Tác giả:
Nguyên Hồng
Mục sách
: Văn học Việt Nam
Văn học kinh điển
Bỉ Vỏ - Chương 01
Năm ấy
tôi mười sáu tuổi, hết hạn tù, được tha. Mẹ tôi lên tận nhà giam tôi, đón tôi.
Nhưng chúng tôi không về Nam Định - quê hương của chúng tôi - mà dắt nhau ra Hải
Phòng.
Khi tôi
đi tù, đoạn tang cha tôi, mẹ tôi bước đi một bước nữa. Nên lúc rời bỏ cái tỉnh
đã chứng kiến bao nhiêu việc không hay kế tiếp phá tan gia đình tôi, sự ngậm
ngùi của mẹ tôi bắt tôi nghĩ đến lòng héo hắt của một người đàn bà đã cải giá
trước sự khinh bỉ rẻ rúng của họ hàng nhà chồng và trước sự ghê tởm của mọi
người quen biết đối với con mình, mới một dúm tuổi mà đã trải hết lao này sang
lao khác.
Hôm đó,
trời thu trong và sáng. Con tàu chở chúng tôi lướt trên một dòng sông lặng lẽ
giữa những đồng ruộng xanh bát ngát.
Ra Hải
Phòng chúng tôi càng khổ sở. Trông vào vài hào làm vốn buôn trầu cau, mẹ con
tôi được bữa sớm mất bữa tối. Lắm phen, luôn mấy hôm, chỉ một bữa cháo lót
lòng.
Bao
nhiêu ngày tháng, bị câu thúc thân thể và phải làm những việc bẩn thỉu, nặng
nhọc quá sức mình, tôi tưởng khi thoát khỏi cảnh tù tội đày ải ấy sẽ sống no
ấm...ngờ đâu! Vì thế xác thịt tôi dần suy nhược; cái ngực thỉnh thoảng đau nhói
lên, tôi cảm thấy đời tôi đã bị rút ngắn đi và một ngày rất gần kia sẽ hết. Chết!
Mỗi lần cái chữ đen tối khủng bố ấy hiện ra, tôi thấy sao mà chung quanh tôi sự
vật gì cũng sáng sủa, tươi đẹp! Hết thảy đều kêu gọi lòng ham sống của tôi.
Tôi chết
đi, mới mười sáu tuổi đầu, sẽ làm cho mẹ tôi đau đớn biết chừng nào. Và cái
phút cuối cùng của một đời sớm tắt ấy, tôi sẽ quằn quại như con bướm non bị hai
ngón tay dữ tợn kẹp chặt vừa lúc nó mới đánh thấy mùi nhị hoa thơm ngát.
Những
lúc lo sợ, bối rối, đau đớn quá, trong tâm trí người ta hay nảy ra những ước
muốn khác thường. Tôi, tôi muốn có một cái gì để mãi mãi an ủi mẹ tôi và để tỏ
lòng tôi mến tiếc và thương nhớ những người và vật đã làm tôi vui thích đến say
mê. Nghĩa là tôi phải để lại một cái gì tinh khiết nhất của hồn và xác tôi cho
cõi đời mà tôi yêu mến.
Ý quyết
viết tiểu thuyết thụ thai trong trí tưởng tôi mỗi ngày một mạnh mẽ thêm, lan
rộng mãi ra. Khi ăn, khi chơi, khi ngủ...lúc nào tôi cũng nghĩ đến viết. ở nhà,
ngoài đường, trên vỉa hè, ở ghế vườn hoa, dưới gốc cây, bờ sông bến tàu, đâu
đâu cũng là chỗ tôi mơ tưởng đến viết. Có một xu một trinh nào tôi cũng mua
giấy để viết. Không có tiền mua sách, báo, tôi cố đón đọc những báo hàng ngày ở
phòng đọc báo của một hội ái hữu kia chỉ mở cửa từ 7 giờ đến 9 giờ tối để xem
cách viết của một số nhà văn.
Nhưng,
tiền càng ngày càng hiếm, tưởng như không còn bao giờ lọt vào tay tôi nữa, và
trời về tối dạo ấy càng rét dữ dội với những ngọn gió tê buốt và những trận mưa
dầm dài ghê sợ. Mẹ tôi phải đi vào Vinh(1), cầu cứu một người chị họ tôi, để
tôi ở nhà với ông chú dượng. Trước khi đi, phải vay cho chúng tôi tám ngày gạo
và một món tiền chi tiêu không quá bốn hào để mua củi và thức ăn.
Đã lâu
lắm mới sẵn có một thập gạo ở trong nhà ông chú dượng tôi và tôi bị khiêu
khích. Không ngày một bữa nữa. Chúng tôi tin rằng vào tới Vinh vay mượn được tiền,
mẹ tôi thế nào sớm tối chả gửi ra. Chúng tôi đã thất vọng. Và càng lo sợ, càng
khổ sở vì đói. Hơn mười ngày rồi mà chẳng thấy thư từ gì ở trong đó gửi ra.
Tôi còn
nhớ, nhớ rõ ràng lắm, những đêm mưa dầm gió bấc, trong một căn nhà không đèn
lửa gì cả và ran ran tiếng muỗi, trên một cái phản lung lay, hai thân hình nhọc
lả co quắp trong một chiếc chăn rách mướp, ông chú dượng tôi và tôi không ai
nói với ai nửa nhời vì không đủ sức mà nói và cũng cảm thấy tiếng nói lúc bây
giờ chẳng còn ý nghĩa gì hết, chỉ làm đau tủi thêm hai con người muốn mà chẳng
có việc gì làm để được sống. Sự yên lặng còn là sự đau đớn xót xa đến cực điểm
của chúng tôi trước sự sống của vợ chồng người thuê nhà bên cạnh.
Người
chồng làm thợ quét vôi, hiền lành, thất nghiệp, nghiện rượu. Người vợ, một
người buôn thúng bán mẹt ở các chợ, rất lắm điều. Họ không còn cha mẹ già nhưng
đông con. Chưa đứa nào quá mười ba tuổi và tinh khôn chút ít để đỡ đần công
việc. Bữa có, bữa không, rách rưới và ốm yếu cũng như chúng tôi. Nhưng vợ chồng
người này luôn luôn cắn cấu, đay nghiến, chửi rủa và đánh đập nhau. Đã mấy lần,
người chồng bị vợ sỉ vả đã uất lên, chực thắt cổ mình và dìm ao mấy đứa con bé.
Bỗng gần
về sáng đêm thứ mười hai, một tiếng người thất thanh gọi chúng tôi. Chúng tôi
bổ choàng dậy. Giời ơi! Mẹ tôi đã về. Mẹ tôi về với hai sọt hàng trầu vỏ mà ông
chú dượng tôi và tôi ưỡn đến gẫy lưng mới khiêng vào được.
Từ ngày
đó bụng tôi không đến nỗi cồn cào quá như trước. Và tôi đã có tiền mua cả một
thếp giấy. Tiền mua giấy đó, mẹ tôi cho tôi những hôm lãi nhiều. Tôi không cần
phải hỏi mẹ tôi cũng đưa. Mẹ tôi không nỡ trông thấy tôi thẫn thờ trước một ít
giấy đã kín chữ.
Mấy
truyện ngắn tôi đã viết xong từ lâu, và "Bỉ vỏ", trải bao nhiêu ngày
tháng đã dàn xếp kỹ càng trong đầu óc tôi.
o O o
Thưa mẹ,
người mẹ hiền từ của con, thưa các bạn, những bạn đọc yêu dấu của tôi, "Bỉ
vỏ" đã viết xong rồi.
"Bỉ
vỏ" đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen
ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro;
"Bỉ vỏ" đã viết xong trong một căn nhà cứ đến chập tối là vang lên
tiếng muỗi và tiếng trẻ khóc; "Bỉ vỏ" đã viết xong trong một đêm lạnh
lẽo âm thầm mà mọi vật như đều rung lên cùng với lòng thương yêu của một đứa
trẻ ham sống dào dạt trong những bụi mưa thấm thía.
Thưa mẹ,
người mẹ hiền từ của con, con xin dâng "Bỉ vỏ" cho mẹ với cả tấm lòng
kính mến trong sạch của con, và xin tặng nó cho các bạn với tất cả cảm tình đằm
thắm tươi sáng của tôi.
Nguyên
Hồng
Tháng
3-1938
Bữa cơm
chiều nay khác hẳn mọi ngày, buồn bã và uể oải lắm.
Bính
ngồi sát bức vách lâu ngày đã nứt nẻ loang lổ, cầm bát cơm đầy nhưng chẳng buồn
và. Thằng Cun, cái Cút, hai đứa em nhỏ của Bính bị sợ lây, lấm lét nhìn đĩa đậu
phụ om tương vàng ánh mỡ, thèm quá mà không dám gắp. Những tiếng ho khàn khàn
của bố chúng và cặp mắt toét nhoèn cau có của mẹ chúng luôn luôn lườm Bính, làm
chúng càng rụt rè kinh hãi. Chúng càng thêm thương Bính, một người chị hay tươi
cười vỗ về các em những ngày các em bị đánh mắng, bị hắt hủi, bị bắt nhịn đói
vì quá nô đùa và cãi cọ với trẻ con hàng xóm, nhất là những khi nhà túng thiếu,
không còn biết tính toán ra sao, không còn biết chạy vạy ở đâu.
Rồi
chúng ngạc nhiên hơn thấy Bính đã gần nửa tháng nay buồn bã, ít ăn, ít nói. Tại
sao? Vì duyên cớ gì? Những khối óc ngây thơ ấy cố nghĩ mãi không ra.
Nồi tư
cơm mới hết non nửa; sự cảm động lo lắng làm khô cả miệng hai đứa trẻ; chúng há
hốc mồm, mặt đờ đẫn, trông vừa buồn cười vừa thương hại.
- Kìa
chúng mày ngồi nhìn nhau đấy à?
Bác lái
Thìn cất giọng khàn khàn nói đoạn đưa cặp mắt gườm gườm nhìn Bính. Thấy vậy
Bính vội vàng và mau cho hết bát cơm; hai đứa trẻ cũng lập cập ăn. Rồi một phút
sau, cả ba đều đứng dậy. Thằng Cun tót ngay ra cổng, cõng cái Cút lên lưng, lẩm
bẩm một mình:
- Bố ác
ghê! Chửi mắng chị Bính suốt ngày, chắc lại sắp đánh chị ấy đấy!
Nó cười,
khen cho mình mau trí khôn, biết trước mà chuồn khỏi nhà chứ không thể nào cũng
bị đòn lây như chiều qua. Lúc ấy, Bính cắp rổ bát ra bờ sông ở ngay sau nhà để
rửa. Mặt sông lặng lẽ, sương lam mịt mùng. Cái lạnh man mác của chiều thu gần
tàn Bính cảm thấy rõ rệt lắm. Nhưng, Bính muốn ở mãi đây dù bị mưa rét cũng cam
tâm. Vì hễ động thấy mặt Bính, bố mẹ Bính không mắng mỏ, thì chìa bỉu, day dứt,
đay nghiến Bính chỉ vì sự lầm lỡ đó.
Bính yên
lặng nhìn trời, sông một màu xám ngắt, lòng tê tái và buồn bã. Bỗng có tiếng
gọi Bính xáo xác... Rùng mình, Bính nâng vội rổ bát, cắp ngang lưng lủi thủi về
nhà.
Gần đến
cái cổng bằng tre bắt khum chằng chịt những dây bìm điểm hoa tím, Bính còn
ngoái cổ trông. Chua xót, Bính thở dài.
Len lét
Bính đi qua chỗ bố nằm rồi vào buồng mình. Buồng tối đen. Cây đèn hoa kỳ vặn
nhỏ đặt trên trạn bát ở cuối buồng, mẹ Bính đã tắt đi ngay lúc Bính bước chân
xuống bếp. Lau lau vội tay vào vạt áo rách, Bính rón rén đến bên cái chõng tre.
Bính vừa lật chiếc tã vải lên, đàn muỗi bay ran ra như ri, náo động cả gian
nhà. Bính cúi xuống bế con, khe khẽ kêu:
- Giời!
Muỗi đói đốt chết con tôi còn gì!
Đứa bé
thức giấc khóc oa oa. Tiếng khóc càng to, Bính thêm sợ sệt. Bính vội vàng vạch
vú cho nó bú, không có hàng xóm biết thì bố mẹ Bính sẽ lại không để Bính yên
thân đâu. Muỗi bay mỗi phút một nhiều, tạt vầm vập vào mặt Bính. Những tiếng vo
vo trong cái im lặng mờ tối của gian buồng hôi hám không mấy khi có nổi ánh
sáng mặt trời, càng làm Bính bối rối. Bính thấy mình như một người tù nặng, bị
bó buộc mãi mãi nếu đứa con nhỏ này còn trong tay.
- Con
ơi!
Bính ôm
ghì lấy đứa con vào ngực, nức nở trong bóng tối. Bính lại thầm thì khóc. Không
thể sao ngồi yên được, Bính đi đi lại lại, và đã ba hôm nay giọng khàn mất rồi,
Bính lại phải rung rung cánh tay để ru con. Thật Bính có ngờ đâu và cũng không
bao giờ dám nghĩ tới nông nỗi này. Lòng người Bính cứ tưởng như lời người nói.
Còn sự phụ bạc Bính đinh ninh một hạng người ăn học như thế không thể nào có
được! Nhưng đến nay Bính mới rõ cái bề ngoài che đậy sự khốn nạn độc ác thì đã
muộn lắm rồi. Chắc Bính phải đau khổ mãi mãi vì sự lừa dối đó thôi.
Bính như
không đủ sức nhấc nổi chân nữa, bèn ngồi xẹp xuống chõng, dựa lưng vào bức
vách, đầu ngả về một bên, mỏi mệt nhìn bóng tối. Phút chốc trong tâm tưởng Bính
lại hiện ra những hình ảnh không bao xa.
Mới cách
đây gần một năm, nhưng tại nhiều sự khác thường đã xẩy ra, nên ngày giờ dài và
thấm thía thêm. Dạo ấy Bính thường gánh gạo lên chợ huyện bán, lần nào Bính
cũng bắt gặp một người vận quần áo tây, chải chuốt ngắm trông Bính. Có khi Bính
còn nghe thấy tiếng gọi vồn vã, tiếng chòng ghẹo dịu dàng. Nếu đi một mình,
Bính chẳng thẹn mấy, song vì có các bạn gái cười đùa chế giễu thêm vào khiến
Bính hổ thẹn vô cùng.
Và trong
sự hổ thẹn ấy Bính dần dần thấy băn khoăn vẩn vơ. Bính đã phải nghĩ đến người
đàn ông sang trọng và trai trẻ nọ. Lâu nay trai làng vẫn ghẹo đùa Bính. Họ đã
không được Bính để ý mà thỉnh thoảng còn bị Bính nói nhẹ cho nữa. Cái thứ vóc
người cục kịch, quần áo nâu mồ hôi rách vá kia Bính thấy thế nào ấy, đối với
cái thân hình thanh tú đầu tóc bóng mượt thơm tho kia. Cả cái tên "quan
tham đạc điền" nghe cũng khác lạ sao. Nó hứa với Bính bao nhiêu sự sung
sướng hãnh diện chứ đâu như những cái tên "nhiệu", "khán",
"trương" của những ngôi thứ tầm thường nhỏ mọn ở thôn quê.
Dần dần
Bính yêu người ấy mà Bính thấy có thể gửi gắm cả đời mình. Bính để người ấy gần
gũi Bính luôn. Rồi một ngày kia, một ngày thầm vụng, Bính buông phó cả thân thể
cho y.
Bính
vùng đứng ngay dậy, nghiến chặt hai hàm răng, rít lên. Ước vọng của Bính đã
nhào đổ hết. Người tỉnh sang trọng và trẻ trai nọ đã bỏ Bính đi không một lời
an ủi. Y đã bỏ Bính lại với một cái kết quả mà sự thảm khốc chưa bao giờ Bính
thấy đến như thế, cũng như chưa bao giờ Bính lại tưởng mình sẽ phải chịu đựng
như thế. Cả người Bính rung chuyển. Hai cánh tay rời rạc mỏi rã, Bính đặt đứa
con xuống chõng, lấy vạt áo xua xua muỗi. Không chịu nằm, đứa bé lại khóc thét
lên. Lập tức, từ ngoài cửa liếp lại đưa vào những tiếng rít mắng:
- Con đĩ
voi giày kia, mày lại để bố mày khóc rồi. Có mau bắt nó nín đi không!
Tiếp đến
một giọng lanh lảnh cố nói cho nhỏ:
- Đấy,
con gái nhớn ông đấy! Đã sung sướng mát lòng mát ruột cho tôi chưa! Thật là bôi
gio chát trấu vào mặt tôi.
Bính rớt
nước mắt, phải chùi vội đi, bế con lên, nhè nhẹ đặt vú vào miệng thằng bé. Cánh
tay Bính lại rung rung với những tiếng hát nhỏ và khàn đặc. Câu hát càng đầm
nước mắt nọ của những người đàn bà nhẹ dạ đã hát mà trước kia khi nghe hát Bính
ghê sợ lắm, không ngờ ngày nay chính Bính lại chịu cái cảnh âm thầm đau đớn
trong câu hát ấy:
"Chót
đa mang thì phải đèo bòng,
Chót bế
lên bụng phải bồng lấy con".
Đứa trẻ
vẫn khóc. Tiếng rít lanh lảnh lại cất nhỏ lên:
- Con
quỉ cái kia, bố trẻ mày không nín tắp thì mày nhét giẻ vào mồm nó cho tao.
- Phải
đấy! Hay là vái giời rồi bóp mũi nó đem chôn quách nó đi cho rứt nợ.
Bính rởn
cả người, kinh hãi quá sức. Bố mẹ Bính đối với Bính thật cạn tàu ráo máng và
đến mức độ ác hơn là thú dữ. Bính thật hết hy vọng nuôi con cho đến khi khôn
lớn ở cái nhà này cũng như Bính đã hết hy vọng được gặp mặt bố đứa trẻ xấu số
nọ lần thứ hai vậy.
Gian
buồng chật hẹp tối tăm thêm. Không khí càng đè nén vì những tiếng nghẹn ngào.
Và Bính chưa hết buồn sợ, những hình ảnh khác đã đến, khiến Bính càng bối rối.
Dạo ấy
Bính còn bé, độ lên chín hay lên mười, Bính theo người lớn ra đình xem làng ngả
vạ một ả đi hoang.
Một ngày
tháng năm, đường đá, sân gạch bỏng rẫy chân, thế mà chị Minh, người bị làng
phạt vạ, phải quỳ ở giữa sân đình, nón không có, bế đứa con mới được mười ngày,
cũng đỏ hon hỏn như con Bính hiện giờ, giữa trời nắng chang chang.
Bính nhớ
kỹ lắm: chị Minh mặt mày tái mét, đẫm mồ hôi, răng cắn chặt. Mõ làng đứng gần
chị Minh, sau cái án thư bày la liệt những giấy má, bút mực, tay cầm cặp roi mây
sơn đỏ bịt đồng, ra bộ nghêng ngang vô cùng. Thỉnh thoảng y hất hàm nhìn chị
Minh rồi đột nhiên lại lấy đầu roi, lật tà áo che mặt đứa bé lên cho mọi người
xem giống ai trong làng.
Bà già,
đàn ông, con gái, trẻ con lại đổ xô cả đến cái lan can bằng gạch xây ven sân,
nghển cổ nom. Một người trong bọn lớn tiếng nói:
- Cứ cái
mũi kia thì nó giống khán Thư tây lai đấy.
Em gái
khán Thư thấy anh mình vốn có tính trai lơ bị họ bêu riếu, liền đáp ngay:
- Này
chị nhiêu Khuôn xem kỹ lại nó có giống khán Thư không hay là giống ông Ba Nhòm
nhà ta đấy!
Ba Nhòm
là ông nội nhiêu Khuôn ngày xưa tằng tịu với một người đàn bà góa bị em chồng
họ bắt quả tang, phải quỳ lạy người em nọ rồi cởi truồng về nhà.
Thế là
hai người lại om sòm lên và đám đông lại được mẻ cười đùa ầm ĩ, tròng ghẹo
nhau, máy móc những cái mắt, cái tai, cái môi, nét mặt phảng phất giống đứa bé
mà ghép lẫn nhau là bố nó.
Chị Minh
chỉ càng cúi gằm mặt xuống. Bọn hương lý chức dịch ngồi chiếu trong đình lại
quát vọng ra.
- Mõ!
Các cụ truyền bay bắt nó ngẩng đầu lên chứ!
Mãi khi
chè chén no nê xong, một người trong bọn mới khệnh khạng nhè mồm gọi bố chị
Minh ra mà phán rằng:
- Thôi
bây giờ con bác Nhiêu đã chót dại mà xưa nay bác là người tử tế, ăn chịu đóng
góp với làng đầy đủ, vậy làng thương tình phạt bác ba đồng bạc, hai trăm cau
tươi, tám chai rượu, lập tức tối hôm nay bác phải thân đưa đến nhà tôi.
Phó hội
sẵn có hiềm khích với bác Nhiêu, thấy tiên chỉ xử vậy, bèn vung tay lên nói:
- Trình
cụ, cụ ngả có bằng ấy thật là nhẹ quá. Tôi xin hội đồng phạt thêm ba đồng nữa
và một nửa lợn vì còn cái khoản gia pháp bất nghiêm nữa kia.
Lại một
hồi bàn tán xôn xao, sau cùng Chánh hội kiêm thứ chỉ ra trước cái bàn ngoài
sân, bệ vệ bảo bố con chị Minh:
- Làng
ta từ cổ đến giờ có ai dám bậy bạ như nhà các người, bỗng ngày nay bị phạm lây
một sự xấu xa, thành thử danh giá làng thua kém các làng bên, vậy tội của bố
con chị không phải là không to, nhưng làng thương tình mà phạt từng này thôi:
sáu đồng bạc, hai trăm cau tươi và tám chai rượu.
Không
thấy nói đến nửa lợn, nhất là con lợn này đã đẫy niên, em Phó hội đương nhằm
mua rẻ để thịt bán, Phó hội hậm hực mãi mới thôi. Phải! Mấy khi được món
"bở" như thế để các ông chia tay nhau nhắm nháp cho sướng miệng, còn
sống chết mặc ai. Giấy tờ đóng sẵn dấu lý trưởng và có cả chữ ký cả hội đồng ký
mục kia chỉ dùng để dọa nạt sự ngu đần khiếp nhược của bố con chị Minh, và cả
mấy trăm dân làng dốt nát.
Xong cái
cảnh ê chề ấy, sáng hôm sau Bính lại được xem một cảnh buồn cười và thê thảm
hơn.
Không
biết ai xúi bẩy bác Nhiêu để tỏ rằng nhà bác không nuông con dâu, mà bác nỡ
nhẫn tâm cạo trọc đầu chị Minh, bôi vôi trắng hếu, úp rế lên rồi rong chị đi
khắp làng.
Mấy ông
già bà lão đã nhảy lên mà khen bác và có một bà cụ già nói rằng:
- Hình
phạt đó chưa lấy gì làm đáng tội lắm, chưa đúng y như lề lối xưa: cứ theo tục
lệ trước kia của các cụ thì chị Minh còn phải lột trần truồng, đeo mo cau vào
mặt.
Luôn hai
ngày bị hành hạ, chị Minh đã có lần định thắt cổ chết, nhưng nhờ mấy chị em bạn
nghèo hàng xóm giằng giữ lại và khuyên giải nên chị lại cắn răng chịu đựng.
Người chị võ hẳn đi, đứa con cũng đen rạc vì bêu nắng với mẹ. Như mọi khi, hễ
nhắc tới cảnh "gọt gáy bôi vôi" trên kia, Bính không sao không ngạc
nhiên và nhịn được cười, và muốn tấn tuồng lạ lùng đại loại kiểu ấy diễn lại
luôn luôn. Nhưng nay... Bính gai hết cả da thịt và tâm trí. Bính đau đớn cho
Minh và e ngại cho mình không biết có đủ sức chịu đựng những nỗi bêu riếu nhục
nhã như kia không. Chẳng cần suy nghĩ, Bính dằn giọng nhủ thầm: Nếu lâm phải
bước này Bính đành bỏ cha và mẹ, bỏ hai em, bế con đi tha hương cầu thực cho
xong.
Cái ý
định liều lĩnh đó vụt sáng lên với một tia hy vọng. Bính sẽ gặp Chung, bố đứa
trẻ. Chung sẽ nghĩ lại tìm cách nuôi nấng mẹ con Bính, rồi vợ chồng con cái về
ăn ở với nhaụu.
Thốt
nhiên ở gian ngoài đèn vặn to lên. Cánh cửa liếp xịch mở. Bính vội nhỏm người
nhìn qua kẽ vách. Phó lý Thưởng và vợ y bước vào.
Bính
cuồng lên muốn chạy trốn. Cảnh ngả vạ đã đến. Song chạy lối nào? Thông từ buồng
Bính ra gian nhà ngoài kia chỉ có mỗi một lối đi thì vợ chồng phó lý và bố mẹ
Bính đã ngồi ngay đấy, một Bính còn chả ra lọt huống hồ lại đèo thêm con. Bính
cố dằn lòng, áp mặt vào bức vách nghe ngóng.
- Này
nhà ông lái, bà lái! Tôi thu xếp xong rồi đấy nhà ông bà có ưng như thế không?
- Vợ phó lý nói.
Bố Bính
yên lặng một lát, đoạn gãi tai trả lời:
- Bẩm
ông bà nghĩ như thế thì vợ chồng con được đội ơn vô cùng.
Phó lý
liền dõng dạc nói một thôi dài:
- Nhà
ông bà phải biết, tại vợ chồng tôi thương nhà ông bà hiền lành, ngoan đạo, lại
sắp được Cha xứ cắt lên làm trưởng giáo để trông coi dạy bảo phần hồn cho trẻ
mỏ trong họ. Vậy mà chẳng may nhà ông bà phải đứa con gái bỗng đâm ra hư đốn
như thế nên tôi gỡ giúp tai tiếng cho, chứ tôi hòng gì mà nhờ đứa bé ấy.
Vợ phó
lý ngắt nhời:
- Ối
giời, nòi nào giống nấy, nó lại bắt chước bố nó chứ gì? Ông ạ, tôi không nuôi
đâu, ông có muốn nuôi thì mướn vú về mà nuôi.
Phó lý
bèn đưa mắt cho vợ bảo im. Không phải là y rộng lòng nhân đạo chẳng tưởng đến
sự bội bạc sau này của đứa bé đâu. Không! Y làm việc này là vì có một người em
giai buôn bán giàu có lắm ở trên Hà Nội cũng hiếm hoi như y. Người nọ thường
nhắn phó lý xem ở quê có nhà nào túng đói thì mua cho y một đứa con giai, càng
trứng nước càng hay. Mấy hôm nay, chợp được cơ hội Bính đã đẻ và đẻ con giai và
nhà đương lo lắng khốn đốn không biết thu xếp ra sao, phó lý đã lên tỉnh lấy
thêm của em năm chục đồng bạc nữa bảo phải mua ngay đứa bé không Bính cho bà xơ
mất.
Thấy phó
lý cũng là người làng và họ hàng giàu có lại không phải là người đi đạo nên bố
mẹ Bính càng yên tâm.
Muốn lấy
lòng bà phó, bố Bính ngọt ngào thưa một câu bâng quơ:
- Thưa
vâng, ông bà ăn ở phúc đức thương người như thế con chắc ông bà còn là giàu
sang vinh hiển.
Phó lý
mỉm cười vuốt râu, hất hàm hỏi bố Bính:
- Vậy
tôi giúp ông bà mười đồng ông bà bằng lòng chứ?
Mẹ Bính
vội nhăn mặt:
- Thằng
bé kháu khỉnh lắm, mặt mày sáng sủa, chân tay bụ bẫm xin trả cho hai mươi đồng
để nhà cháu lo lót với mấy cụ trong làng.
Bố Bính
gãi tai tiếp lời:
- Thật
vợ chồng cháu cảm cái ơn ông bà ông phó lắm chứ không nài xin hơn thiệt gì đâu.
Phó lý
cười không đáp, nhìn hỏi ý kiến vợ. Vợ phó lý ngẩng trông xà nhà, vuốt dài hai
ngón tay quệt quýt trầu rồi lúng búng nói:
- Thôi
tôi giúp thêm nhà ông bà ba đồng nữa là mười ba đồng có thuận thì tối mai bế
thằng bé sang nhà tôi mà nhận tiền.
Bính
càng nín thở lắng tai nghe. Bính như đứt từng khúc ruột. Giời! Cái ác tâm của
bố mẹ Bính.
Luôn
mười hôm ròng gìn giữ giam cầm Bính trong gian buồng này không cho Bính bế con
ra khỏi nửa bước, bố mẹ Bính trước hết sợ hàng xóm thóc mách, sau sợ Bính bế
con đi. Nhưng thôi, từ ngày mai trở đi, sau khi dứt đi khỏi đứa bé và được hàng
chục bạc, bố mẹ Bính sẽ vừa hết cả lo sợ ngã vạ vừa được món tiền mừng chân
Trưởng giáo và ăn tiêu, sự tính toán ấy thật khôn khéo quá chừng!
Bính lại
ôm chặt lấy con, thương xót cho thân phận nó bị dằn hắt và kèo nhèo mặc cả như
một con trâu con lợn. Bính ghê sợ cho bố mẹ Bính và vợ chồng nhà phó lý kia
đang tay cắt đứt tình yêu thương của mẹ con Bính như một khúc dồi, một miếng
phèo vậy. Dù sao Bính cũng không thể cưỡng lại được. Bính đến phải nuốt nước
mắt trao con cho bố mẹ bán đi thì mới tránh thoát những hình phạt quái ác không
biết của ai, từ đời nào đã đặt ra để trừng trị những đàn bà đẻ hoang, và Bính
mới mong được yên thân với cha mẹ.
Bính mím
môi lại, cúi gầm mặt nức nở, kéo dài thêm những ý nghĩ: "Phải! Bính phải
cắn răng mà cho con đi khỏi lúc khốn khó này. Rồi chờ năm ba bữa nửa tháng,
Bính thừa cơ trốn đi hoặc Hải Phòng hoặc Nam Định, chịu khó làm ăn buôn bán,
dành dụm một món tiền. Ba bốn năm qua... chuyện cũ nhạt dấu vết, Bính sẽ trở về
làng chuộc con, rồi có thể thì nói với cha mẹ và hai em lên tỉnh làm ăn, bỏ hẳn
cái nơi quê hương ác nghiệt kia bao đời nay làm ăn đầu tắt mặt tối mà không cất
mặt mở mày lên được.
Bính tê
mê nâng đứa con lên tận mặt, rít miệng vào má nó, vào trán nó, rồi Bính nhìn
ngước lên như để phân trần với bóng tối nỗi đau đớn trong lòng. Sau đó Bính đăm
đắm trông con thiêm thiếp ngủ. Dưới ánh đèn lù mù ở bên ngoài qua kẽ liếp lọt
vào, da dẻ nó hồng hào biến thành xanh trong xanh bóng; mớ tóc đen láy, lơ phơ
trở nên hung hung mốc mác khô cứng. Vệt chàm dài hơi giống hình con thạch sùng
bò từ một bên trán đến mang tai xám ngắt hẳn đi như một vệt máu. Và cái vết lẹm
trên mí mắt cũng ở bên phải thấy thương như một lốt dao chém vậy.
Hai hàng
nước mắt Bính đã lại ròng ròng trên má lã chã đầm đìa xuống cả mặt đứa bé.
- (1)
Thành phố tỉnh Nghệ An.
Bỉ Vỏ - Chương 02
Chương 2: Hải Phòng.
Lần này
là lần đầu tiên Bính bước chân đến một tỉnh ồn ào đông đúc, khác hẳn chốn quê
mùa vắng vẻ.
Bính
trốn đi, sau đêm ấy đến nay đã được bốn hôm. Bốn hôm dài quá chừng! Bao nỗi đau
buồn luôn luôn nhắc nhở Bính nhớ tới con thơ.
Bây giờ
Bính mới hơi quen, quen cái ánh sáng chói lọi của những ngọn đèn điện. Bính
không còn giật mình mỗi khi còi ô tô thét lên. Các cách đi đứng ăn nói của
người hàng phố đối với Bính không đáng ngờ vực, sợ hãi quá như trước nữa. Bính
bớt rụt rè, nhìn thẳng vào những tủ hàng đồ vật bày la liệt rực rỡ làm Bính hoa
cả mắt. Lắm thứ Bính không thể nhận ra là thứ gì tuy Bính vẫn thường thấy, nay
chỉ khác cái vỏ bọc ngoài bằng giấy bóng màu hay thủy tinh. Bính đờ người nghĩ
mãi trước tá mùi soa lụa gấp trong tờ giấy bóng, trông như những bông hoa ép
khô. Miếng xà phòng bồ dục để trên chiếc hộp giấy cực kỳ đẹp đẽ, khéo léo, Bính
cho là thứ bánh quí lắm mà sau này nếu Bính có tiền thì thế nào cũng phải mua
ăn. Bính vừa ngắm những bông hoa giả cắm trong lọ pha lê trong vắt, Bính vừa
tấm tắc khen thầm người nào có tài gìn giữ được mãi vẻ tươi tốt đóa hoa đã nở
tung như vậy.
Trong
cái phút giây ấy, Bính đặt mình vào một giấc mộng sáng sủa như gian hàng. Bính
đang tê mê ngắm nghía, bỗng giật mình vì thấy gương mặt mình hốc hác, xanh xao
nổi bật trong mảnh gương treo giữa tủ hàng. Bính vội lấy tấm gương để soi gần
cho rõ thì tay đập choang ngay phải mặt kính. Một người đàn ông trẻ tuổi đứng
bên kêu lên và nhìn Bính:
- Ơ kìa
cô này!
Nhưng
khi thấy vẻ mặt lo sợ đờ đẫn của Bính, người ấy đưa mắt một cái rồi phá lên
cười. Bính bẽn lẽn rảo bước ra ngay chỗ khác. Bính rẽ ngoặt về phía tay trái,
theo lối xuống Sáu kho.
Bấy giờ
trăng thu vừa mới hé ra khỏi dải mây chì tỏa xuống những chòm cây một làn ánh
sáng như hơi sương phảng phất. Đường sá vắng vẻ ít người qua lại. Hai bên hè lả
lướt những cành xoan lăn tăn lá, rào rào trước gió lạnh thổi từng cơn dài. Bính
chợt nghĩ tới ngày mai, tới một sự sống ở một nơi xa lạ và hiện Bính không còn
một đồng một chữ dính túi.
Món tiền
sáu hào chắt bóp ngót nửa năm trời đã dùng để trả tiền ăn tiền tàu từ Nam ra
Phòng mất bốn hào. Còn hai hào thì vừa vặn ăn uống trong hai hôm nay. Bính hoang
mang, cúi gằm mặt trông dải đường nhựa lấp lánh bóng trăng, nhấc từng bước một.
Bính đi
như thế không cần biết rồi sẽ đi tới đâu, miễn cho qua một đêm. Lúc này Bính
bỗng hồi hộp, bối rối lạ thường. Những bụm cọ đen thẫm, ù ù lộng gió ở vườn hoa
sông Lấp gợi trong trí Bính bao nhiêu hình dung quái gở. Bính tưởng con đường
Bính đi tối tăm hoang vắng như cảnh một bãi tha ma. Những cành xoan xao động và
những cành tre lả ngọn bên những ngôi mộ chơ vơ mới đắp. Những tàu lá cọ to sùm
suề giống những mớ tóc người điên hay thắt cổ.
Bính bật
kêu khe khẽ:
- Biết
làm sao đêm nay?!
Bính lại
thấy đêm lạnh và dài lắm, một thân gái quê mùa đi bỡ ngỡ lang thang ở giữa cái
tỉnh lắm kẻ lừa lọc, nham hiểm này, gặp những sự không may là thường. Nếu Bính
không khéo gìn giữ, biết đâu đêm nay chẳng sẽ là cái đêm bắt đầu một cuộc đời
khốn nạn nhơ nhuốc khác mà dù cực nhục chừng nào, Bính cũng phải cắn răng chịu,
chứ không thể quay về quê nhà được. Bính thở dài. Mấy hôm nay tai tiếng chắc đã
đồn đi khắp làng trên làng ngoài. Thế nào họ chẳng bảo lại vì mê giai, theo
giai mà bỏ nhà đi. Cái tiếng theo giai đó là một sự nhơ nhuốc không sự nhơ
nhuốc nào bằng. Vì người ta hiểu rằng: giai là một đứa xỏ xiên chỉ phá hoại
trinh tiết người đàn bà, còn kẻ theo nó phải là một con đĩ thoã vô cùng. Họ chỉ
diếc móc Bính như thế còn là khá đấy. Không may cho Bính, nếu gặp phải một kẻ
không ưa Bính thì Bính sẽ còn bị buộc hàng ức, vạn tội xấu xa, quá sức tưởng
tượng của hạng người nhân hậu.
Bính đã
đi qua Sáu kho. Hôm nay các tàu chạy hết. Trên sông chỉ còn thấp thoáng mấy ánh
lửa leo lét, chập chờn của dăm chiếc thuyền con đỗ đằng xa.
Thốt
nhiên Bính dừng bước, trong một phút Bính tưởng như là bến Sòi quê Bính. Bính
ngẩng đầu bỡ ngỡ nhìn, lắng tai nghe: tiếng đọc kinh đâu đây nhẹ nhàng vang
trước gió lạnh, réo rắt và thấm thía. Những giọng đều đều và ngâm nga thoáng
nhắc trong tâm trí Bính hai mắt lờ đờ rầu rĩ, hai cánh tay rã rời giang trên
cây thánh giá của đức Chúa Giê-su khi hấp hối. Sự hồi tưởng ấy làm Bính cảm
thấy rõ rệt bố mẹ mình là giả dối. Bính ghê sợ cho sự "nguyện ngắm"
hàng ngày chỉ dùng che mắt thế gian. Phải, chỉ che mắt thế gian thôi! Nay đi
xưng tội, mai đi chịu lễ, sáng sớm nào cũng có mặt ở nhà thờ, đêm nào cũng thức
tới mười một, mười hai giờ để đọc kinh, hỏi để làm gì?
Thì cũng
như trăm nghìn gia đình chỉ ngoan đạo bề ngoài, gia đình Bính bao năm được
người làng khen là êm ấm đáng làm mẫu mực nhưng thực chẳng có lấy một chút gì
yên vui, thuận hòa, đạo đức bên trong.
Cha mẹ
Bính cắn rứt nhau luôn, vì thiếu thốn; chửi mắng hành hạ Bính luôn vì Bính
không như ai giảo hoạt, tinh ranh trong sự cạnh tranh khách đi đò và buôn bán
mua rẻ bán đắt tôm cá của các thuyền chài lưới quen thuộc. Hơn nữa, Bính không
biết mưu tính các cách gian lận với những khách gửi hàng để lo cho mình có cái bộ
cánh mà nhà không sao sắm sửa được vì ruộng đất cày cấy không có, ngoài mảnh
vườn chỉ được cái rau ăn còn đều trông vào con đò thì phải sinh sống rất khôn
ngoan soay giở đủ mặt. Những điều này đã làm Bính suy nghĩ và đau lòng.
Bính
buồn bã lắc đầu rồi giơ tay làm "dấu" đoạn thầm thì cầu kinh.
"Lạy
Cha chúng tôi ở trên giời xin Cha cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha nợ cho
chúng tôi như chúng tôi đã tha kẻ có nợ chúng tôi".
...Thì
Chúa sẽ ban ơn cho tôi giữ đạo nên ở đời này cho ngày sau được lên nước thiên
đàng vui vẻ đời đời...".
Gió sông
càng ù ù, sương càng mù mịt. Bính đọc hết năm chục kinh, làm "dấu",
đoạn khép chặt tà áo vào người rồi rảo bước. Chợt có tiếng người gọi:
- Cô kia
đi đâu?
Bính
không dám quay lại trả lời cứ lùi lũi đi nép vào rặng cây bên đường. Một chiếc
xe tay đâm xô lại, chắn lấy lối đi, tiếp đến những tiếng cười ran:
-
"Săn" kỳ được "mẻng" ấy cho tao.
Bính
tránh hẳn sang bên kia, gằm mặt xuống xốc lại cái đẫy vải đeo sau lưng. Một
người đàn ông vận quần áo lót kẻ sòng sọc rất chải chuốt và tóc bóng lộn, ngồi
trên xe nom trõ mặt vào mặt Bính, Bính quay mặt ra chỗ khác. Người ấy kéo vạt
áo Bính, ngọt ngào hỏi:
- Cô
định tìm ai ở đây?
Bính
hoảng hốt chực chạy. Nhưng chung quanh Bính năm chiếc xe đã vây kín, Bính kêu
lên:
- Ô kìa!
Tên ngồi
xe nhại lại, cười sặc sụa. Dáng điệu ngây thơ của Bính bảo rõ với bọn này rằng
Bính là một gái quê mới ra tỉnh lần đầu và là một gái quê xinh đẹp hẳn hoi.
Thật vậy, dưới ánh đèn điện, mắt Bính lấp lánh chớp luôn, đôi má mũm mĩm ửng
hồng chúng trông ngon lành quá.
Một gã
kéo xe nhưng tóc mai cũng xén nhọn và để dài như thằng ngồi xe, mặc áo trắng là
cổ bẻ và ngoài khoác áo tây vàng toan giằng lấy khăn vuông Bính, song hai gã
khác ngồi trên xe ngăn lại không cho, rồi gã vận quần áo lót kẻ sòng sọc mượn cớ
nhảy xuống bíu lấy vai Bính. Bính kêu thất thanh. Thừa cơ hai cái xe chạy đi
đón khách dưới thuyền lên, Bính liền lẩn nhanh ra chỗ khác. Đám xe rãn cả, tản
mỗi nơi một chiếc. Còn Bính, Bính đi ngược lên phố vì Bính nhận thấy nếu cứ
lang thang, bơ vơ ở những chỗ đường vắng thì thế nào cũng còn bị chòng ghẹo.
Được một
quãng có nhà cửa thì lại đến quãng vườn hoang. Những bụi cây lù mù trước những
ngọn đèn điện bóng mờ hiện ra trước mắt Bính làm trống ngực Bính lại đập thình
thịnh. Chợt Bính lạnh toát cả người, quay đầu nhìn về đằng sau; một bóng người
đương rảo gót như đuổi Bính. Bính đi nhanh hơn. Người theo sau cũng bước gấp,
phút chốc hắn đi sát cạnh Bính và khẽ nói:
- Cô! Cô
chậm bước chứ để tôi ngỏ câu chuyện này.
Nhời nói
êm đềm khiến Bính bớt sợ, Bính đưa mắt nhìn thì đó là người ngồi trên xe ban
nãy nhưng đã thay quần áo khác, Bính im lặng nhìn bộ y phục lạ lùng của hắn:
cái áo dạ tím bó chẹt lấy lưng, hai ống quần lướt thướt như bằng lụa thì buông
chùng quá gót, cái mũ dạ mới lạ làm sao, lóng lánh một chiếc tên mạ kềm như dấu
hiệu của lính. Bính chợt nhớ đến cái hạng công tử cũng kiểu ăn mặc như thế này
những ngày hội đầu năm vùng Bính bọn chúng thường kéo về chớt nhả gái làng.
Bính vội quay đi.
Hắn
chẳng còn do dự, nắm ngay cánh tay Bính, cặp mắt sáng lên khác thường.
- Cô đi
đâu bây giờ? Đi một mình mà không buồn à?
Bính đáp
giọng run run:
- Ông
buông cháu ra, cháu van ông!
- Rõ
khéo vẽ, ông cháu gì?
- Cháu
van ông!
- Van
mình chứ lỵ.
Bính
thót người lại hết sức giằng tay ra, nhưng hắn đã bá lấy cổ Bính, hôn vào má
Bính đánh chụt một cái.
Đường
vắng vẻ quá, gió thổi lào xào trong những bụm cọ lù mù, vành trăng lại bị mây
đen che đi.
Hắn bế
xốc Bính lên, mặc Bính giãy giụa the thé van lơn, chạy vào trong vườn. Bính
phải kêu thét lên nhưng gió thổi mạnh đánh bạt cả tiếng Bính đi.
Trong
chớp mắt hắn dằn Bính xuống vệ cỏ.
Bính kêu
rít lên, ôm chặt bụng, hai đùi khép chặt, cố nằm sấp xuống mặt cỏ ướt đầm. Hắn
vội luồn tay qua người Bính cố lật ngửa Bính lên. Bính cũng hết sức chống chọi,
song mỗi lúc chân tay mệt mỏi nhừ giọng khản đặc lại. Bính cố ngước mắt trông
chung quanh và ngoài đường thì không thấy một bóng người. Bính che mặt nghiến
chặt hai hàm răng, nghẹn ngào ấp úng:
- Giê-su
cứu chữa con!
Hắn sằng
sặc cười, nhại lại, đoạn áp mặt hắn vào mặt Bính mà hôn mà cắn và thở những hơi
thở hồng hộc như một con trâu, con chó lên cơn, mắt đã đục ngầu và bọt rãi đã
sủi.
Bỗng một
đoàn xe đạp xăm xăm từ đằng xa tới, đèn xe kéo dài những vệt sáng rung động
trên đường nhựa, có một ngọn soi chõ vào vườn như tìm tòi. Bính vội gào to:
- Các
ông ơi! Cứu tôi với! Cứu tôi với!
Chẳng để
Bính kêu thêm, hắn hốt hoảng buông Bính ra rồi chạy thẳng. Bính choáng váng
mừng rỡ, nhặt mau cái đẫy vải lăn trên bãi cỏ chạy ra đường. Gió thổi mạnh. Mấy
người ngồi xe đạp chẳng nghe thấy gì, song họ đều ngẩng đầu tò mò trông khi
Bính trong vườn xô ra. Bính cố giữ tự nhiên, lẳng lặng rảo bước một lát tới đầu
phố. Trống ngực Bính vẫn đập rộn. Cảnh vật vẫn u ám! Bính len lét đến trước một
cái hiên rộng, ngồi thở. Đồng hồ ở trong nhà vẳng lên mười một tiếng. Đường sá
càng vắng tanh, vắng ngắt. Bính rùng mình. Đêm nay đối với Bính mới dài và cực
nhục làm sao! Còn ê chề, cay đắng hơn cả một năm lam lũ! Bính nép người bên góc
tường, gục mặt vào bàn tay, tê tái những cảm xúc đau xót sôi nổi trong lòng.
Bính càng mỏi mệt, ròng rã một ngày, Bính đi không mấy lúc nghỉ chân. Đã thế
lại vừa phải chống cự với thằng đểu kia nên hai đầu gối Bính mỏi dừ, bụng cồn
cào ngâm ngẩm đau. Gió đêm như ru, Bính chợp mặt thiu thiu ngủ. Bỗng không biết
từ đâu đưa tới tiếng trẻ con khóc oe oe giống tiếng mèo gào vang động cả trời
khuya.
Bính mở
choàng mắt, chợt nhớ đến đứa con thơ chưa đầy tháng, tại cha mẹ Bính cay
nghiệt, tại cái tục lệ quái ác mà Bính phải xa nó, xa nó không biết bao giờ lại
được ôm nó trong lòng.
Bính vừa
cất tiếng khóc rưng rức thì tiếng khóc kia nín bặt, Bính vụt nghĩ đến đứa bé
kia khóc thế nào chả có người vỗ về ru cho bú, còn con Bính thân phận con nuôi
con mày, giá đêm khát sữa, thì dù có được chiều chuộng mấy chăng nữa cũng khó
mà được bú đêm. Ấy là không kể đến người nuôi dỗ mãi không nín thì thế nào chả
phát nó năm bẩy chiếc phát cho bõ cái bực tức bị thức giấc.
Những sự
tưởng tượng ấy rung động cả toàn thân Bính, Bính phải vội lắc đầu xua đuổi hình
ảnh của đứa con ưỡn người há hốc miệng, hiện ra trước mắt Bính. Bính phải nén
chặt ngực cho đỡ tức, một tay Bính cầm bầu vú rắn đanh và vắt sữa đi vì vú
cương lên nhức nhối quá chừng. Bầu sữa đầy dòng dòng tia xuống nền gạch phủ đất
đen, theo liền với những giọt nước mắt chan hòa.
Bỉ Vỏ - Chương 03
Bính vẫn
tin lời nói của Chung nên sáng nay Bính quả quyết đánh bạo đến đường Cát dài để
hỏi tin tức Chung.
Sự ước
mong được gặp mặt chồng, Bính có biết đâu chỉ là ảo vọng đáng dập tắt hẳn trong
lòng với cả tình yêu thương nồng nàn con người bội bạc kia. Nhưng những lúc
Bính oán giận Chung chỉ là lúc Bính quá khổ sở điêu đứng vì sự thực quanh mình,
rồi sau một vài phút, khi tưởng đến biết đâu vì một lẽ gì đấy Chung không kịp
bày tỏ nên mới bỏ Bính đi.
Bính
ngẫm nghĩ, rụt rè một lúc lâu, sau cùng gọi cửa một nhà nọ. Cánh cửa hé mở, có
tiếng người vẳng ra:
- Ai
đấy? Cứ vào tự nhiên.
Bính còn
đương khép nép thì một người đàn ông trẻ tuổi súng sính trong bộ quần áo ngủ ở
trong nhà bước ra. Bính giật mình vội chào và hỏi người ấy:
- Thưa
ông, đây có ai là ông tham Chung làm Sở đạc điền không?
Người
trẻ tuổi đưa mắt nhìn Bính một lượt từ đầu đến chân: cặp mắt lờ đờ nhưng long
lanh, cặp mày không tỉa, chiếc khăn vuông mạng mấy miếng nhỏ, tấm áo tứ thân,
cái quần cạp hồng thắt lưng xanh và một dáng điệu sợ sệt e thẹn, vạch rõ ra
trước mắt người ấy tất cả mọi cái dại dột của cô gái quê hiền hậu ra tỉnh lần
đầu. Hắn tủm tỉm cười:
- Cô hỏi
có việc gì đấỷ
Bính run
run đáp:
- Thưa
ông, cháu có việc trong nhà ra tìm ạ.
Bính
chưa nói xong, hắn đã vồn vã mời Bính vào nhà, kéo ghế giục Bính ngồi. Tức thì
một quang cảnh lộng lẫy bầy ra trước mắt Bính. Nào tủ chè, sập gụ; nào tranh
ảnh treo la liệt; nào chậu hoa, đôn sứ; nào hoành phi câu đối. Bính khấp khởi
mừng, bụng bảo dạ:
- Đúng
như lời Chung dặn mình. Vậy thật là nhà Chung đây?
Rồi Bính
len lét trông xung quanh, tay vẫn xách đẫy quần áo, băn khoăn mong người trai
trẻ trả lời. Bấy giờ bao nhiêu vẻ đẹp hiền hậu nổi cả lên gương mặt Bính đờ
đẫm, lấm tấm vài giọt mồ hôi trán dính lấy những sợi tóc như tơ. Người trẻ tuổi
càng đăm đăm nhìn, Bính phát ngượng nhưng cố nén hồi hộp thong thả hỏi:
- Thưa
ông làm ơn bảo cháu, đây có phải là nhà ông Chung?
Người
kia đưa mắt liếc Bính một cái rất tình tứ:
- Phải!
Bính
luống cuống nhắc:
- Phải
ạ?
- Tôi đã
bảo phải thì là phải mà. Nhưng cô hỏi ông Chung có việc gì, phải bảo qua tôi,
tôi mới gọi ông ta tiếp chuyện cô được.
Bính
sung sướng tưởng đến vỡ mất trái tim, bật kêu lên:
- Thế mà
tôi!...
Bính
định nói: "Thế mà tôi nỡ vội giận Chung", nhưng vì ngượng, Bính phải
bỏ dở câu. Thấy cái thái độ lạ lùng ấy, người trẻ tuổi chau mày hỏi:
- Thế mà
tôi... làm sao hở cô?
Bính
quên cả lễ phép, thở hắt mạnh ra một cái, lắc đầu rồi đáp:
- Tý nữa
tôi...
Đến
tiếng "tôi" Bính lại ngừng, hai khóe mắt ứa nước. Bính phải cố nén sự
nghẹn ngào, nói tiếp:
- Tôi
quyết không nghĩ gì đến nữa thì thật là tội nghiệp!
Người
trẻ tuổi chống cằm ngồi nghe. Sự ngây thơ của Bính bỗng trở nên kỳ dị và u uẩn
và tình tứ. Người ấy rót nước chè nóng mời Bính uống, đoạn nghiêm trang nhìn
vào mắt Bính nói:
- Ông
Chung của tôi chắc hẳn là tình nhân của cô?
Bính đỏ
mặt, cúi đầu không đáp. Người trẻ tuổi nhắc lại câu hỏi ban nãy:
-Vậy cô
tìm ông Chung làm gì? Phải bảo qua tôi mới được.
Bính hơi
luống cuống, cúi mặt rồi run run đáp:
- Vâng
thôi thì cháu xin nói thật: ông Chung là nhà cháu.
- Cô là
vợ ông Chung? Vợ ông tham Chung?
- Thưa
ông vậy ông chắc là người họ của nhà cháu?
Người ấy
lắc đầu, tủm tỉm cười:
- Là bạn
thân tôi.
Người
trẻ tuổi định nói nữa, Bính đã tiếp lời:
- Là bạn
thân của nhà cháu thì cháu mới dám nói các sự thể sau đây...
Bính mân
mê chén nước mời vừa thong thả kể vì sao Bính biết Chung, vì sao Bính phải bỏ
nhà đi. Bính đã chất phác, giọng nói đầy nước mắt của Bính càng làm sự chất
phác đầy đủ hơn và sắc mặt Bính thêm linh động với những giọt lệ long lanh.
Người trẻ
tuổi sung sướng lạ thường, hắn cố tạo một giọng nói thật thân thiết, hiền từ mà
nhủ Bính:
- Thôi
cô đừng lo, để tới 12 giờ trưa tôi sẽ dẫn cô lại nhà bác Chung tôi.
Hắn tươi
cười đón lấy câu cảm ơn rất cảm động của Bính, xong quay đầu gọi:
- Nhỏ!
- Dạ?
Một đứa
bé quần áo cũng chải chuốt ở trong nhà chạy ra. Chợt thấy Bính đứng trước mặt
chủ thì nó lấm lét cười, như biết trước một cảnh ngộ nghĩnh gì sắp xảy ra.
Người trẻ tuổi vội đưa mắt. Nó liền khoanh tay khúm núm thưa:
- Cậu
bảo gì con?
Người
trẻ tuổi nghiêng mình móc cái ví ở túi quần, lấy một tờ giấy bạc một đồng dúi
vào tay thằng bé và thầm dặn nó.
Được một
lúc thằng bé bưng về một khay những thức ăn khói bay nghi ngút. Nó chưa kịp đặt
các món ăn lên bàn, người trẻ tuổi đã lau một cái thìa và đôi đũa bằng tờ giấy
bản con, hai tay để trước mặt Bính, mời cầm:
- Cô ăn
sáng với tôi. Ăn rồi cùng đi. Hôm qua tôi phải thức khuya để kiểm tra mấy công
việc sổ sách nên đói sớm. Cô ăn đi với tôi cho vui...
Bính
ngần ngại. Tuy từ hôm qua đến nay Bính chưa có hột cơm nào vào bụng, đói như
cào, mà không dám cầm đũa. Mãi khi người trẻ tuổi đưa đũa và thìa vào tận tay
Bính và y ăn trước, vừa ăn vừa giục Bính, Bính mới rụt rè đón lấy bát cháo.
Bính lập
cập mãi mới dám múc ăn. Bính mới húp có một thìa đầu đã thấy ấm ran cả ruột,
đến thìa thứ hai thì dạ dày Bính đang cồn cào dịu hẳn đi, Bính tự nhủ:
- Ông
này thật tử tế quá!
Bính
chưa ăn hết bát cháo, người trẻ tuổi vội sẻ "mằn thắn" sang bát Bính
và tất cả sá síu, tim, gan, trứng gà, Bính luống cuống không biết nói sao, má
đỏ ửng lên, mắt đờ đẫn, nhìn người trẻ tuổi. Hắn tình tứ nhìn lại. Bính cúi mặt
xuống. Hắn mỉm cười.
Đồng hồ
treo trên tường ngân nga như một khúc đàn rồi buông chín tiếng, gieo sâu vào
không khí phảng phất mùi nước hoa nhài một âm thanh náo nức. Người trẻ tuổi còn
ép Bính ăn thêm mấy chiếc bánh ngọt mới gọi thằng nhỏ lên dọn bàn và mời Bính
lên trên gác rửa mặt. Bính bâng khuâng theo người ấy, trống ngực Bính đập mạnh
hơn. Bính không thể nào ngăn giữ sự lo lắng, nghi ngại. Chợt người ấy tới đầu
cầu thang, thì dừng lại nhìn Bính, Bính khép nép nói:
- Thưa
ông, cháu... cháu... ông làm ơn dẫn cháu.
Người
trẻ tuổi cười:
- Làm
quái gì cái đó! Thôi cô lại rửa tay đi, chứ không nước nguội hết.
Người
trẻ tuổi chỉ cái chậu thau bằng sứ để trước tấm gương to, rút chiếc khăn mặt
bông trắng tinh vắt lên vai Bính, vuốt má Bính, Bính giật mình, vội lui người
lại, kêu khe khẽ:
- Ông!..
Ông!..
- Anh
chứ!
Bính tái
mét mặt, nghĩ ngay đến cái đêm ghê gớm vừa qua. Bính run không được:
- Thưa
ông sao lại thế?
Mắt hắn
sáng lên khác thường, hắn nghiêng đầu ngắm khuôn mặt Bính nhợt nhạt dưới nếp
khăn vuông. Bính lập cập lùi dần về phía cầu thang. Thấy cửa đã khóa trái Bính
nghẹn ngào:
- Cháu
van ông làm ơn dẫn cháu lại với nhà cháu.
Hắn cười
tít mắt, vỗ ngực đáp:
- Tôi là
"nhà cháu" đây, còn phải đi tìm đâu cho tốn công?
- Không!
Cháu van ông... ông thương cháu.
Hắn cười
sặc sụa át cả tiếng sụt sùi của Bính. Hắn rút ví tiền, đếm năm đồng đưa vào tay
Bính:
- Đây
ông làm ơn cho cháu.
Nói đoạn
hắn bá lấy vai Bính, hôn mãi vào cặp má trở nên xám ngắt. Bính toan kêu to lên.
Hắn bịt ngay lấy miệng Bính:
- Cô kêu
ai bây giờ? Biết điều thì im nghe tôi...
Hắn đã
ôm xốc Bính vào lòng, bế đặt lên cái giường tây gần đấy. Cửa màn tụt ngay
xuống. Hắn liền cưỡi lên người, ngực ép ngực, má ép má, cặp mắt sáng quắc chiếu
lên cặp mắt long lanh.
Bính mềm
nhũn cả người. Cặp vú cương sữa tưởng sắp vỡ bung.
Bính
rùng mình. Bính định nói, định van thì cổ ứ lại.
Bính
xanh mắt lên trông gian buồng âm u giữa buổi trưa mùa thu trong sáng, và ú ớ
nói những tiếng nhỏ nhỏ trong cổ họng như một người bị cơn mê bóp nghẹt:
- Giê su
ma... Con chết mất! Lạy chúa con. Không!... Không!...
... Bỗng
ngoài cửa đập thình thình. Bính chưa kịp ngồi dậy thì cánh cửa đã bị đạp tung.
Một người đàn bà nhảy xô vào túm chặt ngay đầu Bính. Người trẻ tuổi cuống quít
vớ vội cái áo chạy mất. Bính mặt cắt không còn hột máu, kêu thất thanh:
- Ông!
Ông bỏ tôi à?
Bao
nhiêu ghen tức điên cuồng ngụt bốc lên, người đàn bà, mặt đỏ bừng, dìu luôn đầu
Bính vào nách rít lên:
- Này bỏ
tôi à!... Này bỏ tôi à!... Này bỏ tôi à!...
Mỗi một
tiếng rít lại theo một tiếng gằn nghe ghê hết cả da thịt. Người đàn bà nghiến
răng, quắc mắt, rút guốc phang Bính chẳng từ mặt mũi, Bính giằng không ra.
Người đàn bà to béo khỏe hơn nhiều! Cực chẳng đã Bính hết van lơn lại khóc lóc.
Nhưng người nọ cứ tru tréo ầm ĩ, sỉa sói vào mặt Bính, vừa rủa sả...
Ván gác
dận sầm sầm. Bính khản đặc nói không thành tiếng. Bính khủng khiếp đau xót vô
cùng.
Hàng phố
kéo đến xem thoáng chốc đã đông nghịt cả nhà dưới. Mấy người đàn bà quen vợ gã
trẻ tuổi rẽ đám đông lên gác. Theo sau họ, hai người đội xếp, một người tây và
một người ta.
Người
đàn bà nọ vẫn gầm thét, đánh đập Bính. Người đội xếp ta vội chạy lại giằng lấy
guốc. Người đội xếp tây kéo Bính dậy. Nhưng Bính mình mẩy đau dừ, rã rời, quằn
quại như con sâu rau bị xéo. Dưới mớ tóc tả tơi, mắt Bính sưng vù, nổ đom đóm,
ràn rụa nước mắt.
Thấy có
đội xếp đến can thiệp, mụ vợ người trẻ tuổi bèn quấn vội mớ tóc rối, sấn đến
trước người đội xếp tây, soi sói chỉ mặt Bính nói:
- Thưa
ông con này là hàng đĩ lậu ghê gớm lắm, bao nhiêu "a dăng" cũng phải
lòng nó hết. Giờ nó lại quyến rũ đến chồng con. Nó dám ban ngày ban mặt dẫn xác
đến nhà con ngủ với chồng con. Bao nhiêu tiền lương của chồng con, nó bòn rút
hết, nó... nó...
Người
đội xếp tây xua tay ra hiệu đừng nói nữa và bảo người đội xếp ta đỡ Bính dậy,
Bính cố gắng kéo lê người lại gần giường nhặt lại khăn vuông đội, mặt chỉ gằm
xuống.
Bính
càng gạt, nước mắt càng đầm đìa; Bính tưởng đến đứt ruột mất. Mấy bà đứng xem
đã không tỏ chút thương hại, một người còn mắng như tát nước vào mặt Bính.
- Thôi,
đồ đĩ trăm thằng, nghìn thằng, đồ voi giày ngựa xé, xéo đi, xéo ngay đi, chẳng
các mẹ mày ngượng mặt lắm rồi.
Trẻ con
cũng thi nhau cười vang lên và chế nhạo Bính.
Vợ người
trẻ tuổi thưa Bính là một gái chuyên mãi dâm không có "giấy", nên khi
lên đến "bóp" chính, viên cẩm truyền giữ Bính lại để chờ thứ sáu tới,
thì đưa Bính sang nhà thương khám xét để rồi bộ phận "đội con gái"
quyết định.
Bỉ Vỏ - Chương 04
Bính co
ro ngồi ở góc tường chờ viên cẩm đòi hỏi.
Mấy
người cảnh sát ngồi gần đấy bàn tán xì xào. Một trong bọn nhìn chõ vào mặt
Bính, nói:
- Trông
người ngoan thế này ai ngờ lại đi "ăn xu".
Bính đưa
mắt ai oán nhìn người ấy. Một người trẻ nhất chạy lại, nâng ngược cằm Bính lên
hỏi:
- Ai dạy
cái liếc vừa rồi đấy? Liếc tình quá! Chắc hẳn là "miềng" của
"sừ" Lân đây?
Người
khơi mào chuyện liền phát mạnh người trẻ tuổi, lườm nói:
- Có đẹp
bằng tiên tôi cũng chẳng thèm. Báu gì cái hạng gái này.
Người
trẻ tuổi nửa cợt nửa thật, vuốt má Bính, ngoảnh nói với mọi người:
- Thôi
các ông ấy đều chê cô, vậy tôi nhận với ông cẩm cô là người nhà tôi, rồi cô về
nhà tôi nhé?
Một loạt
cười ran lên. Bính gục đầu vào lòng. Những tê tái cực nhục lại đến xâu xé tim
Bính.
Bỗng
cánh cửa kẹt mở. Cả bọn cảnh sát đứng phắt dậy, phưỡn ngực, hếch miệng, giơ tay
chào. Viên cẩm ngồi xuống ghế, châm thuốc lá hút rồi hất hàm ra lệnh cho Bính
lại.
Bính
khúm núm, run rẩy, chắp tay đứng trước bàn giấy không dám ngẩng mặt lên, vì sợ
gặp phải cặp mắt hóm hỉnh nhưng nghiêm nghị nọ chăm chú nhìn. Viên cẩm nhả nốt
làn khói thuốc lá, chậm rãi hỏi Bính bằng tiếng ta:
- Mày đã
kiếm tiền mấy năm rồi?
Bính tái
mét mặt mãi mới dám cất tiếng thưa:
- Lạy
quan lớn thương xét cho con, con chẳng biết kiếm tiền là cái gì hết.
Viên cẩm
mỉm cười:
- Tốt!
- Lạy
quan lớn.
- Làm
đĩ, tốt!
Bính run
rẩy:
- Quả
con oan, con bị bắt oan.
Viên cẩm
vẫn giữ nụ cười dưới núm ria gật gù hỏi Bính:
- Không
làm đĩ thật chứ? Không làm đĩ mà lại có bệnh kín à?
Bính
bàng hoàng kinh sợ quá chừng. Sự bực tức như kết thành khối đưa lên cổ Bính.
Bính tái mét mặt chực nói thì viên cẩm đã rút ra một tờ giấy ghép ở cái cặp
trên bàn rành rọt cắt nghĩa cho Bính nghe:
- Quan
đốc tờ chứng nhận thị Bính không còn...
Đến đây
ông ngừng lại, quay đầu hỏi người đội xếp ngồi phía tay trái:
-
Virginité là gì?
- Bẩm,
bẩm là trinh tiết.
Y liền
"à" lên một tiếng và gật gật cái đầu: à! à! Trinh... trinh tiết, và
có bệnh lậu!
Bính
luống cuống, chết lặng người đi. Bính hiểu rõ vì ai Bính có bệnh rồi. Chỉ thằng
trẻ tuổi đó đổ cho Bính cái bệnh ghê khiếp xấu xa ấy. Và cái giấy chứng chỉ
không biết của ông đốc tờ nào kia thật giết Bính một cách đau đớn hơn gươm
giáo. Bính nức nở, viện hết tình, hết lẽ cãi chữa, song viên cẩm chỉ lắc đầu. Y
còn lạ gì cách khéo nói và những điệu bộ của gái giang hồ. Y đăm đăm nhìn Bính
khóc lóc thảm thiết.
Nét mặt
Bính ngây dại rầu rĩ làm y phải lắc đầu tự nhủ: "Sao xã hội bây giờ lại
lắm gái đi kiếm tiền còn trẻ thế này? Mà hết thảy khi bị bắt đều có những giọt
nước mắt và những điệu bộ rất cảm động, những ngôi sao màn ảnh chắc đâu đã tự
nhiên bằng!".
Y trầm
ngâm một lúc rồi cất tiếng:
- Mày ở
đâu? Bảo để quan lớn cho nằm chữa ở nhà thương rồi khỏi thì theo người giải về
quê.
Bính
lạnh toát cả người. Bính tưởng đến bao nhiêu cay đắng nhục nhã sắp sửa giày vò
Bính nếu Bính bị giải về cái làng cay nghiệt quái ác lạ thường kia.
Đeo một
cái tiếng theo giai, Bính như đã chết đi nửa phần. Nay lại thêm cái tiếng đĩ
thõa thối thây dày da thì Bính thật không đủ sức chịu đựng được. Bính đến chỉ
còn cách tự vẫn thôi. Vậy thà nhịn đói mặc rét héo hắt chết dần chết mòn ở tỉnh
còn hơn về quê hương nương nhờ bố mẹ, rồi lại chịu thêm bao nỗi đòi đoạn khác.
Bính hoa
mắt lên, liền thưa:
- Bẩm
con không biết quê quán đâu cả.
Viên cẩm
biến nét mặt, nhại Bính với một giọng mai mỉa:
- Bẩm
con không biết quê quán đâu cả?
Bính
tưởng y hỏi lại mình liền chân thật đáp:
- Vâng
ạ!
Viên cẩm
cười ồ:
- Thế
thì con là đĩ trăm phần trăm rồi còn khóc lóc màu mè gì nữa.
Y vừa
dứt tiếng, một người đàn bà đẩy cửa bước vào. Bính ngẩng đầu nhìn: chính là vợ
thằng trẻ tuổi. Người ấy nhanh miệng chào:
- Lạy
quan lớn ạ!
Viên cẩm
gật đầu, tươi cười hỏi luôn:
- Chị
chắc chắn con này làm đĩ chứ?
- Bẩm
quan lớn chắc chắn lắm ạ! Chính mắt con trông thấy nó đi với hàng trăm người.
- Có một
trăm người thôi ư? ít quá!
Y vừa
nói vừa cười, những nụ cười dưới bộ ria mép rậm và đen càng thêm tai quái.
Bính uất
ức long mắt lên bảo vợ tên trẻ tuổi:
- Chị
nói dựng đứng thế mà không sợ chết tươi à?
Mụ nọ
sấn đến bên Bính, lấy ngón tay dí vào trán Bính:
- Gớm đồ
gái đĩ già mồm. Bà thèm đặt điều cho cái hạng mày bán trôn nuôi miệng để làm
gì?
Nói đoạn
mụ nói với viên cẩm rằng mụ có mấy người làm chứng biết tỏ tường gốc tích của
Bính, vậy xin ông cho phép chị ra gọi. Viên cẩm y lời. Một lúc sau vợ thằng trẻ
tuổi dẫn đến một người đàn bà trạc ngoài ba mươi, nước da ngăm đen, mắt sắc như
nước và người khô như con mắm. Mụ ấy chào viên cẩm xong, đứng lui ra một bên.
Viên cẩm gọi lại hỏi:
- Chị
biết con này làm gì? Xưa nay ở đâu?
Mụ đáp
rất trơn tru:
- Bẩm
quan lớn trước kia nó ở Hà Nội bán rau ở chợ Đồng Xuân, hơn hai năm nay nó
xuống Hải Phòng, con tưởng nó buôn bán tử tế, ai ngờ lại xoay đi "ăn
xu". Nhiều lần con bắt gặp nó đi với nhiều người. Nó mượn tiếng buôn bán
bòn rút thiên hạ cũng lắm tiền. Nhất là chồng người này mất cho nó có tới bạc
trăm và nghe đâu còn bị nó đổ bệnh cho nữa.
Bính
nghe mà cổ nghẹn ứ. Bính chỉ muốn chạy đến tát vào cái mồm cong cớn ấy mấy cái
nhưng thấy vẻ mặt đáng sợ của người tây nọ, Bính phải cố nén, đứng im.
Chờ
người đàn bà làm chứng khai xong, viên cẩm bèn hỏi vợ thằng trẻ tuổi:
- Bây
giờ chị định thưa con này về tội gì?
Mụ nọ
vênh váo nhìn Bính rồi nói:
- Thưa
quan lớn nó làm đĩ mặt dạn mày dày nên con không muốn lôi thôi với nó. Con chỉ
ước ao quan lớn bỏ nó vào nhà "thổ" trước hết là nó được miếng ăn mà
không khó nhọc, như thế hợp với ý nó, sau cho nó khỏi đi ngang về tắt, đỡ hại
cho chồng con chúng con.
Viên cẩm
vui vẻ hất hàm cho hai mụ nọ lui ra, rồi truyền một người đội xếp ta dẫn Bính
sang sở Liêm phóng để lấy căn cước.
Bính
bàng hoàng theo người đội xếp ra ngoài. Gạt thầm nước mắt, Bính xót xa trông
các kẻ qua lại rộn rịp và những ô tô bóng loáng vùn vụt chạy dưới rặng xoan
phấp phới những ánh vàng tươi của trời thu trong ấm. Cùng lúc ấy, vợ thằng trẻ
tuổi và mụ làm chứng phởn phơ nhảy lên xe.
Xe đã
chạy xa, cả hai còn ngoái cổ lại nhìn Bính lùi lũi đi, cười bảo nhau:
- Giờ
hồn cho con nào còn mon men trêu vào chồng con các bà.
Bỉ Vỏ - Chương 05
Hai hôm
nay mưa phùn không ngớt, mây trời cứ xám ngắt, nên phố Hạ Lý càng vắng càng
buồn.
Những
chõng và những ghế của sáu, bảy hàng nước ở vỉa hè xếp đống cả lại, nhường chỗ
cho tụi trẻ con bán "phá xa", bán bánh ế, cho những phu xe nghiện
ngập nhỡ tầm thuê xe và mấy gã chuyên nghề "ma cô" và bảo vệ con em
của các nhà chứa tụ họp, giở "bất", "đố mười" ra sát phạt
nhau. Tụi khách ở các "siệng" lên và nghỉ việc ở Sáu kho về cũng cờ
bạc. Nhưng không bệ rạc quá như bọn trên kia, bọn y tụm năm tụm ba trong những
hàng vừa bán cà phê, phở, bánh trái, vừa bán cá mặn, mắm muối, gạo, củi, vừa có
cả thợ may, thầy lang, thầy tướng số.
Lớn bé
đều chúi mũi vào những quân bài đỏ, những mẫu gỗ, bóng nhẫy, và, vẻ mặt đều
bừng bừng. Khác hẳn, những kẻ qua đường bước rất gấp, nhăn mặt nhổ bọt luôn. Vì
gió rét thổi mạnh tạt vào mũi họ những mùi tanh tởm của rác bẩn chất thành đống
ở các khoảng đất hoang, ở các cống rãnh ứ bùn trộn lẫn với mùi hôi hám của suốt
hai dãy nhà chật hẹp nhớp nháp đưa ra mà dân phố đã quen rồi. Hơn nữa, vì họ sợ
cái sinh hoạt tối tăm ở phố "mãi dâm" này.
Bính
nhân lúc vắng khách, vào buồng riêng nằm cho đỡ mệt.
Đã hai
tháng, sau khi ở nhà "lục xì" ra, Bính được mụ Tài-sế-cấu nhận đem về
nuôi. Mụ đã có bảy con em, Bính là thứ tám, người ta gọi Bính là Tám Bính. Cái
tên kép không thể nào không có được của gái giang hồ.
Mới có
hai tháng thôi, mà Bính coi dài bằng hai năm. Các nỗi đau đớn trong lòng Bính
mỗi ngày một nhiều. Người Bính mỗi ngày một héo hắt, ốm yếu thêm. Bính không
thể tiếp khách được nữa.
Khốn
nạn! Khách có ra hồn khách. Người nhiều tiền thì đã đi cô đầu gái nhảy nên chỉ
có rặt những lưu manh thất nghiệp bê tha, rửng mỡ hay may mắn lắm, ông
"bồi", ông bếp, bác "tài", bác "ét" là vào chốn
này.
Được vài
ba hào của họ thật mướt mồ hôi trán. Có khi xong xuôi đâu đấy, họ còn kéo dài
giờ ra bằng những câu chuyện đểu cáng xen vào những cái cấu véo cháy cả đùi
non. Họ hành đủ thứ cho đáng món tiền tiêu mà họ vất vả và đủ cách mánh lới,
xoay giở mới kiếm được. Và họ lấy làm sướng mắt trước sự rã rời nhục nhã của
người nhận tiền mà họ cho rằng chẳng còn biết những gì nữa.
Trong
bọn con em của mụ Tài-sế-cấu, Tám Bính thường được họ thưởng thêm vài hào vì
Bính đẹp, ngoan ngoãn, lẳng lặng hàng giờ như súc gỗ dưới những thân thể nặng
gần bằng súc gỗ, chịu đựng mọi sự vày vò, hành hạ.
Nghĩ đến
đấy, Tám Bính rùng mình, đưa cặp mắt ám khói trông gian buồng chật hẹp, ngăn
cách buồng bên bằng những ván gỗ ghép liền đã mục nát và nhơ nhớp những vệt
quệt trầu như máu đọng, có một chiếc mành sơn trắng chằng chịt mạng nhện ở lối
ra vào, và một ngọn đèn vách lù mù vì thông phong chẳng bao giờ trong sáng ở
góc tường.
Gian
buồng tối tăm đó với tấm phản thấp lè tè sực mùi gỗ mọt và mùi chăn gối, màn
chiếu hôi hám ấy sẽ ám ảnh mãi mãi đời các gái giang hồ. Và tất cả những đồ vật
không hề thay đổi dù cũ nát chừng nào trong những gian buồng nọ như có một sức
mạnh lôi giữ người làm đĩ không cho trở về sự sống sáng sủa nữa. Nó làm u ám
tâm trí người ta, và, khi cái tươi sáng bình tĩnh của tinh thần đã mất thì
người ta còn đâu ý muốn vượt mình lên?
Bính đau
xót úp mặt xuống cái gối bông vuông. Gương mặt Bính trong bóng tối lẫn với màu
vải hoen ố mồ hôi vàng. Bính thở lừ khừ. Phải, Bính mệt và ốm lắm rồi.
Dưới cái
làn không khí bao giờ cũng nặng nề khí đất ẩm ướt và chăn chiếu bẩn thỉu, không
yếu đau là một sự lạ chưa từng thấy. Huống chi Bính lại lấy ngày làm đêm, đêm
làm ngày, và ăn uống kham khổ hết sức, bữa nào không vài miếng đậu phụ om, đĩa
rau muống luộc thì lại cá vụn kho, dưa muối xổi, cà giầm tương, hỏi còn sức nào
để chiều theo lòng ham muốn vô chừng của các khách mua vui.
Mãi đến
hôm kia, sau sáu mươi đêm ròng rã ít khi chợp mắt, Bính chẳng còn thể ăn uống
gì được, người lúc nào cũng hâm hấp như sốt và gầy rộc hẳn đi. Thấy Bính thế
bất đắc dĩ mụ Tài-sế-cấu phải cho Bính nghỉ ngơi dăm ba buổi.
Song đêm
qua, Bính còn phải thức đến ba giờ đêm để tiếp chuyện một ông cai xe cho ông khỏi
phật lòng vì xưa nay ông vẫn lui tới nhà này và có tiếng là "sộp" hơn
cả.
... Bính
tê mê chua xót rồi chợp mắt thiu thiu ngủ. Tâm trí Bính lạc vào một cảnh mộng
rất khủng khiếp. Một hôm Bính ho ra máu, cách ít lâu, thuốc thang không có,
Bính kiệt quá rồi chết. Bính cũng nằm trong gian buồng này, dưới ánh sáng ngọn
đèn vách tù mù và cái không khí hôi hám này, cũng gối đầu trên cái gối vàng mồ
hôi, và cũng không ai ngồi bên mình hết. Mụ Tài-sế-cẩu bỏ Bính đi, không đả
động gì đến việc ma chay. Mỗi ngày thây một rữa ra, mãi khi bốc hơi thối và
nhung nhúc ròi bọ, hàng xóm mới biết. Người ta vội thuê vài người phu chợ đùm
Bính trong chiếc chăn cũ rồi đem đi chôn.
Tấm áo
quan bằng gỗ mỏng đu đi đu lại, cọ vào chiếc thùng treo lủng lẳng ở đầu đòn ống
làm thành những tiếng kẽo kẹt thay cho tiếng khóc viếng.
Bấy giờ
bố mẹ Bính đang tíu tít đong bán ở nhà quê. Hai em Bính và đứa con thơ thản
nhiên không hay biết. Còn người chồng bội bạc kia thì đương vui thú với ai
chẳng bợn nghĩ tới người vợ đọa đày.
Cái chết
của Bính thật giống hệt cái chết của hạng người ăn mày khốn cùng không thân
thích chết đường chết chợ...
Bỗng,
qua khe ván, gió rét lùa vào buồng, đánh tan giấc mộng. Bính mở choàng mắt ướt
đẫm. Bính trở lại với sự hiện tại. Nhưng nó chẳng kém vẻ thảm khốc, trái lại
càng làm Bính đau đớn ghê sợ hơn. Bính cực lòng khóc nức nở, Bính chán nản vô
cùng. Bính hết hy vọng, hết cả mọi hy vọng.
Sực nhớ
đến chai dấm mua ban sáng để chế với nước mắm chấm rau dần, Bính bưng mặt, ngẫm
nghĩ, đoạn lắc đầu nức nở khóc vừa mon men lại đằng mặt hòm gần cuối giường lục
tìm cóng thuốc phiện hôm qua người cai xe hút bỏ lại trên bàn đèn.
Chợt
mành mành vén lên, Hai Liên bước vào cười gọi Bính:
- Chị
Tám Bính làm gì đấy? Buồn định tìm thuốc để hút phải không. Tốt! Em tiêm cho
nhé!
Bính hốt
hoảng quay lại, tay hất phải chụp đèn, phao dầu lạc đổ vũng cả mặt hòm. Hai
Liên vội trèo lên giường, kéo Bính vào lòng hỏi:
- Kìa
sao mà mặt chị nhợt nhạt thế kia?
Bính rũ
người ra không đáp. Hai Liên hỏi dồn:
- Hay
chị cảm đấy? Chết! Thế mà không gọi, định vớ vẩn tìm cái gì ở bàn đèn ấy?
Bính
càng nức nở rồi bật nói lên:
- Em chỉ
muốn chết thôi!
- Chị
muốn chết?!
Bính mím
môi lại nhìn Liên, nức mãi lên. Hai Liên ái ngại, ngắm nét mặt buồn rầu xanh
xám của Tám Bính và cái thân hình gầy rạc đi, ngực kẹp lép, chân tay khẳng
khiu, thì nghĩ ra ngay được nguyên nhân. Đồng thời cả một quãng đoạn trường
chua xót mà Liên đã trải qua hiện ra rất rõ trong trí nhớ Liên. Hai Liên chạnh
lòng nhẹ vuốt mái tóc Bính:
- Em
thương chị quá!
Bính
thổn thức:
- Em
biết lắm! Trong nhà này chỉ có chị là thương em, còn ai cũng ghen ghét em, xúi
giục mụ Tài-sế-cấu bắt em ngày đêm tiếp khách. Họ coi em như một kẻ đã cướp mất
miếng ăn, manh áo sự sung sướng của họ, mà nào em có thế và có bao giờ muốn thế
đâu?!
Dứt lời
Bính gục chằm mặt xuống đùi Hai Liên, nước mắt nóng đẫm cả một mảng quần Hai
Liên. Hai Liên nắm chặt lấy tay Bính, ủ vào ngực khẽ nói:
- Đàn bà
với nhau đấy!
Bính
nuốt ừng ực sự nghẹn ngào:
- Mà sao
trong cùng cảnh khổ lại như chỉ chực ăn thịt lẫn nhau?
Hai Liên
lắc đầu, giọng nói lại cao hơn:
- Thôi!
Chị nghĩ đến những điều ấy làm gì cho nẫu ruột! Đừng buồn nữa chị ạ. Chị mà tự
tử chỉ thiệt thân thôi. Bố mẹ anh em ai biết đấy là đâu! Mồ mả mình ai thăm
viếng? Chị nên gắng gượng ăn uống cho lại người rồi năm bảy tháng, một năm quen
dần đi, cái cảnh bán trôn nuôi miệng này sẽ không đến nỗi khó chịu lắm đâu.
Bính
xanh mắt:
- Quen
được cơ à, chị?
Hai Liên
cười nhạt:
- Hẳn
chứ lại, nếu không sao có người ở với đời.
Dứt câu
ấy, Hai Liên thẫn thờ nâng cằm Bính lên:
- Vậy em
đố chị năm nay em bao nhiêu tuổi và đã ở đây bao nhiêu lâu?
- Chị
ngoài ba mươi là cùng, còn cái ở đây bao nhiêu lâu thì em xin chịu!
Hai Liên
lại mỉm cười:
- Bà chị
tôi muốn tôi già như thế ư? Tôi hơn chị có bốn tuổi mà chị năm nay hai mươi
phải không?
Hai Liên
mặc Bính trừng trừng nhìn mình thong thả nói tiếp:
- Đấy
chị xem, em khổ biết là chừng nào, có lẽ hơn chị nhiều lắm, nhưng em vẫn cố
gắng chịu. Mới có ba năm thôi, em sa vào chốn này mà em già hẳn đi. Trước kia
em cũng đã có định tự tử vì nhục nhã quá, song, khi nghĩ đời mình, cái nghề này
có gì là xấu, mình cũng phải vã mồ hôi rơi nước mắt để kiếm miếng ăn cơ mà.
Hai Liên
ngừng lại một giây, chấm những giọt nước mắt ứa ra ròng ròng xuống gò má:
- Vả lại
thiên hạ còn chán vạn người cơ cực điêu đứng hơn ta, mà họ vẫn mong có ngày mở
mày mở mặt; ta được như thế này cũng chưa đến nỗi nào vậy ta không được hủy cái
thân ta đi.
Hai Liên
muốn nói nữa thì Bính hổn hển ngắt lời:
- Nhưng
cứ ở đây cho đến ngày trọn đời sao?
Hai Liên
ái ngại; cau mày ngẫm nghĩ một lát rồi bảo Bính:
- Chị
muốn rời bỏ chốn này lắm phải không? Thôi được, chị chịu khó nấn ná ít lâu nữa
để em thuốc thang cho, khi nào thật khỏe mạnh em sẽ đánh mối giúp chị một người
có thể xé giấy(1) lấy chị, hoặc em sẽ giúp chị số tiền để chị tự xé giấy mà ra
khỏi cái nơi sầu khổ nhục nhã này.
Bính ứa
nước mắt, run rẩy hỏi Hai Liên:
- Nhưng
sao chị không xé giấy cho chị?
Hai Liên
cười nhạt đáp:
- Em
không cần, ở đây quen rồi!
- Chị
thích ở đây?
- Phải,
chị ạ!
Bính
ngạc nhiên hết sức, không hiểu Liên có thực tình giúp mình hay chỉ nói lấy lòng
trong chốc lát. Vì có đời nào một người đàn bà lại chịu mãi được cái cảnh bán
trôn nuôi miệng này.
ý nghĩ
ngờ vực ấy lộ hẳn trên nét mặt Bính, Liên cảm thấy ngay liền bảo Bính:
- Em
không lừa dối chị đâu tuy em thường "khấu bộp" mọi người để lấy tiền.
Chị tính một người hiền lành nhu mì, lại cũng là đàn bà chung một số phận khốn
nạn với em, em làm thế sao đang tâm!
Bính vội
hỏi:
- Nhưng
tiền nào mà chị sẵn thế? Và chị không muốn xa lánh nơi này để lấy chồng rồi
sinh nở mà nhờ chồng con sao?
Nỗi cay
đắng bất tuyệt vì câu hỏi chất phác ấy phút chốc bừng cả lên trong lòng Hai
Liên. Liên bùi ngùi trông Bính, đôi mắt càng long lanh:
- Em chỉ
nhờ thiên hạ thôi.
- Mãi
được ư?
- Hẳn
chứ, cho đến khi hai tay buông xuôi!
Bính toan
hỏi, Hai Liên đã nói luôn:
- Em
chẳng cần gì con cái cả vì như em còn hòng gì sinh nở được nữa. Còn chồng hễ ai
có tiền bước vào nhà này là chồng. Em chỉ yêu tiền, yêu người có tiền thôi! Em
sống là sống được ngày nào hay ngày nấy, đâu như chị đã có một đứa con trai tuy
chị phải xa nó và chị lại còn có thể sinh nở, còn có thể có cái sung sướng với
cảnh xum họp bầu bạn chồng con.
Hai Liên
và Tám Bính đều im lặng, mỗi người một cảm giác tê mê và đau xót.
Hai Liên
tuyệt vọng, nhìn thấy tất cả mọi cái trống trải cằn cỗi của đời mình. Trái lại,
Tám Bính lại hy vọng. May ra Bính sẽ thoát cảnh này và trở về với con làm ăn
xum họp. Bàn tay Bính nóng ran lên giữa bàn tay Hai Liên giá ngắt, run bần bật.
Bính ngây ngất trong lòng. Hai mắt Bính chói rực dưới cặp mắt Hai Liên lờ đờ
như theo tìm một ngày tươi sáng đã qua.
1. Tờ
giấy này có tên tuổi quê quán, và cả hình ảnh cả điểm chỉ của người làm đĩ,
giấy đó có hai bản sao, một ở sở cẩm chính, một ở tay chủ chứa. Ai muốn lấy
người đàn bà đó phải đưa tiền cho chủ chứa để họ rút bản sao trong tay họ, và
dẫn lên cẩm rút bản sao ở sở cẩm ra.
Bỉ Vỏ - Chương 06
Tối nay
các tay "anh chị" họp đủ mặt ở nhà Năm Sài Gòn.
Người
mặc quần lĩnh, áo nhiễu tây trắng cổ bẻ, đi săng đan bốn quai, là Tư-lập-lơ,
trùm chạy vỏ(1) trong chợ Sắt. Anh chàng béo nục, bụng hở trễ ra, gương mặt
vàng ệch, hai cánh tóc vắt qua vành tai và tóc mai dài chấm cằm gọi là để theo
một mốt "phi-lôđốp" là Sáu gáo đồng, cầm đầu các kẻ chuyên môn dắt
díu những "cơm thầy cơm cô" ở vườn hoa Đưa người. Anh chàng gầy, lông
mày lưỡi mác, môi đỏ chót, ngồi bên Tư-lập-lơ là Ba Bay mà khắp tỉnh Hải Phòng
không một sòng bạc không kiềng mặt bởi cái đức tính liều thục mạng và mở bát
bửa.
Còn hai
anh đang lim dim mắt và thỉnh thoảng lại ngáp dài là Chín Hiếc và Mười Khai cùng
một nghề nghiệp với Tư-lập-lơ. Hai chàng nghiện oặt này đứng cai quản các cánh
ăn cắp suốt dọc bến tàu, suốt phố khách, phố đầu cầu và những phố đông đúc
khác.
Hà Nội
thủ đô xứ Bắc Kỳ, một thành phố đầy rẫy sự ăn chơi xa xỉ, đã tạo ra một số gái
mãi dâm nhà nghề không thể đếm xiết, thì Hải Phòng, một hải cảng sầm uất bực
nhất của Đông Dương, một thành phố công nghệ mở mang, với hơn ba mươi nghìn dân
lao động bần cùng ở các tỉnh dồn về, cũng có một đặc điểm là sản xuất được một
số "anh chị" gian ác, liều lĩnh không biết là bao nhiêu.
Cùng Năm
Sài Gòn, năm tướng trên kia làm đại biểu cho tụi "anh chị" càng ngày
càng nhiều, càng hung tợn của đất đồng chua nước mặn nọ.
Nhả xong
khói thuốc phiện, Tư-lập-lơ nhìn thẳng lên trần nhà, nghĩ tới phiên chợ ngày
mai thể nào chả có vài món tiền mà các "tiểu yêu" của hắn sẽ
"hiếc"(1) hay
o O o
1. Hiếc: lần lưng móc túi
"khai"(1)
được. Gối đầu lên đùi hắn, Năm Sài Gòn lơ mơ nhìn khoảng không. Chàng này lúc
nào cũng thế, nét mặt không bao giờ mất vẻ điềm tĩnh tự nhiên. Cứ trông lốt dao
chém sâu lõm từ trán xuống mang tai, người ta cũng đủ hiểu rõ Năm không còn sợ
hãi những cái người ta kinh khiếp.
Sáu gáo
đồng tiêm xong điếu thuốc, nâng giọc tẩu vào tận miệng Năm Sài Gòn mời đi mời
lại. Nhưng Năm không buồn nhấc môi. Hình như bữa nay Năm chán thuốc phiện mà mơ
tưởng một sự say sưa nào khác lạ hơn. Ba Bay liền đón lấy, xin phép Năm. Hắn
rụt hẳn cổ lại, hai vai gầy so lên quá mang tai, lấy gân cổ kéo một hơi dài vọ.
vo... vo...
Tiếng
vo... vo... đều đều vang trong ba gian nhà lá rộng rãi và cao ráo, có cả tủ
đứng, sập quang dầu, giá gương, đỉnh đồng và tranh tàu. Nó khác hẳn những gian
nhà lụp xụp ẩm nhớp, mái thì dột nát, phải che đậy bằng chiếu, bằng vải bao,
bức vách thì lở vữa, ám khói, đầy mạng nhện, giường phản thì thấp hẹp bề bộn
quần áo chăn chiếu, hôi hám rách rưới, những gian nhà cùng ở xóm này của những
gia đình làm ăn vất vả, túng thiếu, họ là những thợ thuyền, phu phen buôn thúng
bán mẹt và thất nghiệp không thể nào mon men lên trên phố đành phải chui rúc ở
cái vùng Chợ con, muỗi, bọ và ao đầm ngập rác này.
Đợi Ba
Bay hút xong, Chín Hiếc giục Sáu gáo đồng tiêm cho hắn một điếu to để hắn lấy
hơi hiến anh em một chuyện rất lý thú. Chuyện thuật sau đây:
o O o
1. Khai: Vắt túi xẻo đẫy.
"Tối
hôm kia, hồi mười giờ, một tiểu yêu của Chín về báo với hắn có một người đàn bà
ở tàu chạy Hồng Gai lên, bế một đứa con nhỏ tuổi. Hai mẹ con chị này sang lắm:
mẹ vận quần lĩnh, áo nhiễu tây nâu, con mặc quần lụa hồng, áo gấm lam, đeo vòng
khánh vàng và khóa xích bạc. Nó hết sức theo dõi nhưng không làm sao đến gần
được vì "bỉ"(1) này "hắc"(2) lắm. Nó còn khoe với hắn cái
"thắt đớm"(3) của chị ta phồng lên một nấc, chắc chắn là nấc bạc
giấy. Lúc bấy giờ người đàn bà đương lò mò tìm nhà quen ở đường Lạc Viên.
"Hắn
tức tốc đi luôn, một lúc thì đuổi kịp người đàn bà. Sương đã xuống, trời tối
mờ. Hắn không rõ mặt người ấy. Mãi sau nhờ ánh đèn điện đằng xa, hắn mới nhận
thấy đôi mắt rất sắc trên gương mặt trái xoan lóng lánh đôi hoa tai vàng. Đường
thật là vắng vẻ. Một chiếc xe tay đi khỏi thì không còn một bóng người khác.
Chín Hiếc vội rút dao ra, nhảy xổ lại bóp cổ dìm người đàn bà xuống đường.
Thằng tiểu yêu theo sau bế ngay đứa bé chạy ra lối ao than. Người đàn bà không
kịp kêu lên một tiếng, Chín đã cắt đứt ruột tượng. Sờ lên đôi hoa tai, hắn
không tháo mà nghiến răng dứt nốt. Hắn lẳn gói bạc vào túi áo trong đoạn lần
khắp người đàn bà. Nhưng không thấy tiền nong gì nữa, hắn bèn rút thắt lưng,
trói nghiến chân tay người ấy lại và lấy mùi soa nhét đầy miệng. Trong chớp mắt
Chín đã đặt người ấy còng queo trong khu vườn hoang bên đường. Hắn
o O o
1. Bỉ: đàn bà con gái.
2. Hắc: cẩn thẩn khôn ngoan.
3. Thắt đớm: thắt lưng.
nói đến
đây cả bọn nhao nhao lên hỏi:
- Có
" tễ bứu"(1) không?
- Bao
nhiêu "thạnh"(2).
Chín
Hiếc so vai cười nhếnh một cái rồi móc ở túi ra 12 tờ giấy bạc một đồng và 10
tờ giấy 5 đồng. Hắn đưa mắt trông một lượt, thong thả nói:
- Trước
hết tôi biếu anh Năm "trách chợm"(3), còn mỗi anh "kẹo
thạnh"(4).
Năm Sài
Gòn cười nhạt:
- Thôi
tôi không cần tiêu lắm, còn chú đương túng thì cứ giữ "trách chợm"
này mà tiêu.
Chín
Hiếc trầm ngâm, mắt hắn vừa thoáng gặp cặp mắt long sòng sọc của Năm.
Hắn vội
nói:
- Anh
không cần nhưng em muốn anh cứ cầm lấy và đây em đưa thêm "chợm
gập"(5) nữa để anh xe pháo.
Tư-lập-lơ
lấm lét chờ Năm nhận nhời mới hất hàm hỏi Chín:
- Thế
"khánh vọt"(6) với "không bẹt"(7) đâu?
Chín
Hiếc vội cười đáp:
- Ấy tôi
suýt quên thằng "vỏ lỏi" (8) bế đứa bé ra ao
o O o
1. Tễ bướu: nhiều tiền.
2. Thạch: đồng.
3. Tránh chợm: một chục.
4. Kẹo thạnh: năm đồng.
5. Chợm gập: mười lăm đồng
6. Vọt: vàng.
7. Không bẹt: khóa vòng bạc.
8. Vỏ lỏi: ăn cắp còn nhỏ
tuổi.
than
chực tháo khánh và vòng xích thì có bốn "so quéo"(1) ở trong ấy đi ra
bắt gặp nó, nó hoảng hốt vội vứt đứa bé xuống một cái hố rồi chạy mất. Một lúc
sau tôi và nó đến thì người đã đến xem đông kín cả đường. Lại thấy cả bóng
"cớm chùng" và "cớm tẩy"(2), tôi phải bấm nó rồi cả hai
"ngũ đị"(3) thẳng.
Ba Bay
liền nhíu đôi mày lưỡi mác nhè nhè hỏi Hiếc:
- Bỉ ấy
có "te"(4) không?
- Te thì
mày làm gì?
- Rõ phí
của!
Cả bọn cười
vang lên. Năm Sài Gòn cũng cười, nhưng nụ cười ở trên cặp môi xám và dày của
hắn có một ý nghĩa khác. Hắn khen thầm Chín Hiếc ra đời chơi kém hắn hàng mười
năm mà đã can trường rồi đấy... Khói thuốc phiện chập chờn bay, Năm Sài Gòn mơ
màng theo làn khói nhẹ nhàng và thơm lừng cuộn lên nóc nhà rồi tản rộng ra. Qua
một cái màn mong manh vương vấn trước mắt, Năm thấy rung động như có người thật
trong những bức tranh nền đỏ cảnh nước Tầu loạn lạc về đời Tam Quốc và đời
Đường, treo trên vách quét vôi trắng kẻ chữ xanh hẳn hoi.
Những
tấm hình đàn bà trần truồng treo hai bên tủ
o O o
1. So quéo: So: thằng, quéo: không thuộc về cánh ăn cắp. Tiếng quéo
còn dùng để chỉ những kẻ ngù ngờ đần độn.
2. Cớm chùng, cớm tẩy: Cớm: tiếng chỉ chung mật thám và đội xếp.
Cớm chùng: mật thám. Cớm cộc: đội xếp. Mật thám tây, đội xếp tây: Cớm tây.
3. Ngũ đị: chạy trốn.
4. Te: đẹp
cũng nổi
rõ thêm. Cả hai lưỡi dao gài ở đầu giường tây buông màn, diềm nhiễu óng ánh,
cũng sáng loáng lên. Năm vơ vẩn nghĩ đến cái tuổi ba mươi hai của mình, cái
cảnh đời không vợ con, không anh em, cha mẹ. Năm nghĩ tới sự sống du đãng hết
ngày ấy sang tháng khác.
Mới ba
mươi hai tuổi mà án tích Năm kê chật một tờ giấy trong sở liêm phóng. Non hai
phần ba đời Năm đã bị cảnh tù tội cướp mất. Năm đã đi đày Côn Lôn 7 năm, ở Khám
lớn Sài Gòn, ở Hỏa lò Hà Nội 2 năm... Năm còn từng làm cai trại(1) trong đề lao
Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Thái Bình, hơn 4 năm. Cuộc đời Năm trải qua
những phen nguy hiểm đã dầy dạn như những lốt dao chém trên mặt, trên lưng và khắp
hai cánh tay Năm.
Giá
người khác thì bị chết tự bao giờ, nhưng hình như số mệnh muốn Năm sống mãi sự
sống gian ác, tàn bạo này nên cho Năm một sức khỏe lạ thường, thêm một sự gan
góc ít ai bì kịp.
Tất cả
đều phiện phò say sưa. Tiếng gãi đùi sồn sột. Tiếng gẩy ghét móng tay kêu tanh
tách. Thuốc phiện và bữa rượu ban chiều đương như lửa hun đốt trong người bọn
Năm Sài Gòn.
Chín
Hiếc khơi mào lè nhè bảo Mười Khai thu xếp cất bàn đèn để còn sang Hạ Lý
"quấy" một đêm.
Sáu cái
xe đã kề tận cửa, sáu tấm xác thịt ngứa ngáy nằm duỗi dài trên xe. Thoáng chốc
xóm Chợ Con - sào
o O o
1. Cai trại: người tù quỷ quyệt sừng sẹo cắt lên trông coi nhưng
tội nhân khác. Nơi nào có cai trại thì là nơi đầy đọa, làm khổ tội nhân hết
sức.
huyệt
của dân "chạy vỏ" và "anh chị" - lúc nhúc dưới ánh sáng đèn
điện vàng mờ bị trại lính khố xanh che khuất. Xe qua phố Đầu Cầu, qua phố Ba
Ty, khỏi cầu Hạ Lý thì dừng lại.
Tức thì
ở trong nhà mụ Tài-sế-cấu để xô ra một lũ gái, vú vê và quần áo phong phanh,
rồi trai nào gái ấy nhún nhảy đi vào.
Thật đủ
thứ tiếng ồn ào: tiếng cười chen tiếng nói, tiếng hát lẫn tiếng bông đùa, pha
thêm tiếng xuýt xoa, chửi rủa và tiếng khóc mà người khóc mắt ráo hoảnh. Hai
Liên bá vai Năm Sài Gòn dìu hắn vào buồng Tám Bính. Y chẹn cửa ngoài xong liền
ôm ngay Chín Hiếc ẩy vào buồng mình. Sáu cánh cửa sập lại cùng một loạt. Người
ta bắt đầu thấy những giọng rền rĩ.
Tám Bính
nghỉ đã nửa tháng nhưng vẫn còn mệt. Vì có lời Hai Liên dặn hễ Năm Sài Gòn đến
thì nên liệu cách tiếp đãi, chuyện trò cho đằm thắm, nếu hắn vừa lòng thì trong
túi có bao nhiêu hắn cũng dốc ra hết. Và Hai Liên còn bảo kín Bính rằng Năm Sài
Gòn phải lòng Bính đấy.
Tám Bính
ngồi dựa lưng vào tấm ván ngăn buồng bên, tay đặt lên ngực Năm. Năm nắm lấy tay
Bính vuốt ve, có lúc đưa lên miệng hôn rất âu yếm.
Gối đầu
trên đùi Tám Bính, Năm Sài Gòn đăm đăm ngắm nghía nhận thấy vẻ mặt Bính vẫn
buồn bã và hốc hác, Năm bèn gạn hỏi:
- Bính
vẫn còn ốm chứ?
Tám Bính
không đáp, chỉ lắc đầu thở dài rồi cúi xuống lờ đờ nhìn Năm.
- Vậy mụ
Tài không cho Bính tiền lấy thuốc sao?
Bính yên
lặng một lúc nữa mới đáp:
- Anh
trông đây này, đã ba tháng nay em vẫn chỉ có cái quần trắng của chị Hai cho,
vẫn cái áo cánh mạng vai cũng lại của chị ấy cho nốt, đến manh quần tấm áo mặc
cho sạch sẽ tươm tất có thể mới đắt khách, mụ còn tiếc rỏ máu mắt không chịu
cho vay tiền may, vậy anh tính em trông hòng gì xin được tiền thuốc tiền men.
- Thế
tiền Bính tiếp khách, Bính để làm gì?
Bính như
không cất được tiếng lên:
- Nào em
có bao giờ để dành được! Vả lại có tiền đâu mà để dành. Tiếp khách xong, họ vừa
bước chân ra khỏi buồng, mụ đã nắn ngay túi em khám xét, bóp nặn, chỉ để cho
tối nào nhiều lắm mới được một hào. Mụ bảo những nào dạo này nhà ế khách, ăn
uống lại tốn hơn, nào em là gái mới nhận về phải lễ hàng chục cho cẩm đội con
gái, nên mụ vay nợ chưa biết đến bao giờ mới giả được. Vì thế lắm khi nhà hết
trầu cau, chị Hai Liên lại phải đưa tiền để em mua cho em và cả u già ăn.
Đến đây,
Bính phải cố cầm nước mắt, nói tiếp:
- Cơ cực
hơn đến tiền đi "phiên"(1) không có cũng lại phải để chị Hai Liên ứng
cho.
- Sao
Bính lại chịu khổ đến thế hở? - Năm Sài Gòn cau mày hỏi.
Tám Bính
vẫn dẽ dàng:
- Nhưng
mà nào có ai thương em đâu. Trong nhà này, trừ chị Hai, còn chị Ba nhớn, Ba
con, chị Tư Thìn, chị Năm Thìn, chị Sáu Huyền, chị Bảy Thanh... hết thảy đều
ghen ghét, tức tối, chăm chăm nhìn xem ai cho em
o O o
1. Tiền đi khám bệnh một tuần lễ hai kỳ tự người đi nộp lấy.
đồng nào
là hót ngay với mụ Tài, tức thì mụ lại tra hỏi khám xét, lại bóp nặn cho ra
tiền mới thôi. Thỉnh thoảng em có than thân và chị Hai có bênh em thì mụ lại
nhắc đến khi em ở "Líp phăng xe"(1) rồi mụ lại kể ơn kể huệ lại kêu
ca "nào nhà ăn uống tốn kém, nào khách khứa ế ẩm" nên em lại chỉ đành
cắn răng mà chịu.
Năm cau
mày thêm:
- Sao
Bính không trốn đi hay ra ngoài kiếm tiền thêm để tiêu. Tội gì mà chịu khổ ải
như thế?
Bính
nghẹn ngào nói:
- Em ra
khỏi nhà một bước cũng chả được, nữa là trốn đi: Mụ Tài để ý tới em luôn và
giao hẳn em cho các chị ấy coi giữ. Mà em có lúc nào rỗi đâu để ra ngoài kiếm
thêm? Gái mới, tiếp nguyên khách ở nhà cũng đủ nhược người, huống chi còn khách
khứa riêng thì đến... vào săng mất.
Bính nức
nở, quay hẳn mặt đi, tránh nhìn ngọn đèn dầu tù mù trong gian buồng âm u mà mỗi
lúc Bính để ý tới thì lại thấy nó như là ma quỷ cứ giữ diệt Bính lại với cái
đời làm đĩ càng ngày càng nhơ nhớp không thể đoạn tuyệt được.
Dưới hai
vai run rẩy của Bính, Năm Sài Gòn bỗng thấy tâm trí lạnh và mềm hẳn đi. Năm
càng đăm đăm nhìn cái gương mặt xanh xao buồn thảm của Bính, trong lòng Năm
càng rào rạt. Thật là một sự lạ, một sự lạ kỳ diệu trong cái đời du thủ du thực
của Năm là còn biết thương, nhất là còn biết yêu! Phải! Năm Sài Gòn có thương
yêu ai bao giờ đâu vì hắn không được một
o O o
1. Dispensaire: nơi giữ và chữa bệnh cho các gái mãi dâm.
ai
thương yêu tới. Bố mẹ hắn chết ngay khi hắn mới lọt lòng. Hắn không có anh em
thân thích nào hết. Bé đi làm con mày con nuôi hết cửa này đến cửa khác. Lớn
lên một chút thì trốn đi ăn đi ở. Rồi lang thang đầu đường cuối chợ, rửa bát,
bổ củi, gánh nước, đội than, chẳng làm ở đâu lâu cả vì công việc thất thường,
tính nết lại ngang ngạnh, ham chơi... Sự sống cô độc và bê tha ấy đã biến đổi
rất mau sớm tâm hồn Năm nên khô khan tàn ác.
Năm nắm
chặt bàn tay Bính, ấp nữa vào ngực mình. Thoáng phút giây, chợt nghĩ đến đời
mình trơ trọi, Năm cảm thấy cần phải có gia đình, cần phải lấy Bính, người đàn
bà đã làm êm đẹp đến nỗi mắt Năm xưa nay không biết cái êm đẹp là thế nào và
làm Năm phải yêu dấu.
Năm hồi
hộp, không thể giữ được, bật tiếng hỏi:
- Tôi
không có cha mẹ, anh em thân thích nào cả, vậy Bính có thuận tôi nói với mụ Tài
cưới Bính không?
Bính
chẳng còn do dự, chẳng cần suy xét Năm là hạng người gì, đời làm vợ Năm rồi sẽ
ra sao, chớp chớp mắt, đáp:
- Em thì
rắp tâm lắm, nhưng còn anh chả biết có thực bụng với em không?
- Sao
lại không thực! Mà em thực bằng lòng chứ?
Bính
không đáp bằng tiếng nói mà chỉ càng siết chặt lấy tay Năm rồi thần mặt ra nhìn
Năm.
Chợt
ngọn đèn lù mù nhảy lên nhảy xuống, nhoi lên một tý ánh sáng vàng đục rồi vụt
tắt. Gian buồng thêm lạnh lẽo, âm u, không khí càng nặng nề đè nén. Cảnh giấc
mơ khủng khiếp hôm xưa lờ mờ bỗng lại hiện ra giữa khoảng tối tăm: một người
đàn bà trơ trọi ở nơi bán trôn nuôi miệng... một xác chết thối rữa trên chiếc
giường mọt gẫy... một cỗ áo quan mỏng mảnh đu đi đu lại dưới chiếc đòn gánh chạy
cót két ra một bãi tha ma. Bính rùng mình vội bưng lấy mặt, nghẹn ngào, lay
người Năm:
- Anh
Năm!... Anh có thực bụng với em không?...
Bỉ Vỏ - Chương 07
Tám Bính
ra khỏi nhà mụ Tài-sế-cấu đã được một tuần lễ. Được thuốc thang và ăn uống tẩm
bổ. Bính tưởng chừng bệnh tình mỗi ngày một bớt đi. Nhưng quái lạ, Bính càng
ngày càng gầy yếu và mệt mỏi, tuy tâm trí tỉnh táo hơn trước nhiều. Thì ra sự
vui sướng chỉ có thể chữa cho tinh thần Bính khỏi buồn rầu, đau đớn thôi, còn
cái thân thể rã rời kia đã bao nhiêu đêm liên miên dùng làm "đồ chơi"
cho mọi hạng người, còn cần phải tỉnh dưỡng và chữa thuốc lâu nữa mới mong lành
mạnh được.
Năm Sài
Gòn băn khoăn lắm. Năm biết vợ thế nên không để vợ mó tay vào việc gì. Hai bữa
cơm, Năm trông nom rất tươm tất. Năm thuê hẳn một người vú già để còn chăm Bính
khi Năm đi vắng. Bính mừng thầm gặp được một người chồng chẳng đẹp mắt nào,
nhưng biết thương yêu vợ thế là quý.
Một buổi
trưa mùa xuân, mưa phùn rào tạt vào búi găng quây lấy góc vườn. Bính hơi nghển
cổ cũng trông thấy rõ cả một cảnh vật ướt át trong mưa bụi. Cách dậu găng độ
vài bước, một khu vườn nhỏ cỏ mọc đầy, lao xao mỗi lần gió thổi giật trên mặt
cỏ xanh um vài đống rác nổi ụn lên. Quanh đó, mấy con gà giò tranh nhau bới. Có
con cố gắng nhảy lên phía trên nhưng vì đuối sức ngã nhào đi, nằm tênh hênh, lộ
hẳn hai bên lườn vàng nẫn thịt.
Chợt
nghĩ đến một đêm khuya đón khách vừa đói vừa mệt cách đây chừng hai tháng, Hai
Liên đem ở cao lâu về cho mình một bát cháo gà nóng, mà Bính ăn chưa bao giờ
thấy ngon đến như thế, Bính lên tiếng gọi người vú già.
Một
người đàn bà thấp bé, quần áo lôi thôi ở dưới bếp chạy lên:
- Cô gọi
gì con?
- U có
biết nấu cháo gà không? Biết, nhà có con gà mới mua đấy, u đun nước làm thịt
nấu cho tôi bát cháo.
Người vú
già đờ mắt ra, rồi như tìm thấy một điều gì quan trọng, vú thấp giọng nói:
- Thưa
cô, cô không ăn được.
- Tại
sao?
- Cụ
lang dặn phải kiêng ạ!
Bính
gắt:
- U biết
tôi ốm thế nào mà bảo cụ lang bắt tôi phải kiêng?
Vú già
lặng ngắt, cố tìm một tiếng thanh thú để chỉ cái bệnh của Bính đương ở thời kỳ
nặng nhất, nhưng nghĩ mãi không ra. Vú ấp úng:
- Bệnh
bệnh... tôi chỉ biết cụ lang bảo cô phải kiêng thôi...
Bính
toan gắt lên hỏi thì vẻ mặt lo lắng một cách khờ khạo của người vú già làm Bính
nhận ra ngay cái ý rụt rè kia. Bính thở dài, rồi run run bảo vú xuống bếp sắc
thuốc. Chờ vú đi khỏi, Bính cúi mặt xuống gối khóc nức nở.
Cái bệnh
tàn hại mà thằng trẻ tuổi khốn nạn đổ cho Bính tưởng đã dứt nọc ngay sau hai
tháng Bính nằm chữa ở nhà thương, ngờ đâu vẫn còn dây dưa đến tận bây giờ! Nó
làm Bính biết bao ê chề đau đớn. Bính muốn gượng dậy để đi đi lại lại cho khuây
khỏa, song cửa mình vẫn còn sưng lên, hai ống chân mỏi nhừ vì xương đầu gối như
sắp bong ra. Đến bữa Bính trông thức ăn ngon lành rõ muốn ăn nhưng khi vừa nhai
khỏi miệng, hơi chua lợ đã đưa ngay lên đầy cổ, nôn không được. Chắc bệnh Bính
càng ngày càng nặng lắm.
Bính đau
xót, chán nản... Bính lại thương nhớ đến con thơ. Và nghĩ đến Hai Liên tuyệt
vọng vì không thể sinh nở được nên đành ở cho đến ngày trọn đời nơi nhơ nhớp,
Bính lại càng tê tái vì nỗi mẹ con phải lìa bỏ nhau mà Bính thấy dù sao cảnh
Bính bệnh tật khổ não ghê khiếp thế nào cũng không thấm với cảnh đen tối mênh
mông của một người đàn bà không thể nào có cái hạnh phúc được làm mẹ.
Vì, dù
nghèo khổ đến như bác Gái bờ đê ở làng Bính mà có đứa con để ôm ấp, bế ẵm thì
nỗi trơ trọi cơ cực sẽ bớt đi nhiều. Suốt ngày mò cua bắt ốc, làm thuê cấy mướn
đầu tắt mặt tối, rồi về chui rúc dưới một túp lều giữa cánh đồng, bác Gái bờ đê
không bao giờ lộ vẻ buồn rầu trên gương mặt đen xạm. Như người khác cùng tuổi
hai ba, hai bốn ấy mà gặp phải cảnh góa bụa, sống lần hồi, đói rét họ đã kêu
ca, oán trách số phận, nhưng đây bác Gái bờ đê vui vẻ như thường. Cứ trông khi
bác ta giơ đứa con nhỏ lên quá đầu, rồi ôm ghì nó vào ngực, rồi hôn hít nó, rồi
cắn véo và mắng yêu nó, thì Bính thấy trên đời như chỉ có mình hai mẹ con bác
ta. Giờ Bính cũng chỉ ao ước được như bác Gái thôi, và trên đời này cũng chỉ
cái hạnh phúc ấy là có thể xóa hẳn những kỷ niệm tàn bạo mà "tham"
Chung, thằng trẻ tuổi, con mụ đàn bà đanh đá, sở Cẩm, nhà Lục xì, mụ
Tài-sế-cấu, những ngày đằng đẵng rã rượi ngủ không ngủ được, đêm đến, hôm đắt
cũng như ế, cứ phải thức đến hai ba giờ để tiếp khách... bao nhiêu xót xa ê chề
đã khắc từng ly từng li trong trí nhớ Bính. Tất cả những ngày tối tăm kia sẽ
mất hết dấu vết trước sự sáng láng tốt tươi của một cảnh đời mẹ con sum họp vui
vẻ.
Một
luồng gió lạnh tung chiếc màn che cửa ùa vào nhà. Bính rùng mình, lờ đờ nhìn
khu vườn một giờ một mờ mịt trong những lớp mưa xám ngắt. Bính vẫn không sao
quên được bệnh tình trầm trọng và cái chết như đang lảng vảng ở đâu đây.
Năm Sài
Gòn bỗng đẩy cánh cửa bước vào. Năm vội đến bên giường Bính:
- Thế
nào, người mình đã dễ chịu nhiều chưa?
Bính lắc
đầu:
- Em vẫn
mệt lắm!
Năm chau
mày:
- Sao
lại thế? Ông lang bốc thuốc thế nào?
- Có lẽ
em chết mất.
Năm gạt
ngay đi:
- Mình
chỉ nghĩ vẩn vơ thôi! Thế nào rồi cũng phải khỏi. Thứ thuốc nào hay mà đắt bao
nhiêu anh cũng mua cho, hoặc có ông lang nào giỏi mà xa đến đâu anh cũng mời.
Mình cứ vững lòng ở anh.
Bính âu
yếm nhìn Năm lúc lâu vừa nắm lấy tay Năm. Sau đó Bính giục Năm ăn cơm kẻo muộn.
Vú già
bưng mâm lên, đặt ở giữa giường. Năm Sài Gòn liền đỡ Bính ngồi dựa lưng vào
chiếc chăn bông để sát mặt tường.
Năm xới
cơm cho Bính trước, đoạn chỉ từng đĩa thức ăn:
- Đây là
thịt nạc làm ruốc, đây giò lụa chả thìa của hàng bác Cao trên chợ Sắt, đĩa xá
xíu này là xá xíu anh mới mua ở hiệu Mỹ Hương phố hàng Cháo về. Canh thịt thì
nhà nấu với hoa hiên.
Năm chan
canh cho Bính xong liền húp hai thìa gật đầu:
- Ngọt
quá! U già đã ở cho khách cao lâu có khác! Kìa mình ăn đi, có chịu ăn mới chóng
khỏe chứ!
Năm gắp
cho Bính từng miếng một, khoanh giò, miếng thịt nào trước khi bỏ vào bát Bính,
Năm cũng giơ lên xem. Còn Bính bát cơm xẻ đi xẻ lại mãi mà không hết. Nhà cơm
nước xong, một ông lang đi xe đến. Năm thân ra mở cửa và đón ông vào tận giường
Bính.
Bỉ Vỏ - Chương 08
Một trưa
dân "chạy vỏ" tụ họp ở nhà Năm Sài Gòn.
Vẫn ngọn
đèn dầu lạc búp măng sáng trong giữa cái khay Nhật Bản viền chỉ vàng, vẫn chiếc
giọc tẩu dài hơn một thước ta bịt bạc và chiếc tẩu đầu hổ ngậm nửa quả cam lên
nước mun đen bóng, nhưng trên giường và ở các ghế chung quanh, ta thấy thêm
nhiều nhân vật mới lạ.
Chín
Hiếc, Mười Khai dắt theo một người hom hem mắt sếch, luôn nhấp nháy tên gọi là
Tư nhấp nháy. Sau lưng Tư-lập-lơ, ba anh vốn chuyên môn "khai"(1),
"mõi"(2) ở chợ Đồng xuân Hà Nội mà Tư mới chiêu tập xuống Cảng để
thêm vây cánh hoành hành khắp chợ Sắt, chợ Con và chợ Lạc Viên. Ba gã này đều
mảnh khảnh, mắt nhìn đều nhanh như chớp, lông mày đều rậm, đuôi nhọn và sếch,
cũng quần đen chùng rộng ống, áo cánh trắng cổ bẻ, và cái tên kép cũng chỉ khác
nhau chữ đầu thôi: Hai Con, Ba Con, Tư Con.
o O o
1. Khai: cắt, xẻo.
2. Mõi: móc, rút.
Còn anh
chàng Ba Bay lúc nào cũng "đi" có một mình vì không có ai dù là dân
"anh chị" dám đánh đu với hắn. Đời thuở nào trong túi không xu nhỏ
nhưng hễ "hồ lỳ"(1) cất mồm "thừa"(2) hàng bạc trăm. Ba Bay
ta cũng thò tay mở bát liền. Được thì lấy, thua thì hắn thủng thẳng rút dao
giắt ở bên đùi ra gạt nợ. Đã lắm phen gặp phải "hồ lỳ" và con bạc
sừng sẹo, hai bên xô xát nhau, nhưng rút cục cái liều thụt mạng của Ba vẫn
chiếm phần thắng. Người cuối cùng trong bọn là một gã trẻ tuổi ngồi ở góc tường
gần Sáu gáo đồng, đương nghển cổ trừng trừng nhìn vào mặt Năm Sài Gòn. Ý chừng
hắn thèm cái hân hạnh được mặt đầy những lốt dao chém và cái đời "anh
chị" độc nhất của Năm hay sao nên mắt hắn cứ long lên. Hắn mới cắt máu ăn
thề dạo tháng trước, và nhận cái danh hiệu "Ba trâu lăn" của anh em
tặng.
Bỗng tất
cả im lặng, Chín Hiếc đương chực kéo một hơi thuốc lào cũng phải buông xe điếu
xuống chiếu nghe Tư-lập-lơ nói:
- Anh em
ơi! Nguy đến nơi rồi!
Năm Sài
Gòn mỉm cười:
- Nguy
ra sao?
Giọng
nói khinh thường ấy không đủ dẹp được sự lo lắng của Tư-lập-lơ, hắn thong thả
bảo Năm:
- Anh không
lo, nhưng chúng tôi lo, bây giờ "cớm"(3) nó "trõm"(4) ghê
lắm.
o O o
1. Hồ lỳ: người tính toán
tiền ở chiếu bạc.
2. Thừa: gọi khách đánh.
3. Cớm: mật thám, đội xếp.
4. Trõm: rình mò truy nã.
Ba trâu
lăn, Ba Bay nhao nhao lên hỏi:
- Trõm
ai, trõm aỉ
Tư-lập-lơ
lắc đầu tránh Chín Hiếc:
- Chỉ
tại mày thôi, trêu ngay vào cái của "hóc búa" ấy rồi để khó khăn cho
anh em.
Chín
Hiếc chực cãi, Tư-lập-lơ đã nói át đi.
- Người
đàn bà mất tiền ấy là vợ một cớm chùng(1) ở Hồng Gai mới đổi về đây, không biết
"tiểu yêu" của mày làm ăn ra sao để đến nỗi thằng bé rơi xuống hố,
đập cả sống mũi, vào nhà thương được năm hôm thì chết.
Không
một vẻ cảm động trên mười mấy khuôn mặt đen xạm, Năm Sài Gòn chậm rãi nói:
- Nó
chết thì bố mẹ nó chôn, việc gì mình phải lo.
Ba trâu
lăn và Ba Bay đồng thanh:
- Đúng
đấy!
Tư-lập-lơ
mặt đỏ bừng, muốn đá thốc cho hai thằng này mấy cái, nhưng có Năm ngồi đấy, hắn
phải cố nuốt sự uất ức.
- Các
anh thì việc gì, bình chân như vại, chỉ khổ riêng cho cánh chúng tôi thôi. Hai
tháng nay tôi không được một xu nhỏ. Tôi bãi hẳn các "tiểu yêu" vì
chung quanh và trong chợ lúc nào cũng có mật thám, phụ mật thám, đội xếp đi
lại. May mà tháng trước tôi nhờ người nói lót lão đội Lễ nửa tá sâm banh và hai
trăm trứng gà ngày cưới vợ bé của lão, chứ không "cớm"(2) và
"phụ cớm"(3) nể gì mà không "tôm"(4) tôi.
o O o
1. Cớm chùng: mật thám.
2. Cớm: mật thám, đội xếp.
3. Phụ cớm: phụ mật thám.
4. Tôm: bắt.
Tư-lập-lơ
ngừng lại một giây, uống chén chè tàu tự rót đoạn nói luôn:
- Mà anh
Năm ạ, chúng lại rục rịch bắt hết những "yêu"(1) quen mặt ở phố
Khách, phố Đầu Cầu, phố Ba Ty, những cánh chơi ở ngõ Trần Đông, Lạc Viên và An
Dương, những sòng bạc ở Cấm và ở Vẻn, và cấm hẳn những cơm thầy, cơm cô tụ họp
ở vườn hoa Đưa người. Nếu như thế này anh em mình đến phải kéo cánh lên Hà Nội
hay về Nam, chứ ở đây thì tù dắt nút mất.
Năm Sài
Gòn hất hàm:
- Ai bảo
chú chạy đồ lễ cho "cớm". Sao chú hèn thế?
Tư-lập-lơ
chưa kịp đáp. Chín Hiếc nhìn Tư-lập-lơ càu nhàu:
- Mấy
tháng này khó dễ là bởi tại đâu chứ nào phải tại tao mà mày gieo cho nhiều điều
tiếng thế?
Ba Bay
xen nhời:
- Trách
Chín Hiếc làm gì? Tao đây trần như dộng mà vẫn phải cắn răng chịu nữa là.
Sáu gáo
đồng chêm vào:
- Cả tôi
cũng "kện" sạch "bướu"(2) mà cũng đành phải bó tay!
Chớp
chớp mắt, Tư-lập-lơ trông mọi người; vẫn dẽ dàng nói:
- Thế
này mới lại khổ chứ, mới quái ác chứ! Tháng trước đây trong đề lao Hải Phòng ở
"trại áo đen"(3) có
o O o
1. Yêu: kẻ cắp lâu năm, sành
sỏi và can án nhiều lần. Còn có hạng "yêu tạ". Hạng này đã trải qua
nhiều lần tù nữa, nhiều lần đâm chém người nữa.
2. Kện sạch bướu: hết cả
tiền.
3. Trại áo đen: trại giam
những người chưa thành án.
một
"so phụ cớm" bị giam vì làm tiền một người. Cai trại ấy vốn dòng dõi
"yêu đạo" liền nhắn ngay người đi làm "cỏ vê" kiếm cho mấy
thẻ hương để hành tội so phụ cớm kia. Các anh có biết hắn hành bằng cách gì
không?
Để mấy
người ngơ ngác, Tư-lập-lơ nhăn mặt cười, tự trả lời:
- Một sự
hành hạ chắc chưa từng thấy ở thế gian này, các anh ạ. Cai trại hắn chờ một tối
thứ bảy các cửa khóa đâu đấy, liền thắp ba nén hương cắm lên nắp thùng phân nằm
cuối trại, và sai một "tiểu yêu" giải chiếu, một tiểu yêu lôi người
"so phụ cớm" đến. Hắn bắt, "so" nọ lạy cái bàn thờ ấy ba
lạy. Lạy đoạn, hắn bắt quỳ thẳng lên rồi dõng dạc đọc từng tội một của
"so" cho cả hàng trại nghe: nào vì "so" vụ mất trộm đồ thờ
ở đền Cấm vỡ lở, nào vì "so" cánh "chạy" trong làng Vẻn bị
bắt không còn sót một mống, thằng nào thằng ấy bị "xăng-tan" dừ tử,
nào vì "so" ba sòng sóc đĩa của dân "yêu" bẹp tai ở Lạc
Viên và hai sòng trạc sếch ở phố Khách bị phá. Cai trại kể tội xong, một
"yêu" khác nhảy xuống chiếu đóng vai Chánh án bệ vệ tuyên án. Tên
"phụ cớm" này phải nói to lên nhận từng tội của mình, phải quỳ lạy
thùng phân thêm ba lạy nữa, rồi phải tự xúc lấy một bát phân mà ăn cho mọi
người xem, nếu không "tòa" chỉ sai phí một người chịu 15 ngày sà lim,
cùm hai chân, ăn cơm nhạt để đền vào cái mạng người dám trái lệnh tòa. "So
phụ cớm" run không được, mặt tái mét, đánh nhắm mắt nuốt.. cho cả trại tù
reo vỗ tay cười. Việc ấy lọt ra ngoài nên ngày nay dân "cớm" quyết
bắt kỳ hết dân "yêu vỏ".
Tư-lập-lơ
kể xong, Năm Sài Gòn cười váng lên. Năm chợt nhớ lại năm xưa trong hỏa lò Hà
Nội và trong khám lớn Sài Gòn, Năm cũng sai trả thù hai "phụ cớm" như
thế. Tiếng cười của Năm chưa dứt, những giọng cười ròn rã khác thi nhau ran
lên.
- Hả!
Hả! Phụ mẫu ạ!
- Ít
quá! Bắt nó ăn ít quá. "Thâm bo" (1) cũng còn là nhẹ tội.
Một gã
đứng phắt lên:
- Vì còn
thiếu vài chai rượu "bia" nữa.
Lại một
dịp cười ran lên với những tiếng đập bàn, đập chiếu làm rung chuyển cả nhà.
Chợt Tám Bính đẩy cửa bước vào. Năm Sài Gòn liền hất hàm giới thiệu với mọi
người:
- Nhà
tôi đấy các chú ạ!
Ba trâu
lăn trố mắt nhìn. Hắn cố nhớ xem đã gặp Bính lần nào chưa mà trông Bính quen
quá.
- Chị
trước ở nhà mụ Tài-sế-cấu phải không anh Năm?
Năm Sài
Gòn cười, gật đầu. Ba trâu lăn hỏi luôn:
- Anh
cưới về đã bao lâu mà chị đã bưng trống thế kia?
Năm sung
sướng:
- Bét
dịp(2) rồi.
Thấy
hàng chục cặp mắt tinh quái nhìn trõ vào mặt mình, hai má Bính nóng lên, Bính
vội đi vào buồng. Tuy ngả lưng xuống giường, nhưng Bính vẫn lắng tai nghe bên
ngoài chuyện trò và bàn tán.
Ba Con
nắm tay Chín Hiếc hỏi:
o O o
1. Thâm bo: ba bát
2. Bét dịp: tám tháng
- Vậy
làm khó dễ cho anh em vì cả anh vào trong đề lao, anh nghĩ sao bây giờ?
Chín
Hiếc quắc mắt lườm:
- Anh
lôi thôi quá! "Cớm" canh gác riết thế này mình cứ "làm
tiền" mới can trường chứ. Tôi thật lấy làm lạ: lúc chia năm chia bảy,
chẳng ai trách tôi, mà ngày nay xảy ra cơ sự này, các anh lại trút cả lên đầu
tôi thì còn giời đất nào nữa!
Ba trâu
lăn về hùn với Chín:
- Bất quá
chúng ta nghỉ "chơi" độ dăm tháng cho đỡ nhọc xác, vậy càng hay. Có
một tý thế mà cũng rối beng cả lên, chả trông anh Năm, nước đến chân vẫn cứ như
thường.
Một
người đáp:
- Anh
Năm khác!.. Chúng mình khác!..
Ba trâu
lăn cười mũi:
- Anh
Năm khác; các anh khác, vì các anh sợ bị bắt, sợ chết chứ gì!
Tức thì
Ba Bay phanh ngực nói to:
- Như
tôi đây gầy còm thế này cũng có thể chịu nổi vài nhát dao chém, vài trận đòn
"xăng tan", vài tháng tù, huống chi các anh béo khỏe như vâm ấy mà sợ
thì lạ thật!
Tư-lập-lơ
hừ một tiếng:
- Mình
để cho người ta chém tức là mình kém, mình chém người ta rồi ngồi tù mới giỏi
chứ, và mình sả cả "cớm" mới can trường hơn. Nội bọn ta đây, tôi dám
hỏi rằng ai là tay chơi, ai can trường, quyết bênh vực anh em mà thì cho
"cớm" vài nhát nào?
Năm Sài
Gòn nóng sôi người lên, nghiến răng, nắm chặt bàn tay đập mạnh một cái xuống
giường, làm rung chuyển cả chân niễng:
- Chú
muốn thịt ai?
- Đội
"cớm" Minh, "cớm chùng" Hiếu và các thằng xếp Bảy mề đay
anh lạ gì còn phải hỏi (?!).
Năm đã
đỏ tía mắt lên, vùng dậy rút lưỡi dao sáng loáng cài trên đình màn xuống, xăm
xăm chực đi. Bính chạy xổ ra, run cầm cập, ôm chặt lấy Năm, ríu lưỡi kêu:
- Đừng
hung tợn thế!.. Em van mình! Đừng hung tợn thế!.. Em van mình!... Em van
mình!...
Năm gỡ
tay Bính, mắt sáng quắc, long lên, miệng sùi bọt mép:
- Mặc
tôi! Mặc tôi!
- Em lạy
mình đấy! Thương em chứ!
Năm toan
gạt Bính ra bên nhưng Bính nằm lăn ra đất và giữ lấy ống quần Năm khóc nức nở.
Năm vội cúi xuống, ẵm bổng Bính đặt lên giường, thì Bính vòng hai tay qua nách,
túm chặt lấy áo Năm:
- Em lạy
mình! Đừng hung tợn thế! Em van mình! Mình thương em! Giời ơi!..
Mấy giọt
nước mắt của Bính qua lần lụa mỏng thấm vào da thịt Năm Sài Gòn. Một cảm giác
ghê lạ chuyển khắp người Năm khi bụng Bính ép vào lưng Năm. Hắn ngoái cổ trông
lại. Mắt long lanh vừa gặp mắt Bính chan hòa, Năm Sài Gòn cực chẳng đã thở hồng
hộc ngồi xuống giường:
- Ừ, thì
mình cứ buông tôi ra.
- Để
mình đi à?
- Không,
tôi không đi đâu, mình đừng sợ.
Năm vừa
ngừng nói, Ba trâu lăn tiến đến giằng lấy dao:
- Thôi
anh Năm ở nhà cho tôi mượn con "đoàn"(1) này để tôi thay anh sả chúng
cho.
Hơn mười
con mắt sáng ngời đổ dồn vào Ba. Riêng Tám Bính kinh ngạc.
... Đêm
khuya rồi, Bính muốn chợp mắt ngủ, song không được. Tâm trí Bính cứ phải liên
miên nghĩ tới những sự xảy ra ban ngày mà Bính thấy có thể lại làm tan nát cả
đời Bính và đẩy Bính vào một quãng đời lại khốn nạn vô cùng. Khắp xóm Chợ con
đều im lặng trong khoảng đêm thu sao thưa. Thỉnh thoảng vài tiếng rao hàng uể
oải của người bán bánh cuốn nóng phào lên rồi khi tiếng rao im lìm, không khí
lại vắng vẻ nặng nề hơn.
Bính đưa
mắt trông ra ngoài đường. Dưới cột đèn ở trước nhà Bính, một người xe gác càng
xe lên bệ xi măng, dựa lưng vào hòm xe ngủ li bì. Cách đấy vài bước, một người
ăn mày nằm co quắp trên chiếc chiếu rách mướp. Bính chỉ nhận ra là một người,
không ra là đàn ông hay đàn bà, và cái đống thịt ấy đương ngủ say hay còn trằn
trọc trong bóng tối của những nỗi đói rét khổ sở. Cách đấy không xa, trên mặt
đường lù lù những đống rác bẩn. Mấy con chuột rúc rích kéo nhau đến sục sạo tìm
thức ăn.
Bính rợn
cả người. Không khi nào vùng quê Bính lại có một cảnh vật thê thảm như thế!
Cũng vắng lặng, cũng tối tăm, nhưng cái vắng lặng tối tăm khoáng đãng khác hẳn
cái vắng lặng lù mù bẩn thỉu này. Bính liền so sánh cảnh ở nhà mụ Tài ván gỗ ám
khói, ánh đèn
o O o
1. Đoàn: dao to dao nhỏ: Bút
lù mù,
phản mọt, chiếu giải không bao giờ khô ráo ngay ngắn, gối vàng mồ hôi với cảnh
anh phu xe ngồi rũ rượi, người ăn mày co rúm ở xó hè ri ri tiếng, muỗi và đống
rác cao ngất này, Bính thấy đều tanh tởm, nhơ nhớp như nhau. Thì ra từ khi đi
khỏi chốn quê hương đồng ruộng bát ngát đến giờ chẳng lúc nào Bính không ghê sợ
vì cảnh vật chung quanh mình. Bất giác, Bính quay nhìn Năm Sài Gòn nằm ngủ bên
cạnh. Nhờ ánh đèn vặn to, Bính nhận rõ từng nét mặt Năm. Năm đen cháy, cằm
bạnh, xạm râu, hai mắt sếch, mé trên mắt bên phải vẹt hẳn một nửa lông mày dưới
vết dao chém sâu hõm. Trên má Năm, trên trán Năm, mấy cái sẹo nữa chằng chịt
như những vết rạn của chiếc vại sành. Cứ khuôn mặt ấy mà người khác đoán thì
Năm sẽ mất hết tính người.
Bính lắc
đầu, thở dài... Bính ngạc nhiên cho cách đối đãi lạ lùng của Năm đã săn sóc
Bính từng miếng cơm, từng hớp thuốc, suốt mấy tháng ròng, Bính nằm liệt giường
liệt chiếu. Nhất là mấy tháng nay Bính có mang, Năm càng nâng nhắc chiều
chuộng. Năm mời hết thầy lang nọ đến thầy lang kia, tốn kém đã nhiều mà cứ luôn
luôn hỏi Bính: "Mình nghe trong người thế nào? Ăn uống có biết ngon
không?"
Trước
kia Bính đinh ninh rằng Bính chỉ là một người chịu ơn Năm thôi, nhưng bây giờ
Bính mới rõ Bính hoàn toàn là vợ Năm, yêu thương Năm thấm thía. Tuy thế Bính
vẫn lo sợ cho sự sống của Năm.
Nhất là
mấy hôm nay sự thực càng mở to mắt Bính ra: Năm càng không phải là một người
Bính có thể khuyên nhủ dần dần trở về làm ăn lương thiện. Năm đứng đầu hẳn
những du côn anh chị nhất.
Năm làm
trùm cả ăn cắp. Năm là một hạng người mà hết thảy mọi người tử tế xa lánh, ghê
sợ.
Bính đau
xót quá! Lúc Bính kiếm được miếng ăn thì thân thể bị giày vò. Lúc gặp bước an
nhàn thì lương tâm bị cắn rứt vì mình sung sướng mà người khác thiệt thòi, khổ
sở. Nhưng Bính có thể bỏ nhà mụ Tài-sế-cấu theo Năm, chứ bỏ Năm để đi tìm cảnh
vui tươi khác, Bính thật không sao có can đảm. Tấm lòng tốt chan chứa yêu
thương của Năm sẽ giữ nàng ở với Năm cho tới ngày trọn đời.
Bính
nghẹn ngào quay mặt đi, không dám nhìn Năm nữa. Bính bối rối và tưởng đến sau
khi sinh nở mẹ tròn con vuông, đứa bé một ngày một khôn lớn, cả hai mẹ con vẫn
đều nuôi nấng bởi những của phi nghĩa mà ngưòi bị thiệt hại nguyền rủa thâu đêm
suốt sáng kẻ chiếm đoạt, Bính càng choáng váng. Bính cúi chằm xuống gối. Trong
tâm trí Bính lại hiện ra nhiều hình ảnh quái gở. Gió thổi ào ào bỗng vẳng lên
những tiếng kêu ca oán trách, rủa sả, Bính vội lắc đầu xua đuổi. Nhưng những
tiếng kêu rên rõ ràng hơn, day dứt từng miếng thịt Bính ra.
- Giê
su! Lạy Chúa con!..
Cánh cửa
ngoài sịch động. Bính hoảng hốt thêm, tưởng có ai sắp đến bắt mình, Bính run
rẩy vội nắm lấy tay Năm, chực lay gọi thì Năm đã cất tiếng cười, cười sặc sụa,
cười đổ hồi. Hắn đương mơ màng vùng vẫy trong một giấc mơ đỏ rực, hai tay hoa
hai lưỡi dao nhọn đẫm máu người.
Bỉ Vỏ - Chương 09
Mấy hôm
nay vắng mặt Năm Sài Gòn ở nhà. Bính không biết chồng đi đâu, ở đâu để đi tìm,
và Bính cũng không ngờ chồng đã bị bắt đương ủ rũ trong đề lao Hải Phòng.
Tin Năm
Sài Gòn "nhỡ" (1) làm nôn nao cả dân "chạy" Hải Phòng như
cái tin Ba trâu lăn chém sả vai một người mật thám và vụ cướp đường cách đây
tám tháng vẫn chưa tìm ra thủ phạm.
Ở trong
một ngõ hẻm trước "vườn hoa Đưa người" mấy đứa trẻ xúm lại chung quanh
Chín Hiếc. Một thằng đội chiếc mũ dạ bẹp dúm hếch lên tận đỉnh đầu và một thằng
đương xóc xách mấy đồng xu trong túi quần thâm cạp trắng, nhăn nhở xoa xoa cằm
Chín Hiếc hỏi:
- Anh
Chín! Ai bắt anh Năm đấy?
Chín
nghiêm mặt không đáp. Hắn đương phải nghĩ những cách đối phó với các
"cớm" thì một thằng bé ít tuổi nhất mặc bộ quần áo bằng vải nội hóa
kẻ dòng dọc đen và xanh, ghé ngay miệng vào tai Chín:
- Hừ!
Làm phách ghê! Ai bắt anh Năm, và Ba trâu lăn trốn ở đâu, phải nói mau, không
đây chỉ nghiến một cái thì tai "đi tây" béng nào.
- Chín
Hiếc hắt bắn nó đi "Nhờn với chúng mày đấy! Ông lại bớp cho mỗi đưa một
cái bây giờ!".
Chín nói
đoạn, Mười Khai dẫn Ba Bay, Tư-lập-lơ,
o O o
1. Nhỡ: bị tù.
Ba Con,
Hai Con, và Tư con đến giục chàng cùng lại nhà Năm để báo tin cho Tám Bính
biết. Chín Hiếc ngần ngại bảo mọi người:
- Ý tôi
muốn chúng ta đừng lại vì chắc bây giờ "cớm chùng" đương
"trõm" riết nhà Năm, nếu lại thế nào cũng lôi thôi.
Tư-lập-lơ
cười:
- Thế
thì mày tệ lắm, tao chắc mày sợ chị Năm "khấu bó"(1) tiền nong nên
mày gàn chúng tao chứ gì?
Ba Bay
tiếp lời:
- Mà
Chín ạ, mày nói thế không sợ còn có lúc gặp anh Năm sao? Tao bảo thật, nếu khi
anh ấy ra, có đứa nào "đẩy cây" anh ấy câu chuyện này thì mày sẽ hết
làm anh, hết sống cũng nên. Vả lại anh ấy đối đãi với anh em như bát nước đầy,
thằng nào "đét"(2) thì lại nhà anh ấy "mổ chạc" (3) hàng
tháng, thằng nào tù anh ấy mua quà bánh và cả "ken nếp"(4) cậy cục
gửi vào, tao thiết tưởng nếu không vì mày anh ấy chẳng việc gì cả. Ăn ở như mày
thật quá ma bùn.
Một lúc
sau, cả bọn cùng kéo nhau xuống Chợ con. Bính đương nằm rũ trên giường, chợt
thấy cửa mở vội chạy ra, suýt nữa xô phải Ba Bay:
- Kìa
chú Ba! Kìa các chú!
- Chào
chị!
Bính
chực xách ấm ra hàng lấy nước uống nhưng Ba
o O o
1. Khấu bó: nhờ vả.
2. Đét: không ăn cắp được,
túng bấn.
3. Mổ chạo: ăn nhờ.
4. Ken nếp: thuốc phiện
Bay ngăn
lại:
- Thôi
chị mặc chúng tôi, và chị ngồi xuống ghế đây, tôi cho chị biết cái tin này.
- Chị ạ,
anh Năm bị nhỡ rồi.
Bính tái
mặt, ríu lưỡi nhắc:
- Nhà
tôi bị...tù?
- Vâng!
Từ hôm kia kia!
Bính run
không được, phải bíu lấy cột giường mới đứng vững.
- Chị
đừng lo, chả chóng thì chày, anh ấy sẽ ra.
- Nhưng
nhà tôi bị bắt vì việc gì cơ?
Ba Bay
đưa mắt nhìn Chín Hiếc rồi trả lời:
- Anh bị
bắt tình nghi về vụ Ao than...
- Nhưng
không việc gì đâu chị ạ.
- Chết
tôi rồi!
- Không,
chị cứ vững tâm. Anh không lấy tiền, không đâm người, và đàn em nó nhận hết, dự
thẩm xét xong thế nào cũng tha ra.
Tư-lập-lơ
tiếp lời Ba Bay:
- Chị cứ
yên tâm. Anh chỉ bị giam vài tháng là cùng.
Bính nức
nở, dứt xé hết vạt áo. Tư-lập-lơ cau mày:
- Không
lâu đâu, như một giấc ngủ ngày thôi. Chị đừng lo lắng quá! Chúng tôi không bao
giờ để chị thiếu thốn đâu. Chúng tôi cắt nhau thu tiền "bồi" (1) cho
chị như khi anh Năm ở nhà vậy.
Hắn lấy
ra ba tờ giấy bạc một đồng đưa vào tay Bính, hất hàm hỏi Mười Khai:
- Còn
tiền "bồi" của mày đâu?
o O o
1. Tiền bồi: tiền ăn cắp của
bọn ăn cắp trích nộp đàn anh.
Mười
Khai nhanh nhẹn đặt trên bàn hai đồng bạc hào.
Bính
ngạc nhiên, ngước mắt hỏi Tư-lập-lơ và Mười Khai:
- Tiền
này của nhà tôi gửi cho tôi?
Tư-lập-lơ
cười đáp:
- Chị
thật thà quá! Đấy là tiền tôi bắt những "vỏ lỏi"(1) nộp khi chúng làm
được tiền đấy.
Bính còn
ngờ ngợ nhưng chợt hiểu ra nghĩa những tiếng trên kia bèn vội vàng đưa giả:
- Không,
cám ơn anh em, tôi không túng đâu, anh em cầm lấy mà tiêu.
Dứt lời
Bính lại bưng mặt khóc. Mọi người bấm nhau đứng dậy về. Còn món tiền năm đồng
Tư-lập-lơ xếp cẩn thận để trên giường, và, khi gần ra khỏi cửa, Tư còn ngoái
lại dặn với Bính đến thứ tư này Tư sẽ mượn người làm giấy xin phép cho Bính đưa
quà vào thăm Năm.
Chúng đi
khỏi, tuy biết mở cửa toang, nhưng Bính chẳng cần đứng dậy khép lại. Bính nằm
rũ trên giường, choáng váng nghĩ đến những sự nguy khốn sẽ còn xảy ra cho Năm
và cho mình. Chỉ vài ba tháng nữa thôi, Bính sẽ đẻ mà Năm vẫn bị giam cầm lúc
đó Bính biết xử trí ra sao? Và bây giờ Bính biết chạy chọt kêu cầu ai để gỡ nạn
cho Năm? Bính không thể nương nhờ tụi bạn của chồng được. Tiền của chúng, Bính
ghê rợn như lưỡi gươm sắc vấy máu, Bính không bao giờ dám nhìn, không bao giờ
dám cầm.
Tâm trí
Bính đã tơi bời như mớ bông trước cơn gió lốc. Bính chợt nhớ tới tình cảnh sinh
đẻ ở quê hương cách đây mới hơn một năm.
o O o
1. Vỏ lỏi: ăn cắp bé con.
Trong
một đêm cuối tháng tối mịt, Bính phải vịn vai mẹ, theo một con đường hẹp quanh co
ven ruộng ngập nước. Bụng dưới Bính đau quặn tựa hồ bị ai cầm lấy ruột soắn
chặt. Chân tay Bính rã rời. Mắt hoa lên. Tai ù hẳn đi. Đầu nặng trĩu. Bính đành
ngồi xếp xuống bờ cỏ ướt, ngất đi. Đến lúc tỉnh dậy, đưa mắt nhìn chung quanh
thì Bính không thể nhận ra đây là nhà nào trong làng. Trời như một cửa hang sâu
thẳm. Gian buồng Bính nằm không có lấy một vệt sáng đèn.
Mẹ Bính
ngồi bên lẩm bẩm những câu nói nhỏ, với một người lạ mặt. Hình như hai bên hơi
nặng tiếng với nhau, mặc cả với nhau, Bính còn nhớ rõ:
- Nếu
những ba đồng thì tôi bỏ "nó" lại cho bà.
Người
kia cười nhạt:
- Càng
hay, tôi chỉ đem "nó" trình làng bà sẽ biết.
- Tôi
thách đấy.
- Không
thế thì chả cần thách tôi cũng trình làng.
Trong
bóng tối lạnh lẽo và khó thở, Bính như thấy cặp mắt long lên của nhà mụ đỡ đưa
nhìn mẹ Bính và Bính. Rồi vài phút sau, tiếng khóc oe oe ở nhà dưới đưa lên,
Bính sực nhớ mình đã đẻ. Bính muốn xem mặt con mà không dám. Hàng giờ sau, mẹ
Bính mới bế đứa bé ném phịch vào lòng Bính vừa thúc giục:
- Bế bố
mày về đi thôi.
Câu nói
đay nghiến ấy không đủ lấn được nỗi vui mừng của Bính. Bính đặt tay lên cái mẩu
thịt thây lẩy ở giữa hai bắp đùi đứa bé kêu khẽ:
- Ồ, con
giai!
Mẹ Bính
nghiến răng:
- Thôi
con đĩ! Con giai hay con gái, bố mẹ mày cũng chỉ là phải chịu cái nợ. Chỉ bêu
riếu cho bà!
Chẳng để
Bính uống kịp hụm nước cho đỡ khát, mẹ Bính lôi Bính dậy, kéo ra ngoài sân.
Nhưng
lần này Bính đi quãng đường khác, quanh theo rặng tre cao vút rào rào gần bờ
sông. Bính ôm chặt con vào ngực, bước từng bước. Hai chân Bính chỉ chực khuỵu
xuống, người Bính rét run không được. Bính phải cắn chặt răng lại. Mẹ Bính hậm
hực đi kèm bên, thỉnh thoảng lại gờm gờm trông vào mặt con Bính làm Bính sởn cả
thịt. Tới khi sắp đến nhà, mẹ Bính ghé tận tai Bính dằn từng tiếng nói:
- Thôi
"con" đã giả xong cái nghĩa với "mẹ", lo liệu cho
"mẹ" được mẹ tròn con vuông. Giờ "mẹ" phải giữ cho bố trẻ
"mẹ" be bé cái mồm không có lại trách "con" đấy.
Nghĩ tới
đây Bính thở dài:
- Lần
này ta đẻ nhưng rồi có được ôm con nuôi không?
Bính
gượng ngồi dậy, chực với ấm nước rót uống thì thấy ngay ba tờ giấy bạc và hai
đồng bạc hào trên bàn. Bính lắc đầu:- Chết thì chết, cũng không động đến những
tiền này.
Như mê
man, Bính vùng bước xuống đất, kiễng chân hạ những quần áo trên mắc xem có cái
nào còn mới không. Thấy toàn là bằng vải đã cũ, Bính lại trèo lên giường mở
tung nắp hòm lục tìm. Một chiếc thắt lưng lụa, một cặp áo the, một chiếc quần
nái mới tinh. Bính vuốt thắt lưng thật phẳng, rũ sạch bột long não ở các nếp
cặp áo the đi, và lấy bàn tay là bốn năm lượt hai ống quần nái. Đoạn, Bính thừ
người ra, lờ đờ nhìn.
Ấnh nắng
vàng tươi và trong suốt của một ngày thu ấm đương lùa vào đầy nhà. Mắt Bính vụt
như hoa lên với bao nhiêu hình ảnh hiển hiện. Dưới bóng cụm chuối xanh phấp
phới, gần con đường nhỏ lượn giữa thửa ruộng dưới trời lơ biếc ở đằng xa, Bính
thấy từ từ nổi lên một bóng dáng nhẹ nhõm, da dẻ hồng hào, tươi cười, hớn hở,
và một chiếc đòn gánh dẻo đang nhún nhảy nhịp cùng những bước chân thoăn thoắt,
những cánh tay mềm mại vung tà áo nâu ra trước gió. Đó là hình ảnh của Bính,
người con gái chất phác chỉ biết có đua đòi các chị em đi các chợ xa gần, cái
hình ảnh tươi thắm cách đây không bao xa.
Một tia
hy vọng bỗng thoáng chiếu vào tâm trí Bính như làn chớp vụt xé vùng trời mờ
tối. Bằng sự lần hồi buôn bán tần tảo ở các chợ xa rồi đây Bính sẽ nuôi được
đứa con sắp đẻ, sẽ nuôi Năm để Năm khỏi làm điều gian ác, dần dà Bính trở về
quê chuộc đứa con đầu lòng đày ải kia, và giúp đỡ cha mẹ gây dựng cho hai em.
Bính
thẫn thờ. Nắng chói vào mặt Bính mà Bính không biết.
Bỉ Vỏ - Chương 10
Bính bày
hàng bên một gốc xoan. Ở bờ hè hãy còn nắng, nhưng người mua đã vắng. Chợ Vườn
hoa sông Lấp chỉ còn vài hàng quà bánh, rau đậu, gạo muối, cá thịt..
Bính gọi
một người đàn bà quét chợ bảo đem cho một liễn nước máy. Bính nhúng ướt vuông
khăn tay con và té nước ra để rửa mặt. Sáng nay Bính dậy sớm quá, vội xẩy gạo
rồi đi chợ ngay chẳng kịp lau qua mặt mũi. Một bạn hàng riễu Bính:
- Bận
rộn đến thế nào mà bây giờ phải chải chuốt vội như thế?
Bính
ngẩng đầu cười không nói gì, Bính vén những sợi tóc dính bết ở má và trán lên,
nắn lại khăn vấn, khăn vuông. Gương mặt Bính sáng hẳn lên, ửng hồng, lông mi
đen và cong thêm.
Người
bạn hàng nọ vừa ngừng tiếng cười, một người đàn bà khác quài tay vuốt lưng
Bính:
- Phải
đấy, gọn ghẽ và tươi như hoa thế này mời ai mà chả đắt nhời!
Bính
lặng không đáp vì chợt nhận ra có một bà cụ già đương chăm chú nhìn mình, Bính
đăm đăm nhìn lại rồi chạy đến, rụt rè hỏi:
- Thưa
cụ, cụ là người bến Sòi ở Nam Định ta phải không?
Bà cụ
ngờ ngợ gật đầu:
- Phải,
mà cô là cô Bính con ông lái Thìn?
Bính
mừng rỡ, mời bà cụ lại hàng mình, nhường cái ghế con cho bà cụ ngồi và gọi hàng
trầu nước đến. Bà cụ đón lấy miếng trầu, móm mém nhai và hỏi Bính:
- Cô ra
ngoài này bao lâu rồi nhỉ?
- Thưa
cụ được một năm.
- Buôn
bán có khá không?
- Cũng
kiếm được đồng rau đồng mắm ạ.
Bính dần
gợi chuyện nhà và trong làng. Bà cụ kể cho Bính nghe đủ mọi điều. Ngay hôm Bính
đi, khắp thôn khắp xóm ai cũng đặt điều đặt tiếng cho nàng. Khán Tốt em con nhà
chú phó lý Thưởng, hỏi Bính không được, dám xưng xưng nói với các cụ và cha xứ
rằng Bính chửa hoang đẻ xong sợ làng ngả vạ nên vứt đứa bé rồi trốn đi. Chính
Khán Tốt trông thấy Bính đem con ra sông bỏ rồi đáp đò đêm ông lái Chuyên lên
Nam Định.
Cụ quệt
vôi ăn kèm thêm với mấy sợi thuốc lào, hỏi Bính:
- Vậy có
thật thế không cô?
Bính
lặng giây phút rồi ngập ngừng:
- Thôi
thì có Chúa cả, con biết nói sao!
- Ừ, tôi
đã biết mà, cô xưa nay vẫn là người ngoan đạo, cha xứ cũng phải nhận thế, chắc
chả dám làm sự quái gở chước mốc ấy đâu. Nhưng sao cô lại bỏ nhà đi?
Bính bối
rối hết sức, cố gắng mãi mới nên nhời:
- Cụ còn
lạ gì trong làng buôn bán khó khăn nên con theo ngưòi bà con họ ngoại ra đây
làm ăn vì tiếng thế ngoài này còn dễ dãi, con đi một buổi chợ không phải phiên
chính cũng còn kiếm được vài ba hào.
- Được
vài ba hào cơ?
Thấy bà
cụ mở to mắt nhìn mình, Bính càng dịu lời:
- Vâng.
Ấy là con chả có dấn vốn nhiều như người ta.
- Thế
thì ngoài tỉnh vẫn còn sung sướng lắm. Ở quê ta dạo này làm ăn càng vất vả, cả
ngày lấm mặt lấm mũi chắc đã được dăm xu chưa. À này cô Bính bao giờ cô về với
ông bà để ông bà lo liệu cho chứ.
Bính sầm
nét mặt, xót thương cho thân phận. Có cha mẹ mà cha mẹ dửng dưng không thèm
nhìn nhận, thật chẳng còn chút tình nghĩa. Bính ứa nước mắt nhưng cố trấn tĩnh,
tìm câu trả lời:
- Thưa
cụ, thầy mẹ con vẫn gửi thư giục con về đấy, song con ở đây đã quen, buôn bán
có đồng ra đồng vào nên con trù tính kiếm được cái vốn sang năm hay bao giờ qua
được cái lúc khó khăn rồi con hãy về.
- Phải
đấy! Cô ở đây là hơn. Dạo này lão thư ký Vân anh khán Tốt lên làm lý trưởng, nó
hay kiếm chuyện lắm. Cô mà về, thế nào nó cũng làm rắc rối. Mấy lại ông cụ bà
cụ dạo tháng năm năm nay đong nhiều thóc lắm, đến bốn chục thùng ấy, gặp kỳ gạo
kém này cụ đem ra bán lại lãi không một đi ba ấy à, mát mặt rồi cô đừng lo!
Bà cụ
lại khoe bố mẹ Bính mới tậu thêm hai sào vườn và nuôi thêm được đôi lợn, cái đò
cũ đã bán đi lấy tiền mua nhiêu, ông bà giờ ở nhà làm say sáo.
Bính tê
mê ngồi nghe. Bính thấy bao nhiêu sự vui sướng hả hê của bố mẹ. Với món tiền
bán con Bính, bố mẹ Bính còn làm ăn sinh sôi nảy nở, trong khi Bính ngày càng
héo hắt trong lòng.
- Thưa
cụ, hai em con được cho ăn đi học đấy chứ?
Bà cụ
sửng sốt:
- Đâu
nào? Ai bảo cô vậy? Lạ thật. Thằng Cun thì ông bà cho ông Lý Xuân nuôi để cắt
cỏ chăn trâu tập làm ruộng, vụ mùa năm nay thì ông bà cấy rẽ ruộng nhà phó
Thưởng đấy. Còn cái Cút nghe đâu tháng trước chết về bệnh tả. Thế cô chưa biết
tin hay sao?
Bính thở
dài:
- Khổ
thật! Thế mà hôm con gặp bác ỏn ở cuối xóm, bác ấy lại bảo con như thế đấy.
Bà cụ an
ủi Bính, kể nốt:
- Mà dạo
ấy trong làng chết nhiều người lắm, giàu có như ông phó Thưởng cũng lăn cổ chết
sau cơn đau bụng đi ngoài.
Nói xong
cụ trầm ngâm như đương nhìn thấy một hình ảnh gì ở trước mắt, cụ thấp giọng:
- Ý bề
trên thật khó mà chống lại được cô nhỉ.
Bính đã
lo lắng, vội hỏi bà cụ:
- Còn bà
phó Thưởng thế nào?
- Bà
Thưởng ấy à? Bà ta không ở làng nữa cô ạ. Bà ta sang Lào ở với người em ruột
làm gì bên ấy giàu có lắm mà người này cũng phải cái tội hiếm hoi.
Bính
luống cuống:
- Cả mấy
đứa con riêng của bà ấy cũng sang chứ?
- Phải!
Tất cả mấy mẹ con. Tôi chắc chuyến này bà ta đi không về làng nữa. Ruộng vườn
bán cả lại cho lý Vân.
Bính tái
mặt đi, sự đau đớn lại ran lên trong lòng Bính dần dần như kết thành khối, vít
chặt lấy cổ họng. Thế là hy vọng về quê chuộc con, nuôi con, săn sóc em, Bính
chẳng còn dám mơ tưởng tới. Cái làng gần bến Sòi kia Bính cũng khó mà trở lại.
Chưa nhắc đến tên nó, Bính đã bao nhiêu cay đắng, huống chi lại về trước những
dấu vết buồn thảm của các kỷ niệm xưa.
Bà cụ
ngồi nói chuyện đã lâu mà tàu về Nam sắp chạy, cụ tần ngần chào Bính để ra tàu.
Bính vội đếm năm hào, buộc kỹ lưỡng, khẩn khoản nhờ cụ đưa cho thằng Cun và dặn
nó chớ bép xép nói với ai rằng Bính ở ngoài này, độ giờ sang năm Bính sẽ về
chơi.
Bính thờ
thẫn nom theo bà cụ cho tới khi bà mất hút giữa đám ngưòi đi lại bụi mù thì
Bính gục mặt vào lòng, giụi giụi mắt vào cánh tay áo. Đến bây giờ nước mắt Bính
mới ứa ra, thoáng chốc đầm đìa cả làn vải nâu non đã bạc. Bính xót xa, cố gợi
hình ảnh đứa con bé trong tâm trí, song cái khuôn mặt trứng nước và cái vệt
chàm giống hình con thạch sùng bò và vết lẹm trên mí mắt đã lờ mờ càng mờ mịt
thêm. Hơn năm trời ròng rã Bính đã phải xa con, đã làm nhòa hết mọi nét mọi vẻ
của đứa bé. Và sau đây, cả tấm tình âu yếm người mẹ xấu số của đứa con khốn nạn
chẳng biết mặt bố đẻ là ai kia cũng không còn gì nữa.
Bính nức
lên một tiếng, lặng đi.
Một
người bạn đến lay Bính, thấy mắt Bính đỏ hoe, người ấy ái ngại:
- Kìa mợ
làm sao thế?
Bính
không đáp, nước mắt càng ràn rụa. Người ấy chép miệng:
- Mợ lại
buồn vì cảnh chồng con chứ gì? Thôi, tội gì buồn bã cho ốm thân, cứ vui vẻ mà
buôn bán mợ ạ.
- À mà
bác giai nhà ta làm gì mà mợ sắp ở cữ cũng phải đi chợ thế?
Bính
ngập ngừng toan không trả lời, song thấy vẻ mặt hiền lành của người bạn hàng, Bính
chấm nước mắt nói:
- Nhà
cháu chẳng may bị bắt giam đã hơn một tháng nên cháu mới đi chợ.
- Làm
sao thế?
- Khổ
quá! Tự nhiên nhà cháu bỏ nhà đi bẵng mấy hôm mãi có người báo tin cháu mới
biết rằng bị bắt tình nghi về cái vụ chém người gì ấy...
- Bác ở
đâu? Tên bác giai là gì thế?
Bính
sượng sùng:
- Nhà
cháu ở Chợ con.. nhà cháu là Năm.
- Năm!
có phải Năm Sài Gòn không? Mợ mới lấy hay lấy đã lâu? Lấy làm lẽ à?
Bính
nghẹn ngào không đáp.
Người
bạn hàng chăm chú nhìn Bính rồi lắc đầu:
- Tôi ái
ngại cho người nhẹ nhàng phúc hậu như mợ mà gặp phải. Nhưng.. thôi cũng tại
duyên kiếp cả, ở đời ai tránh khỏi số giời?!
Bính tê
tái nghe. Bính hiểu hết cả ý thương hại và ghê sợ trong câu nói ngập ngừng nọ.
Bính cúi hẳn đầu. Hai hàng nước mắt ròng xuống thềm xi măng ướt át. Người đàn
bà im lặng một lúc dò la ý tứ, sau ngọt ngào hỏi Bính:
- Tôi
hỏi thật cái này mợ đừng giận nhé, nếu bác ấy bị dăm bảy năm tù và mợ sinh nở
mẹ tròn con vuông, liệu mợ có ở vậy nuôi con cho đến lúc bác ấy ra không?
Bính mím
môi, càng nghẹn cả người:
- Bà bảo
chả ở vậy nuôi con chờ chồng thì cháu làm gì?
Người
bạn hàng cười:
- Tôi
chịu mợ là người thủy chung nhất đời bây giờ đấy. Như người ta có chút nhan
sắc, lại biết buôn bán mà lâm phải bước này họ đã bỏ thẳng tay đi lấy một ngưòi
chồng khác tử tế để nương tựa trông cậy mãi mãi chứ chẳng tội gì?
- Vâng,
thưa bà cháu còn biết hơn thế nữa, thế mà cháu cứ phải gắn bó, thật là chua xót
cho cháu. Nhưng dù sao cháu cũng phải cắn răng chịu, vì chả ra gì vợ chồng ăn ở
với nhau đã sắp có con, nếu bỏ chồng lúc này thì còn mặt mũi nào?
Người
đàn bà về hàng mình, tâm trí nao nao. Còn Bính chạy lại đằng cuối chợ mua bánh
kẹo và cân giò để chiều mai cùng Tư-lập-lơ vào đề lao thăm Năm Sài Gòn.
Thu xếp
thúng mủng, tính tiền nong xong, Bính gồng quang gánh không về nhà.
Nắng đã
xế bóng. Giời của một buổi chiều mùa đông ấm áp, rực rỡ. Giời cao và sáng, mây
trắng như bông, như tuyết trôi về một phía xa xa.
Trên bờ
hè, dưới rặng xoan lao xao phấp phới, phu phen thợ thuyền đã về tầm. Những
chiếc mũ dạ lấm láp hắt ánh nắng và bụi. Những nón lá vàng rực lên. Những lồng
ngực bóng nhẫy phơi ra giữa những tà áo vải thô nhuộm xanh. Những ống quần láng
cộc nổi gọn trên những bắp chân tròn trĩnh bám đầy mạt than và cát lấm tấm như
vụn bạc. Những bao gạo lấm láp quấn đằng trước theo nhịp chân hắt ra những làn
bụi nhảy múa. Giữa đám người cười nói và chuyện trò ầm ĩ, tiếng guốc nện vang
trong tiếng nô đùa hồn nhiên, giữa những hình thể nhuộm sắc trời chiều tươi
sáng ấy, Bính đi thong thả ở mé đường. Bính thẫn thờ trông con đường giải nhựa
trắng xóa, mỗi lần gió thổi mạnh lại lầm cát bụi, và chua xót nghĩ đến sự khốn
nạn của đời mình.
Bính
bỗng ngẩn mặt ra và không còn sức nhấc nổi bước: Hai cánh cổng sắt cao và dày
sơn chạt hắc ín của đề lao Hải Phòng lù lù hiện trước mặt Bính. Bính thấy ngực
lạnh dợi hẳn đi và choáng váng cả mặt.
- Anh
Năm! Mình ơi! Mình ơi!..
Dừng lại, Bính lặng nhìn, không muốn dứt đi.
Bỉ Vỏ - Chương 11
Bính
nghẹn ngào, sự vui mừng sôi nổi làm mặt Bính bừng bừng. Hình như Bính sắp cuồng
lên vì sung sướng.
Ở tòa án
ra, Năm Sài Gòn báo tin cho Bính chắc chắn Năm được tha bổng nhưng Năm còn phải
về đề lao lấy quần áo ký kho và bóc số tù.
Bính qua
lại không biết bao nhiêu lượt và không một giây nào rời nhìn hai cánh cửa sắt
đen kịt đóng chặt.
Còi xe
hỏa đã rít vang. Chuyến Hà Nội Hải Phòng 10 giờ đã về. Bính càng bồn chồn, sau
cùng, không thể nén được, Bính chạy sang, ghé mắt vào cái lỗ bằng đồng xu trên
cánh cửa đề lao vừa thở vừa hỏi người lính gác:
- Thưa
ông, Năm... Năm Sài Gòn sắp ra chưa?
Một
giọng ồ ồ quát:
- Của
nỡm nào đấy? Ai biết Năm Sài Gòn, Sáu Hà Nội nào mà hỏi. Có xéo ngay... không
xếp nó lại "xạc" người ta bây giờ.
Bính năn
nỉ:
- Cháu
van ông, ông làm ơn xem giúp cháu những người vừa đi tòa về được trắng án đã
sắp ra chưa?
Người
lính càng hoảng sợ "tây" bắt được mình nói chuyện với người ngoài,
liền mắng tát thêm vào mặt Bính:
- Cái mả
mẹ chị, có cút ngay đi không. Người ta đã bảo không biết mà còn léo nhéo mãi.
Bính tím
mặt lại, phải về chỗ cũ dưới gốc bàng trên hè, đứng chờ. Cánh cửa chợt hé mở,
Năm Sài Gòn chưa kịp bước xuống đường, Bính đã vội chạy đến nắm chặt lấy tay:
- Anh
Năm! Anh Năm! Mình ơi!
Rồi Bính
ứa nước mắt khóc khiến Năm phì cười:
- Mình
trẻ con quá, chùi ngay nước mắt đi!
Chẳng để
ý đến chung quanh nhìn mình chằm chặp, Bính cứ luống cuống, xoắn xuýt bên Năm.
Ngay một lúc Bính muốn nói hết những sự xảy ra trong ba tháng phải xa cách Năm,
song nhời nọ chen nhời kia không thành câu gì cả. Năm ái ngại.
- Thì
mình nói chậm chứ, nào có ai cướp mất nhời đâu!
Bính vẫn
cứ hổn hển hỏi chuyện Năm, những tình cảnh Năm ở trong đề lao và kể sự tình của
mình ở bên ngoài. Những khi phải ngừng nói thì Bính lại nhìn vào Năm. Chợt Năm
Sài Gòn hỏi Bính:
- Mình
đẻ thế nào?
Bính
lặng một lúc mới cất được tiếng;
- Con
chết rồi!
- Con
chết rồi?
- Mà con
giai mình ạ.
- Thằng
"lỏi" à?
- Phải,
thế có đau đớn không?
Năm bứt
rứt một cách lạ thường, lặng đi một lúc rồi lắc đầu:
- Thôi!
Chẳng may chết con này thì rồi đẻ con khác. Mình đừng buồn phiền quá.
Bính lại
thấy tâm trí tối tăm rời rã, Bính thẫn thờ đi bên Năm không nói nữa.
Về đến
nhà Bính gieo mình xuống giường, còn Năm ngồi cạnh Bính, cau mày đưa mắt trông
bốn phía nhà:
- Ô kìa!
Cái diềm màn đỏ đâu rồi?
- Tôi
cất nó trong ngăn kéo ấy.
- Hai
cái móc bằng sừng và hai cái dây tua lụa mình cũng cất đi ư?
- Phải.
Thấy
cách bày biện trong nhà hoàn toàn thay đổi; bàn rửa mặt kê ở cuối giường đã
dịch lại tận góc nhà, cái gương soi to và hộp xà phòng thơm cũng không có đấy,
bộ ghế mây mới mua Bính để chiếc ở gần cửa xuống bếp, chiếc gần cửa ra vào, Năm
sẵng tiếng:
- Sao đồ
đạc lại thế này? Và lạ quá những khung ảnh, những tranh tàu mình vứt xó nào cả
rồi?
Bính
chưa kịp trả lời, Năm hỏi luôn:
- Và
thúng mủng quang gánh ở đâu mình tha lôi về bừa bộn chật cả nhà thế này?
Bính
ngồi dậy:
Tôi đi buôn bán thì đừng có thúng mủng à, còn
đồ đạc thu gọn vào để lấy chỗ xếp gạo nước.
- Nhưng
những tranh treo trên tường có bận rộn gì mà mình cũng tháo cả đi?
- Chả
cất đi thì mình bảo để làm gì? Tôi vui sướng lắm sao mà ngắm tranh ảnh? Chồng
bị tù con chết, nghĩ chừng nào chết ruột từng ấy.
Năm ngẫm
nghĩ một lúc rồi nói:
- Thế
chúng nó không thu tiền "bồi" cho mình à?
- Không!
Tôi không dính líu với họ một đồng nào vì tôi có thể chợ búa buôi thân cơ mà.
- Mình
chịu khó nhọc được ư?
- Sao
lại không! Mình hỏi lạ quá!
Chờ Năm
uống chén nước, Bính nhìn Năm và hỏi rất dịu dàng:
- Em rắp
tâm chờ mình ra để nói với mình xoay cho em ít tiền làm vốn buôn bán vợ chồng
nuôi nhau vậy mình có bằng lòng không?
- Chết!
Tôi lại để mình nuôi thì thà đâm đầu xuống sông cho rảnh kiếp.
- Không,
em muốn mình đừng như thế nữa, khổ bao nhiêu em cũng vui lòng chịu cơ mà.
Năm xua
tay:
- Anh
không ưng thế. Thúng mủng này xem có ai xin thì cho quách đi, anh chẳng thích
mình buôn bán gì hết.
- Ơ kìa!
Năm trợn
mắt:
- Anh
nói mình phải nghe.
Bính thở
dài. Bính không thể can ngăn được Năm vì Năm cứng lòng quá. Một người tàn bạo
ngoại hai mươi năm sống về nghề ăn cắp, bạn bè với toàn hạng du đãng, Bính đến
hết trông mong kéo lại con đường sáng sủa. Bính buồn rầu ngước mắt nhìn Năm.
Năm lạnh
lùng đứng dậy lôi cái bồ ở xó nhà ra, lấy những tranh ảnh phủi sạch bụi bậm rồi
treo lên tường. Ẩnh một người đàn bà trần truồng tắm ở bên hồ treo giữa hai bức
tranh "Tam anh chiến Lã Bố" và "Bàng Đức đại chiến Quan
Công". Một đôi tranh truyện Thủy hử hồi Võ Tòng đánh hồ và hồi đánh Chúc
gia trang ở hai bên cửa ra vào. Còn bức ảnh Năm Sài Gòn chụp bán thân, mình
trần với một đôi rồng trổ lấy ngực, treo chính giữa.
Thấy Năm
sắp sửa đến chỗ thúng mủng của mình, Bính vội xếp đưa xuống bếp. Năm liền cười:
- Phải
đấy, đem thổi tuốt đi cho rảnh chuyện.
Một lúc
sau, khi Bính trở lên nhà, Năm hỏi:
- Bây
giờ mình coi có đẹp mắt không?
Bính
phải vâng và tươi nét mặt cho vừa lòng Năm. Rồi khi Bính toan đi làm cơm chiều,
Năm ngăn lại hỏi:
- Mình
còn đồng nào không?
- Còn
hai đồng thôi. Nhưng mình muốn tiêu gì để em vay thêm.
Năm khen
"tốt lắm" giục Bính thay quần áo, chải chuốt xong, hai vợ chồng gọi
xe kéo sang phố hàng Cháo.
Chợt
thấy Tư-lập-lơ đằng đầu phố Khách, Năm đập chân xuống sàn xe bảo đỗ lại và che
tay gọi. Tư-lập-lơ cuống quít chạy lại vỗ vai Năm:
- Anh
"phóng" bao giờ thế?
- Ban
trưa Tư ạ.
- Anh
định đi đâu bây giờ?
Năm Sài
Gòn trỏ một hiệu cao lâu hỏi Tư:
- Vào
đây chứ còn đi đâu. Chú có đói thì vào "mổ" cho vui.
Tư đưa
mắt nhìn bên kia đường rồi kéo tay Năm vào một hàng nước trước cửa hàng Năm
định vào ăn.
Ngồi
xuống ghế đâu đấy, Năm gọi lấy hai đĩa mì và một bát vằn thắn. Trong khi chờ
đợi đầu bếp làm. Tư bảo khẽ Năm:
- Anh
Năm! "So quéo" đương "mổ" ở "hậu đớm" "tễ
bướu" lắm đấy(1).
Năm mỉm
cười:
o O o
1. Thằng khờ đương ăn ở sau
lưng nhiều tiền lắm đấy.
- Chú
"hiếc" được rồi à?
- Chưa!
"cá" nó để ở "đắm thượng" áo ba-đờ-suy khó "mõi"
lắm!(1)
Năm hơi
chau mày:
- Sao
chú biết "tễ bướu"?
- Tiểu
yêu nó báo với tôi chính "so" này vừa mới nhận được "khươm chợm
thanh"(2) của người cai hàng cá và tôi đương "trõm" thì gặp anh.
Hầu sáng
đã bưng thức ăn trên bàn người kia và bàn Năm, Bính chửa biết xẻ đĩa nào, Tư
liền bảo nàng:
- Chị
thích ăn thứ nào thì xẻ thứ ấy, chúng tôi còn uống rượu cơ. Mà chị đừng
"nhé"(3) sang bàn bên kia nó "sửng"(4) thì hỏng bét.
Bính gật
đầu xẻ mì vào bát Năm trước rồi đến bát mình. Bính chực và. Năm giơ tay ngăn,
rót nửa chén rượu ép Bính uống. Hết hai cút, Tư-lập-lơ bảo lấy thêm nửa chai mà
lần này Năm cho Bính một chén thật đầy. Bính chối từ thế nào, Năm cũng không
nghe, sau cùng Bính đỏ mặt, nhăn cả mặt mũi tợp một hơi gần hết.
Trước
cái dáng điệu ngộ nghĩnh ấy, Năm và Tư phá lên cười, Bính cũng cười theo.
Rượu
nồng bắt đầu rạo rực khắp người Bính. Trước Bính còn e thẹn, sau Bính bừng bừng
cả mặt, trong người đê mê, bứt rứt, chưa bao giờ như thế.
o O o
1. Chưa. Ví tiền nó để ở túi
áo trên ba-đờ-suy khó móc lắm.
2. 90 đồng
3. Nhé: nhìn
4. Sửng: giật mình. Còn tiếng
sửng tươi: biết ngay, Sửng mòng: hơi biết
Bính
long lanh nhìn Năm, Năm càng say sưa nhìn lại. Chợt Bính đưa mắt trông người có
ví tiền và cười nụ với Tư-lập-lơ. Bính không còn chút trạnh nghĩ gì đến người
nọ như ban nãy thoạt nghe Tư nói thì tưởng ngay tới sự đau đớn khi người ta bị
thiệt mạng và run sợ vì cái việc làm xấu của mình. Bính hồi hộp ngồi chờ xem
cái kết quả rủi ít may nhiều của công việc chồng và bạn chồng.
Thốt
nhiên Tư cười bảo Bính:
- Kìa
chị, thế này mà chị dám khoe một mình nhà chị có thôi.
Hắn vừa
nói vừa kéo Bính đến chỗ người có ví tiền ngồi, trỏ một bức tranh treo trên tường:
- Đấy,
cũng chim, cũng hổ, cũng cây cổ thụ, cũng là "anh hùng tương ngộ" như
của nhà chị chứ gì?
Năm Sài
Gòn chạy lại hỏi:
- Đâu
nào? Nhấc ra cho tôi xem tí nào.
Nhanh
như cắt, Tư-lập-lơ đứng lùi về đằng sau chừa lối cho Năm bước vào. Cái
ba-đờ-suy vắt trên ghế bị Tư che lấp đi... Tinh mắt đến đâu người kia cũng
không thể nom thấy ngón tay trỏ và ngón tay giữa của Năm thoắt thò vào cái túi
áo ấy. Chỉ trong chớp mắt và êm như không, chiếc ví dày cộp đã chuyển sang tay
trái Năm rồi nằm gọn trong túi... Bính.
Người
kia vẫn cúi đầu đưa thìa cháo lên ăn.
Cả ba về
chỗ cũ, Tư bấm Năm:
-
"Chuỗn"!(1)
Năm
nhếch mép:
o O o
1. Chuỗn: chạy đi nơi khác
-
"Diễn sưa"(1) đã, vội gì.
Trống
ngực Bính đập mạnh, Bính khẽ trách chồng:
-
"Sưa" với "sừa" gì nữa!
Dứt lời,
Bính bàng hoàng bước vội ra cửa trước, mặc Năm còn nán lại mua thêm gói thuốc
lá thơm. Trời đã tối hẳn, qua những quãng trống ở rặng xoan tây, Bính thấy lờ
mờ nhung nhúc những bóng người trên đường bên kia sông Lấp. Một lúc lâu, đèn
điện đã bật lên, nhưng cái ánh sáng vàng đục chẳng đủ sức vén lên màn bóng tối
phủ lấy cảnh vật nhộn nhịp, ồn ào nọ.
Bỉ Vỏ - Chương 12
Thằng
Sẹo so vai, cong bàn tay phải, ngón tay cái để vào lỗ mũi, phì phì nói:
- Tao
lạy mày cả nón thôi!
- Mày
vẫn không tin à?
- Có
giời tin được!
Thằng
Minh văng tục, nói:
- Chị
Tám Bính là bà mày hay sao mà mày phải bênh bà chầm chập lấy?
Sẹo cười
mũi:
- Ừ thì
là bà tao, đã chết ai chưa? Và tao bênh bà tao thì đã làm sao?
- Giời
ơi! Rõ ràng chúng tao nom thấy chị ấy "làm
o O o
1. Diễn sưa: uống rượu say.
tiền",
chúng tao nói thật mày cũng không tin!
Dứt lời
Minh hăm hở chạy đến gốc xoan gần đấy, lôi tay một thằng bé chừng bằng chạc nó,
nhưng quần áo rách rưới hơn, tóc cứng đen nháy cụp xuống che kín cả gáy và tai:
- Đây
Hiếu, hôm kia mày trông thấy những gì mày nói cho thằng Sẹo nghe, chứ ông không
hơi đâu cãi với nó cho tổn thọ.
Hiếu
liền nhe bộ răng đầy bựa, hóm hỉnh cười:
-
"Bỉ" Bính "hắc" lắm!
Thằng
Sẹo méo miệng nhìn, Hiếu vỗ vai nó nói:
- Mày cứ
ngồi xuống hè đây rồi tao nói cho mà nghe.
Sẹo ngồi
xệp trên vỉa hè, hai cánh tay choàng lấy Minh và Hiếu, chăm chú nghe Hiếu nói.
Ngày hôm
kia, Hiếu và Minh đương phất phơ ngoài phố, chợt thấy một người đàn bà xách một
bị nặng ở một cửa hàng vải bước ra. Chắc chắn cái bị nọ đựng ít ra cũng bạc
chục nếu toàn tiền trinh, còn toàn hào hay "xanh xăng"(1) thì món
tiền nhiều không thể tính xiết được. Chúng vội bấm nhau, cả hai đứa cùng theo
sau người đàn bà. Nhưng, khi tới vườn hoa Đưa người, chúng gặp ngay Năm Sài Gòn
và Tám Bính từ nhà Hát đi lại. Không biết cặp mắt Năm tinh đến chừng nào mà
thoáng liếc qua cái bị đậy kín, Năm đã ra hiệu bảo chúng phải
"chuỗn".
Minh bực
tức ngắt lời:
- Sẹo!
Mày tính thế có ức nhau không?
Sẹo cau
mày, gật đầu, rồi giục Hiếu kể nốt.
o O o
1. Xanh xăng: đồng tiền trị giá năm xu.
Chúng nó
bất đắc dĩ phải rẽ sang vườn hoa song vẫn để ý xem Năm Sài Gòn "làm
tiền". Thốt nhiên người đàn bà dừng bước, Tám Bính sán đến bên, Năm Sài
Gòn khẩn khoản đổi cái giấy bạc hai chục, các tám xu. Người đàn bà đặt ngay bị
xuống đất.
Sẹo nhịn
không được cười phá lên:
- Thế
thì "mẻ béng"(1) còn gì!
Minh
đáp:
- Phải
bàn!
Hiếu
chêm một câu:
- Mà Tám
Bính "siên"(2) mới thần tình chứ.
Vừa nói
Hiếu vừa bắt chước những cử chỉ của Bính ngồi bên cái bị tiền. Mắt nó cũng đưa
nhìn sáng loáng, mồm nó cũng hỏi những câu không đâu, hai ngón tay cũng nhẹ nhẹ
đưa vào cái mũ phớt bóp bẹp giả làm bị tiền. Nó lại còn làm ra một vẻ mặt rất
bình tĩnh để nhắc lại vẻ mặt Tám Bính khi chuyền nhanh như chớp những cọc hào
sang lòng Năm. Hiếu chuyên môn ăn cắp, nên các cử chỉ của Bính nó diễn lại một
cách khéo léo tự nhiên vô cùng làm Sẹo phải tròn mắt kêu lên:
- Tám
Bính "dựa nhẩu"(3) đến thế cơ à?
Minh hất
hàm cười:
- Ấy
chết. Bà mày có biết "làm tiền" tí nào đâu.
Mất hết
cả ngờ vực, thằng Sẹo gật gù:
- Khoái
đấy! Thích đấy!
Nó rất
sung sướng được thấy một người đàn bà thùy
o O o
1. Mẻ béng: mất ngay
2. Siên: lấy đi
3. Dựa nhẩu: lấy nhanh
mị như
thế sa ngã. Nó coi như là sự an ủi cho cái số phận khốn nạn của nó. Nó vui vẻ
cất tiếng:
- Chúng
mày nhỉ "bỉ" ấy dễ lắm, tốt lắm, thế nào những lúc "đét"(1)
chúng ta chả "trách phõ"(2) được tý tỉnh.
Thằng
Minh nhiều tuổi hơn Sẹo, thấy nó cả tin như thế vội bĩu môi:
- Đấy
mày xem, Tám Bính lại như chị Tư Khuyên dạo trước thôi!
Sẹo ngơ
ngác:
- Tư
Khuyên nào?
Minh
không đáp. Nó chua chát nhớ tới năm nó 12 tuổi, cách đây đã bốn năm, và những
ngày mùa đông rét mướt, buồn bã. Hai hôm ròng, nó không có lấy một hột cơm vào
bụng. Cái đói đã hùa với rét mà nghiến rứt nó, làm nó mờ cả mắt, rã rời cả chân
tay. Những tia mưa phùn cứ nhè mặt nó tới tấp sỉa vào. Đã thế chiếc áo cánh
mướp của nó, mỗi lần gió bấc thổi, lại tốc lên, đón lấy cái lạnh tê buốt. Nó
dựa lưng vào một góc tường, lờ ngờ trông những kẻ qua lại ngoài đường, để tìm
một người bộ hành nhiều tiền và vô ý.
Nhưng nó
thất vọng. Ai ai cũng co ro, hai tay thủ túi cho dẫu túi không. Xe nào cũng
buông mui kín mít dù trong xe không có một người.
Chợt,
một xe nhà đỗ gần chỗ nó ngồi.
Hai
người đàn bà trong xe bước xuống, để lại trên đệm xe một gói đồ to xụ. Hai bà
chủ vừa đi khỏi, anh xe tót ngay vào hàng nước. Một lúc lâu, rồi anh xe vẫn
o O o
1. Đét: túng thiếu
2. Trách phõ: xin nhờ vả
sòng sọc
hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, trong khi ngoài đường vẫn vắng lạnh
dưới những lớp mưa rào rạt.
Thằng
Minh vội hết sức rón rén vòng đến sau xe. Anh xe vừa hất hàm nhìn lên khói
thuốc tỏa, nó bê liền gói đồ, lủi dần vào ngõ gần đấy.
Nhưng nó
lại thất vọng, và lần này sự thất vọng và tủi cực lên không biết tới mực nào.
Nước mắt nó chảy ra giàn dụa, nó chỉ còn sức thở nấc lên mấy tiếng rồi lịm hẳn đi.
Chị Tư Khuyên không hiểu ở đâu lại xin khéo ngay nó cái gói kia, cướp trốc tay
nó cái gói đựng bao nhiêu no nê ấm áp. Nó ừng ực nhìn chị giở từng thứ một, nào
áo len, nào mũ nồi, nào bánh tây, nào thịt quay, nào sữa...
Đến giờ
Minh vẫn còn đau, tức vì phải chịu lép vế vợ một người đàn anh. Nó nghĩ lại mà
lặng cả người. Thấy thế, thằng Sẹo vội vỗ vai nó:
- Kìa
sao mày đương vui lại thừ người ra thế?
Nó cười
nhạt, đứng dậy lùi lũi lại ghế vườn hoa. Nó bâng khuâng nhớ nốt buổi khốn cùng
ở trong cái ngõ hẻm kia. Nó đói quá, lả đi mê mệt, nằm rũ trên thềm gạch xây
cạnh chuồng tiêu. Nó đã muốn nguyền rủa "chị" Tư, song cổ họng khô
khan không sao cất tiếng được. May mà sáng hôm sau thằng Hiếu ăn cắp được một
đôi giầy ta mới, bán được hai hào rưỡi, mua phở cho nó ăn, chứ không nó đến
chết đói mất. Và may hơn, cuối tháng ấy vợ Tư Khuyên chết, Tư Khuyên bị kết án
đi đày, dân "chạy" mất trùm, tiền "bồi" không ai thu.
Thật là
những ngày không thể quên được. ở Hải Phòng từ "yêu tạ" đến "vỏ
lỏi" đều phớn phở sung túc tung hoành. Nhưng từ khi Năm Sài Gòn ở Sài Gòn
về, Tư-lập-lơ và Chín Hiếc trên Hà Nội xuống, các cánh chạy lại nép mình dưới
một oai quyền cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết, bảo tù phải ngồi tù
của Năm Sài Gòn.
Thằng
Minh chán ngán. Nó lo ngại từ nay trở đi lại càng bị ức hiếp:
- Tám
Bính! Tám Bính!
Nó nhắc
tên đó hai ba lượt. Nó ghê rợn tưởng đến sự kiêu căng tàn ác của một người đàn
bà thành "yêu ta". Nó sơn sởn gáy tưởng chừng đương bị hai bàn tay
cứng như sắt của Năm Sài Gòn bóp chặt vì đã chót tiêu món tiền ăn cắp được.
Một ước
vọng bỗng nảy ra trong tâm trí Minh.
Một ngày
kia Minh trở nên anh chị, cũng năm bảy lần tù, tay Minh cũng từng phen đẫm máu,
chẳng phải máu các kẻ tầm thường đâu, mà của bọn anh chị, của bọn
"cớm" để có tên tuổi trong những phích(1) ở nhà Đọ
Cả ngực
Minh sẽ trổ lằn lên những rồng xanh đủ các kiểu uốn khúc, vì thế người ta gọi
Minh là "anh" Minh rồng, và vợ Minh là "chị" Minh rồng. Vợ
Minh cũng là một "bỉ vỏ", song tinh anh sắc sảo hơn cả vợ Tư Khuyên,
xinh xắn hơn cả Tám Bính, biết mọi cách trưng bảnh cái "anh chị" của
chồng mình.
Minh
khoan khoái quá đứng ngay dậy rảo bước đi. Minh mím chặt môi, nắm chặt tay, đấm
thinh không, tự nhủ:
o O o
1. Phích: (fiche) tờ giấy kể
tên tuổi quê quán án tích của tội nhân và có cả hình ảnh điểm chỉ và các dấu
vết riêng ở nhà Đọ
- Đã
biết mặt Minh rồng chưa?
Nhưng,
mặt tủ kính bỗng thoáng chiếu bóng Minh: một đứa trẻ thấp bé, bẩn thỉu, áo tây
vàng dài quá đầu gối, tay áo đã sắn lên hai nấc mà vẫn còn chùm kín bàn tay,
quần cháo lòng rách mướp, mũ dạ đội là thứ mũ "sọt rác", mũ "tầu
phở".
Minh tủi
thẹn vô cùng. Nó nghiến răng rít lên:
- Phải
chơi. Đi "đọ" thì đi (1).
Bỉ Vỏ - Chương 13
Thế nào,
chú Tư-lập-lơ, lão hàng lợn ấy mất tiền với chú chứ?
- Thôi
em van chị, chị cứ trêu em mãi!
- Ơ kìa!
Tôi đâu dám trêu chú, và này chú cho tôi tiêu chung với nào?
Tư-lập-lơ
đưa mắt trách Tám Bính, vừa bảo Năm Sài Gòn:
- Chị ấy
bây giờ ghê gớm lắm anh ạ, chẳng kém anh tý nào. Chưa bao giờ tôi thấy một
"bỉ vỏ" nào "sừng kền"(2) như thế.
Tư uống
nốt chén chè nói tiếp:
- Tôi
nghĩ vừa bực vừa phục chị ấy. Anh tính lão
o O o
1. Đi đọ: đi đày. Thường tòa
án hay kết án đi đày không thời hạn những kẻ cắp nhiều lần can án.
2. Sừng kền: cái sừng bằng
kền
hàng lợn
buông tay nhận mười lăm đồng ở hàng thịt ra, chỉ sểnh mắt tôi độ một phút đồng
hồ đã tru tréo ầm lên mất tiền rồi. Tôi đi lùng khắp chợ, tra xem đứa nào
"hiếc" thì "tiểu yêu" đều bảo chị. Gớm quá! Hóa ra lúc chị
ấy chuyện hươu chuyện vượn với lão đó trong hàng nước là lúc chị đưa "so
khọm"(1) vào "xiếc". Tư mải cãi quên cả hút thuốc phiện. Năm
giục hắn:
Bính
cười to:
- Im đi,
chính chú lấy mà còn cứ vờ...
Tư bực
nhưng vẫn phải cười:
- Thôi
em lạy chị rồi, biết chị lắm rồi!
- Nhà
tôi nó trêu chú đấy, chú đừng cãi cho mỏi miệng. "Trô"(2) mau đi còn
sang Hạ Lý "quấy" chứ.
Bính
phát mạnh vào lưng Năm, nũng nịu nói:
- Có thì
chết với tôi!
Năm hất
hàm:
- Tôi cứ
đi thì mình làm gì tôi nào?
Tám Bính
dỗi, bảo Tư-lập-lơ:
- Đấy,
chú cứ rủ nhà tôi đi, tôi máy "cớm" bắt chú cho mà xem.
- Càng
hay chị ạ, dạo này tôi "đét" quá, được vào tù ngồi ăn không phải lo
còn gì sướng bằng.
- Chú
thách chứ?
- Thách
đấy.
Tư-lập-lơ
chực nói nữa, Ba Bay đã dí đầu dọc tẩu vào miệng, Tư vội đón lấy, so hẳn vai
lên kéo một hơi thật dài.
o O o
1. So khọm: thằng già
2. Trô: hút.
Điếu
thuốc cháy sèo sèo trên chiếc chụp đèn thủy tinh ám khói vang lên những tiếng
vo vo đều đều như tiếng sáo diều, rải trong cái không khí tờ mờ một hương thơm
phảng phất, cái hương thơm đầy những đê mê mà kẻ nghiện muốn lúc nào cũng âm ỷ
trong phủ tạng, trong tâm hồn.
Những
cặp mắt sắc của Năm Sài Gòn, Tư-lập-lơ và Ba Bay bắt đầu lờ đờ giống khói thuốc
phiện mơ hồ. Ngọn đèn dầu lạc hơi rung tự nhiên sáng ngời lên. Qua những tia
sáng huyền ảo ấy, cả ba đều thấy hiển hiện bao hình Ba Bay tưởng tượng ra một
ngày kia, tình cờ hắn gặp một người đàn bà rất xinh, rất lẳng. Chỉ sau vài phút
chuyện trò, người đàn bà nọ liền lả lơi cười với hắn. Ba Bay thấy thế liền ôm
lấy ngay. Hắn vuốt ve, hắn hôn hít. Nhìn bầu vú hạt cau phập phồng dưới chiếc
áo cánh lụa, hắn rạo rực như bị cắn rứt. Rồi hết giờ ấy sang giờ khác hai cái
xác thịt bừng bừng không rời nhau một giây đồng hồ.
ảnh lạ
lùng chập chờn như cảnh thần tiên vậy.
Bỗng,
buông xong những tiếng cười khanh khách, người đàn bà bỏ chiếc khăn vuông ra.
Tức thì, trước ánh đèn - vẫn ánh đèn dầu lạc lung linh - một khuôn mặt hiển
hiện rõ ràng, da hồng hồng, mắt lóng lánh quầng thâm, môi mỏng không cần tô son
nhưng nổi bật đường cong ướt, hai hàm răng cắn chỉ thở những hơi thở nhẹ và
thơm. Kỳ dị! Chính là khuôn mặt Tám Bính, người đàn bà đã mê đắm Năm Sài Gòn,
người đàn bà bấy lâu Ba Bay mơ ước khát khao.
Khói
thuốc phiện vẫn mơ màng.
Cũng như
Ba Bay, Tư-lập-lơ nhìn bằng đôi mắt không đắm đuối, say sưa.
Phút
chốc, gian nhà lá nhỏ, xóm Chợ con lúc nhúc những người cùng khổ của thành phố
Hải Phòng "tứ chiếng" biến thành một tòa nhà nguy nga, có hồ rộng, có
vườn cây, một tỉnh rất thoáng đãng ở đây, Tư-lập-lơ có ô tô chạy khách, có xà
lan chở hàng thuê sống một đời rất nhàn hạ sung sướng.
Ai dám
tin Tư-lập-lơ có ước mong ấy?
Khói
thuốc phiện vẫn mơ màng. Cũng như Ba Bay và Tư-lập-lơ, Năm Sài Gòn nhìn đắm
đuối say sưa.
Năm mơ
thấy đời mình lại thay đổi. Năm thôi làm trùm chạy vỏ, nắm một oai quyền to tát
nhiều lợi và nguy hiểm hơn. Các sòng bạc lớn nhất, nhiều khách sang nhất ở Hà
Nội, Hải Phòng, Nam Định và ở mấy tỉnh miền thượng du xứ Bắc kỳ đều đứng tên
Năm. Đứng tên Năm đây không phải là Năm khai tên tuổi lấy môn bài làm ăn và Năm
luồn lọt mấy nhà tai mắt để mưu sự làm ăn của mình. Không, Năm không chịu quỵ
lụy ai hết, Năm xếp đặt cách làm ăn rất khéo léo với những tay chân vây cánh và
tai mắt đặc biệt của Năm. Năm quyết chống lại với mọi sức mạnh của pháp luật mà
sống một đời như đế vương.
Bấy giờ
Tám Bính chỉ có việc ăn xong thì ngồi xếp bằng trên sập khảm mà nhận tiền
"hồ" ở các sòng dồn lại. Còn Năm Sài Gòn chỉ rong ô tô nay Sầm Sơn,
mai Tam Đảo, kia Huế, kia Sài Gòn, Hồng Kông, Thượng Hải, tiêu tiền như rác cho
tiếng tăm lừng lẫy.
Khói
thuốc phiện từ từ tan rồi tắt mất. Trên lò than tầu đỏ rực hắt lên mặt vách
quét vôi xanh nhạt, làn ánh sáng chập chờn hồng hồng, ấm nước sôi réo rồi trào
bọt xuống hỏa lò cháy xèo xèo. Bính giật mình nhắc nắp ấm ra và khẽ gọi:
- Ba
quan ơi! Có quan nào dậy để tôi pha nước uống không? à mà có lẽ ngủ say cả rồi
đấy.
Không
thấy ai đáp, Bính xách ấm nước sôi rót vào bình tích. Rót xong, Bính lay người
Năm:
- Mình
ơi có hút nữa không? Không thì thu xếp lại chứ, khuya lắm rồi!
Năm chỉ
ừ ào, Bính quay sáng kéo Tư-lập-lơ và Ba Bay:
- Hai
chú ngủ lại đây hay về nhà?
Cả hai
mở choàng mắt, Tư vội nói:
- Về
nhà! Về nhà!
- Tôi
gọi xe nhá?
Tư ngáp
dài. Tám Bính nhắc:
- Tôi
gọi xe có bằng lòng không?
Tư lắc
đầu:
- Đừng
chị ạ.
- Thế từ
Chợ con về chùa Đỏ, chú cuốc bộ được à?
- Chứ
sao! Chị tính chả cuốc bộ thì làm thế nào? Một trinh mẹ không có, nhảy lên xe
đi cho lột áo à?
- Thôi
đi đừng "pha", chú mà lại "đét" thế ư?
Tư thở
dài nói:
- Thật
đấy, dạo này em "đét" quá! Ấy hôm nọ có món lão già là bở nhất thì
chị tiêu hộ ngay mất.
Tám Bính
nhìn nét mặt Tư rầu rĩ. Bính ngẫm nghĩ một lúc rồi trườn người móc cái ví ở túi
áo Năm, lấy ba đồng bạc đưa cho Tư:
- Đây
chú cầm tạm mà tiêu.
Tư sượng
sùng cầm lấy, Ba Bay vội nguýt Tư:
- Mày
tồi quá! Lấy của chị ấy làm gì?
Tám Bính
bảo Ba:
- Có là
bao chú Ba, chú Tư chú ấy có túng thì tôi mới đưa, vậy việc gì phải giữ kẽ.
Bính
tưởng lầm, Ba Bay trách Tư không phải vì tiền tài đâu mà vì hắn ghen với Tư còn
trai trẻ sáng sủa hơn hắn.
Ba Bay
tấm tức, chờ Bính sắp sửa đóng cửa, cười nhạt chào Bính:
- Thôi
chị Tư à chị Năm đi nghỉ nhé.
Bính
thản nhiên chào lại, gài cửa xong quay vào nhà.
Sáng hôm
sau, dọn cơm nước xong, Bính gọi Năm dậy. Không cần vợ đánh thức, Năm kéo tay
Bính:
- Mình
ngồi xuống đây tôi hỏi cái này.
- Thì
hẵng ra ăn kẻo canh nguội hết. Bữa nay canh cải nấu giò ngon lắm.
Năm gật
đầu, dịu Bính ngồi xuống bên mình:
- Khoan
đã, mình lấy ba đồng bạc trong ví anh đấy chứ?
- Ừ, mà
làm sao?
- Để sắm
gì đấy?
Bính vui
vẻ thuật lại cho Năm nghe khi Bính hỏi Tư-lập-lơ có đi xe về nhà không thì hắn
lắc túi, buồn bã. Bính đưa cho hắn ba đồng, hắn còn giùng giằng mãi sau mới dám
nhận. Bính nói hết câu, Năm cau mày hỏi:
- Dạo
tôi "nhỡ" Tư-lập-lơ có năng đi lại đây không?
- Có
mình ạ. Mà nó tử tế hơn hết. Khi mình vừa bị bắt, nó đến ngay nhà bào tin, và
không đợi em hỏi, nó đưa luôn tiền cho em bảo là tiền "bồi", em không
bằng lòng trả lại nó, nó tưởng chê ít liền giục Mười Khai đưa thêm nữa. Rồi hôm
nó thấy em gánh gạo ra chợ Vườn hoa bán, nó níu gánh em lại, nhưng em nhất định
không nghe. Suốt ba tháng không ngày nào nó không cho trẻ con đem lại hàng em
quà bánh và thức ăn, em không thể nào từ chối phải nhận để nó bằng lòng.
Năm Sài
Gòn lắng tai nghe xong gật đầu nói:
- Ừ, anh
biết Tư nó khá lắm, vả lại dạo ấy dễ làm tiền, tiêu hơn thế cũng chẳng bõ bèn
gì.
Năm nói
xong, nét mặt trở nên buồn bã khác thường. Bính ngạc nhiên băn khoăn không hiểu
tại sao mấy hôm nay Năm hay ngủ li bì, kém ăn kém hút. Hay là vì Năm thấy sự
nguy hiểm gì sắp đến, nên lo âu như thế. Bính dịu dàng:
- Này
mình, sao mình buồn thế! Hay mình giận em về sự cho tiền Tư đấy?
Năm lắc
đầu, đăm đăm nhìn Bính:
- Không
phải. Tư tử tế, mình giúp nó là phải, anh nào có để tâm đến điều ấy. Anh...
Năm
ngừng lại toan bỏ dở nhưng sau một phút im lặng thấy cần phải than thở với
Bính, tuy biết thế sẽ làm Bính nao núng và là một điều hèn nhục cho mình, Năm
nắm chặt lấy tay Bính ấp lên ngực nói tiếp:
- Anh
buồn chỉ vì mấy tháng nay "cớm" săn anh riết quá, anh không đi đâu
được mà để em đi thì anh thương hại, phấp phỏng cho em lắm.
- Không
mình đừng lo!
Năm vẫn
dằn giọng nói:
- Chẳng
những thế, mình làm có được là bao, khi năm đồng, khi bảy đồng, số tiền đó
trước kia anh chỉ trả tiền xe chơi mát mấy tối cũng thiếu.
Bính
hích đùi vào người Năm"
- Anh
nói "phách" lạ!
- Thật
đấy, mà nào có lâu la gì, mới năm ngoái thôi.
Bính căn
vặn hỏi sao Năm biết "cớm" săn riết và "trõm" hắn ở những
đâu thì Năm bảo:
- Mình
cứ luôn luôn lên chợ Sắt xem, mình sẽ thấy một người có hai cái nốt ruồi ở mé
mắt bên phải, lúc mặc áo the, lúc quần là ống sớ, áo vải tây vàng, lảng vảng
khắp chợ. Đấy là "so" Chuyên. Ở bến tầu Nam, bến tàu Quảng Yên có
"so" Phụng, cái thằng có hai răng vàng và "cớm cộc" Thiều
lác thay đổi nhau canh gác. Sáu kho có "cớm chùng" Tùy Cò hương, còn
ở Đầu Cầu, phố Khách, phố Ba Ty chả lúc nào vắng bọn thằng Vinh rỗ hay thằng
Miện mũi đỏ đạp xe.
Nói đến
đây Năm thở dài:
- Đấy
mình xem cơ màu này anh đi thì trôi sao được, huống chi anh lại có
"bùng"(1) mới đáng lo.
Tám Bính
siết chặt lấy tay Năm:
- Thì
nào em có bảo mình "đi", mình nằm nhà mặc em xoay.
Năm Sài
Gòn âu yếm nhìn Bính:
- Khó
lắm! Có đứa mách "cớm" và "cớm" để ý tới em rồi đấy.
o O o
1. Bùng: án biệt xứ. Thường
thường ở Bắc kỳ người có án biệt xứ không được lai vãng tới năm thành phố này: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hải dương và Hà đông.
Tám Bính
vênh mặt, nũng nịu:
- Khi
nào cớm mó được đến người em.
Năm Sài
Gòn lườm yêu Bính:
- Mình
chỉ kiêu ngạo thôi, tài giỏi sảnh sỏi như Tư-lập-lơ còn "cáy" không
dám làm tiền nữa là mình thứ vị gì.
- Nhưng
em...
- Em là
"bỉ" chứ gì?
Tám Bính
ngả người trên lòng Năm. Năm nằm yên nhìn Bính. Một sự sung sướng nhẹ nhàng
không hiểu tự đâu thoáng qua tâm trí Năm, Năm liền quàng tay qua Bính, kéo mặt
Bính sát tận mặt mình, thều thào:
- Em gái
nhỏ tôi "te"(1) quá.
Bỉ Vỏ - Chương 14
Có tiếng
những câu hát riêng dân "chạy vỏ" nghe hiểu thôi. Những câu hát ấy
chỉ thấy cất lên trong những khi gió mưa buồn bã mà một trinh không dính túi,
hay sắp lâm vào bước gian nan, cảnh tù tội.
Không
biết ai đã đặt ra những câu hát ấy, và ai đã dùng cái giọng lẳng lơ, bổng không
ra bổng, chìm không ra chìm, lờ lờ như dòng nước xanh rêu nhờn nhụa chảy vào
một vũng tối - cái giọng nôm na gọi là giọng nhà thổ ế - để bây giờ nó thành
một câu hát ở cửa miệng
_
1. Te: đẹp
từ trẻ
con đến người lớn, trong cái xã hội ăn cắp tối tăm kia.
Trong
bọn trẻ con ăn cắp dù là những đứa xấu xí ngu độn tới bực nào cũng cảm thấy,
cũng hiểu biết thấy hết mọi ý nghĩ ai oán trong câu hát ấy. Thế rồi khi tưởng
tới cái đời đầu đường xó chợ, cái tuổi trứng nước mà đã bị xa cha mẹ hay bồ côi
vơ vất của mình, chúng sẽ rớt nước mắt than thân bằng những câu hát ấy với cái
giọng không được thành thuộc lắm, nhưng nghe thật thấm thía vô cùng.
Còn các
"yêu tạ" cằn cỗi tới tột bực, lấy quê hương và gia đình là đề lao,
anh em thân thích là tụi đồng nghệ quỷ quyệt gian ác, sự vui vẻ ấm cúng cả
trong những ngày tù bó buộc, mỗi khi chán nản túng thiếu, mỗi khi cảm thấy bao
nhiêu cái điêu linh bấp bênh, có ăn ngày nay không dám chắc ngày mai, thì mới
chịu mở cặp mắt mỏi mệt nhìn quãng tương lai trơ trọi đầy tuyệt vọng. Nhưng đã
bao lâu lười biếng, giai gái, thuốc sái quen thân đi, sức lực sút yếu đuối lắm.
Vậy bỏ nghề "chạy vỏ" bọn chúng không thể làm được một nghề gì khác
vừa ý, vừa sức hơn, bọn chúng đành bíu chặt lấy nghề chạy vỏ, tuy biết chắc
rằng một ngày rất gần kia cái kết quả thảm khốc của nghề sẽ đến kết liễu đời
mình: đi đày.
Rồi vì
cảm động, rồi vì thổn thức, bọn chúng cũng dùng cái giọng đục lờ lờ hát những
câu hát ấy để than thân.
... Năm
Sài Gòn đứng bên cửa sổ, thẫn thờ nhìn những làn mây trắng phớt, mềm mại lúc
tản rộng ra, lúc cuốn dồn lại trên trời thu trăng sáng.
Năm chợt
cất tiếng hát lên:
"Anh
đây công tử không "vòm"(1)
"Ngày
mai "kện rập"(2) biết "mòm"(3), vào đâu?
Dư âm
tiếng "đâu" vang hẳn lên mấy giây rồi im lìm, rồi chìm mất giữa
khoảng đêm khuya, vừa lúc gió lạnh rào rào qua bụi găng đằng cuối vườn.
Trông
Năm Sài Gòn bấy giờ như pho tượng núp trong bóng tối của ngôi chùa hoang. Dưới
ánh trăng xanh, nước da Năm rám nắng tái đi như chì, những vệt sẹo dài và sâu
càng thêm sâu. Năm vung tay thở hắt mạnh ra một cái rồi cau mày nhìn ngoài
đường không một bóng người.
Đã mười
hai giờ mà chưa thấy hút Tám Bính về! Năm bứt rứt, e ngại không hiểu Tư-lập-lơ
có xoay giúp cho vợ chồng mình được lấy vài chục bạc không? Và Tám Bính có
tránh thoát khỏi những cặp mắt ranh mãnh của "cớm" chùng không? Tiếng
gió vang mỗi lúc một to. Cảnh vật càng yên vắng. Tâm trí Năm càng thêm rời rã.
Năm lại vươn vai ngáp dài rồi nhíu mắt trông một làn mây trắng lẩn dần dưới góc
trời đen xám xa xa và lại vẳng cất tiếng lên:
"Không
"vòm" không "sộp" không "te"
"Niễng
mũn"(4) không có ai mê nỗi gì?
Bỗng Năm
giật mình ngoái cổ trông lại: Bính tươi cười vỗ vai Năm "oà" một
tiếng gọi. Năm luống cuống:
o O o
1. Vòm: nhà.
2. Kện rập: hết gạo.
3. Mòm (chính là mỏm): ăn.
4. Niễng mũn: một trinh nhỏ.
- Thế
nào mình?
Bính hớn
hở đáp:
- Được
rồi, hơn hai chục anh ạ!
- Của ai
thế?
Bính sán
ngay đến bên Năm nhìn Năm cười, Năm tát nhẹ má Bính:
- Lại
của "so" nào rồi! Mà mình làm hay Tư?
- Em
đứng "cản", Tư Khai.
- Ở đâu?
- Của
một "bỉ" bên đò Bính sang mua vải ở phố Khách ra.
Dứt lời,
Bính đếm đúng hai mươi tờ giấy bạc một đồng mới tinh và thơm phức đưa vào tay
Năm, Năm liền nắm chặt cả lấy, long lanh nhìn thẳng vào mặt Bính bừng bừng ngây
ngất. Hồi lâu hắn cúi xuống, thì thầm bên tai Bính những tiếng khàn khàn:
- Mình
khá lắm! Khá lắm! Đáng mặt "chị" Tám lắm!
Bính
những nở nang cả gan ruột, Bính im lặng một lúc rồi hỏi Năm:
- Ừ khá
lắm! Nhưng mà này ban nãy mình hát câu gì mà não ruột thế?
Năm tần
ngần:
- Anh có
hát đâu!
Bính
nâng cằm Năm lên:
- Rõ
ràng giọng hát của mình mà mình còn dối em ư.
Năm
không đáp, nét mặt thẫn thờ hơn, Bính lay vai Năm:
- Kìa
sao mình cứ buồn thế?
- Tại...
- Tại
làm sao?
- Thấy
mình đi lâu quá thì anh lo ngại và buồn chứ sao!
Bính
soắn chặt má Năm và kéo căng ra:
- Mình
lạ lắm! Việc gì mà sợ mà buồn? Em đã bảo "cớm" có tài thánh cũng
không động được đến người em. Ngay như ban nãy, khi chia tiền ở nhà Tư-lập-lơ,
em biết có một chú đạp xe theo rình em. Mặc kệ, em cứ thong thả đi, nhưng đến
gần vườn hoa Đưa người, em rảo bước rẽ ngay vào ngõ Nghè, tạt qua ngõ Trần Xuân
Lịch, rồi ngược lên phố Đầu cầu, đi vòng về Chợ con. Thế là chú em hết
"trõm".
- Vậy
mình về gần nhà có gặp "so" nào không?
- Không,
em về lối sau nên chẳng gặp ai hết.
Năm Sài
Gòn hơi tươi nét mặt, vuốt lưng Bính:
- Mình
thật hơn anh nhiều.
Nũng
nịu, Bính hất tay Năm đi:
- Thôi
đi em không cần mình khen đâu. Đây này bát sắt, đĩa sắt, ngày kia hội đây, mình
sóc cái, mình cất đi rồi đi ngủ cho béo mắt.
Năm Sài
Gòn thấy vợ vui vẻ thì mừng thầm, tin đó là cái điềm may của canh bạc nay mai.
o O o
- Lại
sấp hai!
Không
bảo nhau mà khi Năm Sài Gòn vừa mở bát mọi người cùng reo lên. Họ reo ầm ĩ xong
lại bàn tán ồn ào như lúc chợ vỡ. Chiếu bạc của Năm Sài Gòn giải được
"vía" hay sao mà một phần người đi xem hội Đình chiến ở trước nhà Hát
tây kéo nhau đến, xúm đông xúm đỏ, vòng trong vòng ngoài, người đánh cũng lắm,
khách máu mê không tiền chầu rìa cũng nhiều. Mặt nào cũng kín những xu, hào và
cả giấy bạc nữa. Họ mê mệt, họ khao khát, họ giận dữ vì cái canh bạc lạ lùng
này. Đời thủa nào "bạc" "đi" thông luôn mười cái sấp hai,
hai cái sấp ngửa tư, một cái sấp bốn bao giờ?
Hai cái
túi áo tây vàng của Tư ngồi làm hồ lỳ đã chật ních. Hắn phải giải chiếc khăn
mặt bông để đựng tiền. Sự sung sướng khoái trá trong lòng hắn bốc lên ngùn
ngụt, mặt hắn đỏ bừng. Còn mọi người đều vã mồ hôi, họ trông đổ dồn vào Năm mỗi
khi Năm tươi tỉnh ruỗi thẳng hai cánh tay rung rung chiếc bát sắt úp trên đĩa
sắt.
Tiếng
tiền kêu sang sảng làm cho mọi người càng hồi hộp, trống ngực ai cũng đập thình
thịch. Nhất là người lính thủy đứng bên Tám Bính thở mới mạnh làm sao. Anh ta
đã thua nhiều quá!
Có bao
giờ cờ bạc cò con từng hào một mà "sạt" tới mấy chục đồng. Anh đâm
cáu, vứt cả giấy năm đồng xuống chiếu bạc, anh cố đào thấy "lẻ" thấy
sấp một mới nghe.
- Lại
sấp hai!
- Lại
sấp hai!
- Sấp
bốn!
- Giời
đất, lạ quá!...
- Lại
sấp hai!
- Mười
tám cái chẵn!
Năm Sài
Gòn khoan khoái, hai tai nóng cháy, hai tay rung bát càng dẻo:
- Lại
sắp hai!
Mười
chín cái chẵn!
Tiếng
reo vừa dứt, mấy tiếng xì xào thoáng qua tai Tám Bính:
- Hay
tiền thửa?
- Đĩa
hai lòng? Bát đặc?
Đứng
ngoài để "trõm", thấy có kẻ bảo chồng mình bạc "giảo"(1),
Tám Bính hậm hực cúi vội xuống:
- Này
bác cái, cho tôi xem tiền nào.
Bính ném
tung cái đĩa ra chiếu như ném vào mặt người hóc hách không đúng nọ, rồi Bính
lật đi lật lại bốn đồng trinh trên cái đĩa sắt mỏng cho ai ai cũng rõ. Mọi
người mất hết ngờ vực, Tám Bính cười mũi:
- Những
"so quéo" đã không tiền lại chỉ hay tán láo thôi!
Tiếng
tiền lại reo đổ hồi, lanh lảnh và ròn rã hơn.
Năm Sài
Gòn vừa đặt đĩa xuống, người lính thủy đã ném theo tờ giấy bạc một đồng nhìn
Năm nói:
- Còn
mỗi một đồng đây, bác cái tính sao thì tính.
Năm Sài
Gòn cười không đáp, nhấc bổng cái bát ra. Tiếng reo hò ầm lên:
- Sấ!...
â, ấp... một!
Người
lính lắc đầu nhăn mặt cười:
- Gớm
thật! Tôi "khát nước" mất vừa đúng 39 đồng, đến giờ mới được một tay
lẻ. Thôi cứ để hai đồng ấy ở mặt sấp một cho tôi.
Mọi
người càng mải miết xem canh bạc gay go to nhất Hội tây năm nay. Có kẻ bàn tán,
có kẻ nguyền rủa, có kẻ tức tối, và có cả kẻ khấn thầm cho người lính thủy
được, vì nét mặt Năm đáng ghét, đáng sợ lắm.
- Lại
sấp một!
o O o
1. Bạc giảo: bạc gian.
- Lại
sấp một!
- Lẻ:
lại sấp ba!
Hai đồng
thành bốn. Bốn đồng thành tám. Tám đồng thành mười sáu. Tư-lập-lơ run run sỉa
16 tờ bạc giấy. Chờ Tư sỉa tiền xong, Năm Sài Gòn đưa mắt nhìn Tám đứng bên
người lính thủy.
Người
lính cho mấy đồng giấy mới vào ví còn lại để mặt lẻ.
- Sấp
ba, lại lẻ!
Tư-lập-lơ
tái mặt, Năm lắc đầu. Bính khẽ nói:
- Thật
lạ lùng!
Mọi
người cười nói ầm ỹ, tỏ ra ý sung sướng hộ người lính thuỷ. Có kẻ lại phỉnh
thêm:
- Ông cứ
đặt cả hai mươi bốn đồng ở mặt lẻ, tôi chắc ông thế nào cũng được, vì vạn ông
đương "tấy" lắm.
Người
lính không đáp, cười rộ - tiếng cười ấy cất hết mọi vẻ bực tức trên nét mặt lầm
bầm từ nãy đến giờ.
Gấp 14
đồng cho vào ví rồi đút lên túi áo trên, đoạn hắn bảo Năm:
- Bác
cái ạ, 10 đồng này bác đánh sang chẵn cho tôi. Tiếng này phi ngửa tư thì sấp
bốn.
Năm Sài
Gòn vã mồ hôi trán, đón lấy. Tư-lập-lơ vun gọn tiền, mặt nào mặt nấy rồi đưa
mắt nhìn Tám Bính. Năm Sài Gòn xóc bát xong cũng đưa mắt nhìn Tám Bính. Hai cặp
mắt long lên khác thường nọ cũng thúc giục Bính "mõi" cái ví đầy bạc
kia. Nhưng... Bính tự nhiên run bần bật. Bính có vẻ hoảng sợ. Thấy thế Năm Sài
Gòn vội hắng giọng:
- Kìa
mau "mõi" đi! Các ngài thêm mỗi mặt một tý chút nữa đi.
Năm dằn
mạnh tiếng "mõi" cố ý để vợ nghe rõ, giúp vợ thêm can đảm để tránh một
sự ghê rợn sẽ xảy ra nếu tiếng bạc chót này Năm lại thua.
Thì quái
lạ! Tám Bính cứ run lẩy bẩy. Có lẽ ngoài cái lần đầu tiên, cách đây hai năm,
Bính thò bàn tay lấy tiền của người ta thì không còn một lần nào Bính bối rối
như lần này cả. Dù người lính vô tình không biết Bính đứng bên mà Bính không
sao đưa được ngón tay móc cái ví bỏ mấp mé trong túi áo trên kia. Hễ Bính chực
nhấc tay lên thì người Bính lại càng run, trống ngực lại càng đập mạnh, hình
như đâu đấy có mấy người mật thám cầm xích lăm lăm và người lính kia cũng giả
vờ chờ Bính động tới túi là chộp ngay.
Tám Bính
vừa bị lo sợ, vừa như bị thôi miên bởi bốn đồng tiền đen, trắng nó hút chặt lấy
mắt Bính.
Chỉ
trong khoảnh khắc mà Bính cảm thấy bao nhiêu cái ghê gớm sẽ làm tan nát đời
Bính nếu tiếng bạc chót này Năm lại thua.
Sao lúc
này đối với Bính món tiền lạ lùng thế? Bính tiếc món tiền được rồi lại thua đi
một cách chua xót khác thường.
Tám Bính
lại mím chặt môi, dùng hết nghị lực, rón rón thò tay lên cái túi đựng ví tiền.
Nhưng Bính lại vội rụt tay ra... mắt Bính hoa lên... Bính càng run... vì..
người lính có vẻ "sửng mòng"(1). Bỗng Tám Bính rú lên và mọi người
cùng kêu:
- Sấ...
â... ấp... bố... ô... ốn!
- Ha ha
sấp bốn...
o O o
1. Sửng mòng: hơi biết, chột
dạ.
Mười
đồng thành hai mươi đồng, Năm Sài Gòn và Tư-lập-lơ mắt trông nhau, dốc túi đếm
giam đủ hai mươi đồng.
Người
lính thủy cúi xuống nhặt tiền - cái ví vẫn nguyên trên túi áo.
Năm đỏ
tía mặt lại, cổ họng nghẹn ứ như bị bóp chặt. Năm toan cướp sấn cái ví đầy bạc
kia thì người lính đã nhảy tót lên chiếc xe đạp dựa ở vỉa hè, phóng thẳng một
mạch để lại sự ồn ào như chợ vỡ với đám đông nhớn nhác, trông theo
Bỉ Vỏ - Chương 15
- Thôi
chị còn khóc gì nữa! Thế là chị giết tôi!
- Mình,
sao mình lạ thế!
- Lạ cái
gì? Lạ là tôi không còn nhiều tiền như trước, và tình nghĩa của chị đối với tôi
ngày nay cạn tàu ráo máng phải không?
Năm Sài
Gòn chấm nốt câu hằn học bằng một cái đập mạnh xuống bàn.
- Thế là
hết!
Tám Bính
ngồi ở góc giường gục mặt vào lòng nức nở. Trước sự rã rượi ấy, Năm Sài Gòn
càng gai mắt, càng tức bực. Hắn nắm chặt hai bàn tay đấm thinh không, vừa
nghiến răng nói:
- Chị ác
quá! Nếu chị không bằng lòng tôi, muốn bỏ tôi đi lấy người khác thì cứ nói
phăng ngay với tôi việc gì chị lại lừa dối tôi, giết tôi một cách từ từ độc ác
như thế? Giời ơi, cái "cá" ngon làm vậy, thằng "vỏ lỏi" nó
còn "mõi"(1) được huống chi chị đã thập thành!
Năm Sài
Gòn nói xong, vò đầu vò tai:
- Tôi
vẫn biết, biết lắm, chị Tám Bính ạ, chị có nhan sắc, chị khôn ngoan thì chị còn
thiết gì một thằng chồng khốn nạn như tôi. Chả có thế trước kia, nay chị đòi đi
buôn bán, mai chị đòi đi buôn bán, kiếm lãi nuôi thân. Chị thâm hiểm vô cùng,
chị ghét cay ghét đắng cái quân "chạy" xấu xa này, chị ghét ngon ghét
ngọt cái thằng Năm Sài Gòn này, bị mọi người ghê sợ, nguyền rủa, nhưng chị
không hé răng nói qua nửa nhời. Sao chị mặt sứa gan lim thế?
Năm Sài
Gòn nói xong lại gầm hét. Tối hôm qua Bính để "xổng" món tiền, đối
với hắn là một chứng cớ chắc chắn rằng Tám Bính phụ chồng mà nhời Ba Bay là
thật. Năm Sài Gòn không còn ngờ vực gì nữa. Hắn hoàn toàn tin Bính phải lòng
Tư-lập-lơ, và yêu thương Tư-lập-lơ nồng nàn lắm, nên mới vượt cả mọi sự dị nghị
cưu mang Tư, giúp đỡ Tư nhiều lần, giữa lúc chồng mình cũng cùng túng.
Năm Sài
Gòn cười nhạt:
- Thế mà
xoen xoét thủy chung hết bụng hết dạ với nhau đấy!
Cực
chẳng đã Tám Bính phải đáp:
- Phải
tôi không thương yêu anh, tôi là người tệ bạc, mà tôi đã ăn ở với anh non ba
năm trời, tại số kiếp chứ không đã vài ba mặt con.
o O o
1. Cái ví tiền dễ lấy như
vậy, thằng ăn cắp nhãi con nó còn móc được.
Câu nói
ấy vừa lọt vào tai, Năm Sài Gòn rùng cả mình, hắn kinh tởm cho sự hèn hạ của
hạng gái bán trôn nuôi miệng: còn tiền, còn bạc, còn chồng...
- Thôi
tôi van chị. Tại mấy năm trước đây tôi "trùng bướu"(1) luôn, tôi
không nghiện hút, không sao tôi bỏ ra một lúc hàng tiền trăm xé giấy cho chị,
rồi rước chị về phục dịch thuốc thang quá mẹ đẻ, chứ đâu tôi xác xơ như ngày
nay, ai ai cũng khinh bỉ được.
Tám Bính
tê dại ngồi nghe. Phút chốc cả một thời quá vãng nặng nề, ê chề lại từ từ hiện
ra trước mắt Bính, lờ mờ âm u với cái ánh đèn nhơ nhớp ở nhà mụ Tài-sế-cấu.
Lòng Bính càng ran lên những xót xa cay đắng, những quyến luyến Năm, yêu thương
Năm.
- Kìa
chị nghĩ gì thế? Chị Tám Bính à? à bà Tám Bính, chắc bà đương nguyền rủa tôi
đấy?
Ngước
cặp mắt đầm đìa, Tám Bính nghẹn ngào nhìn Năm Sài Gòn ngồi chênh vênh trên góc
bàn kê gần đấy, Bính lại chực muốn phân trần thì Năm lại rít lên:
- Chị
Tám Bính ơi! Chị lại khóc rồi! Nước mắt của các chị bây giờ làm tôi khiếp sợ
lắm! Các chị chỉ dùng để che đậy những gươm trăm giáo mớ của mình thôi. Trước
kia tôi hớ hênh ngu ngốc, say mê điên cuồng lên vì chị ở nhà mụ Tài-sế-cấu để
chị lừa tôi, nhưng bây giờ chị lừa lần nữa sao được cái thằng Năm Sài Gòn này
không bao giờ thèm dùng nước mắt để lừa dối người.
Năm Sài
Gòn nghiến răng dằn từng lời một. Mỗi một lời của Năm càng như một mũi kim sắc
thâu qua lòng Bính. Bính đau đớn quá chừng, gạt nước mắt, cố cất tiếng ngắt lời
Năm:
o O o
1. Trúng bướu: ăn cắp được
nhiều tiền
- Anh
Năm sao anh nghĩ thế? Có đời nào tôi phụ anh! Làm hại anh! Chẳng qua thấy anh
thua nhiều tiền quá, mà số tiền đó cả vợ chồng đều khó nhọc, gian nan mới kiếm
được, nên tôi lo buồn bối rối, anh đã không biết cho tôi lại còn đay nghiến tôi
phải lòng giai như thế còn giời đất nào nữa?
Tức thì
Năm Sài Gòn đỏ bừng mặt, gầm vang nhà:
- Giời
nào? Đất nào? Chả có giời đất nào hết! Bây giờ chỉ có tiền thôi, đẹp giai thôi,
hai thứ ấy, giời đất cũng không đáng sợ, đáng trọng bằng.
Dứt lời,
Năm Sài Gòn nhảy phắt xuống bàn, chắp hai tay sau lưng, đi đi lại lại chung quanh
nhà. Tám Bính chỉ ngồi rũ rượi khóc.
Không
khí nặng nề và khó thở như ở một lò than đương cháy rực bỗng ai đó dội nước
lên. Năm Sài Gòn luôn luôn vung tay thở hắt ra thật mạnh, như muốn trút hết mọi
sự nung nấu trong người, thì càng thấy tâm trí ngùn ngụt. Đưa mắt trông hai
gian nhà thu hẹp lại với những đồ vật lổng chổng Năm Sài Gòn lại càng nhận thấy
rõ sự cùng quẫn xác xơ của mình.
Cái bàn
rửa mặt đánh si bóng đã bán đi rồi thay bằng cái ghế đẩu cao lênh khênh trên có
một chiếc chậu bong sơn xám xì. Cái tủ áo Năm cũng bán đi, quần áo thì treo lên
trên mấy con bướm gỗ. Đến cả tranh ảnh cũng đâu gần hết. Tấm hình Năm Sài Gòn
chụp nửa người phóng đại thì lắp trong chiếc khung vuông gỗ tạp, vừa bụi vừa
mốc.
Những
ngày oanh liệt đã tan nát không còn chút gì vớt vát, thất vọng. Năm lợm giọng,
ghê tởm cho sự giáo giở của vợ. Năm nhổ bọt bảo Tám Bính.
- Thôi
chị ạ, công tôi gắn bó với chị chỉ là công cốc, nhưng tôi cũng đành rầu lòng
chịu cái cảnh trơ trọi mà vui lòng để chị đi lấy người khác, vì còn dây dưa với
chị không khéo một ngày kia tôi lại đi đày một lần nữa mất. Vì chị mà phải đeo
số đỏ, săn cọp ở Hà Giang hay câu cá ở Côn Lôn, anh em họ sẽ ỉa vào mặt tôi, và
lúc ấy tôi cũng sẽ chẳng để chị yên nào. Vậy chi bằng ngay hôm nay chị cút
đường chị, tôi xéo đường tôi, chị buôn bán hay lấy vua quan tôi cũng mặc, tôi
ăn cắp, tôi giết người rồi lên ngồi máy chém tôi cũng chẳng cần chị thăm nom.
Năm Sài
Gòn chỉ cái hòm đằng cuối giường:
- Như
thế chị xem có thức gì của chị trong đó thì lấy hết đi đem hết đi, đi ngay cho.
Bính tái
mặt, run rẩy:
- Anh
quyết tâm bỏ tôi?
- Phải,
tôi phải bỏ chị, vì chị muốn bỏ tôi!
- Giời
ơi!
Năm nhại:
- Tiền
ơi!
Nước mắt
Bính chan hòa, Năm uất ức càng thét lên. Bỗng Năm Sài Gòn lầm lầm nét mắt,
trườn người kéo cái hòm đằng sau lưng Bính xuống nền nhà. Hắn lục tung các sống
áo, vừa vứt từng cái một lên bàn, vừa kể vanh vách những kỷ niệm có liên lạc
tới những thứ ấy. Nào cái áo nhiễu tây màu cà phê sữa Năm may ngày mới lấy
nhau; nào chiếc quần nái mới và cặp áo the một phen đã nằm ở hiệu cầm đồ dạo
Bính có mang đứa con trai đẻ sẩy; nào đôi dép Nhật bản và đôi bít tất phin hồng
mua ngày hăm chín tháng chạp năm xưa.
Bính
đương tê tái thì Năm Sài Gòn dồn tất cả quần áo ấy vào một cái thúng to, đậy vỉ
buồm lại, rồi quăng đánh phịch ra tận cửa, đoạn mím môi giơ tay chỏ:
- Thôi
chị đi đi. Một giây ở nhà tôi cũng không được.
Bính
choáng người, cuống quít:
- Mình
ơi! Anh Năm ơi!
- Đi
ngay!
- Em van
mình mà!
- Bước
ngay!
Giọng
Năm rắn như đanh như thép, mắt Năm quắc lên long sòng sọc những căm hờn. Bính
run rẩy, tối tăm cả mặt mày. Bính lả ra, giơ tay chới với bíu lấy thành giường.
Năm liền nắm lấy cổ tay kéo Bính sềnh sệch xuống thềm nhà:
- Có xéo
hay không? Đồ chó đểu nào!
Tám Bính
cố chùn người lại, nắm riệt lấy tà áo Năm, Năm đã hoa mắt hắt bắn Bính đi...
Sự tủi
cực của Bính đã đến cực điểm. Sắc mặt đương tái mét đỏ bừng lên, Bính nghiến
răng, thoáng đưa mắt ướt đằm nhìn Năm.
Bỉ Vỏ - Chương 16
Tám Bính
về tỉnh Nam Định đây đã được hai tuần lễ. Trong hai tuần lễ ấy không ngày nào
Bính không buồn rầu lo nghĩ. Tình thương yêu Năm Sài Gòn vẫn bao trùm tâm trí
Bính và cái không khí mát mẻ êm dịu của những chiều thu sáng tươi càng làm cho
Bính, trước nhiều sự vui sướng của người đời, càng thấy thấm thía vì sự cô độc
của Năm.
Bính
ngồi trên bờ đê, trông dòng sông Nam Định nao nao chảy khác hẳn quãng sông từ
Đầu cầu xe hỏa đến Sáu kho ngoài Hải Phòng, lúc nào cũng li bì vẩn đục. Xa xa
bên kia sông, mấy nóc nhà tranh xam xám nổi lên giữa lớp tre xanh đặc phút chốc
gợi sống lại trong lòng Bính bao nhiêu hình ảnh khi xưa ở quê hương Bính lại
dơm dớm nước mắt. Bính lại thấy hiện ra nào cha mẹ nàng hớn hở, nào thằng Cun
gầy võ vàng nào đứa con khốn nạn lủi thủi bên một người mẹ bà và nó không biết
còn sống hay chết.
Bỗng một
câu hỏi vẳng lên trong thâm tâm Bính.
-
"Vậy Bính nhất định không về quê và cũng không trở lại với Năm ư!"
Bính
thần mặt ra rồi mím môi lắc đầu: "Không! nhất định không!".
Đã nửa
tháng nay, Bính lại trở về với cuộc sinh hoạt của những người gồng thuê gánh
mướn. Trước mắt Bính, cái cảnh đời tay làm hàm nhai, dù vất vả lam lũ, lại sáng
lên, rực rỡ một cách khác thường.
Chợt một
làn gió rào qua mặt sông, đem theo hương thơm man mát của cả một vườn hoa huệ
đâu đây. Cái hương thơm khiến Bính bâng khuâng, ngẩn ngơ, nhớ lại buổi chiều
vừa qua.
Dưới
chân một bàn thờ bày trên bệ gạch xây sâu vào bức tường dày, Bính quỳ gối trước
ánh đèn lưu li xanh biếc nhòa với ánh nắng gần tàn lọc qua lần cửa kính tím
phớt. Bính thì thầm đọc bản kinh "ăn năn tội" mà ông cố đạo già dặn
Bính phải đem hết tâm trí mà suy ngắm. Sau bản kinh sám hối, Bính đọc đến kinh:
"Lạy Nữ vương" - người đàn bà mà Bính thấy đáng kính, đáng trọng hơn
ai, bao nhiêu câu ca tụng sau đây cũng không đủ tả những tốt lành của người:
...
"Mẹ nhân lành làm cho chúng tôi được sống, được vui... Chúng tôi ở nơi
khóc lóc, than thở kêu khẩn bà thương... Hỡi ơi! Bà là chúa bầu chúng tôi, xin
ghé mắt thương xem chúng tôi đến sau khỏi đây...
"Ôi!
Khoan thay! Nhân thay! Dịu thay! Thánh Maria trọn đời đồng trinh..."
Bấy giờ
chẳng những Bính cảm động về nguyện ngắm, Bính lại còn tê mê vì lời răn bảo của
ông cố đạo già ngọng nghịu khuyên Bính nhiều lắm, khiến Bính ứa nước mắt quả
quyết hứa với ông rằng:
- Lạy
cha, con xin vâng lời cha, con xin ăn năn dốc lòng chừa mọi tội lỗi...
Bính vừa
nói xong ông liền nhủ Bính:
- Đấy
con xem, bây giờ có phải phần hồn và phần xác con nhẹ hẳn đi không? Con không
còn áy náy buồn phiền như trước kia con đầm đìa dơ dáy tội lỗi vì con đã mất sự
sạch của linh hồn, con đã mất ơn Đức Chúa lời. Vậy con nên biết rằng, muốn được
bình an trong đời, con phải giữ linh hồn cho trong sạch, con quý nó hơn phần
xác con, con giữ nó cho trong sạch mãi mãi để đón rước sự thương giúp của Chúa.
Nói đoạn
ông giơ tay làm phép "giải tội" và chúc sự lành cho Bính, xong ông
bảo Bính đọc năm chục kinh để đền tội.
Trong
bấy nhiêu lời ông cố đạo khuyên răn, Bính nhận thấy rất nhiều tiếng "trong
sạch" "sạch sẽ". Vậy ý nghĩa cốt yếu của một đời tốt đẹp chỉ do
sự trong sạch thôi ư?
Bính lờ
đờ trông lần nữa dòng sông tỏa sương và cảnh đồng ruộng bên kia xa, rồi chậm
bước theo con đường gần sở Lục lộ về nhà trọ.
Thốt
nhiên những tiếng reo cười rú lên và hai cánh tay choàng lấy người Bính làm
Bính giật mình ngoái cổ nhìn. Bính cũng kêu lên:
- Chị
Hai Liên!
Hai Liên
chăm chú nhìn Tám Bính từ đầu xuống chân:
- Chị
đương ở Phòng sao lại về đây? Anh Năm Sài Gòn bây giờ thế nào?
Bính
ngập ngừng đáp:
- Em về
có tý việc chị ạ.
Hai Liên
thấy nét mặt Bính sa sầm, liền nắm tay Bính ân cần hỏi:
- Việc
gì thế? Kìa sao chị buồn thế?
Bính bần
thần mặt ra một lúc rồi thở dài đáp:
- Năm bỏ
em rồi!
- Sao
lại bỏ chị ư! Chị dối em!
- Thật
đấy!
Hai Liên
liền kéo tay Bính vào hàng nước ở vệ đường. Bính ngồi xuống ghế xong, Hai Liên
càng quấn quít:
- Tại
sao Năm Sài Gòn lại bỏ chị. Em thấy lúc nào Năm cũng chiều chuộng chị lắm cơ
mà.
Bính
buồn rầu kể cho Hai Liên nghe, không biết có đứa nào bịa đặt ton hót với Năm
rằng nàng phải lòng giai, lại nhân tối Năm thua bạc, Năm giận dữ, quẳng sống áo
nhất định đuổi Bính đi và Năm cũng đi biệt theo, không biết đi đâu.
Hai Liên
ái ngại:
- Tội nghiệp!
Ai ngờ Năm Sài Gòn lại xử với chị tàn tệ như thế!
- Vâng,
em biết thế là người ta tuyệt đường nhân nghĩa với em nên em phải rầu lòng bỏ
người ta.
Hai Liên
cười nhìn Bính:
- Chị
định bỏ hắn thật chứ?
Tám Bính
không đáp ngay, ứa nước mắt, yên lặng hồi lâu rồi nghẹn ngào:
- Vâng!
Hai Liên
lắc đầu, lấy mùi xoa chùi hộ nước mắt vừa vuốt tóc mai Bính, an ủi:
- Thôi
chị ạ, người chồng này tệ bạc ta bỏ đi lấy người chồng khác tử tế, tội gì buồn
bã cho ốm thân.
Bính thở
dài. Hai Liên nói tiếp:
- Mà chị
định đi đâu? Làm gì bây giờ?
Tám Bính
hồi hộp nghĩ đến tình cảnh sắp sửa dấn thân vào. Bước chân ra khỏi nhà Năm,
Bính chỉ có hai đồng ba bạc, thì đã tiêu mất ngót hai đồng. Vậy sau khi chi phí
hết 4, 5 hào còn lại kia, Bính sẽ xoay giở ra sao? Bán quần áo đi chăng? Không
thể được! Thúng quần áo mới, vì khí khái Bính không thèm lấy. Nhân thân nhất
thiết, Bính chỉ còn hai bộ rung rúc để thay đổi. Vả lại đi lơ vơ thế này mà lại
bán quần áo cũ ai người dám mua? Luôn mười hôm Bính đã xin đi đội than, gánh
gạch và đẩy xe cát ở mấy sở nọ thì chỉ được làm buổi đực buổi cái. Còn muốn đi
làm ở những nhà máy Rượu, máy Sợi thì phải có hàng bạc trăm lễ cho đốc công.
Nhưng cứ như cảnh công việc khó khăn bây giờ thì không thể trông mong xin đi
làm ở đâu được. Hay "làm tiền"? Bính rùng mình bảo Hai Liên:
- Cơ mầu
này em đành buôn tấm mía múi bòng lần hồi cho qua ngày thôi chị ạ!
- Ai lại
làm thế, vất vả bệ rạc quá! Lãi lời phỏng là bao? Và ở đây bọn vé chợ và đội
xếp nó soát, nó phạt nặng lắm không bán được đâu!
Chợt nhớ
ra bữa cơm chiều, Hai Liên đứng dậy nắm tay Bính nói:
- Thôi
chị ạ, đừng về nhà trọ nữa, lên xe lại đằng em kẻo tối rồi...
Bính
ngần ngại. Hai Liên nói luôn:
- Em
chưa ăn cơm, vậy chị lại nhà em ăn một thể cho vui.
Bính còn
dùng dằng, Hai Liên đã gọi xe, dìu Bính lên, đoạn bảo anh xe kéo vào sở Mật
thám.
Bính
giật mình, ngước mắt lên vội hỏi Hai Liên.
- Kìa
sao lại vào sở Mật thám?
Giọng
Bính hơi run run và nét mặt biến sắc khiến Hai Liên phì cười:
- Khỉ ạ!
Làm như người ta dẫn mình cho mật thám bắt không bằng. À cũng tại em quên không
nói cho chị biết em đã có chồng mà chồng em là "cớm" nên em có nhà ở
sở Mật thám chị nhỉ?
Bính
thẹn:
- Em nào
dám ngờ chị! Chị lấy người ấy bao lâu?
- Từ sau
cái ngày chị em ta ăn chả nem ở Xuân lại ấy mà.
- Một
năm rồi cơ?
- Phải.
- Có
cháu nào chưa? à quên! Xin lỗi chị.
Dứt lời
hai người cùng nhìn nhau, cùng chua với xót nhớ tới cái thời kỳ nhục nhã, lúc
nắm tay nhau than thở trong một gian buồng chật hẹp tối mờ. Hai Liên chép miệng
bảo Tám Bính:
- Đấy
chị xem có chồng mà không có con thì khổ không? Vì thế em ăn sung mặc sướng đến
đâu vẫn tưởng khổ sở quá người ăn mày chị ạ, vì dù họ cùng đói khát chừng nào
nữa song có đứa con để ôm ấp vỗ về cũng khuây khỏa sung sướng.
- Thôi
số kiếp ông trên đầu định thế, mình đành chịu vậy! Mỗi người một dịp cầu lận
đận, đời này hồ dễ mấy ai sung sướng vẹn toàn?
Rồi Bính
thuật cho Liên nghe Bính đã thuốc thang rất tốn kém nhưng đến ngày Năm Sài Gòn
bị tù, Bính lại ốm và bụng mang dạ chửa, đến kỳ sinh nở thì con chưa ra khỏi
bụng mẹ đã chết. Kể đoạn Bính cúi mặt xuống, chớp chớp mắt:
- Như
thế thà đừng sinh nở lại hóa hay. Cứ cái nông nỗi mẹ nhìn con, con không biết
nhìn mẹ, hoặc mẹ con chia rẽ thì còn đau đớn hơn.
Xe dừng
lại, cả hai bước xuống, qua một dẫy nhà nhỏ đến gian nhà rộng cách dãy kia bằng
cái sân vuông giồng bắp cải và rau.
Hai Liên
đẩy cửa vào trước, kéo ghế bảo Tám Bính ngồi. Thấy khách lạ vào, người vú già
liền vặn to ngọn đền cầy trên mặt tủ chè, nhấc đặt xuống bàn.
Gian nhà
đương mờ mờ sáng rực lên với bao nhiêu đồ đạc. Giữa nhà kê một chiếc bàn tròn
có bốn chiếc ghế mây chung quanh. Sau bàn, một tủ chè bằng gỗ gụ đánh bóng lộn.
Trong tủ lấp lánh một hàng chai rượu mùi, hai bộ ấm chén Nhật Bản và mấy chồng
bát đĩa cổ. Đối diện bộ phản mà vú già bày mâm cơm, một cái giường tây gỗ lát
giải đệm và buông màn. Phía tay trái, ở chính giữa kê một chiếc tủ đứng, hai
cái giá gỗ bày hai chậu đinh lăng kèm hai bên. Trên mặt tường mấy khung tranh
ảnh treo không có hàng lối, những cách treo tự nhiên ấy trước mắt Bính lạ và
đẹp lắm.
Cách bày
biện trong gian nhà này tỏ ra chồng Hai Liên là một người đứng đắn khá giả, và
hạnh phúc gia đình của Hai Liên có thể lâu dài.
Bính mải
trông quên cả ăn, đờ người cầm bát không đưa lên miệng và. Thấy thế Hai Liên
giằng lấy bát xới cơm, giục Bính gắp thức ăn, Bính đón lấy bát cười bảo Hai
Liên:
- Chị
yên trí lắm rồi nhỉ?
Hai Liên
đưa mắt cho Bính:
- Thôi
đi.
Bính
cười nói luôn:
- Thật
đấy mà!
Hai Liên
càng dịu nhời:
- Vậy
thì chị ở với em cho vui đừng đi đâu nhé!
- Nhưng
còn anh ấy thì sao?
Hai Liên
hơi vênh mặt:
- Cái
hạng này đối với người ngoài nhất là cánh chạy thấy thì có vẻ hắc lắm, thế mà
đối với vợ thì lại một phép, vậy chị nói đến làm gì. Ngay khi tôi mới về tôi
bảo sao nghe vậy, đố dám trái lời, mà đây chỉ là làm lẽ thôi đấy!
Tám Bính
lườm Hai Liên:
- Gớm!
Chị chỉ được cái đáo để thôi!
- Còn
phải bàn!
Chợt có
tiếng người ở gian bên nói vọng sang:
- Này
bà, ông ấy nhắn tôi dặn bà tối nay cứ ngủ kỹ một mình, ông ấy đến
"tua" "gác nhà giấy" đấy.
Hai Liên
đầy một miệng cơm, lúng búng trả lời:
- Vâng!
Cám ơn ông, và ông làm ơn cho tôi nhắn lại, tối nay tôi ngủ hai mình kia nhé.
- Kìa,
sao lại hai mình! Bà hay pha quá!
Hai Liên
cười đáp:
- Thì
tôi dặn ông sao, ông cứ nói thế mà.
Dứt lời,
Hai bấm Tám Bính, ghé vào tai Bính nói thầm:
- Thằng
cha này có vợ nhưng vợ ở tận Hà Đông, ít khi xuống chơi, nó lẳng giai lắm mà
"sộp kê"(1) lắm, lại đi dạo nữa đấy.
Bính ẩy
Hai Liên một cái:
- Em chả
thiết đâu!
Hai Liên
cười phá lên, cố ý cho người bên kia nghe thấy:
- Mấy ai
đã cõng được ngay ai mà vội chối đây đẩy nào!
Tám Bính
vội bưng lấy miệng Hai Liên xuýt xoa:
- Thôi!
Tôi đi ngay bây giờ đây.
Cơm nước
xong, Hai Liên mở tủ đứng lấy một cặp áo nhiễu tây màu và chiếc quần lĩnh, đến
bên Tám Bính nói:
- Đây
chị mặc thử xem có vừa không. Cặp áo cà phê sữa và mỡ gà này em mới may để đi
hội đấy. Vừa thì phải, vì chị cũng mảnh dẻ như em.
Bính
ngượng nghịu. Hai Liên một mực ép Bính phải mặc ướm! Bính ngần ngại đón lấy.
Bính vận đến đâu khít đến đấy, Hai Liên thấy thế cười bảo:
- Khéo
quá! Và này gương, lược, phấn sáp kia, chị tha hồ trang điểm, mau chóng lên để
đi xem hát kẻo tám giờ rồi.
Phần
thẹn, phần cảm động vì lòng tử tế thành thực của Hai Liên, nên sau khi rửa mặt,
má Bính đỏ ửng lên. Hai Liên tấm tắc khen:
- Quái!
Chị bao giờ cũng trẻ đẹp như bao giờ, mà em thì một ngày một già, một xấu đi.
Bính
không đáp; ngao ngán cúi đầu nhìn đôi dép Nhật Bản, tê tái với những ý nghĩ xót
xa cho sự đẹp đẽ, xinh tươi từ trước đến giờ đã chẳng làm cho mình sung sướng,
lại còn gây nên bao nhiêu bước long đong.
o O o
1. Sộp kê: nhiều tiền
Bỉ Vỏ - Chương 17
Thấy
Bính hãy còn ngần ngại. Hai Liên vuốt lưng Bính nói:
- Chỉ
còn cách ấy thôi, nếu chị không thuận, em cũng đến bó tay, vì không còn cách
nào giúp chị được. Suốt buổi sáng nay em hỏi mọi nơi, mọi chỗ nhưng họ đều chối
bai bải. Bảy, tám chục bạc bây giờ em mới biết nó là to.
Bính thừ
người ra một lúc rồi buồn rầu bảo Hai Liên:
- Em khổ
quá! Em khổ quá!
Đoạn,
Bính quay hỏi thẳng Cun đứng bên cạnh bà cụ mà năm kia Bính gặp ở Hải Phòng:
- Bốn
hôm thôi à?
Thằng
Cun gật đầu:
- Họ chỉ
cho khất có bốn hôm thôi, nếu không chạy đủ tiền nộp phạt họ sẽ giải thầy lên
tỉnh, tống lao.
Bính cảm
động nhìn thằng Cun nói, Bính thấy nó vẫn còn thương Bính vô cùng. Chiều hôm
qua, ở giữa chợ đông đúc, chợt gặp Bính, nó liền ôm choàng ngay lấy, khóc như
mưa gió. Bính đương sung sướng được gặp gỡ em thấy em khôn nhớn, thì nỗi lo
lắng lại bừng bừng trong tâm trí Bính, Bính bảo Cun:
- Này
Cun! Ban sáng tao rối ruột quá, nghe câu được câu chăng, vậy mày kể lại lần nữa
cho tao rõ hơn.
Thằng
Cun vân vê tà áo, kể ngành ngọn cái tai nạn đã xảy ra.
Hôm kia,
lúc nó đang lúi húi thổi cơm ở dưới bếp, một người đàn ông vẫn quần áo vàng,
cầm cái siên sắt sồng sộc chạy đến thộp tay ngực nó, khám xét nó, rồi dẫn lên
nhà trên. Nó không còn hồn còn vía nào. Bố mẹ nó cũng run bây bẩy, mặt cắt
không còn hột máu trước cặp mắt mà quá xanh tựa mắt mèo của người Tây đoạn đứng
chắn lối ra vào. Một lúc sau trong bếp nhao nhao lên những tiếng cười. Người
mặc quần áo vàng ban nãy và hai người ăn vận giống thế đi lên trên nhà, giơ
trước mặt bố mẹ nó hỏi cái gì đây? Giời ơi cái ấy là nửa cút thuốc phiện tìm
thấy trong đống rơm sau liếp.
Tức khắc
họ giải bố mẹ nó lên huyện. Hôm sau lý trưởng rong bố mẹ nó về bắt khai tất cả
đồ vật, ruộng vườn. Bố mẹ nó liền nhắn bà cụ già ngày năm kia gặp Bính, nhờ dẫn
nó đi tìm Bính chạy cho tiền nộp phạt, bằng không sẽ phải ít ra cũng một năm
tù, còn nhà cửa đất cát sẽ bị mất hết.
Bính bị
sôi máu lên, hỏi dồn:
- Thế
chỗ thuốc phiện là của thầy mẹ hay là của ai. Có phải của người ta đi đò đến
bến thuê tiền giữ cho người ta phải không?
Bà cụ
ngồi bên thằng Cun vội đáp:
- Cô còn
lạ gì, ông bà làm cái gì chứ với những của quốc cấm ấy thì có gan bằng cái mẹt
cũng chẳng dám! Chẳng qua vài năm nay thấy ông bà làm ăn tấn tới có đồng ra
đồng vào, người nọ vay, người kia mượn, rồi nghề đời trâu buộc ghét trâu ăn, kỳ
dịch trong làng họ hỏi không được họ bỏ thuốc phiện báo đoan để làm bại cho bõ
tức đấy thôi.
Bính
chán nản:
- Nhưng
mà đoan cứ thấy thuốc phiện ở nhà mình là họ phạt chứ họ xét gì đến những sự
rắc rối thù hằn kia.
Chuyện
một hồi lâu nữa, mọi người đi ngủ.
Đồng hồ
treo trên tường điểm mười hai tiếng. Đêm khuya rồi. Bính suốt ngày chạy vạy,
mệt nhọc cố nhắm mắt ngủ, nhưng hai mi mắt cứ khô cứng đi, tâm trí càng sôi nổi
không biết bao nhiêu lo buồn. Lúc nguy biến này Bính không xoay được trăm bạc
chạy cho bố mẹ, để bố mẹ bị tù tội, mất hết nhà cửa vườn đất, thì đời Bính còn
là khổ, còn là nhiều tai tiếng. Bố mẹ Bính sẽ oán giận Bính mãi mãi, sẽ hờn dỗi
suốt đời vì đinh ninh con mình dư dật nhưng tiếc cha, tiếc mẹ. Cái cảnh lao tù
nhục nhã kia, cái cảnh không nhà không cửa, không một tấc đất cày cuốc nuôi
thân kia thế nào chả lôi kéo cha mẹ Bính vào cảnh đói rét, rồi cả thằng Cun
cũng vì Bính mà khổ sở, cơ cực vô cùng. Nó sẽ là cái đích để cho cha mẹ Bính
sỉa sói băm vằm những khi giận dữ.
Ngay hôm
sau... Ngay hôm sau nữa... Thế là cái thời hạn nộp phạt chỉ còn có ngày hôm nay
thôi.
Nhưng
Bính đã bớt lo. Tuy vậy sự chua xót chiều qua khi Bính liều nhận trăm bạc, món
tiền của người mật thám bạn với chồng Hai Liên bỏ ra cưới Bính cũng về làm lẽ,
vẫn dồn dập trong lòng Bính. Nhất là lúc này Bính lại càng hồi hộp. Tập bạc
giấy đã gói kỹ lướng với hai tờ, nhật trình và lượt dây gai chẳng đã thắt bốn
năm nút, Bính chỉ còn chờ người học trò thảo xong lá thư là gói lại làm một gói
trao tay bà cụ cầm về cho cha mẹ.
Cả nhà
đều yên lặng.
Ngoài
tiếng ngòi bút mới chạy soàn soạt trên tờ giấy, người ta chỉ thấy những tiếng
thở. Bỗng người học trò lên tiếng:
- Đây
nghe xem thế này có được không?
Bính thở
ra một cái mạnh:
- Vâng
cậu làm ơn đọc to lên cho.
Lá thư
dài non bốn trang giấy, với những ý kiến của Bính lời lẽ văn hoa của người học
trò kia tả ra rất thống thiết:
"Lạy
thầy mẹ, con là Bính gửi vài hàng chữ về kính chúc thầy mẹ được khỏe mạnh, và
cúi xin thầy mẹ vui lòng chịu mọi sự khốn khó của Chúa bày đặt để thử thách
lòng các con chiên trung tin.
Con đau
đớn biết bao, lòng con như sắp tan nát, khi con được tin thầy mẹ và thằng Cun
mừng rỡ tìm thấy con.
Lạy thầy
mẹ, còn sự thể trong hơn ba năm con bỏ nhà xa thầy mẹ lên tỉnh, con không dám nói
đến vì nói đến chỉ làm thầy mẹ thêm tủi thẹn mà thôi. Một người bơ vơ như con
sống trong hơn ba năm ấy thật là nhơ nhuốc, bởi thế con không dám viết thư về
nhà.
Nhưng
Chúa thế nào cũng ngoảnh mặt lại, và thế nào cũng có một ngày Chúa cất gánh
nặng trên vai con đi.
Người
chồng hư hỏng của con coi như là chết rồi. Con định về Nam Định thu xếp làm ăn
buôn bán chờ dịp may mắn khá giả sẽ trở lại quê nhà thăm thầy mẹ và em. Ngờ
đâu.
Lạy
Chúa! Con nói thế, nếu thầy mẹ không tin đã có Chúa trên đầu soi xét cho. Quả
thật con khốn khó vô cùng: và nghĩ tới thầy mẹ ruột lại đau hơn cắt.
Trăm bạc
bây giờ to quá! Con suy nghĩ đến nát cả tâm trí nhưng không thể tìm được một
phương kế gì ra tiền. Con đã tưởng đến phải chịu nhìn thầy mẹ bị tù tội nhục
nhã, gia đình tan nát.
Nhưng
thôi, lạy Chúa! Lạy thầy mẹ! Xin Chúa và thầy mẹ tha thứ cho con. Trong lúc khó
khăn ngặt nghèo này chỉ còn có cách ấy, con đành nhắm mắt liều lấy làm lẽ một
người có đạo, có vợ, có con, như thế thật trái với điều răn buộc của hội thánh
truyền. Đau đớn cho con!".
Nghe hết
đoạn đó, Tám Bính bủn rủn cả chân tay, nước mắt chảy ròng ròng.
Bính
không chờ người học trò đọc hết lá thư, vội giằng lấy, xé vụn ra. Hai Liên
trừng mắt nhìn toan hỏi thì Bính kéo vội thằng Cun và bà cụ già lại, nức nở
nói:
- Thôi
cụ, xin cụ làm ơn đưa gói tiền này về cho thầy mẹ con. Cụ đi ô tô về ngay. Cả
Cun mày cũng về ngay.
Nói đến
đây, nước mắt Bính càng tràn ra, cổ họng Bính nghẹn ứ lại. Thằng Cun ngây người
nhìn chị không chớp mắt.
Bỉ Vỏ - Chương 18
- Này
mợ, nước sôi rồi đây, pha chè đi. À còn chục miếng đường tây mợ đem ra mà uống.
Bính
đương vá chỗ vai áo, nghe thấy chồng bảo pha chè nhưng cứ làm lơ đi, mãi lúc
rút xong mũi kim cuối cùng, và trên hỏa lò ấm nước sôi réo lên, bọt nước trào
dập gần tắt hết lửa, Bính mới chạy đến tủ chè với lấy lọ chè và lọ đường.
Bính rót
nước sôi vào ấm, chờ một lúc rồi rót ra hai chén đầy. Hương chè mạn sen ngát cả
gian nhà hồng hồng ánh lửa của lò than bắt đầu cháy rực.
Bính nhả
bã miếng trầu, chiêu ngụm nước chè rồi hỏi chồng:
- Này cậu
cái người ở sà lim số tám mà cậu dặn tôi bảo tù cỏ-vê đưa cơm ban chiều là ai
vậy?
Người
chồng cười nói:
-
"Nốt" tốt của tôi đấy!
- Thế
nghĩa là gì?
Người
chồng vẫn rung đùi khề khà. Bính cau mặt phát vào đùi hắn, dỗi:
- Ai thế
bảo cho tôi biết, không có tôi và chị Hai đi xem hát bây giờ.
Hắn phải
nói ngay:
- Làm gì
mà nóng thế! Để người ta còn nhấp giọng nào.
Hắn
ngừng lại, uống hết chén nước, rồi khề khà thuật lại cái sự gặp gỡ may mắn đã
làm hắn khoan khoái cho Bính nghe:
- Tối
hôm kia tôi và thấy thằng "doóc"(1) ra Tân đệ khám thẻ xong thì gần
mười giờ. Tôi đã đạp xe về đến nửa đường thế nào lại rớ ngay được bốn người
không thẻ, mà một trong bọn đó có án biệt xứ mới thích chứ.
Bính
lắng tai nghe, hắn nói tiếp:
- Và
thằng này chính là thằng mà sở Mật thám ngoài
o O o
1. Doóc: phụ mật thám.
Hải
Phòng đương tầm nã riết, song vẫn lẩn tránh được.
Bính băn
khoăn, vội hỏi:
- Tội gì
thế?
Người
chồng gật gù đáp:
- Đủ mọi
tội, ăn cắp, giết người, và...
- Vượt
ngục à?
- Không,
nhưng nó cũng đã năm, sáu lần tù và đã đi Côn Lôn.
Bính
nóng ruột:
- Tên là
gì?
- Nó lắm
tên lắm. Những Ba, Bốn, Năm, Sáu gì ấy nhưng tên chính là Nguyễn Chí Thiện. Để
ngày mai, tôi chờ ông phó trên Hà Nội về, tôi lên trình, lúc đó lục
"phích" ra xem thì rõ tung tích nó.
Bính bồn
chồn, đắn đo hỏi chồng:
- Liệu
nó có việc gì không?
Hắn ta
cười nhiều hơn, đắc ý lắm:
- Mình
ạ, thế nào thằng ấy cũng bị giao trả tòa án Hải Phòng rồi lại bị đi đày thôi.
Còn tôi thế nào chả được tư "nốt" tốt lên Hà Nội và cuối năm nay mười
phần chắc chín là được lên ngạch.
Bính
càng hồi hộp. Cái tên Nguyễn Chí Thiện biết đâu không phải là cái tên giả còn
cái tên Năm mà chồng Bính lưỡng lự có thể là một nửa cái tên Năm Sài Gòn cũng
nên. Bính bứt rứt nhưng phải cố nén sự cảm động, hỏi một cách vẩn vơ:
- Trông
mặt mũi nó có ghê gớm không mà nó tù nhiều thế?
- Không!
Thằng này nghiện oặt, gầy gò. Tôi chỉ còn nhớ mặt nó có một cái sẹo to trên
trán và rất nhiều sẹo ở má, ở cằm.
Bính hơi
thất sắc:
- Cả
trán, má, cằm cũng có sẹo, chắc nó bị chém nhiều lắm?
- Đúng
thế, chứ còn chắc với chả chắc gì! ấy là nó còn quấn phu la che đi nhiều dấu
dao nữa, nhưng nhìn đến cặp mắt nó thì lại thấy dữ hơn. Thôi mợ nó quạt màn đi
ngủ, khuya rồi. Vừa nói hắn vừa chỉ ra ngoài trời đã lặng, sương đã xuống mịt
mùng.
Mười một
giờ...
Mười hai
giờ...
Gần hai
giờ thì ánh trắng hơi chếch chếch về phía tây, chiếu qua khung cửa kéo một vệt
sáng dài lên bức tường trắng đục của gian xà lim vắng vẻ.
Năm...
Năm Sài Gòn bó gối nhìn ánh trăng mờ lạnh báo trước những sự tra tấn khủng
khiếp sắp đến và Năm lại vào một nơi mà Năm hết hy vọng trở lại cuộc đời phóng
khoáng.
- Côn
Lôn chăng?
- Hà
Giang chăng?
- Lai
Châu, Sơn La chăng?
Năm Sài
Gòn rùng mình, tự hỏi rồi tự trả lời:
- Có
thể!
Trong
người Năm bỗng nóng bừng lên. Năm thấy lần này sự giam cầm khổ sở hơn hết mọi
lần. Năm vội đứng dậy, vuơn vai thở hắt ra một cái thật mạnh, đóng lại cúc áo
đoạn đi đi lại lại trên sàn xi măng để tránh và quên những ý tưởng tối tăm ghê
sợ. Song những bước ngắn ngủi quanh quẩn chỉ càng làm cho hai ống chân Năm rã
rời, trí não Năm rối beng, và khung ngực lép kẹp thêm chói tức dưới làn không
khí lạnh lẽo nặng nề.
Xà lim
của sở mật thám Nam Định mãi bây giờ mới khiến Năm rùng rợn. Những chấn song
sắt to bằng cổ tay, những bức tường dày quét hắc ín đen sì, những cùm sắt chắc
nịch của xà lim A, xà lim B, xà lim Lô cốt trong Hỏa lò Hà Nội cũng không đáng
khiếp sợ bằng những bức tường xi măng nhẵn bóng của xà lim sở mật thám Nam Định
này in ánh trăng xanh trong xanh bóng.
Năm Sài
Gòn chặc lưỡi, ngồi xệp xuống sàn lạnh hơn ướp nước đá, dựa lưng vào góc tường.
Tâm trí Năm còn mệt lả hơn xác thịt, Năm chỉ còn đủ sức dương đôi mắt lờ đờ mà
nhìn bóng trăng trên tường, mặc những hình ảnh quá vãng nổi lên giữa cái tâm
tưởng u ám của mình.
Năm mồ
côi cha mẹ... Năm không có ai dạy dỗ... Năm lang thang chẳng bao giờ được có
công ăn việc làm chắc chắn. Năm ăn cắp... Năm bị tù... bị tù... bị tù bị tù...
rồi bị đi đày... Năm được gọi là anh chị... Năm lấy Tám Bính...
Rồi đến
ngày nay vì ốm yếu nghiện ngập, vì tình thế khó khăn, Năm phải rời Hải Phòng về
Nam thì lại bị bắt.
Bằng ấy
hình ảnh, bằng ấy nỗi niềm, rất nhanh chóng và rất rõ ràng, liên tiếp nhau, thi
nhau làm tê tái cả lòng Năm. Năm mím môi lại, khoanh tay ra sau gáy, ngả đầu
thở dài.
Hơn ba
giờ...
Bóng
trăng chỉ còn dài bằng cái thước kẻ trên tưòng xám ngắt, nhắc Năm đêm khuya
lắm, gian xà lim sắp tối như mực.
Chợt từ
đáy trời im lặng vẳng lên, chắc ở gác canh trong đề lao gần đấy, những tiếng
kiềng rè rè. Năm buồn bã với gáo nước uống một hơi gần hết, rồi cất giọng nhẹ
nhẹ hát nối theo cái thanh âm rền rĩ đương dần tắt kia:
- Anh
đây công tử không "vòm"
Ngày mai
"kện rập" biết "móm" vào đâu.
... Tám
Bính chập chờn ngủ bỗng thức giấc, lắng tai nghe. Tiếng hát bằng cái giọng ngao
ngán khi xưa từng bào xé ruột gan Bính trong những giờ vắng vẻ chán nản ở nhà
chứa ấy, cái giọng đục lờ lờ, thê thảm, riêng biệt của hạng gái bán trôn nuôi
miệng và hạng giai "du côn" anh chị "chạy vỏ" ấy, nghe rợn
người như một giọng hấp hối, quằn quại đau thương và tuyệt vọng.
Tám Bính
ngồi nhỏm dậy. Tiếng hát im lìm. Bính để hết tinh thần mới thấy chút dư thanh
phảng phất trong tiếng gió khuya ù ù. Bính bước vội xuống giường, không kịp xỏ
dép, mở nhẹ cửa sổ, ngơ ngác trông. Trong màn sương bàng bạc hoàn toàn chìm
trong giấc ngủ say sưa, không bóng một người.
Nhưng...
trong khoảnh khắc tiếng hát lại cất lên. Cái giọng buồn thảm ấy rõ ràng và vang
lên, tỏa hẳn ra xa, lạnh lùng hoang vắng...
Đích
thực Năm Sài Gòn rồi. Bính nức nở, gục đầu bên cửa sổ, nước mắt ròng ròng long
lanh, Bính trạnh lòng tưởng đến bao nhiêu sự điêu linh bấp bênh, có ăn ngày này
không dám chắc ngày mai và sự tối tăm nhơ nhuốc của đời Năm, một tên "chạy
vỏ", "anh chị" đến kỳ mạt lộ. Bính cảm thấy mình tệ bạc và Năm
Sài Gòn vì một cơn giận dữ ghen tức ruồng rẫy Bính thì không đáng trách tý nào.
Bính cảm thấy một năm nay, mình êm ấm sung sướng còn Năm thì cùng cực khổ sở.
Rồi Bính rùng mình quay mặt đi, không dám trông bầu trời u ám sau những mảng
mây đen nhờ và một cảnh xa xôi đày ải các kẻ đi đày thoáng hiện ra trước những
giọt nước mắt rưng rưng...
... Cánh
cửa sắt nặng chịch của xà lim vừa hé mở, khóa không kịp đóng lại, hai bóng đen
đã cắm đầu chạy mỗi lúc một nhỏ dần, rồi biến mất trên con đường xa tắp.
Bỉ Vỏ - Chương 19
Cái toa
cuối cùng của đoàn xe lửa chạy vào bóng một rặng tre lù mù, và Tám Bính buông
xong tiếng kêu. Năm Sài Gòn đã bế xốc Bính lên chạy vùn vụt, lần lút trên con
đường ngoằn ngoèo bên bờ ruộng. Vành trăng xanh nhợt giải xuống cảnh vật chung
quanh ga Đặng xá, đường Hà Nội Nam Định, một làn ánh sáng lạnh lùng, làm gương
mặt Tám Bính càng tái mét. Máu ở bàn tay Bính rỏ ròng ròng xuống vệ cỏ mỗi lúc
một nhiều nhưng Bính mê man không biết đau đớn là gì hết.
Năm Sài
Gòn thở không ra hơi, một tay cắp Bính ngang lưng, một tay cố gắng xách va li
nặng trĩu. Gió rét qua ruộng lúa vang đến tai Năm những tiếng vu vu như có lẫn
những lời nguyền rủa của người mất va li và của cả hành khách trên tàu.
Năm Sài
Gòn mệt vã mồ hôi nhưng nét mặt vẫn lầm lầm không thay đổi.
Độ nửa
giờ sau Năm rẽ quặt vào một lối nhỏ hơn, hai bên lởm chởm những đám dứa dại um
tùm, thỉnh thoảng sát vào nhau soàn soạt. Rồi Năm dừng bước trước một gian nhà
lá, cạnh gốc đa cổ thụ. Cánh cửa liếp thoáng mở. Năm chui tọt vào. Mấy tiếng
kêu mừng rỡ, khe khẽ:
- Anh
Năm!
Nhưng
tiếng ấy đổi giọng liền:
- Kìa
chị Tám!
Năm Sài
Gòn thở hồng hộc không đáp, buông vội cái va li xuống đất, rồi nhẹ đặt Tám Bính
trên cái phản xép ở góc nhà. Đoạn, Năm nằm vật ra giường bên cạnh. Hai Sơn
luống cuống vặn to ngọn đèn hoa kỳ giơ soi, hắn lại kêu lên:
-
Chết... anh Năm ơi! Chị Tám sao thế này?
Bây giờ
Tám Bính hơi tỉnh, đã biết đau, nhăn mặt rền tiếng:
- Anh
Năm! Anh Năm!
Dứt lời,
Bính lờ đờ hé mắt, nhưng chỉ thoáng cái lại nhắm nghiền, chân ruỗi căng ra với
một sự buốt chói vô cùng ran khắp cảm giác, Hai Sơn dựt dựt vội đám lông cu ly
và khua lấy ít mạng nhện, xé khăn mặt quấn chặt bàn tay Bính với hai vị thuốc
cấp cứu kia./div> Bính tỉnh hẳn, nằm thẳng, răng cắn chặt môi, cố im lặng để
Hai Sơn dịt chỗ đau. Nhưng mạng nhện và lông cu ly thấm máu, ướt sũng, cứ chực
rơi buột đi. Hai Sơn bối rối:
- Anh Năm
ơi! Nguy quá!
Bính rên
rỉ khẽ gọi:
- Anh
Năm! Anh Năm đâu rồi?
Năm nhọc
đứt ruột nhưng cũng vùng dậy, chạy đến nâng cánh tay Bính cho Hai Sơn buộc
thuốc. Lần này cả lượt vải ngoài cùng đầm đìa máu. Năm Sài Gòn vội đánh diêm
đốt quyển lịch tầu, lấy tàn đắp vào chỗ đau. Bính xót xa nghiến răng nâng cánh
tay lên, nức nở:
- Đến
chết mất thôi! Giời ơi!
Bính
ngước mắt ai oán trông Năm ngồi phía trên. Toàn thân Năm bỗng rung chuyển. Từ
từ ở khóe mắt Năm nước mắt cũng chảy ra, long lanh.
Năm khóc
nhưng không có tiếng. Môi Năm càng mím chặt. Những giọt nước mắt nóng ấy theo
nhau rớt đúng xuống bàn tay đương nhức nhói, Bính lạnh dợi hẳn đi. Sự đau đớn
của Bính như biến mất với cả những gian nguy vừa qua.
Gần đến
ga Đặng Xá, trên chuyến xe chạy suốt Hà Nội Vinh, Bính vừa nhấc chiếc va li của
một người khách ra ngoài đầu toa thì Năm Sài Gòn ở đâu chạy lại giằng lấy. Cùng
lúc hai bóng người mật thám to béo vụt tới. Năm Sài Gòn liền nắm tay Bính, cả
hai lao người xuống đường...
Thế rồi
Bính tối tăm mặt mũi mà mê man cho đến khi Năm đặt Bính trên tấm phản đây.
Tám Bính
rùng mình, tay phải bóp chặt cánh tay trái, nhăn hết cả nét mặt, Năm liền vỗ vỗ
người Bính:
- Mình
ơi! Mình cố cắn răng mà chịu đau, sáng sớm mai anh đón ngay ông lang cho.
Bính rít
tiếng:
- Chờ
không nhức buốt lắm mình ạ.
Năm Sài
Gòn cũng nhăn mặt:
- Thôi
mình cố chịu vậy! Nếu phải gánh nặng thì anh ghé vai đỡ hộ ngay cho mình chứ
không đời nào để mình như thế đâu!...
Nói
xong, Năm đưa tay vuốt trán Bính, gạt những sợi tóc dán trên mi mắt ra vành
tai, rồi đờ người nhìn Bính như một pho tượng đồng.
Dưới cặp
mắt đắm đuối tê tái của Năm, trước im lặng đanh lại của Năm, Bính dần thiêm
thiếp.
Hơn hai
giờ sau, mảng trời ngoài cánh đồng đằng cuối sân giữa hai gốc gạo sù sì, cành
lá soà ra hàng mấy thửa ruộng, bắt đầu mờ mờ sáng. Năm Sài Gòn ngước đầu trông,
ngần ngại dặn Tám Bính:
- Thôi
mình chịu khó nằm một mình ở nhà để anh đi đón thầy lang. Còn anh Hai Sơn thì
đáp chuyến tàu Hà Nội sáu giờ kẻo lỡ việc.
Bính gật
đầu, nhưng chợt nghĩ ra, Bính liền gọi giật Năm lại:
- Thôi
mình ạ! Đừng đi nữa!
Năm cau
mày im lặng.
Bính nói
luôn:
- Em
đành chịu đau, chứ mời thầy lang thì nguy hiểm lắm.
- Sao
vậy?
- Hai
vốn có tính bép xép, kháo chuyện, vậy nhỡ lộ đến tai "cớm" mình ở chỗ
này thì khốn.
Năm vỡ
nhẽ, vỗ vai Bính:
- Mình nghĩ
phải đấy, nhưng để mình đau thế kia đang tâm sao?
Bính
cười nhạt, ngắt lời:
- Đã bảo
em chịu được.
Năm chặc
lưỡi:
- Chà!
Cứ để anh đón thầy lang cho mình, nhỡ "lộ" thì anh nhận hết là
cùng...
Bính lắc
đầu:
- Em van
mình! Nghe em!
Dứt lời,
Tám Bính nương nhẹ nhẹ cánh tay trái lên, đưa mắt nhìn bàn tay bị kẹp xe dập
nát cụt mất quá nửa, nhức chói trong một lượt tàn giấy bản và hai lượt vải
mỏng.
Bính thở
dài. Năm trạnh lòng, vuốt vuốt lưng vợ:
- Đấy
mình lại đau lắm phải không. Thôi anh đi mời ông lang ngay đây.
Bính mắt
long lanh:
- Không!
Đã bảo em không đau đớn gì hết mà!
- Nhưng
sao mặt mình cứ càng tái ngắt thế kia?
Tám Bính
nhìn Năm giây lát mới nói:
- Em chỉ
buồn.. buồn vì túng thiếu thôi. Non năm nay đi "dọc" gặp nhiều phen
gian nan quá. Giá trước kia...
Đến đây,
Bính rơm rớm nước mắt. Năm nao nao, chờ Bính nói tiếp:
-... Sau
khi ở sở mật thám Nam Định ra, mình nghe em, vợ chồng đưa nhau lên Cao Bằng,
Lạng Sơn, hay ra Uông Bí, Hồng Gai tìm cách làm ăn sinh sống thì làm gì nên nỗi
khổ sở gian nan như ngày nay.
Năm dằn
tiếng:
- Khổ
quá! Anh không muốn mình nhắc tới chuyện ấy đâu. Nghe nó chướng tai lắm. Vậy
anh xin mình từ rầy trở đi còn muốn làm bạn với anh giờ nào, ngày nào thì phải
theo anh mới được.
Bính nức
nở:
- Cho
đến chết chắc?
- Đến
thì đến! Vả lại đi "dọc" có nguy hiểm gì lắm mà mình lo lắng khiếp
sợ. Minh không biết ư, nghề gì, việc gì, có gieo neo khó khăn mà ta theo đuổi
làm được mới thích chứ. Anh đã đứt kẽ lưỡi dặn mình, mình vẫn quên không nhảy
nghiêng người về đằng trước, một là tránh gió tạt, hai là lấy thăng bằng, để
đến ngày nay xảy ra cơ sự này, anh nghĩ thương, lại vừa giận mình.
Biết
mình nhỡ miệng, Năm nắm chặt tay Bính dịu ngay nhời:
- Giận
mình thì ít, thương mình thì nhiều...
Bính vô
cùng buồn bã. ý Bính muốn hỏi Năm: "Sao anh không theo đuổi một nghề khó
nhọc nguy hiểm khác nhưng chân chính có phải hơn không?". Nhưng Bính không
thể và không dám nói ra nhời. Bất giác Bính ngẩng đầu lên lờ đờ nhìn Năm, thở
dài một tiếng nhẹ:
- Đáng
tiếc!
Năm bỡ
ngỡ:
- Cái
gì, đáng tiếc?
Tám Bính
thẫn thờ lắc đầu.
- Thật
đáng tiếc!
Bỉ Vỏ - Chương 20
Một buổi
chiều gần tàn, nắng vàng nhạt, chân trời lặng lẽ mờ mờ sương.
Tám Bính
đứng ở đầu toa chở hành khách hạng tư, trong cảnh vật bên đường thấp thoáng
chập chờn trong ánh nắng và khói sương. Giời tối dần. Rồi mưa bụi. Gió rào qua
những mặt ruộng mênh mông đen sẫm, tạt qua mặt Bính những hạt mưa lấm tấm. Bính
né lùi người vào bên cửa lối ra vào, đưa mắt nhìn suốt một lượt:
- Phải
cứ ngủ cho rõ say vào.
Dứt lời,
Bính cười, Bính vui sướng thấy dạo này đổi sang đường tàu Hải Phòng Hà Nội vợ
chồng Bính "trúng" được luôn, và nhờ những thủ đoạn đưa đón của Bính,
công việc êm như ru, "hàng" "trôi" không vấp váp. Thấy thế,
Năm Sài Gòn chặc lưỡi bảo Hai Sơn:
- Về đi
"dọc" đường này nếu không có Tám Bính tôi đến bó tay mất!
Năm phải
phục thầm Tám Bính những khi Bính bình tĩnh suy tính rất chóng trong các cơn
nguy hiểm. Năm thật không ngờ từ ngày Tám Bính bị kẹp mất một bàn tay, Bính lại
trở nên một "bỉ vỏ" xuất trận gan trường lạ thường.
... Như
ngày tháng năm mới rồi, Tám Bính không nhanh mắt, không mau trí khôn thì Năm
Sài Gòn vừa bị bắt, vừa bị đòn đau trên một chuyến xe lửa rất đông.
Người ta
còn nhớ đến ga Cẩm giàng có một bọn lái lợn hơn mười người say rượu bét nhè,
chen nhau lên tàu. Những hầu bao xóc xách tiếng hào cạnh thắt lưng làm Năm
đương buồn vì tối qua thua sóc đĩa trần trụi, tỉnh hẳn người, tươi ngay nét
mặt.
Một lúc
lâu, Năm giở dao sắp sửa cắt túi một người chuyện huyên thuyên bên cạnh hắn thì
Bính ngăn lại, bảo khẽ:
- Việc
gì phải vội thế, hẵng "tròm" xem "so" nào "tễ
bướu" nhất hãy "khai"(1) nào.
Nói đoạn
Bính bấm khẽ Năm Sài Gòn.
o O o
1. Hẵng nhìn xem thằng nào
nhiều tiền nhất hãy cắt nào.
-
"Nhe" đằng "hậu đớm"(1) anh Năm!
Năm đưa
mắt nhìn theo một ông cụ già nhất trong tụi ấy, thắt lưng lụa hồ thủy, mặc áo
cánh lụa nâu, ý chừng là trùm phường lái lợn này - đương xốc hầu bao đếm tiền.
Năm tờ
giấy bạc một đồng, hai tờ giấy năm đồng, non hai chục hào ván.. những giấy bạc
mới, những bạc hào sủng soảng như nhảy múa trước mặt Năm, Năm cười:
- Ừ nhỉ,
tý nữa!
Tám Bính
cười, đáp lại, hai tay vẫn ủ trong một cái đẫy vải, lảng ra khỏi chỗ khác.
Nhưng chẳng phải Tám Bính không có "khách hàng" đâu, mắt Bính tuy
trông ra ngoài, song Bính cứ lùi dần đến bên anh lái trẻ tuổi ít cười, khư khư
giữ một bọc tiền trong lòng. Tuy thế anh cũng lẳng lơ lắm, luôn luôn đưa mắt
liếc Bính. Mỗi lần Bính đều trả lại một nụ cười kín đáo.
Lúc đó
ông lái già vẫn say bự, vẫn chuyện trò huyên thuyên, còn Năm Sài Gòn đã ngồi
sát cạnh ông.
Bỗng Năm
rút lưỡi dao, nhẹ đưa cắt túi tiền của ông già. Tức thì người trẻ tuổi đĩ thõa
nọ đứng vội lên, vớ đòn ống, giơ thẳng cánh tay nhằm đầu Năm giáng xuống.
Bính
xanh mắt, lao nhanh người chắn ngay bước người trẻ tuổi, nhổ toẹt quết trầu và
kêu:
- Chết,
phang cả vào mặt tôi bây giờ. Làm sao thế này?
Người
trẻ tuổi bực tức kêu lên:
- Ô kìa!
Tiếng
"kìa" chưa buông xong, đánh cái vút, Năm Sài Gòn đã cầm túi tiền chạy
ra cửa toa rồi lao xuống đường.
o O o
1. Nhìn đừng sau lưng.
- Thế là
cô để kẻ cắp xẻo túi tiền của ông tôi thoát rồi!
Bính
trừng mắt:
- Đâu kẻ
cắp đâu? Và nó chạy đâu?
Người
trẻ tuổi đỏ mặt:
- Thôi
không thèm nói với cô nữa. Khéo mèo!
Bính ra
dáng bẽn lẽn, lùi lũi về chỗ ngồi. Một lúc sau, cả tàu bớt nhao nhao bàn về
chuyện ông lái già mất hai chục bạc, Tám Bính đã thoắt xuống ga Đình dù với cái
đẫy tiền của anh chàng nọ, và để lại trong trí nhớ anh một bài học về sự đứng
đắn trên đường trường đáng giá cũng non hai mươi đồng.
... Trời
tối âm u, gió càng rít mạnh, mưa thêm mau và nặng hạt. Vùng quê mênh mông dần
chìm hẳn trong sương mờ mịt. Một bóng người từ đầu toa đằng kia đi tới, Bính
ngẩng đầu khẽ gọi:
- Anh
Năm!
Năm thầm
nói:
- Một
"so sì".
Dứt lời
Năm quay lại lấm lét nhìn:
- So sì
nào?
- So sì
"trưng tẩy" đằng "hậu đớm" mình "tễ bướu"(1) lắm.
- Sao
anh không "loại tươi"(2).
- "So
hắc" lắm! Cá nó "diếm" ở "dắm thượng"(3) áo ba-đờ-suy
cơ.
- Thì
phải "khai"(4) chứ sao.
o O o
1. Thằng người ta diện tây ở
sau mình nhiều tiền lắm.
2. Loại tươi: lấy ngay.
3. Ví nó dấu ở túi trên áo
ba-đờ-suy cơ.
4. Khai: xẻo, cắt, rạch.
- Không
thể được, anh đến gần nó, nó cứ lảng đi, mà một "bỉ đượi"(1) đến bên
nó, nó đứng yên mình ạ...
Tám Bính
ngắt lời:
- Em
hiểu rồi.
Năm đi
sang toa khác, Tám Bính rón rén đi vào chỗ ngồi, khi qua mặt một người đàn ông
vận âu phục. Bính đưa mắt nhìn. Ánh đèn điện trong toa không sáng lắm, vẻ lẳng
lơ của Bính đẹp dịu thêm. Người đàn ông phừng phừng cả mặt. Hắn đứng dậy xốc cổ
áo ba-đờ-suy, kéo phu-la lên quá mang tai, theo nhanh Bính.
Đến đầu
toa, Tám Bính đứng lại, tỳ tay lên lan can thẩn thơ trông. Hắn liền nhẹ vỗ vai
Bính:
- Cô! à
em! Mưa rét thế này buồn lắm nhỉ.
Bính mỉm
cười, nhích nhích người đi không đáp. "Làm tiền" nhưng ra cái vẻ
"bò lạc" đấy. Hắn tự nhủ. Rồi bằng một giọng êm ái nhưng sỗ sàng hắn
hói:
- Còn vẽ
sự! Đứng hẳn lại đây với tôi rồi nói chuyện có phải vui không?
Vừa nói
hắn vừa vuốt lưng Bính tấm tắc khen:
- Chà!
Xinh tệ! Đáng yêu tệ!
Bính gạt
tay hắn:
- Này,
trẻ con vừa chứ!
...
Trước còn thưa, dần thêm đậm đà rồi đằm thắm. Và Tám Bính càng chuyện trò, cười
cợt khi thấy hắn cởi phanh áo ba-đờ-suy ra định choàng lấy người Bính cùng lúc
Năm Sài Gòn nhẹ bước tiến đến. Nhưng, vẫn như không hay biết, hắn chỉ càng mê
mệt, nhìn ngắm đôi má ửng hồng của Bính. Tay phải hắn ôm choàng
o O o
1. Bỉ đượi: Con đĩ.
lấy
Bính, tay trái bíu lấy cánh cửa tàu để một bên áo khoác trễ hẳn xuống.
Năm Sài
Gòn liền đưa lưỡi dao sáng loáng nhẹ rạch cái túi đựng ví tiền.
Nhưng
đầu Năm vừa che khuất ánh đèn vệt một bóng tối trên mặt Tám Bính, hắn vùng quay
lại túm ngay được đầu Năm.
"Lộ
tẩy".
Bính
liền nhảy đại xuống đường. Năm nổi xung thuận tay lộn mũi dao đưa luôn vào nách
hắn.
Một
tiếng kêu rú lên!
Nhanh
như cắt, Năm rút ví tiền rồi lao mình ra ngoài tàu.
Bỉ Vỏ - Chương 21
Hơn hai
tháng nay trên những chuyến xe lửa chạy Hà Nội Hải Phòng lại mất hút vợ chồng
Tám Bính.
Những lời
kêu ca nguyền rủa tuy đã bớt đi nhiều song mỗi khi xe chạy tới ga Cẩm Giàng,
Đình Dù, Cổ Bi, hành khách vẫn còn ngơm ngớp lo ngại. Họ bảo nhau kẻ nào có
tiền, có hành lý thì phải cẩn thận giữ lấy, nếu rời tay ra, là các thứ đó tuy
không có cánh nhưng sẽ bay ngay.
Rồi
người nọ khoác lác với người kia, bịa đặt ra lắm chuyện lạ lùng mà vai chủ động
họ chỉ biết là một con vợ mảnh khảnh xinh tươi và một thằng chồng xấu xí cực kỳ
hung tợn. Những chuyện ấy đã đến tai sở mật thám Hải Phòng và Hà Nội. Nhân có
nhiều người khai trình tiền và hành lý bị cướp trốc tay, nên trên Hà Nội phái
hẳn mấy "ađăng" chuyên dò xét, lùng bắt cho kỳ được hai tên bợm nọ.
Nhưng
thấy bóng cớm chùng săn mình ráo riết, Năm Sài Gòn và Tám Bính liền nghỉ làm
tiền ở đường bộ, đổi sang đường thủy.
Chẳng
những vợ chồng Năm Sài Gòn, cả Tư-lập-lơ, Ba Bay, Chín Hiếc cũng đổi nghề, vì ở
Hải Phòng ba gã này cũng bị sở mật thám tầm nã riết.
Thôi thì
tàu nào tàu ấy nhộn hẳn lên, chẳng mấy khi vắng tiếng kêu ca của hành khách.
Mại bản đã tốn công phu ngăn ngừa tụi Năm Sài Gòn song không có hiệu quả gì
hết, vì tụi "quít" tàu thông lưng với cánh đi "dọc" nên chỉ
khám lấy lệ thôi.
Nhất là
tàu An Xương, hễ động nói đến nó, những người đi chuyến Hải Phòng Nam Định ngày
hai mươi ba tháng chạp cùng bọn thuỷ thủ đều nhớ ngay ông cụ già kèm nhèm bị
mất cắp, lếch thếch ôm đứa bé vừa đi vừa mếu máo. Chuyến tàu ấy, boong trên
boong dưới đông nghịt hành khách và hàng hóa. Tiếng cười nói ồn ào và tiếng máy
chạy ầm ầm huyên náo như cái chợ to về ngày hội.
Đêm
khuya rồi hành khách vẫn còn chuyện trò ran ran. Họ nói những chuyện không đâu,
từ đời Tam hoàng, Ngũ đế, những chuyện bịa đặt, yêu ma, thần quỷ để cho qua một
đêm đằng đẵng. Có lắm cụ già nghễnh ngãng, câu được câu chăng, cũng cố lắng tai
nghe và nhiều người đàn bà cho con bú mê chuyện quá quên cả con nằm trong lòng
đã ngủ mà không kéo yếm xuống. Có lắm cô gái lơ đãng ngả hẳn cặp đùi lên người
nằm bên.
Cùng lúc
ấy, đằng cuối tàu, hơn mười người quây tròn lấy cái bàn đèn bày gọn trên chiếc
chiếu hẹp. Họ gối đầu lên đùi nhau như những cặp tình nhân âu yếm. Khói thuốc
làm họ không quản gì quần lành áo rách, hay già trẻ, hay đạo mạo, bốp chốp, mà
chỉ biết có ngọn đèn thon thon thỉnh thoảng hơi rung rung trong chiếc chụp bằng
vỏ chai cắt ngắn, và điếu thuốc thơm tho phân phát sao cho đáng với số tiền
từng người bỏ ra mua.
Một
người đàn ông đứng tuổi nằm đối diện ngọn đèn, kéo xong điếu sái nhất thì ì ạch
nhỏm dậy, tự rót nước uống vừa cất giọng nhè nhè nói:
- Cụ phó
Tống ngủ rồi à? Cho vài câu Bao Công kỳ án hay Võ Tòng sát tẩu đi chứ?
Ông cụ
thợ cạo già nằm bên kia lim dim mắt, đáp:
- Mới có
mười điếu hơi đâu mà chuyện trò!
Một
người khác vội hỏi:
- Vậy
thì bao nhiêu bố già mới đủ?
- Ít
thôi, mươi mười lăm điếu nữa...
Năm Sài
Gòn đưa mắt nhìn cóng thuốc, cười tự nhủ:
- Dễ
thường cụ định hút hết phần mọi người chắc. Hơi gì mà quý thế!
Nhưng
ông cụ thợ cạo già chỉ kéo thêm hai điếu nữa rồi không đợi ai giục cụ cũng tươi
tỉnh kể cái án Quách Hoè mà cụ khoe là một cái án ly kỳ nhất trong thế gian này
cho mọi người nghe. Tuy giọng cụ phều phào nhưng ông cụ nhớ dai và nói rất có
duyên. Đến đoạn nào quan trọng, cụ nói rất thong thả và chêm vào những câu hỏi
hóm hỉnh:
- Tôi đố
các ngài Bao Công sẽ xử ra sao? Ai người tài đảm dám nhận lấy việc ấy! Cái cảnh
quỷ khóc, thần sầu kia có làm chuyển được Quách Hòe không?
Chẳng
những người hút, cả những người chung quanh cũng chăm chú nghe. Mấy ông già
ngồi gần đấy gật gù thi nhau tán tụng cái tài của đấng minh quan nọ, và vạch
những án mà các quan ngày nay khép oan cho người làng mình, người họ mình.
Ông cụ
phó cạo già được họ khen nở nang cả khúc ruột, gật gù:
- Đấy
các ngài xem, các quan án bây giờ thuần công minh như thế đấy!
Một cụ
già ôm đứa bé con trong lòng, ngồi sau lưng Năm Sài Gòn thấy lời mai mỉa của
người nói chuyện hợp với cảnh ngộ mình liền xen nhời:
- Phải!
Giờ thì lắm quan công minh lắm. Công minh đến nỗi nhiều kẻ, nhà không có mà ở,
bát không có mà ăn, vợ lìa chồng, bố bỏ con, nhưng chẳng dám hé răng kêu nửa
nhời, vì kêu vào đâu? Ai nghe cho?
Cụ này
dằn dọc nói, vẻ mặt buồn rầu vô cùng, nhác nom qua ông cụ phó cạo già ái ngại
hỏi:
- Cụ nói
thế chắc hẳn nhà cụ có người bị bắt bớ oan uổng chứ gì?
Cụ già
ôm thằng nhỏ gật đầu, thở ra một cái đáp:
- Phải
cụ ạ! Tôi mất cả cơ nghiệp, tốn kém tới bạc nghìn, rút cục vẫn phải chịu bao
nhiêu sự oan ức, đau đớn thế mới chua xót chứ!
Hai
tiếng bạc nghìn lọt vào tai Năm Sài Gòn, Năm quay ngay lưng nhìn cụ già. Hắn
thoáng nhận ra cái áo nhiễu lót và cái vòng bạc của thằng bé nằm trong lòng cụ.
Nó bảo nhỏ với Năm rằng: "Cụ là một kẻ giàu ngầm đấy". Năm liền mời
ông cụ xơi nước, hút thuốc, và ngỏ ý muốn biết người nhà ông cụ bị oan uổng ra
sao. Cụ già chối từ không hút thuốc chỉ xin một chén nước uống. Uống xong ông
cụ thuật ngành ngọn các nông nỗi của mình cho Năm Sài Gòn cùng mấy người nằm bên
bàn đèn nghe.
Nguyên
cụ có một người con trai năm nay hai mươi tám tuổi, mới lấy vợ, đứa bé cụ bế
đây là con người ấy. Hồi bảy, tám năm trước, vì làm ăn ở nhà quê vất vả mà
chẳng đủ nuôi thân, con cụ phải bỏ làng ra ngoài Uông Bí làm phu.
Trong
bốn, năm năm, con cụ dành dụm được ít tiền, hắn bèn cưới vợ, thôi làm phu, xoay
ra buôn bán. Vợ chồng bảo nhau làm ăn dành dụm, trong hai năm tậu được một gian
nhà và mở to thêm cửa hàng. Ngờ đâu, tháng tám vừa rồi, một hiệu tây buôn ở Hải
Phòng trình sở mật thám bị mất trộm hơn hai trăm thước lụa và hai hòm bít tất.
Người ta bắt ngay được đứa ăn trộm! Khi tra hỏi nó, nó khai gửi ở nhà con giai
cụ. Người ta khám xét nhà con cụ rất kỹ nhưng chỉ thấy vài chục bít tất cùng
một kiểu với thứ mất đi. Con cụ nhất định chối cãi. Thằng ăn trộm kia nghe đâu
chủ nó cũng làm mật thám và không hiểu vì lẽ gì cứ một mực nhận con cụ là đồng
đảng và khai rằng xưa nay lấy được đồ vật gì cũng gửi con cụ bán hộ.
Cụ được
tin ấy ra ngay Uông Bí thăm con. Tới nơi thì con đã bị giải đi Hải Phòng tống
lao. Cụ và con dâu nhặt nhạnh thu xếp được đồng nào đều chạy thầy kiện, lễ lạt
quan nọ, quan kia cả. Song công việc một ngày một kéo dài mãi ra, hơn bốn tháng
rồi mà con cụ chưa được giấy gọi đăng đường. Rồi phần vì uất ức, lo lắng, phần
vì cảnh tù tội khổ sở đầy đoạ, con cụ ho ra máu chết ở trong đề lao. Đương khi
bối rối ấy, người con dâu lại đâm ra vẩn vơ, ốm yếu cũng chết nốt, để lại cho
cụ đứa bé chưa đầy ba tuổi này.
Nói đến
đây nước mắt cụ tràn trề, cụ nghiến răng nguyền rủa cái đứa gian ác gieo tai,
gieo vạ cho cụ và oán trách ông trời độc địa nỡ lòng phá tan gia đình cụ, giữa
cái tuổi già gần đất xa giời này.
Nghe cụ
già kể lể than thân, ai cũng tỏ ý thương hại cho cụ. Một người hỏi: "Thế
còn người con dâu chết đi, còn đồng nào để lại cho ông cháu không?"
Cụ chấm
nước mắt đáp:
- Có vài
chục bạc thôi, mà trước kia cửa hàng đáng giá tiền nghìn đấy.
Một
người khác vội an ủi:
- Thôi
cụ đừng phiền nữa, vui vẻ chăm lấy đứa bé, lớn lên thế nào nó cũng trả nghĩa
cho bố mẹ nó.
Lời nói
làm cụ càng ứa nước mắt. Rồi cụ ôm lại cháu và quấn chăn cho nó. Cánh tay cụ
nhấc lên để lộ một bọc vải nằm gọn trên đầu gối.
Năm Sài
Gòn liếc mắt nhìn, tưởng tượng ngay ra món tiền và những thức quý giá mà vì e
ngại ông cụ không muốn nói thật. Hắn mừng rơn, thỉnh thoảng thân rót nước mời
cụ già uống. Ông cụ bế cháu ngồi dưới chân Năm vừa uống nước vừa tấm tắc khen
Năm:
- Ông tử
tế quá! Cho tôi uống chè tàu đến no chắc?
Năm Sài
Gòn cười:
- Có gì
đâu! Cụ cứ tự nhiên chuyện trò xơi nước. Với chúng tôi chỉ lấy thế làm vui
thôi.
Nghe Năm
nói, ông cụ càng gật gù, mặc Năm vuốt ve đùa bỡn với đứa cháu bé ngồi trong
lòng. Năm trước còn xoa má nó, xoa lưng nó, dần dần khắp người nó, rồi đến cái
bọc kia...
Sáng hôm
sau khi tàu đỗ bến Nam Định, người ta thấy ông cụ già rũ rượi thở không ra hơi,
lếch thếch ôm đứa cháu bé chạy khắp mọi chỗ trong tàu. Người ta đón hỏi cụ thì
cụ tái mặt trả lời một câu ngắn ngủi:
-
"Nó" mất rồi!
Không ai
hiểu "nó" là cái gì. Nhưng nếu người ta là Tám Bính và hỏi Năm Sài
Gòn thì ta sẽ biết rõ nó là cài bọc có hai đôi hoa tai, bốn chiếc vòng xuyến và
một nghìn hột vàng gói với bốn chục bạc và một lá thư của người mẹ chết để lại
dặn dò ông cụ bố chồng cố dẹp nỗi buồn mà chăm nom lấy cháu bé... Ông cụ nên tự
nuôi nấng lấy cháu thì hơn và phải tiêu pha dè dặt, kẻo ông thì đã bảy, tám
mươi tuổi già, cháu thì trứng nước, họ hàng lại không có, nếu hết tiền khi cháu
hãy còn thơ ấu thì ông biết trông cậy vào ai.
Bỉ Vỏ - Chương 22
Năm Sài
Gòn cầm cốc rượu đặt trước mặt Bính, gắp miếng gà rán bỏ vào bát Bính, rồi cùng
bọn Tư-lập-lơ cười phá lên. Tiếng cười của mấy người phút chốc bị tiếng pháo
ran ở ngoài phố át đi. Năm nói thật to nhưng Bính và bọn Tư-lập-lơ chỉ loáng
thoáng nghe thấy:
- Họ
đương ăn mừng tết đấy! Chúng ta... à... mình... à... chú... tư... chú Chín...
chú Hai "riễn"(1) cho thật sưa(2) vào... để... à để... mừng năm
mới... mau nào.
Khói
pháo và hương hoa cúc từ ngoài vườn tràn vào nhà làm Bính càng bừng bừng. Hứng
trí, Bính nâng cao cốc rượu mai quế lộ cười nói:
- Thế
thì mình và chú Tư cùng uống nào!
Dứt lời,
Bính hơi ngả đầu, chun mũi lại, lim dim mắt, tợp một hớp thật to. Men rượu bốc
lên thắm cả khuôn mặt trái xoan và long lanh cặp mắt. Đôi hoa tai Năm kéo lại
cho Bính, óng ánh ẩn hiện dưới mái tóc đen mượt, càng tăng thêm những nét tươi
sáng. Ấy là với món tiền bán số vàng lấy được của ông cụ già, Năm Sài Gòn chỉ
sắm cho Bính ít quần áo, còn thì Năm đánh bạc thua hết, chứ nếu Bính đòi may
mặc và trang điểm như người khác thì tết năm nay chắc Bính còn trẻ đẹp hơn.
Năm Sài
Gòn nồng nàn nhìn vợ, nhẹ nhẹ vuốt má Bính:
- Này
chú Tư, chú xem vợ một "so chạy" có kém gì vợ một ông hoàng không!
Tám Bính
hắt tay Năm đi, lườm rất yêu:
- Hoàng
gì! Hoàng tháng năm ấy à!
Năm vẫn
lả lơi, vuốt ve:
- Thôi
làm bộ vừa chứ! Thử ngẫm dạo nào làm vợ so "cớm" với ngày nay làm vợ
thằng Năm Sài Gòn thì bao giờ hơn!
o O o
1. Riễn: rượu.
2. Sưa: say.
Tư-lập-lơ
cười ngất:
- Bao
giờ chị Năm chẳng sướng hơn. Vì có bao nhiêu tiêu bấy nhiêu, chừng nào cũng
vừa, chừng nào cũng ít, không tính toán bần tiện. Nhất là Năm là dân chạy vỏ một
dân không yêu thì thôi, chứ yêu ai thì đến thân mình cũng chẳng quản và chẳng
bao giờ chịu giương mắt ếch nhìn người tình mình bỏ mình đi gắn bó với người
khác những khi mình ba đào cùng khổ, kém sắc thua tài.
Bính tê
mê ngồi nghe. Sự vui sướng đương nhóm lên trong lòng Bính phút chốc tan hẳn.
Một ý nghĩ buồn tiếc thương nhớ và bao hình ảnh quê nhà, cha mẹ, chị em, chúng
bạn thoáng qua tâm trí Bính như cơn gió lạnh. Bính thẫn thờ đưa mắt trông những
ánh nắng thoi thóp còn lấp lánh trên khóm đào lá lăn tăn đằng góc vườn, tưởng
tới bao nhiêu sự bấp bênh và cuộc đời cứ một ngày một âm u héo hắt, khó mà còn
hy vọng thay đổi được.
Tiếng
pháo ròn rã lại tới tấp ran lên khắp một vùng. Dẫy phố trong khói pháo thơm
thêm mịt mù, đầm ấm, êm đềm.
Bính mải
nghĩ, tay vẫn giữ chén rượu không, người ngây ra. Năm Sài Gòn vỗ vai, cười:
- Kìa!
Đưa anh rót rượu rồi uống nữa đi chứ.
Tám Bính
giật mình, Hai Sơn nháy Năm.
- Chị ấy
vờ say để anh bế vào giường đặt đấy.
Năm gật
gù nhăn nhở ghé tai Bính nói thầm nhưng cũng để cho mọi người nghe rõ.
- Ai lại
thế? Phải uống hết chai rượu kia rồi muốn gì thì muốn mình nhỉ?
Bính
chớp mắt cúi đầu trông xuống chén rượu cạn. Năm tưởng Bính vui sướng nên bẽn
lẽn, bèn xoa lưng Bính:
- À anh
hẵng xếp cái chuyện ấy đi mình nhé. Vậy chúng ta rót rượu thêm uống đi, vui đi,
kẻo ít lâu nữa hết tết, xuân hết, chúng ta có muốn cũng chẳng làm sao có được
cái ngày thư thả ấm cúng này mà ăn uống say sưa.
Chín
Hiếc gật gật, nói theo:
- Phải
đấy! Anh Năm nói phải đấy. Chỉ đến mùng mười hay mười rằm chúng mình lại xuôi
ngược, nay Nam Định, mai Hải Phòng, ngày kia Hà Nội, lo cuống vó vì "làm
tiền" vì "cớm" vì hỏa lò. Vậy được những lúc rỗi rãi này tội gì
ta không nốc rượu cho túy lúy càn khôn.
Chín
Hiếc ngừng lại, gọi Tám Bính:
- Kìa
chị Tám ngồi thừ người nghĩ gì đó? Không ăn uống, chúng tôi ăn uống xong kéo
anh ấy đi chơi lại kêu.
Bính
gượng tươi nét mặt:
- Vâng
các chú cứ ăn uống đi, cứ chuyện đi, tôi xuống bếp đây để hâm qua nồi cà ry,
lấy thêm cái đùi gà, không thức nhắm còn ít quá.
- Phải,
phải lắm mau lên mình ạ...
Tám Bính
vội vàng xuống bếp. Bính vừa bước khỏi ngưỡng cửa, nước mắt đã ứa ra, chan hoà.
Qua những giọt nước mắt đầm đìa, Bính thấy hiện vụt ra một cảnh mịt mù, buồn tẻ
trong lớp tre xanh rì ở đằng tít xa... Làng Sòi! Làng Sòi!
...Sáu
năm đã qua... lâu biết bao... dài biết bao! Mà biết đến bao giờ Bính mới có
được một cuộc đời trong sạch êm đềm như cuộc đời của mọi người trong buổi đầu
xuân?
Khó lắm.
Nếu Năm Sài Gòn vẫn còn sống và vẫn yêu thương Bính. Nếu đứa con Bính vẫn biệt
tăm tin tức. Nếu cha mẹ Bính vẫn cùng làng nước, đinh ninh Bính là một sự xấu
xa gớm ghiếc cần phải xa lánh.
Hơn nữa,
nếu Bính còn lấy tình thương yêu của Năm để an ủi mình những lúc bối rối chán
nản vì những kỷ niệm thảm khốc... sự lừa dối của "tham Chung"... bán
con... vợ thằng trẻ tuổi độc ác và thằng khốn nạn nọ, sở cẩm, nhà Lục xì, mụ
Tài-sế-cấu... cứ đến vây bọc tối tăm cả tâm trí Bính.
Hơn thế
nữa nếu Bính càng yêu thương Năm Sài Gòn, càng thắt chặt lại với Năm và theo
Năm mãi mãi.
Ánh
chiều vàng đã xanh nhạt rồi dần lẫn với sắc lam nhuộm màn sương.
Cánh
đồng bên sông chạy dài theo chân đê biến thành một biển khói hương rung động.
Những cụm tre lơ thơ chỉ còn là những bóng lờ mờ, nhìn những đám lông chim phất
phới tan tác...
Tám Bính
lạnh tê cả tâm trí. Mệt mỏi, Bính dựa lưng vào bức vách, lim dim mắt, thẫn thờ
nhìn bóng tối tràn ngập mọi nơi mọi chốn.
Tiếng
pháo lại tới tấp vang khắp một vùng. Tám Bính giật mình. Ở nhà trên, loáng
thoáng tiếng Năm đương lè nhè hò rượu và gọi lấy thức nhắm thêm. Vội vàng Bính
chạy vào bếp, chất thêm củi, đặt chảo mỡ lên, rồi cúi rạp xuống thổi cho ngọn
lửa bén tới lượt mạt cưa rắc chung quanh bếp.
Bỉ Vỏ - Chương 23
Tàu An
Xương rời bến Nam Định từ hồi mười giờ sáng...
Tuy nhằm
vào ngày 16 tháng giêng, có nhiều nơi mở hội hè đình đám, nhưng hành khách vẫn
vắng tanh. Ngoài vài chục người ở boong trên, chỉ còn thấy lẻ tẻ sáu, bảy người
đàn bà buôn chuyến trầu vỏ mệt mỏi nằm bên những lô hàng xếp gần buồng máy đằng
cuối boong dưới.
Tàu chạy
thẳng một mạch tới bến Quý Cao mới đỗ lại mươi phút để ăn hàng rồi lại chạy.
Đến bến Ninh Giang thì trời vừa sập tối. Quá Ninh Giang một quãng ngắn thì trời
tối mịt mùng.
Sương và
gió rét chùm kín cả dòng sông, cả cảnh vật bên sông. Tiếng máy chạy sình sịch
cũng chẳng đủ làm gợn được sự hoang lặng. Ngọn đèn đỏ bên mạn trái tàu giữa
lượt kính dày càng mờ, thấp thoáng chiếu những tia sáng ủ rũ lên rặng tre xanh
thẫm mỗi khi tàu đè con nước, hoặc tránh những bãi, chạy gần bờ. Những lúc ấy,
người thủy thủ đâm con sào xuống sông rồi uể oải rút lên để đo mực nước, vừa
đọc những câu tiếng tầu bằng một giọng ê a.
Tám Bính
ngáp và bấm Năm Sài Gòn:
- Đi ngủ
thôi "so" ấy "hắc" lắm!
Năm Sài
Gòn đưa mắt trông về đằng lái, chau mày đáp:
- Nó
"hắc" nhưng nó lắm tiền.
- Chắc
chắn?
- Sao
lại không? Bạc trăm đấy.
- Thế cơ
à?
- Phải,
tôi nom thấy rành rành nó nhận tiền ở bên Ninh Giang lên khi tôi xuống bến ấy
mua thuốc phiện. Nhưng Bính vẫn ra vẻ ngần ngại, Năm Sài Gòn cau mặt:
- Thôi
mình đi ngủ trước vậy.
Dứt lời
Năm quay lại đằng lái, chỗ một người vận âu phục đương hút thuốc lá.
Xa xa
vành trăng nhợt nhạt hé lên. Trước ánh lửa lấp lánh của mẩu thuốc lá, dù người
vận âu phục tinh mắt đến đâu cũng không nhận được mặt Năm. Vả lại người ấy
không để ý gì đến Năm hết, nhưng vẫn để ý đến cái ví tiền nằm trong túi quần.
Năm Sài Gòn
cũng hút thuốc lá, sát cạnh người ấy xin diêm. Năm thử xem bàn tay hắn ta có
rời túi không vì Năm biết chắc diêm ở túi ấy. Người nọ không chỉ đưa mẩu thuốc,
- đưa bằng tay trái - rồi khi Năm châm lửa xong, hắn liền cầm lấy, kéo thêm một
hơi dài, đoạn giơ thẳng cánh vứt xuống sông.
Cái cử
chỉ tuy thường nhưng với người vận âu phục lặng lẽ này, Năm thấy ngự một sự
giễu cợt hết sức kiêu căng.
Năm bực
dọc, gằn tiếng:
- Hay
"so quéo" "sửng mông"?(1).
Năm cười
gằn tự trả lời luôn:
- Đời
nào mình lại "trộ" mình đây.
Rồi Năm
chắp tay sau lưng, đi đi lại lại, liếc nhìn:
- Vô
ích! Người đó càng trầm ngâm, bàn tay phải cùng ấn sâu trong túi quần như bị
buộc chặt lại với cái ví.
o O o
1. Hay thằng này chột biết.
Chợt Năm
nhẹ dừng bước, nghiêng đầu lắng tai nghe người vận âu phục nói một mình:
- Sắp
đến bến Cung đây.
Từng
tiếng một lọt vào tai Năm, khiến Năm càng nóng ruột. Năm hậm hực nhìn đằng xa
tờ mờ sáng, trong dạ bồn chồn. Năm ước gì tàu xô phải bãi chậm lại vài ngày để
món hàng của Năm không thoát được lên bờ.
Non một
giờ sau tàu đến bến Cung, rồi quá bến Cung đến Kiến An, rồi quá Kiến An, và chỉ
còn đợi mở cầu là áp bến Hải Phòng. Lúc ấy đằng đông sáng rực hẳn lên mà Năm
Sài Gòn vẫn mải mốt theo dõi.
Bỗng
trống ngực Năm đập rộn lên vì vui sướng: miệng túi quần người ấy há hốc để lộ
mép ví tiền bằng da đen, và cánh tay phải hắn đương quay tròn chiếc mũ dạ.
Năm Sài
Gòn tiến bước ngay. Nhưng, tự dưng ruột gan Năm đau soắn lại. Năm phải ngồi xệp
xuống chiếu, không sao gắng được nữa. Giữa lúc đó Ba Bay hút xong, lễ mễ bê bàn
đèn ở đằng cuối tàu đi lại, trông thấy Năm ngồi xuýt xoa, liền vội hỏi:
- Anh
Năm sao thế?
Năm dằn
tiếng:
- Không
hiểu tôi ăn phải cái gì độc nên từ tối đến giờ lại ngâm ngẩm đau và giờ thì tôi
đau bụng quá, chú mau xuống boong dưới bảo nhà tôi lên cho tôi dặn cái này.
Ba Bay
gật đầu, người vận âu phục lần bực thang xuống boong. Năm trỗi ngay dậy, toan
nối gót. Cũng như lần trước, Năm lại phải ngồi sụp xuống chiếu - sự đau đớn đột
nhiên nọ chói tức một cách khác thường.
Giây
phút sau Tám Bính đem dầu lên xoa khắp người Năm, Năm dìu dịu bèn bấm Tám Bính,
cả hai lần xuống, vừa lúc tàu sắp sửa áp bến.
Nhưng
quái lạ, khi Năm Sài Gòn sờ đến cái túi của người kia thì ví tiền không còn đấy
nữa, Năm đảo mắt trông cả túi áo trên, hai túi áo dưới, Năm sờ cả ba túi: túi
không chỉ là túi không.
Vậy ví
biến đâu mà người vận âu phục điềm tĩnh thản nhiên?
Năm Sài
Gòn uất lên tới cực điểm. Năm nghiến răng gầm khẽ trong mồm. Bọt mép Năm xùi
ra, hai mắt long sòng sọc như nảy lửa.
Bỉ Vỏ - Chương 24
Ba hôm
sau, lúc Năm Sài Gòn đương bông lơn với một cô hàng mía, Tám Bính ở đâu chạy
lại, nắm cánh tay Năm kéo đến hàng nước gần đấy.
Năm toan
hỏi, Bính trỏ một đứa bé đang đọc nhật trình. Năm Sài Gòn hiểu ý, đến bên nghe.
Đó là một bài lai cảo như sau:
"Tên
tôi là Trần Thiệu Phú ở số 8, phố Khách Hải Phòng. Hôm mười tám tháng giêng ta,
tôi đi tàu An Xương từ Ninh Giang ra Hải Phòng, có đánh rơi cái ví trong đựng
một thẻ tùy thân, một giấy căn cước và ít giấy má quan hệ. Ngài nào bắt được
xin quá bộ đưa lại nhà tôi, hoặc ai biết ai bắt được xin viết thư bảo tôi, tôi
sẽ hậu tạ".
Năm Sài
Gòn hầm hầm ngay mặt làm Bính phải đứng ngay cạnh để đề phòng. Sau đó, Tám Bính
vội lôi Năm ra chỗ khác, vừa đi vừa nắm chặt cánh tay Năm. Qua phố Hàng Cháo,
qua cầu Ca dông, vợ chồng Năm rẽ sang con đường cạnh nhà thương về lối làng An
Dương.
Trời sập
tối. Gió lạnh cất lên. Rặng xoan reo ào ào bên đường. Hơi men đã bớt rạo rực
trong người Năm, Năm nguôi cơn giận, bắt đầu thấy rét, vột kéo cổ áo dạ chùm
kín lấy gáy, đánh diêm châm thuốc lá hút, đoạn bảo Tám Bính:
- Đấy
mình xem tôi đoán có sai đâu!
Không
đợi giả lời Năm nói luôn:
- Cái
"cá" ấy bị "mồi"(1) mất chứ không phải rơi mất.
Bính ngờ
vực:
- Nhưng
ai "mồi"?
Năm Sài
Gòn dừng bước, cười khanh khách:
- Biết
được thằng nào còn nói làm gì?!!...
Để chồng
im im, Tám Bính mới hỏi:
- Này
mình sao người có ví không khai ví bị "mồi" và nói đến món tiền trong
ví?
- Thế
thằng cha ấy mới khôn ngoan...
Tám Bính
ngắt nhời:
- Ngu
chứ lị!
- Có
mình ngu thì chớ! Nó khai đánh rơi và không nói đến số tiền cốt để dử kẻ nào
hám tiền chuộc, đem cái ví lại và nó, lúc ấy không những nó dò xét được kẻ ấy,
mà món tiền mất đi chả bao lâu cũng sẽ tìm thấy. Mình không xem đấy như báo
đăng câu: "Ai biết ai bắt
o O o
1. Cái ví tiền ấy bị móc
mất...
được xin
viết thư chỉ bảo tôi, tôi sẽ hậu tạ" là nó ranh mãnh lắm.
Nghe Năm
Sài Gòn cắt nghĩa Tám Bính nhận rõ ngay. Bính thấy dù sao Năm cũng sành sỏi hơn
mình nhiều, và khi cảm thấy thế, Bính căm hờn hơn Năm.
- Mình
ạ! Kẻ hớt tay trên mình gớm thật!
Năm Sài
Gòn cười gằn nối nhời Bính:
- Vậy
phải sỉa cho nó vài nhát nếu biết nó là ai!...
Tám Bính
vội dịu ngay giọng:
- Ấy
chết, tôi van mình.
Năm
không nói nữa, im lặng bên cạnh Tám Bính. Điếu thuốc lá đã cháy hết, hắn đưa
ngón tay cái lên miệng cắn. Hắn cố nhớ xem chuyến tàu ấy ngoài Ba Bay còn có
dân "chạy" nào không. Hắn hồi tưởng cái lúc đau bụng xong, hắn cố
gượng dậy, mon men đến gần người vận âu phục thì thấy cả ba, bốn túi đều nhẹ
tênh. Cái ví mất rồi.
Nghĩ đến
đấy, Năm tự nhủ:
- Hay ta
"soạng" vội quá, rõ sờ tay vào cái túi có ví mà nhầm là túi không, để
thằng nọ lên bờ mất với một "vỏ" nào đấy chăng?
Năm lắc
đầu:
- Không
thể thế được! Hơn hai mươi năm trời cái bàn tay này nó thiêng lắm, có thể nào
lú lẫn đến như thế được. Mấy lại còn mắt ta, cặp mắt thiên lý nhãn này, cũng
không khi nào nhầm lẫn nốt. Vậy chỉ...
Năm Sài
Gòn liền ngắt ý nghĩ bằng một câu hỏi đột nhiên:
- Này
mình, hôm ấy chỉ có Ba Bay ở lại hút thôi nhỉ?
Bính
ngẫm nghĩ một lát rồi quả quyết đáp:
- Phải.
- Đúng
chứ?
- Đúng,
tôi nhớ rất đúng mình ạ.
Năm Sài
Gòn liền thở một cái đoạn gằn tiếng nói:
- Gớ...
ớ... gớm... thật. Ba... a Ba Bay gớm thật!
Tức thì
cái hình ảnh Ba Bay khi phiện phó say sưa xong, ngất nghểu ấn từng tập bạc giấy
vào túi ở sòng Lý Thanh ra, hiện lên rất rõ ràng trong trí tưởng Năm, khiến Năm
càng tin thật Ba đã đỡ nhẹ cái ví bạc kia, chứ không bỗng dưng Ba làm gì có lắm
tiền mà thua nhiều tiếng bạc canh đêm trước to thế? Bảo của Ba được để dành còn
lại thì thật vô lý hết sức, đối với hắn, túi có bao nhiêu hắn cũng dốc ra hết
để ngốn và phiện phò.
Chợt Năm
ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn hút một bóng người thất thểu trên đường về lối bến
đò Niệm. Năm nghển lên nghiêng nghé rồi hét lên một tiếng, cắm cổ chạy. Bính
nhận ra ngay là Ba Bay bèn vội chạy theo.
Thoáng
cái Năm đuổi kịp Ba. Ba chưa kịp quay đầu lại nhìn đã bị Năm bóp chặt cổ vật
xuống đường. Ba Bay ú ớ muốn kêu song không sao cất tiếng lên được vì hai bàn
tay sắt của Năm khoá khít lấy họng.
Biết đã
vỡ chuyện, Ba hết sức giãy dụa khư khư giữ túi tiền. Năm nóng mặt nghiến răng
thoi luôn ba bốn chiếc trúng mạng mỡ Ba. Ba phải dùng tận lực đấm trả vào mặt
Năm. Năm hoa cả mắt vẫn không chịu buông tay. Dưới đầu gối Năm, Ba Bay thở
không ra hơi, xương ngực Ba như sắp gãy hết mất. Nhìn mắt Năm long sòng sọc, Ba
Bay rởn cả da thịt, cảm thấy hết mọi sự ghê gớm sắp xảy ra.
Nhưng,
Ba nhất định giữ chặt ví tiền. Còn Tám Bính run cầm cập xanh mắt nhìn chồng và
bạn chồng vật lộn.
Mấy phen
Năm mím môi thích mạnh khuỷu tay xuống cổ Ba, luồn tay xuống lưng Ba, cố lật
sấp Ba đi để rút cái ví tiền gài trong túi dưới nách áo, nhưng Năm đều bị Ba co
đầu gối thúc vào chỗ hiểm, Năm Sài Gòn đã sôi máu, rút lưỡi dao giắt ở bắp đùi
ra giơ thẳng cánh, dằn tiếng nói:
- Có đưa
mau không?
Ba Bay
lắc đầu. Năm Sài Gòn nghiến răng nói một lần nữa.
Cánh tay
Năm rung rung. Lưỡi dao nhọn lấp lánh dưới trăng mờ...
Tám Bính
hốt hoảng chạy xô đến định gỡ hộ cho Ba thì Năm liền hắt bắn vợ đi. Ba Bay thừa
cơ toan giật lấy dao, Năm đã đâm thẳng xuống ngực hắn, chẳng để hắn kịp cất một
tiếng van lơn xin nhượng bộ.
Máu tươi
phọt lên, Năm Sài Gòn nghiêng đầu tránh, rồi bồi thêm một nhát trúng cổ họng
Ba.
Ba trợn
ngược mắt. Sau hai tiếng ằng ặc, hắn giãy lên một cái đoạn nằm thẳng cẳng, cái
ví tiền giờ mới rơi ra ngoài. Năm rút mùi xoa lau máu đẫm bàn tay, đoạn nhặt ví
tiền nhét vào túi và khẽ gọi Bính:
- Ba
"củ" rồi mình ơi!
Bính
chạy lại, cuống quít lay người Ba. Thấy Ba cứng đờ, máu ở ngực, ở cổ họng cứ
tuôn ra. Bính ríu lưỡi nói:
- Thế
này thì chết cả mất!
Nghe
Bính nói không nên tiếng, Năm cười rộ lên, rồi lạnh lùng xốc Ba Bay lên vai,
chạy lùi lũi về phía bờ ruộng tận đằng xa.
Mảnh
trăng vừa nhô ra khỏi đám mây xám, trút xuống cảnh vật một làn ánh sáng xanh
trong xanh bóng lẫn với sắc xanh đặc của ruộng rì rào.
Tám Bính
chỉ chực khuỵu xuống. Bính hoa mắt trông thấp thoáng trong sương xác Ba Bay rũ
trên vai Năm, Bính rợn cả người, sực nhớ tới bức tranh vẽ một người tội lỗi lúc
chết bị ma quỷ lôi kéo đi. Bức tranh này treo trên tường ở buồng ông cố đạo già
giải tội cho Bính dạo năm xưa.
Phút
chốc cái vắng lặng êm đềm của đêm xuân trở nên lạnh lẽo, ghê gớm lạ thường.
Bính thấy nó báo trước cho Bính rồi đây, những sự khủng khiếp thế nào cũng đến
với Bính không thể nào tránh được.
Bỉ Vỏ - Chương 25
Non một
năm trời rồi mà án mạng Ba Bay chưa ra manh mối. Rồi vì không thưa và Ba Bay
vốn là kẻ côn đồ nên sở mật thám cũng chẳng chịu dò xét.
Nhưng
cái chết của Ba vẫn mãi mãi làm cho dân làng Vẻn, xóm Chợ con, vùng An Dương
bàn tán những lúc họ lê la chuyện về sự giời có mắt hay không? Xưa nay vốn họ
ghét sẵn Ba Bay, ghét ngon, ghét ngọt, thành thử khi thấy Ba Bay chết, họ mừng
như mở cờ trong bụng. Chính một tay hắn đã làm hại bao nhiêu người làm ăn đầu
tắt mặt tối, gồng thuê gánh mướn phải tan nát cửa nhà khi bị hắn lừa lọc bằng các
ngón cờ gian bạc lận.
Bởi thế
tuy Ba Bay chết, họ vẫn cứ xoi mói những sự xấu xa của Ba. Nhưng nào chỉ có thế
thôi, họ còn nói cạnh nói khoé những kẻ gian ác bè đảng với Ba. Lắm phen nghe
thấy, Tám Bính chết cay chết đắng trong lòng mà phải cắn răng không dám hé nửa
nhời.
Ngày lại
ngày, Bính buồn bã quá. Cái chết khủng khiếp kết liễu đời Ba Bay thường ám ảnh
tâm trí Bính. Lắm đêm ròng rã Bính không thể sao chợp mắt ngủ được, trông đâu
Bính cũng thấy xác Ba Bay rũ trên vai Năm dưới bóng trăng nhợt nhạt.
Có ngày
Bính bỏ cả ăn, Năm hỏi tại sao Bính chỉ nói lảng ra chuyện khác. Trái lại Năm
Sài Gòn vẫn cứ như thường, hôm nào không đi xóc đĩa thì lại hút thuốc phiện.
Nhìn gương mặt Năm không những không thấy lộ vẻ gì băn khoăn lại còn sắt siu
khô khan thêm.
Bên sự
thản nhiên ấy, lòng Bính càng tơi bời, Bính đinh ninh thế nào Bính và chồng
cũng bị lộ và chịu tội không biết nặng đến thế nào. Hơn nữa, Bính có cảm giác
thật như Bính bị tù rồi và chỉ còn chờ ngày đi đày hay lên máy chém nhắm mắt
chờ chết. Càng ngày Bính càng rạc người đi. Năm thấy vậy đã phải kêu lên và cố
ép Bính uống thuốc và tẩm bổ ăn uống.
Một buổi
chiều kia. Một buổi chiều mùa đông, các chòm cây trên rặng đồi tận ven trời xa
còn lưu luyến giữ lại những ánh nắng vàng đã úa. Nền trời xanh nhờ thật là bao
la, thật là hoang vắng. Không một bóng chim bay ngang, không một âm vang nào
ngoài gió buồn tê tái của chiều gần tàn hẳn tỏa ra khắp vùng quê với một sự
lạnh lùng hoang vắng mênh mông.
Tám Bính
đứng tì tay vào lan can đằng cuối tàu nhìn cánh đồng đang từ từ lùi vào màn
sương.
Bỗng
dưng trong giây phút, tâm trí Bính như sáng lên, tươi lên, nhẹ nhàng khác
thường. Bính thấy như gió lạnh đã trút sạch mọi sự rối loạn tối tăm trong người
Bính. Bính thấy như đương sống một cuộc đời êm đềm trong sạch ở đâu đây. Thẫn
thờ Bính tự nhủ:
- Giá
lúc nào mình cũng được như lúc này có phải sung sướng không?!
Nhưng
khi Bính vừa đưa mảnh gương ra soi thấy mặt mày võ vàng hẳn đi thì Bính lắc
đầu:
- Mà ta
sung sướng để làm gì? Con cái chả có, và chẳng còn bao giờ trông mong có được,
cha mẹ thì tận tình, vậy chỉ thêm tủi thân thôi. Vả lại biết bao người khổ sở
vì ta vậy ta cũng phải khổ sở mới cân chứ?
Rồi Bính
rợi người cúi trông bàn tay trái bị xe kẹp dạo xưa, năm ngón tay cụt gần hết,
mà ghê sợ cho cái dấu vết mãi mãi xấu xa của đời mình.
Bính lắc
đầu toan nhắm mắt lại để tránh những hình ảnh tối tăm hiện ra thì Năm Sài Gòn ở
đằng mũi tàu đi tới, khít hai hàm răng bảo Bính:
-
"Cớm" đấy!
- Thế à?
- Nó
định "tôm"(1) chúng ta!
- So nào
vậy?
- So mặt
ngựa và so Vinh.
Bính giữ
vẻ thản nhiên:
- Vậy
đến bến Ninh Giang thì chuỗn.
Năm Sài
Gòn đưa mắt gờm gờm nhìn xung quanh, vội đáp:
o O o
1. Tôm: bắt.
-
"Chuỗn tươi"(1) mình ạ!
Vừa dứt
tiếng Năm đã lao mình xuống sông, cùng lúc hai người đàn ông chạy đến bên Bính
dậm chân nói:
- Thế nó
trốn thoát rồi!
Hành
khách đổ xô lại, lố nhố trông ra dòng nước đen kịt cuốn Năm đi. Trống ngực Bính
dồn dập, Bính lo ngại cho tính mệnh chồng, nhưng Bính phải cố trấn tĩnh để trả
lời câu hỏi của người có cái khuôn mặt dài, mũi gồ và huếch giống mặt ngựa kia:
- Cô
quen thằng kia phải không?
- Không!
Tôi không quen biết gì hết!
Người ấy
trừng mắt nhìn Bính:
- Rõ tôi
vừa thấy cô nói gì với nó mà.
Tám Bính
cười nhạt:
- Tôi là
đàn bà con gái không quen thuộc với họ thì làm gì có chuyện mà nói.
Người
đàn ông đứng cạnh Mặt ngựa gờm gờm nhìn Bính. Bính cũng lườm trả, đoạn nguây
nguẩy đi xuống boong dưới.
Tàu vừa
cập bến Ninh Giang, Bính thót ngay lên bờ. Qua khỏi phố bờ sông, Bính ngoảnh cổ
nhìn, không thấy bóng hai người mật thám theo mới hơi yên tâm.
- Hú
vía!
Bính nói
thầm, chực vào một nhà hàng cơm để trọ thì Năm Sài Gòn ở đâu đến vẫy gọi Bính.
Năm đã thay bộ quần áo khác và khoác một cái áo tơi đi mưa.
- Kìa
mình! Có việc gì không?
Năm Sài
Gòn lắc đầu:
o O o
1. Chuỗn tươi: trốn ngay.
- Không!
Và mình còn bao nhiêu tiền?
- Năm
hào thôi!
-
"Kẹo hựu"(1) thôi à?
- Nói
dối mình làm gì!
Năm Sài
Gòn nhăn mặt:
- Thế
thì chúng mình phải cuốc bộ về Thái Bình mất! Mà đi ngay bây giờ.
- Sao
thế?
Năm Sài
Gòn trông quanh quẩn:
- Cây(2)
ghê, anh lại thấy hai "so cớm" khác.
Năm vừa
nói vừa hất hàm về phía một hàng cơm đằng xa. Bính cau mày bảo Năm:
- Chúng
săn riết quá mình nhỉ?
Bính bồn
chồn lo ngại, hay sở mật thám đã dò xét biết vợ chồng Bính là thủ phạm vụ án
mạng Ba Bay? Bính run run bảo Năm:
- Thì
"chuỗn" ngay thôi!
Dứt lời,
hai người rẽ quặt ra con đường nhỏ ven ruộng. Đã hơn tám giờ tối. Nhằm vào ngày
cuối tháng không trăng, cảnh vật tối mịt. Thỉnh thoảng một con đom đóm ở bụi
tre đen sì bay vụt ra, chập chờn vờn lên nền trời những vệt sáng ngắn, càng làm
cho cái lạnh lẽo vắng vẻ của đêm tối khủng khiếp hơn.
Bính thở
dồn, trống ngực Bính đập tưởng đứt mất. Hình như Năm nghe thấy, hắn bèn nắm tay
vợ khẽ hỏi:
- Mình
sợ lắm phải không?
Bính lắc
đầu và hỏi lại:
o O o
1. Kẹo hựu: năm hào
2. Cây: sợ
- Sắp
đến nghĩa địa làng Thủy Vân đấy mình nhỉ?
Năm
cười, hất hàm về bên tráị Bính trông theo thì chính là nơi Bính hỏị Trong màn
sương mịt mùng, những mô đất và những đám dứa dại gai góc, lù mù đương thiêm
thiếp giữa những tiếng dế âm ỷ.
Hai
người đi được chừng bốn cây số thì mưa bắt đầu lấm tấm rồi dần dần nặng hột,
thấm ướt hết cả lần áo ngoàị Bính run run, thở dàị Năm liền cởi áo tơi đưa cho
vợ nhưng Bính không khoác, dồn bước.
Tâm trí
Bính lại buồn rượị Tuy có Năm đi bên, Bính vẫn tưởng như thui thủi một thân một
mình, và con đường vắng vẻ mà Bính đương đi đây không phải về Vĩnh Bảo, về Thái
Bình mà đến một nơi toàn những sự nguy hiểm, sầu thảm.
Tám Bính
lại bị hình ảnh Ba Bay dọa nạt, Bính lại tưởng ra hắn mình mẩy đẫm máu, tóc rũ
rượi lơ lửng trước mặt Bính. Hắn không cười không nói, nhưng quái lạ một tiếng
gì giống hệt tiếng hắn cứ thì thầm vào tai Bính rằng đời Năm, đời Bính, đời hết
thảy cánh "chạy vỏ" đều sẽ chịu những hình phạt còn khủng khiếp hơn
nữạ Bính không thấy trên nét mặt Ba một vẻ gì giận hờn, oán trách vợ chồng Bính
hết. Hình như cái chết của hắn đã ghi sẵn trong một quyển sổ đền tội công bằng
vậỵ
Tám Bính
và Năm Sài Gòn qua Thủy Vân được một quãng xạ Mưa vẫn không ngớt. Gió thổi mỗi
lúc một rét buốt hơn. Dưới bầu trời đen kịt, hai người khó phân biệt con đường
lầy lội với ruộng bùn ngập nước.
Chợt,
đằng xa, một ánh đen le lói nổi bật hẳn lên trong khoảng mờ mịt. Tám Bính bấm
tay Năm:
- Đến
đấy thế nào chúng mình cũng phải nghỉ. Chẳng biết mình có nhọc không, em thì
mỏi rời cả hai chân và lại ngâm ngẩm đau bụng.
Năm Sài
Gòn đương ngẫm nghĩ, không trả lờị Năm thì thầm: "Giá hai thằng mất thám
ta gặp lần thứ hai có để ý tới ta cũng không thể nào theo được, vì ta đã làm
chúng nó lạc đường ngay từ bến Ninh Giang. Vậy có thể ngủ đêm nay nhưng sáng
mai phải dậy sớm để về ngã ba Đọ rồi về Thái Bình cho kịp chuyến xe ô tô mười
giờ chạy Nam Định. Thế thì hai thằng chứ hàng chục thằng mật thám cũng chẳng
sợ". Thấy Năm trầm ngâm, Tám Bính hỏi lại:
- Có được
không mình?
Năm Sài
Gòn vui vẻ đáp:
- Được
lắm!... Được lắm!...
Độ mươi
phút sau Bính nhận ra cái ánh đèn le lói ban nãy ở trong một nhà tranh làm giữa
hai gốc nhãn um tùm. Bính vội buông tay Năm, chạy đến đập cửạ Có tiếng người
đưa rạ
- Ai hỏi
gì đấỷ
- Tôi
đâỵ
- Aỉ Ai
mua gì đấỷ!
Cánh
liếp hé mở, một khuôn mặt đàn bà dưới nếp khăn vuông hiện ra, Bính liền khẩn
khoản:
- Thưa
bà! Vợ chồng tôi có người nhà ốm nặng phải về gấp Thái Bình nhưng vì trời đổ
mưa và tối quá, vậy bà làm ơn cho chúng tôi trọ nhờ một đêm để sáng mai chúng
tôi đi sớm.
Bính
chưa hết câu, có tiếng đàn ông ở trong nhà nói ra:
- Vâng,
mời ông bà vào nhà. Bu mày chống liếp mau lên chứ, kẻo bà chờ lâu mưa ướt hết.
Đóng lại
gióng liếp cửa xong đâu đấy, người đàn bà nhanh nhẩu mời vợ chồng Năm ngồi
xuống giường, còn người đàn ông ẵm con đứng dậy vặn to ngọn đèn cầy trên mặt
chiếc hòm chân, vừa giục người đàn bà:
- Kìa bu
mày rót nước để ông bà xơị
Bính đón
nhời:
- Vâng,
ông bà cứ để chúng cháu tự nhiên.
Rồi Bính
thân rót nước ra chén. Hương chè tàu thơm ngát thoảng lên làm Bính ngạc nhiên,
đoán rằng vợ chồng nhà này có công việc gì nên mới pha chè sẵn như thế. Người
đàn bà ẵm con ngồi gần đấy hiểu ý Bính bèn thong thả nói:
- Chả
giấu gì ông bà, hôm nay nhà cháu có giỗ, định pha chè mời bà con trong họ uống
rồi đọc kinh, nhưng vì mưa mà nhà cháu ở mãi ngoài đường đê này nên không ai
ra...
Người vợ
tiếp nhời:
- Vậy
gặp ông bà nghỉ đây thật may có duyên với vợ chồng nhà cháu quá!
Khi ấy
người chồng đưa mắt nhìn vợ như hỏi có nên đọc kinh ngay hay là để gần khi đi
ngủ. Người vợ tần ngần. Thấy vậy Tám Bính vội nói:
- Thưa
ông bà thế thì hay quá, ông bà thắp nến lên cho chúng tôi thông công(1) vớị
Người
đàn bà niềm nở:
- Vậy
ông bà cũng đi đạo à?
o O o
1. Thông công: cùng đọc kinh
Bính bẽn
lẽn:
- Vâng
nhà tôi mới theo đạo, còn tôi là bổn đạo gốc.
Người
chồng vội vàng:
- Vậy để
ông sang giường bên kia nghỉ, còn bà với chúng tôi lại hạt năm chục và ngắm
mười bốn đàng Thánh giá(1) vậỵ
Người
chồng nói xong, người vợ liền đánh diêm châm nến rồi rót nước mời Bính sắp sửa
nguyện kinh.
Đã hơn
năm năm, Bính ít nhắc đến các kinh đó, nhưng thuở nhỏ Bính học thuộc lòng và
ngày ngày đọc luôn miệng nên nay Bính vẫn đọc trơn tru và giọng vẫn êm ái lắm.
Nhìn
tượng Đức mẹ bày giữa hai cành huệ trắng cắm trong đôi lọ bằng đất nhuộm phẩm,
và những tia sáng lung lay của bốn ngọn nến, Bính thấy mình lùi dần về quãng
đời thơ trẻ.
Bàn thờ
nhà Bính cũng bày trên miếng gỗ hình bán nguyệt, đường kính độ hơn một thước,
đóng ghép vào cột nhà. Cũng mấy cành huệ trắng, cũng chiếc lọ sành nhuộm phẩm,
cũng tượng Đức Thánh Nữ-trọn-đời-đồng-trinh vẻ mặt trang nghiêm mà hiền từ,
nhưng nhà Bính còn thêm một khung ảnh hình Trái tim mà hiện giờ Bính còn nhớ
từng nét một. Chúa Giê-su mặt rầu rĩ,
o O o
1. Lần hạt năm chục là đọc 50
kinh vừa lần 50 hạt trong tràng hạt. Ngắm 14 đàng thánh giá là đọc 14 đoạn
thuật những cuộc chúa Giê-su chịu các hình phạt, nặng nhất là hình phạt phải
đội mũ gai vác cây thập tự nặng đi rong đường để tới chỗ chịu đóng đanh chết.
Khi ngắm những đoạn này còn phải đọc nhiều kinh khác nữạ
mắt lờ
đờ, một tay chỉ vào ngực. Giữa ngực phanh ra một trái tim rỉ máu, hàng chục
lưỡi gươm sáng xuyên quạ
Đã tới
ngắm thứ tám, chỗ Đức Chúa Giê-su đứng lại an ủi dân thành Giêđuyđa-lem giữa
khi chính mình
không
được một ai ngỏ một câu ái ngại mà lại còn bị xỉ vả, lại còn phải vác cây
"thập ác" nặng nề, thì Bính không sao cầm được nước mắt.
Bính
chấm xong giọt nọ thì giọt kia đã tràn ra ngay, trong chốc lát mắt Bính mờ hẳn
đị Cảnh vật xung quanh Bính bỗng tối sầm lại, duy có bốn ngọn nến bên cạnh
tượng đồng Đức Mẹ là rực rỡ lạ thường, thành một vòng ánh sáng như của vầng mặt
trời mọc lúc rạng đông.
Hai vợ
chồng nhà nọ chăm chú nguyện ngầm không để ý đến Bính. Sự hào hợp ấy khiến Bính
thêm thổn thức, nước mắt Bính càng tràn ra, cổ họng Bính như sắp tắc, Bính
không thể thốt lên một tiếng nữạ Bính đau đớn, Bính tủi hẹn, Bính tê táị
Đọc hết
bản kinh, Bính chấm sạch nước mắt rồi mà vẫn còn muốn khóc. Bấy giờ người chồng
đã tắt bớt hai ngọn nến đi và người vợ bưng một mâm cháo gà hơi bay ngào ngạt ở
dưới bếp lên. Người đàn ông lại giường đánh thức Năm dậỵ Cả hai ân cần mời vợ
chồng Năm ăn. Năm đương đói, nhận nhời liền, Bính tuy buồn bã không muốn ăn
nhưng nể lời cũng phải cầm thìạ Thằng lớn ngủ ở giường trong thấy tiếng bát đĩa
liền ngỏm dậỵ Nó bưng hẳn cái bát to nhất và ngồi ăn bên cạnh Năm. Vợ chồng nhà
nọ vừa ăn vừa chuyện trò vui vẻ lắm. Thấy Bính hỏi các cách làm ăn buôn bán thì
người vợ nhanh miệng nói luôn:
- Chúng
cháu chả giấu gì ông bà, vợ chồng cháu và hai cháu bé đây chỉ trông vào cái
hàng nước thôị Nhưng người khác thì không đủ chi tiêu, nhưng vợ chồng cháu dè
xẻn cần kiệm cùng là chăm cầu xin Chúa nên cũng đủ ăn.
- Thế mỗi
ngày bà kiếm được bao nhiêủ
- Ngày
một hào, phiên chợ hay ngày mùa thì vài ba hào là cùng.
- Có thế
thôi mà nhà đủ ăn?
Người
đàn bà cười:
- Bà
tính bây giờ khó khăn, kiếm được cho các cháu không phải bữa nào nhịn ấy là có
ơn Chúa thương lắm đấỵ Vả lại nhà cháu nuôi thêm vài con lợn, giồng thêm vài
sào rau, đỡ cặp thêm với cháu, chứ cả như cháu buôn bán thì cũng bấn đấỵ
Lâu nay
Bính tiêu tiền chục đã quen tay, không phải vất vả, nên Bính quên bẵng cái khó
khăn eo hẹp của sự làm ăn ở chốn thông quê. Bính quên cả ngày còn con gái Bính
đi chợ xa gánh vã mướt mồ hôi mà chỉ được dăm xu, hay có phiên gạo ế thì chỉ được
nắm tấm, nắm càm không thôị
Bỗng
thằng bé ẵm trong lòng người đàn ông khóc oe oe, người vợ chìa tay đón ngay lấy
nó vừa cười vừa nói nựng: "úi nao ơi! Con tôi đói quá. Tội nghiệp! Có cháo
gà ngon đấy nhưng chưa có răng thì ăn thịt làm sao; Thằng anh nó lại ăn hết
thôi".
Rồi
người mẹ vạch yếm cho con bú! Thằng bé ngậm núm vú bú ụt à ụt ịt như con lợn
con. Trước mặt người đàn bà, Bính mủi lòng đưa mắt nhìn Năm Sài Gòn ăn bát cháo
xong ngồi dựa lưng vào bức vách mơ màng với khói thuốc lá. Bính chua xót nhớ
tới đứa con nhỏ bán đi năm xưa và đứa con đẻ sẩy, và càng xót xa đau đớn hơn
khi người đàn bà cúi hôn xuống cặp má phúng phính xinh xắn của đứa bé, và người
đàn ông thì nồng nàn nhìn vợ ẵm con.
Bính
thấy vợ chồng người nọ thật sung sướng hơn ai, còn mình thì khổ sở không biết
chừng nào đến đời nàọ
Một lúc
lâu, người đàn bà tươi cười bảo vợ chồng Năm:
- Đã
khuya rồi, xin rước ông đi ngủ với nhà cháu, còn bà thì nằm giường trong buồng
nghỉ cho đỡ mệt.
Người
đàn ông nói tiếp:
- Thật
may mắn, nhà cháu vừa mua được cặp chiếu đậu, lại vừa mới giặt chiều quạ
Bính cảm
ơn, đoạn đến bên cạnh giường kê gần cửa sổ nằm. Bính chợp ngủ đị Chợt tiếng gà
gáy trong mấy xóm rải rác đằng xa vẳng lên. Bính đương mơ màng tỉnh ngay giấc.
Rồi thì Bính không sao ngủ được nữa, khi tiếng gà gáy im bặt, những nhịp thở
đều đều không biết của người vợ hay người chồng, hay đứa con thơ ở giường ngoài
buồng đưa lại, như rót vào tai Bính. Giữa khoảng đêm mưa gió ào ào, hơi thở
ngon lành kia lại gợi lên trong lòng Bính ngùn ngụt sự thèm thuồng khao khát
một cuộc đời trong sạch êm đềm dù nghèo nàn.
Nhưng
Bính đau tủi biết bao thấy rằng cái ước mong đó không thể nào có được, Bính chỉ
có thể gặp cái đêm như đêm nay, một đêm trong cái đời nguy nan điêu đứng dừng
bước trong một gia đình ấm cúng nào đấy, để mà tiếc, mà khát khao và xót xa
thôị
Bỉ Vỏ - Chương 26
Tám Bính
về Nam Định thuê một gian nhà gần bến Tân Đệ được nửa tháng nay.
Sáng nay
Bính lại dậy thật sớm ra cửa ngong ngóng Năm. Đã hai chuyến tàu rồi, mỗi chuyến
ba ngày, mà Năm vẫn chưa về.
Ngoài
đường, đàn sẻ líu ríu càng làm cho Bính bồn chồn nóng ruột. Trước mắt Bính nắng
vàng rực rỡ phấp phới trông ủ dột như những tia sáng hấp hối của chiều tàn vậy.
Ăn cơm
trưa xong, Bính lại chờ...
Rồi
chiều... rồi tối...
Lúc ấy
tàu Nam Hải nhân con nước lên lần ra khỏi bãi, kéo một hồi còi dài đoạn mở thêm
tốc lực máy chạy.
Hành
khách nhao nhao lên vì mừng rỡ. Một phần đông người về Nam Định xem hội
"Phủ giầy" thấy tàu xô phải bãi đã tưởng đến nhỡ mất. Năm Sài Gòn
cũng mừng lắm, trước hết vì Năm mới thoát khỏi tay một người mật thám tốn công
phu dò hỏi, lùng bắt Năm ở ngoài Hải Phòng, sau vì một món hàng, vừa lọt vào
mắt Năm.
Ngồi gần
đấy, đằng cuối boong một người đàn bà đứng tuổi ăn vận không sang trọng lắm,
nhưng đứa bé ngồi trong lòng thì dễ thương quá. Chiếc khánh vàng lủng lẳng dưới
chiếc vòng cổ bằng vàng, những vòng chân, vòng tay của nó toàn bằng vàng làm
Năm hoa cả mắt. Các thứ ấy sẽ cho Năm bao nhiêu sự tiêu pha sung sướng. Bán bọn
đồ vàng sẽ lấy được kia. Năm đến sòng xóc đĩa đánh "gấp thiếc"(1) mà
trúng luôn mười "tay" lúc đó trên thế gian này chắc vua chơi cũng kém
Năm.
Nhưng
người đàn bà ấy cẩn thận lắm. Năm Sài Gòn cố làm ra vẻ tự nhiên hiền từ, song
không thể nào gần được đứa bé. Năm đã phải giật mình vì câu nói: "Để hở
thế này thì chó nó đớp mất còn gì!". Khi người đàn bà đó cầm chân thằng bé
kéo ra, kéo vào, vừa cười ròn rã.
Chắc đứa
bé được nâng niu, tẩm bổ cực kỳ sung sướng nên nước da nó mới trắng hồng, chân
tay mới bự bẫm đến như thế. Đem ví với trứng gà hay với bột nặn thì trứng gà và
bột nặn còn kém. Thảo nào nó chừng lên năm lên sáu, đang tuổi chạy nhảy, nhưng
người đàn bà cứ quấn quít lấy nó, chẳng rời nó một giây.
Tày chạy
quá Suôi, Hới đã lâu, thấm thoắt đến gần Tân đệ thì chiếc kim đồng hồ trong
buồng máy chỉ đúng mười giờ.
Mười
giờ... cảnh vật trên sông càng tối mịt mù.
Bỗng
người đàn bà bế con xuống boong dưới, lò dò ra cửa tàu, ngần ngại trông về Nam Định
sáng tỏa một vùng trời, lẩm bẩm nói một mình: "Lâu quá trời đất ạ!".
Năm Sài
Gòn nhẹ như cái bóng nối gót luôn. Người đàn bà vừa quay mình lại, chưa kịp
nhìn Năm, Năm đã thúc mạnh cùi tay vào mạng mỡ người ấy.
Một
tiếng kêu rú lên. Năm Sài Gòn đạp thêm người
o O o
1. Gấp thiếc: Gấp bội lên.
ấy cái
nữa, giằng lấy đứa bé xong lao mình xuống sông. Người đàn bà kêu thất thanh.
Hành khách xô lại. Họ ngơ ngác trông hút theo khoảng sông rộng mờ mịt hai bóng
người nhấp nhô trên đợt sóng mỗi lúc một xa, rồi biến mất.
Người
đàn bà kêu khóc thảm thiết, vật vã mình mẩy. Mọi người đều bàn tán ầm ỹ cả tàu.
Riêng có một người vận âu phục đứng cạnh mẹ đứa bé độ vài sải tay là không nói
nửa nhời. Y tựa lưng cạnh sườn tàu, cau mày lẳng lặng.
Trước
còn một hình ảnh mờ mờ hiện trong trí tưởng y sau cả một thân thể béo lùn với
khuôn mặt sắt siu rám nắng chằng chịt những vết sẹo dao chém hiện ra rõ trước
mặt y.
Y mím
môi, nắm chặt bàn tay phải đấm mạnh vào lòng bàn tay trái, dằn tiếng nói một
mình:
- Lại...
i... i Năm Sài Gòn!...
Bấy giờ
Năm Sài Gòn mải miết bơi, nên không thể nào kịp tháo các vòng chân, vòng tay
đứa bé. Năm đã phải nghiến răng cố dứt cái vòng cổ để về giấu trước đi một chỗ,
nhưng ngón tay chuối mắn của Năm vừa ấn mạnh xuống cổ thằng bé thì nó càng giẫy
đạp khiến Năm suýt phải buông nó ra mất.
Mấy phen
Năm và nó chìm nghỉm rồi lại nhô lên. Năm thở không ra hơi, cánh tay phải mỏi
rã rời, thân thể bắt đầu nặng trĩu. Đã thế gió mạnh ở đâu bỗng nổi lên, thổi
bạt Năm ra tận giữa sông. Giá mà món hàng thường thì Năm đến bỏ đi để qua cơn
cheo leo vật lộn với sông nước này.
Đứa bé
ngạt hơi không giẫy đạp nữa và không biết gì nữa, Năm Sài Gòn gạt những tóc rủ
xuống mặt rồi hết sức hơi... Một lúc sau Năm nhoai được vào bờ liền vội xốc đứa
bé lên vai, cắm đầu chạy. Nhà Năm còn cách đấy một quãng ngắn thôi. Thoáng
chốc, Năm đẩy cửa bước vào, Bính đương nằm, ngồi nhỏm dậy:
- Kìa
mình!
Năm Sài
Gòn đặt đứa bé xuống giường xong ôm ngực ngồi thở, quần áo ướt như chuột lột.
Tám Bính biến sắc mặt hỏi Năm:
- Mình
làm sao thế! Đứa bé nào đây?
Năm lập
cập nói:
-
"Hàng" đấy! Mình.
Tám Bính
nhìn đứa bé, tròng mắt như muốn bật ra vì thấy có một cái gì khác lạ quá. Còn
Năm kéo khăn lau qua mặt xong Năm chạy lại sờ ngực nó, Bính toan hỏi, Năm đã
kêu lên:
- Mà
mình ơi! Nó chết rồi này.
Tám Bính
vội to đèn soi mặt nó: gương mặt nó xám nhợt! Bính nhẹ vuốt mà nó da thịt nó,
giá ngắt. Bính gạt mớ tóc hung hung đẫm nước của nó lên thì Bính càng rởn
người. Nổi bật dưới ánh đèn một vết chàm dài hình con thạch sùng kéo từ trán
đến mang tai bên phải đứa bé, và một cái lẹm nhỏ trên mắt cũng bên phải đập
mạnh vào mắt Bính. Bính choáng váng, cố hết sức tỉnh trí thêm nữa. Bính run
run, đưa tay đặt nhẹ lên ngực đứa bé, Bính không thấy trống ngực nó đập nữa.
Bính hoảng hốt ghé áp tai vào mỏ ác nó, Bính thấy nó chỉ còn là cái xác chết
lạnh như đồng...
Bính tái
mét mặt lại đầu gối quỵ dần, đưa cặp mắt xám ngắt nhìn Năm, nghẹn ngào:
- Thôi
anh giết chết con tôi rồi!...
Cánh cửa
bỗng mở toang. Hai người đội xếp ta chạy vào, bước theo hai người mật thám: một
người ban nãy bắt hụt Năm trên tàu và một người béo trắng vận quần áo dài, còn
thêm một cẩm tây nữa.
Năm Sài
Gòn giật mình, chực chạy trốn. Nhưng cả nhà có mỗi một lối ra thì bị viên cẩm
đứng chắn với khẩu súng lục lăm lăm bấm cò. Năm choáng đầu lên, định rút dao để
đâm, nhưng nhanh hơn, hai người đội xếp đã nhảy xô lại ôm ghì lấy Năm.
Người
mật thám béo trắng vận quần áo dài cũng xô đến lôi Tám Bính dậy, đạp mạnh tay
vào Bính vào cái vòng sắt và trừng nhìn Bính, nghiến răng nói:
- Gớm
thật!... Con này gớm thật.
Bính cúi
đầu run rẩy. Người ấy lại dằn tiếng:
- Chuyến
này rồi tao được xem đời mày... Và mày được biết tao!
Chính là
người mật thám lấy Bính làm lẽ, cách đây ba năm đã đưa ngót trăm đồng để Bính
nộp phạt cho bố mẹ, tuy đã ba năm, nhưng Bính vẫn còn nhớ rõ... Bính nhớ rõ và
càng nhớ rõ bao nhiêu, trí tưởng Bính càng như rỉ máu ra bấy nhiêu. Rùng mình,
Bính quay mặt nhanh về phía đứa con. Mắt Bính lại hoa lên. Bính giật phắt cái
xích sắt trong tay người chồng mật thám, rồi chạy đến ôm chầm lấy đứa bé, khóc
nức nở.
Năm Sài
Gòn bỡ ngỡ không hiểu ra sao. Người mật thám nọ xổ ngay lại, lôi Bính dạy, quấn
nốt hai tay Bính thêm mấy vòng xích sắt nữa, đoạn kéo ra cửa.
Tám Bính
tê mê như người mất hồn, lờ đờ ngoái cổ nhìn với đứa con béo tốt nằm rũ trên
chiếu.
Thoáng
phút giây Bính thấy hết cả mọi sự tuyệt vọng tối tăm từ nay trở đi không lúc
nào không xâu xé tâm can Bính, và Bính sẽ sống một đời khốn nạn dài vô cùng
tận.
Tám Bính
đưa mắt ướt đầm đìa trông Năm lắc đầu:
- Thế là
hết!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét