XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2020

Người Việt và thói hư tật xấu


Người Việt "dậy sóng" với tâm thư của người Nhật gửi Việt Nam

Một bạn trẻ người Nhật từng du học ở Việt Nam vừa có bài viết gửi giới trẻ Việt Nam khiến dư luận xôn xao.

Bài viết về văn hóa con người Việt Nam của một bạn du học sinh Nhật. Nội dung bài viết như sau:

“Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của Người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”.

Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa…Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn.

Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy.

Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi ?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mun, lọc lừa.

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi…Vì đâu nên nỗi?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm! Thật vậy sao?”.

Có thể thấy, nội dung bài viết này như tâm sự “thay lời muốn nói” cho rất nhiều người Việt đang cảm thấy không hài lòng với lối sống của chính con người Việt…

NGUỒN BÀI ĐĂNG 

Từ đầu thế kỷ 20 các nhà trí thức Việt Nam như Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Phan Khôi, Hoài Thanh, Trần Trọng Kim, Hoa Bằng, Đào Duy Anh, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Văn Huyên, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Thạch Lam, Nguyễn Văn Tố, Ngô Đức Kế, Dương Quảng Hàm, Dương Bá Trạc, Phạm Quỳnh, Thái Phi, Nguyễn Trường Tộ…đã nhìn thấy và tổng hợp thói hư tật xấu của người Việt từ rất lâu rồi; Có điều chẳng ai thèm đọc và nhìn nhận lại bản thân mình thôi….Gần đây được Vương Trí Nhàn tập hợp lại định in thành sách để cảnh tỉnh Người Việt nhưng chưa thực hiện được;

 

Ngày xưa Nguyễn Văn Vĩnh đã đăng trong Cổ tùng báo năm 1907 về thị hiếu của người Việt:

     Thị hiếu tầm thường

Cái lý thú của nước Nam ta nhỏ mọn lắm.

     Kìa cái đồng hồ từ tám mươi đời thì quấn vải tây điều, kết quả găng. Nọ núi non bộ khéo chắp tỉ mỉ trong trồng cây uốn con phượng.

     Cầu quán con con, thuyền bé lí tí.

     Câu đối với tranh thì hết tứ thời phong cảnh lại đến thiên lý giang sơn.

     Thi hoạ nhỏ nhen, thi chẳng ra thi hoạ chẳng ra hoạ.

     Giang sơn treo cửa sổ, sơn thuỷ để đầu giường. Hoành phi câu đối thì chữ nghĩa đẹp phẩy mác hơn đẹp ý tình (1).

     Đồ chạm đồ cẩn thì tỉ mỉ con dơi già quả mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn trọng khéo.

       Ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề.

       Nói tóm lại thì người Nam mình chưa cái gì là cái khéo.

       Mà càng bắt chước Tây bắt chước Tàu bao nhiêu càng xấu bấy nhiêu.

       Người mỗi ngày một hay, vi xảo là thông ngôn ông Tạo hoá (2). Ta mỗi ngày một đổ (3), vi xảo là cơn hứng chí điên cuồng.

        Học chẳng phải mà bắt chước chẳng phải. Xảo nghệ muốn noi theo ngoại quốc, là phải noi lý tưởng chớ không nên bắt chước phù hoa. Kẻo mà khéo thêm ra chẳng thấy đâu, lại đang nghề nguyên lành hoá nghề lang lố (4).

(1) phẩy mác là tên gọi các nét trong chữ Hán, ở đây ý nói chỉ đẹp bề ngoài

(2) vi xảo: sự kỹ lưỡng khéo léo; ở đây ý nói sự hoàn chỉnh của sản vật đạt đến mức như là tự nhiên sinh ra đã vậy.

(3)  kém đi, hỏng đi                     

(4) Nghĩa như nhố nhăng

Nguyễn Văn Vĩnh

Đăng cổ tùng báo, 1907

 

Trích từ chuyên mục người xưa cảnh tỉnh đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007 Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn

 

Văn chương phù phiếm, toàn giọng bi thương

     Xét các lối văn chương của ta, vừa lối riêng, vừa lối theo của Tàu, kể ra thì cũng nhiều và cũng đủ cách. Song hiềm vì trong lối văn chương, phần nhiều là hay dùng cách tiểu xảo, đối chọi nhau từng chữ từng ý, mà nhất là thơ hay tìm những tiếng mong manh, những lời bóng bảy, khí nhỏ nhặt tỉ mỉ, kém khí hùng hào.

     Vả lại hay chuộng lối phù hoa, quý hồ đặt cho đẹp câu, đọc cho sướng tai, mà rút cục thì không có lý tưởng nào là cao lạ.

     Lại còn một cách, nói thật là viển vông huyền huýnh (1), khiến cho người nghe tưởng là cao kiến lắm mà kỳ thực thì toàn là lời tưởng tượng, vu khoát (2); tựa như bức tranh vẽ của ta chỉ thấy nét xanh nét đỏ vẽ rồng vẽ phượng, trông thì choáng mắt, mà té ra không có nét nào thực cả.

     Lại nhất là những điều ai oán những khúc bi thương, những tiếng bổng tiếng trầm, thánh tha thánh thót như dế kêu, như ve hót, ta thường cho là hay mà thực ra thì là một thứ tiếng hèn mọn yếu ớt, không cổ động được cái khí mạnh mẽ cho người ta. 

(1) xa xôi, mờ mịt (2) bịa đặt,  không bảo là có

Phan Kế Bính

Việt nam phong tục, 1915

 

Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu nhược 

    Văn chương gọt từng tiếng khác nào như người gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cái giò kia hãm cho thấp trông thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động vào đã gãy, để chưa mấy ngày đã úa. Cốt lấy cái khéo nhỏ nhặt làm mất đi cái khí mạnh, gọi là “ nhu nhược chi văn chương”!

Phan Kế Bính

Việt Nam phong tục,1915

 

Chỉ giỏi về văn thù ứng    

    Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ thì chăm về văn khoa cử, khi đỗ rồi thì chăm về văn thù ứng (1). Có những người nổi tiếng mà nhan nhản những bài hết tự tặng người này lại dâng người khác, té ra trời phú cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là để đi thù phụng thiên hạ.. Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay, người An Nam làm văn chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng và trong văn học chỉ sở trường một cách jeu de mots (1) mà thôi, thì cũng chẳng quá nào !

(1) thứ văn thơ làm khi giao tiếp, khoản đãi nhau

(2) chơi chữ

Phan Khôi

Khái  luận về văn học chữ Hán ở nước ta 1939  

 

Tưởng thật mà hoá dối

     Văn chương ta từ trước tới nay vì bó buộc quá đỗi nên luôn luôn đi bên cạnh sự giả dối, sự bịa đặt. Nhà văn chỉ lo viết thế nào cho đúng với lẽ phải của xã hội mà không cần đúng với sự thật tự nhiên (1). Văn chương thành ra một cách để dối mình và dối người.

   Cây trên rừng muôn ngàn lá không có hai lá giống nhau. Trong rừng người cũng vậy, chưa từng thấy hai người hình dung giống hệt nhau. Hình dung còn thế huống chi nữa tinh thần.

     Văn chương ta có vẻ buồn tẻ nghèo nàn, các nhà văn ta ít thấy khác nhau, vì họ tự dối mình, tức vì họ không đủ cái thành thực để phô diễn tâm linh của mình, vì họ tự giam mình trong vòng khách sáo.

(1) Các nhà nghiên cứu hiện nay phân biệt

1/ cái tưởng là sự thật, đang được mọi người trong xã hội công nhận và 2/cái sự thật đúng như nó có, song chưa được phát hiện và nhận thức thấu đáo; ở đây ý nói nhà văn ta chỉ biết loại sự thật thứ nhất.

Hoài Thanh

Thành thực và tự do trong văn chương, Tao đàn,1939 

 

Khinh miệt cá nhân

     Văn chương ta nghèo nàn. Những dây quan hệ quá chặt chẽ nó ràng buộc mọi người trong xã hội. [Trong tâm lý cộng đồng], cá nhân, cái bản sắc của cá nhân, là một điều huyễn tưởng, một điều không nên có. Cá nhân chìm lấp trong đoàn thể như giọt nước trong làn sóng biển.

     Một dân tộc khinh miệt cá nhân, không biết đến cá nhân, không thể có được một nền văn chương phong phú.

     Các nhà văn ta ít thấy khác nhau, chỉ vì họ tự dối mình, vì họ không đủ cái thành thực để phô diễn tâm linh của mình, vì họ tự giam mình trong vòng khách sáo.

      Khách sáo chính là cái vỏ mà đoàn thể phủ trên mình, trên linh hồn cá nhân. Về hình thức, khách sáo là những quần áo mũ giày theo thời thượng. Về tinh thần, khách sáo là những tình ý thông thường … hay nói theo lối người Tây, những tình những ý vẫn chạy rông ngoài đường phố.

Hoài Thanh

Thành thực và tự do trong văn chương, Tao đàn, 1939

 

Không tìm thấy bản sắc

       Nếu bây giờ có một người Đức, hay một người Nga, hay một người Anh, muốn tìm trong các văn phẩm của chúng ta để xem dân tộc Việt Nam cảm nghĩ thế nào trước tấn kịch thống thiết và náo nhiệt của hai nền văn minh Đông Tây gặp nhau, hoặc trước thiên nhiên, trước nhân sự (1), trước cái chết, thì người ngoại quốc ấy sẽ hoàn toàn thất vọng. Người ấy sẽ chỉ nhận thấy trong phần nhiều các văn phẩm của ta, những cái máy truyền thanh rẻ tiền nó nhắc lại tất cả những điều mà người ấy thừa biết tự bao giờ.

(1) Theo nghĩa dùng trước 1945, thì nhân sự chỉ chung việc đời, chứ không phải là việc tuyển dụng, sắp xếp quản lý người, như hiện nay.

Lan Khai

Thiên chức của văn sĩ Việt Nam, Tao đàn, 1939

 

Phê bình nghĩa là nịnh nọt

      Người mình xưa nay vẫn chưa quen chịu người ta phê bình. Ai làm được quyển sách quyển vở nào, đem ra giới thiệu với công chúng thì chỉ muốn khen, chứ không muốn người ta chê, rồi hễ thấy người ta bẻ bắt điều gì là mích lòng và không hiểu rằng “Người dạy ta mà phải là thày ta, người trách ta mà phải là bạn ta “.

     Bởi vậy người phê bình cũng không muốn phê bình, mà sự học cũng không tiến bộ được.

Trần Trọng Kim

Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo, 1930

                                                                  

Nhắm mắt bắt chước cốt kiếm lợi 

     Làng văn làng báo ta, cũng như nhiều giới khác, phần đông kém trí phán đoán,  thường hay nhắm mắt theo người. Những cái bệnh ấy, không phải bây giờ mới phát mà có lẽ nó là một chứng di truyền đã mấy ngàn năm và ăn sâu vào mạch máu nhiều người ! Xưa học chữ Hán không dám nói khác với những kiến giải của tiên nho, không dám đi trật ra ngoài khuôn sáo của tiên hiền, cắm đầu nhai lại  nhai lại những bã rả của cổ nhân  mà không nhớ đến thời gian. Nay xếp đặt một tờ báo, chỉ muốn theo cho được một tờ báo Tây, từ cách dùng chữ đến lối đặt câu, làm như  dịch theo nguyên văn của người ngoại quốc.

     Hồi 1926-29, thấy một vài tờ báo một vài cuốn sách đeo cái lá nhãn ái quốc, người ta cũng ùa ạt đổ xô làm nghề buôn ấy, lúc nào cũng đạo mạo nói ra những lời cổ động, những giọng hăng hái nhiệt thành.

      Nhưng cạn ao bèo đến đất, những thứ văn tự nhận là mang đầy tâm huyết  ấy chỉ là một lối đầu cơ kiếm lời.

Hoa Bằng

Vài cái liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, 1942

 

“Tiểu thuyết của phường coi cổng”

            Hiện bây giờ, những người gọi là trí thức của ta đều đào tạo ở hai trường Tây và trường Tàu. Hạng đào tạo ở trường Tàu – nói là hạng học từ chương cử nghiệp cuôí mùa thì đúng hơn  -- bây giờ tàn tạ rồi. Còn hạng ở trường Tây ra, vì phải uốn theo khuôn khổ Tây, không thành người Việt nữa …

             Không ở hai trường ấy ra mà lại làm văn sĩ thì thành hạng văn sĩ quốc ngữ, hạng chẳng có trí thức chi chi hết, chỉ múa mép láo mấy câu sáo cũ, mấy lời rỗng tuyếch  chẳng có ích gì cho văn học, văn hoá một nước nào cả. Văn sĩ ta bây giờ chỉ có thể rơi vào hai cái bị. Một là  cái bị Tây là bị lơ lửng giữa trời, không tây không ta; hai là cái bị quốc ngữ.

              Cổ lai không có nước nào mà cái nghề làm văn sĩ lại dễ dàng rẻ rúng quá như ở nước ta hiện giờ. Ta thử đọc những cuốn tiểu thuyết bình dân, những cuốn tiểu thuyết  bên Pháp gọi là “ tiểu thuyết của phường coi cổng “. Đọc những cuốn ấy, ta thấy rằng tác giả của chúng tỏ ra là người có trí thức ít ra cũng qua bậc trung học rồi nghĩa là có phổ thông trí thức rồi. Những cuốn tiểu thuyết hay nhất của ta bây giờ, già lắm chỉ bằng những cuốn tiểu thuyết của phường coi cổng bên Pháp mà thôi !                                                                      

    Nguyễn Triệu Luật

Làm sao mà gây được một nền văn hoá riêng, Tao đàn, 1939

 

Nhiều trò quảng cáo bỉ ổi

     Người ta khoác bộ áo phê bình để thực hành cái dã tâm tâng bốc lẫn nhau, quảng cáo lẫn nhau. Anh Giáp viết đến mấy kỳ báo ca tụng “văn nghiệp “(!) của anh Ất (1); rồi anh Ất để thết lại, viết hàng mớ bài tán dương về văn tài về tác phẩm của anh Giáp. Nhưng bạn đọc, giá chịu khó tò mò đôi chút, sẽ biết rõ ngay hai anh ấy là bạn nối khố của nhau, lợi dụng tờ báo để công kênh nhau lên chín tầng mây biếc. Đáng tức cười hơn nữa, cùng trong một toà soạn, trong một đoàn văn, họ lại vẫn giở ngón quá chướng là phê bình tác phẩm của nhau với một giọng khen ngợi hết lời, hoan hô nhiệt liệt.

(1) Cũng như ngày nay hay nói anh A anh B, anh X anh Y

Hoa Bằng

Vài cái liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, 1942 

                                                                         

Những nhạc điệu rời rạc, ẻo lả

    Âm nhạc Việt Nam hãy còn ấu trĩ. Nhạc khí thô lậu chỉ đủ cho sự chơi cá nhân hay gia đình chứ không hợp với lối chơi công cộng, lại không biết rõ khoa âm hưởng học (1) nên sự lựa chọn chắp ghép hoá hợp cao độ của mỗi âm mỗi tiếng không theo một định luật nào cả. Nhạc phổ (2)  không có, sự thống nhất trong các bản các bài  cũng thiếu hẳn. Bởi vậy thường cùng một bài mà mỗi người chơi theo một cách, với những tiếng lèo tiếng đệm âm gió thêm vào hay rút bớt đi, tuỳ ở sở thích riêng.

   Nhạc cổ Việt nam chỉ gợi được những cảm giác uể oải, yếu ớt bằng phẳng như cánh đồng lúa kéo đến tận chân trời. Sóng âm không bao giờ đột ngột vút lên hạ xuống làm cho các giác quan bị kích thích mạnh mẽ để nâng tâm hồn con người lên tới cái buồn thanh cao hoặc cái vui tráng lệ.

(1) ở đây có lẽ tác giả muốn nói tới những hiểu biết cần thiết giúp cho việc phối âm phối khí.

(2) bản nhạc được ghi trên mặt giấy

Lương Đức Thiệp

Xã hội Việt nam,1944

 

Nặng tính trang sức mà thiếu sức sống

     Nghê thuật Việt Nam thường bị bó buộc trong lề lối cổ. Phải tôn trọng những phép tắc xưa, cho nên nhà nghề tài giỏi mấy cũng chỉ  phỏng lại những hình thức có sẵn cho khéo, chứ không được theo tự ý mà  sáng kiến những cách thức mới.

       Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là người biểu diễn (1) ý chí tâm tình của mình, cũng không phải là người quan sát và biểu hiện tự nhiên, mà chỉ là người giỏi bắt chước những kiểu mẫu sẵn. Có muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo, chỉ cốt làm cho thật tỉ mỉ thật tinh tế, thật dụng công, chỉ cốt xếp đặt các bộ phận cho xinh xắn lộng lẫy. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Việt Nam là tính trang sức. Nó thiếu hẳn hoạt khí, vì cách biến hóa tuy lưu động mà ở trong phạm vi hình thức, cách phối hợp tuy phiền phức mà ở trong phạm vi thái độ chế kiểu.

      Bởi thế mà nghệ thuật Việt Nam tuy có tính chất lưu động (2) và phiền phức (3), như­ng thiếu hẳn hoạt khí (4), cách biến hoá chỉ ở trong phạm vi hình thức.

(1) nghĩa cũ: trình bày ra ngoài

(2) theo ngôn ngữ thời nay, tức linh động, lỏng, mềm mại

(3) rườm rà nhiều mối

(4) sức sống

Đào Duy Anh

Việt Nam văn hóa sử cương , 1938

 

Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não

       Sự đơn điệu tẻ nhạt của cảnh sắc thiên nhiên, tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt của các nhóm người, sự phân chia nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiến người Việt thiên về u buồn và sầu não.

      Cá nhân bị giam hãm một cách chặt chẽ và giả tạo trong những khuôn khổ cứng nhắc như gia đình và làng mạc đến nỗi họ không quan niệm nổi họ có khả năng hành động một mình.

      Vì thế khi môi trường chung quanh không còn giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông thường mà lễ giáo quy định, người ta dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến mọi nỗ lực trí tuệ tiêu tán.

       Nền văn hoá vốn thấm nhuần lòng từ bi Phật giáo cũng góp thêm phần dồn nén các dục vọng cá nhân. Rồi quan niệm siêu hình của đạo Lão khiến nhiều tác giả thiên về một cái nhìn bi quan sâu sắc và một sự mỉa mai chua chát.

      Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm cũng như tác phẩm của Trần Tế Xương, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Khắc Hiếu chỉ là những tiếng vọng của nỗi đau nhân loại.

     Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn thấy cùng những đề tài giống nhau về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản ánh tất cả sự dồn nén tinh thần của cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn thuở của một kiếp người bấp bênh, một cuốc sống chật hẹp.

Nguyễn Văn Huyên

Văn minh Việt Nam 1944

 

Người Việt & ý thức công dân ý thức xã hội (phần I)

Trích từ chuyên mục

Người xưa cảnh tỉnh

đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007

Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn

 

Bảo thủ, dựa dẫm, cầu an

      Trải qua các đời dân ta chịu sự cai trị của vua quan, không có thể dùng tâm và mưu cho nước, nước tự nó sống còn. Trên có vua hiền tướng giỏi thì tạm thời yên ổn. Bất hạnh mà không có vua hiền tướng giỏi thì cả nước loạn ly, nhân dân lầm than. Từ xưa đến nay, sở dĩ có ít ngày được bình trị (1),  mà có lắm cuộc loạn ly, nguyên nhân là ở đó. Dân nước ta có ưu điểm là an phận, thành thực, nhẫn nại. Không biết lợi dụng những ưu điểm ấy thì sẽ sinh ra ba cái tệ.

     Một là bảo thủ mà không biết tiến thủ.

     Hai là dựa vào người mà không biết tự lập.

     Ba là yên thân mình nhà mình, mà không biết ái quần, ái quốc.

     Không trừ ba cái tệ đó thì dù có vua hiền tướng giỏi cũng chỉ bình trị nhất thời mà thôi, sao có thể chống chọi với các nước lớn được. Ngày nay phải nghĩ đến tự cường thì ngày sau mới tự cường được.

(1) xã tắc trong cảnh thái bình, có trên có dưới, trật tự kỷ cương đâu vào đấy

Quốc dân độc bản-Tài liệu do Đông Kinh Nghĩa thục soạn, 1907

 

Tri túc và hiếu cổ

      Dân ta đại để bảo thủ mà không biết tiến thủ. Sở dĩ bảo thủ một là do tri túc (1), hai là do hiếu cổ (2). Thường thường cho rằng quê mùa chất phác là hay, lặng lẽ rút lui là cao thượng, không biết rằng như vậy là chỉ muốn ăn chơi lười biếng. Đó là tri túc làm trở ngại cho chí tiến thủ. Không biết rằng thế đạo (3) ngày một suy, mà lại than thở phong tục xưa không được phục hồi. Lòng hiếu cổ ấy trở ngại cho chí tiến thủ.

(1) tự cho là đủ

(2) ưa thích những gì đã có từ xưa.

(3) đạo sống ở đời

Quốc dân độc bản, 1907

 

Cái gì cũng đổ tại trời

    Thuyết mệnh trời làm cho dân ta bị trở ngại. Nước yếu không quy trách nhiệm cho chính sự tồi tệ, quốc dân bất tài mà lại nói vận số không phải do người quyết định. Lụt lội hạn hán không trách cứ là không có kế hoạch tiêu nước kịp thời, không phòng ngừa đói kém, mà lại nói thiên tai không phải do người gây nên. Dịch bệnh lan tràn thì nói con người sống chết có số, đề phòng cũng vô ích. Cùng làm một nghề, kẻ thành người bại, cũng lại nói họ gặp may, ta gặp rủi. Than ôi! sao lại có cách nói tự hại mình đến thế?

Quốc dân độc bản, 1907

 

Ma quỷ sống lẫn với người hèn yếu

     Nước Nam độ bốn mươi năm nay, vận nước ngày một suy, suốt từ trên đến dưới chỉ biết chuyện lười biếng vui chơi.

     Pháp chế lề luật không còn có cái gì ra trò, nhân tài cũng tiêu diệt đi mất cả.

     Người trên thì lâu lâu được thăng trật (1), chẳng qua như sống lâu lên lão làng; người dưới thì đem của mua quan, thật là tiền bạc phá lề luật (...)

      Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo thì như ma như quỷ, lừa gạt bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn như bò, giẫm cổ dè đầu, cũng không dám ho he một tiếng.

(1) trật: cấp bậc phẩm hàm

Phan Châu Trinh

Thư gửi chính phủ Pháp, 1906

 

Ý thức quốc gia thức tỉnh quá chậm

   Khi cái tư tưởng quốc gia đã nảy ra trong óc người Tàu, người Cao Ly (1), người nước ta vẫn còn say sưa trong giấc ngủ ngàn năm, chưa có chút gì gọi là giật mình mở mắt cả. Bọn già thì lo làm quan để kiếm tiền nuôi vợ con, bọn trẻ thì lo làm thầy đặng kiếm gạo nuôi miệng, ngoài cái lo xác thịt ra  thì không có một tư tưởng gì khác.

    Lại thêm một bọn ra vênh mặt múa tay tự xưng là ái quốc ái chủng, nhưng hỏi đến họ cách khuếch lợi trừ hại, tự cường tự lập thì họ ập ạ như người mơ ngủ, chỉ ngồi ngong ngóng ước mơ thế lực ngoài tràn vào mà thôi.

(1) tức Triều Tiên.

Phan Châu Trinh

Đạo đức và luân lý Đông Tây, 1925     

 

Khi bàn chuyện quốc gia chỉ ham hư danh

      Tục ngữ có câu Cọp chết để da, người chết để tiếng. Xem câu nói đó thời danh vẫn nên quý.

     Nhưng tội tình thay! óc ti ti như óc dơi, mắt ti ti như mắt muỗi, ngoài buồng the bếp núc, vẫn không biết gì là nước non; trừ sọ bò đầu heo, vẫn không biết gì là rồng rắn.

       Huống chi vết xấu ở gia đình, thói hủ ở xã hội, gắn sâu buộc chặt trải mấy nghìn năm; đoàn thanh niên cho đến phường tân tiến (1), đua tranh danh giá, chẳng cu-li thượng đẳng thời nô lệ quá ưu; miệng chưa ráo sữa đã lóc lẻm những thẻ bạc bài ngà, ức (2) chưa rời nôi mà ao ước những mề đay kim khánh.

    Ôi! Thế là vinh danh hay sao? Quý hoá hay sao?

(1) đoàn thanh niên đây chỉ thế hệ trẻ, còn phường tân tiến trong xã hội Việt nam đầu thế kỷ XX là lớp người đi theo xu thế Âu hoá.

(2) ngực

Phan Bội Châu

Việt Nam quốc sử khảo, 1908

 

Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi riêng

    Chứng bệnh hay giả dối là chứng bệnh chung của người nước ta mà ở trong lại có một chứng đặc biệt là chứng ái quốc giả …

     Nào đám truy điệu, nào tiệc hoan nghênh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ, chuông dồn trống giục, nam hát bắc hò, xem ở trong một đám lúc nhúc lao nhao, cũng đã có mấy phần người biết quyền nước đã mất thì tính mạng không còn, hồn nước có về thì giang sơn mới sống.

     Nếu những tấm lòng ái quốc đó mà thật thà chắc chắn thì giống Tiên Rồng chẳng hạnh phúc lắm sao?

      Nhưng tội tình thay, khốn khổ thay, người ưu thời mẫn thế chẳng bao nhiêu mà người rao danh thì đầy đường đầy ngõ; giọt nước mắt khóc nước vẫn ngày đêm chan chứa mà xem cho kỹ thì rặt nước mắt gừng; tiếng chuông trống kêu hồn vẫn trong ngoài gióng giả mà nghe cho tới nơi thì rặt là chuông trò trống hội;

ngoài miệng thì ái quốc mà trong bụng vẫn là kim khánh mề đay; trước mặt người thì ái quốc mà đến lúc đêm khuya thanh vắng thì tính toán những chuyện chó săn chim mồi.

       Cha ôi! trời ôi! ái quốc gì? ái quốc thế ư? Đeo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng chí sĩ chân nhân, một mặt thì ôm chặt lấy lốt ông tham bà đốc.

Phan Bội Châu

Cao đẳng quốc dân, 1928

 

Lo việc nước theo lối tự tư tự lợi 

    Nước mất là do rất nhiều điều tệ, tội nhiều không kể hết, nhưng trong đó có bốn cái tội lớn. Một là ngoại giao hẹp hòi; hai là nội trị hủ bại; ba là dân trí bế tắc; bốn là vua tôi trên dưới tự tư tự lợi.

    Vua tôi tự tư tự lợi nên không biết có dân có nước; dân cũng tự tư tự lợi nên cũng không nghĩ gì đến nước đến vua. Ngoại giao nội trị dân trí sở dĩ đồi bại như vậy cũng là do trên dưới đều tự tư tự lợi mà ra cả. Cuối cùng nước bị mất vua bị tù, thần dân đều trở nên giống người mất nước đê tiện. Cái nọc độc tự tư tự lợi nguy hại biết là dường nào.

Phan Bội Châu

Việt Nam quốc sử khảo, 1908

 

Tư tưởng gia nô 

    Xem lịch sử nước ta từ xưa đến nay hơn ba nghìn năm, chỉ có gia nô mà không có quốc dân. Quyền vua có nặng, nặng không biết chừng nào; gia dĩ (1) quyền quan lại hứng đỡ quyền vua mà từng từng áp chế.

       Từ cửu phẩm kể lên cho đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng, đến dân là vô phẩm, thân giá (2) lại còn gì.

        Thằng này là con ngựa thằng nọ là con trâu, buộc cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi.

       Gặp Đinh thì làm nô với Đinh, gặp Trần thì làm nô với Trần, gặp Lê Lý thì làm nô với Lê Lý.

        Phận con hầu thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải, đã lấy làm hớn hở vênh vang;

         tối năm (3) đứng đầu ruộng mới được bát cơm ăn, suốt đêm ngồi bên bàn khung cửi mới được tấm áo mặc, mà mở miệng ra thì “cơm vua áo chúa “;

         đồng điền này, sông núi nọ mồ hôi lẫn nước mắt cày cấy mở mang, nhưng mà “chân đạp đất vua”, lại giữ chặt một hoạt kê vô lý (4).

          Cái tư tưởng gia nô! Cái trí thức gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại, bắt ta phải gông đầu khoá miệng, xiềng tay xiềng chân, chịu gánh gia nô cho già đời mãn kiếp.

(1) thêm vào đó

(2) giá trị con người

(3) quanh năm

(4) ý nói: Tự mình làm ra mà lại bảo là do ơn người khác, thật là câu chuyện buồn cười

Phan Bội Châu

Cao đẳng quốc dân, 1928

                                          

Kém óc hợp quần

   Đem so sánh nước ta với các nước khác như nước Tàu nước Nhật, xưa chẳng hơn ta là mấy, mà sao nay ta kém người ta xa thế ?

      Người ta mười mình chưa được một: tư tưởng, văn chương, học thuật, công nghệ, thương nghiệp… đều kém hết cả.

    Thế thì tại cớ làm sao ?

     Dám quả quyết rằng chỉ tại người mình ít biết kính trọng mấy chữ “xã hội đồng bào”  không coi mấy chữ đó làm quan hệ đến sự sinh tồn tiến hoá, nên trong xã hội không có tình tương thân tương ái, không có  đoàn thể hợp quần.

    Có xã hội mà vẫn lẻ loi, ai biết phận nấy, khôn sống mống chết.

Nguyễn Bân

Tình hữu ái quan hệ cho xã hội như thế nào? Hữu thanh, 1921

 

Một vài thói tục đã thành di truyền

-Một là học để làm quan: Người sinh ra ở đời có học mới khôn, có khôn mới làm hết được bổn phận làm người. Làm quan chẳng qua là một việc trong sự làm người đó mà thôi. Thế mà người mình có cái tính di truyền “đi học cốt để làm quan” cha truyền con nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học phép thi đổi ra cách mới, mà người đi học vẫn ôm cái hy vọng làm quan là chủ chốt.

-Hai là làm quan ăn lót: Làm quan... cốt là mượn cái địa vị thế lực mà làm cái lợi riêng, thói ăn của dân cho là cái quyền lợi tự nhiên mình được hưởng, tập dữ tính thành (1) không ai cho là điều quái lạ hổ thẹn.

-Ba là a dua người quyền quý: Ngu dốt mà cũng tán rằng thông minh, bạo ngược mà cũng tán rằng nhân đức... bất cứ việc gì người ra thế nào, đã là quyền quý thì cứ nhắm mắt tán dương.

-Bốn là trọng xác thịt (2): Ngoài sự ăn sung mặc sướng, ở yên ra gần như không có tư tưởng gì nữa. Đối với kẻ khác cũng lấy cái mục đích đó mà xem xét. Nghĩa là không hỏi nhân cách thế nào, mà chỉ thấy ăn mặc xa hoa, lầu cao nhà lớn thì sinh lòng hâm mộ, dầu có hại nòi nát giống, mà đạt được mục đích thì cũng không từ.

    Những điều như thế kể ra không xiết. Lại thêm cái văn minh xu xác (3) thế lực kim tiền, noi theo mà thối giục (4) lên nữa, thôi thì lửa nọ được dầu, sóng kia thuận gió, không những quét sạch bao nhiêu tính di truyền tốt của ông bà ngày trước, mà còn có thể cuốn cả hai mươi triệu đồng bào ta xoay vào cái rốn biển trầm luân, không sao ngóc đầu lên được.

(1) làm quen mãi rồi thành ra một thuộc tính tự nhiên

(2) tức là trọng vật chất

(3) xu xác: chưa rõ. Có lẽ là gần nghĩa với xu phụ, tức chạy theo nịnh bợ

(4) thối giục: cũng như hối thúc

Huỳnh Thúc Kháng

Tiếng dân, 1929

 

Sợ tự do, cam chịu làm nô lệ

      Đế vương xưa chỉ dạy thờ người trên và biết nghĩa vụ của mình còn quyền lợi không cần biết đến mà cũng không có nữa.

      Tục ngôi thứ đã in rất sâu vào óc người dân quê, đến nỗi những tư tưởng tự do phóng khoáng từ phương Tây truyền sang, đến luỹ tre xanh là dừng lại, biến mất như một ngọn gió mát tan vào một bầu không khí nồng nực nặng nề.

     Tục vị thứ hoá ra tục sùng bái nhân tước (1) một cách u ám đê hèn và thay vào óc kính thượng (2) là một óc nô lệ đáng khinh.

     Tự do cá nhân và hết thảy các tự do ở bên ta và nhất là ở nơi thôn quê chỉ là một câu chuyện hoang đường.

      Cũng vì thiếu tự do … nếu ta không kể sự tự do phục tùng và tự do uống rượu – nên tình cảnh dân quê về phương diện tinh thần mới có vẻ điêu linh tàn tạ. Cũng vì thiếu tự do nên người ta đối với những công cuộc cải cách mới lạ thường có cái não ngờ vực.

     Sức phản động dìm dập dân quê vào nơi ngu tối, tạo thành cho họ cái tính nô lệ, cái căn tính chịu đựng trước những sự tàn ngược ức hiếp.

(1) những tước vị do con người đặt ra

(2) Kính trọng người trên

 Hoàng Đạo

 Bùn lầy nước đọng,1939

 

Chưa trưởng thành trên phương diện công dân

   Nước ta theo đạo thánh hiền, dân khai hoá cũng đã lâu nhưng ví với các nước văn minh thì trí khôn còn thiếu, tư cách chưa toàn, chưa hiểu nghĩa vụ riêng là thế nào, chưa biết trách nhiệm chung ra sao. Nộp thuế là của tiêu chung mà còn có người dân ẩn lậu; đi lính là giữ cho mình mà còn có người trốn tránh; đê điều cấm phòng thân lừa ưa nặng không đánh không đi; lại có những kẻ nay trộm mai cướp không để cho dân yên nghiệp.

Phạm Quang Sán

Nước ta đã dùng được phép luật văn minh chưa? Đông dương tạp chí,1914

 

Các hội nghề nghiệp yếu ớt ọp ẹp

  Tục ta nghề nào lập hội ấy, một là để giữ gìn  công việc cho nhau, hai là để liên lạc tình nghĩa với nhau, ba là để binh vực nhau cứu giúp nhau, vậy là cái chủ ý cũng hay, mà lại có  thể sinh lợi để  làm được sự công ích nữa.

     Tiếc thay dân trí ta hẹp hòi, chỉ biết có tiền thì lo ngay đến một mảnh danh giá  cúng về dân, để lấy cái tên ghi ở trong các đồ sự thần, cho ai nấy trông thấy đồ thờ thì lại nhớ đến tên mình, thế cho là vinh hạnh rồi. Giả sử hội nào cũng gây lấy một cái vốn to rồi cùng nhau mà mở một nghề buôn bán  hoặc công xưởng gì cho có ích lợi thì chẳng hay lắm ru ?  

     Phan Kế Bính

Việt Nam phong tục,1915

 

Sinh hoạt hội đoàn dễ bị làm hỏng

     Toàn cả nhân dân trong nước thiếu hẳn cái công đức (1)... Chỉ biết tư đức (2) mà không biết công đức, nên trừ một số ít người tốt có công tâm, phần đông toàn vì tư tình mưu tư lợi, thích tư đấu, cứu tư hiềm (3), từ làng đến nước đâu đâu cũng biểu hiện lối ganh tham ghét chạ gây ra giành xé chia rẽ như hương thôn kiện tụng, quan trường khuynh loát nhau... mà thiếu hẳn về đoàn thể sinh hoạt công cộng.

   Từ Âu hoá truyền sang, thấy xứ văn minh có những đoàn thể lập hội, công tác thành hiệu (4) rõ ràng, cũng cố bắt chước theo lập hội này hội khác. Song cái bản ngã đã thiếu môn học công dân, nên bất kỳ hội gì, chương trình quy tắc lúc lập định ra không nghĩ đến sự thực hành, thường xảy ra những chuyện do điều nhỏ và ý riêng mà làm hư cả đoàn thể.

(1) công đức đây không phải công ơn đối với xã hội, mà là đạo đức một công dân trong quan hệ với cả xã hội

(2) đạo đức trong quan hệ cá nhân (ngược với công đức)

(3) thích tư đấu: dò xét những chuyện ganh ghét riêng tư; cứu tư hiềm: nghiền ngẫm tính toán quanh những mối hiềm khích giữa người nọ người kia

(4) thành tựu, hiệu quả

Huỳnh Thúc Kháng

Tiếng dân,1940

 

Theo sự chi phối của quan niệm hư vô

    Có chí mà không làm nổi, đó là vì tài lực không đủ thật không đáng trách. Nhưng trong chúng ta, đáng trách là hạng người sau: Sống ở đời, không có mục đích gì cao hết.

     Họ không có một cuộc đời lý tưởng. Họ không coi một thứ gì là đáng ham chuộng, ngoài sự làm tôi đồng tiền mặc dầu phải quăng bỏ liêm sỉ bán rẻ nhân cách.

      Ngoài ra lại còn một hạng cho ai cũng là người vô vị, việc gì cũng là việc không đáng làm, ngất ngưởng qua ngày, hững hờ đoạn tháng, để đồng tiền huyết hãn (1) của cha mẹ vợ con vào vòng trời hoa đất rượu, phung phí tuổi giàu sức khoẻ vào những cuộc đỏ đen suốt sáng, mây khói thâu canh. Họ cốt sống để tìm những thoả mãn về vật dục …

(1)  huyết: máu, hãn: mồ hôi; ngày nay hay nói: mồ hôi nước mắt

 Hoa Bằng

 Hư sinh, Tri tân, 1943

 

Có độc lập cũng cướp đoạt của cải và chém giết nhau đến chết

   Trong khoảng vài mươi năm nay, các bậc đại thần ăn dầm nằm dìa ở chốn triều đình, chỉ biết chiếu lệ cho xong việc; quan lại ở các tỉnh thì chỉ lo cho vững thần thế mà hà hiếp bóp nặn ở chốn hương thôn; đám sĩ phu thì ganh nhau vào con đường luồn cúi hót nịnh, không biết liêm sỉ là gì; bọn cùng dân bị nặn bóp mãi mà máu mủ ngày một khô, không còn đường sinh kế nữa.

     Đến bây giờ thì thế sự hư hỏng, nhân dân lìa tan, phong tục suy đồi, lễ nghĩa bại hoại, một khu đất bốn mươi vạn dặm vuông, một dân tộc hơn hai mươi triệu người lại sắp ở vào cái địa vị bán khai mà quay về cái địa vị dã man.

   Nước Nam đã lâu nay học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ, không có kiến thức. Trong một làng một ấp cũng cấu xé lẫn nhau, cùng nòi cùng giống vẫn coi nhau như thù hằn; có dẫu ai muốn lo toan việc lớn, chưa kể rằng không có chỗ mà nương thân, không có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu, giá phỏng Chính phủ (1) cho mượn dăm nghìn khẩu súng, cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng qua vài năm nếu không báo thù lẫn nhau thì cũng tranh giành địa vị với nhau, nếu không cướp đoạt tiền tài thì cũng giành giật tước vị, tự chém giết nhau đến chết hết mới thôi, quyết không thể sống nổi trong thế giới này, lại còn chống cự ai được nữa.

(1) đây là chính quyền thực dân Pháp

Phan Châu Trinh

Thư gửi chính phủ Pháp,1906

 

Dân trí thấp kém...

     Dân trí có công với dân quyền lớn vậy thay! (...) Vì vậy, giờ đây tôi xin kể những điều tai nghe mắt thấy để quốc dân cùng biết:

      Hay nghi kỵ lẫn nhau, không làm nên việc gì cả, đó là điều rất ngu thứ nhất.

      Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bễ những sự nghiệp đáng làm, đó là điều rất ngu thứ hai.

      Chỉ biết lợi mình mà không biết hợp quần, đó là điều rất ngu thứ ba.

      Thương tiếc của riêng, không tưởng đến việc ích chung, đó là điều rất ngu thứ tư.

       Biết có thân mình nhà mình mà không biết có nước, đó là điều rất ngu thứ năm.

     Dân được cường thịnh là nhờ có sự nghiệp công ích. Nay những việc đó, người nước ta đều không thể làm được. Hỏi vì sao không làm được, thì nói là vì không có tiền của. Sở dĩ không có tiền của là vì đã tiêu phí vào những việc vô ích xa hoa rồi.

Phan Bội Châu

Việt Nam quốc sử khảo, 1908

 

Dễ ỷ lại

    Tục ngữ có câu rằng Tháp đổ đã có Ngô xây – Việc gì vợ goá lo ngày lo đêm. Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay sao?

     Nghểnh đầu nghểnh cổ trông ngóng, nếu Ngô (1) không sang thì vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp.

     Tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, nghiễm nhiên một đống bồ nhìn rồi hẳn. Hỏi vì cơn cớ làm sao?

      Thì chỉ vì ỷ lại.

Câu tục ngữ ấy thật vẽ đúng tâm tình người nước ta. Nếu ai cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của mình thì có gánh gì không cất nổi.

      Nhưng tội tình thay, anh nào chị nào trong óc cũng chất đầy một khối ỷ lại. Anh Cột trong mong vào chú Kèo, cô Hường trông mong vào thím Lục, mà chú Kèo thím Lục lại ỷ có anh Cột cô Hường rồi. Rày lần mai lữa, kết cục không một người làm mà cũng không một người phụ trách nhiệm.

(1) Ngô đây chỉ người Tầu. Tục ngữ có câu Có mặt chú khách vắng mặt thằng Ngô

Phan Bội Châu

Cao đẳng quốc dân,1928

 

 

Trong việc nước cũng ai mạnh thì theo, bỏ hết liêm sỉ

       Sĩ phong (1) nước ta, suy đồi đi là tự đời Lê trung hưng về sau. Bắt đầu từ khi xuất hiện chế độ lưỡng đầu chế (Vua Lê-Chúa Trịnh) Lúc bấy giờ các vua nhà Lê vẫn cầm quyền mà họ Trịnh dám dấy lên cướp quyền, quan lại và sĩ dân trong nước đều theo họ Trịnh. Hoá nên cái tâm lý sĩ phu thời ấy có hai đàng: thờ vua Lê để tránh tiếng phản quân; thờ họ Trịnh để kiếm đường thực lợi. Ban đầu chắc cũng có người áy náy trong lòng, về sau tập thành quen, không còn biết thế nào là sỉ nhục. Một người như thế trăm nghìn người hùa theo, người trên như thế người dưới bắt chước theo, thành ra cả một nước đều bỏ mất đại nghĩa, quên mất liêm sỉ, mà đổ xô nhau vào vòng danh lợi. Từ đó về sau, người mình trở nên mềm như con bún, không biết vua là gì, không biết nước là gì, hễ ai mạnh thì theo. Lòng tự trọng của người mình như ngọn lửa đã tắt, không còn bừng lên, như hột giống bị ẩm, không còn nứt lên được. Lại thêm cái kiểu chuyên chế từ xưa đến nay, cứ ở trên đè xuống ở dưới đợ lên (2), làm cho nhân dân ngày một đê hèn ngày một yếu ớt. Lòng tham lợi mạnh hơn lòng tư kỷ (3) thì luồn cúi lạy lục mấy cũng chẳng từ; ưa cái sống đục hơn cái thác trong, thì mặt dạn mày dày đâu có quản.

(1) khí thế, tinh thần

(2) Theo Tự vị An nam La tinh (1772-1773) đợ có một nghĩa cổ “trao của tin cho ai”, ở đây tạm hiểu là nhẫn nhục chấp nhận

(3) tự ý thức về cá nhân mình\

Tác giả Phan Khôi

Luận về khí tiết, Hữu Thanh, 1923

 

Rên rỉ than vãn mỗi khi gặp khó  

   Những kẻ chơi bời lười biếng, vô công rồi nghề, dựa vào người khác mà sống, hưởng lợi mà không sinh lợi, thật chẳng khác gì giống ký sinh trùng trong loài động vật. Đó là những con mọt nước …

  Quen thói ỷ lại vào người thì dù có tâm có lực cũng không dùng được mà dùng cũng chẳng được lâu, tâm tư tài lực ắt sẽ nhụt dần. Hơi khó khăn gian khổ là rên rỉ, than vãn, uất ức bó tay chịu chết.

   Hỏi vì sao không cải lương nói lệnh trên chưa thay đổi.

    Hỏi vì sao không học tập, nói không có tài năng.

   Như thế thì xã hội ngày một suy, nước làm sao mạnh được ?

Quốc dân độc bản, 1907

 

Không có chí viễn du

     Ái quần (1) bắt đầu tất phải yêu gia đình làng xóm trước. Nhưng ở đời, những người  lưu luyến gia đình làng xóm, bụng họ không nghĩ gì ngoài bát gạo hạt muối, chân không hề bước đi đâu một bước. Xa gia đình làng xóm trăm dặm là nước mắt đã ướt áo, ra khỏi ngõ mười ngày là sốt ruột muốn về.

     Chí thú (2) của họ tất nhiên thấp hèn, kiến văn (3) của họ tất nhiên thô lậu, xã hội trông mong gì ở họ được nữa.

   … Khi châu Mỹ chưa ai biết, người châu Âu  cứ sang khai phá, xây nhà dựng cửa cho con cháu. Còn dân ta thì cho rằng “xảy nhà ra thất nghiệp”  nên không có chí viễn du. Không lấy làm lạ trí thức không mở mang, đời sống không đầy đủ, Tổ quốc lâm vào cảnh nguy vong mà không hay biết.

(1) yêu đồng bào đồng loại

(2) ý chí và lạc thú ( niềm vui)

(3) Kinh nghiệm và học thức

Quốc dân độc bản 1907

 

Xa lạ với chuyện phiêu lưu

     Người Âu trọng du lịch, xem thường hiểm trở gian nan, đi thám hiểm Băng Dương, đi vòng quanh địa cầu, đều là những việc thường thấy.

     Nước ta có thế không?

     Lìa nhà mươi dặm đã bùi ngùi những mưa gió hoa vàng! 

     Ở lữ thứ (1) vài năm đã than thở quan hà đầu bạc(2)!

     Nói gì đến Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng, Cao Miên không ai chịu đặt chân tới; nhưng ngay đến Trung Hoa đối với ta vẫn là chỗ cùng tộc loại, cùng đạo giáo, cùng lễ giáo văn học, cho đến phương tiện giao tế, cái gì cũng giống nhau, thế mà người Tàu thì ở nhan nhản khắp nơi kinh kỳ đô hội bên ta, còn người nước ta thì chưa một ai đến thành Ngũ Dương (3) cả.

(1) nhà trọ, chỗ xa lạ

(2) quan hà: cửa ải và sông; quan hà đầu bạc chỉ vất vả mà người đi xa phải chịu khiến người ta già đi

(3) thành Ngũ Dương đây chỉ Quảng Châu, thủ phủ Quảng Đông, chứ không phải tỉnh Quảng Đông nói chung như Đặng Thai Mai đã chú .

Văn minh tân học sách, 1908

 

Căn tính nô lệ, run sợ trước cái mới

     Kìa những kẻ ham mê đàn sáo, đầu hồ (1), bài lá, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lý, phù thuỷ ngày ngày dốc cả trí khôn vào những thứ vô dụng, sống say chết mộng, chả kể làm gì.

     Những hạng cao hơn, đỗ đạt lên một tí được cái tiếng quèn đã vội khủng khỉnh ta đây kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo (2), ngày ngày khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy học mới văn minh.

      Hạng kém hơn nữa thì chỉ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bực cất nhắc mấy người, chứ không hề biết đến vấn đề nào khác.

       Có một ông nào đã nói với các bạn hậu tiến (3): “Các thày muốn ra làm quan, thì phải cẩn thận, đừng đọc sách mới, xem báo mới”.

       Ôi, nếu không biết đến sách báo mới thì thôi, chớ đã biết đến mà lại bưng bít che lấp đi khiến cho không nghe không thấy chuyện gì, để tự mình lại củng cố một căn tính nô lệ, nhân cách như thế thiệt nên lấy làm đau đớn!

(1) một loại trò chơi của người xưa, ném một cái thẻ xuống một miệng trống rồi tính điểm, được Đại Nam quốc âm tự vị miêu tả là “một cuộc chơi lịch sự “

(2) đạo lý ở đời

(3) hâụ tiến đây chỉ có nghĩa lớp người thuộc thế hệ sau, chứ không phải người kém cỏi.

Văn minh tân học sách,1908

 

Không thiết việc đời

    Dân ta xưa nay chỉ quen sống “sau lũy tre xanh ‘, không thạo cách hội họp vả lại về tinh thần lại hay có tính cẩu thả. Sống được là may, học hành mà làm gì … đó là những câu họ thường trả lời cho ta khi ta khuyên họ nên học cho biết.

Ngô Tất Tố

Thời vụ, 1938

 

Chống đối tự phát

      Nước ta là một nước canh nông, đối với công nghệ không những không khuyến khích mà lại còn áp chế. Theo sách Lịch triều hiến chương, đời Lê Dụ Tôn đặt lệ trưng thu hoành lạm (1) khiến nhiều nhà nghề không kham nổi mà đành bỏ nghiệp. “Như nhà nước đòi sơn thì dân chặt cây đi, nhà nước đòi vải lụa thì dân phá khung dệt, đòi gỗ thì dân quăng búa rìu, đòi tôm cá thì dân xé lưới “.

(1) thu mua quá mức

Đào Duy Anh-Việt nam văn hoá sử cương,1938

 

Đi đâu cũng lo quay về  làng 

   Dân trí hẹp hòi, ở ta nhiều người học hành chẳng qua mong lấy thi đỗ làm quan cho làng cho họ được nhờ.

    Công nghệ buôn bán thường đợi khách đến tận làng mà mua những đồ chế hoá (1). Người bất đắc dĩ phải đi xa cầu thực (2), hồ (3) kiếm được đồng tiền dư, trước hết phải lo nghĩ tới việc dựng cái nhà thờ, tậu vài ba mẫu ruộng ở quê quán  mình.

     Nói việc nhỏ nhặt như người đi làm công làm việc, nhiều kẻ vì nghĩa làng nước  mà quên đến cả nghĩa doanh sinh (4), chỗ  cao lương bổng không cầu, mà cầu lấy nơi ít tiền nhưng được tư án quán, tức có tên về làng về nước;

       kẻ  bán buôn nơi thành thị hoặc kẻ có tài chế hoá ra được thứ hàng gì khéo, vị yêu nghệ (5) mà chuyên nghệ thì ít, song vị muốn tăng công để lấy chút danh mệnh  để đem mặt về ngẩng nơi đình đám thì nhiều, cho nên lòng  ao ước nhỏ nhen  được thoả là không lo gì đến nghệ nữa.

(1) làm ra

(2) kiếm ăn

(3) những mong, may ra

(4) tìm cách sinh nhai

(5) vị nay đọc là vì, vị yêu nghệ thì ngày nay nói vì yêu nghề

Nguyễn Văn Vĩnh

Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xã, Đông  dương tạp chí,1914

 

Ngoài làng xã không biết gì đến nước nhà đến thế giới

    Tục nước mình thường hay thiên trọng ở chốn hương thôn, quanh năm suốt tháng lẩn quẩn ở trong làng, chiếm được một chỗ ngồi nơi hương đảng (1) đã lấy làm vinh dự, tranh nhau làm ông phó, tranh nhau làm ông xã, tranh nhau ăn trên, tranh nhau ngồi cao, chửi mắng nhau, đánh đập nhau, kiện tụng nhau.

     Cái câu “Hương đảng tiểu triều đình” cùng “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” luôn luôn ở cửa miệng.

      Có nhiều người hết cơ hết nghiệp vì một việc tức khí nơi hương thôn.

      Có nhiều người khánh kiệt gia tài vì một bữa hương ẩm (2).

      Ngoài cái làng ra không còn biết đến nước nhà là gì, thế giới là gì.

      Vì vậy mà tư tưởng cục cằn, kiến văn chật hẹp. Mấy dãy tre nơi đầu làng đã là cái khám nhốt người ta rồi. Không những không có người nào ra ngoại quốc học tập làm ăn, mà ngay đến trong nước, mỗi tỉnh mỗi xứ cũng coi như một thế giới riêng.

(1) làng xóm

(2) cuộc ăn uống mời gần như cả làng

Trần Huy Liệu

Một bầu tâm sự, 1927

 

Tình yêu làng nước cản trở tiến bộ

     Cái xã hội nhỏ ấy có thể là một sự trở ngại lớn cho tiến bộ.

       Vì làng An Nam  xưa là một xã hội thống nhất về chính trị  cũng như về tôn giáo nên một số đông dân làng chỉ có cái quan niệm với làng mà thôi. Họ chỉ biết có luỹ tre xanh có đình làng của họ, ngoài ra đều là người dưng nước lã cả, không có gì liên  lạc với họ hết.

      Những chuyện tranh nhau đánh nhau giữa hai làng An Nam xưa thường có xảy ra. Tình yêu người đồng bào bị cái tình yêu người cùng làng làm phai lạt, đó là cái hại lớn.

    Sự liên lạc quá mật thiết giữa làng và dân làng còn là sự trở ngại cho công cuộc di dân, cho sự thông thương, cho sự tiến bộ.

    Đi xa tức là bỏ làng, và bỏ làng đối với  người xưa là một điều xấu, một sự cực nhục!

Hoàng Đạo

Làng xã, báo  Ngày Nay, 1940

 

Ương ngạnh, hoài nghi, khó dìu dắt 

     Trước hết nông dân ta ngày nay (bài này viết tháng hai 1945  ---  VTN chú )  đều còn dốt nát.

      Bởi dốt nên thủ cựu mà thủ cựu một cách bướng bỉnh. Bao nhiêu điều gì mới lạ khác với thói thường, với sự quen dùng, họ đều coi như không tốt và không bao giờ có ý tò mò muốn dùng.

     Đại đa số chỉ sống lần hồi từng ngày, nên họ không hề có những sự trông  xa, hoặc lâu dài và phiền phức rắc rối.

       Họ cần những hoa lợi mau chóng chắc chắn và dễ dàng, dẫu rằng ít ỏi.

       Họ nhận thấy ruộng thiếu phân bón nhưng họ chẳng biết làm thế nào cho có nhiều phân. Vì hình như họ cho sự thiếu thốn ấy là dĩ nhiên.

       Họ nghiệm thấy những giống thóc họ thường cấy là không cứng cây, không chịu được nước ngập, v.v.. nhưng họ chẳng muốn tìm các giống tốt hơn và giá thử có tìm thấy họ cũng không dám cấy thí nghiệm.

       Họ cũng từng biết nghĩ  rằng nếu rất nhiều người họp lại  chung công của để đắp một khúc đê, xây vài va cửa cống thì có lẽ giữ được nước mưa để cả một cánh đồng khô khan  trở nên chan hoà nước và cây cối tươi tốt.

        Nhưng họ cũng lại tin rằng  đó là một sự chẳng bao giờ nên dám làm, vì chắc đâu đã được lợi. Vả lại công việc khó khăn và lâu dài lắm. Thà rằng chẳng nghĩ đến làm còn hơn (!)

         Dốt nát, thủ cựu, nghèo, ưa thực tế, hay ngờ vực nhút nhát, mọi nhẽ ấy đã tạo thành những  người nông dân khó hiểu, khó dìu dắt và khiến cho người nào nông nổi ương tính phải bực mình, có khi đến phải cáu phải ghét.                                                                    

Thảo Am tức Nghiêm Xuân Yêm  

Nông dân mới trong nghề nông xứ ta Thanh Nghị, 1945                                                                                    

 

Người Việt qua cách nói năng cười cợt, Không còn lễ nghĩa liêm sỉ

       Nước ta, những nơi chợ búa thành phố, không luận đàn bà trẻ con, đến người có học biết chữ mà cũng mở miệng là nói lời thô bỉ.

       Tập thành thói quen, những tiếng tục tĩu, người nghe nhơ cả lỗ tai, mà người nói lại lấy làm khoái.

        Cho đến câu mắng bài chửi, đọc ra có cung có điệu, người nào mắng chửi cả ngày mà không trùng lặp, thì người ta xem như Tô Tần, Trương Nghi (1), chiếm giải quán quân.

       Đến lúc diễn ra cái bộ dạng mắng chửi, tiếng như mõ rao, chân như múa hát lên tay xuống ngón, mặt như sơn đổ, tóc như tơ vò, nước miếng như bọt giải, tay cầm dát lia, chân đi cà xiểng (2)  không khác gì người điên.

      Lại còn một điều xấu nữa, hễ có bất bình với ai thì phát thệ (3) và nguyện rủa chúc dữ (4) rất nặng.

      Thường hàng ngày cùng giao du với nhau, mà đến lúc bỏ nhau, chất chứa điều bất bình lâu, thì khí yêu (5) nhân đó mà sinh ra, người nọ bảo người kia “đầy miệng điều láo, một ngày bán được ba gánh giả, đến đâu cũng dối, ba ngày không mua được một điều thực “.

       Thật là không còn chút lễ nghĩa liêm sỉ nào! Cái phong tục kiêu bạc (6) đến thế là cùng. Thế giới chưa có nước nào như xứ mình!

(1) các nhà thuyết khách nổi tiếng đời Chiến quốc bên Trung quốc

(2) dát lia – chưa tra cứu được; còn cà xiểng , theo Đại Nam quốc âm tự vị , là Ngao du không biết công chuyện chi mà làm, không nên sự gì

(3) thề bồi

(4) chúc: khấn. Chúc dữ: ước cho mắc sự dữ

(5) tinh thần gian tà bất chính

(6) cũng tức là khinh bạc với nghĩa cổ: kẻ không biết tự trọng

Nguyễn Trường Tộ

Về việc cải cách phong tục, 1871

 

Những câu chửi rủa quá quắt

     Nói tục, nói bẩn chắc hẳn không người nước nào bằng người An Nam ta. Lắm câu chửi rủa của ta, không tiếng nước nào dịch nổi, giả thử những người nói ra có nghĩ đến nghĩa từng tiếng thì đứa nặc nô (1) cũng phải đỏ mặt đến lòng trắng mắt.

     Thử ngẫm mà xem, những câu ấy có nghĩa lý gì đâu.

      Bảo người ta ăn những gì những gì thì có nghĩa lý nào? Gọi ông cha mấy đời người ta lên mà chém mà vằm cũng không có nghĩa gì cả.

       Người ngay thật có ai sợ nhưng câu chửi rủa ấy đâu? Mà người mở mồm nói những tiếng dơ bẩn ấy, thì thực là xấu cho cái miệng quá, ra ngay con người thô tục.

 (1) nặc nô: người làm nghề đi đòi nợ thuê ngày xưa; nghĩa rộng là người đanh đá ghê gớm

Nguyễn Văn Vĩnh

Ăn nói thô tục, Đông dương tạp chí, 1914

 

Tây không ra tây, tàu không ra tàu, ta không ra ta

    Người mình không những nghề diễn thuyết chưa biết, mà đến nói câu chuyện cho có đầu đuôi manh mối cũng ít người nói được.

     Khi hội đồng (1), thời (2) chẳng khác gì như họp việc làng, tranh nhau  nói, ồn ào lộn xộn mà ít ai nói được câu gì cho có nghĩa lý, chỉ bẻ hành bẻ tỏi nhau những cái vặt vặt chẳng đâu vào đâu.

       Khi yến tiệc thời đương câu chuyện vui, gặp có tiếng gì buồn cười, nhất là nói tiếng bẩn, ông nào to miệng cả tiếng thở ra một cái cười hà hà, cử toạ đều cười ầm cả lên đến vỡ đổ nhà; thế là câu chuyện tan.

       Chỗ công môn thời ông quan nói, muốn ra oai mặt sắt chỉ nói nhát gừng, cách một vài câu lại điểm những tiếng nghe chưa ? nghe  chưa?  thằng dân thưa thời gãi tai gãi đầu, chỉ nghe những tiếng bẩm bẩm dạ dạ nói không ra lời. Mấy cậu thiếu niên thời toa toa moa moa (3) ngậu xị cả đường phố, câu chuyện không những vô vị  mà thường bất thành ngôn (4) nữa.

       Thời buổi nhố nhăng, ngữ ngôn bác tạp, anh bồi chú bếp con bạc làng chơi ả giang hồ cậu công tử, tây không ra tây, tàu không ra tàu, ta không ra ta, có nhiều cái xã hội không biết họ nói thứ tiếng gì.

   Thử tìm khắp trong nước được mấy người là  biết nói năng lịch sự ? Thật ít quá.

(1) Cuộc hội họp đông người để bàn việc công (nghĩa cũ )

(2) thì

(3) mày mày tao tao

(4) không nên lời

Phạm Quỳnh

Pháp du hành trình nhật ký,1922

 

Thiên về những cái tầm thường thô bỉ

      Ai có ý đến những nơi họp tập, hoặc là chỗ chơi bời thì thực là buồn thay cho cái trí dục của những người đời nay.

        Ngoại giả chuyện cô đầu, chuyện cờ bạc, chuyện hát tuồng, chuyện chim chuột, chuyện quần áo còn thì không mấy khi được nghe những câu chuyện lý thú, làm tỏ được học vấn kẻ nói, lợi được trí khôn ng­ười nghe.

    Mà xem như trong cách nói chuyện, thì thiếu niên (1) ta nghe lại có ý thích những câu chuyện tầm thường, nói chuyện để mà khoe cho người nọ người kia biết cái cách của ta chơi xa xỉ hoặc là kỳ khu (2)...

      Ai ăn nói có tư tưởng có tỏ học vấn thì thường người nghe thích nhưng ít cầu, vì câu chuyện có nghĩa, làm cho phải nghĩ, phải đối đáp nhọc mệt...

       Người nói chuyện hay, cũng có kẻ phục là người có ích, nhưng trong cái phục có cái ghen có cái ghét. Ghen là vì ở đâu đến cướp mất tai kẻ nghe, ghét là vì ở đâu đến làm tỏ cái nhàm của câu cười cợt tầm thường người ta đang thú.

(1) hồi đầu thế kỷ XX, chữ thiếu niên không phải dùng để chỉ lớp thiếu nhi từ 10 đến 14 tuổi như bây giờ. Mà có nghĩa là ng­ười trẻ tuổi, tức lớp thanh niên 18 tuổi trở lên.

(2) tỉ mỉ, mất nhiều công sức

 Nguyễn Văn Vĩnh

 Đông dương tạp chí, 1914

 

Tật huyền hồ sáo hủ (1)

   Xét trong văn chương, xảo kỹ nước Việt Nam, điều gì cũng toàn là huyền hồ giả dối hết cả, không cái gì là thực tình... Thời tiết nước mình thì không biết một chút chi chi, tả đến tứ thời thì xuân phải phương thảo địa, hạ phải lục hà trì, thu phải hoàng hoa tửu, đông phải bạch tuyết thi (2). Thành ra đến câu hát cũng hát cho người, cảnh nhà mình thì  như mắt mù tai điếc. Mượn chữ người, mượn đến cả phong cảnh tính tình chớ không biết dùng cái vật liệu mượn ấy mà gây dựng lấy văn chương riêng cho nó có lý tưởng đặc biệt.

   Người Việt Nam lý hội (2) điều đẹp cũng có một cách lạ. Sách Tàu tả người đẹp môi son mắt phượng, mày ngài khuôn trăng mình liễu thì bao giờ tả người đẹp ta  cũng cứ thế mà tả.

(1) huyền là  sự gì lơ lửng  không dính vào đâu; hồ là lời nói càn; sáo là lời dựa theo khuôn có sẵn; hủ là lời khoe khoang; bốn chữ này ghép lại chỉ sự ăn nói lời nói linh tinh, trống rỗng, giả tạo

(2) vùng đất đầy cỏ thơm,  ao sen xanh mướt,  rượu hoàng hoa và  thơ tả tuyết trắng

(3) hiểu, quan niệm

Nguyễn Văn Vĩnh

Tật huyền hồ sáo hủ, Đông dương tạp chí,1913

 

Trong tiếng cười ẩn chứa nhiều ý xấu

      An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì, phải cũng hì mà quấy (1) cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng mọi việc hết nghiêm trang.

       Có kẻ bảo cười hết cả cũng là một cách của người hiền(2). Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thẩy, không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày nghĩ ngợi...

     Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cách láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên trí không không phải nghe hết nhời người ta mà đã gièm trước cái ý tưởng của người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc (3) người ta.

   Gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng, mỏi lưỡi tê môi  để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một tiếng hì, khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi  hỏi chẳng thưa, trước sau chỉ có miệng cười hì  thì ai là không phải phát tức ?

 (1)  sai, trái với lẽ phải

 (2)  người có đức hạnh, tài năng

(3)  ở đây không có nghĩa sự nghiệp to lớn mà chỉ hàm ý công việc nói chung

Nguyễn Văn Vĩnh

Gì cũng cười, Đông dương tạp chí, 1914

 

Tiếng cười vô duyên

     Có một phần đông người Pháp ở đây, ta hằng ngày thấy họ, cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc.

      Ví dụ như gặp khi trời mưa, đường trơn có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trượt té, bấy giờ có năm ba người Pháp đứng đó họ có cười không?

      Tôi, và nhiều người như tôi, dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị té ấy lên nữa.

     Còn như con rồng cháu tiên ta, tôi cầm chắc rằng trước khi chạy lại đỡ, ta phải cười một chặp cho no nê đã.

Phan Khôi

Phụ nữ tân văn 1931

 

Nói bừa nói bãi, tủi nhục cho cả nòi giống

      Không biết nói không biết, đó là nghĩa vụ thứ nhất của người muốn học muốn hiểu. Đằng này nhiều người ở ta lại làm như trong thế giới này cái gì cũng rõ ràng minh bạch, tựa hai lần hai là bốn.

     Ai không tin là thế, họ liền phê cho hai chữ: thần bí; hai chữ ấy trong trí họ tức là ngu xuẩn điên rồ.

     Họ không ngờ rằng họ lại “thần bí” hơn ai hết.

     Có những vấn đề xưa nay bao người tài giỏi suốt đời nghiền ngẫm chưa tìm ra manh mối.Thế mà cái điều một ông Pasteur một ông Einstein không dám nói, ngày nay ở xứ ta những cậu học sinh vừa mới bước chân ra khỏi trường Sơ học đã giảng giải được lên sách, lên báo, theo những phương pháp cuối cùng của khoa học.

      Thế giới còn chờ gì  mà không khắc bia xây tượng  để đền ơn họ.

     Nói chơi vậy thôi, chớ cái việc họ làm đó là một sự tủi nhục vô cùng cho nòi giống.

      Cả một đám thanh niên chưa có lấy cái học phổ thông cũng tấp tểnh chạy theo những lý thuyết cao thâm của siêu hình học.

       Có lần chúng tôi thấy một thiếu nữ trước đâu mới học đến lớp ba lớp tư gì đó đương hăng hái giảng giải về duy tâm và duy vật. Chúng tôi chán ngán không biết nên khóc hay nên cười. Thực là một cái họa !

Hoài Thanh

Một cái họa, Văn chương và hành động, 1936

 

Hay cãi nhau, thích kiện tụng

   Những vụ cãi nhau nảy ra ngay từ  cách tổ chức làng xã.

    Xã hội hương thôn chia thành các giai cấp lệ thuộc vào nhau. Muốn thực hiện  các điều kiện cần thiết để bước vào một trong những giai cấp đặc quyền, người ta phải cúng Thành hoàng và mời mọi người ăn uống.

      Điều đó thật tàn hại: người ta đi vay với lãi cao, cầm cố nhà và ruộng, bắt vợ con chịu thiếu thốn.

    Khi thuộc giai cấp đặc quyền thì vấn đề là phải biết bảo vệ đặc quyền của mình.

     Người ta sẽ đi đến tận Tòa án tỉnh, thậm chí Tòa thượng thẩm, chỉ vì miếng thịt chia không đều, hoặc một sự việc cực kỳ phù phiếm.

      Người ta tiêu đến đồng tiền cuối cùng để giữ thể diện hoặc làm đối thủ mất mặt.

       Lịch sử một số làng cũng là lịch sử kiện cáo. Có những làng mà tất cả ruộng đều thuộc sở hưũ của những làng lân cận. Đấy chính là những làng đã  qua những vụ kiện nổi tiếng.

Nguyễn Văn Huyên

Vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939

 

Chỉ trích và châm chọc

      Người Việt ít khi chịu chết vì tín ngưỡng hay vì một vĩ nhân nào đó đã chủ trương trái quyền lợi của họ.

       Gặp lúc phải dồn vào thế yếu, họ chống lại ngay bằng phương pháp tiêu cực: chỉ trích và châm chọc.

     Luôn luôn bị áp bức về kinh tế và chính trị, cuộc sinh hoạt tinh thần thường lẩn cả vào trong tâm tưởng nên sức phản ứng của tình cảm và tư tưởng không mau lẹ. Tính ưa hư danh là một tật phổ thông của những người hằng cố gắng tìm vượt lên trên địa vị hiện tại của mình.  Tật cờ bạc, do cuộc sống chật hẹp gây nên, cũng là một tật phổ thông khác.

 Lương Đức Thiệp

 Việt Nam tiến hoá sử,1944

                                                                      

Thói hư tật xấu người Việt trong làm ăn buôn bán

Trích từ chuyên mục Người xưa cảnh tỉnh đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007 Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn

Lời dẫn

Cuối 2011, có tin trong cuộc thi tay nghề quốc tế World Skills 2011 ở Anh, tổ chức ở khu Excell, phía Đông London, Việt Nam không đoạt được huy chương nào mà chỉ đem về 7 chứng chỉ ở các môn Công nghệ may thời trang, Nấu ăn, Lắp cáp mạng thông tin, Điện tử, Xây gạch, Công nghệ thông tin và Thiết kế trang web. Con số quả là rất nhỏ trên tổng số 950 chứng chỉ cấp cho 50 quốc gia tham dự.

Báo Tuổi trẻ cuối tuần, số ra 11-3-2012 có bài của một quan chức của cơ quan phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc. Ông này nhận xét đại ý là lao động Việt  thường ít nghĩ đường dài, cố cầy kiếm tiền hơn lo học hỏi để làm ăn lâu dài.

     Những tin tức loại này ngày càng được đưa ra trên báo chí. Chúng cho thấy điều mà người mình thường tự hào là giỏi giang chăm chỉ cần mẫn khéo tay cần phải xem lại. Nếu không phải là một huyền thoại, nghĩa là một điều ta tự lừa ta,  thì đó cũng là một phẩm chất không có gì chắc chắn, người ta rất dễ đánh mất.

    Đằng sau cái vẻ bề ngoài cố sống cố chết mang hết năng lực ra kiếm sống, thực ra con người vẫn chỉ dừng lại ở một quan niệm thô thiển về sự làm việc và cuộc sống nói chung.

     Dưới đây là những nhận xét tương tự về sự làm ăn buôn bán sản xuất kinh doanh của người Việt từ các bài viết của các trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX, khi chúng ta chuyển mình theo hướng hiện đại hóa lần thứ nhất.

     Mấy năm trước chúng tôi đã có dịp sưu tầm và đưa ra rải rác các nhận xét này trên mặt báo, nay dồn cả lại thành một cụm kính trình bạn đọc.

    Điều cần nói thêm là từ những kém cỏi trong làm ăn buôn bán, nhiều nét tiêu cực trong cách sống cách nghĩ của người Việt đã được hình thành. Suy nghĩ nông nổi. Lừa lọc dối trá. Mua tranh bán cướp. Làm hàng giả…

    Và chúng cũng lan sang cả mối quan hệ giữa người và người giữa cá nhân và xã hội.

     Nhìn vào các lĩnh vực khác như học hành thi cử cầu cúng tín ngưỡng, văn hóa giáo dục, quản lý xã hội nói chung …đâu đâu ta cũng thấy đời sống kinh tế lạc hậu đã kéo thấp con người xuống, và đến lượt nó, sự hạn chế trong đời sống tinh thần lại quay lại làm cho sự sản xuất làm ăn không bao giờ phát triển lên được.

 

Thiếu cái gan làm giàu

   Cách đại thương (1) là có gan làm giàu. Coi người ta phí (2) bao nhiêu tiền bạc mà không sợ mất là vì người ta tiên liệu đại lợi (3), kể chi sự phí. Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho thấy trước mắt có lợi mới chịu làm.

    Nếu đem đại thương mà sánh với bán hàng bông (4) thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt, hễ mua sớm mai thì chiều thấy lợi, còn mua chiều sáng thấy; chớ như đại thương thì ít nữa là năm năm còn nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi. Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít (..) còn lợi mà lâu thấy thì thật lớn lắm.

   Người nước nào đều có ngay gian xấu tốt, họ không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm rồi thì quen, còn người mình không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.

(1) buôn bán lớn

(2) bỏ tiền của ra sử dụng

(3) tính trước rằng sẽ lãi lớn

(4) Đại Nam quốc âm tự vị ghi nghĩa đen, chỉ hàng hoa quả bông trái ; nhưng ở đây có nghĩa rộng hơn chỉ việc buôn bán cò con, buôn đầu chợ bán cuối chợ.

Lương Dũ Thúc

Nông cổ mín đàm 1901 

 

Không lo xa, dễ thoả mãn

     Tôi luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng thở than, trong lúc đói lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữa.

      Người nước của chúng ta, bởi không từng trải ít thấy rộng ít nghe xa (...) hễ vừa mới động nở nòi ra một thí (1) là đổi tính đổi nết, làm bề làm thế (2), muốn nghỉ mà ăn chơi. Bởi làm sao vậy? Bởi trong trăm người mới có một thì là trong một xóm ở chừng một trăm, người ấy đã đặng trên mấy bợm (3) khác. Có bạc chục bạc trăm, cho vô cho ra, đã có người thiếu nợ mình rồi; cho nên hết muốn ráng sức nữa. Vì vậy nhiều khi nghèo nàn khổ sở trở lại. Đến lúc nghèo rồi lại than thở trách trời, sanh mình sao mà vận xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo, tại trời không thương.

(1) khá giả một tí

(2) làm le, làm dáng, khoe mẽ

(3) bợm đây không có nghĩa xấu mà chỉ có nghĩa bọn khác kẻ khác

Lương Dũ Thúc,

Nông cổ mín đàm, 1902

 

Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá

     Nước nào cũng có gian giảo, Tây, Nam, Chệt, Chà (1) đều có kẻ tốt người xấu. Song nước ngoài người ta gian khéo xảo lớn, còn nước mình gian vụn xảo vặt. Nói giác thể (2) như một người Chệt kia lãnh của người ta đi buôn, lãnh rồi thì lo làm ra té lời cho nhiều, có gian lận thì lấy trong cái tiền lời ấy, chớ không khi nào đụng tới vốn bao giờ. Họ tính như 1đ00 mà làm lợi ra 0đ30, dầu có gian, chủ có hay, cũng dám nhắm mà cho gian. Còn người nước Nam không phải vậy, cứ gốc đẽo hoài. Chủ ra vốn cho 10đ đã phá tán cho lỗ lã, rồi cứ cái vốn lấy hoài, cứ cái mạch châm hoài. Đụng 0đ50 cũng gian, 0đ30 cũng gian, làm sao mà không háp tiệm (3).

      Chuyện gì hồi lãnh coi công việc thì bần hàn ăn mắm muối, vợ rách con đói; chừng lãnh việc rồi, vợ đeo vòng con đeo vàng, chồng giày vợ dép lên xe xuống ngựa, vợ lấy bạc góp chồng lấy bạc góp, chồng trai gái đào đĩ, sắm giường sắm mùng riêng, vợ tùng điệp (4) đem cả kiếng họ (5) đến tiệm mà ăn phá. Ôi tính hay ăn xổi, xài gấp giật gấp, nước mình nay ra đi buôn thì không khác gì mấy đứa con nít tập đi tập chạy.

(1) Chệt (có khi viết Chiệc): người Tàu; Chà: người Mã Lai hoặc Ấn Độ; còn Tây và Nam, tức người phương Tây và người Việt

(2) ví dụ

(3)  háp, nghĩa gốc là khô héo, háp tiệm đại ý cũng như sập tiệm

(4) liên tục, dồn dập

(5) Chi họ, dòng họ

Trần Chánh Chiếu

Lục tỉnh tân văn, 1908

 

Không biết chấn hưng thực nghiệp (1)

    Người nước ta xưa nay chia ra bốn nghề sĩ nông công thương... Phàm những kẻ biết đôi chút từ chương là đã vênh vang tự cho mình là kẻ sĩ, không thèm đứng cùng hàng với nông công thương, cho họ là hèn hạ, gọi là dân buôn, dân thợ, dân cùng. Sĩ đã không biết việc nông công thương, mà nông công thương phần nhiều không học hành, không biết nông học là gì, công nghiệp là gì, địa lý là gì. Trăm môn chẳng biết môn nào, thực nghiệp mới không chấn hưng được.

      Ở các cửa khẩu thông thương, trăm người không ai không mặc vải Tây, mà vải Tây là lấy bông sợi của ta dệt ra (...) Các nhà buôn học thức nông cạn, người ta mang hàng đến mà mình không biết chở hàng đi (2). Nhà buôn trong nước rất tản mạn, chèn ép lẫn nhau, không có chủ trương nhất định...

(1) thực nghiệp là từ chỉ chung các ngành sản xuất vật chất, bao gồm cả nông nghiệp lẫn công thương nghiệp

(2) chỉ lo nhập khẩu không biết xuất khẩu

Quốc dân độc bản, tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục ,1907

 

Đồng tiền không dùng để sinh lợi

     Tiền của tức là máu mỡ của dân. Tôi không nói là không nên yêu tiếc. Nhưng yêu tiếc thì phải bảo vệ nó làm cho nó sinh sôi nẩy nở. Muốn vậy phải có cách để biến nó thành một món to, không phải chỉ một món nhỏ. Như thế mới gọi là yêu tiếc.

   Thế nhưng người nước ta yêu tiếc tiền của riêng thì lại chỉ để tiền của cung phụng cho cái mồm cái bụng riêng của mình, chứ không biết đến có việc gì khác, đó là một. Có kẻ lại bới đất đào lỗ để chôn giấu của cải, chỉ sợ người khác biết, chôn lâu đến hỏng nát, đó là hai. Cả hai hạng người này một bên thì xa xỉ, một bên thì keo kiệt, tuy không giống nhau, nhưng đều ngu như nhau.

Phan Bội Châu

Việt Nam quốc sử khảo, 1908

 

Những người thợ bất đắc dĩ

     Tính người mình không biết quý trọng công nghệ, người làm nghề  tựa hồ như bất đắc dĩ không học được làm quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra làm nghề thôi. Mà  làm nghề  thì không cần gì tinh xảo chỉ cốt bán rẻ tiền  được nhiều người mua là hơn. Công nghệ suy nhược lại còn là vì  người có học thức không chịu làm, người chịu làm  thì lại là người không có học thức, chẳng  qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa  chớ không  nghĩ được cách thức nào mới.

    Ít năm nay, có trường bách công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động, thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều, và cũng đã có người  sinh được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi buôn bán. Song cái tính khinh đường công nghệ thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu có, song vẫn tự coi mình là đê tiện, phải mượn cái phấn ông hàn ông bá  mới là vẻ vang.

Phan Kế Bính

Việt nam phong tục, 1915

 

Buôn bán lòng vòng trong phạm vi hẹp

    Xét ra việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều cớ. Dân ta nhát tính, không dám đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám đi đâu cả. Ví dụ có đi chăng nữa,  thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải Phòng, Sơn Tây; xuôi Nam Định đã cho là xa xôi; ai bần cùng lắm mới lên đến  Lao Cai, Yên Bái  hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ lo những  nước độc ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc mà quanh năm chí tối, bán quẩn buôn quanh.

    Phàm làm việc gì có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu (1) ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn  một chút hoặc hơi vấp váp điều gì  thì đã ngã lòng ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin thôi, làm cho việc  có cơ tấn tới mà cũng phải tan không thành nữa.

(1) tức có kết quả                                                                               

Phan Kế Bính                  

Việt nam phong tục 915

 

Không có nghề nào đạt tới rình độ chuyên nghiệp

     Phần nhiều người nước ta chỉ nô nức về đường công danh sĩ hoạn, mà coi nghề buôn bán là một nghề khinh thường. Người giàu có cho con đi học mong cho con về sau nhất ra thì làm nên ông nghè ông bảng, chớ nào ai mong cho con mai sau làm nên bác lái này ông lái nọ. Người làm quan trở về thì lấy gió mát trăng thanh, cúc thơm lan tốt, chè chuyên thuốc quấn, đàn ngọt hát hay làm vui thú, chớ nào ai thiết gì ông chủ cửa hàng nọ ông quản lý cửa hiệu kia. Mà đủ bát ăn thì cũng lấy sự thanh nhàn làm thú trên đời, còn việc buôn bán thây mẹ đĩ.

     Té ra bao nhiêu ông việc buôn bán phần nhiều  ở trong tay người đàn bà  và ở trong bọn mấy chú lái  thì mong sao mở mang ra to được ?!                                                                                                                      

    Lại như việc chữa bệnh, xưa kia nước ta không biết trọng nghề làm thuốc, thường cho là một nghề nhỏ mọn, không mấy người lưu tâm. Chốn dân gian chỉ những người bất đắc chí trong đường khoa cử  mới xoay ra xem sách thuốc để lấy nghề sinh nhai. Phần nhiều là những người thiển học (1), rồi cũng dám lên mặt ông lang đi khắp chợ cùng quê để chữa bệnh cho thiên hạ. Mạch thấy nắm cũng nắm,  mà có hiểu thế nào là mạch thực mạch hư; bệnh thấy xem cũng xem, mà có hiểu thế nào là bệnh hàn bệnh nhiệt. Đệm thêm một nắm lá xì xằng cho gói thuốc to, để lấy cho đáng đồng tiền của người ta. Cũng may dân ta phần nhiều còn dại dột, sống chết đổ cho tại số, chớ không  thì các ông lang  ấy chắc không ăn ngon ngủ yên.

(1) sức học nông cạn

Phan Kế Bính

Việt nam phong tục, 1915

 

Không chịu học buôn học bán

     Nói đến cuộc thương mại nước nhà mà thêm chán. Bất quá trong nước được vài nhà buôn, còn thử đi qua các phố mà xem, chỉ những Chiệc với Chà (1) họ chiếm mất cả. Buôn bán với các nước, lại càng chẳng có ai gọi là tay đại doanh nghiệp.

     Vì cớ từ xưa đến nay, đàn ông ở ta chỉ lo học hành thơ phú ngâm nga, hi vọng làm quan, chứ buôn bán cho là mạt nghệ.

      Hai nữa là từ xưa không có học làm các sổ sách buôn bán, không có một trường nào dạy buôn bán như ở nước Tàu cũng như các nước bên Âu Mỹ.

       Nhẽ thứ ba, ta có buôn chỉ buôn quanh bán quẩn với nhau, không thực thà không đồng tâm, không thạo việc, không biết cách đối đãi với khách mua hàng.

     Vả lại bây giờ nước ta không giữ cái chủ nghĩa bế quan nữa, cửa ải đã mở rộng, nhưng mà cuộc thương mại với các nước ở tay ai chứ có ở trong tay mình đâu, mà dẫu có để cho mình cũng vị tất có đủ tài sức mà gánh vác.

(1) người Trung Hoa và người Ấn Độ

 Lê Đức Mậu

Bàn về thương nghiệp, Hữu thanh, 1921

 

Khéo tay mà trí không khôn 

     Xét ra ở nước Nam ta mới có các nghề mỹ nghệ là thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề trang sức cả, còn mỹ thuật thì chưa có gì sánh được với các nước;

     nhưng ngay trong mỹ nghệ cũng chưa có kỷ luật, chưa có thể thống gì, chưa phân rõ các kiểu cách, các thời đại, các lề lối, các phương pháp;

     thợ thuyền phần nhiều là những người vô học, phi quen tay phóng lại lối cũ, thời bắt chước chép của người ngoài, thành ra tay có khéo mà trí không khôn, không biết biến báo mà vẫn  giữ được tinh thần cốt cách cũ, tồn cổ mà khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mới;

     nóí tóm lại là không có trí sáng khởi (1) khôn ngoan, gây ra trong mỗi nghề  một cái thể thức trang nghiêm mà đặc biệt.

      Cho nên các nhà nghề ta, không thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho  có cái trí khôn nưã.

      Nay muốn gây lấy cái trí khôn ngoan trong mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức, thời không gì bằng lập ra một nhà bảo tàng mỹ nghệ, sưu tập lấy những đồ đẹp trong nước, chia ra từng thời đại, bày cho có thống hệ (2), để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà học cho biết nghề mình duyên cách (3) thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy mà giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ, hoặc nhân đấy mà biến đổi dần.

(1) bắt đầu dựng lên

(2) quan hệ của những cái liên tiếp. Cũng nghĩa như  hệ thống

(3) duyên (có khi đọc diên) ở đây  là thủ cựu, cách là đổi mới.Duyên cách : Tình hình cũ và mới  

Phạm Quỳnh

Pháp du hành trình nhật ký 1922

 

Không ai chuyên nhất việc gì

    Các nước phú cường, người nào làm việc gì thì chuyên việc ấy. Nhà khoa học lo cả đời phát minh; người làm giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước ta thì không thế. Một người làm năm bảy việc; trong khi làm bàu gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình, lại có mở một cửa hàng tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu sang Pháp làm chính  trị.

   Người ngoại quốc thấy vậy, cho rằng chúng ta có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức chuyên nhất, không có tính nhẫn nại.

Tân Việt (*)

Mỗi người một việc – Đông Pháp thời báo, 1928 (*)Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan Khôi  ký chung trên Đông Pháp thời báo 1928 (theo Lại Nguyên Ân). Nghe giọng  thì người viết ở đây  có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?).

 

Làm hàng bán hàng đều kém

   Nước ta  khi xưa chỉ có những tiểu công nghệ như quay tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới, làm mắm muối v..v.. chứ không có  đại công nghiệp để làm giàu như các nước khác.. Người làm thợ, ai chuyên tập nghề gì  thì lập thành phường, như thợ mộc thợ nề thợ rèn thợ đúc đồ gốm v..v.. Phường nào có tục lệ riêng của phường ấy. Những người làm nghề thợ thường là người ít học, quanh năm ngày tháng đi làm thuê làm mướn chỉ  được đủ ăn mà thôi.

   Người thiên hạ đi buôn nước này bán nước nọ, xuất cảng nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn  kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh quẩn ở trong nước, buôn bán những hàng hoá lặt vặt,  thành ra bao nhiêu mối lợi về tay người ngoài (1) mất cả. Thỉnh thoảng có một ít người có mươi lăm chíêc thuyền mành, chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia, lưng vốn đọ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự phú.

(1) ám chỉ Hoa kiều, trước 1945 thường gọi là khách, như trong các từ hiệu khách, phố khách …

Trần Trọng Kim

Việt Nam sử lược, 1925

 

Tài trí thua kém

     Nghĩ như nước ta, ruộng đất tốt, rừng núi nhiều, các mỏ có, phận đất duyên hải cũng thật dài, vậy mà cuộc kinh tế mỗi ngày mỗi khó, thời là sao?

     Nói về tài trí, quốc dân ta thứ nhất đã kém về cơ khí cho nên công nghệ phải thua. Vật xấu mà giá bán đắt hơn thời còn mong gì tiêu thụ cho ngoại quốc (1). Ngay trong bản quốc, vẫn phải cần dùng đồ nước ngoài. Bài trừ ngoại hoá chẳng qua là câu chuyện nói chơi, khó thay sự thực. Như ở Nam Kỳ nhà máy xay gạo của người ngoại quốc thì không sao; người nước ta chỉ có một cái nhà máy xay mà cháy. Ở mặt bể, tàu của người ngoại quốc thời không sao, người nước ta có một cái tàu Bình Chuẩn (2) mà chìm. Nghĩ ra cũng là tài trí thua kém.

     Nói về tư bản (3), nguyên người nước ta đã không lấy đâu có được nhiều người có tư bản to ví với người ngoại quốc, mà sự chiêu phần (4) lập hội thời cái bụng ăn ở với nhau kém, cho nên không mấy hội được bền, nghĩ chỗ đó thật đáng buồn, mà có nói lắm cũng vô ích.

(1) tức không thể xuất khẩu.

(2) tàu chở hàng trên biển, trọng tải 600 tấn, do công ty Bạch Thái Bưởi khai trương từ 1919.

(3) của cải vốn liếng

(4) gọi người mua cổ phần

Tản Đà

An Nam tạp chí, 1931

 

Thời gian phí phạm ách sống làm điệu làm dáng

    Trong tiếng ta có một lời mà người ta hay dùng là cơm vua ngày trời, tỏ ra ý ăn hết chừng nào thì ăn, làm được chừng nào thì làm, không bị hạn chế và thôi thúc chi hết. Lại có thành ngữ làm việc quan là làm việc rồi (1), làm đù đưa đủng đởn.

      Phải, phàm kẻ làm việc quan, không bị hạn chế thôi thúc thì tội gì làm đúng đắn làm kịp thời kịp vụ làm chi!

       Bởi vậy cho nên ngày xưa chúng ta không có đồng hồ. Chẳng những vì khoa học không có mà không làm được đồng hồ. Mà chính vì cái quan niệm cơm vua ngày trời, và làm việc quan ấy nó choán sẵn trong đầu rồi, không có sự cần, nên không sinh ra khoa học mà không làm đồng hồ được.

    Có người đeo cái đồng hồ không chạy. Máy ở trong đã hư hết nhưng mà vì nó đẹp, nên cũng đeo cho có với người ta. Ta chưa nhìn rõ cái giá trị thật của thời gian là thế nào.

     Bỏ cái quan niệm cơm vua ngày trời đi, rồi mới dùng được đồng hồ theo như chỗ dùng của nó.

      Cũng như bỏ cái căn tính cẩu thả đi, rồi mới dùng được những chữ dân quyền tự do bình đẳng theo ý nghĩa của nó. Hiện nay thì những chữ dân quyền, bình đẳng, tự do ở nước Việt Nam cũng còn như cái đồng hồ của người Việt Nam!

(1) rổi ở đây có nghĩa như trong thành ngữ “ăn không ngồi rồi”. Làm rồi: làm rất nhàn nhã, thế nào cũng được

Phan Khôi

Cái đồng hồ của người Việt Nam, Phụ nữ tân văn,1931

 

Quan niệm về kinh tế quá cổ lỗ

      Tư tưởng kinh tế nước ta phần nhiều bị cái triết học của người đời (1) nó đè nén. Sách Đại học (2) có câu “Đức là gốc mà của là ngọn”, ông Mạnh tử nói “nhân nghĩa là đủ, sao cứ nói lợi”. Xưa nay không ai không lấy sự dè sẻn làm chủ nghĩa rất cần, nói đến tài chính không ai không lấy sự “xem số thu vào để liệu số chi ra” làm chủ đích. Sự hơn đong kém bán bị  khinh rẻ, người mưu lợi bị chê bai …

      Bởi đấy nên tư tưởng  kinh tế  phương đông tản tác mà lộn xộn, tư tưởng kinh tế  phương Tây tề chỉnh mà phân minh.

      Tư tưởng đã tản tác mà lộn xộn thì kết quả không tiến bộ chút nào; tư tưởng đã tề chỉnh và phân minh  thì kết quả lại có phần tiến bộ nhiều lắm. 

(1)  triết học nhân sinh

(2) một trong Tứ thư bốn bộ sách chính của đạo Nho. Ba cuốn kia là Luận ngữ, Trung Dung Mạnh Tử

Nguyễn Xuân Dương

Sự so sánh về tư tưởng kinh tế Đông Tây An Nam tạp chí, 1931

 

Giữa chủ và thợ không tìm được hình thức cộng  tác thích hợp

   Những nhà nông trồng ra  cây mía, nấu thành muống đường (1).

   Những người làm nên đường cát mà mang đi bán lại là người khác, tức là nhà buôn đường.

    Người có tư bản xuất vốn ra và làm chủ rồi rủ dăm ba người trai tráng làm  bạn (2), gọi là công –xi, một bên xuất tài (3) một bên xuất lực.

    Mãn mùa rồi tính trừ tiền vốn và tiền tổn ra  còn lãi bao nhiêu chia thành hai,  chủ phần nửa, các bạn phần  nửa.

     Song ở trong có sự rất xấu là những người chủ thường  ăn lấn các bạn. Hạng trai tráng đi làm bạn  phần nhiều là ngu dốt không biết gì, chủ tính trời tính đất chi thì tính,  họ cứ việc dạ, miễn còn dư đôi ba đồng  đem về cho vợ đã là quý rồi.

    Thường thấy những công-xi làm đườn chủ nhân làm nhà gạch mua đất tư  còn các bạn thì khố một vẫn hoàn khố một.

(1)Tạm hiểu là đường sơ chế

(2) một cách  gọi những người cộng tác; thực chất     thợ

(3) tài ở đây không phải tài năng, mà là tiền của.

Trích ở bài Nghề làm đường ở Quảng Nam, Quảng Ngãi

Thực nghiệp dân báo, 1923

 

Những cái gia truyền dần dần mất đi

         Xét những thức quà của ta, thật có nhiều thứ ngon, mùi vị rất dồi dào. Là sản phẩm của đồng ruộng của núi sông, những thứ quà ấy là dấu hiệu sự thưởng thức của người mình, vừa tao nhã lại vừa chân thật. Đó là những vật quý mà sự mát đi, nếu xảy đến, sẽ khiến người sành ăn phải ngậm ngùi.

          Nhưng người mình tham thanh chuộng lạ đã bắt đầu khinh rẻ những thứ đáng yêu ấy, có cái ngon mà họ đã gần quên mất mùi vị.

         Một đằng khác, không ai chịu để ý và hết sức làm cho mỗi ngày một hoàn hảo hơn lên, cải cách cho hợp với thời mới.

         Những cái gia truyền dần dần mất đi, những cái khéo léo không còn giữ được …

Thạch Lam 

Hà Nội băm sáu phố phường, 1940

 

Ngủ yên trên danh vọng

      Đi với bánh đậu, còn có các thứ bánh khảo, kẹo lạc, kẹo vừng.

       Ngày trước, hiệu Ngọc Anh có tiếng khắp kẻ chợ thôn quê; nhưng từ  ngày Cự Hương ở tỉnh Đông (1) dồn lên, thì ngôi bá chủ đã thay người.

       Trong khi Cự Hương mỗi ngày một tiến bộ trong cách tìm tòi, khiến cho bột bánh được mềm dẻo, nhân đậu được nhuyễn trong, và cách trình bày được sạch sẽ tinh tươm thì Ngọc Anh nằm ngủ trên cái danh vọng cũ của mình, uể oải bán hàng cho khách. Hiệu đó hình như giàu rồi mà lại …

      Mà phần nhiều giàu rồi thì không hay cố nữa. Đó là cái tật chung của người mình khiến cho không một công cuộc nào phát đạt được lâu dài, cả từ trong cách buôn bán cho đến những công nghệ khác.

      Tài làm bánh của người mình không phải là kém cỏi. Cái thứ bánh dẻo Trung thu của Cự Hương không kém gì bánh của Tàu và các thứ bánh kem của Việt Hưng không thua gì bánh của Tây.

     Ta chỉ còn thua cái chí nữa mà thôi; nhưng như thế nghĩa là còn thua nhiều nhiều lắm.

(1) tức vùng Hải Dương

Thạch Lam 

Hà Nội băm sáu phố phường,1940

 

Bôi bác, giả dối, chỉ cầu rẻ

    Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác: món quà bán thì cứ muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách còn cái phẩm có tốt hay không, không quan tâm đến. Bát mằn thắn của người mình có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn làm rất to bột, nặn xuề xoà để trông càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và nhỏ bé vì được một tí thịt chỗ bàng nhạc (2) mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo.

   Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải. Thế mà không. Khó mà lấy nhiều hoa mắt người ta được.

   Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối người mua, của ngon thì người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản.

     Đó là một sự thực giản dị trong nghề buôn bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người mình không biết đến, làm tồi bán rẻ rồi đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.

(2) bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.

Thạch Lam 

Hà Nội băm sáu phố phường, 1940

 

Người làm nghề không ngóc đầu lên được

    Đời sống nông nghiệp vẫn ràng buộc sức phát triển của công nghệ, mà những người làm nghề ở Việt Nam phần nhiều là nông dân chỉ coi nghề của mình là một nghề phụ để kiếm thêm chứ không trau dồi cho nó ngày một tinh xảo.

     Lại thêm chính những người có nghề muốn giữ nó làm của riêng không muốn truyền dạy cho người ngoài.

     Dụng cụ thường thô sơ và y nguyên kiểu xưa.

     Tài khéo thường bị mai một. Vật liệu để dùng thì cũng vẫn tìm quanh tại chỗ chứ ít khi phải mua tận nơi xa.

    Cách chế tạo cũng chỉ theo phương pháp tổ truyền, không mấy ai chịu thay Lương Đức Thiệp

Xã hội Việt nam, 1944

 

Không biết thích ứng với xã hội hiện đại

     Tất cả các công nghệ cổ truyền  đều chỉ có công cụ thô sơ.

     Chúng không có nhiều cơ hội để phát triển: thợ thủ công Việt Nam quả thật rất khéo léo và sẽ có thể trở thành những thợ mỹ nghệ tuyệt vời nhưng họ rất thiếu nhìn xa nên không thể nghĩ đến việc đặt công nghiệp của họ trên những cơ sở kinh tế hiện đại.

      Họ sống ngày nào hay ngày ấy và chẳng có khả năng gì chống chọi với sự cạnh tranh của  các vật dụng hiện đại được sản xuất với số lượng lớn hơn nhiều mà lại  được nâng đỡ bởi một thị hiếu vừa dễ dãi vừa thất thường.

Nguyễn Văn Huyên

Văn minh Việt Nam,1944  

 

Việc tìm tòi học hỏi và nền giáo dục của người Việt (I)

Trích từ chuyên mục Người xưa cảnh tỉnh đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007 Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn

 

Nhắm mắt bắt chước điều không hay của cổ nhân và ngại thay đổi

     Người nước chúng ta sự tính lợi hại xét hơn thua không rõ, cứ người sau thì làm theo những điều người trước hay làm. Bởi vậy cho nên cả nước giàu không đặng giàu nhiều, nghèo thì nghèo đến đỗi không áo không quần mà thay, rồi mỗi mỗi cứ đổ lỗi cho trời cho số, cho ngày sinh tháng đẻ.

   Cổ đạo (1) là những lẽ phải: có vua tôi, có cha con, có anh em, có vợ chồng, có bạn hữu; nếu người nay mà trái những điều đó mới mang tai (2).Chớ ví như đổi tục gian ra ngay, tục làm biếng ra siêng, đổi dối ra thiệt, tục nghịch ra thuận, tục ngu ra trí, tục hèn ra sang, tục dơ ra sạch, tục vụng ra khéo, tục trược (3) ra thanh, đổi như vậy thì là phải lắm.

  Xin hãy coi gương người dị quốc (4), hoặc phương đông phương tây, phương nam cùng phương bắc, người ta thường hay đổi hay sửa, ít bắt chước những điều tệ của người trước; bởi vậy nay người ta thanh lịch lắm. Nếu mà cứ theo tục sai không đổi thì quả là khờ và bị thiệt hại.

 (1) đạo lý cổ truyền;

 (2) chịu những điều khốn khổ, có hại

 (3) trược tức là trọc, có nghĩa là đục, không trong sạch

 (4) người các nước khác

Lương Dũ Thúc

Nông cổ mín đàm, 1902

 

Dễ học cái dở

      Người bổn quốc chúng ta lúc này cũng đã có nhiều người thành thị lịch lãm về sự dinh dãy(1), cách ở ăn sạch sẽ, về lệ luật phép tắc thông thạo nhiều; tôi chỉ không hiểu cho rõ làm sao mà thông thái mau hết ức về việc xa xỉ, về lý tự bạo(2), mà không thông thái về cách tính toán về phép thương cổ (3), không có thấy bày ra hãng buôn nào cho lớn làm nghề nào cho to; vụ lợi (4) thì không làm, còn vụ hại thì thích lắm.

     Trong năm mười năm tới nữa mà cứ không buôn lớn và không học nghề chi cho giỏi, thì kẻ nghèo khó còn thặng (5) trên số ngàn nữa.

(1) chỉ lối sống sang trọng

(2) chỉ tham vọng muốn trở nên ông kia bà nọ.

(3) buôn bán

(4) việc sinh lợi

(5) dư ra

Lương Dũ Thúc

Nông cổ mín đàm 1902

 

Học thuật hủ bại

      Cách học của ta trái phép sư phạm.

     Tự lúc nhỏ cho đến lúc lớn chẳng qua chỉ học trong hai khoa là luân lý với văn chương. Mà luân lý thì lại theo nghĩa hẹp hòi, bó mình vào trong lễ phép, làm cho người ta không thể theo được.

     Văn chương thì cũng phù phiếm, người nước Nam mà bàn việc Nguyên Minh Đường Tống, ngồi xó nhà mà tả những cảnh Hoàng Hà Thái Sơn, thực là ngồi Cầu Đơ mà nói chuyện quán Mọc (1).

     Văn chương như thế thì thì vẽ sao được cái chân cảnh tạo hoá mà cảm động được lòng người.

     Ngoài khoa văn chương với luân lý thì không còn khoa gì nữa, thể thao chẳng có, kỹ nghệ cũng không. Ai học rộng ra đến thiên văn địa lý y khoa lý số một đôi chút đã cho là vạn sự xuất ư nho (2) mà rút lại thì chẳng nghề gì là học cho đến nơi đến chốn.

     Học thuật của ta hủ bại như thế, trách nào mà tri thức của ta chẳng mờ mịt, văn minh của ta chẳng kém xa các nước.

(1) Cầu Đơ tên cũ của thị xã Hà Đông; quán Mọc nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội

(2) Mọi chuyện bắt đầu từ ở đạo nho

Phan Kế Bính

Việt Nam phong tục, 1915

 

Học để kiếm gạo

     Đi học để kiếm gạo (1), tệ hại lớn lắm. Vì cốt kiếm gạo thời cái mục đích đã dở; hoặc nhân vì mục đích đó mà sinh ra hay giả dối, hay tham lợi riêng; cốt được gạo thời thôi, đạo đức mà chi, hợp quần mà chi, ái quốc mà chi, trăm việc hỏng trớt.

(1) hiểu theo nghĩa rộng: chỉ cốt sinh lợi, có tiền

Phan Bội Châu

Lời hỏi các bạn thanh niên, 1928

 

Học để làm quan

    Người nước mình từ xưa đến nay, cái tâm lý đối với việc học là học mà đi thi; đi học cũng như đi buôn bán hay làm nghề, cái mục đích chỉ là cầu lợi mà thôi.

     Tiếng rằng nước mình tôn sùng đạo Khổng, song đó là vì học đi thi mà tôn sùng, chứ không phải vì tôn sùng mà phải học.

      Cho nên ngày trước triều đình thi Hán tự thì người mình lo học Hán tự để lấy ông cử ông nghè; ngày nay chính phủ bảo hộ thi Pháp văn thì người mình lo học Pháp văn để lấy ông tham ông phán.

 

Ngô Đức Kế

Nền quốc văn, Hữu thanh, 1924

 

Học đòi vặt vãnh bỏ qua chuyện lớn

      Quái lạ cho người đời, hễ ai bảo cải lương lối nhà cửa ở, hay là cải lương cách ăn mặc bắt chước theo lối Âu Tây, thời đua nhau như vịt; còn nhỡ ai khuyên bảo nên cải lương những thói xấu nết hư - chốn hương thôn không nên tranh giành kiện tụng nhau, ở với bè bạn thời phải giữ lòng trung tín- thời dẫu nói rát cổ bỏng họng cũng chỉ lờ đi, chớ không thèm nghe.

Nguyễn Bá Học

Di ngôn, do Nguyễn Bá Trác thuật, Nam Phong, 1921

 

Nặng tính hiếu kỳ

    Cái tính hiếu kỳ là cái bệnh chung trong lối học của ta, xưa kia học chữ Tàu, đọc sách Tàu, lâu dần quá mê chuộng mà khinh rẻ những cái của mình.

    Cái gì của Tàu cũng cho là hơn mà chịu khó nghiên cứu, cái gì của mình cũng cho là dở là kém không thèm nhìn tới.

    Thành ra núi sông đình miếu nước Tàu thì biết mà núi sông đình miếu nước mình thời không hay; danh lam thắng tích bên Tàu thì rõ mà danh lam thắng tích nước mình thì không tường; lịch sử địa dư nước Tàu thì thiệp liệp (1), mà lịch sử địa dư nước mình thời mịt mù; phong tục nhân vật nước Tàu thời tường tất mà phong tục nhân vật nước mình thời tối tăm.

      Mà có phải mình thiếu gì cái đẹp cái hay, cái đáng ngắm …

(1) cũng có hiểu ít nhiều

Dương Quảng Hàm

Học sao cho phải đường, Hữu thanh, 1921

 

Chỉ biết cạnh tranh trong những việc tầm thường, lặt vặt

    Cạnh tranh là một cái tính phổ thông của nhân loại, những bậc danh nhân kiệt sĩ đua tài chọi sức, chẳng là vì cái danh thực mà cạnh tranh đấy ư? Những bậc phú hào bên các nước Âu Mỹ làm nên cho dân được thịnh nước được giàu, chẳng là vì một cái lợi to mà cạnh tranh đấy ư?

    Nay hỏi đến cách cạnh tranh của người mình thế nào?

      Đi học thì cạnh tranh nhau nhau cầu được học bổng nhiều, mà trí thức rộng hẹp phẩm hạnh thấp cao lại không hề cạnh tranh đến.

     Làm quan thì cạnh tranh nhau cầu cho được tiền nhiều chức lớn, mà đạo đức tốt xấu, chính tích (1) hay hèn lại không hề cạnh tranh đến.

      Ở trong làng thì cạnh tranh nhau chỗ ăn chỗ ngồi, ngôi trên ngôi dưới, ngoài cái đó không hề so sánh hơn thua, ai thiện ai ác, ai hiền ai ngu (2).

      Ra ngoài đường thì cạnh tranh nhau kẻ khó người giàu, manh quần tấm áo, ngoài cái đó không hề phân biệt ông hay là thằng, bà hay là con nữa.

       Làm ruộng thì cạnh tranh nhau tấc ruộng thước vườn, mẩu bờ tí nước, mà đến những đồng bãi mênh mông, kể hàng ngàn hàng muôn mẫu thì có ai nhìn.

      Buôn bán thì cạnh tranh nhau luồn lỏi mua cho được, mánh khóe bán cho trôi, mà đến những đại tôn giao dịch (3) kể trăm thứ ngàn thứ hàng thì có ai biết.

      Làm thợ thì cạnh tranh nhau bán rẻ phá giá làm điêu (4), đỡ công mà chưa từng có được một cái đoàn thể đồng nghiệp cho hẳn hoi, để khoáng trương (5) lợi ích.

       Ấy sự cạnh tranh của người mình toàn có một cái mục đích nhỏ nhen hèn hạ như thế cả. Thế mà cạnh tranh hăng hái dữ tợn cũng chẳng khác gì người các nước họ cạnh tranh vì cái danh thực, cái lợi to.

(1) việc làm của các quan chức trong khi thi hành công vụ, kẻ hay người dở.

(2) hiền ở đây có nghĩa người khôn ngoan có đức hạnh chứ không phải là hiền lành, dễ dãi; và ngu có nghĩa ngược lại

(3) nguyên nghĩa đại tôn là dòng họ lớn, đây chỉ những người có vai vế và nổi tiếng trong nghề.

(4) gian dối, man trá.

(5) tương tự như khuếch trương.

Dương Bá Trạc

Tiếng gọi đàn, 1925

 

Thần trí bạc nhược, thiếu óc tự lập

     Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thày trò chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học trò!

     Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế...

     Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi, chưa mấy ai là rõ rệt có cái tư cách -đừng nói đến tư cách nữa hãy nói có cái hy vọng mà thôi, muốn độc lập trong cõi tư tưởng cả.

     Như vậy thì ra giống ta chung kiếp (1) chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược quá không đủ cho ta cái óc tự lập.

(1) suốt đời

Phạm Quỳnh

Bàn về quốc học, Nam phong, 1931

 

Như cái cây bị “cớm”

     Địa lý, lịch sử, chính trị đều như hiệp sức nhau lại mà gây cho nước ta một cái tình thế rất bất lợi cho sự học vấn tư tưởng. Bao nhiêu những người khá trong nước  đều bị cái tình thế ấy nó áp bách trong mấy mươi đời nên dần dần lập thành một cái tâm lý riêng, là cái tâm lý ỷ lại vào người chứ không dám tự lập một mình; trong việc học vấn thì cái tâm lý ấy là tâm lý làm học trò suốt đời. Nước ta ở ngay cạnh nách nước Tàu, từ hồi ấu trĩ cho đến lúc trưởng thành đều nấp bóng nước Tàu mà sinh trưởng, khác nào như một cái cây nhỏ mọc bên một cái cây lớn, bị nó “cớm”  không thể nào nẩy nở lên được. 

      Nhật Bản cũng là học trò của Tàu, cũng mô phỏng văn hoá Tàu trong mấy mươi đời, nhưng họ biết lựa lọc kén chọn, họ không có phóng chép một cách nô lệ như mình, cho nên tuy về đường tư tưởng vẫn chịu ảnh hưởng của Tàu nhiều, nhưng họ cũng có một nền quốc học của họ dầu không rực rỡ cho lắm, vẫn có đặc sắc khác người.

      Đến như ta thì khác hẳn. Ta học của Tàu mà chỉ học thuần về một phương diện cử nghiệp là cái học rất thô thiển, không có giá trị gì về nghĩa lý tinh thần; mài miệt về một đường đó trong mấy mươi đời, thành ra cái óc tê liệt đi mà không sản xuất ra được tư tưởng gì mới lạ nữa.

Phạm Quỳnh

Bàn về quốc học, Nam Phong, 1931

 

Con ma cử nghiệp giết chết sự học

       Bệnh căn của cõi học ta xưa, một là vì xã hội cẩu thả mà toàn mô phỏng, một nữa là vì kẻ học giả ham cái cận lợi (1) khoa cử.

        Trước khi vì học thuật nước nhà mà hy vọng  ta phải hết sức từ bỏ căn bệnh cẩu thả đi, trừ bỏ cái tính tự tiện tự khí đi (2). Không thì về xã hội lại cứ lười biếng a dua không suy xét lựa chọn, không có cái tinh thần tự giác tự tín; về kẻ học giả lại cứ tham cái cận lợi nhai văn nuốt chữ, lấy học đường của nước văn minh làm con đường tắt hiển vinh. Bộ “ lều chiếu chõng lọ “ đã  phá đập ở trường thi rồi, con ma nghiện cử nghiệp lại bò vào nơi “mễ đỏ bảng đen” ám ảnh. Thì học đến bao giờ cũng chung vô sở đắc (3); mà dù có sở đắc được tí gì cũng chẳng  để ý đến.

(1) cái lợi trước mắt

(2) tự mình coi rẻ coi thường mình

(3) cuối cùng không thu được cái gì là của mình

Nguyễn Trọng Thuật

Điều đình cái án quốc học,1931

 

  khoa cử mà không có sự nghiệp

    Nho học có lợi cho cái chính thể quân chủ chuyên chế nên các đế vương  nước ta lại càng tôn sùng lắm. Cái chế độ khoa cử thật là một cái quà rất hại mà nước Tàu đã tặng cho ta. Ngay bên Tàu nó đã hại mà sang đến ta cái độc của nó lại gấp mấy lần nữa.

    Người Nhật Bản họ hơn mình, chính là vì họ không mắc phải cái vạ khoa cử như mình. Họ bắt chước cái gì của Tàu thì bắt chước, chứ đến cái lối khoa cử thì họ không chơi. Đời Đức Xuyên (Tokugawa) cũng đã có một hồi thi hành cái chế độ hãm hại nhân tài nô lệ thần trí đó, nhưng sĩ phu trong nước họ không chịu nên cũng không thể bền được.

    Ở nước ta thì đến hơn sáu trăm năm sinh trưởng trong cái chế độ ấy, trách nào cái khí tinh anh trong nước chẳng đến tiêu mòn đi hết cả. Ở Văn Miếu Hà Nội còn mấy dãy bia kỷ niệm các cụ đỗ tiến sĩ về đời Hậu Lê, trong đó chắc có nhiều bậc nhân tài lỗi lạc, nhưng vì mài miệt về đường khoa cử, nên đều mai một mất cả; tên còn rành rành trên bia đá đó, mà có sự nghiệp về đường học vấn tư tưởng được như ai ?!

Phạm Quỳnh

Bàn về quốc học, 931

 

Giáo dục hiện đại bị thương mại hóa

    Đứa trẻ ở nhà đã không được trông nom dạy bảo cho phải đường, đến trường lại bị giao cho những ông giáo phần nhiều chưa biết làm một người cha, chưa được thành thục về khoa giáo dục, chưa có kinh nghiệm về tâm lý học, chưa được thuần về tính nết …

   Trong nước có biết bao nhiêu trường tư. Gia dĩ mở một trường tư cũng không khác gì mở một hiệu buôn. Nhà hàng phải chiều khách, các ông kinh doanh về tư thục – tôi nói kinh doanh mà không nói giáo dục – muốn cho trường mình được vững vàng tức là muốn cho có nhiều lời lãi, tất phải chiều theo thị hiếu của học sinh vốn là những khách hàng rất khó tính.

Thái Phỉ

Một nền giáo dục Việt Nam mới, 1941

 

Thiếu niên hư hỏng

    Đa số thiếu niên lầm tưởng rằng tuổi trẻ là tuổi có thể nói hay làm bất cứ cái gì chướng tai gai mắt mà có tính cách vui đùa, chẳng sợ ai chấp trách gì cả. Họ sỗ sàng cấc lấc. Họ nói bô bô ở ngoài phố những chuyện người ta thường chỉ nói nhỏ ở trong buồng kín. Đứng trước những bậc huynh trưởng, họ cũng vô tình buột ra những ngôn ngữ hay lộ ra những cứ chỉ rất khả ố. Bị các báo chí hài hước và trào phúng làm hại, họ không còn coi cái gì là nghiêm trang đứng đắn cả, họ hoài nghi tất cả. Cái gì đối với họ cũng như trò đùa.

    Gặp việc gì hơi khó nhọc, có tính cách trừu tượng hay cần đến kiên nhẫn là họ ngại ngùng. Đi học, họ thích nghe thầy giáo nói chuyện hơn là nghe giảng bài hay phải chép bài. Họ không thể và không muốn nỗ lực. Ở nhà họ không muốn mó đến một công việc gì, dù là việc rất nhẹ nhàng.

Thái Phỉ

Một nền giáo dục Việt Nam mới, 1941

 

Đỗ đạt là xong, không còn cầu học

     Phải nhận rằng người mình không ham học mấy. Thí dụ như người đỗ bằng tốt nghiệp, có công ăn việc làm thì thôi, không chịu học thêm.Tôi cho thế là nhầm lắm. Người ta dạy cho bấy nhiêu là để cho mình tạm đủ sức mà học lấy; khi ở trường ra  mới là chỗ khởi hành, mình  lại tưởng đến nơi rồi. Nếu tôi được phép, tôi sẽ khuyên anh em thanh niên học rõ nhiều, vừa đọc văn Tây, vừa  học lại tiếng ta, vì phần đông  người ta  mà viết văn ta  còn sai nhiều lắm.

Nguyễn Văn Tố                                                                                           

Theo Lê Thanh, Cuộc phỏng vấn các nhà văn, 1943

 

Một nền giáo dục giết chết nhân cách

     Phương pháp giáo dục ở ta cẩu thả thô sơ. Xong mấy quyển sách sơ học thì thày đem ngay các sách Bắc sử (1) và Ngũ kinh Tứ thư đại toàn ra dạy. Thày nhăm mắt mà giảng chữ nào nghĩa ấy, chỉ sợ sai mất nghĩa của Tống nho; trò cũng nhắm mắt học cho thuộc lòng để đến khi hành văn nhớ lại mà đặt để.

      Phương pháp giáo huấn vụng về chật hẹp như thế là do một nguyên nhân khác là chế độ khoa cử. Chế độ ấy cốt xô đẩy sĩ tử trong nước vào đường cử nghiệp hư văn.

     Triều đình lại cho những người khoa mục nhiều điều vinh diệu quá đáng, nào trâm bào dạo phố, nào cờ biển vinh quy, cùng là khắc tên ở bia đá bảng vàng để lưu truyền cùng hậu thế.

     Học trò chỉ chăm học thuộc lòng một ít sách vở, và lo lựa lời cho khéo, gọt câu cho chỉnh, miễn là lời văn cho bóng bảy thì ý tứ dù là bã cặn của Tống nho cũng không can gì.

     Cái thói trọng từ chương ưa hư văn đã thành một thứ thiên tính của dân tộc ta. Với cách giáo dục ấy thì dù người thiên tư lỗi lạc cũng phải nhụt đi, huống gì người tư chất tầm thường, thực là một thứ giáo dục giết chết nhân cách.

(1) tức lịch sử Trung quốc. Sử ta thường gọi là Nam sử

Đào Duy Anh

Việt Nam văn hoá sử cương, 1938

 

Không có một nhà tư tưởng, không có người khao khát tìm đạo lý mới

     Vô luận là vấn đề gì, về quốc kế hay dân sinh cũng như về luân lý hay triết lý, kẻ sĩ nước ta  đều thấy các thánh hiền Trung quốc giải quyết sẵn cho mình rồi, cái công phu của mình chỉ là thuật lại để thực hành cho xứng đáng chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút gì.

      Trái lại cái gì của Trung quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá, thì chúng ta lại phải hãm  lại cô lại cho vừa với kích thước khuôn khổ của chúng ta.

       Bởi thế chính  trong thời kỳ toàn thịnh của nho học nước ta, người ta thấy có những nhà nho kinh luân như Tô Hiến Thành, nhà nho anh hùng như Trần Quốc Tuấn, nhà nho cao khiết như Chu An, nhà nho khẳng khái như Nguyễn Trãi, mà  tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà tư tưởng một nhà triết học nào.

      Chúng ta chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để bắt chước thánh hiền mà cư xử và hành động cho hợp với đạo lý chứ không có nhà nho nào dám hoài nghi bất mãn với đạo lý xưa mà băn khoăn khao khát đi tìm đạo lý mới.

Đào Duy Anh

Việt nam văn hóa sử đại cương * 1950

 *Đây là bộ sách Đào Duy Anh viết ở Thanh Hóa những năm kháng chiến chông Phap. Không phải Việt nam văn hóa sử cương 1938 

 

Việc tìm tòi học hỏi và nền giáo dục của người Việt (II)

Trích từ chuyên mục Người xưa cảnh tỉnh đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007 Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn

 

Khi học thuật kém cỏi lòng người sinh ra phù phiếm,  phong tục trở nên bại hoại

    Học là gì, là học những điều chưa biết để biết mà đem ra thực hành.

    Ngày nay chúng ta lúc nhỏ thì học văn từ thơ phú, lớn lên ra làm thì lại luật, lịch (1),binh, hình (2). Lúc nhỏ  học nào Sơn Đông, Sơn Tây (3), lớn lên ra làm thì đến Nam Kỳ Bắc kỳ. Lúc nhỏ thì học thiên văn địa lý chính sự phong tục bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác hết rồi ); lớn lên ra làm thì lại dùng đến  địa lý thiên văn  chính sự phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn.

    Còn biết bao nhiêu những việc như thế, mòn bút khô môi cũng chưa kể hết.

    Tuy Nhật Bản Cao Ly cũng đọc sách Tàu, nhưng chỉ để làm vui, còn ra làm thì đều theo sách của nước họ -- chưa bao giờ thấy họ học và dùng những gì mà mắt không trông thấy, chân không đặt đến như lối học của ta.

    Không có một nền học thuật sáng suốt thì phong tục sẽ ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối phù phiếm trống rỗng. Tập tục sẽ làm thay đổi con người, dù người tốt cũng không tránh khỏi ảnh hưởng.

(1) Phép tính thời gian, một việc mà quan lại ngày xưa phải biết

(2) việc xử tội

(3) Tên các tỉnh của Trung quốc

Nguyễn Trường Tộ

Tám việc cần làm gấp, 1867

 

Nói láo nói linh

     Ngày xưa ta nhắm mắt lại, một là văn minh Tàu, hai là văn minh Tàu, bị độc khoa cử làm mờ ám trí khôn đã đành, đến ngày nay đã hé mắt thấy người Tàu vận động nhiều việc rất to tát, như gửi học sinh du học khắp hoàn cầu, như bỏ quân chủ lập dân chủ mà ta cũng an nhiên (1) bất động, nhất  thiết chẳng biết gì là gì.

   Chẳng những thế mà thôi, lại còn mấy anh sang Tàu về nói láo nói linh, chê người nọ hạch người kia, mà tự mình xem ra cũng không có bản lĩnh gì cho người ta đủ kính phục, tinh chất(2) của người Tàu không hề học đến, chỉ khéo đem về  một cái  láu lỉnh và một cái bao tử  trống .

(1) điềm nhiên, bình thản

(2 cái hay, cái tốt đẹp

Phan Châu Trinh

Đạo đức và luân lý Đông Tây, 1925   

 

Không học nên thiếu tư cách làm người

       Người mình thiếu cái tư cách lao động [của con người] ngày nay.

       Nguyên nhân xa xôi (1) có nhiều, mà nhất là không học. Đây nói học không phải thường cầm viết (2), ôm sách đi tới trường như học trò. Không học nghĩa là không biết tập cách siêng năng kiệm ước (3) và lo trau dồi cái nghề của mình cho tinh xảo, sửa sang tính nết của mình cho có tư cách công nhân (4). Không học thì nghề đã không tinh mà tư cách cũng kém, điều hư tật xấu không chừa, lời phải điều hay không biết bắt chước.

    Còn cái nguyên nhân cụ thể  (5) to nhất là ham chơi.

     Nhân phong trào lao động thế giới hết bị khinh rẻ như ngày xưa, nhiều người vào sở này, tới xưởng kia, tự xưng là làm thực nghiệp, kỳ thực không chăm nghề gì không được việc gì, rày đây mai đó lỡ dở thành người thất nghiệp.

      Lại có kẻ du thủ du thực phóng đãng quen nết, nay gặp sở nào thuê mướn làm công, làm mấy cũng không đủ tiêu, lại xoay bày cách chơi bời cờ bạc mà quơ quét của bọn làm công, làm sâu mọt trong đám lao động.

(1) Nguyên văn là viễn nhân. Nhân ở đây là nguyên cớ nguyên do chứ không phải nhân là người. Chúng tôi dịch ra để đỡ mất thời giờ của bạn đọc

(2) cầm bút

(3)dè dặt và có chừng mực

(4) đây chỉ người làm việc nói chung chứ không phải công nhân theo nghĩa hiện đại

(5) cận nhân

Huỳnh Thúc Kháng

Hai chữ lao động, Tiếng dân,1930

 

 

Cái hay của người đến mình trở thành cái dở

     Phương Tây thường nhờ cái nguyên lý của sự lợi mình và chủ nghĩa riêng một mình (1) để phát triển được cái sức làm giàu chung cho xã hội, nhờ cái nguyên lý ganh đua (2) nên sản nghiệp phát đạt và khoa học tiến bộ.

      Ở nước ta, nói tới sự ganh đua thì chỉ muốn xâm chiếm người khác; nói về sự lợi mình và chủ nghĩa riêng từng người thì bỏ cả hạnh phúc xã hội chẳng tưởng đến chi.

       Có thể nói một câu là những đức tính tốt ta dường như hết cả, mà chỗ hay của người chưa học được một chữ nào, những điều góp nhặt được phần nhiều là chỗ kém của ta đấy thôi.

(1) ngày nay hay nói nguyên lý tư lợi và chủ nghĩa cá nhân

(2) cạnh tranh

Nguyễn Xuân Dương

Sự so sánh về tư tưởng kinh tế Đông Tây An Nam tạp chí, 1931

 

Học không biết cách, luật pháp hồ đồ, cương thường giả dối

      Về đạo cương thường, cứ nói rằng ta thâm nhiễm (1) của Tàu nhiều lắm rồi, nhưng tôi xét ra chưa có điều gì gọi là thâm nhiễm cả.

        Trong hết cả số người theo Nho học thì hoạ là có mấy ông vào bực giỏi, hiểu biết được đạo Khổng Mạnh. Còn những bực nhoàng nhoàng thì thường cứ thấy người ta học cũng học, học cho thuộc cách mà thôi, chứ không có định trong bụng rằng theo những điều nào, kháp (2) đạo ấy vào tính tình riêng của người nước mình nó ra sao...

        Vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức (3) đi, mà làm ra cả một pho luật mới chép tuốt cả của Tàu, cả từ điều nước mình có, cho đến những điều mình không có, cũng bắt chước. Thành ra luật pháp cũng hồ đồ, cương thường đạo lý toàn là giả dối, không có điều gì là có kinh có điển.

(1)  ảnh hưởng sâu sắc

(2)  tức khớp, ghép lại cho khít, cho phù hợp

(3) bộ luật cổ của nước ta có từ thời Lê, tham khảo nhiều từ bộ luật của đời Đường

Nguyễn Văn Vĩnh

Đông dương tạp chí, 1913

 

Không học được cách tư duy hợp lý

     Người mình vốn có cái thiên tính dễ đồng hoá, nghĩa là có tư cách(1), dễ am hiểu dễ thu nạp lấy những gì khác lạ với mình, dễ đem những điều hay điều dở của người ngoài mà hoá làm của mình.

       Nhưng cái tài đồng hoá đó thường thường chỉ là cái khoé tinh (2), biết xem xét và bắt chước của người, phảng phất ở bề ngoài, chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để (3), chỗ tinh tuý.

       Cái cách đồng hoá dễ dàng thô thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt.

       Như học trò ta học rất mau, nhớ cũng rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu được thấu, đã hoá được hẳn những cái người ta dạy mình, và chưa chắc cái học tiếp thu được dễ dàng như vậy nó đã làm cho óc được khôn ra, người được chín ra chút nào.

       Có những người mặc thì mặc theo đúng mốt tối tân ở Paris, nói năng ba hoa đi đứng đường đột; bề ngoài như vậy mà bề trong nghị luận mơ hồ, tư tưởng lộn xộn, không có thống hệ (4), không biết bắt chước lấy cái lối nói năng gãy gọn, biện lẽ phân minh như người Tây phương.

(1) nghĩa cũ: tài lực trình độ khả năng

(2) mánh khóe ranh ma

(3) gốc rễ

(4) ngày nay hay nói ngược lại: hệ thống

Phạm Quỳnh

Giải nghĩa đồng hoá, Nam Phong, 1931

 

Không có học thuyết của mình

       Về đường học thuật và tư tưởng thì xưa nay ta chỉ có mấy lối học của Tàu truyền sang: trong đời nhà Lý và nhà Trần thì sự học của ta theo lối huấn hỗ (1) của Hán nho và Đường nho, rồi từ đời Lê về sau thì theo cái lối học của Tống nho.

       Ta chỉ quanh quẩn ở trong phạm vi của lối học ấy, chứ không thoát ly được mà sáng lập ra cái học thuyết nào khác.

       Phần nhiều người trong nước lại có cái tư tưởng rằng những điều thánh hiền nói ở trong các kinh truyện đã đủ hết cả rồi, không ai biết được hơn nữa, cho nên kẻ học giả chỉ chăm chăm theo cho đúng những điều ấy mà tiễn lý (2) thực hành, chứ không ai để ý mà tìm cho đến cái chân lý nó thường lưu hành biến hoá.

      Cũng có người đạt tới chỗ uyên thâm của Nho giáo, song những người ấy lại cho rằng cáí học sâu xa là tự mình phải lý hội (3) lấy, chứ không thể lấy văn từ ra mà tuyên bố được.

      Bởi vậy các tiên nho ở ta chỉ làm văn thơ để tả cái tính tình của mình mà thôi, không hay làm sách vở để phát minh tư tưởng. Kết quả thành ra cái học Nho giáo thì rộng khắp cả nước mà cái học thuyết thì không thấy có gì là phát minh vậy.

(1) lối học bám vào từng chữ để giải thích

(2)  theo cái lý vốn có

(3) hiểu

Trần Trọng Kim

Nho giáo, 1930

 

Việc bắt chước dễ dãi thường gây nhiễu loạn

     Tính bắt chước vốn là tính tự nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng thế cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt rồi chỉ bắt chước lấy những điều có bổ ích thêm cho tinh thần ấy thì thật là hay lắm.

     Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần của mình hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự hành động của người ta, thì sự bắt chước ấy lại làm cho mình dở hơn nữa.

      Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được cái hình hài bề ngoài mà thôi, còn cái tinh thần ở trong, phi(1) lâu ngày nhiễm (2) lấy được mà hoá (3) đi, thì khó lòng mà bắt chước được.

       Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước của mình chỉ là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình.

       Có lắm người vọng tưởng (4) rằng mình cố bắt chước được người ngoài là mình làm điều có ích cho sự tiến hoá của nòi giống. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng quá lại thành cái độc, gây ra các thứ bệnh cho xã hội.

     Mà sự lầm lỗi ấy chỉ mỗi ngày một thêm ra chứ không bớt đi được.

 (1) không phải

 (2) thâm nhập

 (3) biến dạng, tiêu hóa. Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu ghi: phàm vật này mất đi mà vật kia sinh ra gọi là hoá

 (4) nghĩ lầm

Trần Trọng Kim

Nho giáo, 1930

 

Mô phỏng lâu ngày quên cả sáng tạo

   Từ Lê Hồng Đức bắt đầu gieo cái mầm cẩu thả, rồi Mạc Trịnh lại càng tài bồi (1) cho thành cái rừng cẩu thả. Cẩu thả nên toàn mô phỏng, mô phỏng thì không còn biết biến hoá nữa.

    Như người học vẽ tranh mà làm cách lồng phóng hay là can-ke (2) thì thế nào cũng không đúng.

    Kỳ cạch mãi càng không đúng, bấy giờ khoanh tay lại, lắc đầu le lưỡi mà rằng “Bức vẽ mẫu là thiên tài trời đã định, mà mình là bất tài trời đã định”...

    Bấy giờ dẫu có ai hoán tỉnh cho biết cũng không tin, có ai biệt sáng biệt lập (3) cái gì cũng không thèm ngó tới. Rồi lại sinh đố kỵ nữa, dân gian thì vùi dập của nhau đi, triều đại thì phá hoại của nhau đi.

(1) vun đắp

(2) bắt chước một cách máy móc, tô lại như nguyên mẫu

(3) sáng tạo, làm cho khác những cái đã có

Nguyễn Trọng Thuật

Điều đình cái án quốc học, Nam Phong, 1931

 

 Mình lại rẻ mình, bản thân tự làm hỏng

    Cách học muốn cho bằng người thì phải biến hoá khác đi. Nay cứ toàn mô phỏng, thấy không thể theo cho bằng được, bèn sinh lòng tự tiện (1), là mình tự khinh cái tài của mình; tự tiện quá rồi tự khí (2) tự bỏ cái tài của mình, cho mình là đồ bỏ.

     Mà đồ bỏ thật, vì học không có cái gì dùng được như mẫu của người.

     Cũng vì thế mà bao nhiêu cái hay không còn gì nữa.

     Trước khi vì học thuật nước nhà mà hy vọng, ta phải hết sức từ bỏ cái căn bệnh cẩu thả, cái tính tự tiện tự khí. Không thì về xã hội lại cứ lười biếng a dua không suy xét lựa chọn, không có cái tinh thần tự giác tự tin. Về kẻ học giả lại cứ tham cận lợi (3), nhai văn nuốt chữ, lấy học đường của nước văn minh làm con đường tắt hiển vinh, học đến bao giờ cũng chung vô sở đắc (4).                                                                          

(1)  tự tiện đây là tự coi rẻ mình coi mình là hèn;  khác với  tự tiện có  nghĩa làm theo ý thích hiện nay hay dùng

(2 ) tự làm hỏng mình

(3) lợi ích trước mắt

(4) cuối cùng vẫn không có gì là của riêng mình 

Nguyễn Trọng Thuật

Điều đình cái án quốc học, 1931

 

Tình nghĩa thầy trò bị hiểu sai lệch và bị lợi dụng

     Người ta ở đời nhờ có cha mẹ sinh ra mình lại phải nhờ có thầy dạy cho mình,  thì mình mới khôn, biết việc này việc nọ, mới nên con người; cho nên học trò ở với thầy như con ở với cha mẹ ấy cũng là một mối luân thường của Á Đông ta.

    Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra mấy thói dở. Kìa như các bậc đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ có ân đức giáo hóa nhuần thấm đến người, thì người ta không nên quên đã đành. Còn như mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng quê tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ nửa mường nửa mán (1) để hộ khẩu cho qua đời (2). Vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo, động một tí thì bổ cho đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi nhà thầy có việc mừng vui, nào khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão làng, cũng lôi đồng môn ra mà bắt gánh vác, ấy lại là một cái mọt của thiên hạ.

(1) trong các bản in VNPT gần đây, mấy chữ in nghiêng này thường bị gạch bỏ. Đây tôi lấy theo bản của nhà Bút Việt in ở SG  2-1975

(2) hộ khẩu, từ cổ có nghĩa kiếm sống. Còn qua đời ở đây không có nghĩa là chết mà là qua một kiếp người

Phan Kế Bính

Việt Nam phong tục (1915)

 

Chỉ lo nuôi không lo dạy

    Những bậc cha mẹ ở nước mình đẻ con thì muốn cho nhiều mà dạy con thì thật cẩu thả và biếng nhác. Những ông bố hoặc là nhà kinh doanh, hoặc là người tòng sự các sở công sở tư, suốt ngày suốt tháng đầu tắt mặt tối về sự mưu sinh, có lúc nào rảnh rang thì dành cho các cuộc tiêu khiển như bài bạc hát xướng mà các ông cho là mình có quyền được hưởng sau khi làm việc.

    Đại để thì đẻ con ra, nuôi chúng như vỗ lợn rồi xin cho chúng một chỗ ngồi trên ghế nhà trường, là tưởng đã làm xong cái trách nhiệm của người cha rồi vậy.

      Đến những bà vợ …Thỉnh thoảng các bà rờ đến con thì liệu hồn những vú già vú em! Con các bà không hề bị trừng phạt mà chính đầy tớ các bà lại là cái bia chịu đạn.

      Trong nhiều gia đình, sự thân mật quá độ và lầm lạc đã hầu thành hỗn xược. Trước mặt cha mẹ, con cái nói năng chẳng dè dặt chút nào. Họ nói với cha mẹ như với bạn.

Thái Phỉ

Một nền giáo dục Việt Nam mới, 1941

 

Sẽ có lúc mất hết đạo lý?

     Song song với vấn đề nghèo khổ, còn phải giải quyết vấn đề giáo dục.

     Khi ta tò mò đi vào các làng xóm ngày nay, ta bị sửng sốt vì vẻ hỗn xược và thô lỗ của trẻ con nông thôn. Xưa kia hầu như nơi nào cũng có một ông thầy đồ. Xung quanh chiếc sập của ông, lũ trẻ dù không học được bao nhiêu chữ cũng đều nom thấy chiếc roi mây dài treo trên vách và nghe đi nghe lại câu răn dạy của đạo nho “Tiên học lễ hậu học văn”.

    Ngày xưa, thầy và bạn học bao quanh lũ trẻ và ngăn chúng làm điều xấu.

    Ngày nay chẳng ai chú ý đến chúng. Trong vòng mười năm nữa, sẽ rất khó dắt dẫn cái dân tộc lúc đó đã mất hết đạo lý. Một trào lưu  cá nhân chủ nghĩa đã phát huy hết  hiệu quả của nó trong một số môi trường.  

Nguyễn Văn Huyên

Vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939

 

Không chú trọng học thuật sẽ thành dân tộc bỏ đi

     Dễ thường không có nước nào mà những người tự nhận là học giả lại lạnh lùng với việc học như ở nước mình. Người mình vẫn được tiếng là hiếu học, nhưng đúng ra chỉ là hiếu lợi và hiếu danh. Khi sự học không đưa đến cho mình lợi và danh thì ít ai còn thèm màng đến nó nữa.

   Cho đến ngày nay, trong một trăm người bước chân ra khỏi nhà trường, không có lấy năm ba người để tâm vào việc học. Giữa một vũ trụ đầy những sự huyền bí, người mình như khách qua đường bưng mắt mà đi vì sợ mệt mắt. Tinh thần của mình bạc nhược như vậy không trách gì mình thua kém.

      Đã thế lại còn kiêu căng. Thỉnh thoảng có tấp tểnh bước vào rừng học thì cũng chỉ chạy theo những vấn đề to lớn, tựa hồ như chỉ những vấn đề ấy mới xứng với tài trí của mình. Có biết đâu rằng tinh thần học thuật ngày nay căn cứ vào lòng khiêm tốn.

      Người ta đã mất công nghiên cứu mà nói ra một điều gì cũng cẩn thận dè dặt. Người mình đã không chịu tìm tòi gì mà lại thường cẩu thả.

     …Nếu dân tộc này không bao giờ tự dựng lên được một nền học thuật thì chẳng nói hai mươi triệu, có đông đến hai trăm triệu cũng là một dân tộc bỏ đi, một dân tộc không có trên pho lịch sử văn minh loài người.

Hoài Thanh

 Vấn đề học thuật nước ta chỉ là một vấn đề tâm lý và luân lý, Sông Hương, 1936          

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét