VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH LÀNG XÃ Ở VÙNG ĐỒNG
BẰNG SÔNG MÃ
TS Hà Mạnh Khoa
Viện Sử học, Viện KHXH Việt Nam
1. Sự
hình thành tự nhiên
Vùng
đồng bằng sông Mã là một trong những nơi đầu tiên phát hiện ra các dấu vết
người nguyên thuỷ - người vượn ở Việt Nam. Năm 1960, tại địa điểm núi Đọ (nay
thuộc xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hoá), cách thành phố Thanh Hoá
7km; tiếp sau đó vào những năm 70 của thế kỷ 20 cùng với núi Đọ, các nhà khảo
cổ học Việt Nam đã tìm thấy ở núi Nuông (thuộc xã Định Thành, Định Hoà, huyện
Thiệu Hoá), núi Quan Yên (xã Định Công, huyện Thiệu Hoá)… những công cụ bằng đá
mang dấu ấn chế tác bởi bàn tay con người. Căn cứ vào địa hình, hiện trạng… các
nhà khảo cổ học đã khẳng định những địa điểm đó vừa là di chỉ - xưởng, vừa là
nơi cư trú của người nguyên thuỷ ở thời kỳ đồ đá cũ cách ngày nay khoảng 30 -
40 vạn năm1. Như vậy vào thời tiền sử đồng bằng sông Mã đã có con người cư trú.
Nhưng
bước đột phá cơ bản nhất là vào hậu kỳ thời đại đá mới cách ngày nay khoảng
6.000 -
7.000 năm, khi đồng bằng sông Mã đã hình thành tương đối ổn định. Những di tích
khảo cổ ở Đa Bút (Vĩnh Tân - Vĩnh Lộc), cồn Cổ ngựa (Hà Lĩnh - Hà Trung, gò
Trũng (Phú Lộc - Hậu Lộc)... đã minh chứng các cộng đồng dân cư đã quy tụ không
chỉ ở các vùng đất ven sông lớn mà còn lan tới cả vùng ven biển.
1 Hiện nay vấn đề của di chỉ núi Đọ có thuộc sơ
kỳ thời đại đá cũ không, đang có những ý kiến chưa đồng nhất.
Đặc biệt đến thời kỳ đồ đồng mà đỉnh cao là
“văn hoá Đông Sơn”, cư dân vùng đồng bằng sông Mã đã có những bước phát triển
vượt bậc, cốt lõi mở đầu cho quá trình hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn
Lang của các Vua Hùng. Các di tích văn hoá Đông Sơn ở vùng đồng bằng được phát
hiện thường phân bố ven các sông như sông Mã, sông Chu hoặc ven các chi lưu của
các sông này. Các di chỉ này thường tập trung ở các gò đất cao mà nhân dân địa
phương thường gọi là Cồn hay Bái hoặc Đồng hay Mả (tên thường gọi của dân gian).
Một số di tích khác nằm ở chân núi đá vôi nổi lên giữa đồng bằng. Đặc biệt ở
hợp lưu sông Mã, sông Chu, thì các di tích này tập trung tương đối dày đặc. Sự
phân bố đông đúc của các di tích thuộc văn hóa Đông Sơn ở vùng đồng bằng đã
phần nào phản ánh tính làm chủ đồng bằng của những người Việt cổ ở Thanh Hoá
với những làng định cư lâu đời hàng ngàn năm như thuộc các huyện Đông Sơn,
Thiệu Hóa, Hoằng Hóa, Yên Định…
Theo số
liệu của bảng thống kê dưới đây (chắc chắn là chưa đầy đủ), với 85 các di tích
thuộc nền văn hoá Đông Sơn được phát hiện trên đất Thanh Hoá, là một trong
những minh chứng khẳng định làng xã của đồng bằng sông Mã đã ra đời và phát
triển rất sớm.
Bảng
thống kê các di tích văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hoá.
TT Tên
di tích Địa điểm (huyện, T/P, T.tr)
1. Xóm
Rú Đông Sơn
2. Đồng
Vưng Đông Sơn
3. Đồng
Ngầm Đông Sơn
4. Cồn
Cấu Đông Sơn
5. Bãi
Khuýnh Đông Sơn
6. Bãi
Rắt Đông Sơn
7. Đồng
Ngang Đông Sơn
8. Bãi
Phủ Đông Sơn
9. Cồn
Sồng Đông Sơn
10. Cồn
Trôi Đông Sơn
11. Mả
Chùa Đông Sơn
12. Núi
Nấp Đông Sơn
13. Đông
Khối Đông Sơn
14. Bãi
Vác Đông Sơn
15. Thiệu
Dương Thiệu Hoá
16. Núi
Trịnh Thiệu Hoá
17. Mả
Voi Hoằng Hoá
18. Đồng
Đồn Hoằng Hoá
19. Mả
Kẻ Hoằng Hoá
20. Nước
Mò Hoằng Hoá
21. Đù
Đù Hoằng Hoá
22. Văn
Chỉ Hoằng Hoá
23. Hàng
Đa Hoằng Hoá
24. Cồn
Kiệm (trên) Hoằng Hoá
25. Cồn
Kiệm (dưới) Hoằng Hoá
26. Mả
Hộ Hoằng Hoá
27. Mả
Chùa Hoằng Hoá
28. Bãi
Gành Hoằng Hoá
29. Đông
Cáo Hoằng Hoá
30. Quỳ
Chử Hoằng Hoá
31. Đồng
Bãi Hoằng Hoá
32. Mả
Cáo Hoằng Hoá
33. Ngũ
Hoả Hoằng Hoá
34. Mả
Lự Hoằng Hoá
35. Hoằng
Quỳ Hoằng Hoá
36. Sang Hoằng Hoá
37. Bưởi Hoằng Hoá
38. Tép Hoằng Hoá
39. Cồn
Khách Tán Hoằng Hoá
40. Cồn
Mỗng Khỉ Hoằng Hoá
41. Hoằng
Phượng Hoằng Hoá
42. Hoằng
Lý Hoằng Hoá
43. Hoằng
Phú Hoằng Hoá
44. Hoằng
Quý Hoằng Hoá
45. Hoằng
Vinh Hoằng Hoá
46. Cầu
Dài Yên Định
47. Định
Công Yên Định
48. Nấp
Bắc Yên Định
49. Núi
Bạn Yên Định
50. Cồn
Chùa Yên Định
51. Cồn
Kỵ Yên Định
52. Tam
Quan Yên Định
53. Yên
Thôn Yên Định
54. Yên
Thịnh Yên Định
55. Mật
Sơn T.P Thanh Hoá
56. Cồn
Bần T.P Thanh Hoá
57. Đồng
Mẩy T.P Thanh Hoá
58. Cồn
ổi T.P Thanh Hoá
59. Đông
Sơn (trong làng) T.P Thanh Hoá
60. Đông
Sơn (bờ sông Mã) T.P Thanh Hoá
61. Hàm
Rồng T.P Thanh Hoá
62. Núi
Sơn Nông Cống
63. Hoàng
Sơn Nông Cống
64. T.tr
Nông Cống Nông Cống
65. Quảng
Xương Quảng Xương
66. Thôn
Bùi Quảng Xương
67. T.tr
Vĩnh Lộc Vĩnh Lộc
68. Phà
Công Vĩnh Lộc
69. Đa
Bút Vĩnh Lộc
70. T.
tr Cẩm Thuỷ Cẩm Thuỷ
71. Cẩm
Châu Cẩm Thuỷ
72. Thiết
Cương Triệu Sơn
73. Hồ
Bến Quân Hà Trung
74. Đại
Lộc Hậu Lộc
75. Núi
Bần Hậu Lộc
76. Bãi
Xóc Hậu Lộc
77. Bù
Ngòn Hậu Lộc
78. Mả
Ngô Hậu Lộc
79. Khe
Máng Hậu Lộc
80. Xuân
Lập Thọ Xuân
81. Mả
Mè Ngọc Lặc
82. Núi
Chè Tĩnh Gia
83. Thần
Phù Nga Sơn
84. Chùa
Tiên Nga Sơn
85. Thành
Vân Thạch Thành
Các di
chỉ khảo cổ ở Thiệu Dương, Đông Sơn, Quỳ Chữ, núi Nấp…thuộc thời kỳ văn hoá
Đông Sơn rộng hàng ngàn m2 và có tầng văn hoá khá dày đã chứng tỏ đó là những
kẻ, chiềng, chạ…mà sau này gọi là làng, xóm, xã…đã xuất hiện từ lâu đời, định
cư lâu dài và không kém phần nhộn nhịp. Mật độ dân cư thời kỳ này khá cao. Theo
Hậu Hán thư vào đầu thời kỳ Bắc thuộc (thời kỳ cuối của văn hoá Đông Sơn) quận
Cửu Chân (cơ bản là địa bàn Thanh Hoá với trung tâm là vùng đồng bằng sông Mã -
HMK) có 35.743 hộ gồm 166.013 người. Từ các kết quả của khảo cổ học, người ta
đã tính toán các di chỉ ở Thiệu Dương, Đông Sơn, Quỳ Chữ, núi Nấp, mỗi khu vực
này có cư dân sinh sống mật độ ít nhất vào khoảng 400 người/km2.
Dấu ấn
hình thành các làng xã từ buổi khai sơn, phá thạch còn in đậm trong các ca dao,
truyền thuyết dân gian lưu truyền đến tận ngày nay.
Đó là ý
chí quật cường của con người đối diện với tự nhiên:
“Tre non cắm bãi đồng lầy
Non gan không đến chốn này làm chi”.
Là những
con người “khổng lồ” - những anh hùng khai sáng mở mang vùng đất. Họ là những
người gánh núi, đào sông, khai phá ruộng đồng, diệt chim ác, trừ thú dữ…Chính
họ đã xây dựng nên “làng” và luôn “hộ hành cho dân làng” và được nhiều làng tôn
làm “Thành hoàng” và mỗi người đều gắn với một vùng đất của vùng đồng bằng sông
Mã, như: ông Cõng đá vùng Tĩnh Gia; ông Lau vùng Quảng Xương; ông Nưa vùng Nông
Cống; ông Vồm, ông Go vùng Đông Sơn; ông Nuông vùng Thiệu Hoá, Yên Định; ông
Đẻn, ông Hà Rò, ông Bưng vùng Hoằng Hoá...
Theo
nhiều nhà nghiên cứu, từ “kẻ” là một trong những từ xuất hiện sớm nhất để chỉ
sự hình thành những làng cổ, những nơi quy tụ đông dân cư sớm nhất của nước ta.
“Kẻ” được dùng với tư cách là một đơn vị cư dân sơ khai vào thời các Vua Hùng
và gắn liền với một vật thể “tô tem” để trở thành tên gọi chung cho một cộng
đồng dân cư trên một địa bàn nhất định mà đến nay vẫn còn tồn tại rất nhiều
trong các tên gọi của các làng xã đồng bằng Bắc Bộ và Thanh - Nghệ. Trong từ
điển Việt - Bồ - La của Alexan dre Rhodes, thì từ “kẻ”2 có hai nghĩa chính là:
- Người,
hạng người, dân cư (kẻ chợ, kẻ quê, kẻ lành, kẻ dữ, kẻ sang, kẻ hèn…)
- Nơi
chốn, quê quán (ở kẻ nào ?)
Các làng
xã ở đồng bằng sông Mã, từ “kẻ” có rất nhiều và luôn gắn với một từ đi kèm theo
mà các nhà nghiên cứu cho là gắn với “tô tem” rất thuần Việt và chưa có lời
giải thích xuất xứ nào đủ sức thuyết phục:
"Trò
Chiềng, vật Bộc, rối Si
Cơm đắp
kẻ Lở, cơm thi kẻ Lào"
Cơm đắp
kẻ Đún, cơm thi kẻ Đù".
Theo
điều tra khảo sát của Lê Kim Lữ trong Kỷ yếu hội thảo Văn hoá làng Thanh Hoá,
Sở Văn hoá Thông tin Thanh Hoá 1990, ở vùng đồng bằng sông Mã còn bảo lưu được
khoảng gần 120 làng có tên “kẻ” chiếm 24% trong tổ số 1.792 làng được điều tra.
Ví dụ:
- Huyện
Thọ Xuân: Kẻ Neo (nay thuộc xã Nam Giang); kẻ Căng (nay thuộc xã Thọ Nguyên);
Kẻ Đầm (nay thuộc xã Xuân Thiên); Kẻ Mía (nay thuộc xã Thọ Diên); Kẻ Sộp (Sập),
(nay thuộc xã Xuân Lập).
- Huyện
Triệu Sơn: Kẻ Đà (nay thuộc xã Thọ Dân); Kẻ Hào (nay thuộc xã Thọ Phú); Kẻ Mốc
(nay thuộc xã thị trấn Triệu Sơn); Kẻ Nưa (nay thuộc xã Tân Ninh).
- Huyện
Thiệu Hoá: Kẻ Đô (nay thuộc xã Thiệu Hưng); Kẻ Đọ (nay thuộc xã Thiệu Dương);
Kẻ Rỵ, Kẻ Chè (nay thuộc xã Thiệu Trung); Kẻ Go (nay thuộc xã Thiệu Châu)"
2 Dẫn theo Nguyễn Quang Hồng, Có một miền quê
tên là kẻ Rỵ, Kỷ yếu hội thảo khoa học Lê Văn Hưu, Cao đẳng sư phạm Thanh Hoá
1992
- Huyện
Đông Sơn: kẻ Bôn (nay thuộc xã Đông Thanh); kẻ Rủn (nay thuộc xã Đông Khê); kẻ
Mơ (nay thuộc xã Đông Xuân).
- Huyện
Hoằng Hoá: kẻ Tổ (nay thuộc xã Hoằng Quỳ); kẻ Đừng (nay thuộc xã Hoằng Phú,
Hoằng Quý); kẻ Quăng (nay thuộc xã Hoằng Lộc); kẻ Bưng (nay thuộc xã Hoằng
Sơn).
- Huyện
Quảng Xương: kẻ Bùi (nay thuộc xã Quảng Giao); kẻ Mom (nay thuộc xã Quảng
Nham).
Phần lớn
các di tích thuộc Văn hoá Đông Sơn mà sau này được phát hiện đều rất gần kề với
những vùng đất thuộc các “kẻ” đã nêu như trên. Cũng như ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ, “kẻ” ở vùng đồng bằng sông Mã (Bắc Trung Bộ) là từ chỉ đơn vị cư trú có
trước làng, thôn, hương, giáp, xã...Mặc dù đến hiện nay “kẻ” đã biến đổi theo
thời gian, bị Hán hoá và sự phát triển của xã hội, nhưng những dấu ấn của “kẻ”
qua các tư liệu lịch sử thành văn, nhất
là trong tâm thức của nhân dân qua các thơ ca, hò vè, truyện kể dân gian…là một
trong những minh chứng sống động về quá trình hình thành và phát triển
của làng xã ở vùng đồng bằng sông Mã trong thời kỳ các Vua Hùng.
Nếu như
“kẻ” là một dấu ấn để góp phần xác định tụ điểm đông cư dân quy tụ có tổ chức
đầu tiên thì : xá, phường, hương, trang, ấp, làng, xã, thôn...là những tên gọi
các đơn vị cơ sở theo tiến trình phát triển của xã hội. Đến nay (theo số liệu
điều tra năm 1990), số làng ở Thanh Hoá có tên là “kẻ” chiếm tỉ lệ 24%; là “xá”
chiếm tỉ lệ 5%. 3. Tuy nhiên trong thực tế
các từ dùng chỉ các đơn vị này luôn biến động và thường được thay đổi theo một
yêu cầu của cộng đồng làng xã hay của chính quyền Nhà nước cao hơn. Nhưng những
tên cũ vẫn có một quá trình hình thành và thời gian tồn tại không phải là
ngắn. Và đó là một trong những
dấu ấn
cực kỳ quan trọng để tìm về những làng cổ trong lịch sử.
2. Sự
hình thành do nhu cầu phát triển
Vùng
đồng bằng sông Mã, các làng xã mới được lập ra phần lớn là do nhu cầu ruộng đất
để canh tác. Mặc dù trong tâm chí của những người trước lúc ra đi đến vùng đất
mới luôn trĩu nặng nỗi lòng gắn bó với mảnh đất, họ hàng làng quê mà các thế hệ
cha ông đẫ sinh sống:
"Gà
khôn thì chớ đẻ hoang
Trai
khôn thì chớ bỏ làng mà đi"
và biết
trước bao khó khăn của tự nhiên và xã hội đang chờ đón họ.
Nhưng sự
phát triển của dân số, khiến cho vùng đất ban đầu trở nên chật hẹp. Nó không
đáp ứng được những đòi hỏi của cuộc sống và sinh hoạt tối thiểu của các gia đình
trong cộng đồng làng xã mà quan trọng hơn là quỹ đất để sản xuất đảm bảo cuộc
sống
3 Văn hoá làng Thanh Hoá, Sở VHTT Thanh Hoá,
1990, tr 73.
ngày
càng bị thu hẹp. Vì vậy một yêu cầu tất yếu xảy ra là phải khai phá vùng đất
mới để sinh cơ lập nghiệp. Ngoài ra một lý do khác là trong cuộc sống thường
nhật sự nảy sinh mâu thuẫn giữa các dòng họ, trong cùng dòng tộc...và ngay cả
trong một gia đình, khiến một số gia đình, một số cá nhân đã rời bỏ mảnh đất
từng gắn bó ra đi tìm vùng đất mới để
sinh sống. Và cũng không hiếm trường hợp các hưu quan, trí sĩ từ ý tưởng ban
đầu lập riêng cho mình một khoảng trời riêng rồi đem theo con cháu, đầy tớ phục
vụ và dần dần phát triển thành làng xã.
Làng di
dân mà ngày nay các nhà nghiên cứu làng xã Thanh Hóa4, cho là sớm nhất là vào
thế kỷ VIII thuộc huyện Thiệu Hoá ngày nay. Các làng này do Khương Công Phụ lập
ra. Khương Công Phụ người làng Tổ Kiệm (còn gọi là Tổ Kiệm phường) nay là làng
Tường Vân, xã Định Thành, huyện Thiệu Hoá. Ông đậu Tiến sĩ đời Đường Duệ tông,
làm quan ở kinh đô Trường An (Trung Quốc). Sau khi về quê, Khương Công Phụ,
thấy dân quê ruộng đất ít, chật hẹp nên di dân vượt sông Cầu Chày lập ra ba
làng: làng Đường, làng Trung, làng Hưng nay thuộc xã Thiệu Giang, huyện Thiệu
Hoá.
Năm 983,
sau khi chinh phạt Chiêm Thành về, Lê Hoàn đã tiến hành cho "đào kênh từ
Đồng Cổ đến Bà Hoà" tức là "từ huyện Yên Định đến huyện Tĩnh Gia ngày
nay để mở mang giao thông thuỷ trong nội địa. Công trình này đã tạo nên những
bước phát triển kinh tế - xã hội không nhỏ cho vùng đất đồng bằng sông Mã,
trong đó có việc khai khẩn đất đai, lập làng xóm mới"5. Một số làng ở
huyện Đông Sơn đến nay vẫn lưu truyền về sự ra đời của một số làng được thành
lập ven hệ thống sông đó. Truyền thuyết còn lưu lại ở làng Yên Trường, xã Đông
Yên cho biết "Từ thời Tiền Lê làng có con sông do nhà Lê khai đào. Con
sông đó chảy qua các xóm Lai, xóm Nháng, xóm Trường đến Dõng ốc...Con sông đó
là hệ thống tưới tiêu cho cả vùng" và đến thời Lê (thế kỷ XV) " Hai
ông họ Lê là Lê Văn Bình, Lê Văn Lộc là nghĩa quân của Lê Lợi, sau khi đất nước
được giải phóng đã về sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất naỳ và được coi là Ông tổ
dòng họ Lê. Sau đó các dòng họ như họ Doãn, họ Nguyễn Hữu, Nguyễn Đăng, Nguyễn
Trung, Lê Xuân...về sinh cơ lập nghiệp".
Cuối thế
kỷ XIV, trước khi động An Tôn (nay thuộc địa phận hai xã Vĩnh Long và Vĩnh
Tiến, huyện Vĩnh Lộc) được Hồ Quý Ly chọn dựng Kinh đô, vùng này còn rất thưa
thớt, được đánh giá là "nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp
với trị"6.
Trong
quá trình xây dựng kinh đô một số làng xung quanh khu vực này phải di chuyển,
nhưng sau đó cũng có một số làng mới được xác lập. Theo gia phả của họ Phạm ở
làng Cẩm Hoàng (nay là xã Vĩnh Quang, cách thành Tây Đô hơn 3km), đây vốn là vùng
bãi rậm rạp, hoang vu. Đến đầu thế kỷ XV, nơi đây đã trở thành vùng dân cư đông
đúc với hai thôn là Thái thôn và Giáp Hạ. Làng Bái Xuân thuộc xã Vĩnh Phúc
(cách thành Tây Đô 6 km) được lập nên bởi 4 người phụ nữ có tên là bà Diệm, bà
Oanh, bà Ỷ, bà Tóp. Họ vốn
4 Hoàng Anh Nhân, Lê Huy Trâm : Khảo sát văn
hoá làng xứ Thanh, Nxb KHXH, H1993, tr 151
5 Hà Mạnh Khoa, Sông đào ở Thanh Hoá từ thế kỷ
X đến thế kỷ XIX, Nxb KHXH, H 2002, tr 91.
6 Đại Việt sử ký toàn thư, T2, Nxb KHXH H 1993,
tr 191.
người làng
Cổ Điệp? đến vùng này trồng hoa "phục vụ cho triều đình" sau đó lập
thành làng. Vì thế còn gọi tên làng là Bái Xuân Hoa7.
Ngoài ra
ở Thọ Sơn Trang (nay là làng Thọ Đồn, xã Vĩnh Yên) thì làng này có nguồn gốc
khởi đầu từ những người lính mang họ Phạm, họ Nguyễn, họ Lưu đóng quân ở khu
vực kinh thành Tây Đô. Sau khi chiến tranh kết thúc họ đã về đây dựng làng lập
ấp8.
Trong
Phả tích thần làng Ngọc Nhị (nay thuộc xã Quảng Vọng, huyện Quảng Xương), do
Hàn lâm viện, Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572) và Lễ bộ Thượng thư Nguyễn Hiền phụng sao năm
Vĩnh Tộ 3 (1621) có ghi tóm tắt như sau: "Đến năm 30 tuổi, vợ chồng ông
Nguyễn Nghiêm, vợ là Phạm Thị Toàn sinh hạ được một người con trai, đặt tên là
Hồng. Năm ông Hồng 21 tuổi theo vua Lý đánh giặc phương Nam. Sau khi chiến
thắng trở về, ông chiêu mộ dân các nơi đến đây khai hoang lập ấp. Sau khi ông
mất, dân làng lập đến thờ, muôn đời hương khói"9.
Đến
những năm đầu thế kỷ XX, vùng đồng bằng Sông Mã vẫn còn những vùng đất hoang
vắng và thu hút cư dân các nơi khác đến sinh cơ lập nghiệp và xây dựng những
thôn làng mới. Ví dụ như: Làng Ngọc Sơn, xã Định Tường, huyện Thiệu Hoá được
thành lập năm 1925, do những bất đồng trong quan hệ giữa một nhóm người mà đã
tách ra lập một làng riêng.
Đông Sơn
là vùng đất được nhiều cư dân nơi khác chọn làm nơi sinh cơ lập nghiệp. Làng Chính Kết, xã Đông Vinh trước
năm 1930 là một vùng hoang vắng. Những người đầu tiên khai phá là dân từ các
tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình. Họ lập thành trại. Sau đó dân các xóm của
làng Mai Chữ như xóm Trong, xóm Ngoài cùng đến khai phá và lập nên làng Chính
Kết vào những năm 1950 số hộ đã lên tới 30 hộ. Làng Thắng Sơn xã Đông Hưng
trước năm 1941 là vùng hoang vu có tên là ấp Hàn Tiệp, sau đó một số cư dân từ
Nam Định, Nghệ An và huyện Hoằng Hoá đến làm ăn sinh sống, đến năm 1944 đã có từ 50 - 70 hộ và năm 1948 được mang tên là
ấp Phú Sơn.
3. Do
các vương hầu quý tộc, quan lại lập
Thời
Trần, một số làng đến nay vẫn lưu truyền nguồn gốc của làng là do các vương
hầu, quý tộc nhà Trần mộ dân khẩn hoang mà lập nên. Như vùng Đan Nê (thuộc
huyện Yên Định) là do Trần Thắng - Phò mã Đô uý lập ra; làng Phùng Cầu (thuộc
xã Thiệu Thịnh, huyện Thiệu Hoá) là do Công chúa Phương Dung; Làng Văn Tập
(thuộc xã Thiệu Vận, huyện Thiệu Hoá) do cung phi thời Trần bỏ tiền mộ dân khai
hoang lập thành10. Thời Trần vào năm 1322, Doãn Bằng Hài quê ở Cổ Định (nay
thuộc xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn)
7 Nguyễn Văn Thành, Làng Bồng Trung trong Cội
nguồn, in tại Bộ Lao động và Thương binh Xã hội, H1997, tr 217.
8 Dẫn theo: Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất
Việt Nam thế kỷ XI - XVIII, T1, Nxb KHXH, Hn 1982, tr 206; Lịch sử Thanh Hoá,
T2, Nxb KHXH, H1994, tr 146,147;. Hợp phả họ Doãn - Tư liệu Ban NC và BSLS.TH;
9 Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất Việt Nam
thế kỷ XI - XVIII, T1, Nxb KHXH, HN, 1982, tr 206.
10 Gia phả dòng họ Nguyễn Nhữ Soạn.
là một
quan lại cao cấp của triều đình được vua Trần Minh tông cử đi sứ. Sau khi về
nước ông được vua ban 100 mẫu ruộng ở vùng An Hoạch (nay thuộc huyện Đông Sơn).
Ông giao cho con trai là Doãn Hằng chiêu
mộ dân đến lập ấp mới ở vùng này lấy tên là Doãn xá (nay thuộc các xã Đông Xuân, Đông Thịnh,
huyện Đông Sơn):
"Triều
đình công cử Ngài đi
Do tài
ứng phó nên chi việc thành Tước hầu vua mới gia phong
Thêm
trăm mẫu đất thưởng công cho Ngài Ông Hằng là con thứ hai
Nhận
ruộng lập ấp nên thời Doãn trang Nay là Doãn xá Đông San
Toàn
người họ Doãn, một làng khá đông".
Dưới
triều Lê sơ, Thanh Hoá là đất bản bộ, là đất tổ của vua Lê, số lượng các công
thần ở Thanh Hoá rất đông. Chính vì vậy, ngay tại Thanh Hoá, một phần lớn ruộng
đất được nhà nước dùng để ban thưởng cho các quan lại. Một vùng Lương Giang
rộng lớn thuộc các vùng của huyện Đông Sơn, Thụy Nguyên lúc bấy giờ được vua Lê
ban thưởng cho các quan lại có công trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh.
Ngô
Khiết là một danh tướng, sau khi qua đời "được truy tặng 500 mẫu tư điền ở
Lương Giang (Thanh Hoá) và Bạch Hạc (Việt Trì)"11. Trong vùng "lộc
điền" được vua Lê phong tặng đó có không ít ruộng đất bị bỏ hoang hoá.
Các quan
lại đã tận dụng quyền thế của mình, chiêu tập dân chúng khai phá và dần dần
thành lập các trại, ấp mở đầu cho việc thành lập các làng xã về sau. Trên đất
Đông Sơn lúc bấy giờ theo gia phả dòng họ Nguyễn Nhữ Soạn, thì sau khi ông được
vua cho phép "ở đâu thì lập trại ấp ở đó", ông đã chiêu tập được 10
hộ dân nghèo về quê mẹ là thôn Cừ Nột (thuộc xã Mộc Nhuận, huyện Đông Sơn) để
khẩn hoang12. Nguyễn Chích được cấp 100 mẫu ruộng ở quê nhà. (Theo bia Quốc
triều tá mệnh công thần).
Đinh
Liệt "khai quốc công thần" của nhà Lê khi được ban "lộc
điền", đã cho con là Đinh Công Đột vào vùng Nông Cống chọn đất "lộc
điền". Đầu tiên ông chọn vùng đất Cầu Quan (nay thuộc xã Yên Thái, Trường
Giang)...sau lại tìm đến vùng Đông Cao.
Cả vùng đó là đất "ân tứ" của
vua Lê ban cho dòng họ Đinh và là "mảnh trời riêng" đến thời Nguyễn mới phải chịu các nghĩa vụ đối với nhà
nước như các làng khác trong vùng.
11 Lịch sử Thanh Hoá tập III, Nxb KHXH, H 2002,
tr 107,108.
12 Trương Hữu Quýnh: "Một số nét về tình
hình ruộng đất Thanh Hoá thời Lê" trong
“Thanh hoá Thời Lê" Ban NCVBSLSTH, Xb 1995, tr125.
Gia phả
họ Nguyễn ở Hoằng Lộc cho biết sự hình thành xã Bột Trung (nay thuộc xã Hoằng Tân) như sau: "Trong gia tộc
họ Nguyễn có một người con gái được tuyển vào làm phi tần trong cung vua đời Lê
Thánh Tông. Cuối đời bà được vua cho phép "hoàn tông" về quê. Bà đã mộ dân hai làng Bột
Thượng, Bột Thái (nay thuộc xã Hoằng Lộc) và làng Hành Vĩ (nay thuộc xã Hoằng
Thịnh, Hoằng Thái, huyện Hoằng Hóa) xuống khai
khẩn vùng đất hoang ven cửa Lạch Hới lập nên làng Bột Trung" (nay
thuộc xã Hoằng Tân)13.
Thần
tích thôn Dự Quần (nay thuộc xã Quảng Ninh, huyện Quảng Xương) cho biết:
"Ông Lê Đăng Cử, quê ở Tuần La (nay thuộc xã Trường Trung, huyện Nông
Công), đậu Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1676), đời vua Lê Hy tông. Sau khi từ quan,
nghỉ hưu, ông đã chiêu tập dân lập thành thôn ấp này. Sau khi ông mất, nhân dân
cảm ơn công đức lập đền thờ ông".
Gia phả
dòng họ Nguyễn (Nguyễn Hiệu (1674 - 1735), Tham tụng đời chúa Trịnh Giang, quờ
ở xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn), cho biết: “Vào đời vua Lê Thánh tông, tổ
tiên vốn là dòng họ Hà Thọ Lộc. Hai ông Hà Thiện, Hà Thọ, từ quê Yên Định đến
đây thấy vùng đất này bỏ hoang hoá, lau sậy um tùm, bèn xin đưa dân đến khai
hoang lập nghiệp, lập nên làng Biển Nộn. Nhà vua cử quan là Lê Lan Khanh đến
khám nghiệm và cấp cho. Hai anh em mộ
thêm 15 người nữa đến khai khẩn. Sau một thời gian đã khai phá được 270 mẫu
ruộng và lập nên xã Lan Khê “14.
4. Do
nhà nước thực hiện chính sách khai hoang, lập đồn điền.
Nhằm mục
đích mở rộng diện tích canh tác, nhà Lê ngay từ khi mới thành lập đã rất chú
trọng đến công cuộc khai hoang phục hóa, lập thêm nhiều sở đồn điền ở các nơi.
Nhiều
trang trại ở ven biển huyện Hoằng Hoá trở thành những xóm làng sầm uất như ngày nay là do khai hoang phục hoá lập
thành trang ấp như trang Nặc Tài (nay thuộc
xã Hoằng Hà); trang Hải Triều (nay thuộc xã Hoằng Phong); trang Liên
Châu (nay thuộc xã Hoằng Châu)…
Từ chính
sách lập đồn điền của Nhà nước phong kiến Lê sơ, trên đất Thanh Hoá hình thành
nhiều đồn điền mới bên cạnh những đồn điền cũ đã có từ trước. Vào thời kỳ này
các sở đồn điền do Võ Uy và các con cháu ông lập ra ở Thanh Hoá có tới 38 cơ sở
và chủ yếu thuộc vùng đồng bằng ở Nông Cống: 14 trang; Vĩnh Lộc: 4 trang; Yên
Định: 5 trang; Hậu Lộc 5 trang; Ngọc Sơn 5 trang… Ngay ở Đông Sơn, con cháu ông
lập đồn điền Tĩnh Gia ở tổng Lê Nguyễn (là tổng Thanh Hoá, thuộc huyện Đông
Sơn).
Ngoài ra
còn có những xã thôn mới thành lập trên cơ sở những đồn điền do triều đình cho phép công thần chiêu mộ dân khai
hoang. Xã Mai Xuyên (thuộc tổng Thanh Hoá, huyện Đông Sơn) được thành lập vào
thời kỳ này. Đến nửa đầu thế kỷ XIX, đồn điền Mai
13 Lịch sử Thanh Hóa, tập 3, Nxb Khoa học xã
hội, tr.107, 108
14 Gia phả dòng họ Nguyễn.
Xuyên
vẫn còn lại dấu vết của một sơ đồn điền cũ, ruộng công tương đối nhiều (trên 50
mẫu). Làng Yên Doãn, xã Đông Yên ngày nay do ba ông Lê Đình Chiêu, Thiều
Ngọc Bạch, Nguyễn Hữu Lộ đã chiêu mộ hơn
60 người đến khai phá vùng đất này.
Năm
1461, vua Lê Thánh Tông cử một số quan phụ trách công việc đồn điền ở Thanh Hoá
là: Đồn điền chánh sứ Phan Thế Hợp và các phó sứ là Uông Ngọc Châu, Tô Văn Bảo
(còn gọi là Tô Chính Đạo) và Đỗ Nhuận đến lập đồn điền ở vùng Quảng Xương. Năm
1471, sau khi chiến thắng Chiêm Thành trở về, Vua Lê Thánh Tông đã để lại ở đây
một số lớn tù binh là người Chiêm Thành và đã khẩn hoang được 2.440 mẫu ruộng
loại 315. Và từ đó khu vực đồn điền tập trung các tù binh người Chiêm Thành
dưới đời vua Lê Thánh tông đến thời Nguyễn đã trở thành các làng: Đồn Điền, Phú
Xá, Đa Lộc, Ngọc Giáp. Các làng đó nay thuộc xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương
ngày nay và một số làng khác nữa ở vùng này được hình thành bởi chủ trương lập
đồn điền của nhà nước đời vua Lê Thánh Tông.
Trãi qua
quá trình hình thành các làng xã từ buổi khai thiên lập địa đến trước Cách mạng
tháng 8 năm 1945, các làng xã cổ truyền
ở vùng đồng bằng sông Mã có lịch sử ra đời và phát triển cùng với quê hương, đất
nước và có những nét đắc sắc riêng về sản vật, nghề thủ công... mà dấu ấn của
nó luôn được thời gian lưu giữ đậm nét trong tên gọi các làng xã và ký ức dân
gian, tiêu biểu là các vùng thuộc:
Hoằng
Hoá: Đồn rằng kẻ Trọng lắm cau (xã hoằng Quỳ).
Kẻ Cát
lắm lúa, kẻ Mau lắm tiền" (xã Hoằng Cát).
Nông
Cống: Được mùa Nông Cống sống mọi nơi Mất mùa Nông Cống tả tơi mọi vùng"
Hoặc:
Lấy chồng Nông Cống ăn cơm
Lấy
chồng Thiệu Hoá quai mồm ăn ngô" Triệu Sơn: Con cá đồng Nưa, con cua đồng
Ngằn Yên Định: Bò chợ Bản
Cản (rau
cải) Chàng Lang Tĩnh Gia: Cỏ đồng Lách Thọ Xuân: Chạch đồng Dún
Bún đò
Dinh16.
15 Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất Việt Nam,
thế kỷ X – XV, Sđd.
16 Xem thêm: Dân ca Thanh Hoá, Nxb Văn học,
H.1965.
Trải qua
thời gian, theo tiến trình phát triển của xã hội, người dân trong các làng xã
đồng bằng sông Mã với bàn tay và khối óc, họ khai thác nguyên liệu sẵn có hoặc
liên kết để làm ra các sản phẩm và hình thành các nghề thủ công như: dệt, đan
lát, làm đồ gỗ, luyện kim, gốm sứ, đồ trang sức, đục đá, chế biến lương thực,
thực phẩm... mà đến ngày nay những nghề thủ công của các làng xã làm ra sản
phẩm đó vẫn “danh bất hư truyền”:
- Tơ
làng Hồng, bông làng Vạc
- Trống
Đồng Cổ, gỗ Phong Ý
- Quạt
Lưu Vệ, quế Chính Sơn
- Chiếu
Tam Tổng vừa rộng, vừa bền Mùa hè mát lưng, mùa đông ấm cật...
- Làng
Bút làm được vải con Thổ Oa gánh đất sơn son nặn nồi Làng Nhồi đục đá nung vôi
Làng Vạn
nấu rượu cho người ta mua…
- Phong
Thái đan nống đan nia
Nguyệt
Chư, Ao Cách thức khuya đan buồn…
- Mùa về
lại nhớ cót Giàng
Cách mấy
ngày đàng cũng đến tìm mua...
Đó là
các làng mà khi nhắc đến không thể quên các sản phẩm thủ công mà nơi đó tạo ra:
- Làng
Hồng Đô (xã Thiệu Đô, huyện Thiệu Hoá) có nghề dệt nhiễu, tơ lụa.
- Làng
Phú Khê (xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hoá) có nghề dệt vải.
- Làng
Chè (xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá) có nghề đúc đồng.
- Làng
Đặt Tài (xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hoá) có nghề mộc.
- Làng
Tất Tác (xã Tiến Lộc, huyện Hậu Lộc) có nghề rèn.
- Làng
Nhồi (xã Đông Tân huyện Đông Sơn) có nghề đục đá.
- Làng
Lò Chum (thành phố Thanh Hoá) có nghề gốm, sành, sứ.
- Làng
Ráng (thị trấn Vĩnh Lộc) có nghề làm bánh chè lam.
- Làng
Rị (xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá) có nghề bện thừng.
- Làng
Giàng (xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hoá) có nghề đan cót.
- Làng
Ba Làng (xã Hải Thanh, huyện Tĩng Gia) có nghề làm nước mắm.
- Làng
Đoan Vĩ, Thái Hà (Hoằng Thịnh, Hoằng Hoá), Quảng Phong (Quảng Xương) nghề đan
mây tre ...
Những
làng nghề, thợ nghề luôn nhớ công ơn những người đi trước đã khai lối mở đường
cho làng một phương cách làm ăn mới đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc. Do vậy
làng nghề vùng đồng bằng sông Mã phần lớn có thờ “Ông tổ làng nghề” như:
- Làng
Chè, làng Rỵ (Thiệu Hoá) thờ Nguyễn Minh Không - ông tổ nghề đúc đồng;
- Làng
Triều Khúc (Sầm Sơn), thờ bà Triều - bà tổ dệt săm súc.
- Làng
Tất Tác (Hậu Lộc), thờ ông tổ nghề rèn.
- Làng
Đặt Tài (Hoằng Hoá), thờ ông tổ nghề mộc.
- Làng
Yên (Quảng Xương), thờ người truyền nghề làm giấy…
Đến cuối
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nghề thủ công ở trong các làng xã vùng đồng bằng sông Mã đã phát triển rất mạnh mẽ.
Nhưng không có một làng nghề nào chuyên sống bằng nghề thủ công. Những làng nổi
tiếng trong vùng có nghề thủ công, có nhiều người đi khắp nơi hành nghề mang về
những lợi ích kinh tế đáng kể, nhưng chỉ là “phụ” và vẫn lấy “nông nghiệp” làm đầu.
Từ làng
có từ thời các vua Hùng đến làng mới lập gần đây, lý do hình thành tựu chung
lại là nhu cầu về ruộng đất để sản xuất; Sự gia tăng về dân số và các chính
sách phát triển nông nghiệp của các nhà nước thời phong kiến…
Trong các làng, xã... lúc bấy giờ, nhiều gia đình sống quần tụ trên một khu vực địa lý nhất định và có mối quan hệ chằng chịt về thân tộc, láng giềng...Và từ các mối quan hệ ấy các dòng họ được hình thành và bắt đầu có sự phân chia đẳng cấp ngày càng rõ nét. Những truyền thuyết trong dân gian và những chứng cứ khảo cổ đã khẳng định từ thời tiền sử - sơ sử, làng xã ở vùng đồng bằng sông Mã đã tồn tại và không ngừng phát triển và có bản sắc văn hoá riêng. Đó cũng là quá trình hình thành và phát triển của quận Cửu Chân trong quốc gia Văn Lang của các Vua Hùng. Nó góp phần đánh dấu sự ra đời và phát triển bền vững quốc gia của người Việt cổ trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Theo số liệu điều tra thì đến năm 1920, Thanh Hoá có 1.792 làng. Trong đó làng do di dân lập ấp chiếm tỉ lệ 49%; do triều đình phong đất cho người có công chiếm tỉ lệ 29%; Còn lại là các làng do từ các đơn vị quân đội nhà nước lập đồn điền, tù binh khai khẩn và các làng thuỷ cơ... Sự hình thành và phát triển của làng xã trong quá trình phát triển tuy có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tựu chung lại chính từ những nguyên nhân khác nhau đó mà các làng xã đã góp phần không nhỏ xây dựng và phát triển đồng bằng sông Mã trở thành một địa bàn trọng yếu của đất nước trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét