Trong
sách giáo khoa dạy học trò của VN lâu nay, cụm từ “Ba lần đánh tan quân Nguyên”
quá quen thuộc. Hoặc có một dạng dị bản là “Ba lần đánh tan quân Nguyên Mông”.
Lỗi này không phải do người viết sách bịa ra, mà lỗi trước hết do tầm chương
trích cú. Và cho đến nay, ngay cả các học giả cũng tin bộ sử “Đại Việt sử ký
toàn thư” do Ngô Sĩ Liên chủ biên là tuyệt đối đúng và miễn bàn luận.
Không
phải như vậy.
Quân
Mông Cổ xâm phạm Đại Việt năm 1258. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “tháng 12
ngày 12 năm Đinh Tị, (chú ý năm Đinh Tỵ là 1257, nhưng tháng 12 âm thì đã là
1258) , tướng Nguyên Ngột Lương Hợp Thai xâm phạm Bình Lệ Nguyên. Vua thân hành
đốc chiến…” Đó là năm Nguyên Phong thứ 7, tương ứng với Tống Bảo Hựu năm thứ 5.
Tướng
Ngột Lương Hợp Thai tức là người có tên Mông cổ là Uriyangqadai, có sách phiên
âm theo phiên âm Hán là Ngột Lương Hợp Đài, hoặc Ngột Lương Cáp Thai. Không
hiểu sai sót ở đâu, do người dịch hay do chính Ngô Sĩ Liên, mà gọi tướng
Uriyangqadai này là “tướng Nguyên”?
Viên
tướng này thuộc quyền của Hốt Tất Liệt, khi đó Hốt Tất Liệt dưới quyền Mông Kha
Hãn (Monkh Khan) dù đã chinh phục Đại Lý, chiếm nhiều vùng bắc Trung Quốc,
nhưng chính quyền nhà Tống chạy xuống phía Nam, về danh chính ngôn thuận, vẫn
là triều đình Trung Quốc. Năm 1257-1258, Hốt Tất Liệt chưa thiết lập triều
Nguyên, còn phò Mông Kha đánh dẹp phía Bắc của triều (Nam ) Tống.
Cũng
chính Đại Việt sử ký toàn thư, đến năm Canh Thân 1260, là niên hiệu Thiệu Long
thứ 3 của nhà Trần, Cảnh Định thứ 1 của Tống, thì triều Nguyên bắt đầu có niên
hiệu Trung Thống năm thứ nhất. ĐÓ là năm lên ngôi của Nguyên Thế tổ Hốt Tất
Liệt. Như vậy, đến 3 năm sau mới có triều Nguyên, sao năm 1257 đã gọi Ngột
Lương Hợp Thai là “tướng Nguyên”? (và toàn bộ những chỗ chỉ quân địch của quan
quân Trần, ĐVSKTT đều gọi là "quân Nguyên"?)
Cuộc
kháng chiến lần thứ nhất của quân dân nhà Trần diễn biến trong thời gian ngắn,
chỉ 12 ngày sau, ngày 24/12 âm lịch trận Đông Bộ Đầu, quân của Uriyangqadai
(Ngột Lương Hợp Thai) đã bị đánh bại. Cần khẳng định rằng, đối phương của vua
Trần Thái tông năm 1258 không phải là “quân Nguyên” mà là “quân Mông Cổ”. Còn 2
lần kháng chiến sau, năm 1284 và 1287 thì mới đúng là “quân Nguyên”.
Có ý
kiến cho rằng phải gọi là “Nguyên Mông” thì nói “Ba lần đánh quân Nguyên Mông”
là đúng. Điều này cũng hoàn toàn không đúng với sử liệu về Mông Cổ và nhà
Nguyên. Phải khẳng định nhà Nguyên là một triều đại của Trung Quốc, mặc dù
triều đình Nguyên do người Mông Cổ thống trị các sắc dân khác ở lãnh thổ Trung
Quốc. Triều đình nhà Nguyên không thể coi là một triều đại của Mông Cổ giai
đoạn đó được. Để làm rõ điều này, phải xét lịch sử Mông Cổ từ Thành Cát Tư Hãn
(Tringit Khan phiên âm theo chữ Nga dùng tại Mông Cổ) và một giai đoạn dài sau
khi ông ta mất, theo dõi những cuộc tranh giành ngôi Khan (đại Hãn) thì sẽ thấy
Hốt Tất Liệt chỉ là người tranh ngôi Khan Mông Cổ trên danh nghĩa, và thực tế
chỉ làm vua ở Trung Quốc mà thôi.
Hốt Tất
Liệt (Khubilai) là Khan thứ 5 kế thừa Khan Mông Kha (Monkh) cùng là cháu nội
Thành Cát Tư Hãn. Đây là nhánh đáng lý kế thừa ngôi Khan (út) nhưng thế hệ Khan
thứ hai lại do chính Thành Cát Tư Hãn chỉ định nối ngôi là người con thứ 3 Ô
Khoát Đài (Ogiodei). Hai nhánh phả hệ này, thế hệ sau đã lôi kéo những con cháu
thuộc các chi nhánh khác yếu hơn đã tạo thành cục diện phân tranh ba bè bẩy
mối, rất khó thống nhất. Tại chính Mông Cổ, một hội nghị Kurultai (bầu Khan) đã
đưa người em khác của Hốt Tất Liệt lên ngôi Khan Mông Cổ. Hốt Tất Liệt đã phải
tổ chức một hội nghị khác của riêng mình, phạm vi hẹp, để xưng Khan. Năm đó lập
ra nhà Nguyên. Tất nhiên Hốt Tất Liệt không được thừa nhận, đã phải chiến tranh
chinh phục 5 năm, đến 1264 mới đánh bại được Khan ở Mông Cổ. . Tuy vậy, đế quốc
Mông Cổ chính thức tan rã, các vị đứng đầu chi phái khác, mặc dù không xưng
Khan nhưng không thần phục Hốt Tất Liệt, trở về cai quản và giữ đất đai của
mình. Hốt Tất Liệt thực tế không cai trị được đế quốc Mông Cổ như các Khan
khác, và chính miền đất ngày nay là Mông Cổ và Tân Cương (TQ) và những vùng
Trung Á, châu Âu do quân Mông Cổ chiếm được đều không thuộc quyền cai trị của
Hốt Tất Liệt.
Trong
loạt bài viết về Mông Cổ, có chi tiết người Mông Cổ nói chỉ đến Đại Việt rồi
rút về, khoan nói đúng sai, nhưng nói thêm, đối với người Mông Cổ, chỉ coi như
có 1 lần xâm lược Đại Việt đó. Quân Mông Cổ thực sự đánh Đại Việt có một lần
năm 1258. Hai lần sau cách xa gần 30 năm, là cuộc xâm lược của một triều đình
Trung Quốc, với các chỉ huy Mông Cổ và Hán, đội quân đông đúc người Hán tham
chiến.
Do đó,
nói đúng ra là: Nhà Trần đã 1 lần đánh thắng quân Mông Cổ, và 2 lần đánh thắng
quân Nguyên. Không thể nói gộp kiểu bà đi chợ, mua 2 cân rau, một cân thịt, thì
gọi là “mua 3 cân rau thịt” được. Nói “ba lần đánh tan quân Nguyên Mông” thật
là khiên cưỡng, không đúng với sử liệu.
Tham
khảo Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ, thì toàn bộ chiến cuộc 1258, ông
không hề dùng từ nào là “quân Nguyên”, mà chỉ gọi là “quân Mông Cổ”, chỉ có
đúng 1 từ thuật lời vua là còn chữ “Nguyên”. Trong khi đó, khi nói về cuộc
chiến 1284 và 1287, Đại Việt sử ký tiền biên đều dùng chữ “quân Nguyên” mà
không dùng chữ chỉ địch quân là “Mông Cổ”. Có thể nói, tác giả Ngô Thì Sĩ đã
phân biệ rất rõ lần kháng chiến năm 1258 là quan quân Trần chống quân Mông Cổ,
còn 2 cuộc kháng chiến 1284 và 1287 là kháng chiến chống quân Nguyên. Vấn đề là
mấy chục năm qua, đã có sự đề cao Đại Việt sử ký toàn thư mà ít để ý đến bộ Đại
Việt sử ký tiền biên, từ đó các tác giả soạn sách giáo khoa, viết báo gây nên
một lầm lẫn kéo quá dài.
Không
nói “ba lần đánh tan quân Nguyên” mà nói nhà Trần đã “một lần đánh thắng quân
Mông Cổ và 2 lần đánh tan quân Nguyên” thì cũng không giảm đi tầm vóc và ý
nghĩa chiến công của nhà Trần, mà còn nâng cao rõ rệt tầm vóc chiến công. Bởi
vì 1 lần đánh thắng quân Mông Cổ, ý nghĩa lớn hơn nhiều nếu nói đánh thắng quân
Nguyên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét