Nguyễn Quang Thân
Thế là không hy vọng gì nữa rồi. Nhà máy đóng giầy phá sản. Cả năm nay Hảo sẽ không có việc làm. Đề tài, số tiền trợ cấp ban đầu và bản quyền bán cho nhà máy tan thành mây khói. Khách hàng đã tẩy chay thứ giầy bong mũi của nhà máy trước khi loại keo dán tuyệt vời của Hảo qua được bát quái trận thủ tục.
Thế là không hy vọng gì nữa rồi. Nhà máy đóng giầy phá sản. Cả năm nay Hảo sẽ không có việc làm. Đề tài, số tiền trợ cấp ban đầu và bản quyền bán cho nhà máy tan thành mây khói. Khách hàng đã tẩy chay thứ giầy bong mũi của nhà máy trước khi loại keo dán tuyệt vời của Hảo qua được bát quái trận thủ tục.
Vậy mà cũng phải ăn, phải gửi tiền cho con gái lên Hà
Nội học thêm, phải nuôi cái xe đạp tàng, hễ mó đến là ăn vạ tiền nghìn.
Rồi chén cà-phê đen mỗi sáng, quên nó một bữa là Hảo thấy mình đang mọc
đuôi ra.
Thế nào cũng phải làm một cái gì! Nhưng ngoài cái chuyên
môn được ghi trong mảnh bằng phó tiến sĩ, Hảo không biết làm gì khác.
Cũng không thể như Tứ, hoạ sĩ ở tầng dưới. Tứ thường không biết ngày mai
mình ăn gì, ăn ở đâu. Tứ nói: “ Đói là con hổ, đừng nhìn nó, nhìn là nó
vồ ngay”.
Nhưng Tứ đã bước vào phòng đúng lúc Hảo đang nghĩ đến anh, nhem nhuốc như cái xơ mướp nhúng vào thùng bột màu.
– Này cậu, có việc này hợp với cậu lắm. Nhưng pha cà-phê uống cái đã.
Hảo lóng ngóng múc cà-phê vào phin. Hay là Tứ rủ mình làm bạc giả? Trông mặt y như đang thu vén quần áo để vào Hoả Lò.
– Việc gì thế?
– Giữ trẻ! Tháng một trăm tì, có ăn trưa. Được chưa?
– Tốt quá. – Hảo nghi ngờ, chùm rẽ quạt toé từ mắt xuống đôi gò má – Món thơm thế đâu đến phần mình. Với lại còn cơ quan...
– Thì đã bảo người ta cần mà. Chăn một thằng bé ba tuổi rưỡi, nói tập
toẹ. Vừa chăn vừa dạy tiếng Anh để lớn lên biết đọc tên các công ty
trong phố và phân biệt được nhà vệ sinh nam nữ ở sân bay. Việc cơ quan
thì để tớ gà cho. Đăng ký một đề tài thật kêu, đại khái thế này: “Ném
một cái nhìn vào quy trình chế tạo keo dán mũi giầy ở địa phương ta”,
nhớ là phải có chữ ta, không cần xin trợ cấp, xin hai năm ngồi nhà
nghiên cứu, được chưa?
Không bị Tứ rủ đi làm bạc giả là phúc rồi.
Hảo đăng ký đề tài, anh có chữa lại vài chữ của Tứ. Ném một cái nhìn,
không được. Cuối cùng: Tiếp cận hyperbole tính duy vật biện chứng...
song ngữ: Faire une hyperbole.... (tiếng Pháp) và To take a hyperbola...
cộng thêm hai trang đề cương (cũng song ngữ). Được rồi, rất có e! Hảo
qua mặt được chủ nhiệm Uỷ ban khoa học kỹ thuật tỉnh vốn trước là giáo
viên cấp III. Trong bản dịch đề cương tiếng Anh có mấy tiếng khó dịch,
Hảo bịa ra, nhưng chắc là ông không biết. Ông thường bắt cán bộ làm
thuyết minh song ngữ nhưng bản thân ông không phân biệt được tiếng Pháp
với tiếng Anh, trừ tiếng Nga nhờ những chữ N ngược kỳ lạ của nó. Ông
nói: “ Cậu khá lắm, tính tư tưởng, tính địa phương, đề tài của cậu ưng
cái bụng mình lắm rồi. Nhưng có xin trợ cấp không đấy ? Không hả. Tốt,
nhớ khao nhé!”. Ông ký một cái rẹt, chữ ký như con bọ cạp đang bò.
Thế là Hảo có hai năm rỗi rãi. Sẽ khao, sẽ khao. Ông chủ nhiệm và cả Tứ nữa, những nhà Mạnh Thường Quân của khoa học.
Một chú chó Nhật sủa lách nhách rồi te tái tuồn dưới chân hai người.
“Ê, Mi-mô-sa, Mi-mô-sa, ngoan nào... Xin mời hai bác...”. Chị chủ nhà
nhặt vội con chó lên, nghi ngại nhìn cái ống quần lem nhem của anh hoạ
sĩ dắt mối. Tứ xăng xái:
– Tôi dẫn anh Hảo đến như đã hứa với chị. Bây giờ tôi phải đi treo cờ mồng một tháng năm. Xin hai vị cứ tự nhiên.
Hảo nhìn chị chủ nhà. Chị đẹp, sang trọng và thừa thãi. Áo quần, mỡ phần, không gian và thời gian.
– Chắc anh Tứ đã nói với anh. Cháu cần một người có học trông nom, bố
cháu nói ở Nhật người giữ trẻ đều phải qua đại học. Tôi giao cháu cho
anh ban ngày, anh ở lại ăn trưa, ngủ với nó hai giờ mỗi ngày, nhất thiết
phải cho nó ngủ hai giờ như ở nhà trẻ. Và dạy tiếng Anh cho cháu. Tôi
muốn mướn một cô giữ trẻ. Nhưng chồng tôi lại muốn có một người đàn ông,
anh ấy nói cháu phải có nam tính mạnh mẽ để đua ganh với đời.
Mọi việc đã xong xuôi. Chị nói: “ Ban đầu hẵng biết thế. Còn sau này...”
Rồi chị nhìn xoáy vào mắt anh (anh khẽ rùng mình), khuôn mặt lặng lẽ
buồn chán và sung mãn của chị bỗng bừng sáng. Có lẽ chị cũng có học,
không phải loại mướn vua về múa như anh nghĩ. Anh hỏi: “Cháu đâu? ”. Rõ
ràng là chị đã quên mất thằng bé. Chị ừ hữ: “Tôi cho cháu về bên ngoại.
Anh cứ gọi nó là thằng Cu. Chúng tôi vẫn gọi cháu thế cho dễ nuôi. Mai
xin mời anh đến”.
Sáng hôm sau chị chủ nhà và thằng Cu đón anh ở
cửa. Con Mi-mô-sa đứng cạnh. Nó có vẻ ngạc nhiên khi thấy anh dám dắt
một chiếc xe đạp như thế vào cái sân rải sỏi. Chị thì nuột nà trong bộ
mút-xơ-lin màu thiên lý, thoa sơ sài một lớp phấn mỏng lên mặt. Chị đẩy
thằng Cu lại cho anh: “Nào, Cu chào bác đi, chào thầy đi!” Cố gắng như
một cái máy không nhạy, nó nói: “Cháu chào cô ạ!” Chị chữa: “Chả là tôi
đã cho cháu vào nhà mẫu giáo mấy ngày, con nói lại đi, chào chú ạ!” Chị
dẫn anh và nó sang một phòng nhỏ cạnh phòng khách. Một cái bàn học cho
trẻ. Chiếc đi văng gỗ mà anh sẽ ngả lưng buổi trưa. Cốc và những chai
nước lọc. Chị nói: “Nghe anh Tứ bảo anh nói tiếng Anh như người Anh phải
không? Hôm nào về mà hai bố con bi bô được với nhau là anh ấy mừng lắm.
Anh ấy nói tiếng Anh như gió”. Hảo định cải chính: “ Tôi nói tiếng Anh
như người Việt” nhưng thằng Cu đòi ị. Nó nhăn mặt, duỗi tay ra và lấy
tay bưng đít. Chị chủ nhà nói: “ Bác để tôi – chị nhăn mũi – quên đưa
vào đây một cái bô, bà Múi ơi!” Người nấu bếp chưa vào chị đã bế thằng
Cu ra ngoài. Lát sau chị vào, tay thằng bé, tay cái bô. “ Dọc hành lang
một đoạn là toa lét. Anh cứ đổ vào đó rồi giật nước là được” . Chị đặt
cái bô vào góc nhà như người nhạc trưởng cất gậy lên giá. Điệu vũ chấm
dứt. Hảo nhìn cái biểu tượng nhà nghề trắng muốt, chỉ mong chị chủ nhà
đi khuất. Năm năm trước đêm nào anh cũng mơ thấy mình xúng xính trong bộ
quần áo tiến sĩ cổ truyền. Chị đưa anh hai chiếc chìa khoá: “Đây là
khoá phòng. Đây là cổng. Thỉnh thoảng bác dẫn cháu đi chơi, tuỳ ý bác”.
Rồi chị lên lầu, vẻ tự hào đã hoàn thành nhiệm vụ người đạo diễn.
Hảo hỏi thằng Cu: “Oắt xi o nêm mơ?” Nó nhìn anh trân trân một giây rồi
tái mặt: “ Đ...bu mày!” Nó tưởng anh vừa chửi nó. Phải nói là nó chửi
rất du dương. Ngày hôm nay phải dạy bằng được câu này cho nó: “Oắt xi o
nêm mơ, tên cháu là gì chứ không phải câu chửi tục. Nhân loại chưa đổ
đốn đến mức biến một câu vấn danh thành câu chửi”. Chấm dứt buổi học
tiếng Anh đầu tiên.
Mọi thứ dù phi lý đến đâu mà lặp đi lặp lại
mãi thì vẫn chấp nhận được dễ dàng. Việc anh thành người giữ trẻ thì
cũng chỉ cần một tuần để trở thành dĩ nhiên. Dĩ nhiên như một giáo sư
nổi tiếng ốm đau kéo dài phải đốt sách để sưởi, như việc cái xe đạp nào
cũng phải tòn teng một tấm biển số thời nào. Hai mươi tờ giấy năm ngàn
đủ sức mạnh biến Hảo thành người giữ trẻ mẫn cán trong ba mươi ngày. Chị
chủ nhà không chú ý đến anh hơn bà Múi, người nấu bếp lầm lũi như cái
bóng. Từ ngày có anh đến làm, chị được giải phóng khỏi thằng con trai
nên rỗi rãi hơn. Chị lên lầu xuống lầu, đọc sách trong khi anh túi bụi
trong phòng với thằng Cu và cái bô, đã bắt đầu nhớ cái giá sách và những
ngày nhàn rỗi đọc chữ thánh hiền. Thỉnh thoảng chị pha một một cốc nước
chanh mời anh với dáng vẻ của người làm việc từ thiện rồi cũng tiện mồm
kể lể chuyện nhà chuyện cửa. Chồng chị trước đây là thuyền trưởng viễn
dương. Nhờ anh mà chị được nhìn thấy đồng đô-la xanh rờn đầu tiên và
hình những tổng thống Mỹ quá cố. Khi túi đã hơi nặng, anh tìm cách lên
bờ. Anh bảo chị: “ Thời nay chỉ leo được lên mới thắng, dưới đất bao giờ
cũng thua”. Anh biết đầu tư chiều sâu và lên dần. Bây giờ anh phụ trách
một văn phòng đại diện ở Hồng Kông, môi giới mua những con tàu hàng vạn
tấn đến những chiếc nịt vú. Anh nói: “Một chuyến đi Nhật cứt đái cùng
mình chỉ thắng một hai cây. Bây giờ ký xạch một cái tôi có bạc triệu!”
Hảo không biết chị kể một cách thành thực những chuyện ấy với anh để làm
gì, chị có tâm đầu ý hợp với người chồng ở xa hay không. Chị kể một
cách buồn chán, mệt mỏi; là người tiêu tiền, chị không có cái say mê của
những con sói săn mồi. Chị là con kền kền cái lười biếng rỉa xác một
con voi. Chồng chị thỉnh thoảng có viết thư nhưng hai năm nay anh không
hẹn ngày về. Hảo cảm thấy, với chị thì anh vĩnh viễn không về nữa.
Thằng Cu có người trông, sạch sẽ hơn. Nó học tiếng Anh cũng khá và mến
thầy. Để giải quyết chuyện cái bô, Hảo đã tập cho nó ra toa-lét mỗi khi
có nhu cầu. Cuối tháng đầu chị trả lương cho anh, đưa luôn cả tháng sau,
tặng thêm cho anh năm mươi ngàn. Thấy anh lưỡng lự, chị nói: “Anh cầm
đi. Chúng tôi giàu lắm . Anh không tưởng tượng được chúng tôi giàu như
thế nào đâu. Nhưng ở cái đất hay nhòm ngó nhau thế này mình cũng phải
giữ ý".
Một sáng anh đang ở trong phòng với thằng Cu thì ông Vị
đi xe máy đến. Qua cửa sổ anh nhìn thấy ông chải chuốt hơn ngày thường
tuy ít đường bệ hơn so với những lúc ông đi lại dọc hành lang nghe một
cán bộ khoa học thuyết minh cái gì đó sau lưng mình. Chị ngồi tiếp ông
hàng giờ trong phòng khách. Buổi chiều trước khi Hảo ra về, chị mời anh
uống trà. Chị nói: “ Ngày mai tôi phải vắng nhà mấy ngày. Anh giúp tôi
ngủ lại và trông hộ cháu được không ?” Anh đáp được. Suy nghĩ một lúc
chị hỏi: “Anh có biết cái ông hồi sáng đến thăm tôi không?” Anh nói: “
Không”. Chị nhìn anh vẻ tin cậy: “Thôi chẳng giấu anh làm gì, sợ anh
nghĩ tôi không đàng hoàng. Ông ấy là bồ tôi đó”. Thấy Hảo cảm động vì
lời thổ lộ ấy, chị duyên dáng níu nhẹ vào ống tay áo anh: “ Nhưng tôi đã
quyết định dứt ông ấy ra. Ngày mai chúng tôi cùng đi Sầm Sơn. Lần cuối
cùng rồi thôi. Anh giúp tôi nhé?” Chị kể trước đây mấy năm chồng chị
khéo léo đưa chị đến với ông ấy. Đối với sự nghiệp của anh, cũng là của
thằng Cu, chị không nề hà gì. Ông ấy giúp đỡ chồng chị đến nơi đến chốn
nhưng không hề để mắt đến chị, món mỡ trước miệng mèo. Đã có ai ở thành
phố này dám coi chị như củ khoai cơ chứ? Lòng tự ái nổi lên, chị tìm
cách khám phá con người mẫu mực kia và chị yêu ông ấy lúc nào không
biết. Khi chị hiểu ra sự cao đạo của ông là một cái bẫy chinh phục nguy
hiểm của những người có tuổi thì cũng là lúc chị chán ông ta. “ Cuối
cùng thì chồng tôi thắng, nhưng tôi chẳng được gì. Anh giúp để tôi làm
chuyện chia tay với ông ấy trót lọt” . Anh đáp: “Vâng, tôi trông nhà hộ
và kín miệng nữa”. Chị cười buồn: “Chẳng cần đâu. Cả thành phố biết
chuyện tôi với ông ấy rồi. Họ chưa đưa lên ti-vi là may”. Hảo nói: “ Chị
đừng mang theo con chó nhỏ”. Chị ngạc nhiên: “Vì sao vậy?” Bỗng chị mỉm
cười: “ Tôi nhớ ra Sê-khốp rồi. Anh yên tâm. Thời nay không ai dùng chó
làm môi giới cho yêu đương đâu!” Ngừng một chút, lần thứ hai Hảo thấy
khuôn mặt chị rạng lên. Chị nói hấp hổi: “ Tôi sẽ mang theo con chó. Tôi
là một con mù mà lại muốn đi tìm ngọc quý. Mi-mô-sa sẽ dẫn đường cho
tôi” . Chị mang Mi-mô-sa đi thật. Chị còn tin có một người nào khác đang
chờ chị ở Sầm Sơn ư?
Ba ngày sau chị và ông Vị về nhà. Một chiếc
Toyota đậu trước cổng. Nghe tiếng còi Hảo ra mở cổng như một người gác
gian mẫn cán. Anh bất ngờ chạm mặt ông Vị. Nhưng cả hai không chào nhau,
không nói gì. Ôi tiền giấy và sắc đẹp, những lá bài của số phận éo le.
Nhìn nét mặt cau có, dồn nén và thân thể sung mãn của tuổi già đang
chín một lần trước khi rụng của ông Vị, Hảo biết là mấy ngày ở Sầm Sơn
ông chỉ được xơi thịt thỏ. Túi tiền có thể vơi chút ít, nhưng cái túi
tục luỵ kia thì chắc vẫn còn nguyên. Nó làm ông cáu giận. Hảo nghe tiếng
cãi cọ trên lầu, ở phòng khách.
Nhưng rồi ông cũng phải ra đi.
Chị gọi dây nói cho xe đến đón ông, tươi tỉnh, lịch sự đưa ông ra đàng
hoàng. Ông thì hầm mặt vì tiền mất tật mang, chỉ biết tự an ủi là đã giữ
gìn được phẩm chất trong chuyến đi biển đầy rẫy những trò ăn chơi tư
sản.
Hảo biết không mấy người vui vẻ khi bị người tình buộc về hưu.
Chị chạy đến gặp Hảo sau khi ông đi khỏi, mời anh sang phòng khách uống
trà. “Thế là trút được món nợ Liễu Thăng!” Chị nói, ve vuốt con
Mi-mô-sa, nó liếm tay chị, kiêu hãnh vì đã giành lại được chị và tự hào
vì ông già giàu có, oai vệ kia đã ao ước được một số phận như nó hôm nay
mà không có: được chị ve vuốt, nâng niu. “Sao có một dạo ông ấy dễ
thương thế. – Chị nói. – Bây giờ thì chỉ dạy dỗ, khuyên bảo suốt ngày !”
Chị lại ve vuốt con Mi-mô-sa, thì thầm: “ Sầm Sơn năm nay đẹp lắm, mày
có nhớ Sầm Sơn không con, Mi-mô-sa?” Hảo thầm đoán là ở Sầm Sơn con chó
nhỏ này đã đóng được một vai trò gì rồi.
Anh không nhầm. Ba hôm
sau, một chàng trai, trẻ hơn chị vài tuổi, đến nhà. Anh ta dắt chiếc CBT
125 màu nòng súng vào sân, cởi chiếc mũ mô-tô khỏi đầu rồi nhoẻn miệng
cười với ngôi nhà. Hảo vì nể nhìn chiếc xe mới thấy lần thứ hai trong
đời, lần đầu Tứ giới thiệu nó cho anh ỡ bãi xe, nói rằng ở cái thành phố
ăn chơi đồ Nhật này chỉ mới thấy xuất hiện vài cái. Anh gọi chị xuống,
bàn giao khách cho chị rồi vào phòng với thằng Cu. Người khách nhìn anh
không chút ngạc nhiên như chính anh ta đã từng mướn vài chục thằng đầy
tớ cỡ đó.
Họ nói chuyện với nhau trong phòng khách. Rồi chị thét
bà Múi ra chợ. Bữa trưa có bún chả, ốc nhồi thịt và một chai Giôn bộ 1
giá nửa chỉ vàng khách mang tới và những gói kem vừa đông lạnh trong
chiếc máy làm kem sau cốp xe. Hảo cùng ngồi ăn với họ. Hợp đồng đã ghi
có ăn trưa. Chị uống vài hớp rượu quý nói luôn mồm, cười luôn miệng,
trông chị trẻ ra mấy tuổi so với ngày hôm qua. Chị giới thiệu khách với
Hảo: Anh X. đây là con ông Y., gọi ông Z. bằng bác họ (Hảo nghe tiếng họ
từ lâu), tốt nghiệp đại học ở Ba Lan, mười năm nay đi đi về về, không
quốc tịch, không hộ khẩu, hộ chiếu ba năm đổi một lần (cái khoản này thì
chính tôi cũng không hiểu vì sao mình có – anh nói – lúc cần cứ hỏi
pa-pa), nay là nhà kinh doanh bự, nguồn vốn không xác định rõ nhưng lớn
lắm và đảm bảo là không có chuyện Nguyễn-Văn-Mười-Hai 2, buôn bán từ đầu
vi-đê-ô đến chổi đót xuất khẩu... Anh đây còn có một căn hộ ở
Vác-xa-va, giữ thường xuyên một phòng ở Pa-lat Sin-ga-po và vừa bay từ
đó về tuần trước. Chị nói: “ Ở Sầm Sơn ông Vị tâm sự với tôi rằng, không
có các ông thì bọn trẻ bố láo đảo lộn cơ đồ lên mất. Nhưng khốn nỗi ông
ấy khôn g phân biệt được cá thu khô với cá thu tươi ở chợ cá Sầm Sơn,
phải không Mi-mô-sa?” Con chó vắt ngang trên đùi chị ư hử đồng tình. Chị
tiếp: “ Theo tôi những người như anh X. đây...” Anh X. đây đưa bàn tay
lên. “Hẵng khoan, hồi nãy em nói gì nhỉ. À, ông ấy đã, đang và sẽ... còn
anh thì ngay cả khi dùng tiếng Anh, anh không bao giờ chia động từ theo
thì quá khứ và tương lai cả. Tôi đang nói, tôi đang sống. Thì hiện tại
muôn năm!” Anh hạ bàn tay xuống và nhón một con ốc nhồi thịt. “Để em nói
hết đã mà! Theo em thì chính những người như các anh sẽ đưa chúng ta ra
khỏi cuộc khủng hoảng. Có phải thế không anh Hảo?” Hảo nghĩ, không biết
chị nói cuộc khủng hoảng nào, của đất nước hay của chị? Anh đáp : “Tôi
không sành chính trị nhưng tôi biết chắc muốn giải quyết vấn đề thì ai
cũng phải cứng rắn”. Chị là người thông minh. Chị cười hồn nhiên: “Anh
nói đúng chóc! Phải thế, chứ như ông Vị thì... như con sứa ấy!” Người
khách tỏ ra kém thông minh và ghen tị nhỏ nhen khi thấy chị vừa khen anh
người làm nói leo. Anh mím cái miệng đỏ hồng riết róng, nhìn đĩa trứng
vịt lộn chưa ai đụng tới rồi quay sang chị: “Vấn đề là tiền! Em mua quả
vịt lộn này bao nhiêu ? Bảy trăm à? Tôi hứa, nếu em ra lệnh, trong ngày
mai tôi sẽ (lại sẽ rồi – Hảo nghĩ) có đủ tiền hạ giá trứng vịt lộn ở thị
trường thành phố này xuống một nửa. Và tôi giữ giá đó trong một tuần,
em chịu không?” Chị lại cười ré lên, lần này vì lòng tự ái được ve vuốt.
Hảo nhăn mặt cố nghĩ xem vị anh hùng này làm cách gì và sẽ bỏ ra bao
nhiêu để hạ giá trứng vịt lộn xuống còn một nửa. Nếu anh ta làm được như
thế, Hảo sẽ cố tranh thủ ăn lấy vài quả, mấy lâu nay anh quên mất thứ
thực phẩm dành riêng cho những tay bá chủng heo nọc này rồi. Nhưng thật
ớn những trò nói khoác. Suy cho cùng là do lỗi của đế quốc Anh. Chúng
sản xuất ra thứ Johnny Walker ngon quá. Sau khi chấm nước mắt do trận
cười, và không ngừng bị ám ảnh bởi từ “cứng rắn” anh vừa phát hành, chị
hỏi Hảo: “ Còn anh, anh nói nữa đi, ý anh thế nào?” Hảo đáp: “Xin lỗi,
tôi không sành chính trị”. Nhà kinh doanh giơ tay lên như ông giáo trẻ
dạy cho chú học trò chậm hiểu: “Đây không phải là chính trị. Đây là
chuyện làm cường dương cả một thành phố. Chúng ta x ẹp như dán quá lâu
rồi!” Chị lại cười, làm một cử chỉ e lệ gọi là, rồi nói: “Anh yêu, thế
thì anh hạ giá trứng vịt lộn đi!” Hảo muốn kìm sự hưng phấn đang quá đà
do chai rượu Anh gây ra. Anh hỏi anh yêu: “Bao giờ thì anh định cư hẳn
trong nước để làm ăn?” Anh yê u lấy khăn lau miệng, nói qua kẽ răng: “
Khi nào chúng tôi có đại biểu trong quốc hội – Anh cười tinh quái – Nếu
không thì ai bảo vệ vốn liếng của chúng tôi chứ?”
Sau bữa trưa,
họ lên phòng của chị. Hảo trở về cái đi-văng. Thằng Cu đã ngủ, cạnh nó
là một cái bô đầy. Anh múa tiếp điệu vũ của mình rồi nằm xuống cạnh nó.
Tiếng nhạc êm dịu lọt qua bức trần xuống tai anh. Đó là những bài hát
tiền chiến rất quen thuộc. Anh nhớ mẹ lạ lùng. Cái hố trống trong ngực
anh to dần ra, to mãi đến hư vô. Bữa cơm quá tải làm anh khó ngủ. Anh
nhớ mẹ cũng giàu, cũng sang trọng, sang trọng cả lúc không còn giàu nữa.
Cả trong những ngày chiến tranh liên miên. Tất cả vàng bạc, hạt xoàn mẹ
đưa anh, lúc đó mới ba tuổi, để tự tay anh thả vào khe của cái hộp gỗ
sơn son trong Tuần lễ vàng. Mẹ bảo với bố: “ Tôi gánh gạo đường xa cho
các con”. Miếng vườn cả nhà vỡ hoang ven bờ suối dưới sự chỉ huy của mẹ,
tiếng vo gạo buổi sáng, nước gạo chảy men bờ như sữa. Chim hoạ mi hót
sau mấy cây ổi mẹ trồng, con rắn mai gầm lâu lâu lại xuất hiện, chạy qua
sân rồi biến mất trong đám hương nhu, làm thành một sự kiện trọng đại.
Rồi cái tang đầu tiên: bố chết vì bom bi trong một trận oanh kích. Cái
tang thứ hai, người anh cả ở Trường Sơn. Đến lượt anh, đứa con yêu của
mẹ cũng biến mất ở chân trời Đông Âu, mang theo hy vọng về một cuộc sống
tử tế của cả nhà. Lúc anh về thì mẹ đã mất. Và cùng với mẹ là cả một vũ
trụ đáng kiêu hãnh và nuốt tiếc cũng mất nốt. Hảo như đui mù. Anh không
được chuẩn bị cho sự nghèo khổ và bệ rạc, không được chuẩn bị để sống
với người vợ trước đây để sống trong cảnh ngộ hiện nay. Không chuẩn bị
để thành người ở, làm công cho người đàn bà thông minh nhưng tinh quái,
có lương tri và dâm đãng nữa. Anh cố nghĩ một tính từ khác nhưng không
được. Thú thực là anh ghét và ghê tởm khi chị dám cả gan và sai lầm khi
đồng loã đánh giá nền chính trị thông qua những người đàn ông liệt dương
trên giường mình, dù trong đó có cả một ông xếp không ra gì của Hảo. Và
cũng thật khó chịu thấy mắt chị sáng lên khi con dê cỏn dằm đô-la kia
đòi có ghế trong quốc hội của nền vô sản chuyên chính. Khi đó anh tưởng
nếu có cuộc bầu cử thì chị sẽ bỏ cho y ta mười phiếu một lúc. Nhưng tại
sao chị vẫn phát tiền công cho anh hàng tháng? Tại sao chị vẫn làm cho
anh có cảm tình và nhiều lúc thèm muốn chị nữa? Tại sao chiếc CBT 125
giá ba mươi triệu ở ngoài sân kia vẫn đè cái bóng cao cả của nó lên
những giấc mơ nghèo khổ của anh? Tại sao cái thế giới êm dịu và lung
linh những ước mơ của mẹ, và cũng cả của anh nữa lại biến mất dễ dàng
đến thế? Phải chăng sau một sự kiện kinh hoàng năm đó, lời lão thầy bói
đã ứng nghiệm? Mùa hè ấy, thời tiết bình thường, mẹ cho ấp một ổ gà, khi
nhấc xuống, trong ổ lúc nhúc một bầy rắn con, còn mấy cây ổi sau nhà
thì ra mười ba quả bứa chua loét. Hôm ấy một lão thầy bói ôm tay nải qua
làng. Mẹ làm thịt một con gà giò, ông ta xem chân gà rồi nói: “ Ông tổ
nhà này ngày xưa nhiều thất đức. Bà hãy cẩn thận. Trong nhà này rồi sẽ
có người đi ở !” Ông ta còn nói những chuyện nhảm nhí khác. Dân quân xóm
trói ông vào một cái cọc, phơi nắng nửa ngày rồi mới cho đi. Năm đó bố
chết, rồi đến anh cả. Gia đình trĩu nặng tang tóc. Bây giờ đứa con út
của mẹ đi ở.
Tiếng nhạc buồn phòng trên ngừng bặt. Cái đầu
vi-đê-ô bắt đầu rên rỉ những pha phim xếch (trước đây chị vẫn dùng cái
hộp nhựa Nhật Bản ấy để khởi động nhà đạo đức luống tuổi của chị). Rồi
tiếng rên điện tử cũng im nốt nhường chỗ cho nhạc đời hang động. Con
Mi-mô-sa bị bỏ rơi buồn bã vào phòng, liếm bàn tay Hảo thõng xuống đi
văng. Anh nhấc nó lên, kéo tai nó, tên ma cô mất dạy, thằng mối lái vô
phúc, những con chó nhỏ vô tích sự thời Sê-khốp hay thời hiện đại đều
thế cả. Nằm trong lòng Hảo, nó nhìn lên trần như anh, có thể nó còn thấu
suốt hơn anh bằng bản năng chó của nó.
Một tuần lễ liền ngôi nhà
yên tĩnh ở góc phố ròn rã tiếng CBT 125. Những bữa cơm trưa quá tải với
sự đồng loã tội lỗi của những chai rượu Anh và kỹ nghệ vi mạch Nhật
Bản. Nhưng chủ nhật anh ta không đến. Chị đưa tiền lương cho Hảo, tăng
lên hai trăm ngàn (để bù trượt giá, chị nói) và giữ anh ở lại ăn cơm tối
với chị. Chị buồn, nét mặt căng thẳng tuy vẫn kiêu sa. Hảo đã nếm mùi
những cơn cớ tâm sự của chị. Họ lấy ghế vải ra ngồi ở sân sau. Chị nói: “
Anh tiên tri thật! Giá không mang Mi-mô-sa đi thì tôi đâu có rước ngữ
ấy về nhà!”
Chị nhìn anh với đôi mắt của người vừa thoát khỏi tai
nạn. Như một nhà thám hiểm Nam cực sống sót, chị kể cho Hảo nghe chuyện
mấy ngày ở Sầm Sơn. Hôm ấy, chị để Mi-mô-sa trên bờ biển để xuống tắm
với ông Vị. Họ tìm một góc vắng. Vì hễ hai người mặc áo tắm đi vào đám
đông là y như lũ trẻ la lối: “Bố ơi, bố nhường chúng con đi bố!” Tuy khó
chịu vì thứ ngôn ngữ máy nước ấy, nhưng từ cái góc vắng kia chị vẫn
nhìn về phía một bộ phận nhân loại trẻ trung và thô bỉ một cách chân
thành ấy. Còn ông Vị thì tìm mọi cách để sử dụng đôi bàn tay vàng. Ông
càu nhàu: “ Tại sao em lại không mặc bộ bi-ki-ni hai mảnh của Thái ấy?”
Ông vẫn thường phàn nàn mốt Hà Nội dạo này quá hở hang, nhưng trong một
chuyến đi Băng Cốc về, chính ông đã mua tặng chị hai bộ bi-ki-ni ấy. Hôm
đó chị cố ý mặc bộ đồ tắm cổ điển được mậu dịch quốc doanh đứng đắn của
chúng ta phát hành những năm bảy mươi sau khi mẫu đã được sở văn hoá
xét duyệt. Một bộ đồ tắm có thể cấp bằng tiết hạnh khả phong. Ông Vị
đành phải đầu hàng bộ đồ ông đã từng duyệt mẫu trước đây. Bực bội vì ông
lão sắp bị giảm biên chế ngầy ngà, chị quên mất con Mi-mô-sa. Trời lại
đổ một trận mưa nữa. Thế là họ lạc mất con chó. Đến chiều tối, sau khi
ăn cơm xong, khi ông Vị đang càu nhàu lên án bộ đồ tắm khốn nạn, trút
lên nó những từ người ta thường chỉ dùng trong các cuộc tranh luận triết
học và đạo đức thì anh ta đến. Anh ấy ôm con Mi-mô-sa trên tay. Trong
khung cảnh biển sau cơn mưa, chàng trai thật tuyệt vời. Chiều hôm sau,
trong khi ông Vị đi nói chuyện về vai trò người phụ nữ mới (bài tủ của
ông) cho công đoàn công ty du lịch thì chị với anh đi vào rừng thông.
Chị cám ơn anh vì đã tìm hộ con Mi-mô-sa. Anh cám ơn vì chị đã làm cuộc
đi biển cô đơn của anh có ý nghĩa. Anh gọi chị là bà làm chị kiêu hãnh,
sau đó là chị làm chị ấm lòng và cuối cùng là em làm chị sung sướng.
Cuộc cách mạng về xưng hô ấy chỉ diễn ra trong vòng mười lăm phút. Phút
thứ mười sáu thì anh nói là anh đã thuê hai hec-ta rừng thông chiều nay
để không ai được phép lai vãng qua. Phút thứ mười bảy thì lưng chị đã
lấm đầy cát và sau đó chị bắt đầu cuộc hành trình vào thiên đường lần
đầu tiên trong đời. Trước đây ông Vị chỉ mô tả cái thiên đường ấy cho
chị bằng lý thuyết. Những pha mô tả của bọn nhà văn ba xu thường được
thay bằng những dấu chấm chấm cũng không làm thoả mãn chị.
Tối
đó, chị sang phòng ông Vị (họ vẫn thuê hai phòng từ lúc đến Sầm Sơn).
Ông rất mừng vì chị đã tự nguyện nộp xác, vì buổi diễn thuyết thành
công, “ chị em nuốt từng lời” và theo cá nhân ông thì cần phải khôi phục
khí thế của phong trào ba đảm đang trước đây. Chị ngắt lời ông: “Anh
yêu em đi!” Chị quyết định tặng ông một bữa tiệc chia ly no xôi chán chè
như bữa cơm người ta vẫn thường cho tử tù ăn trước ngày ra trường bắn.
Ông sững sờ vì hạnh phúc cũng như kẻ tử tù kia đang nằm mơ thấy cái cọc
thì bỗng thấy trước mắt mình một con gà mái quay, nghẹn ngào nhìn nhưng
không ăn được. Ông đổ tội cho tính đãng trí, bỏ quên chai rượu tắc kè ở
nhà, chửi sự quản lý khách sạn xuống cấp vì cái giường cứ kêu cót két,
chửi rủa cả cái váy ngủ của chị, làm gì mà phải dùng đến hai cửa ra vào
làm ông lầm lẫn lung tung, sự xa xỉ điển hình của nền dân chủ tư sản!
Cũng như mọi lần, ông chẳng bao giờ chịu trách nhiệm về bất kỳ sự thất
bại nào. Tuy vậy ông vẫn trấn an chị: “Em hãy tin, tôi đã, đang và sẽ cố
gắng...”
Sáng hôm sau chị giục ông ra về để kịp ngày hẹn với anh ấy, người đã mua hai hec-ta rừng thông một chiều cho chị.
Chị thở dài:
– Nhưng tôi lại chán ngấy anh ta rồi! Thằng tư sản mới cũng chẳng hơn
gì lão già đạo đức giả? Sao cái số tôi nó nhọ thế này hả anh!
Hảo
tự chửi mình vì quả thật trong anh có loé lên một chút hả hê dễ hiểu.
Anh đứng lên, xin phép chị ra về. “Đừng vội, anh. – Giọng chị thân mật
khác lạ – Anh về bây giờ thì tôi chết buồn mất. Tại sao tôi chỉ gặp phải
lũ dở hơi? Chúng chui ở đâu ra lắm thế hả anh?”
Hảo cảm thấy sự
chán chường của chị là thành thật. Nó lan toả trên da thịt anh cùng mùi
nước hoa Pháp và hơi thở thơm tho của chị. Suy cho cùng thì chị cũng
đáng thương. Ít nhất chị cũng có cái can đảm và hào phóng làm việc phân
phối lại của cải đã trấn được của những thằng dại gái. Chị đã nuôi được
một phó tiến sĩ bằng ba lần số lương chính của y, vớt y ra khỏi cảnh
thất nghiệp dài dài được mã hoá bằng cụm từ nghiên cứu có tính chiến
lược trong cái vỏ những đề tài không ai cần đến. Nhưng anh cứng rắn trở
lại, kiên trì sự đố kỵ muôn thuở của người nghèo, sự ghê tởm của hàn sĩ
bị phỉ báng. Rồi anh khôn khéo đứng lên.
Số phận xô đẩy anh theo
hướng khác. Mấy tuần sau chị ốm. Thóc mách như một thằng ở thực thụ, anh
đoán thầm nhà kinh doanh không quốc tịch kia đã kịp đầu tư một vật lạ
vào nội địa trước khi bị trục xuất. Anh lên thăm chị, vừa là phải phép
vừa bị lòng nhân ái thúc bách. Chị nằm bất động trên giường, tay duỗi
ngoài chiếc chăn mỏng. Chị đập nhẹ bàn tay như cánh bướm bảo anh ngồi
xuống mép giường cạnh mình. Vì mấy cái ghế xếp Nhật Bản đã bị thu lại và
cũng không thể ngồi lên cái táp-đờ-nuy, vật duy nhất có thể ngồi lên
trong phòng, anh đành chiều ý chị. Tay anh run lên khi nắm lấy cái mép
giường. Chị nhìn thấy tất cả trong một cái liếc mắt rồi cầm lấy tay anh,
bàn tay chị dịu dàng như cánh bướm cầu xin sự giúp đỡ. Chị nói: “Anh có
thể thu xếp đi với tôi một vài ngày không?”. Anh nhìn con Mi-mô-sa nằm
duỗi dưới chân không đáp.
Rồi anh đi với chị sau khi hai người đã
thu xếp được người trông thằng Cu và nhà cửa. Anh sẽ phải đưa chị về
một bệnh viện nhỏ nào đó ở Hà Nội. Đúng như anh đoán, chị cần tống khứ
nhanh chóng giọt máu được đầu tư một cách vội vã của nhà kinh doanh trẻ.
Chị cần anh đóng vai một người chồng cho đỡ tủi thân và hợp lý. Từ khi
mới đi lại với nhau, ông Vị đã yêu cầu chị làm việc này ở bất cứ chỗ nào
cũng được trừ ở thành phố ông đang nổi tiếng và có quyền lực. Bởi vì dù
đứa con trong bụng chị là của ai thì dư luận cũng sẽ nghĩ là của ông,
điều ấy rất bất lợi cho ông trong những cuộc bầu cử. Vậy là quá đủ lý do
để anh phải đưa chị đi.
Họ xuống tàu vào lúc sẩm tối rồi vào một
khách sạn gần nhà ga. Cô tiếp tân nhìn họ một cách tình tứ, bảo họ có
thể thuê một phòng cũng được. Chị thuê hai. Anh ghi nhận với chị cách
làm ăn thoáng của ngành du lịch. Rõ ràng mọi việc đang đổi mới. Chị nói:
“ Nhà trống thì phải thoáng!” Họ ở đêm đầu tiên trong bầu không khí hoà
hoãn, không xâm lấn biên giới của nhau. Hôm sau chị vẫn không vào nhà
thương ngay. Chị đòi anh đưa thăm các địa điểm nổi tiếng của Hà Nội. Anh
đưa chị đi Văn Miếu để tỏ lòng yêu mến văn hoá nước nhà, đến cầu Thăng
Long để ngưỡng mộ tình hữu nghị Xô-Việt. Cuộc đi chơi kết thúc ở hàng
chả cá nổi tiếng giữa những ông tây bà đầm trả bằng đô-la. Thế là nhờ
chị mà anh đã hoàn thành vượt mức kế hoạch 9 năm trước thời hạn. Anh
định đúng vào năm 2000 sẽ tập trung toàn lực đi ăn một bữa chả cá đầu
tiên và cuối cùng trong đời. Ăn xong, uống cà-phê xong, cái hoá đơn đặt
lên bàn làm anh suýt ngất tưởng như mình vừa mua cả tháp Ép-phen. Nhưng
chị rút ví ra kịp thời, trên bộ mặt hơi xanh xao không chút cảm xúc. Anh
nhẹ nhõm thầm nhận ra rằng, chị là người đàn bà đầu tiên đi ăn với anh
mà anh không phải mó tay vào ví lần nào. Chị đòi đi Hồ Tây. Họ lên Hồ
Tây. Cô bán hàng mang đến cho họ hai cái ghế mây cạnh gốc cây tù mù và
hai chai nước ngọt do Viện kiểm sát nhân dân thành phố X. sản xuất. Chị
nắm tay anh: “Anh mệt không?” Anh nói: “ Văn hoá chỉ khác tình dục ở chỗ
nó làm cho con người ta hào hứng mà không mệt”. Chị mỉm cười: “ Thế
thật! Ở Hà Nội có người đã chi cho tôi hai triệu một ngày nhưng không hề
dẫn tôi đến một di tích văn hoá. Trí thức các anh dễ thương thật” . Anh
nghĩ: có lẽ công thức trước đây của họ là: Quán đặc sản - giường ngủ.
Còn trí thức: Văn Miếu - Nhà triển lãm Ngô Quyền. Vào cửa hai trăm đồng
một vé, kem que cạnh đó cũng hai trăm mà những ba màu. Trí thức nói
chung là ít phải trả tiền dù đi với mỹ nhân. Chỉ hơi tốn nước bọt mà
thôi. Thời nào cũng vậy.
Chị không để anh có thì giờ suy nghĩ lan
man. Chị xiết mạnh tay anh, bàn tay chị ấm nóng: “ Vậy mà tôi chưa bao
giờ lọt được vào mắt xanh một anh trí thức”. Anh nói: “Vì chị quá đẹp
còn họ thì quá nghèo. Thánh nhân đãi khù khờ chứ đâu có phù hộ người hay
chữ”. Chị bình luận: “ Thánh ghen tỵ đấy mà! Chắc cũng có một nữ thánh
nào đó ghen ghét tôi. Tôi cố tìm lấy một người mà không thấy...” Chị thở
dài. Cái khuynh hướng phủ nhận sạch trơn ba bốn mạng đàn ông một lúc
của chị làm anh khó chịu. Nhưng anh thấy mủi lòng, bản chất hay dao động
của trí thức. Anh nói: “Rồi chị sẽ tìm thấy”. Chị đột ngột nhìn vào mắt
anh: “Anh có biết tại sao chồng tôi cứ nằm lỳ ở Hồng Kông không về? Anh
thử đoán xem!” Anh im lặng. Chị nói:
– Anh ấy bị SIDA! Thật tồi
tệ. Hành động yêu nước cuối cùng của anh ấy là đề nghị HU 3 đăng ký mình
vào danh sách bệnh nhân của Hồng Kông chứ không phải nước ta. Gian lận
thêm cho bọn tư bản một người sa đoạ cũng chẳng oan gì.
Anh cảm thấy chạm được bằng xúc giác nỗi đau khổ của chị. Giọng chị trở lại bình thường:
– Tôi đòi ly dị, nhưng ông Vị khuyên tôi: “ Đừng có đánh mất lòng tin.
Khoa học sẽ chữa được cái bệnh tai quái đó. Rồi ngày nào đó chồng em sẽ
về”. Như thơ Xi-mô-nốp vậy. Tôi thì biết thừa tim đen của ông. Nếu ly dị
lỡ tôi đòi lấy ông, như thế thì sự nghiệp ông tan tành. Vả lại ngân
sách ái tình của ông ấy được tư bản Hồng Kông trợ cấp một nửa, nửa kia
moi ruột nhà nước thì tiện bao nhiêu. Tôi nói về ông ấy như vậy anh có
coi thường tôi không?
Anh đáp: “Tôi là nhà khoa học. Tôi thích có dữ kiện trong mọi vấn đề”
– Tôi căm ghét ông ấy còn vì câu chuyện khủng khiếp này nữa. Hôm đó
chúng tôi đi xem xi-nê với nhau. Lúc chen chúc vào rạp, một bà nọ dẫm
guốc bảy phân lên chân tôi. Tôi la trời. Đáng lẽ một câu xin lỗi là
xong, chị ta lại chối bay biến và còn chửi tôi nữa. Chúng tôi túm tóc
nhau lời qua tiếng lại. Không biết vì vô tình hay cố ý, chị ta chửi tôi
là “ con đĩ non xí xớn với thằng dê già!”. Ông Vị tím mặt. Người ta mời
chúng tôi vào phòng bán vé. Khai tên tuổi, nơi làm việc và xin lỗi nhau.
Tối hôm ấy trên giường nhà tôi, ông ấy chỉ vặn hỏi tôi về người đàn bà
ngoa ngoắt nọ. Ông rút sổ tay ra ghi. Ba tháng sau, tôi gặp lại chị,
thân tàn ma dại ngồi bán rau. Chị buộc phải thôi việc, chồng chị nghỉ
bảy mươi phần trăm, hai con nhỏ. Tôi hỏi chị vì sao nên nỗi thế. Chị làm
thủ kho, để thất thoát hai mươi mốt miếng xà phòng bảo hộ lao động. Tôi
thì tôi biết con nhện nào đã dệt tấm lưới bắt con ruồi cái ốm đói kia.
Tôi van xin ông ấy. Nhưng ông chỉ cười gằn: “ Phải nghiêm để nâng cao
dân trí”. Thế đấy. Ông trả công tôi bằng cái quyền chính là thứ tôi và
anh, cả chị thủ kho kia nữa đã cho ông ấy. Còn thằng cha đầu tư? Nó làm
tôi sung sướng nhưng nó trả tiền tôi từng ngày, có khi hàng triệu, nhưng
trả từng bữa, nghĩa là trả theo sản phẩm. Nó bảo cả thế giới người ta
đều làm như thế.
Chị buông tay anh, ôm mặt. Anh không thể ngồi
im. Anh lặng lẽ lấy tay vuốt tóc chị, trong lòng trào lên thứ tình cảm
của người anh trai. Chị ngước mắt nhìn anh vẻ biết ơn: “Anh khác họ
nhiều lắm!” Rồi chị vòng tay qua cổ anh, chị hôn anh.
Đêm ấy chị
sang với anh. Ngon lành và thơm như một múi mít và thanh thản nữa. Anh
không dối mình đã hơn một lần anh thèm muốn chị. Nhưng giờ đây anh lạnh
băng. Cũng chẳng phải anh trinh bạch như gã chăn cừu của Đô-đê nâng niu
giấc ngủ của cô chủ trên vai mình. Chị cũng không phải là một vì sao
lạc. Chị phô bày cái bản năng dữ dội nhưng bao giờ cũng hồn nhiên của
một người đàn bà. Nhưng anh không thèm chị. Giá chị để cho anh bình
tĩnh, anh sẽ an ủi chị như một người anh. Nhưng chị đã quýnh lên và cáu:
“Trí thức chỉ là thế này thôi à? Trong sách người ta không dạy anh ư?”
Chị hạ mình trước anh, làm cả những điều chị chưa hề làm với người khác.
Nhưng anh chỉ rúm ró lại trong nỗi đau của một hàn sĩ. Chị trần truồng
đi ra cửa để về phòng mình, ném đại mảnh vải Thái Lan nhỏ xíu vào mặt
anh rồi rít lên trong cơn giông bão đàn bà: “ Lại một con sứa nữa! Tôi
còn căm ghét anh hơn cả ba thằng kia!”
Một tháng sau, khi đã bình
phục sau trận ốm, chị cho một anh xích-lô gửi nhờ xe. Anh ta kể: nhà,
vợ con anh bị cháy thành tro, hai tháng nay anh ngủ trong xe ở sân ga,
chân cầu. Bà Múi thầm thì với Hảo: “Cứ cách một đêm hắn lại lên phòng
ngủ với cô. Thằng khốn nạn!” Hảo bảo bà: “Ơ -rê-ka! Cô chủ đã tìm thấy!”
Bà ta chưa được học tiếng Hy Lạp, tưởng anh điên, chạy biến vào bếp.
Tiếng Anh cuối cùng Hảo dạy cho thằng Cu là The Man – người đàn ông.
Hôm sau anh thôi việc. Anh lững thững đi bộ về nhà. Trời sẩm tối. Một
đoàn tàu hàng dừng lại sân ga. Anh nhìn thấy công nhân xếp dỡ đang
chuyển xuống đất mười hai toa tàu trứng vịt lộn. Những sọt trứng toả ra
một vòng hào quang, những quả trứng nhú khỏi đám cọng rơm như đầu những
dương vật của một loại người hùng mạnh chưa từng có. Cũng chưa từng có
công ty nào ở thành phố này buôn về một số lượng nhiều ghê gớm như thế.
Sáng hôm sau trên các phố nhan nhản biển hàng viết bằng phấn: vịt lộn –
hạ giá năm mươi phần trăm! Người ta lo ngại xì xào rằng, một năm nữa
dân số của thành phố chắc sẽ phát triển vô tội vạ.
Trại sáng tác văn xuôi Hải Phòng
Tháng 7. 1991
Tháng 7. 1991
Nguyễn Quang Thân
(Văn Nghệ, số 43 (1659), 26.10.1991)
(Văn Nghệ, số 43 (1659), 26.10.1991)
1 Johnny Walker, nhãn rượu whisky
2 giám đốc công ty Thanh Hương, đã làm sạt nghiệp hàng chục ngàn người
gửi tiền lấy lời. Vụ xì-căng-đan Nguyễn Văn Mười Hai đã kéo theo dây
chuyền phá sản hàng chục hợp tác xã tín dụng từ Sài Gòn đến Hà Nội.
3 phiên âm từ WHO, tên tắt tiếng Anh của Tổ chức y tế thế giới, mà tên tắt tiếng Pháp là OMS.
PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Lại Nguyên Ân
Khi dự định viết bài này, tâm trí tôi thỉnh thoảng lại nhớ đến tên một truyện ngắn của Nguyễn Quang Thân, truyện “Vũ điệu của cái bô“([1]).
Ấy là chuyện đầu thời mở cửa, anh kỹ sư thời bao cấp nay lâm cảnh thất
nghiệp, rồi tìm được việc làm tại tư gia một thiếu phụ bỗng chốc giàu
lên, hoặc do có vốn liếng gì đó hoặc nhờ có chồng đi tàu viễn dương…
Công việc của anh kỹ sư trong vai trò mới là gia sư kiêm bảo mẫu, dạy
tiếng Anh cho đứa trẻ chưa đầy bốn tuổi nhưng cũng phải thường xuyên đổ
bô cho nó theo nghĩa đen.
Tôi nhớ cái tên truyện “vũ điệu của cái
bô” ấy, vì đang chứng kiến những chuyện có vẻ rất khác thế nhưng hình
như vẫn giống như thế.
Chả là tôi có biết ba bốn chị bạn, bây giờ phải gọi là bà bạn. Mấy bà này sau thời đại học, đã yên vị ở một cái viện tọa lạc giữa thủ đô, đã kịp sang Nga hoặc Ðông Âu kiếm về cái bằng phó tiến sĩ (“hữu nghị” hay không, chẳng cần bàn); cách đây dăm bảy năm một buổi sáng thức dậy nghiễm nhiên đồng loạt trở thành tiến sĩ; công việc thì cực kỳ an nhàn: mỗi tuần đến Viện một lần, mỗi năm đưa đăng chừng 01 bài báo trên tạp chí của Viện; còn lại, thời giờ là của mình, ai giỏi giang thì mỗi năm “đánh” dăm bảy công-ten-nơ hàng bán sang bên Nga bên Tiệp, hoặc kinh doanh nhà đất, ai tự thấy tài lực ít thì lại có dư thời gian chăm sóc chồng con, lo cho chồng lên chức, lo cho con du học sang Mỹ sang Úc. Những người đàn bà thành đạt ấy hễ gặp nhau ở Viện thì chỉ dành thời gian hỏi thăm nhau về con cái, rồi bàn tán chuyện váy áo, chứ mấy khi nói chuyện học thuật chuyên môn!
Cứ tưởng như đã đạt đến tiễn sĩ rồi thì chẳng cần làm gì nữa, đã ngồi ở cái viện “cả nước chỉ có một” này thì chẳng có gì phải phấn đấu nữa. Thế mà vài ba năm nay, mấy bà tiến sĩ này bỗng chạy đôn chạy đáo, phấn đấu cật lực.
Thì ra, họ tính toán với nhau cả rồi. Này nhé, đã có học vị tiến sĩ rồi, phải phấn đấu để có học hàm phó giáo sư, thì mới được xê dịch tuổi nghỉ hưu được thêm 5 năm nữa so với tuổi nghỉ hưu thông thường của viên chức. Ở xứ nào kia người ta mới hoài nghi cái việc người lao động nhảy dựng lên đòi làm việc nhiều hơn mức mà chủ sử dụng lao động yêu cầu, chứ ở ta đây, tâm thế chung của công chức Việt Nam vẫn là muốn cống hiến nhiều nhất, muốn giữ trọng trách đến nhắm mắt tắt hơi…, nói cho sát nghĩa đen ra là muốn về hưu muộn. Mà ai không tin cái sự “nói chung” ấy thì hãy thông cảm với cái sự “nói riêng” này, rằng ở tuổi năm mươi lăm, các bà trẻ này vẫn còn trẻ lắm, còn có thể làm thêm nhiều việc lắm (các cụ ta xưa mà nhìn thấy mấy bà này hẳn sẽ bảo họ có thể đẻ thêm vài lứa nữa!). Nếu tiếp tục gặp nhau ở viện mà chuyện gẫu về con về cháu, về ô-sin, về cưới hỏi, về váy áo… liền liền dăm bảy năm nữa thì vẫn hay hơn là ở nhà, loanh quanh giữa mấy cái chợ, cái siêu thị, cái máy giặt, cái máy tập thể dục, cái tivi!
Chả là tôi có biết ba bốn chị bạn, bây giờ phải gọi là bà bạn. Mấy bà này sau thời đại học, đã yên vị ở một cái viện tọa lạc giữa thủ đô, đã kịp sang Nga hoặc Ðông Âu kiếm về cái bằng phó tiến sĩ (“hữu nghị” hay không, chẳng cần bàn); cách đây dăm bảy năm một buổi sáng thức dậy nghiễm nhiên đồng loạt trở thành tiến sĩ; công việc thì cực kỳ an nhàn: mỗi tuần đến Viện một lần, mỗi năm đưa đăng chừng 01 bài báo trên tạp chí của Viện; còn lại, thời giờ là của mình, ai giỏi giang thì mỗi năm “đánh” dăm bảy công-ten-nơ hàng bán sang bên Nga bên Tiệp, hoặc kinh doanh nhà đất, ai tự thấy tài lực ít thì lại có dư thời gian chăm sóc chồng con, lo cho chồng lên chức, lo cho con du học sang Mỹ sang Úc. Những người đàn bà thành đạt ấy hễ gặp nhau ở Viện thì chỉ dành thời gian hỏi thăm nhau về con cái, rồi bàn tán chuyện váy áo, chứ mấy khi nói chuyện học thuật chuyên môn!
Cứ tưởng như đã đạt đến tiễn sĩ rồi thì chẳng cần làm gì nữa, đã ngồi ở cái viện “cả nước chỉ có một” này thì chẳng có gì phải phấn đấu nữa. Thế mà vài ba năm nay, mấy bà tiến sĩ này bỗng chạy đôn chạy đáo, phấn đấu cật lực.
Thì ra, họ tính toán với nhau cả rồi. Này nhé, đã có học vị tiến sĩ rồi, phải phấn đấu để có học hàm phó giáo sư, thì mới được xê dịch tuổi nghỉ hưu được thêm 5 năm nữa so với tuổi nghỉ hưu thông thường của viên chức. Ở xứ nào kia người ta mới hoài nghi cái việc người lao động nhảy dựng lên đòi làm việc nhiều hơn mức mà chủ sử dụng lao động yêu cầu, chứ ở ta đây, tâm thế chung của công chức Việt Nam vẫn là muốn cống hiến nhiều nhất, muốn giữ trọng trách đến nhắm mắt tắt hơi…, nói cho sát nghĩa đen ra là muốn về hưu muộn. Mà ai không tin cái sự “nói chung” ấy thì hãy thông cảm với cái sự “nói riêng” này, rằng ở tuổi năm mươi lăm, các bà trẻ này vẫn còn trẻ lắm, còn có thể làm thêm nhiều việc lắm (các cụ ta xưa mà nhìn thấy mấy bà này hẳn sẽ bảo họ có thể đẻ thêm vài lứa nữa!). Nếu tiếp tục gặp nhau ở viện mà chuyện gẫu về con về cháu, về ô-sin, về cưới hỏi, về váy áo… liền liền dăm bảy năm nữa thì vẫn hay hơn là ở nhà, loanh quanh giữa mấy cái chợ, cái siêu thị, cái máy giặt, cái máy tập thể dục, cái tivi!
Tính toán đâu vào đấy rồi, họ phấn đấu,
thực hiện cho bằng được! Phải có được tổng cộng mấy trăm giờ dạy cho bậc
cao đẳng, đại học; phải hướng dẫn thành công một số nghiên cứu sinh bậc
thạc sĩ hoặc tiến sĩ.
Mấy bà tiến sĩ này, tôi biết, vốn ngại lắm chuyện dạy học, thế mà nay bỗng nháo nhào tìm nơi thỉnh giảng. Ở Hà Nội hiếm chỗ dạy thì đi xa, Thái Nguyên, Hải Phòng, Nghệ An, Ðà Lạt, Quy Nhơn… Tàu xe có vất vả chút ít thì được bù lại ở cách đối xử: ở Hà Nội mỗi tiết dạy may ra được tính gấp đôi, nhưng ở xa có thể tính gấp ba gấp bốn lần. Tổng số giờ dạy chẳng mấy mà đủ. Chuyện tìm học trò (nghiên cứu sinh) có khó hơn, nhưng càng nơi xa càng dễ tìm. Ở các trường đại học, cao đẳng nơi ấy có thiếu gì những giảng viên trẻ, chỉ mới có học vị cử nhân, chỗ đứng trên bục giảng còn chông chênh nếu không gắng gia cố bằng tấm bằng thạc sĩ. Những cử nhân là phụ giảng hay giảng viên ấy, ngay tại nơi “vùng sâu vùng xa” của mình bỗng gặp được các tiến sĩ về thỉnh giảng, là chuyện tưởng như chỉ có trong mơ. Và với nỗ lực của hàng trăm tiến sĩ như mấy bà mà ta đang nói đến này thì sẽ kéo theo hàng ngàn nghiên cứu sinh tỉnh lẻ được ân cần chỉ lối đưa đường ra Hà Nội làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ.
Mấy bà tiến sĩ này, tôi biết, vốn ngại lắm chuyện dạy học, thế mà nay bỗng nháo nhào tìm nơi thỉnh giảng. Ở Hà Nội hiếm chỗ dạy thì đi xa, Thái Nguyên, Hải Phòng, Nghệ An, Ðà Lạt, Quy Nhơn… Tàu xe có vất vả chút ít thì được bù lại ở cách đối xử: ở Hà Nội mỗi tiết dạy may ra được tính gấp đôi, nhưng ở xa có thể tính gấp ba gấp bốn lần. Tổng số giờ dạy chẳng mấy mà đủ. Chuyện tìm học trò (nghiên cứu sinh) có khó hơn, nhưng càng nơi xa càng dễ tìm. Ở các trường đại học, cao đẳng nơi ấy có thiếu gì những giảng viên trẻ, chỉ mới có học vị cử nhân, chỗ đứng trên bục giảng còn chông chênh nếu không gắng gia cố bằng tấm bằng thạc sĩ. Những cử nhân là phụ giảng hay giảng viên ấy, ngay tại nơi “vùng sâu vùng xa” của mình bỗng gặp được các tiến sĩ về thỉnh giảng, là chuyện tưởng như chỉ có trong mơ. Và với nỗ lực của hàng trăm tiến sĩ như mấy bà mà ta đang nói đến này thì sẽ kéo theo hàng ngàn nghiên cứu sinh tỉnh lẻ được ân cần chỉ lối đưa đường ra Hà Nội làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ.
Ở Việt Nam luôn luôn có những chuyện trái nhau.
Ví như để vào đại học, bạn phải tự mình
ra thành phố lớn dự thi, phải tự lo lều chõng cơm nắm cơm đùm, tự mình
chen chúc tàu xe, tự tìm tự lo chỗ trọ; đủ thứ khó khăn, bạn phải tự
mình chịu lấy, vượt qua. Người ta gạt đi không hết những người muốn trở
thành sinh viên, nhưng hình như người ta phải thắp đèn đi tìm nghiên cứu
sinh. Chả thế mà giới giáo sư đại học cưng họ lắm. Tôi nhớ ông Hiêu ông
Sư (hay là vài ông nào đấy, chính cống giảng viên đại học) từng kể:
“Bọn nó thi ngoại ngữ chẳng biết gì, đáng 0 điểm; chúng tôi vớt cả”;
“Bọn nó bảo vệ đề cương, chẳng ra gì, đáng 2 điểm; chúng tôi vớt, cho 8
điểm. Không cho đỗ lấy đâu ra nghiên cứu sinh cao học?”
Ðại khái thế thôi. Chuyện thủ tục làm nghiên cứu sinh cũng rườm rà, rầy rà lắm. Ở xứ ta, khi con người kết nối thành cơ chế, bao giờ nó cũng hành hạ kẻ muốn lọt qua, muốn được OK. Nhưng con người xứ ta cũng có trăm kế ngàn phương để lọt qua các cánh cửa tưởng rất khó mở. Rốt cuộc thì mọi thủ tục sẽ xong. Cái khó còn lại là nội dung luận án. Các nữ tiến sĩ đóng vai trò bà thầy hiểu rõ điều này. Họ đã nhận các nghiên cứu sinh kia là trò thì họ sẽ ra tay trợ giúp.
Ðề cương luận án dĩ nhiên các bà thầy phải soạn cho nghiên cứu sinh thì mới qua được các hội đồng. Bảo vệ đề cương xong rồi, mấy cô cậu ấy lên tàu về trường rồi, các bà thầy lo làm tư liệu, làm dàn bài dàn ý cho bọn họ. Cố nhiên các bà thầy chẳng chịu ngồi tra cứu lâu trong thư viện làm gì, chỉ cần đến cổng thư viện ở phố Tràng Thi, hẹn hò trò chuyện với mấy nhân viên thư viện, nêu yêu cầu tìm cho những tài liệu abc của những tác giả xyz trên những tờ báo này tạp chí kia của năm này năm kia, có thì chụp photocopy cho v.v…chứ chẳng cần kỹ lưỡng làm gì. Dăm bữa nửa tháng sau, đơn đạt hàng sẽ được thực hiện. Danh mục “tư liệu tham khảo” cho luận án của nghiên cứu sinh đến đấy coi như căn bản xong. Công đoạn quan trọng nhất vẫn là nghiên cứu sinh tự viết ra luận án, rồi bà thầy sẽ đọc, góp ý và giúp sửa chữa, bổ sung nâng cao, hoàn chỉnh dần cho đến lúc đưa ra bảo vệ thử…
Ðối với thiên hạ, làm nghiên cứu sinh tức là làm người nghiên cứu; làm luận án là cốt để chứng tỏ người nghiên cứu biết tự đề xuất và giải quyết những đề tài nghiên cứu độc lập; trên một đề tài cụ thể phải có những phát hiện mới so với những người nghiên cứu đi trước. Nhưng đấy là mẫu mực lý tưởng, nó xa vời lắm. Ở xứ ta, giúp nghiên cứu sinh thành công trong luận án trước hết là lợi ích của các thầy hướng dẫn. Mỗi thầy cần có thêm một số trò từ cử nhân trở thành thạc sĩ, tiến sĩ. Khi đã vào cuộc đến nửa đường rồi, các nghiên cứu sinh sẽ nhận ra điều ấy, và nếu cần họ sẽ tận dụng cơ hội. Cố nhiên có những nghiên cứu sinh biết tự giải quyết công việc của mình. Nhưng những nghiên cứu sinh cần đến các bà thầy tiến sĩ mà tôi đang kể vốn không phải là những người học giỏi. Viết một bài luận hàng trăm trang,− dù đã sẵn đề cương, dù đã được hỗ trợ bởi hàng trăm công thức diễn đạt có sẵn, − đối với họ vẫn là việc quá khó. Dù đã đứng giảng ở bục giảng đại học, cao đẳng, họ vẫn viết câu sai, hoặc nói cho rõ hơn, họ không hề biết những chỗ sai khi họ viết. Hiểu biết chung, kiến thức chung, cần có để diễn giải các vấn đề của luận án, hình như họ rất thiếu. Các bà thầy, ở chỗ riêng tư thường lắc đầu bảo nhau: “Chúng nó chẳng biết gì cả, chẳng đọc gì cả, chẳng hiểu gì cả!” Thế nhưng cái quyết tâm biến bọn người “chẳng biết gì cả” ấy thành thạc sĩ, thành tiến sĩ của các bà vẫn không lay chuyển. Nghe những cái đề các bà thầy chọn cho nghiên cứu sinh thì thật to tát: so sánh chủ nghĩa nhân đạo ở văn chương Nguyễn Du với văn chương Victor Hugo, xác định chất nghịch dị trong văn Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, v.v… đại khái thế. Thế mà hình như nghiên cứu sinh còn chưa hiểu thật rõ thế nào là chủ nghĩa nhân đạo, chưa biết chất nghịch dị là cái gì, còn chưa đọc hết tác phẩm Nam Cao, tác phẩm Vũ Trọng Phụng, nói gì đến tác phẩm Victor Hugo…
Họ chưa biết nhiều thứ nhưng đừng xem thường họ. Họ đã là công chức, đã là thầy giáo. Trở lại làm nghiên cứu sinh là trở lại làm học trò, họ sẽ không quên các phép thuật của học trò trong thi cử mà tựu trung khá giống chuyện kinh tế, nghĩa là sao cho có lợi nhất, tốn ít sức nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Một bài học nghiên cứu sinh thời Liên Xô còn được rỉ tai nhau làm mẫu. Anh phó tiến sĩ nọ, con quan, cũng là con nhà văn, từ Việt Nam sang Nga thêm một lần làm nghiên cứu sinh bậc đốc-tờ, nay ở Việt Nam gọi là “tiến sĩ khoa học”, để phân biệt với những tiến sĩ vốn là phó tiến sĩ (“tiến sĩ” không “khoa học”). Anh ta cân nhắc rồi thực hiện bản luận án khoa học có tên (dịch): “Chủ nghĩa quốc tế của nền văn học Xô viết”; phụ đề là: “Ðề tài Việt Nam trong sáng tác của các nhà văn Liên Xô”. Nghĩa là, trên thực tế, anh ta chỉ làm cái việc dễ làm là tập hợp một mớ thơ văn thù ứng cảm khái hữu hảo khi một số vị nhà văn xứ lạnh kia đến làm khách mời ở xứ nhiệt đới này. Cái mớ tác phẩm mà chắc các tác giả của chúng cũng chỉ coi như thoảng qua, không thuộc phần chính yếu của văn nghiệp mình. Làm cái công việc cỏn con ấy nhưng lại dành được cái học vị cao nhất mà trường đại học có thể cấp cho, thế thì rẻ quá, lãi quá còn gì!
Mấy nghiên cứu sinh là học trò mấy bà thầy tiến sĩ, do thầy chọn cho các đề tài quá sức mình, đã vận dụng bài học “hiệu suất tối đa” của tiền bối kia bằng cách khéo léo sao cho trăm dâu đổ một đầu… thầy; thầy nghĩ ra đề thì thầy đi mà viết!
Ðại khái thế thôi. Chuyện thủ tục làm nghiên cứu sinh cũng rườm rà, rầy rà lắm. Ở xứ ta, khi con người kết nối thành cơ chế, bao giờ nó cũng hành hạ kẻ muốn lọt qua, muốn được OK. Nhưng con người xứ ta cũng có trăm kế ngàn phương để lọt qua các cánh cửa tưởng rất khó mở. Rốt cuộc thì mọi thủ tục sẽ xong. Cái khó còn lại là nội dung luận án. Các nữ tiến sĩ đóng vai trò bà thầy hiểu rõ điều này. Họ đã nhận các nghiên cứu sinh kia là trò thì họ sẽ ra tay trợ giúp.
Ðề cương luận án dĩ nhiên các bà thầy phải soạn cho nghiên cứu sinh thì mới qua được các hội đồng. Bảo vệ đề cương xong rồi, mấy cô cậu ấy lên tàu về trường rồi, các bà thầy lo làm tư liệu, làm dàn bài dàn ý cho bọn họ. Cố nhiên các bà thầy chẳng chịu ngồi tra cứu lâu trong thư viện làm gì, chỉ cần đến cổng thư viện ở phố Tràng Thi, hẹn hò trò chuyện với mấy nhân viên thư viện, nêu yêu cầu tìm cho những tài liệu abc của những tác giả xyz trên những tờ báo này tạp chí kia của năm này năm kia, có thì chụp photocopy cho v.v…chứ chẳng cần kỹ lưỡng làm gì. Dăm bữa nửa tháng sau, đơn đạt hàng sẽ được thực hiện. Danh mục “tư liệu tham khảo” cho luận án của nghiên cứu sinh đến đấy coi như căn bản xong. Công đoạn quan trọng nhất vẫn là nghiên cứu sinh tự viết ra luận án, rồi bà thầy sẽ đọc, góp ý và giúp sửa chữa, bổ sung nâng cao, hoàn chỉnh dần cho đến lúc đưa ra bảo vệ thử…
Ðối với thiên hạ, làm nghiên cứu sinh tức là làm người nghiên cứu; làm luận án là cốt để chứng tỏ người nghiên cứu biết tự đề xuất và giải quyết những đề tài nghiên cứu độc lập; trên một đề tài cụ thể phải có những phát hiện mới so với những người nghiên cứu đi trước. Nhưng đấy là mẫu mực lý tưởng, nó xa vời lắm. Ở xứ ta, giúp nghiên cứu sinh thành công trong luận án trước hết là lợi ích của các thầy hướng dẫn. Mỗi thầy cần có thêm một số trò từ cử nhân trở thành thạc sĩ, tiến sĩ. Khi đã vào cuộc đến nửa đường rồi, các nghiên cứu sinh sẽ nhận ra điều ấy, và nếu cần họ sẽ tận dụng cơ hội. Cố nhiên có những nghiên cứu sinh biết tự giải quyết công việc của mình. Nhưng những nghiên cứu sinh cần đến các bà thầy tiến sĩ mà tôi đang kể vốn không phải là những người học giỏi. Viết một bài luận hàng trăm trang,− dù đã sẵn đề cương, dù đã được hỗ trợ bởi hàng trăm công thức diễn đạt có sẵn, − đối với họ vẫn là việc quá khó. Dù đã đứng giảng ở bục giảng đại học, cao đẳng, họ vẫn viết câu sai, hoặc nói cho rõ hơn, họ không hề biết những chỗ sai khi họ viết. Hiểu biết chung, kiến thức chung, cần có để diễn giải các vấn đề của luận án, hình như họ rất thiếu. Các bà thầy, ở chỗ riêng tư thường lắc đầu bảo nhau: “Chúng nó chẳng biết gì cả, chẳng đọc gì cả, chẳng hiểu gì cả!” Thế nhưng cái quyết tâm biến bọn người “chẳng biết gì cả” ấy thành thạc sĩ, thành tiến sĩ của các bà vẫn không lay chuyển. Nghe những cái đề các bà thầy chọn cho nghiên cứu sinh thì thật to tát: so sánh chủ nghĩa nhân đạo ở văn chương Nguyễn Du với văn chương Victor Hugo, xác định chất nghịch dị trong văn Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, v.v… đại khái thế. Thế mà hình như nghiên cứu sinh còn chưa hiểu thật rõ thế nào là chủ nghĩa nhân đạo, chưa biết chất nghịch dị là cái gì, còn chưa đọc hết tác phẩm Nam Cao, tác phẩm Vũ Trọng Phụng, nói gì đến tác phẩm Victor Hugo…
Họ chưa biết nhiều thứ nhưng đừng xem thường họ. Họ đã là công chức, đã là thầy giáo. Trở lại làm nghiên cứu sinh là trở lại làm học trò, họ sẽ không quên các phép thuật của học trò trong thi cử mà tựu trung khá giống chuyện kinh tế, nghĩa là sao cho có lợi nhất, tốn ít sức nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Một bài học nghiên cứu sinh thời Liên Xô còn được rỉ tai nhau làm mẫu. Anh phó tiến sĩ nọ, con quan, cũng là con nhà văn, từ Việt Nam sang Nga thêm một lần làm nghiên cứu sinh bậc đốc-tờ, nay ở Việt Nam gọi là “tiến sĩ khoa học”, để phân biệt với những tiến sĩ vốn là phó tiến sĩ (“tiến sĩ” không “khoa học”). Anh ta cân nhắc rồi thực hiện bản luận án khoa học có tên (dịch): “Chủ nghĩa quốc tế của nền văn học Xô viết”; phụ đề là: “Ðề tài Việt Nam trong sáng tác của các nhà văn Liên Xô”. Nghĩa là, trên thực tế, anh ta chỉ làm cái việc dễ làm là tập hợp một mớ thơ văn thù ứng cảm khái hữu hảo khi một số vị nhà văn xứ lạnh kia đến làm khách mời ở xứ nhiệt đới này. Cái mớ tác phẩm mà chắc các tác giả của chúng cũng chỉ coi như thoảng qua, không thuộc phần chính yếu của văn nghiệp mình. Làm cái công việc cỏn con ấy nhưng lại dành được cái học vị cao nhất mà trường đại học có thể cấp cho, thế thì rẻ quá, lãi quá còn gì!
Mấy nghiên cứu sinh là học trò mấy bà thầy tiến sĩ, do thầy chọn cho các đề tài quá sức mình, đã vận dụng bài học “hiệu suất tối đa” của tiền bối kia bằng cách khéo léo sao cho trăm dâu đổ một đầu… thầy; thầy nghĩ ra đề thì thầy đi mà viết!
Người ta biết, có những sinh viên,
nghiên cứu sinh được thầy cho làm luận án mà đề tài là cành nhánh công
trình của thầy; luận án của trò được viết xong thì tức là một vài chương
lớn trong công trình của thầy cũng mặc nhiên hoàn thành; khi thầy hả hê
công bố công trình của thầy thì trò xem đó bỗng thấy mình trải nghiệm
cái cảm xúc của kẻ có tài sản bị tước đoạt; nhưng thật khó mà chứng
minh được cho thiên hạ tin rằng vị giáo sư khả kính lại “đạo văn” của
những môn đồ chỉ vừa đỗ thạc sĩ, tiến sĩ! Chuyện các trò có thể viết hộ
thầy là chuyện may mắn của ai kia, chứ mấy bà thầy ta đang nói tới này
không có diễm phúc có được những học trò giỏi giang. Đã không giỏi giang
lại còn lười; chỉ được cái thói tinh quái, “đọc” được sự tính toán của
thầy đằng sau việc đào tạo mình, cho nên cứ ỳ ra khiến thầy sốt ruột. Nó
không chịu viết, nó không viết được, không khéo rồi chính mình phải
viết!
Mà các bà thầy phải viết thật. Cầm tay chỉ việc mãi trò vẫn không viết được, mấy bà thầy bảo nhỏ với nhau: Thà mình viết thẳng ra còn hơn! Cố nhiên chẳng ai quên cái luận văn vẫn mang tên học trò. Mà công sức và sự hy sinh cho các học trò của các bà thầy nào chỉ có thế thôi đâu! Còn bao nhiêu việc trước mắt từ nay đến lúc bảo vệ thử, bảo vệ thật, nào nghe ngóng việc lập hội đồng, nào phản biện kín phản biện hở, nào thăm dò khả năng bỏ phiếu chung cuộc! Cho đến lúc đám bạn bè của các trò có thể tặng hoa, mở sâm-banh, còn nhiều việc lắm. Việc của trò, của nghiên cứu sinh cả. Nhưng các bà thầy biết, mình phải lo gần như tất tần tật. Hao công lắm, đôi khi còn phải bù chì chút ít từ tiền túi của mình nữa. Làm chuyện lớn thế kia mà! Biến một số cô cậu vào loại không biết gì thành tiến sĩ là chuyện lớn hẳn đi chứ, dễ mấy ai làm được? Trò đỗ tiến sĩ, thầy sẽ có đủ điểm cho kỳ xét duyệt chức danh tới đây, nghĩa là trò mặc nhiên giúp thầy trở thành phó giáo sư!
Ðang ngồi viết giúp luận văn cho cô cậu nghiên cứu sinh học trò mình mà những ý nghĩ phấn chấn cứ náo nức trong đầu mấy bà thầy phó giáo sư tương lai. Tay các bà múa lên trong vũ điệu…
Vũ điệu của cái bô!
Thật thế. Hành động của mấy bà nào có khác gì vai trò gia sư kiêm bảo mẫu mà anh kỹ sư thất nghiệp trong câu chuyện nói ở đầu bài này bất đắc dĩ phải làm? Anh ta thì bất đắc dĩ, các bà lại xăng xái.
Mà các bà thầy phải viết thật. Cầm tay chỉ việc mãi trò vẫn không viết được, mấy bà thầy bảo nhỏ với nhau: Thà mình viết thẳng ra còn hơn! Cố nhiên chẳng ai quên cái luận văn vẫn mang tên học trò. Mà công sức và sự hy sinh cho các học trò của các bà thầy nào chỉ có thế thôi đâu! Còn bao nhiêu việc trước mắt từ nay đến lúc bảo vệ thử, bảo vệ thật, nào nghe ngóng việc lập hội đồng, nào phản biện kín phản biện hở, nào thăm dò khả năng bỏ phiếu chung cuộc! Cho đến lúc đám bạn bè của các trò có thể tặng hoa, mở sâm-banh, còn nhiều việc lắm. Việc của trò, của nghiên cứu sinh cả. Nhưng các bà thầy biết, mình phải lo gần như tất tần tật. Hao công lắm, đôi khi còn phải bù chì chút ít từ tiền túi của mình nữa. Làm chuyện lớn thế kia mà! Biến một số cô cậu vào loại không biết gì thành tiến sĩ là chuyện lớn hẳn đi chứ, dễ mấy ai làm được? Trò đỗ tiến sĩ, thầy sẽ có đủ điểm cho kỳ xét duyệt chức danh tới đây, nghĩa là trò mặc nhiên giúp thầy trở thành phó giáo sư!
Ðang ngồi viết giúp luận văn cho cô cậu nghiên cứu sinh học trò mình mà những ý nghĩ phấn chấn cứ náo nức trong đầu mấy bà thầy phó giáo sư tương lai. Tay các bà múa lên trong vũ điệu…
Vũ điệu của cái bô!
Thật thế. Hành động của mấy bà nào có khác gì vai trò gia sư kiêm bảo mẫu mà anh kỹ sư thất nghiệp trong câu chuyện nói ở đầu bài này bất đắc dĩ phải làm? Anh ta thì bất đắc dĩ, các bà lại xăng xái.
Vì mưu cầu cái chức danh phó giáo sư,
biết bao bà biết bao ông đang lao vào phục dịch trong các vườn trẻ ươm
mầm thạc sĩ, tiến sĩ đang mọc ra ở không ít nơi trên khắp đất nước này?
Tôi chẳng biết có bao nhiêu tiến sĩ hàng
năm được ấp nở ra theo kiểu trên đây. Dẫu số lượng tiến sĩ có nhờ thế
mà trở nên đông đảo, dẫu số lượng phó giáo sư có nhờ thế mà nhanh chóng
nhiều lên, tôi vẫn không tin rằng chuyện này có giúp gì cho sự tăng
trưởng của đội ngũ chuyên gia giỏi, cho sự tăng trưởng của khoa học.
4.10.2003
Tiền phong chủ nhật số 42 (19-10-2003)
Văn nghệ số 43 (25-10-2003)
([1]) Truyện ngắn Vũ điệu của cái bô của nhà văn Nguyễn Quang Thân đăng tuần báo Văn nghệ (Hội nhà văn VN) số 43, ngày 26/10/1991.
© 2009 Lại Nguyên Ân
Bản in:
MÊNH MÔNG CHẬT CHỘI …
Tiểu luận-phê bình văn học của LẠI NGUYÊN ÂN
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC
53 Nguyễn Du, Hà Nội
Tel: (84-4) 3945 4661 ٠ Fax: (84-4) 3945 4660
Email: lienhe@nxbtrithuc.com.vn
Website: nxbtrithuc.com.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: Chu Hảo
Biên tập: Nghiêm Thị Thanh; Nguyễn Anh Quân
Bìa: Phạm Xuân Thắng
Trình bày: Lều Thu Thủy
In 1.000 bản, khổ 14×20,5 cm tại Xưởng in
Tạp chí Tin học và đời sống, số 1 Phùng Chí Kiên, Cầu Giấy, Hà Nội.
Quyết định xuất bản số: 06 QĐ-NXB TrT của Giám đốc NXB Tri Thức ngày
23/02/2009. In xong và nộp lưu chiểu Quý I năm 2009.
Nguồn: Bản đăng trên http://phebinhvanhoc.com.vn/ đã được sự đồng ý của tác giả
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét