XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2017

Vài ghi chú về lịch sử Việt Nam thời thuộc Đường (2)

an nam do ho phu.jpg
Đặng Thanh Bình
Trong bài này chúng ta sẽ tiếp tục khảo sát một vài sự kiện nữa diễn ra tại An Nam thời thuộc Đường. Cụ thể là khảo sát về thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa của Đỗ Anh Hàn và đánh giá các cuộc khởi nghĩa lớn trong thời bắc thuộc lần thứ 3.
1.
Trong bài Vài ghi chú về lịch sử Việt Nam thời thuộc Đường chúng ta đã đưa ra kết luận: Đỗ Anh Hàn mới là thủ lĩnh của quần Man vây và tấn công phủ khiến đô hộ An Nam Cao Chính Bình lo lắng mà chết, cũng trong bài viết ấy chúng ta đã nêu lên nguyên nhân dẫn tới cuộc khởi binh của Anh Hàn tại Đường Lâm là do sự thay đổi chính sách cai trị của nhà Đường thông qua chính sách thuế, đồng thời cũng thấy được vai trò và chính sách của Triệu Xương sau cuộc khởi nghĩa. Trong bài này chúng ta sẽ tiếp tục cùng tìm hiểu xem thời điểm Đỗ Anh Hàn khởi binh cho đến khi kết thúc cuộc khởi nghĩa là khi nào?
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Khoảng niên hiệu Đại Lịch [766-779] đời Đường Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết. Con là An tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương” và
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Khoảng năm Đại Lịch (766-779) nhà Đường, nhân thời buổi loạn lạc, Phùng Hưng cùng với em là Phùng Hải đem quân uy phục được các ấp láng giềng, tự xưng là đô quân; Phùng Hải xưng là đô bảo. Khi bấy giờ chính sách của đô hộ là Cao Chính Bình, đánh thuế nặng lắm. Phùng Hưng đánh Chính Bình mãi không được, mới dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân đến vây phủ: Chính Bình vì lo sợ mà chết. Phùng Hưng vào ở trong phủ lạy, được ít lâu thì mất. Dân chúng lập con là An lên làm đô phủ quân, tôn Hưng làm Bố Cái đại vương”.
Như vậy theo Việt sử thì cuộc khởi binh diễn ra vào khoảng năm Đại Lịch (766-779) nhân thời buổi loạn lạc và kết thúc sau vài năm chiếm được phủ đô hộ (năm 791). Nhưng cụ thể là năm bao nhiêu?
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đinh Mùi [767], (Đường Đại Tông Dự, Đại Lịch thứ 2). [Người] Côn Lôn , Chà Bà đến cướp, đánh lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính Bình. Quân cứu viện đến, đánh tan quân Côn Lôn, Chà Bà ở Chu Diên. Bá Nghi đắp lại La Thành” và
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Năm Đinh Mùi (767). (Đường, Đại Tông, năm Đại Lịch thứ 2). Nước Côn Luân, nước Chà Bà vào lấn cướp. Kinh lược sứ là Trương Bá Nghi đánh phá được; đắp La Thành. Theo sách An Nam kỷ yếu, Côn Luân và Chà Bà đánh hãm châu thành. Trương Bá Nghi cầu viện với đô úy quận Vũ Định là Cao Chính Bình. Viện binh đến đánh phá được quân giặc ở Chu Diên. Bá Nghi lại đắp La Thành”
Theo như Việt sử thì năm 767 liên minh Côn Lôn và Chà Bà lân cướp, Kinh lược sứ phải cầu cứu Đô uý châu Vũ Định, đây có thể được coi là sự kiện gây ra loạn lạc rõ ràng nhất ở An Nam, từ đó có thể cho rằng: Đỗ Anh Hàn cũng nhân sự kiện ấy mà khởi binh.
Thế nhưng các sách Hán sử lại không có một ghi chép nào về sự kiện Côn Lôn và Chà Bà lân cướp An Nam, Cựu Đường thư không, Tân Đường thư không và Tư trị thông giám cũng không. Đây rõ ràng là một việc khó hiểu! Trong khi chính Cựu Đường thư ghi nhận: Trong năm 640 và 768, Chà Bà có gửi các sứ giả sang dâng phẩm vật triều cống và Tân Đường thư ghi nhận: Giữa các năm 766 và 799, ba sứ giả từ Chà Bà đã đến Trung Hoa. Tuy rằng Khâm định Việt sử thông giám cương mục có dẫn sách An Nam chí nguyên nhưng e rằng sách này cũng chỉ được xếp cùng với Đại Việt sử ký toàn thư. Vì thế mà sự kiện Côn Lôn và Chà Bà tấn công An Nam năm 767 chưa chắc đã đúng như sách Việt sử chép.
Đường hội yếu chép: “Tháng 8 năm Nguyên Hòa thứ 4 (809), An Nam Đô hộ (Trương Chu) tấu: phá quân Hoàn Vương ngụy hiệu là Ái châu Đô thống hơn 30 vạn người, bắt được vương tử 59 người, khí giới, chiến thuyền, voi chiến. Tháng 9 năm ấy, bọn An Nam Đô tri Binh mã sứ kiêm Áp nha An Nam Phó đô hộ Đỗ Anh Sách 50 người làm bản tấu lên triều đình nêu chính tích của bản quản Kinh lược Chiêu thảo xử trí đẳng sứ kiêm An Nam Đô hộ Trương Chu kể từ khi đến nhậm chức. An Nam La thành trước đây do Kinh lược sứ Trương Bá Nghi đắp. Khi đó, trăm họ giống như giặc cướp, (thành) chỉ cao có mấy thước, lại rất chật hẹp. Từ khi Trương Chu đến nhậm chức, nhân sau lúc nông nhàn, tấu xin xây cất thành mới. (Lược 1 đoạn) Đời Kinh lược sứ Bùi Thái trước đây thành trì Hoan, Ái bị Hoàn Vương Côn Lôn thiêu hủy cháy trụi cả. Từ sau khi Trương Chu đến nhậm chức, năm trước xây thành Hoan châu, năm ngoái đắp thành Ái châu. Thời Bùi Thái, không giữ quân thành, trong quân mất mát hết khí giới. Triệu Xương đến nhậm chức không được bao lâu lại quay về nhận chức ở Quảng châu. Từ khi Trương Chu đến nhậm chức, các đạo xin đến mua bán, mỗi tháng chế tạo 8 nghìn khí giới. [Mười] Bốn năm trở lại đây, tổng cộng làm được hơn 40 vạn. Ở hai bên tả hữu Đại sảnh, lập Giáp trượng lâu 40 gian để cất giữ (khí giới). Khi giặc rợ An Nam đến cướp, khó lợi về mặt chiến đấu. (Vì) Trước đây chiến thuyền có không quá mười mấy chiếc, lại rất chậm chạp, không thể tiếp cận được thuyền giặc. Trương Chu tự mình suy nghĩ, chế ra Mông đông thuyền hơn 400 chiếc. Mỗi thuyền có 25 lính, 32 tay chèo, 1 cỗ máy nỏ, 1 cỗ lưỡng cung nỗ. Mái chèo đưa ra từ trong thuyền, khi muốn quay thuyền thì (tay chèo) quay lưng lại, đi lại như bay. Sắc chỉ lệnh chuyển bản tấu cho sở ty”.
Như vậy là thời Trương Bá Nghi làm Kinh lược sứ, trăm họ ở An Nam giống như giặc cướp, nên Bá Nghi đã phải đắp La thành.
Cựu đường thư chép: “Phó sứ nước ấy là Triều Thần Trọng Mãn mộ phong tục của Trung Quốc, nhân đó ở lại không về, đổi họ tên là Triều Hành, làm quan trải các chức Tả bổ khuyết-Nghi vương hữu. Hành ở lại kinh sư 50 năm, ưa đọc sách truyện, khi bị đuổi về nước cũng ở lại không đi. Năm Thiên Bảo thứ 12 (năm 753), (Nhật Bản) lại sai sứ sang cống. Giữa những năm Thượng Nguyên (năm 760-761), lấy Hành làm Tả tán kị thường thị-Trấn Nam đô hộ” và “Năm vĩnh thái thứ hai (năm 766) (…) tháng 2 (…) nhâm thìn, đổi Trấn Nam đô hộ thành An Nam đô hộ như cũ” và “Năm đại lịch thứ hai (năm 767) (…) tháng 7 (…) Hàng châu thích sử Trương Bá Nghi làm An Nam đô hộ”.
Như vậy là năm 761 Triều Hành làm Trấn Nam đô hộ, tới năm 766 nhà Đường đổi Trấn Nam đô hộ thành An Nam đô hộ, năm 767 cử Trương Bá Nghi làm An Nam đô hộ, Trương Bá Nghi tới An Nam nhận thấy trăm họ ở đây như giặc cướp (có lẽ do thấy trăm họ bất tuân chính quyền đô hộ) nên đã chủ ý đắp La thành. Chúng ta phán đoán rằng: thời Triều Hành làm đô hộ, Đường Lâm còn tự chủ, mối ràng buộc với chính quyền đô hộ lỏng lẻo, khi Trương Bá Nghi tới, đã có những chính sách nhằm kiểm soát sâu hơn An Nam, việc này làm dân An Nam vốn bị ràng buộc tương đối lỏng lẻo đã làm loạn, các thế lực ở An Nam trở nên căng thẳng trong mối quan hệ với chính quyền của nhà Đường ở địa phương, mà đứng đầu là Trương Bá Nghi, trong đó có Đỗ Anh Hàn ở Đường Lâm, đến khi Cao Chính Bình làm đô hộ, áp đặt sâu hơn mà biểu hiện là chính sách thuế đã đẩy căng thẳng lên thành xung đột.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Quý Mùi, [803], (Đường Trinh Nguyên năm thứ 19). Đô đốc Bùi Thái sai lấp bỏ những hào rãnh ở trong thành, hợp làm một thành. Tướng ở châu là Vương Quý Nguyên đuổi Bùi Thái đi. Vua Đường vời Xương hỏi tình trạng. Xương đã ngoài 70 tuổi, mà tâu việc rõ ràng. Vua Đường cho là giỏi, lại sai làm Đô hộ Giao Châu. Xương đến, người trong châu đều mừng, loạn bèn yên”.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Năm Tân Tị (801). (Đường, năm Trinh Nguyên thứ 17). Nhà Đường dùng Bùi Thái làm đô hộ. Triệu Xương xin người sang thay, nhà Đường sai lang trung bộ Binh là Bùi Thái sang thay. Bùi Thái đến nơi, bắt quân sĩ lấp bỏ những hào rãnh ở trong thành, hợp làm một thành, lại đắp thành ở các châu Hoan và Ái. Sau đó Bùi Thái bị bộ tướng trong châu là Vương Quý Nguyên đuổi đi.
Năm Quý Mùi (803). (Đường, năm Trinh Nguyên thứ 19). Tháng 12, nhà Đường lại cử Triệu Xương sang làm đô hộ. Theo Đường thư, bấy giờ Triệu Xương về triều làm tế tửu chưa được bao lâu, bộ tướng Giao Châu đánh đuổi Bùi Thái. Đức Tông vời Triệu Xương tới để hỏi tình hình. Triệu Xương bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, tâu bày rõ ràng không lẫn; Đức Tông lấy làm lạ, lại cử sang làm đô hộ. Khi tờ chiếu đến nơi, người Giao Châu cùng nhau mừng rỡ; quân làm phản liền yên ngay”.
Theo như Việt sử thì năm 801 Triệu Xương xin nghỉ, đồng thời xin triều đình người sang thay, nhà Đường cử Bùi Thái sang, khi sang Thái cho lấp hào rãnh trong thành hợp làm một thành, lại đắp thành ở châu Ái và châu Hoan nên bị bộ tướng là Vương Quý Nguyên đuổi khỏi châu, vua Đường thấy vậy cho Triệu Xương sang thay, dân chúng vui mừng, loạn lại yên. Có 2 sự kiện đáng chú ý là: lấp hào rãnh hợp làm một thành và dân chúng vui mừng. Việc đào hào rãnh để tách thành 2 thành có từ khi nào? Chắc chắn là từ thời Triệu Xương, nhưng vì sao Triệu Xương lại cho đào rãnh để tách làm 2 thành? Như chúng ta biết Đỗ Anh Hàn vây phủ làm Cao Chính Bình lo lắng mà chết, Triệu Xương đến châu phủ dụ được yên. Nên việc có 2 thành gợi ý chúng ta về việc ngoài Triệu Xương làm chủ thành trước đây của Cao Chính Bình, thì bản thân Đỗ Anh Hàn cũng làm chủ một thành khác. Khi Bùi Thái tới đã lệnh lấp hào rãnh, hợp 2 thành làm một, khiến cho mối quan hệ giữa chính quyền của người bản địa xung đột với chính quyền địa phương của nhà Đường, kết quả là Bùi Thái bị đuổi khỏi châu. Triệu Xương vốn là người có chính sách mềm mỏng khôn khéo, dựa vào người bản địa, do vậy mà trị An Nam được hơn 10 năm, dưới trướng của Xương có một người tên là Đỗ Anh Sách, người này là dân bản địa và có cùng họ, tên đệm với Đỗ Anh Hàn, tôi cho rằng Đỗ Anh Sách và Đỗ Anh Hàn có mối quan hệ họ hàng. Trong hệ thống chính quyền tại An Nam thì Đỗ Anh Sách chỉ đứng sau Triệu Xương và ngang với Trương Chu, thế mà về sau Trương Chu làm An Nam đô hộ (năm 808) trong khi Đỗ Anh Sách thì không, mà vẫn làm thuộc hạ dưới trướng với mức độ quan trọng như dưới thời Triệu Xương. Việc này cho thấy: Đỗ Anh Sách làm chức cao dưới trướng của Triệu Xương cũng là nằm trong chính sách của Xương, chính sách dựa vào người bản địa để trị, nhưng cũng đồng thời cho thấy Đỗ Anh Sách rất có uy thế trước người bản địa. Gợi ý cho chúng ta về một thế lực của người bản địa tồn tại song song với chính quyền của nhà Đường ở An Nam và nó (nếu có) thì là chính quyền do Đỗ Anh Hàn thiết lập.
Khi Triệu Xương tới châu thì sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ hợp tác như trước đây từng làm, nghĩa là đảm bảo quyền lợi của người bản địa, vì thế mà dân chúng cùng mừng. Nhưng đó là một giả thuyết, chúng ta cũng có thể đặt một giả thuyết khác là: Trương Chu và Đỗ Anh Sách vốn là người rất có uy thế trong châu, nay Triệu Xương thôi chức, họ có tham vọng muốn thâu tóm An Nam, nhưng nay triều đình lại cử viên quan tới nhậm chức, thành ra họ lập kế hoạch, dùng Vương Quý Nguyên để đuổi Bùi Thái đi.
Thế nhưng Hán sử khi chép về sự kiện Quý Nguyên đuổi Bùi Thái khỏi châu lại không nhắc tới việc lấp các hào rãnh để hợp làm một thành. 
Cựu Đường thư chép: “Năm Trinh Nguyên thứ 18 (…) tháng 3 (…) canh thìn, lấy từ bộ viên ngoại lang Bùi Thái làm kiểm giáo binh bộ lang trung, sung An Nam đô hộ, kiêm quản kinh lược sứ” và “Năm Trinh Nguyên thứ 19 (…) tháng 2 (…) kỷ hợi, An Nam kinh lược sứ Bùi Thái bị bộ tướng Vương Quý Nguyên đuổi khỏi châu” và “Năm Trinh Nguyên thứ 20 (…) tháng 3 (…) kỷ hợi, lấy quốc tử tế tửu Triệu Xương làm An Nam đô hộ, ngữ sử đại phu, kiêm quản kinh lược sứ” và “Bái [Triệu Xương] làm An Nam đô hộ, người di hưởng ứng giáo hoá. Năm 70 tuổi bị đau chân, xin về nghỉ, để binh bộ lang trung Bùi Thái thay, phong quốc tử tế tửu. Gặp lúc Thái bị thủ lĩnh người nam trục xuất khỏi châu, Đức Tông chiếu vời hỏi tình hình. Xương đã 72 tuổi nhưng vẫn tinh kiện, vua lấy làm kỳ lạ, phục mệnh làm đô hộ, người nam cùng mừng”.
Tư trị thông giám chép: “Năm Trinh Nguyên thứ 19 (năm 803) (…) tháng 2 (…) đinh hợi, An Nam nha tướng Vương Quý Nguyên trục quan sát sử Bùi Thái, Thái chạy tới Chu Diên. Cùng tháng tả binh mã sử Triệu Quân giết Quý Nguyên cùng đồng đảng, đón Thái về châu”.
Như vậy rất khó để có thể chắc chắn rằng: Đỗ Anh Hàn thực sự đã thiết lập một chính quyền song song với chính quyền tại An Nam của nhà Đường, tuy nhiên trong đoạn chép của Đường hội yếu ở trên có miêu tả vài chi tiết nhỏ về tình hình An Nam thời Bùi Thái như: Thành trì châu Hoan, Ái bị Hoàn Vương và Côn Lôn thiêu rụi, không giữ quân thành và binh giới trong quân mất hết. Với những chi tiết này cùng với việc Thái bị Quý Nguyên đuổi khỏi châu chứng tỏ Thái không nắm quân lính trong tay. Trong khi Xương nghỉ đã xin triều đình cử người đến thay mà không hề tiến cử 2 thuộc hạ của mình là Trương Chu và Đỗ Anh Sách, như vậy thì khi Thái tới, với tư cách triều đình cử đến nhậm chức thay cho Xương (theo yêu cầu của chính Xương) thì Chu và Sách về bên ngoài phải tuân lệnh Thái và cũng về bên ngoài đối với 2 người này thì Thái như Xương. Thế nhưng khi Thái bị Nguyên đuổi chúng ta không thấy vai trò của Chu và Sách mà thay vào đó là Triệu Quân. Việc thiếu vắng vai trò của Chu và Sách trong sự kiện Thái bị đuổi khỏi châu cùng với sự miêu tả của Phàn Xước về tình hình An Nam trong Man thư cho thấy: Trương Chu không nắm binh quyền, chỉ là một kỳ khách cố vấn cho Triệu Xương mà thôi, trong khi Đỗ Anh Sách là người nằm binh quyền cao nhất ở An Nam sau Xương. Nhưng sự thiếu vắng vai trò của Sách khiến chúng ta khó hiểu, điều thú vị là sau khi Triệu Xương làm độ hộ lần thứ hai ở An Nam thì người kế nhiệm Xương chính là Trương Chu và Đỗ Anh Sách vẫn là người nắm binh quyền cao nhất sau Chu. Vậy là thời Triệu Xương và Trương Chu làm đô hộ, Đỗ Anh Sách với vai trò nắm giữ binh quyền, An Nam yên. Nhưng sau Triệu Xương và trước Trương Chu, thời Bùi Thái, khi thiếu vắng Đỗ Anh Sách, An Nam loạn, trước thì bị giặc ngoài tấn công sau thì bên trong làm phản, điều đó cho thấy vai trò quan trọng của Đỗ Anh Sách, người nắm giữ binh quyền trong tay. Đỗ Anh Sách là người bản địa nên binh lính ở An Nam do Sách chỉ huy cũng phần nhiều là người bản địa, nghĩa là Triệu Xương và Trương Chu đã dựa vào người bản địa để mà cai trị. Như vậy rõ ràng là Triệu Xương cũng không nắm toàn quyền, vẫn phải dựa vào Sách, điều này đã thêm bằng chứng cho thấy Xương đã phủ dụ Đỗ Anh Hàn, chứ không động binh, cũng có nghĩa Hàn đã không bị giết như Tân Đường thư chép. Xương phủ dụ được người nam, Hàn không bị giết, Xương phải dựa vào Sách và quân lính người nam để cai trị, quân lính mà Sách chỉ huy thường là quân lính theo Sách nhiều năm, trung thành với Sách, rất khó có thể là quân lính mà Cao Chính Bình để lại (vì quân lính này sẽ nghe lời Xương, mà nếu nghe lời Xương thì Xương không cần dựa vào Sách), thêm nữa Sách và Hàn lại cùng họ Đỗ Anh, tất cả dẫn ta tới giả thuyết rằng: Sách và Hàn có mối quan hệ họ hàng, có thể là anh em hoặc cha con thậm chí có thể là một người. Dù là như thế nào thì, kết quả là sau cuộc vây và tấn công phủ đô hộ năm 791, chính quyền phương bắc tại An Nam mà đứng đầu là Triệu Xương đã đàm phán, thoả thuận với nghĩa binh bản địa đứng đầu là Đỗ Anh Hàn, công cuộc ấy được tiếp nối bởi Đỗ Anh Sách ít nhất là tới thời Bùi Hành Lập (năm 813-817).
Một số thủ lĩnh An Nam thời thuộc Đường của Phạm Lê Huy viết: “Theo Cựu Đường thư Bùi Hành Lập được cử sang làm An Nam Đô hộ, bản quản Kinh lược Chiêu thảo sứ năm Nguyên Hòa thứ 8 (813). Và Tân Đường thư chép khi một người Lâm Ấp tên là Lý Lạc Sơn làm phản Hoàn Vương đến cầu viện binh, để lấy lòng Hoàn vương, Hành Lập đã sai “bộ tướng” Đỗ Anh Sách chém Lý Lạc Sơn” và “Phạm Đình Chi là một tù trưởng miền núi (khê động hào) được Đô hộ Bùi Hành Lập sử dụng cùng thời với Đỗ Anh Sách. Phạm Đình Chi thường xin Bùi Hành Lập nghỉ để đi tắm nhưng không quay lại đúng hẹn. Sau nhiều lần như vậy, Bùi Hành Lập lấy quân pháp xử phạt, đem giết Phạm Đình Chi, sau đó lại chọn trong số bọn tử đệ của Diên Chi một người để thay thế. Qua đó, chúng ta biết được rằng, giống như Đỗ Anh Sách, Phạm Đình Chi cũng bị ràng buộc phải có mặt ở trị sở của An Nam Đô hộ”.
Tư trị thông giám chép: “[Năm Nguyên Hòa 14 (819)] Mùa đông tháng 10, Dung quản [Kinh lược sứ] tấu An Nam tặc là Dương Thanh hạ Đô hộ phủ (An Nam đô hộ phủ trị tại Giao châu) giết Đô hộ Lý Tượng Cổ và vợ con, quan thuộc, bộ khúc hơn 1000 người. Tượng Cổ là anh của Đạo Cổ. Do tham lam, hà khắc nên để mất lòng người. Thanh nhiều đời làm tù trưởng người Man. Tượng Cổ gọi về làm nha tướng. Thanh u uất, bất đắc chí. Tượng Cổ sai Thanh dẫn 3 nghìn quân đánh Hoàng Động Man. Thanh nhân lòng người phẫn uất, dẫn quân ban đêm tập kích phủ thành, hạ thành”.
Thời Bùi Hành Lập làm đô hộ cũng vẫn sử dụng những người bản địa, ngoài Đỗ Anh Sách còn có Phạm Đình Chi, đến năm 818 Lý Tượng Cổ sang thay Bùi Hành Lập, Cổ đã thực hiện chính sách tham lam, hà khắc, lại sử dụng người bản địa đánh người bản địa, dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Dương Thanh (năm 819-820), kết quả là Cổ bị giết năm 819.
Khi Triệu Xương làm đô hộ thì Hoàn Vương không giám tấn công, nhưng khi Bùi Thái vừa tới nơi thì Hoàn Vương và Côn Lôn đã thiêu rụi thành trì châu Hoan, châu Ái. Cả hai lại cùng là viên quan do triều đình cử xuống vậy thì sao phương nam lại có thái độ ứng xử khác nhau với 2 vị quan này, như vậy rõ ràng là uy thế của triều đình không trực tiếp lớn đối với phương nam, cái quyết định tới thái độ ứng xử của phương nam là chính sách cai trị của mỗi viên quan đô hộ do triều đình cử xuống.
Như vậy chúng ta có thể phán đoán rằng: Triệu Xương đã dùng chính sách mềm mỏng để yên được An Nam trước cuộc khởi binh của Đỗ Anh Hàn, tiếp theo đó Xương sử dụng chính sách dựa vào người bản địa để giữ yên phương nam, theo một nghĩa nào đó chúng ta có thể hiểu đây là sự hợp tác, khi Bùi Thái tới đã áp dụng nhiều chính sách cứng rắn đã dẫn đến sự bất hợp tác của người bản địa, kết quả là châu Hoan, Ái bị tấn công, bản thân thì bị trục xuất khỏi châu, để yên sự loạn này triều đình phương bắc cử Xương trở lại phương nam một chuyến.
Tiểu kết: Chúng ta không thể chắc chắn rằng khởi nghĩa của Đỗ Anh Hàn diễn ra từ năm 766 đến năm 803 nhưng qua những sự kiện chúng ta có thể đặt giả thuyết rằng: Đường Lâm có quan hệ ràng buộc với chính quyền phương bắc tại An Nam rất lỏng lẻo, khi Trương Bá Nghi tới đã áp dụng những chính sách nhằm kiểm soát chặt hơn dẫn đến không khí căng thẳng tại An Nam, cho đến khi Cao Chính Bình làm đô hộ thì không khí ấy đẩy đến cực đại và cụ thể là cuộc khởi binh của Đỗ Anh Hàn năm 791, trước thất bại của Chính Bình, Triệu Xương được cử đến, với chính sách hoà hợp với người nam, Xương đã phủ dụ yên được An Nam nhưng cũng bước đầu thực hiện chính sách dùng người nam để trị người nam, đối với tầng lớp hào trưởng ở An Nam thì đó là sự hợp tác, nó cũng cho thấy chính quyền phương bắc ở An Nam phụ thuộc rất nhiều vào tầng lớp hào trưởng ở bản địa, nhưng khi Bùi Thái sang thay đã không còn duy trì chính sách này, nên kết cục là bị người trong châu đuổi đi và như thế không có lý do gì để không tin rằng: Thành quả của cuộc khởi binh do Đỗ Anh Hàn lãnh đạo vượt qua thời điểm vây và tấn công phủ đô hộ năm 791 tới tận thời Bùi Hành Lập làm đô hộ.  
2
Trong bài Về phủ Giao Châu thời thuộc Đường tôi có dẫn chứng những sự kiện để chỉ ra rằng: Mãi tới năm 679 nhà Đường mới bắt đầu thực hiện chính sách cai trị trên thực tế An Nam, sau cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến năm 687 phương bắc mới quản lý một cách đúng nghĩa. Trong bài này chúng ta sẽ xem xét những điểm chung của các cuộc khởi nghĩa lớn tại An Nam thời kỳ bắc thuộc lần thứ 3.
Trong bài viết Khảo cứu lại cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan của Phan Huy Lê chép: “Trên cơ sở tập hợp và phân tích các nguồn tư liệu hiện có, có thể nhận định:
– Khởi nghĩa Mai Thúc Loan bùng nổ năm Khai Nguyên thứ 1 tức năm 713, chứ không phải năm Khai Nguyên thứ 10 tức năm 722 như sử cũ của ta đã chép và nhiều công trình nghiên cứu lịch sử đã viết theo.
– Cuộc khởi nghĩa có qui mô lớn, từ Hoan Châu đã mở rộng ra gần như cả nước và đã giành thắng lợi, chiếm phủ thành An Nam, giải phóng đất nước.
– Trên cơ sở thắng lợi đó, Mai Thúc Loan đã xưng đế tức vua Mai Hắc Đế, xây thành Vạn An làm quốc đô.
– Nhà nước độc lập tồn tại được gần 10 năm từ năm 713 đến năm 722”.
Trong bài viết Đường Lâm là Đường Lâm nào của nhóm tác giả Trần Ngọc Vương, Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương chép: “Qua những cứ liệu đã trình bày, chúng tôi tạm có một vài kết luận sơ bộ:
          1- Nếu tin Khuông Việt là người hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc thì cho đến hiện nay mới chỉ tìm thấy tên địa danh này sớm nhất trong Thái bình hoàn vũ kí (thời Tống) thì địa danh này sau đổi là huyện An Thuận, nằm ở đông nam Châu Ái. TheoViệt sử lược và Minh sử kí sự bản mạt ít nhất địa danh này phải nằm ở nam Thanh Hóa gần khu vực Nghệ An ngày nay. ĐVSKTT có xác nhận địa danh Cát Lợi ở Bắc Giang, song đây có thể là do trùng danh. Và Cát Lợi (Bắc Giang, nay thuộc Sóc Sơn, với 5 cứ liệu văn bia từ thế kỷ XVII đến XX ) chỉ là nơi Khuông Việt tu tập trụ trì và quy tịch. 
          2 - Nếu tin Khuông Việt Đại sư là dòng dõi Ngô Thuận Đế thì ông là người châu Đường Lâm. Vị trí chính xác của châu Đường Lâm còn phải khảo chứng thực địa thêm, nhất là cần phải khảo về các vấn đề họ tộc, cư dân, phong tục, sản vật, ngôn ngữ bản địa, cũng như sự thờ cúng và tư liệu điền dã tại địa phương (Thanh Hóa ngày nay). Châu Đường Lâm vốn từng có tên châu Phúc Lộc (gồm ba huyện Nhu Viễn, Đường Lâm và Phúc Lộc), châu này nằm phía tây nam Ái châu, gần gũi Trường châu, về sau đã có lúc quy về Ái châu. Cả hai địa danh Đường Lâm và Phúc Lộc sau đời Đường đều bỏ. Dù vậy, có thể khẳng định rằng quê Ngô Quyền nằm loanh quanh giữa vùng Thanh Hóa – Nghệ An ngày nay mà khó có thể ở vị trí Sơn Tây (khi đó là huyện Gia Ninh của Phong Châu) được.
          3 - Tên xã Đường Lâm tại Sơn Tây ngày nay mới xuất hiện từ năm 1964 (ngày 21 tháng 11). Trong suốt lịch sử từ đời Hán cho đến năm 1964, khu vực này không hề có Châu hay huyện hay làng nào tên là Đường Lâm”.
Trong bài viết Vài ghi chú về lịch sử Việt Nam thời thuộc Đường tôi có dẫn chứng về cuộc khởi binh của Đỗ Anh Hàn tại châu Đường Lâm năm 791 khiến đô hộ Cao Chính Bình chết có nguyên nhân từ việc chính quyền nhà Đường tại An Nam áp đặt chính sách thuế (chính sách cai trị trực tiếp) lên người bản địa, làm tổn hại tới quyền lợi của các hào trưởng. 
Từ đó chúng ta tổng kết lại một số sự kiện quan trọng:
– Năm 687 tại Giao Châu thủ lĩnh của người bản địa là Lý Tự Tiên và Đinh Kiến khởi binh chống lại đô hộ Lưu Diên Hựu do chính sách thuế, khiến Hựu chết.
– Năm 713 tại Hoan Châu thủ lĩnh của người bản xứ là Mai Thúc Loan khởi binh chống lại đô hộ Quang Sở Khách, buộc Khách trốn về phương bắc.
– Năm 791 tại Đường Lâm châu thủ lĩnh thổ dân là Đỗ An Hàn khởi binh chống lại đô hộ Cao Chính Bình do chính sách thuế, khiến Bình chết.
Chúng ta nhận thấy các cuộc khởi nghĩa này có những điểm chung như sau: Đều là những cuộc khởi nghĩa lớn, các đô hộ hoặc chết hoặc bỏ trốn, các thủ lĩnh bản xứ đều chiếm được thành phủ đô hộ, mỗi cuộc khởi nghĩa đều nổ ra ở những vùng lãnh thổ mới (năm 687 thì ở vùng đồng bằng sông Hồng, năm 722 thì ở vùng đồng bằng Nghệ An, năm 791 thì ở vùng đồi núi của Thanh Hoá), chủ yếu liên quan tới chính sách thuế (biểu hiện hình thức cai trị). Từ đó gợi ý chúng ta: Mỗi một cuộc khởi nghĩa giống như là một cuộc kháng chiến, nổ ra do lần đầu tiên người phương bắc tiến đến và xâm chiếm một vùng đất mới. Nghĩa là năm 687 người phương bắc chiếm và quản lý hoàn toàn vùng đồng bằng bắc bộ nhưng vùng đồng bằng bắc trung bộ thì chưa, phải đến năm 722 thì mục đích ấy mới đạt được và mãi tới năm 791 người phương bắc mới bắt đầu nghĩ đến việc quản lý vùng đồi núi phía tây vùng đồng bằng nhưng họ vấp phải sự kháng cự của cư dân ở đây. Chứ không phải sau năm 679 là toàn bộ An Nam phủ đã thuộc sự cai trị của nhà Đường trên thực tế. Năm 687 nhà Đường đánh bại thủ lĩnh người Lý, có lẽ là nhóm người mạnh nhất, có ảnh hưởng nhất ở bắc bộ, nên phương bắc cai trị trên thực tế vùng đất này, vùng bắc trung bộ nhà Đường mới chỉ cai trị trên danh nghĩa, tự nhận là lãnh thổ và có những hoạt động như chia châu, đặt hệ thống quan lại, nhưng trên thực tế vùng đất bắc trung bộ này vẫn do các thế lực bản địa quản lý, đến năm 713 những thế lực bản địa này nhận thấy sự xâm phạm quyền lợi từ phía nhà Đường do đó mà dẫn tới cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Sau khi đã quản lý trên thực tế vùng đồng bằng của An Nam, nhà Đường tính chuyện mở rộng hơn việc quản lý trên thực tế những vùng đất khác, ở đây chúng ta nhấn mạnh việc quản lý trên thực tế, mà bỏ qua việc quản lý trên danh nghĩa, trong quá trình mở rộng đó thì nhà Đường vấp phải sự kháng cự từ thổ dân vùng đồi núi phía tây qua cuộc khởi nghĩa của Đỗ Anh Hàn năm 791.
Tiểu kết, theo tôi nhà Đường đã từng bước mở rộng sự cai trị ở An Nam và mỗi một lần mở rộng vùng cai trị (trên thực tế) được đánh dấu bằng các cuộc khởi nghĩa lớn của dân bản địa\
Nguồn :

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét