Nhà
văn Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri sinh ngày 29/10/1915 tại làng Đại
Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân, huyện Nam Sang (nay là xã Hòa Hậu,
huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam).
Ông
hy sinh ngày 30/11/1951 tại xã Gia Trấn, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh
Bình. Nơi ông nằm xuống cũng có tên Vũ Đại. Ông hy sinh trên đường đi
công tác vận động thuế nông nghiệp tại cánh đồng Mưỡu Giáp.
Tháng
1 năm 1996 ông được Nhà nước truy tặng “Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật” với cụm tác phẩm: Đôi mắt, Chí phèo, Nửa đêm và Tập
truyện ngắn chọn lọc xuất bản năm 1964.
Ngày
18/1/1998 di hài nhà văn Nam Cao được đưa về an táng tại quê hương
trong “Vườn hiện thực Nam Cao”. Nơi đây có Nhà tưởng niệm nhà văn liệt
sỹ Nam Cao (khánh thành 30/11/2004)
Ngày
18/2/1998 trường THCS Nhân Hậu đã vinh dự được gia đình nhà văn cùng
các cơ quan chức năng trao trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ, hương hoa Phần
mộ Nhà văn Liệt sỹ Nam Cao.
Xuất
phát từ cõi lòng: “Ăn quả nhớ người trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”,
để tỏ lòng biết ơn đối với những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh thân mình
cho tổ quốc, cho nhân dân, để thể hiện sự tôn kính ngưỡng mộ đối với
các công trình văn hoá, lịch sử của quê hương đất nước; để góp phần
thực hiện mục tiêu cấp học nói riêng và mục đích giáo dục nói chung,
trường THCS Nhân Hậu, xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam – quê
hương của nhà văn liệt sĩ Nam Cao đã sớm xác định cho thầy và trò nhà
trường nhiệm vụ thiêng liêng là tìm hiểu tiểu sử, đời văn và sự nghiệp
vĩ đại của nhà văn liệt sĩ Nam Cao để học tập, noi gương phát huy
truyền thống văn hiến của cha ông và của quê hương đất nước.
Sau
đây, trường THCS Nhân Hậu trân trọng giới thiệu một số tư liệu về nhà
văn liệt sỹ Nam Cao do tổ KHXH và thày giáo Trần Văn Đô sưu tầm, chắp
bút và đã được đăng trên các báo và tạp chí.
Một vài nét về tác giả : Trần Văn Đô (Còn có các bút danh: Trần Thoa Đô, Vũ Đại, Trần Đại Hoàng )
Sinh: 26 - 4 - 1952
Quê: Xóm 11, làng Đại Hoàng - xã Hoà Hậu - Lý Nhân - Hà Nam.
Tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm khoa Ngữ văn.
Hiện đang công tác tại trường THCS Nhân Hậu, xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
- Bằng khen của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
- Huy chương Vì sự nghiệp Giáo dục.
- Là Thông tín viên của các báo: Tiền Phong, Thiếu niên tiền phong, Giáo dục và Thời đại
TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN:
- Hương sen- Hương lúa- Ty Văn Hoá Hà Nam Ninh-1976
- Quê Hương in chung NXB Thanh niên 2002.
- Những hiểu biết thêm về nhà văn Nam Cao - Nghiên cứu sưu tầm- 2009
- Thơ nhà giáo - in chung NXB Văn hoá Dân tộc 2004
- Tuyển tập Thơ nhà giáo Việt Nam- In chung- NXB Văn hoá dân tộc 2010.
- Đa làng - Thơ tứ tuyệt- NXB Văn hoá Dân tộc.
- Hoa Đất- Thơ lục bát -NXB Văn hoá Dân tộc.
SẮP IN:
- Cây thuốc quý quanh ta- Thơ tứ tuyệt.
- Câu Đối
- Đồng hồ quả lắc – thơ viết cho thiếu nhi
- Sông Châu – thơ
- Nho nhỏ cùng nhau – Thơ trào phúng
GIẢI THƯỞNG:
- Viện nghiên cứu hợp tác khoa học kỹ thuật Châu Á Thái Bình Dương IAP-
giải Nhì (thơ) năm 2003 tác phẩm "Giữ sạch môi trường".
- Giải Nhì (thơ) Tạp chí Cây thuốc quý- Hội dược liệu Việt Nam- năm 2008.
TRƯỜNG THCS NHÂN HẬU VỚI NHÀ VĂN NAM CAO
Xuất phát từ cõi lòng: “Ăn quả nhớ người trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”,
để tỏ lòng biết ơn đối với những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh thân mình
cho tổ quốc, cho nhân dân, để thể hiện sự tôn kính ngưỡng mộ đối với
các công trình văn hoá, lịch sử của quê hương đất nước; để góp phần
thực hiện mục tiêu cấp học nói riêng và mục đích giáo dục nói chung,
trường THCS Nhân Hậu, xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam – quê
hương của cố nhà văn liệt sĩ Nam Cao đã sớm xác định cho thầy và trò
nhà trường nhiệm vụ thiêng liêng là tìm hiểu tiểu sử đời văn và sự
nghiệp vĩ đại của nhà văn liệt sĩ Nam Cao để học tập, noi gương phát
huy truyền thống văn hiến của cha ông và của quê hương đất nước.
Điều
đầu tiên là nhà trường đã tổ chức cho cả thầy và trò tập trung công
sức, thời gian, trí tuệ và lòng nhiệt huyết vào việc sưu tầm tài liệu,
hiện vật, tranh ảnh, mẩu chuyện nói về nhà văn Nam Cao và làng Đại Hoàng
- “Vũ Đại” thuở ấy,Thầy và trò của trường THCS Nhân Hậu đã được “sống
lại” cái thời “Sống mòn”, cái thời mà làng Đại Hoàng có Chí Phèo, Thị
Nở, Bá Kiến, Lão Hạc, Tự Lãng, Binh Chức, Trạch Văn Đoành- Những nhân
vật bằng xương bằng thịt cứ hiển hiện ra trước mắt người sưu tầm, nghiên
cứu! Thầy và trò trường THCS Nhân Hậu càng khâm phục, yêu mến, kính
trọng, biết ơn cái tài “hư cấu”, tài sáng tạo của nhà văn quê hương
Năm
nào nhà trường cũng tổ chức ngoại khoá tìm hiểu về nhà văn liệt sĩ Nam
Cao để thầy và trò của cả trường nắm bắt thêm về những điều chưa biết,
chưa rõ về nhà văn liệt sĩ của quê hương, thực tế làng Đại Hoàng – “Vũ
Đại” xưa kia. Những cảm xúc chân thành sâu sắc, những mẩu chuyện về
nhà văn do thầy và trò sưu tầm được nhà trường trân trọng lưu giữ.
Những năm qua nhà trường năm nào cũng có đội tuyển văn lớp 7 (trước
đây) và lớp 9 ngày nay đi dự thi HSG Văn cấp huyện, cấp tỉnh, cấp miền
Bắc và cấp Quốc gia đều được giải thưởng các loại. Đó là các em Trần
Thị Nguyện, Trần Thị Tịnh là học sinh giỏi đạt giải Ba cấp Quốc gia môn
Văn; em Trần Thị Hà là học sinh giỏi Văn huyện Lý Nhân đi thi tỉnh và
được vào học Trường cấp III Lê Hồng Phong – Nam Định. Hiện nay, Hà là
phóng viên Đài truyền hình Việt Nam. Em Trần Thành Hiệp học sinh giỏi
văn khoá 1968-1969 đạt giải Ba cấp Quốc gia. Hiện nay, Trần Thành Hiệp
đang công tác tại xưởng phim Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hàng năm đội tuyển học sinh giỏi văn của nhà trường đều được xếp loại tốt của huyện, có nhiều em dự thi cấp tỉnh đạt giải.
Ngày
21/12/1998, trường THCS Nhân Hậu đã long trọng tổ chức Hội thảo về
thân thế sự nghiệp của nhà văn Nam Cao, thực tế làng Đại Hoàng trước
đây; Phương pháp giảng dạy một số tác phẩm của nhà văn Nam Cao trong
trường THCS. Sở GD - ĐT Hà Nam, phòng GD - ĐT Lý Nhân đã về dự và chỉ
đạo Hội thảo. Nhiều đại biểu các trường trong huyện Lý Nhân đã về dự
Hội thảo và phát biểu tham luận.
Ngày
18/01/1998, di hài nhà văn liệt sĩ Nam Cao được đưa về an táng tại
“Vườn hiện thực Nam Cao”. Nơi đây còn có Nhà tưởng niệm nhà văn liệt
sĩ Nam Cao (khánh thành ngày 30/11/2004 – nhân dịp kỉ niệm 53 năm ngày
nhà văn hy sinh)
Ngày
18/02/1998, trường THCS Nhân Hậu đã vinh dự được gia đình nhà văn và
các cơ quan chức năng trao trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ, hương hoa phần
mộ nhà văn liệt sĩ Nam Cao.
(Tạp chí Sông Châu số 11 năm 1998 (có bổ sung)- Hội VHNT Hà Nam)
VÌ SAO NHÀ VĂN NAM CAO ĐẶT TÊN CHO NHÂN VẬT CỦA MÌNH LÀ
Chí Phèo ?
Trong
quá trình đi tìm tài liệu về nhà văn Nam Cao và làng Đại Hoàng – “Vũ
Đại” thuở ấy, tổ KHXH trường THCS Nhân Hậu, Lý Nhân, Hà Nam đã sưu tầm
được những mẩu chuyện, tranh ảnh rất quý và đầy lý thú. Một trong những
tư liệu quý ấy là những mẩu chuyện liên quan đên tác phẩm Chí Phèo của
nhà văn Nam Cao.
Chúng tôi cứ trăn trở mãi: Không hiểu vì sao nhà văn lại gắn cho nhân vật Chí cái tên “Phèo”
Đi
tìm câu trả lời, chúng tôi được ông Trần Khang Hộ, người làng Đại
Hoàng – Bạn học thuở nhỏ của Nam Cao, con thầy Kí Lân – thầy dạy học
của Nam Cao thuở nhỏ - kể cho nghe câu chuyện sau: Khi tôi ngoài 20
tuổi, thấy ở làng có một người tên Chí, quê quán ở đâu không rõ. Vì Chí
hơn tuổi, nên Chí được cánh trẻ gọi là chú. Chí người cao to béo khoẻ,
khi dân làng có việc, Chí hay đi giúp nhà này nhà nọ. Các nhà có máu
mặt trong làng thường thuê Chí đi đòi nợ. Xong việc, họ cho Chí vài xu
đi mua rượu uống. Uống say, Chí nằm phèo ở điếm canh đê. Từ đó người
làng gọi là Chí Phèo.
Chúng
tôi cũng được ông Trần Đức Tuy, lão thành cách mạng, thầy giáo về hưu,
quê ở làng Đại Hoàng, cũng là bạn thân của nhà văn Nam Cao kể cho nghe
câu chuyện sau: ở làng Đại Hoàng hồi ấy có lão Trương Pháo chuyên làm
nghề giết lợn. Ông này thường bắt “phèo” * để bán, vì món này được
nhiều khách ưa chuộng Chí hồi đó có ra làm thuê cho Trương Pháo. Chí
cũng “bắt phèo” cho chủ bán. Chí “bắt” cũng ngon như chủ, làm khách ăn
ai cũng khen ngon. Từ đó Chí có tên là Chí Phèo
Chẳng
biết vì lý do thứ nhất hay vì lý do thứ hai hoặc vì cả hai lý do trên
mà nhà văn Nam Cao đặt tên cho nhân vật của mìnhlà Chí Phèo; chỉ biết
rằng hai mẩu chuyện trên là có thật ở làng Đại Hoàng – quê hương nhà văn
Nam Cao
*Phèo: ruột non (phèo lợn, phèo trâu)
(Báo Tiền phong - 7/11/1999 - Văn học và Tuổi trẻ số 2 - 2006)
NGUYÊN MẪU CỦA NHÂN VẬT THỊ NỞ LÀ AI?
Tổ
Khoa học xã hội trường THCS Nhân Hậu, Lý Nhân, Hà Nam trong quá trình
đi tìm tài liệu về Nam Cao và làng Đại Hoàng – “Vũ Đại” ngày ấy, đã sưu
tầm được một số mẩu chuyện rất hấp dẫn và lý thú có liên quan đến tác
phẩm của nhà văn Nam Cao. Một trong các mẩu chuyện đó là chuyện về nhân
vật Thị Nở – “người yêu” của Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của nhà
văn Nam Cao.
Ông
Trần Khang Hộ người làng Đại Hoàng, xã Hoà Hậu, Lý Nhân, Hà Nam, bạn
học thuở nhỏ của nhà văn Nam Cao – con cụ Ký Lân – thầy dạy của nhà văn
Nam Cao và một số cụ cao niên khác cũng ở quê hương nhà văn, có kể câu
chuyện sau: Hồi ấy ở làng Đại Hoàng có Trần Thị Nở, con ông Phó Kính -
ông này làm nghề đóng cối xay nên gọi là phó. Thị Nở người xấu xí, tính
dở hơi, rất hay cười nên ông mới đặt tên là Trần Thị Nở.
Thị
Nở chỉ biết làm việc vặt trong nhà và nhặt cỏ vườn. Thị Nở thường làm
bạn với cái chép cùn (có nơi gọi là cái dầm). Tính Thị dở hơi rất vô
tâm, sờ vào việc gì được một lúc là lăn ra ngủ; bất kể là đâu. Thôi thì
chân đống rạ, gốc chuối, bờ ao Có lần bà ngoại nhà văn Nam Cao (bà Vân)
sai Thị đi kín nước về ngâm sợi, mãi không thấy thị về, cho người đi
tìm thì ra Thị đang ngủ ở ngoài gốc chuối. Người làng ai cũng cười cái
tật xấu ấy của Thị. Người ta kể về “tài gia chánh” của Thị như sau: Ông
bố chồng của Thị (ông Quản Dụng) thường xuyên rày la Thị về tội để cơm
sống, cơm khê. Những khi ấy Thị Nở vênh mặt lên cãi lại bố chồng :
“Sống đâu mà sống, chỉ hơi sường sượng thôi mà”
Tuy
thị xấu và dở hơi như vậy nhưng Thị vẫn có chồng. Chồng thị anh Đào.
Anh này cũng cảnh làm thuê như Thị Nở. Nhà nghèo lắm phải mua chức trùm.
Thị Nở có ý vênh vang ra phết. Anh chồng thì nai lưng ra làm lấy tiền
trả nợ. Ăn ở với nhau được một thời gian, Thị sinh cho Đào đứa con trai
đặt tên là Trần Bá Xuyên. Năm 14, 15 gì đó, Xuyên vào Sài Gòn theo
người làng đi tìm chú là ông Ba Lễ, rồi mất ở Sài Gòn lúc còn trẻ.
Khi
đã có gia đình rồi Thị Nở vẫn còn làm thuê cho bà ngoại Nam Cao. Nhà
văn Nam Cao gọi Thị Nở là gì. Còn Thị Nở gọi nhà văn Nam Cao là cháu.
Chuyện
Thị Nở ở làng Đại Hoàng là có thật. Nhưng với tài hư cấu của nhà văn,
ông đã cho ra đời một Thị Nở có một không hai trong lịch sử văn học
Việt Nam.
Nhờ
có Thị Nở mà “Chí Phèo” mới nổi tiếng, mới sống mãi trong lòng người
đọc. Cũng nhờ có Thị Nở và Chí Phèo mà tên tuổi nhà văn Nam Cao đã toả
sáng trên bầu trời văn học Việt Nam.
(Văn học và Tuổi trẻ số 5 - 2006)
NHỮNG HIỂU BIẾT THÊM VỀ NHÀ VĂN NAM CAO
Trong quá trình đi tìm tài liệu, hiện vật, tranh ảnh có liên quan đến
nhà văn Nam Cao và làng “Vũ Đại” ngày ấy, chúng tôi được tiếp xúc với
nhiều nhân vật ruột thịt, bạn bè, đồng chí, đồng khoa, đồng hương với
nhà văn Nam Cao về những kỷ niệm còn nóng hổi của nhiều người với ông.
Ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn) kể:
Hồi ấy, chúng tôi còn bé lắm, anh em quây quần bên nhau thật gắn bó
thân thiết. Anh Tri tôi (tên thật nhà văn Nam Cao) đang học tiểu học.
Mỗi kỳ nghỉ hè, anh tôi đều đặt ra chương trình học tập, lao động, vui
chơi như sau: Sáng ôn tập hai tiếng, chiều lao động hai tiếng giúp gia
đình, một giờ cuối ngày vui chơi thể thao: Như đi bơi ngoài sông Châu.
Anh
rất yêu quý con sông Châu thơ mộng của quê nhà, đã ra sông tắm là mấy
anh em vui mãi không muốn về. Buổi ôn tập nào anh cũng bắt chúng tôi
học thuộc lòng một đoạn thơ Kiều mà anh cho là hay trong khoảng 30
phút. Anh còn sáng tác những bài văn vần để khuyên nhủ anh em chúng
tôi. Tôi còn nhớ một bài như sau:
Em còn đang độ thơ ngây
Khuyên em, em phải tính ngày lớn lên
Cuộc đời là cuộc đua chen
Khôn ngoan thì thắng ngu hèn thì thua
Trăm năm trong cuộc ganh đua
Ngọt bùi thì ít cay chua thiếu gì
Đường đời em đã trót đi
Trót đi phải bước, bước đi hơn người
Vứt sầu đi hãy gượng cười
Cố lên cho được hơn người mới hay
Nợ đời em đã trót vay
Trót vay phải trả sau này cho xong
Làm trai phỉ chí tang bồng
Làm trai ra sức vẫy vùng dọc ngang
ơn nhà, nợ nước còn mang
Khuyên em càng nghĩ lại càng phải lo
Sinh ra thời buổi bây giờ
Trông đời rõ rệt mơ hồ được đâu
Anh khuyên em bấy nhiêu câu
Khuyên em nhớ kỹ để sau ra đời
Bông hời, bông hỡ, bông hơi.
Anh
rất nghiêm khắc thực hiện những điều đặt ra và buộc chúng tôi phải làm
những điều anh khuyên nhủ. Sau khi anh ra đi viết văn chuyên nghiệp,
anh vẫn thực hiện nề nếp sinh hoạt trên. Mỗi ngày hai buổi ngồi viết,
anh vẫn dành hai giờ đồng hồ giúp gia đình như cuốc đất, làm cỏ, đánh
ống suốt, chiều nào anh cũng tập thể dục. Và bơi lội ngoài sông Châu.
Những tuần có trăng đẹp, tối nào anh cũng dành một ít thời gian đến
chơi thăm bố mẹ, anh em, thầy dậy cũ và bạn bè. Anh rất hay đến thăm
các anh Sỹ, Tuy, Khâm, Phấn, Thiết là bạn học thời thơ ấu. Lúc này tôi
còn nhỏ nên được anh hay cho đi chơi cùng. Một đêm trăng sáng đẹp trời
anh đưa tôi đi chơi nhưng chẳng đến nhà ai, anh dẫn tôi đến bờ sông
Châu, ngồi bên một cái lò gạch cũ (ở xóm 17 bây giờ). Anh bảo tôi ngồi
ngắm trăng và ngắm sông. Trăng sáng, sông gợn sóng biết bao nhiêu vàng,
gió lao xao. Những ngọn tre cao vút chơi vơi, ngả nghiêng nhịp nhàng
nhảy múa. Tôi gục đầu vào lòng anh ngủ lúc nào không biết. Tôi tỉnh dậy
thì đêm đã khuya lắm. Anh đưa tôi về trăng vẫn sáng. Đường vắng lắm.
Tôi vưà đi vừa ngủ gật xiêu bên này nghiêng bên kia, cứ muốn lăn ra
đường mà ngủ. Tự nhiên tôi thấy anh cười vang lên. Tôi tỉnh hẳn thấy
anh vẫn cười. Chỉ xuống mặt đường anh hỏi tôi:
- Em có trông thấy gì không?
- Bóng của em và anh
- Không phải! Nó là bóng hai thằng say rượu
Vừa
đi vừa nhìn kĩ, tôi cũng bật cười mà tỉnh hẳn, phấn chấn đi về nhà mà
không buồn ngủ nữa. Sau này đọc chuyện của anh, tôi đã thấy anh đưa
cảnh ấy vào chuyện rất sinh động.
Anh
đã ngồi viết thì ít khi tiếp khách và trò chuyện với ai, kể cả bố mẹ,
anh em, vì thế mà chúng tôi ít đến với anh lúc ấy. Đặc biệt gần nhà anh
có cụ trùm Ruyên sáng nào anh cũng mời cụ sang uống nước, hút thuốc
lào và nói chuyện. Cụ đến vào lúc anh viết, anh cũng buông bút ngay để
tiếp chuyện cụ rất nhiệt tình. Cụ rất quý và tôn trọng anh và thường
gọi anh là ông giáo. Sau này đọc “Lão Hạc” tôi mới hay là anh đã lấy
ông làm mẫu để tả lão Hạc. Anh rất thương cảm những người nghèo khổ
phải đi làm thuê gánh mướn. Một lần nhà anh có việc phải đi nhờ người
làm giúp, chị dâu tôi mua bánh đúc về cho ngừơi làm ăn sáng gọi là “nước
sáng”; mua bún cho anh và các con ăn. Anh bắt bê ra cả người làm và
người nhà cùng ăn. Người làm nghỉ uống nước, hút thuốc lào, anh cũng
buông bút để cùng trò chuyện thân mật, vui vẻ. Anh cũng gợi chuyện để họ
nói chuyện rất bình đẳng, cởi mở, vui vẻ, chẳng còn gì ngăn cách hay
phân biệt giữa anh và họ. Người mà nhiều người vẫn cứ thường kính trọng
gọi anh là “ông giáo”
Anh
yêu cái nơi sinh ra anh- làng Đại Hoàng yêu quý của anh. Tháng 8 năm
1945 anh cùng một số anh em tham gia kháng chiến cướp chính quyền ở quê
hương Lý Nhân – Hà Nam. Anh được cử đọc bài diễn văn đầu tiên ở dốc Nga
Khê – Lý Nhân. Sau đó anh về làng tổ chức thu đồng triện, văn bằng sổ
sách của cường hào, hương lý, lập ra Uỷ ban lâm thời do anh làm Chủ
tịch. Năm 1946 anh được bầu vào hội đồng nhân dân xã và làm chủ tịch xã
Đại Hoàng lúc đó
Sau
đó một năm anh được điều về làm biên tập báo “Cờ Chiến Thắng” của tỉnh
Hà Nam sơ tán lên Kim Bảng. Anh cùng anh Lợi ở Nhân Hoà làm biên tập
báo “Cứu Quốc” quân khu Ba rồi lên tờ “Cứu Quốc” ở Việt Bắc.
Anh
công tác ở xa nhà nhưng rất nhớ về làng quê – nơi chôn rau cắt rốn của
anh. Anh xin tổ chức cho về thăm quê, trong chuyến đi này anh đã viết
“Bốn cây số cách vùng địch hậu”. Anh đã không quên đưa tiếng cười của
anh Hiến – bạn anh bắt chước tiếng cười của Bá Kiến vào tác phẩm của
mình. Anh đã nói với bạn bè: “Cái đất quần ngư tranh thực” này mà bây
giờ biết đoàn kết nhau lại để đánh tây, cường hào ác bá thế nàyNếu không
có cách mạng thì người dân nghèo ở đây luôn luôn bị chèn ép đến chết
dần chết mòn hết. Những người cầm bút như chúng mình mà chưa viết được
gì cho quê hương thì quả là có tội lớn. Nguyện vọng của mình là thế nào
cũng phải viết về làng Đại Hoàng yêu mến của chúng ta. Chúng tôi chờ
đón tấm lòng của anh với một sự mong mỏi nóng bỏng, tin tưởng.
Không
ngờ,anh lại hy sinh ở chiến trường một cánh đồng nước ở thôn Mưỡu
Giáp, Gia Viễn, Ninh Bình trong chuyến đi thực tế để lấy tài liệu viết
về thuế nông nghiệp lúc ấy. Sau chuyến đi ấy anh đã để lại tác phẩm
“Định mức”, trong tiếng thổn thức và cảm động vô cùng ông Trần Hữu Đạt
mắt ướt nhoà chớp chớp Chúng tôi ai cũng lặng đi, thương nhớ về một tài
năng ra đi quá sớm để lại bao niềm tiếc thương vô hạn cho chúng ta!!
(Giáo dục và Thời đại ngày 22/05/1998 )
NHÀ VĂN NAM CAO LÀM BÀ MỐI
Chúng
tôi được ông Trần Văn Đa (nhân vật Mô trong tác phẩm “Sống mòn” của
nhà văn Nam Cao) kể cho nghe câu chuyện về nhà văn Nam Cao như sau:
Cậu
giáo Tri (tên thật nhà văn Nam Cao) làm việc rất nhiệt tình và có
trách nhiệm, hay thương người lao động nghèo khổ như chúng tôi, không
có sự phân biệt đối xử với người nghèo hay lao động chân tay, sống rất
bình đẳng và tích cực hay giúp những người xung quanh khi có nhu cầu.
Ngày ấy tôi thường ra gánh nước ở ngoài phố. Tôi gặp bà ấy nhà tôi (làm
ở nhà máy da Thuỵ Khuê, Hà Nội) cùng cảnh nghèo hay nói đùa với nhau
yêu nhau rồi lấy nhau. Cũng nhờ có công tác thành của cậu giáo Tri, bây
giờ bà ấy nhà tôi còn nói: “Nếu không có cậu giáo Tri thi chẳng bao
giờ tôi lấy ông”. Bà còn nói về cậu giáo: “Chúng tôi có gì sai sót khi
phục vụ cơm nước, cậu chỉ nhỏ nhẹ bảo ban góp ý không hờn dỗi, to tiếng
cáu gắt như những người khác. Cậu ấy đã nói thì rắn trong lỗ cũng phải
bò ra. Nói năng nhỏ nhẹ như đàn bà. Cậu rất ít đi chơi. Sống ở đất đô
thành phồn hoa như vậy mà rất ít chơi bời. Ngày hai buổi dạy học rồi
chỉ ở nhà đọc sách, viết báo, viết văn hay đàm dạo với Tô Hoài vì ông
cũng viết báo viết văn như cậu giáo Tri”
Nghe bà nói đến đây, ông vội vàng nói tiếp:
-
Chuyện của vợ chồng tôi mà cậu giáo cũng viết lên báo đấy. Nghĩ lại mà
cười bò ra. Chuyện của vợ chông tôi thì có gì mà viết, có gì mà đáng
đọc? Thế mà thiên hạ lại thích đọc cơ đấy! Ngẫm nghĩ lại thấy cậu giáo
tài thật!!
Thật đáng tiếc, nếu ông trời không bắt cậu phải mất sớm thì chắc người ta còn được đọc nhiều chuyện hay nữa .
(Giáo dục và Thời đại ngày 05/02/1999 - Phụ nữ Việt Nam số 03 ngày 7/01/2005)
NHÀ VĂN NAM CAO CHỌN BÚT DANH
Tổ
Khoa học xã hội trường THCS Nhân Hậu, Lý Nhân, Hà Nam đã được những
người bạn đồng môn, đồng hương, đồng chí, anh em ruột thịt của nhà văn
Nam Cao kể cho nghe một số chuyện rất lý thú và quý giá. Một trong những
chuyện đó là chuyện nhà văn Nam Cao chọn bút danh.
Ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) kể:
Rất
nhiều bạn đồng môn, đồng hữu như ông Hoàng Tùng, Hoàng Cao và một số
người có dịp gặp nhà văn đều gạn hỏi: cớ sao ông lại lấy bút danh Nam
Cao?
Nhà văn tủm tỉm:
-
Làng mình đã có hai ông Hoàng rồi (ý nói Hoàng Tùng, Hoàng Cao lúc đấy
đang giữ trọng trách trong Đảng và quân đội) còn mình thì võ giốt lắm.
Ông
Hoàng Cao – bạn thân và cũng là họ hàng với nhà văn nhớ lại: Lúc chia
tay mỗi người một hướng đánh giặc. Nam Cao tâm sự với Hoàng Cao: “Chúng
mình là con trai làng Đại Hoàng, trai Lý Nhân, trai Nam Sang, đi đâu,
làm gì cũng phải xứng danh là trai Nam Sang nhé! Các cậu là Hoàng thì
phải Huy Hoàng, Đại Hoàng nhé!
Ông
Hoàng Cao nhớ rõ nhiều lần ông lục tìm các tài liệu, bản thảo còn lại
của Nam Cao thì thấy bản thảo nào Nam Cao cũng đề rõ ở góc trên, bên
trái, trang đầu:
Đại Nam quốc
Hà Nam tỉnh
Nam Sang huyện
Lý Nhân phủ
Cao Đà tổng
Đại Hoàng xã
Các
bản thảo đều được nhà văn ghi chữ Nam, có bản lại ghi chữ Cao hoặc Nam
Cao ở dưới các hàng chữ trên. Nhưng vẫn không quên ghi rõ tên Trần Hữu
Tri (tên thật của nhà văn) dưới bản thảo.
Theo
ông Trần Hữu Đạt thì anh trai mình lấy bút danh là Nam Cao là do nhà
văn ghép chữ đầu tên huyện (Nam) với chữ đầu tên tổng (Cao) để nhớ ơn
mảnh đất nơi ông đã sinh thành. Nam Cao còn có ý nghĩa là nước Nam, cao
cả, cao sangnữa. Nam Cao vốn là nhà văn có lòng yêu nước, yêu quê
hương, yêu nhân dân vô cùng sâu sắc. Nam Cao đã có những trang viết
xứng đáng với niềm tin yêu quý mến của quê hương ông. Bút danh Nam Cao
sống mãi và toả sáng mãi với các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn: Chí
Phèo, Lão Hạc, Sống Mòn, Đôi Mắt, Nhật Ký ở Rừng
Nam
Cao đã vinh dự được nhận giải thưởng cao quý: Giải thưởng Hồ Chí Minh
về Văn học nghệ thuật, đợt I năm 1996. Tên của ông được trân trọng đặt
cho một đường phố ở Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Hà Nam lấy tên ông đặt cho một
vườn hoa – công viên ở giữa lòng thành phố Phủ Lý yêu thương. Huyện Lý
Nhân chọn tên ông để đặt tên cho mái trường, nơi hun đúc những tài năng
tương lai của đất nước. Uỷ ban nhân tỉnh Hà Nam đã chọn tên ông để đặt
tên cho Giải báo chí của tỉnh.
Ngoài bút danh Nam Cao, nhà văn còn có một số bút danh khác: Xuân Du, Nhiêu Khê, Thuý Rư, Nguyệt…
Theo
nhà văn Tô Hoài, Nam Cao ký bút danh Nhiêu Khê là có ý đùa. Còn bút
danh Xuân Du mà nhà văn ký dưới các bài thơ của mình là do ông lấy hai
chữ ở đầu câu thơ mà nhà văn và Tô Hoài hồi ấy thường ngâm ngợi:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi
Tạm dịch:
Mùa xuân chơi miền cỏ non
Mùa hạ tắm hồ sen ngát
Mùa thu uống rượu hoàng hoa
Mua đông ngâm thơ tuyết trắng.
Còn
bút danh Thuý Rư thì do nhà văn lấy một số chữ trong tên thật của mình
(Trần Hữu Tri) để ghép lại mà thành. ở đây chữ “i” đã được thay bằng
chữ “y”.
Hồi
hoạt động ở Việt Bắc, Nam Cao còn có tên là Ma Văn Hữu. Nhà văn Tô
Hoài lấy tên là Nông Văn Tư. Khi đi công tác Nam Cao thường đem giấy tờ
mang tên Ma Văn Hữu, nghề nghiệp dạy bổ túc văn hoá. Nam Cao cùng
Nguyễn Huy Tưởng trong chuyến đi cuối cùng vào Khu Bốn, ra Khu Ba, Nam
Cao cũng mang theo giấy tờ ghi tên đó.
Hồi làm báo Cứu Quốc ở Việt Bắc, báo tỉnh Hà Nam, báo Quân Khu Ba Nam Cao làm ca dao còn lấy bút danh Suối Trong.
Trong
tất cả các bút danh mà nhà văn đã dùng, Nam Cao là bút danh để lại
trong lòng người đọc và nhân dân nhiều kỷ niệm và nhiều ý nghĩa sâu sắc
nhất.
(Báo Tiền phong số 208 – Ngày 20/9/2006)
NHÀ VĂN NAM CAO VỚI SỐ PHẬN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
Nhà
văn Nam Cao (quê ở làng Đại Hoàng xã Hoà Hậu huyện Lý Nhân tỉnh Hà
Nam) là một người rất nghèo tiền bạc nhưng lại rất giàu tình cảm. Bản
tính hiền lành lương thiện khiến ông luôn yêu thương cảm thông với
những số phận có hoàn cảnh éo le, nhất là những người phụ nữ
Hồi
ấy, ở làng Đại Hoàng có Lý V., là người có học lại có “máu mặt”, nhưng
lại đối xử với con dâu rất tệ bạc. Bao nhiêu việc lớn việc bé trong
nhà đều đổ lên đầu cô con dâu, nhưng quanh năm chị chỉ được mặc áo nâu
quần vá. Một lần do quá ấm ức vì bị đối xử bất công chị đã gây xích
mích với mẹ chồng. Biết chuyện, Lý V. bèn sai con trai đào một cái hố ở
trước sân, bắt con dâu nằm úp cái bụng chửa – lúc này chi đã có mang 6
tháng – xuống hố. Lý V. vừa quất roi mây vào mông vừa quát tháo, bắt
chị phải hứa từ nay mẹ chồng bảo gì nghe đấy, bảo sao làm vậy, cho gì
ăn nấy rồi mới tha đòn. Anh con trai nhìn tận mắt vợ mình bị bố chồng
đánh đòn, thương vợ lắm mà vẫn không dám hé răng bênh vực vợ nửa câu.
Chuyện có thật ở làng Đại Hoàng hồi ấy đã được nhà văn Nam Cao đau xót kể lại trong thiên phóng sự “Cảnh làm dâu trong luỹ tre xanh” đăng trên một tờ tuần báo ở Hà Nội hồi ấy.
Những
năm 1940 – 1945, ở làng Đại Hoàng có bao nhiêu người bị cái đói hoành
hành. Nhiều người đã chết vì đói kém. Thế nhưng, đau đớn thay! Có người
lại chết no! Truyện “Một bữa no” mà nhà văn Nam Cao viết đăng ở Tiểu thuyết Thứ Bảy
năm 1943 – kể về một bà lão đói đã lâu ngày đến thăm cháu đang đi ở cho
bà Phó Thụ, để kiếm bữa cơm cho đỡ đói. Thế rồi sau bữa no ấy, bà đã
ra đi! Thật là chua chát xót xa cho thân phận người phụ nữ trong cảnh
cơ hàn, đói rét, lầm than!
Bà
ngoại nhà văn Nam Cao có ba người con nuôi là gì Vui, gì Tuất và gì
Thảo. Nam Cao thương quý nhất là gì Thảo. Ngày còn nhỏ, Nam Cao bị bệnh
yếu chân, bà Minh (mẹ nhà văn) lo chạy chợ nên nhà văn được gì Thảo
chăm sóc từ nhỏ. Gì dạy cháu tập hát, tập nói lại cõng cháu đi chơi.
Nam Cao đi học thầy Kí Lân, được gì dắt đi. Cháu học, gì cũng học theo.
Nhờ cháu mà gì biết chữ. Lớn lên gì Thảo lấy chồng là anh Quản Phượng.
Quản Phượng nghiện ngập, nhăng nhít với cô bán bánh đúc ngô trên chợ
Phù Nhị, khiến gì Thảo rất khổ tâm. Năm 1942, mùa rét gì Thảo đi cấy
thuê về bị cảm lạnh. Đói quá gì xin củ ráy về luộc, xin mỡ về ăn, bị tả
ốm nặng. Nam Cao sang thăm, dì vẫn ngồi khâu vá mấy cái áo rách bên ổ
rơm nơi góc nhà. Khi biết mình khó lòng qua khỏi, gì Thảo chỉ xin ăn
một miếng trầu rồi ra đi. Con gái gì Thảo tên là Kính cuộc đời cũng lận
đận chẳng kém mẹ là bao. Ngày Kính đi lấy chồng, Nam Cao đã ghi lại
trong truyện “Một đám cưới nghèo”, trong đó đổi tên gì Thảo
thành gì Hảo, khiến ai đọc cũng phải rưng rưng lệ. Đại Hoàng xưa la một
làng rất nhiều mõ: Mõ Nhắng, mõ Nhưng, mõ Tí Tèo, mõ Quyên, mõ Văn. Mõ
Nhưng có cô con gái tên là Sâm. Cô này đẹp gần nhất làng lại khéo tay,
đan lát thêu thùa đều giỏi, nhưng mang tiếng là con nhà mõ nên ế
chồng. Trước cảnh éo le đó, Nam Cao viết truyện “Tư cách mõ.
Một kiểu người bần cùng trong xã hội bị tha hoá, đã đi vào trang văn,
vào tình cảm của nhà văn nông thôn giàu lòng nhân ái như thế đó.
Làng
Đại Hoàng ngày đó có ông Phó Kính chuyên đi đóng cối, có cô con gái
tên là Thị Nở. Thị Nở người xấu lại dở hơi, hay cười, động một tý là
lăn ra ngủ, bất kỳ chỗ nào. Thị có “tài” gia chánh đặc biệt. Bữa nào bố
chồng Thị (là ông Quản Dụng) cũng la rầy Thị về tội để cơm sống, cơm
khê, cơm nhão. Những lúc ấy Thị vênh mặt lên cãi lại: “Sống đâu mà sống
chỉ hơi sường sượng thôi mà”. Người làng rất ít người mướn Thị làm
công. Bà ngoại nhà văn Nam Cao thương tình có việc gì là gọi Thị đến
làm ngay.
Cũng
cảnh làm thuê, anh Đào gặp Thị Nở. Họ thành vợ chồng qua sự gán ghép
của mọi người. Họ ở với nhau trong một ngôi nhà xiêu vẹo do ông Phó Kính
để lại. Vợ chồng Thị Nở có một người con là Trần Bá Xuyên. Xuyên theo
người làng đi tìm chú là ông Ba Lễ ở Sài Gòn rồi chết trong đó lúc đấy
Xuyên 15 tuổi. Lấy anh Đào, Thị Nở vẫn làm thuê cho bà ngoại Nam Cao.
Nhà văn phải gọi Thị Nở là gì. Thị Nở gọi Nam Cao là cháu.
Trong
truyện “Chí Phèo” Nam Cao lấy nguyên mẫu bà mẹ chồng chuyên buôn trầu
không, hàng chuyến để xây dựng nhân vật bà cô Thị Nở. Đó là bà Quản
Dụng có tiếng là người đàn bà cay nghiệt nhất làng Đại Hoàng.
Bà
Sen (vợ nhà văn Nam Cao) kể: “Bà ngoại nhà văn rất khó tính. Cụ rất
phong kiến, tính hay nói. Cụ chỉ có một mình mẹ anh Nam Cao. Chúng tôi
không dám nói chuyện với nhau trước mặt cụ. Có lần tôi mệt, anh Nam Cao
giặt hộ quần áo cho tôi một cách lén lút, sợ cụ biết. Lúc giặt xong anh
cứ để quần áo ở chậu rồi ra hiệu cho tôi dậy phơi. Anh thường khuyên
tôi: “Bà có nói gì, cứ để bà nói. Nhịn là tốt nhất. Cuộc đời cụ khổ lắm.
Chồng chết sớm, cụ một mình nuôi con vất vả”.
Ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) cũng kể:
Chính
ông đã thấy mấy đêm Nam Cao vừa viết văn vừa khóc, nhưng rồi anh lại
cắn môi không để cho cảm xúc trào dâng, một tay tỳ vào bàn viết, một tay
tỳ vào ngực như để ngăn cảm xúc của mình. Viết xong nhà văn cho bài
vào phòng bì dán kín lại, nhờ ông Đạt đem gửi cho nhà xuất bản ở Hà
Nội. Sau này ông biết đó là Truyện Chí Phèo (lúc đó có tên là Cái lò gạch cũ)
Quả
thực, Nam Cao là một nhà văn lớn – một nhà văn luôn luôn hướng tấm
lòng chân tình, rộng mở của mình đến số phận đau khổ, éo le, chua xót
của những người phụ nữ yêu thương, gắn bó của mình, của nhân loại!
(Báo Phụ nữ Việt Nam số 24- Ngày 24/2/2006)
NGƯỜI KHƠI NGUỒN VÀ NUÔI DƯỠNG MẠCH VĂN CỦA NHÀ VĂN NAM CAO
Bà
Trần Thị Sen (vợ nhà văn Nam Cao) sinh năm 1916 tại làng Đại Hoàng, xã
Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Bà sống tại quê nhà gần 40 năm;
còn lại là thời gian bà sống tại Thành Nam cùng các con.
Cha bà là ông Trần Duy Thản, làm chánh hội nên thường gọi là chánh
Thản. Cụ Thản có 3 vợ. Mẹ bà Sen là vợ thứ 3, tên là Trần Thị Quyên,
sinh được 5 người con gái và 1 người con trai. Bà Sen là con gái thứ 4.
Nhà đông chị em, nên từ nhỏ bà Sen đã thạo nghề canh cửi, chợ búa,
đồng áng, các việc vặt trong nhà.
Đám cưới của bà Sen và Trần Hữu Tri (Nam Cao) phải tổ chức chạy tang
ông quản Nhã (em ruột ông ngoại Nam Cao) vườn nhà bà Sen gần vườn nhà
Nam Cao. Cuối năm 1935 đầu năm 1936, Nam Cao đi Sài Gòn. Ba năm sau, bà
sinh con gái đầu lòng đặt tên là Trần Thị Hồng (trong tác phẩm văn
học, Nam Cao gọi là Hường). Sau chuyến đi này, Nam Cao bị bệnh tê chân,
bà Sen phải chạy chữa mấy năm mới khỏi.
Bố đẻ nhà văn Nam Cao là nhà nho, gia đình làm ăn căn cơ, nền nếp lắm.
Trần Hữu Tri hồi ấy chưa có tiếng tăm gì về văn nghiệp, mới học tới
bằng tú tài, rất tử tế hiền lành, ít nói. Ông chánh Thản rất quý mến
Tri, cho con gái nhà mình làm dâu nhà cụ phó Huệ.
Có lần cậu tú Tri nhỏ nhẹ với Sen:
- Lấy anh, chắc là em sẽ khổ. Chẳng bằng bà Ký, bà Phán, bà Chánh, bà Lý. Anh còn phải đi học tiếp, ở xa. Em có chịu được không?
Bà Sen âu yếm nhìn chồng, dứt khoát:
- Em chẳng ngại vất vả. Chỉ mong anh khỏe mạnh, chung thủy, thành đạt.
Rồi họ chia tay nhau trong niềm nhớ thương da diết.
Năm
1938, do ốm đau, cậu tú Tri trở về Bắc, xin việc ở thành Nam nhưng
không được đành lên Hà Nội dạy học tư cho người anh họ, ở Thụy Khuê,
cạnh Hồ Tây. Mùa xuân đẹp nhất và có ý nghĩa nhât đối với cô Sen và cậu
tú Tri là mùa xuân năm 1939 –
gia đình được đón thầy giáo Tri về quê ăn Tết. Sau mùa xuân năm đó, bà
có mang, sinh con đầu lòng. Năm sau, hai vợ chồng bà mua được ngôi nhà
bé nhỏ dựng bên bờ sông Châu, do tiền dạy học tiết kiệm được của chồng
và bà vay thêm chút ít. Tiếp đấy, lần lượt các con Thiên, Thành chào
đời trong ngôi nhà yêu thương ấy
Bà Sen là một phụ nữ chịu thương chịu khó, giỏi gánh vác công việc gia
đình nuôi con trong nhiều năm tháng kháng chiến. Bà đã có công trong
sự nghiệp văn học của chồng, sự nghiệp khoa học của các con. Năm 1996,
Nhà nước phong tặng Giải thương Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt I
cho nhà văn liệt sỹ Nam Cao. Đến năm 2000, con trai của nhà văn – Tiến sỹ –
Giáo sư Trần Mai Thiên, Viện trưởng Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản
I, nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Công nghệ - Khoa học . Hai
lần vinh dự lớn đã đến với bà Sen – người vợ nhà văn liệt sỹ Nam Cao.
Năm 1951, nhà văn Nam Cao hy sinh tại Ninh Bình. Khi đó bà Sen mới 35
tuổi. Bà ở vậy nuôi con, thờ chồng. Ông bà được 5 người con. Con cả là
Trần Thị Hồng làm ở Viện dệt Nam Định ( nay đã nghỉ hưu) ở số nhà 16
phố Nguyễn Du Nam Định. Tiếp theo là Trần Mai Thiên – Tiến sỹ – Giáo sư –
Viện trưởng Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I ( nay đã nghỉ hưu).
Sau đó là Trần Hữu Thành (cán bộ tổ chức Xí nghiệp Sơn Nam –
Nam Định). Kế đó là Trần Hữu Thực (Bí thư đoàn thanh niên Nhà máy dệt
Nam Định). Còn con út là Trần Bình Yên mất năm đói kém 1945
Điều đáng chú ý là bằng vốn sống thực tế của mình, bà Sen đã nhiều
lần kể cho nhà văn Nam Cao nhiều mẫu người, nhiều sự việc có thật ở quê
nhà. Từ đó, Nam Cao viết được nhiều truyện ngắn chân thực về nông thôn
Việt Nam
Một lần vợ nhà văn đi chợ và dặn ông ở nhà coi thóc phơi ở sân kẻo gà
ăn mất. Nhà văn mang ghế ra ngồi ở đầu hè hút thuốc lào, uống nước chè
xanh, trông thóc cho vợ. Chợt cảm hứng văn thơ nổi lên, ông đứng ngay
dậy ngồi vào bàn viết trong nhà, viết liên hồi, quên cả nhiệm vụ coi
thóc. Khi bà về đến nhà thì ôi thôi… gà đã ăn bay mất một gọc sân thóc.
- Ối dời ơi! Gà ăn hết thóc rồi! Bà hốt hoảng kêu to
Lúc đó nhà văn mới bừng tỉnh lập cập bước ra, nói với vợ giọng thảng thốt:
- Trời! Bà đã lùa hết đàn ong vàng của tôi đi rồi!
Bà Sen chẳng hiểu gì cả:
- Ong vàng nào? Ong vàng ở đâu? Ông tỉnh hay mê đấy!?
Nam
Cao chẳng nói chẳng rằng,bỏ vào nhà như người mất hồn. Thì ra ông đã
ví những cảm hứng văn chương của ông là đàn ong vàng và đàn ong ấy đã “bay đi mất” khi bà đuổi gà thay ông
Hiểu ra “hoàn cảnh” của chồng lúc ấy, bà thấy thương ông hơn, thông cảm với ông hơn, không nghĩ đến những hạt thóc bị gà ăn mất
Bà Sen còn nhớ: Có những lần thấy quần áo các con rách quá, ông rất
buồn, bảo bà cố vá cho chúng. Ông thường an ủi bà: Thế nào con của
chúng ta cũng sẽ có áo đẹp. Ngồi vá quần áo cho các con, mà nước mắt bà
cứ chảy hoài.
Nhiếu lần Tô Hoài về nhà văn Nam Cao chơi. Bà Sen nấu cá kho, nấu món
chuối xanh cho chồng tiếp bạn. Đại Hoàng có món cá kho nổi tiếng, rất
đặc biệt trong cách chế biến để chục ngày mà vẵn không bị thiu ôi. Tết
đến, Xuân về nhà nào cũng kho một nồi thật ngon để ăn tết. Bây giờ món
đặc sản ẩm thực này đã trở thành
“thương hiệu”: “Cá kho Nhân Hậu”,
nhiều nơi về đặt hàng trước tết hàng tháng với số lượng lớn. Xã Hòa
Hậu có nhiều nhà chuyên kho cá tết để bán. Có nhà kho cá tết kiếm 4 – 5 chục triệu đồng. Người bán nguyên liệu để kho cá tết cũng kiếm. “Đắt hàng trong, bong hàng ngoài” mà!
Các nhà văn Kim Lân, Tô Hoài …
cứ nhớ mãi món cá kho, chuối xanh, nước chè xanh cùng những điếu thuốc
lào thơm ngon, say khói thuốc mà bà Sen sắm cho chồng tiếp bạn văn của
mình ở quê hương Đại Hoàng – “Vũ Đại” yêu dấu của Nam Cao
Lúc còn sống, Nam Cao thường ao ước sau này hai gia đình ông và Tô
Hoài sẽ trở thành thông gia. Nhưng tiếc là các cháu lại không hợp nhau.
Khi chia tay lần cuối với vợ, Nam Cao nói:
- Anh sẽ đi công tác vào vùng địch hậu. Anh nhờ em may cho hai bộ quần áo nâu…
Bà Sen còn nhuộm cho chồng một cái khăn quấn đầu cũng màu nâu
Đêm
trước ngày đi, nhà văn cầm đèn soi ngắm các con thân yêu. Thấy các con
gầy yếu, ông nắn chân nắn tay cho các con. Sáng ra đi, bà tiễn chồng
một đoạn đường. Nam Cao nói chuyện vui đùa với vợ để bà khuây khỏa nỗi
buồn. Nhà văn nói sẽ viết một chuyện về làng quê mình thật hay và có ý
nghĩa. Có tiền nhuận bút sẽ may cho con quần áo thật đẹp. Bà nhớ rõ,
lần nhận nhuận bút quyển Chí Phèo (lúc ấy là “Đôi lứa xứng đôi”), nhà văn đem đãi bạn bè món thịt chó hết cả, về đến nhà không còn đồng nào.
Làng
Đại Hoàng có nghề dệt vải truyền thống. Mẹ nhà văn chuyên dệt vải. Bà
ngoại nhà văn Nam Cao rất khó tính, hay nói nhiều thành lắm điều. Cụ
rất phong kiến. Cụ chỉ có mình mẹ nhà văn. Bà Sen kể: Rất ít khi bà và
nhà văn Nam Cao giám nói chuyện với nhau trước mặt cụ. Có lần bà Sen ốm
mệt, Nam Cao lén giặt quần áo cho vợ, sợ cụ biết; giặt xong, Nam Cao
để quần áo ở chậu, ra hiệu cho vợ dậy phơi. Nam Cao thường khuyên vợ: “Bà
có nói gì, cứ để bà nói, nhịn là tốt nhất. Cuộc đời cụ khổ, chồng chết
sơm, cụ một minh nuôi con vất vả vô cùng. Bà Sen kể: Do yêu Nam Cao mà
bà đã chịu đựng mọi lời mắng mỏ của cụ. Nhiều khi ức và oan uổng quá,
bà chỉ khoc thầm khóc vụng.
Bà
kể tiếp: Sau khi sinh cháu Hồng được 5 tháng, vợ chông bà ra ở riêng.
Nhà nhỏ lợp bằng tre. Nhà mua của người thua bạc, vợ chết. Nam Cao rầy
la vợ mãi về chuyện này. Tính anh nhân hậu, rất hay thương người, nhất
là những người nghèo khổ, lương thiện. Họ sảy ra chuyện mua nhà như
vậy, anh rất day dứt. Anh thường nói: Đòi như một cái chăn hẹp hễ người này ấm thì người kia bị rét.
Khi
cháu Thực được 6 tháng thì bà nghe tin Nam Cao hy sinh. Bà cuống lên,
không tin. Sau nghe nói lại là Văn Cao chứ không phải Nam Cao. Nhưng có
tin báo Nam Cao hy sinh thật. Cơ quan cử người mang về cho bà một áo
sơ mi cỏ úa, một bộ quấn áo nâu, một nửa đồng cân vàng của anh gửi lại
trước lúc vào địch hậu.
Sau
đó cháu Thiên được Tô Hoài đón về chăm sóc, cho đi học. Thiên được nhà
nước cử đi học nước ngoài. Nhớ chồng, thương con bà lao vào làm việc
cho quên nỗi buồn. Bà chẳng bao giờ quên lời chông dặn: Cố gắng làm
lụng để nuôi con ăn học. Nhìn các con nay đều trưởng thành cả, bà hả
dạ. Bà nghĩ: Mình đã xứng đáng với lòng tin cậy của Nam Cao. Bà thường
đi bán trầu vỏ để kiểm thêm tiền chi tiêu. Bà tâm niệm lời chồng dặn:
cố sống, không dựa vào ai, kẻ cả con! Nhưng bà đã được các con chăm sóc
chu đáo lúc về già
Bà
Sen có hai nguyện ước: Một là trước vong linh ông ấy sống vậy nuôi các
con bằng người, nay đã đạt; Hai là chỉ có thể nhắm mắt xuôi tay khi
tìm được hài cốt chồng, đưa về quê hương…
Ngày 18 tháng 1 năm 1998, lễ đón nhận di hài nhà văn liệt sỹ Nam Cao được cử hành trọng thể nơi quê hương ông tại xã Hòa Hậu – Lý Nhân –
Hà Nam. Nơi ông yên nghỉ ngàn thu chính là mảnh đất của giáo Thứ năm
xưa, gần với mảnh vườn của lão Hạc, nhân vật trong tác phẩm cùng tên của
nhà văn. Phần mộ của ông và Nhà tưởng niệm của nhà văn liệt sỹ Nam Cao
lúc nào cũng nghi ngút khói hương và thơm hương hoa tươi. Bà Sen đã
thỏa lòng nguyện ước. Nhưng rồi, bà cũng không thể sống bên các con và
gia đình mãi được. Quy luật của tạo hóa mà. Bà đã đi gặp ông nhà ngày
30/7/2002, để lại niềm tiếc thương, nhớ nhung da diết của con cháu, gia
đình, họ hàng, xóm giềng, lối phố.
Bà là người đã khơi nguồn và nuôi dưỡng mạch văn của nhà văn Nam Cao. Chúng ta xin ngàn lần cảm ơn bà !!(Báo Phụ nữ Việt Nam số 5 - Ngày 11/1/2006 )
NHÀ VĂN NAM CAO ĐẶT TÊN CHO CON
Chúng tôi được ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) ở làng Đại
Hoàng, xã Hòa Hậu, Lý Nhân, Hà Nam, kể cho nghe một số chuyện thú vị về
nhà văn Nam Cao.
Một trong những chuyện ấy là chuyện nhà văn Nam Cao đặt tên cho con.
Nhà
văn và vợ là bà Trần Thị Sen, sinh hạ được 5 người con: Trần Thị Hồng,
Trần Mai Thiên, Trần Hữu Thành, Trần Hữu Thực và Bình Yên (Bình Yên đã
mất năm đói kém 1945). Trong 5 người con đó, trừ Mai Thiên do chính
nhà văn Nam Cao đặt tên cho, còn những người khác đều do ông cụ thân
sinh ra nhà văn (cụ Trần Hữu Huệ) đặt tên. Cụ Huệ là người thông hiểu
nho học.
Nam Cao có người bạn thân cùng học hành từ nhỏ, nguyên mẫu nhân vật
Đích trong tác phẩm “Sống mòn” là Trần Đức Bao. Ông có vợ là Phượng
(nguyên mẫu nhân vật Oanh trong “Sống mòn”). Hai vợ chồng ông sinh được
người con trai quý đặt tên là Trần Đức Hoàng. Biết thế, Nam Cao hóm
hỉnh vừa đùa vừa thật nói với vợ chồng bạn:
- Hoàng nghĩa là vua, vậy thì tôi sẽ đặt tên con tôi là Thiên (nghĩa là Trời) cho
cao hơn…
Quả nhiên, sau này, người con ấy của anh - Trần Mai Thiên - đã rất
thành đạt. Anh đã trở thành tiến sĩ, giáo sư, Viện trưởng Viện nghiên
cứu thủy sản I; được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II năm
2000 (Nhà văn Nam Cao được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, năm
1996).
Các con khác của Nam Cao đều trưởng thành cả. Chị Hồng là giáo viên
trường Công nhân kỹ thuật Dệt Nam Định; anh Thành là cán bộ tổ chức Xí
nghiệp dệt Sơn Nam (Nam Định); Anh Thực là Bí thư Đoàn thanh niên nhà
máy Dệt Nam Định.
(Báo Tiền phong số 58 - Ngày 22/3/2006 -Báo Đại đoàn kết số 58 – ngày 28/7/2006)
NHÀ VĂN NAM CAO DẠY CON
Theo lời kể của bà Trần Thị Hồng - con gái nhà văn Nam Cao, thì Nam
Cao là một người cha rất nghiêm nghị và ít thổ lộ tình cảm nhưng đối
với vợ, con Nam Cao yêu thương hết mực.
Bà Hồng lúc nhỏ làm gì cũng chậm, ăn cũng chậm. Thấy con gái luôn ngồi
sau cùng bên mâm cơm, Nam Cao bảo: “Con gái ăn chậm thế, sau này đi
làm dâu chỉ có mà nhịn đói suốt”.
Về tính kiên nhẫn thì Nam Cao và vợ là bà Trần Thị Sen trái ngược
nhau. Mỗi lần con khóc để vòi vĩnh điều gì, thì bà Sen hoặc là dỗ dành
mọi cách để cho con nín hoặc là bực tức đánh mắng. Còn Nam Cao, ông có
thể ngồi hàng giờ bên tiếng khóc. Một lần bà Sen đi chợ, trời mưa tầm
tã, rả rích, cậu con trai Mai Thiên khóc nhè, khóc rất lâu. Nam Cao chả
dỗ dành gì, cũng không tức giận, mà bảo: “Con cứ khóc nữa đi nhá, bao
giờ không thích khóc nữa thì bảo cậu!”.
Quả nhiên, sau đó một lúc, cậu ta nín ngay và gọi: “Cậu ơi! Con không khóc nữa đâu!”
Nam Cao cười: “Thế thôi! Lại đây chơi với cậu”. Từ đó, nếu ở bên Nam Cao, Mai Thiên không mấy khi khóc.
Nam Cao thường nói với vợ: “Phải cho các con đi học, phải để chúng tự làm mọi việc”.
Trong “Nhật ký Ở rừng”, Nam Cao viết: “Thiên ơi! Cha sẽ mạnh dạn ném
con vào đời và cuộc đời sẽ luyện cho con nhanh chóng hơn cha luyện”.
Nam Cao rât chiều con, không hề đánh con. Có lân Mai Thiên khóc rất
dai bên mẹ. Nhà văn lại đến dỗ dành Thiên, nói khéo là thầy rất đói,
Mai Thiên có thể đi mua giúp thầy mấy tấm bánh đa vừng được không? Thế
là Mai Thiên hết khóc sà vào lòng mẹ xin tiền đi mua bánh đa. Hai bố
con vui vẻ ăn bánh đa.
Sau này, anh Trần Mai Thiên đã phấn đấu trở thành giáo sư – tiến sĩ –
Viện trưởng Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I. Anh vinh dự được Nhà
nước tặng thưởng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 năm 2000 về Công nghệ
và Khoa học
Thật vinh dự cho hai cha con nhà văn Nam Cao và Trần Mai Thiên đều
được tặng giải thưởng cao quý (Nhà văn Nam Cao được tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh đợt I năm 1996 về Văn học nghệ thuật)
(Tiền Phong số 142- ngày 14/7/2006)
NHÀ VĂN NAM CAO VỚI TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ THANH NIÊN
Chúng
tôi được ông Trần Đức Hiến –lão thành cách mạng, người đồng chí của
nhà văn liệt sỹ Nam Cao – quê ở Đại Hoàng, Hòa Hậu, Lý Nhân, Hà Nam kể
cho nghe câu chuyện về nhà văn Nam Cao với Đoàn và thanh niên hồi kháng
chiến chống Pháp như sau:
“…
Sau khi nghỉ dạy học ở Hà Nội, anh Nam Cao về làng, hoạt động tuyên
truyền trong đám thanh niên tiến bộ. Anh Tri (tên thật nhà văn Nam Cao)
nói về tương lai của đất nước và của nhân dân, nhất là của thanh niên
rất xán lạn. Nào là có micơrô truyền qua loa dẫn để cho nhiều người cùng
nghe, nào là có máy cày, máy bừa, máy gặt, nào là cho tư bản vào làm
kinh tế ở nước ta, sau một thời gian nhất định họ trả lại ta những nhà
máy, công trình… mà họ đã đầu tư để ta khai thác xây dựng đất nước, làm giầu cho Tổ quốc…
Đến nay, ngồi nghĩ lại, chúng tôi thấy lời anh nói đúng là sự thật. Chúng tôi càng khâm phục và tiếc thương anh
Anh
viết văn thì trôi chảy như vậy, nhưng anh đứng trước công chúng, nhất
là đám thanh niên chúng tôi, thì hai tai đỏ nhừ như hai quả nhót chín
ửng, trông thật buồn cười. Tính anh nhút nhát, rụt rè ít nói, nhưng đã
nói thì rắn trong lỗ cũng phải bò ra. Anh hóm hỉnh, khôi hài lắm.
Anh
Nam Cao rất có ý thức về đoàn thể. Chẳng hạn như khi đi thoát ly, anh
chưa kịp lấy giấy chuyển sinh hoạt Đoàn, anh yêu cầu tôi thu đoàn phí
của anh và giới thiệu sinh hoạt cho anh đến cơ quan khác. Tôi cười khà
khà:
Thôi
xí xóa. Bây giờ cho Đoàn đi tản cư rồi. Chỉ còn mấy anh ở lại nắm tình
hình và khôi phục dần. Còn giới thiệu sinh hoạt Đoàn thì tôi giới
thiệu bằng miệng vậy. Mấy đồng chí cùng đi làm chứng cho nhé. Giấy bút
sổ sách…
tôi chôn cất dấu cả rồi. Tất cả chúng tôi cùng đổ ra cười sảng khoái ở
ngôi nhà ọp ẹp của ông Trần Bình Ngân (xóm 9 Nhân Hậu bây giờ).
Nam
Cao đã từng tập viết những vở kịch cho cánh thanh niên công tác ở quê
diễn ra trong những ngày lễ của nhà thờ, được mọi người khen ngợi và
tán thưởng.
Nam
Cao là người có công nhóm lửa, đưa đường, giác ngộ cho cánh thanh niên
ở làng ra đi hoạt động cách mạng và trưởng thành từ đó. Nay tôi đã
nghỉ hưu tại quê nhà, nghĩ lại thời ấy, không thể nào quên anh được… Nhớ lắm Nam Cao - người bạn cùng chí hướng, cùng quê hương của tôi!”
(Tiền Phong ngày 21/6/1998)
NHÀ VĂN NAM CAO VÀ NGƯỜI LÀM THUÊ CHO NHÀ MÌNH
Chúng
tôi được ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) làng Đại Hoàng, xã
Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam kể cho nghe câu chuyện rất cảm
động về nhà văn Nam Cao với người làm thuê cho nhà mình, như sau:
Lần ấy, nhà Nam Cao có việc phải đi mượn người đến làm giúp. Vợ anh – bà Trần Thị Sen đi mua bánh đúc về cho người làm ăn sáng (gọi là “nước sáng”); mua bún về cho Nam Cao và các con ăn.
Thấy vậy, Nam Cao bắt bê cả bún ra cùng bánh đúc rồi cả người làm và người nhà cùng ăn.
Người làm nghỉ uống nước, hút thuốc lào, anh cũng buông bút để cùng
trò chuyện thân mật vui vẻ, cởi mở. Chẳng còn gì là ngăn cách, hay phân
biệt giữa người làm thuê và anh – người mà bao nhiêu người xung quanh vẫn gọi là “Ông giáo” một cách kính trọng.
(Tiền Phong ngày 28/3/1998)
MONG SAO “VƯỜN HIỆN THỰC NAM CAO” SỚM TRỞ THÀNH HIỆN THỰC!
“Vườn hiện thực Nam Cao” do họa sĩ Trịnh Yên phác thảo đặt tại xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Trung tâm giao lưu văn hóa thế giới (UNESCO) phối hợp với ngành Văn hóa Việt Nam tổ chức thực hiện công trình này. “Vườn hiện thực Nam Cao”, theo thiết kế có diện tích từ 3000 đến 4000m2.
Vườn có bố cục trồng cây xanh xung quanh vườn như: Chuối ngự Đại
Hoàng, hồng Nhân Hậu, chuối tiêu hồng, ngâu, hòe và một số loại cây lưu
niên và cây cảnh khác. Phần mộ nhà văn được đặt bên mép dưới cuốn sách
mở. Trên một trang sách có trang trí phù điêu trích từ một số cốt
truyện của nhà văn Nam Cao. Phần mộ có bố cục đế vuông rất chắc chắn
xinh xắn, trang nghiêm. Tầng bát giác tháp trên là nửa hình tròn. Dự
định sẽ đặt 50 pho tượng của nhiều nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao
trong khuôn viên của vườn.
“Vườn hiện thực Nam Cao”
có ý nghĩa như một di tích danh nhân, vừa là văn hóa đặt trưng tiêu
biểu cho thời kì văn học hiện thực cách mạng mà Nam Cao xứng đáng là đại
diện của dòng văn học này.
“Vườn hiện thực Nam Cao” còn
đáp ứng khát vọng của nhân dân, nhất là lớp trẻ từng được truyền bá
các kiến thức tư tưởng tình cảm thời đại mà văn học trong đó Nam Cao đã
và đang góp phần trong việc hình thành nhân cách thế hệ trẻ.
Vì nhiều lý do, đến nay phần mộ nhà văn liệt sỹ Nam Cao đã được hoàn thành, nhưng “Vườn hiện thực Nam Cao” thì
vẫn chưa được xúc tiến các bước tiếp theo. Nhân dân và gia đình nhà
văn liệt sĩ Nam Cao rất mong được các cơ quan cấp trên quan tâm tiến
hành xây dựng tiếp khu vườn đầy ý nghĩa này. Đảng ủy, UBND địa phương
đã và đang tích cực xúc tiến những bước cần thiết để sớm mong“Vườn hiện thực Nam Cao” trở
thành hiện thực. Vì đây là ước nguyện chính đáng của toàn thể bạn đọc
trong nước và cả nước ngoài đối với nhà văn liệt sĩ Nam Cao.
Chúng tôi được ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) kể cho nghe câu chuyện rất thú vị: Toàn bộ khuôn viên “Vườn hiện thực Nam Cao”
nằm trong khu nhà của gia đình Lão Hạc (nhân vật trong truyện ngắn cùng
tên của nhà văn Nam Cao) nơi đây trước là đất của Lý Hiếu, con trai Bá
Kiến (trong tác phẩm Chí Phèo). Chỗ này hồi năm 1943, 1944, là phần
đất của chính nhà văn từng ở.
Còn nhớ, lúc đầu gia đình nhà văn cũng như chính quyền địa phương có ý định đặt khu “Vườn hiện thực Nam Cao” ở khu vườn vải của xã (Xóm 9, Hòa Hậu, Lý Nhân, Hà Nam bây giờ). Nhưng do thế đất hẹp, nên “Vườn hiện thực Nam Cao” đã
được đặt ở vị trí trung tâm của xã, đối diện với sân vận động của xã,
bên dòng sông Châu thơ mộng của quê hương nhà văn. Đây là sự trùng hợp
ngẫu nhiên do tổ tìm hài cốt Nam Cao quyết định chọn lựa hay mệnh trời
xếp đặt nơi yên nghỉ cuối cùng của nhà văn liệt sĩ Nam Cao – người đã sáng tác nên “Chí Phèo” nổi tiếng??
(Tiền Phong số 6 ngày 13/01/2001)
NHỮNG TRÙNG HỢP LẠ LÙNG VÀ MAY MẮN TRONG QUÁ TRÌNH ĐI TÌM PHẦN MỘ NHÀ VĂN NAM CAO
Trần Hữu Tri là tên thật của nhà văn liệt sĩ Nam Cao. Ông sinh ngày 29
tháng 10 năm 1915 tại làng Đại Hoàng, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam. Ông là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn
học Việt Nam với nhiều tác phẩm nổi tiếng: Chí Phèo, Lão Hạc, Sống Mòn,
Đôi Mắt…
Ông hy sinh ngày 30 tháng 11 năm 1951 ở tuổi đầy tài năng và nhiệt
huyết. Trên đường đi công tác trong đoàn chỉ đạo thuế nông nghiệp ở
liên khu Ba, ông bị giặc phục kích và bắn chết tại cánh đồng Mưỡu Giáp,
xã Gia Xuân, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Cơ sở của ta đã chôn cất
ông cùng ba đồng đội trong niềm tiếc thương của mọi người. Ngày cải
táng phần mộ của các liệt sĩ (năm 1955) có phần mộ của nhà văn Nam Cao
được xã Gia Xuân quy tập về nghĩa trang thôn Vũ Đại, sau lại chuyển về
núi Bài Thơ gần thắng cảnh Địch Lộng. Mười năm sau (1965), huyện Gia
Viễn xây xong nghĩa trang liệt sĩ của huyện đã quy tập phần mộ của các
liệt sĩ trong huyện về thị trần Me. Lần này, khi di chuyển hài cốt của
liệt sĩ nhà văn Nam Cao cùng đồng đội có ghi đặc điểm từng mộ dán lên
tiểu. Nhưng trên đường qua cầu Gián Khẩu bị máy bay Mỹ đánh phá cầu, rồi
mưa lớn trút nước, làm bong những tờ gấy ghi đặc điểm các phần mộ liệt
sĩ. Thế là chẳng còn nhận ra đặc điểm của từng phần mộ các liệt sĩ
nữa. Các tiểu sành giống nhau đã hòa đồng các liệt sĩ trong cái nghĩa “Vô danh”.
Năm tháng trôi đi, giữa 814 mộ liệt sĩ yên nghỉ tại nghĩa trang thị
trấn Me ấy, chẳng ai nhận ra đâu là phần mộ nhà văn liệt sĩ Nam Cao.
Gần 5 thập kỉ trôi qua, trong lòng bà Trần Thị Sen (vợ nhà văn liệt sĩ
Nam Cao) lúc nào cũng canh cánh một nỗi niềm, một nguyện ước: Mong sao
sớm đua hài cốt của nhà văn về quê cha đất tổ!.
Hội nhà văn Việt Nam, câu lạc bộ UNESCO Việt Nam cùng 35 cơ quan, đơn
vị đoàn thể và gia đình cố nhà văn đã hưởng ứng tích cực và thực hiện “Chương trình tìm lại Nam Cao” do Hiệp hội UNESCO Việt Nam đề xướng.
Công việc tìm kiếm, nhận diện ngôi mộ và hài cốt nhà văn được triển
khai trên nhiều hướng, với nhiều phương pháp khác nhau, phương tiện
hiện đại, kết hợp kinh nghiệm dân gian và kiểm định của các nhà khoa
học. Đây là một việc làm rất thận trọng, công phu, bảo đảm tính khoa
học,vì thế kết quả rất đáng tin cậy. Di hài nhà văn đã được nhận diện.
Ngày 18/1/ 1998, Lễ đón rước hài cốt nhà văn về mai táng ở quê nhà tại
khu vườn “Vườn hiện thực Nam Cao” thuộc làng Đại Hoàng xã Hòa Hậu, Lý Nhân, Hà Nam đã được long trọng tổ chức.
Các chuyên gia dân dã đã đóng góp một phần công sức, trí tuệ và tài năng của mình vào việc “tìm lại Nam Cao”. Các ông bà Trần Ngọc Kiệm (Nam Định), Phan Thị Bích Hằng, Doãn Phú, Thẩm Thúy Hoàn… (đều ở Hà Nội) đã được Liên hiệp Khoa học –
Công nghệ tin học ứng dụng (UIA), mời tham dự chương trình đầy nghĩa cử
này. Ảnh của nhà văn Nam Cao đã được trao tận tay từng người. Họ không
biết những ai được tham gia. Mỗi người tiếp cận cố nhà văn theo cách
riêng của mình và thông tin nhận được sẽ ghi ra tờ giấy bỏ trong phong
bì dán kín gửi tới Liên hiệp UIA (vào cuối tháng 11/1996)
Các chuyên gia lần lượt đưa ý kiến của mình. Họ đều có những điểm
giống nhau: Mộ và hài cốt Nam Cao vẫn còn, trong nghĩa trang liệt sỹ.
Có thể tìm thấy. Vào nghĩa trang phải qua cây cầu bằng xi măng, đường
lát gạch. Ngôi mộ số 306 là của nhà văn Nam Cao. Mộ có lẫn một ít xương
nhỏ của đồng đội.
Tuy nhiên, vẫn còn một số thông tin khác không giống nhau, âu cũng là lẽ thường tình.
Chị Phan Thị Bích Hằng cho hay: Mộ của nhà văn vị trí đặt tiểu hơi
nghiêng về phía Tây Nam khoảng 10 độ, khi đào tiểu lên, nhìn thẳng mặt
liệt sĩ về phía tay phải tiểu bị nứt khoảng 10cm. Khi khai mộ mọi người
thấy chị đoán đúng. Mọi người càng thêm tin tưởng vào công việc của
mình đang làm.
Ông Trần Ngọc Kiệm nói : “Xương đùi trái của nhà văn bị gãy”.
Ông Doãn Phú cho biết: “Xương chân trái gãy nát, một vết dạn trên trán bên trái, vết nứt trên sọ não…”
Sau đó Viện khoa học hình sự (Bộ Nội vụ) bằng phương pháp khoa học đã
xác định những thông tin trên là đúng. Mọi người càng kinh ngạc và càng
tin tưởng, yên tâm.
Chúng tôi được ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) kể cho nghe như sau: “Khi khai mộ, lúc mở nắp tiểu ra, tự nhiên linh tính giục ông thốt ra lời:
- Ối anh ơi, em được thấy anh rồi. Đúng khuôn mặt của anh đây rồi! Suốt 47 năm nay, em và các cháu đi tìm anh đây!”.
Để khẳng định đúng là hài cốt nhà văn, ngay đêm ấy lúc 3h15 phút, hài
cốt của nhà văn đã được đưa về Viện khoa học hình sự (Bộ Nội vụ) để
tiến hành nhận dạng về mặt thể chất trong sự phấp phỏng của gia đình
nhà văn và mọi người tham gia chương trình “tìm lại Nam Cao”.
Tay run run nâng chén nước mời chúng tôi, ông Đạt còn kể tiếp: Một cán bộ Viện khoa học hỏi chúng tôi:
- Có phải nhà văn bị vẩu?
- Không! chúng tôi trả lời.
Liền lúc ấy, một người phụ nữ bước vào phòng. Người giám định viên nói luôn.
- Không phải vẩu mà răng hàm hơi bị nhô ra so với hàm dưới như chị phụ nữ kia kìa.
Chúng tôi nhìn ra thì đó là cháu Hồng, con gái đầu lòng của nhà văn.
Một chuyên viên nhận dạng hỏi chúng tôi: Về chiếc răng số 7 không phải
gãy, cũng không sún, mà chỉ còn 1 nửa răng phía dưới, có phải răng của
liệt sỹ không?
Lập tức, chúng tôi phải điện về Nam Định hỏi chị Sen. Chị Sen bảo
rằng: chiếc răng số 7 của nhà tôi lạ lắm không phải sún, không phải
gãy, nhưng chỉ mọc một nửa chừng. Vậy là đúng anh ấy rồi!”
Vấn đề đã được khẳng định. Đúng 2h sáng 18/01/1998 từ Viện khoa học
hình sự, hài cốt của nhà văn được bàn giao về quê hương ộng. Đoàn xe ô
tô gần 30 chiếc từ Hà Nội về , dừng ở Cầu Giẽ để thả chiếc tiểu cũ từng
đựng hài cốt nhà văn, xuôi dòng suối Yến, nơi thắng cảnh chùa Hương.
Đón ông ở quê nhà, có đầy đủ các Ban ngành đoàn thể của địa phương Hà
Nam, Nam Định, Ninh Bình và khách Trung ương. Nhà thơ Tố Hữu, nhà văn
Nguyễn Đình Thi, nhà văn Kim Lân. Các nghệ sĩ Bùi Cường (đóng vai Chí
Phèo), Hữu Mười (đóng vai giáo Thứ), Hoàng Yến (đóng vai vợ ba Bá
Kiến). Cùng có mặt trong buổi đón rước đầy thiêng liêng, xúc động, các
đại biểu, bạn bè, họ hàng, gia đình cảm động thả những năm đất xuống
nơi yên nghỉ ngàn thu của nhà văn yêu dấu.
Lại nói về những người góp phần “tìm lại Nam Cao” Phan Thị Bích Hằng, trong một cuộc họp, bất thình lình hỏi:
-
Có ai là cụ Phan Văn Phán ở đây không? cụ Nam Cao nói cụ Phán cùng đi
trong chuyến công tác ấy, biết rất rõ sự việc sẽ kể lại cho bà con
nghe.
Hôm ấy, cu Phán có dự họp, sau đó khi ra thắp hương trên mộ số 306 cụ
đã rưng rưng kể lại từng chi tiết về trường hợp hy sinh của nhà văn Nam
Cao.
Bích Hằng hỏi tiếp:
-
Ở đây có ai là cụ Trần Thị Sen (vợ nhà văn) và bác Mai Thiên (con trai
nhà văn)? Lúc ấy chỉ có mặt bác Mai Thiên. Bích Hằng lại hỏi tiếp:
- Có ai là bà Nghị và cô Thảo? Ông Thao muốn gặp bà và con gái đấy!
Bà Nghị nghe gọi tên mình, tên con gái và tên chồng, thật bất ngờ bà và con gái khóc òa… Ông Nguyễn Văn Thao khi ấy là Ủy viên Tỉnh ủy Thái Bình, trưởng đoàn công tác, bị địch bắt và sát hại cùng ngày với Nam Cao.
Qua câu chuyện, chúng tôi còn được một số thành viên trong ban điều hành “Chương trình tìm lại Nam Cao” cho hay:
Nhà
văn Trần Ngọc Lân, một thành viên trong ban điều hành chương trình đã
thực hiện hai trắc nghiệm không có trong dự định của kế hoạch từ trước)
song song với việc giám định bằng phương pháp khoa học.
Trắc nghiệm 1: Ông gọi điện thoại hỏi Bích Hằng vào lúc 8h30 phút ngày
9/01/1998 (chỉ sau vài giờ hài cốt của Nam Cao được đưa về Viện khoa
học hình sự).
Bích Hằng tuy không được báo trước và không có mặt ở hiện trường lúc khai mộ, nhưng chị đã cho biết “Mộ
của bác Nam Cao (số 306) đã được khai chuyển đêm 8 rạng 9/01/1998,
không có mặt bác gái (bà Sen) có em trai bác Nam Cao (ông Đạt) và hai
con trai bác là Thành và Thực. Có cô cả con gái nhà văn (cô Hồng) và
dâu, rể… và một người đàn ông dòng tộc khác (cháu rể Nam Cao).
Thực tế diễn ra đúng như lời chị Hằng nói !!
Trắc nghiệm 2: Ông đem một tấm ảnh chụp hộp sọ của hài cốt, đưa cho
ông Nguyễn Văn Liên. Xem xong ảnh, chưa cần hỏi lai lịch của tấm ảnh,
ông Liên đã nói ngay: “Đây
là hài cốt của một người đàn ông, chết khoảng năm 1951 -1952, bị giặc
càn chứ không phải đi đánh trận. Người này có tên gọi vần T (tên thật
nhà văn Nam Cao là Trần Hữu Tri). Người này khi sống có một chiếc răng
bị gãy chứ không phải bị nhổ…
Gia đình nhà văn đã xác định là đúng. Lại nói về việc đi tìm nơi hài
cốt của nhà văn Nam Cao. Mới đầu, chính quyền địa phương và gia đình nhà
văn cùng ban điều hành chương trình định đặt mộ nhà văn ở vườn vải xóm
9, Nhân Hậu, Lý Nhân.
Nhưng qua nghiên cứu, khảo sát người ta lại thay đổi ý định. Ngắm
nghía khu vườn vải, ông Đỗ Bá Hiệp nói : - Khu đất này đẹp, nhưng ít hồ
ao, sông nước, mặt khác ở dưới đất này có âm phần. Nếu không có chỗ
nào nữa thì đặt ở đây cũng được, nhưng phải di các âm phần kia đi. Nếu
địa phương còn nơi nào nữa thì chúng tôi xin đi xem tiếp.
Thế là cả đoàn ô tô đi khảo sát tiếp. Xe đi theo hướng Đền Nhà quan.
Trên đường đi qua sân vận động của xã, bỗng Đỗ Bá Hiệp bảo dừng xe lại.
Ông nói vừa nghe thấy có ai gọi tên mình: “Anh Hiệp! Anh Hiệp!”. Xe
dừng, mọi người xuống thăm khu đất. Nhà Hán học Tá Nhí nhìn quanh khu
đất, rồi thì thầm với anh Hiệp. Lát sau cả 2 người nói với đoàn:
Chỗ đất này được đấy. Ba mặt có ao, phía sau có sông Châu, trước mặt là đường 63. Đất này hợp với nhà văn lắm…
Chỗ đất này được chọn để xây “Vườn hiện thực Nam Cao” trong đó có phần mộ nhà văn.
Không ngờ chỗ này chính là đất của nhà văn ở hồi mua nhà dựng vào năm
1942 -1943; đồng thời cũng chính là đất của cụ Trùm San và cụ Trùm
Luân (nguyên mấu nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao).
Nơi đây đã có lúc là đất của lý Hiếu, con trai của Bá Kiến (trong tác
phẩm Chí Phèo)
Theo sự chỉ dẫn của chuyên gia, mộ của nhà văn xây hướng về phía Tây
Bắc, đúng hướng nhìn về phía Quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Vì nhà văn
là chiến sĩ cách mạng suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của dân
tộc, của nhân dân.
Có một điều mà chưa ai lý giải được là chẳng hiểu vì sao lại có sự
trùng hợp ngẫu nhiên thế này: Mười năm về trước nhà văn viết đến tên
làng Vũ Đại trong truyện Chí Phèo nổi tiếng mà nguyên mẫu là làng Đại
Hoàng của ông, thì sau đó 10 năm, nhà văn lại hy sinh đúng trên đất Đại
Hoàng (Ninh Bình) và phần mộ của ông chôn cất ở đúng làng Vũ Đại, xã
Gia Xuân, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ngày cát táng đưa hài cốt ông
về quê, khi chọn đất xây mộ ông, lại nằm trên chính đất của nguyên mẫu
“Giáo Thứ” và “Lão Hạc” (nhân vật trong tác phẩm của nhà văn)
(Tiền Phong ngày 29/6/2003)
" NGÔI NHÀ BÁ KIẾN "
Du khách về thăm quê Nam Cao, viếng Phần mộ nhà văn, thăm Nhà tưởng
niệm nhà văn liệt sỹ Nam Cao - tại làng Đại Hoàng xã Hòa Hậu Lý Nhân,
tỉnh Hà Nam; ai cũng tò mò háo hức muốn ghé thăm nhà Nghị Bính - nguyên
mẫu nhân vật Bá KIến trong tác phẩm Chí Phèo nổi tiếng của nhà văn Nam
Cao.
Nghị Bính tên thật là Trần Duy Bính , con cụ Trần Duy Thực - xuất thân
từ một nông dân nghèo. Ông sinh vào khoảng năm 1863 tại làng Đại Hoàng
(trong truyện Nam Cao đổi tên là làng Vũ Đại). Hồi ấy thuộc tổng Cao
Đà huyện Nam Sang, Phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, nay là xóm 11, xã Hòa Hậu,
huyên Lý Nhân ,Tỉnh Hà Nam. Theo các cụ cao niên trong làng kể lại,
Nghị Bính dáng người cao to tiếng nói sang sảng. Do khôn ngoan lọc lõi,
Nghị Bính giàu lên nhanh. Lúc đầu chỉ mua được chức phó lý, lý trưởng,
sau làm chánh tổng Cao Đà, Nghị Bính được lòng quan trên do giao thiệp
khéo và cũng “làm được việc”, sau đó làm chánh huyện hào (đứng hàng
trên mười chánh tổng trong huyện). Từng làm nghị viên Bắc Kí, được
triệu về kinh đô Huế dự lễ tế Nam Giao. Nghị Bính đi đâu xa cũng cưỡi
con ngựa màu nâu có gia nhân cắp tráp theo hầu. Người hầu này tên là
Liên - người cùng làng. Khi chủ ngồi vào tràng kỉ làm việc, người hầu
phải đi cắt cỏ cho ngưa ăn.
Nghị Bính có 5 vợ, 12 con (3 trai, 9 gái). Trong 5 bà, chỉ có bà năm
là người thiên hạ, còn bốn bà đều là người làng. Mỗi vợ ông Nghị bố trí
ở một nơi riêng, bà nào cũng có cơ ngơi, vườn cây ao cá…Theo mấy bà bé kể lại: Khi đón chồng đến thăm, bà nào cũng chuẩn bị sẵn chim câu, gạo tám, trứng gà tươi…hầu hạ phục dịch. Ngày tết các bà sắm lễ sang nhà bà ba - nơi ông Nghị ở, bà ta chỉ cười nhạt mà rằng:
- Những thứ ấy, đằng này khối!
Ông
Nghị có ba con trai. Binh Tảo là con cả (cũng là nguyên mẫu trong
truyện) tính thật thà, chậm chạp. Cửu Hòe, con bà hai, làm Lý trưởng,
trong sáng tác Nam Cao đổi tên là Lý Cường. Ruộng nhà Lý Cường liền với
vườn nhà văn Nam Cao, bên bờ sông Châu. (Ở gần “Vườn hiện thực Nam Cao”
ngày nay).
Khoe quyền, khoe của, Nghị Bính nhờ ông Hùng Sơn ở Nam Định làm cho đôi câu đối treo trong nhà:
Thập lý vân lôi thiên bất hạn
Cửu trùng vũ lộ địa do dư
Dịch nghĩa:
Mười dặm sấm mây trời chẳng hạn
Chín trùng mưa móc đất còn dư!
Nắm quyền sinh quyền sát trong tay, muốn lấy vườn, đoạt nhà, chiếm
ruộng của ai, là Nghị Bính tìm mọi cách lấy cho bằng được. Theo các già
làng kể lại: Sáng sáng, Nghị Bính vận bộ quần áo lụa màu mỡ gà, chân
đi đôi giầy Gia Định bóng loáng đầu đội nón, đủng đỉnh ra hàng bà Bút
Son, người đàn bà đã đứng tuổi nhưng còn xuân sắc, mở quán bán hàng
ngay bên đường làng, cạnh nhà. Có ba người thì đánh tài bàn, đủ năm
người thì chơi tổ tôm.
Khi chính quyền về tay nhân dân, bộ máy phong kiến sụp đổ, Nghị Bính
cũng đi tản cư trên Nhân Giả (Nhân Khang, Lý Nhân bây giờ). Cuối năm
1948, Nghị Bính ốm nặng, được con cháu đưa về quê và mất ngày
8/11/1948.
Cách mạng tháng Tám thành công, đây là sự kiện vĩ đại trong lịch sử
dân tộc và là cuộc đổi đời của từng người dân Việt Nam. Khác hẳn với
ngày trước, những người con, rể, dâu, cháu, chắt của gia đình Nghị Bính
đi theo cách mạng. Người cháu đích tôn của Nghị Bính là Trần Duy Rĩ,
đi bộ đội, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ hiện sống tại quê nhà, là
cựu chiến binh Việt Nam. Ba người con rể tham gia cách mạng từ sớm. Ông
Ký Ban làm Bí thư Đảng bộ xã Đại Hoàng. Ông Trần Huy Tặng được kết nạp
Đảng CSVN từ sớm, là cán bộ cấp tỉnh thuộc tỉnh Quảng Ninh, nay đã
nghỉ hưu tại Nam Định. Ông Trần Đức Phấn là cán bộ lão thành cách mạng -
Đại tá quân đội nhân dân Việt Nam - nguyên mẫu nhân vật San trong tác
phẩm Sống Mòn của Nam Cao. Các cháu, chắt của ông Nghị đều tham gia
công tác xã hội, một số người là chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam.
Việc đưa nguyên mẫu Nghị Bính vào nhân vật Bá Kiến đã gây nhiều rắc
rối cho nhà văn. Ngày ấy, Nghị Bính đang đau đầu về những câu vè, trần
ngôn, những câu ca dao do người làng sáng tác ra để châm biếm, đả kích,
lên án bọn cường hào ở địa phương, trong đó phần nhiều nhằm vào Nghị
Bính; lại thêm chuyện “Đôi lứa xứng đôi” (sau đổi lại là Chí Phèo).
Sách về làng, cánh thanh niên truyền tay nhau đọc. Dư luận khẳng định
Bá Kiến trong truyện là hình ảnh Nghị Bính, sự tức tối của đám Hào Lý
càng cao. Nghị Bính dọa: “ Ném” đi vài mẫu ruộng cho nhà văn rũ tù.
Nhưng Nam Cao không sợ. Ông nói với vợ:
- Hóa ra nhiêu khê nhỉ, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Cứ để xem họ làm gì, nếu họ làm, mình lại có chuyện để viết.
Trước đó, có người khuyên nhà văn nên lánh đi, nhưng Nam Cao không nghe, ông cho rằng chúng không dám làm gì ông.
Trong một bưa giỗ, có đông đủ họ hàng, người anh của bà Sen (vợ nhà văn Nam Cao) đứng lên gọi em gái, nói:
Cô
cứ yên tâm làm ăn, nuôi các cháu và viết thư khuyên chú ấy, cứ tự do
tung hoành không sợ gì hết. Nhà văn, nhà báo học không có nhiều tiền
nhưng họ có nhiều chữ nghĩa, có sự cố kết bênh vực lẫn nhau, một người
bị sự vu oan, nhiều người xúm lại bênh vực thì mạnh lắm. Vài mẫu ruộng,
chứ vài chục mẫu của nó cũng ném xuống sông xuống bể mà thôi!...
Còn Nghị Bính, gặp ông phó Huệ (thân phụ nhà văn Nam Cao) thì nói mát:
- Thật phúc cho nhà ông có thằng con viết văn chửi cả làng cho mà nghe.
Ông phó Huệ chỉ im lặng không đáp.
Đám
kỳ hào trong làng còn cầy bẩy, tức tối mãi tìm cách khó dễ cho nhà văn
Nam Cao. Thế rồi năm ấy, tri huyện mới về nhậm chức, lý dịch trong
làng mang trướng, chuối ngự, hồng đỏ lên mừng. Biết họ từ làng Đại
Hoàng lên, viên tri huyện nói:
- Tôi có người bạn học là Trần Hữu Tri, các vị về cho tôi gửi lời hỏi thăm.
Chuyện êm xuôi từ đó!
Nói
sang chuyện “Ngôi nhà Bá Kiến”. Đây là ngôi nhà của Nghị Bính - nguyên
mẫu của ngôi nhà Bá Kiến. Đó là ngôi nhà cổ, làm theo kiểu lòng
thuyền, có 16 cột lim, chân kê đá tảng xanh được đẽo gọt công phu. Nhà
ba gian, dùng để thờ cúng, làm theo lối dân gian cổ truyền, kết cấu
theo kiểu giá chiêng chồng rường, mái lợp ngói nam, bít đốc, hai đầu bờ
nóc có đấu vuông giật cấp, cửa ghép bức bàn, ngoài hiên có hàng dại
bằng gỗ lim để che nắng, chắn mưa.
Tính
đến nay ngôi nhà đã qua bảy chủ. Người chủ đầu tiên là ông Trùm Hanh,
ông Hanh buôn bán phát tài, thuê thợ Cao Đà nổi tiếng về nghề mộc xuống
làm. Nghe kể ông thợ cả chỉ vạch que xuống đất làm mẫu cho thợ thi
công.
Trùm
Hanh để lại cho con là Trương Xầm. Trương Xầm để lại cho con là Cựu
Cát. Cựu Cát là người chơi bời có tiếng, nghiện ngập cờ bạc…thiếu
tiền uống rượu thường hỏi vay Nghị Bính rồi khoác lác sẽ bán nhà trả
nợ. Nghị Bính nhân cơ hội đấy, muốn mua rẻ thường cho Cựu Cát vay tiền.
Thế rồi nhân lúc ông Cựu say rượu, Nghị Bính đã lừa lão ký vào văn tự
bán nhà. Khi tỉnh rượu thì nhà đã mất.
Điều
đáng nói ở đây là ngôi nhà này so với nhiều nhà nông dân hiện nay thì
nó chả thấm tháp gì, nhưng nó là chứng tích cuối cùng của thế lực phong
kiến ở làng Đại Hoàng từng làm mưa, làm gió trên đất “Vũ Đại” ngày ấy
trong vòng nửa thể kỷ!
Nghị
Bính qua đời, con cháu bàn chuyện bán nhà: Ông Trần Thế Lễ người cùng
xóm, cùng làng đánh tiếng mua về xẻ ra làm khung dệt (vì làng Đại Hoàng
có nghề dệt truyền thống) nhưng rồi cũng chẳng mua được. Ngôi nhà suýt
“chết” lần thư hai. Lần thứ nhất “Ngôi nhà Bá Kiến” đã bị lính Pháp
hỏa thiêu. Lần ấy khoảng năm 1953, thực dân Pháp còn xâm lược nước ta.
Lính Pháp từ Nam Định lên càn quét làng Đại Hoàng. Chúng châm lửa đốt
một số nhà trong làng, trong đó có nhà Bá Bính. May thay, du kích trong
làng đã cứu nhà Bá Bính khỏi bị thiêu rụi. Người cứu “nhà Bá Kiến” hồi
ấy là ông Trần Bá Huấn và ông Trần Văn Huỳnh. Hiện nay ông Huấn vẫn
còn sống (78 tuổi) là Đảng viên Đảng CSVN - nhà giáo về hưu. Ông Huỳnh
đã mất cách đây vài năm.
Hồi đó gia đình nhà Bá Bính cũng đi tản cư, thi thoảng mới có người về nhà thăm nhà cửa, ruộng vườn, ao chuông…
Sau
này, đến tháng 8/1963, ông Trần Hữu Hậu từ Tân Thế Giới về quê, có
tiền, ông mua lại ngôi nhà này của ông Trần Duy Tảo - con trai Bá Bính
với giá 4.500đ (thời đó tương đương với 10 cây vàng) khi ông Hậu mất,
ngôi nhà ấy thuộc sở hữu của anh Trần Hữu Hòa (cháu ruột ông Hậu) . Ngôi
nhà đã được gia đình ông Hòa sửa chữa chút ít do một phần bị mối xông
và nơi mái nhà bị giặc Pháp đốt hồi trước, nay ngói bị xô lệch. Tuy
nhiên, ngôi nhà vẫn giữ được dáng vẻ xưa. Nhà
có chiều dài là 9,6m chiều rộng là 6,8m. Sân gạch dài 9,6m rộng 5m.
Toàn bộ hệ thống cổng, tường bao, tường hoa, cây cảnh, bể non bộ, bể
nước ăn… của ông Nghị nay không còn nữa
Chúng
tôi được ông Trần Thế Lễ, 91 tuổi ở xóm 11 cùng làng Đại Hoàng với
Nghị Bính và một số cụ cao niên khác gần nhà Bá Bính kể cho nghe nhiều
chuyện lý thú về Bá Bính như sau: Hồi đó các cụ là những trai đinh
trong làng, lại là người cùng xóm với Bá Bính, nên khi nhà cụ Bá có
việc trọng là các cụ lại được cụ Bá cho gọi đến giúp việc. Chẳng hạn
như đến làm cỗ ăn khao hay các bàn giỗ kị trong nhà cụ Bá. Lúc ấy, các
cụ được thấy toàn bộ quang cảnh nhà Nghị Bính
Trong
nhà thờ của cụ Nghị, được bài trí rất khang trang, lộng lẫy. Gian giữa
nhà bố trí bàn thờ sơn son thép vàng (gọi là án gian); Ỷ khám nằm trên
mâm truyện (còn gọi là cỗ ngai) có đôi đầu rồng nhìn ra hai phía phải,
trái trông thật uy nghiêm. Bát hương, cây nến, đèn đồng sáng loáng ngự
trên bàn thờ. Những khi nhà có việc, hương khói nghi ngút khắp cả ba
gian nhà thờ. Mâm ngũ quả thường được cụ Nghị sắp đặt thật hoành tráng,
bắt mắt. Âu cúng là một cách “ăn chơi” của cụ Nghị - một người có
tiếng, có quyền ở cái tổng Cao Đà, phủ Nam Sang hồi đó. Trong nhà, cụ
Bá còn bày một bộ trường kỷ bằng gỗ lim, con tiện trông thật oai vệ. Bộ
trường kỷ này hồi ấy bày tại gian phía Tây. Gian phía Đông cụ kê một
chiếc “ghế nước” bằng gỗ vàng tâm.
Ngoài
hiên rất rộng, cụ Bá kê một chiếc phản, ở chính giữa để những khi có
việc trọng thì con cháu, họ hàng, làng xóm đến lễ bái sẽ phủ phục tại
đó, chứ không ai được vào trong nhà thờ. Nhà thờ chỉ để bàn thờ và bày
cỗ bàn. Cụ Bá và bà Ba cũng không ở đó mà nghỉ tại ngôi nhà năm gian
phía Tây quay hướng Đông Nam cho mát mẻ. Đối diện với ngôi nhà phía Tây
còn một ngôi nhà năm gian nữa ở phía Đông, quay về phía Tây để tạo
thành chữ môn cùng với ngôi nhà thờ ba gian này.
Hai ngôi nhà năm gian ở phía Tây và phía Đông đó, nay không con nữa. Chỉ còn lại ngôi nhà thờ ba gian mà thôi
Ông Trần Thế Lễ kể tiếp:
- Hồi ấy, chánh Bính có xây tường hoa và chơi cây cảnh, bể non bộ. Giữa sân,
sát
với tường hoa là bể nước ăn. Hai bên bể nước ăn là hai bể cạn trồng
hai cây vạn tuế lúc nào cũng xanh mướt. Sân hồi đó rộng hơn sân bây giờ
rất nhiều, tức là đã bị cậy đi nhiều hàng gạch rồi, qua các chủ khác
nhau.
Nghị Bính chơi hai cây hải đường ở gần hai cây vạn tuế. Đến mùa hoa,
hải đường nở đỏ chói, càng làm cho quang cảnh nhà cụ Nghị thêm “giàu
sang phú quý”, khiến cho ối kẻ phải nể trọng và ghen tức. Ở làng Đại
Hoàng hồi đó có tới 5 cánh cường hào. Đây là mảnh đất có tiếng là “quần
ngư tranh thực”!
Chánh Bính cũng chơi bể non bộ: Có giả sơn bằng đá trên đó trồng cây
si, đặt trước sân nhà. Chiếc bể này hiện nay do ông Trần Duy Ái cũng ở
xóm 11 cùng làng Đại Hoàng sở hữu. Nhưng không còn núi non bộ nữa. Ông
Ái đã dùng vào việc khác rồi.
Cổng nhà chánh Bính do ông thợ Hiện xây, nay không còn nữa. Hai cánh
cổng bằng gỗ lim. Ông Tảo - con trai Bá Bính đã bán cho cụ Đào Vân
người cùng xóm 11. Sau đó ông Lễ đã đem chiếc bục lim của mình để đổi
cho cụ Vân rồi lấy cánh cổng ấy về làm mặt bàn, mặt ghế để bán. ở hai
bên cổng nhà Bá Bính có đôi câu đối như sau:
Yến si sào lai thành địa thắng
Giang sơn xuất ngọc hữu chủ chương
Dịch nghĩa:
Tự nhiên con chim yến về đây làm tổ nên dành thắng lợi
Trời đất ra ngọc cho ta là đã có chủ ý từ trước rồi
Trên
nóc cổng “sang gạch” như một mái bằng trông rất kiểu cách. Ở đó có bức
cuốn thư đắp nổi cũng do ông thợ Hiện xây đắp. Bức đại tự có ba chữ
nho, nay ông Lễ đã quên nên không biết rõ nữa, ông nói là chỉ nhớ được
hai chữ dịch theo nghĩa nôm là: chữ “Bộ”và chữ “Phận” (?!)
Trong nhà, Bá Bính có treo đôi câu đối do ông Hùng Sơn ở Nam Định viết
cho (đã nói ở phần đầu bài viết này) nay không còn trong nhà này nữa.
Ông Tảo - con trai Bá Bính đã bán cho ông Bá Thản ở xã Mỹ Trung, Mỹ
Lộc, Nam Định từ lâu rồi, chẳng biết nay ông Thản còn giữ lại được
không?? Bức đại tự treo trong nhà thờ, ông Tảo bán cho ông lang Rụy -
nguyên là con rể Bá Bính. Ông Rụy xẻ ra làm cánh cửa, nay không còn
nữa.
Ngoài ra, còn phải kể đến bếp ăn nhà cụ Bá nữa. Bếp ba gian, vừa để
đun nấu vừa để nuôi lợn, gà. Trong chuồng lúc nào cũng có từ 5 đến 6
con lợn và một số gà đẻ, gà trống. Cầu ao xây gạch nghiêng, phía Đông
Bắc, mãi đến tận cách đây mấy năm vẫn còn. Nay không ai dùng nữa.
Với tấm lòng “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” đối với những
người có công với nước với dân; Hiệp hội câu lạc bộ UNESCO Việt Nam và
Hội nhà văn Việt Nam cùng hơn 30 đơn vị tham gia thực hiện “Chương
trình tìm lại Nam Cao” đã tìm được phần mộ nhà văn Nam Cao tại Ninh
Bình, đưa về quê hương ông ngày 18/1/1998, đặt tại “Vườn hiện thực Nam
Cao”. Nơi đây còn có Nhà tưởng niệm nhà văn liệt sỹ Nam Cao được khánh
thành 30/11/2004 - đúng vào dịp kỉ niệm 53 năm ngày nhà văn hy sinh.
Trong nhà có bức tượng đồng chân dung nhà văn Nam Cao. Do tập thể cán
bộ chiến sỹ Nhà xuất bản Công an nhân dân kính tặng. Ngoài ra còn có
chiếc giường gỗ lim, chiếc tủ đựng sách cũng bằng gỗ lim mà nhà văn
dùng trước đây; Một ống đựng kim chỉ bằng kẽm của nhà văn dùng trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong nhà tưởng niệm còn nhiều tranh
ảnh, tư liệu, sách vở nói về nhà văn Nam Cao cùng phần lớn các tác phẩm
của nhà văn đã in, đã được sưu tầm, trưng bày tại đây…
Nay ngành Văn hóa - Thông tin Hà Nam quyết định lữu giữ “Ngôi nhà Bá
Kiến” để góp phần cho việc nghiên cứu thân thế, sự nghiệp, đời văn của
nhà văn Nam Cao là một việc làm đầy ý nghĩa nhân văn. Ngôi nhà này đã
được Phòng Văn hóa -Thông tin - Thể thao huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam thực
hiện chủ trương của tỉnh Hà Nam mua lại hồi 15giờ ngày 17/11/2007, với
giá tiền là 700.000.000 đồng (Bảy trăm triệu đồng) gồm ba gian nhà
thờ, ngôi bếp, công trình phụ khác, cây côi trong vườn cùng diện tích
sân, vườn là 900m2
Người đứng tên bán nhà là bà Trần Thị Sâm - vợ ông Trần Hữu Hòa (đã chết)
Hiện nay, ngành Văn hóa đang có kế hoạch trùng tu, bảo quản, coi giữ
để phát huy giá trị tích cực của địa chỉ văn hóa này- một trong các bộ
phận không thể thiếu của quần thể du lịch “Vườn hiện thực Nam Cao” tại
quê hương nhà văn Được biết: Nơi đây, một dự án xây dựng “ Làng du
lịch sinh thái và du lịch nhân văn” đang được tiến hành với những điểm
nhấn đầy ấn tượng: “Vườn hiện thực Nam Cao”, “Chuối ngự Đại Hoàng”,
“Hồng Nhân Hậu”, “Cá kho Nhân Hậu”; “Nghề dệt truyền thống Đại Hoàng”.
Đại Hoàng - “Vũ Đại” ngày ấy… Hòa Hậu bây giờ… Một trời, một vực khác xa!!!...
VIẾNG MỘ NHÀ VĂN NAM CAO
Tôi về viếng mộ nhà văn
Hương hoa thơm mát mộ phần gió reo
Chẳng còn Thị Nở, Chí Phèo
Chẳng còn lão Hạc đói nghèo năm xưa
Chẳng còn “sớm nắng, chiều mưa”
Giờ đây Vũ Đại … hơn xưa rất nhiều
Nhà cao cửa rộng bao nhiêu
Đường làng nền cứng, sớm chiều loa vang
Trẻ em vui bước đến trường
Sông Châu nước chảy vấn vương con thuyền
Hồng Nhân Hậu đến mọi miền
Đại Hoàng chuối Ngự tỏa hương trăm vùng
Cá kho Nhân Hậu đã từng
Tiếng thoi rộn rã vui mừng xóm thôn
“Sống mòn” thuở ấy buồn thương
Bao người cay đắng gió sương suốt đời
Lão Hạc ơi, Chí Phèo ơi!
Hãy về thăm chút chốn nơi quê nhà
Nhà tưởng niệm điện sáng xa
Tượng nhà văn đó hay là hồn thiêng?
Mộ phần khu đất nghỉ riêng
Hỡi người quá cố có yên chút nào?
Cảm ơn tài, đức Nam Cao
Nhà văn còn sống biết bao “chuyện dài”
Rưng rưng tay thắp nén nhang
Nhớ người vì nước, vì làng hy sinh!
(Tạp chí Thông tin công tác dân vận - Ban dân vận tỉnh ủy Hà Nam 2/2006
Tạp chí Dân vận của Ban dân vận Trung ương Đảng - số 7 -2008
Tuyển tập thơ nhà giáo Việt Nam . NXB Văn hóa dân tộc-2010)
Bài này hay
Trả lờiXóa