1. Phật giáo là gì?
Phật
giáo là một hệ thống tư tưởng có nguồn gốc từ Ấn Độ, do một người có tên
Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni) sáng lập. Ông là một Thái tử, đã kết hôn và có con;
nhưng vì cảm nghiệm thấy cuộc đời nhiều khổ đau nên đã quyết tìm con đường giải
thoát. Sau 6 năm gian khổ, trải qua nhiều phương pháp thực hành khác nhau, đến
năm 30 tuổi ông đã giác ngộ (thấy được chân lý của vũ trụ, nhân sinh và đạt tới
hạnh phúc trọn vẹn). Sau đó, ông dành cả cuộc đời còn lại (đến 80 tuổi) để
truyền đạt tư tưởng và hướng dẫn đường lối tu hành cho mọi người. Tất cả những
lời giảng của ông được tập hợp lại sau đó, được gọi là Kinh Phật.
Như vậy,
Phật giáo vốn KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO, nó là một hệ thống tư tưởng triết học
có tính hiện sinh, dùng để áp dụng vào đời sống để tránh những lầm lạc và đạt
tới mục đích cao nhất là hạnh phúc (viên mãn) bằng con đường của trí tuệ sáng
suốt dựa trên nỗ lực và sự tự chủ của cá nhân mỗi người. Như thế, Phật là một
ông thầy giáo – người có năng lực trí tuệ và lòng bi mẫn đã dành cả đời để giúp
đỡ mọi người bằng cách “khai dân trí” cho họ.
Chùa là
trường học của nhà Phật, kinh là sách giáo khoa, đệ tử là học sinh. Mỗi người
đến chùa là đang thực hiện con đường học vấn theo phương pháp của nhà Phật.
Tuyệt nhiên không cần cúng bái, lạy lục - nếu có lạy cũng để tỏa lòng tôn kính
và biết ơn thầy minh; không cần bày ra các lễ lạt rườm rà hình thức gây lãng
phí và làm mê muội nhân tâm. Ngày nay, khi khi ông thầy sáng lập đã qua đời thì
công việc giáo dục ấy được trao vào tay những vị thầy chùa ( sư ). Những người
Phật tử đến chùa không được biến những vị sư này thành những thần thánh, hãy
chỉ coi họ là thầy giáo, và kính trọng họ như kính trọng những vị thầy giáo
(nếu họ có đức hạnh). Xin nhớ rằng, họ không có quyền năng gì trong việc ban
phước giáng họ cho ta cả; cái lợi ích (nếu có) thì là do sự chân thành học hỏi
và kiên trì thực hành đúng phương pháp từ lòng nhiệt thành giảng dạy của thầy
chùa mà có.
2. Tư tưởng Phật giáo
Nếu tính
cả Kinh, Luật, Luận thì hệ thống sách vở của Phật giáo sẽ “chất cao như núi”,
làm nản lòng những ai muốn bước vào tìm hiểu. Nhưng dù phức tạp và uyên áo mà
trí tuệ thông thường khó có thể lãnh ngộ hết được thì Phật giáo vẫn khá sáng
sủa chỉ với 4 chữ: KHỔ - TẬP – DIỆT – ĐẠO (Khổ - Tập là Nguyên nhân của khổ -
Diệt là Trạng thái hết khổ - và Đạo là Con đường thực hành để đạt tới hết khổ).
Đây là “4 sự thật cao quý” – hay còn gọi là 4 chân lý căn bản, và người phật
giáo phải hiểu được một cách thấu triệt để ra khỏi những nỗi khổ của đời sống.
Khổ đế là sự thật (chân lý) về đời sống: đời nhìn chung là khổ, từ 8 nỗi khổ
căn bản cho đến trăm ngàn nỗi khổ, vô biên nỗi khổ. Những nỗi khổ này bị gây ra
bởi những tập khí – thói quen sai lầm của con người cả trong hành động, nói
năng, suy nghĩ, tình trạng này được gọi chung là Vô minh – không thấy được ánh
sáng của sự thật nên tạo tác sai lầm. Diệt là trạng thái hết khổ - trạng thái
Niết Bàn của tinh thần, khi đạt tới trạng thái này con người đồng nghĩa với
giác ngộ và đạt tới niềm phúc lạc vô biên – một thứ hạnh phúc chân thật. Đạo là
con đường thực hành để dẫn ra khỏi khổ đau. Nếu Tập là “tà” thì đạo là “chánh”
– phải tư duy đúng đắn, thấy đúng đắn, nói năng đúng đắn, hành động đúng đắn…
Tất cả
các tông phái Phật giáo (Thiền, Tịnh, Mật, Thiên thai, Duy thức…) dù có những
sai biệt trong tư tưởng và đường lối thực hành nhưng vẫn không ra khỏi tư tưởng
nền tảng như đã trình bày.
3. Tu Phật
Tu Phật
là gì? Tu là sửa mình, sửa lại cái sai bằng cách suy nghĩ, nói năng, hành động
đúng. Tụng kinh, ăn chay, niệm phật, ngồi thiền, cúng dường…sẽ không phải là tu
nếu nó không lấy việc sửa mình làm mục đích. Nếu một người Phật tử làm một hành
động nào đó, như ăn chay chẳng hạn, để mong được ban phước (hay được phước đức)
thì đó không phải là một người Phật giáo! Cái ý muốn ấy là ý muốn của kẻ tham
lam và ích kỉ, chỉ muốn đổi chác bằng cách bỏ ít để lấy nhiều; nó đồng thời là
một sự mê tín khi không hiểu rằng ăn chay là cách nuôi dưỡng tình yêu thương
với động vật, lòng yêu thương ấy sinh ra năng lượng tích cực và niềm hạnh phúc
tự sinh khởi từ tâm ý tốt lành ấy; con người sống tốt lành, vô cầu vô dục thì
trí tuệ sáng suốt, và đồng thời sẽ nhận được tình yêu thương từ mọi người mọi
vật. Vì thế mà cuộc sống mỗi ngày một hạnh phúc và tốt lành hơn.
Vậy thì
tu cái gì? chỉ có 3 chữ: GIỚI – ĐỊNH – TUỆ. Giới là sự ngăn giữ mình trong
khuôn khổ đạo đức để không phạm vào những tội ác (giết hại, trộm cắp, tà dâm,
nói dối...); Định là làm cho tâm yên ổn lại bằng cách trụ vào 1 đối tượng nào
đó (ví dụ như trụ vào hơi thở - luôn biết hơi thở vào - ra chứ không để ý nghĩ
lang thang chỗ khác) để đạt tới trạng thái quân bình. Tuệ là quan sát, suy
nghĩ, tư duy đúng đắn – phải thấy biết được bản chất của thế giới và đời sống
một cách chân thật (thấy được sự dời đổi vô thường, thấy được bản chất của đời
sống là khổ, thấy được cái “tôi” là giả...)
Tất cả
mọi tông phái của Phật giáo đều là tu Định, tức làm cho tâm an trụ lại, chứ
không để bị rơi vào tán loạn, rong ruổi mà đánh mất “chánh niệm”. Niệm Phật
(Nam mô A Di Đà Phật) không phải là kêu tên cho Phật nghe, hay kêu Phật đến
giúp (!) mà là làm cho tâm an trụ vào câu Phật hiệu này, và chỉ an trụ vào câu
Phật hiệu, không để ý nghĩ lang thang. Niệm lâu ngày thì từ cái tâm lăng xăng
nhảy nhót dần “thuần” lại, tức “định” lại, đạt tới “nhất tâm bất loạn”. Khi tâm
định lại rồi thì trí tuệ sẽ sáng suốt, như nước lặng thì mặt trời hiện, mây tan
thì mặt trăng tỏa rạng.
Xin nhớ
rằng, mọi sự thực hành trong đường lối của Phật giáo là đều nhằm để khắc chế
cái tâm động loạn và vô minh này. Và mọi sự “tu hành” phải lấy việc hướng nội
làm tông chỉ. Hướng ngoại tìm cầu đều là đường tà. Cho nên mới có câu “Phật tại
tâm” là vì thế.
Nhưng
tại sao? Phật giáo giải minh rằng: Mỗi người đều vốn có trí tuệ sáng suốt viên
mãn (tức là có tâm phật), nên Thích Ca mới nói “ta là Phật đã thành, các ông là
phật sẽ thành”, chỉ cần nỗ lực, siêng năng đúng phương pháp thì sẽ khai mở được
cái trí tuệ đang bị vùi lấp bởi vô minh kia (tham sân si) mà đạt tới trạng thái
tâm sáng suốt và hạnh phúc chân thật (gọi là Niết Bàn).
Như thế,
Phật giáo chuyên chở một tinh thần nhân bản sâu xa và tư tưởng tự do tiến bộ mà
ở đó con người được đề cao với địa vị chưa từng có. Và những người Phật giáo
phải tự tin và tự lực mà khai mở lấy cái trí tuệ vô giá đang bị chôn lấp kia
chứ không phải ném cuộc đời mình cho Phật hay Bồ Tát nào cả.
Thích Ca
Mâu Ni nói “tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”. Cái sự “không hiểu” này,
cộng với thói tham lam cố hữu đã biến những người theo Phật giáo thành những kẻ
mê tin dị đoan, biến một tư tưởng tiến bộ và đầy nhân văn thành một thứ tôn
giáo mà ở đó cuộc sống của mỗi người lại bị ném ra cho những vị thầy (Phật) của
mình. Phật - vị thầy giáo trí tuệ đã bị những người "theo Phật" biến
thành một thần linh có khả năng ban phước giáng họa ! Họ đã không muốn trở
thành con người tự chủ, tự do; mà ngược lại, từ trong vô minh, họ đã biến mình
thành những nô lệ của lòng tham, biến mình thành kẻ yếu hèn và bạc nhược khi
gửi gắm cuộc đời mình cho những “thế lực” bên ngoài.
Người
đến với Phật giáo là để thành tựu lý tưởng tự do; trở nên sáng suốt hơn, dũng
khí hơn chứ không phải để sống kiếp ăn mày nơi cửa Phật. Tình trạng mê tín mịt
mù trong xã hội Việt Nam ngày nay cần phải được tẩy uế bằng cách rọi ánh sáng
của chánh pháp và tiếp nhận các thành tựu của khoa học nhân loại như Phân tâm
học, vật lý lượng tử... để mong cứu chuộc lấy nhân tâm.
Trách nhiệm ấy thuộc về những người quản lý, những nhà khoa học và những nhà giáo chân chính như là một cách thực hành từ bi đối với chúng sinh theo lời Phật dạy. Nhưng đồng thời, phải chữa được căn bệnh vô minh và tham lam của giới quan chức đã.
THÁI HẠO
(Tây Lạc Viên - 15/2/2020)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét