Thị
hiếu tầm thường
Cái lý
thú của nước Nam
ta nhỏ mọn lắm.
Kìa cái đồng hồ từ tám mươi đời thì quấn
vải tây điều, kết quả găng. Nọ núi non bộ khéo chắp tỉ mỉ trong trồng cây uốn
con phượng.
Cầu quán con con, thuyền bé lí tí.
Câu đối với tranh thì hết tứ thời phong
cảnh lại đến thiên lý giang sơn.
Thi hoạ nhỏ nhen, thi chẳng ra thi hoạ
chẳng ra hoạ.
Giang sơn treo cửa sổ, sơn thuỷ để đầu
giường. Hoành phi câu đối thì chữ nghĩa đẹp phẩy mác hơn đẹp ý tình (1).
Đồ chạm đồ cẩn thì tỉ mỉ con dơi già quả
mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn trọng khéo.
Ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề.
Nói tóm lại thì người Nam mình chưa
cái gì là cái khéo.
Mà càng bắt chước Tây bắt chước Tàu bao nhiêu càng xấu bấy nhiêu.
Mà càng bắt chước Tây bắt chước Tàu bao nhiêu càng xấu bấy nhiêu.
Người mỗi ngày một hay, vi xảo là thông
ngôn ông Tạo hoá (2). Ta mỗi ngày một đổ (3), vi xảo là cơn hứng chí điên
cuồng.
Học chẳng phải mà bắt chước chẳng phải.
Xảo nghệ muốn noi theo ngoại quốc, là phải noi lý tưởng chớ không nên bắt chước
phù hoa. Kẻo mà khéo thêm ra chẳng thấy đâu, lại đang nghề nguyên lành hoá nghề
lang lố (4).
(1) phẩy mác là tên gọi các nét trong chữ Hán,
ở đây ý nói chỉ đẹp bề ngoài
(2) vi xảo: sự kỹ lưỡng khéo léo; ở đây ý nói
sự hoàn chỉnh của sản vật đạt đến mức như là tự nhiên sinh ra đã vậy.
(3) kém
đi, hỏng đi
(4) Nghĩa như nhố nhăng
Nguyễn Văn Vĩnh
Đăng cổ
tùng báo, 1907
Trích từ chuyên mục người xưa cảnh tỉnh đã in
trên Thể thao và văn hóa 2005-2007 Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên
soạn
Văn chương phù phiếm, toàn giọng bi thương
Xét các lối văn chương của ta, vừa lối riêng,
vừa lối theo của Tàu, kể ra thì cũng nhiều và cũng đủ cách. Song hiềm vì trong
lối văn chương, phần nhiều là hay dùng cách tiểu xảo, đối chọi nhau từng chữ
từng ý, mà nhất là thơ hay tìm những
tiếng mong manh, những lời bóng bảy, khí nhỏ nhặt tỉ mỉ, kém khí hùng hào.
Vả lại hay chuộng lối phù hoa, quý hồ đặt
cho đẹp câu, đọc cho sướng tai, mà rút cục thì không có lý tưởng nào là cao lạ.
Lại còn một cách, nói thật là viển vông
huyền huýnh (1), khiến cho người nghe tưởng là cao kiến lắm mà kỳ thực thì toàn
là lời tưởng tượng, vu khoát (2); tựa như bức tranh vẽ của ta chỉ thấy nét xanh
nét đỏ vẽ rồng vẽ phượng, trông thì choáng mắt, mà té ra không có nét nào thực
cả.
Lại nhất là những điều ai oán những khúc bi
thương, những tiếng bổng tiếng trầm, thánh tha thánh thót như dế kêu, như ve
hót, ta thường cho là hay mà thực ra thì
là một thứ tiếng hèn mọn yếu ớt, không
cổ động được cái khí mạnh mẽ cho người
ta.
(1) xa xôi, mờ mịt (2) bịa đặt, không bảo là có
Phan Kế Bính
Việt nam
phong tục, 1915
Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu
nhược
Văn chương gọt từng tiếng khác nào như
người gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cái giò kia hãm cho thấp trông
thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động
vào đã gãy, để chưa mấy ngày đã úa. Cốt lấy cái khéo nhỏ nhặt làm mất đi cái
khí mạnh, gọi là “nhu nhược chi văn chương”!
Phan Kế Bính
Việt Nam
phong tục,1915
Chỉ giỏi về văn thù ứng
Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ thì chăm về
văn khoa cử, khi đỗ rồi thì chăm về văn thù ứng (1). Có những người nổi tiếng
mà nhan nhản những bài hết tự tặng người này lại dâng người khác, té ra trời phú cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là để
đi thù phụng thiên hạ.. Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay, người An Nam làm văn
chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng và trong văn học chỉ sở trường
một cách jeu de mots (1) mà thôi, thì cũng chẳng quá nào !
(1) thứ văn thơ làm khi giao tiếp, khoản đãi
nhau
(2) chơi chữ
Phan Khôi
Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta 1939
Tưởng thật mà hoá dối
Văn chương ta từ trước tới nay vì bó buộc
quá đỗi nên luôn luôn đi bên cạnh sự giả dối, sự bịa đặt. Nhà văn chỉ lo viết
thế nào cho đúng với lẽ phải của xã hội mà không cần đúng với sự thật tự nhiên
(1). Văn chương thành ra một cách để dối mình và dối người.
Cây trên rừng muôn ngàn lá không có hai lá
giống nhau. Trong rừng người cũng vậy, chưa từng thấy hai người hình dung giống
hệt nhau. Hình dung còn thế huống chi nữa tinh thần.
Văn chương ta có vẻ buồn tẻ nghèo nàn, các
nhà văn ta ít thấy khác nhau, vì họ tự dối mình, tức vì họ không đủ cái thành
thực để phô diễn tâm linh của mình, vì họ tự giam mình trong vòng khách sáo.
(1) Các nhà nghiên cứu hiện nay phân biệt
1/ cái tưởng là sự thật, đang được mọi người
trong xã hội công nhận và 2/cái sự thật đúng như nó có, song chưa được phát
hiện và nhận thức thấu đáo; ở đây ý nói nhà văn ta chỉ biết loại sự thật thứ
nhất.
Hoài Thanh
Thành
thực và tự do trong văn chương, Tao đàn,1939
Khinh miệt cá nhân
Văn chương ta nghèo nàn. Những dây quan hệ
quá chặt chẽ nó ràng buộc mọi người trong xã hội. [Trong tâm lý cộng đồng], cá
nhân, cái bản sắc của cá nhân, là một điều huyễn tưởng, một điều không nên có.
Cá nhân chìm lấp trong đoàn thể như giọt nước trong làn sóng biển.
Một dân tộc khinh miệt cá nhân, không biết
đến cá nhân, không thể có được một nền văn chương phong phú.
Các nhà văn ta ít thấy khác nhau, chỉ vì
họ tự dối mình, vì họ không đủ cái thành thực để phô diễn tâm linh của mình, vì
họ tự giam mình trong vòng khách sáo.
Khách sáo chính là cái vỏ mà đoàn thể phủ
trên mình, trên linh hồn cá nhân. Về hình thức, khách sáo là những quần áo mũ
giày theo thời thượng. Về tinh thần, khách sáo là những tình ý thông thường -hay nói theo lối người Tây, những tình những ý vẫn chạy rông ngoài đường phố.
Hoài Thanh
Thành
thực và tự do trong văn chương, Tao đàn, 1939
Không tìm thấy bản sắc
Nếu bây giờ có một người Đức, hay một
người Nga, hay một người Anh, muốn tìm trong các văn phẩm của chúng ta để xem
dân tộc Việt Nam cảm nghĩ thế nào trước tấn kịch thống thiết và náo nhiệt của
hai nền văn minh Đông Tây gặp nhau, hoặc trước thiên nhiên, trước nhân sự (1),
trước cái chết, thì người ngoại quốc ấy sẽ hoàn toàn thất vọng. Người ấy sẽ chỉ
nhận thấy trong phần nhiều các văn phẩm của ta, những cái máy truyền thanh rẻ
tiền nó nhắc lại tất cả những điều mà người ấy thừa biết tự bao giờ.
(1) Theo nghĩa dùng trước 1945, thì nhân sự
chỉ chung việc đời, chứ không phải là việc tuyển dụng, sắp xếp quản lý người,
như hiện nay.
Lan Khai
Thiên
chức của văn sĩ Việt Nam, Tao đàn, 1939
Phê bình nghĩa là nịnh nọt
Người mình xưa nay vẫn chưa quen chịu
người ta phê bình. Ai làm được quyển sách quyển vở nào, đem ra giới thiệu với
công chúng thì chỉ muốn khen, chứ không muốn người ta chê, rồi hễ thấy người ta
bẻ bắt điều gì là mích lòng và không hiểu rằng “Người dạy ta mà phải là thày
ta, người trách ta mà phải là bạn ta “.
Bởi vậy người phê bình cũng không muốn phê
bình, mà sự học cũng không tiến bộ được.
Trần Trọng Kim
Mấy lời
bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo, 1930
Nhắm mắt bắt chước cốt kiếm lợi
Làng văn làng báo ta, cũng như nhiều giới
khác, phần đông kém trí phán đoán, thường hay nhắm mắt theo người. Những cái bệnh ấy, không phải bây giờ
mới phát mà có lẽ nó là một chứng di
truyền đã mấy ngàn năm và ăn sâu vào mạch máu nhiều người ! Xưa học chữ Hán
không dám nói khác với những kiến giải của tiên nho, không dám đi trật ra ngoài khuôn sáo của tiên hiền, cắm
đầu nhai lại nhai lại những bã rả của cổ
nhân mà không nhớ đến thời gian. Nay xếp
đặt một tờ báo, chỉ muốn theo cho được một tờ báo Tây, từ cách dùng chữ đến lối
đặt câu, làm như dịch theo nguyên văn
của người ngoại quốc.
Hồi 1926-29, thấy một vài tờ báo một vài
cuốn sách đeo cái lá nhãn ái quốc, người ta cũng ùa ạt đổ xô làm nghề buôn
ấy, lúc nào cũng đạo mạo nói ra những
lời cổ động, những giọng hăng hái nhiệt thành.
Nhưng cạn ao bèo đến đất, những thứ văn
tự nhận là mang đầy tâm huyết ấy chỉ là
một lối đầu cơ kiếm lời.
Hoa Bằng
Vài cái
liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, 1942
“Tiểu thuyết của phường coi cổng”
Hiện bây giờ, những người gọi là
trí thức của ta đều đào tạo ở hai trường Tây và trường Tàu. Hạng đào tạo ở
trường Tàu – nói là hạng học từ chương
cử nghiệp cuôí mùa thì đúng hơn - bây
giờ tàn tạ rồi. Còn hạng ở trường Tây ra, vì phải uốn theo khuôn khổ Tây, không
thành người Việt nữa …
Không ở hai trường ấy ra mà lại
làm văn sĩ thì thành hạng văn sĩ quốc ngữ, hạng chẳng có trí thức chi chi hết,
chỉ múa mép láo mấy câu sáo cũ, mấy lời rỗng tuyếch chẳng có ích gì cho văn học, văn hoá một nước
nào cả. Văn sĩ ta bây giờ chỉ có thể rơi vào hai cái bị. Một là cái bị Tây là bị lơ lửng giữa trời, không tây
không ta; hai là cái bị quốc ngữ.
Cổ lai không có nước nào mà cái
nghề làm văn sĩ lại dễ dàng rẻ rúng quá như ở nước ta hiện giờ. Ta thử đọc
những cuốn tiểu thuyết bình dân, những cuốn tiểu thuyết bên Pháp gọi là “ tiểu thuyết của phường coi
cổng". Đọc những cuốn ấy, ta thấy rằng tác giả của chúng tỏ ra là người có trí
thức ít ra cũng qua bậc trung học rồi nghĩa là có phổ thông trí thức rồi. Những
cuốn tiểu thuyết hay nhất của ta bây giờ, già lắm chỉ bằng những cuốn tiểu
thuyết của phường coi cổng bên Pháp mà thôi !
Nguyễn Triệu Luật
Nguyễn Triệu Luật
Làm sao
mà gây được một nền văn hoá riêng, Tao đàn, 1939
Nhiều
trò quảng cáo bỉ ổi
Người ta khoác bộ áo phê bình để thực hành
cái dã tâm tâng bốc lẫn nhau, quảng cáo lẫn nhau. Anh Giáp viết đến mấy kỳ báo
ca tụng “văn nghiệp “(!) của anh Ất (1); rồi anh Ất để thết lại, viết hàng mớ
bài tán dương về văn tài về tác phẩm của anh Giáp. Nhưng bạn đọc, giá chịu khó
tò mò đôi chút, sẽ biết rõ ngay hai anh ấy là bạn nối khố của nhau, lợi dụng tờ
báo để công kênh nhau lên chín tầng mây biếc. Đáng tức cười hơn nữa, cùng trong
một toà soạn, trong một đoàn văn, họ lại vẫn giở ngón quá chướng là phê bình
tác phẩm của nhau với một giọng khen ngợi hết lời, hoan hô nhiệt liệt.
(1) Cũng như ngày nay hay nói anh A anh B, anh
X anh Y
Hoa
Bằng
Vài cái
liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, 1942
Những nhạc điệu rời rạc, ẻo lả
Âm nhạc Việt Nam hãy còn ấu trĩ. Nhạc khí
thô lậu chỉ đủ cho sự chơi cá nhân hay gia đình chứ không hợp với lối chơi công
cộng, lại không biết rõ khoa âm hưởng học (1) nên sự lựa chọn chắp ghép hoá hợp
cao độ của mỗi âm mỗi tiếng không theo một định luật nào cả. Nhạc phổ (2) không có, sự thống nhất trong các bản các
bài cũng thiếu hẳn. Bởi vậy thường cùng
một bài mà mỗi người chơi theo một cách, với những tiếng lèo tiếng đệm âm gió
thêm vào hay rút bớt đi, tuỳ ở sở thích riêng.
Nhạc cổ Việt nam chỉ gợi được những cảm giác
uể oải, yếu ớt bằng phẳng như cánh đồng lúa kéo đến tận chân trời. Sóng âm
không bao giờ đột ngột vút lên hạ xuống làm cho các giác quan bị kích thích
mạnh mẽ để nâng tâm hồn con người lên tới cái buồn thanh cao hoặc cái vui tráng
lệ.
(1) ở đây có lẽ tác giả muốn nói tới những
hiểu biết cần thiết giúp cho việc phối âm phối khí.
(2) bản nhạc được ghi trên mặt giấy
Lương Đức Thiệp
Xã hội
Việt nam,1944
Nặng tính trang sức mà thiếu sức sống
Nghê thuật Việt Nam thường bị bó buộc
trong lề lối cổ. Phải tôn trọng những phép tắc xưa, cho nên nhà nghề tài giỏi
mấy cũng chỉ phỏng lại những hình thức
có sẵn cho khéo, chứ không được theo tự ý mà
sáng kiến những cách thức mới.
Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là
người biểu diễn (1) ý chí tâm tình của mình, cũng không phải là người quan
sát và biểu hiện tự nhiên, mà chỉ là người giỏi bắt chước những kiểu mẫu sẵn.
Có muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo, chỉ cốt làm cho thật tỉ mỉ
thật tinh tế, thật dụng công, chỉ cốt xếp đặt các bộ phận cho xinh xắn lộng
lẫy. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Việt Nam là tính trang sức. Nó thiếu hẳn
hoạt khí, vì cách biến hóa tuy lưu động mà ở trong phạm vi hình thức, cách phối hợp tuy phiền phức mà ở trong phạm
vi thái độ chế kiểu.
Bởi thế mà nghệ thuật Việt Nam tuy có
tính chất lưu động (2) và phiền phức (3), nhưng thiếu hẳn hoạt khí (4), cách
biến hoá chỉ ở trong phạm vi hình thức.
(1) nghĩa cũ: trình bày ra ngoài
(2) theo ngôn ngữ thời nay, tức linh động,
lỏng, mềm mại
(3) rườm rà nhiều mối
(4) sức sống
Đào Duy Anh
Việt Nam
văn hóa sử cương , 1938
Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não
Sự đơn điệu tẻ nhạt của cảnh sắc thiên nhiên,
tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt của các nhóm người, sự phân chia
nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiến người Việt thiên về u buồn
và sầu não.
Cá nhân bị giam hãm một cách chặt chẽ và
giả tạo trong những khuôn khổ cứng nhắc như gia đình và làng mạc đến nỗi họ
không quan niệm nổi họ có khả năng hành động một mình.
Vì thế khi môi trường chung quanh không
còn giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông thường mà lễ giáo quy định, người
ta dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến mọi nỗ lực trí tuệ tiêu
tán.
Nền văn hoá vốn thấm nhuần lòng từ bi
Phật giáo cũng góp thêm phần dồn nén các dục vọng cá nhân. Rồi quan niệm siêu
hình của đạo Lão khiến nhiều tác giả thiên về một cái nhìn bi quan sâu sắc và
một sự mỉa mai chua chát.
Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ
hoài ngâm cũng như tác phẩm của Trần Tế Xương, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Khắc Hiếu
chỉ là những tiếng vọng của nỗi đau nhân loại.
Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn
thấy cùng những đề tài giống nhau về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản
ánh tất cả sự dồn nén tinh thần của cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn
thuở của một kiếp người bấp bênh, một cuốc sống chật hẹp.
Nguyễn Văn Huyên
Văn minh
Việt Nam 1944
Người Việt & ý thức công dân ý thức xã hội
(phần I)
Trích từ
chuyên mục
Người
xưa cảnh tỉnh
đã in
trên Thể thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu
đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn
Bảo thủ, dựa dẫm, cầu an
Trải qua các đời dân ta chịu sự cai trị của vua quan, không có thể
dùng tâm và mưu cho nước, nước tự nó sống còn. Trên có vua hiền tướng giỏi thì
tạm thời yên ổn. Bất hạnh mà không có vua hiền tướng giỏi thì cả nước loạn ly,
nhân dân lầm than.
Từ xưa đến nay, sở dĩ có ít ngày được
bình trị (1), mà có lắm cuộc loạn
ly, nguyên nhân là ở đó.
Dân nước ta có ưu điểm là an phận, thành
thực, nhẫn nại.
Không biết lợi dụng những ưu điểm ấy thì sẽ sinh ra ba cái tệ.
Một là bảo thủ mà không biết tiến thủ.
Hai là dựa vào người mà không biết tự lập.
Ba là yên thân mình nhà mình, mà không
biết ái quần ái quốc.
Không trừ ba cái tệ đó thì dù có vua hiền tướng giỏi
cũng chỉ bình trị nhất thời mà thôi, sao có thể chống chọi với các nước lớn được. Ngày nay phải nghĩ đến tự
cường thì ngày sau mới tự cường được.
(1) xã tắc trong cảnh thái bình, có trên có
dưới, trật tự kỷ cương đâu vào đấy
Quốc dân độc bản
Tài liệu
do Đông Kinh Nghĩa thục soạn, 1907
Tri túc và hiếu cổ
Dân ta đại để bảo thủ mà không biết tiến
thủ. Sở dĩ bảo thủ một là do tri túc (1), hai là do hiếu cổ (2). Thường thường
cho rằng quê mùa chất phác là hay, lặng lẽ rút lui là cao thượng, không biết
rằng như vậy là chỉ muốn ăn chơi lười biếng. Đó là tri túc làm trở ngại cho chí
tiến thủ. Không biết rằng thế đạo (3) ngày một suy, mà lại than thở phong tục
xưa không được phục hồi. Lòng hiếu cổ ấy trở ngại cho chí tiến thủ.
(1) tự cho là đủ
(2) ưa thích những gì đã có từ xưa.
(3) đạo sống ở đời
Quốc dân độc bản, 1907
Cái gì cũng đổ tại trời
Thuyết mệnh trời làm cho dân ta bị trở
ngại. Nước yếu không quy trách nhiệm cho chính sự tồi tệ, quốc dân bất tài mà
lại nói vận số không phải do người quyết định. Lụt lội hạn hán không trách cứ
là không có kế hoạch tiêu nước kịp thời, không phòng ngừa đói kém, mà lại nói
thiên tai không phải do người gây nên. Dịch bệnh lan tràn thì nói con người
sống chết có số, đề phòng cũng vô ích. Cùng làm một nghề, kẻ thành người bại,
cũng lại nói họ gặp may, ta gặp rủi. Than ôi! sao lại có cách nói tự hại mình
đến thế?
Quốc dân độc bản, 1907
Ma quỷ sống lẫn với người hèn yếu
Nước Nam độ bốn mươi năm nay, vận nước
ngày một suy, suốt từ trên đến dưới chỉ biết chuyện lười biếng vui chơi.
Pháp chế lề luật không còn có cái gì ra
trò, nhân tài cũng tiêu diệt đi mất cả.
Người trên thì lâu lâu được thăng trật
(1), chẳng qua như sống lâu lên lão làng; người dưới thì đem của mua quan, thật
là tiền bạc phá lề luật (...)
Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa
gian giảo thì như ma như quỷ, lừa gạt bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn
yếu thì như lợn như bò, giẫm cổ dè đầu, cũng không dám ho he một tiếng.
(1) trật: cấp bậc phẩm hàm
Phan Châu Trinh
Thư gửi
chính phủ Pháp, 1906
Ý thức quốc gia thức tỉnh quá chậm
Khi cái tư tưởng quốc gia đã nảy ra trong óc
người Tàu, người Cao Ly (1), người nước ta vẫn còn say sưa trong giấc ngủ ngàn
năm, chưa có chút gì gọi là giật mình mở mắt cả. Bọn già thì lo làm quan để
kiếm tiền nuôi vợ con, bọn trẻ thì lo làm thầy đặng kiếm gạo nuôi miệng, ngoài
cái lo xác thịt ra thì không có một tư
tưởng gì khác.
Lại thêm một bọn ra vênh mặt múa tay tự xưng là ái quốc ái chủng, nhưng hỏi đến họ cách khuếch lợi trừ hại, tự cường tự lập thì họ ập ạ như người mơ ngủ, chỉ ngồi ngong ngóng ước mơ thế lực ngoài tràn vào mà thôi.
Lại thêm một bọn ra vênh mặt múa tay tự xưng là ái quốc ái chủng, nhưng hỏi đến họ cách khuếch lợi trừ hại, tự cường tự lập thì họ ập ạ như người mơ ngủ, chỉ ngồi ngong ngóng ước mơ thế lực ngoài tràn vào mà thôi.
(1) tức Triều Tiên.
Phan Châu Trinh
Đạo đức
và luân lý Đông Tây, 1925
Khi bàn chuyện quốc gia chỉ ham hư danh
Tục ngữ có câu Cọp chết để da, người chết
để tiếng. Xem câu nói đó thời danh vẫn nên quý.
Nhưng tội tình thay! óc ti ti như óc dơi,
mắt ti ti như mắt muỗi, ngoài buồng the bếp núc, vẫn không biết gì là nước non;
trừ sọ bò đầu heo, vẫn không biết gì là rồng rắn.
Huống chi vết xấu ở gia đình, thói hủ ở
xã hội, gắn sâu buộc chặt trải mấy nghìn năm; đoàn thanh niên cho đến phường
tân tiến (1), đua tranh danh giá, chẳng cu-li thượng đẳng thời nô lệ quá ưu;
miệng chưa ráo sữa đã lóc lẻm những thẻ bạc bài ngà, ức (2) chưa rời nôi mà ao
ước những mề đay kim khánh.
Ôi! Thế là vinh danh hay sao? Quý hoá hay
sao?
(1) đoàn thanh niên đây chỉ thế hệ trẻ, còn phường
tân tiến trong xã hội Việt nam đầu thế kỷ XX là lớp người đi theo xu thế Âu
hoá.
(2) ngực
Phan
Bội Châu
Việt Nam
quốc sử khảo, 1908
Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi riêng
Chứng bệnh hay giả dối là chứng bệnh chung
của người nước ta mà ở trong lại có một chứng đặc biệt là chứng ái quốc giả …
Nào đám truy điệu, nào tiệc hoan nghênh,
nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ, chuông dồn trống giục, nam hát
bắc hò, xem ở trong một đám lúc nhúc lao nhao, cũng đã có mấy phần người biết
quyền nước đã mất thì tính mạng không còn, hồn nước có về thì giang sơn mới
sống.
Nếu những tấm lòng ái quốc đó mà thật thà
chắc chắn thì giống Tiên Rồng chẳng hạnh phúc lắm sao?
Nhưng tội tình thay, khốn khổ thay, người
ưu thời mẫn thế chẳng bao nhiêu mà người rao danh thì đầy đường đầy ngõ; giọt
nước mắt khóc nước vẫn ngày đêm chan chứa mà xem cho kỹ thì rặt nước mắt gừng; tiếng
chuông trống kêu hồn vẫn trong ngoài gióng giả mà nghe cho tới nơi thì rặt là
chuông trò trống hội;
ngoài
miệng thì ái quốc mà trong bụng vẫn là kim khánh mề đay; trước mặt người thì ái
quốc mà đến lúc đêm khuya thanh vắng thì tính toán những chuyện chó săn chim
mồi.
Cha ôi! trời ôi! ái quốc gì? ái quốc thế
ư? Đeo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng
chí sĩ chân nhân, một mặt thì ôm chặt lấy lốt ông tham bà đốc.
Phan Bội Châu
Cao đẳng
quốc dân, 1928
Lo việc
nước theo lối tự tư tự lợi
Nước mất là do rất nhiều điều tệ, tội nhiều
không kể hết, nhưng trong đó có bốn cái tội lớn. Một là ngoại giao hẹp hòi; hai
là nội trị hủ bại; ba là dân trí bế tắc; bốn là vua tôi trên dưới tự tư tự lợi.
Vua tôi tự tư tự lợi nên không biết có dân
có nước; dân cũng tự tư tự lợi nên cũng không nghĩ gì đến nước đến vua. Ngoại
giao nội trị dân trí sở dĩ đồi bại như vậy cũng là do trên dưới đều tự tư tự
lợi mà ra cả. Cuối cùng nước bị mất vua bị tù, thần dân đều trở nên giống người
mất nước đê tiện. Cái nọc độc tự tư tự lợi nguy hại biết là dường nào.
Phan Bội Châu
Việt Nam
quốc sử khảo, 1908
Tư
tưởng gia nô
Xem lịch sử nước ta từ xưa đến nay hơn ba
nghìn năm, chỉ có gia nô mà không có quốc dân. Quyền vua có nặng, nặng không
biết chừng nào; gia dĩ (1) quyền quan lại hứng đỡ quyền vua mà từng từng áp
chế.
Từ cửu phẩm kể lên cho đến nhất phẩm,
chồng càng cao, ép càng nặng, đến dân là vô phẩm, thân giá (2) lại còn gì.
Thằng này là con ngựa thằng nọ là con
trâu, buộc cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi.
Gặp Đinh thì làm nô với Đinh, gặp Trần
thì làm nô với Trần, gặp Lê Lý thì làm nô với Lê Lý.
Phận con hầu thằng ở, được đôi miếng
cơm thừa canh thải, đã lấy làm hớn hở vênh vang; tối năm (3) đứng đầu ruộng mới được
bát cơm ăn, suốt đêm ngồi bên bàn khung cửi mới được tấm áo mặc, mà mở miệng ra
thì “cơm vua áo chúa"; đồng điền này, sông núi nọ mồ hôi lẫn
nước mắt cày cấy mở mang, nhưng mà “chân đạp đất vua”, lại giữ chặt một hoạt kê
vô lý (4).
Cái tư tưởng gia nô! Cái trí thức gia
nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại, bắt ta phải gông
đầu khoá miệng, xiềng tay xiềng chân, chịu gánh gia nô cho già đời mãn kiếp.
(1) thêm vào đó
(2) giá trị con người
(3) quanh năm
(4) ý nói: Tự mình làm ra mà lại bảo là do ơn
người khác, thật là câu chuyện buồn cười
Phan Bội Châu
Cao đẳng
quốc dân, 1928
Kém óc hợp quần
Đem so sánh nước ta với các nước khác như
nước Tàu nước Nhật, xưa chẳng hơn ta là mấy, mà sao nay ta kém người ta xa thế
?
Người ta mười mình chưa được một: tư tưởng,
văn chương, học thuật, công nghệ, thương nghiệp… đều kém hết cả.
Thế thì tại cớ làm sao ?
Thế thì tại cớ làm sao ?
Dám quả quyết rằng chỉ tại người mình ít
biết kính trọng mấy chữ “xã hội đồng bào”
không coi mấy chữ đó làm quan hệ đến sự sinh tồn tiến hoá, nên trong xã
hội không có tình tương thân tương ái, không có đoàn thể hợp quần.
Có xã hội mà vẫn lẻ loi, ai biết phận nấy,
khôn sống mống chết.
Nguyễn Bân
Tình hữu
ái quan hệ cho xã hội như thế nào? Hữu thanh, 1921
Một vài thói tục đã thành di truyền
Một là học
để làm quan: Người sinh ra ở đời có học mới khôn, có khôn mới làm hết được bổn
phận làm người. Làm quan chẳng qua là một việc trong sự làm người đó mà thôi.
Thế mà người mình có cái tính di truyền “đi học cốt để làm quan” cha truyền con
nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học phép thi đổi ra cách mới, mà
người đi học vẫn ôm cái hy vọng làm quan là chủ chốt.
Hai là
làm quan ăn lót: Làm quan... cốt là mượn cái địa vị thế lực mà làm cái lợi
riêng, thói ăn của dân cho là cái quyền lợi tự nhiên mình được hưởng, tập dữ
tính thành (1) không ai cho là điều quái lạ hổ thẹn.
Ba là a
dua người quyền quý: Ngu dốt mà cũng tán rằng thông minh, bạo ngược mà cũng tán
rằng nhân đức... bất cứ việc gì người ra thế nào, đã là quyền quý thì cứ nhắm
mắt tán dương.
Bốn là
trọng xác thịt (2): Ngoài sự ăn sung mặc sướng, ở yên ra gần như không có tư
tưởng gì nữa. Đối với kẻ khác cũng lấy cái mục đích đó mà xem xét. Nghĩa là
không hỏi nhân cách thế nào, mà chỉ thấy ăn mặc xa hoa, lầu cao nhà lớn thì
sinh lòng hâm mộ, dầu có hại nòi nát giống, mà đạt được mục đích thì cũng không
từ.
Những điều như thế kể ra không xiết. Lại
thêm cái văn minh xu xác (3) thế lực kim tiền, noi theo mà thối giục (4) lên
nữa, thôi thì lửa nọ được dầu, sóng kia thuận gió, không những quét sạch bao
nhiêu tính di truyền tốt của ông bà ngày trước, mà còn có thể cuốn cả hai mươi
triệu đồng bào ta xoay vào cái rốn biển trầm luân, không sao ngóc đầu lên được.
(1) làm quen mãi rồi thành ra một thuộc tính
tự nhiên
(2) tức là trọng vật chất
(3) xu xác: chưa rõ. Có lẽ là gần nghĩa với xu
phụ, tức chạy theo nịnh bợ
(4) thối giục: cũng như hối thúc
Huỳnh Thúc Kháng
Tiếng
dân, 1929
Sợ tự do, cam chịu làm nô lệ
Đế vương xưa chỉ dạy thờ người trên và
biết nghĩa vụ của mình còn quyền lợi không cần biết đến mà cũng không có nữa.
Tục ngôi thứ đã in rất sâu vào óc người
dân quê, đến nỗi những tư tưởng tự do phóng khoáng từ phương Tây truyền sang,
đến luỹ tre xanh là dừng lại, biến mất như một ngọn gió mát tan vào một bầu
không khí nồng nực nặng nề.
Tục vị thứ hoá ra tục sùng bái nhân tước
(1) một cách u ám đê hèn và thay vào óc kính thượng (2) là một óc nô lệ đáng
khinh.
Tự do cá nhân và hết thảy các tự do ở bên
ta và nhất là ở nơi thôn quê chỉ là một câu chuyện hoang đường.
Cũng vì thiếu tự do --- nếu ta không kể
sự tự do phục tùng và tự do uống rượu – nên tình cảnh dân quê về phương diện
tinh thần mới có vẻ điêu linh tàn tạ. Cũng vì thiếu tự do nên người ta đối với
những công cuộc cải cách mới lạ thường có cái não ngờ vực.
Sức phản động dìm dập dân quê vào nơi ngu
tối, tạo thành cho họ cái tính nô lệ, cái căn tính chịu đựng trước những sự tàn
ngược ức hiếp.
(1) những tước vị do con người đặt ra
(2) Kính trọng người trên
Hoàng
Đạo
Bùn lầy nước đọng,1939
Chưa trưởng thành trên phương diện công dân
Nước ta theo đạo thánh hiền, dân khai hoá
cũng đã lâu nhưng ví với các nước văn minh thì trí khôn còn thiếu, tư cách chưa
toàn, chưa hiểu nghĩa vụ riêng là thế nào, chưa biết trách nhiệm chung ra sao.
Nộp thuế là của tiêu chung mà còn có người dân ẩn lậu; đi lính là giữ cho mình
mà còn có người trốn tránh; đê điều cấm phòng thân lừa ưa nặng không đánh không
đi; lại có những kẻ nay trộm mai cướp không để cho dân yên nghiệp.
Phạm Quang Sán
Nước ta
đã dùng được phép luật văn minh chưa? Đông dương tạp chí,1914
Các hội nghề nghiệp yếu ớt ọp ẹp
Tục ta nghề nào lập hội ấy, một là để giữ
gìn công việc cho nhau, hai là để liên
lạc tình nghĩa với nhau, ba là để binh vực nhau cứu giúp nhau, vậy là cái chủ ý
cũng hay, mà lại có thể sinh lợi để làm được sự công ích nữa.
Tiếc thay dân trí ta hẹp hòi, chỉ biết có
tiền thì lo ngay đến một mảnh danh giá
cúng về dân, để lấy cái tên ghi ở trong các đồ sự thần, cho ai nấy trông
thấy đồ thờ thì lại nhớ đến tên mình, thế cho là vinh hạnh rồi. Giả sử hội nào
cũng gây lấy một cái vốn to rồi cùng nhau mà mở một nghề buôn bán hoặc công xưởng gì cho có ích lợi thì chẳng
hay lắm ru ?
Phan Kế Bính
Việt Nam
phong tục,1915
Sinh hoạt hội đoàn dễ bị làm hỏng
Toàn cả nhân dân trong nước thiếu hẳn cái
công đức (1)... Chỉ biết tư đức (2) mà không biết công đức, nên trừ một số ít
người tốt có công tâm, phần đông toàn vì tư tình mưu tư lợi, thích tư đấu, cứu
tư hiềm (3), từ làng đến nước đâu đâu cũng biểu hiện lối ganh tham ghét chạ gây
ra giành xé chia rẽ như hương thôn kiện tụng, quan trường khuynh loát nhau...
mà thiếu hẳn về đoàn thể sinh hoạt công cộng.
Từ Âu hoá truyền sang, thấy xứ văn minh có
những đoàn thể lập hội, công tác thành hiệu (4) rõ ràng, cũng cố bắt chước theo
lập hội này hội khác. Song cái bản ngã đã thiếu môn học công dân, nên bất kỳ
hội gì, chương trình quy tắc lúc lập định ra không nghĩ đến sự thực hành,
thường xảy ra những chuyện do điều nhỏ và ý riêng mà làm hư cả đoàn thể.
(1) công đức đây không phải công ơn đối với xã
hội, mà là đạo đức một công dân trong quan hệ với cả xã hội
(2) đạo đức trong quan hệ cá nhân (ngược với
công đức)
(3) thích tư đấu: dò xét những chuyện ganh
ghét riêng tư; cứu tư hiềm: nghiền ngẫm tính toán quanh những mối hiềm khích
giữa người nọ người kia
(4) thành tựu, hiệu quả
Huỳnh Thúc Kháng
Tiếng
dân,1940
Theo sự chi phối của quan niệm hư vô
Có chí mà không làm nổi, đó là vì tài lực
không đủ thật không đáng trách. Nhưng trong chúng ta, đáng trách là hạng người
sau: Sống ở đời, không có mục đích gì cao hết.
Họ không có một cuộc đời lý tưởng. Họ
không coi một thứ gì là đáng ham chuộng, ngoài sự làm tôi đồng tiền mặc dầu
phải quăng bỏ liêm sỉ bán rẻ nhân cách.
Ngoài ra lại còn một hạng cho ai cũng là
người vô vị, việc gì cũng là việc không đáng làm, ngất ngưởng qua ngày, hững hờ
đoạn tháng, để đồng tiền huyết hãn (1) của cha mẹ vợ con vào vòng trời hoa đất
rượu, phung phí tuổi giàu sức khoẻ vào những cuộc đỏ đen suốt sáng, mây khói
thâu canh. Họ cốt sống để tìm những thoả mãn về vật dục …
(1) huyết: máu, hãn: mồ hôi; ngày nay hay nói: mồ
hôi nước mắt
Hoa
Bằng
Hư sinh, Tri tân, 1943
Có độc lập cũng cướp đoạt của cải và chém giết
nhau đến chết
Trong khoảng vài mươi năm nay, các bậc đại
thần ăn dầm nằm dìa ở chốn triều đình, chỉ biết chiếu lệ cho xong việc; quan
lại ở các tỉnh thì chỉ lo cho vững thần thế mà hà hiếp bóp nặn ở chốn hương
thôn; đám sĩ phu thì ganh nhau vào con đường luồn cúi hót nịnh, không biết liêm
sỉ là gì; bọn cùng dân bị nặn bóp mãi mà máu mủ ngày một khô, không còn đường
sinh kế nữa.
Đến bây giờ thì thế sự hư hỏng, nhân dân
lìa tan, phong tục suy đồi, lễ nghĩa bại hoại, một khu đất bốn mươi vạn dặm
vuông, một dân tộc hơn hai mươi triệu người lại sắp ở vào cái địa vị bán khai
mà quay về cái địa vị dã man.
Nước Nam đã lâu nay học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ, không có kiến thức. Trong một làng một ấp cũng cấu xé lẫn nhau, cùng nòi cùng giống vẫn coi nhau như thù hằn; có dẫu ai muốn lo toan việc lớn, chưa kể rằng không có chỗ mà nương thân, không có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu, giá phỏng Chính phủ (1) cho mượn dăm nghìn khẩu súng, cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng qua vài năm nếu không báo thù lẫn nhau thì cũng tranh giành địa vị với nhau, nếu không cướp đoạt tiền tài thì cũng giành giật tước vị, tự chém giết nhau đến chết hết mới thôi, quyết không thể sống nổi trong thế giới này, lại còn chống cự ai được nữa.
Nước Nam đã lâu nay học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ, không có kiến thức. Trong một làng một ấp cũng cấu xé lẫn nhau, cùng nòi cùng giống vẫn coi nhau như thù hằn; có dẫu ai muốn lo toan việc lớn, chưa kể rằng không có chỗ mà nương thân, không có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu, giá phỏng Chính phủ (1) cho mượn dăm nghìn khẩu súng, cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng qua vài năm nếu không báo thù lẫn nhau thì cũng tranh giành địa vị với nhau, nếu không cướp đoạt tiền tài thì cũng giành giật tước vị, tự chém giết nhau đến chết hết mới thôi, quyết không thể sống nổi trong thế giới này, lại còn chống cự ai được nữa.
(1) đây là chính quyền thực dân Pháp
Phan Châu Trinh
Thư gửi
chính phủ Pháp,1906
Dân trí thấp kém...
Dân trí có công với dân quyền lớn vậy
thay! (...) Vì vậy, giờ đây tôi xin kể những điều tai nghe mắt thấy để quốc dân
cùng biết:
Hay nghi kỵ lẫn nhau, không làm nên việc
gì cả, đó là điều rất ngu thứ nhất.
Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bễ
những sự nghiệp đáng làm, đó là điều rất ngu thứ hai.
Chỉ biết lợi mình mà không biết hợp quần,
đó là điều rất ngu thứ ba.
Thương tiếc của riêng, không tưởng đến
việc ích chung, đó là điều rất ngu thứ tư.
Biết có thân mình nhà mình mà không biết có
nước, đó là điều rất ngu thứ năm.
Dân được cường thịnh là nhờ có sự nghiệp
công ích. Nay những việc đó, người nước ta đều không thể làm được. Hỏi vì sao
không làm được, thì nói là vì không có tiền của. Sở dĩ không có tiền của là vì
đã tiêu phí vào những việc vô ích xa hoa rồi.
Phan Bội Châu
Việt Nam
quốc sử khảo, 1908
Dễ ỷ lại
Tục ngữ có câu rằng Tháp đổ đã có Ngô xây –
Việc gì vợ goá lo ngày lo đêm. Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay
sao?
Nghểnh đầu nghểnh cổ trông ngóng, nếu Ngô
(1) không sang thì vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp.
Tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm,
nghiễm nhiên một đống bồ nhìn rồi hẳn. Hỏi vì cơn cớ làm sao?
Thì chỉ vì ỷ lại.
Câu tục ngữ ấy thật vẽ đúng tâm tình người
nước ta. Nếu ai cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của mình thì có gánh gì
không cất nổi.
Nhưng tội tình thay, anh nào chị nào
trong óc cũng chất đầy một khối ỷ lại. Anh Cột trong mong vào chú Kèo, cô Hường
trông mong vào thím Lục, mà chú Kèo thím Lục lại ỷ có anh Cột cô Hường rồi. Rày
lần mai lữa, kết cục không một người làm mà cũng không một người phụ trách
nhiệm.
(1) Ngô đây chỉ người Tầu. Tục ngữ có câu Có
mặt chú khách vắng mặt thằng Ngô
Phan Bội Châu
Cao đẳng quốc dân,1928
Trong việc nước cũng ai mạnh thì theo, bỏ hết
liêm sỉ
Sĩ phong (1) nước ta, suy đồi đi là tự
đời Lê trung hưng về sau.
Lúc bấy giờ các vua nhà Lê vẫn cầm quyền
mà họ Trịnh dám dấy lên cướp quyền, quan lại và sĩ dân trong nước đều theo họ
Trịnh. Hoá nên cái tâm lý sĩ phu thời ấy có hai đàng: thờ vua Lê để tránh tiếng
phản quân; thờ họ Trịnh để kiếm đường thực lợi.
Ban đầu chắc cũng có người áy náy trong
lòng, về sau tập thành quen, không còn biết thế nào là sỉ nhục.
Một người như thế trăm nghìn người hùa theo,
người trên như thế người dưới bắt chước theo, thành ra cả một nước đều bỏ mất
đại nghĩa, quên mất liêm sỉ, mà đổ xô nhau vào vòng danh lợi.
Từ đó về sau, người mình trở nên mềm như con bún, không biết vua là gì, không biết nước là gì, hễ ai mạnh thì theo. Lòng tự trọng của người mình như ngọn lửa đã tắt, không còn bừng lên, như hột giống bị ẩm, không còn nứt lên được.
Từ đó về sau, người mình trở nên mềm như con bún, không biết vua là gì, không biết nước là gì, hễ ai mạnh thì theo. Lòng tự trọng của người mình như ngọn lửa đã tắt, không còn bừng lên, như hột giống bị ẩm, không còn nứt lên được.
Lại thêm cái kiểu chuyên chế từ xưa đến
nay, cứ ở trên đè xuống ở dưới đợ lên(2), làm cho nhân dân ngày một đê hèn ngày
một yếu ớt. Lòng tham lợi mạnh hơn lòng tư kỷ (3) thì luồn cúi lạy lục mấy cũng
chẳng từ; ưa cái sống đục hơn cái thác trong, thì mặt dạn mày dày đâu có quản.
(1 khí thế, tinh thần
(2) Theo Tự vị An nam La tinh (1772-1773) đợ
có một nghĩa cổ “trao của tin cho ai “, ở đây tạm hiểu là nhẫn nhục chấp nhận
(3) tự ý thức về cá nhân mình\
Phan
Khôi
Luận về
khí tiết, Hữu Thanh, 1923
Rên rỉ
than vãn mỗi khi gặp khó
Những kẻ chơi bời lười biếng, vô công rồi
nghề, dựa vào người khác mà sống, hưởng lợi mà không sinh lợi, thật chẳng khác
gì giống ký sinh trùng trong loài động vật. Đó là những con mọt nước …
Quen thói ỷ lại vào người thì dù có tâm có
lực cũng không dùng được mà dùng cũng chẳng được lâu, tâm tư tài lực ắt sẽ nhụt
dần. Hơi khó khăn gian khổ là rên rỉ, than vãn, uất ức bó tay chịu chết.
Hỏi vì sao không cải lương nói lệnh trên
chưa thay đổi.
Hỏi vì sao không học tập, nói không có tài
năng.
Như thế thì xã hội ngày một suy, nước làm
sao mạnh được ?
Quốc dân độc bản, 1907
Không có chí viễn du
Ái quần (1) bắt đầu tất phải yêu gia đình
làng xóm trước. Nhưng ở đời, những người
lưu luyến gia đình làng xóm, bụng họ không nghĩ gì ngoài bát gạo hạt
muối, chân không hề bước đi đâu một bước. Xa gia đình làng xóm trăm dặm là nước
mắt đã ướt áo, ra khỏi ngõ mười ngày là sốt ruột muốn về.
Chí thú (2) của họ tất nhiên thấp hèn,
kiến văn (3) của họ tất nhiên thô lậu, xã hội trông mong gì ở họ được nữa.
… Khi châu Mỹ chưa ai biết, người châu
Âu cứ sang khai phá, xây nhà dựng cửa
cho con cháu. Còn dân ta thì cho rằng “xảy nhà ra thất nghiệp” nên không có chí viễn du. Không lấy làm lạ
trí thức không mở mang, đời sống không đầy đủ, Tổ quốc lâm vào cảnh nguy vong
mà không hay biết.
(1) yêu đồng bào đồng loại
(2) ý chí và lạc thú ( niềm vui)
(3) Kinh nghiệm và học thức
Quốc dân độc bản 1907
Xa lạ
với chuyện phiêu lưu
Người Âu trọng du lịch, xem thường hiểm
trở gian nan, đi thám hiểm Băng Dương, đi vòng quanh địa cầu, đều là những việc
thường thấy.
Nước
ta có thế không?
Lìa nhà mươi dặm đã bùi ngùi những mưa gió
hoa vàng!
Ở lữ thứ (1) vài năm đã than thở quan hà
đầu bạc(2)!
Nói gì đến Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng,
Cao Miên không ai chịu đặt chân tới; nhưng ngay đến Trung Hoa đối với ta vẫn là
chỗ cùng tộc loại, cùng đạo giáo, cùng lễ giáo văn học, cho đến phương tiện
giao tế, cái gì cũng giống nhau, thế mà người Tàu thì ở nhan nhản khắp nơi kinh
kỳ đô hội bên ta, còn người nước ta thì chưa một ai đến thành Ngũ Dương (3) cả.
(1) nhà trọ, chỗ xa lạ
(2) quan hà: cửa ải và sông; quan hà đầu bạc
chỉ vất vả mà người đi xa phải chịu khiến người ta già đi
(3) thành Ngũ Dương đây chỉ Quảng Châu, thủ
phủ Quảng Đông, chứ không phải tỉnh Quảng Đông nói chung như Đặng Thai Mai đã
chú .
Văn minh tân học sách, 1908
Căn tính nô lệ, run sợ trước cái mới
Kìa những kẻ ham mê đàn sáo, đầu hồ (1),
bài lá, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lý, phù thuỷ ngày ngày dốc cả
trí khôn vào những thứ vô dụng, sống say chết mộng, chả kể làm gì.
Những hạng cao hơn, đỗ đạt lên một tí được
cái tiếng quèn đã vội khủng khỉnh ta đây kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo
(2), ngày ngày khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ
hết thảy học mới văn minh.
Hạng kém hơn nữa thì chỉ nghe có vấn đề
thăng quan lên mấy bực cất nhắc mấy người, chứ không hề biết đến vấn đề nào
khác.
Có một ông nào đã nói với các bạn hậu
tiến (3): “Các thày muốn ra làm quan, thì phải cẩn thận, đừng đọc sách mới, xem
báo mới”.
Ôi, nếu không biết đến sách báo mới thì
thôi, chớ đã biết đến mà lại bưng bít che lấp đi khiến cho không nghe không
thấy chuyện gì, để tự mình lại củng cố một căn tính nô lệ, nhân cách như thế
thiệt nên lấy làm đau đớn!
(1) một loại trò chơi của người xưa, ném một
cái thẻ xuống một miệng trống rồi tính điểm, được Đại Nam quốc âm tự vị miêu tả
là “một cuộc chơi lịch sự “
(2) đạo lý ở đời
(3) hâụ tiến đây chỉ có nghĩa lớp người thuộc
thế hệ sau, chứ không phải người kém cỏi.
Văn minh tân học sách,1908
Không thiết việc đời
Dân ta xưa nay chỉ quen sống “sau lũy tre
xanh ‘, không thạo cách hội họp vả lại về tinh thần lại hay có tính cẩu thả.
Sống được là may, học hành mà làm gì … đó là những câu họ thường trả lời cho ta
khi ta khuyên họ nên học cho biết.
Ngô Tất Tố
Thời vụ,
1938
Chống đối tự phát
Nước ta là một nước canh nông, đối với
công nghệ không những không khuyến khích mà lại còn áp chế. Theo sách Lịch
triều hiến chương, đời Lê Dụ Tôn đặt lệ trưng thu hoành lạm (1) khiến nhiều nhà
nghề không kham nổi mà đành bỏ nghiệp. “Như nhà nước đòi sơn thì dân chặt cây
đi, nhà nước đòi vải lụa thì dân phá khung dệt, đòi gỗ thì dân quăng búa rìu,
đòi tôm cá thì dân xé lưới “.
(1) thu mua quá mức
Đào Duy Anh-Việt nam văn hoá sử cương,1938
Đi đâu cũng lo quay về làng
Dân trí hẹp hòi, ở ta nhiều người học hành
chẳng qua mong lấy thi đỗ làm quan cho làng cho họ được nhờ.
Công nghệ buôn bán thường đợi khách đến tận
làng mà mua những đồ chế hoá (1). Người bất đắc dĩ phải đi xa cầu thực (2), hồ
(3) kiếm được đồng tiền dư, trước hết phải lo nghĩ tới việc dựng cái nhà thờ,
tậu vài ba mẫu ruộng ở quê quán mình.
Nói việc nhỏ nhặt như người đi làm công
làm việc, nhiều kẻ vì nghĩa làng nước mà
quên đến cả nghĩa doanh sinh (4), chỗ
cao lương bổng không cầu, mà cầu lấy nơi ít tiền nhưng được tư án quán,
tức có tên về làng về nước;
kẻ bán buôn nơi thành thị hoặc kẻ có tài chế hoá ra được thứ hàng gì khéo,
vị yêu nghệ (5) mà chuyên nghệ thì ít, song vị muốn tăng công để lấy chút danh
mệnh để đem mặt về ngẩng nơi đình đám
thì nhiều, cho nên lòng ao ước nhỏ
nhen được thoả là không lo gì đến nghệ
nữa.
(1) làm ra
(2) kiếm ăn
(3) những mong, may ra
(4) tìm cách sinh nhai
(5) vị nay đọc là vì, vị yêu nghệ thì ngày nay
nói vì yêu nghề
Nguyễn Văn Vĩnh
Chỉnh
đốn lại cách cai trị dân xã, Đông dương
tạp chí,1914
Ngoài làng xã không biết gì đến nước nhà đến
thế giới
Tục nước mình thường hay thiên trọng ở chốn
hương thôn, quanh năm suốt tháng lẩn quẩn ở trong làng, chiếm được một chỗ ngồi
nơi hương đảng (1) đã lấy làm vinh dự, tranh nhau làm ông phó, tranh nhau làm
ông xã, tranh nhau ăn trên, tranh nhau ngồi cao, chửi mắng nhau, đánh đập nhau,
kiện tụng nhau.
Cái câu “Hương đảng tiểu triều đình” cùng
“Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” luôn luôn ở cửa miệng.
Có nhiều người hết cơ hết nghiệp vì một
việc tức khí nơi hương thôn.
Có nhiều người khánh kiệt gia tài vì một
bữa hương ẩm (2).
Ngoài cái làng ra không còn biết đến nước
nhà là gì, thế giới là gì.
Vì vậy mà tư tưởng cục cằn, kiến văn chật
hẹp. Mấy dãy tre nơi đầu làng đã là cái khám nhốt người ta rồi. Không những
không có người nào ra ngoại quốc học tập làm ăn, mà ngay đến trong nước, mỗi
tỉnh mỗi xứ cũng coi như một thế giới riêng.
(1) làng xóm
(2) cuộc ăn uống mời gần như cả làng
Trần Huy Liệu
Một bầu
tâm sự, 1927
Tình yêu làng nước cản trở tiến bộ
Cái xã hội nhỏ ấy có thể là một sự trở
ngại lớn cho tiến bộ.
Vì làng An Nam xưa là một xã hội thống nhất về chính
trị cũng như về tôn giáo nên một số đông
dân làng chỉ có cái quan niệm với làng mà thôi. Họ chỉ biết có luỹ tre xanh có
đình làng của họ, ngoài ra đều là người dưng nước lã cả, không có gì liên lạc với họ hết.
Những chuyện tranh nhau đánh nhau giữa
hai làng An Nam xưa thường có xảy ra. Tình yêu người đồng bào bị cái tình yêu
người cùng làng làm phai lạt, đó là cái hại lớn.
Sự liên lạc quá mật thiết giữa làng và dân
làng còn là sự trở ngại cho công cuộc di dân, cho sự thông thương, cho sự tiến
bộ.
Đi xa tức là bỏ làng, và bỏ làng đối
với người xưa là một điều xấu, một sự
cực nhục!
Hoàng Đạo
Làng xã,
báo Ngày Nay, 1940
Ương ngạnh, hoài nghi, khó dìu dắt
Trước hết nông dân ta ngày nay (bài này
viết tháng hai 1945 --- VTN chú )
đều còn dốt nát.
Bởi dốt nên thủ cựu mà thủ cựu một cách
bướng bỉnh. Bao nhiêu điều gì mới lạ khác với thói thường, với sự quen dùng, họ
đều coi như không tốt và không bao giờ có ý tò mò muốn dùng.
Đại đa số chỉ sống lần hồi từng ngày, nên
họ không hề có những sự trông xa, hoặc
lâu dài và phiền phức rắc rối.
Họ cần những hoa lợi mau chóng chắc chắn
và dễ dàng, dẫu rằng ít ỏi.
Họ nhận thấy ruộng thiếu phân bón nhưng
họ chẳng biết làm thế nào cho có nhiều phân. Vì hình như họ cho sự thiếu thốn
ấy là dĩ nhiên.
Họ nghiệm thấy những giống thóc họ
thường cấy là không cứng cây, không chịu được nước ngập, v.v.. nhưng họ chẳng
muốn tìm các giống tốt hơn và giá thử có tìm thấy họ cũng không dám cấy thí
nghiệm.
Họ cũng từng biết nghĩ rằng nếu rất nhiều người họp lại chung công của để đắp một khúc đê, xây vài va
cửa cống thì có lẽ giữ được nước mưa để cả một cánh đồng khô khan trở nên chan hoà nước và cây cối tươi tốt.
Nhưng họ cũng lại tin rằng đó là một sự chẳng bao giờ nên dám làm, vì
chắc đâu đã được lợi. Vả lại công việc khó khăn và lâu dài lắm. Thà rằng chẳng
nghĩ đến làm còn hơn (!)
Dốt nát, thủ cựu, nghèo, ưa thực tế,
hay ngờ vực nhút nhát, mọi nhẽ ấy đã tạo thành những người nông dân khó hiểu, khó dìu dắt và khiến
cho người nào nông nổi ương tính phải bực mình, có khi đến phải cáu phải
ghét.
Thảo Am tức Nghiêm Xuân Yêm
Nông dân mới trong nghề nông xứ ta Thanh Nghị, 1945
Người Việt qua cách nói năng cười cợt
Nông dân mới trong nghề nông xứ ta Thanh Nghị, 1945
Người Việt qua cách nói năng cười cợt
Không còn lễ nghĩa liêm sỉ
Nước ta, những nơi chợ búa thành phố,
không luận đàn bà trẻ con, đến người có học biết chữ mà cũng mở miệng là nói
lời thô bỉ.
Tập thành thói quen, những tiếng tục
tĩu, người nghe nhơ cả lỗ tai, mà người nói lại lấy làm khoái.
Cho đến câu mắng bài chửi, đọc ra có
cung có điệu, người nào mắng chửi cả ngày mà không trùng lặp, thì người ta xem
như Tô Tần, Trương Nghi (1), chiếm giải quán quân.
Đến lúc diễn ra cái bộ dạng mắng chửi,
tiếng như mõ rao, chân như múa hát lên tay xuống ngón, mặt như sơn đổ, tóc như
tơ vò, nước miếng như bọt giải, tay cầm dát lia, chân đi cà xiểng (2) không khác gì người điên.
Lại còn một điều xấu nữa, hễ có bất bình
với ai thì phát thệ (3) và nguyện rủa chúc dữ (4) rất nặng.
Thường hàng ngày cùng giao du với nhau,
mà đến lúc bỏ nhau, chất chứa điều bất bình lâu, thì khí yêu (5) nhân đó mà
sinh ra, người nọ bảo người kia “đầy miệng điều láo, một ngày bán được ba gánh
giả, đến đâu cũng dối, ba ngày không mua được một điều thực “.Thật là không còn chút lễ nghĩa liêm sỉ
nào! Cái phong tục kiêu bạc (6) đến thế là cùng.Thế giới chưa có nước nào như
xứ mình!
(1) các nhà thuyết khách nổi tiếng đời Chiến
quốc bên Trung quốc
(2) dát lia – chưa tra cứu được; còn cà xiểng, theo Đại Nam quốc âm tự vị, là Ngao du không biết công chuyện chi mà làm,
không nên sự gì
(3) thề bồi
(4) chúc: khấn. Chúc dữ: ước cho mắc sự dữ
(5) tinh thần gian tà bất chính
(6) cũng tức là khinh bạc với nghĩa cổ: kẻ
không biết tự trọng
Nguyễn Trường Tộ
Về việc
cải cách phong tục, 1871
Những câu chửi rủa quá quắt
Nói tục, nói bẩn chắc hẳn không người nước
nào bằng người An Nam ta. Lắm câu chửi rủa của ta, không tiếng nước nào dịch
nổi, giả thử những người nói ra có nghĩ đến nghĩa từng tiếng thì đứa nặc nô (1)
cũng phải đỏ mặt đến lòng trắng mắt.
Thử ngẫm mà xem, những câu ấy có nghĩa lý
gì đâu.
Bảo người ta ăn những gì những gì thì có
nghĩa lý nào? Gọi ông cha mấy đời người ta lên mà chém mà vằm cũng không có
nghĩa gì cả.
Người ngay thật có ai sợ nhưng câu chửi
rủa ấy đâu? Mà người mở mồm nói những tiếng dơ bẩn ấy, thì thực là xấu cho cái
miệng quá, ra ngay con người thô tục.
(1) nặc
nô: người làm nghề đi đòi nợ thuê ngày xưa; nghĩa rộng là người đanh đá ghê gớm
Nguyễn Văn Vĩnh
Ăn nói
thô tục, Đông dương tạp chí, 1914
Tây không ra tây, tàu không ra tàu, ta không
ra ta
Người mình không những nghề diễn thuyết
chưa biết, mà đến nói câu chuyện cho có đầu đuôi manh mối cũng ít người nói
được.
Khi hội đồng (1), thời (2) chẳng khác gì
như họp việc làng, tranh nhau nói, ồn ào
lộn xộn mà ít ai nói được câu gì cho có nghĩa lý, chỉ bẻ hành bẻ tỏi nhau những
cái vặt vặt chẳng đâu vào đâu.
Khi yến tiệc thời đương câu chuyện vui,
gặp có tiếng gì buồn cười, nhất là nói tiếng bẩn, ông nào to miệng cả tiếng thở
ra một cái cười hà hà, cử toạ đều cười ầm cả lên đến vỡ đổ nhà; thế là câu
chuyện tan.
Chỗ công môn thời ông quan nói, muốn ra
oai mặt sắt chỉ nói nhát gừng, cách một vài câu lại điểm những tiếng nghe chưa? nghe chưa? thằng dân thưa thời gãi tai gãi đầu, chỉ nghe
những tiếng bẩm bẩm dạ dạ nói không ra lời. Mấy cậu thiếu niên thời toa toa moa
moa (3) ngậu xị cả đường phố, câu chuyện không những vô vị mà thường bất thành ngôn (4) nữa.
Thời buổi nhố nhăng, ngữ ngôn bác tạp,
anh bồi chú bếp con bạc làng chơi ả giang hồ cậu công tử, tây không ra tây, tàu
không ra tàu, ta không ra ta, có nhiều cái xã hội không biết họ nói thứ tiếng
gì.
Thử
tìm khắp trong nước được mấy người là
biết nói năng lịch sự ? Thật ít quá.
(1) Cuộc hội họp đông người để bàn việc công
(nghĩa cũ )
(2) thì
(3) mày mày tao tao
(4) không nên lời
Phạm Quỳnh
Pháp du
hành trình nhật ký,1922
Thiên về những cái tầm thường thô bỉ
Ai có ý đến những nơi họp tập, hoặc là
chỗ chơi bời thì thực là buồn thay cho cái trí dục của những người đời nay.
Ngoại giả chuyện cô đầu, chuyện cờ bạc,
chuyện hát tuồng, chuyện chim chuột, chuyện quần áo còn thì không mấy khi được
nghe những câu chuyện lý thú, làm tỏ được học vấn kẻ nói, lợi được trí khôn
người nghe.
Mà xem như trong cách nói chuyện, thì
thiếu niên (1) ta nghe lại có ý thích những câu chuyện tầm thường, nói chuyện
để mà khoe cho người nọ người kia biết cái cách của ta chơi xa xỉ hoặc là kỳ
khu (2)...
Ai ăn nói có tư tưởng có tỏ học vấn thì
thường người nghe thích nhưng ít cầu, vì câu chuyện có nghĩa, làm cho phải
nghĩ, phải đối đáp nhọc mệt...
Người nói chuyện hay, cũng có kẻ phục là
người có ích, nhưng trong cái phục có cái ghen có cái ghét. Ghen là vì ở đâu
đến cướp mất tai kẻ nghe, ghét là vì ở đâu đến làm tỏ cái nhàm của câu cười
cợt tầm thường người ta đang thú.
(1) hồi đầu thế kỷ XX, chữ thiếu niên không
phải dùng để chỉ lớp thiếu nhi từ 10 đến 14 tuổi như bây giờ. Mà có nghĩa là
người trẻ tuổi, tức lớp thanh niên 18 tuổi trở lên.
(2) tỉ mỉ, mất nhiều công sức
Nguyễn
Văn Vĩnh
Đông dương tạp chí, 1914
Tật huyền hồ sáo hủ (1)
Xét trong văn chương, xảo kỹ nước Việt Nam,
điều gì cũng toàn là huyền hồ giả dối hết cả, không cái gì là thực tình... Thời
tiết nước mình thì không biết một chút chi chi, tả đến tứ thời thì xuân phải
phương thảo địa, hạ phải lục hà trì, thu phải hoàng hoa tửu, đông phải bạch
tuyết thi (2). Thành ra đến câu hát cũng hát cho người, cảnh nhà mình thì như mắt mù tai điếc. Mượn chữ người, mượn đến
cả phong cảnh tính tình chớ không biết dùng cái vật liệu mượn ấy mà gây dựng
lấy văn chương riêng cho nó có lý tưởng đặc biệt.
Người Việt Nam lý hội (2) điều đẹp cũng có
một cách lạ. Sách Tàu tả người đẹp môi son mắt phượng, mày ngài khuôn trăng
mình liễu thì bao giờ tả người đẹp ta
cũng cứ thế mà tả.
(1) huyền là sự gì lơ lửng không dính vào đâu;
hồ là lời nói càn; sáo là lời dựa theo khuôn có sẵn; hủ là lời khoe khoang; bốn
chữ này ghép lại chỉ sự ăn nói lời nói linh tinh, trống rỗng, giả tạo
(2) vùng đất đầy cỏ thơm, ao sen xanh mướt, rượu hoàng hoa và thơ tả tuyết trắng
(3) hiểu, quan niệm
Nguyễn Văn Vĩnh
Tật
huyền hồ sáo hủ, Đông dương tạp chí,1913
Trong tiếng cười ẩn chứa nhiều ý xấu
An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng
cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng
hì, phải cũng hì mà quấy (1) cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng mọi việc hết
nghiêm trang.
Có kẻ bảo cười hết cả cũng là một cách
của người hiền(2). Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thẩy,
không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày nghĩ ngợi...
Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi
có cái vô tình độc ác; có cách láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có
nghĩa yên trí không không phải nghe hết nhời người ta mà đã gièm trước cái ý
tưởng của người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công
cuộc (3) người ta.
Gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng, mỏi lưỡi
tê môi để mà hỏi ý một người, mà người
ấy chỉ đáp bằng một tiếng hì, khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi hỏi chẳng thưa, trước sau chỉ có miệng cười
hì thì ai là không phải phát tức ?
(1)
sai, trái với lẽ phải
(2)
người có đức hạnh, tài năng
(3) ở
đây không có nghĩa sự nghiệp to lớn mà chỉ hàm ý công việc nói chung
Nguyễn Văn Vĩnh
Gì cũng
cười, Đông dương tạp chí, 1914
Tiếng cười vô duyên
Có một phần đông người Pháp ở đây, ta hằng
ngày thấy họ, cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc.
Ví dụ như gặp khi trời mưa, đường trơn có
người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trượt té, bấy giờ có năm ba người Pháp đứng đó
họ có cười không?
Tôi, và nhiều người như tôi, dám chắc
rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị té ấy lên nữa.
Còn như con rồng cháu tiên ta, tôi cầm
chắc rằng trước khi chạy lại đỡ, ta phải cười một chặp cho no nê đã.
Phan Khôi
Phụ nữ
tân văn 1931
Nói bừa nói bãi, tủi nhục cho cả nòi giống
Không biết nói không biết, đó là nghĩa vụ
thứ nhất của người muốn học muốn hiểu. Đằng này nhiều người ở ta lại làm như trong thế giới này cái gì cũng rõ ràng minh bạch, tựa hai lần hai là
bốn.
Ai không tin là thế, họ liền phê cho hai chữ: thần bí; hai chữ ấy trong trí họ
tức là ngu xuẩn điên rồ.
Họ không ngờ rằng họ lại “thần bí” hơn ai
hết.
Có những vấn đề xưa nay bao người tài
giỏi suốt đời nghiền ngẫm chưa tìm ra
manh mối.Thế mà cái điều một ông Pasteur một ông Einstein không dám nói, ngày nay ở xứ ta những cậu học sinh vừa mới bước chân ra khỏi
trường Sơ học đã giảng giải được lên sách, lên báo, theo những phương pháp cuối
cùng của khoa học.
Thế giới còn chờ gì mà không khắc bia xây tượng để đền ơn họ.
Nói chơi vậy thôi, chớ cái việc họ làm
đó là một sự tủi nhục vô cùng cho nòi
giống.
Cả một đám thanh niên chưa có lấy cái học
phổ thông cũng tấp tểnh chạy theo những
lý thuyết cao thâm của siêu hình học.
Có lần
chúng tôi thấy một thiếu nữ trước đâu mới học đến lớp ba lớp tư gì đó
đương hăng hái giảng giải về duy tâm và
duy vật. Chúng tôi chán ngán không biết nên khóc hay nên cười. Thực là một cái
họa !
Hoài Thanh
Một cái
họa, Văn chương và hành động,1936
Hay cãi nhau, thích kiện tụng
Những vụ cãi nhau nảy ra ngay từ cách tổ chức làng xã.
Xã hội hương thôn chia thành các giai cấp lệ thuộc vào nhau. Muốn thực
hiện các điều kiện cần thiết để bước vào
một trong những giai cấp đặc quyền, người ta phải cúng Thành hoàng và mời mọi
người ăn uống.
Điều đó thật tàn hại: người ta đi vay với
lãi cao, cầm cố nhà và ruộng, bắt vợ con chịu thiếu thốn.
Khi thuộc giai cấp đặc quyền thì vấn đề là
phải biết bảo vệ đặc quyền của mình.
Người ta sẽ đi đến tận Tòa án tỉnh, thậm
chí Tòa thượng thẩm, chỉ vì miếng thịt chia không đều, hoặc một sự việc cực kỳ
phù phiếm.
Người ta tiêu đến đồng tiền cuối cùng để giữ thể diện hoặc làm đối thủ
mất mặt.
Lịch sử một số làng cũng là lịch sử kiện
cáo. Có những làng mà tất cả ruộng đều thuộc sở hưũ của những làng lân cận. Đấy
chính là những làng đã qua những vụ kiện
nổi tiếng.
Nguyễn Văn Huyên
Vấn đề
nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939
Chỉ trích và châm chọc
Người Việt ít khi chịu chết vì tín ngưỡng
hay vì một vĩ nhân nào đó đã chủ trương trái quyền lợi của họ.
Gặp lúc phải dồn vào thế yếu, họ chống
lại ngay bằng phương pháp tiêu cực: chỉ trích và châm chọc.
Luôn luôn bị áp bức về kinh tế và chính
trị, cuộc sinh hoạt tinh thần thường lẩn cả vào trong tâm tưởng nên sức phản
ứng của tình cảm và tư tưởng không mau lẹ. Tính ưa hư danh là một tật phổ thông
của những người hằng cố gắng tìm vượt lên trên địa vị hiện tại của mình. Tật cờ bạc, do cuộc sống chật hẹp gây nên,
cũng là một tật phổ thông khác.
Lương
Đức Thiệp
Việt Nam tiến hoá sử,1944
Thói hư
tật xấu người Việt trong làm ăn buôn bán
Trích từ
chuyên mục Người xưa cảnh tỉnh đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007 Các đầu
đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn
Lời dẫn
Cuối
2011, có tin trong cuộc thi tay nghề quốc tế World Skills 2011 ở Anh, tổ chức ở
khu Excell, phía Đông London, Việt Nam không đoạt được huy chương nào mà chỉ
đem về 7 chứng chỉ ở các môn Công nghệ may thời trang, Nấu ăn, Lắp cáp mạng
thông tin, Điện tử, Xây gạch, Công nghệ thông tin và Thiết kế trang web. Con số
quả là rất nhỏ trên tổng số 950 chứng chỉ cấp cho 50 quốc gia tham dự.
Báo Tuổi
trẻ cuối tuần, số ra 11-3-2012 có bài
của một quan chức của cơ quan phát triển nguồn nhân lực Hàn
Quốc. Ông này nhận xét đại ý là lao động Việt thường ít nghĩ đường dài, cố cầy kiếm tiền hơn lo học hỏi để làm ăn lâu
dài.
…
Những tin tức loại này ngày càng được đưa
ra trên báo chí. Chúng cho thấy điều mà người mình thường tự hào là giỏi giang
chăm chỉ cần mẫn khéo tay cần phải xem lại. Nếu không phải là một huyền thoại,
nghĩa là một điều ta tự lừa ta, thì đó
cũng là một phẩm chất không có gì chắc chắn, người ta rất dễ đánh mất.
Đằng sau cái vẻ bề ngoài cố sống cố chết
mang hết năng lực ra kiếm sống, thực ra con người vẫn chỉ dừng lại ở một quan
niệm thô thiển về sự làm việc và cuộc sống nói chung.
Dưới đây là những nhận xét tương tự về sự
làm ăn buôn bán sản xuất kinh doanh của người Việt từ các bài viết của các trí
thức Việt Nam đầu thế kỷ XX, khi chúng ta chuyển mình theo hướng hiện đại hóa
lần thứ nhất.
Mấy
năm trước chúng tôi đã có dịp sưu tầm và đưa ra rải rác các nhận xét này trên
mặt báo, nay dồn cả lại thành một cụm kính trình bạn đọc.
Điều cần nói thêm là từ những kém cỏi trong
làm ăn buôn bán, nhiều nét tiêu cực trong cách sống cách nghĩ của người Việt đã
được hình thành. Suy nghĩ nông nổi. Lừa lọc dối trá. Mua tranh bán cướp. Làm
hàng giả…
Và chúng cũng lan sang cả mối quan hệ giữa
người và người giữa cá nhân và xã hội.
Nhìn vào các lĩnh vực khác như học hành
thi cử cầu cúng tín ngưỡng, văn hóa giáo dục, quản lý xã hội nói chung …đâu đâu
ta cũng thấy đời sống kinh tế lạc hậu đã kéo thấp con người xuống, và đến lượt
nó, sự hạn chế trong đời sống tinh thần lại quay lại làm cho sự sản xuất làm ăn
không bao giờ phát triển lên được.
Thiếu cái gan làm giàu
Cách đại thương (1) là có gan làm giàu. Coi
người ta phí (2) bao nhiêu tiền bạc mà không sợ mất là vì người ta tiên liệu
đại lợi (3), kể chi sự phí. Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho thấy trước mắt
có lợi mới chịu làm.
Nếu đem đại thương mà sánh với bán hàng
bông (4) thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt, hễ mua sớm mai thì chiều thấy
lợi, còn mua chiều sáng thấy; chớ như đại thương thì ít nữa là năm năm còn
nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi. Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít (..) còn
lợi mà lâu thấy thì thật lớn lắm.
Người nước nào đều có ngay gian xấu tốt, họ
không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm rồi thì quen, còn người mình
không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.
(1) buôn bán lớn
(2) bỏ tiền của ra sử dụng
(3) tính trước rằng sẽ lãi lớn
(4) Đại Nam quốc âm tự vị ghi nghĩa đen, chỉ
hàng hoa quả bông trái; nhưng ở đây có nghĩa rộng hơn chỉ việc buôn bán cò
con, buôn đầu chợ bán cuối chợ.
Lương Dũ Thúc
Nông cổ
mín đàm 1901
Không lo xa, dễ thoả mãn
Tôi
luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng thở than, trong lúc đói
lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữa.
Người nước của chúng ta, bởi không từng
trải ít thấy rộng ít nghe xa (...) hễ vừa mới động nở nòi ra một thí (1) là đổi
tính đổi nết, làm bề làm thế (2), muốn nghỉ mà ăn chơi. Bởi làm sao vậy? Bởi
trong trăm người mới có một thì là trong một xóm ở chừng một trăm, người ấy đã
đặng trên mấy bợm (3) khác. Có bạc chục bạc trăm, cho vô cho ra, đã có người
thiếu nợ mình rồi; cho nên hết muốn ráng sức nữa. Vì vậy nhiều khi nghèo nàn
khổ sở trở lại. Đến lúc nghèo rồi lại than thở trách trời, sanh mình sao mà vận
xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo, tại trời không thương.
(1) khá giả một tí
(2) làm le, làm dáng, khoe mẽ
(3) bợm đây không có nghĩa xấu mà chỉ có nghĩa
bọn khác kẻ khác
Lương Dũ Thúc,
Nông cổ
mín đàm, 1902
Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá
Nước nào cũng có gian giảo, Tây, Nam,
Chệt, Chà (1) đều có kẻ tốt người xấu. Song nước ngoài người ta gian khéo xảo
lớn, còn nước mình gian vụn xảo vặt. Nói giác thể (2) như một người Chệt kia
lãnh của người ta đi buôn, lãnh rồi thì lo làm ra té lời cho nhiều, có gian lận
thì lấy trong cái tiền lời ấy, chớ không khi nào đụng tới vốn bao giờ. Họ tính
như 1đ00 mà làm lợi ra 0đ30, dầu có gian, chủ có hay, cũng dám nhắm mà cho
gian. Còn người nước Nam không phải vậy, cứ gốc đẽo hoài. Chủ ra vốn cho 10đ đã
phá tán cho lỗ lã, rồi cứ cái vốn lấy hoài, cứ cái mạch châm hoài. Đụng 0đ50
cũng gian, 0đ30 cũng gian, làm sao mà không háp tiệm (3). Chuyện gì hồi lãnh coi công việc thì bần
hàn ăn mắm muối, vợ rách con đói; chừng lãnh việc rồi, vợ đeo vòng con đeo
vàng, chồng giày vợ dép lên xe xuống ngựa, vợ lấy bạc góp chồng lấy bạc góp,
chồng trai gái đào đĩ, sắm giường sắm mùng riêng, vợ tùng điệp (4) đem cả kiếng
họ (5) đến tiệm mà ăn phá. Ôi tính hay ăn xổi, xài gấp giật gấp, nước mình nay
ra đi buôn thì không khác gì mấy đứa con nít tập đi tập chạy.
(1) Chệt (có khi viết Chiệc): người Tàu; Chà:
người Mã Lai hoặc Ấn Độ; còn Tây và Nam, tức người phương Tây và người Việt
(2) ví dụ
(3) háp,
nghĩa gốc là khô héo, háp tiệm đại ý cũng như sập tiệm
(4) liên tục, dồn dập
(5) Chi họ, dòng họ
Trần Chánh Chiếu
Lục tỉnh
tân văn, 1908
Không biết chấn hưng thực nghiệp (1)
Người nước ta xưa nay chia ra bốn nghề sĩ
nông công thương... Phàm những kẻ biết đôi chút từ chương là đã vênh vang tự
cho mình là kẻ sĩ, không thèm đứng cùng hàng với nông công thương, cho họ là
hèn hạ, gọi là dân buôn, dân thợ, dân cùng. Sĩ đã không biết việc nông công thương,
mà nông công thương phần nhiều không học hành, không biết nông học là gì, công
nghiệp là gì, địa lý là gì. Trăm môn chẳng biết môn nào, thực nghiệp mới không
chấn hưng được.
Ở các cửa khẩu thông thương, trăm người
không ai không mặc vải Tây, mà vải Tây là lấy bông sợi của ta dệt ra (...) Các
nhà buôn học thức nông cạn, người ta mang hàng đến mà mình không biết chở hàng
đi (2). Nhà buôn trong nước rất tản mạn, chèn ép lẫn nhau, không có chủ trương
nhất định...
(1) thực nghiệp là từ chỉ chung các ngành sản
xuất vật chất, bao gồm cả nông nghiệp lẫn công thương nghiệp
(2) chỉ lo nhập khẩu không biết xuất khẩu
Quốc dân độc bản, tài liệu của Đông Kinh nghĩa
thục ,1907
Đồng tiền không dùng để sinh lợi
Tiền của tức là máu mỡ của dân. Tôi không
nói là không nên yêu tiếc. Nhưng yêu tiếc thì phải bảo vệ nó làm cho nó sinh
sôi nẩy nở. Muốn vậy phải có cách để biến nó thành một món to, không phải chỉ
một món nhỏ. Như thế mới gọi là yêu tiếc.
Thế nhưng người nước ta yêu tiếc tiền của
riêng thì lại chỉ để tiền của cung phụng cho cái mồm cái bụng riêng của mình,
chứ không biết đến có việc gì khác, đó là một. Có kẻ lại bới đất đào lỗ để chôn
giấu của cải, chỉ sợ người khác biết, chôn lâu đến hỏng nát, đó là hai. Cả hai
hạng người này một bên thì xa xỉ, một bên thì keo kiệt, tuy không giống nhau,
nhưng đều ngu như nhau.
Phan Bội Châu
Việt Nam
quốc sử khảo, 1908
Những người thợ bất đắc dĩ
Tính người mình không biết quý trọng công
nghệ, người làm nghề tựa hồ như bất đắc
dĩ không học được làm quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra
làm nghề thôi. Mà làm nghề thì không cần gì tinh xảo chỉ cốt bán rẻ
tiền được nhiều người mua là hơn. Công
nghệ suy nhược lại còn là vì người có
học thức không chịu làm, người chịu làm thì lại là người không có học thức, chẳng qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa chớ không
nghĩ được cách thức nào mới.
Ít năm nay, có trường bách công dạy dỗ, có
lắm lời tân học cổ động, thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều, và cũng đã có
người sinh được nghề khéo, học được nghề
mới tranh được lợi buôn bán. Song cái tính khinh đường công nghệ thì vẫn chưa
bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu có, song vẫn tự coi mình là đê
tiện, phải mượn cái phấn ông hàn ông bá
mới là vẻ vang.
Phan Kế Bính
Việt nam
phong tục, 1915
Buôn bán lòng vòng trong phạm vi hẹp
Xét ra việc buôn bán của ta không được
thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều cớ. Dân ta nhát tính, không dám
đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một xó, cái gì cũng chờ người ta
mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám đi
đâu cả. Ví dụ có đi chăng nữa, thì chẳng
qua Hà Nội xuống Hải Phòng, Sơn Tây; xuôi Nam Định đã cho là xa xôi; ai bần
cùng lắm mới lên đến Lao Cai, Yên
Bái hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn
chỉ lo những nước độc ma thiêng, hoặc là
phong ba bất trắc mà quanh năm chí tối, bán quẩn buôn quanh.
Phàm làm việc gì có phải dễ dàng mỗi chốc
mà thành hiệu (1) ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc hơi vấp váp điều gì thì đã ngã lòng ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin
thôi, làm cho việc có cơ tấn tới mà cũng
phải tan không thành nữa.
(1) tức
có kết quả
Phan Kế Bính
Việt nam
phong tục 915
Không có nghề nào đạt tới rình độ chuyên
nghiệp
Phần nhiều người nước ta chỉ nô nức về
đường công danh sĩ hoạn, mà coi nghề buôn bán là một nghề khinh thường. Người
giàu có cho con đi học mong cho con về sau nhất ra thì làm nên ông nghè ông
bảng, chớ nào ai mong cho con mai sau làm nên bác lái này ông lái nọ. Người làm
quan trở về thì lấy gió mát trăng thanh, cúc thơm lan tốt, chè chuyên thuốc
quấn, đàn ngọt hát hay làm vui thú, chớ nào ai thiết gì ông chủ cửa hàng nọ ông
quản lý cửa hiệu kia. Mà đủ bát ăn thì cũng lấy sự thanh nhàn làm thú trên đời,
còn việc buôn bán thây mẹ đĩ.
Té ra bao nhiêu ông việc buôn bán phần
nhiều ở trong tay người đàn bà và ở trong bọn mấy chú lái thì mong sao mở mang ra to được ?!
Lại như việc chữa bệnh, xưa kia nước ta
không biết trọng nghề làm thuốc, thường cho là một nghề nhỏ mọn, không mấy
người lưu tâm. Chốn dân gian chỉ những người bất đắc chí trong đường khoa
cử mới xoay ra xem sách thuốc để lấy
nghề sinh nhai. Phần nhiều là những người thiển học (1), rồi cũng dám lên mặt
ông lang đi khắp chợ cùng quê để chữa bệnh cho thiên hạ. Mạch thấy nắm cũng
nắm, mà có hiểu thế nào là mạch thực
mạch hư; bệnh thấy xem cũng xem, mà có hiểu thế nào là bệnh hàn bệnh nhiệt. Đệm
thêm một nắm lá xì xằng cho gói thuốc to, để lấy cho đáng đồng tiền của người
ta. Cũng may dân ta phần nhiều còn dại dột, sống chết đổ cho tại số, chớ không thì các ông lang ấy chắc không ăn ngon ngủ yên.
(1) sức học nông cạn
Phan Kế Bính
Việt nam
phong tục, 1915
Không chịu học buôn học bán
Nói đến cuộc thương mại nước nhà mà thêm
chán. Bất quá trong nước được vài nhà buôn, còn thử đi qua các phố mà xem, chỉ
những Chiệc với Chà (1) họ chiếm mất cả. Buôn bán với các nước, lại càng chẳng
có ai gọi là tay đại doanh nghiệp.
Vì cớ từ xưa đến nay, đàn ông ở ta chỉ lo
học hành thơ phú ngâm nga, hi vọng làm quan, chứ buôn bán cho là mạt nghệ.
Hai nữa là từ xưa không có học làm các sổ
sách buôn bán, không có một trường nào dạy buôn bán như ở nước Tàu cũng như các
nước bên Âu Mỹ.
Nhẽ thứ ba, ta có buôn chỉ buôn quanh
bán quẩn với nhau, không thực thà không đồng tâm, không thạo việc, không biết
cách đối đãi với khách mua hàng.
Vả lại bây giờ nước ta không giữ cái chủ
nghĩa bế quan nữa, cửa ải đã mở rộng, nhưng mà cuộc thương mại với các nước ở
tay ai chứ có ở trong tay mình đâu, mà dẫu có để cho mình cũng vị tất có đủ tài
sức mà gánh vác.
(1) người Trung Hoa và người Ấn Độ
Lê Đức
Mậu
Bàn về
thương nghiệp, Hữu thanh, 1921
Khéo tay mà trí không khôn
Xét ra ở nước Nam ta mới có các nghề mỹ nghệ là thịnh, phàm nghề
khéo toàn là các nghề trang sức cả, còn mỹ thuật thì chưa có gì sánh được với
các nước; nhưng ngay trong mỹ nghệ cũng chưa có kỷ
luật, chưa có thể thống gì, chưa phân rõ
các kiểu cách, các thời đại, các lề lối, các phương pháp; thợ thuyền phần nhiều là những người vô học, phi quen tay phóng lại lối cũ,
thời bắt chước chép của người ngoài, thành
ra tay có khéo mà trí không khôn, không biết biến báo mà vẫn giữ được tinh thần cốt cách cũ, tồn cổ mà
khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mới; nóí tóm lại là không có trí sáng khởi
(1) khôn ngoan, gây ra trong mỗi
nghề một cái thể thức trang nghiêm mà
đặc biệt.
Cho nên các nhà nghề ta, không thể bằng
cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho
có cái trí khôn nưã.
Nay muốn gây lấy cái trí khôn ngoan trong
mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức, thời không gì bằng lập ra một nhà
bảo tàng mỹ nghệ, sưu tập lấy những đồ
đẹp trong nước, chia ra từng thời đại, bày cho có thống hệ (2), để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà học cho biết nghề mình duyên cách (3) thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy
mà giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ,
hoặc nhân đấy mà biến đổi dần.
(1) bắt đầu dựng lên
(2) quan hệ của những cái liên tiếp. Cũng
nghĩa như hệ thống
(3) duyên (có khi đọc diên) ở đây là thủ cựu, cách là đổi mới.Duyên cách : Tình
hình cũ và mới
Phạm Quỳnh
Pháp du
hành trình nhật ký 1922
Không ai chuyên nhất việc gì
Các nước phú cường, người nào làm việc gì
thì chuyên việc ấy. Nhà khoa học lo cả đời phát minh; người làm giàu thì cứ
việc làm giàu. Còn nước ta thì không thế. Một người làm năm bảy việc; trong khi
làm bàu gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình, lại có mở
một cửa hàng tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu sang Pháp làm chính trị.
Người ngoại quốc thấy vậy, cho rằng chúng ta
có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức chuyên nhất, không có tính nhẫn
nại.
Tân Việt
(*)
Mỗi
người một việc – Đông Pháp thời báo, 1928 (*)Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và
Phan Khôi ký chung trên Đông Pháp thời
báo 1928 (theo Lại Nguyên Ân). Nghe giọng
thì người viết ở đây có lẽ là
Diệp Văn Kỳ (?).
Làm hàng bán hàng đều kém
Nước ta
khi xưa chỉ có những tiểu công
nghệ như quay tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới, làm mắm muối v..v.. chứ
không có đại công nghiệp để làm giàu như
các nước khác.. Người làm thợ, ai chuyên tập nghề gì thì lập thành phường, như thợ mộc thợ nề thợ rèn thợ đúc đồ gốm v..v.. Phường nào có
tục lệ riêng của phường ấy. Những người làm nghề thợ thường là người ít học,
quanh năm ngày tháng đi làm thuê làm mướn chỉ được đủ ăn mà thôi.
Người thiên hạ đi buôn nước này bán nước nọ,
xuất cảng nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời
không đi đến đâu, chỉ quanh quẩn ở trong nước, buôn bán những hàng hoá lặt vặt, thành ra bao nhiêu mối lợi về tay người ngoài
(1) mất cả. Thỉnh thoảng có một ít người có mươi lăm chiếc thuyền mành, chở hàng
từ xứ nọ đến xứ kia, lưng vốn đọ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự
phú.
(1) ám chỉ Hoa kiều, trước 1945 thường gọi
là khách, như trong các từ hiệu khách, phố khách …
Trần Trọng Kim
Việt Nam
sử lược,1925
Tài trí thua kém
Nghĩ như nước ta, ruộng đất tốt, rừng núi
nhiều, các mỏ có, phận đất duyên hải cũng thật dài, vậy mà cuộc kinh tế mỗi
ngày mỗi khó, thời là sao?
Nói về tài trí, quốc dân ta thứ nhất đã
kém về cơ khí cho nên công nghệ phải thua. Vật xấu mà giá bán đắt hơn thời còn
mong gì tiêu thụ cho ngoại quốc (1). Ngay trong bản quốc, vẫn phải cần dùng đồ
nước ngoài. Bài trừ ngoại hoá chẳng qua là câu chuyện nói chơi, khó thay sự
thực. Như ở Nam Kỳ nhà máy xay gạo của người ngoại quốc thì không sao; người
nước ta chỉ có một cái nhà máy xay mà cháy. Ở mặt bể, tàu của người ngoại quốc
thời không sao, người nước ta có một cái tàu Bình Chuẩn (2) mà chìm. Nghĩ ra
cũng là tài trí thua kém.
Nói về tư bản (3), nguyên người nước ta đã
không lấy đâu có được nhiều người có tư bản to ví với người ngoại quốc, mà sự
chiêu phần (4) lập hội thời cái bụng ăn ở với nhau kém, cho nên không mấy hội
được bền, nghĩ chỗ đó thật đáng buồn, mà có nói lắm cũng vô ích.
(1) tức không thể xuất khẩu.
(2) tàu chở hàng trên biển, trọng tải 600 tấn,
do công ty Bạch Thái Bưởi khai trương từ 1919.
(3) của cải vốn liếng
(4) gọi người mua cổ phần
Tản Đà
An Nam
tạp chí, 1931
Thời gian phí phạm ách sống làm điệu làm dáng
Trong tiếng ta có một lời mà người ta hay dùng
là cơm vua ngày trời, tỏ ra ý ăn hết chừng nào thì ăn, làm được chừng nào thì
làm, không bị hạn chế và thôi thúc chi hết. Lại có thành ngữ làm việc quan là
làm việc rồi (1), làm đù đưa đủng đởn.
Phải, phàm kẻ làm việc quan, không bị hạn
chế thôi thúc thì tội gì làm đúng đắn làm kịp thời kịp vụ làm chi!
Bởi vậy cho nên ngày xưa chúng ta không
có đồng hồ. Chẳng những vì khoa học không có mà không làm được đồng hồ. Mà
chính vì cái quan niệm cơm vua ngày trời, và làm việc quan ấy nó choán sẵn trong
đầu rồi, không có sự cần, nên không sinh ra khoa học mà không làm đồng hồ được.
Có người đeo cái đồng hồ không chạy. Máy ở
trong đã hư hết nhưng mà vì nó đẹp, nên cũng đeo cho có với người ta. Ta chưa
nhìn rõ cái giá trị thật của thời gian là thế nào.
Bỏ cái quan niệm cơm vua ngày trời đi, rồi
mới dùng được đồng hồ theo như chỗ dùng của nó.
Cũng như bỏ cái căn tính cẩu thả đi, rồi
mới dùng được những chữ dân quyền tự do bình đẳng theo ý nghĩa của nó. Hiện nay
thì những chữ dân quyền, bình đẳng, tự do ở nước Việt Nam cũng còn như cái đồng
hồ của người Việt Nam!
(1) rổi ở đây có nghĩa như trong thành ngữ “ăn
không ngồi rồi “. Làm rồi: làm rất nhàn nhã, thế nào cũng được
Phan Khôi
Cái đồng
hồ của người Việt Nam, Phụ nữ tân văn,1931
Quan niệm về kinh tế quá cổ lỗ
Tư tưởng kinh tế nước ta phần nhiều bị
cái triết học của người đời (1) nó đè nén. Sách Đại học (2) có câu “ Đức là gốc
mà của là ngọn", ông Mạnh tử nói “ nhân
nghĩa là đủ, sao cứ nói lợi. "Xưa nay không ai không lấy sự dè sẻn làm chủ
nghĩa rất cần, nói đến tài chính không ai không lấy sự “ xem số thu vào để liệu số chi ra “làm chủ đích. Sự hơn đong kém bán bị khinh rẻ, người mưu lợi bị chê bai …
Bởi đấy nên tư tưởng kinh tế
phương đông tản tác mà lộn xộn, tư tưởng kinh tế phương Tây tề chỉnh mà phân minh.
Tư tưởng đã tản tác mà lộn xộn thì kết
quả không tiến bộ chút nào; tư tưởng đã
tề chỉnh và phân minh thì kết quả lại có
phần tiến bộ nhiều lắm.
(1)
triết học nhân sinh
(2) một trong Tứ thư bốn bộ sách chính của đạo
Nho. Ba cuốn kia là Luận ngữ, Trung Dung
Mạnh Tử
Nguyễn Xuân Dương
Sự so
sánh về tư tưởng kinh tế Đông Tây An Nam tạp chí, 1931
Giữa chủ
và thợ không tìm được hình
thức cộng tác thích hợp
Những nhà nông trồng ra cây mía, nấu thành muống đường (1).
Những người làm nên đường cát mà mang đi bán
lại là người khác, tức là nhà buôn đường.
Người có tư bản xuất vốn ra và làm chủ rồi rủ dăm ba người
trai tráng làm bạn (2), gọi là công –xi,
một bên xuất tài (3) một bên xuất lực.
Mãn mùa rồi tính trừ tiền vốn và tiền tổn
ra còn lãi bao nhiêu chia thành
hai, chủ phần nửa, các bạn phần nửa.
Song ở trong có sự rất xấu là những người
chủ thường ăn lấn các bạn. Hạng trai
tráng đi làm bạn phần nhiều là ngu dốt
không biết gì, chủ tính trời tính đất chi thì tính, họ cứ việc dạ, miễn còn dư đôi ba đồng đem về cho vợ đã là quý rồi.
Thường thấy những công-xi làm đường chủ nhân làm nhà gạch mua đất tư còn các bạn thì khố một vẫn hoàn khố một.
(1)Tạm hiểu là đường sơ chế
(2) một cách
gọi những người cộng tác; thực chất
là thợ
(3) tài ở đây không phải tài năng, mà là tiền
của.
Trích ở
bài Nghề làm đường ở Quảng Nam, Quảng Ngãi
Thực
nghiệp dân báo, 1923
Những cái gia truyền dần dần mất đi
Xét những thức quà của ta, thật có
nhiều thứ ngon, mùi vị rất dồi dào. Là sản phẩm của đồng ruộng của núi sông,
những thứ quà ấy là dấu hiệu sự thưởng thức của người mình, vừa tao nhã lại vừa
chân thật. Đó là những vật quý mà sự mát đi, nếu xảy đến, sẽ khiến người sành
ăn phải ngậm ngùi.
Nhưng người mình tham thanh chuộng lạ
đã bắt đầu khinh rẻ những thứ đáng yêu ấy, có cái ngon mà họ đã gần quên mất
mùi vị.
Một đằng khác, không ai chịu để ý và
hết sức làm cho mỗi ngày một hoàn hảo hơn lên, cải cách cho hợp với thời mới.
Những cái gia truyền dần dần mất đi,
những cái khéo léo không còn giữ được …
Thạch Lam
Hà Nội
băm sáu phố phường, 1940
Ngủ yên trên danh vọng
Đi với bánh đậu, còn có các thứ bánh
khảo, kẹo lạc, kẹo vừng.
Ngày trước, hiệu Ngọc Anh có tiếng khắp
kẻ chợ thôn quê; nhưng từ ngày Cự Hương
ở tỉnh Đông (1) dồn lên, thì ngôi bá chủ đã thay người.
Trong khi Cự Hương mỗi ngày một tiến bộ
trong cách tìm tòi, khiến cho bột bánh được mềm dẻo, nhân đậu được nhuyễn
trong, và cách trình bày được sạch sẽ
tinh tươm thì Ngọc Anh nằm ngủ trên cái
danh vọng cũ của mình, uể oải bán hàng cho khách. Hiệu đó hình như giàu rồi mà
lại …
Mà phần nhiều giàu rồi thì không hay cố nữa. Đó là cái tật chung của
người mình khiến cho không một công cuộc
nào phát đạt được lâu dài, cả từ trong cách buôn bán cho đến những công nghệ khác.
Tài làm bánh của người mình không phải là
kém cỏi. Cái thứ bánh dẻo Trung thu của Cự Hương không kém gì bánh của Tàu và các thứ bánh kem của Việt Hưng không thua gì bánh của Tây.
Ta chỉ còn thua cái chí nữa mà thôi; nhưng
như thế nghĩa là còn thua nhiều nhiều lắm.
(1) tức vùng Hải Dương
Thạch
Lam
Hà Nội
băm sáu phố phường,1940
Bôi bác, giả dối, chỉ cầu rẻ
Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác:
món quà bán thì cứ muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách còn
cái phẩm có tốt hay không, không quan tâm đến. Bát mằn thắn của người mình có
đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng
vịt. Mằn thắn làm rất to bột, nặn xuề xoà để trông càng to hơn, nhưng nhân thì
hết sức kín đáo và nhỏ bé vì được một tí thịt chỗ bàng nhạc (2) mua rẻ của các
hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều nữa, dềnh
lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo.
Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là
phải. Thế mà không. Khó mà lấy nhiều hoa mắt người ta được.
Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền,
đừng lừa dối người mua, của ngon thì người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản.
Đó là một sự thực giản dị trong nghề buôn
bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người mình không biết đến, làm tồi bán rẻ rồi
đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.
(2) bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.
Thạch Lam
Hà Nội
băm sáu phố phường, 1940
Người làm nghề không ngóc đầu lên được
Đời sống nông nghiệp vẫn ràng buộc sức phát
triển của công nghệ, mà những người làm nghề ở Việt Nam phần nhiều là nông dân
chỉ coi nghề của mình là một nghề phụ để kiếm thêm chứ không trau dồi cho nó
ngày một tinh xảo.
Lại thêm chính những người có nghề muốn
giữ nó làm của riêng không muốn truyền dạy cho người ngoài.
Dụng cụ thường thô sơ và y nguyên kiểu
xưa.
Tài khéo thường bị mai một. Vật liệu để
dùng thì cũng vẫn tìm quanh tại chỗ chứ ít khi phải mua tận nơi xa.
Cách chế tạo cũng chỉ theo phương pháp tổ
truyền, không mấy ai chịu thay
Lương Đức Thiệp
Lương Đức Thiệp
Xã hội
Việt nam, 1944
Không biết thích ứng với xã hội hiện đại
Tất cả các công nghệ cổ truyền đều chỉ có công cụ thô sơ.
Chúng không có nhiều cơ hội để phát triển:
thợ thủ công Việt Nam quả thật rất khéo léo và sẽ có thể trở thành những thợ mỹ
nghệ tuyệt vời nhưng họ rất thiếu nhìn xa nên không thể nghĩ đến việc đặt công
nghiệp của họ trên những cơ sở kinh tế hiện đại.
Họ
sống ngày nào hay ngày ấy và chẳng có khả năng gì chống chọi với sự cạnh tranh
của các vật dụng hiện đại được sản xuất
với số lượng lớn hơn nhiều mà lại được
nâng đỡ bởi một thị hiếu vừa dễ dãi vừa thất thường.
Nguyễn Văn Huyên
Văn minh
Việt Nam,1944
Việc tìm
tòi học hỏi và nền giáo dục của người Việt (I)
Trích từ
chuyên mục Người xưa cảnh tỉnh đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007 Các đầu
đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn
Nhắm mắt bắt chước điều không hay của cổ nhân
và ngại thay đổi
Người nước chúng ta sự tính lợi hại xét
hơn thua không rõ, cứ người sau thì làm theo những điều người trước hay làm.
Bởi vậy cho nên cả nước giàu không đặng giàu nhiều, nghèo thì nghèo đến đỗi
không áo không quần mà thay, rồi mỗi mỗi cứ đổ lỗi cho trời cho số, cho ngày
sinh tháng đẻ.
Cổ đạo (1) là những lẽ phải: có vua tôi, có
cha con, có anh em, có vợ chồng, có bạn hữu; nếu người nay mà trái những điều
đó mới mang tai (2).Chớ ví như đổi tục gian ra ngay, tục làm biếng ra siêng,
đổi dối ra thiệt, tục nghịch ra thuận, tục ngu ra trí, tục hèn ra sang, tục dơ
ra sạch, tục vụng ra khéo, tục trược (3) ra thanh, đổi như vậy thì là phải lắm.
Xin hãy coi gương người dị quốc (4), hoặc
phương đông phương tây, phương nam cùng phương bắc, người ta thường hay đổi hay
sửa, ít bắt chước những điều tệ của người trước; bởi vậy nay người ta thanh
lịch lắm. Nếu mà cứ theo tục sai không đổi thì quả là khờ và bị thiệt hại.
(1) đạo
lý cổ truyền;
(2)
chịu những điều khốn khổ, có hại
(3)
trược tức là trọc, có nghĩa là đục, không trong sạch
(4)
người các nước khác
Lương Dũ Thúc
Nông cổ
mín đàm, 1902
Dễ học cái dở
Người bổn quốc chúng ta lúc này cũng đã
có nhiều người thành thị lịch lãm về sự dinh dãy(1), cách ở ăn sạch sẽ, về lệ
luật phép tắc thông thạo nhiều; tôi chỉ không hiểu cho rõ làm sao mà thông thái
mau hết ức về việc xa xỉ, về lý tự bạo(2), mà không thông thái về cách tính
toán về phép thương cổ (3), không có thấy bày ra hãng buôn nào cho lớn làm nghề
nào cho to; vụ lợi (4) thì không làm, còn vụ hại thì thích lắm.
Trong năm mười năm tới nữa mà cứ không
buôn lớn và không học nghề chi cho giỏi, thì kẻ nghèo khó còn thặng (5) trên số
ngàn nữa.
(1) chỉ lối sống sang trọng
(2) chỉ tham vọng muốn trở nên ông kia bà nọ.
(3) buôn bán
(4) việc sinh lợi
(5) dư ra
Lương Dũ Thúc
Nông cổ
mín đàm 1902
Học thuật hủ bại
Cách học của ta trái phép sư phạm.
Tự lúc nhỏ cho đến lúc lớn chẳng qua chỉ
học trong hai khoa là luân lý với văn chương. Mà luân lý thì lại theo nghĩa hẹp
hòi, bó mình vào trong lễ phép, làm cho người ta không thể theo được.
Văn chương thì cũng phù phiếm, người nước
Nam mà bàn việc Nguyên Minh Đường Tống, ngồi xó nhà mà tả những cảnh Hoàng Hà
Thái Sơn, thực là ngồi Cầu Đơ mà nói chuyện quán Mọc (1).
Văn chương như thế thì thì vẽ sao được cái
chân cảnh tạo hoá mà cảm động được lòng người.
Ngoài khoa văn chương với luân lý thì
không còn khoa gì nữa, thể thao chẳng có, kỹ nghệ cũng không. Ai học rộng ra
đến thiên văn địa lý y khoa lý số một đôi chút đã cho là vạn sự xuất ư nho (2)
mà rút lại thì chẳng nghề gì là học cho đến nơi đến chốn.
Học thuật của ta hủ bại như thế, trách nào
mà tri thức của ta chẳng mờ mịt, văn minh của ta chẳng kém xa các nước.
(1) Cầu Đơ tên cũ của thị xã Hà Đông; quán Mọc
nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội
(2) Mọi chuyện bắt đầu từ ở đạo nho
Phan Kế Bính
Việt Nam
phong tục, 1915
Học để kiếm gạo
Đi học để kiếm gạo (1), tệ hại lớn lắm. Vì
cốt kiếm gạo thời cái mục đích đã dở; hoặc nhân vì mục đích đó mà sinh ra hay
giả dối, hay tham lợi riêng; cốt được gạo thời thôi, đạo đức mà chi, hợp quần
mà chi, ái quốc mà chi, trăm việc hỏng trớt.
(1) hiểu theo nghĩa rộng: chỉ cốt sinh lợi, có
tiền
Phan Bội Châu
Lời hỏi
các bạn thanh niên, 1928
Học để làm quan
Người nước mình từ xưa đến nay, cái tâm lý
đối với việc học là học mà đi thi; đi học cũng như đi buôn bán hay làm nghề,
cái mục đích chỉ là cầu lợi mà thôi.
Tiếng rằng nước mình tôn sùng đạo Khổng,
song đó là vì học đi thi mà tôn sùng, chứ không phải vì tôn sùng mà phải học.
Cho nên ngày trước triều đình thi Hán tự
thì người mình lo học Hán tự để lấy ông cử ông nghè; ngày nay chính phủ bảo hộ
thi Pháp văn thì người mình lo học Pháp văn để lấy ông tham ông phán.
Ngô Đức Kế
Nền quốc
văn, Hữu thanh, 1924
Học đòi vặt vãnh bỏ qua chuyện lớn
Quái lạ cho người đời, hễ ai bảo cải
lương lối nhà cửa ở, hay là cải lương cách ăn mặc bắt chước theo lối Âu Tây,
thời đua nhau như vịt; còn nhỡ ai khuyên bảo nên cải lương những thói xấu nết
hư - chốn hương thôn không nên tranh giành kiện tụng nhau, ở với bè bạn thời
phải giữ lòng trung tín - thời dẫu nói
rát cổ bỏng họng cũng chỉ lờ đi, chớ không thèm nghe.
Nguyễn Bá Học
Di ngôn,
do Nguyễn Bá Trác thuật, Nam Phong, 1921
Nặng tính hiếu kỳ
Cái tính hiếu kỳ là cái bệnh chung trong
lối học của ta, xưa kia học chữ Tàu, đọc sách Tàu, lâu dần quá mê chuộng mà
khinh rẻ những cái của mình.
Cái gì của Tàu cũng cho là hơn mà chịu khó
nghiên cứu, cái gì của mình cũng cho là dở là kém không thèm nhìn tới.
Thành ra núi sông đình miếu nước Tàu thì
biết mà núi sông đình miếu nước mình thời không hay; danh lam thắng tích bên
Tàu thì rõ mà danh lam thắng tích nước mình thì không tường; lịch sử địa dư
nước Tàu thì thiệp liệp (1), mà lịch sử địa dư nước mình thời mịt mù; phong tục
nhân vật nước Tàu thời tường tất mà phong tục nhân vật nước mình thời tối tăm.
Mà có phải mình thiếu gì cái đẹp cái hay,
cái đáng ngắm …
(1) cũng có hiểu ít nhiều
Dương Quảng Hàm
Học sao
cho phải đường, Hữu thanh, 1921
Thần trí bạc nhược, thiếu óc tự lập
Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả
nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thày trò chỉ ôn lại mấy quyển sách
giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm
học trò!
Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa
đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế...
Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu,
ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi, chưa mấy ai là rõ rệt có cái
tư cách --- đừng nói đến tư cách nữa hãy nói có cái hy vọng mà thôi –, muốn độc
lập trong cõi tư tưởng cả.
Như vậy thì ra giống ta chung kiếp (1) chỉ
làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược
quá không đủ cho ta cái óc tự lập.
(1) suốt đời
Phạm Quỳnh
Bàn về
quốc học, Nam phong, 1931
Như cái cây bị “cớm”
Địa lý, lịch sử, chính trị đều như hiệp
sức nhau lại mà gây cho nước ta một cái tình thế rất bất lợi cho sự học vấn tư
tưởng. Bao nhiêu những người khá trong nước đều bị cái tình thế ấy nó áp bách trong mấy mươi đời nên dần dần lập
thành một cái tâm lý riêng, là cái tâm lý ỷ lại vào người chứ không dám tự lập
một mình; trong việc học vấn thì cái tâm lý ấy là tâm lý làm học trò suốt đời.
Nước ta ở ngay cạnh nách nước Tàu, từ hồi ấu trĩ cho đến lúc trưởng thành đều
nấp bóng nước Tàu mà sinh trưởng, khác nào như
một cái cây nhỏ mọc bên một cái cây lớn, bị nó “cớm” không thể nào nẩy nở lên được.
Nhật Bản cũng là học trò của Tàu, cũng mô
phỏng văn hoá Tàu trong mấy mươi đời, nhưng họ biết lựa lọc kén chọn, họ không
có phóng chép một cách nô lệ như mình, cho nên tuy về đường tư tưởng vẫn chịu
ảnh hưởng của Tàu nhiều, nhưng họ cũng có một nền quốc học của họ dầu không rực
rỡ cho lắm, vẫn có đặc sắc khác người.
Đến như ta thì khác hẳn. Ta học của Tàu
mà chỉ học thuần về một phương diện cử nghiệp là cái học rất thô thiển, không
có giá trị gì về nghĩa lý tinh thần; mài miệt về một đường đó trong mấy mươi
đời, thành ra cái óc tê liệt đi mà không sản xuất ra được tư tưởng gì mới lạ
nữa.
Phạm Quỳnh
Bàn về
quốc học, Nam Phong, 1931
Con ma cử nghiệp giết chết sự học
Bệnh căn của cõi học ta xưa, một là vì
xã hội cẩu thả mà toàn mô phỏng, một nữa là vì kẻ học giả ham cái cận lợi (1)
khoa cử.
Trước khi vì học thuật nước nhà mà hy vọng ta phải hết sức từ bỏ căn bệnh cẩu thả đi,
trừ bỏ cái tính tự tiện tự khí đi (2). Không thì về xã hội lại cứ lười biếng a
dua không suy xét lựa chọn, không có cái tinh thần tự giác tự tín; về kẻ học
giả lại cứ tham cái cận lợi nhai văn nuốt chữ, lấy học đường của nước văn minh
làm con đường tắt hiển vinh. Bộ “ lều chiếu chõng lọ “ đã phá đập ở trường thi rồi, con ma nghiện cử
nghiệp lại bò vào nơi “mễ đỏ bảng đen” ám ảnh. Thì học đến bao giờ cũng chung
vô sở đắc (3); mà dù có sở đắc được tí gì cũng chẳng để ý đến.
(1) cái lợi trước mắt
(2) tự mình coi rẻ coi thường mình
(3) cuối cùng không thu được cái gì là của
mình
Nguyễn Trọng Thuật
Điều
đình cái án quốc học,1931
Có khoa
cử mà không có sự nghiệp
Nho học có lợi cho cái chính thể quân chủ
chuyên chế nên các đế vương nước ta lại
càng tôn sùng lắm. Cái chế độ khoa cử thật là một cái quà rất hại mà nước Tàu
đã tặng cho ta. Ngay bên Tàu nó đã hại mà sang đến ta cái độc của nó lại gấp
mấy lần nữa.
Người Nhật Bản họ hơn mình, chính là vì họ không mắc phải cái vạ khoa cử như mình. Họ bắt chước cái gì của Tàu thì bắt chước, chứ đến cái lối khoa cử thì họ không chơi. Đời Đức Xuyên (Tokugawa) cũng đã có một hồi thi hành cái chế độ hãm hại nhân tài nô lệ thần trí đó, nhưng sĩ phu trong nước họ không chịu nên cũng không thể bền được.
Người Nhật Bản họ hơn mình, chính là vì họ không mắc phải cái vạ khoa cử như mình. Họ bắt chước cái gì của Tàu thì bắt chước, chứ đến cái lối khoa cử thì họ không chơi. Đời Đức Xuyên (Tokugawa) cũng đã có một hồi thi hành cái chế độ hãm hại nhân tài nô lệ thần trí đó, nhưng sĩ phu trong nước họ không chịu nên cũng không thể bền được.
Ở nước ta thì đến hơn sáu trăm năm sinh
trưởng trong cái chế độ ấy, trách nào cái khí tinh anh trong nước chẳng đến
tiêu mòn đi hết cả. Ở Văn Miếu Hà Nội còn mấy dãy bia kỷ niệm các cụ đỗ tiến sĩ
về đời Hậu Lê, trong đó chắc có nhiều bậc nhân tài lỗi lạc, nhưng vì mài miệt về đường khoa cử, nên đều
mai một mất cả; tên còn rành rành trên bia đá đó, mà có sự nghiệp về đường học
vấn tư tưởng được như ai ?!
Phạm Quỳnh
Bàn về
quốc học, 931
Giáo dục hiện đại bị thương mại hóa
Đứa trẻ ở nhà đã không được trông nom dạy
bảo cho phải đường, đến trường lại bị giao cho những ông giáo phần nhiều chưa
biết làm một người cha, chưa được thành thục về khoa giáo dục, chưa có kinh
nghiệm về tâm lý học, chưa được thuần về tính nết …
Trong nước có biết bao nhiêu trường tư. Gia
dĩ mở một trường tư cũng không khác gì mở một hiệu buôn. Nhà hàng phải chiều
khách, các ông kinh doanh về tư thục – tôi nói kinh doanh mà không nói giáo dục
– muốn cho trường mình được vững vàng tức là muốn cho có nhiều lời lãi, tất
phải chiều theo thị hiếu của học sinh vốn là những khách hàng rất khó tính.
Thái Phỉ
Một nền
giáo dục Việt Nam mới, 1941
Thiếu niên hư hỏng
Đa số thiếu niên lầm tưởng rằng tuổi trẻ là
tuổi có thể nói hay làm bất cứ cái gì chướng tai gai mắt mà có tính cách vui
đùa, chẳng sợ ai chấp trách gì cả. Họ sỗ sàng cấc lấc. Họ nói bô bô ở ngoài phố
những chuyện người ta thường chỉ nói nhỏ ở trong buồng kín. Đứng trước những
bậc huynh trưởng, họ cũng vô tình buột ra những ngôn ngữ hay lộ ra những cứ chỉ
rất khả ố. Bị các báo chí hài hước và trào phúng làm hại, họ không còn coi cái
gì là nghiêm trang đứng đắn cả, họ hoài nghi tất cả. Cái gì đối với họ cũng như
trò đùa.
Gặp việc gì hơi khó nhọc, có tính cách trừu
tượng hay cần đến kiên nhẫn là họ ngại ngùng. Đi học, họ thích nghe thầy giáo
nói chuyện hơn là nghe giảng bài hay phải chép bài. Họ không thể và không muốn
nỗ lực. Ở nhà họ không muốn mó đến một công việc gì, dù là việc rất nhẹ nhàng.
Thái Phỉ
Một nền
giáo dục Việt Nam mới, 1941
Đỗ đạt là xong, không còn cầu học
Phải nhận rằng người mình không ham học
mấy. Thí dụ như người đỗ bằng tốt nghiệp, có công ăn việc làm thì thôi, không
chịu học thêm.Tôi cho thế là nhầm lắm. Người ta dạy cho bấy nhiêu là để cho
mình tạm đủ sức mà học lấy; khi ở trường ra mới là chỗ khởi hành, mình lại
tưởng đến nơi rồi. Nếu tôi được phép, tôi sẽ khuyên anh em thanh niên học rõ nhiều, vừa đọc văn
Tây, vừa học lại tiếng ta, vì phần
đông người ta mà viết văn ta còn sai nhiều lắm.
Nguyễn Văn Tố
Theo Lê Thanh, Cuộc phỏng vấn các nhà văn, 1943
Theo Lê Thanh, Cuộc phỏng vấn các nhà văn, 1943
Một nền giáo dục giết chết nhân cách
Phương pháp giáo dục ở ta cẩu thả thô sơ.
Xong mấy quyển sách sơ học thì thày đem ngay các sách Bắc sử (1) và Ngũ kinh Tứ
thư đại toàn ra dạy. Thày nhăm mắt mà giảng chữ nào nghĩa ấy, chỉ sợ sai mất
nghĩa của Tống nho; trò cũng nhắm mắt học cho thuộc lòng để đến khi hành văn
nhớ lại mà đặt để.
Phương pháp giáo huấn vụng về chật hẹp
như thế là do một nguyên nhân khác là chế độ khoa cử. Chế độ ấy cốt xô đẩy sĩ
tử trong nước vào đường cử nghiệp hư văn.
Triều đình lại cho những người khoa mục
nhiều điều vinh diệu quá đáng, nào trâm bào dạo phố, nào cờ biển vinh quy, cùng
là khắc tên ở bia đá bảng vàng để lưu truyền cùng hậu thế.
Học trò chỉ chăm học thuộc lòng một ít
sách vở, và lo lựa lời cho khéo, gọt câu cho chỉnh, miễn là lời văn cho bóng
bảy thì ý tứ dù là bã cặn của Tống nho cũng không can gì.
Cái thói trọng từ chương ưa hư văn đã
thành một thứ thiên tính của dân tộc ta. Với cách giáo dục ấy thì dù người
thiên tư lỗi lạc cũng phải nhụt đi, huống gì người tư chất tầm thường, thực là
một thứ giáo dục giết chết nhân cách.
(1) tức lịch sử Trung quốc. Sử ta thường gọi
là Nam sử
Đào Duy Anh
Việt Nam
văn hoá sử cương, 1938
Không có một nhà tư tưởng, hông có người khao
khát tìm đạo lý mới
Vô luận là vấn đề gì, về quốc kế hay dân
sinh cũng như về luân lý hay triết lý, kẻ sĩ nước ta đều thấy các thánh hiền Trung quốc giải quyết sẵn cho mình rồi, cái công phu của mình chỉ là thuật lại để thực hành cho xứng đáng
chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút gì.
Trái lại cái gì của Trung quốc có vẻ vĩ
đại hay cao siêu quá, thì chúng ta lại phải hãm
lại cô lại cho vừa với kích thước
khuôn khổ của chúng ta.
Bởi thế chính trong thời kỳ toàn thịnh của nho học nước ta,
người ta thấy có những nhà nho kinh luân
như Tô Hiến Thành, nhà nho anh hùng như
Trần Quốc Tuấn, nhà nho cao khiết như Chu An,
nhà nho khẳng khái như Nguyễn Trãi, mà tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà tư tưởng một nhà triết học nào.
Chúng ta chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để bắt chước thánh hiền mà cư xử và hành động cho hợp với đạo
lý chứ không có nhà nho nào dám hoài nghi bất mãn với đạo lý
xưa mà băn khoăn khao khát đi tìm đạo lý mới.
Đào Duy Anh
Việt nam
văn hóa sử đại cương * 1950
*Đây là bộ sách Đào Duy Anh viết ở Thanh Hóa những
năm kháng chiến chông Phap. Không phải Việt nam văn hóa sử cương 1938
Việc tìm tòi học hỏi và nền giáo dục của người
Việt (II)
Trích từ chuyên mục Người xưa cảnh tỉnh đã in
trên Thể thao và văn hóa 2005-2007 Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người
biên soạn
Khi học thuật kém cỏi lòng người sinh ra phù
phiếm, phong tục trở nên bại hoại
Học là gì, là học những điều chưa biết để
biết mà đem ra thực hành.
Ngày nay chúng ta lúc nhỏ thì học văn từ
thơ phú, lớn lên ra làm thì lại luật, lịch (1), binh, hình (2). Lúc nhỏ học nào Sơn Đông, Sơn Tây (3), lớn lên ra làm
thì đến Nam Kỳ Bắc kỳ. Lúc nhỏ thì học thiên văn địa lý chính sự phong tục bên
Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác hết rồi ); lớn lên ra làm thì lại dùng đến địa lý thiên văn chính sự phong tục của nước Nam, hoàn toàn
khác hẳn.
Còn biết bao nhiêu những việc như thế, mòn
bút khô môi cũng chưa kể hết.
Tuy Nhật Bản Cao Ly cũng đọc sách Tàu,
nhưng chỉ để làm vui, còn ra làm thì đều theo sách của nước họ -- chưa bao giờ
thấy họ học và dùng những gì mà mắt không trông thấy, chân không đặt đến như
lối học của ta.
Không có một nền học thuật sáng suốt thì
phong tục sẽ ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối phù phiếm trống
rỗng. Tập tục sẽ làm thay đổi con người, dù người tốt cũng không tránh khỏi ảnh
hưởng.
(1) Phép tính thời gian, một việc mà quan lại
ngày xưa phải biết
(2) việc xử tội
(3) Tên các tỉnh của Trung quốc
Nguyễn Trường Tộ
Tám việc
cần làm gấp, 1867
Nói láo nói linh
Ngày xưa ta nhắm mắt lại, một là văn minh
Tàu, hai là văn minh Tàu, bị độc khoa cử làm mờ ám trí khôn đã đành, đến ngày
nay đã hé mắt thấy người Tàu vận động nhiều việc rất to tát, như gửi học sinh
du học khắp hoàn cầu, như bỏ quân chủ lập dân chủ mà ta cũng an nhiên (1) bất
động, nhất thiết chẳng biết gì là gì.
Chẳng những thế mà thôi, lại còn mấy anh
sang Tàu về nói láo nói linh, chê người nọ hạch người kia, mà tự mình xem ra
cũng không có bản lĩnh gì cho người ta đủ kính phục, tinh chất(2) của người
Tàu không hề học đến, chỉ khéo đem
về một cái láu lỉnh và một cái bao tử trống .
(1) điềm nhiên, bình thản
(2 cái hay, cái tốt đẹp
Phan Châu Trinh
Đạo đức
và luân lý Đông Tây, 1925
Không học nên thiếu tư cách làm người
Người mình thiếu cái tư cách lao động
[của con người] ngày nay.
Nguyên nhân xa xôi (1) có nhiều, mà nhất
là không học. Đây nói học không phải thường cầm viết (2), ôm sách đi tới trường
như học trò. Không học nghĩa là không biết tập cách siêng năng kiệm ước (3) và
lo trau dồi cái nghề của mình cho tinh xảo, sửa sang tính nết của mình cho có
tư cách công nhân (4). Không học thì nghề đã không tinh mà tư cách cũng kém,
điều hư tật xấu không chừa, lời phải điều hay không biết bắt chước.
Còn cái nguyên nhân cụ thể (5) to nhất là ham chơi.
Nhân phong trào lao động thế giới hết bị
khinh rẻ như ngày xưa, nhiều người vào sở này, tới xưởng kia, tự xưng là làm
thực nghiệp, kỳ thực không chăm nghề gì không được việc gì, rày đây mai đó lỡ
dở thành người thất nghiệp.
Lại có kẻ du thủ du thực phóng đãng quen
nết, nay gặp sở nào thuê mướn làm công, làm mấy cũng không đủ tiêu, lại xoay
bày cách chơi bời cờ bạc mà quơ quét của bọn làm công, làm sâu mọt trong đám
lao động.
(1) Nguyên văn là viễn nhân. Nhân ở đây là
nguyên cớ nguyên do chứ không phải nhân là người. Chúng tôi dịch ra để đỡ mất
thời giờ của bạn đọc
(2) cầm
bút
(3)dè dặt và có chừng mực
(4) đây chỉ người làm việc nói chung chứ không
phải công nhân theo nghĩa hiện đại
(5) cận nhân
Huỳnh Thúc Kháng
Hai chữ
lao động, Tiếng dân,1930
Cái hay của người đến mình trở thành cái dở
Phương Tây thường nhờ cái nguyên lý của sự
lợi mình và chủ nghĩa riêng một mình (1) để phát triển được cái sức làm giàu
chung cho xã hội, nhờ cái nguyên lý ganh đua (2) nên sản nghiệp phát đạt và
khoa học tiến bộ.
Ở nước ta, nói tới sự ganh đua thì chỉ
muốn xâm chiếm người khác; nói về sự lợi mình và chủ nghĩa riêng từng người thì
bỏ cả hạnh phúc xã hội chẳng tưởng đến chi.
Có thể nói một câu là những đức tính tốt
ta dường như hết cả, mà chỗ hay của người chưa học được một chữ nào, những điều
góp nhặt được phần nhiều là chỗ kém của ta đấy thôi.
(1) ngày
nay hay nói nguyên lý tư lợi và chủ nghĩa cá nhân
(2) cạnh
tranh
Nguyễn Xuân Dương
Sự so
sánh về tư tưởng kinh tế Đông Tây An Nam tạp chí, 1931
Học
không biết cách, luật pháp hồ đồ, cương thường giả dối
Về đạo cương thường, cứ nói rằng ta thâm
nhiễm (1) của Tàu nhiều lắm rồi, nhưng tôi xét ra chưa có điều gì gọi là thâm
nhiễm cả.
Trong hết cả số người theo Nho học thì
hoạ là có mấy ông vào bực giỏi, hiểu biết được đạo Khổng Mạnh. Còn những bực
nhoàng nhoàng thì thường cứ thấy người ta học cũng học, học cho thuộc cách mà
thôi, chứ không có định trong bụng rằng theo những điều nào, kháp (2) đạo ấy
vào tính tình riêng của người nước mình nó ra sao...
Vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức (3) đi,
mà làm ra cả một pho luật mới chép tuốt cả của Tàu, cả từ điều nước mình có,
cho đến những điều mình không có, cũng bắt chước. Thành ra luật pháp cũng hồ
đồ, cương thường đạo lý toàn là giả dối, không có điều gì là có kinh có điển.
(1) ảnh
hưởng sâu sắc
(2) tức
khớp, ghép lại cho khít, cho phù hợp
(3) bộ luật cổ của nước ta có từ thời Lê, tham
khảo nhiều từ bộ luật của đời Đường
Nguyễn Văn Vĩnh
Đông
dương tạp chí, 1913
Không học được cách tư duy hợp lý
Người mình vốn có cái thiên tính dễ đồng
hoá, nghĩa là có tư cách(1), dễ am hiểu dễ thu nạp lấy những gì khác lạ với
mình, dễ đem những điều hay điều dở của người ngoài mà hoá làm của mình.
Nhưng cái tài đồng hoá đó thường thường
chỉ là cái khoé tinh (2), biết xem xét và bắt chước của người, phảng phất ở bề
ngoài, chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để (3), chỗ tinh tuý.
Cái cách đồng hoá dễ dàng thô thiển đó
thiết tưởng không phải là cái tính tốt.
Như học trò ta học rất mau, nhớ cũng rất
mau, nhưng chưa chắc đã hiểu được thấu, đã hoá được hẳn những cái người ta dạy
mình, và chưa chắc cái học tiếp thu được dễ dàng như vậy nó đã làm cho óc được
khôn ra, người được chín ra chút nào.
Có những người mặc thì mặc theo đúng mốt
tối tân ở Paris, nói năng ba hoa đi đứng đường đột; bề ngoài như vậy mà bề
trong nghị luận mơ hồ, tư tưởng lộn xộn, không có thống hệ (4), không biết bắt
chước lấy cái lối nói năng gãy gọn, biện lẽ phân minh như người Tây phương.
(1) nghĩa cũ: tài lực trình độ khả năng
(2) mánh khóe ranh ma
(3) gốc rễ
(4) ngày nay hay nói ngược lại: hệ thống
Phạm Quỳnh
Giải
nghĩa đồng hoá, Nam Phong, 1931
Không có học thuyết của mình
Về đường học thuật và tư tưởng thì xưa
nay ta chỉ có mấy lối học của Tàu truyền sang: trong đời nhà Lý và nhà Trần thì
sự học của ta theo lối huấn hỗ (1) của Hán nho và Đường nho, rồi từ đời Lê về
sau thì theo cái lối học của Tống nho.
Ta chỉ quanh quẩn ở trong phạm vi của lối
học ấy, chứ không thoát ly được mà sáng lập ra cái học thuyết nào khác.
Phần nhiều người trong nước lại có cái
tư tưởng rằng những điều thánh hiền nói ở trong các kinh truyện đã đủ hết cả
rồi, không ai biết được hơn nữa, cho nên kẻ học giả chỉ chăm chăm theo cho đúng
những điều ấy mà tiễn lý (2) thực hành, chứ không ai để ý mà tìm cho đến cái
chân lý nó thường lưu hành biến hoá.
Cũng có người đạt tới chỗ uyên thâm của
Nho giáo, song những người ấy lại cho rằng cáí học sâu xa là tự mình phải lý
hội (3) lấy, chứ không thể lấy văn từ ra mà tuyên bố được.
Bởi vậy các tiên nho ở ta chỉ làm văn thơ
để tả cái tính tình của mình mà thôi, không hay làm sách vở để phát minh tư
tưởng. Kết quả thành ra cái học Nho giáo thì rộng khắp cả nước mà cái học
thuyết thì không thấy có gì là phát minh vậy.
(1) lối học bám vào từng chữ để giải thích
(2) theo
cái lý vốn có
(3) hiểu
Trần Trọng Kim
Nho
giáo, 1930
Việc bắt chước dễ dãi thường gây nhiễu loạn
Tính bắt chước vốn là tính tự nhiên của
loài người, dẫu ở nước nào cũng thế cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt
rồi chỉ bắt chước lấy những điều có bổ ích thêm cho tinh thần ấy thì thật là
hay lắm.
Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần của mình
hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự hành động của người ta, thì sự bắt chước
ấy lại làm cho mình dở hơn nữa.
Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được
cái hình hài bề ngoài mà thôi, còn cái tinh thần ở trong, phi(1) lâu ngày nhiễm
(2) lấy được mà hoá (3) đi, thì khó lòng mà bắt chước được.
Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước
của mình chỉ là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình.
Có lắm người vọng tưởng (4) rằng mình cố
bắt chước được người ngoài là mình làm điều có ích cho sự tiến hoá của nòi
giống. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng quá lại thành cái độc, gây ra các
thứ bệnh cho xã hội.
Mà sự lầm lỗi ấy chỉ mỗi ngày một thêm ra
chứ không bớt đi được.
(1)
không phải
(2)
thâm nhập
(3)
biến dạng, tiêu hóa. Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu ghi: phàm vật này mất đi mà
vật kia sinh ra gọi là hoá
(4)
nghĩ lầm
Trần Trọng Kim
Nho
giáo, 1930
Mô phỏng lâu ngày quên cả sáng tạo
Từ Lê Hồng Đức bắt đầu gieo cái mầm cẩu thả,
rồi Mạc Trịnh lại càng tài bồi (1) cho thành cái rừng cẩu thả. Cẩu thả nên toàn
mô phỏng, mô phỏng thì không còn biết biến hoá nữa.
Như người học vẽ tranh mà làm cách lồng
phóng hay là can-ke (2) thì thế nào cũng không đúng.
Kỳ cạch mãi càng không đúng, bấy giờ khoanh
tay lại, lắc đầu le lưỡi mà rằng “Bức vẽ mẫu là thiên tài trời đã định, mà mình
là bất tài trời đã định”...
Bấy giờ dẫu có ai hoán tỉnh cho biết cũng
không tin, có ai biệt sáng biệt lập (3) cái gì cũng không thèm ngó tới. Rồi lại
sinh đố kỵ nữa, dân gian thì vùi dập của nhau đi, triều đại thì phá hoại của
nhau đi.
(1) vun đắp
(2) bắt chước một cách máy móc, tô lại như
nguyên mẫu
(3) sáng tạo, làm cho khác những cái đã có
Nguyễn Trọng Thuật
Điều
đình cái án quốc học, Nam Phong, 1931
Mình
lại rẻ mình, bản thân tự làm hỏng
Cách học muốn cho bằng người thì phải biến
hoá khác đi. Nay cứ toàn mô phỏng, thấy không thể theo cho bằng được, bèn sinh
lòng tự tiện (1), là mình tự khinh cái tài của mình; tự tiện quá rồi tự khí (2)
tự bỏ cái tài của mình, cho mình là đồ bỏ.
Mà đồ bỏ thật, vì học không có cái gì dùng
được như mẫu của người.
Cũng vì thế mà bao nhiêu cái hay không còn
gì nữa.
Trước khi vì học thuật nước nhà mà hy
vọng, ta phải hết sức từ bỏ cái căn bệnh cẩu thả, cái tính tự tiện tự khí.
Không thì về xã hội lại cứ lười biếng a dua không suy xét lựa chọn, không có
cái tinh thần tự giác tự tin. Về kẻ học giả lại cứ tham cận lợi (3), nhai văn
nuốt chữ, lấy học đường của nước văn minh làm con đường tắt hiển vinh, học đến
bao giờ cũng chung vô sở đắc (4).
(1) tự tiện đây là tự coi rẻ mình coi mình là hèn; khác với tự tiện có nghĩa làm theo ý thích hiện nay hay dùng
(1) tự tiện đây là tự coi rẻ mình coi mình là hèn; khác với tự tiện có nghĩa làm theo ý thích hiện nay hay dùng
(2 ) tự làm hỏng mình
(3) lợi ích trước mắt
(4) cuối cùng vẫn không có gì là của riêng
mình
Nguyễn Trọng Thuật
Điều
đình cái án quốc học, 1931
Tình nghĩa thầy trò bị hiểu sai lệch và bị lợi
dụng
Người ta ở đời nhờ có cha mẹ sinh ra mình
lại phải nhờ có thầy dạy cho mình, thì
mình mới khôn, biết việc này việc nọ, mới nên con người; cho nên học trò ở với thầy như con ở với cha
mẹ ấy cũng là một mối luân thường của Á Đông ta.
Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra
mấy thói dở. Kìa như các bậc đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ có ân đức giáo
hóa nhuần thấm đến người, thì người ta không nên quên đã đành. Còn như mấy ông
đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã
đi về các vùng quê tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ nửa mường nửa
mán (1) để hộ khẩu cho qua đời(2). Vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo, động một tí thì bổ
cho đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi nhà thầy có việc mừng vui, nào
khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão
làng, cũng lôi đồng môn ra mà bắt gánh vác, ấy lại là một cái mọt của thiên hạ.
(1) trong các bản
in VNPT gần đây, mấy chữ in nghiêng này thường bị gạch bỏ. Đây tôi lấy theo
bản của nhà Bút Việt in ở SG 2-1975
(2) hộ khẩu, từ cổ
có nghĩa kiếm sống. Còn qua đời ở đây không có nghĩa là chết mà là qua một kiếp
người
Phan Kế Bính
Việt Nam
phong tục (1915)
Chỉ lo nuôi không lo dạy
Những bậc cha mẹ ở nước mình đẻ con thì
muốn cho nhiều mà dạy con thì thật cẩu thả và biếng nhác. Những ông bố hoặc là
nhà kinh doanh, hoặc là người tòng sự các sở công sở tư, suốt ngày suốt tháng
đầu tắt mặt tối về sự mưu sinh, có lúc nào rảnh rang thì dành cho các cuộc tiêu
khiển như bài bạc hát xướng mà các ông cho là mình có quyền được hưởng sau khi
làm việc.
Đại để thì đẻ con ra, nuôi chúng như vỗ lợn
rồi xin cho chúng một chỗ ngồi trên ghế nhà trường, là tưởng đã làm xong cái
trách nhiệm của người cha rồi vậy.
Đến
những bà vợ…Thỉnh thoảng các bà rờ đến con thì liệu hồn những vú già vú em!
Con các bà không hề bị trừng phạt mà chính đầy tớ các bà lại là cái bia chịu
đạn.
Trong nhiều gia đình, sự thân mật quá độ
và lầm lạc đã hầu thành hỗn xược.Trước mặt cha mẹ, con cái nói năng chẳng dè
dặt chút nào. Họ nói với cha mẹ như với bạn.
Thái Phỉ
Một nền
giáo dục Việt Nam mới, 1941
Sẽ có lúc mất hết đạo lý?
Song song với vấn đề nghèo khổ, còn phải
giải quyết vấn đề giáo dục.
Khi ta tò mò đi vào các làng xóm ngày nay,
ta bị sửng sốt vì vẻ hỗn xược và thô lỗ của trẻ con nông thôn. Xưa kia hầu như
nơi nào cũng có một ông thầy đồ. Xung quanh chiếc sập của ông, lũ trẻ dù không
học được bao nhiêu chữ cũng đều nom thấy chiếc roi mây dài treo trên vác và nghe đi nghe lại câu răn dạy của đạo nho “Tiên học lễ hậu học
văn”.
Ngày xưa, thầy và bạn học bao quanh lũ trẻ
và ngăn chúng làm điều xấu.
Ngày nay chẳng ai chú ý đến chúng. Trong
vòng mười năm nữa, sẽ rất khó dắt dẫn cái dân tộc lúc đó đã mất hết đạo lý. Một
trào lưu cá nhân chủ nghĩa đã phát huy
hết hiệu quả của nó trong một số môi
trường.
Nguyễn Văn Huyên
Vấn đề
nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939
Không chú trọng học thuật sẽ thành dân tộc bỏ
đi
Dễ thường không có nước nào mà những người
tự nhận là học giả lại lạnh lùng với việc học như ở nước mình. Người mình vẫn
được tiếng là hiếu học, nhưng đúng ra chỉ là hiếu lợi và hiếu danh. Khi sự học
không đưa đến cho mình lợi và danh thì ít ai còn thèm màng đến nó nữa.
Cho đến ngày nay, trong một trăm người bước
chân ra khỏi nhà trường, không có lấy năm ba người để tâm vào việc học. Giữa
một vũ trụ đầy những sự huyền bí, người mình như khách qua đường bưng mắt mà đi
vì sợ mệt mắt. Tinh thần của mình bạc nhược như vậy không trách gì mình thua kém.
Đã thế lại còn kiêu căng. Thỉnh thoảng có
tấp tểnh bước vào rừng học thì cũng chỉ chạy theo những vấn đề to lớn, tựa hồ
như chỉ những vấn đề ấy mới xứng với tài trí của mình. Có biết đâu rằng tinh
thần học thuật ngày nay căn cứ vào lòng khiêm tốn.
Người ta đã mất công nghiên cứu mà nói ra
một điều gì cũng cẩn thận dè dặt. Người mình đã không chịu tìm tòi gì mà lại
thường cẩu thả.
…Nếu dân tộc này không bao giờ tự dựng lên
được một nền học thuật thì chẳng nói hai mươi triệu, có đông đến hai trăm triệu
cũng là một dân tộc bỏ đi, một dân tộc không có trên pho lịch sử văn minh loài
người.
Hoài
Thanh
Vấn đề học thuật nước ta chỉ là một vấn đề tâm
lý và luân lý, Sông Hương, 1936
Thị hiếu nhỏ mọn, và chất bi thương sầu cảm
trong văn chương
Trích từ chuyên mục
Người
xưa cảnh tỉnh
đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên
soạn
Thị hiếu tầm thường
Cái lý thú của nước Nam ta nhỏ mọn lắm.
Kìa cái đồng hồ từ tám mươi đời thì quấn vải
tây điều, kết quả găng. Nọ núi non bộ khéo chắp tỉ mỉ trong trồng cây uốn con
phượng.
Cầu quán con con, thuyền bé lí tí.
Câu đối với tranh thì hết tứ thời phong
cảnh lại đến thiên lý giang sơn.
Thi hoạ nhỏ nhen, thi chẳng ra thi hoạ
chẳng ra hoạ.
Giang sơn treo cửa sổ, sơn thuỷ để đầu
giường. Hoành phi câu đối thì chữ nghĩa đẹp phẩy mác hơn đẹp ý tình (1).
Đồ chạm đồ cẩn thì tỉ mỉ con dơi già quả mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn trọng khéo.
Đồ chạm đồ cẩn thì tỉ mỉ con dơi già quả mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn trọng khéo.
Ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề.
Nói tóm lại thì người Nam mình chưa cái
gì là cái khéo.
Mà càng bắt chước Tây bắt chước Tàu bao
nhiêu càng xấu bấy nhiêu.
Người mỗi ngày một hay, vi xảo là thông
ngôn ông Tạo hoá (2). Ta mỗi ngày một đổ (3), vi xảo là cơn hứng chí điên
cuồng.
Học chẳng phải mà bắt chước chẳng phải.
Xảo nghệ muốn noi theo ngoại quốc, là phải noi lý tưởng chớ không nên bắt chước
phù hoa. Kẻo mà khéo thêm ra chẳng thấy đâu, lại đang nghề nguyên lành hoá nghề
lang lố (4).
(1) phẩy mác là tên gọi các nét trong chữ Hán,
ở đây ý nói chỉ đẹp bề ngoài
(2) vi xảo: sự kỹ lưỡng khéo léo; ở đây ý nói
sự hoàn chỉnh của sản vật đạt đến mức như là tự nhiên sinh ra đã vậy.
(3) kém đi, hỏng đi
(4) Nghĩa như nhố nhăng
Nguyễn Văn Vĩnh
Đăng cổ
tùng báo, 1907
Văn chương phù phiếm, toàn giọng bi thương
Xét các lối văn chương của ta, vừa lối riêng,
vừa lối theo của Tàu, kể ra thì cũng nhiều và cũng đủ cách. Song hiềm vì trong
lối văn chương, phần nhiều là hay dùng cách tiểu xảo, đối chọi nhau từng chữ
từng ý, mà nhất là thơ hay tìm những
tiếng mong manh, những lời bóng bảy, khí nhỏ nhặt tỉ mỉ, kém khí hùng hào.
Vả lại hay chuộng lối phù hoa, quý hồ đặt
cho đẹp câu, đọc cho sướng tai, mà rút cục thì không có lý tưởng nào là cao lạ.
Lại còn một cách, nói thật là viển vông
huyền huýnh (1), khiến cho người nghe tưởng là cao kiến lắm mà kỳ thực thì toàn
là lời tưởng tượng, vu khoát (2); tựa như bức tranh vẽ của ta chỉ thấy nét xanh
nét đỏ vẽ rồng vẽ phượng, trông thì choáng mắt, mà té ra không có nét nào thực
cả.
Lại nhất là những điều ai oán những khúc bi
thương, những tiếng bổng tiếng trầm, thánh tha thánh thót như dế kêu, như ve
hót, ta thường cho là hay mà thực ra thì
là một thứ tiếng hèn mọn yếu ớt, không
cổ động được cái khí mạnh mẽ cho người
ta.
(1) xa xôi, mờ mịt (2) bịa đặt, không bảo là có
Phan Kế Bính
Việt nam
phong tục, 1915
Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu
nhược
Văn chương gọt từng tiếng khác nào như
người gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cái giò kia hãm cho thấp trông
thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động
vào đã gãy, để chưa mấy ngày đã úa. Cốt lấy cái khéo nhỏ nhặt làm mất đi cái
khí mạnh, gọi là “ nhu nhược chi văn chương”!
Phan Kế Bính
Việt Nam
phong tục,1915
Chỉ giỏi về văn thù ứng
Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ thì chăm về
văn khoa cử, khi đỗ rồi thì chăm về văn thù ứng (1). Có những người nổi tiếng
mà nhan nhản những bài hết tự tặng người này lại dâng người khác, té ra trời phú cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là để
đi thù phụng thiên hạ.. Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay, người An Nam làm văn
chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng và trong văn học chỉ sở trường
một cách jeu de mots (1) mà thôi, thì cũng chẳng quá nào !
Phan Khôi
Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta 1939
Tưởng thật mà hoá dối
Văn chương ta từ trước tới nay vì bó buộc
quá đỗi nên luôn luôn đi bên cạnh sự giả dối, sự bịa đặt. Nhà văn chỉ lo viết
thế nào cho đúng với lẽ phải của xã hội mà không cần đúng với sự thật tự nhiên
(1). Văn chương thành ra một cách để dối mình và dối người.
Cây trên rừng muôn ngàn lá không có hai lá
giống nhau. Trong rừng người cũng vậy, chưa từng thấy hai người hình dung giống
hệt nhau. Hình dung còn thế huống chi nữa tinh thần.
Văn chương ta có vẻ buồn tẻ nghèo nàn, các
nhà văn ta ít thấy khác nhau, vì họ tự dối mình, tức vì họ không đủ cái thành
thực để phô diễn tâm linh của mình, vì họ tự giam mình trong vòng khách sáo.
(1) Các nhà nghiên cứu hiện nay phân biệt 1/
cái tưởng là sự thật, đang được mọi người trong xã hội công nhận và 2/cái sự
thật đúng như nó có, song chưa được phát hiện và nhận thức thấu đáo; ở đây ý
nói nhà văn ta chỉ biết loại sự thật thứ nhất.
Hoài Thanh
Thành
thực và tự do trong văn chương, Tao đàn,1939
Khinh miệt cá nhân
Văn chương ta nghèo nàn. Những dây quan hệ
quá chặt chẽ nó ràng buộc mọi người trong xã hội. [Trong tâm lý cộng đồng], cá
nhân, cái bản sắc của cá nhân, là một điều huyễn tưởng, một điều không nên có.
Cá nhân chìm lấp trong đoàn thể như giọt nước trong làn sóng biển.
Một dân tộc khinh miệt cá nhân, không biết
đến cá nhân, không thể có được một nền văn chương phong phú.
Các nhà văn ta ít thấy khác nhau, chỉ vì
họ tự dối mình, vì họ không đủ cái thành thực để phô diễn tâm linh của mình, vì
họ tự giam mình trong vòng khách sáo.
Khách sáo chính là cái vỏ mà đoàn thể phủ
trên mình, trên linh hồn cá nhân. Về hình thức, khách sáo là những quần áo mũ
giày theo thời thượng. Về tinh thần, khách sáo là những tình ý thông thường ---
hay nói theo lối người Tây, những tình những ý vẫn chạy rông ngoài đường phố.
Hoài Thanh
Thành
thực và tự do trong văn chương, Tao đàn, 1939
Không tìm thấy
bản sắc
Nếu bây giờ có một người Đức, hay một
người Nga, hay một người Anh, muốn tìm trong các văn phẩm của chúng ta để xem
dân tộc Việt Nam cảm nghĩ thế nào trước tấn kịch thống thiết và náo nhiệt của
hai nền văn minh Đông Tây gặp nhau, hoặc trước thiên nhiên, trước nhân sự (1),
trước cái chết, thì người ngoại quốc ấy sẽ hoàn toàn thất vọng. Người ấy sẽ chỉ
nhận thấy trong phần nhiều các văn phẩm của ta, những cái máy truyền thanh rẻ
tiền nó nhắc lại tất cả những điều mà người ấy thừa biết tự bao giờ.
(1) Theo nghĩa dùng trước 1945, thì nhân sự
chỉ chung việc đời, chứ không phải là việc tuyển dụng, sắp xếp quản lý người,
như hiện nay.
Lan Khai
Thiên
chức của văn sĩ Việt Nam, Tao đàn, 1939
Phê bình nghĩa là nịnh nọt
Người mình xưa nay vẫn chưa quen chịu
người ta phê bình. Ai làm được quyển sách quyển vở nào, đem ra giới thiệu với
công chúng thì chỉ muốn khen, chứ không muốn người ta chê, rồi hễ thấy người ta
bẻ bắt điều gì là mích lòng và không hiểu rằng “Người dạy ta mà phải là thày
ta, người trách ta mà phải là bạn ta “.
Bởi vậy người phê bình cũng không muốn phê
bình, mà sự học cũng không tiến bộ được.
Trần Trọng Kim
Mấy lời
bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo, 1930
Nhắm mắt bắt chước cốt kiếm lợi
Làng văn làng báo ta, cũng như nhiều giới
khác, phần đông kém trí phán đoán, thường hay nhắm mắt theo người. Những cái bệnh ấy, không phải bây giờ
mới phát mà có lẽ nó là một chứng di
truyền đã mấy ngàn năm và ăn sâu vào mạch máu nhiều người ! Xưa học chữ Hán
không dám nói khác với những kiến giải của tiên nho, không dám đi trật ra ngoài khuôn sáo của tiên hiền, cắm
đầu nhai lại nhai lại những bã rả của cổ
nhân mà không nhớ đến thời gian. Nay xếp
đặt một tờ báo, chỉ muốn theo cho được một tờ báo Tây, từ cách dùng chữ đến lối
đặt câu, làm như dịch theo nguyên văn
của người ngoại quốc.
Hồi 1926-29, thấy một vài tờ báo một vài
cuốn sách đeo cái lá nhãn ái quốc, người ta cũng ùa ạt đổ xô làm nghề buôn
ấy, lúc nào cũng đạo mạo nói ra những
lời cổ động, những giọng hăng hái nhiệt thành.
Nhưng cạn ao bèo đến đất, những thứ văn
tự nhận là mang đầy tâm huyết ấy chỉ là
một lối đầu cơ kiếm lời.
Hoa Bằng
Vài cái
liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, 1942
“Tiểu thuyết của phường coi cổng”
Hiện bây giờ, những người gọi là
trí thức của ta đều đào tạo ở hai trường Tây và trường Tàu. Hạng đào tạo ở
trường Tàu – nói là hạng học từ chương
cử nghiệp cuôí mùa thì đúng hơn - bây
giờ tàn tạ rồi. Còn hạng ở trường Tây ra, vì phải uốn theo khuôn khổ Tây, không
thành người Việt nữa …
Không ở hai trường ấy ra mà lại
làm văn sĩ thì thành hạng văn sĩ quốc ngữ, hạng chẳng có trí thức chi chi hết,
chỉ múa mép láo mấy câu sáo cũ, mấy lời rỗng tuyếch chẳng có ích gì cho văn học, văn hoá một nước
nào cả. Văn sĩ ta bây giờ chỉ có thể rơi vào hai cái bị. Một là cái bị Tây là bị lơ lửng giữa trời, không tây
không ta; hai là cái bị quốc ngữ.
Cổ lai không có nước nào mà cái
nghề làm văn sĩ lại dễ dàng rẻ rúng quá như ở nước ta hiện giờ. Ta thử đọc
những cuốn tiểu thuyết bình dân, những cuốn tiểu thuyết bên Pháp gọi là “ tiểu thuyết của phường coi
cổng “. Đọc những cuốn ấy, ta thấy rằng tác giả của chúng tỏ ra là người có trí
thức ít ra cũng qua bậc trung học rồi nghĩa là có phổ thông trí thức rồi. Những
cuốn tiểu thuyết hay nhất của ta bây giờ, già lắm chỉ bằng những cuốn tiểu
thuyết của phường coi cổng bên Pháp mà thôi !
Nguyễn Triệu Luật
Làm sao
mà gây được một nền văn hoá riêng, Tao đàn, 1939
Nhiều
trò quảng cáo bỉ ổi
Người ta khoác bộ áo phê bình để thực hành
cái dã tâm tâng bốc lẫn nhau, quảng cáo lẫn nhau. Anh Giáp viết đến mấy kỳ báo
ca tụng “văn nghiệp “(!) của anh Ất (1); rồi anh Ất để thết lại, viết hàng mớ
bài tán dương về văn tài về tác phẩm của anh Giáp. Nhưng bạn đọc, giá chịu khó
tò mò đôi chút, sẽ biết rõ ngay hai anh ấy là bạn nối khố của nhau, lợi dụng tờ
báo để công kênh nhau lên chín tầng mây biếc. Đáng tức cười hơn nữa, cùng trong
một toà soạn, trong một đoàn văn, họ lại vẫn giở ngón quá chướng là phê bình
tác phẩm của nhau với một giọng khen ngợi hết lời, hoan hô nhiệt liệt.
(1) Cũng như ngày nay hay nói anh A anh B, anh
X anh Y
Hoa Bằng
Vài cái
liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, 1942
Những nhạc điệu rời rạc, ẻo lả
Âm nhạc Việt Nam hãy còn ấu trĩ. Nhạc khí
thô lậu chỉ đủ cho sự chơi cá nhân hay gia đình chứ không hợp với lối chơi công
cộng, lại không biết rõ khoa âm hưởng học (1) nên sự lựa chọn chắp ghép hoá hợp
cao độ của mỗi âm mỗi tiếng không theo một định luật nào cả. Nhạc phổ (2) không có, sự thống nhất trong các bản các
bài cũng thiếu hẳn. Bởi vậy thường cùng
một bài mà mỗi người chơi theo một cách, với những tiếng lèo tiếng đệm âm gió
thêm vào hay rút bớt đi, tuỳ ở sở thích riêng.
Nhạc cổ Việt nam chỉ gợi được những cảm giác
uể oải, yếu ớt bằng phẳng như cánh đồng lúa kéo đến tận chân trời. Sóng âm
không bao giờ đột ngột vút lên hạ xuống làm cho các giác quan bị kích thích
mạnh mẽ để nâng tâm hồn con người lên tới cái buồn thanh cao hoặc cái vui tráng
lệ.
(1) ở đây có lẽ tác giả muốn nói tới những hiểu
biết cần thiết giúp cho việc phối âm phối khí.
(2) bản
nhạc được ghi trên mặt giấy
Lương Đức Thiệp
Xã hội
Việt nam,1944
Nặng tính trang sức mà thiếu sức sống
Nghê thuật Việt Nam thường bị bó buộc
trong lề lối cổ. Phải tôn trọng những phép tắc xưa, cho nên nhà nghề tài giỏi
mấy cũng chỉ phỏng lại những hình thức
có sẵn cho khéo, chứ không được theo tự ý mà sáng kiến những cách thức mới.
Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là
người biểu diễn (1) ý chí tâm tình của mình, cũng không phải là người quan
sát và biểu hiện tự nhiên, mà chỉ là người giỏi bắt chước những kiểu mẫu sẵn.
Có muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo, chỉ cốt làm cho thật tỉ mỉ
thật tinh tế, thật dụng công, chỉ cốt xếp đặt các bộ phận cho xinh xắn lộng
lẫy. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Việt Nam là tính trang sức. Nó thiếu hẳn
hoạt khí, vì cách biến hóa tuy lưu động mà ở trong phạm vi hình thức, cách phối hợp tuy phiền phức mà ở trong phạm
vi thái độ chế kiểu.
Bởi thế mà nghệ thuật Việt Nam tuy có
tính chất lưu động (2) và phiền phức (3), nhưng thiếu hẳn hoạt khí (4), cách
biến hoá chỉ ở trong phạm vi hình thức.
(1) nghĩa cũ: trình bày ra ngoài
(2) theo ngôn ngữ thời nay, tức linh động,
lỏng, mềm mại
(3) rườm rà nhiều mối
(4) sức sống
Đào Duy Anh
Việt Nam
văn hóa sử cương , 1938
Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não
Sự đơn điệu tẻ nhạt của cảnh sắc thiên
nhiên, tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt của các nhóm người, sự phân
chia nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiến người Việt thiên về u
buồn và sầu não.
Cá nhân bị giam hãm một cách chặt chẽ và
giả tạo trong những khuôn khổ cứng nhắc như gia đình và làng mạc đến nỗi họ
không quan niệm nổi họ có khả năng hành động một mình.
Vì thế khi môi trường chung quanh không
còn giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông thường mà lễ giáo quy định, người
ta dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến mọi nỗ lực trí tuệ tiêu
tán.
Nền văn hoá vốn thấm nhuần lòng từ bi
Phật giáo cũng góp thêm phần dồn nén các dục vọng cá nhân. Rồi quan niệm siêu
hình của đạo Lão khiến nhiều tác giả thiên về một cái nhìn bi quan sâu sắc và
một sự mỉa mai chua chát.
Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ
hoài ngâm cũng như tác phẩm của Trần Tế Xương, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Khắc Hiếu
chỉ là những tiếng vọng của nỗi đau nhân loại.
Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn
thấy cùng những đề tài giống nhau về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản
ánh tất cả sự dồn nén tinh thần của cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn
thuở của một kiếp người bấp bênh, một cuốc sống chật hẹp.
Nguyễn Văn Huyên
Văn minh
Việt Nam 1944
Quan hệ giữa người với người: Tham lam ích kỷ
cạnh tranh nhỏ nhặt
Trích từ chuyên mục
Người
xưa cảnh tỉnh
đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên
soạn
Không ai hết lòng với ai
Tôi xem trong xứ ta tính người đổi nhiều
lắm, tục tốt ít ưa, tục quấy hay thích. Tục tốt là thương yêu nhau, thấy ai
mạnh thì vui, thấy ai khổ thì thương. Còn quấy là ganh hiền ghét nhỏ, dèm phải
đua quấy (1), thấy ai giỏi hơn, giàu hơn sang hơn thì không ưa, thấy ai dở hơn,
nghèo hơn, hèn hơn mình thì khinh bạc chê bai; những điều quấy như vậy xem ra
tiệm (2) đủ gần hết.
Coi ra cho kỹ thì ai lo phận nấy, ai chẳng
cần ai, sang với nghèo đãi nhau không hậu tình.
Tệ nạn mỗi ngày mỗi thêm, làm sao cho khỏi
bị người các nước khác khinh khi. Cũng bởi vì mình ở với nhau còn không phải
không tốt thay, hà huống gì với nước khác, bảo người vì mình sao đặng?
(1) đua quấy là hùa theo điều xấu
(2) tạm
Lương
Dũ Thúc
Nông cổ mín đàm 1901
Tham lợi dẫn đến vô cảm
Chứng bệnh [tham lam]ấy, người các nước
tuy có ít nhiều, nhưng người nước ta 25 triệu ai nấy cũng có.
Tục ngữ có câu: “Cơm ai đầy nồi nấy”, lại
có câu “thử thân bất độ, độ hà thân” (1), lại có câu rằng “Con vua vua dấu con
chấu chấu yêu”.
Đọc bấy nhiêu lời thì biết rằng trong ruột
người nước ta viết dọc viết ngang, vach xuôi vạch ngược chỉ có một chữ tham; mà
ở trong chữ tham chỉ có vài nét lợi riêng là vừa hết bút mực.
(1) thân này không cứu vớt thì cứu vớt thân
nào?
Phan Bội Châu
Việt Nam
quốc sử khảo, 1908
Không biết hợp quần
Người ngoại quốc coi thường dân ta, họ nói
rằng “không có nổi một đoàn một nhóm nào từ ba người trở lên “; câu nói đó
thoạt mới nghe tưởng là quá đáng, nhưng xét cho đến tình hình xã hội tinh thần
dân chúng thì thấy tan tan tác tác, rạc rạc rời rời, ghét nhau, ngờ nhau, ai lo
thân nấy, bảo rằng không có nổi một đoàn một nhóm ba người thật bụng với nhau,
thật cũng chẳng oan.
Phan Bội Châu
Cao đẳng
quốc dân, 1928
Ích kỷ và khôn vặt
Cái tật ích kỷ vốn là một thứ hay lây.
Trông thấy những vườn hoa cây cảnh ở sân nhà trường hay ở nơi đền chùa, hoặc
cạnh đường đi lối lại, đã không biết giữ gìn để làm một cái cảnh vườn chung
thì chớ, nhiều người lại còn đang tay bẻ tàn bẻ hại, để đem về nhà mà chơi
thích chí lấy một mình.
Cái chứng ích kỷ đã mọc ra, đến lúc lớn lên
thành ra một người đi đến đâu phá huỷ đến đấy.
Cũng vì lẽ đó mà dân An Nam không mấy khi
có được cảnh vui chung (1), ai có muốn chơi cảnh thì lại phải xây một vài cái
bể cạn hay là bầy mươi lăm cái chậu con để làm một khu vui riêng mà không
chung chạ với ai cả.
Dần dần nảy ra một cái tư tưởng đáng
cười, đáng khinh, đáng ghét, đáng sợ là hai chữ ích kỷ, mà một câu “ăn cỗ đi
trước lội nước đi sau “đủ vẽ hết được ruột gan.
(1) tức là không có các loại công viên hoặc
khu giải trí công cộng
Nguyễn Đỗ Mục
Đông
dương tạp chí, 1914
Chỉ biết cạnh tranh trong những việc tầm
thường, lặt vặt
Cạnh tranh là một cái tính phổ thông của
nhân loại, những bậc danh nhân kiệt sĩ đua tài chọi sức, chẳng là vì cái danh
thực mà cạnh tranh đấy ư? Những bậc phú hào bên các nước Âu Mỹ làm nên cho dân
được thịnh nước được giàu, chẳng là vì một cái lợi to mà cạnh tranh đấy ư?
Nay hỏi đến cách cạnh tranh của người mình
thế nào?
Đi học thì cạnh tranh nhau nhau cầu được
học bổng nhiều, mà trí thức rộng hẹp phẩm hạnh thấp cao lại không hề cạnh tranh
đến.
Làm quan thì cạnh tranh nhau cầu cho được
tiền nhiều chức lớn, mà đạo đức tốt xấu, chính tích (1) hay hèn lại không hề
cạnh tranh đến.
Ở trong làng thì cạnh tranh nhau chỗ ăn
chỗ ngồi, ngôi trên ngôi dưới, ngoài cái đó không hề so sánh hơn thua, ai thiện
ai ác, ai hiền ai ngu (2).
Ra ngoài đường thì cạnh tranh nhau kẻ khó
người giàu, manh quần tấm áo, ngoài cái đó không hề phân biệt ông hay là thằng,
bà hay là con nữa.
Làm ruộng thì cạnh tranh nhau tấc ruộng
thước vườn, mẩu bờ tí nước, mà đến những đồng bãi mênh mông, kể hàng ngàn hàng
muôn mẫu thì có ai nhìn.
Buôn bán thì cạnh tranh nhau luồn lỏi mua
cho được, mánh khóe bán cho trôi, mà đến những đại tôn giao dịch (3) kể trăm
thứ ngàn thứ hàng thì có ai biết.
Làm thợ thì cạnh tranh nhau bán rẻ phá
giá làm điêu (4), đỡ công mà chưa từng có được một cái đoàn thể đồng nghiệp cho
hẳn hoi, để khoáng trương (5) lợi ích.
Ấy sự cạnh tranh của người mình toàn có một cái mục đích nhỏ nhen hèn hạ như thế cả. Thế mà cạnh tranh hăng hái dữ tợn cũng chẳng khác gì người các nước họ cạnh tranh vì cái danh thực, cái lợi to.
Ấy sự cạnh tranh của người mình toàn có một cái mục đích nhỏ nhen hèn hạ như thế cả. Thế mà cạnh tranh hăng hái dữ tợn cũng chẳng khác gì người các nước họ cạnh tranh vì cái danh thực, cái lợi to.
(1) việc làm của các quan chức trong khi thi
hành công vụ, kẻ hay người dở.
(2) hiền ở đây có nghĩa người khôn ngoan có
đức hạnh chứ không phải là hiền lành, dễ dãi; và ngu có nghĩa ngược lại
(3) nguyên nghĩa đại tôn là dòng họ lớn, đây
chỉ những người có vai vế và nổi tiếng trong nghề.
(4) gian dối, man trá.
(5) tương tự như khuếch trương.
Dương Bá Trạc
Tiếng
gọi đàn, 1925
Vừa không thiết chuyện gì, vừa xét nét nhỏ
nhặt
Người nước ta, đối đãi với nhau một cách
nghiêm khắc, trách bị nhau những chuyện nhỏ nhặt. Ngoài sự hư danh, mối tiểu
lợi, nhất thiết hoài nghi cả, không thiết chuyện gì; phàm những sự nghiệp lớn
lao, những chủ nghĩa cao thượng cho là viển vông, không biết đem lòng ham
chuộng, không biết giốc chí theo đuổi.
Tật thứ nhất của dân mình là hay xét nét. Bới
lông tìm vết, người nọ dùng trí khôn để dò xét người kia. Xã hội như cái sa -
lông, đông khách ngồi, nhưng cứ rụt rè mà nhìn nhau, ngoài những lời thăm hỏi
vẩn vơ những câu hàn huyên vô vị, không gây nên được câu chuyện đượm đà hứng
thú.
Phạm Quỳnh
Hoàn
cảnh, Nam phong, 1924
Lợi dụng đạo nghĩa kiếm lợi
Theo tâm lý người mình thì ai ai cũng hiểu
rằng lợi là đáng khinh mà nghĩa là đáng trọng. Nhưng xem chừng như ít người đem
cái luật ấy ghép vào cho mình, mà lại đem ghép cho người khác ở chung quanh
mình.
Suy cái bụng họ ra, ý chừng họ muốn ai ai
cũng “uống nước trong làm việc” thì họ mới ưng; ai ai cũng “ăn cơm nhà mà đi
đánh giặc” thì họ mới cho là quân tử.
Các ông nhà buôn tinh ranh cũng chực lợi
dụng cái đạo lý ấy (tâm lý “trọng nghĩa khinh tài” - VTN chú) để lấy lợi.
Các ông ấy đưa ra những hàng xấu ra mà hô
lên rằng: “Của nội hóa đây. Các ngài phải có nghĩa vụ mua hàng nội hóa hầu để
khuyến khích công nghệ nước nhà “.
Rồi họ thừa dịp đó bán mắc muốn gấp hai
hàng ngoại hóa.
Phan Khôi
Cái ảnh
hưởng của Khổng giáo ở nước ta, Thần chung, 1929
Danh dự bị hiểu sai lạc và mang ra mua bán
Xã hội ta xưa nay coi mọi người ai cũng
như ai, bé thuộc quyền bố mẹ, lớn thuộc quyền vua quan; từ thuở nhỏ đến tuổi
già, xã hội đã chỉ sẵn cái đường lối nhất định cho mà theo, theo được đúng thời
xã hội đãi cho phẩm vị cho lợi quyền, và coi đó là danh dự. Thuận theo xã hội
ắt sẽ có danh giá. Được xã hội khen thời lương tâm có chê cũng vẫn là có danh
dự. Nhưng mà những cái ấy người ta có thể mua được cả. Danh dự đã là một thứ có
thể bán buôn thời giá trị không đáng bao nhiêu nữa.
Phạm Quỳnh
Danh dự
luận, Nam phong, 1919
Trông nhau để …yên tâm trục lợi
Xứ ta lâu nay việc giáo dục rất bơ thờ (1).
Những trường học dạy cho biết ba cái chữ
không đủ gọi là giáo dục được. Vì cái cớ không có giáo dục đứng đắn đó
mà người ta không biết trọng danh dự, không biết chuộng khí tiết, không biết giữ
nhân cách mình cho cao; đã vậy thì cái lòng ham danh lợi nổi lên mà cai trị cả
con người chúng ta, tùy nó xui giục đi đâu mình đi đó, ấy là sự mà chúng ta
không thể chối được. Coi kia rất đỗi người (2) học thức lão thành (3) mà còn
không khỏi bị nhử cái mối tài lợi, phương chi là kẻ khác !
Trong xã hội hay có thói ngó mặt nhau. Một người làm việc xấu, nhiều người khác thấy mà phân bì: sức như ông ấy đó mà còn làm bậy, huống chi mình – rồi thì tập nhau mà làm quen chẳng ai lấy làm chướng tai gai mắt hết.
Trong xã hội hay có thói ngó mặt nhau. Một người làm việc xấu, nhiều người khác thấy mà phân bì: sức như ông ấy đó mà còn làm bậy, huống chi mình – rồi thì tập nhau mà làm quen chẳng ai lấy làm chướng tai gai mắt hết.
Nghe những người đứng lên nói vầy nói khác chế báng một ông nào đó, ta
tự hỏi nếu đem thay người nói vào cái địa vị ông ấy thì sao? Không dám vội tin
rằng người thế cho ông ấy sẽ hơn được, vì người ấy vẫn thở chung một cái không
khí với đám quần chúng này.
Chúng ta trách một người vì mấy trăm đồng bạc mà bán mình, song có ai chắc đến lượt mình không bán. Sự dễ thấy nhất là trong quần chúng An Nam luôn luôn có kẻ bán cái ý kiến của mình, bán cái quyền lợi của mình .
Chúng ta trách một người vì mấy trăm đồng bạc mà bán mình, song có ai chắc đến lượt mình không bán. Sự dễ thấy nhất là trong quần chúng An Nam luôn luôn có kẻ bán cái ý kiến của mình, bán cái quyền lợi của mình .
(1) thiếu khí sắc thiếu sức sống
(2) lắm người
(3) đã tới trình độ thành thục
Phan Khôi
Trung
lập, Sài Gòn, 1930
Cách sống của kẻ cùng đường
Xã hội Việt Nam ngày nay đứng giữa những tấn
kịch, tâm lý phần đông chừng đã mất hẳn thú sinh nhân (1), trong óc lại nẩy ra
cái quái tượng, nhường bước cho ma dẫn lối quỷ đưa đường, mà chính mình không
rõ là người gì, sẽ làm việc gì, nay không biết mai.
Trừ những người có học thức, thì hạng tuổi
trẻ thất học, cùng bọn đã nghèo lại dốt không đường tự cứu và tự ủy (2), thói
thời không chừa sự bi thảm xấu xa gì mà không dám làm, nào cha con chú bác giết
nhau, nào vợ chồng thù ghét nhau. Mà nguy hiểm nhất là những đám lừa đảo trộm
cướp dùng thứ thủ đoạn mới, làm cho dân lương thiện không có chút tự vệ.
(1) niềm vui sống
(2) tự lo liệu
Huỳnh
Thúc Kháng
Cái hiểm
tượng loạn óc, Tiếng dân 1939
Mưu danh bằng cách hạ nhục kẻ khác Lắm kẻ, chỉ vì hám cái phù danh, đang
tâm lê gót giày lên trên tình bạn hữu, hạ chân lý xuống tận bùn đen. Tưởng mình
như thánh như thần, ngoài ra, nhất là những địch thủ, toàn là đàn chim chưa vỡ
bọng cả.
Chưa đọc hết, có khi không thèm xem qua bài văn của người khác, họ đã dài mồm chê bai.
Chưa đọc hết, có khi không thèm xem qua bài văn của người khác, họ đã dài mồm chê bai.
Chưa mở lấy một trang sách, chưa rờ đến
một tờ báo của bạn đồng nghiệp, họ đã
yên trí là viết không thành câu, hạ ngay những lời mạt sát thậm tệ
Trong khi trò chuyện, chỉ hết sức khoe khoang về mình; còn những người khác dù đã lập được biết bao chiến công trên trận bút trường văn, cũng chỉ đáng một con số không, theo ý họ.
Trong khi trò chuyện, chỉ hết sức khoe khoang về mình; còn những người khác dù đã lập được biết bao chiến công trên trận bút trường văn, cũng chỉ đáng một con số không, theo ý họ.
Hoa Bằng
Vài cái
liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, 1942
Chỉ biết lo thân
Công tâm (1) là một thứ khó tìm thấy ở mọi
người. Nghĩ cho cùng không nên trách dân
quê là thiếu công tâm, vì họ phải sống
trong một đời thiếu yên ổn về mọi phương diện bắt buộc họ phải nghĩ đến mình trước đã. Vả
chăng trước mắt họ nào có ai treo một tấm gương
sáng về việc nghĩ đến cái chung ?!
(1)
ngày nay có nghĩa ngay thẳng không thiên vị, nhưng trước đây hiểu là
sự lo lắng cho công việc chung
Vũ Văn Hiền
Mấy nhận
xét nhỏ về dân quê Bắc kỳ, Thanh Nghị, 1944
Bẻ queo những chuẩn mực đạo lý nhân bản
Trích từ chuyên mục
Người
xưa cảnh tỉnh
đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên
soạn
Lêu lổng qua ngày,
mất hết tự trọng
Dân nghèo ra thân đi làm tá điền, nói tiếng
làm ruộng, chớ kỳ trung đi kiếm ăn cho qua ngày tháng. Một năm mười hai tháng,
làm ruộng thiệt sự có bốn năm tháng, dư linh (1) làm gì ? Vì không có nghề trong tay, nên toàn rủ
nhau đánh cờ chó hoặc đi coi đánh bạc,
chà lết mòn quần rách áo. Dốt đặc hơn cả cá tôm, vụng về hơn trùn dế. Dân nước
khác tiếc tới giờ tới phút như tiếc bạc, dân nước mình phí ngày tháng như nước
trôi.
Uổng thay! từ già đến trẻ từ nam đến nữ đều
luống những đêm ngày. Nghe ai cho vay thì mừng hớn hở, hỏi rồi nào lo trông
trả? Vì vô nghề nghiệp nên mới sinh tệ trong xứ như thế. Làm người phải biết
thương cái thể diện của mình !
(1) ngoài ra
Trần Chánh Chiếu
Lục tỉnh
tân văn 1908
Trông đợi quá nhiều ở sự may rủi
Phương ngôn có câu rằng “may hơn khôn”,
chẳng qua là nhân một việc gặp may thì hơn thật; có phải là sự gì cũng kiêu
hãnh mà được đâu.
Dân nước ta nhân truyền tập (1) câu ấy làm
đầu lưỡi, mà không biết lẽ phải trái ra thế nào.
Học tài thi phận, người học trò đỗ tại
duyên trời; trông quả trồng cây, người làm ruộng chỉ
nhờ hòn đất; người đi
buôn gặp phiên chợ đắt thì may rằng ra ngõ gặp trai; người làm thợ gặp buổi công cao thì may
rằng áo vá gặp hội; cho đến làm việc gì tiện lợi thì mừng rằng
buồn ngủ gặp chiếu manh; làm việc gì gian truân thì than rằng chết đuối vớ phải cọc.
Ai cũng lấy sự may làm chắc mà không biết rộng trí khôn ra, một câu nói
làm lầm cho người ta lắm.
(1) trao gửi cho nhau, tiếp nối đời này sang
đời khác
Đặng Vũ
Kính
Đông
dương tạp chí, 1916
Thiếu tận tâm, tránh khó tìm dễ
Hễ mỗi khi người khách (1) ở nội xứ mình mà
họ lập điều chi, thứ nhất là xài tiền nhiều, thứ hai là kiệt lực tận tâm. Xem
ra thì nước mình không sức mà làm đặng, dầu có sức về việc tiền bạc (2) thì
thiếu tay làm, bởi vậy làm không đặng.
Sao mà người ta làm điều chi đặng hết, còn
người mình mỗi điều nào đều là khó hết? Ví như hiểu là tại mình không tận tâm,
tránh khó mà tìm dễ, thì xin một điều hãy trách và hờn lấy mình, sao mà đãi đoạ
(3) lắm vậy?
Theo ý mọn của tôi, hễ thấy người dị quốc
(4) làm điều chi phải và giỏi thì muốn ráng sức, bắt chước mà làm theo cho hơn,
nếu không hơn thì cho bằng; chớ để mà trầm trồ khen ngợi việc người còn mình bỏ
luôn bỏ hoang đi, thậm hổ (5) lắm.
(1) chỉ các Hoa kiều
(2) có đủ vốn
(3) biếng nhác
(4) nước khác
(5) cũng như xấu hổ
Lương Dũ Thúc
Nông cổ
mín đàm 1901.
Xấu làm tốt dốt làm thông
Chúng ta thừa thụ cái cơ nghiệp của tiền
nhân, sinh nở phồn thực ở đất nước này đã mấy nghìn năm đến nay lại gặp lúc
ngọn triều tiến hoá tràn khắp mọi nơi, thế mà không làm sao bước tới theo
người.
Mà chỉ mê mẩn tối tăm, ngu hèn dốt nát
đói nghèo khốn khổ, không dám ló đầu ra với mọi người.Nhất ghét là xấu làm tốt dốt làm thông,
mượn cái văn minh của người mà trang sức bề ngoài, kỳ thực trăm việc chẳng ra
gì, nhân cách một ngày một hư, phong tục một ngày một nát; ngọc vàng bề mặt, thối nát bề trong; văn minh chẳng thấy đâu mà càng ngày càng
thêm man rợ.
Nghĩ thấy Tổ quốc mình như thế thôi thì
không có việc mà bàn không có chuyện mà chép mà cũng không bàn làm gì không
chép làm gì.
Ngô Đức Kế
Hữu
thanh, 1923
Không
biết tôn trọng cả lợi ích công cộng lẫn lợi ích cá nhân
Sản nghiệp tài vật chung gọi là lợi ích
công cộng. Có những kẻ chiếm đường quan, phá hoại cầu cống, phá trường học,
công sở, đồ đạc trong thư viện, đèn điện trên hè phố, bẻ hoa ở công viên và vi
phạm quy ước chung. Nơi du hí hội trường nhà hát họ cũng tranh giành nhau làm
ồn ào náo động.
Phàm những kẻ mưu tiện lợi cho mình mà
bất tiện cho số đông đều không thể tha thứ được.
Những người tìm ra được một phương pháp
làm ăn truyền lại được một kỹ thuật khéo léo cũng phải lao tâm khổ tứ. Nếu
không có pháp luật bảo vệ quyền lợi khác biệt ấy, những người có tài sẽ sinh ra
chán nản lười biếng và sẽ chẳng có sáng
tạo mới nữa.
Ở các nước, những sáng chế mới mẫu mã kiểu
dạng mà sắc nhãn hiệu hàng hoá đều đăng ký ở các cơ quan hữu trách cho chuyên
dùng.
Người nước ta giỏi việc giả mạo, in ấn mô
phỏng, luật pháp trong nước không định, các quan địa phương cũng cho là không
cấp thiết, như thế mà mong xã hội tiến bộ được chăng?
Quốc dân độc bản, 1907
Những ham muốn tầm thường
Những ham muốn tầm thường
Đau đớn thay cho những người nước ta,
trước mắt không bao giờ thấy lợi chung, trong óc không bao giờ có tư tưởng cao
thượng, túi những chất đầy tham mà tham không mực, chẳng qua là nghiện hơi đồng
(1); hố vẫn lấp đầy dục (2) mà dục kỳ cùng, chẳng qua là hầu xác thịt; kết quả
đến nỗi hy sinh hết lương tâm thiện lý, mà làm nô lệ cho những món tư tình
(...) Vợ vì sẵn của mà hoá vợ hèn, con vì sẵn của mà hoá nên con dại, tiền bạc
hoá ra của phá nhà, ruộng vườn hoá ra mồ chôn sống...
(1) lấy ý từ câu Kiều: “máu tham hễ thấy hơi
đồng thì mê “
(2) lòng ham muốn
Phan Bội Châu
Cao đẳng
quốc dân, 1928
Giả dối thịnh hành, không biết nhìn ra sự thật
Một khối tình như tình cha con, mẹ con
không lẽ lại có một giống người nào không có. Văn chương ta không nói đến cùng
vì các nhà văn từ xưa đến nay chỉ chạy theo những điều giả dối, những điều bịa
đặt, không chịu nhìn sự thật.
Cái thói giả dối ấy thịnh hành đến nỗi
ngày nay ở các trường, các bạn học sinh ta mỗi lần phải làm luận (1), như phải
nhắc lại một điều ký ức hồi nhỏ chẳng hạn, thì ai nấy đều vội bịa ra một câu
chuyện tưởng tượng. Người ta không nghĩ rằng cái rực rỡ, cái dồi dào của tưởng
tượng, tài tình đến bậc nào mặc dầu, vẫn không sánh được với cái rực rỡ, cái
dồi dào của sự thật, nếu ta biết nhìn sự thật.
(1) Nay gọi là môn tập làm văn
Hoài
Thanh
Về văn học, xứ ta cũng còn là một đất hoang
Sông Hương 1936
Giải thich sai các giá trị
Danh dự là có tài có đức có công nghiệp
(1) có khí tiết thật, còn kẻ chạy theo hư vinh chỉ lo đâm đầu đâm đuôi chạy
xuôi chạy ngược để cầu cạnh chen chúc, làm sao cho có được cái mã ngoài ấy thì
tất là lộn sòng với cái chân giá trị.
Nào trong xã hội mấy ai là người biết cân
nhắc so sánh cái chân giá trị của người ta, mà vẫn thường lầm cái hư vinh là
cái danh dự thực!
Hỏi trọng gì, ắt là võng lọng cân đai; hỏi quý ai, tất là ông cả bà lớn; hỏi cái gì là sang, tất là xe ngựa lâu đài
ngọc ngà gấm vó hỏi cái gì là sướng, tất là ăn trên ngồi
trốc, nhận lễ thu tiền.
Rồi xu phụ khéo luồn lọt bợm để cầu vinh,
ấy là người giỏi giết người tợn tâng công khoẻ để cầu vinh,
ấy là người tài; lắm quan thày tốt, thần thế lo gì cũng
xong xin gì cũng được, ấy là anh hùng; nạt con em ức hiếp hàng xóm, anh làm ông
nọ, em làm ông kia, ấy là nhà có phúc; khao phẩm hàm, vọng ngôi thứ (2), ấy là
vẻ vang; cổ kim khánh, ngực mề đay ấy là danh giá.
Một người như thế, trăm người đều như thế,
đời trước như thế mà đời sau cũng như thế nốt!
(1) cũng tức là sự nghiệp
(2) nộp tiền hay lễ vật cho làng để có ngôi
thứ
Dương Bá Trạc
Tiếng
gọi đàn, 1925
Đạo lý ngược đời
Nước ta, đạo Khổng Mạnh dĩ đức báo oán
là chữ nhân;
dĩ tiểu sự đại là chữ trí;
ai chết mặc ai không học chữ kiêm ái;
dở khôn dở dại cứ giữ đạo trung dung
(1);
trải mấy ngàn năm vua tôi cha con quan
dân thày trò từ trên chí dưới cứ ở trong phạm vi cái đạo đức ấy đã gây nên một
nền văn hoá rất có đặc sắc cho đến ngày nay.
Này anh thử xem,
cúi đầu tận ngực phú quý không hay kiêu,
đánh bạc phá nhà tiền tài không biết lận (2);
thờ kẻ trên có lễ phép thì mồng năm ngày
tết đưa miếng tới quan;
đãi kẻ dưới có lòng thành thì chú bếp cậu bồi
ngồi xe chung cùng vợ;
cha mẹ nói ngang quan sang nói trái con dân cũng cứ phụng tùng (3);
ăn giỗ đi trước lội nước đi sau xã hội
chỉ theo trật tự .
Anh thử thắp đuốc văn minh mà soi khắp thế
giới coi thử có nước nào như nước Việt Nam ta không ?
(1)
đoạn này có ý mỉa mai, cho rằng người
mình thường hiểu sai đạo lý Không Mạnh. Những chữ nhân chữ trí cũng như chữ
kiêm ái chữ trung dung thật ra có nghĩa của nó trong tác phẩm kinh điển, đến ta
lại bị hiểu sai lệch và lắm khi đảo ngược.
(2) ăn gian
(3) phụng ở đây có nghĩa là tin theo, tùng
cũng là theo.
Võ Liêm Sơn
Văn minh
nước Việt Nam, 1929
Trung dung theo nghĩa nửa vời, trung dung cốt
để ngu dân
Trung dung thật là một cái thuyết lôi
thôi, mà xã hội ta chịu lấy cái ảnh hưởng trung dung ấy mà hóa ra một cái xã
hội ương ương dở dở, trắng không ra trắng đen không ra đen.
Ở đời thì quý cái cách không khôn không
dại; xử sự thì chuộng cái lối không mềm không cứng. Mua bán cũng trung dung,
hát giá (1) một quan, mặc cả năm tiền, dứt giá bảy tiền rưỡi, gọi là “bỏ hom
tranh” (2).
Làm ăn cũng trung dung: vốn một ngàn, có
thể làm ra ba ngàn, mới được hai ngàn cầm chừng không làm nữa, gọi là “giữ tay thước “ (3).
Vì giữ lẽ trung dung mà việc gì cũng
không dám làm thẳng tay: vua Tự Đức đã hòa với Pháp rồi, thì cứ ciệc hòa đi,
lại còn sai sứ đi cầu cứu bên Tàu.
Mai Xuân Thưởng khởi nghĩa thì cứ việc
khởi nghĩa đi, nghe Trần Bá Lộc bắt mẹ lại đem thân về chịu chết.
Té ra trung dung chẳng phải là cái gì
cả, chỉ là cái thai đẻ ra khiếp nhược, và là cái ổ chứa gian tà mà thôi.
Hiện nay ở nước Nam ta có nhiều cách làm
cho dân ngu đi, song duy trì hay là xướng minh cái thuyết trung dung ra là cách
diệu hơn thứ nhất.
Vì theo như cái thuyết trung dung ở trên
ba mươi sáu tầng trời của ông cháu thày trò họ Khổng thì chẳng ai theo được,
rốt cuộc lại rồi cũng chỉ “bẻ hom tranh,
giữ tay thước" mà thôi.
Cái trung dung ấy, nói cho tận mặt nó,
tức là cầm chừng, tức là ở cửa giữa, tức là thậm thà thậm thụt, tức là thủ cựu.
Cho nên hễ ai đem cái thuyết trung dung ra mà nói thì tôi cho là người ấy có ý
làm ngu dân.
(1) tức là ra giá, nêu giá
(2) cộng lại chia đôi
(3) ăn non
Phan Khôi
Cái
ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta, Thần
Chung, 1929
An nhần lẫn với đê hèn nhục nhã
Tinh thần thượng võ tuyệt nhiên không thấy
trong lịch sử ta. Cái ước muốn cao nhất của người mình là sống một cuộc đời an
nhàn, bình tĩnh, hưởng thú vị gió mát trăng thanh, cho dầu một đôi khi các thú
vị đó không khỏi lẫn đê hèn, nhục nhã …
Các văn sĩ ta xưa nay ngâm vịnh gì cũng ít
khi ra khỏi những cảm giác những tình ý nhẹ nhàng, yếu đuối. Văn chương ta có
thể nói là một thứ văn chương đàn bà.
Các nhân vật trong tiểu thuyết trong thi ca
ngày nay phần nhiều đều có vẻ ngây ngô. Những cử chỉ những ái tình của họ cũng
có vẻ ngây ngô.
Cái ưa thích này đã tỏ ra rằng dân tộc ta
là một dân tộc già.
Hoài Thanh
Cần phải
có một thứ văn chương mạnh mẽ hơn, Tiểu thuyết thứ bảy, 1935
Lười biếng và hay nói hão …
Tật đầu sổ là tật lười, tật làm biếng. Lười
suy nghĩ thích nhàn nhã, thích ngồi không. Nếu máu chúng ta chạy mạnh thì tất
chúng ta phải xung xăng làm cái nọ cái kia chớ vô vi thì chịu sao nổi. Vậy thì
trong văn học thôi ta đừng dùng cái khẩu khí hát cô đầu nữa; mà phải thế này:
cúc cung tận tuỵ.
Thứ hai là tật “một tấc đến giời “. Ngồi mà
thanh tịnh vô vi thì dễ hiểu vũ trụ lắm. Ta cho vũ trụ là thế nào thì vũ trụ sẽ
thế ấy chớ chi. Nhưng sự thật là ta phải đi nghiên cứu tìm tòi mới hiểu vũ trụ
được.
Một tật nữa là não huyền hoặc(1), não
chuộng thần quyền. Gần đây trong thơ văn có cái mốt nói chuyện Liêu Trai. Có
những thi sĩ nhất định lấy hồ ly làm vợ và nếu buông cụ Bồ Tùng Linh ra thì họ
không biết nói gì.
(1)não ở
đây là một lối suy nghĩ; nay hay thay bằng “óc “
Xuân Diệu
Sinh
viên với quốc văn, 1945
Giả dối, lừa lọc, kiêu ngạo, hiếu danh
Trích từ chuyên mục
Người
xưa cảnh tỉnh
đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên
soạn
Không biết giữ chữ tín
Không giữ chữ tín thì anh lừa tôi, tôi lừa
anh, trăm chuyện sẽ nát, tinh thần xã hội tan rã (...).
Bất tín lớn nhất: một là dối trá. Nhiều
người nước ta vụng trong đường mưu sinh (1) nhưng lại giỏi dối trá giả mạo.
Hai là bội ước các quy chế, chương trình,
mà lại làm ra vẻ tuân hành. Nói mười không giữ được hai ba. Ngay khi ký quy ước
đã không có ý thực hiện, cứ ký bừa, bất kể sau này ra sao. Cho nên quy ước chưa
ráo mực mà như đã bỏ đi.
Còn như ước miệng (1) thì chỉ là “nói láo
mà chơi nghe láo chơi “(3) Những thói xấu ấy đầy rẫy mà cứ điềm nhiên không cho
là quái gở.
(1) kiếm
sống
(2) thoả
thuận miệng
(3) câu
thơ cổ Trung Hoa, được dẫn trong lời mở đầu truyện Liêu trai
Trần Chánh Chiếu
Lục tỉnh
tân văn, 1908
Hiếu danh đến mất tự trọng
Dân ta là một dân rất hiếu danh, mà hiếu hư
danh, tật đó dẫu người nông nổi xét xã hội mình cũng đủ biết.
Từ trên xuống dưới, từ thấp chí cao -- từ
anh khố rách trong làng cố cầu cạnh cho được chức trương tuần phó lý để được
người ta khỏi gọi là bố đĩ bố cu; cho đến bậc phú thương nơi thành thị thi nhau
mà mua lấy tiếng ông bá ông hàn để ra mặt thượng lưu trong xã hội, cậu cả cậu
hai luồn lót hàng chục hàng trăm để được gọi là thầy thông thầy phán, -- hết
thảy đều như có cái ma lực nó run rủi, phải cố chuốc lấy chút danh tiếng hão
mới mãn nguyện.
Không có lòng danh dự mà có tính hiếu danh,
thời dễ táng thất(1) lương tâm. Quỵ luỵ khúm núm trước mặt người trên; châu
tuần (2) nơi quyền quý để cầu sự nọ, khấn việc kia, ví phải đập đầu xuống đất
mà lạy cũng cam tâm … Xét cái danh dự phổ thông trong xã hội, cái danh dự hàng
ngày hiển hiện ra trong cuộc giao tế, thời phải chịu rằng người mình ít có
thật(3).
(1) đánh mất
(2) loanh quanh
chầu chực
(3) có nghĩa, trên thế giới này, không có dân
nước nào lại có cách quan hệ với nhau như vậy.
Phạm
Quỳnh
Danh dự luận, Nam phong, 1919
Bệnh giả dối quá nặng
Tục ngữ có câu nói rằng “Trăm voi không được
một bát sáo “; lại có câu rằng “mười thóc không được một gạo”.
Xem đó mới biết tính chất người nước ta
chứng bệnh giả dối là một chứng rất nặng.
Sĩ (1) hay giả dối thì tìm tòi đạo lý
không cậy óc mà cậy tai (2);
nông hay giả dối thì cày cấy ruộng trưa
(3), không cậy người mà cậy đất (4);
công hay giả dối thì phấn sức lừa đời mà
không cầu thực dụng;
thương hay giả dối thì đua nhau bòn vặt
mà mất cả lợi to, thậm chí mướn đạo đức làm lối cầu danh mà trát vàng ở ngoài
mặt, mướn nhân nghĩa làm mồi cầu lợi mà xức mật ở đầu môi.
Chẳng những ngoài đối với xã hội trên đối
với quốc gia, gốc cây trăm năm đủ bị con mọt giả dối kia đục đổ, bức thành muôn
dặm đã bị con mối giả dối kia xoi (5) tan;
mà lại trong đối với một nhà, dưới đối
với một mình cũng mắc con ma bệnh giả dối đo đục thấu cao hoang (6), khoét vào
cốt tuỷ;
tay dối lòng, miệng dối dạ;
ăn bánh vẽ mà toan đầy bụng, mặc áo giấy
mà đi với ma, kết quả không việc gì là việc thật...
(1) từ đây trở xuống,điểm qua sĩ nông công thương là bốn loại người trong
xã hội
(2) ý
nói chỉ nghe hóng mà không chịu suy nghĩ
(3) mãi
trưa mới ra ruộng
(4) dựa vào đất đai màu mỡ chứ không dựa vào
lao động chăm chỉ
(5) làm cho thủng
(6) chỗ trọng yếu trong con người
Phan Bội Châu
Cao đẳng
quốc dân, 1928
Sợ mang tiếng chứ không phải sợ cái xấu
Tống nho dạy người ta phải thúc nhân quả quá
nghĩa là phải bó mình cho ít lỗi, chừng
nào hay chừng nấy.
Hạng quân tử ở nước ta mà tôi thấy, hầu hết ở trong cái phạm vi của Tống nho. Giữ mình đừng đánh bạc, đừng uống rượu, đừng mang tiếng xấu, ấy là họ kể chắc mình làm quân tử rồi.
Hạng quân tử ở nước ta mà tôi thấy, hầu hết ở trong cái phạm vi của Tống nho. Giữ mình đừng đánh bạc, đừng uống rượu, đừng mang tiếng xấu, ấy là họ kể chắc mình làm quân tử rồi.
Thế nhưng có phải họ giữ mình thật được như
vậy đâu. Trong đám họ có nhiều người giả hình làm bộ đạo mạo.
Sở dĩ giữ mình là chỉ sợ mang tiếng; nếu
khi thấy không ai biết việc mình làm, chắc khỏi mang tiếng thì việc bậy gì
chẳng làm. Ấy là hạng quân tử giả dối, tiểu nhân đặc(1).
(1)cũng như nói điếc đặc là điếc thực sự điếc
không còn chữa được nữa, tiểu nhân đặc tức là tiểu nhân chính hiệu.
Phan Khôi
Hạng
quân tử giả dối, Phổ thông,1930
Chỉ giỏi diễn trò trước mặt mọi người
Bọn thượng lưu trung lưu phần nhiều mượn
những lốt lễ nghĩa rất kỳ khôi của bọn tà nho để che miệng thế gian chớ không
có gì hiếu thuận cả. Khi tang ma, nào là nằm đường, nào là chống gậy, nào là
khóc mả, nào là ở dơ (1), nhưng kỳ trung có thương xót, có yêu dấu gì đâu, chỉ
đem một trò giả dối diễn ra trước mặt mọi người mà thôi.
(1) Những việc người xưa cho là khi cha mẹ
chết, con cái cần làm để tỏ ra là người có hiếu
Phan Châu Trinh
Đạo đức
và luân lý Đông Tây, 1925
Kiêu ngạo, hợm hĩnh, theo đuổi những cái hão
huyền
Kiêu ngạo lộ ra ngoài mặt là những kẻ làm
bộ làm tịch, ta đây kẻ giờ (1), khinh người bằng nửa con mắt. Lại có thứ kiêu
ngạo kín ở trong bụng, nghe điều trái tai không cãi, thấy điều chướng mắt không
chê, chỉ nói mát một câu hay cười nhạt một tiếng.
Có kẻ bụng dạ nhỏ nhen thì sinh ra kiêu
ngạo, hơi một tí đã có tính hợm. Vậy nên đấng nghiêng trời lệch đất không kiêu
ngạo bằng những kẻ đội lốt sư tử, tiền rừng bạc bể không kiêu ngạo bằng những
kẻ mầu mỡ riêu cua.
Có kẻ tư tưởng sai lầm thì sinh ra kiêu
ngạo. Ăn tàn phá hại lại tự cho là sang trọng vào nhòng, lừa dưới dối trên lại
tự cho là khôn ngoan chẻ vỏ (2).
Kiêu ngạo lại thường là một người ngu, ếch
ngồi đáy giếng coi trời bằng vung, vịt lội dưới ao chê sấm là nhỏ.
Kiêu ngạo không chỉ là cái cớ riêng của đám
người không có giáo dục mà còn tại tập tục và trình độ cả đám đông xã hội.
Còn người thì thào những canh thua canh
được thì con bạc mới sĩ diện đổ hào; còn người bình phẩm những cỗ to cỗ nhỏ thì
nhà đám mới lên câu thịnh soạn; còn người ước ao những tầm long tróc hổ(3) thì
thầy địa lý mới lên mặt chỉnh tôn; còn người mê mẩn những tính quỷ hồn ma thì phù thủy mới rung đùi đắc pháp (4).
(1) một thứ “ anh hùng thời đại “
(2)Vào nhòng chẻ vỏ là gì, chúng tôi chưa tra
cứu được
(3)Tìm rồng bắt hổ
(4) những chữ in nghiêng: một số tiếng lóng,
chỉ sự hoàn hảo cao độ mà đám bịp bợm trong các nghề thường mang ra khoe
Nguyễn Đỗ Mục
Gõ đầu
trẻ Đông dương tạp chí
Khiêm nhường giả, kiêu căng thật
Có sao nói vậy mới là ngay thật. Vẫn biết
tự khiêm là một nết tốt, song làm người có sự tự tin thì mới ra người. Cái chỗ
mình đã tự tin rồi mà nói ra không dám tỏ ý quả quyết, thì lại thành ra giả
dối, mất sự ngay thật đi.
Người nước mình đã giả dối có tiếng, mà
trong đám học thức, cũng lại giả dối quá người thường.
Thật bụng thì kiêu căng tự phụ, coi người
ta nửa con mắt, mà nói làm ra bộ khiêm nhường, theo lời tục nói, ở nhà như con
tép.
Cái sự tự khiêm giả dối ấy mỗi ngày một
thêm lêm, làm cho sự tự tin mất đi; dần dần chẳng có ai dám chịu trách nhiệm
trong việc gì hết, mà ai ai cũng thành ra hiền nhân quân tử hết, vì chỗ tự
khiêm đó.
Đó là cái bệnh di truyền mà Tống nho đã
để lại.
Phan Khôi
Sự ngay
thật của học giả, Phổ thông, 1930
Hay tự ái và thích chơi trội
Người Việt rất hay tự ái. Không mấy khi
họ thú thât nỗi cực nhọc từng phải chịu.
Nhưng tính tự ái thường đi đôi với tính
khoe khoang. Họ dễ kiêu căng.
Ở nông thôn vấn đề thể diện có một tầm
quan trọng xã hội hàng đầu. Người nông dân rất thích nổi bật trước mắt kẻ khác,
và thích nên danh nên giá.
Để chiếm được một vị trí tốt giữa những
người trong cùng cộng đồng, nói chung là để thoả mãn tính hiếu danh, họ chẳng
lùi bước trước một điều gì.
Họ sẵn sàng nhịn hẳn thịt cá và các món
ăn ngon lành trong cả năm, hay mặc những bộ quần áo vá chằng vá đụp, chỉ cốt để
có tiền tổ chức những bữa khao vọng linh đình nhân được thụ phong một loại bằng
sắc nào đó.
Nguyễn Văn Huyên
Văn minh
Việt Nam, 1944
Tinh thần voi nan
Còn những tật xấu riêng của người
Việt ta là gì? Chỉ cần kể ra đây một cái tật đại biểu, cái tật to lớn nhất, rõ
rệt nhất, có hại nhất là cái tinh thần mà tôi gọi là: tinh thần voi nan. Phải,
những con voi to lớn lắm, có đủ chân đủ vòi, nhưng nó ở trong bằng nan ở ngoài
bằng giấy.
Trong kinh tế những cái imprimerie
hay boulangerie univérselle (1) chẳng hạn là những cái nhà có dăm mươi thợ làm;
những đại thương cục (2) là những hiệu bán một ít khăn quàng bít tất; thì trong
văn chương nhiều quyển sách là những sự bôi phết qua loa chẳng đủ tài liệu mà
cũng chẳng nói ra được điều gì mới lạ.
Mấy năm nay, các bạn chắc cũng bị bị
cái mã khảo cứu nó đánh lừa; mua quyển sách về được cái bìa là có ý nghĩa.
Một bản dịch Ly tao mà đem điệu Sở từ dịch
qua loa ra lục bát là voi nan. Một tập sách nói nhảm dông dài mà gọi là tiểu
thuyết; một quyển sách gọi là Hát dặm Nghệ Tĩnh mà chỉ góp nhặt những bài hát
dặm vài huyện Nghi Xuân Can Lộc tại Hà Tĩnh, chứ chẳng thấy tỉnh Nghệ An ở đâu:
đều là voi nan cả.Voi nan để lừa độc giả, voi nan để làm tiền; kể làm sao xiết
voi nan!
(1) Tiếng Pháp chỉ các nhà in các cửa hàng
bánh mì lớn.
(2) giống như các trung tâm nọ trung tâm kia
thời nay
Xuân Diệu
Sinh
viên với quốc văn, 1945
Học đòi, làm dáng
Cái hiếu thượng (1) của số đông người
mình đã lộ rõ ở từ ngôn ngữ đến cử chỉ, từ hành vi trong gia đình đến động tác
ngoài xã hội.
Người ta chơi câu đối? Phần đông không phải vì thích chữ tốt yêu văn
hay, nhưng vì muốn sĩ diện ở mấy cái lạc khoản (2) có chức tước.
Người ta in danh thiếp ? Không phải vì cốt
thông tính danh, tỏ địa chỉ, song hình như chỉ cốt trưng những chức sắc, tước
trật, và phẩm hàm.
Người ta đăng cáo phó ? Có lẽ ít vì cốt để báo tang, nhưng phần nhiều cốt để lợi dụng cái chết của ông bà cha mẹ mà quảng cáo cái danh phận của con cháu.
Người ta đăng cáo phó ? Có lẽ ít vì cốt để báo tang, nhưng phần nhiều cốt để lợi dụng cái chết của ông bà cha mẹ mà quảng cáo cái danh phận của con cháu.
Cái bệnh hiếu thượng ấy truyền nhiễm đến cả
nữ giới làm cho lắm người cũng mắc lây. Một dạo ở xã hội ta nổi lên cái phong
trào phi cao đẳng bất thành phu phụ. Vì thế trong cuộc hôn nhân đã xảy ra lắm
chuyện buồn cười. Hoặc mượn văn bằng của người khác để đưa nhà gái sát hạch lúc
cầu hôn; hoặc giả làm nhà tòng sự suốt mấy tháng để nhà gái nếu có dò la vẫn
thấy sớm vác ô đi tối vác về.
(1) thích
hướng lên trên, tức hiếu danh, hiếu đại
(2) tự
đề tên họ chức tước ở một góc câu đối
Hoa Bằng
Hiếu
thượng, Tri tân,1943
Một nếp tư duy đơn sơ, tùy tiện
Trích từ chuyên mục
Người
xưa cảnh tỉnh
đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên
soạn
Kém óc khoa học
Trong đám trí thức chúng ta đã có nhiều kẻ
tự nhận mà tuyên bố lên rằng người Việt Nam thiếu óc phê bình, không có óc khoa
học. Rồi coi ai cũng thim thíp chịu cả, ai cũng làm thinh, không cãi lại.
Phải, chịu chứ còn cãi sao được!
Các sách Nho ta thường học mở ra thấy đầy
những chữ như là tam tài, tam quang, ngũ luân, ngũ hành (1) …còn bao nhiêu nữa
không kể hết -- mới nghe như là rành về óc phân loại lắm, mà kỳ thực nào có
phải.
Những chữ số mục trên một danh từ ấy, chẳng
qua bởi người ta thấy cái gì được đến đâu thì kể đến đó, chứ chẳng phải có chủ
ý làm một sự phân tích cho hợp với lẽ đương nhiên.
Trong lúc nền học thuật nước ta bắt đầu độc
lập, tôi thấy như ai nấy có khuynh hướng về văn học hơn khoa học.
Ấy là cái hiện tượng đáng cho chúng ta không
lấy làm mãn ý. Có người đã ví văn học và khoa học như hai cánh chim, chích (2)
một không bay nổi.
Chuyên chuộng văn học thì lâu ngày nó sẽ
thành ra vô thực dụng, cái gương Hán học hồi trước vẫn còn treo mãi cho chúng
ta.
(1) tam tài: trời, đất, người; tam quang: mặt
trời, mặt trăng, sao; ngũ luân: năm mối quan hệ là vua tôi, cha con, anh em, vợ
chồng, bạn bè; ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ
(2) Đại nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của
giải thích chích có nghĩa là lệch nghiêng; chích cánh là gãy cánh, còn có một
cánh, cũng là lẻ đôi, chích bạn
Phan Khôi
Người
Việt Nam và óc khoa học, Tao đàn, 1939
Óc tồn cổ
Trong làng, hễ động mưu công cuộc gì thoát
ra ngoài lề lối tục lệ trong làng người
ta đều bị coi như những sự quái gở, những tội ác đáng phạt.
Khi óc tồn cổ tha hồ còn hoành hành thì bao
nhiêu sáng kiến đều bị dìm dập.
Hoàng Đạo
Bùn lầy
nước đọng, 1939
Quá vụ thực trong tư duy
Coi
như nước ta văn hiến đã từ bao giờ, tuy những bậc hiền nhân quân tử chẳng thiếu
gì, mà trước sau gọi là bậc đại triết học có người nào? Chỉ vì cái quan niệm về
sự học vấn tư tưởng của các cụ ta ngày xưa vụ thực quá, học để mà làm chứ không
học để cho biết, cho nên sự học không ra ngoài phạm vi việc làm, không siêu
việt được lên cõi lý tưởng cao thượng thuần tuý như ở các nước văn minh khác,
đó cũng là một khuyết điểm trong văn hoá của ta vậy.
Phạm Quỳnh
Thư gửi
bạn,1919
Điều hòa với nghĩa … chắp vá bừa bãi
Điều hòa là một thói quen của người nước ta.
Người mình hễ ró ra (1) đâu là điều hòa đó,
cái trên trời, cái dưới đất cũng điều hòa phứt đi được.
Rượu thì pha rượu trắng với rượu chát; đầu
thì đùm tóc sùm sùm mà đội mũ; hết “Tây Nam đắc bằng” thì “Pháp Việt đề huề “ (2); tu thì tu tam
giáo; nực cười nhứt là đạo Cao Đài “nảy” kia thờ cả năm ông giáo chủ là Khổng
Tử, Lão Tử, Thích Ca, Gia Tô, và Mô-ha-mét !
Phải, việc dễ nhất trong thiên hạ là chỉ có điều hòa, điều hòa thì vô sự mà !
Sau cuộc chiến tranh 1914-18 ở bên Tây có
một số người hoảng hốt mà kêu lên rằng văn minh Âu châu đã đến ngày phá sản.
Rồi ở Đông phương cũng có một số người ó lên mà bài kích văn minh Âu châu.
Thuyết điều hòa có, một phần bởi lời đồn huyễn văn minh phá sản. Thật là sợ
hoảng, đúng như tục ngữ nói “Chưa giàu đã lo ăn cướp”.
(1) hiện ra, lấy ra (chữ được ghi trong Đại nam quốc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Của)
(2) Tên một tác phẩm của Hoàng Cao Khải và một
luận thuyết mà Phan Bội Châu thường được coi là bị xúi giục, đã trình bày trong
một bài tiểu luận trước 1925. Theo tôi
nhớ bài tiểu luạn này có tên là Dư thập
niên lai cửu trì chi chủ nghĩa.
Phan Khôi
Bác cái
thuyết tân cựu điều hòa, Đông Pháp thời báo, 1928
Áp đặt chuyên chế, mọi nơi mọi chỗ
Chẳng những vua quan chuyên chế, họ lại còn
kéo cả kẻ làm cha kẻ làm chồng vào cái cạm độc ác ấy nữa. Ôi hủ nho! Cũng vì
mấy câu tà thuyết của các người mà luân lý gia đình nước ta truỵ lạc đến thế
này!
Cha mẹ coi con như của, muốn thế nào thì
buộc con phải thế; không muốn đi xa, cũng không muốn cho con đi xa; luồn cúi
cửa ông lớn này ông lớn nọ thì cũng bắt con như thế.
Ấy là tôi nói mấy nhà giàu, còn như nhà
nghèo dạy con thì tát thì chửi thì đánh không biết rằng làm như thế là nuôi cho
con một cái tính phục tùng nô lệ.
Khi còn ở trong gia đình thở cái không khí
chuyên chế của gia đình, khi đến trường học thở cái không khí chuyên chế trong
trường học, thì làm sao khi bước ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ chịu luồn
cúi người?
Cái tính nô lệ của người mình ngày nay
chính là mang từ trong gia đình chuyên chế ra vậy.
Phan Châu Trinh
Đạo đức và
luân lý Đông Tây, 1925
Gọt chân cho vừa giày
Vô luận là vấn đề gì, về quốc kế hay dân
sinh cũng như về luân lý hay triết lý, kẻ sĩ nước ta đều thấy các thánh hiền
Trung quốc giải quyết sẵn cho mình rồi, cái công phu của mình chỉ là thuật lại
để thực hành cho xứng đáng chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút gì.
Trái lại cái gì của Trung quốc có vẻ vĩ
đại hay cao siêu quá, thì chúng ta lại phải hãm lại cô lại cho vừa với kích
thước khuôn khổ của chúng ta. Bởi thế chính trong thời kỳ toàn thịnh của nho
học nước ta, người ta thấy có những nhà nho kinh luân như Tô Hiến Thành, nhà
nho anh hùng như Trần Quốc Tuấn, nhà nho cao khiết như Chu An, nhà nho khẳng
khái như Nguyễn Trãi, mà tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà nhà tư tưởng một
nhà triết học nào. Chúng ta chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để bắt chước
thánh hiền mà cư xử và hành động cho hợp với đạo lý chứ không có nhà nho nào
dám hoài nghi bất mãn với đạo lý xưa mà băn khoăn khao khát đi tìm đạo lý mới.
Đào Duy Anh
Việt Nam
văn hoá sử đại cương, 1950
Chỉ suy nghĩ bằng khuôn sáo
Trong phạm vi học thuật, các nhà nho nước
ta chưa hề gây dựng được những tác phẩm vĩ đại, hoặc góp được công phu độc đáo
vào trong tư tưởng thế giới.
Vì rằng chỉ suy nghĩ bằng khuôn sáo tư
tưởng văn chương nước ngoài thì làm thế nào mà sáng tác được cho văn học quốc
gia.
Các cụ già cụ non vẫn tán dương Khổng học,
Hán học và Nho giáo, mà không biết gì là Nho là Khổng là Hán cả. Một nhà nho
nước ta đã phê bình “những người vì từ chương mà nổi tiếng thì gọi là danh nho,
nhưng tìm cho được người hiểu biết cái thực học nho giáo thì không có”.
Đây không phải là lỗi của họ, nhưng đấy
vẫn là một sự thực.
Đặng Thai Mai
Địa vị
văn hóa Trung quốc trong học thuật nước ta sau này, Thanh Nghị, 1945
Không chịu được
những tìm tòi phá cách
Chúng ta không có những nhà tư tưởng xây
dựng được những công trình huy hoàng phong phú.
Chúng ta chỉ cốt sống được, và trong địa
hạt sinh hoạt vật chất cũng như trong địa hạt tư tưởng nghệ thuật, chỉ nghĩ đến
cái gì có thể giúp cho mình thích ứng với hoàn cảnh ác liệt, để theo đuổi một
cuộc sống tầm thường kín đáo mà thôi.
Bởi thế nếu thỉnh thoảng có một người
nào có khí độ phóng khoáng, không chịu ép mình làm nô lệ thánh hiền mà vượt ra
ngoài vòng lề lối – mới vượt ra ngoài chứ chưa chắc đã xây dựng được cái gì mới
- thì xã hội đã xem là quái vật mà không dung.
Hoặc giả khi có nhà nghệ thuật thực hiện
được một cái gì to lớn phi thường như pho tượng thánh Trấn Vũ ở Hà Nội (1)
chẳng hạn, thì cái mái nặng nề của ngôi đền lại đè bẹp nó xuống ở trong bóng
tối mò của gian chính tẩm (2). Những cái thái độ và quan niệm xuất kỳ (3) ấy
thường bị cái tính thiết thực của dân tộc kìm hãm hay bài xích ngay.
(1) pho tượng này cao 3,95m, đặt ở chùa Quan
Thánh
(2) gian nhà to rộng ở giữa
(3) Bày ra kế lạ, có những tư tưởng mới mẻ
Đào Duy Anh
Việt Nam
văn hoá sử đại cương,1950
Bỏ cũ theo mới một cách nông nổi
Những người theo Nho học xưa nay thường hay trọng cái hình thức bề ngoài
thái quá để đến nỗi tinh thần sai lầm đi
rất nhiều. Người mình lại cứ quen một mặt thuận thụ (1) theo cái khuôn nhất định của tiền nhân để
lại, việc phải trái hay dở thế nào cũng chỉ ở trong cái khuôn đó chứ không
chệch ra ngoài được, sự phê bình phán đoán càng ngày càng hẹp lại, không biết
còn có tư tưởng nào nữa.
Đến nay thời cục đã biến đổi, khoa cử bỏ đi
rồi, sự học cũ không phải là cái cầu ở con đường sĩ hoạn nữa, thì Kinh Truyện
xếp lại một chỗ mà đạo thánh hiền cũng chẳng ai
nhắc đến.
Sự bỏ cũ theo mới của ta hiện thời bây giờ
không phải là không cần cấp, nhưng vì người mình nông nổi không suy nghĩ cho
chín, chưa gì đã đem phá hoại đi, thành thử cái xấu cái dở của mình thì vị tất
đã bỏ được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh tuý đã giữ cho xã hội ta được bền
vững mấy nghìn năm.
Cái tình trạng nước ta hôm nay là thế,
khác nào như chiếc thuyền đi ra biển, không biết phương hướng nào mà đi cho
phải.
(1) xuôi theo, tự nguyện chấp nhận
Trần Trọng Kim
Nho
giáo, 1930
Thói
quen cam chịu
Ở nhà quê, dù khốn khó đến đâu, nhiều
người cũng chỉ rên rỉ trong mồm chứ không gầm gào ra ngoài miệng, đôi khi nằm
bẹp chứ không chạy kêu như dân thất nghiệp bên Tây, nên không mấy người biết
tới. Đó cũng là nhờ được có cái tính di truyền lành hiền và ăn hèn ở khó đã
quen. Nguyễn Trọng Thuật
Hương
chính tình nghĩa, Nam Phong, 1927
Dễ dãi thô thiển thế nào cũng xong
Người An Nam vốn có cái thiên tính dễ đồng
hóa(1), dễ am hiểu, dễ thu nạp lấy những cái khác lạ với mình, dễ đem những
điều hay điều dở của người mà hóa (2) làm của mình ; nhưng cái tài đồng hóa đó
thường thường chỉ là cái khóe tinh (3), biết xem xét và bắt chước của người,
chỉ phảng phất ở bề ngoài chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để (4) chỗ tinh
túy.
Tỷ như thợ An Nam thì phóng chép tài lắm;
những hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu cách lạ đến đâu, họ cũng bắt chước được
như hệt cả.
Học trò ta học rất mau, nhớ cũng rất mau,
nhưng chưa chắc đã hiểu thấu đã hóa được những cái người ta dạy mình.
Một người trí não khô cạn, hay là vì không
được tiêm nhiễm những cái tinh hoa của nòi giống mà thành ra khô cạn đi – một người
như thế không thể không thể nào hiểu thấu được cái tinh thần của Tây phương. Có
đồng hóa chỉ đồng hóa được cái bề ngoài, chỉ bắt chước được cái hình thức.
Cái cách đồng hóa dễ dàng thô thiển đó
thiết tưởng không phải là cái tính tốt, mà có thể cho là cái tính xấu được.
Chưa chắc cái học tiếp thu được dễ dàng như vậy đã làm cho óc được khôn ra,
người được chín ra chút nào.
Đồng hóa một cách cấp tốc, một cách vô độ --
há chẳng phải là hại hơn lợi ?
(1) tiếp nhận
(2) biến
cải
(3) ngón nghề, mánh lới
(4) gốc
rễ, cơ bản
Phạm Quỳnh
Giải
nghĩa đồng hóa, Nam phong, 1931
Tùy tiện thay đổi, chỉ cốt có lợi
Trong lịch sử ta biết bao thế hệ nhà nho kế
tiếp nhau mài miệt trong sách vở của thánh hiền mà nào có sáng tác được gì đâu.
Ta không có một nền quốc học nếu quốc học
là học thuật riêng của nước. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, ta cơ hồ không có
sáng tác gì về học thuật. Ấy cũng vì ta kém óc trừu tượng khái quát, điều kiện
căn bản để phát minh về tư tưởng.
Người phương Tây rất ngạc nhiên thấy ta
hôm qua chỉ biết có Tứ thư Ngũ kinh mà hôm nay bỗng tin theo những thuyết rất
mới mẻ rất cấp tiến của khoa học hiện kim. Họ không biết rằng học thuật tư
tưởng không phải là những căn bản tinh thần của dân tộc ta. Tư tưởng nào có lợi
cho đời sống của dân tộc thì ta theo, nhưng một khi tình thế đổi thay, tư tưởng
ấy trở nên có hại cho đời sống chung, ta sẽ trút bỏ dễ dàng không tiếc hối.
Hoài Thanh
Có một
nền văn hóa Việt Nam, 1946
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét