Tôi
không coi đây là bài báo khoa học, mà chỉ là bài viết chia sẻ những suy ngẫm,
nhân đọc cuốn Người chết đi về đâu? Bài viết tiếp cận theo văn hóa Phật giáo
truyền thống, thông qua góc nhìn của Tâm lý học.
1. Từ thực tế cuộc sống
Trước
đây tôi ở xa, cha mẹ mất, ỉ vào ông anh ở quê, bảo sao thì làm vậy, khi đó mọi
việc còn đơn giản. Nay vợ mất (14/8/2013) tôi phải quyết định mọi việc nên rất
lúng túng, không biết lúc nhập quan có phải tụng kinh không? Rồi cúng 3 ngày,
35 ngày đưa lên chùa, cúng 49 ngày, rồi 100 ngày... như thế nào, tại sao? Lời
khuyên thì lắm, chẳng biết nên thế nào! Đây là một thực tế đời sống mà bất kỳ
ai có người thân qua đời đều buộc phải lựa chọn cách ứng xử sao cho phù hợp với
tâm lý chung của xã hội. Tôi giật mình, khi một người bạn bảo: anh là nhà tâm
lý thì phải biết các việc này chứ!
Tâm lý
học (TLH) đâu có biết về chuyện này. Tôi được đào tạo theo trường phái TLH duy
vật biện chứng, hay nhiều người gọi là TLH marxit, được hình thành ở Việt Nam
vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX. “Tâm lý học Việt Nam là một bộ phận của tâm lý học
marxit, một thời kỳ hoàn toàn mới trong lịch sử phát triển tâm lý học thế giới
suốt hơn 20 thế kỷ qua”. Những quan niệm nào không phù hợp quan điểm TLH marxit
đều bị phê phán, gạt ra ngoài lề…
Xuất
phát từ tiền đề triết học của K. Marx: Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất ở bên
ngoài được chuyển vào trong óc con người và được cải biến đi ở trong đó, TLH
marxit định nghĩa: Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi não, là hình
ảnh chủ quan về thế giới khách quan...
Theo
quan điểm này thì đứa trẻ ra đời chưa có tâm lý, nó chỉ có những tiền đề sinh
học – bộ não và các giác quan - để phản ánh hiện thực khách quan và từng bước
hình thành nên đời sống tâm lý. Mọi công trình nghiên cứu (được coi là khoa học
tâm lý) đều phải tìm cách quan sát, đo nghiệm, thống kê được các biểu hiện tâm
lý của người đang sống qua những phản ứng cụ thể: lời nói, văn bản viết, việc
làm, cách giao tiếp, ứng xử, sản phẩm hoạt động… Từ đó suy ra tâm lý của họ. Và
như vậy, khi con người chết, óc và các giác quan ngừng hoạt động, cái tâm lý
cũng không còn. Chết là hết!
Bây giờ
mới thấy, chết rồi còn nhiều chuyện lôi thôi cả với người chết lẫn người sống!
Tôi thử
tìm kiếm thông tin từ Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Đây được coi là
nơi nghiên cứu về các hiện tượng “cận tâm lý”, “siêu tâm lý”, “Tiềm năng đặc
biệt” của con người. Tuy nhiên cho đến nay Trung tâm này mới chủ yếu ứng dụng
những tiềm năng của một số người đặc biệt vào tìm mộ, “áp vong”…Những tài liệu
tổng kết cũng chủ yếu trong phạm vi hẹp, dưới dạng thành tích đi tìm mộ liệt
sĩ…
Khi còn
nhỏ tôi cũng đã biết trong dân gian từ xưa vẫn có quan niệm, người chết đi, hồn
vẫn còn trong “cõi âm” hoặc “cõi Niết bàn”, nên có hình thức gọi hồn, thờ cúng,
khấn vái … các linh hồn của người chết. Trong dân gian cũng nói đến “hồn xiêu,
phách lạc”, “ba hồn bảy vía”, “ba hồn chín vía”… Nhưng chưa rõ tâm lý người hấp
hối và sau khi chết cụ thể ra sao.
Nay thấy
cuốn “Người chết đi về đâu” được mấy nhà khoa học phân tích đánh giá nghiêm túc,
nên tò mò đọc ngay. Nhưng để đọc hiểu cuốn sách đó cần phải có vốn tri thức sơ
đẳng về Phật pháp. Đọc sách và lên mạng tìm kiếm những tài liệu liên quan, bước
đầu tôi cũng hiểu được những kiến thức sơ đẳng về vấn đề đang có nhu cầu tìm
kiếm.
2. Tóm lược một số điều sơ đẳng của Phật pháp
từ góc nhìn tâm lý học
Tài liêu
về Phật học thì quá nhiều, đối với người mới bước vào tìm hiểu Phật pháp quả là
choáng ngợp. Qua tìm hiểu bước đầu, có thể tóm lược một số điều sơ đẳng, cốt
yếu sau đây.
- Thế
giới do Tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) hợp thành. Thế giới bao la “tam thiên
đại thế giới”. Thế giới liên quan tới tâm lý, có thể phân ra lục giới – lục đạo
(6 cảnh giới – sáu cõi): Trời – Atula – Người – Súc sinh – Ngã quỷ - Địa ngục.
Sáu cõi này không có ranh giới, mà đan xen tồn tại giữa âm và dương. Điều đặc
biệt là 6 cõi này không tồn tại thực, mà do tâm lý con người tưởng tượng, hình
dung ra – là sự biến hiện của trạng thái tâm lý (nhất là tiềm thức) của mỗi con
người trong từng trạng huống.
- Về bản
chất tâm lý, con người bình đẳng với muôn loài sinh vật - giới hữu tình, vì
cùng có thần thức: biết cảm thụ, ăn uống, tồn tại, sợ hãi, đau đớn…Vì thế người
không nên sát sinh. Người hơn muôn loài vì có trí tuệ nên có thể tiếp cận chân
lý, đạt đến chính trí, chính giác, tuệ giác, đập tan được vô minh, tăm tối để
giác ngộ chân lý…
- Con
người là thực thể thống nhất ba mặt: Uẩn (tâm lý) – Xứ (sinh lý) – Giới (vật
lý). Ba mặt liên quan mật thiết trong đời sống mỗi cá nhân, nhưng Uẩn có khả
năng điều chỉnh được Xứ và Giới trong cơ thể mình…
- Đi sâu
vào bản chất tâm lý, phân tích Uẩn ra thành “ngũ uẩn”:
+ Sắc:
cảm giác, tri giác sự vật bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, da…
+ Thụ:
phản ánh cảnh giới vào tâm trí, có cả cái tốt và xấu…
+Tưởng:
suy nghĩ, tưởng tượng trong tâm, tạo nên một thế giới tâm lý phong phú, phức
tạp, nhiều mâu thuẫn…
+ Hành
(tạo tác): Từ dục vọng => suy tư => ý muốn => hành động, lời nói ...
+ Thức
(ý thức): là sự phát triển cao nhất trong tâm lý con người, nó có khả năng hiểu
rõ, phân biệt, điều chỉnh các hiện tượng tâm lý ở cấp độ thấp. Một điều rất sâu
sắc là, ý thức hòa nhập vào điều chỉnh ngay từ cảm giác, tri giác: nhãn thức
(nhìn có ý thức), nhĩ thức (nghe có ý thức), tị thức (ngửi có ý thức), thiệt
thức (nếm có ý thức), thân thức (xúc giác có ý thức) …Cho nên ý thức con người
có vai trò quyết định đối với sự tiếp nhận thế giới vào trong tâm, tự phán xét
thế giới nội tâm đó và tự điều chỉnh thái độ, hành vi của bản thân tương tác
với thế giới bên ngoài.
- Đức
Phật trăn trở: con người sinh ra vốn có Phật tính (khả năng để yêu thương, giác
ngộ); mọi người đáng ra phải sống lương thiên, thương yêu nhau (từ bi) và có
trí tuệ (giác ngộ) để xã hội an lạc, thanh tịnh, hòa vui, hạnh phúc…nhưng tại
sao nhân gian ác độc, tăm tối thế? Tại sao chúng sinh chìm đắm trong đời sống ô
trọc, ngu muội, vô minh đến thế? Đó là lý do Đức Phật đã dấn thân đi tìm cách
cứu độ chúng sinh, và Ngài đã tự giác ngộ, lý giải được nguồn gốc khổ đau của
con người và truyền giảng lại cho các đồ đệ, rồi các đồ đệ phát triển kinh pháp
của Ngài đi giáo hóa chúng sinh. Ngày nay dù Phật giáo chia ra nhiều phái, hệ
có hàng mấy trăm triệu tín đồ ở khắp nơi trên thế giới, nhưng Tam pháp bảo
(Phật, Pháp và Tăng) không xa rời nguyên tắc của Phật tổ.
Theo
Tiến sĩ Mathieu Ricard: “Phật giáo phân tích và tháo tung ra những cơ chế của
hạnh phúc và đau khổ có từ đâu? Nguyên nhân nào? Làm sao để thoát ra khỏi đau
khổ?”…
- Nguồn
gốc của tội ác, đau khổ… là do tâm lý con người quá Tham – Sân – Si (tham lam –
thù hận – ngu muội), che lập Phật tính, khiến con người trở nên cá nhân, ích
kỷ, quá lo lắng cho Sinh – Lão – Bệnh – Tử của bản thân, trở thành Ngã chấp
(chủ nghĩa cá nhân), sinh ra ngã kiến, ngã ái, ngã mạn, ngã si, ngã tướng… (chỉ
quan điểm của mình là đúng, chỉ yêu mình trên hết, kiêu ngạo, thiên lệch, tác
oai…). Từ đó sinh ra bảo thủ, cố chấp… không nhận thức được quy luật Vô thường
của thế giới và cuộc sống bản thân đang biến đổi một cách biện chứng trong từng
giờ từng phút…nên chìm đắm trong vô minh, hành động mù quáng: Ý hành, Ngữ hành,
Thân hành (Nghĩ những âm mưu quỷ kế/ những điều hiểm độc…; nói những điều dối
trá, vu oan, ác độc, hung bạo, vô nghĩa…; tiến hành những hành động bất lương,
dã man). Tất cả những cái ác đã làm là NHÂN, tích tụ lại tạo nên nghiệp ác (QUẢ
báo)…Ngược lại những ý nghĩ tốt, những lời nói chân thành, thương yêu, những
việc làm lương thiện… là NHÂN tích tụ lại, tạo nên nghiệp lành (QUẢ phúc)…Những
nghiệp lực (thiện/ác) do con người tạo ra luôn chi phối suy nghĩ, xúc cảm, hành
vi của họ trong lúc sống và cả sau khi chết, khi chìm vào tiềm thức…
- Để
giáo hóa chúng sinh, những người tu hành phải có quá trình tu tập kiên định,
lâu dài: Tu Thiền định, Tu thọ trì ngũ giới, Tu lục độ, Tu Bồ tát … để thấm
nhuần kinh pháp, thấu hiểu chúng sinh, tự thân giác ngộ, thí pháp cứu độ mọi
chúng sinh, không phân biệt họ là ai, cả người đang sống lẫn những vong linh
người đã chết.
- Đối
với mọi người bình thường (chúng sinh) chỉ cần thực hiện theo mười điều dạy của
Đức Phật, chuyển “Thập ác” thành “Thập thiện”: giảm bớt rồi loại bỏ Tham, Sân,
Si; đừng sát sinh, trộm cướp, tà dâm; đừng nói những điều bịa đặt, dối trá,
hung bạo, vô nghĩa. Từ đó Phật tính hiển lộ, giúp ta có Lòng nhân ái và Trí tuệ
- Hai thuộc tính cơ bản nhất của con người, để lao động sáng tạo và biết sống
có đạo lý, làm cho bản thân và gia đình hạnh phúc, xã hội an lành…
Như thế
là Phật tại tâm, tu tại bản thân, chẳng cần phải cầu cúng khắp nơi…và khi chết
sẽ nhẹ nhàng siêu thoát. Nhưng khốn thay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện với cái
ác; cái trí tuệ với cái vô minh diễn ra trong mỗi con người lại vô cùng khốc
liệt, dai dẳng, và như lời đức Phật: Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính bản
thân mình! Mọi kinh pháp chỉ là phương tiện giúp cho bản thân mỗi người tự lĩnh
hội, tự thể nghiệm, tự giác ngộ, tự cứu mình thoát khỏi vòng trầm luân cả lúc
sống và sau khi chết!
- Có một
điều rất quan trọng đối với tâm lý con người là: 6 cõi – 6 cảnh giới mà trong
các kinh pháp nói đến rất nhiều, người ta vẫn tưởng rằng nó chỉ xảy ra với con
người sau khi chết (ở cõi âm), nhưng thực ra 6 cõi tồn tại ngay trong xã hội
con người đang sống. Biết bao người đối xử với nhau trong những gia đình tồi
tệ, trong các nhà tù, trại cải tạo … khác chi địa ngục. Ác quỷ là những kẻ thèm
khát hành hạ, đầy đọa, tra tấn, giết hại đồng loại không ghê tay; Súc sinh là
loại người chỉ biết giành giật, chiếm đoạt lấy sự sinh tồn trong ô trọc, ganh
ghét, tranh giành, cấu xé nhau theo bản năng, vô minh chẳng khác loài vật!
Trong xã hội, phần đông là những con người bình thường, nhưng luôn sống trong
bất an, vì tham, sân, si, vì lo lắng sinh, lão, bệnh, tử …cần được giác ngộ để
có lòng từ bi và trí tuệ. Cõi Atula cũng tồn tại ngay trong xã hội, đó là những
cá nhân dũng lược hơn người, nhiều tham vọng, lắm âm mưu quỷ kế, gian hùng, có
thể là tướng cướp hay những thủ lĩnh lắm tài, nhiều tật, công - tội nhiều bề...
Cõi Trời trong nhân gian cũng có: các Thiên tử, thánh nhân, những người
hiền…Nhưng ở cõi Trời mà hành động như súc sinh, ngạ quỷ (vua lợn, vua quỷ…)
thì cũng sẽ đọa vào địa ngục… Như vậy thực tế cuộc sống xã hội được “phản ánh”
vào đời sống tâm lý của từng con người, được tích tụ trong tâm rồi được hình
dung, biến hiện ra 6 cảnh giới. Cõi Phật ở trên, ở ngoài 6 cõi đó, nơi thần
thức người chết được siêu linh, tịnh độ, thoát khỏi vòng sinh, tử luân hồi,
không đầu thai vào 6 cõi. Để giáo hóa chúng sinh bằng “trực quan sinh động”,
các chư tăng đã minh họa ra cảnh trí thần tiên, cõi Phật hay cảnh tượng cầu
vồng, chó ngao, địa ngục, ác quỷ …ghê rợn…
Điều
quan trọng nữa là, trong mỗi con người cũng có thể trải nghiệm cả 6 cảnh giới
trong đời sống tâm lý đầy xáo trộn giữa thiện và ác, bản năng và ý thức…Ở đây,
S, Freud gần với đạo Phật. Khi “cái Tôi” (cái bản Ngã) thiếu giác ngộ, kiên
định, suy nghĩ, cảm xúc, hành động bị thúc đẩy, lôi kéo bởi nhiều nghiệp lực
(thiện và ác). Có lúc con người thật ngây thơ, trong sáng, lương thiện như
thiên thần; người ấy có lúc có hành động anh hùng cứu nhân, độ thế; nhưng cũng
người ấy có lúc lại ganh ghét với bạn bè, sinh hoạt sa đọa như súc sinh; rồi
người ấy có thể như ác quỷ, giết hại cả những người thân, đồng chí, bạn bè vì
sợ họ… hơn mình!…Không chỉ từng giai đoạn của một đời người mà ngay từng phút
giây hiện tại, suy nghĩ, hành động của ta có thể đan xen thiện hay ác, sáng tỏ
hay vô minh… “Sáu cõi trong thế giới Ta – bà không gì khác hơn là sáu trạng
thái tâm lý của các loài, trong đó có loài người. Sáu trạng thái đó tồn tại
cùng lúc trong mỗi loài và thùy theo nghiệp lực mà chúng sinh có thân thể của
một loài nhất định”
Theo lý
thuyết, khi con người chết đi, phần tứ đại: xương, thịt, máu huyết ... tan vào
đất- nước- gió- lửa, nhưng còn phần thần thức trở thành Thân trung ấm. Đó là
giai đoạn, là nơi tất cả các nghiệp (thiện và ác) đã được tạo ra trong suốt
cuộc đời đều chất chứa trong đó dưới dạng tiềm thức (biến hiện tự phát), và
luôn bị thôi thúc bởi các nghiệp lực để dẫn dắt vào 6 cõi luân hồi…
Trên đây
là tóm tắt sơ lược một số điều cốt yếu về Phật pháp để có chút tri thức, hy
vọng đọc hiểu được cuốn “Người chết đi về đâu?” hay Luận vãng sinh của các Lạt
ma Tây Tạng.
3. Người chết đi về đâu?
3.1.
Giới thiệu tóm tắt Luận vãng sinh (hay Luận tái sinh)
Đây là
một tập văn bản gốc của Tây Tạng được tìm thấy, gọi là Luận vãng sinh – Bardo
Thoedol. Đó là một tập sách mỏng chưa đến 100 trang (20 x16cm), nhằm khai thị
cho người sắp và vừa mới từ giã cõi đời. Luận này nhằm hướng dẫn người chết qua
giai đoạn mang thân trung ấm, một giai đọan kéo dài khoảng 49 ngày, giai đoạn
giữa cái chết và sự tái sinh, tương tự như cuốn “sách dành cho người chết” của
Ai Cập.
Luận này
được chia thành ba phần: Phần đầu được gọi là Tschikhai-bardo (bardo có nghĩa
là chuyển tiếp), mô tả những biến hiện tâm lý trong thời điểm chết; phần hai
được gọi là Tschoenyi – bardo, giai đoạn như trong cơn mộng, xảy ra sau khi
chết hẳn, được cho là ảo giác do nghiệp lực mang lại; phần ba – Sipa- bardo,
nói về sự khao khát tái sinh và những biến cố xảy ra trước khi tái sinh…
Luận
vãng sinh chính là sách tác nghiệp của các Lạt ma Tây Tạng dùng khai thị cho
người sắp chết - đang chết - sau chết đến 49 ngày. Người thân có thể dùng sách
này, thay các Lạt ma, đọc cho người chết nghe. Sách chỉ viết những điều thật
ngắn gọn, cấp thiết nói với người chết về những biến hiện trực tiếp diễn ra
trong thần thức của họ, không có giải thích, nên đọc rất khó hiểu, dù đã sơ bộ
nắm được những điểm cốt yếu của Phật học như đã nêu ở mục 2.
Luận này
có các mục cụ thể như sau:
(1)
Hướng dẫn thần thức trước khi chết. Tùy vào trình độ (hiểu Phật pháp) của người
đó, chủ lễ (có thể là Lạt ma/thầy cúng/người thân) dùng những lời khuyên nhủ
(khai thị) thích hợp để người đó đón nhận cái chết một cách bình tĩnh, nhẹ
nhàng… Chẳng hạn có thể nói: Cái chết đang đến với … Những người thương yêu
đang ở đây tiễn đưa bạn, những mối liên hệ giữa chúng tôi và bạn vẫn tồn
tại…Hãy cố gắng giữ lấy mối liên hệ đó… Sau khi chết bạn sẽ thấy nhiều cảnh
tượng hiện ra, như bạn sẽ rời bỏ xác thân này, rồi những gì trong quá khứ của
bạn sẽ hiện về như trong mộng. Dù bất cứ cảnh tượng gì hiện ra, hãy cứ bình
tĩnh đón nhận, đừng sợ hãi, đừng trốn chạy. Hãy rũ bỏ hết tham luyến, đau buồn
để nhớ tới “bản chất của thần thức là “không”, là “vô ngã”… Hãy nhớ, khi hồn
lìa khỏi xác, thần thức sẽ thấy luồng ánh sáng rực rỡ thì đừng hoang mang sợ
hãi mà hãy nhập ngay vào ánh sáng của chân tâm để được siêu thoát… (Mục này dài
09 trang). Nếu không siêu thoát được ngay sau khi chết, thì thần thức sẽ mang
thân trung ấm, và sẽ tiếp tục phải khai thị theo một quá trình phức tạp, kiên
nhẫn.
(2)
Phương thức khai thị cho thân trung ấm. Đây là giai đoạn mà các nghiệp lực tác
động mạnh đến thần thức, cũng xem là “giai đoạn chuyển tiếp của pháp thân”. Chủ
lễ phải kiên trì khai thị cho thần thức người chết mỗi ngày 03 lần hoặc 07 lần,
liền trong 07 ngày đầu; rồi sau đó 07 ngày tiếp theo, cũng như vây. Đây vẫn còn
là giai đoạn có thể siêu thoát về cõi tịnh độ. Có điều đặc biệt, trong 14 ngày
này, các Lạt ma mô tả rõ nhiều cảnh tượng diễn tiến vô cùng biến hóa, mau lẹ
hiện ra trong mỗi ngày, giờ mà thần thức (thân trung ấn) thấy rõ và không khỏi
hoang mang, lo sợ… Cho nên phải giải thích cho thần thức rằng đó chính là biến
hiện từ tâm mình, đừng sợ hãi, đừng để các nghiệp lực lôi kéo, hãy biết phân
biệt các luồng ánh sáng, các hình tướng của cõi Phật để hướng theo…(Phần này
gần 40 trang).
(3) Giai
đoạn chuẩn bị tái sinh. Mặc dù được khai thị nhiều lần trải qua nhiều giai
đoạn, nhưng với những thần thức có quá nhiều ác nghiệp đã không được giải thoát
trong những giai đoạn của 14 ngày đã qua. Chủ lễ tiếp tục kiên nhẫn khai thị
cho thần thức, vẫn còn hy vọng giải thoát khỏi tái sinh để về cõi tịnh độ…
(Phần này gần 30 trang)
(4) Giai
đoạn phải đi tái sinh. Dù đã cố gắng khai thị, nhưng nhiều người ác nghiệp quá
nặng nề, không thể giải thoát được, những thần thức này sẽ phải đi tái sinh.
Đây là lúc chủ lễ khai thị cho thần thức cách lựa chọn cõi xứ mình sẽ đầu thai
vào một trong 6 cõi. (Phần này dài 6 trang).
Tiếp
theo là phần Phụ đính gồm một số bài Kệ, dùng tụng đọc trong lúc khai thị cho
thần thức (gồm 10 trang).
Như trên
đã nói, đọc Luận vãng sinh rất khó, không hiểu làm sao Lạt ma biết rõ các cảnh
tượng mà thần thức đang tri giác, được mô tả rất ly kỳ, sinh động…Cũng không
thể biết lúc nào thần thức đã siêu thoát hoặc đã đầu thai về đâu? Những thần
thức không đầu thai sẽ như thế nào? Và sau 49 ngày các thần thức không siêu
thoát, chưa đầu thai sẽ ra sao?...Có một Đại đức từ Hoa Kỳ giải thích thêm
rằng, thời điểm 100 ngày vẫn còn cơ hội Promotion cho các thần thức tái sinh
vào cõi bớt tồi tệ hơn!...
Rất may,
nhờ Tiến sĩ W. Y. Evans Wentz có bài giới thiệu Luận này và nhà TLH nổi tiếng
Carl Gustav Jung đã viết một Luận văn TLH về Luận vãng sinh mà giúp hiểu rõ
thêm.
3. 2.
Dẫn luận của Tiến sĩ Evans Wentz
Tiến sĩ
W. Y. Evans Wentz, người nhận được bản dịch Anh ngữ đầu tiên và xuất bản sách
này, đã nhận xét: “Đây là một trong số rất ít những quyển sách nghiêm túc
nghiên cứu về cái chết, về trạng thái sau khi chết và về sự tái sinh. Sách này
cũng trình bày một cách cô đọng các giáo lý chính yếu của Phật giáo Đại thừa.
Hơn thế nữa nó không chỉ rất quan trọng về mặt tôn giáo mà còn cả trong lĩnh
vực triết học và lịch sử nữa… Sự độc đáo của sách này là nó nhắc đến việc luận
giải một cách hợp lý tác động của nghiệp quả trong giai đoạn giữa cái chết và
tái sinh.” (tr. 15, sđd).
Wentz
còn cho biết, Tiến sĩ L. A. Waddell sau một thời gian dài nghiên cứu Luận này,
đã phải thốt lên rằng: “Các vị Lạt ma Tây Tạng, bằng giáo lý của đức Phật, đã
có thể hé mở cho chúng ta thấy được ý nghĩa của nhiều sự việc người Âu Tây hầu
như không thể nào hiểu được” (tr 17, sđd);… “Trong thiên nhiên, số 7 quản trị
các định kỳ, các hiện tượng của sự sống, cũng như các nhóm hóa chất, các âm và
các màu sắc vật lý học. Và chính giáo lý về thân trung ấm đã có căn cứ một cách
khoa học dựa trên số 49, hay là 7 lần 7.” (tr 24, sđd)…
Theo
Wentz: Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật, thành
kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình. Sự
tin tưởng và tình cảm chí thành là phương tiện truyền đạt tới người chết những
lời nhắn nhủ cuối cùng…Khóc lóc than vãn chỉ làm người chết thêm hoang mang,
bối rối. Những người đủ giác ngộ “Phật tại tâm” cần một tình cảm chân thành,
thái độ thiết tha để họ có “một tâm thức vững chắc biết rõ rằng cái chết chỉ là
một giai đoạn trong quá trình miên viễn của đời sống. Người chết sẽ cảm nhận
được tâm kiên cố đó và vững vàng theo, bớt phần sợ hãi. Nội dung nhắn nhủ chính
là những lời khai thị trong sách này” (tr.12, sđd).
Nhưng
“trong thời Mạt pháp, đại đa số chúng sinh thích hợp với phương pháp niệm Phật
cầu vãng sinh, không mấy người tự lực để giải thoát. Trong trường hợp này,
người thân cần nhắc nhở người sắp lâm chung chí thành quy y Tam bảo, thiết tha
quán tưởng đức A-di-đà. Người sống cũng như người chết chỉ cần nhất tâm niệm
sáu chữ “Nam
mô A-di-đà- Phật” hình dung ngài xuất hiện rõ rệt trước mắt mình “như bóng
trăng trong nước”. Trong mọi trường hợp, người sống cần lấy tâm thành kính,
thanh tịnh để cầu siêu quán tưởng. Nếu không, thần thức dễ sinh tâm sân hận,
càng thêm đau khổ cho họ”… (tr 13, sđd).
Theo
Wentz, “Sự ghi nhận trong ký ức – hay đúng hơn là tâm thức – tất cả các tiền
kiếp, tất cả các trạng huống đã qua của cuộc sống luân hồi, đều ẩn tàng trong
tiềm thức, theo như lời dạy của chính đức Phật” (tr 27, sđd); “Được mô tả giống
như trong một kịch bản, người chết liên tiếp nhìn thấy cảnh này hay cảnh khác,
mỗi cảnh trình diễn một thuộc tính thánh thiện hay nguyên lý bẩm sinh vốn có
trong mọi thực thể con người, để thử thách từng người và làm bộc lộ rõ một phần
nào đó trong tâm thức của họ đã được phát triển như thế nào.”…(tr 35, sđd); …
“Sau
ngày thứ năm thì các cảnh được nhìn thấy của thân trung ấm sẽ trở nên mỗi lúc
một kém thánh thiện hơn. Người chết càng ngày càng chìm trong bùn lầy ảo tưởng
luân hồi. Ánh sáng lóe chiếu của những bản chất thánh thiện tự xóa mờ dần thành
ánh sáng của bản thể hạ đẳng. Lúc bấy giờ, giấc mộng sau cái chết chấm dứt theo
sự tiêu tan của tình trạng chuyển tiếp, tất cả đều đã hiện ra như các quái
tượng của một cơn ác mộng, nên người chết từ trạng thái chuyển tiếp bước dần
sang trạng thái giả dối, tức là sự tái sinh vào thế giới loài người, hay một
trọng nhiều cảnh giới của lục đạo” (tr 36, sđd)…
Tiến sĩ
Wentz cho biết ở Tây Tạng: Khi đã có dấu hiệu của sự chết, người ta phủ tấm vải
trắng lên người chết và không ai được đụng chạm đối với người đó nữa, để cho
tiến trình của cái chết không bị gián đoạn, bởi vì “Tiến trình này chỉ chấm dứt
khi thân trung ấm hoàn toàn ra khỏi xác thân. Người ta tin rằng tiến trình này
được kéo dài bình thường từ ba ngày rưỡi đến bốn ngày, khi ấy người chết mới
biết là mình không còn có thân xác nữa. Và lúc này người ta mới mang thân xác
người chết đi. Sau đó người ta đặt bức ảnh người chết trên bàn thờ và tiếp tục
dâng cúng thức ăn cho hết 49 ngày. Đây chính là quãng thời gian mà thần thức
được tin là đang trải qua giai đoạn mang thân trung ấm. Cũng vì vậy, người ta
thường mời các thầy cũng đến nhà cúng 7 ngày một lần, gọi là cúng “thất tuần”
(7x7= 49 ngày) (tr. 37, sđd) ...
“Khi bắt
đầu tỉnh thức trong giai đoạn thứ hai, thần thức nhìn thấy từng hiện cảnh tượng
trưng, tức là các ảo giác do nghiệp lực tạo ra bởi các hành động đã làm khi còn
sống. Những điều đã suy nghĩ, đã làm trước đây, giờ trở thành những đối tượng
khách quan. Các hình ảnh được nhìn thấy hoàn toàn do sự tưởng tượng một cách có
ý thức, được sanh khởi từ những gì trước đây đã nhìn thấy và ăn sâu, phát triển
trong tâm thức. Các hình ảnh ấy hiện ra rồi đi qua, trong một toàn cảnh trang
nghiêm và mạnh mẽ, như nội dung ý thức cá biệt của mỗi người.”… “Thần thức bước
vào giai đoạn thứ ba để tìm đường tái sinh. Khi thần thức thực sự được tái sinh
trong thế giới này hay thế giới khác, thì trạng thái thân trung ấm sau khi chết
sẽ chấm dứt.” (tr 47, sđd).
“Trong
suốt thời gian ở trong trạng thái chuyển tiếp khi chưa tái sinh vào một đời
sống khác, thần thức người chết luôn bị các ảo tưởng của nghiệp lực chi phối.
Thân trung ấm cảm thấy sung sướng hay đau khổ tùy theo mỗi trường hợp nghiệp
lực cá biệt của mỗi người.”.(tr 48, sđd)
“Ngoài
sự giải thoát bằng cách được vãng sinh về một trong các cõi tinh độ của chư
Phật sau khi chết, nếu phải tái sinh thì cảnh giới được khuyến khích chính là
cõi người. Tái sinh vào cõi nào khác với cảnh giới loài người đều sẽ làm trì
trệ việc tu tập để đạt đến giải thoát hoàn toàn”. (tr 49, sđd)
Có một ý
nghĩa tâm lý xác định gắn liền với hình ảnh các thiện thần hay ác thần hiện ra
trong giai đoạn mang thân trung ấm. Wentz viết: “Nhưng muốn nắm hiểu điều đó
chúng ta không nên quên rằng các cảnh tượng mà thần thức người chết nhìn thấy
trong giai đoạn mang thân trung ấm không phải là những cảnh tượng thật. Chúng
chỉ là ảo giác biểu lộ các tưởng tướng do tâm thức của người ấy tạo ra. Hay nói
cách khác, chúng là các hình tướng được nhân hóa của những thôi thúc thuộc tinh
thần trong trạng thái sau khi chết”.(tr 49, sđd)…; “Thần thức người chết là
khán giả duy nhất của một toàn cảnh những biến hiện ảo giác kỳ diệu, của nội
dung tâm lý được tích lũy trong cuộc đời, đều theo nghiệp lực sống lại”…; “Thần
thức người chết giống như một đứa bé kinh ngạc khi nhìn các hình ảnh được phóng
to trên màn ảnh. Họ quan sát các cảnh tượng mà không biết rằng đó chỉ là ảo
ảnh, hoàn toàn giả dối, hư huyễn, trừ khi trước đây họ đã có một quá trình tu
tập chứng ngộ” (tr 53, sđd).
“Do đó
người Phật tử, người tín đồ Ấn Độ giáo, hoặc người Hồi giáo, Cơ Đốc giáo… đều
sẽ trải qua các cảnh tượng khác nhau khi mang thân trung ấm, sẽ nhìn thấy những
gì theo đúng như giáo lý họ đã được truyền dạy…” ; “Hay nói cách khác, tình
trạng sau khi chết rất gần giống với tình trạng của một giấc chiêm bao; và các
giấc mộng ấy là do tâm trạng của người nằm mộng sản sinh ra. Tâm lý này giải
thích một cách khoa học tại sao những người sùng đạo, trong Cơ đốc giáo chẳng
hạn, đã đưa ra những chứng cứ của các bậc thánh, hoặc những trường hợp xuất
thần, hoặc trong giấc mộng, đã thấy được đức Chúa Cha ngồi trên ngôi, có đức
Chúa Con bên cạnh, và thấy cả những cảnh giống như trong Kinh Thánh mô tả, với
các thuộc tính của bầu trời, hoặc thấy đức Mẹ đồng trinh, các vị thánh và thiên
sứ, hoặc những chỗ đền tội và địa ngục” (tr 54, sđd)…
Wentz
viết tiếp: “Quyển sách này có vẻ như được căn cứ trên những dữ kiện có thể kiểm
chứng được bằng chính kinh nghiệm của con người về mặt sinh lý và tâm lý, và đã
phân tích vấn đề sau khi chết như một vấn đề đơn giản thuộc về tâm lý. Rất khoa
học là ở điểm này.”…“Sách đã xác quyết nhiều lần rằng: Những gì được trông thấy
trong giai đoạn mang thân trung ấm là hoàn toàn do nội dung tâm trạng riêng của
người chết mà hiện ra. Không có cảnh tượng nào, thiện thần hay ác thần nào
ngoài những hiện tướng xuất phát từ các ảo giác thuộc nghiệp thức của những
tưởng tướng đã tạo ra. Đây là một kiểu sản phẩm vô thường sản sinh ra từ nơi
đức tin, sự khao khát được hiện hữu và ý chí muốn sống còn” (tr. 55, sđd).
“Kinh
thánh của đạo Cơ Đốc, cũng như kinh Korran của đạo Hồi, không hề cho rằng các
kinh nghiệm tâm linh với dạng thức các ảo giác được nhìn thấy của các nhà tiên
tri hay một tín đồ sùng đạo lại có thể là không thật. Nhưng sách Luận vãng sinh
này đã trình bầy vấn đề một cách dứt khoát đến nỗi tạo ra nơi người đọc một ấn
tượng rất rõ là: Mọi cảnh tượng được trông thấy, bất cứ là cảnh tượng gì, đều
chỉ thuần túy là hư huyễn không thật. Dù là các thiện thần, ác thần, cảnh thiên
đàng hay địa ngục… tất cả đều chỉ là ảo mộng, căn cứ trên sự biến hiện của tâm
thức trong cuộc sống luân hồi” (tr 56, sđd).
Theo
Evans Wentz “Các vị Lạt- ma Tây Tạng tin rằng họ đã nắm được những điểm then chốt
để giải thích quan điểm về vũ trụ trong Phật giáo, và những gì mà người phương
Tây đã biết về vấn đề này chỉ mới có thể giúp họ đến được nơi ngưỡng cửa để
bước vào biển tri thức mênh mông đó”. (tr. 67, sđd)
Wentz
kết luận: “Trong chừng mực nào đó Luận vãng sinh cũng giúp chúng ta vén lên tấm
màn bí mật về sự tái sinh của các vị Đạt lai Lạt ma Tây Tạng. Những sự kiện
được ghi chép cụ thể về sự tái sinh của họ - mà không phải là truyền thuyết- đã
làm cho người phương Tây cảm thấy vô cùng khó hiểu nhưng lại không sao phủ nhận
được”
3.3.
Carl Gustav Jung nói về Luận vãng sinh
Nhà TLH
C.G. Jung viết: “Tôi chắc rằng, những ai đọc sách này (Luận vãng sinh- MVT) với
một nhãn quan rộng mở, không thành kiến, chịu để cho sách tác động, sẽ đạt được
nhiều lợi ích”; rằng Luận này chứa đựng quan điểm “nói với con người và không
nói với thánh thần hay loài vật ngu độn. Quan điểm đó là tinh hoa của lý luận
tâm lý Phật giáo, và vì thế ta có thể nói, có trình độ hơn hẳn “Sách dành cho
người chết” của Ai Cập” (tr 192, sđd).
Jung còn
cho rằng: “Trong Luận vãng sinh này, điều tiên quyết bàng bạc khắp nơi là không
hề có quan điểm nhị nguyên, cũng như tư tưởng cho rằng có sự khác nhau về chất
giữa các tầng của ý thức, và từ đó có sự khác nhau về các thực thể siêu hình.
Quan điểm tuyệt vời “vừa thế này, vừa thế kia” là nền tảng của cuốn sách lạ
lùng này”; “Luận vãng sinh Bardo Thoedol hết sức đậm màu sắc tâm lý học, nhưng
có kẻ vẫn xem luận này như các văn bản khác thời Trung cổ, thời kỳ tiền tâm lý
học, trong đó chỉ có những khẳng định được nêu lên, lý giải, bảo vệ, phê phán
và biện luận, rồi các cơ quan chức năng sẽ gạt bỏ qua một bên” (tr 194, sđd).
Ông nhấn mạnh: “Các quan điểm siêu hình chính là khẳng định của tâm linh, vì
vậy có tính tâm lý” (tr 194, sđd); “Tâm thức không phải là điều kiện cho các
thực tế siêu hình, tâm thức chính là các thực tế siêu hình” (tr 195, sđd); và
“… tầm mức vĩ đại của Luận vãng sinh Bardo Thoedol, là tập luận giúp cho người
chết thấy được sự thật cuối cùng và cao cả nhất. Đó là: Thượng đế là biến hiện
và ánh sáng của chính tâm thức mỗi người” (tr 197, sđd).
Theo
Jung: “Đặt mình vào tâm thức người chết chúng ta sẽ học được bài học quý giá
ngay trong câu khai thị đầu tiên, là: nguyên nhân gây ra mọi phiền toái trong
cuộc đời nằm ngay ở chính ta. Đó là một sự thật chưa hề được biết tới, mà qua
bao nhiêu chứng nghiệm lẽ ra chúng ta bắt buộc phải hiểu”… (tr 198, sđd)
Jung cho
rằng Luận này: “Trước hết khai thị cho người sống về thế giới bên kia không hề
là cõi chết theo ý niệm thông thường, mà là một sự chuyển biến hướng nội, là
một thế giới bên kia về mặt tâm lý”. (tr. 200, sđd)… “Đáng tiếc thay! Giá như
phương pháp phân tâm của S. Freud đi thêm một bước nữa. Nếu được như thế, thì
phương pháp này đã qua được phần sau của Luận vãng sinh, qua được Sipa Bardo và
tới chương sau của Tschoenyi- Bardo”…(tr 202, sđd); “Vì thế nên Phân tâm học
của S. Freud chủ yếu là dừng lại ở những biến cố trong Sida- Bardo, tức là
những mơ ước tình dục và những khao khát không phù hợp, gây ra sợ hãi và những
tâm trạng dồn ép khác”… (tr 203, sđd)…
“Có thể
khẳng định rằng, tinh thần duy lý của phương Tậy trong ngành Phân tâm học đã
đạt tới giai đoạn Sipa – Bardo, và đi tới quan điểm rằng tâm lý là một vấn đề
có tính chủ quan và riêng tư. Chỉ thế thôi và dừng yên tại đó.” (tr 204, sđd);
“…quan niệm cho rằng người chết cứ tiếp tục sống cuộc sống của họ, không biết
rằng mình đã chết là một quan niệm đã có từ xa xưa, hầu như khắp nơi trên thế
giới. Đó chính là một dạng thể uyên nguyên…” (những biểu tượng chung nằm sâu
trong tiềm thức tập thể, cộng đồng - MVT) (tr. 209, sđd)…
Jung cho
rằng “Mục đích chính của tập Luận hiếm có này – xa lạ đối với những trí thức
châu Âu của thế kỷ XX – là cố sức giảng giải cho người đang chết. Đối với người
châu Âu, nhà thờ Thiên chúa là nơi độc nhất trên thế giới còn nói điều gì đó
với người đang chết”…(tr 216, sđd).
Jung kết
luận: “Thế giới của thần thánh ma quỷ không có gì khác hơn là tiềm thức tập thể
chứa đựng trong mỗi cái tôi”… “Muốn hiểu được Luận vãng sinh Bardo Thoedol ta
cần có một khả năng tâm linh đặc biệt. Không phải ai cũng có, mà chỉ những ai
có một đời sống đặc biệt, một kinh nghiệm đặc biệt, mới có được khả năng tâm
linh đó”. Và “…loại sách này chỉ dành cho những người không còn quá coi trọng
những cái gọi là “lợi ích”, “mục đích”, “ý nghĩa”, của “nền văn hóa” hiện nay
của chúng ta.” (tr. 221, sđd).
4. Thay lời kết
Khi đọc
tập Luận vãng sinh, tôi có một băn khoăn: Nếu “bất cứ ai, cho dù là người đã
tạo nhiều nghiệp bất thiện, chỉ cần thành tâm niệm Phật đều sẽ được vãng sinh
về tịnh độ” (tr. 237, sđd); Và sau khi chết, trong giai đoạn thân trung ấm, nếu
thần thức người chết được nghe khai thị bằng Luận vãng sinh, kịp “lắng nghe”,
“giác ngộ” vẫn có cơ hội siêu thoát! Như vậy liệu có công bằng không?
Nhưng
xem những lời giải thích của đức Đạt lai Lạt ma thứ 14 (đương nhiệm) nói về vấn
đề này, ta hiểu rằng, dù có cơ hội nhân văn cao cả, bình đẳng cho tất cả mọi
thần thức, nhưng cũng không dễ dàng cho những người tạo nhiều nghiệp ác. Đức
Lạt ma phân tích: “Trong cuộc sống sinh hoạt bình thường, các tâm trạng như
tham ái, sân hận, ganh ghét…được sinh khởi ngay cả với những duyên rất nhỏ
nhặt. Đó là những trạng thái tâm lý đã khắc sâu đến tận cốt tủy của con người.
Ngược lại, một trạng thái tâm lý mà người ta không thường trải qua, nếu muốn
sinh khởi thì cần phải có sự kích thích mạnh mẽ, chẳng hạn như sự tư duy, tập
trung cao độ. Vì thế mà khi sắp chết, những tư tưởng đã ăn sâu vào cốt tủy của
mỗi con người sẽ thường là trạng thái tâm lý chính, là yếu tố quyết định sự tái
sinh” (tr. 235, sđd)
Từ đó
xin rút ra một vài điều thay cho kết luận.
1. Trong
quá trình sống, hãy học cách làm chủ thân tâm mình, phát triển tình thương và
trí huệ, tạo nhiều nghiệp thiện, tránh nghiệp ác để cuộc sống được an lành và
khi chết nhẹ nhàng, thanh thoát…
2. Nếu
biết rằng chết là quy luật tất yếu của đời người; quá trình chết diễn ra các
giai đoạn trước – trong – sau khi chết và chuyển kiếp siêu thoát vào cõi tịnh
độ hay tái sinh vào lục đạo, thì người ta có thể chuẩn bị lo liệu trước và bình
tĩnh đón nhận cái chết. Lo liệu không phải là chạy chọt, hối lộ thánh thần, mà
là tự xem lại mình để kịp sám hối, buông bỏ ngã chấp, vô minh, chuyển sang từ
bi và trí huệ…Bởi vì cảnh tượng của 6 cõi chính là biến hiện của những gì đã ăn
sâu vào tim óc mình, nay hiện ra trước thần thức của chính mình, bị lôi kéo bởi
những nghiệp lực do chính mình tạo ra. Vậy thì chính mình phải tự cứu lấy mình
bằng tự nhận thức, tự giác ngộ, tự giải thoát chứ đừng mong chờ các ngoại lực.
3. Khi
có người thân sắp lâm chung, cần ân cần giảng giải, vỗ về, an ủi họ bình tĩnh
đón nhận cái chết; cho họ biết sau khi chết sẽ thấy những cảnh tượng ra sao,
như Luận vãng sinh mô tả…để họ có tâm thế chủ động đón nhận cái chết. Khi họ
chết, trước hết người thân phải rất bình tĩnh, phủ tấm vải để người chết được
yên tĩnh như ngủ, và nói chuyện với họ những điều như trong Luận vãng sinh đã
nêu…(Đối với người chết bất thường, trong đó có hướng dẫn riêng).
4. Người
thân không nên khóc lóc, kèn trống ầm ĩ, ăn uống ồn ào ở gần người chết, tránh
gây cho họ sự hoảng sợ, hoang mang …hoặc tham luyến, sân hận…càng khó bề siêu
thoát.
5. Luận vãng
sinh đã cho biết những cơ sở của việc cúng 3 hoặc 4 ngày, cúng thất tuần (7x7 =
49 ngày) cho người chết. Đặc biệt giai đoạn 49 ngày, giai đoạn của đầu thai,
chuyển kiếp là hết sức khẩn thiết, quan trọng đối với người chết. Đó vẫn là cơ
hội tiếp tục khai thị cho thần thức có thể giác ngộ siêu thoát, hoặc tìm thấy
khả năng đầu thai vào cõi đỡ đau khổ hơn…
6. Luận
vãng sinh không phải Kinh Phật. Đó là những điều do các Lạt ma Tây Tạng – bằng
tu tập lâu dài, có khả năng siêu việt - nhìn thấy, nghe thấy, hiểu được tất cả
những gì diễn ra trong quá trình con người chuyển tiếp từ lúc lâm chung – chết
– sau chết 49 ngày, và họ viết ra Luận này để cứu độ vong linh người chết, hy
vọng còn cơ hội siêu thoát, hoặc tái sinh vào cõi đỡ tồi tệ hơn. Đối với “người
trần, mắt thịt” chúng ta, thật khó hiểu, khó tin vào những điều đó. Nhưng dẫu
không tin, ta cũng thấy tất cả những gì trong Luận này nhắm đến, không có hại
gì, mà thật sự thấm đậm tính nhân văn cao cả, sâu sắc đối với cả người sống lẫn
người chết.
Hà Nội,
ngày 20 – 10 – 2013
MVT
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Uông
Trí Biểu (1991), Nhìn Phật giáo qua Khoa học (Dịch giả: Thích Tuệ Đăng), NXB
Phật giáo, TP Hồ Chí Minh.
2. Jean
Franois & Mathieu Ricard (2002), Văn minh phương Đông và phương Tây – Đối
thoại giữa Triết học và Phật giáo, NXB TP Hồ Chí Minh.
3. Thích
Ấn Thuận (1992), Phật pháp khái luận, NXB Đại học và GDCN, HN.
4. Thích
Thanh Từ 1993), Bước đầu học Phật, NXB Thành hội Phật giáo, TP Hồ Chí Minh.
5. Một
số trang web:
-
http://khoahọcvietnam.com/
- phật
học online
-
phatphap.com
-
phatphap online.net
-
Phapgioi.com
-
Buddhismtoday.com
-….
ĐỌC THÊM
VẬT LÝ LƯỢNG TỬ CHỨNG MINH ĐƯỢC "CÕI ÂM" TỒN TẠI?
Hầu hết
các nhà khoa học có thể cho rằng, khái niệm "thế giới bên kia" hoặc
vô nghĩa hoặc không thể chứng minh được. Tuy nhiên, một chuyên gia tuyên bố
đang có trong tay bằng chứng vật lý lượng tử xác thực sự tồn tại của "cõi
âm".
Giáo sư
Robert Lanza đến từ Trường Y, Đại học Wake Forest (Mỹ) bắt đầu lý giải của mình
bằng cách trích dẫn thuyết lấy sự sống làm trung tâm (biocentrism), vốn coi cái
chết như chúng ta biết chỉ là một ảo giác của ý thức con người.
"Chúng
ta đều nghĩ, cuộc sống chỉ là hoạt động của cácbon và một hỗn hợp các phân tử.
Chúng ta chỉ sống một thời gian và sau đó thối rữa vào đất", trích tuyên
bố của ông Lanza trên website của mình.
Theo ông
Lanza, là con người, chúng ta đều tin vào cái chết vì "chúng ta được dạy
ai cũng sẽ chết", hay cụ thể hơn là, nhận thức của chúng ta gắn sự sống
với cơ thể, trong khi cơ thể chắc chắn sẽ chết. Tuy nhiên, thuyết biocentrism
của ông Lanza coi cái chết có thể không phải là dấu chấm hết như chúng ta nghĩ.
Thuyết
biocentrism cho rằng, sự sống và sinh vật học là trung tâm của hiện thực và
rằng, sự sống tạo ra vũ trụ, chứ không phải ngược lại. Thuyết này cũng nêu, ý
thức của con người quyết định hình dáng và kích cỡ của các vật thể trong vũ
trụ. Ông Lanza lấy ví dụ: khi một người ngắm nhìn bầu trời xanh và được nói màu
mà họ nhìn thấy là xanh dương, nhưng các tế bào trong bộ não người có thể được
biến đổi để khiến bầu trời trông như màu xanh lục hoặc đỏ.
Nếu nhìn
vũ trụ từ quan điểm của một người ủng hộ thuyết biocentrism, ta sẽ thấy không
gian và thời gian không vận động như cách nhận thức thông thường của chúng ta.
Nói một cách khác, không gian và thời gian "đơn giản là các công cụ của
trí óc con người". Nếu thuyết này được chấp nhận, điều đó có nghĩa là cái
chết và quan điểm về sự bất tử tồn tại trong một thế giới không có ranh giới
tuyến tính và không gian.
Tương
tự, các nhà vật lý lý thuyết tin hiện tồn tại vô số vũ trụ với các bản sao biến
thể khác nhau về dân số và tình huống diễn ra đồng thời. Theo ông Lanza, khi
chúng ta chết ở thế giới này, sự sống của chúng ta sẽ nảy nở ở một vũ trụ khác.
Ông viện dẫn một thí nghiệm nổi tiếng về sự phân đôi để chứng minh quan điểm
của mình.
Trong
thí nghiệm, khi các nhà nghiên cứu cho một hạt đi xuyên qua 2 khe hở trong một
rào chắn, hạt này hành xử như một viên đạn và đi xuyên qua khe hở này hoặc khe
hở khác. Nhưng nếu một người không quan sát hạt, nó hành xử như sóng, đồng
nghĩa với việc nó có thể đi xuyên cả 2 khe hở cùng một lúc.
Ví dụ
trên cho thấy, vật chất và năng lượng có thể chứa đặc tính của cả hạt và sóng.
Và các biến đổi về hành vi của hạt phụ thuộc vào cảm nhận cũng như ý thức của
người.
(Hình
minh hoạ lấy trên Google)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét