PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Papillon - Người Tù Khổ Sai
Tác giả:Henry Charrière
.. Bị xử án đày khổ sai chung thân vì
tội giết người căn cứ vào lời khai của một nhân chứng đã được công an gia công
trước, Charriere quyết chí chuẩn bị vượt ngục ngay từ đầu. Anh quyết sống và
thoát ra khỏi trại khổ sai để trả thù. Quyết tâm ấy đã làm cho anh có đủ sức
mạnh chịu đựng mọi thử thách. Không có một mối nguy hiểm nào làm cho anh lùi
bước, không có một phen thất bại ê chề nào làm cho anh nhụt chí. Nếu kể cả những
mưu toan vượt ngục đã bị vỡ lở ngay từ khi đang chuẩn bị, Charriere, biệt hiệu
Bươm Bướm, đã tổ chức cả thảy chín lần vượt ngục trước khi thành công và được
nhận cư trú ở Venezuela như một công dân chính thức...
Năm 1967, hơn ba mươi lăm năm sau khi
anh bị bắt và hơn hai mươi năm sau khi anh trở thành công dân tự do của nước
Venezuela, Henri Charriere, lúc bấy giờ đang túng thiếu vì mới bị phá sản, nhân
đọc một cuốn hồi ký phiêu lưu đã đem lại cho nữ tác giả hàng triệu đồng, nảy ra
ý viết lại những cuộc vượt ngục của bản thân. Anh nhờ bạn bè đánh máy theo lời
anh kể rồi đem mười ba tập đánh máy ấy gửi cho nhà văn J. P. Castelnau nhờ ông
giao cho một người nào biết viết văn viết lại cho thành một cuốn sách có thể
xuất bản được. Castelnau đã không làm theo ý Charriere: ông cho in ngay chính
bản thảo của Charriere, sau khi chữa lại một vài lỗi ngữ pháp và lỗi chính tả.
Nhà văn biết rõ rằng không có một nhà văn chuyên nghiệp nào có thể có được cách
kể chuyện sinh động và đầy cảm xúc chân thật, hồn nhiên của chính người đã sống
qua những sự việc được kể. Sức hấp dẫn kỳ lạ của thiên tự sự sở dĩ có được
chính là vì người kể dường như sống lại một lần nữa những sự việc thật đã xảy
ra với đầy đủ những cảm xúc sâu đậm và mãnh liệt của mình lúc bấy giờ. Tâm hồn
nhiệt thành của Charriere đã cho phép anh thực hiện được điều đó.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 1:
Con
đường của sự thối nát, Phiên tòa đại hình
Cái tát
mạnh đến nỗi mãi mười ba năm sau tôi mới gượng dậy được. Quả nhiên đó không
phải là một cái bớp bình thường, và để giáng nó vào mặt tôi, họ đã xúm lại khá
đông.
Hôm ấy
là ngày 26 tháng Mười năm 1931. Từ tám giờ sáng tôi đã được đưa ra khỏi căn
buồng giam dành cho tôi ở nhà lao Conciergerie từ một năm naỵ Tôi đã cạo mặt
nhẵn nhụi, ăn mặc chỉnh tề: bộ com-lê này ở một hiệu may có hạng làm cho dáng
dấp tôi thêm phần trang nhã. Sỡmi trắng, thắt một chiếc nơ bươm bướm màu xanh
nhạt điểm thêm một nét cuối cùng làm cho trang phục của tôi càng hoàn chỉnh.
Tôi đã
hai mươi lăm tuổi, nhưng trông chỉ độ hai mươi. Bọn cảnh sát hơi chững lại
trước cái dáng dấp "gentlemen" của tôi, nên cư xử với tôi khá lịch
thiệp. Họ còn cởi khóa tay cho tôi nữa là khác. Họ với tôi cả thảy sáu người
đang ngồi trên hai chiếc ghế dài đặt trong căn phòng trống trải. Bên ngoài trời
u ám. Trước mặt chúng tôi có một cánh cửa chắc hẳn là dẫn sang phòng xử án, vì
nơi này là Tòa án quận Seine ở Paris.
Lát nữa
tôi sẽ bị tố cáo về tội giết người. Trạng sư của tôi ông Raymond Hubert, có đến
chào tôi. "Không có lấy một bằng chứng đích đáng nào chống lại anh, tôi
tin chắc là chúng ta sẽ được trắng án". Tôi nghe hai chữ "chúng
ta" mà không khỏi mỉm cười. Cứ như thể chính ông ta; luật sư Hubert, cũng
sắp ra trước tòa án đại hình với tư cách bị cáo, và nếu có hình án gì thì ông ta
cũng sẽ cùng chịu với tôi.
Một viên
lục sự mở cửa mời chúng tôi vào. Qua hai cánh cửa mở rộng, có bốn viên cảnh sát
đi hai bên cùng với viên chuẩn úy chỉ huy họ, tôi bước vào một gian phòng rộng
mênh mông. Để dáng cho tôi cái tát kia, họ đã trang hoàng cho gian phòng toàn
bằng màu đỏ thẫm như máu: những tấm thảm, những tấm rèm trên các cửa sổ lớn,
cho đến cả những bộ áo dài của các quan tòa lát nữa sẽ xét xử tôi.
- Thưa
các vị, Tòa đã ra?
Từ một
cánh cửa ở bên phải lần lượt bước ra sáu người. Quan Chánh án, rồi đến năm vị
quan tòa, đều đội mũ vải đỏ. Quan Chánh án đứng lại trước cái ghế đặt ớ giữa,
và hai bên các vị quan tòa khác cũng đứng vào chỗ. Một cõi im lặng trang nghiêm
trùm lên gian phòng: ai mấy đều đứng yên, kể cả tôi, cho đến khi Tòa ngồi xuống
mọi người mới ngồi theo.
Viên
chánh án, có đôi má phính ửng hồng trên hai lưỡng quyền, vẻ mặt khắc nghiệt,
nhìn thẳng vào mắt tôi mà không để lộ một cảm xúc nào. Ông ta tên là Bévin. Sau
này ông ta sẽ chủ trì những cuộc tranh luận một cách không thiên vị, và thái độ
của ông sẽ làm cho mọi người hiểu rằng, là một quan tòa chuyên nghiệp, ông ta
không lấy gì làm tin tưởng vào sự thành thật của các nhân chứng và các nhân
viên cảnh sát. Không, ông ta sẽ không có phần trách nhiệm nào trong cái tát,
ông ta chỉ làm cái việc dọn nó lên cho tôi ăn mà thôi.
Công tố
viên là luật sư Pradel. Tất cả các trạng sư đều rất sợ Ông tạ Ông ta nổi tiếng
là người cung cấp đắc lực nhất cho máy chém và cho các nhà lao trong nước cũng
như hải ngoại.
Pradel
là biểu trưng của bàn tay trừng phạt của công lý. Đó là người buộc tội chính
thức của xã hội, một sức mạnh không có chút nhân tính. Ông đại diện cho PHáP
LUậT, cho Cán cân Công lý, chính ông cầm cái cân ấy và ông sẽ đem hết sức mình
ra để làm cho nó nghiêng về phía ông. Đôi mắt kền kền của ông hơi cụp mi xuống
nhìn tôi chằm chằm từ trên cao. Trước hết đó là chiều cao của cái bệ Ông ta
đứng, thứ đến là chiều cao của vóc người ông, ít ra cũng phải một thước tám, nó
làm tăng cái vẻ hách dịch của ông ta lên rất nhiều. Ông ta không bỏ tấm áo
khoác màu đỏ, mà chỉ đặt cái mũ xuống trước mặt. Ông ta chống hai tay lên bàn,
hai bàn tay to như hai cái bồ cào. Một chiếc nhẫn vàng cho biết rằng ông ta đã
có vợ, và ở ngón tay út ông đeo một cái đinh móng ngựa nhẵn bóng thay cho nhẫn.
ông hơi nghiêng về phía tôi để tăng thêm sức áp đảo ông có vẻ như đang nói với
tôi: "Này anh bạn trẻ, nếu anh nghĩ rằng anh có thể thoát khỏi tay tôi thì
anh nhầm đấy. Người ta không thấy tay tôi có vuốt nhọn, nhưng bộ vuốt này luôn
luôn có mặt trong tâm hồn tôi, và nó sẽ xé tan anh ra không có cách gì thoát
nổi. Và sở dĩ tất cả các trạng sư đều sợ tôi, sở dĩ trong giới quan tòa tôi nổi
tiếng là một công tố viên nguy hiểm, chính là vì không bao giờ tôi để sổng mất
mồi."
"Tôi
không cần biết anh có tội hay không, nhiệm vụ duy nhất của tôi là sử dụng tất
cả những gì có thể sử dụng được để hại anh: cuộc sống phóng đãng của anh ở khu
Montmartre, những lời khai mà cảnh sát đã mớm cho các nhân chứng và những báo
cáo của chính bọn cảnh sát. Với mớ tài liệu ghê tởm mà viên dự thẩm đã thu thập
được, tôi phải tìm hết cách để làm cho anh trở thành xấu xa đến mức bọn bồi
thẩm phải quyết định gạt anh ra ngoài xã hội".
Tôi có
cảm giác là nghe thấy những câu nói này rất rõ, trừ phi tôi nằm mơ, vì quả tình
"kẻ ăn người" này đã gây được cho tôi một ấn tượng rất mạnh.
"Bị
cáo nhân, anh hãy để mặc cho ta làm, và nhất là đừng tìm cách tự vệ: ta sẽ dẫn
anh lên con đường của sự thối nát"! "Và ta mong rằng anh đừng trông
mong gì vào bọn bồi thẩm: chớ có ảo tưởng. Mười hai con người này chẳng hiểu gì
về cuộc sống đâu".
"Anh
cứ thử nhìn họ mà xem. Họ đang ngồi trước mặt anh thành một dãy: rõ ràng là
mười hai miếng pho-mát từ một tỉnh lẻ nào đó mới chở về Paris. Đó là những anh
chàng tiểu thị dân, những anh công chức về hưu, những gã lái buôn. Chẳng hơi
đâu mà nói kỹ về họ. Dù sao thì chắc anh cũng không khờ khạo đến nỗi tưởng rằng
những con người như thế có thể hiểu được quãng đời hai mươi lăm năm mà anh đã
sống và cách sinh hoạt của anh ở Montmartrẹ Đối với họ, quảng trường Pigalle và
quãng trường Trắng chính là Địa ngục, và tất cả những người sống về đêm đều là
những kẻ thù của xã hội. Tất cả bọn họ đều vô cùng hãnh diện với cái chân bồi
thẩm ở Tòa Đại hình. Ngoài ra anh cũng nên biết rằng họ rất đau khổ vì cái thân
phận tiểu thị dân nhỏ bé của họ".
"Thế
mà anh, anh bước ra trước mặt họ, trẻ trung, tuấn tú. Chắc anh hiểu thừa rằng
ta sẽ chẳng nể nang gì mà không miêu tả anh thành một tên sở khanh của những
đêm Montmartre, cho nên ngay từ đầu ta sẽ biến bọn bồi thẩm này thành những kẻ
thù của anh. Anh ăn mặc sang trọng quá: đến đây lẽ ra anh phải ăn mặc thật
khiêm nhường. Ở chỗ này anh đã phạm một lỗi nghiêm trọng về chiến thuật. Anh
không thấy là họ ganh tị với cách ăn mặc của anh sao? Họ thì toàn mua đồ may
sẵn ở cửa hàng Samaritaine, và dù có nằm mơ họ cũng không dám nghĩ rằng mình có
bao giờ đi may đo lấy được một bộ".
Bây giờ
đã mười giờ, Tòa đã sẵn sàng mở đầu cuộc tranh luận. Trước mắt tôi là sáu viên
quan tòa trong đó có ông công tố viên hung hãn sẽ đưa hết uy quyền ma quái của
mình, đưa hết trí thông minh của mình ra để thuyết phục mười hai gã tiểu thị
dân kia rằng tôi là kẻ có tội và bản tuyên án ngày hôm nay chỉ có thể là tội
lưu đày hay máy chém.
Người ta
sắp xử tôi về cái tội giết một tên ma-cô, một tên dắt gái của giới ăn mày chơi
Montmartrẹ Không có lấy một bằng chứng nào. Nhưng bọn cớm cứ mỗi lần tìm được
thủ phạm là một lần thêm lon, cho nên sẽ một mực khẳng định rằng tôi là thủ
phạm. Thiếu bằng chứng, chúng nó sẽ nói là nắm được những sự kiện "bí
mật" từ một nguồn riêng, cho chúng nó biết một cách chắc chắn, không còn
hồ nghi gì nữa. Một nhân chứng do chúng chuẩn bị, một cái đĩa hát sống chế tạo
tại số nhà 36 quai des Orfevres, tên là Polein, sẽ là chỗ dựa hữu hiệu nhất của
lời buộc tội. Vì tôi một mực quả quyết rằng tôi không quen biết hắn ta, đến một
lúc nào đó ông chánh án hỏi tôi một cách rất vô tư: "Anh nói rằng người
làm chứng này nói dối. Được. Nhưng tại sao người ấy lại đi nói dối? Dể làm gì?
- Thưa
ngài Chánh án, sở dĩ từ khi bị bắt cho đến nay đêm nào tôi cũng không sao chợp
mắt được, điều đó không phải vì hối hận: có phải tôi giết Roland le Petit đâu?
Chẳng qua vì tôi cứ nghĩ mãi không biết tại sao, cái gì đã thúc đẩy người làm
chứng này hằn học đối với tôi như vậy và luôn luôn tìm cách hại tôi, cứ mỗi lần
lý lẽ của bên nguyên xem chừng yếu đi thì lại cố nghĩ thêm những lời khai mới
để củng cố cho nó.
Rốt cục,
thưa ông Chánh án, tôi phải đi đến kết luận là cảnh sát đã bắt quả tang hắn
đang làm điều gì phạm pháp nghiêm trọng và đã thương lượng với hắn: sẽ làm ngơ
cho, với điều kiện là phải buộc tội thằng Bươm bướm. Lúc bấy giờ tôi cũng không
ngờ là tôi đã nói đúng sự thật đến như thế. Tên Polein hôm ấy được giới thiệu ở
phiên tòa là một người lương thiện chưa hề can án, thì mấy năm sau đã bị bắt và
bị xử về tội buôn lậu bạch phiến.
Trạng sư
Hubert ra sức bào chữa cho tôi, nhưng ông ta không có được cái tầm cỡ của ông
Công tố viên. Chỉ có trạng sư Bouffay, nhờ sự công phân sôi sục của ông ta, đã
gây khó khăn cho ông Công tố viên trong một thời gian nào đó. Tiếc thay cũng
chẳng được bao lâu và trong cuộc đấu khẩu tay đôi này sự khôn khéo của Pradel
đã thắng một cách khá nhanh chóng. Hơn nữa ông ta đã biết cách làm cho bọn bồi
thẩm hài lòng: họ hết sức hãnh diện được một nhân vật đầy uy thế như ông ta coi
như những người bằng vai phải lứa và như những người đồng sự.
Đến mười
một giờ tối hôm ấy, ván cờ đã vãn. Các trạng sư bào chữa cho tôi bị chiếu bí.
Và tôi, người vô tội, đã bị lên án.
Cái xã
hội Pháp do Công tố viên Pradel đại diện đã loại bỏ vĩnh viễn một thanh niên
hai mươi lăm tuổi. Và không có hy vọng gì giảm án hết! Món ăn sang trọng này đã
được quan Chánh án Bévin dọn ra trước mặt tôi bằng cái giọng không có âm sắc
của ngài.
- Bị cáo
nhân, đứng dậy.
Tôi đứng
dậy. Một bầu không khí hoàn toàn im lặng bao trùm lấy căn phòng, mọi người nín
thở, tim tôi đập nhanh hơn. Bọn bồi thẩm kẻ thì nhìn tôi, kẻ thì cúi đầu. Họ
đều có vẻ xấu hổ.
- Bị cáo
nhân, hội đồng bồi thẩm đã trả lời khẳng định cho tất cả các câu hỏi của Tòa
trừ câu hỏi về khoản có chủ mưu từ trước hay không, cho nên Tòa xử anh tội khổ
sai chung thân. Anh có điều gì cần nói không?
Tôi đã
không choáng váng, thái độ của tôi vẫn giữ được bình thường, chỉ có hai bàn tay
tôi xiết hơi mạnh vành móng ngựa.
- Thưa
ngài Chánh án, có, tôi cần nói rằng tôi thực sự vô tội và là nạn nhân của một
âm mưu của cảnh sát.
Từ cái
góc dành cho những quý khách phụ nữ ăn mặc sang trọng ở phía sau Tòa, một tiếng
rì rầm vẳng đến tai tôi. Tôi nói với họ, dõng dạc nhưng không quát tháo:
- Thôi
im đi, các bà đeo chuỗi ngọc đến đây thưởng thức những cảm giác không lành
mạnh. Màn kịch đã diễn xong. Một án mạng đã được cảnh sát và tư pháp của các bà
giải quyết ổn thỏa, vậy các bà phải lấy làm thỏa mãn chứ!
Đưa phạm
nhân đi - quan Chánh án nói.
Trước
khi ra khỏi phòng, tôi nghe một tiếng nói rõ to: "Anh đừng buồn phiền, em
sẽ đến tận đấy tìm anh". Đó là Nénette, nàng Nénette trung thực và cao
thượng của tôi, đang gửi đến tôi những tình cảm đằm thắm của nàng. Những người
thuộc giới giang hồ có mặt trong phòng đều vỗ taỵ Họ thì họ biết thực chất vụ
án mạng này, và làm như vậy họ muốn tỏ ra cho tôi biết rằng họ tự hào về tôi,
vì tôi dã không đầu hàng bọn cảnh sát và đã không tố giác một người nào.
Khi đã
đi sang căn phòng nhỏ mà tôi ngồi trước khi xử án, bọn cảnh sát khóa tay tôi
lại. Cổ tay bên phải của tôi có một sợi xích ngắn nối với cổ tay bên trái của
một viên cảnh sát. Không ai nói với ai một lời. Tôi xin một điếu thuốc. Viên
quản đưa cho tôi một điếu và châm lửa cho tôi. Cứ mỗi lần tôi đưa tay lên điếu
thuốc hay bỏ tay xuống, viên cảnh sát đứng bên phải tôi lại phải đưa tay lên
hay đưa xuống theo tôi.
Tôi đứng
hút hết khoảng ba phần tư điếu thuốc lá. Chẳng ai nói một câu nào. Người đầu
tiên mở miệng là tôi. Tôi nói với viên quản: "Đi thôi".
Xuống
mấy lượt cầu thang với khoảng mười hai viên cảnh sát đi áp tải, tôi bước ra sân
sau của tòa án. Chiếc xe hơi chở tù đã đợi sẵn chúng tôi ở đây. Đó không phải
là loại xe chở tù có ngăn ra nhiều xà lim. Trong thùng xe có xếp khoảng mười
cái ghế dài. Viên quản nói: "Conciergerie".
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 2: Nhà lao Conciergerie
Đi đến
tòa lâu đài cuối cùng của hoàng hậu Marie-Antoinette, bọn cảnh sát giao tôi cho
viên quản tù. Hắn ký giấy nhận tù xong, họ ra đi im lặng, nhưng trước đấy viên
quản xiết chặt hai tay bị khóa của tôi, khiến cho tôi rất ngạc nhiên.
Viên
quản tù hỏi tôi:
- Chúng
nó xử anh mấy năm?
- Chung
thân.
- Vô lý?
- Viên quản tù đưa mắt nhìn bọn cảnh sát và hiểu rằng đó là sự thực.
Viên
quản tù đã ngũ tuần: ông ta đã chứng kiến khá nhiều chuyện đời và biết rất rõ
vụ án của tôi. Ông ta đã có lòng nhân hậu nói với tôi câu sau đây:
- Chà,
cái quân đểu cáng! Chúng nó điên hết rồi hay sao?
Ông ta
nhẹ nhàng cởi khóa cho tôi và thân hành đưa tôi đến tận căn xà-lim dành riêng
cho tử tù, cho người điên; cho tù khổ sai, cho những người đặc biệt nguy hiểm:
tường, sàn và cửa đều có đệm da dày.
Trước
khi đóng cửa lại, ông nói:
- Can
đảm lên, Bươm bướm ạ. Sẽ chuyển lại cho anh một số đồ đạc và thức ăn. Can đảm
lên nhé!
- Cám ơn
sếp. Ông cứ yên chí, tôi sẽ có đủ can đảm, và tôi hy vọng rằng họ sẽ không nuốt
trôi được cái án chung thân này đâu.
Mấy phút
sau, có tiếng cào cửa.
- Cái gì
thế?
Một
tiếng người trả lời:
- Không
có gì đâu. Tôi chỉ đến treo cái biển thôi.
- Biển
gì thế?
-
"Khổ sai chung thân. Cần theo dõi sát sao."
Tôi nghĩ
bụng: họ điên thật. Chẳng lẽ họ nghĩ rằng cái vố mà họ giáng lên đầu tôi có thể
làm cho tôi mất trí đến mức tự tử? Tôi là người gan dạ, và tôi sẽ đủ can đảm.
Tôi sẽ đấu tranh chống lại tất cả bọn họ, chống lại cả thiên hạ nếu cần. Ngay
từ ngày mai tôi sẽ hành động.
Sáng hôm
sau, trong khi uống cà phê, tôi đã tự hỏi: liệu có nên chống án không? Để làm
gì? Liệu ra trước một toà án khác tôi có được may mắn hơn không? Và sẽ mất bao
nhiêu thì giờ vào việc ấy? Một năm, có thể là mười tám tháng... và để làm gì:
để được đi đày khổ sai hai mươi năm chứ không phải chung thân nữa? Vì tôi đã
nhất quyết vượt ngục, thời gian lâu mau không còn nghĩa lý gì. Và tôi bất giác
nhớ lại câu của một phạm nhân hỏi chánh án: "Thưa ngài ở Pháp án khổ sai
chung thân phải bao nhiêu năm mới mãn hạn ạ?"
Tôi đi
quanh quẩn trong buồng giam. Tôi đã đánh điện cho vợ tôi để an ủi nàng, và cho
em gái tôi, đã một mình bênh vực tôi trước tất cả mọi người. Màn kịch đã hết,
tấm màn đã khép lại. Những người thân của tôi chắc phải đau khổ hơn tôi, nhất
là ông bố già tội nghiệp của tôi ở tận vùng quê hẻo lánh: phải mang cây thập tự
nặng nề này chắc ông cụ khổ lắm.
Tôi giật
mình: nhưng tôi vô tội kia mà! Quả tôi vô tội nhưng đối với ai? Phải, tôi vô
tội đối với ai? Tôi tự nhủ: điều phải nhớ kỹ nhất là đừng bao giờ bày trò nói
với ai rằng mình vô tội, người ta sẽ cười chọ Chịu án chung thân chỉ vì một
thằng ma cô, rồi lại còn nói rằng kẻ khác đã giết hắn, thì thật quá lố. Câm mồm
đi là hơn cả. Vì trong thời gian ở nhà tù Santé cũng như Conciergerie tôi chưa
bao giờ nghĩ đến cái khả năng bị xử nặng như vậy, cho nên tôi không lúc nào bận
tâm hình dung thử xem "con đường của sự thối nát" là cái gì. Thôi
được. Điều trước tiên cần phải làm là bắt mối với những người đã có án mà sau
này có thể cùng vượt ngục.
Tôi chọn
một người Marseille tên là Degạ Người này thế nào tôi cũng sẽ gặp ở phòng cắt
tóc: ngày nào hắn cũng đến đó cạo râu. Tôi xin đến phòng cắt tóc. Quả nhiên,
khi đến tôi trông thấy hắn đang đứng quay mặt vào tường. Tôi trông thấy hắn
đúng vào lúc hắn lén lút để cho một người khác vượt lên trước để hắn có thể kéo
dài thời gian xếp hàng.
Tôi đến
đứng sát cạnh hắn sau khi gạt một người khác ra. Tôi nói thì thầm rất nhanh:
- Thế
nào bác Dega, khỏe không?
- Ổn cả,
Papi ạ. Tớ mười lăm năm, thế còn cậu? Nghe nói chúng nó "muối" cậu
rồi phải không?
- Phải
tôi bị chung thân.
- Chống
án chứ?
- Không.
Cần nhất là phải ăn cho no và tập thể dục. Phải cố giừ sức khoẻ Dega ạ, vì chắc
chắn là sẽ cần đến gân cốt.
- Cậu có
bím không?
- Có tớ
có mười bị *(*tức mười ngàn francs) bảng Anh. Thế cậu?
- Không
có.
- Tớ
khuyên cậu nhé: phải nạp ngay đi. Trạng sư của cậu là Hubert phải không? Thằng
cha ấy tồi lắm, nó không chuyển cho cậu đâu. Cậu báo vợ cậu đem plan nạp sẵn
đến Dante, bảo cô ta giao lại cho Dominique le Riche: tớ cam đoan là nó sẽ đến
tận tay cậu.
- Suỵt,
thằng cớm đang nhìn chúng mình.
- Lợi
dụng lúc này để nói chuyện đấy phỏng?
- Ồ?
Không có chuyện gì quan trọng đâu ạ, - Dega đáp - Hắn nói là hắn ốm.
- Bệnh
gì thế? Bệnh táo bón đại bình à? - Đoạn tên cớm ngu xuẩn cười phá lên.
Đời nó
là thế. "Con đường của sự thối nát", tôi đã bước vào rồi. Người ta
cười ha hả trong khi giễu cợt một thằng nhóc hai mươi lăm tuổi bị xử đày cho
đến chết.
Tôi đã
nhận được plan. Đó là một cái ống bằng nhôm, mài nhẵn thín, có thể tháo ra bằng
cách vặn ở giữa. Nửa này xoắn ốc vào nửa kia. Nó đựng năm ngàn sáu trăm francs
bằng giấy bạc mới. Khi nhận được nó, tôi đưa lên môi hôn cái ống dài sáu phân,
to bằng ngón tay cái này; vâng, tôi đã hôn nó trước khi nhét vào hậu môn. Tôi
thở thật mạnh để hút nó vào sâu trong đại tràng. Nó là cái tủ két của tôi.
Họ có
thể bắt tôi cởi hết ra, chạng hai chân, bắt tôi ho, bắt tôi cúi gập người
xuống: tha hồ; không thể nào biết là tôi có giấu một cái gì. Nó nằm ở một vị
trí rất cao trong đại tràng. Nó là một bộ phận của thân thể tôi. Nó là cuộc
sống của tôi, là tự do của tôi mang ở trong mình đó là con đường đưa tôi đến
phục thù. Vì tôi nhất định sẽ trả thù! Thậm chí đó là ý nghĩa duy nhất của tôi
lúc này.
Bên
ngoài, đêm đã khuya. Trong xà-lim chỉ có một mình tôi. Một ngọn đèn lớn gắn
trên trần cho phép tên lính canh nhìn thấy tôi qua cái lỗ nhỏ trên cửa. ánh
sáng gay gắt của nó làm cho tôi lóa mắt. Tôi đặt chiếc khăn mù-soa gấp tư trên
mắt, cho đỡ chói.
Tôi nằm
trên một cái đệm đặt trên chiếc giường sắt, không có gối, và ôn lại từng chi
tiết một trong cái phiên tòa kinh tởm vừa qua. Đến đây, để người đọc hiểu được
trình tự của câu chuyện, hiểu thấu hết những cơ sở sẽ làm chỗ dựa cho tôi trong
cuộc vật lộn dai dẳng này, có lẽ tôi cần nói dòng dài một chút, nhưng dù sao
tôi cũng phải kể hết tất cả những gì đã xảy ra với tôi, tất cả những gì tôi đã
thấy diễn ra trong trí tôi trong những ngày đầu bị chôn sống: Khi đã vượt ngục
tôi sẽ làm gì?
Vì bây
giờ, khi đã có plan, tôi không còn mảy may do dự trong ý đồ vượt ngục. Trước
hết tôi sẽ về Paris ngay, càng nhanh càng tốt. Kẻ phải giết trước tiên là
Polein, tên làm chứng điêu. Kế đến là hai kẻ chủ mưu trong vụ án. Nhưng chỉ hai
tên thôi thì chưa đủ, phải là tất cả những kẻ tham gia vào âm mưu này. Hoặc giả
càng nhiều càng tốt. à! Phải rồi. Thoát được ra ngoài một cái là tôi sẽ về
Paris. Tôi sẽ có một cái rương đựng đầy chất nổ, càng nhiều càng tốt. Tôi cũng
không biết rõ là sẽ cần bao nhiêu: mười, mười lăm, hay hai mươi ki-lổ Thế là
tôi cứ ngồi tính nhẩm xem cần bao nhiêu thuốc nổ để giết cho được nhiều người.
Dùng mìn
dynamit chăng? Không, cheđit thì hơn. Mà tại sao không dùng nitroglycerin?.
Thôi được, sang bên kia tôi sẽ hỏi ý kiến những người thông thạo về khoản này.
Nhưng về phần bọn cớm thì cứ yên chí: tôi sẽ thanh toán sòng phẳng, và chúng nó
không lo bị thiệt thòi.
Hai mắt
tôi vẫn nhắm và chiếc khăn mùi-soa vẫn áp lên mi mắt. Tôi trông thấy rất rõ cái
rương, bề ngoài thì hiền lành vô hại, nhưng bên trong chất đầy thuốc nổ và cái
đồng hồ báo thức, được điều chỉnh rất chính xác, sẽ làm cho ngòi nổ hoạt động.
Chú ý; phải tính sao cho nó nổ đúng mười giờ sáng trong phòng báo cáo của sở
Cảnh sát hình sự, số 36 Quai des Orfevres lầu một. Vào giờ này có ít nhất là
năm trăm thằng cớm tập hợp ở đây để nhận lệnh hoặc nghe báo cáo. Có bao nhiêu
bậc trên cầu thang? Tôi không được nhầm lẫn.
Phải
canh giờ thật chính xác sao cho cái rương được đưa từ ngoài phố vào đến mục
tiêu đúng vào giây lát cần nổ. Và ai sẽ khiêng cái rương? Được rồi, tôi sẽ hành
động thật táo bạo. Tôi sẽ đi tắc-xi đến đỗ ngay trước cửa sở cảnh sát hình sự
và sẽ lấy giọng hách dịch nói với hai tên cớm đứng gác: đưa ngay cái rương này
lên phòng báo cáo, nói với ông cẩm Dupont là cảnh sát trưởng Dunois gửi cái này
và sẽ lên gặp ông ta ngay".
Nhưng
liệu họ có tuân lệnh không? Nhỡ ra, trong cái đám người đần độn ấy tôi lại rơi
đúng vào hai phần tử thông minh duy nhất của cái tập đoàn này thì sao? Lúc bấy
giờ sẽ hỏng hết. Phải nghĩ ra cách khác. Thế là tôi lại tìm, tìm nữa. Trong
thâm tâm tôi không chịu chấp nhận rằng mình sẽ không tìm được một cách gì ăn
chắc một trăm phần trăm.
Tôi ngồi
dậy để uống chút nước. Nghĩ nhiều đau cả đầu. Rồi tôi lại nằm xuống, mắt không
đắp khăn mù-soa nữa. Giờ phút trôi qua chậm rãi. Và cái ánh sáng kia, cái ánh
đèn chói chang kia, trời ơi là trời? Tôi thấm nước chiếc khăn mùi-soa và lại
đắp lên mặt. Nước mát làm cho tôi thấy dễ chịu, và chiếc khăn ướt đè lên mi mắt
sát hơn. Từ nay tôi sẽ dùng mãi cách này.
Những
giờ dài dằng dặc mà tôi hoạch định cách phục thù sau này, óc tôi làm việc khẩn
trương đến nỗi tôi như trông thấy mình đang thực hiện ý đồ trong hiện tại. Mỗi
đêm, và thậm chí cả một phần của thời gian ban ngày nữa, tôi đi lại trong thành
phố Paris như thể việc vượt ngục đã xong xuôi. Đó là điều chắc chắn mười phần:
tôi sẽ vượt ngục và sẽ về Paris. Và dĩ nhiên việc đầu tiên là tôi sẽ đưa giấy
thanh toán nợ nần, thứ nhất là cho Polein và sau đó là cho bọn cảnh sát.
Thế còn
bọn bồi thẩm thì sao? Cái bọn ma bùn ấy sẽ tiếp tục sống yên ổn sao? Chắc là về
nhà, chúng nó rất hài lòng là đã làm tròn bổn phận với một chữ B viết hoa. Tràn
đầy vẻ quan trọng, chúng nó sẽ tha hồ vênh váo với hàng xóm láng giềng và với
người vợ đầu tóc bờm xờm đang đợi chồng vệ ăn bữa tối. Thôi được. Bọn bồi thẩm
thì sao nhỉ, phải làm gì cho chúng nó? Không làm gì hết. Đó chỉ là thứ người
thảm hại đáng thương. Chúng nó có được đào tạo huấn luyện gì đâu để mà làm quan
tòa?
Nếu là
một viên cảnh sát hay hải quan về hưu, hắn sẽ xử sự như một viên cảnh sát hay
hải quan. Nếu là một gã đưa sữa hay đưa than hằng ngày, thì thái độ của hắn sẽ
là thái độ của thằng đưa sữa đưa than. Chẳng qua chúng nó chỉ theo đuôi công tố
viên: tên này chẳng khó gì mà không bỏ được chúng nó vào túi. Chúng nó không
phải là những kẻ chịu trách nhiệm thật sự. Cho nên tôi quyết định sẽ không làm
gì chúng nó: thế là tuyên án xong.
Trong
khi viết lại những ý nghĩ này, những điều mà tôi đã thực sự nghĩ đến cách đây
bao nhiêu năm và giờ đây đang ùn ùn kéo về trước mắt tôi một cách minh xác kinh
khủng, tôi tự nhủ: thế mới biết cảnh im lặng hoàn toàn, cô đơn tuyệt đối mà một
người còn trẻ trung bị nhốt xà-lim phải chịu đựng, có thể làm nảy sinh cả một
cuộc sống tưởng tượng rõ nét đến chừng nào trước khi chuyển sang tình trạng
điên rồ. Nó mạnh mẽ và sinh động đến nỗi con người bị phân đôi thực sự.
Hắn bay
bổng lên và lang thang khắp những nơi nào hắn thích. Hắn về nhà, gặp cha, gặp
mẹ, gặp gia đình, hắn bay ngược về thời thơ ấu, bay qua các giai đoạn của cuộc
đời. Nhất là sau đó hắn dựng lên những tòa lâu đài mộng tưởng mà hắn phát minh
ra với một sức tưởng tượng vô cùng nhạy bén, đến nỗi trong sự phân thân khủng
khiếp này, rốt cục hắn tin rằng mình đang thực sự sống qua tất cả những cảnh
đang mơ ước.
Ba mươi
sáu năm đã trôi qua, thế mà ngòi bút của tôi không phải cố gắng một mảy may khi
viết lại những điều tôi đã nghĩ trong thời đoạn ấy của đời tôi. Không, tôi sẽ
không làm hại bọn bồi thẩm một mảy maỵ Nhưng còn viên công tố thì sao? à! Tên
này thì không thể để cho nó thoát đòn. Vả chăng đối với hắn tôi đã có sẵn một
phương án trọn vẹn do Alexandre Dumas vạch rõ từ đầu chí cuối. Tôi sẽ hành động
đúng phóc như trong truyện bá tước Monte-Christo, như nhân vật chính của truyện
đã xử lý cái thằng cha bị anh ta bỏ xuống hầm cho chết đói.
Tên quan
tòa này phải chịu trách nhiệm. Con kền kền mặc áo đỏ này hoàn toàn xứng đáng để
cho tôi hành quyết nó dưới hình thức khủng khiếp nhất có thể tưởng tượng được.
Phải đấy, đúng rồi, sau Polein và bọn cớm, tôi sẽ dành hết cho con cú vọ này.
Tôi sẽ thuê một cái villạ Nó phải có một cái hầm sâu, có tường dày, có một cánh
cửa thật nặng. Nếu cửa không đủ dày thì tôi sẽ lót thêm một cái đệm và chêm
thêm vỏ bào.
Khi đã
có được cái villa rồi, tôi sẽ lần ra chỗ ở của hắn và bắt cóc hắn. Trước đó tôi
đã gắn mấy cái vòng sắt vào tường, cho nên đưa hắn về là tôi xích hắn vào tường
ngaỵ Và bây giờ thì tôi tha hồ! Tôi đang đứng trước mặt hắn, tôi nhìn thấy hắn
một cách rõ nét lạ lùng dưới đôi mi mắt đang nhắm nghiền. Phải, tôi nhìn hắn
cũng đúng như khi hắn nhìn tôi trong phiên tòa đại hình. Cảnh này rõ nét đến
mức tôi cảm thấy hơi thở của hắn tỏ lên mặt tôi âm ấm, vì tôi đứng sát vào hắn,
mặt đối mặt, gần như chạm vào nhau.
Đôi mắt
diều hâu của hắn bị chói vì tôi đã chĩa vào mặt hắn một ngọn đèn pha rất mạnh.
Đôi mắt ấy điên loạn lên vì sợ hãi. Nhưng giọt mồ hôi lớn chảy ròng ròng trên
gương mặt đỏ bừng của hắn. Phải, tôi nghe thấy những câu hỏi của tôi, và lắng
nghe những câu trả lời của hắn. Lúc này tôi đang sống mãnh liệt.
- Thằng
khốn nạn, mày nhận ra tao chứ? Chính ta đây, Bươm bướm đây, người mà mày đã xử
khổ sai chung nhân một cách ngon lành. Mày tưởng đã bỏ công dùi mài kinh sử bấy
nhiêu năm để trở thành một người có học thức, đã trải qua bao nhiêu đêm trường
học luật La-mã và các pho luật khác; đã học tiếng La-tinh và tiếng Hy-lạp, đã
hy sinh những năm tuổi trẻ để trở thành một nhà hùng biện lớn?
Thế rồi
để đi đến đâu nữa, hở quân chó má? Đi đến chỗ xây dựng nên một pháp luật mới,
tốt hơn cho xã hội chăng? Đến chỗ thuyết phục cho đám đông hiểu rằng hòa bình
là điều tốt đẹp nhất trên thế giới chăng? Để truyền bá một triết lý mới của một
tôn giáo tuyệt vời chăng? Hay chỉ là để ảnh hưởng đến những người khác, dựa vào
ưu thế của học thức đại học để làm cho người ta tốt hơn lên và từ bỏ cái ác
chăng?
Hãy nói
đi, mày đã dùng học thức của mày để cứu vớt những con người hay để dìm chết họ?
Không hề có một cái gì tương tự như vậy, chỉ có một động cơ duy nhất thúc đẩy
mày hành động mà thôi: lên, lên mãi, lên thêm thật nhiều bậc trên cái thang
chức nghiệp đáng ghê tởm của mày. Đối với mày vinh quang có nghĩa là cung cấp
được thật nhiều người cho nhà tù khổ sai và cho máy chém. Giá Deibler *(*tên một
đao phủ thủ ở Paris) là kẻ uống nước nhớ nguồn, cứ đến cuối năm hắn phải gửi
cho mày một két sâm-banh thượng hạng mới phải.
Chẳng
phải nhờ mày mà năm nay hắn đã chém thêm được năm sáu cái đầu đấy sao? Dù sao
thì bây giờ chính tao đang nắm vững tính mạng mày trong tay, dây xích sắt của
tao đang trói chặt mày vào tường. Tao còn nhớ như in cái nụ cười của mày, cái
vẻ đắc thắng của mày khi nghe đọc bản tuyên án xác nhận sức thuyết phục của bản
cáo trạng mày đã đưa ra. Đã bao nhiêu năm rồi mà tao cứ tưởng chừng như mới hôm
qua. Bao nhiêu năm? Mười năm? Hay hai mươi năm?
Nhưng
mình làm sao thế này? Tại sao lại mười năm? Tại sao lại hai mươi năm?
"Bươm bướm, ngươi hãy trấn tĩnh lại; ngươi khỏe mạnh, ngươi trẻ trung và
trong bụng ngươi có năm ngàn sáu trăm francs". "Hai năm thôi, phải,
ta chỉ ở tù chung thân hai năm thôi, không hơn" - tôi tự thề với mình như
vậy. "Thôi? Mày đâm ra ngớ ngẩn rồi đấy, Bươm bướm ạ! Căn xà-lim này, sự
im lặng này đang làm cho mày hóa điên."
Tôi
không có thuốc lá. Tôi đã hút hết điếu cuối cùng từ hôm qua. Tôi sẽ đi bách bộ.
Xét cho cùng, tôi không cần phải nhắm mắt, cũng không cần lấy khăn mùi soa đặt
lên mắt cũng vẫn thấy rõ những gì sẽ diễn ra.
Đúng
đấy. Tôi đứng dậy. Căn xà~lim có bốn mét chiều dài, nghĩa là năm bước ngắn từ
cửa đến tường. Tôi bắt đầu đi, hai tay chắp sau lưng. Và tôi nói tiếp:
- Đấy.
Tao vừa nói là tao còn nhớ rất rõ nụ cười đắc thắng của mày. Thế thì bây giờ
tao sẽ biến nó thành một cái mếu ghê sợ. Mày có một ưu thế so với tao: hôm ấy
tao không được phép, chứ mày thì bây giờ cứ tha hồ mà hét, hét to bao nhiêu
cũng được. Tao sẽ làm gì mày bây giờ nhỉ? Dùng cách của Dumas chăng? Để mặc cho
mày chết đói chăng? Không, như thế chưa đủ. Trước hết tao phải chọc thủng mắt
mày.
Hả? Mày
lại có vẻ đắc chí một lần nữa: mày nghĩ rằng nếu tao chọc mắt mày, ít nhất mày
cũng sẽ có được cái lợi là không trông thấy tao nữa, và mặt khác bản thân tao
sẽ không được hưởng cái lạc thú được theo dõi những phản ứng trong đôi con
ngươi của mày. Phải mày nghĩ đúng, tao không nên chọc thủng mắt mày, ít nhất là
không nên chọc thủng ngay bây giờ. Để sau hẵng haỵ
Tao sẽ
cắt lưỡi mày, cái lưỡi đáng ghê sợ, sắc như một con dao. Không phải là dao
thường: nó sắc như một con dao cạo? Cái lưỡi mà mày sử dụng, như một con điếm
sử dụng cái ấy của nó, để thực hiện sự nghiệp vinh quang của mày. Chính cái
lưỡi mà mày dùng để nói những lời lẽ ngọt ngào với vợ mày, con mày và tình nhân
của mày.
Mày mà
có tình nhân ư? Mày thì làm sao có nổi một người đàn bà làm tình nhân? Có
chăng, tình nhân của mày phải là một gã đàn ông. Vì mày chỉ có thể đóng vai trò
bị động hèn hạ trong một cuộc kê giao bỉ ổi.
Đúng
thế, ta phải mở đầu bằng việc cắt bỏ cái lưỡi của mày, vì sau cái óc của mày là
đến nó, nó là cái công cụ thi hành mệnh lệnh của cái óc ấy. Mày đã sử dụng cái
công cụ ấy một cách tài tình để thuyết phục cho hội đồng bồi thẩm trả lời
"có" cho những câu hỏi đặt ra.
Mày đã
sử dụng nó để tô vẽ cho bọn cảnh sát thành những con người lành mạnh, tận tụy
vì bổn phận; nhờ nó, câu chuyện bịa đặt của thằng làm chứng mới đứng vững được.
Nhờ nó mà trước mắt mười hai miếng pho-mát kia tao mới hiện ra như là con người
nguy hiểm nhất của thành Paris.
Giả sử
mày không có cái lưỡi ấy, cái lưỡi gian xảo, tài tình, đầy sức thuyết phục, cái
lưỡi đã được tập dượt công phu để bóp méo những sự việc và những con người như
vậy, thì tao vẫn được ngồi yên trên sân thượng của tiệm Grand Café ở quảng
trường Trắng, không phải đi đâu cả. Vậy thì đồng ý nhé, tao sẽ cắt cái lưỡi
mày.
Nhưng
dùng khí cụ gì để cắt? Tôi đi đi lại lại trong xà-lim, đi đến chóng mặt, nhưng
tôi vẫn diện đối diện với hắn... thì đột nhiên đèn tắt và một ánh sáng rất yếu
ớt lọt qua những khe hở trên tấm cửa sổ chiếu vào xà-lim. -Sao? Sáng rồi ư? Tôi
đã thức thâu đêm để trả thù sao? Tôi đã trải qua những giờ phút đẹp đẽ biết
bao! Cái đêm trường vừa qua nó mới ngắn làm sao? Tôi ngồi trên giường, nghe
ngóng. Không nghe thấy gì hết. Một cõi im lặng tuyệt đối. Chỉ thỉnh thoảng mới
nghe một tiếng "tíc" khe khẽ ở ngoài cửa. Đó là người canh ngục đi
giày vải cho khỏi có tiếng động đến nâng cái nắp nhỏ che cái lỗ tròn đục trên
cánh cửa để ghé mắt vào xem tôi đang làm gì.
Bộ máy
trừng phạt do nền Cộng hòa Pháp sáng chế ra đã đến giai đoạn thứ hai. Nó hoạt
động một cách tuyệt diệu. Ở giai đoạn thứ nhất, người nào có thể gây phiền phức
cho nó thì nó tiêu diệt đi. Nhưng như thế chưa đủ. Không thể để cho người ấy
chết quá nhanh, cũng không thể để cho người ấy thoát thân bằng cách tự tử.
Người ấy rất cần cho bộ máy. Cục Quản lý các cơ quan cải huấn còn có việc gì mà
làm nếu không có tù nhân? Lúc bấy giờ thì thật là đẹp mặt, cho nên phải giám
sát nó. Phải đưa nó đi làm khổ sai: nhiều công chức của nhà nước sẽ nhờ nó mà
có kế sinh nhai.
Ngoài
cửa lại vừa có tiếng "tíc", điều đó làm cho tôi phải mỉm cười Cái gã
vô tích sự kia khỏi phải lo, ta không trốn mất đi đâu. ít nhất là không trốn
bằng cái cách mà mày đang sợ: tự tử. Ta chỉ mong muốn có một điều, là tiếp tục
sống thật khỏe mạnh và lên đường càng sớm càng tốt đến cái xứ Guyane thuộc Pháp
mà các ngươi đày ta đến một cách bỉ ổi. Gã canh ngục chuyên phát ra tiếng
"tíc" kia, ta biết rằng các bạn đồng nghiệp của ngươi chẳng phải hiền
lành gì. So với chúng nó, ngươi còn hiền hơn nhiều. Ta biết điều đó từ lâu, vì
Napoléon, người sáng lập ra chế độ khổ sai, khi có người hỏi: "Những tên
trộm cướp ấy ngài sẽ giao cho ai canh giữ?" đã trả lời: "Cho những kẻ
còn trộm cướp hơn chúng nó".
Về sau
tôi đã có dịp thấy rõ rằng kẻ sáng lập ra chế độ khổ sai đã không nói dối. Chắc
chắc một cái ghi-sê vuông mỗi chiều hai tấc mở ra ở giữa cánh cửa xà-lim. Người
ta chuồi vào cho tôi một tách cà phê và một ổ bánh mì bảy trăm năm mươi gam. Là
phạm nhân, tôi không còn có quyền ra nhà ăn mua thức ăn nữa, nhưng nếu trả
tiền, tôi có thể mua thuốc lá và một ít món ăn ở cái căng-tin nhỏ bé của nhà
lao.
Vài ngày
nữa thì sẽ không còn được mua gì hết. Nhà lao Conciergerie là căn phòng đợi của
nhà lao cấm cố. Tôi khoái trá hút một điếu Lucky Strike, giá mỗi bao 6,60
francs. Tôi đã mua hai bao như vậy. Tôi cố tiêu cho hết số tiền lẻ, vì người ta
sẽ tịch thu tất cả số tiền túi của tôi để thanh toán chi phí của tòa án. Dega
có gửi cho tôi một mánh giấy nhỏ nhét trong bánh mì: "Trong hộp diêm có ba
con rận". ý đồ của bác ta là muốn nhắn tôi đến phòng tẩy uế.
Tôi lấy
bao diêm vừa nhận được, nhặt hết que diêm ra, liền thấy ba con rận, đều béo tốt
khỏe mạnh. Tôi hiểu ngay như thế có nghĩa là thế nào. Tôi sẽ đưa ba con rận cho
viên giám thị xem, và ngày mai hắn ta sẽ cho tôi, cùng với tất cả các đồ đạc
tôi đang dùng, kể cả đệm giường, đến một phòng phun hơi nóng để giết ký sinh
trùng (trong số ký sinh trùng này dĩ nhiên không kể bọn tù nhân tù tội).
Quả
nhiên hôm sau tôi đã gặp Dega ở đấy. Trong phòng hơi không có giám thị. Chỉ có
hai chúng tôi, tha hồ nói chuyện.
- Cám ơn
Dega. Nhờ bác tôi đã nhận được plan.
- Có
thấy vướng lắm không
- Không.
- Mỗi lần
đi ngoài, phải rửa cho kỹ rồi hẵng đút vào.
- Vâng.
Nó kín lắm, vì mấy tờ giấy bạc đều khô ráo. Thế mà tôi đã mang plan trong bụng
đến bảy ngày nay rồi chứ có ít đâu.
- Thế
thì plan tốt đấy.
- Dega
ạ, bác định sao đây?
- Tớ sẽ
làm trò thằng khùng đây. Tớ không muốn đi đày ở lại Pháp, có lẽ tớ sẽ ngồi từ
tám hay mười năm. Tớ có quen với một số người thân thế, cho nên hạn tù có thể
giảm ít nhất là năm năm.
- Bác
bao nhiêu tuổi?
- Bốn
mươi hai.
- Bác
điên à! Nếu ngồi tù mười năm, khi ra bác đã già mất rồi còn gì. Bác sợ khổ sai
lắm à?
- Ừ! tớ
sợ lắm. Nói với cậu như vậy tớ không xấu hổ đâu, Papi ạ. Ở Guyane kinh lắm cậu
ạ. Mỗi năm tù chết tám mươi phần trăm. Các chuyến tàu chở tù cứ kế tiếp nhau bù
vào đấy, mỗi chuyến từ một ngàn tám trăm cho đến hai ngàn người. Nếu cậu không
nhiễm bệnh hủi thì cũng mắc bệnh sốt vàng hay kiết lỵ, hai bệnh này không tha
ai đâu. Hoặc nếu không thì cũng là ho lao, sốt rét, malaria ác tính. Nếu cậu
thoát được tất cả các thứ ấy, cậu sẽ có đầy đủ khả năng bị ám sát để lấy plan
hay là chết trong khi vượt ngục. Cậu hãy tin tớ Papi ạ, tớ nói thế không phải
để cho cậu nản lòng, nhưng tớ có quen mấy người tù khổ sai trở về Pháp sau năm
bảy năm ở tù, cho nên tớ biết. Họ chỉ còn là những đống giẻ rách. Năm nào cũng
phải chín tháng nằm ở bệnh viện. Còn vượt ngục thì họ đều nói là nó không bở
như nhiều người vẫn tưởng đâu.
- Tôi
tin bác chứ, nhưng tôi cũng tin tưởng tôi, và tôi biết chắc là tôi sẽ không
ngồi yên ở bên ấy lâu đâu. Tôi là thủy thủ, tôi biết rõ nghề đi biển, và bác cứ
tin chắc là tôi sẽ chuẩn bị rất nhanh để vượt ngục. Còn bác, bác có hình dung
được cái cảnh ngồi tù cấm cố mười năm hay không? Nếu họ giảm cho bác năm năm
(điều chẳng chắc chắn gì) liệu bác có thể chịu đựng được mười cái năm còn lại
hay không, hay là lại hóa điên vì cảnh biệt lập hoàn toàn? Như tôi đây, vào giờ
này, trong căn xà-lim mà tôi ở một mình, không có sách báo, không được ra
ngoài, không được nói với ai, thì hai mươi bốn giờ mỗi ngày cần phải nhân lên
không phải là sáu mươi phút mà là sáu trăm! Mà nói thế vẫn còn xa sự thực đấy.
- Có thể
như thế, nhưng cậu, cậu còn trẻ chứ tôi đã bốn mươi hai tuổi đầu rồi.
- Này
Dega ạ, nói thật, bác sợ cái gì nhất. Sợ bọn tù khổ sai khác chứ gì?
- Thật
thế đấy Papi ạ. Ai cũng biết tớ là triệu phú, và từ chỗ đó đến chỗ ám sát tớ vì
tin rằng tớ mang trong người năm mươi hoặc một trăm ngàn quan chẳng xa xôi gì
cả.
- Bác ạ,
bây giờ chúng mình làm giao kèo với nhau nhé? Bác hứa với tôi là đừng giả vờ
điên còn tôi, tôi hứa với bác là sẽ luôn luôn ở bên cạnh bác. Chúng mình sẽ dựa
vào nhau. Tôi khỏe và nhanh, tôi đã học đánh nhau từ hồi rất trẻ và tôi biết
dùng dao rất thành thạo. Vậy thì về phía bọn tù khổ sai bác cứ yên tâm, họ sẽ
không những nể chúng mình mà còn sợ nữa. Khi vượt ngục, chúng mình sẽ không cần
đến ai hết. Bác có tiền, tôi cũng có tiền, tôi biết sử dụng địa bàn và điều
khiển thuyền đi biển. Bác còn muốn gì hơn nữa?
Dega
nhìn thẳng vào mắt tôi hồi lâu... Chúng tôi ôm lấy nhau. Thế là bản giao kèo đã
được ký kết. Một lát sau, cửa mở ra. Dega vác bạc đà đi về phía bác, còn tôi
đằng tôi. Phòng giam của chúng tôi không xa nhau lắm. Vả lại thỉnh thoảng chúng
tôi có thể gặp nhau ở phòng cắt tóc, ở phòng bác sĩ, hay ở nhà nguyện của khám
nếu là ngày chủ nhật.
Dega bị
sa lưới trong vụ giá mạo phiếu Đảm phụ Quốc phòng. Có một gã chuyên làm bạc giả
đã chế tạo ra các phiếu Đảm phụ này một cách khá độc đáo. Hắn tẩy những tập
phiếu năm trăm francs và in lên đấy những con số mười nghìn francs một cách cực
kỳ khéo léo. Vì giấy phiếu như nhau, cho nên các nhà ngân hàng và các thương gia
khi nhận những tờ phiếu này không hề nghi ngờ gì hết.
Tình
hình này kéo dài nhiều năm và Phòng tài chính của Bộ tư pháp không còn biết
đằng nào mà lần nữa, cho đến ngày người ta bắt được quả tang một người trong
bọn tên là Brioulet. Lúc bấy giờ Louis Dega làm chủ một tiệm rượu ở Marseille,
nơi tụ hợp những phần tử tinh hoa trong giới giang hồ miền Nam, và là nơi hẹn
hò quốc tế của những tay du lịch giàu có một cách khả nghi của khắp thế giới.
Kể đến
năm 1929, Dega đã có vốn bạc triệu. Bác ta rất yên tâm. Một đêm nọ, có một
người đàn bà trẻ, đẹp, ăn mặc trang nhã đến tìm ông Louis Dega ở tiệm rượu.
- Thưa
bà chính tôi đây, bà cần gì ạ? Xin mời bà sang phòng bên.
- Ông ạ,
tôi là vợ của Brioulet. Nhà tôi đang ở tù ở Paris, vì tội bán phiếu giả. Tôi đã
đến thăm ông ấy ở nhà lao Santé, ông ấy có cho tôi địa chỉ tiệm này và dặn tôi
đến xin ông hai mươi ngàn francs để trả tiền trạng sư.
Thế là
Dega, một trong những tay bợm lớn nhất của nước Pháp, trước cơn hoạn nạn của
một người đàn bà biết rõ vai trò của bác ta trong vụ phiếu giả, đã đưa ra câu
trả lời duy nhất không nên có trong hoàn cảnh này.
- Thưa
bà, tôi tuyệt nhiên không biết chồng bà và nếu bà cần tiền, bà nên bán một ít
phấn son là đủ. Bà xinh đẹp thế kia, làm chi mà chẳng kiếm được thừa xài?.
Người
đàn bà đáng thương kia ức quá, vừa bỏ chạy vừa khóc. Bà ta vào nhà lao gặp
chồng kể lại câu chuyện vừa xảy ra. Hôm sau Brioulet công phẫn tố cáo tất cả
những gì hắn biết cho viên dự thẩm nghe, chính thức buộc tội Dega là kẻ cung
cấp phiếu Đảm phụ cho cả bọn. Lập tức một đội gồm những cảnh sát viên tinh nhuệ
nhất của nước Pháp được thành lập để điều tra, theo dõi Dega.
Một
tháng sau, Dega, hai người chuyên tẩy khắc và in phiếu giả cùng với mười một
người đồng lõa bị bắt vào cùng với một giờ ở những nơi khác nhau, và bị tống
giam. Họ bị đưa ra tòa Đại hình quận sông Seine, và phiên tòa đã xử mười bốn
ngày liền. Mỗi bị cáo nhận đều được trạng sư cỡ lớn bào chữa chọ Brioulet không
một lần nào phản cung. Rốt cục, chỉ vì hai mươi ngàn francs khốn nạn và một câu
trả lời ngu xuẩn mà tên bợm già giặn nhất của nước Pháp đã phá sản với mười lăm
năm tù khổ sai. Và đó chính là người vừa mới cùng tôi ký kết một bản giao kèo
cùng sống cùng chết.
Trạng sư
Raymond Hubert có đến thăm tôi. Ông ta dĩ nhiên chẳng lấy gì làm phấn khởi, cho
nên trong khi nói chuyện với tôi ông lộ vẻ lúng túng rõ ràng. Tôi không trách
móc ông ta một câu nào.
... Một,
hai, ba, bốn, năm, quay đằng sau... Một, hai, ba, bốn, năm, quay đằng sau. Tôi
đi đi lại lại như thế từ cửa sổ đến cửa lớn của phòng giam suốt mấy tiếng đồng
hồ. Tôi hút thuốc lá, tôi cảm thấy mình tỉnh táo, cân bằng và đủ sức chịu đựng
bất cứ điều gì. Tôi tự hứa với mình là giờ đây sẽ không nghĩ đến chuyện trả thù
vội. Cái tên công tố viên kia thì ta hãy tạm bỏ hắn đứng ở nơi mà tôi đã trói hắn
vào mấy cái vòng đóng trên tường, cứ để mặt hắn ở đấy: tôi vẫn chưa quyết định
được là mình sẽ làm cho hắn chết bằng cách nào.
Bỗng một
tiếng hét chói chang, một tiếng hét tuyệt vọng, não nuột một cách khủng khiếp,
đã lọt vào cửa phòng giam, không biết từ đâu vang đến. Cái gì thế nhỉ? Nghe như
tiếng kêu gào của một người đang bị tra tấn Nhưng ở đây đâu có phải là nơi hỏi
cung của cảnh sát hình sự? Không có cách nào biết được việc gì đang xảy ra.
Những tiếng hét trong đêm khuya đã làm cho tôi gan ruột rối bời. Và tiếng hét
ấy không biết nó mạnh đến mức nào mà có thể xuyên qua được tấm cửa có đệm da
dày này.
Có lẽ đó
là một người điên. Bị giam một mình trong những căn xà-lim như thế này, không
có một chút gì từ bên ngoài vào, thì phát điên cũng chẳng khó khăn gì. Tôi nói
to lên một mình, tự chất vấn bản thân: "Những tiếng hét ấy thì có liên
quan gì đến mày? Mày hãy nghĩ đến bản thân mày, chỉ nghĩ đến bản thân mày và
đến người cộng sự mới của mày là Dega".
Tôi cúi
xuống, thẳng người dậy, rồi đấm một phát vào ngực mình. Đau lắm. Và như thế có
nghĩa là mọi sự vẫn còn ổn: các bắp thịt trên tay tôi vẫn hoạt động một cách
hoàn hảo. Thế còn chân? Hãy khen ngợi đôi chân ấy đi, vì đi đi lại lại hơn mười
sáu tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa thấy mỏi. Người Tàu đã phát minh ra cái giọt
nước nhỏ đều đều xuống đầu tội nhân. Còn người Pháp thì đã phát minh ra sự im
lặng. Họ loại trừ mọi phương tiện khuây khỏa. Không có sách, không có giấy,
không có bút, khung cửa sổ có song sắt lớn bị bịt kín bằng những tấm ván, chỉ
khoét mấy cái lỗ nhỏ đủ để lọt một ít ánh sáng mờ mờ.
Người
nôn nao vì tiếng hét não nùng kia, tôi quay cuồng trong xà lim như một con thú
bị nhốt trong chuồng. Tôi thật sự có cái cảm giác là bị mọi người ruồng bỏ và
bị chôn sống theo nghĩa đen. Phải, đúng là tôi hoàn toàn chỉ có một mình, và
tất cả những gì ở thế giới bên ngoài có thể thấu được đến tôi trước sau cũng
chỉ là tiếng hét ấy.
Có ai mở
cửa. Một ông linh mục già bước vào. À, bây giờ thì mày không phải chỉ có một
mình nữa, trước mặt mày đã có một ông linh mục.
- Chào
con. Con hãy tha thứ cho cha vì mãi đến hôm nay cha mới vào được. Mấy hôm trước
cha về quê nên không biết. Con có khỏe không?
Và ông
linh mục già xuề xòa bước thẳng vào xà-lim, ngồi bệt xuống cái giường tồi tàn
và thấp lè tè của tôi.
- Con
người xứ nào?
- Vùng
Ardèche.
- Bố mẹ
ra sao?
- Mẹ con
mất hồi con mới mười một tuổi. Hồi trước bố con thương con lắm.
- Ông ấy
làm nghề gì?
- Dạy
học.
- Bố con
còn sống chứ?
- Vâng
ạ.
- Bố con
còn sống, thì sao con lại nói là "trước kia"?
- Bởi vì
bố con thì còn sống nhưng con thì chết rồi.
- Ôi!
Con đừng nói thế. Con đã làm gì mà bị án?
Trong
một khoảnh khắc tôi nghĩ đến cái ấn tượng lố bịch mà tôi sẽ gây nên nếu tôi nói
rằng mình vô tội. Và tôi trả lời thật nhanh:
- Cảnh
sát nói là con đã giết người; mà cảnh sát đã nói thế thì hẳn là phải đúng như
thế.
- Đấy là
một thương gia à?
- Không,
hắn làm ma cô.
- Và vì
một chuyện lôi thôi gì đấy trong giới du đãng mà người ta xử con tội khổ sai
chung thân à? Cha không hiểu. Đây là một vụ giết người có chủ đích à?
- Không
ạ, chỉ là một vụ giết người thường thôi.
- Tội
nghiệp, thật khó mà tin được. Liệu cha có thể làm gì giúp con không? Ta cùng
cầu nguyện nhé?
- Thưa
cha, xin cha tha thứ, con không biết cầu nguyện, vì con không hề được giáo dục
về tôn giáo.
- Không
sao đâu con ạ, cha sẽ cầu nguyện cho con. Đức Chúa lòng lành thương yêu tất cả
những đứa con của Người, đù đã rửa tội hay chưa cũng vậy thôi. Bây giờ cha nói
gì con cứ thế mà nhắc lại nhé, được không?
Đôi mắt
ông linh mục dịu hiền quá, gương mặt bầu bĩnh của ông toát ra lòng nhân từ
trong sáng quá, đến nỗi tôi không nỡ từ chối, và khi thấy ông quỳ xuống, tôi
cũng quỳ theo. "Lạy Cha chúng con ở trên Trời... " Tôi ứa nước mắt,
và ông linh mục thấy thế liền đưa ngón tay múp míp hứng lấy một giọt lệ lớn đang
lăn trên má tôi và đưa lên môi uống.
- Con
ơi, những giọt nước mắt của con đối với cha là phần thưởng lớn nhất mà Chúa có
thể gửi cho cha ngày hôm nay qua tâm hồn con. Cảm ơn con nhiều lắm.
Ông linh
mục hôn lên trán tôi. Hai chúng tôi lại ngồi cạnh nhau trên cái giường tù.
- Đã bao
lâu con không khóc?
- Mười
bốn năm.
- Mười
bốn năm, tại sao?
- Ngày
mẹ con mất.
Ông cha
già cầm tay tôi và nói:
- Con
hãy tha thứ cho những kẻ đã làm con đau khổ đến như vậy.
Tôi giật
phắt bàn tay tôi ra khỏi bàn tay ông linh mục và bất giác vùng dậy, lùi ra phía
giữa phòng giam.
- Ồ
không, cái đó thì không đời nào! Con sẽ không bao giờ tha thứ cho chúng nó. Cha
có muốn nghe một lời tâm sự của con không, thưa chả Vậy thì đây: hàng ngày,
hàng đêm, hàng giờ, hàng phút con chỉ làm có mỗi một việc là nghĩ cho ra cách
gì và bao giờ con sẽ giết hết được tất cả, những kẻ đã giam con vào đây.
- Con
nói thế, và con tin là như thế, vì con hãy còn trẻ, còn trẻ lắm. Rồi sau này
khi đã có tuổi, con sẽ từ bỏ ý định trừng phạt và trả thù.
Ba mươi
bốn năm sau, tôi đã nghĩ đúng như ông linh mục nói.
- Cha có
thể làm gì để giúp con? - Ông linh mục nhắc lại.
- Cha có
thể làm một việc phạm pháp không?
- Việc
gì?
- Đến
xà-lim số 37 nói với Dega là phải nhắn trạng sư xin cho được chuyển sang nhà
lao trung tâm Caen, và báo cho Dega biết là con cũng vừa làm đơn như thế xong.
Cần phải rời nhà lao Conciergerie thật nhanh để chuyển sang một nhà lao trung
tâm nơi tập hợp những đoàn tù gửi sang Guyanẹ Vì nếu lỡ mất chuyến tàu thứ nhất
thì phải đợi thêm hai năm nữa trong nhà lao cấm cố mới có một chuyến khác. Khi
cha đã gặp Dega rồi thì xin cha quay trở lại đây cho con biết tình hình ra sao.
- Cha sẽ
lấy lý do gì để trở lại đây?
- Chẳng
hạn cha cứ nói là bỏ quên quyển kinh. Con đợi câu trả lời của Dega.
- Nhưng
tại sao con lại vội đỉ Mà lại vội đi đến một nơi khủng khiếp như cái nhà tù khổ
sai ấy?
Tôi nhìn
lên gương mặt của ông linh mục, người tín sứ của Thượng đế lòng lành, và tin
chắc rằng ông sẽ không phản bội tôi, tôi nói:
- Thưa
cha, để vượt ngục cho thật nhanh.
- Chúa sẽ
giúp con, con ạ, cha tin chắc như vậy, và con sẽ làm lại cuộc đời của con, cha
cảm thấy thế. Vì con có đôi mắt của một chàng trai trung hậu, và vì tâm hồn con
cao thượng. Cha đến phòng 37 đây. Con hãy ngồi đợi câu trả lời.
Ông linh
mục quay trở lại phòng tôi rất nhanh. Dega đồng ý. Ông linh mục để lại cuốn
kinh cho tôi mượn đến mai.
Ngày hôm
nay một tia nắng của Trời đã lọt vào đây làm cho phòng giam của tôi sáng rực
lên, nhờ lòng nhân hậu của con người thánh thiện ấy. Nếu Thượng đế có thật, tại
sao Người lại cho phép có những con người khác nhau đến như vậy sống trên trái
đất? Lão công tố viên, bọn cảnh sát, bọn Polein, rồi lại có ông linh mục, ông
cha xứ của nhà lao Conciergerie?
Chuyến
đến thăm của con người thánh thiện ấy vừa an ủi tôi lại vừa được việc cho tôi.
Hai lá đơn của chúng tôi đã sớm có kết quả. Chỉ một tuần sau, hai chúng tôi đã
ở trong số một tốp bảy người đứng xếp hàng trong hành lang nhà lao Conceiergene
lúc bốn giờ sáng. Toàn thể đội cảnh sát đã có mặt ở đấy.
- Cởi
hết ra!
Ai nấy
đều chậm rãi cởi áo quần. Trời lạnh, tôi nổi cả da gà lên.
- Để đồ
đạc ngay trước mặt. Đằng sau, quay! Lui một bước, bước! - Trước mặt mỗi người
đã có một xáp áo quần. - Mặc vào!
Chiếc áo
sơ-mi vải phin mịn mà tôi mặc ban nãy được thay thế bằng một cái áo vải thô
cứng, và bộ com-lê trang nhã của tôi nhường chỗ cho một cái blouson và một cái
quần bằng dạ thô. Đôi giày của tôi đã biến đâu mất, và tôi phải xỏ chân vào một
đôi guốc sabot*(*một thứ giày đẽo bằng gỗ, có mu, thường dùng ở vùng nông thôn)
Kể cho đến ngày hôm nay, chúng tôi còn có cái vẻ của người bình thường.
Tôi đưa
mắt nhìn sang sáu người kia: thật kinh khủng! Không còn lấy một dấu vết nào của
bản sắc riêng: trong hai phút đồng hồ ai náy đều đã hóa thành tù khổ sai.
"Bên phải, quay? Nhìn trước, thẳng! Đi đều, bước" Được khoảng hai
mươi tên cảnh sát áp giải hai bên, chúng tôi ra sân và lần lượt được đưa lên
xe, mỗi người nhốt kín trong một cái ngăn hẹp trên thùng xe. Thế là chúng tôi
lên đường đến khám Beaulieu, tên gọi của nhà lao trung tâm ở thành phố Caen.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 3: Nhà lao trung tâm Caen
Vừa đến
nơi, chúng tôi đã được đưa vào phòng giấy của ông giám đốc. Ông ta ngồi sau một
cái bàn giấy đồ sộ đóng theo kiểu thời Đế chính, đặt trên một cái bệ cao đến
một mét.
-
Nghiêm! Quan giám đốc sẽ nói chuyện với các người.
- Các
phạm nhân! Các người sẽ được tạm giam ở đây trong khi chờ đợi lên đường đến
trại khổ sai. Nơi này là một nhà giam tuyệt đối nghiêm ngặt. Bất kỳ giờ nào
cũng phải hoàn toàn im lặng; không có thăm viếng; không nhận thư từ. Một là
khuất phục, hai là diệt vong. Ở đây chỉ có hai cửa ra: một đưa đến nơi khổ sai,
nếu hạnh kiểm các người tốt; một đưa ra nghĩa địa. Nếu có trường hợp hạnh kiểm
chưa tốt, thì nhẹ nhất sẽ là sáu mươi ngày xà-lim ăn bánh mì không, uống nước
lã. Xưa nay chưa ai sống qua hai lần phạt xà-lim như vậy. Hễ lơ mơ thì đừng có
trách!
Ông ta
quay sang Pierrot le Fou, một tù nhân người Tây-ban-nha đã bị chính phủ nước
này trao cho tòa án Pháp.
- Nghề
nghiệp của anh ngoài đời là gì?
- Thưa
ông giám đốc đấu bò.
Nghe câu
trả lời, ông giám đốc quát lớn: "Tống khứ tên này đi, theo tác phong quân
sự!" Trong nháy mắt, người đấu bò đã bị bốn năm tên cảnh sát dùng dùi cui
và quả đấm đánh túi bụi rồi lôi nhanh ra khỏi phòng. Tôi nghe tiếng anh ta gào:
"Đồ khốn k.., đã năm thằng đánh một mà còn phải dùng dùi cui, lũ hèn
hạ!" Một tiếng "ah!" của loài dã thú bị tử thương, rồi không
nghe thấy gì nữa. Sau đó chỉ có tiếng lệt xệt của một vật gì nặng bị kéo lê
trên sàn xi-măng. Sau cảnh này mà còn chưa hiểu thì sẽ không bao giờ hiểu được
cái gì hết.
Dega
đứng cạnh tôi. Bác ta đưa một ngón tay một ngón thôi, chạm vào quần tôi. Tôi
hiểu như thế có nghĩa là gì: Dega muốn khuyên tôi cố nhịn nhục để còn sống mà
đến nơi tù đày. Mười phút sau, mỗi người trong chúng tôi (trừ Pierrot le Fou đã
bị đưa xuống tầng hầm nhốt vào một căn xà-lim nhơ bẩn) đều có vị trí trong một
căn xà-lim của khu trừng giới trong nhà lao trung tâm Caen. Vận may đã làm cho
căn xà-lim của Dega đặt ngay cạnh căn của tôi.
Trước đó
người ta đã giới thiệu với chúng tôi một con quái vật tóc hung cao một mét chín
mươi là ít, chột mắt, tay phải cầm một cây roi [bad word] bò mới toanh. Đó là
tên trưởng tù, nghĩa là một tù nhân giữ chức năng trấn áp các tù nhân khác theo
lệnh của bọn cai tù. Hắn là nỗi kinh hoàng của các phạm nhân. Nhờ hắn, bọn cai
ngục có được cái lợi là có thể đánh đập người ta mà không phải động tay động
chân, và mặt khác, nếu có ai chết thì ban quản trị nhà lao không phải chịu
trách nhiệm.
Về sau,
nhờ mấy hôm ở bệnh xá, tôi đã được biết lý lịch của con thú có hình người này.
Ta hãy lấy làm mừng cho ông giám đốc nhà lao trung tâm đã chọn được một đao phủ
thủ đắc lực đến như vậy. Tên này trước kia vốn làm nghề đập đá. Một hôm, trong
cái thị trấn miền bắc là nơi gia đình hắn sinh sống, hắn quyết định tự sát và
đồng thời giết luôn cả vợ hắn. Hắn sử dụng vào mục đích ấy một thỏi mìn dynamit
khá tọ Hắn nằm xuống bên cạnh người vợ đang ngủ say (căn hộ của hai vợ chồng ở
vào tầng thứ ba của một ngôi nhà bảy tầng). Hắn châm một điếu thuốc lá dùng để
châm ngòi vào thỏi mìn mà hắn cầm trong tay trái, đặt vào giữa đầu hắn và đầu
vợ hắn. Một tiếng nổ kinh hoàng. Kết quả: người ta phải dùng thìa múc từng mảnh
vụn của vợ hắn.
Tòa nhà
sập hắn một bên, ba đứa trẻ bị vôi gạch đè nát, cùng với một bà già bảy mươi
tuổi, những người khác ở trong tòa nhà đều bị thương, kẻ nặng người nhẹ. Riêng
hắn, Tribouillard, mất một phần bàn tay trái, chỉ còn ngón tay út và nửa ngón
tay cái, ngoài ra mắt trái và tai trái của hắn cũng không còn. Dầu hắn bị một
vết thương nặng, bệnh viện đã phải khoan sọ mới cứu được. Từ khi bị xử, hắn
được làm trưởng tù ở các xà lim trừng giới ở trung tâm Caen. Thằng người giở
điên giở dại này có quyền tự ý xử sự với những con người khốn khổ chẳng may lọt
vào địa phận của hắn.
Một,
hai, ba, bốn, năm, quay đằng sau... một, hai, ba, bốn, năm... cuộc di chuyển vô
tận từ tường đến cửa xà lim lại bắt đầu. Ban ngày tù nhân không được nằm. Đúng
năm giờ sáng một tiếng còi lảnh lói đánh thức cả cái đám người tù tội ấy Họ
phải vùng dậy, thu dọn chăn đệm, rửa mặt, sau đó, phải đi đi lại lại hoặc ngồi
yên trên chiếc ghế đẩu gắn chặt vào góc phòng. Không được nằm trên giường. Điểm
tinh vi nhất trong hệ thống trừng giới ở nhà tù là cái giường của tù nhân ban
ngày được nâng lên áp vào tường cho đến tối. Như vậy tù nhân không nằm được và
người ta có thể giám thị hắn kỹ hơn.
Một,
hai, ba, bốn, năm... mười bốn giờ đi đi lại lại. Muốn cho cái thao tác liên tục
này có được tính chất hoàn toàn tự động hóa, phải tập cách cúi đầu, chắp hai
tay sau lưng, đi sao cho vừa phải, đừng nhanh quá mà cũng đừng chậm quá, bước
cho đều, bước nào cũng dài bằng nhau, đến cuối phòng thì quay lại một cách máy
móc, đến cửa xà-lim thì quay chân trái, đến tường đối diện thì quay chân phải.
Một, hai, ba, bốn, năm...
Các
xà-lim sáng sủa hơn ở nhà lao Conciergerie, và người ta nghe được những tiếng
động ở bên ngoài, như những tiếng động ở khu trừng giới đưa sang, nhưng cũng có
cả những tiếng động từ phía đồng ruộng vẳng tới. Ban đêm có thể nghe thấy tiếng
huýt sáo hay tiếng hát của những người công nhân nông nghiệp đang trở về nhà
sau một ngày lao động, hài lòng vì đã uống được mấy cốc rượu táo ngon lành.
Tôi cũng
đã có được món quà Noel: qua một khe hở giữa những tấm ván bịt cửa sổ, tôi nhìn
thấy cánh đồng tuyết phủ trắng xóa và mấy lùm cây đen viền bạc dưới ánh trăng.
Trông như một tấm bưu ảnh thuộc các loại điển hình mà người ta vẫn gửi tặng
nhau vào dịp Noel. Bị gió lay mạnh, những lùm cây ấy đã trút bỏ tấm áo khoác
bằng tuyết, cho nên nhìn thấy rất rõ. Nó làm thành những vệt sẫm lớn nổi bật
lên trên nền tuyết trắng. Đây là một lễ Noél cho mọi người, thậm chí cho cả một
phần của nhà lao.
Đối với
các tù nhân khổ sai đang tạm giam ở đây, ban quản trị nhà lao đã có một cố gắng
đáng kể: chúng tôi được quyền mua hai thỏi sô-cô-lạ Xin nói là hai thỏi chứ
không phải là hai tấm đâu nhé. Hai thỏi sô-cô-la Aiguebelle chính là bữa tiệc
réveillon của tôi năm 1931. Một, hai, ba, bốn, năm... sự trấn áp của Công lý đã
biến tôi thành một thứ quả lắc đồng hồ, cái thao tác đi đi lại lại trong xà-lim
là tất cả vũ trụ của tôi. Điều này đã được tính toán một cách chính xác.
Trong
phòng giam không được để lại một cái gì, tuyệt đối không có một chút gì để phạm
nhân có thể dùng làm cách giải trí. Nếu có ai bắt gặp tôi nhìn qua khe hở trên
cửa sổ, chắc chắn tôi sẽ phải chịu một sự trừng phạt nghiêm khắc. Thật ra họ
làm như vậy là rất có lý vì đối với họ tôi chỉ là một người đã chết. Tôi có
quyền gì mà tự cho phép mình hưởng cái thú được ngắm cảnh thiên nhiên? Cạnh cửa
sổ có một con bướm đang bay lượn, cánh nó màu xanh nhạt, có một đường chỉ đen
mảnh, và cách đấy không xa lại có một con ong đang bay vù vù. Hai con vật này
đến đây để tìm cái gì vậy? Có thể nghĩ là chứng nó phát điên vì ánh nắng mùa
đông này, nếu không phải là chúng nó lạnh quá muốn vào tù cho ấm.
Mùa đông
mà có bướm nhỉ! làm sao nó lại không chết, cái gì làm cho nó sống lại? Còn con
ong kia nữa, tại sao nó rời tổ đến chỗ này? Nó không biết rằng đến chỗ tù tội
này là một việc liều lĩnh. May mà tên trưởng tù không có cánh, chứ không thì
hai con này chằng còn sống được bao lâu. Cái tên Tribouillard là một kẻ xa
đích* đáng ghê tởm, (*một chứng bệnh tâm thần (Sadisme) trong đó bệnh nhân tìm
thấy khoái lạc khi được chứng kiến hay được làm cho kẻ khác đau đớn cùng cực)
và tôi có linh cảm là thế nào cũng xảy ra một chuyện gì giữa tôi với hắn. Tiếc
thay, tôi đã không nhầm.
Hai con
vật đáng yêu kia đến thăm tôi bên cửa sổ được một hôm, thì hôm sau tôi báo cáo
là bị ốm. Số là tôi không chịu được nữa, tôi ngột ngạt vì cảnh cô đơn, tôi cần
được trông thấy một gương mặt, nghe thấy một tiếng nói, dù là một tiếng nói rất
khó chịu cũng được, vì đó là vẫn là một tiếng nói, tôi cần nghe bất cứ một âm
thanh nào. Trần truồng trong cái không khí lạnh buốt của hành lang, mặt quay
vào tường, mũi chỉ cách tường bốn ngón tay, tôi là người áp chót của một dãy
gồm tám tù nhân đang đợi đến lượt khám.
Tôi đang
muốn trông thấy người: thế thì tôi đã toại nguyện? Tên trưởng tù đã bắt gặp
được tôi đang nói thì thầm với Julot, vốn có biệt hiệu là người cầm búa. Phản
ứng cửa tên mọi tóc đỏ này thật là khủng khiếp. Hắn giáng một quả đấm thôi sơn
từ phía sau đầu tôi, và vì bất ngờ, tôi bị giập mũi vào tường. Máu ộc ra, tôi
gục xuống, rồi cố gượng dậy, lắc đầu thật mạnh cho tỉnh và cố định thần để hiểu
cho được việc gì vừa mới xảy ra.
Tôi phác
một cử chỉ phản đối. Con đười ươi ấy chỉ đợi có thể: hắn giơ chân đá vào bụng
tôi làm tôi lại ngã lăn ra đất, và dùng roi [bad word] bò quất túi bị vào người
tôi. Julot không chịu nổi cảnh này. Anh ta chồm lên người hắn, một cuộc ẩu đả
khủng khiếp nổ ra, và vì Julot ở vào thế yếu cho nên bọn canh tù thản nhiên
đứng nhìn. Không ai chú ý đến tôi lúc bấy giờ vừa mới lồm cồm đứng dậy.
Tôi nhìn
quanh xem có cái gì dùng làm võ khí được không. Bỗng tôi nhìn thấy ông bác sĩ
nghiêng người trên ghế bành để từ phòng khám dòm ra hành lang xem việc gì đang
xảy ra ở đấy, và đồng thời tôi cũng nhìn thấy một cái vung lớn đậy trên một cái
nồi sắt tráng men đầy nước sôi đang bập bồng nâng lên hạ xuống do sức đẩy của
hơi nước. Cái nồi lớn này đang sôi sùng sục trên chiếc lò than dùng để sưởi phòng
làm việc của bác sĩ.
Tôi phản
xạ rất nhanh: nắm lấy hai quai nồi cố chịu bỏng tay, tôi hắt hết chỗ nước sôi
vào mặt tên trưởng tù đang mải đối phó với Julot. Từ họng hắn phát ra một tiếng
gào khủng khiếp. Hắn đã lãnh đủ. Hắn lăn lộn dưới đất, và vì mình hắn mặc ba
chiếc áo len dệt, hắn cởi áo rất khó khăn. Khi hắn cởi đến chiếc thứ ba thì da
của hắn cũng ra theo. Cổ áo vốn chật, nên khi hắn cố kéo áo lên thì đa ngực,
một phần đa cổ và da mặt dính chặt vào áo dệt kim. Cả con mắt duy nhất còn lại
của hắn cũng bị luộc chín: từ nay hắn sẽ mù. Cuối cùng hắn đứng dậy, nhầy nhụa,
thịt chín từng mảng, trông thật gớm ghiếc, và Julot thừa cơ đã cho hắn một cú
trời giáng vào đúng hạ bộ. Cả cái thân hình hộ pháp của hắn đổ xuống, hắn bắt
đầu nôn ọe, rải rớt chảy ròng ròng. Đáng đời cho hắn. Còn chúng tôi thì cứ đợi
đấy, chẳng mất gì.
Hai tên
giám thị đã chứng kiến cảnh này không đủ can đảm để tấn công chúng tôi. Chúng
bấm còi báo động để xin viện trợ. Viện binh của chúng từ khắp nơi ùa tới, và
những phát dùi cui giáng tới tấp lên chúng tôi như một trận mưa đá. Tôi được
cái may mắn là ngất đi rất nhanh cho nên cũng đỡ đau. Khi tỉnh dậy, tôi thấy
mình đã được đưa xuống tầng dưới, mình trần như nhộng, nằm trong một căn xà-lim
ngập nước. Các giác quan của tôi từ từ hoạt động trở lại. Tôi đưa tay sờ khắp
cái thân hình đau đớn của tôi. Trên đầu tôi có ít nhất mười hai đến mười lăm
chỗ sưng vù.
Bây giờ
là mấy giờ? Tôi không biết. Ở đây không có đêm mà cũng không có ngày. Không hề
có ánh sáng. Tôi nghe có tiếng ai gõ gõ vào tường, những tiếng gõ hình như từ
xa lắm. Cộc, cộc cộc cộc, cộc, cộc Những tiếng gõ này là những tiếng gọi
"điện thoại". Nếu tôi muốn nhận thông điệp thì bản thân tôi phải gõ
vào tường hai tiếng để trả lời. Ừ thì gõ, nhưng gõ bằng cái gì?
Trong
bóng tối tôi không trông thấy một vật gì có thể dùng để gõ cả. Gõ bằng tay thì
không được, vì tiếng không truyền đi xạ Tôi lần về phía mà tôi đoán là phía
cửa, vì ở đấy đỡ tối hơn một chút. Tôi vấp phải hàng chấn song mà tôi không hề
trông thấy. Sờ soạng một lúc, tôi nhận thấy rằng trong phòng giam có một cánh
cửa cách tôi hơn một mét. Tôi không thể động đến cánh cửa này vì đã có hàng
chấn song chặn tôi lại. Như vậy khi có ai vào căn xà-lim giam loại tù nguy
hiểm, tù nhân không thể với tới người đó được vì hắn bị nhốt trong một cái
chuồng. Người ta có thể nói với hắn, đổ nước vào hắn, ném thức ăn cho hắn và
lăng mạ hắn một cách an toàn tuyệt đối. Nhưng cũng được một cái là người ta
không thể đánh đập tù nhân một cách không có gì nguy hiểm cho bản thân, vì muốn
đánh hắn thì phải mở chuồng ra.
Những
tiếng gõ chốc chốc lại được nhắc lại. Ai gọi tôi thế nhỉ? Dù là ai thì hắn cũng
xứng đáng được tôi trả lời, vì nếu hắn bị bắt gặp thì khốn to cho hắn. Trong
khi mò mẫm đi trong bóng tối, tôi suýt ngã vỡ mặt. Chân tôi vừa giẫm phải một
vật gì cứng và tròn. Tôi sờ thì thấy đó là một cái muôi bằng gỗ. Tôi lập tức
cầm nó lên và chuẩn bị trả lời "điện thoại". Tai áp vào tường, tôi
chờ đợi. Cộc, cộc, cộc, cộc, cộc - stop, cộc cộc - Tôi trả lời: cạch, cạch. Hai
tiếng này báo cho người gọi điện biết là bên kia sẵn sàng nhận điện, cứ đánh
đi. Những tiếng gõ của người kia bắt đầu: Cộc, cộc cộc những chữ cái lần lượt
diễu qua rất nhanh... a, b, c, d, e, f, g, li, i, j, k, l, m, n, o, p, stop.
Người kia dừng lại ở chữ p. Tôi gõ một tiếng lớn: "cạch", như thế là
người kia biết rằng tôi đã ghi nhận chữ p: Sau đó là một chữ a, một chữ p, một
chữ i, và cứ thế. Người kia nói với tôi: "Papi thế nào rồi? Cậu bị khá
nặng còn tớ gãy một tay": Đó là Julot.
Chúng
tôi "gọi điện thoại" cho nhau như thế trong hơn hai tiếng đồng hồ mà
không hề bận tâm lo bị bắt gặp: Chúng tôi say sưa trao đổi những từ ngữ, những
câu cú đến mức như đã hóa dại. Tôi nói cho Julot biết rằng tôi không có chỗ nào
bị gãy, không có vết thương, tuy đầu tôi đầy u. Julot đã trông thấy người ta
cầm chân tôi kéo xuống thang gác, anh ta nói rằng cứ mỗi lần bậc thang thì đầu
tôi lại nện xuống đánh cộc một cái. Còn anh ta thì không lúc nào bị ngất cả.
Anh ta cho rằng tên Tribouillard bị bỏng rất nặng, và do mấy chiếc áo len,
những vết thương của hắn rất sâu hắn đã lãnh dủ chỉ vì một lúc ra oai.
Ba tiếng
gõ rất nhanh, và được lặp lại mấy lần, cho tôi biết rằng có động. Tôi ngừng gõ.
Quả nhiên, một lát sau cánh cửa xà-lim mở ra. Có tiếng quát:
- Lùi
vào, thằng khốn kiếp! Lùi vào sát trong kia và đứng nghiêm!
- Đây là
tên trưởng tù mới.
- Tao
tên là Batton, tên thật của tao đấy. Một cái tên rất hợp với chức vụ của tao
(*Batton gần đồng âm với baton, có nghĩa là "cái gậy").
Hắn cầm
một cái đèn lồng lớn của hải quân soi căn phòng giam, chiếu vào cái thân thể
trần truồng của tôi.
- Đây
cầm lấy mà mặc. Đứng yên đấy. Đây là nước và bánh mì. Chớ ăn hết ngay một lúc,
vì hai mươi bốn tiếng nữa mới lại phát thức ăn* (*Bốn trăm năm mươi gam bánh mì
và nửa lít nước -chú thích của tác giả).
Hắn quát
tháo một cách man rợ, rồi đưa cái đèn lên ngang mặt. Tôi thấy rõ hắn đang cười,
một nụ cười không có gì ác độc. Hắn đặt một ngón tay lên môi rồi chỉ cho thấy
những thứ hắn mang đến. Chắc hẳn ngoài hành lang có một tên cảnh sát, và hắn
muốn làm cho tôi hiểu rằng hắn không phải là một kẻ thù.
Quả
nhiên trong ổ bánh mì tôi thấy có một miếng thịt luộc rất to, và trong túi
quần, quý hóa thay, một bao thuốc lá và một cái bật lửa kèm thêm một dúm bùi
nhùi. Ở đây, những món quà này quý như cả triệu bạc. Hai chiếc áo sơ-mi chứ không
phải một, và một ái quần len, gọi là quần đùi nhưng dài đến mắt cá. Tôi sẽ nhớ
hắn mãi, cái thằng Batton. Tất cả những thứ đó có nghĩa là hắn đã thưởng tôi vì
đã diệt trừ được thằng Tribouillard. Trước khi xảy ra vụ này, Batton chỉ là phó
trưởng tù, bây giờ nhờ tôi hắn đã chính thức lên chức trưởng. Nói chung, tôi đã
làm cho hắn được thăng chức, và hắn đã tỏ lòng biết ơn tôi bằng những món quà
ấy.
Vì phải
có được tính kiên nhẫn của người Sioux* (*Tên một bộ tộc thổ dân Anh điêng
("Da đỏ") ở Bắc và Trung Mỹ, nổi tiếng là mưu trí) mới xác định được
những tiếng gõ "điện thoại" từ đâu đến và chỉ có người trưởng tù có
thể làm được việc đó (bọn gác vốn lười, không đứa nào buồn bỏ công theo dõi)
tôi và Julot cứ tha hồi nói chuyện với nhau, hoàn toàn yên tâm về phía Batton.
Chúng tôi đánh điện cho nhau suốt ngày. Nhờ Julot, tôi được biết rằng ngày xuất
phát không còn lâu nữa: chỉ ba bốn tháng là lên đường.
Hai ngày
sau người ta đưa chúng tôi ra khỏi xà-lim, và chúng tôi được dẫn đến phòng giấy
của ông giám đốc, mỗi người có hai tên cảnh sát kèm hai bên. Đối diện với cửa
vào có ba người ngồi sau một cái bàn lớn. Dó là một thứ tòa án. Ông giám đốc
làm chánh án, ông phó giám đốc và ông tổng giám thị làm quan tòa.
- À, à!
Hai anh bạn trẻ, đã đến đấy à? Hai anh có thể nói gì đây?
Julot
mặt tái nhợt, hai mắt sưng húp: chắc chắn là anh ta đang sốt. Với cánh tay bị
gãy từ ba hôm nay, chắc anh ta phải đau khủng khiếp. Julot trả lời khe khẽ:
"tôi bị gẫy tay".
- Thì
chính vì anh muốn người ta làm gãy tay anh chứ còn ai. Có thế anh mới chừa cái
thói xông vào đánh người tạ Bao giờ bác sĩ đến đây, anh sẽ được khám. Tôi hy
vọng rằng chỉ một tuần nữa thôi bác sĩ sẽ đến. Thời gian chờ đợi này sẽ có tác
dụng tốt đối với anh vì có lẽ cái đau sẽ dạy khôn cho anh. Tôi thiết tưởng anh
cũng chẳng hy vọng rằng tôi gọi bác sĩ đến đây để chữa riêng cho một thứ người
như anh? Vậy anh hãy đợi bác sĩ ở nhà lao trung tâm có đủ thì giờ đến chữa cho
anh. Tuy vậy tôi vẫn xử hai anh phải ở lại xà-lim cho đến khi có lệnh mới.
Julot
nhìn thẳng vào mắt tôi, như muốn nói: "Cái ông lớn ăn mặc chỉnh tề kia có
một thái độ thật là dễ dãi đối với sinh mạng của một con người". Tôi lại
quay đầu về phía ông giám đốc và nhìn vào mặt ông. Ông ta tưởng tôi muốn nói
gì. Ông nói: "Còn anh, quyết định này không làm cho anh hài lòng ư? Anh có
ý kiến gì?" Tôi đáp: "Tuyệt nhiên không có ý kiến gì, thưa ông giám
đốc. Tôi chỉ cảm thấy có nhu cầu nhổ vào mặt ông, nhưng tôi không nhổ vì sợ bẩn
mất nước miếng của tôi". ông ta kinh ngạc đến nỗi đỏ bừng cả mặt và thoạt
tiên hình như không hiểu. Nhưng ông tổng giám thị thì lại hiểu ngaỵ Ông ta quát
bảo bọn giám thị:
- Lôi nó
ra ngay và chăm sóc nó cho kỹ! Phải làm sao một tiếng nữa hắn phải bò lê bò
càng đến xin lỗi. Sẽ có cách làm cho nó biết tay! Ta sẽ bắt nó liếm giày của ta
cho sạch, hết liếm trên lại liếm dưới. Các anh không được ghê tay, tôi giao nó
cho các anh đấy.
Hai tên
gác vặn trẹo tay phải tôi, hai tên khác vặn cánh tay trái. Tôi bị dí sấp xuống
đất, hai bàn tay kéo giật lên ngang xương bả vai. Họ còng tay tôi lại bằng một
bộ khóa có kìm gắn chặt ngón tay trỏ bên trái với ngón tay cái bên phải, và
viên tổng giám thị túm tóc tôi nhấc bổng lên như người ta nhấc một con vật.
Không
cần phải kể lại cho các bạn nghe tất cả những gì họ đã làm để hành hạ tôi. Chỉ
cần biết rằng tôi bị khóa tay sau lưng suốt mười một ngày. Tôi còn sống được là
nhờ Batton. Cứ mỗi ngày hắn lại ném vào buồng giam của tôi ổ bánh mì thường lệ,
nhưng vì không sử dụng được đôi tay, tôi không ăn được ổn bánh mì đó Tôi thử
dùng đầu ép ổ bánh mì vào chấn song sắt để ngoạm, nhưng không được. Thấy vậy,
Batton ném thêm cho tôi những mẩu bánh mì nhỏ vừa bỏ vào miệng, đủ để cho tôi
khỏi chết đói. Tôi dùng chân gom những mẩu bánh mì ấy lại thành từng mớ nhỏ,
rồi nằm sấp xuống ăn như con chó. Mỗi miếng bánh mì tôi đều nhai thật kỹ, để
đừng bỏ phí mất chút nào.
Đến ngày
thứ mười hai, khi họ mở khóa cho tôi, chất thép đã ăn sâu vào thịt tôi, và cái
khóa số tám có nhiều chỗ dính đầy thịt thối. Viên cai ngục phát hoảng khi thấy
tôi ngất đi vì quá đau. Sau khi đổ nước cho tôi tỉnh lại, người ta dẫn tôi đến
bệnh xá. Mấy người y tá dùng nước ô-xy rửa chỗ thối cho tôi. Một người y tá
nhất định đòi tiêm cho tôi một liều huyết thanh chống uốn ván. Hai cánh tay tôi
bị tê dại không sao trở lại được tư thế bình thường. Họ phải dùng dầu long não
xoa bóp hơn nửa tiếng đồng hồ tôi mới hạ được hai cánh tay xuống song song với
nhân hình.
Tôi lại
trở về xà-lim, và viên tổng giám thị khi thấy mười một ổ bánh mì còn nguyên
liền nói với tôi: "Thế là mày có được một bữa tiệc ra trò? Kể cũng lạ, mày
nhịn đói mười một ngày mà trông cũng không đến nỗi gầy lắm... "
- Thưa
sếp tôi uống nhiều nước lắm ạ.
- À!
Đúng thật, tao hiểu rồi. Bây giờ phải ăn thật nhiều cho lại sức.
Nói đoạn
hắn bỏ đi. Rõ nguỵ Hắn nói như vậy vì yên trí rằng tôi không ăn gì suốt mười
một ngày, và nếu bây giờ tôi ăn nhiều thì sẽ chết ngay vì bội thực. Hắn sẽ được
một mẻ tẽn tò.
Đến
chiều tối Batton ngầm chuyển cho tôi một ít thuốc lá rồi kèm theo lá cuốn
thuốc. Tôi hút lấy hút để, phun khói vào cái lỗ khoét trên ống truyền hơi nóng
(đây là hệ thống sưởi của nhà tù - dĩ nhiên cái hệ thống này chẳng mấy khi hoạt
động). ít nhất bây giờ nó cũng có được một công dụng. Sau đó tôi "đánh
điện" gọi Julot. Cậu ta tưởng tôi nhịn đói mười một ngày vừa qua cho nên
vội khuyên tôi phải ăn từ từ. Tôi không dám nói sự thật cho cậu ấy biết, sợ
rằng một tên khốn kiếp nào đó rình đọc "bức điện".
Cánh tay
Julot đã được bó bột, tinh thần anh ta khá vững, anh ta chúc mừng tôi vì đã
chịu đựng được cơn thử thách vừa qua. Theo Julot thì chuyến tàu đã sắp khởi
hành. Người y tá có nói với anh ta rằng nhà lao đã nhận được những ống thuốc
tiêm chủng dành cho tù khổ sai trước khi lên đường. Thường thường những ống
thuốc này được gửi đến nhà lao trước ngày khởi hành một tháng. Julot là một anh
chàng thiếu thận trọng, vì anh ta dám hỏi xem tôi có giữ được plan không. Có
tôi vẫn giữ được, nhưng tôi đã phải làm gì để giữ được món tài sản ấy thì tôi
không thể nói ra được. Hậu môn của tôi bị những vết thương rất đau đớn.
Ba tuần
sau người ta lùa chúng tôi ra khỏi xà-lim. Có chuyện gì thế này? Hóa ra họ cho
chúng tôi một bừa tắm nước nóng tuyệt vời có cả xà-bông. Tôi cảm thấy như mình
sống lại. Julot cười sằng sặc như thằng con nít; Pierrot le Fou thì mặt mày
rạng rỡ niềm vui sống. Vì vừa ở xà-lim ra, chúng tôi không biết chút gì về
những việc đang diễn ra. Tôi thì thầm hỏi anh thợ cắt tóc: "Có chuyện gì
thế?" Nhưng anh ta không chịu trả lời. Một người tù không quen biết có bộ
mặt rất khó ưa nói với tôi: "Chắc bọn ta được miễn chế độ xà-lim. Có lẽ
chúng nó sợ một ông thanh tra nào đó sắp ghé qua. Điều cốt yếu là phải
sống".
Mỗi đứa
chúng tôi được đưa vào một căn buồng giam thường. Đến trưa, trong bát xúp nóng
đầu tiên tôi được ăn kể từ bốn mươi ba ngày nay, tôi nhặt được một mảnh gỗ nhỏ.
Trên mảnh gỗ có viết: "Tám ngày nữa xuất phát. Mai tiêm chủng". Ai đã
gửi cho tôi bức thông điệp này? Mãi cho đến nay tôi vẫn không được biết. Chắc
chắn đó là một người tù cấm cố đã có nhã ý báo cho chúng tôi. Người ấy biết
rằng chỉ cần một đứa trong bọn chúng tôi biết là ai nấy đều sẽ biết cả. Sở dĩ
bức thông điệp đến tay tôi chứ không phải ai khác, chắc chắn là do sự tình cờ.
Lập tức tôi gọi điện cho Julot, dặn anh ta truyền đi cho người khác biết.
Suốt đêm
hôm ấy tôi nghe thấy tiếng gõ "điện thoại" lộc cộc. Còn tôi thì khi
đã chuyển bức thông điệp xong, tôi im lặng. Tôi thấy quá dễ chịu trên cái
giường ấm áp của tôi. Tôi không muốn rắc rối, và nhất là không muốn trở lại xà
lim. Và bây giờ càng hơn bao giờ hết.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 4: Lên đường Saint Martin de Ré
Tối hôm
ấy, Batton gửi cho tôi ba điếu Gauloises và một mảnh giấy viết: "Bươm bướm
ơi, tớ biết rằng khi ra đi cậu sẽ mang theo một kỷ niệm tốt về tôi. Tôi là
trưởng tù thật, nhưng tôi cố sao càng ít làm hại các bạn tù càng tốt. Sở dĩ tôi
nhận cái chức vụ này là vì tôi có chín đứa con và tôi rất cần được ân xá thật
sớm. Tôi sẽ cố gắng làm sao đừng đối xử quá tệ đối với anh em mà vẫn được tha
sớm. Từ biệt nhé. Chúc cậu may mắn. Ngày kia cậu sẽ lên đường rồi".
Quả
nhiên ngày hôm sau họ tập hợp chúng tôi lại thành từng tốp ba chục người trong
hành lang của khu trừng giới. Mấy người y xá ở Caen đến tiêm chủng cho chúng
tôi để đề phòng các bệnh nhiệt đới. Mỗi người được ba mũi tiêm và hai lít sữa.
Dega đứng gần tôi. Bác ta có vẻ đăm chiêu tư lự. Bây giờ tù không tuân thủ quy
tắc im lặng nữa, vì ai nấy đều biết rằng vừa mới tiêm chủng xong họ không thể
nhốt tù vào xà-lim được.
Chúng
tôi nói chuyện khe khẽ với nhau ngay trước mũi bọn cảnh sát. Bọn này không dám
nói gì vì ngại các y tá ở thành phố về. Dega nói với tôi:
- Không biết
họ có đủ xe xà-lim để chở cả bọn đi một chuyến không?
- Chắc
là không.
-
Saint-Martin de Ré xa lắm, nếu cứ mỗi ngày chở sáu chục thì phải mất mười ngày
mới chở hết, vì chỉ riêng ở đây thôi cũng đã có gần sáu trăm tù rồi. Đã tiêm
chủng rồi thì cứ yên chí. Vì như thế có nghĩa là mình đã có tên trong danh
sách, thế nào cũng được đưa ngay đến nơi khổ sai. Can đảm lên Dega ạ, một giai
đoạn mới sắp bắt đầu. Bác hãy tin cậy tôi như tôi tin cậy bác.
Dega
nhìn tôi, hai mắt sáng long lanh. Bác ta đặt bàn tay lên cánh tay tôi và nhắc
lại: "Sống chết có nhau Papi nhé". Cuộc hành trình trên xe chở tù
không có gì đáng kể lại. Họa chăng cũng chỉ có một điều là mỗi người bị nhốt
trong cái ngăn chật chội của mình trên thùng xe, rất ngột ngạt. Bọn áp giải không
chịu mở hé mấy cánh cửa để cho chúng tôi thêm một ít không khí.
Khi đến
La Rochelle, trên chiếc xe chở chúng tôi có hai người đã chết ngạt từ bao giờ.
Saint-Martin de Ré là một hòn đảo, muốn ra đó phải chuyển sang tàu thủy để đi
qua lạch biển. Những người vô công rồi nghề tụ tập trên bến để xem tù đã chứng
kiến việc phát hiện hai cái xác người thảm hại kia. Họ không bày tỏ một cảm xúc
nào trước cảnh ấy. Vì bọn cảnh sát phải bàn giao đầy đủ số tù do chúng áp giải
cho khám Citadeue ở trên đảo, dù còn sống hay đã chết, cho nên chúng đưa cả hai
cái xác chết cùng lên tàu với chúng tôi.
Cuộc
vượt biển không dài, nhưng dù sao chúng tôi cũng được thở không khí trong lành
của biển một lát. Tôi nói với Dega: "Chưa chi đã phảng phất hương vị của
một chuyến vượt ngục". Dega mỉm cười. Julot, lúc bấy giờ đứng cạnh chúng
tôi, nói:
- Đúng.
Có mùi vượt ngục thật. Bản thân tôi đây, tôi đang trở lại nơi mà tôi đã trốn
khỏi cách đây năm năm. Tôi đã bị bắt một cách ngu xuẩn đúng vào lúc tôi sắp
giết cái thằng cha chứa chấp tôi đã đi báo cảnh sát cách đây mười năm. Chúng
mình hãy cố đứng sát nhau, vì đến Saint-Martin de Ré họ sẽ phân đám tù thành
từng tốp mười người, mỗi tốp nhốt vào một phòng giam, trên tàu đứng như thế nào
thì họ cứ thế mà phân bừa.
Cái anh
chàng Julot ấy nhầm. Đến nơi, họ gọi tên Julot và hai người khác nữa bắt đứng
riêng ra. Đó là ba người khổ sai đã vượt ngục, đã bị bắt lại ở Pháp, nay đang
trở lại nơi khổ sai lần thứ hai.
Bị nhốt
mười người một buồng, chúng tôi bắt đầu sống trong cảnh chờ đợi. Chúng tôi có
quyền nói chuyện, hút thuốc, và họ cho chúng tôi ăn rất khá. Thời kỳ này chỉ
nguy hiểm đối với cái plan mà thôi. Thỉnh thoảng, người ta bỗng dưng gọi anh
ra, bắt cởi truồng và khám rất kỹ. Trước hết là khám cái ngóc ngách ở trên
người cho đến tận gan bàn chân, rồi sau đó là khám áo quần, đồ đạc. Xong đâu
đấy mới được mặc áo quần trở lại và về phòng giam.
Hết
phòng giam lại đến nhà ăn và khoảng sân trong đó chúng tôi nối đuôi nhau đi
vòng quanh suốt mấy giờ liền. Một, hai! Một, hai! Một, hai. Chúng tôi đi thành
từng đội, mỗi đội một trăm năm mươi tù nhân. Đoàn diễu hành khá dài, tiếng guốc
gỗ kêu lốc cốc. Khi đi như vậy phải im lặng tuyệt đối. Rồi đến lệnh "giải
tán!" Chúng tôi ngồi xuống đất thành từng tốp chia theo phạm trù xã hội.
Trước hết là những người thuộc giới giang hồ chính danh. Đối với hạng người này
quê quán không có gì quan trọng: người Corse, người Marseille, người Toulouse,
người Bretagne, người Paris, v v Lại có cả một người Ardèche nữa: ấy là tôi. Và
cũng cần phải nói rõ một điều đáng lấy làm tự hào cho cái tỉnh Ardèche là trong
đoàn tù gồm một ngàn chín trăm người này chỉ có hai người quê ở Ardèche: một
anh cảnh sát canh nông giết vợ và tôi. Kết luận: dân Ardèche là người lương
thiện.
Các nhóm
khác thì hình thành một cách bất kỳ, vì số người "tử tế" đi khổ sai
vốn nhiều hơn số người "lôm côm". Những ngày chờ đợi này được gọi là
những ngày quan sát. Thật vậy, ở đây người ta quan sát chúng tôi dưới đủ mọi
góc độ. Một buổi chiều tôi đang ngồi phơi nắng thì có một người đến cạnh tôi.
Hắn ta đeo kính trắng, người nhỏ và gầy. Tôi cố đoán xem hắn là hạng người nào,
nhưng vì tù mặc đồng phục, ai cũng như ai, cho nên rất khó đoán.
- Anh là
Papillon phải không? hắn nói giọng Corse rất nặng.
- Vâng,
chính tôi. Anh muốn gì tôi?
- Ra nhà
xí đi - hắn nói xong bỏ đi ngay.
- Thằng
cha này người Corse - Dega nói với tôi - Chắc chắn là một tên kẻ cướp vùng núi.
Không biết nắn muốn gì ở cậu thế?
- Rồi sẽ
biết. Tôi đi về phía dãy nhà xí ở giữa sân, và giả vờ đi đái.
Người
kia cũng đang đứng đái ngay bên cạnh tôi. Hắn không nhìn tôi, nói:
- Tôi là
em rể của Pascal Matra. Hôm đến thăm tôi ở nhà tù, anh ấy có nói là nếu tôi cần
sự giúp đỡ thì nhờ anh.
- Đúng,
Pascal là bạn tôi. Anh cần gì?
- Tôi
không mang plan được nữa: tôi bị kiết lỵ. Tôi không biết nhờ ai giừ hộ, chỉ sợ
người ta lấy mất hoặc bị bọn cớm phát hiện. Tôi van anh, anh mang hộ tôi mấy
hôm. - Đoạn hắn cho tôi xem một cái plan to hơn của tôi nhiều.
Tôi sợ
hắn giăng bẫy, và hắn yêu cầu tôi giúp chẳng qua chỉ để biết rõ bản thân tôi có
mang plan hay không: nếu tôi nói rằng tôi không chắc có thể mang hai plan một
lúc, hắn sẽ biết ngaỵ Cho nên tôi nói tỉnh khô:
- Có bao
nhiêu trong ấy?
- Hai
mươi lăm ngàn francs.
Không
hỏi thêm gì nữa, tôi cầm lấy cái plan (nó rất sạch), và trước mặt hắn, tôi đút
nó vào hậu môn, trong lòng băn khoăn không biết liệu một người có mang nổi hai
cái hay không. Về điều này tôi hoàn toàn chưa có kinh nghiệm. Tôi đứng dậy, mặc
quần... Hình như ổn cả, chẳng thấy vướng gì.
- Tôi
tên là Ignace Galgani, - hắn nói với tôi trước khi bỏ đi. - Cám ơn Papillon.
Tôi trở
lại chỗ Dega và kể lại việc vừa qua.
- Không
nặng quá chứ?
- Không.
- Thế
thì được.
Không
nói chuyện này nữa. Chúng tôi tìm cách bắt liên lạc với những người đã từng ở
tù khổ sai về, nhất là Julot hay là le Guittou. Chúng tôi đang khao khát tài liệu:
ở bên ấy ra sao, chế độ ở đấy đối với tù nhân như thế nào; làm cách nào để có
thể nói chuyện riêng với một người bạn, v.v... Sự tình cờ đã xui khiến cho
chúng tôi gặp được một mẫu người kỳ thú, một trường hợp đặc biệt.
Đó là
một người Corse ra đời trong nhà tù khổ sai. Bố hắn làm giám thị Ở đấy và cùng
với mẹ hắn ở Quần đảo Salut. Hắn sinh ra ở đảo Royale là một trong ba cái đảo
làm thành Quần đảo này (hai đảo còn lại là đảo Saint Joseph và đảo Quỷ). Và giờ
đây, số phận đã xoay vần như thế nào mà hắn đang trở lại nơi chôn nhau cắt rốn
không phải với tư cách con ông giám thị mà với tư cách tù khổ sai. Hắn bị xử
mười hai năm khổ sai vì tội ăm trộm có bẻ khóa.
Mười
chín tuổi, một gương mặt cởi mở, đôi mắt sắc sảo và trong sáng. Tôi và Dega
thấy ngay tức khắc rằng đây là một người phạm tội chỉ vì một lúc lỡ bước. Cậu
này không biết gì nhiều về giới tội phạm, nhưng đối với chúng tôi cậu ta sẽ có
ích bằng cách cho chúng tôi tất cả những điều cần biết về cảnh sống đang chờ
chúng tôi. Cậu ta kể lại cuộc sống ở quần đáo, nơi cậu đã sống mười bốn năm.
Chẳng hạn cậu ta cho chúng tôi biết rằng người coi sóc cậu ở quần đảo là một
tên tù khổ sai nổi tiếng bị sa cơ trong một cuộc đấu dao trên đồi La Butte vì
đôi mắt kiều diễm của Casque d'Or. Cậu ta cho chúng tôi những lời khuyên rất
quý: muốn vượt ngục thì phải xuất phát từ đất liền, vì xuất phát từ quần đảo
Salut là điều không thể được; thứ đến là phải cố sao đừng bị phân vào loại nguy
hiểm, vì nếu thế thì đến Saint - Laurent một cái là sẽ bị cấm cố ngay trong một
thời gian hay suốt đời tùy mức nặng nhẹ được ghi trong sổ nhận xét. Nói chung,
không đến năm phần trăm tù khổ sai bị cấm cố ở quần đảo. Số còn lại thì ở đất
liền.
Ở quần
đảo khí hậu tương đối lành, nhưng ở đất liền, như Dega đã kể cho tôi nghe, nước
rất độc, khiến cho người tù kiệt sức dần vì đủ các thứ bệnh; ở đây người ta có
thể chết rất nhiều cách, vì bệnh hay vì bị ám sát, v.v.:. Dega và tôi cùng hy
vọng sẽ không bị cấm cố ở quần đảo. Nhưng tôi vẫn thấy nghẹn trong cổ: nhỡ ra
tôi bị ghi trong sổ là thuộc loại tù nguy hiểm thì sao? Tôi bị án chung thân,
lại thêm chuyện Tribouillard và chuyện chửi viên giám đốc, một bức chân dung
tuyệt mỹ rồi còn gì!
Một hôm
có tin đồn: dù có thể nào cũng không được xin vào bệnh xá, vì những ai quá yếu
hay có bệnh xem chừng không chịu nỗi cuộc hành trình đều bị nhân viên bệnh xá
đầu độc cho chết. Chắc là tin vịt thôi. Quả nhiên một người Paris tên là
Francis La Passe đã xác nhận rằng tin đồn ấy là bịa đặt. Của đáng tội, có một
người bị đầu độc thật, nhưng một người anh ruột của Francis La Passe làm việc
trong bệnh xá đã nói cho hắn biết đầu đuôi câu chuyện.
Số là có
một chuyên gia cỡ lớn về tủ két sắt, nghe nói đã từng ăn trộm tài liệu mật của
đại sứ quán Đức ở Genève hay ở Lausanne trong thời kỳ đại chiến lần thứ nhất để
trao cho các cơ quan tình báo Pháp. Những tài liệu ấy có tầm quan trọng rất
lớn, cho nên cảnh sát đã phải giao hắn cho Phòng nhì để làm việc này trong khi
hắn đang ngồi tù (hắn bị xử năm năm). Và kể từ 1920, mỗi năm làm một hai vụ,
hắn sống yên ổn. Cứ mỗi lần bị bắt, hắn lại cầu cứu bên Phòng nhì để họ can
thiệp hộ. Nhưng đến lần này thì không ăn thuạ Hắn bị xử hai mươi năm và lẽ ra
sẽ đi đày cùng một chuyến với chúng tôi.
Để tránh
đi chuyến này, hắn đã giả vờ ốm để vào bệnh xá. Một viên cyanure - vẫn theo lời
người anh của Francis La Passe - đã kết thúc mọi sự Bây giờ thì các tủ két sắt
và Phòng nhì có thể ngủ yên. Cái sân tù này đầy ắp những câu chuyện ly kỳ, đúng
sự thật cũng có mà bịa đặt cũng có. Dù sao thì chúng tôi cũng vểnh tai lên mà
nghe: ít nhất cũng giết được thì giờ. Mỗi lần tôi đi ngoài, dù là khi đang ở
trong sân hay trong xà-lim, Dega phải đi theo tôi, vì có hai cái plan: Dega
đứng che cho tôi trong khi tôi hành động, để ngăn chặn những con mắt quá tò mò.
Một cái plan đã là rầy rà, thế mà tôi mang những hai cái trong khi đó thì
Galgani ốm càng ngày càng nặng. Và ở đây có một hiện tượng bí ẩn không hiểu sao
được: cái plan mà tôi đút vào sau bao giờ cũng ra sau, và cái đút vào trước bao
giờ cũng ra trước. Chúng nó đổi chỗ cho nhau trong bụng tôi như thế nào thì tôi
không biết, nhưng kết quả là như thế đấy!
Hôm qua
ở phòng cắt tóc người ta đã tìm cách giết Clousiot trong khi người thợ cạo đang
cạo mặt cho anh ta. Hai nhát dao ở gần tim. Phúc bảy mươi đời, anh không chết.
Qua một người bạn của anh ta tôi biết được chuyện này. Đó là một câu chuyện kỳ
lạ, và có ngày tôi sẽ kể lại chuyện này. Vụ giết người này là một cuộc thanh
toán nợ nần. Kẻ mưu sát sẽ chết sáu năm sau ở Cayenne vì ăn phải bichromat
calium trộn vào món rong biển. Hắn đã chết trong những cơn đau khủng khiếp
Người y tá phụ mổ cho bác sĩ mổ tử thi có đưa cho chúng tôi xem một khúc ruột
dài khoảng mười phân. Trên khúc ruột thấy thủng mười bảy lỗ. Hai tháng sau, kẻ
đã bỏ thuốc độc cho hắn đã bị bóp cổ chết trên giường bệnh. Cho đến bây giờ người
ta vẫn không biết ai đã bóp cổ hắn.
Chúng
tôi ở Saint-Martin de Ré đã được mười hai ngày. Nhà tù chật ních. Ngày đêm lính
canh thường xuyên đi tuần quanh thành. Một cuộc ẩu đả đã nổ ra trong phòng tắm,
giữa hai anh em ruột. Hai đứa đã đánh nhau dữ dội như hai con thú, và một trong
hai đứa đã được đưa vào phòng giam của chúng tôi. Hắn tên là André Baillard. Họ
không thể trừng phạt hắn được, hắn nói thế, vì cuộc ẩu đả này xảy ra là do lỗi
của ban quản trị nhà tù: họ đã được lệnh không để cho hai anh em gặp nhau vì
bất kỳ lý do nào. Khi đã biết chuyện, người ta sẽ hiểu tại sao.
André đã
giết một bà già sống bằng lợi tức cho vay lãi và anh hắn là Emile cất giấu món
tiền lấy được. Emile bị bắt vì một vụ trộm và bị xử ba năm tù. Một hôm trong
phòng giam, có cả mấy người tù khác, vì ức thằng em không chịu gửi tiền cho hắn
mua thuốc lá, hắn nói toẹt ra và cam đoan rằng thế nào thằng André cũng đi đời
vì chính nó giết cụ già, còn như hắn, tức Emile, chỉ cất giấu tiền mà thôi. Cho
nên khi ra tù hắn sẽ không cho thằng André một xu nào. Một tù nhân liền đem kể
chuyện này cho viên giám đốc nhà tù nghe. Chẳng bao lâu André bị bắt và hai anh
em bị xử tử.
Trong
khu vực tử tù ở nhà lao Santé, hai đứa bị giam vào hai xà-lim kế cận. Mỗi đứa
đều làm đơn xin ân xá Đến ngày thứ bốn mươi ba, đơn của Emile được chấp thuận,
nhưng đơn của André bị bác bỏ. Tuy vậy, do một biện pháp nhân đạo để nương nhẹ
André, Emile vẫn bị giữ ở khu tử tù, và hai anh em mỗi ngày vẫn lần lượt được
đi dạo trong sân, chân mang xiềng xích. Đến ngày thứ bốn mươi sáu, người ta mở
cửa phòng giam André vào lúc bốn giờ rưỡi. Mọi người đều có mặt đông đủ: viên
giám đốc nhà tù, viên biện lý, và ủy viên công tố đã đòi xử tử André. Giờ hành
quyết đã đến. Nhưng vừa đúng lúc viên giám đốc bước tới để báo tin này cho tội
nhân, viên trạng sư của hắn chạy vào, theo sau là một người khác nữa trao một
tờ giấy của công tố viên. Mọi người lui ra hành lang.
Họng
André tắc nghẹn đến nỗi không nuốt nước miệng được nữa. Chẳng lẽ! Người ta
không bao giờ chặn ngang một cuộc hành quyết đang được tiến hành. Thế mà lần
này lại khác. Mãi đến hôm sau, sau bao nhiêu giờ lo âu khắc khoải, André mới
được ông trạng sư cho biết rằng trước ngày hành quyết một ngày, tổng thống
Doumer đã bị một người tên là Gorguloff ám sát. Nhưng ông Doumer không chết
ngaỵ Suốt đêm hôm ấy viên trạng sư đã túc trực trước bệnh viện sau khi báo cho
Bộ trưởng Bộ tư pháp rằng nếu ngày tổng thống chết trước giờ hành quyết (từ bốn
giờ rưỡi sáng đến năm giờ), ông ta yêu cầu bãi bỏ việc hành quyết vì lý do
khuyết diện người chịu trách nhiệm tối cao về án tử hình. Doumer chết vào lúc
bốn giờ hai phút. Viên trạng sư vội vàng báo tin cho Bộ tư pháp rồi nhảy ngay
lên xe tắc-xi cùng với người cầm lệnh bãi án: ông ta đã đến muộn mất ba phút,
không kịp ngăn chặn người ra mở cửa phòng giam André. Như vậy hai anh em được
được giảm án thành khổ sai chung thân.
Ngày bầu
tổng thống mới, viên trạng sư đã đến tận Versailles, và Albert Lebrun vừa được
bầu xong một cái là ông ta trình đơn xin ân xá ngaỵ Chưa bao giờ một vị tổng
thống bác bỏ đơn xin ân xá đầu tiên được trình lên cho mình xét: ông Lebrun đã
ký, thế là tôi yên lành lên đường đi Guyane". André kết thúc câu chuyện.
Tôi nhìn con người vừa thoát khỏi máy chém vào phút cuối và tự nhủ rằng dù sao
những nỗi cơ cực của tôi cũng không thể so sánh với những cơn dày vò mà hắn đã
phải chịu đựng. Tuy vậy tôi không bao giờ làm thân với hắn. Nghĩ rằng hắn đã
giết chết một bà già khốn khổ để lấy tiền, tôi thấy buồn nôn quá. Vả chăng hắn
còn có đủ những khả năng để trốn thoát. Về sau, ở đảo Saint Joseph hắn sẽ giết
anh hắn. Nhiều tù nhân đã chứng kiến việc ày.
Hôm ấy
Emile đang đứng câu cá trên một tảng đá, bao nhiêu tâm trí đều dồn hết vào công
việc này. Sóng vỗ rất mạnh, át hết mọi tiếng động khác. André đến gần anh hắn
từ phía sau, tay cầm một cây tre gộc dài ba mét. Hắn chỉ cần ẩy cây tre vào
lưng Emile là đủ làm cho ông anh mất thăng bằng rơi xuống biển. Chỗ này cá mập
nhiều vô kể: chẳng bao lâu Emile trở thành món ăn chính trong bữa ăn hàng ngày
của chúng. Trong buổi điểm danh tối hôm ấy, hắn vắng mặt và được coi là mất
tích trong khi mưu toan vượt ngục. Người ta không nhắc đến hắn nữa. Chỉ có bốn
năm người tù đang nhặt dừa trên đảo chứng kiến cảnh này. Dĩ nhiên các tù nhân
đều biết chuyện, chỉ có bọn cảnh sát là không hay biết gì. André Baillard không
bao giờ bị họ hỏi đến. Hắn được miễn cấm cố vì "hạnh kiểm tốt", và ở
Saint-Laurent du Maroni, hắn được hưởng một chế độ ưu đãi. Hắn có cả một phòng
giam riêng. Một hôm có chuyện với một tù nhân khác, hắn đã xảo quyệt mời người
này vào phòng giam của hắn và dùng dao đâm trúng tim vị quý khách. Được công
nhận là ở vào thế tự vệ hợp pháp, hắn được tha bổng. Đến kỳ bãi bỏ chế độ tù
khổ sai, hắn được trả,tự do, lần này cũng lại là vì "hạnh kiểm tốt".
Saint-Martin
de Ré đầy ấp những tù nhân. Ở đây có hai loại người rất khác nhau: tám trăm đến
một ngàn tù khổ sai và chín trăm người bị đày biệt xứ. Để trở thành tù khổ sai,
phải phạm một tội nặng hoặc ít nhất phải bị buộc tội đã vi phạm luật pháp một
cách nghiêm trọng. án nhẹ nhất là bảy năm khổ sai, rồi cứ thế tăng lên từng
bậc, cho đến khổ sai chung thân. Một người bị xử tử mà được ân xá thì đương
nhiên trở thành tù khổ sai chung thân. Đày biệt xứ thì có khác. Một người bị
kết án từ ba đến bảy lần thì có thể bị đày biệt xứ. Quả tình đó đều là những
tên trộm cướp thâm căn cố đế, cho nên có một điều dễ hiểu là xã hội phải tự bảo
vệ bằng cách cách ly những người như thế.
Tuy
nhiên, một dân tộc văn minh mà phải dùng đến biện pháp đày biệt xứ cũng thật là
đáng xấu hổ. Có những kẻ ăn cắp vặt, rất vụng về vì luôn luôn bị bắt, phải chịu
án đày biệt xứ - thời bấy giờ như vậy chung quy cũng chẳng khác gì bị tù chung
thân - mà thật ra cả đời chưa ăn cắp được lấy mười ngàn francs. Chính đây là
chỗ vô nghĩa lý nhất của nền văn minh Pháp. Một dân tộc không có quyền trả thù
hay loại trừ một cách quá nhanh chóng những người gây phiền hà cho xã hội.
Những người như thế là những người cần được điều trị nhiều hơn là phải trừng
phạt một cách vô nhân đạo đến thế.
Chúng
tôi đến Saint-Martin de Ré như vậy là đã được mười bảy ngày. Bây giờ chúng tôi
đã biết tên chiếc tàu sẽ đưa chúng tôi đến nơi tù đày: người ta gọi nó là chiếc
La Martinièrẹ Nó sẽ chở một ngàn tám trăm bảy mươi phạm nhân. Cái số tám chín
trăm tù khổ sai sáng hôm nay đều được tập hợp trong sân của cái pháo đài được dùng
làm nhà tù. Từ khoảng gần một tiếng đồng hồ, chúng tôi đã đứng xếp hàng mười
kín cả khoảng sân hình chữ nhật. Một cánh cửa mở ra và chúng tôi thấy bước vào
sân mấy người ăn mặc không giống như những tên cai tù mà chúng tôi đã từng
biết.
Họ mặc
một thứ trang phục may theo kiểu quân sự màu xanh da trời, trông khá sang
trọng. Không giống đồng phục của cảnh sát mà cũng không giống quân phục của nhà
binh. Ai nấy đều thắt một cái nịt rộng bản có đeo bao súng lục. Cán súng lộ rõ
ra ngoài. Họ có khoảng chừng tám mươi người. Có mấy người đeo lon. Ai nấy da
đều rám nắng, tuổi tác khá chênh lệch, xê xích giữa ba mươi và năm mươi tuổi.
Những người già trông dễ ưa hơn những người trẻ: bọn này ưỡn ngực ra vẻ quan
trọng và hãnh diện. Nhóm chỉ huy của bọn này cùng ra với viên giám đốc nhà lao
Saint-Martin de Ré, một đại tá hiến binh, ba bốn ông bác sĩ mặc quân phục thuộc
địa và hai ông linh mục mặc áo chùng trắng. Viên đại tá hiến binh cầm một cái
loa đưa lên miệng. Chúng tôi chờ đợi hiệu lệnh "đứng nghiêm", nhưng
không thấy có. Viên đại tá nói lớn:
- Tất cả
nghe kỹ dây. Kể từ giây phút này các người được chuyển sang quyền phụ trách của
những người quan chức thuộc Bộ Tư pháp đại diện cho ban quản trị trừng giới của
xứ Guyane thuộc Pháp mà trung tâm hành chính là thị trấn Caen. Thưa ngài thiếu
tá Barrot, tôi xin bàn giao cho ngài tám trăm mười sáu phạm nhân hiện có mặt,
được ghi tên trong danh sách này. Xin ngài xác nhận cho rằng họ đều có mặt.
Cuộc
điểm danh lập tức bắt đầu: "Jean Mỗ? Có! Paul Mỗ? Có! v.v... Thủ tục này kéo
dài hai tiếng đồng hồ: mọi sự đều ổn thỏa. Sau đó đến cuộc trao đổi chữ ký giữa
hai ban quản trị được tiến hành trên một cái bàn nhỏ mới bày ra sân vì mục đích
này. Thiếu tá Barrot đeo một số lon ngang với số lon viên đại tá, nhưng lon màu
hoàng kim chứ không phải màu bạc như trong hiến binh. Ông ta cầm cái loa lên:
- Các
phạm nhân nghe đây, từ nay về sau danh từ này sẽ được dùng thường xuyên cho các
anh: phạm nhân Mỗ hay phạm nhân số bao nhiêu đấy, như người ta sẽ ấn định cho
từng người. Ngay từ bây giờ các người được đặt dưới những luật lệ riêng của nhà
tù khổ sai, dưới những nội quy và những tòa án nội bộ, khi cần sẽ có những
quyết định cần thiết để xử lý với các người. Các tòa án tự trị này, trong
trường hợp các người vi phạm điều lệ của nhà tù khổ sai, có thể xử các người từ
hình phạt giam cầm đến tử hình. Dĩ nhiên những hình phạt có tính chất kỷ luật
này, như giam cầm hay cấm cố, sẽ được thi hành trong các trụ sở thuộc quyền ban
quản trị. Các nhân viên mà các người trông thấy ở đây được gọi là giám thị. Mỗi
khi nói với họ, các người sẽ thưa: "Thưa ông giám thị". Sau bữa ăn
tối mỗi người sẽ được phát một cái bị lính thủy đựng trang phục nhà tù và mấy
thứ đồ dùng cá nhân. Trong đó đã có đủ những gì cần thiết, các người không được
có những thứ đồ đạc khác. Ngày mai các người sẽ lên tàu La Martìmère. Chúng tôi
và các người sẽ cùng đi trên chuyến tàu ấy. Các người không nên lấy làm tuyệt
vọng khi phải rời đất nước: ở nơi tù đày các người sẽ thấy dễ chịu hơn là bị
cấm cố ở Pháp. Các người có thể nói chuyện, chơi, ca hát và hút thuốc, các
người không sợ bị hành hạ nếu hạnh kiểm các người tốt. Tôi yêu cầu các người
hãy đợi đến khi tới nhà tù khổ sai rồi hãy thanh toán những chuyện xích mích cá
nhân. Trong khi tàu đang vượt biển, kỷ luật cần phải rất nghiêm minh, tôi hy
vọng rằng các người sẽ hiểu điều đó. Nếu trong số các người có ai tự cảm thấy
không có đủ điều kiện thể chất để trải qua chuyến đi này, tôi yêu cầu họ đến
trình diện ở bệnh xá; họ sẽ được các sĩ quan thầy thuốc đi theo trên tàu khám
cho. Tôi chúc các người lên đường bình an.
Phần
nghi lễ thế là xong.
- Này
bác Dega, bác thấy thế nào?
-
Papillon ạ, bây giờ tôi thấy là tôi có lý khi nói rằng điều nguy hiểm nhất phải
khắc phục chính là bọn tù khổ sai khác. Cái câu của ông ta nói: "Hãy đợi
đến khi tới nhà tù khổ sai rồi hãy thanh toán những chuyện xích mích" thật
là đầy ý nghĩa. Sẽ có bao nhiêu vụ giết người xảy ra!
- Tuy
vậy bác đừng lo, bác cứ tin tôi đi.
Tôi đi
tìm Franeis La Passe và nói với hắn.
- Anh
cậu vẫn làm y tá đấy chứ?
- Vẫn
làm, anh tớ không phải là tù khổ sai, chỉ là đày biệt xứ thôi.
- Cậu
phải bắt liên lạc ngay với anh ta để xin cho được một con dao mổ. Nếu anh cậu
cần trả tiền, cậu cứ cho tớ biết là bao nhiêu, tớ sẽ trả đủ.
Hai giờ
sau tôi đã có được một con dao mổ cán bằng thép rất cứng. Khuyết điểm duy nhất
của nó là hơi to một chút, nhưng đó là một vũ khí rất đáng sợ.
Tôi đến
ngồi gần dãy nhà xí ở giữa sân. Tôi đã nhờ người đi tìm Galgani để trả lại cái
plan cho nó, nhưng chắc khó lòng tìm nổi một con người trong cái đám luôn luôn
di chuyển trên khoảng sân rộng mênh mông chứa đến tám trăm người. Từ khi chúng
tôi đến đây, Julot, le Guĩtoun, Suzini đều không thấy đâu cả. Ưu thế của sinh
hoạt tập thể là ở chỗ người ta được sống, được nói với nhau và cùng thuộc một
xã hội chung, nếu có thể gọi đây là một xã hội. Có bao nhiêu những điều cần
nói, cần nghe và cần làm, đến mỗi người ta không có thì giờ suy nghĩ nữa. Khi
nhận thấy dĩ vãng mờ nhạt hẳn đi và lùi xuống hàng thứ yếu so với cuộc sống
hàng ngày, tôi nghĩ rằng khi đã đến nơi rồi chắc người ta sẽ gần như quên bẳn
trước kia mình là ai, tại sao mình lại rơi vào cảnh này, và làm thế nào để rơi
vào đây để chỉ quan tâm đến một điều duy nhất: vượt ngục.
Tôi nghĩ
như vậy là lầm, vì ngay từ đầu, cái điều có sức thu hút nhất và quan trọng nhất
trước tiên là phải cố sao để mà sống đã. Vậy thì bọn cảnh sát, bọn bồi thẩm,
những phiên tòa đại hình, những viên chức của tòa án bây giờ ở đâu? Vợ tôi, cha
tôi, các bạn tôi bây giờ ở đâu? Họ vẫn sống sờ sờ ra đấy, và mỗi người có một
vị trí riêng trong lòng tôi, nhưng hình như vì cái trạng thái bừng bừng như lên
cơ lì sốt của giờ xuất phát, của bước nhảy khổng lồ vào cõi chưa từng biết, của
những tình bạn mới và những mối liên hệ quen biết khác nhau, tưởng chừng như
những con người ấy không còn quan trọng như trước. Nhưng đó chỉ là một cám
giác. Mỗi khi tôi muốn, vào cái giây phút mà trí óc tôi vui lòng mở cái ngăn
kéo tương ứng với từng người, họ lại sẽ có mặt đâu vào đấy.
Kìa
Galgani đã đến: người ta phải dẫn hắn đến tìm tôi, vì tuy đã đeo đôi kính dày
cộp, hắn chỉ trông thấy lờ mờ. Trông hắn có vẻ đỡ đỡ. Hắn lại gần tôi và im
lặng và nắm chặt tay tôi, không nói một lời. Tôi nói với hắn.
- Tôi
muốn trả cái plan cho cậu. Bây giờ cậu đỡ rồi, cậu có thể tự mang lấy. Trong
cuộc hành trình dài ngày này, trách nhiệm mà cậu giao cho tôi quá lớn, vả lại
làm sao biết được tôi với cậu có được phân chỗ gần nhau hay không, rồi đến nơi,
dù có gặp được nhau nữa thì chưa chắc đã có điều kiện trao tay. Vậy cậu lấy lại
ngay từ bây giờ thì hơn.
Galgani
nhìn tôi, vẻ khổ sở. Tôi giục:
- Nào,
cậu ra nhà xí để tớ trao plan lại.
- Không,
tôi không lấy lại đâu, anh cứ giữ lấy, tôi cho anh đấy, nó là của anh.
- Sao
cậu lại nói thế
- Tôi
không muốn bị chúng nó giết để lấy plan. Tôi thà sống không có tiền còn hơn là
chết vì có tiền. Tôi cho anh, vì xét cho cùng không có lý do gì anh lại phải
chịu liều cả tính mạng để giữ tiền cho tôi. ít nhất, nếu anh đã chịu hiểm họa
thì điều đó phải có lợi cho anh.
- Cậu sợ
à, Galgani. Người ta đã đe dọa cậu à? Có kẻ nghi ngờ là cậu có plan sao?
- Vâng,
tôi bị ba tên A-rập theo dõi thường xuyên: Chính vì thế mà tôi không đám đến
gặp anh lần nào, để cho chúng nó đừng nghi ngờ là tôi với anh có liên hệ với
nhau. Mỗi lần tôi đi ngoài, dù ban ngày hay ban đêm, một trong ba thằng khốn ấy
đều đến ngồi gần tôi. Tôi đã cố gắng làm sao cho chúng nó thấy rõ rằng tôi
không mang gì trong hậu môn (dĩ nhiên tôi cố làm như vậy một cách thật tự
nhiên), thế mà chúng nó vẫn không ngừng quan sát tôi. Chúng nó đoán là có một
người khác giữ hộ plan cho tôi, chỉ có điều không biết là ai mà thôi, cho nên
chúng nó cố rình để biết lúc nào cái plan sẽ trở về với tôi.
Tôi nhìn
Galgani và thấy rõ là cậu ta đã lâm vào tình trạng khiếp nhược vì bị đe dọa
thực sự. Tôi nói: "Chúng nó hay đến chỗ nào nhiều nhất trong khoảng sân
này?" Cậu ta nói: "Phía gần nhà bếp và nhà giặt đồ', "Được, cậu
cứ ở đây, tôi đến đó. à, thôi, cậu cứ đi với tôi"
Tôi đi
với Galgani về phía bọn A-rập. Tôi đã lấy con dao mổ trong mũ vải ra. Bàn tay
tôi cầm cán dao, lười dao đặt ngược lên phía trên, lấp trong tay áo. Quả nhiên
đến gần nhà bếp tôi trông thấy chúng. Chúng gồm có bốn tên: ba tên người A-rập
và một tên người Corse, tên là Girandọ Tôi hiểu ra ngay: chính tên người Corse
này bị những người trong giới tẩy chay, đã mách chuyện này cho bọn A-rập. Chắc
Girando biết Galgani là em vợ của Pascal Matra cho nên không thể không có plan
được.
- Chào
Mokrane thế nào, khỏe chứ?
- Khỏe,
Bươm bướm ạ. Còn anh thì sao?
- Còn
tôi thì đang gay đây. Tôi đến gặp các cậu để nói cho các cậu biết rằng Galgani
là bạn tôi. Hễ có việc gì xảy ra với nó là tôi thịt cậu trước Girando ạ; sau đó
đến lượt các cậu kia. Tùy các cậu liệu lấy.
Mokrane
đứng dậy. Hắn cũng cao bằng tôi, khoảng một mét bảy mươi tư, bề ngang cũng như
tôi. Lời thách thức của tôi đã làm cho hắn khó chịu. Hắn phác một cứ chỉ gây
hấn, nhưng tôi lập tức chìa con dao mổ sáng choang ra, mũi dao nhọn hoắt chĩa
thẳng vào tim hắn, và nói:
- Hễ mày
động dậy là tao giết mày như một con chó.
Bàng
hoàng vì thấy tôi cầm vũ khí ở một nơi mà người ta luôn luôn bị khám xét, lại
choáng ngợp trước thái độ của tôi cũng như trước chiều dài của con dao mổ, hắn
nói:
- Tôi
đứng dậy là để tranh luận với anh, chứ không phải để đánh nhau.
Tôi biết
thừa là không phải như thế, nhưng cũng thấy rằng để cho hắn vớt vát sĩ diện
trước mặt các bạn hắn là điều có lợi cho tôi. Tôi bèn dành cho hắn một lối
thoát danh dự:.
- Tốt.
Cậu đã đứng dậy để tranh luận thì...
- Tôi
không biết rằng Galgani là bạn anh. Tôi tưởng hắn là dân trưởng giả, và Bươm
bướm ạ, anh cũng phải hiểu rằng ai cũng cần có chút bím để vượt ngục.
- Phải,
đó là chuyện bình thường. Cậu có quyền vật lộn để giành lấy sự sống, Mokrane
a... Chỉ có điều là chỗ này cấm. Liệu đi tìm chỗ khác.
Hắn chìa
tay ra, tôi cầm lấy. Tôi dàn xếp ổn thỏa được việc này cũng thật là may mắn, vì
thật ra nếu tôi giết chết thằng này, mai tôi sẽ không lên đường được nứa.
Sau đó
ít lâu, tôi nhận ra rằng tôi đã phạm một sai lầm. Galgani cùng về chỗ với tôi.
Tôi dặn cậu ta đừng nói cho ai biết chuyện này. Tôi chẳng muốn bị bác Dega mắng
cho một trận. Tôi cố thuyết phục cho Galgani chịu lấy lại cái plan. Hắn nói:
"Thế thì mai, trước khi xuất phát". Hôm sau hắn lẩn đi đâu mất không
sao tìm được. Và rốt cuộc tôi đành lên tàu với hai cái plan trong bụng. Đêm hôm
ấy trong căn buồng giam nhốt mười một người, chẳng ai nói gì với ai. Là vì ai
nấy ít nhiều đều nghĩ rằng đây là đêm cuối cùng mình còn được sống trên đất
Pháp. Mỗi người trong bọn chúng tôi ít nhiều đều cảm thấy nuối tiếc xót xa khi
nghĩ rằng mình sắp vĩnh viễn giã từ quê hương để đến một nơi xa xôi chưa từng
biết và sống một cuộc đời đọa đày, chẳng biết số phận sẽ xoay vần ra sao.
Dega
cũng không nói gì. Bác ta ngồi bên cạnh tôi gần cái cửa có chấn song mở ra hành
lang, nơi có nhiều không khí lọt vào hơn những chỗ khác một chút. Tôi cảm thấy
mất phương hướng thật sự. Những điều chúng tôi được thông báo về nơi đang chờ
đợi chúng tôi nó trái ngược nhau đến nỗi tôi không còn biết là mình nên hài
lòng, nên buồn hay nên tuyệt vọng nữa. Những người cùng bị giam với tôi một
phòng đều thuộc giới chúng tôi. Chỉ có anh chàng người Corse nhỏ bé ra đời
trong nhà tù khổ sai không hẳn là người cùng giới. Tất cả những con người ấy
đều lắng sâu vào nội tâm. Tính chất nghiêm trọng của giờ phút này đã làm cho họ
hầu như hóa câm. Khói thuốc lá từ căn phòng giam bốc ra như một đám mây bị không
khí trong hành lang cuốn đi, và nếu không muốn bị cay mắt thì phải ngồi trệt
xuống cho thấp hơn lớp khói ấy. Không có ai ngủ, trừ André Baillard: điều đó
cũng dễ hiểu, vì anh này đã tưởng mất cả cuộc sống. Đối với một người như thế
thì ngoài cái chết ra, tất cả mọi thứ khác đều là một cảnh thiên đường mà dù có
nằm mơ cũng không thấy được.
Cả cuộc
đời tôi diễn ra trước mắt tôi như một cuốn phim: thời thơ ấu của tôi giữa một
gia đình đầy tình thương yêu, đầy nề nếp, trong đó mọi người đều quen những
cách xử sự phong nhã và cao thượng; những sắc hoa đồng nội, tiếng rì rầm của
những dòng suối, hương vị của hạt dẻ và của những trái đào trái mận mà khu vườn
của chúng tôi cung cấp ê hề cho cả nhà; mùi thơm của hoa mimosa cứ đến mùa xuân
lại nở rộ trước cửa; ngôi nhà ấm cúng của chúng tôi, vẻ ngoài cũng như cảnh bên
trong, lần lượt hiện ra rất nhanh trước mắt tôi. Cả một cuốn phim có âm thanh
trong đó tôi nghe thấy tiếng nói của người mẹ đã yêu thương tôi hết mức, rồi
tiếng nói của cha tôi, bao giờ cũng ôn tồn và hiền dịu, và những tiếng sủa của
Clara, con chó săn của cha tôi đang gọi tôi ra vườn để đùa nghịch; những đứa
con trai và con gái đã từng chơi đùa với tôi trong những giờ phút tốt đẹp nhất
của đời tôi, cuốn phim mà tôi xem lại mặc dầu không cố ý gợi lên, chiếu ra từ
cõi tiềm thức, đưa vào cái đêm chờ đợi này một cảm xúc dịu dàng để chuẩn bị cho
tôi lao vào chiều sâu thăm thẳm của tương lai. Đây là giờ phút phải làm một
cuộc sơ kết.
Thử coi:
tôi hai mươi sáu tuổi, khỏe mạnh, trong bụng có năm ngàn sáu trăm francs thuộc
quyền sở hữu của tôi, cộng thêm hai mươi lăm ngàn của Galgani, Dega bên cạnh
tôi cũng có mười ngàn. Như vậy là tôi có thể coi như mình được sử dụng bốn mươi
ngàn francs khi cần, vì nếu cái anh chàng Galgani ấy đã không đủ sức bảo vệ số
tiền này ở đây thì còn mong gì giữ được nó khi đã xuống tàu và khi sang đến
Guyane. Vả chăng cậu ta cũng biết thế, cho nên mới không lấy lại cái plan. Vậy
thì tôi có thể trông mong vào số tiền ấy, dĩ nhiên là khi dùng đến nó để vượt
ngục, tôi nhất định phải đem Galgani đi theo; nhất thiết Galgani phải được
hưởng cái quyền lợi đó, vì số tiền là của cậu ta chứ đâu phải của tôi Tôi sẽ
dùng nó để đem lại tự do cho Galgani nhưng chính tôi cũng trực tiếp được lợi
trong đó. Bốn mươi ngàn francs là một số tiền lớn, dùng nó tôi sẽ dễ dàng mua
được những người đồng lõa, tù nhân đang bị giam, tù nhân đã mãn hạn, cũng như
bọn giám thị.
Cuộc sơ
kết này đã đưa đến một kết quả khả quan. Hễ đến nơi, tôi phải vượt ngục ngay
cùng với Dega và Galgani: đó là đề tài duy nhất mà tôi phải chú tâm vào Tôi sờ
con dao mổ và thấy hài lòng khi chạm phải lưỡi dao thép lạnh ngắt. Có được
trong tay một vũ khí đáng sợ như vậy, tôi cảm thấy thêm tự tin. Công dụng của
nó đã được thử thách trong khi tôi cảnh cáo bọn A-rập.
Vào
khoảng ba giờ sáng, mấy người tù cấm cố đã xếp trước chấn song sắt của căn
phòng giam mười một cái bị lính thủy bằng vải thô đầy ắp đồ đạc, mỗi cái đính
một cái nhãn rõ tọ Tôi có thể nhìn rõ một cái nhãn như vậy lọt vào phía trong
dãy chấn song. Trên nhãn có đề: C Pierre, ba mươi tuổi, một mét bảy mươi ba,
khổ người bốn mươi hai, cỡ giày bốn mươi mốt, số điểm danh X... Cái anh Pierre
C... chính là Pierrot le Fou, một người Bordeaux đã bị tòa án Paris xử hai mươi
năm tù khổ sai vì tội giết người. Đó là một anh chàng rất đáng mến, một người
của giới giang hồ, thẳng thắn và chững chạc, tôi biết rất rõ. Cái nhãn kia cho
tôi biết tổ chức quản trị nhà tù khổ sai làm việc tỉ mỉ và có quy cũ đến nhường
nào. So với quân đội thì hơn hẳn, vì ở đây người ta phát áo quần cho lính bằng
cách áng chừng, cứ mặc thử không vừa lại đổi bộ khác. Chứ ở đây mọi thứ đều
được ghi tỉ mỉ và mỗi tù nhân đều được phát áo quần đúng khổ người mình. Nhìn
qua tấm lưới bịt trên bề mặt cái bị, tôi có thể thấy rằng trang phục của tù
nhân bằng vải trắng có sọc kẻ dọc màu đỏ. Mặc bộ đồ này đi đâu người ta cũng
nhìn ra ngay.
Tôi chú
ý cố làm sao cho trí óc tôi tạo ra những hình ảnh của phiên tòa đại hình, của
bọn bồi thẩm, của lão công tố viên, v.v... Nhưng nó dứt khoát không chịu tuân
theo và chỉ đưa ra những hình ảnh bình thường. Tôi hiểu rằng muốn sống lại
những cảnh ở nhà lao Conciergerie hay Beaulieu với một cường độ như tôi đã từng
sống qua, thì phải chỉ có một mình, hoàn toàn cô độc mới được. Tôi cảm thấy nhẹ
nhõm khi nhận chân ra điều đó, và hiểu rằng cuộc sống tập thể đang chờ đợi tôi
sẽ làm nảy sinh những nhu cầu khác, những phản ứng khác, những ý đồ khác.
Pierre
le Fou đến gần chấn song, bảo tôi: "ổn cả chứ Papi".
- Còn
cậu?
- Tớ thì
xưa nay vẫn mơ ước đi Châu Mỹ một chuyến, nhưng vì là tay cờ bạc, tớ không sao
dành dụm được một món tiền đủ để thực hiện chuyến du lịch đó. Thế mà nay bọn
cớm lại đứng ra cho tớ đi Mỹ không mất tiền. Bở thật Bươm bướm nhỉ?
- Hắn
nói rất tự nhiên không hề có giọng huênh hoang. Có thể cảm thấy rõ hẳn thực sự
tự tin - Chuyến đi du lịch không mất tiền do bọn cớm đãi tớ quả nhiên có những
ưu thế của nó. Tớ thà đi đày khổ sai còn hơn ngồi tù cấm cố mười lăm năm ở
Pháp.
- Còn
phải xem xem kết quả cuối cùng ra sao đã, Pierrot ạ.
- Cậu
không tin à? Phát điên trong xà-lim, hay chết vì kiệt sức trong một nhà tù cấm
cố nào đó ở Pháp còn tệ hơn là mắc bệnh hủi hay bỏ mạng vì sốt rét vàng, tớ
nghĩ như vậy.
- Tớ
cũng thế.
- Cậu
xem này, cái nhãn này là nhãn của cậu.
Pierrot
cúi xuống xem kỹ cái nhãn như để đọc, rồi giả vờ đánh vần, đoạn nói:
- Tôi nóng
lòng mặc bộ quần áo này, tôi muốn mở bị ra và thắng bộ vào, họ chẳng nói gì
đâu. Dù sao thì áo quần này cũng dành cho tôi.
- Thôi
đi Pierrot, hãy đợi đã. Bây giờ không phải là lúc sinh sự lôi thôi. Tôi cần yên
tĩnh.
Pierre
le Fou hiểu ý, rời chấn song ra chỗ khác. Louis Dega nhìn tôi rồi nói:
- Cậu bé
ơi, đêm nay là đêm cuối cùng. Ngày mai chúng ta sẽ rời bỏ nước Pháp xinh đẹp
của chúng ta.
- Cái
đất nước xinh đẹp của chúng ta có một hệ thống pháp luật chẳng xinh đẹp chút
nào Dega ạ. Có thế chúng ta sẽ được biết những đất nước khác không được đẹp như
nước ta, nhưng có một cách xử sự nhân đạo hơn đối với những người phạm lỗi.
Lúc ấy
tôi không biết là mình đã nói đứng đến mức nào: tương lai sẽ cho tôi thấy rằng
mình hoàn toàn có lý.
Xung
quanh lại im lặng.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 5: Xuất phát
Đến sáu
giờ sáng có lệnh chuẩn bị xuất phát. Mấy người tù cấm cố đến đưa cà-phê cho
chúng tôi, rồi bốn viên giám thị đến gặp chúng tôi với những chỉ thị cuối cùng.
Hôm nay họ mặc đồ trắng, súng lục vẫn đeo bên hông. Hàng khuy trên cái áo trắng
muốt của họ Óng ánh vàng. Một người trong bọn họ có ba cái lon vàng hình chữ V
trên ống tay áo bên trái, trên vai không thấy phù hiệu gì.
- Các
phạm nhân, các người sẽ ra hành lang từng hai người một. Mỗi người sẽ tìm lấy
bị đồ đạc của mình, tên có đề trên nhãn. Hãy cầm lấy bị và lùi sát tường, mặt
quay ra hành lang, bị để ngay trước mặt.
Phải mất
đến hai mươi phút chúng tôi mới xếp hàng xong dọc hành lang, bị để trước mặt.
- Cởi áo
quần ra, gấp lại cho gọn và lấy hai ống tay áo ngoài buộc lại thành bó.. Được
rồi. Thằng kia nhặt mấy bó áo quần để vào trong phòng giam... Bây giờ mặc áo
quần mới vào, quần đùi mặc trước, rồi đến áo lót dệt kim, rồi quần sọc, áo
blouson, đi tất và đi giày... Xong chưa?
- Thưa
ông giám thị xong rồi.
- Tốt.
Để cái áo va-rơi len ở ngoài bị phòng khi trời mưa hoặc khi nào lạnh thì mặc
vào. Vác bị lên vai bên trái. Từng hai người một, nối đuôi nhau theo tôi.
Viên
giám thị đeo lon đi trước, hai người kia đi hai bên, người thứ tư đi sau cùng,
cứ thế đoàn người bước ra phía sân. Không đầy hai tiếng đồng hồ, tám trăm mười
người tù khổ sai đã hàng lối chỉnh tề. Họ gọi tên bốn mươi người trong đó có
tôi và Louis Dega cùng với ba người vượt ngục bị bắt lại là Julot, Galgani và
Santini. Bốn mươi người này được xếp thành hàng mười. Mỗi hàng có một viên giám
thị đi kèm bên cạnh người đứng đầu hàng.
Không có
xiềng, không có khóa. Ở phía trước, cách chúng tôi ba thước, có mười viên cảnh
binh xếp hàng thẳng quay mặt về phía chúng tôi. Họ cầm súng trường lăm lăm
trong tay, đi giật lùi trước mặt chúng tôi trên suốt chặng đường, mỗi người
được một viên cảnh binh khác dẫn đường bằng cách kéo dây nịt vai. Cổng lớn của
pháo đài mở ra và đoàn người từ từ xuất phát. Trong khi chúng tôi ra khỏi pháo
đài, có nhiều cảnh binh cầm súng trường hay tiểu liên đi theo cách đoàn người
khoảng hai mét. Một đám người tò mò đông như kiến được bọn cảnh binh ngăn ra
hai bên: họ biết có chuyến tàu đi đày, nên kéo nhau ra xem.
Đi được
khoảng nửa đường tôi nghe có tiếng huýt sáo khe khẽ qua kẽ răng từ trên cửa sổ
một ngôi nhà lầu đưa xuống. Tôi ngẩng đầu lên thì trông thấy Nénette vợ tôi và
một người bạn của tôi là Antoine D. đứng ở một khung cứa sổ; ở một khung cứa sổ
khác tôi lại trông thấy Paula, bà vợ của Dega và bạn của bác ta là Antoine
Giletti. Dega cũng đã nhìn thấy họ, và thế là chúng tôi vừa di vừa dán mắt vào
hai khung cửa sổ ấy cho đến lúc không còn nhìn được nữa mới thôi. Đó là lần
cuối cùng tôi nhìn thấy vợ tôi, và cả Antoine bạn tôi nữa: về sau anh ta sẽ
chết trong một trận oanh tạc ở Marseille.
Đoàn
người đi hoàn toàn im lặng, không có ai nói gì. Dù là tù nhân, là giám thị, là
cảnh binh hay là công chúng hiếu kỳ, ai nấy đều không dám làm kinh động cái giờ
phút thực sự bi đát ấy, khi mà mọi người đều hiểu rằng đoàn tù một ngàn tám
trăm người này sắp vĩnh viễn từ giã cuộc sống bình thường. Chúng tôi lên tàu.
Tốp bốn mươi người đầu tiên được đưa xuống hầm tàu, nhốt vào một cái chuồng
xung quanh có bốn hàng chấn song sắt rất lớn. Trên chấn song có một cái biển
bằng các-tông. Tôi đọc thấy: "phòng số 1, 40 người thuộc loạt rất đặc
biệt. Cần cảnh giác thường xuyên và nghiêm ngặt". Mỗi người được nhận một
cái võng cuốn chặt lại. Xung quanh có rất nhiều vòng dính vào chấn song để treo
võng.
Có ai ôm
hôn tôi: đó là Julot. Cậu ta thì biết rõ cảnh này lắm, vì cách đây mười năm cậu
ta cũng đã đi một chuyến như thế này. Không ai có thể hiểu tình hình hơn nữa.
Julot nói với tôi:
- Đến
đây nhanh lên. Treo bị lên cái vòng mà cậu định dành để treo võng. Chỗ này gần
hai cái cửa thông hơi kia, bây giờ thì đang đóng, nhưng ra khơi họ sẽ mở, cho
nên chỗ này dễ thở hơn bất cứ nơi nào khác trong chuồng.
Tôi giới
thiệu Dega với anh ta. Chúng tôi đang nói chuyện thì thấy một người bước tới,
Julot liền giơ tay ra chặn lại và nói: "Nếu cậu muốn sống cho đến lúc cặp
bến thì đừng bao giờ đến gần chỗ này. Hiểu chưa?" – "Hiểu rồi",
người kia nói. - "Cậu có biết tại sao không?" "Có" -
"Thế thì xéo đi". Hắn bỏ đi, Dega rất mừng khi được chứng kiến cuộc
biểu dương sức mạnh này, và cũng không giấu giếm điều đó: "Có hai cậu, tôi
sẽ có thể ngủ yên". Julot đáp: "Có hai đứa chúng tôi, bác ở đây còn
an toàn hơn ở trong một cái villa trên bờ biển có một khung cửa sổ mở".
Chuyến
vượt Đại tây dương đã kéo dài được mười tám ngày. Chỉ có một sự cố duy nhất:
đêm nọ, một tiếng kêu lớn làm mọi người thức giấc. Một người tù đã chết, một
con dao lớn cắm vào giữa hai vai. Con dao đâm từ phía dưới lên, xuyên qua võng
trước khi đâm xuống lồng ngực. Đó là một vũ khí đáng kinh sợ, dài hơn hai mươi
phân. Lập tức, hai mươi lăm hay ba mươi viên giám thị chĩa súng lục hay súng
trường vào chúng tôi, quát:
- Tất
cả, cởi hết ra, nhanh lên!
Mọi
người hối hả cởi áo quần. Tôi hiểu rằng họ sắp khám xét chúng tôi. Tôi để con
dao mổ dưới bàn chân phải (lúc bấy giờ tôi không đi giày đi tất gì cả), đứng nặng
về chân trái nhiều hơn vì lười dao tuy đặt ngửa vẫn làm cho gan bàn chân phải
của tôi đau. Tuy vậy bàn chân phải của tôi cũng lấp hết chiều dài của con dao
mổ.
Bốn viên
giám thị đi vào chuồng và bắt đầu lục soát giày và áo quần của tù nhân. Trước
khi vào họ đã để vũ khí ở bên ngoài, và người ta đã đóng cửa chuồng lại sau
lưng họ, nhưng từ bên ngoài người ta vẫn quan sát chúng tôi, các họng súng chĩa
thẳng vào chúng tôi. Có tiếng một viên chỉ huy nói: "Hễ đứa nào nhúc nhích
là chết ngay". Trong cuộc lục soát họ phát hiện được ba con dao, hai cái
đinh đóng sàn nhà mài nhọn, một cái dùi xoáy ốc mở nút chai và một cái plan
bằng vàng. Sáu người được lệnh ra khỏi chuồng, mình vẫn trần truồng. Viên chỉ
huy trương của đoàn áp giải là thiếu tá Barrot cùng đến với hai bác sĩ quân y
và viên thuyền trưởng.
Khi mấy
người cảnh binh đã ra khỏi chuồng, mọi người đều mặc áo quần trở lại, không cần
đợi lệnh. Tôi đã giấu được con dao mổ vào chỗ cũ. Bọn giám thị đã lùi về phía
cuối gian hầm tàu. Đứng giữa là Barrot, còn mấy người khác đứng cạnh cầu thang.
Trước mặt họ, sáu người tù trần truồng xếp hàng ngang đứng nghiêm.
- Cái
này là của tên này, viên cảnh binh đã chỉ huy cuộc lục soát vừa nói vừa cầm lấy
con dao, tay chỉ vào chủ nhân của nó.
- Đúng,
của tôi đấy.
- Tốt, -
Barrot nói. - Người này sẽ tiếp tục chuyến đi trong xà-lim gần hầm máy.
Chủ nhân
của mấy cái đinh mài nhọn, của cái dùi xoắn, của mấy con dao, lần lượt được chỉ
ra và mỗi người đều thừa nhận sở hữu của mình. Vẫn trần truồng, họ bước lên
thang gác, mỗi người có hai viên cảnh binh kèm hai bên. Ở giữa sàn tàu chỉ còn
lại một con dao và cái plan bằng vàng; đứng trước hai vật này chỉ còn lại một
tù nhân. Hắn còn trẻ, hai mươi ba hay hai mươi lăm tuổi là cùng, người to cao,
một mét tám mươi là ít thân hình cân đối như một lực sĩ điền kinh, đôi mắt màu
xanh lơ. Viên cảnh binh cầm cái plan bằng vàng đưa ra trước mặt hắn, nói:
- Cái
này của mày phải không?
- Vâng,
của tôi.
- Ở
trong có những gì? - Thiếu tá Barrot cầm lấy cái plan nói.
- Ba
trăm bảng Anh, hai trăm dollars và hai viên kim cương năm carats.
- Được
để xem. - Ông ta mở cái plan ra.
Vì đứng
quanh ông ta có nhiều người cho nên chúng tôi không trông thấy gì mà chỉ nghe
ông ta nói: "Đúng. Tên mày?"
-
Salvidia Romeo.
- Mày là
người Ý?
- Thưa
ông vâng.
- Mày sẽ
không bị phạt vì cái plan, nhưng sẽ bị phạt vì con dao.
- Xin
lỗi, con dao không phải của tôi.
- Đừng
nói thế, tao đã tìm thấy con dao này trong giày của mày, - viên cảnh binh nói.
- Con
dao không phải của tôi, xin nhắc lại.
- Thế
thì tao nói dối phải không?
- Không,
chẳng qua ông nhầm.
- Thế
thì con dao của ai? - Thiếu tá Barrot nói. - Nếu không phải của mày thì phải là
của một người nào chứ?
- Nó
không phải của tôi, chỉ có thế thôi.
- Nếu
mày không muốn bị luộc trong căn xà-lim đặt trên nồi súpđe, thì nói đi: con dao
của ai?
- Tôi
không biết.
- Mày
giỡn mặt tao đấy à? Con dao dấu trong giày của mày mà mày không biết là của ai?
Mày cho tao là thằng ngốc sao? Một là của mày, hai là mày biết ai để nó vào
đấy. Trả lời đi.
- Nó
không phải là của tôi và tôi không có bổn phận nói ra cho các ông biết nó là
của ai. Tôi không phải là mật thám. Mặt mũi tôi thế này mà các ông nhìn ra
thành một thằng canh tù hay sao?
- Giám
thị, khóa tay thằng này lại. Mày sẽ phải trả một giá đắt cho cái thái độ vô kỷ
luật hỗn láo của mày.
Viên chỉ
huy đoàn áp giải và viên thuyền trưởng bàn bạc gì với nhau một lúc. Viên thuyền
trưởng ra một mệnh lệnh gì đó cho một viên thủy thủ trưởng, hắn liền đi lên
boong. Một lát sau một thấy thủ người Bretagne to như ông hộ pháp bước xuống,
tay xách một cái xô bằng gỗ đựng đầy nước biển và một sợi dây thừng to bằng cổ
tay. Họ trói người tù vào bậc cuối cùng của cầu thang, ở tư thế quỳ Người thuỷ
thủ nhúng sợi thừng vào xô rồi từ từ dùng hết sức mạnh đánh lên mông, lên sườn
và lên lưng người tù đáng thương. Không một tiếng kêu nào buột ra khỏi miệng
anh ta, trong khi máu chảy đỏ lòm từ đôi mông và từ bên sườn anh ta. Không khí
đang im phăng phắc, thì từ chuồng giam bỗng phát ra một tiếng hét phản đối:
- Quân
khốn nạn!
Thế là
mọi người lập tức la ó: "Quân giết người Thật bỉ ổi? Rõ thối tha!"
Bọn cảnh binh quát: "Im ngay! Nếu không sẽ bắn xả vào cả lũ chúng
mày?" Nhưng chúng càng dọa, chúng tôi càng hét to hơn.
Bỗng
viên chỉ huy trưởng hô:
- Phun
hơi vào?
Mấy
người thủy thủ vặn hai cái bánh xe gì đó, và những tia hơi nóng phụt vào chuồng
chúng tôi mạnh đến nỗi trong khoảnh khắc mọi người đều phải nằm rạp xuống.
Những tia hơi nóng đều được phun ngang tầm ngực bọn tôi. Một nỗi kinh hoàng ghê
gớm bao trùm lên cả cái tập thể của chúng tôi. Những người bị bỏng không đám
kêu. Họ phun hơi trước sau cũng không đến một phút mà cũng đã làm cho mọi người
khiếp đảm.
- Ta hy
vọng rằng những kẻ cứng đầu đã hiểu ra chứ? Hễ lôi thôi một chút là sẽ nếm mùi
hơi nóng. Hiểu chưa? Đứng dậy!. Chỉ có hai người bị bỏng thật sự. Họ được đưa
ra bệnh xá. Người bị đánh bằng thừng được đưa vào chuồng trở lại với chúng tôi.
Sáu năm sau anh ta sẽ chết trong một chuyến cùng vượt ngục với tôi.
Trong
mười tám ngày vượt biển, chúng tôi có đủ thì giờ hỏi han để biết ít nhiều về
cảnh sống ở nhà tù khổ sai. Sau này chúng tôi mới biết là không có gì giống với
những điều chúng tôi đã hình dung, mặc dầu Julot đã cố gắng hết sức để cung cấp
tài liệu cho chúng tôi Chẳng hạn, chúng tôi biết rằng Saint-Laurent- du-Maroni
là một cái làng ở cách biển một trăm hai mươi cây số, nằm trên bờ con sông
Maroni. Julot giảng giải cho chúng tôi:
- Làng
này là nơi đặt nhà trừng giới, trung tâm của trại tù khổ sai. Việc phân loại tù
được tiến hành ở trung tâm này. Những người bị đày biệt xứ được đưa thẳng đến
một nhà trừng giới gọi là Saint-Jean cách đấy mốt trăm mươi cây số. Những người
tù khổ sai được phân loại ngay ra thành ba khối:
"Khối
thứ nhất gồm loại rất nguy hiểm; sẽ được gọi tên ngay khi mới đến và nhốt vào
các phòng giam của khu trừng giới trong khi chờ đợi được đưa đến quần đảo
Salut. Họ bị giam ở đấy đến khi mãn hạn hoặc đến khi chết. Quần đảo này ở cách
Saint-Laurent năm trăm cây số và cách Cayenne một trăm cây số. Quần đảo gồm có
ba đảo, một là Royale; đảo lớn nhất là Saint- Joseph, nơi đặt nhà tù cấm cố của
trại khổ sai; cuối cùng là đảo Quỷ, đảo nhỏ nhất. Tù khổ sai không đến đảo Quỷ,
trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm hoi. Những người được đưa đến đảo Quỷ
đều là tù khổ sai chính tri. "
"Kế
đến là loại nguy hiểm bậc hai: họ sẽ ở lại trại Saint-Laurent và sẽ được đưa đi
làm những công việc canh tác và trồng vườn. Mỗi khi cần, người ta lại phái họ
đến những trại khổ sai đặc biệt gay go: Trại Forestier, Trại Charvin, Trại
Cascade, Vịnh Đỏ, Cây số 42 được mệnh danh là trại Tử thần".
"Cuối
cùng là loại bình thường; họ được phân việc ở ban quản trị, ở các nhà bếp, được
giao làm công việc quét dọn trong làng hay trong trại, hoặc được dùng vào những
công việc của xưởng máy, xường mộc, xưởng may, hay làm thợ sơn, thợ rèn, thợ
điện, thợ nhồi đệm, thợ giặt, v.v... "
Vậy giờ
G là giờ cặp bến: nếu tù nhân được gọi tên và dẫn vào phòng giam riêng, thì như
thế có nghĩa là sẽ bị giam ở quần đảo, không còn chút hy vọng nào có thể vượt
ngục. Chỉ còn lại một cách duy nhất là mau mau tự gây thương tích, xẻ đầu gối
hay rạch bụng ra để vào bệnh viện và tính chuyện vượt ngục từ đấy. Bằng bất cứ
giá nào cũng phải tránh cho được cái cơ mầu bị đưa ra quần đảo. Cũng còn có một
cơ hội nữa, là nếu chiếc tàu có nhiệm vụ đưa tù nhân ra đảo bị trục trặc, thì
phải đút tiền cho người y tá. Người này sẽ tiêm một mũi tinh chất terebenthin
vào một khớp xương, hoặc luồn một sợi tóc tẩm nước đái vào thịt để cho chỗ ấy
nhiễm trùng sưng tấy lên. Hoặc giả người y tá sẽ đưa lưu huỳnh cho anh hít, rồi
nói với bác sĩ là anh "sốt 40".
Trong
mấy ngày chờ đợi ấy, phải tìm cách vào bệnh viện bằng bất cứ giá nào. "Nếu
anh không bị gọi riêng ra, mà được xếp chung với những người khác trong các lán
của trại, thì anh có thì giờ để hành động: Trong trường hợp đó, không nên tìm
một công việc ở bên trong trại. Phải đút tiền cho viên kế toán để có được một
chân đổ rác hay quét dọn trong làng, hoặc được phái đến làm ở xưởng cưa của một
thường dân làm thầu khoán ở đấy.
Những
khi đi ra khỏi trại để đến nơi làm việc và mỗi tối trở về trại, người ta có thì
giờ bắt liên lạc với những người tù mãn hạn hiện còn ở trong làng hay với những
người Tàu, để họ chuẩn bị cho anh vượt ngục. Phải tránh những trạm ở quanh
làng: ở đấy rất chóng chết; có những trại trong đó không một người nào sống
được quá ba tháng. Đi làm trong rừng rậm thì phải chặt đủ mỗi ngày một mét khối
gỗ.
Tất cả
những tài liệu quý báu này, chúng tôi đã được Julot truyền đạt dần dần trong
suốt cuộc hành trình. Riêng cậu ta thì đã sẵn sàng. Cậu ta biết rằng với tư
cách tù nhân vượt ngục bị bắt lại, cậu ta sẽ được đưa thẳng vào xà-lim khi tàu
cặp bến. Cho nên cậu ta thủ sẵn một con dao rất nhỏ, dao nhíp thì đúng hơn, dấu
trong plan. Khi tàu cặp bến, cậu ta sẽ lấy dao ra rạch đầu gối. Khi xuống tàu
cặp ta sẽ vờ vấp ngã trên thang trước mặt mọi người. Cậu ta dự tính là sẽ được
khiêng thẳng từ bến vào nhà thương. Mọi việc sẽ diễn ra đúng phắt như vậy.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 6: Saint Laurent du Maroni
Bọn giám
thị đổi phiên cho nhau để đi thay áo quần. Họ lần lượt quay trở lại, mặc toàn
đồ trắng và đội mũ thuộc địa thay cho kepi. Julot nói: "Sắp đến nơi
rồi". Trong hầm tàu nóng kinh khủng vì các cửa sổ đều bị đóng hết. Qua tấm
kính tròn có thể trông thấy cảnh rừng rậm. Vậy là tàu đã đi vào sông Maroni.
Nước sông đục ngầu, cánh rừng trinh xanh tươi và sâu thẳm. Mấy con chim cất
cánh bay vút lên, hoảng sợ vì tiếng còi tàu.
Tàu đi
rất chậm, cho nên chúng tôi tha hồ ngắm kỹ cái thế giới thực vật màu xanh thăm
thẳm, dày đặc và phồn vinh. Đã nhìn thấy những nếp nhà đầu tiên bằng gỗ, mái
lợp tôn kẽm. Mấy người da đen, đàn ông có đàn bà có, đứng trước cửa nhìn chiếc
tàu đi quạ Họ đã quen nhìn cảnh chiếc tàu này đổ xuống bến món hàng bằng thịt
người của nó, cho nên không hề có một cử chỉ chào đón gì. Ba hồi còi và những
tiếng chân vịt cho chúng tôi biết là đã đến nơi, rồi mọi tiếng máy dừng hẳn.
Bây giờ thì một con ruồi bay ngang cũng có thể nghe thấy tiếng. Không ai nói
với nhau một lời.
Julot đã
mở con dao nhíp ra, rạch một đường trên ống quần ngang chỗ đầu gối rồi xé cho
mấy đường khâu bung ra. Phải lát nữa, khi đi trên cầu cậu ta mới rạch đầu gối,
để trước đó đừng có vết máu. Bọn giám thị mở cửa chuồng và bắt chúng tôi xếp
hàng ba. Julot ở hàng thứ tư, một bên là Dega còn bên kia là tôi: Chúng tôi lên
boong tàu. Lúc bấy giờ đã hai giờ trưa, và một vầng thái dương bằng lửa dọi
thẳng vào cái đầu húi trọc và vào hai mắt tôi. Chúng tôi xếp hàng trên boong và
được hướng dẫn ra cầu.
Đến khi
đoàn người hơi chững lại vì những người đi đầu bắt đầu bước lên cầu, tôi giữ
cho cái bị của Julot đừng rơi khỏi vai, còn anh ta thì một tay cầm da đầu gối
kéo căng ra, một tay cầm dao ấn lưỡi vào chỗ da ấy, chỉ một nhát cắt ngọt bảy
tám phân thịt. Anh ta chuyền cái dao cho tôi và một mình giữ lấy bị. Khi chúng
tôi bước lên cầu anh ta ngã khụy và lăn lông lốc xuống đến cuối cầu. Người ta vực
Julot dậy, và thấy anh bị thương, liền gọi những người khiêng cáng. Sự việc đã
diễn ra đúng theo kịch bản của Julot: cậu ta được đưa vào bệnh viện trên một
cái cáng hai người khiêng. Một đám đông pha tạp tò mò đứng nhìn chúng tôi.
Những
người da đen, lai da đen, những người thổ dân Anh điêng, những người Tàu, những
người da trắng tiều tụy trông không còn ra hồn người (chắc là tù khổ sai mãn
hạn) chăm chú nhìn từng tù nhân đặt chân lên đất liền và đến xếp hàng sau lưng
những người xuống trước. Bên phía đối diện, những viên giám thị, những người âu
mặc thường phục sang trọng, những bà đầm mặc áo mùa hè, những đứa trẻ con da
trắng, ai nấy đều đội mũ cối thuộc địa trên đầu. Họ cũng đứng nhìn những người
tù mới đến. Khi đã lên bờ được hai trăm người, đoàn tù đầu tiên này cất bước.
Chúng
tôi đi khoảng mười phút thì đến trước một cái cổng rất cao bằng gỗ súc, phía
trên có đề: "Trạm trừng giới Saint- Lau rent du-Maroni. Sức chứa 3000
người". Hai cánh cổng mở rộng ra và chúng tôi xếp hàng mười bước vào.
"Đi đều, bước, một hai, một hai?" Một đám tù khá đông nhìn chúng tôi
kéo vào. Có những người đứng trên cửa sổ hay leo lên những tảng đá lớn để nhìn
cho rõ. Vào đến giữa sân, có lệnh: đứng lại! Đặt bị xuống trước mặt. Bọn kia,
phát mũ đi!" Họ phát cho chúng tôi mỗi người một cái mũ rơm. Quả thật
chúng tôi đang rất cần mũ: chưa chi đã có hai ba người ngã xuống vì say nắng.
Dega và
tôi nhìn nhau, vì có một tên cảnh binh đeo lon đã cầm lên một cái danh sách ở
trong taỵ Chúng tôi nghĩ đến những điều Julot đã nói. Chắc họ sắp gọi le Guitou
đứng riêng ra. Quả nhiên, le Guitou lập tức được hai viên giám thị kèm hai bên.
Hắn rời hàng đi lại. Suzini cũng vậy, Girasol cũng y trang.
- Jules
Pignard! (tức là Julot đấy)
- Jules
Pignard nó bị thương, đi bệnh viện rồi.
- Được -
Đó là những người bị cấm cố ở quần đảo. Viên giám thị nói tiếp: - Các người hãy
nghe kỹ đây. Người nào tôi gọi tên thì vác bị ra khỏi hàng, đến xếp hàng trước
mặt cái lán quét vôi vàng kia, lán số 1 ấy.
Dage,
Carrier và tôi ở trong số những người được gọi ra xếp hàng trước lán. Cửa lán
mở ra, và chúng tôi bước vào một gian phòng hình chữ nhật dài khoảng hai mươi
mét. Ờ giữa có để một lối đi rộng hai mét; bên phải và bên trái đều có một
thanh sắt chạy suốt từ đầu đến cuối phòng. Những tấm vải toan dùng làm võng
được căng giữa thanh sắt và bức tường, trên mỗi tấm có một cái chăn. Ai muốn
chọn chỗ nào thì cứ đến đấy. Dega; Pierrot le Fou, Santori, Grandet và tôi chọn
chỗ nằm gần nhau, và lập tức các "xóm ở chung" hình thành. Tôi đi ra
cuối phòng: bên phải là dãy buồng tắm, bên trái là dãy cầu tiêu. Không có nước
máy.
Bám vào
chấn song các cửa sổ, chúng tôi chứng kiến thủ tục phân phối chỗ ở cho những
người tù đến sau chúng tôi. Louis Dega, Pierrot le Fou và tôi mừng rơn lên:
chúng tôi được xếp vào một cái lán chung như thế tức là không bị cấm cố. Chứ
không thì giờ này đã vào xà-lim cả rồi, như Julot đã giải thích. Mọi người đều
hài lòng, mãi cho đến lúc năm giờ chiều, khi mọi việc đã xong xuôi. Lúc bấy giờ
Grandet nói:
- Ngộ
thật, trong đoàn tù này chưa thấy gọi tên một người nào bị cấm cố. Kỳ quặc
thật. Thôi thì như thế càng hay!
Grandet
là người đã lấy sạch tiền trong tủ két sắt của một nhà tù trung tâm, một vụ
trộm đã làm cho cả nước Pháp cười vỡ bụng. Ở vùng nhiệt đới, đêm và ngày ập tới
không có hoàng hôn mà cũng chẳng có bình minh. Ngày chuyển sang đêm và đêm
chuyển sang ngày ngay tức khắc, quanh năm lúc nào cũng đúng vào giờ ấy. Đến sáu
giờ rười chiều, đêm sập xuống một cách đột ngột. Và cũng đúng sáu giờ rưỡi, hai
người tù khổ sai già xách vào hai cái đèn dầu lửa treo lên một cái móc ở trên
trần, tỏa ra một ánh sáng yếu ớt. Ba phần tư gian phòng chìm trong bóng tối.
Đến chín giờ, mọi người đã ngủ say, vì sau những giờ phút khích động lúc mới
đến, ai nấy đều mệt nhoài vì nóng bức. Không có một hơi gió thoảng, mọi người
đều mặc quần đùi mà ngủ. Võng của tôi ở vào giữa Dega và Pierrto le Fou, chúng
tôi nói chuyện thì thầm một lát rồi ngủ thiếp đi.
Sáng hôm
sau, trời hãy còn tối thì tiếng kèn đã vang lên. Ai nấy vùng dậy, đi rửa mặt và
mặc áo quần. Họ phát cà-phê, và mỗi người được một ổ bánh mì tròn. Cạnh chỗ
nằm, mỗi người có một tấm ván gắn vào tường để đặt ổ bánh mì, cái cà-mèn và
những đồ lặt vặt khác. Đến chín giờ thấy hai viên giám thị và một người tù khổ
sai trẻ tuổi mặc đồ trắng không có sọc, bước vào lán. Hai gã cảnh sát là người
Corse, họ nói tiếng Corse với những người tù đồng hương. Trong khi đó người y
tá đi đi lại lại trong phòng.
Đi qua
chỗ tôi, anh ta nói:
- Khỏe
không Papi.Cậu không nhận ra tớ à?
- Không.
- Tớ là
Sierra l'Algérois, tớ đã làm quen với cậu ở nhà Dante ở Paris.
- À
phải, bây giờ thì tôi nhận ra rồi. Nhưng cậu đi năm hăm chín, năm nay đã là ba
mươi ba mà cậu vẫn ở đấy à?
- Ừ!
Cũng chẳng nhanh được đâu. Cậu khai ốm ngay đi. Còn anh này là ai?
- Dega,
bạn tôi đấy!
- Tôi
cũng ghi tên cho anh khám bệnh. Papi thì bị kiết lỵ. Còn anh bạn già kia thì
lên cơn suyễn. Tớ sẽ gặp lại các cậu ở Phòng khám bệnh lúc mười một giờ, tớ có
chuyện cần nói với các cậu.
Anh ta
tiếp tục đi vừa đi vừa nói to: "ở đây có ai ốm đau gì không?" Hễ có
ai giơ tay là anh ta đến hỏi và ghi tên, Khi quay trở lại ngang chỗ chúng tôi,
cùng đi với anh ta có một người giám thị già nua, nước da sạm:
-
Papillon, tôi giới thiệu với cậu ông thủ trưởng của tôi, y tá trưởng kiêm giám
thị Bartilonị Thưa ông Bartiloni, anh này và anh này là hai bạn của tôi, như
tôi đã thưa chuyện lúc nãy.
- Được
rồi Sierra ạ, đến buổi khám ta sẽ dàn xếp với nhau, cậu cứ tin tôi.
Đến mười
một giờ, người ta vào gọi mấy người khai ốm. Chúng tôi có chín người cả thảy.
Chúng tôi đi qua trại giữa các đám tù. Khi đến trước một cái lán mới hơn và là
cái lán duy nhất được sơn trắng có vẽ chữ thập đỏ, chúng tôi dừng lai và bước
vào một gian phòng đợi trong đó có khoảng sáu mươi người. Ở mỗi góc phòng có
hai viên giám thị. Sierra hiện ra, mình mặc một chiếc blouse trắng muốt. Anh ta
nói: "'Anh này, anh này và anh này, vào đi". Chúng tôi bước vào một
căn phòng có thể nhận ra ngay là phòng làm việc của bác sĩ. Anh ta nói với ba
người bạn bằng tiếng Tây-ban-nha. Cái anh Tây ban-nha này thì tôi nhận ra ngay lập
tức: đó là Fernandez, kẻ đã giết ba người Argentina ở hiệu cà-phê Madrid ở
Paris.
Khi hai
người đã trao đổi với nhau mấy câu, Sierra đưa hắn vào một cái buồng kín ăn
thông với gian phòng, rồi ra gặp chúng tôi:
- Papi,
cậu để tớ hôn cái. Tớ rất hài lòng được dịp giúp cậu và bạn cậu một việc quan
trọng như thế này. Cả hai đều bị cấm cố... Ồ! cậu cứ để tớ nói? Cậu thì chung
thân, còn Dega thì năm năm. Các cậu có tiền không? Vậy thì mỗi cậu đưa đây năm
trăm francs, sáng mai hai cậu sẽ được nhập viện. Cậu thì bị kiết lỵ. Còn bác
Dega thì thế này: đang đêm bác hãy ra đấm cửa, hay tốt hơn là một cậu nào khác
gọi tên gác và đòi y tá nói rằng Dega đang chết ngạt. Phần còn lại tôi sẽ lo
Pappilon ạ, tôi chỉ xin cậu một điều: nếu cậu chuồn, cậu phải báo trước cho tôi
biết kịp thời, tôi sẽ đúng hẹn. Ở bệnh viện, mỗi người trả một trăm francs một
tuần thì họ có thể giữ cho nằm một tháng, làm nhanh lên.
Fernandez
từ trong buồng kín đi ra và đưa năm trăm francs cho Sierra ngay trước mặt chúng
tôi. Tôi liền đi vào buồng và khi trở ra tôi đưa cho anh ta không phải là một
ngàn francs mà là ngàn rưởi. Sierra từ chối cái số năm trăm francs kia. Tôi
không muốn nài thêm. Anh ta nói với tôi:
- Số bím
cậu đưa cho tớ là để đút cho viên cảnh binh. Còn tớ thì tớ không lấy gì đâu.
Chúng mình là bạn kia mà?
Hôm sau,
Dega, tôi và Fernandez đã nằm trong một gian phòng rộng thênh thang của bệnh
viện. Dega đã được đưa về đây lúc nửa đêm. Người y tá trông nom phòng này là
một người ba mươi lăm tuổi tên là Chatal. Hắn đã được Sierra dặn dò đầy đủ về
ba chúng tôi. Khi nào bác sĩ qua đây, hắn sẽ cho ông ta xem một kết quả xét
nghiệm trong đó ông ta có thể thấy ruột tôi đầy ắp a-míp. Về phần Dega thì mười
phút trước khi bác sĩ đến đến, anh ta cho đốt một ít lưu huỳnh và đưa cho bác
ta hít, đầu đội một cái khăn mặt. Fernandez thì một bên má sưng vù to bằng quả
dừa: anh ta đã chích thủng lớp da phía trong má và đã thổi thật mạnh trong một
tiếng đồng hồ. Anh ta làm việc này một cách tận tình đến nỗi cái má ung to lấp
hẳn một mắt.
Gian
phòng bệnh nhân đặt ở tầng lầu một của một tòa nhà khá lớn, có gần bảy mươi
bệnh nhân nằm, trong đó có nhiều người bị kiết lỵ. Tôi hỏi người y tá xem Julot
ở đâu. Anh ta nói:
- Ở tòa
nhà ngay trước mặt. Cậu có muốn tớ nhắn gì không?
- Có.
Nhờ cậu nói với Julot là Bươm bướm và Dega đang ở đây, cậu ấy hãy ra đứng ở cửa
sổ.
Người y
tá muốn ra vào phòng này lúc nào cũng được. Muốn thế anh ta chỉ cần gõ cửa, sẽ
có một người A-rập ra mở ngaỵ
Người
A-rập này là một người "giữ thìa khóa", tức một người tù khổ sai giúp
việc cho các giám thị. Hai bên cửa ra vào có đặt ghế tựa cho ba viên giám thị
ngồi, súng trường để sẵn một bên. Chấn song cửa sổ đều là những thanh đường ray
xe lửa: tôi cứ tự hỏi không biết làm cách nào để cưa đứt những chấn song to và
chắc như vậy. Tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ. Khoảng giữa tòa nhà của chúng tôi và
tòa nhà của Julot có một mảnh vườn đầy hoa đẹp. Julot hiện ra ở cửa sổ, tay cầm
một tấm bảng đen nhỏ trên đó có viết bằng phấn một chữ BRAVO ("hoan
hô"). Một giờ sau người y tá đem lại cho tôi một cái thư của Julot. Anh ta
viết: "tôi đang tìm cách sang phòng cậu. Nếu tôi thất bại, cậu cố sang
phòng tôi. Lý do là các cậu có những kẻ thù ở bên phòng ấy. Thế ra các cậu bị
phạt cấm cố à? Can đảm lên, ta sẽ thắng chúng nó".
Cái biến
cố xảy ra ở nhà lao Beaulieu trong đó hai chúng tôi cùng chịu đau đớn đã gắn
chặt chúng tôi lại với nhau. Julot là chuyên gia về môn sử dụng chày vồ, cho
nên mới được mệnh danh là "người cầm búa". Cách hành động của Julot
hồi còn tự do là như sau: anh ta đi xe hơi đến đỗ trước một cửa hàng bán đồ
trang sức vào giữa ban ngày, vào lúc những thứ kim hoàn đẹp nhất được bày ra tủ
kính phía trước. Trong khi chiếc xe hơi do một người khác lái vẫn nổ máy đứng
đợi, anh ta xuống xe rất nhanh, tay cầm một cái vồ lớn bằng gỗ phang mạnh vào
cứa kính, vơ thật nhiều đồ nữ trang rồi nhảy lên xe phóng đi nhanh. Sau khi đã
thành công ở Lyon, Angers, Tours, Le Havre, Julo tấn công vào một hiệu kim hoàn
lớn ở Paris vào lúc ba giờ chiều, lấy đi một số đồ nữ trang trị giá gần một
triệu.
Anh ta
chưa bao giờ kể cho tôi nghe mình đã bị nhận dạng như thế nào và tại sao. Anh
ta bị xử hai mươi năm tù khổ sai, và đến năm thứ tư anh ta đã vượt ngục. Và,
như anh ta đã kể với chúng tôi, chính vì trở về Paris mà anh ta bị bắt lại: anh
ta đi tìm cái người trước kia vẫn oa trữ những đồ anh trộm được để giết hắn, vì
hắn mãi không chịu giao lại cho em gái Julot một số tiền lớn mà hắn nợ của anh
ta. Hắn tình cờ trông thầy Julot tha thẩn trước phố hắn ở, liền báo cảnh sát
Julot bị bắt và đành trở lại về nhà tù khổ sai với chúng tôi.
Chúng
tôi nằm bệnh viện đã được một tuần. Hôm qua tôi đã đưa hai trăm francs cho
Chatal, đó là cái giá hàng tuần hai chúng tôi phải trả để được giữ lại ở bệnh
viện. Để được kính nể, chúng tôi lấy thuốc lá ra mời tất cả những người không
có thuốc lá. Một người tù khổ sai sáu mươi tuổi quê ở Marseille tên là Carora,
đã kết bạn với Dega. Ông ta là cố vấn của Dega. Mỗi ngày ông tác nhắc đi nhắc
lại với Dega nhiều lần là nếu Dega có nhiều tiền và ở trong làng người ta biết
như thế (qua các báo từ Pháp gửi sang, ở đây người ta biết được những vụ lớn),
Dega đừng vượt ngục thì hơn, vì những người tù mãn hạn đã được trả tự do sẽ
giết bác ta để lấy plan.
Dega nói
lại cho tôi biết những buổi nói chuyện này với ông già Carora. Tôi ra sức nói
cho Dega hiểu rằng lão già kia chắc chắn là một người vô tích sự, phải có thể
mới đành chịu ngồi lỳ ở đây hai mươi năm nay, nhưng bác ta không chịu nghe.
Dega bị những lời lẽ của lão già tác động rất mạnh và tôi phải khó nhọc lắm mới
giữ vững được tinh thần cho bác ta bằng niềm tin mạnh mẽ của tôi.
Tôi gửi
cho Sierra một mảnh giấy yêu cầu anh ta đưa Galgani vào nằm bệnh viện. Tôi
không phải đợi lâu. Ngay hôm sau Galgani đã vào viện, nhưng lại nằm trong một
phòng không có chấn song. Làm thế nào để trả lại cho Galgani cái plan của cậu
tả Tôi nhắn Chatal rằng tôi hết sức cần gặp Galgani, và để cho anh ta hiểu rằng
đây là một cuộc chuẩn bị vượt ngục. Chatal nói với tôi rằng anh ta có thể đưa
Galgani đến gặp tôi năm phút vào lúc mười hai giờ trưa. Đến giờ đổi gác, anh ta
sẽ cho Galgani ra hiên nói chuyện với tôi ở cửa sổ, và không chịu lấy tiền công
gì cả.
Đúng
mười hai giờ trưa, Galgani được đưa đến gặp tôi ở cửa sổ. Tôi trực tiếp đưa cái
plan cho cậu ta. Galgani đứng trước mặt tôi cho plan vào bụng. Cậu ta khóc. Hai
ngày sau, cậu ta gửi cho tôi một tờ tạp chí trong đó có để năm tờ giấy một ngàn
francs và một chữ gọn thon lỏn: Cám ơn! Khi trao cho tôi tờ họa báo, Chatal đã
trông thấy số tiền. Anh ta không nói gì, nhưng bản thân tôi muốn biếu anh ta
chút đỉnh. Anh ta từ chối. Tôi nói:
- Chúng
tôi ra đi đây. Anh có muốn đi với chúng tôi không?
- Không,
Bươm bướm ạ, tôi đã hẹn với một nhóm khác phải năm tháng nữa, khi người cùng
nhóm với tôi ra khỏi xà-lim, tôi mới đi được. Lúc bấy giờ cuộc vượt ngục sẽ
được chuẩn bị kỹ hơn, và như thế chắc ăn hơn. Còn anh bị cấm cố, cho nên vội là
phải, nhưng ở đây cửa có chấn song thế kia sẽ gay lắm đấy. Anh đừng mong nhờ
tôi giúp, vì tôi không thể để mất chỗ làm này. Ở đây tôi có thể yên tâm đợi bạn
tôi ra khỏi xà-lim.
- Rất
tốt Chatal ạ. Ở đời phải trung thực, từ nay tôi sẽ không nói gì với cậu về việc
ấy nữa.
- Tuy
vậy, tôi vẫn sẽ tiếp tục đưa thư cho anh và làm những việc anh nhờ.
- Cám ơn
Chatal.
Đêm hôm
ấy có tiếng tiểu liên bắn mấy loạt. Sáng hôm sau chúng tôi được biết rằng
"người cầm búa" đã vượt ngục. Tôi cầu mong Thượng đế phù hộ cho anh
ta; đó là một người bạn tốt. Chắc anh ta gặp được một cơ hội nào đấy và đã thừa
cơ bỏ trốn. Thôi cũng mừng cho anh.
Mười lăm
năm sau, tức vào năm 1948, tôi đang ở Haiti, cùng đi với một nhà triệu phú
người Venezuela đến gặp ông chủ nhiệm Casino để thương lượng ký hợp đồng quản
lý sòng bạc ở Haiti. Một đêm, tôi vừa uống sâm-banh trong một tiệm rượu ra, thì
một trong những cô gái cùng đi với chúng tôi, người đen như than nhưng có giáo
dục như một cô gái nhà lành ở một tỉnh lẻ bên Pháp nói với tôi:
- Bà
ngoại em làm thầy lễ đạo vaudou, hiện nay sống với một ông già người Pháp. Đó
là một người tù Cayenne vượt ngục. Hai ông bà ở với nhau đã được hai mươi năm
nay. Ông ta suốt ngày say khướt. Tên ông ta là Jules Marteau.
Tôi lập
tức tỉnh rượu:
- Cô bé
hãy dẫn tôi đến nhà bà ngoại cô ngay. Cô ta dùng phương ngữ Haiti nói với người
lái tắc-xi đang phóng hết tốc độ. Khi đi qua một hộp đêm sáng trưng, tôi bảo
dừng xe lại rồi chạy vào mua một chai Pernod, hai chai sâm-banh, hai chai rhum
nội địa. Xe lại lên đường. Chúng tôi đến bờ biển, xe đổ trước một ngôi nhà đỏm
dáng tường sơn trắng, mái lợp ngói đỏ, nước biển vào đến gần sát bậc thềm. Cô
gái gõ cửa hồi lâu mới thấy một bà già cao lớn, tóc bạc trắng, ra mở. Bà ta mặc
một cái áo thụng dài đến tận mắt cá. Hai người đàn bà nói gì với nhau bằng
tiếng địa phương một lúc, rồi bà già nói: "Mời ông vào trong, ngôi nhà này
là của ông". Một ngọn đèn đất soi sáng một căn phòng rất sạch, bày những
lồng chim và bể cá.
- Ông
muốn gặp Julot à? Xin ông đợi cho một chút, ông ấy ra ngaỵ Jules, Jules? Có
người muốn gặp ông đây này.
Mình mặc
một bộ pyjama sọc xanh khiến tôi nhớ lại đồng phục của nhà tù khổ sai, một ông
già đi chân không bước ra.
- Nào,
bà Cục Tuyết nói lại nghe coi, ai lại đến thăm tôi vào giờ này? Bươm bướm!
Không, chẳng lẽ? - Julot ôm chầm lấy tôi và nói: - Đưa cái đèn lại đây, bà Cục
Tuyết, để tôi nhìn mặt thằng bạn già chút nào. Thôi đúng rồi, đích thị. Chính
cậu đây rồi! Thế là cậu là thượng khách. Ngôi nhà này, món tiền tôi đang có,
đứa con gái của vợ tôi, tất cả đều là của cậu. Cậu chỉ cần nói một tiếng.
Chúng
tôi đã cùng uống hết chai Pernod, hai chai sâm-banh, hai chai rhum, và thỉnh
thoảng Julot lại cất tiếng hát.
- Thế là
rốt cục cánh ta vẫn thắng chúng nó cậu nhỉ? Cậu thấy chưa, không có gì tuyệt
bằng phiêu lưu mạo hiểm. Như tớ đây đã đi qua Colombia, Panama, Costa Ria, la
Jamaica, để rồi cách đây chừng hai mươi năm, dừng lại ở đây và tìm được hạnh
phúc với Cục Tuyết là người đàn bà tốt nhất mà một người đàn ông có thể gặp
được trên đời này. Bao giờ cậu đi. Cậu ở đây có lâu không?
- Không,
một tuần thôi.
- Cậu
đến đây có việc gì?
- Ký hợp
đồng trực tiếp với chủ nghiệm Casino về quyền quản trị sòng bạc ở đây.
- Cậu ạ
tớ cũng muốn rằng cậu ở lại đây suốt đời với tớ trong cái xóm tiều phu đốt than
này, nhưng nếu cậu đã bắt liên hệ với thằng cha chủ nhiệm ấy thì cậu chớ làm gì
chung lưng với hắn, hắn sẽ cho người ám sát cậu khi thấy công việc của cậu phồn
vinh.
- Cám ơn
lời khuyên.
- Còn bà
Cục Tuyết, bà hãy chuẩn bị cuộc vũ hội đạo vaudou "không dành cho khách du
lịch" đi. Một cuộc vũ hội thứ thiệt cho bạn tôi!
Vào một
dịp khác tôi sẽ kể cho các bạn nghe cái buổi vũ hội trứ danh này của đạo
vaudou, "không dành cho khách du lịch". Vậy là Julot đã vượt ngục,
còn tôi, Dega, Fernandez vẫn đang chờ đợi. Thỉnh thoảng tôi lại nhìn những chấn
song cửa sổ, cố làm ra vẻ vô tư. Đó quả là những khúc đường ray xe lửa thật,
không tài nào phá được. Bây giờ chỉ còn lại cửa lớn. Ngày đêm lúc nào cũng có
ba tên giám thị có súng ngồi canh. Từ khi Julot vượt ngục, việc canh phòng càng
thêm cẩn mật. Những lượt đi tuần dày hơn, ông bác sĩ không đước ân tình như
trước. Chatal mỗi ngày chỉ đến hai lần để tiêm thuốc và đo nhiệt độ cho bệnh
nhân. Lại một tuần nữa trôi qua, tôi lại trả thêm hai trăm francs, Dega thì nói
đủ các thứ chuyện, trừ chuyện vượt ngục.
Hôm qua
bác ta trông thấy con dao mổ của tôi, hỏi luôn:
- Cậu
vẫn giữ con dao ấy đấy à? Để làm gì thế?
Tôi bực
bội trả lời:
- Để bảo
vệ cái thân tôi và cả cái thân bác nữa khi cần. Fernandez không phải người
Tây-ban-nha, cũng không phải người Argentina. Đó là một người khá, một tay
giang hồ chân chính, nhưng chính anh ta cũng bị tác động vì những câu chuyện
của lão già Carora. Một hôm tôi nghe thấy anh ta nói với Dega: "ở quần đảo
hình như khí hậu tốt lắm chứ không phải như ở đây, mà không nóng mấy. Nằm trong
phòng này rất dễ lây bệnh kiết lỵ vì chỉ cần đi ngoài là có thể bị vi trùng
dính vào rồi". Trong căn phòng dành cho bảy mươi bệnh nhân này ngày nào
cũng có một hai người chết vì bị kiết lỵ. Có một điều kỳ thú đáng lưu ý là họ
đều chết vào lúc triều lên buổi chiều hay buổi tối. Chưa có một người bệnh nào
chết vào buổi sáng. Đó là một điều bí ẩn của thiên nhiên.
Đêm hôm
ấy tôi có một cuộc thảo luận với Dega. Tôi nói với bác ta rằng thỉnh thoảng ban
đêm tên giữ chìa khóa người A-rập lại vào phòng đến giở chăn đắp của những
người ốm nặng trùm chăn kín mặt. Đó là một hành động rất sơ hở. Chúng tôi có
thể đánh vào đầu cho nó ngất xỉu, mặc áo quần của nó vào (chúng tôi đều chỉ mặc
sơ-mi dài và đi dép, ngoài ra không có gì khác). Đóng bộ xong, tôi sẽ đi ra và
bất thình lình giật súng của một tên giác cửa, chĩa súng vào mặt chúng nó, bắt
chúng nó vào phòng rồi khóa trái cửa lại. Sau đó chúng tôi sẽ nhảy qua tường
của bệnh viện ở phía sông Maroni, lao xuống nước rồi để cho luồng nước cuốn đi.
Sau đó sẽ haỵ Sẵn có tiền, chúng tôi sẽ mua một cái thuyền và một ít lương thực
để vượt biển.
Cả Dega
lẫn Fernandez đều dứt khoát bác bỏ kế hoạch này, lại còn phê phán tôi nặng lời
nữa. Tôi thấy rõ là họ đã nản chí cho nên rất thất vọng. Trong khi đó thời gian
cứ trôi qua. Chúng tôi nằm đây đã được gần ba tuần. Tối đa chỉ còn mười, mười
lăm ngày để chuẩn bị vượt ngục. Hôm nay là ngày hai mươi mốt tháng mười một năm
1933, một ngày đáng ghi nhớ. Một bệnh nhân mới bước vào phòng: đó là Joanes
Clousiot, người mà họ đã tìm cách ám sát ở Saint-Martin, trong phòng cắt tóc
của nhà lao. Hai mắt anh ta nhắm nghiền, đầy những mủ, anh ta hầu như đã mù.
Khi Chatal đã ra khỏi phòng, tôi đến cạnh Clousiot. Rất nhanh, anh ta nói với
tôi rằng mấy người tù cấm cố kia đã lên đường ra quần đảo mười lăm hôm nay rồi,
nhưng riêng anh ta thì họ bỏ quên.
Cách đây
ba hôm, một nhân viên kế toán đã báo cho anh ta biết. Anh ta liền bỏ một hạt
thầu dầu vào mắt: mắt anh mưng mủ lên cho nên anh được đưa vào đây. Clousiot
rất quyết tâm vượt ngục. Anh ta nói với tôi rằng anh ta sẵn sàng làm tất, kể cả
giết người nếu cần, miễn sao đi được. Anh ta có ba nghìn francs. Khi đã được
rửa mặt bằng nước nóng anh ta liền nhìn rõ ngaỵ Tôi trình bày dự định vượt ngục
cho anh nghe. Anh ta tán thành, nhưng lại nói rằng muốn đánh úp bọn giám thị
phải có hai người, nếu được thì ba càng tốt. Có thể tháo chân giường ra, mỗi
người cầm một cái (chân giường làm bằng sắt) để đánh vào đầu bọn gác. Theo anh
ta thì dù có cầm súng chĩa vào chúng nó, chúng nó cũng sẽ không tin rằng mình
dám bắn, và chúng nó có thể gọi bọn gác ở tòa nhà kế cận, nơi Julo đã trốn
thoát, chỉ cách chỗ chúng tôi không đầy hai mươi mét.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 7: Vượt ngục lần thứ nhất, trốn khỏi
nhà thương
Tối hôm
ấy tôi gặp Dega, và sau đó là Fernandez. Dega nói với tôi là bác ta không tin
tưởng vào kế hoạch vượt ngục của tôi; bác ta định đủ một số tiền lớn, nếu cần,
để được miễn cấm cố. Bác ta yêu cầu tôi viết thư hỏi Sierra xem thử làm như thế
liệu có được không. Ngay hôm ấy Chatal đưa thư đi và đem thư trả lời về cho
chúng tôi.
Sierra
viết: "Đừng đút tiền cho bất cứ ai để xin miễn cấm cố. Việc này chỉ có các
quan chức bên Pháp giải quyết được, còn ở đây thì không có một ai, kể cả viên
giám đốc trại khổ sai, có thể miễn cho tù nhân chế độ cấm cố. Nếu không còn hy
vọng gì vượt ngục từ bệnh viện, các anh có thể tìm cách xin ra viện một ngày
sau khi chiếc tàu chuyên chở tù nhân ra quần đảo (chiếc Mata) đã lên
đường". Làm như vậy sẽ được nằm lại tám ngày ở khu vực giam thường trước
khi có chuyến tàu sau ra đảo, và có lẽ ở đấy đễ vượt ngục hơn là ở gian phòng
chúng tôi hiện đang nằm ở bệnh viện.
Cũng
trong cái thư ấy, Sierra nói rằng nếu tôi muốn anh ta sẽ cho một người tù khổ
sai đã được trả tự do đến gặp tôi để nếu cần tôi có thể nhờ anh ta chuẩn bị cho
một chiếc thuyền để sẵn ở phía sau bệnh viện. Người tù mãn hạn này là một người
quê ở Toulouse, tên là Jésus. Cách đây hai năm, chính hắn đã chuẩn bị cho cuộc
vượt ngục của bác sĩ Bougrat. Muốn gặp hắn, tôi sẽ phải đến chiếu điện ở phòng
X-quang. Phòng này cũng nằm trong phạm vi bệnh viện nhưng muốn đến đó tù nhân
phải có giấy gửi đi khám X-quang.
Sierra
dặn tôi là nếu đi chiếu điện phải bỏ plan ra trước khi đến phòng X- quang, vì
bác sĩ có thể nhìn thấy nó nếu ông ta soi xuống phía dưới phổi. Tôi gửi giấy
cho Sierra bảo anh ta cứ cho Jésus đến phòng X-quang và nhờ Chatal thu xếp cho
tôi được đi chiếu điện. Ngay tối hôm ấy Sierra báo cho tôi biết rằng buổi chiếu
điện là vào ngày kia, chín giờ sáng. Ngày hôm sau, Dega xin ra viện cả
Fernandez cũng thế. Chiếc Mata vừa đưa tù cấm cố ra quần đảo hồi sáng sớm. Hai
người hy vọng có thể trốn từ khu vực giam tù thường trong trại. Tôi chúc họ may
mắn, còn tôi thì vẫn không thay đổi kế hoạch.
Tôi đã
gặp Jésus. Đó là một người tù khổ sai già đã được trả lại tự do, khô như một
con mắm, da mặt đen sạm, có hai vết sẹo gớm ghiếc chéo qua mặt. Hắn có một con
mắt cứ chảy nước mắt sống khi nhìn người tạ Một gương mặt ghê sợ, một cái nhìn
cũng ghê sợ không kém. Tôi không thấy tin hắn cho lắm, và sự thể sau này sẽ
chứng minh rằng tôi có lý. Chúng tôi đi vào việc ngay:
- Tôi có
thể chuẩn bị cho các anh một chiếu thuyền chở được bốn người, tối đa là năm.
Một thùng ton-nô nước ngọt, một ít lương thực, cà-phê, thuốc lá; ba cái chèo
kiểu thổ dân, mấy cái bao bột không, một cây kim và mấy sợi chỉ để anh tự khâu
lấy buồm chính buồm phụ; một cái la bàn, một cái rìu, một con dao, năm lít rượu
tafia (rượu rhum xứ Guyane) cả thảy hết hai ngàn năm trăm francs. Ba ngày nữa
thì hết tuần trăng. Sau bốn ngày, nếu anh đồng ý, tôi sẽ ngồi trong thuyền đợi
các anh từ tám giờ tối đến ba giờ sáng trong tám đêm liền. Khi bắt đầu có trăng
non tôi sẽ không đợi nữa. Địa điểm đợi là ở chỗ chiếu thẳng từ góc phía dưới
của bức tường bệnh viện. Cứ theo đúng hướng bức tường mà đi xuống phía sông, vì
sẽ không trông thấy thuyền đâu. Cách hai mét cũng chưa trông thấy được.
Tôi
không tin lắm, nhưng tôi vẫn ưng thuận.
- Còn
tiền thì sao? - Jésus hỏi.
- Tôi sẽ
gửi qua Sierra.
Tôi với
hắn từ giã nhau mà không bắt tay. Công chuyện chẳng có vẻ gì lạc quan cho lắm.
Đến ba giờ, Chatal đến trại đưa tiền cho Sierra, hai ngàn năm trăm francs. Tôi
tự nhủ: "Mình đánh bạc số tiền này, coi như có mất cũng thôi. Cũng nhờ có
Galgani mới chơi sang thế được. Miễn sao hắn không nướng hết cả hai ngàn rưỡi
tờ vào rượu tafia". Clousiot vui mừng khôn xiết. Anh ta tin vào bản thân,
tin vào tôi và vào kế hoạch vượt ngục. Anh ta chỉ băn khoăn có một điều: không
phải đêm nào cũng thế, nhưng có nhiều đêm tên "giữ chìa khóa" người A-rập
lại đi vào phòng bệnh nhân, mà lại thường là vào lúc đầu hôm, chưa khuya lắm.
Còn một vấn đề nữa: biết chọn đâu ra một người thứ ba để cùng bàn việc này? Ở
đây có một cậu người Corse, thuộc giới giang hồ thành phố Nice, tên là Biangi.
Cậu ta ở tù khổ sai từ 1929. Cậu bị giam ở phòng bệnh dành cho tù nhân cần giám
sát nghiêm ngặt này là vì cậu can tội giết người.
Clousiot
với tôi bàn nhau xem có nên nói với cậu ta không, và nói vào lúc nào. Chúng tôi
đang thầm thì bàn bạc như vậy thì cậu ta đến: đó là một thư sinh mười tám tuổi,
đẹp lộng lẫy như một thiếu nữ. Họ cậu ta là Maturette, cậu bị xử tử rồi được
giảm án xuống khổ sai chung thân vì còn quá ít tuổi - mười bảy tuổi - Cậu ta
can tội giết chết một người lái tầu. Tham gia vụ này có hai cậu, một cậu mười
sáu tuổi, một cậu mười bảy. Ra tòa đại hình, hai cậu bé này không những không
buộc tội lẫn nhau mà còn khăng khăng chứng minh rằng chính mình, và chỉ có một
mình mình thôi, đã giết người lái xe. Thế nhưng trên người nạn nhân chỉ có một
vết đạn.
Thái độ
của hai cậu bé trong phiên tòa đại hình đã làm cho tất cả các phạm nhân khổ sai
ở đây yêu mến họ. Vậy thì Maturette, dáng dấp giống hệt con gái, đến cạnh chúng
tôi và cất tiếng thỏ thẻ xin lửa hút thuốc. Chúng tôi liền châm thuốc cho cậu
ta, lại cho thêm bốn điếu thuốc và một hộp diêm. Cậu ta mỉm một nụ cười đấy sức
quyến rũ cảm ơn chúng tôi rồi lui ra. Bỗng Clousiot nói với tôi: "Papi ạ,
thôi ổn rồi. Thằng A-rập sẽ vào phòng hoàn toàn theo ý chúng mình cho mà xem.
Cậu cũng biết bọn A-rập rất thích con trai vào tuổi măng tơ như cậu ấy. Từ đó
đến chỗ dụ thằng giữ chìa khóa kia lẻn vào phòng ban đêm để tự tình với cậu bé
xinh trai chẳng có gì khó. Cậu ta sẽ uốn éo vờ làm khó dễ, nói là chỉ sợ nhỡ ai
người ta trông thấy, để thu xếp sao cho thằng A-rập vào phòng đúng giờ vào chúng
tôi cần.- "Để tôi bàn với cậu ấy".
Tôi đi
gặp Maturette. Cậu ta tiếp tôi với một nụ cười đầy ý khuyến khích. Cậu ta tưởng
tôi đã "cảm" vì nụ cười lẳng lơ ban nãy. Tôi nói ngay: "Cậu lầm
rồi. Đi vào nhà xí một lát". Vào đến nhà xí, tôi bắt đầu thương lượng.
- Những
điều tôi sắp nói với cậu, nếu cậu hở ra cho ai lấy một tiếng là cậu toi mạng
ngay. Đây: cậu có thể làm thế này, thế này và thế này giúp chúng tôi được
không? Chúng tôi sẽ trả tiền; cậu muốn lấy bao nhiêu? Hay cậu muốn đi với chúng
tôi?
- Tôi muốn
đi với các anh, được không?
- Xong
ngay! Cứ thế nhé? Cứ thế?
Chúng
tôi xiết chặt tay nhau. Maturette đi ngủ. Tôi gặp Clousiot nói qua cho cậu ta
biết tình hình xong cũng đi ngủ nốt.
Tối hôm
sau đến tám giờ Maturette ra ngồi ở cửa sổ. Cậu ta không phải gọi thằng A-rập.
Tự nó dẫn xác đến, thế là hai người bắt đầu nói chuyện rì rầm với nhau một lúc.
Đến mười hai giờ Maturette đi ngủ. Tôi và Clousiot thì đã đi nằm từ lúc chín
giờ, giả vờ ngủ. Thằng A-rập đi vào phòng, dạo hai vòng, phát hiện ra một bệnh
nhân vừa chết. Hắn ra cửa gõ mấy tiếng, và một lát sau có hai người khiêng cáng
vào đem xác chết đi. Người xấu số kia sẽ có ích cho chúng tôi vì cái chết của
anh ta sẽ là một cái cớ để cho tên giữ chìa khóa A-rập có thể vào phòng bất cứ
giờ nào trong đêm.
Theo
đúng lời khuyên của chúng tôi, hôm sau Maturette hẹn gặp hắn lúc mười một giờ
đêm. Đúng giờ ấy, tên giữ chìa khóa vào phòng. Đi ngang giường cậu bé, hắn kéo
chân đánh thức cậu ta dậy rồi đi thẳng vào nhà xí. Maturette liền đi theo. Mười
lăm phút sau tên giữ chìa khóa ra và rời phòng bệnh nhân. Maturette lập tức đi
ngủ lại, không phải nói gì với chúng tôi nữa. Ngày hôm sau cũng lại như thế,
nhưng vào lúc mười hai giờ đêm. Mọi sự đều ổn: thằng A-rập sẽ đến đúng vào giờ
cậu bé dặn.
Ngày 27
tháng mười một năm 1933, chúng tôi đã sẵn sàng hành động. Hai cái chân giường
bằng sắt đã được mở vít sẵn, muốn tháo ra lúc nào cũng được. Tôi đợi đến bốn
giờ chiều sẽ có giấy của Sierra cho biết những tin tức cuối cùng. Đúng giờ,
Chatal đến, không cầm giấy má gì, chỉ nói với tôi "Francois Sierra bảo tôi
nói với anh là Jésus đợi các anh ở địa điểm đã định. Chúc các anh may mắn.
"Đến tám giờ tối, Maturette nói với thằng A-rập
- Hôm
nay anh đợi quá nửa đêm hẵng đến: vào quãng ấy có thể gặp nhau lâu hơn.
Thằng
A-rập hẹn đến sau mười hai giờ. Đúng nửa đêm, chúng tôi đã chuẩn bị xong mọi
thứ. Đến mười hai giờ mười lăm thằng A-rập vào, đi thẳng đến giường Maturette
kéo chân cậu ta rồi đi tiếp vào nhà xí. Maturette vào theo hắn. Tôi tháo chân
giường của tôi ra, nó rơi xuống sàn, hơi ồn một chút. Bên giường Clousiot thì
không có tiếng động. Theo kế hoạch, tôi phải đứng sẵn bên cửa nhà xí, còn
Clousiot thì cứ đi thoải mái đến chỗ nhà xí để thu hút sự chú ý của hắn. Sau
một thời gian chờ đợi khoảng hai mươi phút, mọi sự việc diễn ra rất nhanh.
Thằng A-rập từ trong nhà xí đi ra. Trông thấy Clousiot, hắn ngạc nhiên hỏi:
- Giờ
này anh còn đứng giữa phòng làm cái gì thế? Đi ngủ đi.
Ngay tức
khắc, hắn bị một đòn "con thỏ" đánh vào giữa sọ, im lặng ngã khuỵu
xuống. Tôi lập tức mặc áo quần của hắn vào, đi cả giày của hắn. Chúng tôi lôi
hắn vào gầm giường, và trước khi đẩy hắn vào phía trong, tôi bồi thêm cho hắn
một vố nữa vào gáy. Thế là xong được một việc.
Cả tám
mươi bệnh nhân nằm trong phòng không thấy một người nào động đậy. Tôi đi nhanh
về phía cửa ra vào, theo sau có Clousiot và Maturette mặc áo ngủ dài. Tôi gõ
cửa. Tên giám thị vừa mở ra là tôi giáng cho một phát chân giường sắt lên đầu.
Tên thứ hai để khẩu mousqueton trượt xuống đất. Chắc chắn là hắn ngủ quên. Hắn
chưa kịp thức giấc thì tôi đã đánh hắn gục xuống. Mấy tên của tôi không kịp
kêu, còn cái thằng bị Clousiot đánh thì chỉ "A!" lên một tiếng khẽ
trước khi gục xuống.
Hai tên
tôi vừa đánh gục trên ghế, còn tên thứ ba thì nằm dài ra đất. Chúng tôi nín
thở. Cái tiếng "Ả" kia chúng tôi tường chừng như cả nhân loại đều
nghe thấy. Quả tình tiếng kêu ấy cũng khá to, nhưng chẳng thấy ai động tĩnh gì
cả. Chúng tôi không đưa chúng vào phía bên trong phòng làm gì. Chúng tôi cứ thế
bỏ đi, cầm theo ba khẩu súng. Clousiot đi đầu, cậu bé đi giữa, còn tôi đi sau
cùng. Chúng tôi đi xuống cái thang gác sáng mờ mờ dưới ánh đèn dầu. Clousiot đã
bỏ cái chân giường sắt, còn tôi vẫn cầm nó theo trong tay trái tay phải tôi cầm
khẩu súng trường. Xuống đến tầng dưới cùng chẳng thấy gì. Xung quanh tối đen như
mực. Phải nhìn thật kỹ mới trông thấy bức tường đi về phía bờ sông. Chúng tôi
vội ra chân tường.
Tôi đứng
áp vào tường làm thang cho các bạn leo lên. Clousiot leo lên ngồi cưỡi trên bức
tường rồi lôi Maturette lên, sau đó là tôi. Chúng tôi buông người xuống phía
bên kia tường, trong bóng tối. Clousiot rơi vào một cái hốc, kêu đau chân.
Maturette và tôi xuống ổn hơn. Cả hai chúng tôi đứng dậy. Chúng tôi đều đã
buông khẩu mousqueton trước khi nhảy xuống. Clousiot toan đứng dậy nhưng không
sao đứng được. Anh ta nói là gãy mẹ nó cái chân rồi. Tôi để Maturette đứng lại
với Clousiot, lần theo bức tường chạy về phía bờ sông, vì tối quá nên hai tay
tôi cứ phải sờ sờ lên tường. Chạy đến hết tường nào cũng không hay, hai tay bị
hụt ngã một cái như trời giáng, tưởng đến vỡ mặt. Từ phía sông có giọng ai nói
với lên:
- Các
cậu đấy à?
- Ừ!
Jésus đấy à?
- Ừ!
Hắn quẹt
diêm lên trong khoản nửa giây. Tôi đã xác định được chỗ hắn đứng, liền lội
xuống nước đi đến đấy. Cùng đứng với Jésus còn có một người nữa.
- Lên
trước đi. Ai đấy?
-
Papillon đây.
- Tốt.
- Jésus
à, phải đi trở lại phía sau, bạn tôi bị gãy chân trong khi trèo tường.
- Thế
thì cầm lấy cái này, chèo đi.
Ba cái
chèo pagaie vục xuống nước và chẳng bao lâu chiếc xuồng nhẹ đã vượt qua cái
khoảng cách chừng một trăm thước từ chỗ xuồng chờ đến chỗ các bạn tôi (tôi đoán
chừng chỗ ấy, vì tối quá chẳng trông thấy gì). Tôi gọi: "Clousiot?".
- Khẽ
chứ, trời đất - Jésus nói. Này! Enflé, bật đá lửa lên chút nào!
Mấy tia
lửa xanh xanh lóe ra. Các bạn tôi đã trông thấy. Clousiot khẽ huýt sáo qua kẽ
răng theo kiểu dân Lyon: đây là kiểu huýt sáo không ồn nhưng lại nghe rất rõ,
hơi giống tiếng huýt của loài rắn. Cậu ta cứ thế huýt liên tục một lúc, cho đến
khi chúng tôi đến nơi.
Enflé
bước xuống ôm xốc Clousiot dưa lên xuồng. Maturette lên theo, rồi đến Enflé.
Trên xuồng như vậy có đến năm người, nước chỉ còn cách mạn xuồng có hai lóng
tay.
- Hễ
muốn động đậy phải nói trước nhé, - Jésus nói, - Bươm bướm, đừng chèo nữa, cái
chèo đặt nằm ngang trên đùi ấy. Đi thôi Enflé!
Lập tức
chiếc xuồng theo dòng lao vào đêm tối. Đi dược chừng một cây số, chúng tôi đã
đến ngang tầm khu trại tù sáng mờ mờ dưới ánh điện tồi tàn do một cái máy phát
điện hạng bét phát ra. Lúc bấy giờ xuồng đang ở giữa dòng sông và trôi băng
băng theo dòng, với một tốc dộ khó tưởng tượng nổi.Enflé đã nhấc chèo lên. Chỉ
có Jésus áp mái chèo sát dùi giữ thăng bằng cho chiếc xuồng. Hắn không chèo mà
chỉ giữ cho xuồng đi thẳng. Jésus nói: "Bây giờ thì có thể nói và hút
thuốc được rồi. Hình như ổn cả. Cậu có chắc là vừa rồi các cậu không làm ai
chết không?
- Tôi
tin như vậy.
- Trời
đất! Thế là cậu bịp tớ rồi đấy Jésus ạ! - Enflé nói. - Cậu bảo đây là một
chuyến vượt ngục thường thôi chẳng có chuyện gì hóa ra là một cuộc vượt ngục
của dân cấm cố, theo như tớ hiểu.
- Đúng,
đây là dân cấm cố, Enflé ạ. Tớ không nói cho cậu biết từ đầu là vì nói ra cậu
đời nào chịu giúp tớ. Thế mà tớ lại đang cần một người giúp. Cậu đừng lo có
chuyện gì tớ sẽ đứng ra chịu hết.
- Thế
mới phải, Jésus ạ. Ăn của cậu có một trăm tờ mà bị xử tử hay bị chung thân thì
ớn quá. (Nếu trong một cuộc vượt ngục mà có một người canh tù bị giết thì phạm
nhân và đồng lõa đều bị xử tử, còn nếu có một người bị thương thì họ sẽ bị khổ
sai chung thân).
Tôi nói:
- Enflé
ạ, tớ sẽ biếu thêm hai cậu một ngàn francs.
- Thế
thì được, anh bạn ạ. Như thế là hợp lẽ. Cám ơn cậu, trong làng chúng tớ chết
đói đến nơi cả. Được thả còn tệ hơn là khi đang ở tù. ít ra khi ở tù còn có cái
ăn cái mặc hàng ngày.
- Cậu có
đau lắm không? - Jésus hỏi Clousiot.
- Không
sao, - Clousiot nói. - Nhưng Papia ạ, với cái chân gãy của tôi thì còn làm ăn
gì?
- Sẽ thu
xếp sau. Bây giờ ta đang đi đâu thế này, Jésus?
- Tớ sẽ
đưa các cậu đến nấp trong một cái vịnh cách cửa biển ba mươi cây số. Các cậu sẽ
ở lại đấy tám ngày để cho qua giai đoạn căng nhất trong cuộc săn lùng của bọn
cảnh sát và bọn đi săn người thuê. Phải làm cho họ tưởng là ngay đêm nay các
cậu đã đi hết sông Maroni và ra đến biển rồi. Bọn săn người đi thuyền không gắn
máy, đáng sợ hơn cả. Nói chuyện, ho, đốt lửa đều có thể đưa đến kết quả tai hại
nếu chúng nó đang rình ở nơi nào gần đấy. Còn bọn cảnh sát thì đi xuồng máy
không vào vịnh được, vì sẽ mắc cạn.
Đêm sáng
dần. Cả bọn đi tìm mãi mới lần ra được chỗ Jésus đặt mốc (chỉ có một mình hắn
biết chỗ này), và thuyền chúng tôi bắt đầu đi vào một vùng bụi bờ rậm rạp.
Chiếc xuồng làm cho bụi bờ rạp hẳn xuống, và khi xuồng đã đi qua thì nó lại
trỗi dậy ở sau lưng chúng tôi, làm thành một bức màn bảo vệ khá dày. Phải là
một tay phù thủy mới biết được rằng chỗ này có đủ nước cho một chiếc thuyền đi
qua được. Chúng tôi cứ thế đi sâu vào vùng bụi bờ trong một tiếng đồng hồ, vừa
đi vừa gạt những cành cây chắn trước mặt. Bỗng nhiên chúng tôi thấy thuyền đã
đi vào một thứ kênh thế là chúng tôi dừng lại.
Bờ kênh
cỏ mọc xanh rờn, rất sạch sẽ, có những cây đại thụ sum sê, cành lá tỏa rất
rộng, ánh sáng ban ngày (lúc bấy giờ đã sáu giờ sáng) không lọt qua được. Dưới
vòm lá uy nghiêm này vang lên tiếng kêu của những lời muôn thú mà tôi chưa hề
biết. Jésus nói: "Đây là nơi các cậu phải ở lại chờ tám ngày. Đến ngày thứ
bảy tôi sẽ đến đưa lương thực cho các cậu". Từ dưới một bụi rậm hắn lôi
lên một con thuyền độc mộc nhỏ xíu dài chừng hai mét. Trong thuyền có hai mái
chèo. Đây là cái thuyền hắn sẽ dùng để trở về làng khi nước triều lên. Bây giờ
ta hãy lo việc cho Clousiot lúc ấy đang nằm trên bờ kênh. Vì cậu ấy vẫn mặc mỗi
chiếc áo ngủ dài, cho nên hai chân cậu vẫn để trần. Chúng tôi dùng rìu đẽo lại
mấy cái cành khô cho thẳng, thành hình những thanh gỗ mỏng. Enflé cầm chân cậu
kéo thật mạnh. Clousiot toát mồ hôi cố chịu đau. Đến một lúc nào đấy cậu nói:
"Stop! ở tư thế này tôi thấy đỡ đau hơn cả, chắc xương lắp đúng rồi".
Chúng tôi lấy mấy cành cây đã đẽo thẳng lắp dọc cái chân gãy, lấy dây gai mới
trong chiếc thuyền buộc lại. Clousiot thấy nhẹ hẳn.
Jésus đã
mua cho chúng tôi bốn cái quần, bốn cái sơ-mi và bốn cái áo va-rơi bằng len
thuộc, bộ đồng phục của những người bị đày biệt xứ. Maturette và Clousiot mặc
cái thứ đó vào, còn tôi vẫn để nguyên bộ đồ của tên "giữ chìa khóa"
người A-rập. Cả bọn cùng uống rượu rhum. Đây là chai thứ hai được uống cạn kể
từ khi lên đường. May thay, cũng ấm người lên thật. Muỗi tấn công chúng tôi
không ngớt: đành phải hy sinh một bó thuốc lá. Chúng tôi ngâm thuốc lá trong
một cái gáo rồi lấy nước bôi lên mặt, lên tay, lên chân. Nhờ có mấy cái áo
va-rơi bằng len cho nên mới giữ được hơi ấm trong cái không khí ẩm thấp cứ thấm
sâu vào người chúng tôi. Enflé nói: "Chúng tôi đi đây. Thế cái món một
ngàn tì kia đâu?". Tôi đi ra chỗ khác một lát rồi trở về, tay cầm một tờ
giấy bạc một ngàn francs mới toanh.
- Thôi ở
lại nhé, tám ngày tới cứ ở lỳ chỗ này,
Jésus
nói.
- Đến
ngày mồng bảy chúng tớ sẽ đến. Ngày mồng tám là các cậu ra khơi. Trong thời
gian này các cậu khâu buồm, thu dọn trên thuyền cho thật đâu ra đấy. Vặn cho
chặt bản lề bánh lái: "Chúng tớ chưa kịp lắp. Nếu đợi đến mười ngày mà
không thấy chúng tớ đến thì tức là chúng tớ đã bị tóm ở trong làng. Vì chuyến
này lại có thêm vụ đánh tên giám thị cho nên tình hình gay lắm".
Đến đây
Clousiot lại cho chúng tôi biết rằng anh ta không để lại khẩu súng trường ở
chân tường, mà trước khi trèo anh ta đã ném nó qua tường, không ngờ sông lại
gần thế, cho nên khẩu súng bây giờ chắc chắn là nằm dưới nước. Jésus cho rằng
như thế rất hay, vì nếu tìm không thấy khẩu súng đâu, bọn săn người sẽ nghĩ là
chúng tôi có súng. Bọn này lại là bọn nguy hiểm hơn cả, vì chúng sục sạo sâu
hơn bọn cảnh sát, nhưng vũ khi của chúng chỉ có một khẩu súng lục và một con
dao phát bờ: tưởng chúng tôi mang theo khẩu mousqueton, chúng sẽ không dám sục
sạo nữa.
Hai bên
chào tạm biệt nhau Jésus dặn thêm là trong trường hợp bị lộ chúng tôi phải bỏ
xuồng, đi ngược dòng kênh cho đến khoảng bụi rậm không ngập nước, rồi cứ dùng
địa bàn nhắm thẳng hướng bắc mà đi mãi. Có rất nhiều khả năng chúng tôi sẽ gặp,
sau hai ba ngày đi bộ, khu trại chết người gọi là "Charvein". Đến đó
thì phải thuê tiền một người nào về báo cho Jésus biết là chúng tồi đang ở
đâu.. Hai người tù khổ sai mãn hạn đã bỏ đi. Chỉ mấy phút sau, chiếc thuyền độc
mộc của họ đã khuất hẳn, không còn nghe thấy gì, trông thấy gì nữa. ánh sáng
ban ngày lọt vào rừng rậm theo một cách thức thật là đặc biệt. Người ta có cảm
tưởng như mình đang đứng dưới những cái mái vòm che ánh sáng và không để lọt
một tia nào xuống phía dưới. Trời bắt đầu nóng bức. Lúc bấy giờ chúng tôi mới
chợt nhận ra rằng chỉ còn ba đứa chúng tôi, Maturette, Clousiot và tôi ở lại
với nhau mà thôi chứ không còn ai khác nữa.
Phản xạ
trước tiên: chúng tôi nhìn nhau cười lớn - công chuyện vừa qua cứ chạy êm ru
như có lắp ổ bi. Chỉ có một chuyện hơi phiền là cái chân của Clousiot. Nhưng
bản thân anh ta thì cứ nói rằng bây giờ đã buộc nẹp rồi thì mọi sự đều ổn. Có
thể đun nước pha cà-phê ngay. Thế là chúng tôi nhen bếp lên, và một lát sau mỗi
đứa uống một ca cà phê đen bỏ đường thô. Ngon tuyệt. Từ tối hôm qua chúng tôi
đã tiêu phí nhiều năng lượng đến nỗi bây giờ không sao có đủ can đảm soát lại
đồ đạc hay xem xét chiếc thuyền. Để sau rồi hẵng haỵ Bây giờ chúng tôi đã được
tự do, tự do, Tự DO! Kể từ khi chúng tôi đến trại khổ sai cho đến hôm nay là
đúng ba mươi bảy ngày. Nếu chuyến vượt ngục này thành công, cái án chung thân
của tôi chẳng lấy gì làm dài hạn.
Tôi nói:
"Thưa ngài chánh án, án chung thân ở Pháp chừng bao lâu thì mãn hạn
ạ?" Rồi cười phá lên. Maturette cũng vậy, vì cậu ta cũng bị án chung thân.
Clousiot nói: "Chúng mình khoan hẵng ca khúc khải hoàn. Xứ Colombia còn xa
lắm, mà cái thuyền làm bằng một thân cây thui lửa này tôi trông khó lòng đi
biển được". Tôi lặng thinh không đáp, vì tôi, nói thật ra, mãi cho đến
phút cuối tôi vẫn cứ tưởng rằng chiếc thuyền này chỉ là một cái xuồng độc mộc
dùng để đưa chúng tôi đến nơi dấu chiếc thuyền đi biển thực sự. Khi thấy rõ
mình nhầm, tôi không dám nói gì, sợ ảnh hưởng đến các bạn ngay từ bước đầu. Mặt
khác, vì thấy Jésus có vẻ như coi việc dùng một chiếc thuyền như thế này để
vượt bể là điều hoàn toàn tự nhiên, tôi không muốn làm cho mọi người có cảm
giác là mình không thông thạo về những thứ thuyền thường vẫn dùng dể vượt ngục.
Chúng
tôi đã qua cái ngày đầu tiên này để nói chuyện và để tiếp xúc với cái môi
trường lạ này: rừng rậm. Lũ khỉ và những loài sóc nhỏ nhào lộn trên đầu chúng
tôi. Một đàn bakir (một giống heo rừng nhỏ) đến uống nước và ngụp lặn. Dễ đến
hai ngàn con là ít. Chúng ùa vào vịnh bơi lội tứ tung, giật đứt những rễ cây rũ
lòng thòng trên mặt nước. Một con cá sấu cai-man không biết từ đâu xông ra
ngoạm chân một con heo bakir: con này ré lên thất thanh, thế là cả bầy heo xông
vào con cá sấu, trèo cả lên lưng nó, tìm cách cắn vào mép nó. Mỗi lần con cá
sấu quẫy đuôi là một con heo văng ra, quay tít mấy vòng rồi mới rơi xuống. Một
con bị đuôi cá sấu quật vỡ đầu nổi lềnh bềnh, bụng ngửa lên trên. Lũ đồng loại
lập tức xúm lại ăn thịt nó. Cái vịnh đỏ ngầu những máu. Cảnh này diễn ra trong
khoảng hai mươi phút. Con cá sấu lặn đi đâu mất, không thấy trở lại nữa.
Đêm hôm ấy
chúng tôi ngủ rất ngon, và đến sáng lại pha cà-phê: Tôi cởi bỏ cái áo va-rơi để
tắm rửa bằng bánh xà-bông Marseille tìm thấy trong thuyền. Maturette dùng con
dao mổ của tôi cạo râu cho tôi một cách grosso modơ (*đại khái -tiếng La-tinh
thường dùng trong sách vở, ở đây dùng có ý hài hước), rồi cạo cho Clousiot, còn
bản thân cậu ta thì không có râu. Khi tôi cầm chiếc va-rơi lên định mặc vào thì
thấy rơi ra một con nhện to tướng, mình mẩy lông lá, màu đen tím, hãy còn dính
vào áo bằng một sợi tợ Lông con nhện rất dài, ở đầu mút như có một hòn bi nhỏ
màu bạch kim. Nó nặng đến năm trăm gam là ít, trông nó to đùng. Tôi thấy tởm
quá, liền dẫm cho nó chết ngaỵ
Chúng
tôi đã lấy tất cả các thứ trong lòng thuyền ra, kể cả cái thùng ton-nô nhỏ đựng
nước. Nước trong thừng màu tím, chắc là Jésus, muốn cho nước khỏi thối, đã cho
quá nhiều thuốc tím vào đấy. Trong mấy cái chai đậy nút rất kỹ có đựng diêm và
vỏ quẹt. Cái địa bàn chỉ là thứ địa bàn của học trò cơn nít; nó chỉ cho Nam,
Bắc, Đông, Tây, không có đường ghi độ: Cột buồm chỉ cao được hai mét rưỡi,
thành thử chúng tôi lấy mấy cái bao bột khâu buồm thành hình thang, bên rìa có
đính một sợi dây cho thêm chắc. Tôi làm một tấm buồm foc hình tam giác cân, sẽ
lắp ở mũi thuyền cho nó dễ nhấc bổng lên mỗi khi có đợt sóng ngược chiều.
Khi
chúng tôi cắm cột buồm, tôi nhận thấy đáy thuyền không chắc: cái lỗ tròn để đút
cột buồm vào mòn lở hết. Khi vặn mấy cái vòng có trục xoắn ốc xuống gỗ để lắp
bản lề bánh lái, trục sắt cứ lún tuột vào gỗ như thể cắm vào bơ. Chiếc thuyền
này mục quá rồi. Cái thằng Jésus khốn kiếp ấy nó đưa chúng tôi vào chỗ chết.
Tôi miễn cưỡng chỉ cho hai bạn thấy rõ điều này: tôi không có quyền giấu họ.
Biết làm thế nào bây giờ? Khi nào Jésuss đến chúng tôi sẽ bắt hắn tìm một cái
thuyền chắc chắn hơn. Muốn thế, chúng tôi sẽ tước khí giới hắn, và tôi sẽ thủ
con dao và cầm cây rìu cùng đi với hắn vào làng để kiếm một cái thuyền khác.
Làm như thế rất nguy hiểm, nhưng vẫn không nguy hiểm bằng ra khơi trên cái thứ
quan tài kia. Lương thực thì như thế cũng đủ: có một bi đông dầu ăn và mấy hộp
bột sắn lớn. Với từng ấy thứ có thể đi xa được.
Sáng hôm
ấy chúng tôi chứng kiến một cảnh khá ngộ nghĩnh: một bầy khỉ mặt xám đánh nhau
với một bầy khỉ mặt đen lông xù. Trong cuộc ấu đả này chúng đã ném xuống một
khúc cành cây rơi trúng đầu Maturette, làm nổi lên một cục u to bằng quả ổi.
Chúng tôi ở lại chỗ này đã được năm ngày và bốn đêm. Đêm hôm nay mưa như trút.
Chúng tôi che thân bằng những tàu lá chuối dại. Nước chảy như suối trên mặt lá
trơn, nhưng chúng tôi chẳng bị ướt chỗ nào trừ hai chân. Sáng hôm sau ngồi uống
cà-phê tôi nghĩ mà thấy ghê người vì sự bất lương của thằng Jésus: đây là một
tội ác đáng ghê tởm. Hắn đã lợi dụng sự thiếu kinh nghiệm của chúng tôi để thay
cho chúng tôi cái xuồng mục ruỗng này! Để bớt lại năm trăm hay một ngàn quan,
hắn đã đành tâm đưa ba con người tới chỗ chết chắc chắn. Tôi cứ tự hỏi xem sau
khi đã bắt hắn đổi được chiếc thuyền khác liệu tôi có tự kiềm chế được để đừng
giết hắn hay không.
Chợt
những tiếng chim gì kêu the thé làm náo động cả cái thế giới nhỏ của chúng tôi,
nhưng tiếng kêu lảnh lót, chói chang đến nỗi tôi phải bảo Maturette lấy con dao
phát đi xem thử. Năm phút sau cậu ta quay về và ra hiệu cho tôi. Tôi liền đi
theo. Chúng tôi đi đến một nơi cách chỗ để thuyền khoảng trăm rưỡi mét: tôi
nhìn thấy một con chim trĩ hay gà lôi gì đấy treo lủng lẳng trên không. Chân nó
bị mắc vào một sợi thòng lọng buộc trên cành cây. Bằng một nhát dao phát, tôi
chặt đầu nó để chấm dứt những tiếng kêu ghê người của nó. Tôi nhấc thử trên
tay: dễ phải đến năm ki-lô là ít. Chân nó có cựa như chân gà. Chúng tôi quyết
định đem nó về làm thịt ăn, nhưng lại chợt nghĩ ra rằng cái dây thòng lọng ắt
phải có người treo lên, và chắc quanh đây còn có nhiều dây thòng lọng khác nữa.
Thừ tìm xem đã.
Chúng
tôi quay trở lại chỗ kia thì thấy một hiện tượng rất lạ: cách vịnh khoảng mười
mét có cả một dãy rào đan bằng lá và dây leo cao ba mươi phân chạy dài song
song với bờ vịnh. Cứ cách một quãng lại có một chỗ để ngỏ, và ở mỗi chỗ như thế
lại có một sợi dây thòng lọng bằng thau ngụy trang bằng những nhánh cây, một
đầu buộc vào một cái cành cây chĩa đôi. Tôi hiểu ngay ra rằng con chim từ phía
vịnh đi vào tất phải vấp vào dãy rào và phải đi dọc rào để tìm lối vào. Gặp chỗ
hở, nó liền đi qua, nhưng chân nó vướng vào sợi dây làm cho cành cây bật lên.
Thế là con chim bị treo ngược trên cành cho đến khi chủ nhân mấy cái bẫy đến
bắt nó về. Cuộc phát hiện này làm cho chúng tôi rất lọ Dãy rào có vẻ được trông
nom khá tốt, hẳn không phải là rào cũ, và nếu thế thì chúng tôi có nguy cơ bị
người làm rào phát hiện. Ban ngày không thể đốt lửa lên được, nhưng ban đêm thì
người kia chắc không đến đây làm gì.
Chúng
tôi cắt phiên nhau gác để đề phòng phía dãy rào có đặt bẫy. Chiếc thuyền được
giấu dưới một lớp cành cây và bao nhiêu đồ đạc, lương thực đều được đưa vào
rừng rậm giấu hết. Hôm sau phiên gác của tôi trúng vào khoảng mười giờ. Tối hôm
qua chúng tôi vừa ăn com chim trĩ hay con gà lôi gì đấy, chúng tôi cũng chẳng
biết nữa. Nồi nước suýt thật là béo bổ, và thịt con chim, tuy chỉ luộc lên
thôi, mà ngon tuyệt vời. Mỗi đứa ăn đến hai cà-mèn.
Tôi đứng
gác nhưng vì mải mê nhìn đàn kiến sắn lớn màu đen đứng tha mỗi con một dúm mảnh
lá lớn về một cái tổ kiến khổng lồ, tôi quên cả gác. Mấy con kiến này dài
khoảng một phân rưỡi, chân rất cao. Mỗi con tha mấy mảnh lá rất lớn. Tôi đi
theo chúng đến tận chỗ cái cây chúng đang lột lá, và được thấy cả một tổ chức
có qui củ. Trước hết có những con kiến chuyên cắt lá thành từng mảnh. Chúng nó
xén một tàu lá to thuộc loại chuối rừng thành từng mảnh kích thước rất đều nhau
một cách hết sức khéo léo rồi thả rơi xuống đất. Ở phía dưới có một hàng kiến
cùng giống với bọn kia nhưng hời khác một chút: bên cạnh hàm chúng cớ một cái
vạch màu xám. Mấy con kiến này đứng thành hình bán nguyệt, giám sát bọn kiến tha
lá. Bọn này từ bên phải nối đuôi nhau kéo đến chỗ nhận các mảnh lá rồi đi về
phía trái, phía tổ kiến. Chúng nó nhanh nhẹn lĩnh phần mình rồi đi vào hàng,
nhưng thỉnh thoảng có những con hấp tấp trong khi nhận phần hay xếp hàng gây
thành tình trạng nghẽn lối. Lúc bấy giờ mấy con kiến cảnh sát xông vào can
thiệp và đẩy từng con vào đúng chỗ của nó. Có một con kiến thợ, không hiểu đã
phạm một lỗi gì nặng mà bị lôi ra khỏi hàng, và hai con kiến cảnh binh, con thì
cắt đứt đầu nó ra, con thì cắt người nó ra làm hai mảnh ở chỗ ngang thắt lưng.
Hai con kiến thợ bị bọn kiến cảnh sát chặn lại, chúng đặt chỗ lá đang khiêng
xuống, đào một cái lỗ, và ba cái mảnh của con kiến bị xử tử: đầu ngực và bụng,
bị vùi xuống lỗ và đắp đất lên.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 8: Đảo bồ câu
Tôi đang
mải mê đứng ngắm cái thế giới tí hon này và theo dõi mấy con kiến cảnh binh xem
thử sự giám sát của chúng có đến tận sát cửa vào tổ kiến hay không, thì bỗng có
tiếng người nói:
- Không
được động đậy. Hễ nhúc nhích là chết ngay... Quay lại!
Đó là
một người cởi trần, mặc quần soọc ka ki, chân đi một đôi ủng da màu đỏ, tay cầm
một khẩu súng hai nòng.
Người ấy
tầm vóc trung bình, to ngang, nước da cháy nắng. Đầu hắn hói trán, quanh hai
mắt và ở vùng mũi xăm chàm rất đậm, làm thành một cái mặt nạ vẽ. Ngay giữa trán
có xăm hình con dán.
- Anh có
vũ khí không?
- Không.
- Anh có
một mình à?
- Không.
- Các
anh có mấy người?
- Ba.
- Anh
đưa tôi đến chỗ các bạn anh đi.
- Không
được, vì một trong hai người có một khẩu mousqueton, và tôi không muốn anh bị
bắn chết trước khi biết ý định của anh.
- À! Vậy
thì anh phải đứng yên và nói khe khẽ một phút. Các anh chính là ba tù nhân vừa
trốn khỏi bệnh viện phải không?
- Vâng.
- Ai là
Bươm bướm?
- Tôi
đây.
- À thế
thì anh có thể coi như anh đã gây ra cả một cuộc cách mạng ở trong làng với
cuộc vượt ngục của anh! Một nửa số phạm nhân mãn hạn đã bị bắt giải về sở hiến
binh.
Hắn bước
lại gần tôi, nòng súng chĩa thấp xuống đất chìa tay ra cho tôi bắt và nói:
-Tôi là
Le Breton Mặt nạ. Anh đã từng nghe nói về tôi chưa?
- Chưa,
nhưng tôi thấy rõ anh không phải là kẻ săn người.
- Đúng
đấy. Tôi đặt bẫy ở đây để bắt chim hocco. Hổ ăn mất cửa tôi một con rồi...
nhưng cũng có thể là các anh.
- Chúng
tôi ăn đấy.
- Anh
uống cà-phê nhá?
Trong
cái xắc hắn đeo sau lưng có một cái bình thủy. Hắn rót ra cho tôi một ít cà
phê, và bản thân cũng uống một ít. Tôi nói:
- Đến
gặp các bạn tôi đi.
Hắn đến,
và ngồi xuống với chúng tôi. Hắn cười khe khẽ một mình về câu chuyện khẩu
mousqueton mà ban nãy tôi đã bịa ra để lòe hắn. Hắn nói:
- Thế mà
ban nãy tôi tưởng thật, vì không có một tên săn người nào chịu nhận đi tìm các
anh: ai nấy đều biết rằng các anh có mang theo một khẩu mousqueton.
Le
Breton Mặt nạ giảng giải cho chúng tôi biết rằng anh ta đã ở Guyane được hai
mươi năm và đã ra khỏi tù được năm năm nay. Anh ta bốn mươi lăm tuổi. Vì đã lỡ
dại dột xăm hình lên mặt, anh ta không nghĩ đến chuyện về Pháp nữa. Anh ta rất
mê rừng và toàn sống nhờ vào rừng: da rắn, da hổ, sưu tầm bươm bướm, và nhất là
bắt chim hocco - con chim mà chúng tôi vừa ăn. Anh ta kể cho chúng tôi nghe như
sau:
- Đây là
một giống chim hoang dã thuộc loại gà rừng. Dĩ nhiên nó chưa bao giờ tiếp xúc
với gà nhà hay với người. Tôi đặt bẫy bắt sống giống chim này, đem vào làng và
bán cho người nào có chuồng gà, vì đây là giống chim rất được ưa chuộng. Còn
phải nói. Chẳng cần vặt lông cánh, chẳng cần làm gì, cứ thế đến sâm sẩm tối cho
nó vào chuồng gà, đến sáng mở cứa chuồng là nó ra đứng trước cửa có vẻ như đang
đếm số gà trống và gà mái đang ra chuồng. Nó đi theo đàn gà, và cũng ăn như gà,
nhưng vừa ăn vừa đưa mắt nhìn kỹ bốn phía mười phương, quan sát cả các bụi rậm
ở xung quanh. Đó là một con chó giữ gia cầm không có gì sánh kịp. Đến tối nó về
đứng ở cửa chuồng gà, và không thể hiểu nó làm thế nào mà biết được còn thiếu con
nào, chỉ biết là nó biết, và lập tức đi tìm. Dù gà trống hay gà mái, hễ tìm ra
là nó mổ rõ đau vào để dạy cho chú gà kia biết giờ biết giấc. Nó giết chuột
đồng, rắn, nhện, rết, bọ cạp, và hễ thoáng có bóng một con diều hâu xuất hiện
trên nền trời là nó lùa cả đàn gà vào đám cỏ rậm trong khi bản thân nó đứng ra
đối địch với kẻ thù. Đã đem nó về là nó không rời chuồng gà bỏ đi nữa.
Một con
chim lạ lùng như thế mà chúng tôi đã luộc ăn như một con gà tầm thường.
Le
Breton Mặt nạ cho chúng tôi biết rằng Jésus, Enflé và khoảng ba chục cựu phạm
nhân hiện đang bị giam ở sở cảnh binh Saint-Laurent; ở đấy họ đến xem các tù
nhân mãn hạn, xem thử có nhận ra một người nào đã từng rình mò xung quanh tòa
nhà mà chúng tôi đã ở trước khi trốn đi không. Thằng "giữ chìa khóa"
người A-rập thì bị nhốt xà-lim ở sở cảnh binh. Hắn bị giam cách ly, vì họ nghi
là hắn đồng lõa với chúng tôi. Hai cú chân giường sắt đã làm cho hắn ngất đi
nhưng không để lại chút thương tích nào, còn bọn cảnh sát thì chỉ bị sưng đầu
nhẹ. "Còn tôi thì cảnh sát không động đến, vì ai cũng biết tôi không bao
giờ nhúng tay vào các vụ vượt ngục" .
Le
Breton nói với chúng tôi rằng Jésus là một thằng rất khốn nạn. Khi tôi nói tới
chiếc xuồng, anh ta đòi xem. Vừa trông thấy nó anh ta đã kêu lên:
- Nó thí
mạng các anh còn gì. Cái xuồng này sẽ không bao giờ nổi lấy được một tiếng đồng
hồ trên mặt biển. Hễ gặp phải một ngọn sóng hơi mạnh một chút, khi dập xuống nó
sẽ vỡ ra làm đôi ngaỵ Chớ có đi chiếc xuồng này: chẳng khác gì tự sát.
- Thế
thì biết làm cách nào bây giờ?
- Anh có
tiền không?
- Có
- Bây
giờ tôi nói cho anh biết rõ phải làm gì, hơn nữa, tôi sẽ giúp anh: anh xứng
đáng được giúp đỡ. Tôi sẽ giúp không thôi, sao cho anh và các bạn anh thành
công. Vì bất cứ lý do gì các anh cũng không được đến gần làng. Muốn có được một
cái thuyền tốt, phải đến đảo Bồ câu. Trên đảo này có gần hai trăm người hủi. Ở
đây không có giám thị, và không bao giờ có một người nào lành mạnh đến đấy, kể
cả thầy thuốc. Cứ mỗi ngày vào lúc tám giờ, một chiếc xuồng đưa lương thực đến
cho người trên đảo đủ dùng trong hai mươi bốn tiếng, toàn đồ ăn sống. Viên y tá
bệnh viện nhà lao giao một thùng thuốc cho hai viên y tá của đảo (đều mắc bệnh
hủi), chuyên chăm sóc bệnh nhân trên đảo. Không có một ai, dù là cảnh sát, linh
mục hay bọn săn người, đặt chân lên đảo. Những người hủi sống trong mấy túp nhà
tranh nhỏ do chính họ dựng lên. Họ có một căn nhà chung để hội họp. Họ nuôi gà
vịt để cải thiện bữa ăn hàng ngày. Họ không được công khai bán bất cứ thứ gì,
nhưng họ vẫn bí mật giao dịch mua bán với Saint-Laurent, Saint-Jean và với dân
Tàu ở Guyane thuộc Hà-lan, ở Albinạ Họ đều là những kẻ sát nhân thuộc loại nguy
hiểm. Rất ít khi họ giết lẫn nhau, nhưng họ rất hay bí mật ra khỏi đảo, phạm
một tội ác rồi sau đó lại trở về ẩn náu trên đảo. Để thực hiện những chuyến đi
ấy, họ có một số thuyền lấy trộm được của dân làng bên. Ở đảo này, tội nặng
nhất là có một chiếc thuyền. Cảnh sát được lệnh bắn vào bất cứ thuyền nào đi
vào đảo Bồ câu hay ra khỏi đảo. Vì vậy bọn hủi nhận chìm thuyền của họ xuống
nước và lấy đá chặn cho thuyền khỏi nổi lên. Mỗi khi cần đến thuyền, họ lặn
xuống nước bỏ đá ra, thế là thuyền lại nổi lên. Trên đảo có đủ các giống người,
từ khắp các miền của nước Pháp. Kết luận: cái xuồng của anh chỉ có thể dùng
trên sông Maroni mà thôi, mà với điều kiện là không chở nặng quá! Muốn ra biển
phải kiếm một chiếc thuyền khác và cách tốt nhất là đến đảo Bồ câu mà tìm.
- Làm
thế nào để đến đấy?
- Đây.
Tôi sẽ cùng đi với anh trên sông cho đến khi trông thấy đảo. Nếu đi một mình,
anh sẽ không tìm ra hoặc có thể nhầm sang đảo khác. Đảo này cách cửa sông một
trăm năm mươi cây số. Vậy phải quay trở lại phía sau. Nó ở phía trên Saint -
Laurent đến năm mươi cây số. Tôi sẽ đưa anh đến thật gần đảo, sau đó tôi sẽ
chuyển sang xuồng của tôi (ta sẽ kéo nó theo) và một mình anh sẽ hành động trên
đảo.
- Tại
sao anh không lên đảo với chúng tôi?
- Trời
ơi, - Le Breton nói. - Tôi đặt chân lên bến ván của họ có một lần (cái bến ván
này là nơi ghé chính thức của thuyền Ban quản trị). Hồi đó là giữa ban ngày,
thế mà những điều tôi trông thấy đã đủ cho tôi ngán lắm rồi. Anh tha thứ cho
tôi, Papi ạ, nhưng cho tới chết tôi sẽ không bao giờ còn đặt chân lên đảo này
nữa. Vả chăng tôi sẽ không khắc phục nổi cái cảm giác ghê tởm khi đứng gần họ,
khi phải nói chuyện, phải thương lượng với họ. Như vậy tôi sẽ có hại hơn là có
lợi cho anh.
- Bao
giờ thì đi?
- Sâm
sẩm tối thì đi.
- Thế
bây giờ là mấy giờ rồi, Breton?
- Ba
giờ.
- Được
thế thì tôi ngủ một lát.
- Không
được đâu, anh phải thu xếp chở hết đồ đạc lên xuồng.
- Ồ,
không, tôi sẽ đi xuồng không, sau đó sẽ quay về đón Clousiot. Clousiot sẽ ở lại
đây trông đồ.
- Không
thể được, không bao giờ anh có thể tìm lại chỗ này, ngay giữa ban ngày cũng
vậy. Mà ban ngày thì anh tuyệt nhiên không được có mặt trên sông. Cuộc lùng bắt
các anh chưa chấm dứt đâu. Vùng sông vẫn còn nguy hiểm lắm.
Chiều
xuống. Le Breton đi tìm cái xuồng độc mộc của anh. Chúng tôi buộc nó vào phía
sau thuyền của chúng tôi. Clousiot ngồi cạnh Le Breton đang cầm chèo lái,
Maturette ngồi giữa, tôi ngồi phía trước. Thuyền ra khỏi vịnh một cách khó
khăn, và khi ra đến sông thì trời đã sắp tối. Một vầng thái dương khổng lồ màu
đỏ huyết dụ làm bùng lên một đám cháy ở chân trời phía biển. Muôn vàn tia lửa
của một trận pháo hoa vĩ đại đang thi nhau bùng lên, như thể những tia đỏ đang
cố sao cho đỏ hơn những tia đỏ khác, những tia vàng đang cố sao cho vàng hơn
những tia vàng khác, và ở những vùng các màu sắc pha trộn vào nhau thì cố sao
kết hợp được thật nhiều màu sắc.
Có thể
trông rõ ở phía trước, cách chúng tôi hai mươi cây số, cái cửa bể của con sông
oai nghiêm đang đổ ra đại dương trong những đợt sóng màu hồng chen ánh bạc lấp
lánh. Le Breton nói: "Giờ nước ròng sắp hết. Chỉ một tiếng đồng hồ nữa sẽ
thấy nước triều lên: ta sẽ lợi dụng nó để đi ngược sông Maroni, và đi như thế
chẳng cần chèo chống gì nhiều, rất chóng đến nơi". Đêm tối đổ sập xuống
một cách đột ngột.
- Đi
thôi, - Le Breton nói. - Chèo cho mạnh để ra giữa sông. Đừng hút thuốc nữa.
Mấy mái
chèo vục xuống nước, và chúng tôi cắt ngang dòng đi khá nhanh. Tôi và Le Breton
phối hợp rất ăn nhịp với nhau, mái chèo cắt nước đều đặn. Maturette đem hết sức
bình sinh ra chèo. Càng ra giữa dòng càng cảm thấy rõ thủy triều đang đẩy
thuyền lao mạnh về phía trước. Thuyền lướt đi vun vút, cứ nứa giờ một lại cảm
thấy thủy triều lên mạnh hơn. Sáu giờ sau, chúng tôi đã đến rất gần đảo. Thuyền
lao thẳng vào đấy: một cái vệt lớn gần đúng giữa dòng sông, chi hơi chếch về
bên phải một chút. "Đây rồi" - giọng Le Breton nói khẽ. Đêm không tối
lắm, nhưng chắc đứng hơi xa không sao thấy được chúng tôi, vì làn sương mù bay
là là trên mặt sông. Chúng tôi đã đến sát đảo. Khi đã phân biệt được rõ hơn
những đường nét của giải bờ đá, Le Breton bước sang chiếc thuyền độc mộc của
anh ta, nhanh nhẹn cởi dây buộc và nói khẽ một câu: "Chúc các bạn may
mắn!".
- Cám ơn
nhé.
- Không
có gì.
Chiếc
thuyền của chúng tôi, không được Le Breton điều khiển nữa, bị dòng nước đẩy
ngang vào bờ đảo. Tôi cố lái cho nó đi thẳng trở lại, nhưng không có kết quả
cho lắm, và vẫn bị dòng nước đẩy mạnh, chiếc thuyền đâm cheo chéo vào những
khóm lá rũ trên mặt nước. Thuyền xô vào bờ rất mạnh, mặc dầu tôi đã dùng chèo
cố hãm lại, đến nỗi giá đây không phải là một lùm cây mà là một tảng đá, thì
chiếc thuyền đã vỡ tan ra rồi, và thế là đi tong các thứ đồ dùng và lương thực,
v. v. Maturette nhảy xuống nước, kéo chiếc thuyền vào, thế là chúng tôi chui
vào phía dưới một lùm cây rất tọ Cậu ta lại kéo nữa, và chúng tôi đã buộc được
thuyền vào một cành cây.
Chúng
tôi uống mỗi người mấy ngụm rượu rhum, và tôi leo lên bờ một mình, để hai bạn
tôi ngồi lại dưới thuyền.. Tay cầm địa bàn, tôi bước đi sau khi đã làm gãy mấy
cành cây và móc vào nơi này nơi nọ những miếng vải bao bột mà tôi đã xé sẵn ra
trước khi lên đường. Đi được một lát, tôi thấy có ánh đèn lập lòe phía trước và
chợt nghe thấy những tiếng người nói. Trước mặt tôi có ba nếp nhà tranh. Tôi
bước về phía đó. Vì tôi không biết mình sẽ trình diện với những người ở trên
đảo ra sao, tôi quyết định để cho họ phát hiện tôi trước.
Tôi đánh
một que diêm. Khi ánh lửa lóe lên, một con chó nhỏ vừa sủa vừa xông vào tôi. Nó
cứ chồm chồm chỉ chực cắn vào chân tôi. Mong sao nó đừng mắc bệnh hủi" -
tôi thoáng nghĩ. Ngu quá, chó có bao giờ lại mắc bệnh hủi!
- Ai
đấy? Ai? Cậu đấy hả Marcel?
- Tôi là
một người vượt ngục.
- Anh
đến đây làm cái gì? Để ăn trộm hẳn? Anh tưởng chúng tôi có của thừa chắc?
- Tôi
cần được giúp đỡ.
- Giúp
không hay có trả tiền?
- Mày có
câm mồm đi không, thằng Chouette kia?
Bốn bóng
người từ trong mấy nếp nhà tranh đi ra.
- Đi tới
từ từ anh bạn! Tôi cuộc rằng anh chính là người có khẩu mousqueton. Nếu anh có
mang theo, anh cứ để xuống đất đi, ở đây anh không sợ gì hết.
- Vâng,
chính tôi, nhưng khẩu mousqueton thì tôi không mang theo.
Tôi bước
tới sát họ. Trời tối quá tôi không phân biệt được nét mặt mấy người ấy. Tôi giơ
tay ra một cách ngu xuẩn. Không ai bắt lấy bàn tay tôi. Tôi hiểu ra, một cách
hơi muộn màng, rằng bắt tay là một cử chỉ không bao giờ có ở đây: họ không muốn
làm cho tôi nhiễm bệnh.
- Vào
nhà đi, - La Chouette nói.
Túp lều
tranh sáng mờ mờ dưới ánh một cây đèn dầu đặt trên bàn.
- Ngồi
xuống đi.
Tôi ngồi
xuống một chiếc ghế rơm không có lưng tựa. La Chouette thắp thêm ba cây đèn dầu
nữa và đem một cây đặt lên cái bàn ngay trước mặt tôi. Ngọn khói bốc lên từ cái
bấc đèn dầu dừa tỏa ra một thứ mùi ngửi mà buồn nôn. Tôi ngồi, còn năm người
kia đứng, tôi không trông rõ mặt họ. còn mặt tôi thì vừa ngang tầm ánh đèn,
chắc họ trông rất rõ: hẳn là họ có chủ ý để ánh sáng như vậy. Giọng nói ban nãy
đã mắng bảo La Chouette câm mồm bây giờ lại nói:
-
L'anguille, cậu sang bên nhà chung hỏi xem bên ấy có muốn chúng ta đưa anh này
sang không. Toussaint trả lời ra sao về đây báo ngay, nhất là trong trường hợp
Toussaint đồng ý. Ở đây chúng tôi không có gì để mời anh uống đâu anh bạn ạ,
trừ khi anh vui lòng nuốt trứng sống.
Hắn đặt
trước mặt tôi một cái giỏ đan đựng đầy trứng.
- Cám
ơn, tôi không cần đâu.
Bên tay
phải, rất gần chỗ tôi, một người trong bọn họ ngồi xuống, và lần đầu tiên tôi
trông thấy bộ mặt của một người hủi.
Thật là
gớm ghiếc. Tôi phải cố gắng lắm mới không ngoảnh mặt đi và không để lộ cái cảm
giác ghê tởm ra ngoài. Cái mũi đã bị ăn mòn hết cả thịt lẫn xương, ở chính giữa
mặt chỉ thấy một cái lỗ lớn. Tôi nói là một cái lỗ, chứ không phải hai đâu, nó
to bằng một đồng tiền hai francs. Cái môi dưới về phía bên phải cũng bị ăn sứt,
để lộ ba cái răng tróc nếu, rất dài đều vàng khè, cắm thẳng vào xương hàm trên
đã tróc hết thịt. Hắn chỉ còn một tai. Hắn đặt một bàn tay băng bó lên bàn: đó
là bàn tay phải. Bằng hai ngón tay cuối cùng còn lại trên bàn tay phải, hắn cầm
một điếu xì gà to và dài, chắc chắn là do hắn quấn lấy bằng một tấm lá thuốc
chưa khô hẳn, vì điếu xì-gà có màu tai tái. Chỉ còn con mắt bên trái của hắn là
con mi, mắt bên phải không nhắm lại được, và một vết loét dài và sâu từ mắt
phải chạy lên trán rồi mất hút trong mớ tóc hoa râm bù xù. Bằng một giọng khản
đặc, hắn nói với tôi:
- Chúng
tôi sẽ giúp anh, anh bạn ạ. Chứ không thì rồi dần dà anh sẽ có đủ thì giờ để
trở thành như tôi: điều đó tôi chẳng muốn.
- Cám
ơn.
- Tôi
tên là Jean sans Peur, tôi là dân ngoại ô. Khi tôi bước chân đến trại khổ sai,
tôi còn đẹp hơn, lành mạnh hơn, khỏe hơn anh. Trong mười năm, tôi đã hóa ra thế
này.
- Họ
không chữa cho anh sao?
- Có
chứ. Từ khi tôi tiêm dầu choumogra cho đến nay thì thấy có đỡ. "Đây anh
xem".
Hắn quay
nghiêng đầu cho tôi xem mé bên trái:
- Bên
này đang khô dần.
Một niềm
thương xót vô hạn tràn ngập lòng tôi, và tôi giơ tay ra toan sờ vào má bên trái
của hắn để bày tỏ niềm thông cảm. Nhưng hắn đã né người ra phía sau, nói:
- Cám ơn
anh đã có lòng muốn chạm vào tôi. Nhưng tôi phải khuyên anh là đừng bao giờ
chạm vào một người bệnh, mà cũng đừng bao giờ ăn hay uống vào một cái cà-mèn
của họ.
Trước
sau tôi chỉ một lần trông thấy mặt một người hủi - người duy nhất đã có đủ can
đảm chịu để cho tôi nhìn thẳng vào mặt.
- Hắn ta
đâu? - Trên ngưỡng cửa hiện ra một bóng người thấp tịt, gần như một người lùn.
-
Toussaint và mấy tay kia muốn gặp hắn. Đưa hắn tới trung tâm đi.
Jean
sans Peur đứng dậy, nói với tôi:
- Đi
theo tôi.
Chúng
tôi cùng đi cả ra ngoài trong đêm tối, bốn năm người đi phía trước, Jean sans
Peur đi bên cạnh tôi, mấy người nữa đi phía sau. Ba phút sau, khi chúng tôi đi
đến một cái nền rộng đắp cao lên, ánh trăng mờ mờ soi lên cái thứ quảng trường
này. Đó là chỗ cao nhất trên đảo. Ở chính giữa có một ngôi nhà. Một ít ánh sáng
lọt qua hai khung cửa sổ. Khoảng hai mươi người đứng trước cửa chờ chúng tôi.
Chúng tôi bước tới. Vào đến cửa, họ xê ra hai bên cho chúng tôi vào nhà.
Đó là
một gian phòng hình chữ nhật chiều dài khoảng mười mét, chiều rộng bốn mét, có
một thứ lò sưởi củi gỗ đang cháy, bốn góc có đặt bốn tảng đá lớn cao ngang
nhau. Gian phòng được chiếu sáng bằng hai cây đèn bão lớn thắp dầu hỏa. Ngồi
trên một chiếc ghế đẩu là một người không có tuổi, mặt trắng bệch, mắt đen. Sau
lưng hắn có năm sáu người ngồi trên một chiếc ghế dài. Hắn nói với tôi:
- Tôi là
Toussaint le Corse, còn anh là Papillon?
- Vâng.
- Ở trại
khổ sai tin tức đi rất nhanh, cũng nhanh ngang những hành động của anh. Khẩu
mousqueton của anh để đâu?
- Chúng
tôi ném xuống sông rồi.
- Ở chỗ
nào?
- Ngay
trước bức tường bệnh viện, đúng ở chỗ chúng tôi leo qua tường.
- Thế
thì có thể tìm lại được chứ?
- Tôi
nghĩ là có thể, vì nước chỗ ấy không sâu.
- Sao
anh biết?
- Vì
chúng tôi phải lội xuống nước để khiêng anh bạn của chúng tôi bị thương đưa lên
thuyền.
- Hắn ta
bị thương thế nào?
- Gãy
một chân.
- Anh đã
làm gì cho hắn chưa?
- Tôi đã
buộc nẹp cho anh ta.
- Hắn có
đau không?
- Có
- Bây
giờ hắn đâu?
- Dưới
xuồng ấy.
- Anh
bảo là anh đến đây vì cần được giúp đỡ: vậy anh cần thứ gì?
- Một
chiếc thuyền.
- Anh
cần chúng tôi giúp anh một chiếc thuyền?
- Vâng.
Chúng tôi có tiền để trả.
- Được
Tôi sẽ bán cho anh chiếc thuyền của tôi. Nó là thứ tuyệt hảo, và hãy còn mới
toanh. Tôi vừa mới lấy trộm được tuần trước ở Albina. Đó không phải là một cái
thuyền, đó là một chiếc tàu viễn dương. Chỉ thiếu có một cái: đó là cái trụ
đáy. Trong hai tiếng đồng hồ bọn tôi sẽ lắp cho anh một cái trụ đáy tươm tất.
Còn thì cái gì cũng có sẵn: bánh lái có cả tay lái đầy đủ, cột buồm cao bốn mét
bằng gỗ lim và một lá buồm bằng vải lanh mới tinh khôi. Anh trả tôi bao nhiêu?
- Anh cứ
nói giá đi! Tôi không biết giá cả ở đây.
- Ba
ngàn francs nếu anh có đủ tiền trả, còn nếu không đủ thì anh quay về tìm khẩu
mousqueton đi rồi tối mai đem đến đây mà đổi lấy thuyền.
- Không,
tôi sẽ trả tiền.
- Được
rồi. Xong phắt. La Puce, dọn cà-phê!
La Puce
tức là cái người lùn tịt ban nay đã sang bên kia tìm tôi. Hắn đến cạnh một tấm
ván đóng vào tường phía trên lò sưởi, lấy một cái cà-mèn mới tinh đã được lau
chùi bóng lộn lên, rồi lấy một cái chai đựng cà phê rót vào đấy và bắc bên bếp
lửa. Một lát sau hắn bỏ cà-mèn xuống, rót cà-phê ra mấy cái ca đề cạnh bốn tảng
đá. Toussaint cúi người cầm lấy và chuyển cho mấy người ngồi sau lưng hắn. La
Puce cầm cái cà-mèn đưa cho tôi, nói: "Uống đi, đừng sợ, cái cà-mèn này
chỉ dùng cho khách vãng lai. Không có người bệnh nào uống vào đây đâu".
Tôi cầm lấy cái cà-mèn uống rồi đặt lên đùi.
Lúc bấy
giờ tôi mới nhận thấy có một đốt ngón tay người dính vào cái cà-mèn. Tôi đang
ngỡ ngàng thì La Puce nói:
- Chà,
mình lại rơi đâu mất một ngón tay nữa rồi! Đi đi đàng nào thế không biết?
- Nó đây
- Tôi
vừa nói vừa chỉ cái cà-mèn.
La Puce
gỡ cái ngón tay ra, ném vào lửa. Hắn lại đưa cà-mèn cho tôi, nói:.
- Anh cứ
uống đi, vì tôi là loại hủi khô. Tôi cứ rụng dần từng bộ phận một, nhưng tôi
không bị rữa, chứng này không lây đâu.
Một mùi
thịt nướng thoang thoảng trên không. Tôi nghĩ bụng chắc đó là mùi cái ngón tay
bị ném vào lò sưởi Toussaint nói:
"Anh
sẽ phải ở lại đây cả ngày cho đến tối để chờ nước ròng. Bây giờ anh phải ra bảo
cho các bạn anh biết. Các anh hãy khiêng anh bạn bị gãy chân lên một căn lều mà
nằm, xuống thuyền lấy hết các thứ lên rồi nhận chìm nó đi. Ở đây không có ai đỡ
được cho các anh một tay đâu. Chắc anh cũng hiểu tại sao rồi."
Tôi lập
tức ra chỗ hai bạn tôi đang đợi ở dưới thuyền. Tôi và Maturette khiêng Clousiot
lên, đặt cho anh ta nầm trong một căn lều. Một giờ sau dưới thuyền không còn
thứ gì nữa, và các đồ đạc, thực phẩm của chúng tôi đều được xếp lại ngăn nắp.
La Puce xin chúng tôi cái xuồng và một mái chèo. Tôi cho ngay. Hắn liền đem
xuồng đi dìm ở một nơi hắn biết. Đêm đã qua rất nhanh.
Cả ba
chúng tôi cùng nằm trong căn lều tranh, trên những tấm chăn mới do Toussaint
gửi tới. Mỗi tấm đều được trao cho chúng tôi trong một cái túi bọc bằng giấy
gói hàng loại cứng. Tôi nằm dài trên chăn kể lại cho Clousiot và Maturette nghe
những sự việc đã diễn ra từ khi tôi lên đảo và kết quả cuộc thương lượng giữa
tôi với Toussaint. Clousiot nói ra một câu rất ngốc, chẳng qua vì không kịp suy
nghĩ:
- Vậy là
chuyến vượt ngục này tốn sáu ngàn năm trăm francs. Tớ sẽ đưa cậu một nửa số
tiền ấy, tức là cái món ba ngàn francs của tớ.
- Tụi
mình đến đây không phải để ngồi làm những con tính kiểu Armêni như vậy. Chừng
nào tôi hãy còn xu là tôi cứ trả. Rồi sau hẵng hay.
Không
một người hủi nào vào căn lều của chúng tôi. Trời sáng thì thấy Toussaint đến.
- Chào
các anh. Các anh có thể ra ngoài chơi. Cứ yên tâm: ở đây không có ai đến quấy
rầy các anh đâu. Trên ngọn cây dừa ở đàng kia có một tay của chúng tôi gác. Xem
có thuyền của cảnh sát đi trên sông không. Bây giờ không có. Chừng nào vẫn thấy
miếng vải trắng kia bay trên ngọn dừa tức là không có gì. Nếu trông thấy gì,
tay gác trên ngọn dừa sẽ xuống báo ngay. Các anh có thể tự đi hái đu đủ lấy mà
ăn nếu thấy thích. Tôi nói:
-
Toussaint này, thế cái trụ đáy thì thế nào đây?
- Sẽ lấy
cánh cửa bệnh xá mà làm. Đó là loại "gỗ rắn", rất nặng. Xẻ đôi cánh
cửa ra thành hai tấm gỗ ghép lại là xong. Anh em ở đây đã đưa thuyền lên bãi
cao từ hồi đêm. Anh đến mà xem.
Chúng
tôi cùng đến xem. Đó là một chiến thuyền tuyệt đẹp dài năm mét hãy còn mới
tinh. Trên thuyền có hai tấm ván bắc ngang trong đó một tấm có khoét lỗ để đút
cột buồm. Thuyền rất nặng. Tôi và Maturette phải khó nhọc lắm mới lật sấp nó
xuống được. Cánh buồm và dây lèo đều mới. Hai bên mạn thuyền có gắn những cái
vòng để buộc các thứ chở theo, trong đó có thùng nước ngọt. Chúng tôi bắt tay
vào việc. Đến trưa, một cái trụ đáy chắc chắn, càng về phía trước càng thon
lại, đã được gắn chặt vào đáy thuyền bằng những cái đinh xoắn ốc rất dài và
bằng bốn cái đinh chốt có lắp vòng mà tôi đã mang theo.
Đứng
thành vòng tròn xung quanh chúng tôi, đám người hủi im lặng xem chúng tôi làm.
Toussaint chỉ vẽ cho chúng tôi rõ cần làm những gì, và chúng tôi cứ thế mà làm
theo. Mặt Toussaint thoạt trông có vẻ như bình thường: không có chỗ nào lở loét
hay sứt sẹo; chỉ khi nào hắn nói mới thấy là chỉ có một nửa mặt bên trái nhúc
nhích. Hắn cũng nói rõ cho tôi biết là nửa bên phải bị liệt hẳn, và cũng nói
thêm rằng hắn bị bệnh hủi khô. Ngực bên phải và cánh tay phải của hắn cũng bi
liệt và hắn dự tính là chỉ ít lâu nữa cái chân phải cũng sẽ liệt nốt: Con mắt
phải của hắn im lìm bất động như mắt giả. Nó vẫn thấy, nhưng không cử động
được.
Tên
những người hủi trên mấy trang giấy này đều không phải là tên thật của họ. Để
đừng bao giờ những ai đã từng yêu đương hay quen biết những con người khốn khổ
này biết được họ đã bị thối rữa ngay khi còn sống một cách ghê sợ như thế nào.
Tôi vừa làm việc vừa nói chuyện với Toussaint. Nhưng người khác chẳng ai nói
gì. Chỉ trừ có một lần: lúc ấy tôi toan cầm lấy mấy cái bản lề họ đã tháo ra từ
một cái tủ trong bệnh xá để đóng thêm vào trụ đáy cho chắc, thì một người hủi
nói: "Khoan đã, cứ để đấy. Trong khi tháo tôi bị đứt tay nên máu dính vào
đấy. Tôi đã chùi di nhưng chưa sạch hẳn". Một người hủi khác lấy rượu rhum
rót lên chiếc bản lề rồi châm lửa đốt hai lần, xong mới nói: "Bây giờ thì
được rồi, anh lấy đi".
Trong
khi chúng tôi làm việc, Toussaint nói với một người hủi: "Cậu đã mấy lần
đi, cậu phải nói kỹ cho Bươm bướm hiểu rõ cung cách, vì ba cậu này đều chưa đi
lần nào". Người kia lập tức giảng giải:
- Chiều
nay sẽ có nước ròng rất sớm, ba giờ đã bắt đầu rồi. Chập tối khoảng sáu giờ, sẽ
có một dòng nước thủy triều xuống rất mạnh, trong khoảng chưa đến ba tiếng đồng
hồ sẽ đưa các anh xuống chỉ cách cửa bể chừng một trăm cây số. Đến chín giờ là
phải dừng lại. Anh phải buộc kỹ thuyền vào một thân cây trong rừng mà đợi cho
qua sáu tiếng đồng hồ nước thủy triều lên: tức là đến ba giờ sáng. Anh đừng ra
đi vào giờ này, vì nước xuống chưa mạnh. Đến bốn giờ rưỡi sáng anh hãy cho
thuyền ra giữa sông. Anh có được một tiếng rười để đi năm mươi cây số trước khi
mặt trời lên. Cái thời gian một tiếng rưỡi này là thời cơ độc nhất vô nhị của
anh đấy. Đến sáu giờ, khi trời sáng, anh phải ra biển rồi. Dù bọn cảnh sát có
trông thấy anh, chúng cũng không đuổi theo anh được, vì chúng sẽ đến chỗ giáp
triều ở cửa biển đúng vào lúc thủy triều bắt đầu lên. Chúng sẽ gặp phải ngọn
triều dữ dội không tài nào vượt qua được trong khi anh đã ra khơi rồi. Cái khoảng
cách một cây số ngăn chia bọn cảnh sát với anh khi chúng trông thấy anh, bằng
bất cứ giá nào anh cũng phải có được nó: vì đó chính là sinh mệnh của anh. Ở
đây chỉ có một lá buồm, trước đây anh đã sắm được những gì cho cái xuồng kia?
- Một lá
buồm chính và một lá buồm foc.
- Chiếc
thuyền này nặng, có thể chịu được hai foc, một lá căng đứng dọc cột buồm, đáy
hình tam giác chạy từ mũi thuyền đến chân cột buồm, một lá buộc lỏng cho nó
phồng lên ở phía trước mũi thuyền, để nó nâng mũi thuyền lên khi có sóng ngược
chiều. Khi vượt cửa biển anh cho căng hết buồm lên, đâm thẳng vào các đợt sóng:
ở cửa biển sóng bao giờ cũng rất to. Anh cho hai bạn anh nằm sát đáy thuyền để
cho nó có thăng bằng hơn, còn anh, anh phải cầm tay lái thật vững. Đừng buộc
lèo vào chân, phải luồn nó vào cái vòng bên mạn thuyền và giữ nó bằng cách quấn
một vòng quanh cổ tay (chỉ một vòng thôi đấy). Nếu anh thấy sức gió thổi cùng
chiều với một ngọn sóng lớn làm cho nó mạnh thêm gấp bội, và anh phải nằm rạp
xuống nước với nguy cơ lật thuyền, anh hãy buông hết ra, sẽ thấy thuyền tức
khắc lấy lại thăng bằng. Khi đó anh đừng hãm lại, cứ thả lỏng cho buồm chính
vật qua vật lại mặc sức, chỉ dùng hai lá foc cho thuyền tiến thẳng vào luồng
gió. Mãi đến khi nào ra đến chỗ nước xanh anh mới đủ thì giờ để bảo cậu bé hạ
buồm xuống, thu gọn nó vào lòng thuyền, rồi sau đó cho kéo nó lên và lại chuyển
sang hướng mới. Anh biết đường đi trên biển chứ?
- Không.
Tôi chỉ biết rằng xứ Venezuela và xứ Colombia ở về phía tây-bắc.
- Đúng
đấy, nhưng anh phải coi chừng đừng để gió thổi dạt vào bờ. Xứ Guyane thuộc Hà
Lan họ giao trả tù vượt ngục đấy, xứ Guyane thuộc Anh cũng vậy. Đảo Trinidad
thì không giao trả tù nhưng lai bắt anh phải lên đường sau mười lăm ngày cho
tạm trú. Xứ Venezuela thì trao trả tù vượt ngục sau khi đã bắt anh làm phu sửa
đường một hai năm.
Tôi vểnh
hết tai lên nghe thật kỹ. Toussaint nói là thỉnh thoảng anh ta vẫn đi, nhưng vì
anh ta mắc bệnh hủi cho nên cũng bị họ trả về một cách dứt khoát. Anh ta thú
thật là chưa bao giờ đi quá được Georgetown ở Guyane thuộc Anh. Bệnh hủi của
Toussaint chỉ có thể thấy rõ khi nào anh ta đi chân không: bao nhiêu ngón chân
đều đã rụng hết. Anh ta bắt tôi nhắc lại những điều anh ta vừa dặn dò tôi. Tôi
nhắc lại không sai một chữ. Đến đây Jean sans Peur nói: "Anh ta phải đi ra
khơi trong bao nhiêu lâu?" Tôi trả lời trước:
- Tôi sẽ
đi hướng bắc - đông - bắc trong ba ngày. Với ảnh hưởng của hải lưu, hướng thực
tế sẽ thành bắc bắc; đến ngày thứ tư tôi sẽ chuyển sang hướng tây bắc, và kết
quả sẽ là chính tây.
- Khá
lắm, - Toussaint nói. - Tôi thì lần vừa rồi tôi chỉ đi hai ngày theo hướng đông
- bắc, thành thử tôi rơi đúng vào Guyane thuộc Anh. Với ba ngày theo hướng bắc,
anh sẽ vòng qua phía bắc Trinidad hay Barbados, và băng một phát qua Venezuela
mà không hay, để rơi trúng vào Curacao hay Colombia.
Jean
sans Peur nói:
-
Toussaint này, cậu vừa bán chiếc thuyền bao nhiêu?
- Ba
ngàn, - Toussaint nói. - Đắt quá hay sao?
- Không.
Tôi hỏi không phải có ý như thế. Chẳng qua để biết thôi. Anh có đủ sức trả
không, Papillon?
- Có
- Trả
xong có còn được ít nhiều gì không?
- Không.
Chúng tôi chỉ có ngần ấy: đúng ba ngàn francs trong plan của cậu Clousiot.
-
Toussaint ạ, tôi đưa khẩu súng lục của tôi cho cậu - Jean sans Peur nói. - Tôi
muốn giúp các cậu này. Cậu trả tôi bao nhiêu?
- Một
ngàn francs.
Clousiot
nói.
- Tớ
cũng muốn giúp các cậu ấy.
- Cám ơn
các anh nhiều quá, - Maturette nhìn Jean sans Peur nói.
- Cảm
ơn, - Clousiot cũng nói.
Còn tôi,
lúc ấy tôi thấy xấu hổ vì đã nói dối họ. Tôi nói:
- Không
được, tôi không thể nhận của anh một món quà như vậy: không có lý do gì cho
phép tôi nhận như thế.
Jean
sans Peur nhìn tôi, nói:
- Có
chứ, có lý do đấy. Ba ngàn francs là một món tiền lớn, thế nhưng với cái giá ấy
Toussaint thiệt ít nhất là hai ngàn, vì chiếc thuyền tốt cực kỳ. Không có lý gì
tôi lại không góp phần giúp các anh.
Lúc bấy
giờ đã xảy ra một điều rất cảm động: La Chouette ném một cái mũ xuống đất, thế
là đám người hủi ném vào đấy người thì tiền đúc, người thì tiền giấy. Từ khắp
mọi nơi đều có những người hủi kéo tới, và ai ai cũng có ít nhiều bỏ vào cái
mũ. Tôi thấy xấu hổ quá. Nhưng bây giờ tôi không thể nói rằng tôi còn tiền?
Trời ơi, biết làm thế nào bây giờ? Tôi đã xử sự một cách thật đốn mạt trước
nghĩa cử cao đẹp của họ. Tôi nói: "Tôi van các anh, các anh đừng hy sinh
như vậy!". Một người da đen Tombouetou, hai tay cùi hết chỉ còn là hai cục
thịt, không sót lấy được một ngón, nói: tiền của chúng tôi không phải để sống.
Anh cứ nhận đi, đừng ngượng ngập. Tiền chúng tôi dùng để đánh bạc hay để hôn
hít mấy con mẹ hủi vẫn thỉnh thoảng từ Albina tới". Những lời này làm cho
tôi thấy đỡ nặng lòng, và đến đây tôi mới từ bỏ ý định thừa nhận là mình hãy
còn tiền.
Họ đã
cho luộc hai trăm quả trứng khiêng tới cho chúng tôi trong một cái thùng mang
dấu chữ thập đỏ. Đó là cái thùng đựng các thứ thuốc họ vừa nhận được sáng naỵ
Họ còn mang đến hai con rùa sống mỗi con ít ra cũng phái đến ba chục cân, sau
khi đã trói nó lại rất kỹ, một mớ thuốc lá chưa thái, hai chai đầy diêm que và
bìa quẹt, một bị gạo chừng năm mươi cân, hai bị than củi, một cái bếp cồn (cái
bếp của bệnh xá), và một bi đông xăng. Cả cái tập thể khốn khổ này đều xúc động
vì tình cảnh của chúng tôi, và ai cũng muốn góp phần vào sự thành công của
chuyến vượt ngục. Tưởng chừng như chính họ đang vượt ngục vậy.
Chúng
tôi đã kéo chiếc thuyền đến một cái bến gần chỗ chúng tôi ghé xuồng đêm trước.
Họ đã đếm số tiền quyên góp trong cái mũ: tám trăm mười francs. Tôi chỉ phải
đưa một ngàn hai trăm francs cho Toussaint là đủ. Clousiot đưa cái plan của cậu
ta cho tôi, tôi mở nó ra trước mặt mọi người. Nó đựng một tờ giấy bạc một ngàn
francs và bốn tờ năm trăm. Tôi trao cho Toussaint một ngàn rưởi francs, anh ta
thối lại ba trăm rồi nói:
- Anh
cầm lấy khẩu súng này, tôi tặng anh đấy. Các anh đã chơi xả láng với số kiếp,
phải làm sao đừng để xảy ra cái tình trạng là đến phút cuối chỉ vì không có vũ
khí mà đi tong hết cả bấy nhiêu công sức. Tôi hy vọng rằng anh sẽ không có dịp
nào cần phải dùng đến nó.
Tôi
không còn biết nói thế nào để cảm ơn anh ta - trước hết là anh ta, và sau đó là
tất cả cái khối cộng đồng của họ.
Người y
tá của đảo đã xếp sẵn một cái hộp đựng bông thấm nước, cồn, aspirin, băng, I-
Ốt, một cái kéo và một cuộn băng dính. Một người hủi mang đến hai tấm ván mỏng
bào rất kỹ và hai giải băng Velpeau mới tinh còn để nguyên trong hộp. Anh ta
tặng chúng tôi mấy thứ đó chẳng qua để chúng tôi thay bộ nẹp chân cho Clousiot.
Đến khoảng năm giờ trời bắt đầu đổ mưa. Jean sans Peur nói với tôi.
- Các
anh gặp may đấy. Trời này thì không sợ bị chúng nó nhìn thấy. Các anh có thể
lên đường ngay và như thế là lợi được cả nửa giờ. Khi phải dừng lại đợi, các
anh sẽ ở gần cửa biển hơn để lại lên đường lúc bốn giờ rưỡi sáng.
Tôi nói:
- Tôi sẽ
làm thế nào để biết giờ giấc đây?
- Thủy
triều sẽ cho anh biết giờ, tùy theo lúc nó lên hay xuống.
Chúng
tôi hạ thủy chiếc thuyền. Nó chẳng phải như cái xuồng kia đâu: mạn thuyền nhô
cao lên trên mặt nước đến hơn bốn tấc trong khi chở cả ba chúng tôi lẫn toàn bộ
đồ lề và lương thực. Cột buồm được quấn trong mấy lá buồm và đặt nằm trong lòng
thuyền, vì đến khi xuất phát để ra biển mới dùng đến buồm. Chúng tôi lắp bánh
lái, tay lái đâu vào đấy, đặt thêm một cái đệm bằng dây leo để tôi ngồi lái
thuyền cho êm. Chúng tôi lại dùng mấy tấm chăn lót thành một chỗ nằm cho
Clousiot ở đáy thuyền (cậu ta không chịu thay băng). Clousiot nằm ngay dưới
chân tôi: cậu ta nằm giữa lòng thuyền, một bên là tôi, bên kia là cái thùng
đựng nước ngọt. Maturette cũng ngồi giữa lòng thuyền, nhưng ở phía trước. Tôi
lập tức có được một cảm giác an toàn mà tôi không hề thấy có khi ngồi lên cái
xuồng trước kia. Trời vẫn mưa. Tôi sẽ phải đi xuôi dòng ở khoảng giữa sông,
nhưng hơi chếch sang bên trái, phía bờ thuộc địa phận Hà Lan.
Jean
sang Peur nói:
- Lên
đường mạnh giỏi nhé! Thôi đi ngay đi cho sớm sủa.
- Chúc
các anh may mắn! - Toussaint nói đoạn đạp mạnh chiếc thuyền ra khỏi bờ.
- Cảm ơn
Toussaint, cảm ơn Jean, cảm ơn tất cả các bạn một ngàn lần.
Và chúng
tôi rời khỏi đảo rất nhanh dưới sức đẩy của dòng nước thủy triều xuống đã bắt
đầu từ cách đây hai tiếng rưỡi và bây giờ đang chảy băng băng như dòng thác.
Trời vẫn
mưa, nhìn ra phía trước cách mười thước đã không trông thấy gì rồi. Vì ở phía
xuôi có hai hòn đảo nhỏ nữa, cho nên Maturette cứ phải chồm người lên, mắt đăm
đăm nhìn trước mặt, để cho thuyền khỏi đâm vào những tảng đá ven bờ đảo. Đêm đã
xuống. Một cái cây đại thụ cùng trôi xuôi dòng với chúng tôi đã có lúc làm cho
chúng tôi phải lúng túng với những cành lá xum xuê của nó. May thay nó trôi
chậm hơn, cho nên chúng tôi cũng nhanh chóng gạt nó ra xa chiếc thuyền, và tiếp
tục lao tới với tốc độ ba mươi cây số một giờ là ít. Chúng tôi hút thuốc lá,
uống rượu rhum. Người trong làng hủi đã cho chúng tôi sáu chai đầy. Có điều lạ
là trong chúng tôi không có ai nhắc tới những vết loét khủng khiếp mà chúng tôi
đã nhìn thấy trên thân thể những người hủi. Câu chuyện chỉ xoay quanh một đề
tài duy nhất: lòng tốt của họ, sự hào phóng của họ, tính ngay thẳng của họ, và
cái hên của chúng tôi đã gặp được Le Breton Mặt nạ đưa chúng tôi đến Đảo Bồ
Câu.
Trời mưa
mỗi lúc một to, tôi ướt như chuột lột, nhưng mấy cái áo va-rơi len tốt đến nỗi
mặc dầu ướt sũng nó vẫn giữ được hơi ấm như thường. Chúng tôi không thấy lạnh.
Chỉ có bàn tay toi cầm lái bị nước mưa làm cho tê dại đi. Maturette nói:
- Bây
giờ chúng mình trôi phải đến bốn mươi cây số một giờ. Đã đi được bao nhiêu lâu
rồi nhỉ?
- Để yên
tớ nói cho mà nghe, - Clousiot nói. - Đợi tí nhé: ba tiếng mười lăm phút.
- Cậu
này điên! Cậu làm thế nào mà biết được?
- Từ khi
bắt đầu đi tớ đã đếm từng ba trăm giây một, cứ mỗi lần tớ lại cắt một miếng
các-tông. Tớ đã có được ba mươi chín miếng. Mỗi miếng là năm phút, vị chi là ba
giờ mười lăm phút. Nếu tớ không nhầm, chỉ mười lăm hay hai mươi phút nữa chúng
mình sẽ không đi xuôi nữa, mà sẽ trôi ngược về điểm xuất phát.
Tôi đẩy
tay lái sang phải để cho thuyền đi chéo góc vào bờ, phía Guyane thuộc Hà Lan.
Chưa vào đến bờ đã thấy dòng nước đứng lại, không chảy xuôi mà cũng chẳng chảy
ngược. Trời vẫn cứ mưa. Bây giờ chúng tôi không hút thuốc, không nói chuyện
nữa, chỉ bảo nhau thầm thì: "Cầm lấy chèo mà chèo vào đi". Tôi cũng
chèo, còn tay lái thì kẹp vào đùi cho bánh lái khỏi đảo. Thuyền từ từ ghé vào
dải bờ rậm rạp. Chúng tôi vít cành cho thuyền chui vào dưới một lùm cây, và nấp
vào đấy Xung quanh cây lá dày đặc, tối như bưng. Dòng sông phủ một lớp sương mù
xám xịt. Nếu không căn cứ vào nước thủy triều lên xuống thì không thể nào biết
được phía nào là biển, phía nào là nguồn sông.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 9: Giờ hoàng đạo
Thủy
triều lên sẽ kéo dài sáu giờ. Thêm một tiếng rưỡi đợi nước ròng nữa: như vậy
tôi có thể ngủ bảy tiếng đồng hồ, mặc dầu tôi đang ở vào một trạng thái phấn
khích dữ dội. Tôi phải ngủ bằng được, vì một khi đã ra khơi rồi, tôi còn ngủ
vào lúc nào được nữa? Tôi nằm xuống giữa cái thùng ton-nô và cái cột buồm,
Maturette căng một tấm chăn làm mái giữa cái thùng và tấm ván ngang, thế là tôi
đã được che mưa che gió tươm tất, tha hồ ngủ cho kỹ. Tuyệt nhiên không có gì
đến quấy rầy giấc ngủ say như chết của tôi, dù là một giấc chiêm bao, là mưa
gió hay là tư thế nằm không thoải mái. Tôi ngủ, ngủ mãi cho đến khi Maturette
đánh thức tôi dậy:
- Papi
ơi, hình như đến giờ rồi, hay gần gần như thế. Nước thủy triều bắt đầu xuống từ
lâu rồi.
Tôi thò
tay xuống nước thì thấy luồng nước chảy về phía mũi thuyền, tức về phía biển,
rất nhanh (chúng tôi cho thuyền quay mũi sẵn ra biển). Trời đã tạnh mưa. Một
vành trăng khuyết cho phép chúng tôi nhìn thấy khá rõ trước mặt chúng tôi hàng
trăm mét, dòng sông đang cuốn đi những đám cỏ, những thân cây, những khối gì
đen ngòm. Nơi chúng tôi buộc thuyền không có gió. Liệu ra giữa sông sẽ có
chăng? Gió có mạnh không? Chúng tôi từ dưới lùm cây rậm chui ra, thuyền vẫn
buộc vào một rễ cây bằng một cái nút thòng lọng. Tôi nhìn lên trời để xác định
đâu là bờ biển, đâu là nơi dòng sông kết thúc và cửa biển bắt đầu. Chúng tôi đã
xuống đến gần cửa biển hơn nhiều so với dự tính, và tôi có cảm giác chỉ độ
không đầy mười cây số nữa là ra đến biển.
Chúng
tôi uống mấy ngụm rượu rhum cho thật tỉnh người. Tôi trưng cầu ý kiến hai bạn:
ta dựng cột buồm ở đây chăng? Phải, chúng tôi cùng dựng nó lên: nó đứng rất
vừng trên cái ổ của nó ở đáy thuyền, và cái lỗ tròn trên tấm ván ngang khoét
vừa khuýp giữ nó rất chặt. Tôi kéo buồm lên nhưng không trương ra, cứ để nó
cuộn tròn xung quanh cột. Buồm chéo và buồm foc đã được sắp sẵn đâu vào đấy để
Maturette có thể lắp vào ngay khi nào tôi thấy cần. Để trương buồm ra, chỉ cần
buông sợi dây quấn nó xung quanh cột buồm. Chính tôi sẽ từ chỗ cầm lái mà làm
thao tác này. Maturette ngồi ở phía trước cầm chèo; tôi cũng cầm chèo ngồi ở
phía sau. Phải rứt ra khỏi bờ thật mạnh và thật nhanh, vì luồng nước cứ ép
chúng tôi vào đấy.
- Coi
chừng, chuẩn bị Lên đường, tùy ơn Chúa
- Tùy ơn
Chúa! - Clousiot nhắc lại.
- Xin
phó thác thân tôi vào tay Người, - Maturette nói.
Chúng
tôi giật mạnh con thuyền ra khỏi bờ.
Rất đều
tay, chúng tôi vục chèo xuống nước và kéo thật mạnh: thuyền tách ra một cách dễ
dàng. Mới ra cách bờ chưa được hai mươi thước mà đã đi được một trăm thước về
phía xuôi. Đột nhiên gió ập tới và đẩy chúng tôi ra giữa sông. Lắp buồm chéo và
foc, dây buộc cho chặt. Gió lùa vào hai cánh buồm, và chiếc thuyền chồm lên như
một con tuấn mã rồi lao tới, nhanh như mũi tên. Chắc chúng tôi lên đường muộn
so với giờ đã định, vì dòng sông đột nhiên sáng bừng lên như giữa ban ngày. Có
thể trông rõ bờ bên phải thuộc dịa phận của Pháp cách chúng tôi khoảng hai cây
số, và bên trái, cách một cây số, là bờ thuộc địa phận Hà Lan. Phía trước mặt
có thể trông rất rõ những đợt sóng biển bạc đầu, giống như một đàn cừu.
- Trời
đất ơi! Chúng mình nhầm giờ mất rồi, - Clousiot nói. - Liệu có kịp ra biển
không?
- Không
biết. - Tôi đáp xẵng. - Xem kìa: sóng biển cao quá, đỉnh sóng trắng quá! Không
khéo thủy triều bắt đầu lên rồi cũng nên.
- Không
thể được, tôi vẫn thấy các thứ đang trôi xuôi đấy Maturette nói:
- Chúng
mình không được rồi, chúng mình sẽ không tới kịp.
Tôi liền
gắt:
- Câm
mồm đi, ngồi cho sát chỗ dây buồm foc và buồm chéo. Cả cậu nữa Clousiot ạ. Cậu
im mồm đi cho tôi nhờ.
Đoàng -
ình... ! Đoàng - ình... ! Mấy phát súng các bin bắn về phía chúng tôi. Phát thứ
hai tôi định vị được rất rõ ràng. Hoàn toàn không phải bắn từ phía bọn cai
ngục, mà là từ phía Guyane thuộc Hà Lan. Tôi trương buồm lớn. Nó phồng lên mạnh
đến nỗi chỉ thiếu chút nữa nó giật cổ tay lôi tôi ra khỏi thuyền. Con thuyền
nghiêng hơn bốn mươi lăm độ. Tôi cố hứng gió đến mức tối đa: điều đó chẳng khó
gì, vì gió quá nhiều. Đoàng - ình, đoàng - ình, đoàng - ình, rồi không nghe
thấy gì nữa. Gió đưa chúng tôi về phía bờ Pháp nhiều hơn, và chắc hẳn vì thế mà
tiếng súng trường ngừng bặt. Thuyền chúng tôi lao đi với một tốc độ khủng khiếp
dưới một ngọn gió mãnh hệt tưởng có thể cuốn phăng mọi vật. Thuyền lao nhanh
đến nỗi tôi có cảm giác như bị ném về phía giữa cửa bể rồi chỉ vài phút nữa là
đâm vào bờ Pháp. Có thể trông thấy rất rõ mấy người chạy ra bờ sông.
Tôi từ
từ đảo buồm bằng cách kéo thật mạnh sợi lèo. Bây giờ buồm chính đã dòng thẳng
trước mặt tôi. Buồm foc tự nó đảo lại, cả lá buồm chéo cũng thế. Chiếc thuyền
xoay ba phần tư, tôi liền thả buồm ra và chúng tôi ra khỏi cửa biển với gió
thổi thẳng từ sau lưng. Uf! Xong rồi! Mười phút sau, đợt sóng biển đầu tiên tìm
cách chặn chúng tôi lại, chúng tôi cưỡi lên trên ngọn nó một cách dễ dàng, và
tiếng suýt-suýt của con thuyền khi còn lướt trên sông nhường chỗ cho tiếng
tắc-i-tắc i-tắc của sóng biển vỗ vào ức thuyền. Sóng rất cao, thế mà chúng tôi
vượt qua một cách dễ dàng chẳng khác gì một cậu bé nhảy cừu. Tắc-i-tắc, chiếc
thuyền leo lên một ngọn sóng rồi lại trượt xuống mà không hề rung hay lắc. Chỉ
có tiếng "tắc" của vỏ thuyền đập xuống mặt nước khi từ một ngọn sóng
cao trượt xuống.
- Urra!
Urra! Ra được rồi! Ra được rồi! - Clousiot gào cật lực.
Và để
thêm hào quang cho trận thắng này của chí kiên quyết của chúng tôi trước những
sức mạnh của thiên nhiên, Chúa lòng lành đã gửi cho chúng tôi một cảnh mặt trời
mọc sáng chói.
Các đợt
sóng biển cứ tiếp nối nhau theo một nhịp điệu đồng đều. Chúng tôi càng tiến ra
biển cả thì sóng càng bớt cao. Nước biển còn gợn bùn trông rất bẩn. Trước mặt
chúng tôi, về phía bắc, màu nước trông như đen: lát nữa nó sẽ là màu xanh biếc.
Tôi không cần nhìn địa bàn: cứ để mặt trời đúng bên vai phải, tôi lao thẳng
phía trước, gió đầy buồm nhưng thuyền không nghiêng nhiều như ban nãy vì tôi
buông một phần dây buồm chính, nó chỉ phồng một nửa mà không bị căng. Cuộc
phiêu lưu lớn của chúng tôi bắt đầu. Clousiot nhổm dậy. Anh muốn chồm cả người
lên, ngẩng đầu lên để nhìn cho rõ. Maturette liền đến đỡ anh ngồi dậy quay mặt
về phía tôi, lưng dựa vào cái thùng ton-nộ Anh vấn cho tôi một điếu thuốc lá,
châm lên rồi chuyền cho tôi. Cả ba chúng tôi cùng hút thuốc.
- Đưa
chai rhum đây, ta uống một chầu mừng chuyến vượt cửa biển, - Clousiot nói.
Maturette
rót rõ đầy ba cái ca sắt: thế là chúng tôi chạm cốc. Maturette ngồi sát cạnh
tôi bên tay trái. Chúng tôi nhìn nhau. Gương mặt hai bạn tôi sáng ngời hạnh
phúc. Chắc hẳn gương mặt tôi cũng vậy. Clousiot nói:
- Thưa
thuyền trưởng, xin ngài cho biết chúng ta đang đi đâu?
- Đi
Columbia, nếu Thượng đế vui lòng.
- Thượng
đế vui lòng quá đi chứ! - Clousiot nói.
Mặt trời
lên rất nhanh, chẳng mấy chốc chúng tôi đã khô ráo. Mấy chiếc áo sơ mi của bệnh
viện được cải biến thành khăn choàng "burnous" kiểu A-rập. Chốc chốc
chúng tôi lại thấp nước đội lên đầu cho mát để khỏi bị say nắng. Biển cả một
màu xanh ngọc bích, sóng cao ba mét nhưng rất dài cho nên thuyền đi rất thoải
mái. Gió vẫn mạnh, nên khoảng cách giữa chúng tôi và bờ biển tăng lên rất
nhanh. Chốc chốc tôi lại ngoái nhìn dải bờ đang mờ dần ở chân trời. Càng cách
xa, cái khối màu lá cây ấy càng phô rõ những đường nét thêu thùa bí ẩn của nó
ra. Tôi đang mải nhìn về phía sau thì một đợt sóng đánh ngang sườn nhắc cho tôi
nhớ đến trách nhiệm của mình đối với tính mạng của các bạn và của bản thân.
- Em đi
thổi cơm đây, - Maturette nói.
- Để tớ
cầm cái lò cho, - Clousiot nói, - còn cậu cầm cái nồi.
Cái can
xăng được chèn rất kỹ ở tít mũi thuyền, nơi tuyệt đối cấm hút thuốc. Cơm chín
tới thơm phức. Chúng tôi ăn cơm nóng trộn với hai hộp cá xác đin. Sau đó là một
chầu cà-phê ngon tuyệt. "Một chầu rượu rhum nhé?" Tôi từ chối, vì
trời nóng quá. Vả lại tôi chẳng phải là tay bợm rượu. Cứ chốc chốc Clousiot lại
quấn thuốc lá rồi châm lên cho tôi. Bữa cơm đầu tiên trên thuyền đã diễn ra một
cách êm đẹp. Cứ vị trí của mặt trời thì lúc bấy giờ là mười giờ sáng. Chúng tôi
mới ra khơi được có năm tiếng đồng hồ, nhưng có thể cảm thấy biển dưới đáy thuyền
rất sâu.
Sóng đã
bớt cao, thuyền cắt sóng mà không thành tiếng vỗ. Một ngày tuyệt đẹp. Tôi nhận
thấy rằng ban ngày chẳng mấy khi cần đến la bàn. Thỉnh thoảng tôi mới phải so
vị trí mặt trời với kim chỉ nam và cứ theo đấy mà định hướng, dễ lắm. ánh nắng
phản chiếu trên mặt biển làm cho tôi mỏi mắt. Tôi thấy tiếc là đã không nghĩ
đến việc kiếm một cặp kính râm. Bỗng dưng, Clousiot nói với tôi:
- Tôi
gặp được anh ở bệnh viện thật may cho tôi quá!
- Đâu
phải chỉ có anh là may? Anh đến cũng là rất may cho tôi. - Tôi nghĩ đến Dega,
đến Fernandez... Giá họ đồng ý, có phải bây giờ đã cùng ở đây cả rồi không
- Chưa
chắc, - Clousiot nói. Anh sẽ gặp những chuyện rắc rối vì khó lòng có thể thu
xếp sao cho thằng A-rập vào phòng đúng lúc thuận tiện cho anh.
- Đúng,
Maturette đã giúp ích cho chúng ta rất nhiều, và tôi đang mừng cho mình là đã
đưa cậu ấy đi, vì cậu ấy rất tận tâm, can đảm và tháo vát.
- Cám ơn
anh, - Maturette nói, - và cám ơn cả hai anh đã không khinh em còn ít tuổi
và... ẻo lả thế này, mà vẫn tin tưởng vào em. Em sẽ cố sao cho xứng đáng với
lòng tin của hai anh.
Rồi tôi
nói: "Cả Francois Sierra nữa, giá có cả anh ta cùng di thì hay biết mấy!
Cả Galgani nữa... "
- Cứ như
sự tình đã diễn ra thì không thể được, anh Papi ạ. Ví thử Jésus là người đứng
đắn, kiếm được cho ta một chiếc thuyền tốt, ta có thể đợi hai anh ấy ở chỗ nấp
còn hắn, tức Jésus ấy, có thể giúp cho họ trốn và đưa họ đến đây với tạ Vả
chăng, họ đều biết rõ anh và hiểu rằng sở dĩ anh không cho tìm họ chẳng qua là
vì không thể làm như thế được mà thôi: à Maturette, nhân thể cũng hỏi cậu luôn,
đầu đuôi ra sao mà cậu lại được xếp vào phòng dành cho loại phạm nhân nguy hiểm
trong bệnh viện?
- Dạo ấy
em không biết là em bị cấm cố. Em đi khám vì em thấy đau họng, và cũng để kiếm
cớ đi đâu cho đỡ buồn. Thế rồi ông bác sĩ, khi nhìn thấy em, liền nói:
"Xem phiếu của cậu tôi thấy là cậu bị cấm cố ở quần đảo. Vì tội gì thế
"- "Thưa bác sĩ tôi không biết ạ.Bị cấm cố là thế nào ạ?" -
"Thôi được rồi. Chẳng là thế nào cả. Vào bệnh viện đi". Thế là em
được nhập viện, có vậy thôi.
- Ông ta
muốn gia ân cho cậu đấy, - Clousiot nói. Ai mà biết được vì nguyên do gì ông ta
làm như thế, cái ông Toubib*(*cách gọi thân mật dùng cho thầy thuốc). Chắc bây
giờ ông ta đang tự nhủ: "Cái cậu có bộ mặt như thằng bé giúp lễ trong nhà
thờ ấy kể ra cũng không đến nỗi tồi: nó dám vượt ngục kia mà?".
Chúng
tôi nói chuyện tầm phào một lúc. Tôi nói biết đâu ta sẽ gặp Julot, "con
người cầm búa" ấy. Chắc bây giờ anh ta đi xa lắm rồi, trừ phi anh ta vẫn
ẩn náu trong rừng". Clousiot nói: "Tôi ấy mà, lúc ra đi tôi có để lại
một mảnh giấy dưới cái gối ấy, đề là: "Đã ra đi không để địa chỉ
lại". Cả bọn cười phá lên. Chúng tôi dong thuyền trong năm ngày không có
chuyện gì xảy ra.
Ban
ngày, mặt trời, trong cuộc hành trình từ ĐSng tây của nó, được tôi dùng làm địa
bàn. Ban đêm thì tôi xem địa bàn để chỉnh hướng. Sáng ngày thứ sáu, một vầng
thái dương rạng rỡ đón chào chúng tôi, biển lặng hẳn đi, mấy đàn cá chuồn bay
vọt lên cách chúng tôi không xạ Tôi mệt nhừ cả người ra. Đêm qua, để tôi khỏi ngủ
quên, Maturette chốc chốc lại lấy khăn lông thấm nước biển lau lên mặt tôi, ấy
thế mà tôi vẫn ngủ như thường. Lúc bấy giờ Clousiot dúi điếu thuốc lá đang cháy
vào người tôi. Sáng nay, thấy biển lặng gió, tôi quyết định ngủ. Chúng tôi hạ
buồm lớn và buồm foc xuống, chỉ để lại cái buồm chéo, thế là tôi lăn ra lòng
thuyền ngủ như chết. Lá buồm lớn đã được căng ra trên đầu tôi để che nắng cho
tôi. Không rõ tôi đã ngủ được bao lâu thì Maturette lay tôi dậy nói: "Bây
giờ chỉ độ mười hai giờ hay một giờ trưa, nhưng em đánh thức anh dậy vì có cơn
gió lạnh bắt đầu nổi lên, và ở chân trời, từ phía gió thổi tới, thấy đen kịt
lại".
Tôi
choàng dậy và ra ngồi bên tay lái. Cánh buồm foc lúc bấy giờ được căng một
mình, kéo chúng tôi đi trên mặt biển phẳng như gương. Sau lưng tôi, về hướng
đông, trời đen kịt lại, và gió thổi mỗi lúc một lạnh hơn. Buồm chéo và buồm foc
cũng đủ kéo thuyền lướt đi rất nhanh. Tôi cho cuốn lá buồm chính xung quanh cột
buồm và buộc lại thật chặt. - Hai cậu giữ cho vững nhé, vì đây là một trận bão.
Những giọt mưa nặng trịch bắt đầu rơi lộp bộp trên lưng chúng tôi. Cái đám đen
ngòm trên vòm trời phía đông tiến về phía chúng tôi với một tốc độ thần kỳ,
nhìn mà chóng cả mặt: chỉ trong mười lăm phút mà từ chỗ mãi tít ở chân trời nó
đã đến ngay sát chúng tôi. Thôi xong, nó đến rồi. Một luồng gió hung hãn vô
cùng xô vào chúng tôi. Những đợt sóng bỗng dưng nổi lên một cách bất ngờ như do
một phép thần thông, đợt nào cũng sủi bọt trắng xóa. Mặt trời mất đi đàng nào
không còm tăm tích, mưa đổ xuống xối xả, xung quanh tối mịt không còn trông
thấy gì, và sóng đánh vào thuyền tung tóe quất mạnh vào mặt tôi rát buốt như
những nhát roi dạ Bão biển. Đây là trận bão đầu tiên của tôi, với toàn bộ giàn
nhạc binh khủng khiếp của những sức mạnh thiên nhiên được tháo củi sổ lồng, với
đủ lệ bộ sấm, sét, mưa, sóng gào, gió hú, từ khắp bốn phương đổ với vây chặt
lấy chúng tôi, đâm bổ vào chúng tôi.
Chiếc
thuyền của chúng tôi bị tung lên như một mảnh rơm rác, khi thì nhấc bổng lên
đến những chiều cao khó lòng tưởng tượng nổi, khi thì ném xuống những vực sâu
thăm thẳm, sâu đến nỗi khó có thể hình dung rằng nó có thể ngoi lên được. ấy
thế nhưng, sau những cuộc đâm đầu xuống vực quái đản như thế, nó vẫn bay vút
lên, vượt qua một ngọn sóng bạc đầu nữa, rồi cứ thế mà lao tới. Hai tay tôi nắm
chặt lấy tay lái, sẵn sàng chỉnh hướng cho con thuyền để đón những đợt sóng cả
hiểm nghèo. Có một lần, nghĩ rằng nên cưỡng lại một phần nào đợt sóng cả cao
ngất đang tiến tới, tôi hướng mũi thuyền vào nó. Có lẽ tôi quay thuyền quá
nhanh, cho nên kết quá là nước tràn vào rất nhiều, ngập hết cả lòng thuyền,
phải đến bảy mươi lăm phân nước là ít. Tôi cuống quít quay trở thế nào không
biết mà rốt cuộc đã để cho một đợt sóng đánh thẳng vào bên sườn chiếc thuyền -
một điều cực kỳ nguy hiểm làm cho nó nghiêng hẳn về một bên, suýt lật úp xuống,
đến nỗi bao nhiêu nước trong lòng thuyền đều bị dốc ra ngoài gần hết.
- Cừ
quá! - Clousiot reo lên. - Cậu quả là tay sói biển điêu luyện, Bươm bướm ạ!
Nhoáng một cái đã hắt hết nước ra rồi!
Tôi nói:
"Đấy, đã thấy chưa?" Cậu ta có biết đâu là do tôi thiếu kinh nghiệm
mà cả lũ suýt toi mạng vì để thuyền lật sấp giữa biển khơi. Tôi quyết định thôi
không vật lộn với các đợt sóng nữa, chỉ lo tới hướng đi, cố gắng giữ sao cho
thuyền được thăng bằng đến mức tối đạ Tôi đón sóng chênh chếch ba phần tư, tôi
để cho thuyền hạ xuống theo đà sóng, và cùng lên một cách thụ động với mặt
biển. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng đó là một phát kiến quan trọng: làm như thế,
tôi đã thủ tiêu được chín mươi phần trăm nguy hiểm.
Mưa đã
tạnh. Gió vẫn thổi như điên như dại, nhưng bây giờ điều đó cho phép tôi nhìn
thấy rõ phía trước và phía sau tôi. Phía sau thì sáng, phía trước thì tối đen,
chúng tôi đang ở giữa hai cái thái cực ấy. Đến khoảng năm giờ, mọi sự đều đã
quạ Mặt trời lại chói sáng trên nền trời, gió đã trở lại bình thường, sóng
không còn cao lắm nữa. Tôi giương buồm lớn lên, và chúng tôi lại lên đường, vui
khấp khởi vì hài lòng với bản thân. Hai bạn tôi dùng cà-mèn tát nốt chỗ nước
còn đọng lại ở đáy thuyền. Họ lấy mấy tấm chăn ra phơi: buộc lên cột buồm, cứ
gió thế này chẳng mấy chốc mà khô. Chúng tôi nấu cơm, chiên bột với dầu, ăn
xong lại uống cà-phê hai suất, rồi làm một chầu rượu rhum ra trò.
Mặt trời
sắp lặn, bao nhiêu lửa tàn ném hết ra soi lên mặt biển xanh biếc, vẽ thành một
bức tranh không sao quên được: nền trời một màu huyết dụ, vầng thái dương đã
chìm một nửa xuống biển chiếu lên trời với mấy làn mây trắng và dọi lên mặt
biển những chùm tia sáng vàng. Nhưng đợt sóng khi dâng lên thì xanh biếc ở phần
gốc, xanh lục ở phần giữa, còn phần ngọn thì đỏ, hồng hay vàng tùy theo màu của
tia sáng dọi vào. Một cảm giác thanh thản và êm dịu lạ lùng tràn vào hồn tôi.
Và cùng với trạng thái thanh thản ấy là một niềm tin vừng chãi ở bản thân. Tôi
đã qua cuộc thử thách một cách trót lọt, và trận bão ngắn vừa qua đã rất bổ ích
cho tôi. Tôi đã tự mình học được cách điều khiển con thuyền trong những trường
hợp như thế. Tôi sẽ bước vào đêm nay một cách hoàn toàn thanh thản.
- Thế
nào, Clousiot, cậu đã thấy rõ cái thao tác dốc nước ra khỏi thuyền chưa?
- Bạn
ơi, giả sử cậu không làm như vậy và để cho một đợt sóng thứ hai xô vào sườn,
thì thuyền đã đắm mẹ nó rồi. Cậu quả là một quán quân.
- Anh
học qua các thứ đó trong hải quân đấy à? - Maturette nói:
- Đúng,
cậu thấy đấy, kể ra được huấn luyện trong hải quân cũng có ích ít nhiều đấy
chứ, nhỉ.
Chắc
chúng tôi đã đi chệch hướng khá nhiều. Nhưng với những cơn sóng gió như vừa
qua, ai mà biết được trong bốn tiếng đồng hồ chúng tôi đã chệch hướng mất bao
nhiêu? Tôi sẽ theo hướng tây bắc để chỉnh lại. Đúng đấy. Đêm đổ sập xuống ngay
sau khi mặt trời lặn hết xuống biển, ném lên chân trời những tia cuối cùng của
trận pháo hoa, lần này màu tím. Chúng tôi lại dong buồn đi thêm sáu ngày nữa mà
không có chuyện gì xảy ra trừ vài ba cơn mưa bão không lần nào kéo dài quá ba
tiếng đồng hồ, và cũng không thể nào sánh kịp trận bão đầu tiên mà chúng tôi có
cảm giác như đã kéo dài vô tận.
Sáng hôm
ấy đến mười giờ gió đứng hẳn, mặt biển không một gợn sóng. Tôi ngủ được một
giấc gần bốn tiếng. Khi thức dậy tôi thấy rát môi quá: nó tróc hết cả da rồi,
mũi tôi cũng vậy, bàn tay phải của tôi cũng không còn da, thịt cứ phô trần ra
đỏ hỏn. Maturette và Clousiot cũng chẳng khá hơn. Chúng tôi phải bôi dầu lên
mặt và lên hai bàn tay mỗi ngày hai lần, nhưng như thế vẫn chưa đủ: chỉ mấy
tiếng là nắng nhiệt đới đã làm cho lớp dầu khô rang. Lúc bấy giờ chắc vào
khoảng hai giờ trưa theo bóng nắng. Tôi ăn trưa, rồi chúng tôi thu xếp căng lá
buồm lên làm mái để tránh nắng, vì trên biển không có lấy một hơi gió thoảng.
Có một
đàn cá xúm lại quanh thuyền, nơi Maturette vừa rửa chén dĩa. Tôi cầm lấy con
dao phát rừng và bảo Maturette ném mấy nắm gạo xuống nước (chỗ gạo của chúng
tôi từ khi bị ướt đã bắt đầu lên men). Đàn cá ngoi lên sát mặt nước đớp gạo.
Một con gần như nhô hẳn đầu lên trên mặt nước, tôi liền chém cho một nhát, thế
là nó quay đơ ra, ngửa bụng lên. Con cá nặng đến bốn ki-lô. Chúng tôi đánh sạch
vảy rồi đem luộc lên. Tối hôm ấy chúng tôi ăn cá luộc với bột sắn. Chúng tôi ra
khơi đã được mười một ngày. Trong suốt thời gian ấy chỉ có một lần chúng tôi
nhìn thấy một chiếc tàu rất xa ở tận chân trời. Tôi bắt đầu băn khoăn tự hỏi
không biết chúng tôi đang ở đâu thế này. Dĩ nhiên là ở ngoài khơi, rất xa mọi
vùng đất liền; điều đó thì hoàn toàn chắc chắn rồi. Nhưng ở vị trí nào so với Trinidad
hay bất cứ một hòn đảo nào thuộc Anh? Cái này thì chịu.
Nhưng
vừa nghĩ tới đã có câu trả lời ngay... Quả nhiên, ngay trước mặt chúng tôi, có
một cái chấm đang từ từ to dần lên. Tàu viễn dương hay sà-lúp đi biển? Thôi
nhầm rồi, nó không đi về phía chúng tôi Bây giờ đã trông thấy rõ đó là một
chiếc tàu lớn, đang đi về phía bên hông chúng tôi. Nó đang đi lại gần thật,
nhưng đi chênh chếch, và chúng tôi không nằm trên đường đi của nó. Vì lúc ấy
không có gió cho nên mấy lá buồm của chúng tôi buông thõng xuống một cách thảm
hại, chiếc tàu chắc chúng trông thấy chúng tôi. Nhưng bỗng có tiếng còi tàu hú
lên, sau đó là ba tiếng "tu tu tu, ngắn, rồi chiếc tàu đổi hướng và đi
thẳng về phía chúng tôi.
- Miễn
sao nó đừng đến gần quá - Clousiot nói.
- Không
có gì nguy hiểm dâu, biển lặng như dầu thế này...
Đó là
một chiếc tàu chở dầu hỏa. Nó càng đến gần chúng tôi càng trông rõ có người
đứng trên boong. Có thể đoán chắc họ đang băn khoăn tự hỏi không biết mấy con
người kia đang làm gì trên cái vỏ đậu phụng ở giữa biển khơi thế này. Tàu từ từ
tiến về phía chúng tôi bây giờ đã trông thấy rõ mấy viên sĩ quan và đám thủy
thủ, có cả người đầu bếp, rồi lại thấy mấy người đàn bà mặc áo dài hoa và mấy
người đàn ông mặc sơ-mi màu. Chúng tôi hiểu đó là những hành khách trên tàu.
Nhưng tàu chở dầu mà lại có cả hành khách chúng tôi thấy cũng hơi lạ. Chiếc tàu
tiến tới rất chậm, và viên thuyền trưởng nói với chúng tôi bằng tiếng Anh.
- Where
are you coming from? (Các ông từ đâu đến?). - French Guyanẹ (Guyan thuộc Pháp).
- Vous
parlez francais? (Các ông nói được tiếng Pháp chứ?) - một bà nói.
Tôi liền
trả lời bằng tiếng Pháp:
- Thưa
bà vâng,
- Các
ông làm gì giữa biển khơi thế này?
- Chúng
tôi đi theo đường Trời định.
Người
đàn bà quay sang nói chuyện với viên thuyền trưởng một lát rồi lại nói với
chúng tôi:
- Ông
thuyền trưởng mời các ông lên tàu, ông ấy sẽ cho trục thuyền của các ông lên
luôn.
- Bà nói
giúp là chúng tôi cảm ơn ông thuyền trưởng, nhưng chúng tôi xin đi thuyền này
thôi.
- Tại
sao các ông không để cho chúng tôi giúp đỡ?
- Vì
chúng tôi là những tù nhân vượt ngục, và vì chúng tôi không đi cùng hướng với
tàu của các vị.
- Các
ông định đi đâu?
- Đi
Martinique, có lẽ còn xa hơn nữa. Chỗ này là chỗ nào?
- Giữa
biển khơi.
- Muốn
đến quần đảo Antilles phải đi như thế nào?
- Các
ông có biết đọc bản đồ hàng hải của Anh không?
- Có.
Một lát
sau họ giòng dây xuống biếu chúng tôi một tấm bản đồ hàng hải, mấy tút thuốc
lá, súc bánh mì, một cái đùi cừu rô ti.
- Ông
xem bản đồ đi?
Tôi xem
bản đồ rồi nói:
- Tôi
phải đi hướng tây 1/4 nam mới có thể vào quần đảo Antilles thuộc Anh, có phải
thế không?
- Đúng.
- Chừng
bao nhiêu hải lý?
- Đi hai
ngày thì đến, - viên thuyền trưởng nói.
- Tạm
biệt, cảm ơn tất cả các vị!
- Thuyền
trưởng có lời khen ngợi lòng cam đảm hải hồ của các ông!
- Cám
ơn, vĩnh biệt!
Chiếc
tàu chở dầu từ từ ra đi. Nó rà sát cạnh chúng tôi, tôi phải cho thuyền tránh
ra, sợ luồng nước xoáy sau chân vịt. Vừa lúc ấy một thủ thủ ném cho tôi một cái
mũ lưỡi trai của sĩ quan hàng hải. Nó rơi đúng vào giữa thuyền. Tôi đã đội
chiếc mũ lưỡi trai có gắn chiếc mỏ neo và thêu một lon vàng kim tuyến này khi
chúng tôi đến Trinidad sau hai ngày dong buồm bình an vô sư.
PAPILLON - NGƯỜI TÙ KHỔ SAI
Chương 10: Trinidad
Chim
trời đã báo cho chúng tôi biết đã sắp tới đất liền trước khi chúng tôi trông
thấy đất liền rất lâu. Vào khoảng bảy giờ rưỡi sáng, một đàn chim đã bay đến
lượn vòng xung quanh thuyền chúng tôi. "Đến rồi, các bạn ơi, đến rồi?
Chúng mình đã hoàn thành được phần đầu của cuộc vượt ngục, phần khó nhất. Tự do
vạn tuế!" Cả ba đứa chúng tôi đều bộc lộ nỗi vui mừng của mình bằng những
tiếng reo hò, những lời cảm thán trẻ thơ. Mặt chúng tôi đều trát đầy mỡ ca-cao
(chiếc tàu vừa gặp có cho chúng tôi một ít để bôi những chỗ bị bỏng nắng cho đỡ
rát).
Đến
khoảng chín giờ thì trông thấy đất liền. Một ngọn gió mát rượi nhưng không mạnh
lắm nhanh chóng đưa chúng tôi vào bờ trên một mặt biển khá phẳng lặng. Mãi đến
khoảng bốn giờ chiều chúng tôi mới nhìn thấy những chi tiết của một hòn đảo dài
viền những ngôi nhà trắng chụm lại thành từng khóm nhỏ, trên chóp đảo mọc đầy
những rặng dừa. Chưa trông rõ đây là một hòn đảo hay là một bán đảo, mà cũng
chưa rõ mấy khóm nhà kia có người ở hay không. Phải đến hơn một tiếng đồng hồ
nữa mới nhìn thấy những bóng người đang chạy ra cái bãi cát mà thuyền chúng tôi
đang tiến vào.
Không
đầy hai mươi phút sau, một đám đông hỗn tạp đủ màu sắc đã tụ tập lại Cả cái
làng nhỏ bé này đã ra bãi biển hết, không còn sót một ai, để tiếp đón chúng
tôi. Về sau chúng tôi được biết rằng đây là làng San Fernando. Cách bờ ba trăm
thước tôi bỏ neo. Neo ăn ngay lập tức. Tôi làm như vậy một phần là đẻ xem thử
phản ứng của dân làng ra sao, và cũng để thuyền khỏi bị thủng khi chạm đáy, nếu
đáy biển ở đây bằng san hô. Chúng tôi hạ buồm và chờ đợi. Một chiếc xuồng nhỏ
bơi ra phía chúng tôi. Trên xuồng có hai người da đen ngồi chèo và một người da
trắng đội mũ cối kiểu thuộc địa.
- Xin
hoan nghênh các vị khách mới đến Trinidad, - người da trắng nói bằng tiếng Pháp
rất sõi. Hai người da đen cười niềm nở, phô hết hai hàng răng trắng muốt.
- Xin
cám ơn ngài về những lời lẽ tốt đẹp của ngài. Đây bãi là san hô hay là cát ạ?
- Cát
đấy các ông có thể vào tận bờ mà không ngại gì cả.
Chúng
tôi kéo neo lên, và sóng biển từ từ đẩy chúng tôi vào bờ cát. Thuyền vừa chạm
đất thì có mười người lội xuống nước kéo thẳng một mạch chiếc thuyền lên bãi.
Họ ngắm nghía chúng tôi, giơ tay sờ chúng tôi một cách thân ái, mấy người đàn
bà da đen hay ấn độ gì đấy phác những cử chỉ mời mọc. Ai ai cũng muốn mời chúng
tôi về nhà: người da trắng biết nói tiếng Pháp giảng giải cho chúng tôi như
vậy. Maturette bốc một nắm cát và đưa lên môi hôn. Thế là cả đám người reo hò
nhảy nhót như điên như dại. Sau khi tôi nói rõ tình trạng của Clousiot cho
người da trắng biết, ông ta liền sai người khiêng cậu ấy về nhà ông ta, gần ngay
bãi biển. Ông ta nói rằng chúng tôi có thể để nguyên đồ đạc trên thuyền cho đến
mai, không có ai động đến đâu.
Mọi
người đều gọi tôi là "captain" ("thuyền trưởng"), tôi cười
lớn khi nghe mình được đề bạt như vậy. Ai cũng nói với tôi: "Good captain,
long ride on smal boat!" (Thuyền trưởng giỏi, chuyến đi thì xa mà thuyền
thì nhỏ thế!"). Đêm đã xuống. Sau khi yêu cầu họ đẩy thuyền lên cao hơn
chút nữa và buộc nó vào một chiếc thuyền to hơn nhiều đang nằm giữa bãi, chúng
tôi đi theo người da trắng (ông ta là người Anh) về nhà ông. Đó là một ngôi
bungalow thuộc loại thường thấy ở bất cứ vùng đất nào thuộc Anh; vài ba bậc
thềm bằng gỗ, một cái cửa ra vào có chăng lưới sắt.
Tôi vào
theo người Anh, Maturette đi sau lưng tôi. Bước vào nhà, tôi trông thấy
Clousiot ngồi trên một chiếc ghế bành, cái chân bị gãy kê trên một chiếc ghế,
đang ba hoa chích chòe với một thiếu phụ và một cô con gái.
- Đây là
vợ tôi và con gái tôi, - người Anh nói. Tôi còn một đứa con trai nữa đang đi
học ở Anh.
- Xin
các ông tự coi là thượng khách của nhà này, người thiếu phụ nói bằng tiếng
Pháp.
- Mời
các ông ngồi, - cô con gái vừa nói vừa đem lại cho chúng tôi chiếc ghế bành
bằng mây đan.
- Cám ơn
bà, cám ơn cô, xin các vị đừng tự làm phiền nhiều quá vì chúng tôi.
- Sao
lại thế ạ? Chúng tôi rất biết các ông từ đâu đến, xin các ông cứ yên tâm, và
tôi xin nhắc lại: các ông là thượng khách trong nhà này.
Chủ nhân
là một trạng sư, gọi là master Bowen, có văn phòng luật sư ở Port of Spain, thủ
đô của đảo Trinidad, cách đây bốn mươi cây số. Họ dọn ra cho chúng tôi một ấm
trà pha sữa, một đĩa bánh mì nướng phết đường, một đĩa bơ và một hũ mứt. Đây là
buổi tối đầu tiên chúng tôi được làm người tự do, tôi sẽ không bao giờ quên
buổi tối này. Không có một lời nào nhắc tới quá khứ của chúng tôi, không có lấy
một câu hỏi tò mò nào có thể làm cho chúng tôi ngượng ngập: họ chỉ hỏi xem
chúng tôi lênh đênh mất mấy ngày trên biển và chuyến đi có vất vả gì không,
Clousiot có đau lắm không, chúng tôi có muốn họ đi đăng ký với cảnh sát địa
phương ngay ngày mai hay để đến ngày kia, chúng tôi có còn ông cụ bà cụ không,
có vợ con gì không. Nếu chúng tôi muốn viết thư cho người thân, họ sẽ đi bỏ thư
cho... Còn biết nó với các bạn những gì nữa: đó là một cuộc đón tiếp hết sức
đặc biệt, của dân đảo ngoài bãi biển cũng như của cái gia đình đầy thiện ý chân
thành đối với ba người bôn tẩu.
Master
Bowen gọi điện thoại cho một ông bác sĩ để hỏi ý kiến ông ta về người bị
thương. Bác sĩ dặn là đến chiều mai phải đưa người ấy đến bệnh viện tư của ông
để soi X-quang xem cần phải làm gì. Master Bowen lại gọi điện đến Port of Spain
cho vị chỉ huy Đạo Quân Cứu thế (Salvation Army). Ông này hứa là sẽ chuẩn bị
cho chúng tôi một căn phòng trong khách sạn của Đạo, bao giờ thích đến thì đến,
và dặn chúng tôi giữ thuyền cho cẩn thận nếu nó còn tốt, vì chúng tôi sẽ cần
đến nó để ra đi. Ông ta hỏi xem chúng tôi là tù khổ sai hay là dân bị đày biệt
xứ. Chúng tôi trả lời là tù khổ sai. Điều đó hình như làm cho ông bác sĩ hài
lòng.
- Các
ông có muốn tắm táp, cạo mặt không? - cô con gái nói. - Nhất là các ông đừng từ
chối nhé, không có chút gì phiền hà cho chúng tôi đâu. Trong phòng tắm đã có
sẵn mấy bộ đồ để thaỵ Tôi hy vọng các ông sẽ mặc vừa.
Tôi vào
tắm, cạo râu, chải đầu cẩn thận rồi trở ra trong một bộ trang phục tươm tất:
quần xám, sơ-mi trắng, giầy tennics, bít tất trắng. Một người ấn Độ gõ cửa
ngoài. Anh ta cầm một cái gói lớn, đưa cho Maturette, nói rằng bác sĩ được biết
tôi vóc người xấp xỉ bằng bác sĩ cho nên dễ mượn áo quần, nhưng Maturette thì
vóc người bé nhỏ, mà trong nhà ông luật sư không có ái bé nhỏ như thế, cho nên
không thể mặc nhờ của ai được, ông ta phải gửi gói áo quần số nhỏ này tới. Nói
xong, người ấn Độ cúi mình chào chúng tôi theo tập quán của người theo đạo Hồi,
và lui ra. Đứng trước một lòng nhân hậu lớn lao như vậy, tôi biết nói sao để
các bạn hiểu được nỗi xúc động không sao tả nỗi đang tràn ngập lòng tôi lúc bấy
giờ? Clousiot được cho đi ngủ trước, còn năm người chúng tôi ngồi giờ lâu trao
đổi ý kiến về nhiều vấn đề khác nhau. Điều làm cho hai người phụ nữ quan tâm hơn
cả là chúng tôi định sẽ làm lại cuộc đời ra sao. Không ai đả động đến quá khứ,
chỉ toàn chuyện hiện tại và tương lai.
Master
Bowen lấy làm tiếc rằng Trinidad không chấp nhận cho những người vượt ngục định
cư trên đảo. Ông phân trần rằng ông đã có mấy lần xin nhà chức trách trên đảo
chấp nhận biện pháp này cho một vài người nhưng chưa bao giờ được chấp thuận.
Cô con gái nói tiếng Pháp y hệt người Pháp, không thua gì cha cô, không bao giờ
phát âm sai hay có giọng lơ lớ. Cô ta tóc vàng, mặt đầy tàn nhang, tuổi chừng
từ mười bảy đến hai mươi (tôi không dám hỏi xem cô bao nhiêu tuổi). Cô nói:
- Các
ông hãy còn trẻ lắm; cả một quãng đời dài đang đợi các ông. Tôi không biết các
ông đã làm gì nên tội mà bị xử như vậy, và không muốn biết. Nhưng đã có đủ can
đảm để lao ra biển trên một con thuyền nhỏ bé như vậy để đi một hành trình dài
và nguy hiểm như vậy, thì tất nhiên các ông sẵn sàng trả bất cứ giá nào để được
sống tự do và đó là một điều rất đáng phục.
Đêm hôm
ấy, chúng tôi đã ngủ đến tám giờ sáng mới dậy. Bàn ăn đã dọn sẵn. Hai người phụ
nữ nói với chúng tôi một cách rất tự nhiên rằng Master Bowen đã đi Prot of
Spain đến chiều mới về, có đem theo những tài liệu cần thiết để vận động cho
chúng tôi. Con người ấy đã đi khỏi nhà trong khi có ba tên tù khổ sau vượt ngục
đang ở đấy: đó là một bài học có một không hai đối với chúng tôi. Ông ta muốn
nói với chúng tôi: "Các ông là những con người bình thường, lành mạnh; các
ông có thể thấy tôi tin các ông như thế nào khi tôi mới tiếp xúc với các ông có
mười hai tiếng đồng hồ mà đã để cho các ông ở lại trong nhà một mình với vợ con
tôi. Sau khi đã nói chuyện với ba ông, tôi đã thấy rõ rằng ba ông là những con
người hoàn toàn đáng tin cậy, đến mức các ông không thể nào có một hành vi, một
cử chỉ hay một lời lẽ nào đáng trách ở nhà tôi, cho nên tôi đã để các ông ở
trong nhà tôi như những người bạn cũ."
Cách bày
tỏ lòng tin cậy này đã làm cho chúng tôi rất cảm động. Tôi không phải là một
người trí thức có thể miêu tả lại cho bạn đọc - nếu một ngày kia cuốn sách này
sẽ có người đọc - với sức truyền cảm cần thiết, với đầy đủ tính hùng biện, để
bạn đọc hiểu hết cái cảm giác tự trọng lớn lao... không phải: cái cảm giác
trong sáng và mãnh liệt của kẻ thấy mình được phục hồi, nếu không phải là được
bước vào một cuộc sống mới. Lễ rửa tội tưởng tượng ấy, cuộc tẩy rửa thanh cao
ấy, cuộc nâng cao con người tôi lên trên đống bùn nhơ mà tôi đã sa vào, cái
cách thức mà người ta đã dùng để chỉ qua một ngày đã trao cho tôi một trách
nhiệm thực sự ấy, vừa rồi đã làm cho tôi biến thành một con người khác một cách
giản dị đến nỗi cái mặc cảm của người tù khổ sai khiến cho người ta còn nghe
thấy tiếng xiềng xích ngay cả khi đã được trả tự do và luôn luôn có cảm giác
như có ai đang theo dõi mình, đến nỗi tất cả những gì tôi đã trông thấy, đã
trải qua và đã chịu đựng, tất cả những gì đã xô tôi đến chỗ trở thành một con
người tật nguyền, thối nát, luôn luôn nguy hiểm cho mọi người, bề ngoài thì
phục tùng một cách thụ động nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể biến thành một kẻ
nổi loạn hung hãn khủng khiếp, tất cả- những cái đó giờ đây bỗng biến mất như
do một phép thần thông.
Xin cám
ơn Luật sư Bowen, vị trạng sư của Hoàng gia, cám ơn ông đã làm cho tôi trở
thành một con người khác trong một thời gian ngắn ngủi như vậy! Người con gái
có mái tóc vàng óng, có đôi mắt xanh như biển khơi ở xung quanh, đang ngồi với
tôi dưới rặng dừa mọc quanh nhà cha cô. Những giàn hoa giấy đỏ, vàng và tím
nhạt đang nở rộ làm cho mảnh vườn có được cái thi vị cần thiết cho giờ phút
này.
- Ông
Henri ạ (cô gọi tôi là Monsieur. Đã bao nhiêu lâu rồi không ai còn gọi tôi là
Monsieur nữa!), như ba tôi đã nói với ông hôm qua, một sự thiếu thông cảm đầy
bất công của nhà cầm quyền Anh không cho phép các ông ở lại đây: thật đáng
tiếc. Họ chỉ cho các ông mười lăm ngày để nghỉ ngơi rồi lại ra đi. Sáng sớm hôm
nay tôi vừa ra xem chiếc thuyền của các ông, nó quá nhỏ bé và mong manh đối với
cuộc viễn hành đang chờ đợi các ông. Ta hãy hy vọng rằng các ông sẽ đến được
một đất nước có tinh thần mến khách hơn xứ sở chúng tôi và cũng hiểu biết người
hơn. Tất cả các đảo thuộc Anh đều hành động giống nhau trong những trường hợp
tương tự. Nếu trong chuyến đi sắp tới ông phải khổ sở nhiều, tôi xin ông đừng
oán giận những người dân ở trên các đảo đó; người dân không phải là người chịu
trách nhiệm về cách quan niệm này. Đây là những mệnh lệnh xuất phát từ nước
Anh, do những người không hiểu biết gì về các ông ban hành. Địa chỉ của ba tôi
là 101 Queen Street, Port of Spain, Trinidad. Tôi xin ông, nếu sau này Chúa
muốn rằng ông có điều kiện làm như vậy, tôi xin ông viết cho chúng tôi vài dòng
để chúng tôi được biết số phận của các ông.
Tôi cảm
động đến nỗi không còn biết trả lời ra sao nữa. Bà Bowen đến cạnh chúng tôi. Đó
là một người đàn bà đẹp trạc bốn mươi tuổi, tóc màu hạt dẻ vàng, mắt màu xanh
ngọc thạch. Bà mặc một chiếc áo dài trắng rất giản dị, thắt một cái giải trắng,
chân đi một đôi dép màu lá mạ.
- Thưa
ông, chồng tôi đến năm giờ mới về. Ông ấy đang vận động các ông có thể đi xe
của nhà chúng tôi lên thủ đô mà không có cảnh sát đi kèm. Nhà tôi cũng muốn làm
thế nào để các ông khỏi ngủ qua đêm đầu tiên ở Sở Cảnh sát Port of Spain. Người
bạn bị thương của ông sẽ đến thẳng bệnh viện tư của một bác sĩ bạn nhà tôi, còn
ông và cậu em ít tuổi kia sẽ đến Khách sạn của Đạo quân Cứu thế.
Maturette
đi đâu về, ra vườn gặp chúng tôi, cậu ấy kể là vừa ra chỗ để thuyền: có một đám
người hiếu kỳ đang đứng quanh. Mọi vật trên thuyền đều y nguyên, không có ai
động đến. Trong khi xem xét chiếc thuyền, mấy người hiếu kỳ tìm thấy một viên
đạn giắt vào đít thuyền, ở phía dưới bánh lái. Một người trong bọn họp xin phép
Maturette giữ viên đạn làm kỷ niệm. Cậu ta trả lời: "captain,
captain". Người thổ dân hiểu rằng muốn thế phải xin ông thuyền trưởng, anh
ta nói: "Sao không thả mấy con rùa ra".
- Các
ông có rùa à? - Cô con gái hỏi. - Thế thì ra xem đi.
Chúng
tôi cùng ra chỗ để thuyền. Giữa đường, một cô bé thổ dân xinh đẹp cầm lấy tay
tôi một cách hết sức tự nhiên. "Good afternoon" - đám người nhiều màu
sắc ấy cùng nói một lượt.
Tôi bắt
hai con rùa ra rồi hỏi cô con gái chủ nhà: "Bây giờ thế nào nhỉ? Ném xuống
biển nhé? Hay là cô đem về để trong vườn ấy, cô có thích không?".
- Cái bể
ở cuối vườn đựng nước biển. Ta sẽ nuôi chúng nó trong cái bể ấy, như vậy tôi sẽ
có được chút kỷ niệm của các ông.
- Phải
đấy.
Tôi đem
tất cả những vật để trong thuyền ra phân phát cho những người dân đảo có mặt ở
đấy, trừ cái địa bàn, mớ thuốc lá, con dao, cái rựa, cây rìu, mấy tấm chăn và
khẩu súng lục mà tôi gói kín trong chăn: không ai trông thấy nó. Đến năm giờ
chiều Master Bowen về.
- Thưa
các ông, mọi việc đều đã dàn xếp xong xuôi. Chính tôi sẽ đưa các ông đến thủ
đô. Ta sẽ đưa ông bạn bị thương vào bệnh viện trước, rồi sau đó ta sẽ ra khách
sạn.
Chúng
tôi xếp cho Clousiot nằm ở ghế sau của chiếc xe. Tôi đang cảm ơn cô con gái thì
bà mẹ đến, tay xách một chiếc va-lị Bà nói:
- Xin
ông nhận cho mấy bộ quần áo của nhà tôi, chúng tôi xin biếu ông với tất cả tấm
lòng thành.
Tôi còn
biết nói gì trước một lòng nhân hậu đầy tình người như thế!
- Cảm ơn
ông bà, cảm ơn vô cùng.
Chúng
tôi lên xe ra đi. Đó là một chiếc xe hơi tay lái đặt bên phải. Đến sáu giờ kém
mười lăm chúng tôi đã đến bệnh viện. Nó được gọi là bệnh viện Saint- George.
Mấy người y tá đặt Clousiot lên cáng và đưa vào một gian phòng có một người thổ
dân đang ngồi trên giường. Bác sĩ đến. Ông bắt tay Bowen, rồi bắt tay chúng
tôi. Ông không nói được tiếng Pháp, nên nhờ ông luật sư nói lại với chúng tôi
rằng Clousiot sẽ được chăm sóc chu đáo, và chúng tôi có thể đến thăm anh bao
nhiêu cũng được.
Chúng
tôi lại lên xe ông Bowen đi qua thành phố. Chúng tôi đều trầm trồ trước quang
cảnh những dãy phố sáng trưng dưới ánh điện, xe hơi và xe đạp qua lại tấp nập.
Những người da trắng, da đen, da vàng, Ấn Độ, thổ dân, chen vai thích cảnh trên
các vỉa hè của cái thành phố Port of Spain xây dựng toàn bằng gỗ. Đến khách sạn
của Đạo quân Cứu thế, một tòa nhà chỉ có tầng dưới xây bằng đá còn các tầng
trên đều bằng gỗ, được đặt ở một vị trí khá đẹp trên một quảng đường sáng trưng
mà ở lối vào tôi có thể đọc thấy mấy chữ Fish Market (Chợ cá), ông thống lĩnh
Đạo quân Cứu thế tiếp chúng tôi cùng với toàn bộ Ban tham mưu của ông gồm có
những hội viên cả nam lẫn nữ.
Ông có
biết một ít tiếng Pháp, còn thì mọi người đều nói với chúng tôi bằng tiếng Anh.
Chúng tôi không hiểu được bao nhiêu, nhưng gương mặt họ tươi cười ánh mắt họ
niềm nở đến nỗi chúng tôi đều biết chắc đó là những lời lẽ đầy tình thân ái.
Người ta đưa chúng tôi lên một căn phòng ở tầng thứ ba, có ba cái giường - cái
thứ ba dành sẵn cho Clousiot - ăn thông với một căn buồng tắm có để sẵn xà
phòng và khăn mặt cho chúng tôi dùng. Sau khi đưa chúng tôi về phòng, ông thống
lĩnh nói:
- Nếu
các ông muốn dùng bữa, đến bảy giờ, tức nửa tiếng nữa, các ông có thể dự bữa ăn
tối chung của khách sạn.
- Thôi
ạ, chúng tôi không đói.
- Nếu
các ông muốn đi dạo phố, xin các ông cầm lấy hai đồng dollars tiền Antilles này
để uống chén cà phê hay ly trà. Nhất là xin các ông đừng đi lạc. Khi nào muốn
về khách sạn, xin các ông hỏi đường bằng mấy chữ đơn giản: "Salvation
Army, please!".
Mười
phút sau chúng tôi đã ra phố. Chúng tôi đi trên vỉa hè, chen vai thích cánh với
khách qua đường. Chẳng ai nhìn ngó chúng tôi, chẳng ai để ý đến chúng tôi.
Chúng tôi thở thật sâu, bồi hồi thưởng thức những bước đi tự do đầu tiên trong
một thành phố. Sự tin cậy thường xuyên đã khiến người ta để cho chúng tôi đi tự
do trong một thành phố khá lớn như thế này làm cho chúng tôi hởi lòng, và không
những đem lại cho chúng tôi lòng tự tin, mà còn soi sáng thêm cho chúng tôi
hoàn toàn ý thức được rằng không đời nào mình lại có thể phụ lòng tin ấy.
Maturette
và tôi đi chầm chậm giữa đám đông. Chúng tôi thấy cần chen vai thích cánh với
họ, được họ chen lấn xô đẩy, được họ đồng hóa thành một bộ phận của họ. Chúng
tôi vào một quán bao gọi hai cốc bia. "Two beers, please" - mấy tiếng
đó có gì lạ đâu? Phải, nó nghe tự nhiên hoàn toàn. ấy thế mà chúng tôi vẫn thấy
có cái gì hoang đường, huyễn hoặc khi một người con gái Anh điêng đeo cái vỏ ốc
vàng trong mũi nói với chúng tôi sau khi dọn bia ra: "Half a dollar,
sir". Nụ cười của cô gái với hàm răng như chuỗi ngọc trai, đôi mắt to màu
đen tím hơi xếch ở bên khóe, mái tóc huyền xõa ngang vai, chiếc yếm hơi hở ở
chỗ đôi vú bắt đầu, đủ cho người ta đoán được vẻ đẹp tuyệt vời của đôi vú ấy,
những thứ vặt vãnh và toàn hoàn tự nhiên đối với mọi người ấy đối với chúng tôi
lại là những chuyện thần tiên huyền ảo. Ơ kìa, Papi, không phải đâu, không thể
như thế được, chẳng lẽ đang là một xác chết còn sống, mà một tên tù khổ sai
chung thân, mà bỗng dưng đùng một cái đã hóa thành một người tự do sao?
Vừa rồi
là Maturette trả tiền bia, cậu ta chỉ còn nửa dollar. Bia mát rượi uống đã lắm.
Maturette bàn: "Uống thêm cốc nữa nhé?" Cái việc uống liền một lúc
hai chầu bia tôi thấy là không nên:
- Kìa,
Maturette, cậu mới được thực sự tự do có chưa đầy một tiếng đồng hồ mà đã muốn
say sưa be bét rồi?
- Ồ! Em
xin anh, Papi, anh đừng nói quá lời! Uống hai cốc bia mà anh gọi là say sưa be
bét?
- Có thể
cậu có lý, nhưng tôi cho rằng nếu đứng đắn thì không nên vồ lấy những lạc thú
trước mắt. Theo tôi nên nhấm nháp từng tí một thì hơn là nhai ngấu nhai nghiến.
Vả lại tiền có phải của mình đâu.
- Vâng,
đúng thế thật, anh có lý. Ta sẽ học sống tự do theo kiểu nhỏ giọt, như thế xứng
đáng hơn.
Chúng
tôi rời khách sạn đi ra dãy phố lớn chạy suốt từ đầu đến cuối thành phố - gọi
là Watters Street. Và chúng tôi hân hoan với những chuyến tàu điện qua lại, với
những con lừa kéo xe, những chiếc xe hơi, những ánh đèn điện quảng cáo ở các
rạp chiếu bóng và các quán rượu ban đêm, với những đôi mắt của các thiếu nữ da
đen hay ấn Độ vừa nhìn chúng tôi vừa cười, đến nỗi chúng tôi không hề có chủ
đích mà cũng đã ra đến cảng từ bao giờ không biết.
Trước
mặt chúng tôi là những chiếc tàu thủy đèn thắp sáng trưng, những chiếc thuyền
du lịch với những tên gọi diệu huyền: Panama, Los Aggeles, Boston, Québec;
những chiếc tàu chở hàng: Hamburg, Amsterdam, London, và chạy dài dọc bờ xây,
xếp hàng san sát vào nhau, là những quán ăn, quán rượu, quán bar đầy những
khách nam nữ đang ăn, uống, nói, cười, lớn tiếng cãi cọ với nhau. Bỗng nhiên
một nhu cầu không sao cường nổi giục giã tôi trà trộn vào đám đông này, chen
vai thích cánh với những con người có lẽ cũng phàm tục, nhưng lại đầy sức sống.
ở sân hiên một quán bar có những dãy thùng nước đáp ướp nào sò, nào nhím biển,
nào tôm càng, nào "dao biển", nào trai, nào vẹm, cả một cuộc trưng bày
những món ăn hải sản ngon lành cám dỗ người qua đường.
Những
chiếc bàn tải khăn ca-rô trắng chen đỏ, phần nhiều đều có khách ngồi, như đang
chào mời chúng tôi. Những cô gái da nâu nhạt, nét mặt thanh tú, loại con gái
lai da đen nhưng không còn giữ lại một nét nào của chủng tộc negroid, thân hình
bó chặt trong những bộ coóc-xê đủ màu cổ hở rất rộng, đang đứng chào hàng, lại
càng khiến cho người ta muốn thưởng thức các thứ đó hơn nữa. Tôi đến cạnh một
cô gái, nói:
- French
money good? (Tiền Pháp tốt không?) - vừa nói vừa đưa ra một tờ giấy bạc một
ngàn francs.
- Yes, I
change for you (Tốt, tôi đổi giúp ông).
Cô ta
cầm lấy tờ giấy bạc rồi mất hút trong căn phòng chật ních những người. Một lát
sau cô ta trở lại, nói: "Come here (đến đây"), rồi dẫn tôi đến chỗ
quầy tính tiền. Có một người Tàu đang ngồi đấy.
- Ông là
người Pháp?
- Vâng.
- Đổi
một ngàn francs à?
- Vâng.
- Đổi
hết ra dollars Artilles à?
- Vâng.
- Hộ
chiếu đâu?
- Không
có.
- Thẻ
thủy thủ?
- Không
có.
- Giấy
nhập cảnh?
- Không
có.
- Được.
Người
tàu nói mấy tiếng với cô gái, cô ta nhìn căn phòng một thoáng rồi đến cạnh một
người dáng dấp như một thủy thủ, đội một cái mũ cát-kết giống như cái của tôi,
có một vành lon kim tuyến và một cái mỏ neo, rồi dẫn hắn đến cạnh quầy tính
tiền. Người tàu nói:
- Giấy
căn cước anh đâu?
- Đây.
Thế là người Tàu thản nhiên như không làm một tờ phiếu đổi một ngàn francs mang tên người lạ mặt, bảo hắn ký vào, xong đâu đấy cô gái cầm cánh tay hắn lôi đi. Chắc chắn là người kia không sao biết được việc gì đang xảy ra. Còn tôi thì nhận hai trăm năm mươi dollars Antilles trong đó có năm mươi dollars bằng giấy ăn một và ăn hai dollars. Tôi đưa cho cô gái một dollar, chúng tôi đi ra ngoài và ngồi vào bàn gọi đủ các thứ món hải vị và mấy chai rượu vang trắng loại mạnh, chén một bữa ngon tuyệt trần.
Mục lục
Papillon-Người
tù khổ sai (Chương 1-10)
Papillon-Người
tù khổ sai (Chương 11-18)
Papillon-Người
tù khổ sai (Chương 19-26)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét