làm chứng giả để buộc tội hắn lãnh một năm tù còn Garvel
thì chung thân.. Hai tháng đã trôi qua. Bây giờ, khi mọi việc đã chấm dứt,
Garvel mới kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện Girasolo, sau khi nhận lời tham
gia cuộc nổi loạn và được biết những chi tiết của âm mưu này, đã tố cáo Arnaud,
Hautin và Carbonieri, may mà nó không biết thêm tên ai. Được nghe tố cáo cái
chuyện tầy đình này, bọn cảnh sát không tin. Tuy vậy, để phòng ngừa, chúng cũng
chuyển đi Saint-Joseph ba tên tù bị nêu tên đó, nhưng không nói gì với chúng,
không lục vấn chúng và không làm gì cả.
- Còn
cậu, Garvel, vì sao cậu giết nó?
- Tớ
viện cớ là nó đã ăn cắp plan của tớ. Rằng chỗ tớ nằm đối diện với chỗ nó - đó
là sự thật - và ban đêm, tớ lấy plan ra giấu vào cái mền vẫn để gối đầu. Có đêm
tớ đi cầu, khi tớ về chỗ thì plan của tớ bị mất. Lúc bấy giờ, quanh chỗ tớ, chỉ
có một người thức, đó là Girasolo. Bọn lính tin cách giải thích của tớ. Họ cũng
không nói cho tớ biết là nó đã tố giác một vụ nổi loạn.
-
Papillon! Papillon ra điểm danh! - Ngoài sân có tiếng gọi.
- Có tôi
đây
- Thu
xếp đồ đạc. Lên đường đi Saint-Joseph ngay bây giờ.
- Chà!
Mẹ kiếp!
Chiến
tranh vừa nổ ra ở Pháp. Tình hình buộc phải có một kỷ luật mới: những viên chức
đầu ngành mà để xảy ra một cuộc vượt ngục là bị cách chức ngay. Tù nhân nào bị
bắt khi đang vượt ngục, sẽ bị tử hình. Việc vượt ngục bị coi như có động cơ
muốn gia nhập các lực lượng của phe Nước Pháp Tự do đang phản bội tổ quốc. Việc
gì cũng có thể dung thứ được, chứ vượt ngục thì dứt khoát là không. Thiếu tá
Prouillet đi đã được hai tháng. Tôi chưa biết người chỉ huy mới, mà cũng chẳng
biết làm gì. Tôi chào các bạn. Tám giờ, tôi đã ở trên tàu đi Saint-Joseph. Bố
của Lisette không còn ở trại Saint-Joseph nữa. Tuần qua, ông đã cùng gia đình
dời đi Cayenne. Chỉ huy tàu giao ngay tại bến cho tên lính trực cùng với giấy
tờ kèm theo.
- Anh là
Papillon hả?
- Thưa
thiếu tá, vâng.
- Anh là
một nhân vật kỳ cục lắm - Ông ta vừa nói vừa lật giấy tờ của tôi ra xem.
- Tại
sao tôi lại là kỳ cục?
- Bởi vì
một mặt, anh bị ghi là nguy hiểm về mọi phương diện, nhất là có một lời ghi chú
bằng mực đỏ : "thường xuyên chuẩn bị vượt ngục" rồi lại, có ghi thêm:
"bị cá mập bao vây, vẫn cố cứu con gái thiếu tá chỉ huy đảo
Saint-Joseph". Tôi có hai con gái nhỏ, Papillon à, anh có muốn gặp chúng
không?
Ông gọi
hai đứa trẻ, lên ba và năm tuổi vào phòng làm việc của ông. Cả hai đều có mái
tóc vàng, đi vào theo sau chúng là một tên A-rập còn trẻ, mặc toàn trắng và một
phụ nữ tóc đen, rất xinh.
- Em ơi,
em thấy người này không, anh ta đã cố cứu Lisette, con đỡ đầu của em, đấy.
- Ôi!
Cho tôi được bắt tay anh nào, - người thiếu phụ nói.
Bắt tay
một người tù khổ sai! Tính hồn nhiên và cái cử chỉ tự phát của bà ta làm tôi
cảm động.
- Phải,
tôi là mẹ đỡ đầu của Lisette. Chúng tôi rất thân với gia đình Frandoit. Thế
mình có định làm gì cho anh này không, hả mình?
- Anh ta
phải về trại giam đã. Rồi anh sẽ cho tôi biết anh muốn tôi phân cho anh việc gì
nhé.
- Xin
cảm ơn thiếu tá, cảm ơn bà. Xin ông cho tôi biết lý do vì sao tôi phải chuyển
đến Saint-Joseph. Đối với tôi, đó gần như là một hình phạt.
- Theo
tôi nghĩ thì không có lý do gì. Chẳng qua ông chỉ huy mới sợ anh vượt ngục.
- Ông ấy
nghĩ không sai.
- Các
hình phạt đối với những ai để tù vượt ngục đã được tăng lên. Trước chiến tranh,
có khả năng bị mất một lon; bây giờ, đó là điều tất nhiên rồi, chưa kể các hình
thức khác nữa. Vì vậy ông ta đưa anh đến đây, ông ta thà để anh vượt ngục từ
Saint-Joseph không thuộc phạm vi của ông, còn hơn là từ Royale là nơi ông phải
chịu trách nhiệm.
- Thưa
thiếu tá, ông phải ở đây bao nhiêu lâu?
- Mười
tám tháng.
- Tôi
không thể nào chờ lâu đến thế được, nhưng tôi sẽ kiếm cách trở về Royale để
khỏi phương hại đến ông.
- Cám ơn
anh, - vợ ông ta nói. - Tôi rất sung sướng thấy anh xử sự cao thượng như vậy.
Anh cần gì, cứ đến đây đừng ngần ngại. Ba này, ba ra lệnh cho vọng gác để
Papillon có thể đến gặp em khi nào anh ta yêu cầu nhé.
- Được
thôi, em yêu. Mohammed, đi theo Papillon về trại, còn anh, anh có thể chọn
phòng anh muốn ở.
- Ồ, tôi
thì rất dễ: tôi xin ở nhà giam những tù nguy hiểm.
- Điều
đó không khó, thiếu tá cười, đoạn viết mấy chữ vào một tờ giấy đưa cho
Mohammed.
Tôi rời
căn nhà vừa là nhà ở vừa là văn phòng của thiếu tá bên bến tàu, đó là nhà ở
trước đây của Lisette. Tôi đi về trại, theo sau là tên A-rập trẻ. Chỉ huy trạm
gác là một người Corse, rất hung hãn, y là tay chuyên giết người mà ai cũng
biết. Tên y là Filissari.
-
Papillon, anh đến rồi đấy hả? Anh biết tính tôi đấy, tốt thì thật tốt, xấu cũng
thật xấu. Anh đừng giở trò vượt ngục với tôi nhé, vì anh mà thất bại là tôi
giết anh như giết con dán vậy. Hai năm nữa, tôi sẽ về hưu. Vì vậy bây giờ không
phải là lúc gặp chuyện phiền toái.
- Ông
biết rằng tôi vốn là bạn của tất cả những người Corse. Tôi không nói với ông là
tôi sẽ không vượt ngục, nhưng nếu tôi vượt ngục, tôi sẽ thu xếp để việc đó
không xảy ra vào phiên trực của ông.
- Vậy
thì được, Papillon. Chúng ta không phải là kẻ thù của nhau rồi. Anh cũng hiểu
đấy, bọn trẻ họ có thể chịu đựng những chuyện bực mình do một cuộc vượt ngục
gây ra, còn tôi thì anh lạ gì? Với tuổi tôi, lại sắp về hưu nữa! Rồi, thế là
hiểu nhau nhé. Còn bây giờ thì về chỗ ở đã chỉ định.
Thế là
tôi lại vào trại, trong một văn phòng giống y như ở đảo Royale, chứa từ một
trăm đến một trăm hai tù nhân. Ở đấy có thằng Pierrot rồ, Hautin, Arnaud và
Jean Carbonieri. Đáng lẽ tôi phải về cùng nhóm với Jean vì nó là em Matthieu
nhưng Jean không có cỡ như Matthieu, và do nó đánh bạn với Hautin. Arnaud tôi
thấy không hợp. Cho nên, tôi gạt nó ra và về ở với Carrier, người Bordeaux, còn
gọi là thằng Pierrot rồ.
Đảo
Saint-Joseph hoang đã hơn đảo Royale, hơi nhỏ hơn Royale một chút nhưng vì dài
hơn, nên trông như lớn hơn. Trại ở lưng chừng cao điểm của đảo, giữa hai khoảng
đất bằng làm thành hai tầng kế tiếp nhau. Trại giam ở tầng thứ nhất; còn ở tầng
trên là nhà lao cấm cố trứ danh mà mọi người ghê sợ. Nhân tiện cũng xin nói là
phạm nhân bị giam cấm cố hàng ngày vẫn được đi tắm một giờ. Hy vọng rằng việc
đó sẽ còn tiếp tục.
Hàng
ngày, vào buổi trưa, tên A-rập làm việc cho thiếu tá đưa đến cho tôi ba cái
cà-mèn xếp lồng vào một miếng sắt dẹt ở đầu có tay xách bằng gỗ. Hắn để ba ngăn
cà-mèn lại và lấy những ngăn cà-mèn hôm trước về. Bà mẹ đỡ đầu Lisette hàng
ngày gửi cho tôi những món mà bà đã nấu nướng cho gia đình bà ăn. Chủ nhật, tôi
đến thăm và cảm ơn bà. Tôi ở đấy cả buổi chiều để chuyện trò với bà và chơi với
các con bà, vuốt mớ tóc vàng của chúng, tôi tự nhủ, nhiều khi khó mà biết đâu
là bổn phận của mình. Nguy cơ đang đè nặng lên gia đình này trong trường hợp
hai thằng ngu kia vẫn giữ ý định thật là ghê gớm. Girasolo đã tố giác câu
chuyện ra rồi mà bọn lính chẳng tin. Đến nỗi chúng không chịu tách mấy thằng
kia ra, mà chỉ chuyển chúng đến Saint-Joseph. Nhưng nếu tôi nói thêm một câu để
người ta tách chúng riêng ra từng thằng một, hóa ra tôi lại xác nhận sự kiện là
có thật, cùng tính chất nghiêm trọng của chuyện tố giác nọ. Nếu thế thì phản
ứng của cai tù sẽ ra sao? Tốt hơn cả là câm miệng lại.
Ở trại,
Arnaud và Hautin hầu như không nói với tôi Thế lại hóa hay, chúng tôi đối xử
với nhau nhã nhặn nhưng không thân mật, Jean Carbonieri không nói chuyện với
tôi, nó tức vì tôi đã không về ở cùng nhóm với nó. Chúng tôi có bốn người: Pierrot
rồ, Marquetti, đã từng đoạt giải nhì trong cuộc thi vĩ cầm ở Roma, nhiều khi
cậu ta chơi đàn mấy giờ liền, làm tôi cũng buồn mang mác, và cả Marsori, dân
Corse, vùng Sète, cũng vậy. Tôi không nói gì với ai, tôi có cảm giác là ở đây
cũng không ai biết gì về cuộc chuẩn bị nổi loạn bị dang dở ở đảo Royale. Họ còn
giữ những ý định ấy không? Cả ba đang làm lao dịch nặng nhọc. Họ phải kéo lê
dưới nước những tảng đá to để xây một hồ bơi ngoài biển. Một tảng đá to được
buộc chặt bằng xích, một sợi dây khác từ mười lăm đến hai mươi mét được nối vào
đấy ở bên phải và bên trái. Mỗi tù nhân chẳng dây kéo của mình vào thân hay vào
vai, móc đây đó vào một khâu của sợi xích dài. Rồi cùng một lúc, y như những
con vật, họ phải kéo các tảng đá đến nơi đã định. Dưới trời nắng chói chang,
đấy là một công việc nặng nhọc và chán ngấy.
Có tiếng
súng trường, súng mút-cơ-tông và súng ngắn nổ vang ở phía bến tàu. Tôi hiểu
ngay, lũ điên khùng đã hoạt động. Việc gì đã xảy ra vậy? Ai thắng? Tôi ngồi
trong phòng, không động đậy. Những tay tù sừng sỏ đều nói: "Họ nổi loạn
rồi!".
- Nổi
loạn à? Nổi loạn thế nào? - Tôi cố tình tỏ ra cho mọi người thấy là tôi không
biết gì.
Jean Carbonieri hôm đó không đi làm, sáng lại gần tôi, mặt
tuy rám nắng mà vẫn tái mét như đã chết rồi. Nó nói lí nhí, "Nổi loạn đấy,
anh Papi ạ". Tôi lạnh lùng hỏi nó: "Loạn gì? Tao không biết".
Tiếng súng mút-cơ-tông vẫn tiếp tục nổ. Pierrot rồ chạy vào phòng.
- Nổi
loạn nhưng hình như thất bại thì phải. Thật là một lũ điên? Papillon, mở dao ra
đi, ít ra ta cũng phải giết được thật nhiều lính rồi có chết mới chết.
- Phải,
- Carbonieri nói, - phải giết càng nhiều lính càng tốt.
Chissilia
lấy ra một con dao cạo. Người nào cũng lăm lăm một con dao đã mở sẵn. Tôi nói
với họ:
- Đừng
có xử sự như những thằng ngu. Chúng ta có bao nhiêu mống?
- Chín.
- Bảy
cậu hãy bỏ vũ khí xuống. Cậu nào hăm dọa lính gác, tôi sẽ giết ngay. Tôi không
muốn bị bắn như thỏ trong căn phòng này. Cậu có tham gia vào vụ này không?
- Không.
- Còn
cậu?
- Cũng
không.
- Thế
cậu này?
- Tôi
chẳng biết nếp tẻ gì cả.
- Tốt.
Chúng ta ở đây đều là dân giang hồ, không ai biết gì về cuộc nổi loạn của bọn
trường giả cả. Hiểu không nào?
- Được
rồi. Đứa nào đi tố giác và nhận rằng có biết ít nhiều điều gì là sẽ bị bắn chết
ngay đấy. Bởi vậy, thằng nào ngờ nghệch nói ra là chẳng ăn cái giải gì đâu. Các
cậu vứt cả vũ khí vào thùng phân đi. Bọn lính chắc cũng sắp đến đây rồi.
- Thế
nhỡ cánh tù thắng thì sao?
- Nếu
cánh tù thắng, ta cứ để cho chúng thu xếp và hoàn thành chiến thắng của chúng
bằng một cuộc vượt ngục. Còn tôi, với cái giá này, tôi không ham. Các cậu thì
sao?
- Chúng
tôi cũng vậy, - tám người kia cùng đồng thanh nói, kể cả Jean Carbonieri.
Tôi
không ho hé về những gì tôi vừa nhận thấy: không còn tiếng súng nổ nữa, và như
thế nghĩa là cánh tù đã thất bại.
Quả thật
là cuộc tàn sát đã được dự tính từ trước chưa thể nào mới đến giờ này mà đã
xong xuôi được. Bọn lính vừa chạy như điên đến, vừa dùng báng súng, gậy, và
chân thúc mấy người tù đi chuyển đá về. Chúng lùa họ vào căn nhà kế bên rồi
cũng vào trong đó luôn. Đàn ghi-ta, măng-đô-lin, bàn cờ vua, cờ đam, đèn dầu,
ghế băng, các chai đựng dầu, đường, cà phê, quần áo trắng, tất cả đều bị chà
đạp phá hủy và bị vất ra ngoài. Bọn lính đập phá tất cả những gì mà quy chế
không chính thức cho phép các phạm nhân được giữ. Có hai tiếng súng nổ, chắc
chắn là tiếng súng ngắn.
Trại
giam có tám tòa nhà. Bọn lính hành động như vậy ở cả tám tòa nhà, thỉnh thoảng
còn dùng bán súng để phá. Một người trần truồng, rõ ràng là bị bọn lính giải về
xà-lim để đánh cho nhừ tử, đã chạy về phía nhà giam. Bọn chúng đã đến các nhà ở
phía trước và bên phải chỗ chúng tôi. Bây giờ chúng đang ở nhà thứ bảy. Chỉ còn
lại căn nhà của chúng tôi. Cả chín đứa chúng tôi ai nấy đều vẫn ngồi yên ở chỗ
của mình. Những người đi làm ở ngoài cũng chưa ai về. Người nào cũng chết dí
tại chỗ của người nấy. Không ai nói gì. Miệng tôi khô rang, tôi đang nghĩ:
"Mong cho đừng có thằng khốn nào lợi dụng lúc hỗn quân hỗn quan này để hạ
thủ mình một cách vô tội vạ".
- Chúng
nó đến đây rồi kia, - Carbonieri nói, hắn không còn hồn vía nào nữa.
Bọn
lính, hơn hai mươi tên, ùa vào, súng mút cơ- tông hay súng ngắn lăm lăm trong
tay sẵn sàng nhả đạn. Filissari la lối:
- Này,
chúng mày chưa cởi hết quần áo ra à? Còn chờ gì nữa, đồ chó chết? Chúng mày sẽ
bị bắt cả lũ.
- Cởi
hết quần áo ra, chúng ta không muốn lột quần áo ở xác chúng mày ra.
- Thưa
ông Fillissari...
- Câm
mồm đi, Papillon. Đừng có xin tha tội ở đây. Cái chuyện chúng mày bày đặt ra nó
quá ư nghiêm trọng. Ở trong phòng tù nguy hiểm này, chắc chắn cả bọn chúng mày
đã tham gia.
Mắt y
trợn trừng lên vằn đỏ những tia màu, ánh mắt tràn đầy sát khí.
- Chúng
tôi có quyền, Pierrot nói.
Tôi
quyết định đánh bài liều.
- Tôi
ngạc nhiên thấy một người Corse như ông mà lại đi tàn sát những người vô tội?
Ông muốn bắn hả? Được, không cần phải dài giòng làm gì, chúng tôi không thiết
nữa đâu. Ông bắn đi, bắn cho mau đi. Trời đất ơi! Tôi tưởng ông cũng là một con
người chứ, ông Filissari kia, một đệ tử chân chính của Napoléon! Nhưng tôi đã
lầm. Cũng chẳng sao. Thậm chí tôi cũng những muốn nhìn thấy ông khi ông bắn
chúng tôi nữa cơ. Tôi quay lưng lại đây. Này, các cậu quay lưng cả lại để người
ta không nói là chúng mình định tấn công họ.
Và tất
cả mọi người như một, đã quay lưng lại bọn lính. Bọn họ sững sờ trước thái độ
của tôi, càng ngạc nhiên hơn vì trước đấy (việc này về sau tôi mới biết)
Filissari đã bắn chết hai phạm nhân ở các nhà khác.
- Mày
còn muốn nói gì nữa không, Papillon?
Vẫn quay
lưng lại, tôi đáp:
- Chuyện
nổi loạn này, tôi không tin chút nào. Sao lại nổi loạn? Để giết lính à? Rồi
vượt ngục? Rồi đi đâu? Tôi đây, là chuyên viên vượt ngục, tôi từ ở rất xa, tận
Colombia trở về. Tôi thử hỏi có nước nào lại chứa chấp những kẻ giết người rồi
vượt ngục? Tên cái nước ấy là gì vậy? Đừng có ngu như thế, không một ai xứng
đáng với danh hiệu một con người lại dính vào chuyện này làm gì.
- Mày,
thì may ra có thể như thế, nhưng còn Carbonieri. Tao chắc chắn nó có tham gia,
vì sáng nay thằng Arnaud và thằng Hautin ngạc nhiên thấy nó báo bệnh để không
đi làm.
- Ông
tưởng thế thôi, tôi bảo đảm là như vậy.
Và tôi
quay mặt lại với y
- Tôi
nói để ông hiểu ngay nhé. Carbonieri là bạn tôi, anh ta biết mọi chi tiết về
chuyến vượt ngục của tôi, anh ta không có ảo tưởng gì hết, anh ta biết rõ hậu
quả của một cuộc vượt ngục bằng cách nổi loạn.
Đúng lúc
đó, thiếu tá chỉ huy đến. Ông ta đứng bên ngoài. Filissari đi ra. Thiếu tá gọi:
-
Carbonieri.
- Có tôi
- Cho nó
vào xà lim nhưng không được ngược đãi. Giám thị này, đi theo nó. Tất cả đi ra
ngoài hết, chỉ các giám thị trưởng ở lại đây thôi. Đưa tất cả các tù nhân còn
rải rác ở đảo về trại. Không được giết ai, cho tất cả về trại, không trừ một
ai.
Thiếu tá
chỉ huy trại, viên chỉ huy phó và Filissari cùng bốn lính gác bước vào phòng
giam. Thiếu tá nói.
-
Papillon, có một việc rất nghiêm trọng vừa xảy ra. Với tư cách chỉ huy trại
giam, tôi có trách nhiệm rất nặng nề. Trước khi có vài biện pháp đối phó, tôi
cần biết ngay một số tin tức. Tôi biết là trong thời điểm ngặt nghèo này, anh
sẽ từ chối không nói chuyện riêng với tôi, vì thế, tôi đã đến đây. Giám thị Ductos
đã bị giết. Bọn chúng còn muốn lấy vũ khí cất ở nhà tôi, đây là một cuộc nổi
loạn. Tôi chỉ có vài phút thôi, tôi tin anh. Tôi hỏi ý kiến anh về việc này,
thế nào?
- Nếu có
nổi loạn, sao chúng tôi không biết gì cả? Sao không ai nói gì với chúng tôi? Có
bao nhiêu người liên quan đến vụ này? Tôi đặt ra ba câu hỏi đó với ông thiếu tá
và tôi sẽ trả lời, nhưng trước tiên, ông phải cho tôi biết, là sau khi họ giết
giám thị và đoạt được súng của ông ấy rồi, tôi đoán chắc vậy, có bao nhiêu
người đã hành động?
- Ba
người.
- Đó là
những ai?
-
Arnaud, Hautin và Marceau.
- Tôi
hiểu rồi. Dù ông muốn hay không, ông nghĩ thế nào tùy ý nhưng không có cuộc nổi
loạn nào cả.
-
Papillon, anh nói láo. - Filissari nói - Cuộc nổi loạn này đáng lẽ xảy ra ở đảo
Royale, Girasolo đã tố giác, chúng tôi không tin là có. Nhưng bây giờ, rõ ràng
những gì nó nói ra là đúng. Vậy là anh có ý bịp chúng tôi Pappillon!
- Nếu
như ông nói là đúng, thì tôi đây, tôi là thằng đi tố cáo chăng, rồi cả Pierrot
rồ nữa, rồi Carbonieri và Galgani cùng tất cả cánh lục lâm Corse ở đảo Royale,
rồi cả cánh giang hồ nữa. Bất chấp những sự việc đã xảy ra, tôi vẫn không tin
vào chuyện ấy. Nếu có cuộc nổi loạn, thì chúng tôi cầm đầu chứ không có ai
khác.
- Anh
nói chuyện gì mà lạ vậy? Không có ai liên quan đến việc này sao? Vô lý.
- Thế
hành động của những kẻ khác là thế nào? Có ai ngoài ba thằng khùng ấy làm gì
không? Ở đây, có ai nhúc nhích chân tay để chiếm vọng gác có bốn giám thị có
súng, lại có cả ông xếp Filissari cũng có súng mút-cơ-tông nữa không? Có bao
nhiêu tàu ở Sain- Joseph nào? Chỉ có một chiếc sà-lúp thôi? Thế là một sà-lúp
dùng cho sáu trăm người à? Chúng tôi có ngu đâu? Rồi giết người để vượt ngục?
Cứ cho là có hai mươi người đi được, thì rồi cũng sẽ bị bắt và phải đầu hàng ở
bất cứ chỗ nào. Thưa thiếu tá, tôi không biết người của ông hay chính tay ông
giết bao nhiêu tù, nhưng gần như chắc chắn đấy là những người vô tội. Và bây
giờ lại đi phá tất cả các đồ đạc mà chúng tôi có được là nghĩa lý gì? Các ông
tức giận có lý đấy, nhưng xin các ông đừng quên rằng ngày mà các ông không để
cho đời sống của tù nhân được dễ chịu đôi chút, thì ngày đó đúng là sẽ có một
cuộc nổi loạn, một cuộc nổi loạn của những kẻ tuyệt vọng, nổi loạn để cùng tự
vẫn với nhau, đã chết thì chết chùm cả một thể: lính cũng như tù. Thưa ông
Dutain, tôi nói với ông hết sức thành thật đấy, tôi cho là ông đáng được đối xử
như vậy, chỉ vì ông đã đến tìm chúng tôi hỏi rõ tình hình trước khi quyết định.
Xin ông để cho chúng tôi được yên.
- Thế
còn những thằng đã liên quan đến vụ này? Filissan lại nói.
- Đó là
việc các ông phải tìm ra. Chúng tôi không biết gì cả, về chuyện này, chúng tôi
không giúp được gì cho các ông đâu. Tôi xin nhắc lại, đây là chuyện điên rồ của
những thằng trưởng giả, chúng tôi không dính dáng vào đấy.
- Ông
Filissarn, khi nào người ở phòng tù nguy hiểm này về hết, ông khóa cửa lại cho
đến khi có lệnh mới. Đặt hai người gác ở cửa, không được đánh đập ai và đừng có
phá phách các thứ của họ. Đi thôi!
Nói đoạn
ông ta bỏ đi cùng với cả bọn cảnh sát. Phào! Phào! Hú vía! Vừa đóng cửa lại.
Filissari vừa nói với tôi:
- Phúc
tổ cho mày là tao lại là dân Corse!
Chưa đầy
một giờ sau, gần hết những người thuộc căn nhà của chúng tôi đã về cả. Chỉ
thiếu mười tám người: bọn gác đã nhận ra rằng trong lúc hốt hoảng cuống quít họ
đã nhốt lầm mấy người này vào một nhà khác.
Khi tất
cả đã cùng trở về, ở đâu về đó, chúng tôi mới biết rõ sự việc đã xảy ra như thế
nào, vì tất cả những người đó đều đang đi làm cỏ-vê. Một anh kẻ trộm người
Saint-Etienne đã thầm thì kể với tôi:
- Papi
này, anh thử tưởng tượng là chúng tôi đang kéo một tảng đá nặng gần một tấn
trên quãng đường dài gần bốn trăm mét. Con đường kéo đá không có đoạn nào gay
go lắm, và chúng tôi đến một cái giếng cách nhà trại trưởng chừng năm mươi mét.
Cái giếng vẫn là nơi nghỉ chân từ trước đến nay. Nó vừa có bóng dừa mát, lại ở
giữa đoạn đường phải đi tiếp. Cho nên chúng tôi đã dừng lại như mọi ngày, chúng
tôi kéo một xô nước giếng mát lịm lên uống, có mấy thằng thấm nước vào khăn để
che lên đầu.
Mỗi lần
nghỉ thường là mười phút, thằng lính gác cũng đến ngồi ở thành giếng. Hắn bỏ mũ
ra, đang lấy khăn tay ra lau đầu và mặt thì Arnaud từ đằng sau tới tay cầm một
cái cuốc, buông thõng xuống cho nên không ai biết mà báo cho thằng lính đề
phòng. Giơ cuốc lên và dùng phía lưỡi bén bổ vào giữa đầu người lính chưa mất
đến một giây đồng hồ. Đầu bị tách ra làm hai mảnh, người lính ngã sóng soài ra
đất không kêu được một tiếng. Hautin đã đứng sẵn từ trước ở đó, chộp ngay lấy
khẩu mút-cơ-tông, còn Marceau thì cởi thắt lưng và lấy khẩu súng ngắn.
Có súng
trong tay, Marceau quay lại nói với cả bọn tù: "Đây là một cuộc nổi loạn,
ai theo chúng tôi, thì đi cùng chúng tôi". Không có một tên giữ chìa khóa
nào nhúc nhích hay kêu la, không có tù nhân nào tỏ ý muốn theo họ" – Cậu
ta kể tiếp: -Arnaud nhìn chúng tôi khắp lượt rồi nói: "Đồ hèn! Cả lũ chúng
mày ấy. Rồi chúng tao sẽ cho chúng mày thấy đã làm người thì phải thế
nào?"
Arnaud
lấy khẩu mút-cơ-tông từ tay Hautin rồi cả hai chạy về phía nhà thiếu tá.
Marceau ở lại nhưng đứng tách riêng ra một bên. Cậu ta cầm một khẩu súng ta và
ra lệnh: "Không được động đậy, không được nói, không được la hét. Còn bọn
A-rập kia, nằm úp sấp xuống đất". Ở chỗ tôi đứng, tôi nhìn thấy rõ lắm.
Arnaud
đang lên bậc thềm nhà thiếu tá thì thằng A-rập giúp việc ở đấy mở cửa đi ra, với
hai đứa bé gái, một đứa dắt tay, một đứa bế bên hông. Cả hai bên đều sửng sốt,
thằng A-rập đang bế đứa bé đá cho Arnaud một cái. Arhaud muốn giết hắn nhưng
hắn đã thẳng tay đưa đứa bé ra để đỡ. Không ai kêu la, cả thằng A-rập lẫn những
người khác. Khẩu mút-cơ-tông chĩa vào thằng A-rập đến bốn năm lần, ở đủ các góc
độ khác nhau. Cứ mỗi lần như thế là đứa bé lại bị giơ ra trước nòng súng.
Hautin không leo lên bậc mà đứng bên kéo ống quần của thằng A-rập.
Thấy
mình sắp ngã đến nơi, nó quẳng cả đứa bé gái vào khẩu mút-cơ-tông của Arnaud.
Bị mất thăng bằng trên bậc thang, Arnaud, đứa bé gái, thằng A-rập bị Hautin kéo
chân, tất cả đều ngã đè lên nhau lỏng chỏng. Lúc đó mới có những tiếng la hét
đầu tiên, trước hết là của hai đứa bé, rồi của thằng A-rập, rồi tiếng chửi rủa
của Arnaud và Hautin. Thằng A-rập, nhanh tay hơn hai gã kia, đã nhặt được khẩu
súng nhưng nó chi nắm được cái nòng, lại nắm bằng tay trái. Hautin lại tóm được
cẳng hắn. Còn Arnaud thì nắm lấy cánh tay phải của hắn và bẻ xoắn lại. Thằng
A-rập ném khẩu mút-cơ-tông ra cách xa mười mét.
Trong
khi cả ba xông tới để cướp khấu mút-cơ- tông, thì có tiếng súng nổ lần đầu
tiên, do người lính coi tù đi quét lá bắn tới. Ông thiếu tá hiện ra ở cửa sổ và
bắn phát một, vì sợ bắn phải thằng A-rập, nên ông ta chỉ nhằm vào chỗ khẩu
mút~cơ-tông rơi. Hautin và Arnand chạy trốn về phía trại theo con đường ven bờ
biển, và vẫn bị súng bắn theo. Hautin chân bị tê cứng nên chạy không được
nhanh, và đã bị hạ trước khi tới mép nước. Còn Arnaud thì lội xuống nước,
khoảng giữa chỗ tù tắm và hồ bơi của lính. Chỗ ấy lúc nào cũng đầy cá mập.
Arnand bị bao vây giữa những phát súng của một tên lính nữa vừa đến trợ lực và
một tên lính coi tù đi quét lá. Y nấp sau một tảng đá to.
- Đầu
hàng đi, sẽ được sống, - bọn lính kêu to.
- Không
bao giờ, - Arnaud đáp lại, - tao thà cho cá mập phanh thây còn hơn là nhìn thấy
bộ mặt khả ố của chúng mày.
Và y lội
xuống biển, thẳng vào chỗ lũ cá mập tập trung ở đấy. Hình như y bi trúng một
viên đạn vì y có dừng lại một lát. Thấy thế, bọn lính tiếp tục bắn. Arnaud lại
đi chứ không bơi, thân bên trên y còn nhô lên trên mặt nước thì lũ cá mập đã
tấn công y. Trông rất rõ y đâm một con cá mập đã phóng nửa người lên mặt nước
để lao vào y. Rồi y đã bị phanh xác ra - hiểu theo nghĩa đen - vì lũ cá mập kéo
tứ phía mà không cắn đứt chân tay y ra được. Chưa đầy năm phút sau y đã biến
mất. Bọn lính đã bắn ít ra là một trăm phát súng xuống chỗ Arnaud và lũ cá mập
đang quần nhau. Chỉ có một con cá mập bị chết; nó đã dạt vào bờ, ngửa bụng lên.
Thấy bốn
phía đều có cảnh binh kéo tới, Marceau vất súng xuống giếng, hòng cứu lấy mạng
mình, nhưng bọn A-rập đã đứng lên, dùng gậy và tay đấm, chân đá, dồn hắn về chỗ
bọn lính, nói rằng nó có ở trong cuộc. Tuy hắn bê bết máu và đã giơ tay lên,
bọn lính cũng dùng súng lục và mút-cơ-tông bắn vào hắn, và cuối cùng, một tên
lính còn cầm đầu nòng khẩu mút-cơ-tỏng phang báng súng vỡ đầu ra cho chết hẳn.
Bọn cảnh binh cũng xả đạn vào Hautin. Có cả thảy ba mươi tên, mỗi tên bắn sáu
phát, và chúng đã cho cậu này ăn trước sau hơn một trăm hai mươi phát đạn.
Filissari bắn chết những đứa bị bọn A-rập tố cáo là đã nhúc nhích định theo
Arnaud nhưng sau lại chùn bước. Đó là chuyện bịa đặt một trăm phần trăm vì tuy
có thể có những thằng đồng lõa, song không hề có một ai cựa quậy cả.
Đã hai
ngày hôm nay, tất cả những tù nhân bị nhốt trong mấy căn phòng giam dành riêng
cho từng loại rồi không ai được ra đi làm. Ở cửa, linh gác cứ hai giờ thay
phiên một lần. Giữa các nhà, lại có những lính gác khác. Cấm nói từ nhà này
sang nhà kia. Giữa hai hàng võng là lối đi; đứng tại lối đi đó, hơi chếch một
chút,có thể nhìn ra sân qua cửa sát. Có cả những cảnh binh được đưa từ đảo
Royale đến để tăng cường. Không một tù nhân nào được ở bên ngoài. Kể cả bọn
A-rập giữ chìa khóa cũng vậy. Tất cả đều bị nhốt. Thỉnh thoảng, có một người
trần truồng theo sau là lính, bị đưa đến khu xà lim giam tù bị phạt nhưng không
thấy có tiếng kêu la hay tiếng đánh đập. Bọn lính thường đứng nhìn vào trong
qua các cửa sổ bên hông nhà. Ở mỗi cửa ra vào, có hai lính gác, một ở bên trái,
một ở bên phải. Thời gian gác ngắn, chỉ hai giờ nhưng họ không bao giờ ngồi,
cũng không đeo súng lên vai: khẩu mút-cơ-tông tì vào cánh tay trái, luôn sẵn
sàng nhả đạn. Tù nhân quyết định đánh bài poker, từng nhóm năm người một. Không
đánh bài Marseillaise, cũng không chơi những thứ bài ăn lớn vì như thế quá ồn
ào.
Marquetti
đang kéo một bài sonate của Beethoven cũng bị ngăn lại. - "Không được chơi
thứ nhạc ấy nữa, lính chúng tôi đang có tang". Một không khí căng thẳng
khác thường đè nặng không phải chỉ trên trại giam mà trên toàn trại. Không có
cà phê, không có xúp. Buổi chiều chỉ có một mẩu bánh mì, trưa thịt hộp, chiều
thịt hộp, bốn người một hộp. Vì các thứ đồ lề của chúng tôi không bị phá hủy,
nên chúng tôi có cà phê và thực phẩm: bơ, dầu, bột mì, v.v... Các nhà khác
không còn gì. Khi chúng tôi đun nước pha cà phê và khói ở trong nhà xí bay ra,
một tên cảnh binh bắt tắt lửa đi. Người đun nước là một tù nhân thuộc giới
giang hồ trở về già, người Marseille, tên là Niston, thường pha cà phê để bán.
Lão đã trả lời lính gác một cách xấc xược: - "Anh có muốn tắt lửa thì vào
mà tắt lấy đi". Thế là tên lính bắn qua cửa sổ mấy phát súng. Cà phê và
lửa đành biến vội. Niston bị trúng đạn vào chân.
Mọi
người đều cảm thấy quá căng và tưởng lính bắt đầu bắn chúng tôi nên ai nấy liền
nằm sấp xuống đất. Chỉ huy phiên gác vào giờ đó lại vẫn là Filissari. Y chạy
như điên đến, theo sau có bốn lính. Người lính vừa bắn xong, gốc vùng Auvergne,
đang trình bày sự việc xảy ra. Filissari chửi anh ta bằng tiếng Corse, còn anh
nọ không nghe được gì, chỉ biết nói: - "Tôi không hiểu gì cả". Chúng
tôi lại lên võng ngồi. Chân Niston bị chảy máu.
- Đừng
nói là tôi bị thương. Chúng nó sẽ khử tôi luôn ở ngoài đó mất.
Filissari
đến gần cửa sắt. Marquetti nói gì với y bằng tiếng Corse.
- Cứ làm
cà phê, chuyện này sẽ không xảy ra nữa.
Nói xong
y bỏ đi. May cho Niston là viên đạn không nằm trong chân: gặp đoạn cơ bắp, nó
ra ở phía nửa chân bên kia. Bọn tôi buộc ga rô cho lão, máu ngưng chảy và sau
đó lão được băng bó với nước giấm.
-
Papillon, ra đây.
Lúc bấy
giờ đã tám giờ rồi: bên ngoài trời tối đen.. Tôi không biết mặt người lính đã
gọi tôi, có thể đấy là một người gốc Bretagne.
- Tại
sao tôi lại phải ra ngoài vào giờ này? Tôi chẳng có việc gì ở ngoài ấy cả.
- Thiếu
tá muốn gặp anh.
- Bảo
ông ta đến đây. Tôi không ra đâu.
- Anh từ
chối không đi hả?
- Phải,
tôi từ chối không đi đấy.
Các bạn
tôi vây thành một vòng quanh tôi. Người gác nói qua cánh cửa vẫn đóng kín.
Marquetti ra cửa nói:
- Chúng
tôi không để Papillon ra khỏi đây nếu không có thiếu tá.
- Thì
chính ông ta cho kiếm Papillon đấy mà.
- Vậy
thì bảo ông ấy cứ lại đây.
Một giờ
sau. hai tên lính trẻ đến trước cửa phòng có tên A-rập giúp việc ở nhà thiếu tá
đi theo. Tên này đã cứu ông và ngăn chặn được cuộc nổi loạn.
-
Papillon ơi, tôi là Mohammed đây. Tôi đến tìm anh, thiếu tá muốn gặp anh, ông
ấy không thể đến đây được.
Marquetti
nói với tôi:
- Papi
này, thằng cha ấy mang súng mút-cơ-tông đấy.
Tôi ra
khỏi vòng người do các bạn tôi quây thành và lại gần cửa. Quả thật Mohammed
đang cầm trong tay một khẩu súng trường. Một tên tù khổ sai lại được chính thức
mang súng trường? Chuyện khó tin lại có thật.
- Đi
thôi, tên A-rập nói. Tôi đến đây để cùng đi theo anh và để bảo vệ anh, nếu cần.
- Nhưng
tôi không tin là cần.
Tôi ra
ngoài, Mohammed đi cạnh tôi, có hai tên lính đi theo sau. Tôi đến sở chỉ huy.
Đi ngang qua vọng gác ở ngoài cổng trại. Filissari nói với tôi:
-
Papillon, tôi mong anh không có gì phải phàn nàn về tôi đấy.
- Riêng
tôi thì không có gì, trong phòng giam tù nguy hiểm cũng không ai có gì phàn nàn
về ông. Còn ở chỗ khác thì tôi không biết.
Chúng
tôi đi xuống nhà thiếu tá. Căn nhà và bến tàu được thắp đèn đất cốt tỏa ánh
sáng ra xung quanh nhưng chẳng được bao nhiêu. Trong khi đi đường. Mohammed đưa
cho tôi một bao thuốc lá Gauloises. Khi bước vào gian phòng được hai cây đèn
đất chiếu sáng, tôi thấy có thiếu tá chỉ huy đảo Royale, viên chỉ huy phó của
ông ta, thiếu tá chỉ huy Saint-Joseph, viên chỉ huy và viên chỉ huy phó của nhà
lao cấm cố trên đảo Saint-Joseph. Bên ngoài tôi thấy bốn tên A-rập, và có bốn
cảnh binh giám sát. Tôi nhận ra hai tên thuộc toán cỏ-vê hữu quan.
-
Papillon đến rồi ạ - Tên A-rập nói.
- Chào
anh, Papillon, - thiếu tá trại trưởng Saint- Joseph nói.
- Chào
ông.
- Anh
ngồi xuống ghế này.
Tôi ngồi
đối mặt với tất cả mọi người. Cửa phòng để mở, trông vào bếp, tôi thấy bà mẹ đỡ
đầu Lisette giơ tay thân mật chào tôi.
-
Papillon này, - thiếu tá trại trường Royale nói, - anh được thiếu tá Dutain coi
là người có thể tin cậy được. Anh đã chuộc tội bằng cách cố cứu sống đứa con đỡ
đầu của bà ấy. Tôi thì chỉ biết anh qua những báo cáo chính thức, coi anh là
một tù nhân nguy hiểm về mọi mặt. Tôi muốn bỏ qua các báo cáo ấy và tin vào ông
Dutain đồng sự của tôi. Chắc chắn rồi sẽ có một phái bộ đến đây để điều tra, và
các tù nhân các loại ai cũng phải khai ra những điều gì mình biết. Chắc chắn là
anh và một vài người nữa, có uy tín lớn đối với các tù nhân, và họ sẽ răm rắp
nghe lời anh. Chúng tôi muốn biết ý kiến anh về cuộc nổi loạn và cả những điều
mà anh đã ít nhiều thấy trước là những người trong khối anh, rồi sau đó là
những người khác, có thể khai ra.
- Tôi
không có gì để khai ra cả, cũng không có bổn phận gây ảnh hưởng gì đối với lời
khai của những người khác. Nếu có một phái bộ đến để điều tra thật sự, thì
trong tình hình hiện nay, các ông sẽ bị cách chức hết.
- Anh
nói gì lạ vậy, Papillon? Tôi và các đồng sự của tôi ở Saint-Joseph đã ngăn chặn
được cuộc nổi loạn kia mà!
- Có lẽ
riêng ông, ông sẽ thoát được, nhưng các ông chỉ huy ở Royale thì không thoát
được đâu.
- Anh
hãy nói cho rõ đi nào. - Hai viên chỉ huy ở đảo Royale đứng lên rồi lại ngồi
xuống.
- Nếu
các ông cứ chính thức nói là có cuộc nổi loạn, các ông đều sẽ lãnh đủ. Nếu các
ông chịu chấp nhận các điều kiện của tôi, tôi sẽ cứu tất cả các ông trừ
Filissari.
- Điều
kiện gì?.
- Thứ
nhất, sinh hoạt ở đây phải trở lại nếp bình thường ngay lập tức, bắt đầu từ
ngày mai. Chỉ khi nào chúng tôi nói chuyện được với nhau bình thường, chúng tôi
mới tác động được vào mọi người về những điều phải khai với ban thanh tra.
- Có
đúng không nào?
- Đúng -
Dutain nói.
- Nhưng
tại sao lại phải cứu chúng tôi?
- Bởi vì
từ đảo Royale, các ông không phải chỉ huy đảo Royale mà chỉ huy cả ba đảo nữa.
- Đúng.
- Và các
ông đã dược Girasolo báo cáo là có một cuộc nổi loạn đang được âm mưu chuẩn bị.
Cầm đầu là Hautin và Arnau chứ gì.
- Cả
Carbonieri nữa, - tên lính gác nói.
- Không,
điều đó là sai. Girasolo có thù riêng với Carbonieri từ khi còn ở Marseille. Nó
đã tố giác thêm anh ta một cách vô căn cứ. Nhưng các ông có tin là có nổi loạn
đâu. Tại sao vậy? Vì hắn nói là cuộc nổi loạn này nhằm mục đích giết đàn bà,
trẻ con, bọn A-rập và các cảnh binh. Điều đó có vẻ khó tin. Mặt khác, ở Royale
có tám trăm người mà chỉ có hai chiếc sà-lúp, còn ở Saint-Joseph có sáu trăm
người mà chỉ có một chiếc sà-lúp. Không một người chín chắn nào lại đi chấp
thuận một mưu đồ như thế.
- Làm
sao anh biết được tất cả những điều đó?
- Đấy là
việc của tôi. Nhưng nếu các ông cứ nói mãi về cuộc nổi loạn, dù cho các ông có
thủ tiêu tôi đi, và nhất là khi các ông làm thế thật, thì tất cả những điều ấy
sẽ lộ rõ và sẽ được chứng minh rành rọt. Do đó trách nhiệm sẽ thuộc về đảo
Royale, đã chuyển những người kia đi Saint-Joseph, lại không tách rời họ ra.
Quyết định hợp lý duy nhất - cho nên nếu cuộc điều tra thấy được thì các ông sẽ
không tránh khỏi những hình thức kỷ luật nặng nề đấy - là đưa người này đến đảo
Quỷ, người kia đến Saint-Joseph. Nhưng tôi vẫn thừa nhận là khó có thể tin được
câu chuyện đó do lũ điên rồ ấy bày ra được. Tôi nhấn mạnh là nếu các ông nói
đến nổi loạn, các ông sẽ sa lầy đấy. Vậy nếu các ông chấp nhận điều kiện của
tôi, thì thứ nhất là, như tôi đã nói, mọi việc phải trở lại bình thường ngay từ
ngày mai; thứ hai, tất cả những ai bị nhốt vào xà lim vì tình nghi có âm mưu
nổi loạn phải được thả ngay - cũng không được tra hỏi những người đó về phần
đồng lõa của họ trong cuộc nổi loạn, bởi vì không làm gì có nổi loạn; thứ ba là
ngay bây giờ, Filissari phải được đưa tức khắc về đảo Royale trước hết để đảm
bảo an toàn cho chính ông ta: bởi vì một khi không hề có nổi loạn thì làm thế
nào biện bạch được việc giết chết ba người kia. Sau nữa vì ông ta là một kẻ
giết người ti tiện, và khi sự việc xảy ra ông ta đã hành động trong một tâm
trạng sợ hãi đến cùng cực: ông ta toan giết chết tất cả mọi người, kể cả chúng
tôi ở trong phòng giam. Nếu các ông chấp nhận những điều kiện đó, tôi sẽ thu
xếp để tất cả mọi người đều phát biểu là Arnaud, Hautin và Marcean đã hành động
với mục đích làm sao gây ra thật nhiều tai họa trước khi chết. Những gì họ làm
không thể lường trước được. Họ không có tòng phạm, không hề tâm sự với ai. Theo
nhận xét của toàn thể phạm nhân, dó là những kẻ đã quyết định tự vẫn bằng cách
ấy, giết càng nhiều người càng tốt, trước khi họ bị giết: mục đích của họ là
làm sao khiêu khích cho lính bắn vào họ. Nếu các ông ai muốn, tôi xin vào trong
bếp để các ông bàn luận và trả lời cho tôi sau.
Tôi đi
vào bếp và đóng cửa lại. Bà Dutain bắt tay tôi và đưa cà phê với cả rượu cô
nhắc cho chúng tôi uống. Tên A-rập Mohammed nói:
- Anh
không nói gì cho tôi à?
- Đó là
việc của ông thiếu tá. Một khi ông ấy đã giao súng cho cậu, tức là ông ấy định
tha tội cho cậu đấy.
Bà mẹ đỡ
đầu của Lisette nhẹ nhàng nói với tôi:
- Các
ông ở đảo Royale lần này thì lãnh đủ nhé.
- Tất
nhiên rồi, thừa nhận có cuộc nổi loạn ở Saint- Joseph mà ai cũng bắt buộc phải
biết rõ, trừ ông chồng bà, đối với họ dễ quá.
-
Papillon này, tôi nghe được hết và tôi hiểu ngay là anh muốn làm điều tốt cho
chúng tôi.
- Đúng
vậy, thưa bà Dutain.
Cửa mở
ra và một lính vào gọi.
-
Papillon, qua đây.
- Anh
ngồi xuống đi, - thiếu tá chỉ huy đảo Royale nói. - Sau khi bàn luận với nhau,
chúng tôi nhất trí kết luận là anh nói đúng: không hề có nổi loạn. Ba tù nhân
đó đã quyết định tự vẫn và trước khi chết, họ cố giết được càng nhiều người
càng tốt. Vậy là mai mọi việc hàng ngày sẽ lại như cũ. Ngay đêm nay, ông
Filissari sẽ được chuyển về đảo Royale. Giải quyết trường hợp của ông ta là
việc của chúng tôi, nên chúng tôi cũng không yêu cầu anh cộng tác với chúng
tôi. Chúng tôi trong vấn đề này chỉ mong anh giữ lời hứa.
- Các
ông cứ tin ở tôi. Xin chào các ông.
-
Mohammed và hai ông giám thị hãy đưa Papillon về phòng. Và mời ông Filissari
vào đây. Ông ta sẽ đi với chúng tôi về đảo Royale ngay.
Trên
đường về, tôi nói với Mọhammed rằng tôi hy vọng là anh ta sẽ được thả. Anh ta
cảm ơn tôi.
- Bọn
chỉ huy muốn cậu làm gì thế?
Trong
cảnh im lặng hoàn toàn, tôi kể lại rõ ràng và tỉ mỉ từng câu một, những gì đã
xảy ra.
- Nếu có
ai không đồng ý hay có gì chỉ trích những gì tôi đã nhân danh tất cả mà thỏa
thuận với các cấp chỉ huy ở đây, xin cứ nói ra.
Tất cả
đều nhất trí tán thành.
- Cậu
cho rằng họ tin là không còn ai liên quan đến vụ này sao?
- Không
đâu, nhưng nếu họ không muốn bị cách chức thì họ bắt buộc phải tin như vậy. Cả
chúng ta nữa, nếu chúng ta không muốn gặp chuyện rắc rối, chúng ta cũng phải
tin như vậy.
Bảy giờ
sáng hôm nay, tất cả các tù nhân bị giam ở xà lim đều được thả về chỗ cũ. Có
trên một trăm hai mươi người. Chưa ai đi làm nhưng tất cả các phòng giam đều
được mở cửa và ngoài sân đầy những tù nhân được tự do hút thuốc, thoải mái
chuyện trò, ngồi ngoài nắng hay trong bóng râm. Niston đã được đưa đi bệnh
viện. Carbonieri cho tôi biết là có những tấm bìa ghi hàng chữ: "Tình nghi
tham gia vào vụ nổi loạn" được treo trước cửa ít ra từ tám mươi đến một
trăm xà-lim. Lúc này đây, được tập trung đông đủ, chúng tôi mới biết rõ sự
thật. Filissari chỉ giết có một người, những người khác bị hai tên lính trẻ
giết, hai tên này bị mấy phạm nhân giết, trong bước đường cùng: tưởng mình sắp
bị giết, các phạm nhân này đã cầm dao lao bừa vào lính, cố giết lấy một người
trước khi chết. Thế là một vụ nổi loạn thật sự may sao đã phá sản ngay từ đầu
để trở thành một cuộc tự vẫn kỳ quặc của ba tù nhân khổ sai: đấy là luận đề
hình thức được mọi người, cả ban Quản trị lẫn tù nhân, công nhận. Còn lại là truyền
thuyết hay chuyện thật, tôi không biết nói thế nào cho chính xác.
Hình như
việc mai táng ba người bị giết ở trại cùng với Hautin và Marceau được tiến hành
như sau: vì chỉ có một cỗ quan tài có rãnh trượt để thả các thi hài xuống biển,
nên bọn lính đặt tất cả các xác chết xuống lòng thuyền rồi cả năm cái xác được
ném bằng tay xuống cho cá mập. Khi tiến hành việc liệng xác, họ tính rằng,
trong lúc những thi thể ném xuống trước đang bị cá mập cắn xé thì những thi thể
ném sau đã được buộc đá vào chân có đủ thời gian chìm sâu xuống nước. Tôi được
nghe kể lại rằng không có cái xác nào chìm xuống nước cả, và cả năm cái xác đó,
được liệm vải trắng vào lúc chập choạng tối, đã nhảy múa như những con rối thật
sự, được miệng và đuôi lũ cá mập đưa đẩy trong một bữa tiệc thịnh soạn xứng với
Nabuchodonozor. Cảnh tượng hãi hùng đó đã làm cho đám tù chèo thuyền và đám
lính gác hốt hoảng tháo lui.
Một ban
thanh tra đã tới, ở lại gần năm ngày trên đảo Saint-Joseph, và hai ngày trên
đảo Royale. Tôi không bị tra hỏi riêng mà cũng chỉ như mọi người. Qua thiếu tá
Dutain, tôi biết là mọi việc đều êm thấm. Filissari được nghỉ phép chờ ngày về
hưu, như vậy là lão ta sẽ không trở lại đảo này nữa. Mohammed được ân xá hoàn
toàn, và thiếu tá Dutain được gắn thêm một lon. Vì thế nào cũng có những kẻ
không được vừa lòng nên hôm qua, một tù nhân người Bordeaux đã hỏi tôi:
- Giúp
đỡ cho bọn coi tù như vậy, phỏng chúng ta có được xơ múi gì?
Tôi nhìn
thẳng vào y:
- Chẳng
được gì mấy: chỉ có độ năm, sáu chục tù không bị giam vào ngục cấm cố về tội
tòng phạm, cậu thấy thế là không có gì hả?
May mắn
là cơn giông tố đó đã dịu dần. Một sự thỏa thuận ngầm giữa cai tù và tù đã hoàn
toàn vô hiệu hóa ban thanh tra trứ danh nọ, mà có lẽ chính ban thanh tra cũng
chỉ mong sao mọi việc được ổn thỏa cho rồi.
Về phần
tôi, tôi chẳng được gì cũng chẳng mất gì nếu không nói đến sự biết ơn của các
bạn tôi đã không phải chịu đựng một kỷ luật khắt khe hơn. Trái lại, lao dịch
kéo đá đã được bãi bỏ. Đó là một lao dịch kinh khủng. Bây giờ trâu kéo đá, tù
nhân chỉ xếp đá vào chỗ đã định. Carbonieri được trả về lò bánh mì. Tôi tìm
cách trở về đảo Royale. Ở đây thì không có công xưởng nên không thể đóng bè
được.
Việc
Pétain lên cầm quyền ở Pháp làm quan hệ giữa tù nhân và giám thị nặng nề thêm.
Tất cả các nhân viên thuộc chính quyền đều lớn tiếng tuyên bố theo phải Pétain,
và có một lính gác người Normandie đã nói với tôi:
- Cậu có
muốn nghe tôi nói với cậu điều này không, Papillon? Tôi chưa bao giờ theo phải
Cộng hòa cả. Ở đảo, không ai có máy thu thanh và không ai biết được tin tức gì.
Ngoài ra, lại có tin đồn là chúng tôi tiếp tế cho tàu ngầm Đức ở Martinique và
Guadeloupẹ Thật không sao hiểu nổi.
Luôn
luôn nổ ra những cuộc tranh luận.
- Mẹ
kiếp! Cậu có muốn tớ nói cho cậu biết không, Papi. Bây giờ mới là lúc nổi loạn,
để trao các đảo cho nước Pháp của De Gaulle.
- Cậu
cho là ông Charlot cao kều ấy cần nơi giam tù khổ sai à? Để làm gì?
- Thì để
có được hai ba ngàn quân chứ còn sao?
- Những
thằng hủi, những thằng ngớ ngẩn, lao phổi, kiết lỵ hả? Cậu không đùa đấy chứ?
Ông ta không ngốc đến nỗi phải ôm lấy lũ tù khổ sai đâu.
- Thế
hai ngàn tù còn khỏe mạnh thì sao?
- Đấy
lại là chuyện khác. Đúng là người, nhưng không phải là những người có khả năng
cầm súng. Cậu tưởng chiến tranh giống như đi ăn cướp đấy hả? Ăn cướp chỉ mười
lăm phút là xong, chiến tranh kéo dài hàng năm. Muốn trở thành một chiến sĩ
tốt, phải có lòng tin của người yêu nước. Cậu có tin hay không mặc cậu, tớ
không muốn ở đây có lấy một thằng nào dám hy sinh thân mình cho nước Pháp.
- Hy
sinh làm quái gì, sau khi nước Pháp đã đối xử với chúng ta như thế này?
- Cậu đã
thấy tớ nói có lý chưa? May mà ông Charlot cao kều đã có những người khác các
cậu để tiến hành chiến tranh. Nhưng cũng phải nhớ là bọn Đức khốn nạn đang ở
trên đất nước chúng ta! Lại có những thằng Pháp đi với tụi chúng nữa. Tất cả
quan và lính ở đây, không trừ ai, đều nói là chúng ủng hộ Pétain. Bá tước Bérac
nói: "Giá có thể liều thân đánh nhau với Đức thì đó cũng là một cách để
chúng ta chuộc tội".
Thế là
sinh ra cái hiện tượng sau đây: trước kia chưa có tù nhân nào nói đến việc
chuộc tội. Thế mà bây giờ tất cả mọi người, từ dân giang hồ đến dân trưởng giả,
tất cả các phạm nhân khổ sai khốn khổ ấy đều thấy lóe lên một tia hy vọng.
- Thế để
được gia nhập vào hàng ngũ của De Gaulle, chúng mình sẽ nổi loạn chứ hả
Papillon?
- Đáng
tiếc là tớ chẳng cần phải chuộc tội đối với bất cứ ai cả. Tớ ngồi xổm lên cái
công lý của nước Pháp với cái mục "phục hồi nhân phẩm" của nó. Tớ sẽ
tự tay mình chứng minh là tớ đã "phục hồi nhân phẩm" rồi. Nhiệm vụ
của tớ là vượt ngục, để khi được tự do, sẽ trở thành một người bình thường,
sống trong xã hội mà không gây nguy hại gì cho xã hội đó. Tớ không tin rằng một
con người có thể chứng minh một cái gì khác bằng một cách gì khác được. Tớ sẵn
sàng tham gia bất cứ hành động nào để đạt mục đích vượt ngục. Trao quần đảo này
cho ông Charlot cao kều không phải là việc của tớ, và tớ chắc rằng ông ta cũng
chẳng thiết. Vả lại nếu ta làm như vậy, cậu có biết những thằng cha ngồi trên
chóp bu sẽ nói gì không? Rằng chúng mình chiếm đảo để được tự do, chứ không
phải để làm một nghĩa cử vì nước Pháp tự do. Mà cậu nào có biết ai đúng, ai
sai. De Gaulle hay Pétain? Tớ thì tớ chẳng biết cái cóc khô gì cả. Đất nước bị
chiếm đóng, tớ cũng đau khổ như mọi người dân thường, tớ nghĩ đến những người
thân của tớ, đến bố mẹ, đến các chị em tớ, đến các cháu tớ.
- Chúng
ta lo lắng như vậy cho cái xã hội chẳng thương xót gì chúng ta ấy làm quái gì
nhỉ.
- Điều
ấy cũng là bình thường, vì bọn cảnh sát và bộ máy luật pháp của nước Pháp, bọn
hiến binh, bọn cảnh sát, chúng không phải là nước Pháp. Đấy là cả một tầng lớp
riêng biệt, gồm những kẻ tâm địa hoàn toàn méo mó. Bây giờ có biết bao nhiêu kẻ
như thế sẵn sàng trở thành đầy tớ cho bọn Đức? Tớ cá với cậu là cảnh sát Pháp
đang bắt bớ đồng bào của chúng để giao cho bọn cầm quyền Đức. Thôi nhé. Tớ đã
nói và tớ nhắc lại rằng tớ không tham gia vào một cuộc nổi loạn, với bất cứ lý
do gì. Trừ phi là để vượt ngục, nhưng cũng còn phải xem vượt ngục như thế nào
đã.
Những
cuộc tranh cãi rất gay gắt đã nổ ra giữa các phe phái trong trại. Kẻ ủng hộ De
Gaulle, kẻ ủng hộ Pétain. Thật ra chẳng ai hiểu gì cả, vì như tôi đã nói, cả
giám thị lẫn tù nhân, không ai có cái máy thu thanh nào. Tin tức có được đều do
các tàu đi ngang qua đem đến cho chúng tôi một ít bột mì, rau khô và gạo. Đối
với chúng tôi, chiến tranh đứng từ xa như vậy mà nhìn, thật khó hiểu. Nghe đâu
như có một người đến Saint-Laurent- du-Maroni để tuyển mộ lính cho lực lượng tự
do. Tù nhân chẳng biết gì hết, chỉ biết một điều là bọn Đức đóng khắp nước
Pháp. Có một sự kiện vui vui: một linh mục đến đảo Royale có thuyết giảng sau
khi làm lễ. Ông ta nói: - "Nếu các đảo bị tấn công, các anh sẽ được phát
súng để giúp các giám thị báo vệ đất đai của nước Pháp" Chuyện thật mười
mươi đấy. Ông cha ấy ngộ nghĩnh thật, và không biết ông ta hiểu về chúng tôi ra
thế nào mà lại đi thuyết giảng như vậy được. Chắc ông ta đánh giá trí khôn của
chúng tôi chẳng cao chút nào. Kêu gọi tù nhân đi bảo vệ nhà giam của họ. Thật
là chuyện kỳ quặc khó nghe nổi.
Đối với
chúng tôi, chiến tranh có nghĩa là: người gác tăng gấp đôi từ lính quèn đến chỉ
huy trưởng và chánh giám thị; rất nhiều thanh tra, một số thanh tra nói giọng
Đức hay giọng Alsace rất rõ; rất ít bánh mì: chỉ còn bốn trăm gam; rất ít thịt.
Chỉ có một thứ được tăng là giá biểu phải trả cho một cuộc vượt ngục thất bại:
tử hình. Vì thêm vào bản án về tội vượt ngục là: "mưu toan chạy sang hàng
ngũ những kẻ thù của nước Pháp". Tôi ở đảo Royale đã được bốn tháng nay.
Tôi đã có một người bạn lớn là bác sĩ Germain Guibert. Vợ bác sĩ, một người đàn
bà khác thường, đã nhờ tôi trồng cho bà một vườn rau để giúp bà sống được trong
cái chế độ ăn uống hạn chế này. Tôi đã trồng trong vườn của bà nào rau xà lách,
nào cải củ, đậu đũa, nào cà chua, và cà tím. Bà rất khoái và coi tôi như một
người bạn tốt.
Ông bác
sĩ này không bao giờ bắt tay một viên giám thị, bất kể ở cấp bực nào, nhưng lại
thường bắt tay tôi và một vài tù nhân khác mà ông đã biết rõ và đem lòng quý
trọng. Sau này, khi được tự do, tôi đã liên hệ lại với bác sĩ Germain Guibert
qua bác sĩ Rosenberg. Ông đã gởi cho tôi một tấm hình ông chụp cùng với vợ trên
bến Canebière ở Marseille. Ông đã chết ở Đông Dương vì cố cứu một thương binh
rơi lại phía sau. Ông là một con người phi thường và vợ ông cũng tương xứng với
ông. Năm 1976, khi về Pháp, tôi định đến thăm bà. Sau tôi lại thôi vì bà đã
không viết thư cho tôi sau khi bà cho tôi một giấy chứng nhận mà tôi cần xin
bà. Từ đó,tôi không được tin tức gì của bà nữa. Tôi không biết lý do của sự im
lặng này, nhưng trong đáy lòng tôi vẫn giữ mãi một mềm tri ân sâu sắc đối với
cả hai ông bà về cách họ đối xử với tôi trong gia đình họ ở Royale. Vài tháng
sau, tôi đã có thể trở về đảo Royale rồi.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 31: Đảo Saint Joseph, cái chết của
Carbonieri
Ngày hôm
qua, Matthieu Carbonieri bạn tôi đã bị một nhát dao trúng tim. Vụ giết người đã
kéo theo một loạt những vụ giết người khác. Anh ta đang tắm trần truồng ở xưởng
giặt, và khi bị đao đâm, mặt còn đầy xà phòng. Khi đang tắm gương sen, chúng
tôi có thói quen mở sẵn dao và dấu dưới quần áo, để kịp thời lấy được ngay nếu
có người nào vẫn được coi là kẻ thù của mình bất thần ập đến. Vì lần này không
làm như vậy nên anh đã thiệt mạng, kẻ giết bạn tôi là một tên Armeni, suốt đời
làm mướn.
Được
thiếu tá cho phép, và có một người phụ giúp tôi đưa xác anh xuống tận bến. Anh
ta nặng ký nên khi xuống đốc, tôi phải nghỉ ba lần. Tôi buộc vào chân anh ta
một tảng đá to và chẳng bằng một sợi dây thép thay cho sợi dây thừng thường lệ.
Làm như vậy, cá mập không thể cắn đứt dây được và xác anh sẽ chìm xuống đáy mà
không bị chúng ăn. Chuông nhà thờ vang lên khi chúng tôi đến bến tàu. Đã sáu
giờ chiều. Mặt trời lặn ở cuối chân trời. Chúng tôi lên ca nộ Trong cái hòm
thường ngày, được dùng cho tất cả mọi người, nắp đã được đậy lại Matthieu nằm
yên trong giấc ngủ vĩnh viễn. Với anh ta thế là hết. "Chèo đi nào", -
viên cảnh binh cầm lái nói.
Chưa đầy
mười phút, chúng tôi đã tới dòng lạch chảy giữa hai đảo Royale và Saint-Joseph.
Tự nhiên, tôi thấy cổ nghẹn lại. Cả chục cái vây cá mập nhô lên khỏi mặt nước,
quay vòng rất nhanh trong một khoảng chật hẹp chưa tới bốn trăm mét. Bọn cá ăn
thịt tù đây. Chúng đến thật đúng giờ hẹn và điểm hẹn chính xác. Cầu trời cho
chúng không đớp kịp bạn tôi. Các mái chèo đã được dựng đứng, để chào vĩnh biệt.
Cái quan tài đã được nâng lên. Thi hài của Matthieu, liệm trong mấy cái bao bột
mì, bị sức nặng của tảng đá lớn lôi theo, đã trượt nhanh xuống biển. Kinh khủng
quá! Cái thi hài vừa rơi xuống nước, tôi tưởng nó chìm nghỉm thì nó lai bị dội
lên mặt nước do bảy, mười hay hai mươi con cá mập - ai biết được, nâng bổng
lên. Trước khi chiếc thuyền quay mũi, những bao bột mì liệm xác đã bị rách tan
nát và một điều không sao hiểu được đã xảy ra. Matthieu đứng thẳng trên mặt
nước chừng hai, ba giây. Cánh tay phải đã mất. Nứa thân người anh tiến thẳng về
phía thuyền rồi bị một cái xoáy rất mạnh hút xuống, anh đã biến mất. Lũ cá mập
lao vun vút ở phía dưới va phải đáy thuyền, làm một người mất thăng bằng suýt
ngã xuống nước.
Tôi bước
chậm chạp đi từ bến về trại. Không ai đi theo tôi. Tôi mang cái cáng trên vai
và tới quãng bằng nơi con Brutus tấn công con Danton dạo nọ. Tôi dừng lại và
ngồi xuống. Trời đã tối, nhưng bấy giờ mới có bảy giờ. Về phía Tây, bầu trời
còn le lói vài tia sáng nhạt của vầng dương đã khuất dưới chân trời. Còn lại là
một màu đen tối, chỉ thi thoảng mới có ánh đèn pha của đảo quét thành một đường
sáng. Lòng tôi nặng chĩu. Rõ khỉ! Mày đã muốn xem đám ma, lại là đám ma bạn mày
nữa! Thì mày đã được xem, lại được xem kỹ nữa còn gì! Có cả tiếng chuông tiếng
chiếc đầy đủ lệ bộ: mọi thứ! Mày đã được hài lòng rồi chứ? Cái tật tò mò bệnh
hoạn của mày được thỏa mãn rồi còn gì? Bây giờ còn cái việc thanh toán thằng
khốn đã giết bạn mày vào lúc nào? Đêm nay. Tại sao lại đêm nay? Chưa được đâu.
Hãy còn sớm quá, thằng cha chắc hẳn đang thủ thế đề phòng hết mức. Nhóm của hắn
có đến mười thằng. Tôi không thể để cho mình mắc bẫy, tự dẫn xác đến cho chúng
hạ thủ. Nhưng cũng không thể để cho chúng tranh thủ đánh phủ đầu trước được.
Thử tính xem tôi có thể có bao nhiêu người trợ thủ nào? Có bốn người, kể cả tôi
là năm. Được! Phải thanh toán nó và nếu có thể, tôi sẽ xin chuyển sang đảo Quỷ.
Tại đấy, không cần bè, không cần chuẩn bị gì cả; chỉ hai bao dừa khô, là tôi
lao xuống biển được rồi. Khoảng cách đến bờ biển tương đối gần, bốn mươi ki-lô-mét
theo đường chim baỵ Tính thêm sóng gió và nước thủy triều, cho là một trăm hai
mươi kĩlô-mét đi. Còn lại là vấn đề chịu đựng được hay không. Tôi còn khỏe, và
hai ngày cưỡi lên túi dừa, lênh đênh trên biển chắc tôi sẽ chịu được.
Tôi nhấc
cáng và lên đường về trai. Đến cửa, tôi bị lục soát, một việc khác thường. Chưa
bao giờ tôi bị như vậy. Tên lính gác đoạt con dao của tôi.
- Ông
muốn tôi bị giết hả? Tại sao ông lại lấy dao của tôi? Ông có biết làm như vậy
là ông giết tôi không? Tôi mà chết là tội ông đấy.
Không ai
trả lời tôi, từ lính gác đến bọn A rập giữ chìa khóa. Họ mở cửa và tôi bước vào
phòng: "Sao tối mò thế này? Mọi ngày có ba cái đèn, sao hôm nay lại chỉ có
một?
Grandet
kéo tay áo tôi.
- Papi
lại đây.
Căn
phòng không ồn ào lắm. Hình như có việc gì nghiêm trọng sắp xảy ra hoặc đã xảy
ra.
- Tôi bị
tước mất dao rồi. Bọn nó khám tôi lấy luôn.
- Đêm
nay cậu không cần đến nó.
- Sao
vậy?
- Thằng
Armeni và bạn nó đã ở trong nhà tiêu.
- Chúng
làm gì ở trong ấy?
- Chúng
chết rồi.
- Ai
giết chúng?
- Tớ
- Mau
nhỉ. Còn những đứa khác thì sao?
- Trong
nhóm chúng còn bốn đứa. Paulo đã hứa danh dự với tớ là chúng sẽ không làm gì,
chúng chờ gặp cậu để hỏi xem cậu có bằng lòng cho chuyện này chấm dứt ở đây
không.
- Đưa
cho tớ con dao.
- Đây
cầm lấy dao của tớ. Ra nói chuyện với bọn đó đi, tớ ở lại đây.
Tôi tiến
lại phía nhóm của họ. Mắt tôi lúc này đã quen dần với bóng tối lờ mờ. Rồi tôi
cũng nhận ra nhóm họ. Bọn họ đang đứng túm tụm vào nhau, trước võng.
- Paulo,
anh muốn nói chuyện với tôi phải không?
- Phải.
- Nói
một mình hay có cả các bạn anh? Anh muốn gì?
Tôi thận
trọng để một khoảng cách một mét rưỡi giữa chúng tôi. Dao đã được mở sẵn, giấu
trong cánh tay áo trái, chuôi dao nằm gọn trong lòng bàn tay tôi.
- Tôi
muốn nói, tôi cho rằng bạn của anh thế là đã được trả thù xứng đáng rồi. Anh
mất người bạn thân nhất, còn chúng tôi mất hai. Theo ý tôi, thế là đủ. Anh nghĩ
sao?
- Tôi sẽ
xét đề nghị của anh, Paul ạ. Điều ta có thể làm được, nếu các anh đồng ý, là
hai nhóm thỏa thuận sẽ không làm gì trong vòng tám ngày. Chịu không?
- Được.
Và tôi
rút về.
- Bọn
chúng nó nói những gì với cậu?
- Chúng
nó cho là, với cái chết của thằng Armeni và thằng Vô Lô, Matthieu đã được trả
thù đủ rồi.
- Không
được - Galgani nói.
Garandet
không nói gì. Jean Castelli và Louis Gravon đồng ý là phải thỏa thuận đình
chiến.
- Còn ý
cậu thì sao Papi?
- Trước
hết, ai giết Matthieu. Thằng Armeni phải không? Tôi đã đưa ra một điều thỏa
thuận. Tôi đã hứa và bọn kia cũng vậy, là trong vòng tám ngày, hai bên sẽ không
có ai hành động gì để hại nhau.
- Cậu
không muốn trả thù cho Matthieu hả? Galgani hỏi.
- Bây
giờ, Matthieu đã được trả thù rồi, vì cậu ấy mà hai thằng đã chết. Còn giết
những thằng khác làm gì?
- Chúng
có biết như vậy không đã chứ? Phải tìm hiểu điều gì?
- Xin
lỗi và chào tất cả. Tớ cố ngủ một chút đây.
ít ra
tôi cũng cần được yên tĩnh một mình. Tôi nằm dài trên võng. Tôi cảm thấy có một
bàn tay lướt trên người tôi, nhẹ nhàng rút con dao của tôi. Trong đêm tối, một
giọng nói thì thầm:
- Papi
cố ngủ đi, nếu ngủ được cứ yên tâm mà ngủ. Bọn tớ dù thế nào cũng thay nhau
canh gác.
Cái chết
tàn nhẫn, khốn nạn của bạn tôi là không có lý do chính đáng. Tên Armeni giết
anh vì trong đêm đánh bạc, Matthieu đã bắt nó phải trả ngay một trăm sáu mươi
francs. Thằng chó đẻ mất thể diện vì bị buộc phải bỏ tiền ra trước mặt bốn chục
con bạc khác. Bị Matthieu và Gandet kẹp hai bên, nó chỉ có cách tuân lệnh. Và
nó đã giết một cách hèn nhát một tay giang hồ kiểu mẫu, trong sạch và thẳng
thắn với giới của mình. Vố này đã làm tôi xúc động mạnh, có một điều làm tôi
thỏa mãn là bọn giết người chỉ sống được vài giờ sau khi chúng phạm tội ác:
cũng chẳng được bao năm. Grandet, khác nào một con hổ, với tốc độ của một nhà
vô địch, đã thọc con dao vào cổ từng đứa một, trước khi chúng có thì giờ thủ
thế. Tôi hình dung chỗ chúng gục xuống chắc phải ngập ngụa máu. Tôi tự hỏi một
cách ngớ ngẩn: "Không biết ai đã kéo xác chúng vào nhà xí?". Nhưng
tôi không nói ra.
Mắt nhắm
nghiền, tôi hình dung thấy những tia sáng cuối cùng của mặt trời đỏ và tím một
màu thê thảm đã chiếu sáng cái cảnh rùng rợn này: lũ cá mập đang tranh giành
thi thể bạn tôi... Và cái thân trên thẳng đứng, đã cụt một cánh tay, đang tiến
về phía ca-nô... Rõ ràng là tiếng chuông đã gọi lũ cá mập đến, và lũ khốn kiếp
ấy biết rằng khi có tiếng chuông là chúng sắp được ăn. Tôi còn thấy hàng chục
cái vây cá lóe lên một ánh bạc ảm đạm, lượn tới lượn lui như những chiếc tàu
ngầm. Chắc phải tới hơn trăm con.. Với Matthieu, với bạn tôi thế là hết! Con
đường thối nát đã đưa anh đến tận cùng. Chết ở tuổi bốn mươi vì một nhát dao do
một chuyện tầm phào. Tội nghiệp cho bạn tôi. Tôi chịu hết nổi rồi. Không, không
được. Không được đâu. Tôi muốn cho lũ cá mập ăn thịt tôi trong khi tôi còn
sống, liều mình đi tìm tự do, không bị bọc trong mấy cái túi bột mì, không bị
buộc vào đá, trói vào dây. Và không có một ai chứng kiến lúc đó, dù là tù nhân
hay là lính gác. Không có tiếng chuông nhà thờ. Nếu tôi bị ăn thịt, thì...
chúng sẽ chén tôi lúc tôi còn sống, trong khi tôi đang vật lộn với thiên nhiên
để tới được đất liền.
Thôi đi.
Thôi hẳn đi. Không còn những cuộc vượt ngục chuẩn bị quá kỹ càng nữa. Từ đảo
Quỷ, chỉ cần hai bao tải đựng đầy dừa, rồi phó mặc cho số mạng, nhờ ơn Trời?
Nói cho cùng, đây chỉ là vấn đề chịu đựng của thể xác. Bốn mươi tám giờ hay sáu
mươi giờ? Một thời gian ngâm mình trong nước biển lâu như vậy, cộng với sức lực
của cơ đùi phải bỏ ra để kẹp chặt lấy các bao tải dừa, đến một lúc nào đó, liệu
có làm chân tôi tê cứng lại không? Nếu tôi may mắn đến được đảo Quỷ, tôi sẽ
thử. Trước hết phải rời đảo Royale, và đến đảo Quỷ đã. Sau rồi sẽ liệu.
- Cậu
ngủ chưa, Papi?
- Chưa.
- Cậu
uống cà-phê không?
- Nếu
có.
Và tôi
ngồi trên võng, cầm ca cà-phê nóng Grandet đưa cho tôi cùng một điếu Gauloise
đã châm sẵn.
- Mấy
giờ rồi?
- Một
giờ. Tớ bắt đầu gác từ nửa đêm, tớ thấy cậu cứ trằn trọc hoài, tớ biết là cậu
không ngủ được.
- Đúng
đấy. Matthieu chết làm tôi ngao ngán quá chừng, nhưng việc mai táng cậu ấy chỗ
lũ cá mập còn làm tôi đau lòng hơn. Thật là khủng khiếp.
- Tớ
không muốn nghe chuyện ấy đâu, Papi ạ. Tưởng tượng cũng thấy được. Lẽ ra cậu
không nên đi thì hơn.
- Trước
kia tôi cứ nghĩ câu chuyện về tiếng chuông là bịa đặt. Rồi với dây thép chằng
vào đá, tôi nghĩ là không bao giờ cá mập có thể đớp được cậu ấy khi đang chìm
xuống đáy. Tội nghiệp cho Matthieu, tôi sẽ còn nhìn thấy cái cảnh rùng rợn đó
mãi cho đến chết. Còn cậu, cậu làm thế nào để khử được thằng Armeni với thằng
Vô Lô lẹ vậy?
- Tớ ở
phía cuối đảo, đang ghép một cánh cửa cho cửa hàng thịt thì nghe tin chúng nó
giết bạn của ta. Lúc ấy là giữa trưa. Đáng lẽ về trại, tớ lại đến xưởng, lấy cớ
cần phải sửa ổ khóa. Tớ đã lồng vào một cái ống dài một thước một con dao găm
hai lưỡi. Chuôi dao và ống đều rỗng cả. Năm giờ khi về trại, tớ mang cái ống ấy
về. Tên lính gác hỏi để làm gì, tớ nói là cái xà treo võng của tớ bị gãy và đêm
nay tớ sẽ dùng cái ống này để thay tạm. Khi tớ về đến phòng, trời còn sáng,
nhưng tớ đã để cái ống đó ở chỗ giặt quần áo. Trước khi điểm danh, tớ mới ra
lấy về. Trời bắt đầu tối. Các bạn đứng quanh che cho tớ lồng con dao vào cái
ống. Thằng Armeni và thằng Vô Lô đứng tại chỗ trước võng của chúng. Paulo hơi
lùi về sau một chút. Cậu biết là Jean Castelli và Louis Gravon can đảm đấy,
nhưng già rồi, cũng không đủ nhanh nhẹn nếu hai bên dàn trận ra đánh nhau. Tớ
muốn hành động trước khi cậu trở về để tránh cho cậu khỏi bị dính dáng vào việc
này. Với thành tích cũ của cậu, nếu cánh ta bị gì, thì cậu sẽ lãnh án tối đa.
Jean đứng ở cuối phòng và đã tắt bớt ngọn đèn ở đấy, Gravon ở đầu phòng đằng
kia cũng làm như vậy. Cả gian phòng gần như tối mò, chỉ có một cây đèn dầu ở
chính giữa. Tớ có một cây đèn pin của Dega cho Jean đi trước, tớ theo sau. Đến
ngang chỗ bọn chúng, Jean cầm đèn chiếu thẳng vào mặt chúng. Thằng Armeni bị
lóa, đưa tay lên che mắt. Tớ có đủ thì giờ lao cả ngọn dao vào cổ nó. Đến lượt
thằng Vô Lô, cũng bị lóa, nó đã rút dao và chĩa ra phía trước nhưng chẳng biết
đâm vào đâu. Tớ cũng lao mạnh đến nỗi con dao xuyên qua cổ sang tận bên kia.
Paulo nhào xuống sàn và lăn vào dưới võng. Jean đã tắt đèn, tớ thôi không đuổi
theo Paulo ở dưới võng, cho nên nó mới thoát chết.
- Ai kéo
chúng vào nhà cầu?
- Tớ
không biết. Tớ cho là chính bọn cùng nhóm với chúng đã kéo chúng vào đấy để moi
hai cái plan dấu trong bụng chúng.
- Chắc
phải có đến một ao máu nhỉ?
- Chứ
còn gì nữa. Chúng nó đúng là bị chọc tiết nên máu phải ra đến hết. Tớ nghĩ ra
mẹo dùng đèn pin trong khi chuẩn bị cái lao. Ở xưởng tớ tình cờ trông thấy một
tên lính gác thay pin cho cái đèn của nó. Tớ nghĩ ngay đến cái mẹo ấy, liền nhờ
Dega kiếm cho một cây đèn pin. Bây giờ thì chúng tha hồ lục soát. Cây đèn pin
và cá con dao găm nữa, đã được một thằng A-rập giữ chìa khóa lấy trong xưởng
mang đến cho Dega. Về phần ấy, không lo bị lộ. Tớ cũng chẳng có gì tự trách
mình. Bọn chúng giết Martthieu trong khi mắt cậu ấy đầy bọt xà phòng, còn tớ đã
giết chúng trong khi mắt chúng đầy ánh đèn pin? Thế là xong nợ. Cậu nghĩ sao,
Papi?
- Cậu
làm đúng đấy. Tôi không biết phải cảm ơn cậu như thế nào vì cậu đã hành động
mau như vậy để trả thù cho bạn, hơn thế, cậu còn nghĩ cách giữ cho tôi được
đứng ngoài cuộc trong vụ này.
- Đừng
bận tâm đến chuyện ấy. Tớ chỉ làm bổn phận của tớ. Cậu đã chịu đựng nhiều và
cậu khát khao được tự do quá đỗi nên tớ phải làm việc ấy.
- Cảm ơn
cậu, Grandet ạ. Phải, bây giờ tớ lại càng muốn đi cho thoát hơn bao giờ hết.
Vậy cậu hãy giúp đỡ làm sao cho việc này ngưng lại đây nhé. Thắng thắn mà nói,
tớ rất ngạc nhiên nếu thằng Armêni, trước khi hành động, đã báo cho nhóm nó
biết. Paulo không bao giờ chấp nhận một vụ giết người hèn nhát đến thế đâu. Nó
biết rõ những hậu quả sẽ phải chịu.
- Tớ
cũng nghĩ vậy. Nhưng Galgani thì nói là tất cả bọn chúng có tội hết.
- Chờ
đến sáu giờ xem việc gì sẽ xảy ra. Tôi sẽ không ra ngoài để đổ thùng đâu. Tôi
sẽ cáo bệnh để ở lại xem tình hình diễn biến ra sao.
Năm giờ
sáng. Bác Trưởng khối đến chỗ chúng tôi: "Các cậu này, ta có nên gọi vọng
gác không nhỉ? Tao vừa thấy hai xác chết trong nhà tiêu. Người tù già bảy mươi
tuổi này muốn cả chúng tôi cũng tin rằng từ sáu giờ rưỡi tối qua, giờ hai thằng
ấy bị giết, bác ta không biết gì cả. Gian phòng chắc bê bết máu, vì vũng máu ở
đúng giữa lối đi, mọi người đi qua đi lại bắt buộc phải dẫm vào đấy. Grandet
cũng trả lời với cái vẻ thơ dại như người tù già:
- Sao,
có hai người chết ở trong nhà tiêu à? Từ lúc nào vậy?
- Mày đi
mà hỏi xem - Ông già nói - Tao ngủ từ sáu giờ. Bảy giờ, tao đi tiểu, tao bị
trượt chân ngã suýt vỡ mặt ra. Tao bật máy lửa lên, mới biết là máu và trong
nhà tiêu, tao trông thấy hai thằng đó.
- Thôi
bác cứ gọi đi, rồi xem sao.
- Ối
giám thị ơi! giám thị?
- Làm gì
mà to mồm vậy, lão già kia. Cháy nhà hẳn?
- Không
đâu, sếp ơi, có hai người chết ở nhà xí.
- Bọn
bay muốn tao làm gì nào? Làm cho chúng sống lại chắc? Bây giờ là năm giờ mười
lăm chờ đến sáu giờ hẵng haỵ Không được cho ai vào cầu tiêu đấy.
- Ông
nói thế không được đâu. Vào giờ này, sắp dậy cả rồi, ai cũng phải đi làm, đi
đái chứ.
- Được
rồi, chờ đấy đã. Để tao đi gọi sếp gác.
Ba lính
gác, một cai giám thị và ba người nữa đã tới. Tưởng họ vào phòng giam nhưng
không, họ đứng bên ngoài cánh cứa sắt.
- Có hai
người chết ở nhà xí hả?
- Thưa
sếp, vâng.
- Từ mấy
giờ?
- Tôi
không biết. Tôi vừa đi đái thì trông thấy họ.
- Những
ai vậy?
- Tôi
không biết.
- Vậy
thì, lão gàn này, tôi nói cho lão biết. Một thằng chết là thằng Armeni, vào xem
đi.
- Đúng
rồi, đấy là thằng Armeni và thằng Vô Lô.
- Chờ
đến lúc điểm danh thôi. Rồi cả bọn bỏ đi.
Sáu giờ
sáng, chuông reo lần thứ nhất. Cửa được mở và có hai người phát cà-phê đi từ
chỗ người này đến chỗ người kia, theo sau là những người phát bánh mì. Sáu giờ
rưỡi, là hồi chuông thứ hai. Ngày đã rạng. Và lối đi đầy những vết chân đã dẫm
vào máu đêm qua. Hai viên trại trường đến. Trời đã sáng rõ. Tám giám thị và một
bác sĩ cũng đến theo.
- Tất cả
cởi hết quần áo, đứng nghiêm trước võng của mình. Trời đất ơi! Đây đúng là cái
lò sát sinh. Chỗ nào cũng đầy máu là máu.
Phó trại
trưởng vào nhà tiêu trước. Khi trở ra, mặt ông ta trắng bệch. "Đúng là họ
bị chọc tiết. Dĩ nhiên, không ai trông thấy hay nghe thấy gì, phải
không?". Im lặng hoàn toàn.
- Ông
già, ông là trưởng khối này, hai người kia đã cạn hết máu. - Xin bác sĩ cho
biết họ chết chừng được bao lâu rồi.
- Từ tám
đến mười giờ. - bác sĩ nói.
- Thế mà
đến tận năm giờ lão mới thấy họ? Lão không trông thấy, không nghe thấy gì chứ?
- Phải,
tôi vốn nặng tai. Tôi nhìn cũng chẳng rõ, hơn nữa tôi đã bảy mươi tuổi, đã bốn
mươi năm trong tù. Cho nên, các ông hiểu cho, tôi ngủ. Sáu giờ tôi đã ngủ, vì
mót đi tiểu, tôi mới phải dậy lúc 5 giờ sáng. Cũng may, vì thường ngày tôi chỉ
dậy khi có tiếng chuông.
- Lão
nói đúng, cũng may mà lão mới nhìn thấy đấy nhỉ, - thiếu tá nói, giọng châm
biếm - Ngay với chúng tôi, tất cả mọi người, giám thị cũng như tù, tất cả đều
ngủ ngon lành suốt dêm. Ai khiêng cáng đây, đưa hai cái xác này đi, đem tới
bệnh viện, để bác sĩ khám nghiệm. Còn tất cả, đi ra sân, từng người một cứ trần
truồng như thế.
Từng đứa
chúng tôi đi ngang qua mấy viên chỉ huy và bác sĩ. Tất cả các bộ phận trên thân
thể chúng tôi đều được xem xét tỉ mỉ. Không ai có thương tích, nhiều người bị
vấy máu. Họ đều nói là họ trượt chân khi bị vào nhà tiêu. Grandet, Galgani và
tôi bị kiểm tra tỉ mỉ hơn mọi người.
-
Papillon, chỗ anh nằm đâu? - Họ lục soát đồ đạc của tôi - Con dao của anh đâu?
- Dao
của tôi bị ông giám thị tịch thu ngay từ cửa, lúc bảy giờ.
- Phải -
người lính nói - Anh ta còn làm toáng lên, nói là người ta định giết mình.
- Grandet,
dao này của anh hả?.
- Vâng,
nó ở chỗ của tôi, vậy nó là của tôi.
Con dao
sạch như một đồng xu mới, không có lấy một dấu vết, được xem xét thật kỹ lưỡng.
Bác sĩ từ nhà tiêu trở ra nói:
- Hai
người này bị đâm bằng một con dao hai cạnh. Cả hai bị đâm khi đang đứng thẳng.
Chẳng làm sao hiểu nổi. Không tù nhân nào chịu để bị người ta giết như giết con
thỏ mà không chống cự. Phải có ai ở đây bị thương.
- Nhưng
bác sĩ thấy đấy, chẳng ai có lấy một vết xước
- Hai
người này có nguy hiểm không?
- Đặc
biệt nguy hiểm, bác sĩ ạ. Tên tù người Armeni hẳn là kẻ đã giết Carbonieri ở
xưởng giặt chín giờ sáng hôm qua.
- Xếp
việc này lại thôi, - thiếu tá nói, - nhưng cứ giữ dao của Grandet lại. Tất cả
đi làm hết, trừ người bệnh.
-
Papillon, anh có báo bệnh không?
- Thưa
thiếu tá, có.
- Anh
không bỏ phí thì giờ để trả thù cho bạn nhỉ. Tôi không bị bịp đâu nhé. Đáng
tiếc là tôi không nắm được chứng cớ gì, và tôi biết là sẽ không bao giờ tìm ra
những chứng cớ ấy. Một lần nữa, ai có gì cần khai không? Ai có thể giúp chúng tôi
có được chút ánh sáng về hai vụ giết người này, tôi hứa là người đó sẽ được ra
khỏi trại và đưa về đất liền.
Im lặng
hoàn toàn.
Cả tổ
của thằng Armeni đều báo bệnh. Thấy vậy, Grandet, Galgani, Jean Castelli và
Louis Gravon cũng cáo bệnh vào phút cuối cùng. Một trăm hai mươi người ra cả,
gian phòng vắng hẳn. Nhóm tôi có năm đứa, nhóm thằng Armeni, bốn đứa thêm người
tù sửa đồng hồ và ông già khối trưởng luôn mồm càu nhàu không ngớt vì phải dọn
dẹp chỗ máu, và một hay hai tù nhân khác trong đó có một tù nhân cao lớn người
Alsace tên là Sylvain. Anh này sống độc thân trong tù và được mọi người quý
mến. Anh đã dám một mình làm một việc phi thường, vì vậy mà bị hai mươi năm tù.
Đó là một con người hành động, rất được nể trọng. Chỉ có một mình, anh đã tấn
công một toa xe lửa chở bưu kiện trên chuyến tàu tốc hành Paris-Bruxelles, đánh
gục hai người lính gác rồi ném xuống đường những túi bưu kiện, được đồng bọn đi
dọc đường sắt thu nhặt lại, và có được một món tiền lớn.
Sylvain
thấy hai nhóm rầm rì nói chuyện ở góc của mình, và vì không biết rằng chúng tôi
đã thỏa thuận không chống nhau, nên đã lên tiếng:
- Tôi hy
vọng các anh không dàn trận đánh nhau kiểu ba chàng ngự lâm pháo thủ chứ? -
Hôm nay
thì không - Galgani nói - việc đó để sau hẵng hay.
- Sao
lại để sau? Việc gì làm được hôm nay không nên để đến ngày mai - Paulo nói -
nhưng tôi thấy không có lý do gì phải chém giết nhau. Anh thấy thế nào,
Papillon?
- Tôi
chỉ hỏi một câu: anh có biết thằng Armeni định làm gì không?
- Xin
lấy danh dự mà nói rằng tôi không biết gì cả và anh có muốn tôi nói thêm điều
này không? Nếu thằng Armeni không chết rồi, không biết tôi chịu đựng sao nổi
việc này.
- Nếu
vậy tại sao chúng ta không kết thúc chuyện này cho dứt khoát? - Grandet nói.
- Chúng
tôi đồng ý. Chúng ta hãy bắt tay nhau và thôi không bàn tới câu chuyện đáng
buồn này nữa.
- Tán
thành.
- Tôi
làm chứng nhé? - Sylvain nói - Tôi vui lòng thấy v
- Thôi
không nói nữa.
Sáu giờ
chiều, chuông nhà thờ vang lên. Nghe tiếng chuông, tôi không sao quên được cảnh
ngày hôm qua, nửa thân trên của bạn tôi tiến về phía thuyền. Hai mươi bốn giờ
đã trôi qua, mà hình ảnh ấy vẫn làm tôi xúc động đến nỗi tôi không mong thấy dù
trong một giây, thằng Armeni và thằng Vô Lô bị lũ cá mập rước như vậy. Galgani
không nói một câu nào. Anh ta biết việc gì đã đến với Carbonieri. Anh ngồi trên
võng, hai chân thõng hai bên, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng trống ở trước mặt.
Grandet vẫn chưa về. Tiếng chuông vừa lặng đi được độ mười phút thì Galgani,
chân vẫn đung đưa mắt không nhìn tôi, nói nho nhỏ: "Tớ chỉ mong con cá mập
nào đã ăn Matthieu đừng đớp miếng thịt của thằng xỏ lá Armeni. Lúc sống thì
tách biệt, lúc chết lại cùng nằm trong bụng một con cá, nếu thế thì đời chó má
quá!". Rõ ràng, việc mất người bạn cao thượng và thành thật ấy đã gây ra
cho tôi một khoảng trống lớn. Tốt hơn cả là tôi đi khỏi Royale, và đi càng sớm
càng tốt. Ngày nào tôi cũng nhắc nhở với mình như vậy.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 32: Một cuộc vượt ngục của người điên
Vì đang
có chiến tranh, các hình phạt lại được tăng lên nếu vượt ngục thất bại, lúc này
không phải là lúc để lỡ chuyện, phải không, Salvidia? Cậu người Ý có hai plan
bằng vàng trong đoàn tàu đang bàn với tôi ở chỗ giặt áo quần sau khi đọc tờ yết
thị thông báo về những biện pháp mới đối với các trường hợp vượt ngục. Tôi nói
với y:
- Cái án
tử hình ấy không làm cho tôi từ bỏ ý định vượt ngục được đâu. Còn cậu thì sao?
-
Papillon ơi, tôi chịu hết nổi rồi và tôi cũng muốn tếch thẳng luôn. Muốn ra sao
thì ra. Tôi đã xin vào làm y tá ở nhà thương điên. Tôi biết là tại phòng cung
tiêu của nhà thương ấy có hai cái thùng tôn-nô chứa được 225 lít tức là thừa
sức ghép thành bè. Một thùng chứa đầy dầu ô-liu, một thùng đầy dấm. Hai cái
thùng ấy mà chằng kỹ vào nhau, sao cho nó không thể tách ra được tôi thấy có cơ
may về được Đất liền đấy. Phía bên ngoài tường bao quanh nhà thương điên không
bị kiểm soát. Phía trong thường ngày chỉ có một tên lính y tá gác, có tù phụ
giúp, luôn luôn kiểm soát xem bệnh nhân làm gì. Sao cậu không đến đấy với tôi?
- Làm y
tá à?
- Không
được đâu. Cậu biết thừa là không bao giờ cậu được làm việc ở nhà thương điên.
Vừa xa trại giam vừa ít bị kiểm soát, tất cả những điều đó làm cho người ta
không đưa cậu đến làm việc ở đây. Nhưng cậu có thể vào đây với tính cách người
mất trí.
- Khó
đấy, Salvidia ạ.
- Khi
một bác sĩ đã coi cậu là "điên", ông ta cho cậu được quyền tha hồ
muốn làm gì thì làm, không hơn không kém. Cậu được công nhận là không phải chịu
trách nhiệm về những hành động của mình. Cậu thử nghĩ đến trách nhiệm của một
bác sĩ khi chấp nhận ký vào bản chẩn đoán ấy? Cậu có thể giết tù, giết cả lính
hay vợ lính, hay một đứa con nít cũng không sao. Cậu có thể vượt ngục, phạm bất
cứ tội gì luật pháp cũng vô phương đối với cậu. Qúa lắm người ta cũng chỉ có
thể lột truồng cậu ra rồi tống cậu vào một phòng giam có lót nệm, và cậu phải
mặt áo trần lực của người điên. Chế độ ấy chỉ kéo dài một thời gian, rồi có
ngày họ lại phải nới nhẹ cách chữa trị bằng vũ lực đó. Kết quả là: với bất cứ
hành động nghiêm trọng đến đâu, kể cả vượt ngục, cậu cũng chẳng mất mát gì. Papillon
ơi, tôi tin cậu, tôi muốn vượt ngục với cậu. Cậu hãy cố làm đủ mọi cách để vào
được nhà thương điên với tôi đi. Với tư cách là y tá, tôi sẽ giúp cậu chịu đựng
được tốt nhất và đỡ đần cậu những lúc gay go nhất. Tôi công nhận rằng không bị
điên mà phải sống chung với những người nguy hiểm như vậy, cũng khủng khiếp
thật.
- Cậu cứ
về nhà thương điên đi, Roméo, tôi sẽ nghiên cứu thật kỹ vấn đề này và nhất là
tìm hiểu những hiện tượng đầu tiên của bệnh điên để bác sĩ tin được. Làm sao
cho bác sĩ xếp mình vào loại không phải chịu trách nhiệm gì cũng là ý kiến hay
đấy.
Tôi bắt
đầu nghiên cứu vấn đề một cách nghiêm chỉnh. Thư viện của trại không có cuốn
sách nào về vấn đề này. Cứ có dịp là tôi bàn luận với những người đã từng mắc
bệnh điên trong một thời gian nào đấy. Dần dần, tôi đã có ý niệm khá rõ ràng:
1. Tất
cả những người điên đều đau đầu dữ dội.
2. Họ
thường bị những tiếng ù ù trong tai.
3. Vì
thần kinh họ bị kích thích nên họ không thể nằm lâu ở một tư thế mà không bị
một cơn co giật thần kinh thực sự khiến cho cả cái thân thể bị căng thẳng đến
tột độ của họ nấy bật lên như cái lò xo.
Vậy thì
phải làm sao để đừng phô bày ra một cách lộ liễu mà người ngoài vẫn phát hiện
ra những triệu chứng đó. Bệnh điên của tôi phải vừa đủ nặng để buộc bác sĩ
quyết định gửi tôi đi bệnh viện nhưng không dữ dằn để phải đòi hỏi những biện
pháp đối xử tồi tệ của các giám thị như: phải mặc áo trấn lực của người điên,
bị đánh đập, phải nhịn ăn, phải chích bromure, phải tắm bằng nước lạnh nay nước
nóng già v.v... Nếu tôi đóng kịch khéo, tôi có thể làm cho bác sĩ cũng bị lừa.
Có một
điều có lợi cho tôi: tại sao, vì lý do gì mà tôi phải giả bệnh? Bác sĩ không
thể giải thích một cách hợp lý vấn đề này, chắc chắn tôi có thể thắng cuộc
trong trò này. Đối với tôi không có giải pháp nào khác. Họ đã từ chối không
chịu đưa tôi đi đảo Quỷ. Tôi không còn chịu đựng nổi cảnh ở lại trại sau cái
chết của Matthieu, bạn tôi. Do dự làm quái gì! Tôi phải quyết định thôi, thứ
hai tôi sẽ báo các bệnh. Thế cũng không xong, tôi không thể tự mình khai bệnh
được. Tốt hơn là để một người khác làm việc này, nhưng người ấy lại phải là
người tin rằng tôi điên thật mới được. Tôi phải làm hai hay ba việc kỳ cục ở
phòng giam. Rồi trưởng khối sẽ báo cáo với cai tù và cai tù sẽ ghi tên cho tôi
đi khám bệnh. Đã ba ngày nay, tôi không ngủ, không rửa ráy, cũng không cạo râu.
Mỗi đêm tôi thủ dâm nhiều lần và ăn rất ít. Hôm qua tôi hỏi người nằm kề bên
tôi sao anh ta lại lấy mất tấm hình tôi vẫn bày ở đầu võng (tấm hình này không
hề có bao giờ ở chỗ tôi). Anh ta thề sống thề chết là không đụng đến đồ đạc của
tôi. Anh ta sợ, và xin chuyển đi chỗ khác.
Thông
thường xúp vẫn được để ở chậu vài phút trước khi đem chia. Tôi đến gần chậu xúp
và trước mặt đông đủ mọi người tôi đái vào đấy. Ai nấy đều tỏ ý bực mình, nhưng
cái vẻ mặt lầm lầm của tôi chắc đã làm cho mọi người thấy ngán nên không ai nói
gì, chỉ có anh bạn Grandet nói với tôi
-
Papillon, sao cậu làm thế?
- Vì họ
quên chưa cho muối.
Rồi
chẳng thiết để ý đến những người khác, tôi lấy ga-men của tôi đưa ra để trưởng
khối sớt xuất của tôi vào đấy. Trong một không khí im lặng hoàn toàn, mọi người
đã đứng nhìn tôi ăn xúp. Hai sự việc đó đã đưa đến kết quả là hôm nay, tôi được
đưa đến bác sĩ mà không phải xin xỏ gì.
- Bác sĩ
có khỏe không?
Tôi nhắc
lại câu hỏi một lần nữa. Bác sĩ kinh ngạc nhìn tôi. Tôi nhìn lại ông với cặp
mắt cố tình làm ra vẻ tự nhiên như không.
- Tôi
vẫn khỏe, bác sĩ nói. Còn anh. Anh bị ốm phải không?
- Đâu
có?
- Thế
tại sao anh lại đi khám bệnh?
- Chẳng
tại sao cả. Họ nói với tôi là bác sĩ bị ốm. - Hóa ra không phải, cho nên tôi
cũng mừng. Chào bác sĩ tôi về
- Khoan
đã, Papillon. Anh ngồi xuống đây, trước mặt tôi. Anh nhìn vào tôi đi.
Rồi bác
sĩ dùng một cái đèn gì chiếu ra một tia sáng nhỏ xíu soi vào mắt tôi.
- Bác sĩ
không thấy cái mà bác sĩ muốn tìm à? Đèn của ông không đủ sáng nhưng dù sao ông
cũng đã hiểu chứ, phải không? Ông có thấy chúng nó không, ông cho tôi biết đi.
- Thấy
gì? Bác sĩ hỏi.
- Ông
đừng giở trò ngớ ngẩn, ông là bác sĩ hay là thú y? Ông đừng nói với tôi là ông
không có thì giờ trông thấy chúng trước khi chúng trốn mất, hoặc ông không muốn
nói với tôi, hoặc ông cho tôi là một thằng ngu.
Mắt tôi
ánh lên vì mệt mỏi. Bề ngoài của tôi, râu chưa cạo, mặt chưa rửa, đều góp phần
vào màn kịch nhỏ của tôi. Bọn cảnh sát đứng nghe, sững sờ cả ra, nhưng tôi
không hề có một cử chỉ dữ dằn nào khiến họ phải can thiệp. Bác sĩ có thái độ
hòa giải và về hùa theo tôi để tôi khỏi bị kích động, ông ta đứng dậy và đặt
tay lên vai tôi. Tôi vẫn ngồi yên.
- Phải,
tôi không muốn nói cho anh biết, Papillon, nhưng tôi đã có đủ thì giờ để thấy
chúng.
- Bác sĩ
chỉ nói láo, mà mặt vẫn trơ trơ ra như thổ địa. Bởi vì tôi biết thừa là ông
chẳng thấy quái gì cả; ông đang tìm ba cái đốm đen ở trong mắt trái của tôi chứ
gì? Ba cái đốm đen ấy, tôi chỉ trông thấy chúng khi tôi nhìn vào khoảng không
hay lúc tôi đọc sách. Nếu lấy gương soi, tôi nhìn thấy mắt tôi rõ ràng, nhưng
ba cái đốm thì đi đâu biệt tăm biệt tích. Hễ tôi cầm gương lên một cái là chúng
biến đi đàng nào mất tang ngay tức khắc.
- Nhập
viện ngay, - Bác sĩ nói - Không phải quay về trại nữa, Papillon, anh nói với
tôi là anh không có bệnh phải không? Có thể đúng như vậy, nhưng tôi lại thấy
anh mệt mỏi lắm, cho nên tôi để anh nghỉ vài ngày ở bệnh viện, anh bằng lòng
chứ?
- Chẳng
sao cả, được thôi. Bệnh viện hay trại thì cũng vẫn là ở đảo.
Bước đầu
đã trót lọt. Nửa giờ sau, tôi đã ở bệnh viện, tại một phòng sáng sủa, giường
sạch sẽ, nệm trắng tinh. Ngoài cửa treo tấm bảng "Đang theo dõi".
Dần dà,
do sức ám thị lên đến cao độ, tôi đã thành người điên. Trò chơi này cũng nguy
hiểm: cái tật làm cho mồm méo xệch đi và dùng hai hàm răng cửa cắn chặt môi
dưới, tôi vẫn nghiên cứu với một cái gương soi nhỏ lén giấu được, tôi quen làm
như vậy, nhiều lúc tôi bắt gặp thấy mồm mình méo đi như thế tuy tôi không hề cố
ý. Papi ơi, không nên sớm chơi với cái mẹo vặt này. Nếu cứ ép mình phải tự cảm
thấy mình mất trí mãi có thể nguy hiểm và để lại cho mình những chứng tật vĩnh
viễn. Nhưng tôi vẫn phải chơi trò này đến cùng nếu muốn đạt kết quả. Để vào nhà
thương điên, được xếp vào loại không chịu trách nhiệm rồi vượt ngục với anh
bạn.
Vượt
ngục! Hai tiếng kỳ diệu ấy đưa tôi bay bổng, tôi đã hình dung thấy mình ngồi
trên hai chiếc thùng ton-nô, được sóng nước đẩy về đất liền, cùng với anh bạn
thân y tá người Ý của tôi. Bác sĩ thăm bệnh hàng ngày. Ông khám tôi rất kỹ, và
lần nào chúng tôi cũng nói chuyện với nhau, lễ độ và hòa nhã. Ông ta có vẻ lo
nhưng chưa tin hẳn. Vậy thì tôi phải cho ông ta biết là tôi có những cơn đau
nhói ở vùng gáy, và đấy là những triệu chứng đầu tiên.
- Thế
nào Papillon? Anh ngủ được chứ?
- Vâng
thưa bác sĩ, nói chung tôi cũng khỏe. Cám ơn bác sĩ đã cho tôi mượn tờ báo
Match, nhưng ngủ thì lại là việc khác. Ở sau phòng tôi, có một cái máy bơm,
chắc để tưới cái gì đó: máy chạy suốt đêm, tiếng phòng phòng của nó cứ dội vào gáy
tôi, cứ như là ở trong đầu tôi cũng có tiếng vang phòng phòng vậy. Cả đêm cứ
thế, chịu không nổi. Cho nên tôi rất biết ơn nếu bác sĩ cho tôi được sang phòng
khác.
Bác sĩ
quay sang phía người lính y tá và hỏi nhỏ, rất nhanh.
- Có cái
máy bơm à? Y tá lắc đầu ra hiệu không có.
- Giám
thị, cho anh ta sang phòng khác. Anh muốn ở phòng nào?
- Càng
xa cái máy bơm chết tiệt này càng tốt, phía cuối hành lang. Cảm ơn bác sĩ.
Cửa đã
được khép chặt, chỉ còn một mình tôi ở trong phòng. Một tiếng động rất nhỏ, báo
cho tôi biết có người đang theo dõi tôi qua khe nhòm, chắc chắn đấy là ông bác
sĩ, vì tôi không nghe tiếng chân ông đi xa dần khi ông ra khỏi phòng. Thế là
tôi giơ nắm tay hướng về phía tường che khuất cái máy bơm tường tượng của tôi
và tôi kêu lên, không to lắm "Tắt máy đi. Tắt máy đi! Đồ khốn kiếp. Đồ thợ
vườn hạng bét, tưới gì tưới lắm thế?" Rồi tôi lăn ra giường, vùi đầu dưới
gối.
Tôi
không nghe được tiếng chiếc nắp đồng của khe nhòm đóng lại nhưng tôi nhận ra
tiếng chân đi xa dần. Kết luận: người nhòm qua khe cứa đúng là bác sĩ. Buổi
chiều, tôi được đổi phòng. Chắc tôi đã gây được ấn tượng tốt vào lúc sáng, vì
đưa tôi đi dọc hành lang chỉ vài bước mà phải có đến hai người lính và một
người tù y tá đi kèm. Họ chẳng nói gì nên tôi cũng không nói. Tôi chỉ lặng
thinh đi theo họ. Hai ngày sau, tôi cho ra cái triệu chứng thứ hai: những tiếng
ù trong tai.
- Khá
chứ, Papillon? Anh đã xem tờ tạp chí tôi gửi cho anh chưa?
- Chưa,
tôi chưa đọc được. Suốt ngày hôm qua và một phần đêm nữa, tôi đã cố tìm cách
làm cho con ruồi hay con muỗi gì đấy vào làm tổ trong tai tôi phải chết ngạt.
Tôi đã lấy bông nhét vào tai mà vẫn không ăn thua gì. Cánh của nó cứ rung lên
liên hồi không giây nào dứt, hết o- O- O lại đến diđiđi... Hơn thế nữa, lại còn
thêm cái cảm giác nhột nhột buồn buồn khó chịu lắm. Đến loạn óc mất thôi, bác
sĩ ạ! Bác sĩ thấy thế nào? Nếu tôi không làm cho nó chết ngạt được, ta có thể
kiếm cách làm cho nó chết đuối vậy nhỉ, bác sĩ bảo sao?
Mồm tôi
cứ máy máy liên hồi và tôi nhận thấy bác sĩ đã để ý đến điều đó, ông ta nắm tay
tôi và nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi cảm thấy ông bối rối và phiền lòng.
- Được
rồi, Papillon ơi, chúng ta sẽ dìm cho nó chết. Chatal, anh rửa tai cho anh ấy
đi.
Mỗi
sáng, những cảnh như vậy cứ lặp đi lặp lại có cải biên ít nhiều, nhưng bác sĩ vẫn
chưa quyết định gửi tôi đi nhà thương điên.
Có lần,
trong khi thích bromure cho tôi, Chatal báo trước cho tôi biết: "Bây giờ
thì ổn rồi. Bác sĩ nghĩ nhiều lắm nhưng chắc cũng còn lâu, ông ấy mới gửi cậu
đi bệnh viện. Nếu cậu muốn ông ta quyết định sớm, cậu phải làm cho ông ta thấy
là cậu có thể trở nên nguy hiểm mới được.
- Anh
thấy thế nào Papillon? - Bác sĩ, có hai y tá và Chatal đi theo, mở cửa vào
phòng tôi, và thân mật hỏi tôi.
- Ông bỏ
ngay lối chơi ấy đi, bác sĩ. - Tôi giở thái độ gây gổ ra. - Ông biết thừa là
không ổn rồi. Tôi muốn hỏi trong bọn ông, ai đã thông đồng với cái thằng vẫn
hành hạ tôi?
- Ai
hành hạ anh? Bao giờ? Hành hạ thế nào?
- Trước
hết, bác sĩ có biết các công trình của bác sĩ Arsonval không đã?
- Biết,
tôi hy vọng là có biết.
- Ông
biết là ông ta sáng chế ra một cái máy dao động có nhiều làn sóng để ion-hóa
không khí xung quanh một bệnh nhân bị loét hành tá tràng. Với cái máy dao động
ấy, người ta có thể phóng ra những giòng điện. Thế mà, một kẻ thù của tôi đã
đánh cắp một cái máy như thế ở bệnh viện Cayenne. Cứ mỗi lần tôi ngủ yên, là nó
ấn nút, làm điện giật vào đúng bụng và hai đùi tôi. Tôi giật mình, nẩy đến mười
phân lên khỏi giường. Cứ thế ông bảo tôi chống đỡ và ngủ nghê sao được? Cả đêm,
chẳng lúc nào ngừng. Tôi cứ vừa chợp mắt là pằng một cái, điện lại giật, cả
người tôi cứ nẩy lên như lò xo. Bác sĩ ạ, tôi không chịu được nữa đâu, ông báo
cho mọi người biết là hễ tôi mà tóm được thằng nào tòng phạm với nó là tôi giết
đấy. Tôi không có vũ khí thật nhưng tôi đủ sức bóp cổ nó cho đến chết, dù cho
nó là ai. Biết được rồi thì liệu mà giữ lấy thân nhé. Ông cũng cút đi với cái
lối: "khỏe không, Papillon?" cái lối chào hỏi giả dối của ông. Tôi
nhắc lại cho ông biết đấy, bác sĩ ạ, ông bỏ ngay lối chơi ấy đi!
Sự việc
này đã đem lại kết quả. Chatal cho tôi biết là bác sĩ đã dặn dò bọn gác phải
hết sức cẩn thận. Không bao giờ được mở cửa phòng của tôi mà không có hai hay
ba người. Phải nói năng ôn tồn với tôi. Tôi mắc chứng bách hại cuồng, bác sĩ
nói thế, phải đưa tôi đi nhà thương điên càng sớm càng tốt.
- Tôi có
thể đưa anh ấy đi nhà thương, chỉ cần một người phụ là đủ - Chatal đề nghị để
tránh cho tôi khỏi phải mặc áo trấn lực của người điên.
- Papi,
anh ăn được chứ?
- Ăn
được, Chatal ơi, ăn ngon nữa.
- Anh có
thể đi với tôi và ông Jeannus chứ?
- Đi
đâu?
- Mang
thuốc đến cho bệnh viện, như đi dạo một quãng thôi mà.
- Nào
thì đi.
Thế là
cả ba chúng tôi rời bệnh viện để đến nhà thương điên.
Vừa đi
Chatal vừa nói chuyện, và khi gần đến nơi, Chatal bỗng hỏi: "Cậu ở trại
mãi có chán không, Papillon?"
- Ồ,
chán đến tận cổ, nhất là từ khi Carbonieri bạn tôi không còn ở đấy nữa.
- Thế
tại sao cậu không ở lại vài ngày ở nhà thương điên? Thằng cha có cái máy sẽ
không tìm ra cậu để phóng điện vào người cậu nữa.
- Ý hay
đấy. Nhưng tớ không bị loạn óc, không biết họ có chịu nhận không?
- Cậu cứ
để tôi lo việc này, tôi sẽ nói hộ cậu. Tên cảnh sát nói, mừng vì thấy tôi rơi
vào cái bẫy mà nó tưởng Chatal giăng ra để đánh lừa tôi.
Tóm lại,
tôi đã vào nhà thương điên ở với cả trăm người điên khác. Sống với người điên,
thật chẳng dễ dàng chút nào. Chúng tôi ngồi từng tốp hai, ba chục người ở ngoài
sân để thay đổi không khí, trong khi các y tá cọ rửa các phòng. Mọi người đều
trần truồng suốt ngày đêm. May mà trời nóng. Riêng tôi họ để lại cho đôi bít
tất ngắn. Tôi vừa được y tá cho một điếu thuốc lá đã châm sẵn. Ngồi giữa nắng,
tôi suy nghĩ và tính ra là ở đây đã năm ngày mà chưa liên hệ được với Salvidia.
Một người điên lại gần tôi. Tên anh ta là Fouchet. Tôi biết câu chuyện của anh.
Mẹ anh bán nhà và gửi cho anh mười lăm ngàn francs nhờ một giám thị chuyển, để
anh lấy tiền vượt ngục. Tên đó được năm ngàn và phải đưa cho anh mười ngàn.
Nhưng y đã lấy tất rồi đi Cayenne. Khi Fouchet qua một đường dây khác biết được
là mẹ anh đã gửi tiền cho anh và bà mẹ đã hy sinh tất cả một cách vô ích, anh
ta nổi cơn điên và ngay hôm đó, anh đã tấn công các giám thị. Nhưng anh chưa
kịp làm gì họ thì đã bị chế ngự ngay.
Từ ngày
ấy, cách đây đã ba, bốn năm, anh ở nhà thương điên.
- Cậu là
ai? Tôi nhìn con người đáng thương vừa hỏi tôi. Hắn còn trẻ, chỉ chừng ba mươi
tuổi.
- Tớ là
ai à? Một người đàn ông bình thường, như cậu thôi, không hơn không kém.
- Cậu
trả lời ngớ ngẩn lắm. Tớ đã thấy rõ, cậu là đàn ông rồi. Tớ muốn hỏi cậu là ai?
Nghĩa là cậu tên gì?
-
Papillon.
-
Papillon à? Cậu là con bướm à? Khổ cho cậu rồi. Bướm phải bay và có cánh, thế
cánh của cậu đâu?
- Tớ
đánh mất rồi.
- Phải
tìm cho ra, có cánh mới vượt ngục được. Bọn lính không có cánh. Cậu sẽ ăn đứt
chúng. Đưa thuốc lá của cậu cho tớ.
Tôi chưa
kịp đưa, hắn đã giật lấy. Rồi hắn ngồi.. trước mặt tôi hút, vẻ say sưa.
- Còn
cậu, cậu là ai?
- Tớ là
thứ thịt để cho ôi. Cứ mỗi lần người ta đưa cho tớ cái gì của tớ, là người ta
lại lừa tớ.
- Tại
sao vậy?
- Nó là
như vậy. Cho nên tớ giết bọn cai tù, càng nhiều càng tốt. Đêm nay, tớ đã treo
cổ hai đứa. Nhưng đừng nói với ai nhé!
- Tại
sao cậu lại treo cổ chúng?
- Chúng
nó đã ăn cướp nhà của mẹ tớ. Mẹ tớ gửi nhà của bà cho tớ, chúng nó thấy nhà
đẹp, chúng giữ lại và ở ngay tại đấy. Tớ treo cổ chúng lên, không hay sao?
- Cậu có
lý. Như vậy chúng không thể lợi dụng nhà của mẹ cậu được.
- Thằng
cai bự ở đằng kia, sau hàng rào sát ấy, cậu thấy không? Nó cũng ở nhà ấy đấy.
Thằng đó, tớ cũng sẽ giết nó thôi, cậu cứ tin ở tớ. Rồi anh ta đứng lên và bỏ
đi.
Trời đất
ơi! Sống giữa những người điên, chẳng có gì là vui thú, mà còn nguy hiểm nữa.
Ban đêm, có tiếng kêu la ở khắp bốn phía và vào những đêm trăng rằm, những
người điên lại càng bị kích thích hơn. Vì sao tuần trăng lại ảnh hưởng đến hành
động của người điên? Tôi nhận xét thấy thế nhiều lần nhưng không giải thích
nổi. Bọn cai có nhiệm vụ báo cáo về những người điên phải theo dõi. Với tôi,
chúng còn đối chiếu thêm với những việc khác. Chẳng hạn chúng cố tình quên
không cho tôi ăn một bữa. Tôi có một cái gậy và một sợi dây, và tôi làm điệu bộ
câu cá. Tên xếp gác hỏi tôi:
- Cá có
cắn câu không, Papillon?
- Chúng
không cắn mồi được. Có một con cá nhỏ cứ lẽo đẽo theo tôi hoài, mỗi khi cá lớn
sắp đớp mồi, nó lại báo trước: "Chú ý, đừng đớp, Papilìon đang câu
đấy". Vì thế tôi chẳng được con nào bao giờ. Nhưng tôi vẫn cứ câu. Chắc có
ngày sẽ có một con cá không tin con cá nhỏ kia. Tôi nghe thấy tên lính đó nói
với y tá: "Thằng cha này điên thật rồi".
Khi tôi
phải ngồi ăn ở bàn công cộng tại nhà ăn, tôi không sao ăn được đĩa đậu đũa của
tôi. Có một thằng rất to con, cao ít ra đến một mét chín mươi, tay chân và ngực
đầy lông lá trông như con khỉ, nó chọn tôi làm nạn nhân để nó hành. Thoạt tiên
nó luôn luôn ngồi cạnh tôi. Đậu được dọn ra, đang rất nóng cho nên muốn ăn phải
đợi cho nguội đã. Với chiếc muỗng gỗ, tôi xúc từng ít một và cứ thế ăn được vài
thìa. Ivanhoe - thằng cha tưởng mình là trang kỵ sĩ thời Trung thế kỷ - cầm đĩa
của nó lên, đổ vào lòng bàn tay và ăn hết trong năm phút. Rồi nó tự tiện lấy
đĩa của tôi và cũng làm như vậy Khi đĩa đã nhẵn như chùi, nó đặt mạnh trước mặt
tôi và nhìn tôi với cặp mắt to, vằn tia máu như muốn nói: "Mày đã thấy tao
ăn đậu chưa?".
Tôi bắt
đầu chán ngấy Ivanhoe, và vì tôi chưa được xếp hẳn vào loại điên nên tôi quyết
định cho nó một đòn để gây tiếng vang. Hôm nay lại là ngày ăn đậu đũa, Ivanhoe
không bỏ qua cho tôi. Nó đến ngồi cạnh tôi. Bộ mặt rồ dại của nó trông rạng rỡ
hẳn lên. Nó tấm tắc hưởng trước nỗi khoái trá được chén phần đậu của nó và cả
của tôi. Tôi đem theo một cái hũ sành to và nặng, đựng đầy nước. Thằng cha
khổng lồ vừa cầm đĩa của tôi lên và bắt đầu đồ đậu vào mồm thì tôi đứng lên,
lấy hết sức bình sinh đập hũ nước vào đầu nó. Thằng cha rống một tiếng như bò
rồi gục xuống. Ngay lập tức, những người điên, tay vẫn cầm đĩa thức ăn của
mình. xông vào đánh nhau loạn xạ. Cảnh ồn ào như vỡ chợ bắt đầu. Cuộc loạn đả
tập thể này lại có thêm những tiếng la hét của tất cả lũ người điên trong bệnh
viện hòa theo. Bốn viên y tá lực lưỡng đã bế thốc tôi lên không nương nhẹ chút
nào và đưa ngày tôi về phòng, tôi kêu váng lên là: "Ivanhoe đã ăn cắp cái
bóp trong đó có giấy căn cước của tôi". Lần này thì đạt yêu cầu! Bác sĩ
quyết định xếp tôi vào loại không phải chịu trách nhiệm về bất kỳ hành động nào
của mình. Tất cả các cai tù đều nhất trí nhận định chứng bệnh của tôi là điên
thuộc loại hiền, nhưng cũng có những lúc rất nguy hiểm.
Đầu
Ivanhoe được băng bó tuyệt đẹp. Hình như tôi đã làm da đầu nó rách dài đến tám
phân. Cũng may mà nó không ra đi dạo cùng giờ với tôi. Tôi đã nói chuyện được
với Salvidia. Anh đã làm được chìa khóa giả mở gian phòng để thùng ton-nô. Anh
đang kiếm cho đủ dây thép để chằng các thùng ấy lại với nhau. Tôi nói với anh
ta là tôi sợ dây thép dễ bị đứt do các thùng ton-nô ra đến biển sẽ co kéo nhau,
có lẽ nên dùng thừng chão, dẻo hơn. Anh sẽ cố kiếm thứ đó, cả dây thừng và dây
thép. Anh còn phải đánh ba cái chìa khóa nữa: một cái mở phòng tôi, một cái mở
cửa hành lang dẫn đến phòng tôi và một cái mở cửa chính nhà thương điên. Các
phiên gác không nhiều lắm. Mỗi phiên gác dài bốn giờ, chỉ có một lính canh. Từ
chín giờ tối đến một giờ sáng rồi từ một giờ đến năm giờ. Hai cai tù đến phiên
trực của mình chỉ ngủ và không đi tuần lần nào. Họ ỷ vào người tù y tá cùng gác
với họ. Vậy là ổn, chỉ cần bình tĩnh chờ. Nhiều nhất là một tháng. Viên sếp gác
đã cho tôi một điếu xì gà loại tồi y đang hút dở khi tôi ra sân. Tuy thuốc tồi,
tôi cũng thấy ngon tuyệt.
Tôi nhìn
lũ người trần truồng, hát hỏng, khóc lóc vung chân vung tay loạn xạ, nói một
mình. Họ còn ướt sũng nước vì vừa tắm trước khi ra sân, thân thể họ còn mang
những vết bầm do bị đánh đập hoặc tự họ gây ra, cùng vết dây chẳng của áo trấn
lực thắt quá chặt. Đúng là thảm cảnh cuối cùng trên con đường đến nơi ruỗng
nát. Có bao nhiêu người điên này được các bác sĩ tâm thần ở Pháp buộc phải chịu
trách nhiệm về mọi hành động của mình? Titin - đấy là tên người ta thường gọi
anh ta - cùng đi một chuyến với tôi năm 1933. Anh đã giết một người ở
Marseille, rồi gọi xe ngựa, cho nạn nhân lên xe, bảo xe chở tới bệnh viện, và
đến nơi anh đã nói: "Hình như anh ta bị bệnh, các ông săn sóc giùm
cho" Anh bị bắt ngay. Các bồi thẩm nhất định không chịu coi anh ta là
thuộc loại không phải chịu trách nhiệm, dù chút ít, về hành động của mình. Mà
đúng là anh có điên mới làm như vậy. Người bình thường dù ngớ ngẩn đến đâu cũng
chẳng ai làm như vậy. Giờ đây, Titin đang ngồi cạnh tôi. Anh ta bị kiết lỵ kinh
niên. Anh ta giống như một cái xác chết biết đi. Anh nhìn tôi với đôi mắt xám
chì, không hồn. Anh nói với tôi: "Anh bạn đồng hương ơi, có những con khỉ
con ở trong bụng tôi. Có những con ác lắm, chúng cắn ruột của tôi và khi tôi đi
ra máu là lúc chúng đang cáu giận đấy. Những con khác thuộc giống khỉ xù toàn
lông cả là lông, có những bàn tay êm dịu như tơ. Chúng nhẹ nhàng xoa vuốt tôi
và ngăn không cho lũ ác kia cắn tôi: khi lũ khỉ con hiền lành này chịu khó bảo
vệ tôi, tôi không đi ra máu".
- Cậu có
nhớ Marseille không, Titin?
- Tất
nhiên là nhớ chứ. Nhớ kỹ nữa là khác. Quảng Trường Chứng khoán với những thằng
cha chuyên chơi chứng khoán và những băng trấn lột...
- Cậu có
nhớ được tên vài thằng không? Thằng Thần hám lợi? Le Gravat? Clément chẳng hạn?
- Không,
tôi không nhớ tên thằng nào hết, chỉ nhớ thằng cha đánh xe ngựa chở thằng bạn
bị bệnh của tôi và tôi đến nhà thương. Tôi còn nhớ nó đã nói tôi là nguyên nhân
làm bạn tôi bị bệnh. Có thế thôi.
Tội
nghiệp cho Titin, tôi cho anh ta mẩu xì gà và tôi đứng lên, lòng xót thương vô
hạn. Con người khốn khổ này rồi sẽ chết như một con chó. Đúng là sống chung với
những người điên rất nguy hiểm, nhưng biết làm sao được? Tôi cho đấy là cách
độc nhất để tổ chức vượt ngục mà không lo bị trừng phạt.
Salvidia
đã gần hoàn thành các công việc chuẩn bị. Anh ta đã có được hai cái chìa khóa,
chỉ thiếu chìa khóa phòng tôi. Anh đã xoay được một cuộn dây thừng rất tốt,
thêm vào đó, anh còn tháo võng để bện một cuộn dây có năm sợi. Về mặt này, mọi
việc đều tốt. Tôi muốn mau mau chuyển sang hành động vì vừa đóng kịch vừa chịu
đựng cảnh này thật gay go. Để được tại phòng này trong khu nhà thương. thính
thoảng tôi phải lên một cơn điên. Tôi đã lên một cơn giống như thật đến mức các
y tá tống tôi vào bồn tắm nước nóng già và chích cho tôi hai mũi bromure. Cái
bồn tắm này phủ một tấm vải bạt rất dày để giữ cho tôi không ra được. Chỉ có
một lỗ hổng để tôi thò đầu ra. Tôi ở trong bồn tắm loại làm cho người điên này
được hai giờ thì Ivanhoe bước vào phòng. Tôi hết hồn khi thấy cách hắn nhìn
tôi. Tôi sợ nó bóp cổ tôi, đến chết khiếp.
Tôi bị
bó tay dưới tấm vải, tôi không thể nào tự vệ được. Nó tiến lại gần tôi, đôi mắt
thao láo của nó chăm chú dòm tôi, có vẻ như cố nghĩ xem nó đã từng trông thấy ở
đâu cái đầu từ dưới lớp vải này nhô lên. Hơi thở của nó và một mùi thối khẳn
phả vào mặt tôi. Tôi muốn kêu cứu nhưng tôi sợ tiếng kêu của tôi làm cho nó
càng thêm hung dữ. Tôi nhắm mắt lại chờ đợi, tôi tin chắc là hai bàn tay hộ
pháp của nó sắp chít lấy cổ tôi. Tôi không dễ quên được những giây phút hãi
hùng ấy. Sau, nó quay đi, đảo một vòng quanh gian phòng, rồi tới chỗ những vòng
vô lăng vặn với nước. Nó đóng với nước lạnh và mở hết mức với nước nóng. Tôi
kêu thét lên, vì tôi đang bị luộc chín thật sự. Hơi nước tỏa kín phòng, tôi bị
ngợp thở vì hơi nước, tôi cố vùng vẫy cuống cuồng để thoát ra khỏi tấm vải chết
tiệt này nhưng vô ích. Sau rồi cũng có người đến cứu tôi.
Bác cai
tù thấy hơi nước lọt từ các cửa sổ ra. Khi tôi ra khỏi được cái nồi hầm này,
tôi bị bỏng nặng và đau như một linh hồn dưới hỏa ngục, nhất là ở đùi và bộ
phận sinh dục, ở đấy da đã bị lột ra. Tôi được bôi acid pieric và được vào nằm
trong phòng nhỏ của bệnh xá. Vết bỏng của tôi nặng đến mức họ phải gọi bác sĩ
đến khám. Tôi được chích vài mũi thuốc morphin để chịu đựng được trong hai mươi
bốn giờ đầu. Khi bác sĩ hỏi tôi việc gì đã xảy ra tôi nói là trong bồn nước có
một ngọn núi lửa bắt đầu phun. Chẳng ai hiểu đầu đuôi ra sao. Và viên y tá gác
đổ lỗi cho người chuẩn bị nước tắm đã điều chỉnh lộn hai cái với nước.
Salvidia, sau khi bôi acid picric cho tôi đã đi ra. Anh đã sẵn sàng và nói với
tôi, may mà tôi được ở bệnh xá vì nếu cuộc vượt ngục thất bại, tôi có thể trở
về khu vực này mà không sợ có ai trông thấy. Anh phải cấp tốc làm một chiếc
chìa khóa giả của phòng này. Anh đã lấy dấu chìa khóa bằng một mẩu xà phòng.
Ngày mai sẽ có chìa. Chỉ cần tôi cho biết ngày nào tôi đỡ đau, đủ sức để lợi
dụng phiên gác đầu tiên của người coi tù không đi tuần.
Chúng tôi
quyết định là đêm nay sẽ trốn đi trong phiên gác từ một giờ đến năm giờ sáng.
Salvidia không phải trực. Để tranh thủ thời gian, anh sẽ dốc hết thùng ton-nô
dấm vào hồi mười một giờ đêm. Thùng dầu sẽ được để nguyên vì biển động, có thể
dầu phủ lên nước biển sẽ làm dịu bớt sóng khi chúng tôi xuống nước. Tôi mặc một
cái quần làm bằng bao bột mì, dài tới đầu gối và một cái áo va-rơi bằng len,
một con dao tốt dắt vào thắt lưng. Tôi còn đeo một cái túi nhỏ không thấm nước
ở cổ, trong đựng ít thuốc lá và một cái máy lửa. Salvidia thì chuẩn bị sẵn một
túi dết không thấm nước đựng bột sắn trộn với dầu ăn và đường, chừng ba ki-lô,
theo lời anh nói.
Đã khuya
rồi. Tôi ngồi trên giường, đợi anh đến. Tim tôi đập thình thình. Chỉ trong chốc
lát, cuộc vượt ngục sẽ bắt đầu. Cầu Trời và vận may đến với tôi để cuối cùng
tôi thành công, vĩnh viễn thoát được ra khỏi con đường thối rữa này. Điều lạ
lùng là tôi chỉ có một ý nghĩ thoáng qua về quá khứ. Tôi nghĩ về bố tôi và về
gia đình tôi. Không có một hình ảnh nào về phiên tòa đại hình, về các bồi thẩm
hay về viên biện lý.Khi cửa được mở ra, tôi bất chợt thấy cảnh Matthieu bị lũ
cá mập rước đi thẳng đứng. "Lên đường nào, Papi." Tôi đi theo anh.
Anh vội khóa cửa và giấu chìa khóa ở góc hành lang: "Mau lên, làm thật mau
đi". Chúng tôi đến nhà kho, cửa đã mở. Vần cái thùng tôn-nô rỗng ra dễ như
chơi. Anh lấy dây thừng cuốn quanh người, tôi thì cuốn dây thép. Tôi vớ cái túi
dết bột, và trong đêm tối đen như mực, tôi bắt đầu lăn cái thùng tôn- nô của
tôi ra phía biển. Anh lăn thùng dầu theo sau. May là anh rất khỏe nên đã dễ
dàng kìm được cái thùng khi nó lăn xuống đường dốc thẳng đứng này.
- Từ từ
thôi, cứ từ từ, cẩn thận đừng để nó lăn quá nhanh.
Tôi chờ
anh, để phòng trường hợp anh thả thùng ton-nô của anh ra sẽ bị thùng của tôi
chặn lại. Tôi đi giật lùi, tôi đi trước, thùng ton-nô của tôi lăn theo sau.
Chúng tôi xuống đến cuối con đường nhỏ không khó khăn lắm. Có một lối hẹp để ra
biển, nhưng sau đó là khu có đá khó vượt qua được. "Dốc hết dầu ra, để
thùng đầy, không sao đưa qua được quãng có đá đâu." Gió thổi mạnh và sóng
đập ào ào vào bờ đá.Thùng đã được trút hết dầu, xong xuôi "Nút cho chặt.
Chờ đây, đậy miếng sắt tây này lên đấy". Các lỗ đã được bịt kín.
"Đóng cho chặt các đầu đinh". Tiếng sóng gió ầm ầm, không thể nào
nghe thấy tiếng đóng đinh. Khó mà khiêng nổi hai cái thùng ton-nô đã được cột
chặt vào nhau này. Mỗi thùng chứa được hai trăm hai mươi lăm lít. Thật cồng
kềnh, khuân vác rất vướng. Địa điểm anh bạn tôi chọn cũng không dễ dàng xoay
trở. "Đẩy đi nào, trời đất ơi! Nâng lên một chút. Cẩn thận đợt sóng này
đấy". Cả hai đứa chúng tôi và cả đôi thùng ton-nô bị nhấc bổng lên và bị
ném mạnh vào đá. "Cẩn thận, không chừng bị bể tan mất, chưa kể là ta còn
bị gãy chân gãy tay nữa!".
- Cứ
bình tĩnh, Salvidia! Cậu đi trước ra phía biển hay lại đằng sau đây thì hơn.
Đó, ở chỗ ấy được rồi. Khi tôi kêu, cậu kéo mạnh nhé. Tôi cũng đẩy và chắc chắn
ta sẽ ra khỏi được quãng đá này thôi. Muốn thế, phải giữ cho vững và đứng cho
chắc tại chỗ, dù có bị sóng ập đến...
Tôi cứ
gào lên ra lệnh cho anh, giữa tiếng sóng gió ào ào này, tôi chắc anh nghe được:
một con sóng lớn đổ ập xuống cái khối cứng nhắc gồm đôi thùng ton-nô, anh và
tôi. Lúc ấy tôi điên tiết, lấy hết sức đẩy mạnh chiếc bè. Anh ta chắc cũng kéo
tới vì bỗng nhiên tôi thấy nhẹ nhõm và bập bềnh trên sóng. Anh ta leo lên thùng
ton-nô trước tôi và đúng lúc tôi định trèo lên thì một đợt sóng thật mạnh đẩy
từ dưới lên, quăng chúng tôi như một cọng lá lên một tảng đá nhô ra xa hơn cả.
Con sóng xô mạnh đến nỗi hai cái thùng bị bửa toang ra mỗi nơi một mảnh. Khi
sóng rút, tôi thấy mình bị kéo ra xa, cách tảng đá đến hai mươi mét. Tôi bơi và
bị một con sóng khác đẩy thẳng vào bờ đặt ngồi giữa hai tảng đá. Tôi đã kịp bám
giữ để khỏi bị cuốn ra khơi.
Khắp
người bị bầm giập, tôi đã vùng thoát được nhưng khi đến chỗ cạn, tôi mới nhận
ra là tôi bị trôi xa cách chỗ chúng tôi xuống nước đến một trăm mét. Không gìn
giữ gì cả, tôi la to: "Salvidia Roméo! Anh ở đâu đấy?". Không có
tiếng đáp lại. Mệt rã rời, tôi nằm trên đường đi, cởi quần dài, áo va-rơi và
lại trần truồng chẳng mang gì ngoài đôi bít tất ngắn ở chân. Trời đất thiên
địa, anh bạn tôi ở đâu rồi? Tôi lại kêu váng lên: "Cậu ở đâu đấy?".
Chỉ có tiếng gió, biển và sóng đáp lại. Tôi ngồi đấy, không biết bao nhiêu lâu,
thẫn thờ, bị suy sụp hoàn toàn cả về thể chất lẫn tinh thần. Rồi tôi khóc vì
bực tức và quẳng đi cái túi nhỏ đeo ở cổ đựng thuốc lá và máy lửa - biểu hiện
mối quan tâm ruột thịt của anh bạn đối với tôi, vì anh không hút thuốc. Đứng
trước gió, trước những đợt sóng quái đản đang quét tất cả mọi thứ, tôi giơ nắm
tay lên và nguyền rủa Trời: "Đồ xỏ lá, đồ chó đẻ, đồ pê- đê, mi không thấy
hổ thẹn vì cứ bám riết lấy ta mà hành hạ như thế này ư? Chúa lòng lành gì mi.
Mi chỉ là đồ đáng ghê tởm, đúng thế đấy, mi là kẻ xa- đích, kẻ đáng nguyền rủa!
Mi là đồ thoái hóa! Ta sẽ không bao giờ gọi tên mi nữa! Mi không xứng đáng chút
nào!".
Gió đã
dịu dần và cảnh êm ả đã làm tôi tỉnh táo trở về với thực tại. Tôi sẽ trở lên
nhà thương điên và nếu có thể, lại lê về bệnh xá. Chỉ cần chút ít may mắn, tôi
có thể làm được việc ấy Tôi leo dốc và chỉ nghĩ một điều: trở về nằm vào giường
mình. Không để ai trông thấy, không để ai biết. Tôi đã tới hành lang bệnh xá mà
không gặp trở ngại. Tôi phải nhảy qua tường bệnh viện vì tôi không biết Savidia
giấu chìa khóa cổng chính ở đâu. Tôi chẳng phải tìm lâu cũng thấy chìa khóa cửa
bệnh xá. Tôi vào phòng và khóa trái hai lần cửa phòng tôi lại Tôi ra cửa sổ,
ném chìa khóa đi thật xa. Nó rơi phía bên ngoài tường. Và tôi đã vào giường
nằm. Vật duy nhất có thể tố cáo việc tôi làm, là đôi bít tất còn ướt Tôi dậy đi
vào nhà cầu để vắt cho kiệt nước. Tôi kéo chăn lên tận mặt và dần dần ấm người
được đôi chút. Gió và nước biển đã làm tôi tê cóng. Không biết bạn tôi có bị
chết đuối thật không? Có thể anh ấy bị sóng cuốn đì xa hơn tôi, đến tận cuối
đảo và đến đấy mới bíu được lên bờ. Tôi có trở lên sớm quá không? Đáng lẽ tôi
phải chờ thêm chút nữa. Tôi tự trách mình quá vội khi cho là bạn tôi đã bị
thiệt mạng.
Trong
ngăn kéo bàn ngủ đầu giường tôi, có hai viên thuốc ngủ. Tôi nuốt cả hai viên mà
không uống nước. Nước miếng của tôi cũng đủ làm nó trôi vào họng. Tôi đang ngủ
thì bị lay dậy và thấy anh y tá đứng trước mặt. Gian phòng đầy ánh nắng và cứa
sổ đã được mở. Ba người bệnh đang đứng ngoài nhìn vào.
- Thế
nào Papillon? Cậu ngủ như chết vậy? Mười giờ sáng rồi. Cậu không uống cà phê à?
Nguội lạnh cả. Uống đi.
Tuy còn
ngái ngủ, tôi cũng nhận thấy là đối với tôi mọi việc vẫn bình thường.
- Sao
anh lại đánh thức tôi dậy?
- Vì
những vết bỏng của cậu đã lành rồi mà đang cần giường. Cậu sẽ trở về phòng của
cậu.
- Thôi
được. Tôi đi theo y.
Đi ngang
qua sân, y để tôi ở lại đấy. Tôi tranh thủ hong đôi bít tất ra nắng cho mau
khô. Cuộc vượt ngục đã tan vỡ được ba ngày rồi. Tôi không nghe thấy xì xào bàn
tán về chuyện này. Tôi đi từ phòng ra sân rồi lại từ ngoài sân về phòng. Không
thấy Salvidia xuất hiện, vậy là anh ta đã chết, tội nghiệp cho anh, chắc anh ta
bị đập vào đá mà chết. Tôi cũng gặp may mới sống được, và tôi thoát hẳn là vì
tôi ở phía sau thay vì ở đằng trước. Làm sao biết được? Tôi phải rời khỏi nhà
thương điên này thôi. Làm cho họ tin là tôi đã khỏi hay ít ra cũng đáng trở về
trại giam, có lẽ còn khó hơn là vào đây: Bây giờ tôi phải thuyết phục để bác sĩ
thấy là tôi đã khỏi bệnh.
- Thưa
ông Rouviot (ông ta là y tá trưởng), đêm qua tôi bị lạnh. Tôi xin hứa sẽ không
làm bẩn quần áo của tôi, sao ông không cấp quần dài và áo sơ mi cho tôi?
Viên cai
sửng sốt. Ông ta ngạc nhiên nhìn tôi rồi nói:
-
Papillon, anh ngồi xuống đây. Nói cho tôi nghe, có chuyện gì vậy?
- Tôi
lấy làm lạ là tại sao tôi lại ở đây, hả sếp. Đây là nhà thương điên, như vậy là
tôi sống với người điên à? Có phải, chẳng may tôi bị mất trí không? Tại sao tôi
lại ở đây? Sếp vui lòng nói cho tôi nghe đi.
- Anh
bạn Papillon, vừa qua anh bị bệnh, tôi thấy anh đã khá hơn. Anh muốn làm việc
không?
- Có ạ.
- Anh
muốn làm gì?
- Làm
bất cứ việc gì.
Thế là
tôi được mặc quần áo, tôi được giao việc quét dọn các phòng. Buổi chiều, cửa
phòng tôi được để mở cho đến chín giờ tối và chỉ khi người gác đêm nhận phiên
gác, tôi mới bị nhốt ở trong.
Một
người tù - y tá, người Auvergne, chiều qua lần đầu nói chuyện với tôi. Chỉ có
hai chúng tôi trong phòng gác. Cai tù chưa tới. Tôi không biết anh này nhưng
anh ta nói là anh biết tôi.
- Bây
giờ thì chẳng cần phải vờ vịt làm gì cho mệt, bạn ạ.
- Cậu
nói gì vậy?
- Cậu
tưởng tôi không biết cậu giả vờ sao? Tôi làm y tá ở nhà thương điên đã bảy năm
nay, và ngay từ tuần đầu tôi đã biết thừa là cậu chỉ giả vờ điên..
- Thế
rồi sao nữa?
- Sau đó
tôi rất tiếc vì cậu đã thất bại trong chuyến vượt ngục với Salvidia. Cậu ấy đã
bỏ mạng rồi. Tôi đau khổ thật sự vì đây là một người bạn tốt, tuy cậu ấy không
nói cho tôi biết, nhưng tôi cũng không để bụng giận cậu ấy. Còn cậu có cần gì,
cứ cho tôi biết, tôi sẽ lấy làm sung sướng nếu được giúp cậu.
Anh có
cặp mắt thẳng thắn làm tôi không nghi ngờ lòng thành thật của anh. Vì nếu tôi
không nghe ai nói tốt về anh, tôi cũng không thấy ai nói xấu về anh: như vậy
hẳn anh phải là người khá. Tội nghiệp cho Salvidia! Khi biết chuyện anh ta trốn
đi, mọi người đều sửng sốt. Họ tìm thấy những mảnh thùng ton-nô bị sóng đưa vào
bờ. Ai cũng cho là anh đã bị cá mập ăn rồi. Bác sĩ làm toáng lên vì chỗ dầu
ô-liu bị đổ đi. Ông nói trong hoàn cảnh chiến tranh không dễ gì có được.
- Anh
khuyên tôi nên làm gì?
- Tôi sẽ
xin cho cậu việc đi lãnh thực phẩm hàng ngày ở bệnh viện cho nhà thương này.
Cậu sẽ được đi dạo một vòng. Cậu phải bắt đầu giữ gìn hạnh kiểm cho tốt. Nói
mười câu thì tám câu cho có lý. Vì cũng không nên khỏi bệnh quá mau.
- Cảm
ơn, tên cậu là gì?
-
Dupont.
- Cảm ơn
cậu. Tôi sẽ không quên những lời khuyên của cậu.
Tôi vượt
ngục hụt đã được một tháng. Sáu ngày sau, người ta tìm thấy xác anh bạn tôi nổi
lên mặt nước. Do một sự tình cờ không sao hiểu được, cá mập không ăn anh. Nhưng
Dupont kể với tôi rằng các loại cá khác đã ăn bộ lòng của anh, và cả một khúc
chân nữa. Sọ của anh cũng bị thủng. Vì thịt đã rữa nên tử thi không bị mổ để
xét nghiệm. Tôi hỏi Dupont xem anh ta có thể gửi giùm tôi một bức thư bằng
đường bưu điện được không. Muốn vậy phải trao thư cho Galgani để lúc niêm phong
túi đựng thư, cậu ta có thể dúi vào trong.
Tôi đã
viết cho mẹ của Romeo Salvidia ở Ý bức thư sau đây: "Thưa bà, con trai bà
đã chết, chân không bị xiềng. Anh ấy đã chết ở biển, một cách can đảm, xa bọn
cai ngục và xa nơi giam cầm. Anh ấy đã chết tự do trong khi đấu tranh dũng cảm
để dành lại tự do cho mình. Chúng tôi đã hứa với nhau sẽ viết thư cho gia đình
của bạn mình nếu có người nào gặp nạn. Nay tôi làm tròn cái nhiệm vụ đau đớn ấy
và xin kính cẩn hôn tay bà với lòng yêu kính của một người con. Bạn của con bà,
Papillon" Làm xong nhiệm vụ đó, tôi quyết định không nghĩ tới cơn ác mộng
ấy nữa. Đời là thế, còn phải ra khỏi nhà thương điên, tìm mọi cách để về bằng
được đảo Quỷ và thử vượt ngục một chuyến nữa.
Viên cai
tù đã giao cho tôi việc làm vườn nhà y. Tôi trở lại bình thường đã hai tháng
nay, và tôi được mến thích đến nỗi thằng cha đó không muốn buông tôi ra nữa.
Cậu người Auvergne kể cho tôi nghe, lần khám bệnh vừa qua bác sĩ muốn cho tôi
xuất viện về trại để "thử nghiệm". Viên cai tù đã phản đối, nói rằng
chưa bao giờ vườn của hắn lại được chăm sóc cẩn thận đến như vậy. Cho nên sáng
nay, tôi đã nhổ tất cả các cây dâu tây và vất vào sọt rác. Rồi tôi trồng một
cây thập tự nhỏ vào chỗ ấy.Cứ mỗi gốc dâu lại có một cây thập tự. Không cần
phải kể, cũng biết là sự việc này đã rùm beng lên như thế nào. Thằng cha cai tù
béo phệ này tức điên lên tưởng chết được. Hắn sùi cả bọt mép và nghẹn ngào nói
không ra tiếng nữa. Sau cùng ngồi trên chiếc xe cút kít, hắn đã khóc nức nở,
hai hàng nước mắt thật tuôn lã chã. Tôi đã chơi hơi quá nhưng biết làm sao
được?
Bác sĩ
không coi việc này là quá nghiêm trọng. Ông nhấn mạnh, bệnh nhân này phải được
đưa trả về trại giam, cho thích nghi lại với môi trường sống bình thường để
"thử nghiệm". Khi còn lại một mình ở trong vườn, ông mới nảy ra cái ý
nghĩ kỳ quặc này.
-
Papillon ơi, anh nói cho tôi biết tại sao anh lại nhổ dâu tây để trồng các cây
thập tự vào đấy?
- Tôi
cũng không giải thích nổi tại sao tôi làm như vậy bác sĩ ạ, và tôi đã xin lỗi
ông giám thị. Ông ấy cưng mấy cây dâu quá làm tôi cũng khổ tâm lắm. Tôi sẽ cầu
nguyện để xin Trời cho ông ấy những cây dâu khác.
Tôi đã
trở về trại giam, và gặp lại các bạn. Chỗ của Carbonieri vẫn để trống. Tôi mắc
võng ở bên cạnh, làm như thể Matthieu vẫn còn nằm ở đấy.
Bác sĩ
bắt đính vào áo ngoài của tôi giòng chữ: "Đang điều trị đặc biệt. Không
một ai, trừ bác sĩ, được ra lệnh cho tôi". Ông bảo tôi nhặt lá rụng trước
bệnh viện từ tám giờ đến mười giờ sáng. Tôi ngồi ghế bành uống cà phê và hút
thuốc với bác sĩ ngay trước nhà ông. Vợ ông cũng ngồi với chúng tôi, ông cùng
vợ ông cố gợi chuyện tôi về quá khứ của tôi.
- Sau
rồi làm sao, Papillon? Sau khi rời những người Anh- điêng mò ngọc trai, việc gì
đã đến với anh?
Trưa nào
tôi cũng ngồi với hai con người đáng khâm phục ấy. Vợ bác sĩ nói: "Anh lại
đây hàng ngày với tôi nhé, Papillon. Trước hết vì tôi muốn gặp anh, thứ đến là
tôi rất thích nghe kể những chuyện đã xảy ra với anh". Ngày nào tôi cũng
đến vài giờ với bác sĩ và vợ ông, thỉnh thoảng chỉ có một mình bà vợ. Bắt tôi
kể lại quãng đời đã qua của tôi, cả hai tin chắc rằng việc ấy sẽ làm tôi vĩnh
viễn lấy lại được thăng bằng.
Tôi
quyết định xin bác sĩ chuyển tôi đi đảo Quỷ. Rồi việc ấy cũng xong, ngày mai,
tôi sẽ đi. Ông bác sĩ và vợ ông biết vì sao tôi đòi đến đảo Quỷ. Cả hai quá tốt
với tôi nên tôi không muốn lừa dối họ: "Bác sĩ ơi, ở nhà tù khổ sai này,
tôi không sao chịu nổi, bác sĩ cho tôi chuyến đi đảo Quỷ để tôi vượt ngục hay
là chết, sao cũng được, miễn là chấm dứt tình trạng này đi cho rồi".
- Tôi
hiểu anh, Papillon ạ, cái chế độ đàn áp này cũng làm tôi chán ngấy, cái Ban
Quản trị ở đây quá thối nát. Thôi vĩnh biệt và chúc anh gặp may.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 33: Đảo Quỷ, chiếc ghe của Deiflus
Đảo Quỷ
là hòn đảo nhỏ nhất trong quần đảo Salut. Cũng là hòn đảo nằm cao nhất về hướng
Bắc, bị sóng gió vùi dập phũ phàng nhất. Qua một khoảng hẹp bằng phẳng chạy dài
dọc bờ biển là phải leo lên một cái dốc đưa tới một bãi bằng, trên đó đặt trạm
gác của bọn giám thị và một phòng giam độc nhất cho hơn mười tù nhân. Ở đảo
Quỷ, chính thức mà nói, không có tù khổ sai về hình sự mà chỉ có những bị án
giam hoặc lưu đày vì những lý do chính trị. Họ sống mỗi người ở riêng một căn
nhà nhỏ mái tôn. Cứ đến thứ hai, họ được phát thức ăn sống cho cả tuần, mỗi
người một ổ bánh mì. Họ có khoảng ba mươi người. Người đảm đương nhiệm vụ y tá
trên đảo là bác sĩ Léger, đã đầu độc cả gia đình, ở Lyon hay vùng phụ cận gì
đó.
Các tù
chính trị không liên hệ với tù khổ sai, và thỉnh thoảng họ lại viết thư về
Cayenne phản đối tù nhân này nọ ở đảo. Thế là tù nhân đó bị đưa về đảo Royale.
Một đường dây cáp nối đảo Royale với đảo Quỷ, vì nhiều khi biển động, tàu ở
Royale không ra đây cập vào bến xi-măng được. Chánh cai tù ở đây (có tất cả ba
người gác) tên là Santori. Đó là một người to lớn, quen thói ở bẩn, râu thường
để đến tám ngày không chịu cạo.
-
Papillon, tôi hy vọng anh xử sự cho đúng đắn ở đảo Quỷ này. Anh đừng kiếm
chuyện với tôi, tôi sẽ để anh yên. Anh về trại đi, tôi sẽ gặp anh tại đấy.
Tôi thấy
ở phòng giam có sáu tù nhân khổ sai: hai người Tàu, hai người da đen, một người
dân Bordeaux và một người vùng Lille. Một người Tàu biết rõ tôi, vì đã bị giam
chung với tôi ở Saint Laurent về tội giết người. Đấy là một người dân Đông
dương, còn sống sót sau vụ nổi loạn ở Côn đảo. Anh ta vốn là tay cướp biển
chuyên nghiệp, thường tấn công các ghe mành và đôi khi giết cả thủy thủ lẫn gia
đình chủ ghe. Anh ta là kẻ cực kỳ nguy hiểm, nhưng lại có một cách sống chung
với tập thể được ai nấy tin cậy và mến thích. Anh dùng tiếng Pháp bồi chào tôi:
-
Papillon, khỏe chứ?
- Còn
anh ra sao, Chang?
- Khỏe.
Ở đây dễ chịu lắm. Anh ăn với tôi. Anh ngủ đây, cạnh tôi. Tôi, nấu ăn ngày hai
lần. Anh, bắt cá. Đây, cá nhiều lắm.
Santori
đi tới:
- À, anh
đã thu xếp chỗ ở xong rồi hả? Ngày mai anh và Chang cho heo ăn. Chang mang dừa
tới, còn anh, anh lấy rìu bửa dừa ra làm đôi. Phải dành riêng những trái dừa
non cho heo con vì chúng không có răng. Bốn giờ chiều, các anh vẫn làm việc ấy.
Ngoài hai giờ làm việc, sáng một giờ, chiều một giờ, anh được tự do muốn làm gì
trên đảo thì làm. Ai đi câu được phải đưa một ký cá hay tôm hùm góp vào bếp của
tôi. Vậy cho mọi người vui vẻ. Thế có được không?
- Thưa
ông Santori, được lắm.
- Tôi
biết anh là dân chuyên vượt ngục, nhưng ở đây thì vô phương nên tôi không phải
lo. Ban đêm các anh bị nhốt nhưng tôi biết có người vẫn cứ ra được. Cẩn thận
đối với các tù chính trị đấy. Người nào trong bọn họ cũng có dao phát rừng. Anh
mà đến gần chỗ họ ở, họ tưởng anh đến ăn cắp gà hay trứng, anh có thể chết hay
bị thương, vì họ trông thấy anh được, còn anh, anh không thấy được họ.
Sau khi
cho hai trăm con heo ăn, mỗi ngày tôi đi với Chang khắp đảo. Anh biết tường tận
tất cả các xó xỉnh trên đảo. Một ông già, có bộ râu bạc dài, gặp chúng tôi trên
con đường đi quanh đảo, ven bờ biển. Đó là một nhà báo ở Tân Đảo đã viết tốt
cho bọn Đức, chống lại nước Pháp, trong chiến tranh 1914. Tôi còn gặp thằng đểu
đã làm cho Edith Cavell - cô nữ y tá người Anh hay Bỉ đã cứu các phi công Anh
năm 1917 - bị xử bắn. Nhân vật kinh tởm này, to béo mập mạp, tay cầm một cái
gậy, quật một con cá lịch dài tới một thước rưỡi và to bằng bắp đùi tôi. Cả ông
bác sĩ đảm đương nhiệm vụ y tá cũng ở trong một túp nhà nhỏ chỉ dành cho các tù
chính trị. Ông bác sĩ Léger này là một con người cao lớn dơ dáy và lực lưỡng.
Chỉ có mặt ông là còn sạch, tóc ông đã hoa râm, để rất dài rủ xuống cổ và thái
dương. Bàn tay ông đỏ mọng từng mảng vì những vết thương chắc là do víu vào các
mỏm đá ở biển, mãi vẫn chưa được lành hẳn.
- Anh
cần gì, cứ đến hỏi tôi, tôi sẽ cho. Có bệnh hãy đến. Tôi không ưa ai đến thăm
tôi và càng không ưa ai đến nói chuyện với tôi. Tôi bán trứng và cả gà con, gà
trống và gà mái. Nếu anh mổ trộm được một con heo nhỏ, mang cho tôi một đùi
sau, tôi sẽ trả anh một con gà và sáu quả trứng. Anh đã đến đây rồi thì cầm lấy
cái lọ một trăm hai mươi viên thuốc ký ninh này. Chắc anh đến đây để vượt ngục,
vậy thì nếu phúc tổ cho anh đi được, anh sẽ cần đến nó để sống ở rừng đấy.
Sáng và
chiều, tôi câu được hằng hà sa số cá phèn ở dưới các mỏm đá. Ngày nào tôi cũng
gửi cho bếp của cai tù ba đến bốn ký. Santori tươi hẳn lên. Chưa bao giờ lão ta
nhận được nhiều loại cá khác nhau lẫn tôm hùm như thế. Có những lúc, nước
xuống, tôi lặn mò được đến ba trăm con tôm hùm. Ngày hôm qua, bác sĩ Germain
Guibert đến đảo Quỷ. Biển lặng, ông đã đi cùng vợ và thiếu tá chỉ huy trại
Royale. Người đàn bà đáng phục này là người phụ nữ đầu tiên đặt chân lên đảo
Quỷ. Theo lời thiếu tá, cũng chưa có thường dân nào đặt chân lên đảo này. Tôi
đã được nói chuyện với bà một giờ đồng hồ. Bà đi với tôi đến chiếc ghế dài mà
Dreyfus* xưa kia vẫn thường ngồi nhìn ra biển cả, nhìn về phía nước Pháp đã hắt
hủi ông. (*Dreyfus Alfred, sĩ quan Pháp gốc Do Thái, Năm 1890 bị đưa ra tòa án
binh vì tội "gián điệp", rồi bị đày ra quần đảo Salut. Đến năm 1906
mới được thanh minh và phục hồi danh dự. Vụ án này đã làm chấn động dư luận
toàn nước Pháp hồi ấy và gây nên những cuộc tranh luận và xung đột dữ dội giữa
những người có tư tưởng cấp tiến bênh vực Dreyfus và những người có xu hướng
bài Do Thái. Nhà văn Emile Zola đã viết một bài báo nổi tiếng bài "Tôi tố
cáo" bênh vực Dreyfus bằng những lý lẽ đanh thép và một văn phong nảy lửa
đầy sức thuyết phục - ND).
Bà xoa
tảng đá và nói:
- Giá
tảng đá này có thể nói cho chúng ta biết những ý nghĩ của Dreyfus nhỉ...
Papillon này, chắc chắn đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau. Vì anh có nói
với tôi rằng anh sắp thử vượt ngục một chuyến nữa. Tôi cầu Chúa cho anh được
thành công. Tôi yêu cầu, trước khi anh đi, anh ngồi một phút trên tảng đá tôi
vừa xoa tay vào, và cũng xin anh xoa tay vào đấy để vĩnh biệt.
- Thiếu
tá cho phép tôi được gửi bằng dây cáp, một ít tôm hùm và cá cho bác sĩ, mỗi khi
tôi muốn, Santori cũng đồng ý. Vĩnh biệt bác sĩ, vĩnh biệt bà.
Trước
khi tàu rời khỏi bến, tôi chào cả hai người một cách rất tự nhiên. Bà Guibert
mở to mắt nhìn tôi, vẻ như muốn nói: "Hãy nhớ mãi đến chúng tôi vì chúng
tôi cũng không bao giờ quên anh". Chiếc ghế của Dreyfus ở tận mỏm phía Bắc
của đảo cao hơn mặt biển đến trên bốn mươi mét..
Hôm nay
tôi không đi câu. Trong bể cá thiên thiên, tôi còn hơn một trăm ký cá phèn và trong
một cái thùng ton-nô bằng sắt, được neo bằng xích, còn hơn năm trăm con tôm
hùm. Tôi có thể nghỉ câu. Tôi đã có dư để gửi cho bác sĩ và để dành cho
Santori, cho anh người Tàu và cho tôi. Lúc đó là năm 1941. Tôi ở tù đã mười một
năm. Tôi đã ba mươi lăm tuổi. Tôi đã sống những năm tươi đẹp nhất trong đời tôi
trong phòng giam, hoặc ở xà-lim. Tôi chỉ sống tự do hoàn toàn được bảy tháng
với bộ lạc Anh- điêng của tôi. Những đứa con mà tôi đã có với hai người vợ Anh-
điêng bây giờ đã tám tuổi. Thật khủng khiếp! Thời gian trôi qua nhanh đến vậy?
Nhưng nhìn về phía sau, tôi vẫn lặng ngắm những giờ những phút chịu đựng kéo
dài của khoảng thời gian đó, khoảng thời gian đã được khắc sâu trên con đường
đau khổ. Ba mươi lăm năm rồi! Montmartre, quảng trường Trắng, quảng trường
Pigalle, khoảng sân khiêu vũ ở Triều Hoa viên, đại lộ Clichy, đâu cả rồi?
Đâu rồi
em Nenette với bộ mặt y như Đức mẹ, thật sự là bức tranh chạm nổi, có đôi mắt
đen mênh mông tràn đầy tuyệt vọng nhìn tôi đăm đăm, đã kêu tôi giữa phiên tòa:
"Anh đừng lo, em sẽ đến tận đấy theo anh"?. Đâu rồi, luật sư Raymond
Hubert với lời an ủi: "Chúng ta sẽ được trắng án"? Đâu rồi, mười hai
cái bị thịt trong ban bồi thẩm? Đâu rồi bọn cớm ấy? Ngài biện lý? Ba tôi và các
em gái tôi, đã lấy chồng trong cảnh chiếm đóng, giờ đây đang làm gì? Bao nhiêu
chuyến vượt ngục! Thử tính xem bao nhiêu chuyến rồi. Chuyến đầu tiên, khi tôi
đánh gục bọn cai và tù ở bệnh viện trốn đi. Chuyến thứ hai ở Colombia, từ Rio
Hacha đi: chuyến đi đẹp nhất. Chuyến đó tôi thành công mỹ mãn. Tại sao tôi lại
bỏ bộ lạc của tôi nhỉ. Một cảm xúc yêu đương mãnh liệt làm toàn thân tôi rung
động. Tôi rùng mình, mường tượng như trong thân thể tôi còn giữ lại những cảm
giác mà tôi đã được thể nghiệm những khi làm tình với hai chị em cô gái Anh-
điêng.
Rồi
chuyến thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu ở Baranquilla. Những chuyến vượt ngục
này chỉ toàn chuyện rủi ro. Rồi mưu toan trốn tập thể trong buổi lễ mi-sa, thất
bại một cách thảm hại! Cái chuyến thuốc nổ hư và chuyện cái quần cậu Clousiot
bị vướng vào mái tôn. Rồi cái liều thuốc ngủ tác động quá chậm! Chuyến thứ bảy
ở đảo Royale, bị thằng xỏ lá Bébert Celier tố cáo. Không có nó, chắc chuyến ấy
có thể thành công. Giá nó câm mẹ cái mồm nó đi, chắc tôi và anh bạn Carbonieri
khốn khổ của tôi đã được tự do. Chuyến thứ tám, chuyến cuối cùng, ở nhà thương
điên. Sai lầm, một sai lầm lớn của tôi, là đã để cho anh người Ý chọn điểm hạ
thủy. Nếu xuống phía dưới chừng hai trăm mét nữa, chỗ gần lò sát sinh, chắc thả
bè dễ hơn nhiều.
Chiếc
ghế dài này, nơi Dreyfus vô tội bị án tù, mà vẫn can đảm sống được, nhất định
phải giúp cho tôi được việc gì. Không bao giờ được chịu thua! Phải thử làm một
chuyến vượt ngục nữa. Phải, tảng đá nhẵn, trơn, nhô lên trên vực thẳm chỉ có đá
bị sóng dập liên tục này phải trở thành một sự nâng đỡ về tinh thần và một tấm
gương đối với tôi. Dreyfus không bao giờ chịu để tinh thần bị suy sụp, ông luôn
luôn đấu tranh đến cùng để được khôi phục danh dự. Quả Dreyfus có một ưu thế đã
làm được Emile Zola bênh vực với bài: "Tôi tố cáo" nổi tiếng. Tuy vậy
nếu ông không phải là con người đã được tôi luyện thì trước bấy nhiêu nỗi bất
công chắc chắn ông đã từ chiếc ghế này gieo mình xuống vực. Ông đã chịu đựng
được. Tôi không thể kém Dreyfus, và tôi phải từ bỏ ý nghĩ vượt ngục với phương
châm: thắng hay là chết. Tôi phải bỏ hẳn chữ chết, vì chỉ được nghĩ rằng tôi
phải thắng và phải được tự do.
Trong
khi ngồi trên chiếc ghế của Dreyfus, tâm hồn tôi lang bang nghĩ đến quá khứ, mơ
tưởng đến tương lai tươi đẹp. Mắt tôi thường bị lóa vì ánh nắng chói chang, vì
ánh phản quang màu bạch kim của những ngọn sóng. Cứ nhìn biển mãi mà không thực
sự nhìn thấy nó, tôi dần dà biết được tất cả những thay đổi thất thường có thể
tưởng tượng được của những lớp sóng cuộn theo chiều gió. Đều đều, không mệt
mỏi, không thay đổi, biển cả cứ tấn công vào các mỏm đá nhô ra khỏi đảo xa
nhất. Nó sục sạo, mài mòn, đập vỡ những tảng đá nọ, như muốn nói với đảo Quỷ:
"Mi cút đi, mi phải biến mất đi, ta muốn xô vào Đất liền mà mi cứ làm ta
vướng víu, mi chặn đường đi của ta. Vì vậy, hàng ngày, không phút nào ngơi, ta
phải tước đi từng chút ít một của mi". Khi có giông bão, biển thả sức vui
vẻ hoành hành. Nó không chỉ lao tới, và khi rút ra, cào hết tất cả những gì nó
đã đập phá được, mà hơn thế nữa, có còn chui rúc, len lỏi đưa nước vào tất cả
các ngõ ngách để dần dà, từng chút một, xói mòn ngầm những tảng đá khổng lồ
đang có vẻ như quát vào biển: "Cấm đi qua đây, cấm qua chỗ này".
Và tôi
đã khám phá ra một điều quan trọng. Ngay dưới chỗ ghế của Dreyfus, sóng xô
thẳng vào những tảng đá sống trâu này, tấn vào, tan ra và rút đi vôi một sức
mạnh hung hãn. Hàng tấn nước không tung tóe ra được vì bị kẹt giữa hai tảng đá
hình móng ngựa rộng chừng năm, sáu mét. Sau đó là vách đá ngựa rộng chừng năm,
sáu mét. Sau đó là vách đá dựng đứng, cho nên nước theo sóng vào chỉ có một
đường thoát là quay ngược lại, rút ra khơi. Điều này rất quan trọng vì nếu khi
sóng bị tóe ra và lùa vào vực thẳm, tôi từ trên mỏm đá ôm một bao trái dừa lao
thẳng xuống đấy, thì chắc chắn, không nghi ngờ gì cả, là nước rút sẽ cuốn tôi
ra theo. Tôi biết chỗ có thể kiếm ra vài cái bao tải, ở chuồng heo muốn có bao
nhiêu để đựng dừa cũng có. Việc đầu tiên là phải làm thử đã. Vào những ngày
trăng tròn, lúc nước thủy triều lên cao nhất, thì sóng cũng mạnh nhất. Tôi sẽ
chờ một đêm như thế.
Một bao
tải nhét đầy trái dừa còn cả vỏ xơ, đã khâu kỹ lại, được dấu trong một cái hang
mà muốn vào đấy phải lặn xuống nước. Tôi tìm ra nó lúc lặn mò tôm hùm. Tôm hùm
bám vào trần hang, không khí chỉ lọt được vào hang khi nước xuống. Trong một
bao tải khác được chằng cùng với bao đựng trái dừa, tôi bỏ một tảng đá nặng
chừng ba mươi lăm đến bốn mươi ki lộ Vì tôi tính tôi sẽ vượt ngục với hai bao
tải chứ không phải một, mà tôi thì cân nặng bảy chục ký, cho nên tỷ lệ như vậy
là tương đương. Thí nghiệm này kích thích tôi rất dữ. Không ai đến phía này của
đảo bao giờ. Cũng không ai ngờ rằng có người lại chọn nơi bị sóng dập mạnh
nhất, nghĩa là nơi nguy hiểm nhất, để vượt ngục. Nhưng đây lại là địa điểm duy
nhất mà, nếu tôi rời được bờ, tôi sẽ được sóng đưa ra khơi và không thể nào lại
đâm đầu vào đảo Royale được. Chỉ ở đây chứ không phải ở đâu khác, tôi sẽ ra đi.
Những
bao tải đựng dừa và hòn đá không dễ mang vác Tôi không sao kéo nó lên mỏm đá
được. Đá trơn và lúc nào cũng ướt. Tôi đã bàn với Chang, và anh ta đã đến giúp
tôi. Anh mang cả bộ đồ nghề câu cá, dây câu ngầm, để lỡ bất ngờ gặp ai, chúng
tôi có thể nói là chúng tôi đi đặt lưới bẫy cá mập.
- Bắt
đầu đi, Chang. Một chút nữa là xong.
Trăng
rằm chiếu sáng vằng vặc như ban ngày. Tiếng sóng ầm ầm làm tôi choáng váng.
Chang hỏi tôi: "Anh đã sẵn sàng chưa Papillon? Cho nó theo lớp sóng này
đi. Cột sóng cao năm thước, thẳng đứng ập xuống bờ đá. Chân sóng xô vào phía
dưới chúng tôi mạnh đến nỗi ngọn sóng vượt qua cả mỏm đá, làm chúng tôi bị ướt
hết. Nhưng nó cũng không ngăn cản chúng tôi ném các bao tải đúng lúc hình thành
xoáy nước trước khi sóng rút ra. Hai cái bao tải bị cuốn đi như một cọng rơm.
- Tốt
rồi, Chang, thế là xong. Chờ xem bao tải có trở về không.
Năm phút
sau, tôi rụng rời cả người khi trông thấy bao tải của tôi ở trên đỉnh một lớp
sóng ngầm cao ngất, đến sáu bảy mét bị đưa trở vào bờ. Sóng nâng túi dừa vào
tảng đá như không có nghĩa lý gì. Nó đưa những thứ đó lên trước ngọn sóng,
khoảng trước bọt nước một chút, với một sức mạnh phi thường, sóng đã trả nó về
chỗ nó bắt đầu bị cuốn đi, đập vào đá vỡ tan thành, bao tải rách bươm ra, mấy
quả dừa bắn tung ra khắp nơi, còn tảng đá thì lăn xuống đáy vực. Chang và tôi
đều ướt thấu xương, bị đẩy ngã, may mà ngã về phía đất liền. Cả người chúng tôi
bị xây xát và ê ẩm. Chúng tôi không buồn nhìn ra phía biển mà vội rời cho thật
nhanh cái nơi đáng nguyền rủa này.
- Không
tốt đâu, Papillon. Cái ý vượt ngục ở đảo Quỷ không tốt đâu. Ở Royale thì hơn.
Anh đi từ phía Nam hơn ở đây.
Phải,
nhưng ở đảo Royale, việc vượt ngục chỉ hai giờ sau là nhiều nhất, sẽ bị lộ. Các
bao tải đựng dừa chỉ đi được nhờ sức sóng đẩy, tôi sẽ bị ba chiếc tàu ở đảo
quây bắt được liền.Còn ở đây, thứ nhất là không có tàu, thứ hai, chắc chắn tôi
vượt ngục, sau người ta tưởng tôi đi câu bị chết đuối. Ở đảo Quỷ, không có điện
thoại. Nếu tôi đi lúc trời xấu, không tàu nào có thể đến được đây. Vì vậy tôi
phải từ ở đây đi. Nhưng ra đi bằng cách nào? Giữa trưa, trời nắng chang chang.
Một thứ nắng nhiệt đới làm cho đầu óc muốn sôi lên. Một thứ nắng thiêu cháy mọi
thứ cây cỏ đã nảy mầm được nhưng chưa lớn đến mức đủ sức đương đầu với nắng.
Một thứ ánh nắng mà chỉ trong vài giờ cũng đã làm cho các vùng nước biển không
sâu quá phải bay hơi chỉ còn lại một lớp muối trắng. Một thứ ánh nắng làm cho
làn không khí chao đảo như nhảy múa. Đúng, ánh nắng chuyển động thật sự trước
mắt tôi, và ánh nắng phản chiếu trên mặt biển làm tôi rát bỏng cả mắt.
Tuy vậy,
lúc ngồi lại trên chiếc ghế của Dreyfus, tất cả những điều đó không ngăn tôi
tiếp tục quan sát mặt biển. Lúc bấy giờ tôi mới thấy tôi quá ư là ngốc. Con
sóng ngầm, cao gấp hai lần tất cả các con sóng khác, con sóng đã ném các bao
tải của tôi vào đá, làm nó tan vụn hoàn toàn, con sóng này chỉ thỉnh thoảng mới
có. Tôi tính kỹ thì thấy cứ sáu đợt sóng bình thường mới có một đợt sóng ngầm
dữ dội như vậy. Từ giữa trưa đến lúc mặt trời lặn, tôi quan sát xem thử có phải
đều đặn như thế không, có những thay đổi gì không, nghĩa là xem thử có gì không
đều trong chu kỳ và hình dáng con sóng khổng lồ này không. Không, không một lần
nào con sóng ngầm đến trước hay đến sau. Cứ sáu đợt sóng cao chừng sáu mét kéo
vào, thì cách bờ hơn ba trăm mét, con sóng ngầm lại hình thành. Nó đến thẳng
đứng như chữ I Càng tới gần bờ, nó càng tăng khối lượng và chiều cao. Không có
bọt sóng ở trên ngọn, khác hẳn sáu con sóng kia. Rất ít bọt. Tiếng sóng cũng
đặc biệt, giống như tiếng sấm rền đang tắt dần từ xa. Khi sóng xô vào bờ đá, ập
vào khoảng giữa hai tảng đá nọ, rồi đập vào vách, khối lượng nước của nó lớn
hơn của các con sóng khác, nó bị tắc lại, quay lộn nhiều lần trong hốc đá và
mất mươi mười lăm giây những cuộn nước xoáy mới tìm được lối thoát và rút ra,
cuốn theo những hòn đá to cứ lăn đi lăn lại, ầm ầm như tiếng hàng trăm chiếc xe
chở đá được đổ xuống vực một cách thô bạo.
Tôi bỏ
độ một chục quả dừa vào một cái bao tải, tôi tống một tảng đá nặng độ hai mươi
ki-lô vào đấy và con sóng ngầm vừa xô vào đá, tôi ném bao tải xuống. Mắt tôi
không trông theo được bao tải vì có quá nhiều bọt nước trắng trong vực xoáy,
nhưng tôi cũng thoáng thấy nó trong một giây, khi nước như bị hút mạnh, băng
băng kéo ra ngoài khơi. Bao tải không bị đẩy trở lại. Sáu con sóng kia không đủ
sức ném nó vào bờ và khi con sóng thứ bảy hình thành, cách xa chừng ba trăm
mét, cái bao tải hẳn đã vượt ra ngoài cái vùng con sóng ngầm bắt đầu hình
thành, vì tôi không còn nhìn thấy bao tải ấy đâu nữa. Lòng chứa chan vui mừng
và hy vọng, tôi đi về trại. Thế là tôi đã tìm ra một cách hạ thủy thật hoàn
hảo. Không được phiêu lưu trong việc này. Thế nào tôi cũng cần phải thử một lần
cho nghiêm chỉnh hơn, với những số liệu tương ứng một cách chính xác với bản
thân tôi: hai bao trái dừa buộc chặt vào nhau, và ở trên là bảy mươi ki-lô được
phân đều cho hai hay ba tảng đá.
Tôi kể
cho Chang. Và anh bạn Tàu của tôi ở Côn Đảo đã giỏng tai ra nghe.
- Tốt
lắm, Papillon ạ. Tôi cho thế là anh đã tìm được cách rồi. Tôi sẽ giúp anh làm
thử thật sự. Chờ nước thủy triều lên cao tám mét: sắp đến điểm phân mùa rồi.
Được
Chang giúp đỡ, lợi dụng điểm phân mùa, có con sóng cao hơn tám mét, tôi ném
xuống con sóng ngầm nọ hai bao trái dừa kèm theo ba tảng đá nặng chừng tám mươi
ki-lô.
- Tên
con bé mà anh bơi ra cứu ở Saint Joseph là gì?
-
Lisette. Vậy ta cũng đặt tên con sóng có ngày sẽ cuốn anh đi theo là Lisette.
Bằng lòng không?
- Đồng
ý.
Lisette
ập đến ầm ầm như một đoàn xe lửa tốc hành tới ga. Nó hình thành từ ngoài xa hơn
hai trăm năm mươi mét, và sừng sững như vách đá, nó tiến vào mỗi lúc một lớn
dần. Quả là một cảnh tượng uy nghi. Nó đập vào vách làm Chang và tôi bị hất hẳn
sang bên tảng đá, và các bao tải đã tự nó rơi xuống vực Vì biết ngay trong một
phần mười giây rằng chúng tôi không thể đứng lại trên mỏm đá được, chúng tôi đã
lùi về sau: điều đó tuy không tránh cho chúng tôi khỏi bị một khối nước ập đến
tát ướt cả người, nhưng cũng làm cho chúng tôi khỏi bị ngã xuống vực. Chúng tôi
làm cuộc thí nghiệm này lúc mười giờ sáng. Chúng tôi không sợ gì vì ba tên cai
tù đều ở đầu kia đảo lo việc tổng kiểm kê. Mấy cái bao tải đã trôi ra khơi,
chúng tôi trông rất rõ, nó đã trôi rất xa bờ. Nó có trôi ra quá chỗ hình thành
của con sóng không? Chúng tôi không có gì làm chuẩn để biết được các bao tải ở
xa hơn hay gần hơn chỗ ấy. Sáu con sóng tiếp theo con Lisette đều không đuổi
kịp được đà trôi của nó.
Một lần
nữa Lisette lại hình thành và bắt đầu xô vào bờ. Các bao tải cũng không bị nó
cuốn vào. Thế là chúng đã thoát được khỏi khu vực ảnh hưởng của con sóng. Trở
vội lên ngồi vào ghế của Dreyfus để cố tìm ra các bao tải một lần nữa, chúng
tôi có được nỗi vui mừng được bốn lần nhìn thấy nó bập bềnh trên các ngọn sóng,
không hướng về phía đảo Quỷ mà đi về hướng Tây. Không còn phải bàn cãi gì nữa,
cuộc thí nghiệm đã cho thấy kết quả tốt. Tôi sẽ lên đường dấn thân vào cuộc
phiêu lưu vĩ đại trên lưng Lisette. "Nhìn kìa, nó đến đấy". Một, hai,
ba, bốn, năm, sáu, rồi đến lượt Lisette tiến vào. Ở mỏm đá, chỗ đặt ghế của
Dreyfus xưa nay, biển vẫn khắc nghiệt, nhưng hôm nay nó đặc biệt hung dữ.
Lisette tiến vào với tiếng ầm ầm riêng biệt của nó. Tôi thấy nó lù lù hơn ngày
thường, và hôm nay, nhất là ở chân sóng, khối lượng nước được di chuyển còn
nhiều hơn nữa. Khối nước khổng lồ này sẽ tấn công hai tảng đá mau lẹ hơn, thắng
góc hơn. Vì khi con sóng vỡ, đổ xô vào khoảng cách giữa hai tảng đá khổng lồ,
tiếng động còn inh tai nhức óc hơn bao giờ hết, nếu trên đời có thể có một tiếng
động quái gở như vậy.
- Anh
nói là phải lao xuống chỗ này phải không? Đúng đấy, anh chọn chỗ này thật là
tuyệt. Tôi thì tôi không chơi đâu. Tôi muốn vượt ngục thật, nhưng tôi không
muốn tự tử.
Sylvain
rất xúc động khi tôi giới thiệu Lisette với anh ta. Anh mới đến đảo Quỷ được ba
ngày và tất nhiên tôi rủ anh cùng đi với tôi. Mỗi người đi một bè. Do đó nếu
anh nhận lời, tôi sẽ có bạn khi đến Đất liền để tiến hành cuộc đào tẩu tiếp
theo. Ở rừng mà chỉ có một mình chẳng thú vị chút nào đâu.
- Đừng
có sợ trước khi làm. Tôi công nhận là lần đầu tiên, ai cũng phải chùn bước.
Nhưng đây lại là con sóng duy nhất có thể kéo cậu ra thật xa, các con sóng tiếp
theo không có đủ sức kéo cậu trở lại bờ đá.
- Bình
tĩnh nào, nhìn kỹ lại, chúng tôi đã thử rồi - Chang nói - Chắc chắn, cậu đã đi
rồi là sẽ không bao giờ trở lại đảo Quỷ, cũng không vào đảo Royale đâu.
Mất một
tuần, tôi mới thuyết phục được Sylvain. Một người rắn chắc, cao một mét tám
mươi, cân đối, với một thân hình lực sĩ điền kinh.
- Được.
Tôi công nhận chúng ta sẽ được đưa ra đủ độ xa. Sau đó, cậu tính cứ để sóng đẩy
đi, mất bao nhiêu ngày thì đến được Đất liền?
- Thật
tình, tôi cũng không biết đâu, Sylvain ạ. Có thể bị giạt nhiều hay ít, tùy thời
gian ảnh hưởng của gió không có mấy, vì chúng ta ở sát mặt nước. Nhưng nếu trời
xấu, sóng sẽ lớn và đẩy chúng ta mau hơn vào phía rừng. Khoảng bảy tám, nhiều
nhất là mười con nước, chúng ta sẽ bị đẩy vào bờ. Do đó, xê xích ít nhiều thì
mất chừng bốn mươi tám đến sáu mươi giờ.
- Cậu
tính thế nào vậy?
- Từ các
đảo thẳng đến bờ, không xa hơn bốn mươi cây số. Vì bị trôi giạt nên đường đi
làm thành cạnh huyền một tam giác vuông. Cậu nhìn hướng sóng đi. ít nhiều, cũng
phải đi một quãng từ một trăm đến một trăm hai mươi ki-lô-mét là tối đạ Chúng
ta càng đến gần bờ, sóng càng đẩy chúng ta thẳng hướng vào đấy. Thoạt tính, cậu
không cho là một vật trôi giạt ở bờ với khoảng cách như thế, lại không được đẩy
đi với tốc độ năm ki-lô-mét một giờ.
Anh ta
nhìn tôi và chăm chú nghe rất kỹ những lời giải thích của tôi. Chàng trai cao
lớn này rất thông minh.
- Đúng.
Tôi công nhận là những điều cậu nói chẳng ngu ngốc chút nào, và nếu không có
những con nước xuống làm mất thì giờ của ta, vì chúng lại đẩy ta ra ngoài khơi,
chắc chắn chỉ trong vòng ba mươi giờ, ta có thể đến đất liền. Do có những con
nước xuống, tôi cho là cậu nói có lý: muốn đến đất liền phải mất từ bốn mươi
tám đến sáu mươi tiếng.
- Cậu
tin chắc rồi thì cậu đi với tôi chứ?
- Có
thể. Giả dụ, ta đến chỗ đất liền là rừng thì ta làm gì?
- Ta
phải đến vùng gần khu vực Kourou. Ở đây có một làng dân chài khá lớn, có những
người đi tìm balata và tìm vàng. Phải đến gần một cách thật thận trọng vì ở đấy
cũng có một lâm trường của tù khổ sai. Chắc chắn cũng có những điểm để từ đó đi
sâu vào trong rừng đến Cayenne và đến một trại của người Tàu được gọi là Inini.
Phải bắt một tù nhân hay một thổ dân da đen buộc họ phải dẫn mình đến Inini.
Nếu người ấy tử tế, ta có thể cho năm trăm đồng rồi bảo anh ta chuồn đi cho
khuất mắt. Nếu cũng là một người tù, thì ta bắt hắn phải cùng đi trốn với ta.
- Inini
là trại giam đặc biệt cho người Đông dương, thế thì ta đến đấy để làm gì?
- Ở đấy
Chang có người anh ruột.
- Đúng,
anh ấy là anh tôi. Anh ấy sẽ vượt ngục với các anh, anh ấy kiếm ra được ca-nô
và thức ăn. Cách anh sẽ gặp Quých-Quých, các anh sẽ có đủ thứ để đi đường.
Không một người Tàu nào chịu làm chỉ điểm cả cho nên anh gặp bất cứ người An
Nam * (*Tác giả cũng như nhiều người Pháp hồi đó, không biết phân biệt người
"Tàu với người "An Nam") nào ở trong rừng, anh cứ bảo người đó
tin cho Quých-Quých biết.
- Tại
sao người ta lại gọi anh ta là Quých-Quých? - Sylvain hỏi.
- Tôi
không biết, do bọn Pháp đặt tên cho anh như vậy - Đoạn anh nói thêm: "Các
anh phải cẩn thận, khi đến đất liền rồi, các anh sẽ thấy bùn. Đừng bao giờ đi
trên bùn, đi không tốt, nó hút các anh xuống đấy. Chờ cho nước đưa các anh vào
tận rừng để có thể bám được dây leo và cành cây. Nếu không thì nguy lắm.
- À đúng
đấy, Sylvain à. Không bao giờ được đi trên bùn, ngay cả khi ở rất gần, rất gần
bờ. Phải chờ lúc túm được cành cây hay sợi dây leo nào đã.
- Được
Papillon. Tôi đã quyết định rồi. Hai cái bè được chế tạo cùng một kiểu, không
khác nhau mấy, vì chúng ta cũng nặng cân gần như nhau, chắc chắn chúng ta sẽ
không bị tách rời nhau quá xa. Nhưng không sao lường trước được việc gì cả. Nếu
lạc nhau ta sẽ tìm nhau ra sao?
- Ở đây,
ta không nhìn được tới Kourou. Cậu có để ý, khi cậu còn ở Royale là ở phía bên
phải Kourou, khoảng chừng hai mươi ki-lô-mét, có những tảng đá trắng, thấy rất
rõ khi mặt trời chiếu vào đấy phải không?
- Đúng.
- Cả vùng
bờ biển này, chỉ chỗ ấy là có đá. Bên phải, bên trái, đến vô cùng tận, chỉ là
bùn. Đá trắng là do cứt chim là ở đấy. Có đến hàng ngàn con, và vì không có
người nào đến đấy bao giờ, chỗ đó sẽ là nơi trú chân để ta lấy lại sức trước
khi đi sâu vào rừng. Ta sẽ ăn trứng và ăn chỗ dừa ta đem theo. Không được đốt
lửa. Ai đến trước sẽ đợi người tới sau.
- Đợi
bao lâu?
- Năm
ngày. Không thể nào sau năm ngày, người kia lại không tới được.
Hai
chiếc bè đã được làm xong. Các bao tải được lồng vào nhau, hai cái làm một, cho
bền hơn. Tôi yêu cầu Sylvain dành cho tôi mười ngày để tập cưỡi bao tải, càng
nhiều giờ càng hay. Anh ta cũng phải làm như vậy. Mỗi lần thấy các bao tải sắp
bị lật ngửa ra, phải cố gắng làm sao ngồi vững ở trên. Nhưng chú ý không được
ngủ quên vì sợ bị nhào xuống nước mà không bấu víu kịp. Chang khâu cho tôi một
cái túi nhỏ không thấm nước để đeo vào cổ, trong đựng thuốc lá và máy lửa.
Chúng tôi mỗi đứa nạo mười quả dừa để mang theo. Cùi dừa giúp chúng tôi chịu
đói và còn làm đỡ khát nữa. Hình như Santori có một thứ bong bóng bằng da đựng
được rượu. Lão ta không dùng đến nó bao giờ. Khi nào có dịp lọt vào nhà lão,
Chang sẽ tìm cách xoáy cái đó.
Chúng
tôi định khởi sự vào ngày chủ nhật, lúc mười giờ tối. Trăng rằm, sóng thủy
triều ắt phải cao đến tám mét. Lisette hẳn sẽ ở vào thời điểm mạnh nhất. Sáng
chủ nhật, một mình Chang sẽ cho heo ăn. Tôi sẽ ngủ suốt ngày thứ bảy và cả chủ
nhật. Khởi hành lúc mười giờ đêm. Thủy triều bắt đầu xuống đã được hai giờ. Hai
cái bao tải của tôi không thể nào tách rời ra được Chúng được kết chắc lại bằng
những sợi gai bện vào với nhau, bằng dây đồng, và khâu liền với nhau bằng gai
buồm. Chúng tôi đã kiếm những cái bao có miệng rộng để lồng bao nọ vào bao kia
sao cho vừa không thể tuột ra ngoài được. Sylvain không ngừng tập thể dục, còn
tôi, tôi đứng hàng giờ để những lớp sóng lăn tăn đập vào đùi tôi như xoa bóp
vậy. Sóng cứ đập liên hồi vào đùi tôi và việc tôi phải lên gân chống lại sóng
làm cho đùi và bắp chân tôi cứng như sắt.
Ở một
cái giếng bị bỏ hoang, có một sợi dây xích dài gần ba mét. Tôi quấn vào nó
những sợi thừng nối các bao tải của tôi. Tôi có một cái ốc bù-loong có thể chốt
qua các móc xích. Trong trường hợp tôi không chống đỡ nổi, tôi sẽ dùng sợi xích
sắt để buộc mình vào cái bao tải. Làm như vậy, tôi có thể ngủ mà không sợ rơi
xuống nước và để trôi mất cái bè. Nếu bao tải lật, nước sẽ làm tôi tỉnh dậy và
tôi sẽ lật nó lại như cũ.
-
Papillon này, chỉ còn ba ngày nữa thôi. - Chúng tôi ngồi trên ghế của Dreyfus,
nhìn Lisette.
- Phải,
chỉ còn ba ngày nữa thôi, Sylvain ạ. Tớ tin tưởng là sẽ thành công. Còn cậu thì
sao?
- Chắc
ăn lắm, Papillon à. Đêm thứ ba hay sáng thứ tư, bọn ta sẽ ở trong rừng rồi. Lúc
đó, tha hồ mà chén cho đẫy! Chang nạo cho mỗi đứa chúng tôi mười trái dừa.
Ngoài dao, chúng tôi còn mang hai cái rựa đẵn cây ăn cắp được ở kho dụng cụ.
Trại
Inini ở phía Đông Kourou. Buổi sáng đi, ngược lại phía mặt trời chiếu tới, chắc
chắn là sẽ đúng hướng.
- Sáng
thứ hai, Santori sẽ điên lên mất. - Chang nói. - Tôi sẽ không nói là cậu và
Papi đã chuồn trước ba giờ chiều ngày thứ ba, khi tên gác đã ngủ trưa dậy.
- Hay là
cậu vừa chạy về vừa kêu là chúng tớ đang câu cá thì bị sóng lớn cuốn đi?
- Không được, lôi thôi lắm. Tôi chỉ nói: "Sếp ạ, Papillon và Stephen hôm nay không thấy đi làm, tôi phải cho heo ăn một mình" - chỉ thế thôi, không hơn không kém.
Mục lục
Papillon-Người
tù khổ sai (Chương 1-10)
Papillon-Người
tù khổ sai (Chương 11-18)
Papillon-Người
tù khổ sai (Chương 19-26)
Papillon-Người
tù khổ sai (Chương 27-33)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét