“Một so sánh về nhận thức của hai sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên về lịch sử Việt Nam” [“Lê Văn Hưu and Ngô Sĩ Liên – A Comparative of their Perception of Vietnamese History”] là tựa đề tiểu luận của Yu Insun, nguyên giáo sư ban Sử Á châu tại Đại học Quốc gia Hán Thành [Seoul National University].
Tiểu luận này đã được tình bày tại Hội nghị “Vietnam: Beyond the Frontiers” do Viện Quốc tế, Đại học California tại Los Angeles tổ chức trong hai ngày 11-12, 2001.
Nghiên cứu này của giáo sư Insun đã đăng lại [p. 47-71] trong cuốn “Viet Nam: Borderless Histories” do Nhung Tuyet Tran và Anthony Reid là chủ biên và University of Wisconsin Press phát hành năm 2006. Bạn đọc có thể tham khảo nguyên bản Anh ngữ tại đây.
Dưới đây bản lược dịch và nhận định về tiểu luận của Insun đã đăng trên Tạp chí Truyền Thông Communications, số 41 & 42, Thu Đông 2011, trang 156-168.
Cho tới giữa thập niên 80 thế kỷ XX, Hà
Nội vẫn coi quốc sử như một côngcụ phục vụ các chính sách của Nhà
nước. Giới sử gia ngoại quốc đặt lại vấn đề: sử quan ngày trước, trong
thời phong kiến, nhận thức quốc sử ra sao? Đã có một số sử gia ngoại
quốc lưu ý tới vấn đề đó. Trong công trình nghiên cứu này, Yu Insun trả
lời câu hỏi trên bằng cách so sánh quan điểm sử học của hai sử gia Lê
Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên, theo thứ tự là sử quan đời Trần và sử quan đời
Lê, tác giả bộ Đại Việt Sử Ký và bộ Sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, (gọi tắt
là Toàn Thư).
Theo bộ sử Đại Việt Toàn Thư, vua Trần
Thánh Tông, trị vì từ năm 1258 tới 1278, chỉ thị cho Lê Văn Hưu tham
khảo sách sử và soạn thành bộ Đại Việt Sử Ký, gồm 30 quyển, dựa theo
phương pháp viết sử của Tư Mã Quang, tác giả bộ sử Tư Trị Thông Giám của
Trung Quốc. Nội dung bộ sử của Lê Văn Hưu, bắt đầu từ Triệu Đà, trị vì
vào khoảng cuối thế kỷ III và chấm dứt vào cuối đời nhà Lý (1225). Ngày
nay giới sử học trong và cả ngoài Việt Nam chỉ tìm thấy bộ Toàn Thư gồm
15 cuốn.
Bộ Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, lấy bộ Sử
Ký của Tư Mã Thiên, Trung Quốc, làm mẫu mực, là một bộ sử biên niên,
khởi từ đời Hồng Bàng, khoảng ba ngàn năm trước công nguyên, kéo dài tới
cuối nhà Lê vào năm 1428. Năm 1428,vua Lê Thánh Tông xuống chiếu chỉ
thị cho các sử thần thâu thập sử liệu gửi về tàng trữ tại Đông Các. Ngô
Sĩ Liên được chỉ định tham dự vụ thâu thập sử liệu nói trên, nhưng ông
có tang thân phụ, phải về quê cư tang. Hết tang, ông trở lại viện Đông
Các thời việc thâu thập sử liệu đã hoàn tất. Ngô Sĩ Liên, sử dụng những
sử liệu do ông thu thập được, trong số đó có bộ Đại Việt Sử Ký của Lê
Văn Hưu, đối chiếu sử liệu Việt Nam với sử liệu Trung Quốc, viết thành
bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, gồm có Ngoại Kỷ, Bản Kỷ và Lê Thái Tổ Kỷ,
dâng lên vua Lê Thánh Tông năm 1479. Số sử liệu tàng trữ tại viện Đông
Các đã thất lạc, chỉ còn bộ Toàn Thư truyền lại tới ngày nay. Sau đó, sử
quan dưới triều Lê ghi chép việc nước viết thành bộ Đại Việt Sử Ký Tục
Biên.
Hai bộ sử Đại Việt Sử Ký và Toàn Thư,
tạm đủ cho việc đối chiếu quan điểm sử học của hai sử quan Lê Văn Hưu và
Ngô Sĩ Liên. Trong Đại Việt Sử Ký, Lê Văn Hưu viết ra 30 lời bàn. Trong
Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên để lại 170 lời bàn. Trong số đó, cho tới hết
triều nhà Lý, sử quan Ngô Sĩ Liên viết 83 lời bàn: tức là có 56 lời bàn
nhiều hơn tổng số lới bàn của Lê Văn Hưu. Có nhiều lời bàn, cả hai sử
quan cùng bàn về một sử kiện. Đối chiếu lời bàn của hai sử quan trong
những trường hợp này giúp người đọc dễ bề so sánh quan điểm sử học của
hai nhà viết sử. Tác giả bộ Đại Việt Sử Ký Tục Biên không ghi thêm lời
bàn.
Lê Văn Hưu
Chế độ
truyền ngôi vua cho con để làm Thái Thượng Hoàng bắt đầu từ năm 1258
dưới triều vua Trần Thái Tông gây thêm mối căng thẳng ngoại giao giữa
hai nước. Hơn nữa tục nhà Trần cho các hoàng tử công chúa thành hôn với
nhau, nhắm mục đích củng cố vương quyền, cùng sự việc nho giả không được
trọng dụng trong triều đình, đều đi ngược lại với tục lệ Trung Quốc.
Thế nên việc vua Trần sai Lê Văn Hưu viết Đại Việt Sử Ký 大 史 có thể
coi như triều đình nhà Trần muốn chứng tỏ quyền bình đẳng và sự độc lập
giữa nước Đại Việt với triều đình nhà Nguyên khi đó đang đô hộ Trung
Quốc.Lê Văn Hưu người Thanh Hóa, sinh năm 1230, mất năm 1322, thọ
93 tuổi. Ông đậu tiến sĩ năm 1247. Sau khi phục vụ trong nhiều chức vụ
trong triều, ông được bổ nhiệm làm Chưởng Sử Quán, kiêm binh bộ thượng
thư. Nhiều sử gia nghiên cứu về Lê Văn Hưu đặt câu hỏi: có những sử kiện
quan trọng nào đã xẩy ra từ năm năm 1230 khi Lê Văn Hưu ra đời tới năm
1272 khi ông hoàn tất bộ Đại Việt Sử Ký? Hiển nhiên sử kiện quan trọng
nhất là thời kỳ quân Nguyên xâm lăng nước Đại Việt năm 1257, tiếp theo
là cuộc chiến thắng của Trần Hưng Đạo đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi.
Triều đình nhà Nguyên phải phong cho vua Trần Thánh Tông, năm 1261 làm
An Nam Vương, từ đó việc bang giao giữa Nhà Nguyên với nhà Trần mới trở
lại bình thường. Tuy nhiên nhà Trần luôn luôn phải đề phòng nạn xâm lăng
của nhà Nguyên. Năm 1271, nhân dịp đăng quang vua Nguyên đòi vua Trần
sang chầu. Năm sau vua Nguyên lại gửi ba sứ thần sang Đại Việt tìm cột
đồng do Mã Viện trồng để đánh dấu biên thùy Hoa-Việt sau khi thắng quân
Hai Bà Trưng năm 42 Tây lịch.
Việc Lê Văn Hưu chọn Triệu Đà 佗 làm khởi
điểm cho việc dựng nước Đại Việt là bằng chứng sự bình dằng giữa hai
nước Hoa-Việt. Điều đó căn cứ trên truyền thuyết lịch sử dưới đây. Năm
196 trước Tây lịch. Sau khi thống nhất được đất nước, Hán Cao Tổ 漢 リ 祖
sai sứ là Lục Giả x ネ sang Nam Việt phong vương cho Vũ Vương Triệu Đà.
Gặp sứ giả nhà Hán, Triệu Đà hỏi: “Ta với Cao Tổ ai lớn hơn ai?” Lục Giả
trả lời Hán Cao Tổ trị vì một nước lớn hơn ắt là lớn hơn.” Triệu Đà hỏi
tiếp: “Nếu ta sinh ra tại Trung Quốc, liệu ta có lớn bằng Cao Tổ
không?”
Sau khi Lữ Hậu 呂后 tiếm ngôi nhà Hán,
việc bang giao giữa Nam Việt và nhà Hán trở nên căng thẳng hơn. Năm 183
trước Tây lịch, Triệu Đà tự xưng là Vũ Đế ngang hàng với các Hoàng Đế
nhà Hán. Sau khi Hán Văn Đế 漢 文 帝 lên ngôi, một mặt Triệu Đà sai sứ sang
triều cống nhà Hán, để duy trì hoà bình giữa hai nước, một mặt vẫn tự
coi là ngang hàng với hoàng đế nhà Hán.
Suốt thời gian Lê Văn Hưu làm quan trong
triều nhà Trần, nước Đại Việt luôn luôn bị nạn xâm lăng của Bắc Triều
đe dọa, nên chắc chắn là ông thấu hiểu tầm quan trọng của việc duy trì
nền độc lập, cùng việc tranh đấu để tránh những mối nhục trong việc bang
giao. Triệu Đà là vị vua khéo léo giữ được độc lập cho đất nước mà
không hy sinh sự đồng đẳng giữa hai nước Nam Việt và Trung Quốc nên
không bị mất mặt trên đường ngoại giao. Đó là những lý do khiến Lê Văn
Hưu coi Triệu Đà như người sáng lập ra nước Việt Nam. Dĩ nhiên Lê Văn
Hưu cũng biết đến những vị lãnh đạo khai quốc khác trước Triệu Đà, nhưng
hình ảnh những vị khai quốc đó mờ nhạt trước hình ảnh Triệu Đà vì những
vị lãnh đạo khai quốc trước Triệu Đà đều bằng lòng với danh hiệu vương 王
do triều đình Trung Quốc phong cho, và không dám nghĩ tới việc xưng đế
帝. Bình về Triệu Đà, Lê Văn Hưu viết cái lớn lao của người trị nước
không phải là cái lớn lao của diện tích đất nước người đó mà là cái đức 德
của người đó. Lời đó là lời Lê Văn Hưu bác bỏ lời Lục Giả so sánh Triệu
Đà với Hán Cao Tổ trên đây. Trong lời Lê Văn Hưu, chữ đức không chỉ
trọn vẹn là chữ đức của đạo nho. Chứ đức này là chữ đức của một vị đế,
biết hạ mình để giữ nước, như lời Lão Tử Đạo Đức Kinh. Lê Văn Hưu đã
đoan kết là hai vị vua đầu nhà Trần, Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông
đều đã theo đúng gương Triệu Đà, một mặt giữ viện toàn được đất nước,
mặt khác mềm mỏng giữ được bình đẳng ngoại giao với triều nhà Nguyên.
Lê Văn Hưu căn cứ trên mức bình đẳng
giữa Trung Quốc và Việt Nam để ghi làm năm khởi đầu nền độc lập của nước
Việt Nam đối với Trung Quốc.
Ông không chọn năm 939, năm Ngô Quyền
xưng vương, một năm sau khi đánh bại quân Nam Hán; mà ông chọn năm 966,
năm Đinh Bộ Lĩnh xưng đế sau khi dẹp xong loạn mười Hai Xứ Quân, đặt
quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đặt kinh đô tại Hoa Lư. Ông công nhận công lao
Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán, nhưng ông chỉ trí Ngô Quyền
không xưng đế, không chọn quốc hiệu, không đặt kinh đô, do đó Ngô Quyền
không hoàn tất sự nghiệp dựng nước cho người Việt. Đinh Bộ Lĩnh, theo Lê
Văn Hưu mới chính là người Trời sai xuống, dẹp tan loạn xứ quân, tiếp
tục truyền thống dựng nước của Triệu Vũ Đế.
Đặt cao nền độc lập của người Lạc Việt,
Lê Văn Hưu kết tội những ai đã làm mất nền tự chủ của nước nhà. Ông
nghiêm khắc chỉ trích tể tướng Lữ Gia 呂 嘉. Vào cuối năm 113 trước Tây
lịch. Dưới triều vua Triệu Ai Vương 哀 王, vua nhà Hán sai An Quốc Thiếu
Quí 安 國 少 季, sang Nam Việt. Sứ nhà Hán nguyên là tình nhân của hoàng hậu
Cù Thị 樛 氏, bà hoàng này vốn chỉ là tỳ thiếp của Triệu Minh Vương, nên
cùng dỗ dành Ai vương đem nước Nam Việt về dâng nhà Hán. Lữ Gia biết mưu
này, can ngăn không được, nên cùng mấy đại thần đem cấm binh vào giết
sứ giả nhà Hán, Cù Thị và Ai vương, tôn Kiến Đức建 德, con trưởng của Minh
Vương, mẹ là người Nam Việt lên làm vua. Nhà Hán nhân truyện này dấy
quân xâm chiếm Nam Việt. Lữ Gia không chống nổi, và Nam Việt trở thành
quân huyện nhà Hán. Việc Lê Văn Hưu kết tội Lữ Gia không giữ nổi nước
chứng tỏ lòng ông thiết tha với nền tự chủ của Nam Việt.
Tiếp theo, Lê Văn Hưu chỉ trích những
nhà lãnh đạo quần chúng, nổi dậy chống Trung Quốc, nhưng không đạt được
tự chủ cho đất nước. Đó là trường hợp Lý Bí 李 チ (còn đọc là Lý Bôn) dưới
triều vua Lương Vũ Đế 梁 武 帝, năm 541 thống lĩnh người nghĩa dũng nổi
lên đánh đuổi thái thú Giao Châu là Tiêu Tư 蕭 諮 về Trung Quốc rồi chiếm
giữ thành Long Biên 龍 編. Theo truyền thống truyền lại từ Triệu Đà, Lý Bí
tự xưng là Nam Việt Đế, lấy quốc hiệu là Vạn Xuân. Sau đó vua nhà Lương
sai tướng Trần Bá Tiên s 8 先 mang quân sang tái chiếm Giao Châu. Lý Bí
thua, phải chạy trốn vào ẩn trong vùng núi, rồi sau đó bị bệnh chết. Lê
Văn Hưu chỉ trích Lý Bí khá nặng. Ông coi Lý Bý chỉ là một viên tướng
trung bình, nhưng đồng thời ông tiếc cho Lý Bí, trong tay có cả năm chục
ngàn quân, đã để lỡ dịp giành lại tự chủ cho người Nam Việt, chỉ vì tài
cầm quân của Lý Bí không bằng tài cầm quân của Trần Bá Tiên.
Theo Yu Insun, Lê Văn Hưu thay đổi quan
điểm về sử học của ông khi bàn về Hai Bà Trưng. Dẫu cuộc khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng, chống triều đình Trung Quốc, chấm dứt bằng một chiến bại,
nhưng tinh thần chiến đấu giành tự chủ cho đất nước đã ăn sâu vào lòng
toàn dân. Điều đó chính là điều đã giúp người dân nước Đại Việt thành
công trong việc đánh đuổi quân Nguyên.
Vốn là một nhà Nho, Lê Văn Hưu tất tin
tưởng rằng người phụ nữ đã đứng lên giành tự chủ cho đất nước, tất nhiên
người trai đất Đại Việt phải bảo vệ đất nước hữu hiệu hơn nữa.
Lê Văn Hưu đề cao việc bảo tồn nền tự
chủ của đất nước khi ông so sánh vua Lý Thái Tổ, tức Lý Công Uẩn 李 公, vị
vua khởi nghiệp nhà Lý, và trị từ 1010 tới 1028 với vua Lê Đại Hành nhà
Tiền Lê tên là Lê Hoàn ホ 桓 làm quan Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh.
Nhân khi vua nhà Đinh còn nhỏ tuổi, và
lại có quân nhà Tống sang xâm, quân sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức Đại
Hành Hoàng Đế 大L 皇帝. Người đời sau ca tụng Lê Đại Hành có công phá Tống
bình Chiêm, dẹp yên được loạn nước. Dưới mắt Lê Văn Hưu, Lý Công Uẩn
không hơn Lê Hoàn vì công dựng nước nhưng vì Lý Công Uẩn có đức dầy hơn
Lê Hoàn lập ra triều nhà Lý lâu dải hơn, bởi khi đất nước lâm nguy,
ngưòi lãnh đạo không những cần có tài mà còn cần có cả đức mới giữ được
nước lâu dài.
Lê Văn Hưu cho là nhà Tiền Lê không tồn
tại lâu dài vì Lê Hoàn đã không sớm chọn thái tử, khiến khi khi Lê Hoàn
vừa băng hà thời đã xẩy ra việc tranh giành ngôi vua giữa các hoàng tử
kéo dài bẩy tháng. Để cuối cùng người con út là Long Đĩnh フ cướp ngôi
của anh là vua Lê Trung Tông ホ 中 宗 mới lên ngôi được ba ngày. Long Đĩnh
là một ông vua vô cùng bạo ngược, và theo Lê Văn Hưu thì chính Long Đĩnh
là người làm đổ ngôi nhà Tiền Lê.
Đằng khác Lê Văn Hưu chỉ trích triều Lý
không sớm chọn thái tử, nên khó tránh được nạn nội loạn, bởi theo tục
nhà Lý, tới khi lâm bệnh nặng, vua cha mới chọn người có tài năng đảm
lược làm người kế vị. Nhà Trần lấy đó làm gương, nên vua cha sớm chọn
thái tử, nhường ngôi cho thái tử và lên ngôi thái thượng hoàng.
Lê Văn Hưu chỉ trích vua Đinh Bộ Lĩnh
phong cho năm bà vợ lên ngôi hoàng hậu. Sau đó, Lê Hoàn cũng như nhiều
vua nhà Lý phong chức hoàng hậu cho nhiều bà vợ. Sụ kiện này chứng tỏ
nhà vua muốn củng cố sức mạnh của triều đình bằng cách liên kết với gia
đình các hoàng hậu. Tuy nhiên cũng vì vậy mà cơ đồ triều chính bị đe dọa
bởi nội loạn trong thời kỳ tuyển chọn người kế vị hay chính trong ngày
truyền ngôi.
Lê Văn Hưu còn chỉ trích Lý Công Uẩn chỉ
phong vương cho cha, trong khi vua Thái Tổ nhà Tống phong đế cho thân
phụ. Sử gia còn hiểu là việc phong vương cho cha là do đức vô kỷ của Lý
Công Uẩn. Đồng thời ông chỉ trích Lý Công Uẩn đã sao lãng truyền thống
vun đắp tự chủ từ Triệu Đà truyền xuống.
Cũng vì chủ ý đề cao việc duy trì nền tự
chủ của đất nước, nên Lê Văn Hưu kết tội mọi hành động của các vị vua
chúa sao lãng việt đề cao nền tự chủ. Đó là trường hợp Ngô Xương Văn,
con trai của Ngô Quyền. Lê Văn Hưu ngợi khen Ngô Xương Văn 吳 昌 文về việc
ông tha thứ cho Dương Tam Kha 楊 三 哥 cậu ruột ông về tội cướp ngôi vua
của cháu, nhưng ông chỉ trích Ngô Xương Văn về việc mời Ngô Xương Ngập 吳
昌 岌 về cùng coi việc nước, khiến từ đó xẩy ra việc Ngô Xương Ngập tranh
quyền, thế lực nhà Ngô mỗi ngày một kém và đất nước lâm vào nạn mười
hai xứ quân. Lê Văn Hưu chỉ trích vua Lý Thái Tông 李 太 宗 trong việc dẹp
giặc Nùng, đã cương quyết xử tử Nùng Tồn Phúc 儂 存 福 nhưng đã vì lòng từ
bi tha cho Nùng Trí Cao 儂 智 リ và còn gia phong cho y chức Thái Bảo, và
chỉ một năm sau Trí Cao lại làm loạn, và xin phụ thuộc vào Trung Quốc.
Lời chỉ trích của Lê Văn Hưu chứng tỏ mối lo ngại của ông nhân vụ tạo
phản của Trí Cao mà mở đường cho Trung Quốc xâm lăng Nam Việt. Lê Văn
Hưu cũng chỉ trích vụ vua Lý Anh Tông 李 宗 bình Chiêm Thành, lập một vua
mới cho Chiêm Thành. Chỉ ít lâu sau, vị vua này bị một hoàng thân cướp
ngôi. Vua Anh Tông phong vương cho hoàng thân phản loạn đó. Chính vị vua
thứ hai này chỉ it năm sau mang quân xâm phạm đất nước nhà Lý.
Ngoài mối quan tâm về nền tự chủ và hoà
bình của đất nước, Lê Văn Hưu còn nặng lòng về việc tham gia triều chính
của nho giả. Ông chỉ trích vua Lý Thái Tổ, sau khi di đô về Thăng Long
đã không xây cất Thái Miếu cho xứng đáng, như vậy là không tròn chữ hiếu
của đạo Nho. Ông còn chỉ trích việc vua Lý Thái Tổ cho xây cất quá
nhiều chùa chiền, làm hao tài sản quốc gia phí phạm công lực của nhân
dân. Chắc chắn là Lê Văn Hưu phải biết là vua Lý Thái Tổ thủa trẻ đã
được nhà sư Phật Giáo chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Vân 李 慶 文 nhận làm
con nuôi, dậy dỗ thành người, nhưng phải chăng vì lợi ích quốc gia ông
đã thẳng thắn chỉ trích lòng mộ đạo Phật của nhà vua.
Đằng khác, người đọc sử ghi nhận rằng
ngay từ đầu nhà Trần đã có những kỳ thi kén người tài theo học đạo Nho
ra giúp nước. Nhưng trên thực tế, số nho giả trong triều không nhiều, và
không được giữ những địa vị then chốt.
Cho tới khi quân nhà Nguyên xâm lấn dất
Đại Việt, vì nhu cầu ngoại giao, địa vị nho gia trong triều nhà Trần mới
được nâng cao và dần dần tăng tiến thành một lực lượng chống đối ảnh
hưởng Phật Giáo ở trong triều. Yu Insun cho rằng việc Lê Văn Hưu chỉ
trích vua Lý Thái Tổ trên đây chỉ là một đường lối khéo léo của sử gia
để gián tiếp chỉ trích phe thân Phật Giáo trong đời Trần.
Ngô Sĩ Liên
Ngô Sĩ Liên người trấn Sơn Nam 山 南, có
người nói ông từng theo phò Lê Lợi ホ 利 trong cuộc khởi nghĩa chống quân
nhà Minh. Ngô Sĩ Liên đậu tiến sĩ năm 1442, dưới triều vua Lê Thánh
Tông. Ông giữ chức Đô Ngự Sử dưới triều vua Lê Nhân Tông. Dưới triều vua
Lê Thánh Tông, ông làm Quốc Tử Giám Ty Nghiệp, và tham dư vào việc soạn
thảo bộ quốc sử. Năm sinh năm mất của ông không được sách sử ghi chép
rõ, nhưng nhiều người tin rằng ông mất năm 99 tuổi. Với tuổi thọ đó,
cuộc đời Ngô Sĩ Liên trải dài qua nhiều thăng trầm của lịch sử: cuộc suy
thoái của nhà Trần và nhà Hồ; tiếp theo là hai mươi năm đô hộ dưới
triều nhà Minh với chính sách tàn khốc tiêu diệt văn hóa Việt Nam; nhưng
quan trọng hơn cả là cuộc chiến đấu giành tự chủ cho đất nước của Lê
Lợi. Từ khi Lê Lợi dựng nên nhà Lê, ảnh hưởng Khổng Giáo trong triều lớn
mạnh cùng số quan gia nho học ngưòi vùng châu thổ sông Nhị và thắng thế
ảnh hưởng Phật Giáo của nhóm Phật Tử được trọng dụng người vùng Thanh
Hóa trong việc triều chính, và ảnh hưởng Khổng giáo trở thành độc tôn
dưới triều vua Lê Thánh Tông. Trong sinh hoạt tinh thần đó Ngô Sĩ Liên
đã trước tác bộ sử Toàn Thư.
Nhiều sử gia ngày nay tự hỏi lý do nào
đã khiến Ngô Sĩ Liên trước tác bộ sử Toàn Thư, trong khi ông đã từng là
một thành viên trong công cuộc sưu tập bộ quốc sử tàng trữ tại viện Đông
Các? Có thể trả lời là việc soạn thảo bộ quốc sử là một công cuộc gồm
nhiều nho giả, thế nên người tham dự khó bề bày tỏ những lời phê phán
bình luận. Bởi vậy, theo sử gia Wolter(1), Ngô Sĩ Liên đã đơn độc trước
tác bộ sử Toàn Thư với chủ đích là đề cao Khổng Giáo như một cơ động
giúp cho người nước Đại Việt có một học thuyết căn bản để duy trì nền tự
chủ trong thời gian đất nước gặp cơn nguy biến và theo Yu Insun, thì
hành động này giúp Ngô Sĩ Liên đứng được ra ngoài vụ tranh chấp ảnh
hưởng giữa Nho Giả vùng châu thổ sông Nhị với Phật Tử được trọng dụng
vùng Thanh Hóa. Trong toàn bộ Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên viết ra tổng cộng
170 lời bàn, trong số đó có 86 lời bàn về sử kiện xẩy ra dưới triều nhà
Lý; 72 lời bàn về sử kiện xẩy ra dưới đời nhà Trần và nhà Hồ cùng hai
chục năm tranh đấu chiến thắng quân xâm lược nhà Minh, phần còn lại là
lời bàn về sử kiện dưới triều vua Lê Thái Tổ.
Khổng Học, nhất là Tân Khổng Học ảnh
hưởng mãnh liệt trên việc trước tác của Ngô Sĩ Liên, lời bàn của ông đều
đặt trên đạo lý gia tộc và tương quan giữa vua và dân. Ông tin tưởng
chắc chắn rằng đó là hai điểm quan trọng trong việc trị nước an dân. Năm
1320, khi vua Trần Anh Tông (tri vì từ 1293-1314) băng hà, ông trích
sách Mạnh Tử(2):
天 下 之 本 在 國 Thiên hạ chi bổn tại quốc 國 之 本 在 家 quốc chi bổn tại gia 家 之 本 在 ? gia chi bổn tại thân
Nghĩa là: gốc của thiên hạ là nhà nước,
gốc của nước là nhà, gốc của nhà là thân. Rồi Ngô Sĩ Liên thêm: “thân có
tu, nhà mới tề, nước mới trị, điều ấy là khuôn vàng thước ngọc từ đời
Nghiêu Thuấn, và đến ngày nay vẫn thật đúng như vậy.” Do đó ông chỉ
trích bất kỳ ai vi phạm nguyên tắc này.
Ngô Sĩ Liên hết lời ca tụng vua Trần Anh
Tông, vì nhà vua dốc lòng tu thân, thờ phụng cha mẹ, giữ vẹn niềm hòa
hảo với họ hàng, và nhất là thờ kính tổ tiên. Thế nên, theo Ngô Sĩ Liên,
triều vua Trần Anh Tông là một triều thịnh trị, nhân dân sống đời an
lạc. Tuy nhiên, ông vẫn còn chỉ trích vua Trần Anh Tông hãy còn một điều
thiếu sót trong lễ quốc táng Thượng Hoàng Trần Nhân Tông.
Ngô Sĩ Liên cực lục chỉ trích việc làm
loạn luân nhân để củng cố cho ngôi nhà Trần được bền vững. Đó là sự việc
Thái Sư Thống Quốc Hành Quân Chinh Thảo Sự Trần Thủ Độ cưỡng ép vua
Trần Thái Tông, giáng Chiêu Thánh Hoàng Hậu, người đã lấy vua Trần Thái
Tông được 12 năm, xuống làm công chúa, rồi đem chị bà Chiêu Thánh, tức
vợ Trần Liễu lên làm Hoàng Hậu, bởi vì Hoàng Hậu Chiêu Thánh không có
con nối dõi và bà chị đã có thai được ba tháng. Việc phi luân này đã
được lập lại dưới Triều vua Trần Dụ Tông (trị vì từ 1341 tới 1369).
Ngoài ra, Ngô Sĩ Liên còn trách vua Trần Thái Tông đã hứa gả công chúa
cho Trung Thành Vương, rồi cuối cùng lại gả cho một hoàng thân khác.
Ngô Sĩ Liên tin tưởng là ngôi vua sẽ
truyền cho người con trưởng của vua cha. Nếu Hoàng Hậu không có con nối
dõi, con một thứ phi có thể được phong làm Thái Tử. Trong trường hợp
Hoàng Hậu sau đó sinh Hoàng Nam, Thái Tử con bà thứ phi phải từ chức
nhường ngôi cho Hoàng Nam con bà Hoàng Hậu. Thế nên Ngô Sĩ Liên thương
tiếc Hoàng Thân Trần Quốc Chấn bị sát hại dưới triều vua Trần Minh Tông
(trị vì từ 1314 tới 1329) chỉ vì hoàng thân đã can ngăn việc lập một
Hoàng Nam con một bà thứ phi lên làm Thái Tử, không đợi Hoàng Hậu sinh
Hoàng Nam. Ngô Sĩ Liên cũng tin tưởng là Hoàng Nam em có thể được nối
ngôi vua khi Hoàng Nam anh không đủ khả năng nối ngôi. Thế nên Ngô Sĩ
Liên chỉ trích vua Đinh Bộ Lĩnh lập con bà thứ phi là Hạng Lang làm thái
tử thay vì truyền ngôi cho con trưởng con bà Hoàng Hậu là Hạng Liễn vốn
là người văn võ toàn tài.
Trong trường hợp Hoàng Đế không có Hoàng
Nam nối ngôi, thời phải lập một ngưòi cháu trai, như trường hợp vua Lý
Nhân Tông nhưòng ngôi cho cháu. Ông cực lực chống lại việc nhường ngôi
cho một công chúa như việc vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Công Chúa Lý
Chiêu Hoàng. Theo Ngô Sĩ Liên thì vua Lý Huệ Tông đã không noi gương vua
Lý Nhân Tông nên đã mở cửa cho Trần Thủ Độ lật đổ ngôi nhà Lý và lập ra
nhà Trần.
Nhà Trần cũng theo gương nhà Lý không
nhất thiết truyền ngôi vua cho Hoàng Nam con cả của vua. Để tránh việc
tranh giành ngôi vua, nhà Trần đặt ra tục lập ngôi Thái Thượng Hoàng.
Dầu thấu hiểu tục lệ nhà Trần như vậy, Ngô Sĩ Liên cũng bàn là không nên
lập vua mới khi vua cha hãy còn sống, để một nước một lúc có hai vua.
Ngô Sĩ Liên chủ trương đàn bà góa không
được tái giá để giữ tiết với chồng cũ, theo đúng lệ tam tòng của Nho
Giáo. Tục này phải được bắt đầu từ trong hoàng tộc, để làm gương cho tứ
dân. Chủ trương đó nhằm tránh những vụ thoán ngôi vua như vụ Lê Hoàn lấy
bà Dương Hậu lập ra nhà Tiền Lê, vụ Trần Thủ Độ lấy vương Hậu Linh Từ
lập ra nhà Trần. Đi xa hơn, Ngô Sĩ Liên ca ngợi việc các vương hậu nước
Chàm phải chịu thiêu sống để giữ vẹn đức tam tòng.
Người đọc sử tự hỏi rằng, vốn là một nho
giả chân chính, phải chăng Ngô Sĩ Liên nhiệt liệt cổ động cho việc gái
hóa phải chết theo chồng là để duy trì chữ Trung của đạo nho theo câu
tục trai trung một chúa, gái trinh một chồng. Cũng trong dòng tư duy
này, sử còn chép truyện năm 1285, khi quân nhà Trần phá quân Nguyên, chủ
tướng quân Trung Quốc là Toa Đô bị trúng tên chết. Khi các tướng thắng
trận đưa đầu Toa Đô về nộp vua Trần Nhân Tông, vua thấy người dũng kiệt
hết lòng với chúa mới than rằng: “Làm bầy tôi nên như người này!” rồi
cởi áo bào đắp vào thủ cấp Toa Đô, sai làm lễ mai táng theo quân cách.
Với chủ trương trai trung một chúa, Ngô
Sĩ Liên cực lưc bài bác những mưu đồ thoán nghịch của Lê Hoan, Trần Thủ
Độ và nhất là Hồ Qúy Ly, cả ba cùng là những tặc thần lập mưu giết vua
để cướp ngôi vua. Theo Ngô Sĩ Liên, Lê Hoan đáng tội chết chém, Trần Thủ
Độ không đáng so sánh với loài chó lợn và Hồ Qúy Ly bi trời phạt khiến
giặc Nam không giết nổi thời giặc Bắc không tha.
Theo Yu Insun thời Ngô Sĩ Liên nặng lời
chỉ trích Lê Hoàn, Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly thí vua cướp ngôi báu, không
chỉ riêng bởi Ngô Sĩ Liên là một tân nho giả mà còn phản ánh nội tình
triều nhà Lê, ngày đó, khi vua Lê Nhân Tôn bị người anh là Nghi Dân 宜 民,
trước kia đã được phong làm Thái Tử, sau vì mẹ phải tội cho nên bị phế
bỏ. Năm 1459 Nghi Dân đồng mưu với Lê Đắc Ninh 黎 得 寧, Phạm Ban 范 般 v.v…
nửa đêm trèo vào thành giết vua Lê Nhân Tôn và hoàng thái hậu, tự xưng
làm vua rồi sai sứ sang Trung Quốc cầu phong.
Mối quan tâm của Ngô Sĩ Liên là sự an
nguy của đất nước trước sự đe dọa của kẻ thù phương Bắc, dẫu rằng nhà
Minh sau khi bị đuổi ra khỏi bờ cõi không còn là một mối đe dọa nặng nề
như quân nhà Nguyên dưới đời Trần.
Thế nên, theo Yu Insun, từ khi vua Lê
Lợi chiến thắng quân Minh sau hai mươi năm đô hộ, mối lo chính của Ngô
Sĩ Liên là sự bất ổn của tình hình quốc nôi khơi ngòi cho việc xâm lăng
của ngoại bang. Đó là lý do khiến Ngô Sĩ Liên đặt bản văn Bình Ngô Đại
Cáo của Nguyễn Trãi vào trong bộ sử Toàn Thư.
Bản Bình Ngô Đại Cáo xác quyết Đại Việt
là một nước có văn hiến riêng, bờ cõi phân chia rõ ràng, phong tục khác
hẳn Trung Quốc. Khác với Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên khẳng định là nước Đại
Việt có một lịch sử dài không thua lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ vua
Thần Nông. Theo tục truyền Kinh Dương Vương, vị vua đầu tiên của đất Nam
Việt là anh khác mẹ của Đế Nghi, vị vua đầu tiên của người phương Bắc.
Thật thế, Đế Minh, cha của Đế Nghi và Kinh Dương Vương là cháu ba đời
vua Thần Nông, có ý lập Kinh Dương Vương lên nối ngôi, nhưng Kinh Dương
Vương từ chối nhường ngôi cho Đế Nghi làm vua phương Bắc, còn mình làm
vua phương Nam.
Ngô Sĩ Liên lo lắng cho mối an nguy nước
Đại Việt phản ánh trong lời bàn của ông về những vụ xâm lăng của quân
Mông Cổ từ phương Bắc, qua những vụ xâm phạm bờ cõi miền Nam của quân
Chiêm. Ngô Sĩ Liên ca tụng thượng hoàng Trần Nhân Tông, không những có
tài điều binh khiển tướng đánh đuổi được quân Nguyên, mà còn triệu tập
Hôi Nghị Diên Hồng, đoàn kết toàn dân thành một khối quyết tâm bảo vệ
đất nước. Ngược lại ông chê trách triều nhà Trần bỏ ngỏ biên giới miền
Nam mở đường cho quân Chiêm Thành sang quấy phá Đại Việt. Ông chê trách
Thượng Hoàn Dụ Tông quen sống trong cảnh đất nước thịnh vương bình an mà
trở thành quá phóng túng, chỉ nghĩ tới chuyện mua vui. Ông cũng chê
trách vua Trần Nghệ Tông quá mải mê với văn học mà sao lãng việc binh
đến độ để quân Chiêm Thành vào cướp phá thành Thăng Long vào mùa thu năm
1371.
Nhân danh một nhà Tân Nho, Ngô Sĩ Liên
bài bác ảnh hưởng Phật Giáo trong hai triều nhà Lý và nhà Trần. Ông quan
niệm việc vua Lý Thái Tổ khi vừa đăng quang liền cho xây chùa tô tượng
Phật khắp nơi trong nước là một điều quá đáng, dầu ông không quên là vua
Lý Thái Tổ là con nuôi của nhà sư Lý Khánh Vân, và nhờ vậy mà thành
nhân. Ngô Sĩ Liên ca tụng vua Trần Nhân Tông là một vị minh quân từng
chiến thắng quân Nguyên xâm phạm đất Đại Việt, nhưng ông coi việc vua
Trần Nhân Tôn, sau khi thoái vị làm Thái Thượng Hoàng, trở thành đệ nhất
tổ giòng Thiền Trúc Lâm, là một hành động chứng tỏ vua Trần Nhân Tôn
không giữ vẹn chữ Trung Dung của đạo Nho.
Hơn nữa,vẫn nhân danh là một nho sĩ, Ngô
Sĩ Liên còn phê bình việc thay đổi niên hiệu của vua Lý Thái Tổ năm
1034. Năm ấy hai nhà sư Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm tự thiêu, thi
thể cháy kết thành thất bảo. Vua xuống chiếu đem thất bảo đó giữ ở chùa
Trường Thánh để thờ, nhân dịp đó vua đổi niên hiệu là Thụy Thông; sử
thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn(3):
Thuyết nhà Phật gọi là xá lị tức là khi tự thiêu mình, tinh khí tụ lại kết thành một thứ lửa không cháy được, cho nên gọi là bảo. Tương truyền là người nào học Phật thành thì xác hồn làm bảo như thế. Vì rằng người sãi đoạn tuyệt tính dục thì tinh khí kết thành ra thứ ấy. Người đời cho là không thường, thấy mà cho là lạ, có biết đâu là tinh khí dương tụ lại mà thành thôi. Vua cũng mê hoặc mà đổi niên hiệu. Từ đấy về sau những người hiếu danh, cạo đầu làm sãi, nhẫn nại chịu chết như loại Trí Không này nhiều lắm.
Xuống tới đời Hoàng đế Lý Nhân Tôn, năm
1096, thái sư Lê Văn Thịnh làm phản, Vua Lý Nhân Tôn tha tội chết, an
trí tại Thao Giang. Nguyên bấy giờ vua ngự thuyền xem đánh cá tại hồ Dâm
Đàm. Chợt có mây mù, trong đám mù có tiếng thuyền bơi tới, vua lấy giáo
ném. Bỗng chốc mây mù tan, trong thuyền ngự có con hổ. Có người than:
Nguy lắm rồi! Có người đánh cá tên Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ,
thì hổ biến ra thành thái sư Lê Văn Thịnh. Lê Văn Thịnh vốn có tà pháp
làm ra vậy để tính truyện cướp ngôi. Vua thưởng cho Mục Thuận, và cắt
đất cho lập ấp. Ngô Sĩ Liên có lời bàn về truyện này(4):
Người làm tôi định cướp ngôi giết vua mà được miễn tội chết! Thế là sai trong việc hình, lỗi ở vua tin Phật Giáo. Mùa thu tháng 7 ngày 25, Ỷ Lan hoàng thái hậu băng hà, hỏa táng; dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu, lại bắt người thị nữ chôn theo.
Ngô Sĩ Liên có lời bàn về việc này(5):
Hoả táng là theo Phật Giáo, chôn theo là tục nhà Tần. Nhân Tôn Hoàng Đế làm cả hai việc ấy, hoặc giả theo lời của Thái Hậu chăng?
Theo Yu Insun, lời bàn của Ngô Sĩ Liên,
đặt câu hỏi về lời di chú của Ỷ Lan hoàng thái hậu, là bởi Ngô Sĩ Liên
có ý bài bác vua Lý Nhân Tông vì chính nhà vua, theo tục lệ Phật Giáo,
ban lệnh thi hành việc hỏa táng và việc chôn theo thị nữ của hoàng thái
hậu.
So Sánh hai Sử Gia
Yu Insun cho rằng quan điểm sử học của
Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên là sản phẩm của thời đại của mỗi người. Với Lê
Văn Hưu, sử kiện đáng chú ý nhất là những thành tích kháng Nguyên giữ
nước của triều nhà Trần. Với Ngô Sĩ Liên, một sử thần của triều nhà Lê,
Khổng Học lúc đó đã trở thành một nền quốc học, thế nên giáo lý cũng như
tập tục Khổng Giáo là những mối quan tâm hàng đầu. Đằng khác, Ngô Sĩ
Liên đã từng sống qua hai chục năm dưới sự đô hộ của quân Minh, nên ông
hiểu rõ tầm quan trọng của nền an ninh quốc nội trong việc ngăn chặn
người phương Bắc xâm lấn đất nước vả duy trì nền tự chủ của nước Đại
Việt.
Khác biệt giữa quan điểm sử học của hai
sử thần thấy rõ qua sự khác biệt giữa những lời bàn trên cùng một sử
kiện. Lời bàn của Lê Văn Hưu chú trọng tới nền an nguy của đất nước và
sự bình đẳng giữa nước Nam với nước Bắc.
Ngô Sĩ Liên chỉ bàn về hai vấn đề này
trong bốn sự kiện. Đằng khác, Ngô Sĩ Liên dành 11 lời bàn về giáo lý
Khổng Học, Lê Văn Hưu chỉ nói tới vấn đề liên quan tới Khổng Hoc trong 5
lời bàn. Sự khác biệt giữa hai sử thần còn rõ rệt hơn nữa qua những lời
bàn cùng về những sử kiện dưới triều vua Ngô Quyền và vua Đinh Bộ Lĩnh.
Lê Văn Hưu tin chắc rằng Ngô Quyền không
hoàn toàn tạo dựng được nền tự chủ cho đất nước như Triệu Đà đã đặt
được trước khi quân của Hán Vũ Đế sang xâm lấn, bởi chiến thắng của Ngô
Quyền đã khiến nhà Hán phải bỏ mộng xâm lược, nhưng ông tiếc cho Ngô
Quyền không nhân dịp đó xưng đế như Triệu Đà. Ngược lại Lê Văn Hưu ca
tụng Ngô Quyền ngoài tài thống lĩnh quân đội còn giỏi tổ chức việc nội
trị, tạo nên nề nếp cho đời sống nhân dân. Ông kết luận rằng với một
công nghiệp như vậy, Ngô Quyền xứng đáng là một Hoàng Đế của nước Nam
Việt. Lê Văn Hưu chủ xướng là Đinh Bộ Linh đã giành được nền tự chủ hoàn
toàn cho đất nước, không kém gì Triệu Đà đời trước. Đinh Bộ Lĩnh đã tự
xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu mới, sửa sang giềng mối triều chính. Ngược
lại, Ngô Sĩ Liên coi nhẹ công nghiệp của Đinh Tiên Hoàng, vì ông chủ
trương là Ngô Quyền đã giành được hoàn toàn nền tự chủ cho Nam Việt.
Ngược lai ông chỉ trích Đinh Bộ Lĩnh và con cả là hoàng tử Đinh Liễn là
không hành xử theo đúng tập tục Khổng Học. Đinh Bộ Lĩnh đã vượt qua
truyền thống truyền ngôi của các triều đại Trung Quốc đặt trên nền tảng
Khổng Học: nhà vua đã bỏ con trưởng Đinh Liễn và lập con út là Hạng Lang
lên nối ngôi. Đinh Liễn đã tùng theo cha chinh chiến nhiều năm trong
việc dẹp loạn 12 xứ quân, nên tức giận lập mưu giết Hạng Lang, nên cũng
không giữ tròn đạo làm tôi theo Khổng Học, đồng thời gây ra mối loạn
trong nhà để người phương Bắc có cơ hội nhòm ngó bờ cõi. Người đọc sử có
thể hiểu rằng lời Ngô Sĩ Liên chỉ trích cha con Đinh Bộ Lĩnh phản ảnh ý
ông muốn ám chỉ trích việc tranh giành ngôi báu trong triều nhà Lê lúc
bấy giờ.
Ảnh hưởng Khổng Giáo từ triều nhà Lê
không những chỉ mỗi ngày một lớn mạnh trong việc triều chính mà còn thấm
nhập từ từ vào trong mọi hoạt động trong dân gian, truyền qua đời nhà
Nguyễn, cho tới khi người Pháp bỏ thi Hương hồi đầu thế kỷ XX mới suy
giảm. Nhiều nhà sử học ngày nay cho rằng điểm triều đình các nhà Đinh,
Lê, Lý và Trần tôn trọng Phật Giáo hơn Khổng Giáo là một truyền thống
của người Việt Nam khác với truyền thống của người Trung Quốc lấy Khổng
Giáo làm quốc giáo. Chính nhờ điểm khác biệt đó mà dân Việt Nam đã không
bị Trung Quốc đồng hóa.
(1) Wolter, “What Else May Ngô Sĩ Liên Mean” in
“Sojourners and Settlers: Histories of Southeast Asia and the Chinese”,
University of Hawai Press 2001. Edited by Reid Anthony.
(2) Đoàn Trung Còn, Tứ Thơ Mạnh Tử, NXB Thuận Hóa, Huế, 1996, tr.12.
(3) Ngô Sĩ Liên, Toàn Thư, Tập 1, bản dịch của Cao Huy Gịu, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967, tr. 210.
(4) Ngô Sĩ Liên, ibid. tr. 242.
(5) Ngô Sĩ Liên, ibid. tr. 248.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét