QUỐC HỘI
Luật số: 52/2014/QH13
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
LUẬT
Hôn nhân và gia đình
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn
mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá
nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây
dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân
tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với
người không theo tôn giáo, giữa người
có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3.
Xây dựng gia
đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc;
các thành
viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
không phân biệt đối xử giữa các con.
4.
Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền
về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao
quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
5.
Kế thừa, phát huy truyền
thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Hôn nhân là quan hệ giữa vợ
và chồng sau khi kết hôn.
2. Gia đình là tập hợp những
người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này.
3. Chế độ hôn nhân và gia đình
là toàn bộ những quy định của pháp luật về kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ
giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình;
cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài và những vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.
4. Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy tắc xử sự có nội dung
rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được
lặp đi, lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một
vùng, miền hoặc cộng đồng.
5. Kết hôn là việc nam và nữ
xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
6. Kết hôn trái pháp luật
là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này.
7. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung
và coi nhau là vợ chồng.
8. Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy
chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 8 của Luật này.
9. Cưỡng ép kết hôn, ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần,
hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải
kết hôn hoặc ly hôn trái với ý muốn của họ.
10. Cản trở kết hôn, ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần,
hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn
của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này hoặc buộc người
khác phải duy trì quan hệ hôn nhân trái với ý muốn của họ.
11. Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh,
cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của
Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia
đình.
12. Yêu sách của cải trong kết
hôn là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó là điều kiện để
kết hôn nhằm cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ.
13. Thời kỳ hôn nhân là khoảng
thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân.
14. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
15. Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ
tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác
mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.
16. Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi,
cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ
hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha
khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của
người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà
ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột.
17. Những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ
huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.
18. Những người có họ trong phạm vi
ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh,
chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh,
chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba.
19. Người thân thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng,
người có cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời.
20. Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn,
mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác
không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình.
21. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm.
22. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự
nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người
vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh
trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai
để người này mang thai và sinh con.
23. Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ
mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được
hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.
24. Cấp dưỡng là việc một người
có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên
mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người
gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.
25. Quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham
gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân
và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
1. Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân
và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một
vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc
và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập
quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập
quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc.
2.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình. Các bộ, cơ quan
ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo sự phân công
của Chính phủ. Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan khác thực hiện quản lý
nhà nước về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.
3.
Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giáo dục, vận động cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động, các thành viên của mình và mọi công dân xây dựng gia đình
văn hóa; kịp thời hòa giải mâu thuẫn trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các thành viên gia đình. Nhà trường phối hợp với gia đình trong việc
giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình cho thế hệ
trẻ.
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và
được pháp luật bảo vệ.
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về
trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con
nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu,
mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn,
cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương
mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản
vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia
đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi
khác nhằm mục đích trục lợi.
3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia
đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng
pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm
quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử
lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và
gia đình.
4. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư
và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình
giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.
Các quy định của Bộ luật dân sự và các luật khác có liên
quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và
gia đình trong trường hợp Luật này không quy định.
1. Trong trường hợp pháp luật
không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản
sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi
phạm điều cấm của Luật này được áp dụng.
CHƯƠNG II
KẾT HÔN
Điều
8. Điều kiện kết hôn
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy
định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp
luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có
giá trị pháp lý.
1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa
dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình
yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy
định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do
việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc
kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:
a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác;
cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người
kết hôn trái pháp luật;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề
nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu
Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
1. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật được Tòa án thực hiện
theo quy định tại Luật này và pháp luật về tố tụng dân sự.
2. Trong trường
hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả
hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của
Luật này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận
quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ
thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này.
3. Quyết định của Tòa án về việc hủy kết hôn trái pháp luật hoặc công
nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết
hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên kết hôn trái pháp luật; cá nhân, cơ quan, tổ
chức liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
4. Tòa
án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ
Tư pháp hướng dẫn Điều này.
1. Khi việc
kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ
chồng.
2. Quyền,
nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của
cha, mẹ, con khi ly hôn.
3. Quan hệ
tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại
Điều 16 của Luật này.
Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền thì khi có
yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn
theo quy định của pháp luật về hộ tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc
đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập
từ ngày đăng ký kết hôn trước.
Điều 14. Giải
quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn
1. Nam, nữ có
đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ
và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các
bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực
hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được
xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Điều 15.
Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được
giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
Điều 16. Giải
quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ
tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong
trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự
và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải
quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con;
công việc nội trợ và công việc khác có
liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Vợ, chồng
bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình,
trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến
pháp, Luật này và các luật khác có liên quan.
Quyền, nghĩa
vụ về nhân thân của vợ, chồng quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật
khác có liên quan được tôn trọng và bảo vệ.
1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm
sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các
công việc trong gia đình.
2. Vợ chồng
có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác
hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.
Việc lựa chọn
nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc bởi phong
tục, tập quán, địa giới hành chính.
Vợ, chồng có
nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.
Vợ, chồng có
nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau.
Điều 23. Quyền, nghĩa vụ về học tập, làm việc,
tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Vợ, chồng có
quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao
trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội.
1. Việc đại
diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác
định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng
có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy
định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự
đồng ý của cả hai vợ chồng.
3. Vợ, chồng
đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều
kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà
bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó,
trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện
quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Trong trường
hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án
giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa
án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để
giải quyết việc ly hôn.
1. Trong
trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ
kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham
gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật
liên quan có quy định khác.
2. Trong trường hợp vợ, chồng đưa tài
sản chung vào kinh doanh thì áp dụng quy định tại Điều 36 của Luật này.
Điều 26. Đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu,
giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc
chồng
1. Việc đại
diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên
quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền
sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều
24 và Điều 25 của Luật này.
2. Trong
trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng
nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với
người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì
giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ
ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.
1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên
đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc
giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của
Luật này.
2. Vợ, chồng chịu
trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.
1. Vợ chồng
có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản
theo thỏa thuận.
Chế độ tài
sản của vợ chồng theo luật định được thực hiện theo quy định tại các điều từ
Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64 của Luật này.
Chế độ tài
sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện theo quy định tại các điều 47,
48, 49, 50 và 59 của Luật này.
2. Các quy
định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này được áp dụng không phụ thuộc
vào chế độ tài sản mà vợ chồng đã lựa chọn.
3. Chính phủ
quy định chi tiết về chế độ tài sản của vợ chồng.
1. Vợ, chồng
bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao
động có thu nhập.
2. Vợ, chồng
có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.
1. Vợ, chồng
có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình.
2. Trong
trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản
riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.
Việc xác lập,
thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ
chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu
riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt
giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng.
Điều 32. Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên
quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo
quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng
1. Trong giao
dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân
hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao
dịch liên quan đến tài sản đó.
2. Trong giao
dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo
quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có
quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ
luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình.
1. Tài sản
chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt
động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng
đất mà vợ, chồng có được sau
khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản
riêng.
2. Tài sản
chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu
của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong
trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh
chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
1. Trong
trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng
thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả
hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng
nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên
quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu
có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều
33 của Luật này.
1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa
thuận.
2. Việc định
đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những
trường hợp sau đây:
a) Bất động
sản;
b) Động sản
mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản
đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
Trong trường
hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì
người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó.
Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.
Vợ chồng có
các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ
phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ
phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản
chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha
mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ
khác theo quy định của các luật có liên quan.
1. Trong thời
kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản
chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận
được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Thỏa thuận về việc chia
tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu
của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong
trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung
của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này.
1. Thời điểm
có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng
thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời
điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.
2. Trong
trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên
quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản
chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức
mà pháp luật quy định.
3. Trong
trường hợp Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài sản chung
có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
4. Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với
người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn
có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
1. Trong
trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là
tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần
tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
2. Thỏa thuận
của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ
về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.
1. Sau khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm
dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Hình thức của thỏa thuận được thực
hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật này.
2. Kể từ ngày
thỏa thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này có hiệu lực thì việc xác
định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại
Điều 33 và Điều 43 của Luật này. Phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia vẫn
thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
3. Quyền,
nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia
tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
4. Trong
trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo
bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của
việc chia tài sản chung phải được Tòa án công nhận.
Việc chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
1. Ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
2. Nhằm trốn
tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Nghĩa vụ
nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
b) Nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại;
c) Nghĩa vụ
thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;
d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;
đ) Nghĩa vụ
nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
e) Nghĩa vụ
khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của
pháp luật có liên quan.
1. Tài sản
riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia
riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ,
chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ,
chồng.
2. Tài sản
được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ,
chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được
thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
1. Vợ, chồng
có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài
sản chung.
2. Trong
trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản
lý thì bên kia có quyền quản lý tài
sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản.
3. Nghĩa vụ
riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó.
4. Trong
trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó
là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự
đồng ý của chồng, vợ.
Vợ, chồng có
các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ
của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
2. Nghĩa vụ
phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp
nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ,
chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của
Luật này;
3. Nghĩa vụ
phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia
đình;
4. Nghĩa vụ
phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.
1. Việc nhập
tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận
của vợ chồng.
2. Tài sản được
nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến
tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình
thức đó.
3. Nghĩa vụ
liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài
sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác.
Trong trường
hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này
phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc
chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày
đăng ký kết hôn.
1. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:
a) Tài sản
được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên
quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;
c) Điều kiện,
thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;
d) Nội dung
khác có liên quan.
2. Khi thực
hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ
chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các
điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này và quy định tương ứng của chế độ tài sản
theo luật định.
1. Vợ chồng
có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản.
2. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về
chế độ tài sản theo thỏa thuận được áp dụng theo quy định tại Điều 47 của Luật
này.
1. Thỏa thuận
về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Không tuân
thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các
luật khác có liên quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật
này;
c) Nội dung
của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
2. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn khoản 1 Điều này.
CHƯƠNG IV
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ,
người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ,
chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng
không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc
đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Nhà nước và
xã hội khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc
hòa giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
1. Tòa án thụ
lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
2. Trong
trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và
tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của
Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại
Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
Sau khi đã thụ lý
đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự.
Trong trường
hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu
xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia
tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm
quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu
không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính
đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
1. Khi vợ hoặc chồng yêu
cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi
bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm
cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong
trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn
thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong
trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì
Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực
gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của
người kia.
1. Quan hệ
hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực
pháp luật.
2. Tòa án đã
giải quyết ly hôn phải gửi bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật
cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên ly hôn; cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các luật khác có liên quan.
Việc trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được áp dụng theo quy
định tại các điều 81, 82, 83 và 84 của Luật này.
1. Trong
trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản
do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng
hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và
5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường
hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi
ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng
thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các
điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản
chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh
của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức
đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi
ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên
có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của
mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản
chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật
thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn
hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ
trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường
hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng
có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình
đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình.
6. Tòa án
nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư
pháp hướng dẫn Điều này.
1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của
vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ
chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.
2. Trong
trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại
các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải
quyết.
1. Trong
trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng
trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng
được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức
đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung
cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản
chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu
cầu Tòa án giải quyết.
2. Trong
trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối
tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần
tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy
định tại Điều 59 của Luật này.
1. Quyền sử
dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
2. Việc chia
quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như
sau:
a) Đối với
đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có
nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của
hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định
tại Điều 59 của Luật này.
Trong trường
hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó
được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử
dụng đất mà họ được hưởng;
b) Trong
trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi
trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi
ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định
tại điểm a khoản này;
c) Đối với
đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được
chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này;
d) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất
đai.
3. Trong
trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung
với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và
không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều
61 của Luật này.
Nhà ở thuộc
sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở
hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được
quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Vợ, chồng
đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được
nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được
hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
Hôn nhân chấm
dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết.
Trong trường
hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt
được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
Điều 66. Giải
quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án
tuyên bố là đã chết
1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị
Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những
người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia
đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của
vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống
của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu
Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Tài sản
của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2
và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
1. Khi Tòa án
ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người
đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời
điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly
hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật này thì quyết định
cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp
vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác
lập sau có hiệu lực pháp luật.
2. Quan hệ
tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được
giải quyết như sau:
a) Trong
trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ
thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu
lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời
điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực
đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản
riêng của người đó;
b) Trong
trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết
định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia
được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.
CHƯƠNG V
1. Quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các
luật khác có liên quan được tôn trọng và bảo vệ.
2. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn
nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được
quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
3. Giữa con
nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy
định tại Luật này, Luật nuôi con nuôi, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên
quan.
4. Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con liên quan đến quan
hệ nhân thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình, cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Điều
69. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ
1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo
dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người
con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
4. Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở
giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động
của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp
luật, trái đạo đức xã hội.
1. Được cha
mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về
nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo
dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
2. Có bổn
phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh
dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
3. Con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.
Con chưa
thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không
trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em.
4. Con đã
thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập,
nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống
cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động,
sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp
thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của
mình.
5. Được hưởng
quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình.
1. Cha, mẹ có
nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình.
2. Con có
nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực
hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng
cha mẹ.
1. Cha mẹ có
nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập.
Cha mẹ tạo
điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm
gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ
chức trong việc giáo dục con.
2. Cha mẹ
hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con.
3. Cha mẹ có
thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con
khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được.
1. Cha mẹ là
người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có
người khác đại diện theo pháp luật.
2. Cha hoặc
mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
3. Đối với
giao dịch liên quan đến tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở
hữu, quyền sử dụng, tài sản đưa vào kinh doanh của con chưa thành niên, con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ.
4. Cha, mẹ
phải chịu trách nhiệm liên đới về việc thực hiện giao dịch liên quan đến tài
sản của con được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này và theo quy định của
Bộ luật dân sự.
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo
quy định của Bộ luật dân sự.
1. Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản
được hình thành từ tài sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con.
2. Con từ đủ 15
tuổi trở lên sống chung với cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của
gia đình; đóng góp vào việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu
nhập.
3. Con đã thành niên có nghĩa vụ đóng góp thu nhập vào
việc đáp ứng nhu cầu của gia đình theo quy định tại khoản 4 Điều 70 của Luật
này.
1. Con từ đủ 15
tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý.
2. Tài sản riêng
của con dưới 15 tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ
có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con. Tài sản riêng của
con do cha mẹ hoặc người khác quản lý được giao lại cho con khi con từ đủ 15
tuổi trở lên hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường
hợp cha mẹ và con có thỏa thuận khác.
3. Cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con
trong trường hợp con đang được người khác giám hộ theo quy định của Bộ luật dân
sự; người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người
con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc trường hợp khác theo quy
định của pháp luật.
4. Trong trường hợp cha mẹ đang
quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự mà con được giao cho người khác giám hộ thì tài sản riêng của
con được giao lại cho người giám hộ quản lý theo quy định của Bộ luật dân sự.
Điều 77. Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
1. Trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ
quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì
lợi ích của con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
con.
2. Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có
quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản
có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải
có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.
3. Trong trường hợp con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự thì việc định đoạt tài sản riêng của con do người giám
hộ thực hiện.
1. Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền
và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm quan
hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật Nuôi con nuôi.
Trong trường hợp chấm dứt việc nuôi con
nuôi theo quyết định của Tòa án thì quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi với
con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Quyền, nghĩa vụ của cha đẻ, mẹ đẻ và
con đã làm con nuôi của người khác được thực hiện theo quy định của Luật Nuôi con
nuôi.
3. Quyền, nghĩa vụ giữa cha đẻ, mẹ đẻ và
con đẻ được khôi phục kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt. Trong
trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ không còn hoặc không có đủ điều kiện để nuôi con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Tòa án giải quyết việc
chấm dứt nuôi con nuôi và chỉ định người giám hộ cho con theo quy định của Bộ
luật dân sự.
1. Cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống chung với mình theo
quy định tại các điều 69, 71 và 72 của Luật này.
2. Con riêng có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình theo quy định tại Điều 70
và Điều 71 của Luật này.
Trong trường hợp
con dâu, con rể sống chung với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ thì giữa các bên có các
quyền, nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau theo quy định tại
các điều 69, 70, 71 và 72 của Luật này.
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền,
nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định
của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực
tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường
hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp
nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì
phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho
mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ
không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có
nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có
nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp
nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng
việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án
hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Điều 83. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi
con
đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền
yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại
Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành
viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các
thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong
việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha,
mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể
quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con
được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi
người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ
điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con
phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ
đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho
người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy
định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ
quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con
chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án
về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán
tài sản của con;
c) Có lối
sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã
hội.
2. Căn cứ vào
từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ
trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện
theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem
xét việc rút ngắn thời hạn này.
1. Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối
với con chưa thành niên.
2. Cá nhân,
cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có
quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:
a) Người thân
thích;
b) Cơ quan
quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan
quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên
hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi
vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này có quyền đề nghị cơ quan, tổ
chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
1. Trong trường hợp cha hoặc mẹ bị
Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành
niên thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con.
2. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của
con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân
sự và Luật này trong các trường hợp sau đây:
a) Cha và mẹ đều bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên;
b) Một bên cha, mẹ không bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên nhưng
không đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con;
c) Một bên cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên và chưa
xác định được bên cha, mẹ còn lại của con chưa thành niên.
3. Cha, mẹ đã
bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng cho con.
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân
hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn
nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con
chung của vợ chồng.
1. Người
không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người
đó là con mình.
2. Người được
nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không
phải là con mình.
1. Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
2. Con đã
thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận mẹ, không cần
phải có sự đồng ý của cha.
1. Cha, mẹ có
quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.
2. Trong
trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải
có sự đồng ý của người kia.
Trong trường
hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết thì người
thân thích của người này có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho
người yêu cầu đã chết.
1. Trong
trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định
cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này.
2. Trong
trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra.
3. Việc sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con
giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra.
4. Việc xác
định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được áp dụng
theo quy định tại Điều 94 của Luật này.
Điều 94. Xác định
cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được
sinh ra.
1. Việc mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các
bên và được lập thành văn bản.
2. Vợ chồng
có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác
nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và
sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng
đang không có con chung;
c) Đã được tư
vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
3. Người được
nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người
thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
b) Đã từng
sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi
phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
d) Trường hợp
người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người
chồng;
đ) Đã được tư
vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
4. Việc mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
5. Chính phủ
quy định chi tiết Điều này.
1. Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang
thai hộ (sau đây gọi là bên nhờ mang thai hộ) và vợ chồng người mang thai hộ
(sau đây gọi là bên mang thai hộ) phải có các nội dung cơ bản sau đây:
a) Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các
điều kiện có liên quan quy định tại Điều 95 của Luật này;
b) Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98
của Luật này;
c) Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ
để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai
và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai
bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và
các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;
d) Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam
kết theo thỏa thuận.
2. Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công
chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ
chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền
phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có
giá trị pháp lý.
Trong trường hợp thỏa thuận về mang
thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa
thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế
này.
1. Người mang
thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc
chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao
đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
2. Người mang
thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát
hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế.
3. Người mang
thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và
bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong
trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ
thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản
cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do
mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia
đình.
4. Bên mang
thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc
sức khỏe sinh sản.
Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe
của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết
định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay
không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức
khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
5. Trong
trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền
yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.
1. Bên nhờ
mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc
sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.
2. Quyền,
nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể
từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai
sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm
nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
3. Bên nhờ
mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ
chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có
nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định
của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi
thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế
theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.
4. Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của gia
đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này, Bộ
luật dân sự và luật khác có liên quan.
5. Trong
trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền
yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con.
Điều 99. Giải
quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản,
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Tòa án là
cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản, mang thai hộ.
2. Trong
trường hợp chưa giao đứa trẻ mà cả hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết hoặc
mất năng lực hành vi dân sự thì bên mang thai hộ có quyền nhận nuôi đứa trẻ;
nếu bên mang thai hộ không nhận nuôi đứa trẻ thì việc giám hộ và cấp dưỡng đối
với đứa trẻ được thực hiện theo quy định của Luật này và Bộ luật dân sự.
Các bên trong quan hệ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản, mang thai hộ vi phạm điều kiện, quyền, nghĩa vụ được quy định tại
Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo trách nhiệm
dân sự, hành chính, hình sự.
1. Cơ quan
đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật
về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
2. Tòa án có
thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp
hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định
tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định
của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch
để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác
định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự.
1. Cha, mẹ, con đã thành niên không
bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký hộ tịch xác
định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 101
của Luật này.
2. Cha, mẹ, con, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền
yêu cầu Tòa án xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định
tại khoản 2 Điều 101 của Luật này.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa
thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định
tại khoản 2 Điều 101 của Luật này:
a) Cha, mẹ, con, người giám hộ;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
1. Các thành
viên gia đình có quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng nhau.
Quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản của các thành viên gia đình quy
định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan được pháp luật
bảo vệ.
2. Trong
trường hợp sống chung thì các thành viên gia đình có nghĩa vụ tham gia công
việc gia đình, lao động tạo thu nhập; đóng góp công sức, tiền hoặc tài sản khác
để duy trì đời sống chung của gia đình phù hợp với khả năng thực tế của mình.
3. Nhà nước
có chính sách tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình quan tâm, chăm sóc,
giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt
Nam; khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong xã hội cùng tham gia vào việc giữ
gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
1. Ông bà
nội, ông bà ngoại có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống
mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu; trường hợp cháu chưa thành niên, cháu đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều
105 của Luật này thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu.
2. Cháu có
nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại; trường hợp
ông bà nội, ông bà ngoại không có con để nuôi dưỡng mình thì cháu đã thành niên
có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Anh, chị, em
có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi
dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Cô, dì, chú,
cậu, bác ruột và cháu ruột có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ
nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp người cần được nuôi
dưỡng không còn cha, mẹ, con và những người được quy định tại Điều 104 và Điều
105 của Luật này hoặc còn nhưng những người này không có điều kiện để thực hiện
nghĩa vụ nuôi dưỡng.
1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện
giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại
và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo
quy định của Luật này.
2. Trong trường hợp
người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân,
cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 119 của Luật này, Tòa án buộc người đó
phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này.
Trong trường
hợp một người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhiều người thì người cấp dưỡng và
những người được cấp dưỡng thỏa thuận với nhau về phương thức và mức cấp dưỡng
phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu
cầu thiết yếu của những người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu
cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường
hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc cho nhiều người
thì những người này thỏa thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp phù hợp
với thu nhập, khả năng thực tế của mỗi người và nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung
với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Con đã thành
niên không sống chung với cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha, mẹ trong
trường hợp cha, mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình.
Trong trường
hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản
để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có
nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc
em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình; em đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
1. Ông bà
nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu
trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng
lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy
định tại Điều 112 của Luật này.
2. Cháu đã
thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp ông bà không có khả năng lao
động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng theo
quy định của Luật này.
1. Cô, dì,
chú, cậu, bác ruột không sống chung với cháu ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp
dưỡng theo quy định của Luật này.
2. Cháu đã
thành niên không sống chung với cô, dì, chú, cậu, bác ruột có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho cô, dì, chú, cậu, bác ruột trong trường hợp người cần được cấp dưỡng
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có
người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.
Khi ly hôn
nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì
bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.
1. Mức cấp
dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ
của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có
nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không
thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Khi có lý
do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do
các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa
năm, hàng năm hoặc một lần.
Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp
dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn
về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nghĩa vụ cấp
dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Người được
cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi
mình;
2. Người được
cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
3. Người cấp
dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
4. Người cấp
dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
5. Bên được
cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn;
6. Trường hợp
khác theo quy định của luật.
1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc
người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có
quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
3. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có
quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này
yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải
thực hiện nghĩa vụ đó.
Nhà nước và xã hội khuyến khích tổ chức, cá nhân
trợ giúp bằng tiền hoặc tài sản khác cho gia đình, cá nhân có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, túng thiếu.
Điều 121. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của
pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.
2. Trong quan
hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam có
các quyền, nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có
quy định khác.
3. Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân
Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật
Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế.
4. Chính phủ
quy định chi tiết việc giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên và bảo đảm thực hiện quy
định tại khoản 2 Điều 5 của Luật này.
1. Các quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối
với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này
có quy định khác.
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định
của điều ước quốc tế đó.
2. Trong trường hợp Luật này, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có
dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp
dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định
tại Điều 2 của Luật này.
Trong trường hợp pháp luật nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt
Nam thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam.
3. Trong trường hợp
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có dẫn
chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp
dụng.
1. Thẩm quyền đăng ký hộ tịch liên quan đến các quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo quy định của
pháp luật về hộ tịch.
2. Thẩm quyền giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài tại Tòa án được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
3. Tòa án
nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp
luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng,
cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân
Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư
trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật Việt Nam.
Giấy tờ do cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận để sử dụng giải quyết
các vụ việc hôn nhân và gia đình thì phải được hợp pháp hoá lãnh sự, trừ trường
hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
Điều 125. Công nhận, ghi chú bản án, quyết định của
Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về hôn nhân và gia đình
1. Việc công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án
nước ngoài có yêu cầu thi hành tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự.
2. Chính phủ
quy định việc ghi vào sổ hộ tịch các việc về hôn nhân và gia đình theo bản án,
quyết định của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam hoặc
không có đơn yêu cầu không công nhận tại Việt Nam; quyết định về hôn nhân và
gia đình của cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài.
1. Trong việc
kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo
pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải
tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.
2. Việc kết
hôn giữa những người nước ngoài thường trú ở Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.
1. Việc ly
hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau
thường trú ở Việt Nam được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
theo quy định của Luật này.
2. Trong
trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm
yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi
thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì giải
quyết theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc giải
quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của
nước nơi có bất động sản đó.
1. Cơ quan
đăng ký hộ tịch Việt Nam có thẩm quyền giải
quyết việc xác định cha, mẹ, con mà không có tranh chấp giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà ít
nhất một bên định cư ở nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau mà ít nhất
một bên thường trú tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
2. Tòa án có
thẩm quyền của Việt Nam giải quyết việc xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước
ngoài đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 88, Điều 89, Điều 90, khoản
1, khoản 5 Điều 97, khoản 3, khoản 5 Điều 98 và Điều 99 của Luật này; các
trường hợp khác có tranh chấp.
1. Nghĩa vụ cấp dưỡng tuân theo pháp
luật của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú. Trường hợp người yêu cầu cấp
dưỡng không có nơi cư trú tại Việt Nam thì áp dụng pháp luật của nước nơi người
yêu cầu cấp dưỡng là công dân.
2. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết
đơn yêu cầu cấp dưỡng của người quy định tại khoản 1 Điều này là cơ quan của
nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú.
Điều 130. Áp dụng
chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận; giải quyết hậu quả của việc nam,
nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có yếu tố nước
ngoài
Trong trường hợp có yêu cầu giải quyết việc áp dụng chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận; quan hệ nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thì cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam áp dụng các quy định của Luật này và các luật khác có liên quan của Việt
Nam để giải quyết.
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được
xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và
gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết.
2. Đối với vụ việc về hôn nhân và gia đình do Tòa
án thụ lý trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa giải quyết thì áp dụng thủ
tục theo quy định của Luật này.
3. Không áp dụng Luật này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình trước ngày Luật này có hiệu
lực.
Chính phủ quy
định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật.
Tòa án nhân
dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp
hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này
đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ
7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014./.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
(Đã ký)
Nguyễn Sinh Hùng
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét