Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục
Quyển Hạ
[44a1]
Dòng Pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi - Chùa Pháp Vân
40. THIỀN
SƯ Tỳ Ni Đa Lưu Chi1
Chùa
Pháp vân, làng Cổ châu, Long biên2. Người nước Nam Thiên trúc1, dòng Bà la môn.
Nhỏ đã mang chí xuất tục, đi khắp Tây trúc, cầu tâm ấn Phật. Nhân duyên đạo
chưa gặp, bèn cầm gậy sang Đông Nam .
1 Đối
chiếu với các tư liệu Trung Quốc: (vinitaruci)
(a) Lịch
đại tam bảo ký 10 tờ 102c3-9: "Tam tạng tháp sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi nước Ô
trượng, Bắc Thiên trúc. Tùy dịch là "Diệt hỷ". Khi đã nghe đức Hoàng
đế ta phục hưng Tam bảo, nên có thể không cho 500 do tuần là xa, bèn chống gậy
nhắm phương đến xem sự thạnh hóa đến mức nào. Bèn được mời vào, sai dịch kinh,
tức ở nơi chùa Đại hưng thiện dịch ra (kinh Tượng đầu tinh xá và Đại thừa
phương quảng tổng trì). Cấp sự Lý Đạo Bảo và thứ tử của Bát Nhã Lưu Chi là Đàm
Bì, hai người truyền dịch. Sa môn chùa Đại hưng thiện là Thích Pháp Toản từ
Trường an bút thọ thành chữ Hán, cùng chỉnh đốn so sánh văn nghĩa, Sa môn Ngạn
Tôn viết tựa cho cả hai".
(b) Đại
Đường nội điển lục 5 tờ 275a14-19 chép như (a)
(c) Tục
Cao tăng truyện 2 tờ 433b2-5 chép y như (b)
(d) Khai
nguyên Thích giáo lục 7 tờ 547c8-14 đại cương chép như (a) nhưng thêm chi tiết
là các kinh kể trên "dịch vào năm Khai Hoàng thứ 2 (582) Nhâm dần đời Văn
Đế", và thêm đính chính rằng "Trường Phòng tức (a) nói phiên dịch tại
chùa Đại hưng thiện là sai".
(e) Trinh
nguyên tân định Thích giáo mục lục 10 tờ 646a8-14 chép như (đ). So sánh các tư
liệu Trung Quốc vừa dẫn với nhau, ta thấy ngay một điểm bất thường nổi bật
ngay, đấy là việc Khai nguyên Thích giáo lục nói Lịch đại tam bảo ký ghi Tỳ Ni
Đa Lưu Chi dịch những kinh của ông tại chùa Đại hưng thiện là sai, nhưng không
nói rõ nếu đúng thì dịch chúng ở đâu. Lịch đại tam bảo ký do Phí Trường Phòng
viết xong năm 597, còn Khai nguyên Thích giáo lục do Trí Thăng soạn năm 730.
Việc Thăng phản đối Phòng về nơi dịch Kinh của Tỳ Ni Đa Lưu Chi rõ ràng muốn
nói rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi không bao giờ dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện cả. Ngược
lại, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch chúng ở những nơi khác. Nhưng nới khác đây là nơi
đâu, Thăng không nói. Do thế, Thiền uyển tập anh không phải là không có lý, khi
nói Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch kinh Tượng đầu ở Quảng Châu và kinh Tổng trì ở nước ta, dầu rằng nó có xuất hiện hậu kỳ. Từ
kết luận đây, những chi tiết khác liên quan đến Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Phòng ghi
lại vị tất là có thể đáng tin hoàn toàn. Sự thực, nếu Tỳ Ni Đa Lưu Chi không
dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện, thì việc "mời vào khiến dịch kinh"
khó có thể tin được.
2 Cương
mục chính biên 3 tờ 32a1-3 nói: "Chùa Pháp vân ở tại thôn Văn giáp huyện
Thượng phúc tỉnh Hà nội. Tương truyền một hôm mây mưa sấm chớp nổi lớn, cây si
ngã xuống, người trong thôn lấy gỗ nó khắc tượng dựng chùa thờ, nên có tên
đó". Xác định chùa Pháp vân như vậy, các tác giả Cương mục đã sử dụng tài
liệu của Bắc thành địa dư chí lục 3, theo đó "chùa Đại Pháp vân, Pháp vũ,
Pháp lôi, Pháp điện ở làng Văn giáp, huyện Thượng phúc". Nhưng đương nhiên
chùa Pháp vân nói tới đây không phải là chùa Pháp vân làng Cổ châu, Long biên,
mà thực ra chùa Pháp vũ hay chùa Thành đạo hay chùa Đậu, nơi thờ Pháp vũ. Vậy
chùa Pháp vân làng Cổ châu là chùa nào?.
Làng Cổ
châu, Long Biên, nay gồm đất làng Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh.
Tại làng này hiện có một chùa tên Diên ứng và một cây tháp tên Hoà phong.
Đại nam
nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tự quan viết: "Chùa Diên ứng ở xã
Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp
Điện rõ có linh tích. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín
tầng, cầu chín nhịp, di chỉ nay còn. Xét Pháp vân Phật truyện thì lúc Sĩ Nhiếp
làm Thái thú cai trị thành Luy lâu, sư Khâu Đà La ở tại núi xanh phía tây của thành. Có người con gái của Tu
Định là A Man bị Sư đụng đến, mà có thai sinh một đứa bé gái. Sư đem bỏ vào
trong một cây lớn ở rừng sâu. Sau gió mưa nổi lớn, cây trốc gốc, trôi nổi trong
sông, trôi đến bến Luy lâu. Người ta lấy làm lạ, vớt lên bờ, sai thợ đẽo bốn
pho tượng Phật, dựng chùa gọi là chùa Thiền định...tức nay chùa Diên ứng...,
đặt bốn pho tượng Phật phụng thờ. Sau mỗi lần cầu mưa đều có linh ứng, người ta
đặt tên Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện và Pháp Lôi. Thập Di ký của Lý Tế Xuyên
nói người Cổ châu mỗi năm đến ngày mừng Phật đản thì hội họp tại chùa Thiền
định. Trần Nghệ Tôn có ban mỹ hiệu. Sử nhà Lê chép: Năm Thái Hòa thứ 6 đời Nhân
Tôn sai Lê thái úy đến Cổ châu rước Phật Pháp vân về đến chùa Báo thiên ở kinh
Đời trần
Đại Kiến thứ 6 (574), năm Giáp ngọ2, Sư mới đến Trường an. Gặp lúc Chu Võ Đế
phá diệt Phật pháp3, Sư muốn sang đất Nghiệp4. Bấy giờ đệ tam tổ Tăng Xán vì tị
nạn, nên mang y bát ở ẩn trong núi Tư không5. Sư đến gặp Tổ, thấy cử chỉ phi
phàm, trong lòng phát niềm kính mộ, bèn đến trước, chấp tay đứng ba lần. Tổ vẫn
ngồi yên không nói. Sư suy nghĩ giây lát, bỗng nhiên lòng như có sở đắc, liền
sụp lạy ba lạy. Tổ gật đầu ba cái mà thôi. Sư lùi ba bước, thưa rằng: "Đệ
tử bấy lâu không gặp thuận tiện, nay nhờ Hoà thượng đại từ bi, cúi xin cho con
theo hầu hạ hai bên".
Tổ dạy
"Ngươi nên mau qua phương Nam
(44b1) giáo hóa, không nên ở đây lâu".
Sư từ
biệt ra đi, đến Quảng châu trác tích chùa Chế chỉ. Trải qua 6 năm, Sư dịch được
kinh Tượng đầu6 báo nghiệp sai biệt7. Đến tháng 3 năm Canh tý đời Chu Đại Tường thứ 2 (580), Sư đến nước ta ở tại chùa đó, lại
dịch ra kinh Tổng tri, 1 quyển (8).
Một hôm,
Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền dạy rằng: "Tâm ấn chư Phật
Tất
không lừa dối Tròn đồng thái hư không thiếu không dư8 Không đi không đến
Không
được không mất Chẳng một chẳng khác Chẳng thường chẳng đoạn Vốn không chỗ sinh thành
để cầu mưa".
Chùa
Pháp vân ở Cổ châu, Long Biên tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu tại xã Khương tự
huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh ngày nay.
1 Tức
nam Ấn. Nhưng các tư liệu Trung Quốc, đã dẫn đều nói người bắc Thiên trúc, tức
bắc Ấn
2 Nguyên
bản viết "Nhâm ngọ" là sai, Trần Đại Kiến thứ 6 năm Giáp ngọ.
3 Phật
tổ lịch đại thông tải 10 tờ 557a: Năm Giáp ngọ, Chu Vũ Đế, niên hiệu Kiến Đức
thứ 3 (574), tháng 5, ngày 17, xuống chiếu hủy Phật.
4
Nghiệp, bây giờ là kinh đô nhà Bắc Tề.
5 Tổ Tăng
Xán, sau khi được truyền pháp, đến ẩn cư trong núi Hoàn công, Thư châu. Gặp lúc
Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, ngài lánh sang núi Tư không, huyện Thái hồ sống
không nhất định một nơi nào, trải qua 10 năm...Đến Tùy Khai Hoàng 12 (592),
truyền pháp cho Đạo Tín. Xem Truyền đăng lục 3, ĐTK 2078, tr. 221c.
6 Các tư
liệu Trung Quốc, xem chú thích (1) trên đều ghi như nhau. Sư dịch 2 tác phẩm:
(a) Tượng
đầu tinh xá kinh 1 quyển (xem ĐTK.466). Chú thích của Trường Phòng (sđd.
102c1): "Năm Khai Hoàng thứ 2 (502), tháng 2 dịch. Bản dịch lần thứ 2,
cùng nguyên bản với kinh Già da sơn đỉnh (xem ĐTK.465)".
(b) Đại
phương quảng tổng trì kinh, 1 quyển (xem ĐTK.275). Ghi chú của Trường phòng
(sđd): "Khai Hoàng, năm thứ 2, tháng 7, dịch".
7 Nghiệp
báo sai biệt kinh, 1 quyển; gọi đủ là: Phật thuyết thủ trưởng giả nghiệp báo
sai biệt kinh, đời Tùy, Cù Đàm Pháp Trí dịch (xem ĐTK.80) Ghi chú của Trường
Phòng: "Khai Hoàng năm thứ 2, tháng 2, dịch..." Bản dịch của Tỳ Ni Đa
Lưu Chi phải chăng đã mất và chắc chắn nội dung không phải thuộc loại kinh này.
Bởi vì học lý của Tỳ Ni Đa Lưu Chi xuyên qua hai bản dịch trên, không thể nào
để cho ông dịch một tác phẩm với một học lý, như nó thể hiện trong bản dịch
Nghiệp báo sai biệt kinh ngày nay.
8 Tăng
Xán, Tín tâm minh tờ 376b 22-23: Viên đồng thái hư
Vô
khuyết vô dư Lương do thủ xả Sở dĩ bất như.
Cũng xem
Truyền đăng lục 30 tờ 457a 21-22.
Cũng
không chỗ diệt Cũng chẳng lìa xa Chẳng không lìa xa Vì đối vọng duyên. Nên giả
đặt tên
Bởi thế
chư Phật ba đời Cũng dùng như thế mà được Tổ sư nhiều đời
Cũng
dùng như thế mà được Ta cũng dùng như thế mà được
Ngươi
cũng dùng như thế mà được Cho đến hữu tình, vô tình
Cũng
dùng như thế mà được Vả, Tổ ta Xán công
Khi ấn
cho ta tâm đó
Bảo ta
mau Nam
hành giáo hóa Không nên (45a1) ở lại đây lâu Từng trải nhiều nơi
Mới đến
được đây Nay gặp phải ngươi Quả hợp huyền ký Ngươi khéo giữ gìn Giờ đi ta đến.
Nói
xong, Sư chấp tay mà mất. Pháp Hiền làm lễ trà tỳ, thu xá lợi 5 sắc, xây tháp
để thờ. Khi ấy là năm Giáp dần, đời Tùy Khai Hoàng thứ 14 (594).
Vua Lý
Thái Tông có làm bài kệ truy tán: "Mở lối sang nước Nam
Nghe ông
giỏi tập Thiền Mở bày niềm tin Phật Xa hợp một nguồn tim
Trăng
Lăng già vằng vặc Sen Bát nhã ngát thơm Bao giờ được gặp mặt Cùng nhau bàn đạo
huyền1
1 Kiến
văn tiểu lục 4 tờ 13a1-3 chép: Phi Tích lai Nam quốc
Và tặng
phong.
Văn quân
cửu tập thiền
Ứng khai
chư Phật tín
Viễn
hiệp nhất tâm nguyên Hạo hạo Lăng già nguyệt Phần phần bát nhã liên
Hà thời
tái đắc kiến
Tương dự
thoại trùng huyền.
Những
chữ in nghiêng là khác với chữ trong bản in 1715 ở đây.
Thế Hệ Thứ Nhất (1 người)
41. THIỀN
SƯ Pháp Hiền (? - 626)
Chùa
Chúng thiện, núi Thiên phúc1, Tiên du, người Châu diên2, họ Đỗ. Thân cao 7
thước 3 tấc. Ban đầu, Sư đến thọ giới cụ túc với Đại sư Quán Duyên, chùa Pháp
vân. Hàng ngày cùng với Tăng chúng nghe giảng về yếu chỉ của Thiền. Khi Tỳ Ni
Đa Lưu Chi (45b1) từ Quảng châu đến ở chùa đó, thấy Sư, nhìn kỹ vào mặt hỏi:
"Ngươi họ gì?"
Sư hỏi
lại: "Hoà thượng họ gì?"
Lưu Chi
lại hỏi: Ngươi không có họ sao?"
Sư đáp:
"Họ thì không phải không có, nhưng làm sao Hoà thượng biết?" Tỳ Ni Đa
Lưu Chi quát: "Biết để làm gì?"3
Sư bỗng
nhiên tự tỉnh, liền sụp lạy, bèn được Thiền chỉ. Khi Chi tịch rồi, Sư thẳng vào
núi ấy, tu tập thiền định, hình như cây khô, vật, ngã đều quên, chim bay đến
chầu, dã thú vây quanh. Người đương thời nghe tiếng đến học, không thể đếm
xiết. Nhân đó, Sư lập chùa, dạy dỗ học trò, Tăng chúng đến ở thường hơn 300.
Thiền học phương Nam
nhờ thế mà thịnh.
Thứ sử
Lưu Phương nhà Tùy đem tâu vua Cao Tổ rằng:
"Phương
này bấy lâu sùng kính Phật giáo, mà lại trọng Sư đức độ tiếng tăm".
Vua Tùy
sai sứ ban cho 5 hòm xá lợi của Phật cùng điệp sắc, sai Sư dựng tháp cúng
dường4. Sư xây tháp tại chùa Pháp vân ở Luy lâu1 và những chùa danh tiếng ở các
châu Phong2, Hoan3, Trường4, Ái5.
1 Tức
núi Tiên du ở xã Phật tích, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh. Xem chú thích (1)
truyện Thiền Lão.
2 Cương
mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: "Huyện Chu diên, đời Hán đặt thuộc quận
Giao chỉ, đời Đường đổi làm Diên châu, đời Lê ở
phủ Tam
đái, nay tức đất phủ Vĩnh tường, tỉnh Sơn tây".
Nhưng cả
Tùy thơ 21 tờ 7b8 lẫn Cựu Đường thư 41 tờ 42b11 đều nói Chu diên là đất Vũ bình
thời trước. Ngoài ra, Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 13a1 và Thái bình hoàn
vũ ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu diên ở về phía đông nam của trị phủ Giao châu, mà
sau này Độc sử phương dự kỷ yếu 112 tờ 8a3 chép lại, nghĩa là Chu diên ở về
phía đông nam của thủ đô Hà Nội ngày nay. Phần đất của nó như vậy bao gồm trong
tỉnh Hưng yên. Kết luận này tỏ ra hợp lý, bởi vì đất Quận Bình, chúng ta đã
đồng nhất với đất những huyện Tiên lữ, Ân thi, Khoái châu, Kim động, Phù Cừ,
tỉnh Hưng Yên. Xem chú thích (2) truyện Tịnh Lực.
Hơn nữa
truyện Đạo Lâm tờ 66b3 nói Lâm, người Cửu cao, Chu
diên. Cứ Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 thì Cửu cao là tên một ngôi làng
thuộc "hạt Gia lâm", nơi xuất thân của những tiến sĩ Trần Văn Bính
khoa năm 1505, Vũ Hữu Nghiêm khoa năm 1514 v.v..., và khoảng đến năm 1706 thì
đổi thành làng Thượng tốn, khi có Đỗ Công Đỉnh đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân. Như thế, địa phận của Chu diên đời Lý
phải gồm luôn tối thiểu phần đất phía đông nam của huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh
ngày nay.
Từ đó,
quê của Pháp Hiền tất phải nằm khoảng huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh cho đến
những huyện phía bắc tỉnh Hưng
yên.
3 Tham
chiếu Truyền đăng lục về cuộc đối thoại đầu tiên giữa Đạo Tín và Hoằng Nhẫn:
"Một hôm Tín đến huyện Hoàng mai, giữa đường gặp một đứa trẻ cốt tướng kỳ
vĩ, khác với trẻ thường. Sư hỏi: "Con họ gì?" Trẻ đáp: "Là họ
Phật." Sư hỏi: "Ngươi không có họ sao?" Trẻ đáp: "Tánh
không vậy". Sư lặng biết nó là một bậc tài giỏi của đạo, liền sai người
hầu đến nhà nó gặp cha mẹ, xin cho nó xuất gia. Cha mẹ cho là có duyên xưa, nên
không có chút vẻ làm khó khăn, liền cho đi làm đệ tử, có tên gọi Hoằng
Nhẫn". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 222b10-16.
4 Tục
Cao tăng truyện 18 tờ 573b25-c14 trong truyện của Đàm Thiên ghi rõ là vua Tùy
Cao Tổ ban xá lợi gồm cả thảy ba lần. Lần đầu cho 30 châu chỗ ở hơn ba mươi
châu vào tháng 6, năm Nhân Thọ thứ nhất (601). Lần thứ hai cho 51 châu khác vào
tháng giêng năm sau. Và lần thứ ba vào tháng giêng năm Nhân Thọ thứ 4 (604), ra
lệnh các châu lớn xây thêm hơn một trăm bảo tháp, để nhận thêm xá lợi. Cứ Xá
lợi cảm ứng ký trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 thì lần ban xá lợi thứ
nhất, chùa Thiền chúng của Giao châu được chọn làm một trong 30 chỗ xây tháp
của Cao Tổ. Nhưng năm đó, cứ Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư 4 tờ 23a1-8 và
Tùy thư 2 tờ 10a6-7, nước ta hiện đang là một nước độc lập dưới quyền lãnh đạo
của Lý Phật Tử, thì làm sao Cao Tổ có thể ban xá lợi qua được. Hơn nữa, nếu
việc dẫn Pháp sư Đàm Thiên truyện ở trên của Thông Biện có thể tin được, thì
hai năm sau, tức 504, khi mà chính quyền dân tộc của Lý Phật Tử đã bị Lưu
Phương đánh dẹp, và khi mà Cao Tổ có những báo cáo
{Việc
này nói rõ trong truyện của Thiền sư Thông Biện} Về sau, năm Bính tuất Đường Vũ
Đức thứ 9 (626) (46a1), Sư thị tịch.rõ ràng về tình hình Giao châu, Cao Tổ đang
còn lo cho việc Giao châu được giáo hóa theo Phật giáo. Nếu vậy, Giao châu làm
gì mà được chọn làm một chỗ thanh tịnh giữa 30 mươi chỗ khác của Trung Quốc?
Cho nên, chắc phải sau năm 602 khi Lưu Phương đã dụ hàng thành công Lý Sư Lợi,
người con nối nghiệp của Lý Phật Tử, thì mới có chuyện ban xá lợi cho Giao
châu. Việc ban năm hòm xá lợi cùng một lần do thế là một có thể, và việc Pháp
Hiền chọn chùa Pháp vân, chứ không phải chùa Thiền chúng của Xá lợi cảm ứng ký
làm nơi xây bảo tháp là một sự thực.
1 Xá lợi
cảm ứng ký của Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 nói xây tháp tại chùa Thiền
chúng để cúng dường xá lợi ở Giao châu. Nhưng đây nói là "xây ở chùa Pháp
vân của Luy lâu", thì tỏ ra đúng sự thực hơn. Cứ Đại Việt sử lược 2 tờ
6a5-7 thì vào năm 1034 "các nhà sư Pháp vân ở Cổ châu dâng thư nói rằng
trong chùa phóng ánh sáng ra vài luồng, theo ánh sáng đó mà đào lên thì được
hòm đá một hòm, trong hòm có hòm bạc, trong hòm bạc có hòm vàng, trong hòm vàng
có bình lưu ly, trong bình có xá lợi". Cái hòm nói đến đến đây dĩ nhiên là
cái hòm xá lợi mà Tùy Cao Tổ đã ban, bởi vì theo Xá lợi cảm ứng ký của Quảng
Hoằng minh tập 17 tờ 213a18-22 đã mô tả với một sai khác không quan trọng là,
thay vì bình bạc, nó có bình đồng bên trong bình đá.
2 Cương
mục tiền biên 1 tờ 1b7-2a3 viết: "Phong châu, sử cũ chua là Bạch hạc. Địa
lý chí đời Đường nói Phong châu gồm năm huyện. Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc sử
chép quận Thừa hóa của Phong châu tức nước Văn lang xưa. Thế thì, Phong châu
tức nay thuộc địa hạt cả phủ Vĩnh Tường và Lâm thao, tỉnh Sơn tây.
3 Cương
mục tiền biên 4 tờ 15b2-6 viết: "Hoan châu xưa là bộ Hoài hoan đời Hùng
Vương, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Nhật Nam, đời Lương đổi Đức
châu. Đời Tùy Khai Hoàng đổi Hoan châu, khoảng Đại Nghiệp đổi Nhật nam, Đời
Đường Trinh Quán lại đặt Hoan châu. Đời Đinh Lê nhân theo. Đời Lý đổi làm châu
Nghệ an. Đời Trần cải trấn Lâm Giang. Đời thuộc Minh là các phủ Nghệ An và Diễn
Châu. Đời Lê Quang Thuận đặt Nghệ An Thừa tuyên. Nay là tỉnh Nghệ An". Đất
Hoan châu hiện nay thuộc tỉnh Nghệ tĩnh.
4 Cương
mục tiền biên 4 tờ 20b1-2 nói: "Trường châu, xưa là bộ Vũ định, nay là
tỉnh Tuyên quang". Nhưng Cựu Đường thư 41 tờ 42a11-12 nói Trường châu ở
phía Tây nam của giao châu, còn Ái châu ở phía tây của châu đó. Ngoài ra, ở tờ
44b8-9 nó viết: "Trường châu, thổ tục nó giống với Cửu chân. Đời Đường đặt
Trường châu. Năm tháng bắt đầu nó nay đã mất. Năm Thiên bảo thứ nhất (742) đổi
làm quận Văn dương. Năm Càn Nguyên thứ nhất (758) lại đặt Trường châu, gồm bốn
huyện Văn dương, Đồng thái, Trường Sơn và Kỳ thường, đều cùng đặt với châu một
lần".
Cứ vào
báo cáo đó của Cựu Đường thơ thì Trường châu rõ ràng phải rơi vào địa phận
những tỉnh Ninh bình, Nam định ngày nay, chứ có thể nào lại ở tại tỉnh Tuyên
quang, như Cương mục đã có. Bởi vì không những thổ tục ở Trường châu giống Ái
châu, mà ngay cả vị trí của chúng cũng liên tiếp nhau, đây là Trường châu ở
phía tây nam tị phủ Giao châu, trong khi Ái châu ở phía tây.
5 Cựu
Đường thư 41 tờ 43b8 nói: "Ái châu, đời Tùy là quận Cửu chân. Năm Vũ Đức
thứ 5 (622) đặt Ái châu, gồm bốn huyện Cửu chân, Tùng nguyên, Dương sơn và An
Định". Đại nam nhất thống chí 16, tỉnh Thanh hóa, mục Kiến trí diên cách
nói: "Tỉnh Thanh hóa, xưa thời Hùng Vương là quận Cửu chân, Đời Lưỡng Hán
nhân theo tên quận cũ thuộc Giao chỉ. Đời Ngô năm Nguyên Hưng thứ 1 (264) phân
một huyện của quận Cửu chân, mà đặt quận Cửu đức. Đời Tấn và Tống nhân theo.
Đời Nam Tề lúc đầu ở quận Cửu chân đặt thêm Cao an, Quân an và Đô lung mà làm
thành 10 huyện. Vua Vũ Đế lấy quận Cửu chân làm Ái châu, và tên Ái châu bắt đầu
từ đây. Đời Tùy lúc đầu thì gọi Ái châu, sau đổi tên gọi là quận Cửu chân gồm 7
huyện. Đời Đường gọi Ái châu gồm huyện Cửu chân 6 huyện. Đời Minh phân làm đạo.
Đời Lê đổi làm lộ. Đời Lý năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) đổi làm trại, sau cải
làm phủ Thanh hóa...Xem việc ghi thời Lý Nhân Tôn, tên Thanh hóa bắt đầu từ đây.
Đời Trần năm Thiên Ứng Chính Bình 11 (1242) định làm lộ Thanh hóa. Năm Nguyên
Phong thứ 3 (1253) đổi làm trại. Trong khoảng Thiệu Long lại làm lộ gồm sở
thuộc ba lộ Thanh hóa, Cửu chân và Ái châu, sau gọi là trấn...Đời thuộc Minh
gọi là phủ Thanh hóa. Lê Quang Thuận năm thứ 1 (1460) thuộc đạo Hải tây. Năm
Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt Thanh hóa thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) cải làm
Thanh hóa thừa tuyên... Gia Long năm thứ
nhất (1808) triều ta gọi là trấn Thanh hóa...
Năm Thiệu Trị thứ 1 (1840) cải làm tỉnh Thanh hóa ..."
Nay là
đất tỉnh Thanh hóa.
Thế Hệ Thứ Hai (1 người) Thế Hệ Thứ Ba (1 người)
Thế Hệ Thứ Tư (1 người)
42. THIỀN
SƯ Thanh Biện (? - 686)
Chùa
Kiến dương, làng Hoa lâm, phủ Thiên đức1. Người Cổ giao2, họ Đỗ. Năm 12 tuổi
theo Pháp
Đăng
chùa Phổ Quang3 tu học. Khi Đăng sắp tịch, Sư hỏi: "Sau khi Hoà thượng đi,
con sẽ nương tựa vào đâu?" Đăng dạy: "Con chỉ Sùng nghiệp mà
thôi".
Sư hoang
mang không hiểu. Pháp Đăng tịch rồi, Sư chuyên trì kinh Kim cang làm sự nghiệp.
Một hôm có Thiền khách đến viếng hỏi:
"Kinh
này là mẹ của ba đời các Đức Phật. Vậy thì nghĩa của mẹ Phật là thế nào?"
Sư đáp: "Lâu nay tôi trì tụng nhưng chưa hiểu được ý kinh".
Thiền
khách hỏi: "Thầy trì kinh đã bao lâu?" Sư đáp: "Đã tám năm"
Thiền
khách hỏi: "(46b1) Thầy trì kinh đã tám năm mà ý một cuốn kinh không hiểu,
thì dầu trì mãi đến trăm năm nào có ích gì?"
Sư bèn
đảnh lễ, lại hỏi về chỗ tiến ích.
Người
khách bảo nên đến Huệ Nghiêm ở chùa Sùng nghiệp để được giải quyết. Sư sực tỉnh
nói: "Ta nay mới biết lời nói của Pháp Đăng, quả thật phù hợp". Bèn
liền làm theo.
Vừa đến
chùa, Huệ Nghiêm hỏi: "Ngươi đến đây có việc gì?" Sư thưa: "Con
trong tâm có chỗ chưa ổn".
1 Toàn
thư B5 tờ 7b6-9 nhân nói về Trần Thủ Độ chôn sống tôn thất nhà Lý vào năm Thiên
Ứng Chính Bình thứ 1 (1232) viết: "Mùa đông năm đó nhân khi họ đến bái yết
Tiên hậu ở Thái đường Hoa lâm. Thủ Độ ngầm đào một hầm sâu dựng nhà ở trên, đợi
khi các người họ Lý uống rượu say, bèn liền giựt máy, chôn sống hết".
Cương mục chính biên 6 tờ 13a2 chú rằng: "Hoa lâm là tên xã. Thái đường là
tên thôn, đều thuộc huyện Đông ngạn tỉnh Bắc ninh. Đại Việt lịch triều đăng
khoa lục 2 có ghi một làng tên Hoa lâm hạt Đông ngạn, quê hương của Trịnh Xuân
Chú tiến sĩ khoa 1743. Làng Hoa lâm, phủ Thiên đức đây như vậy chắc chắn là
làng này. Nếu vậy, làng Hoa lâm ngày nay phải nằm tại huyện Từ sơn tỉnh Bắc
ninh. Làng Hoa lâm của Trịnh Xuân Chú hiện gọi là Danh lâm, tên gọi đời Nguyễn. Đại Việt lịch
triều đăng khoa lục, phần Tục biên, có ghi Trịnh Xuân Thưởng tiến sĩ khoa 1847
là người làng Danh lâm, huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh.
2 Cái
tên Cổ giao được Thiền uyển tập anh kể tới ba lần. Một ở đây. Một ở truyện
Khánh Hỷ tờ 61a3 và một ở truyện Tịnh Thiền tờ 68a3. Hai lần nhắc sau đều ghi
"làng Cổ giao, Long Biên". Cứ vào đấy thì làng Cổ giao phải nằm tại
một làng nào đó chung quanh làng Cổ châu, tức những làng Khương tự và Đại tự
huyện Thuận Thành hiện nay, bởi vì chùa Pháp vân làng Cổ châu ở Long biên, mà
ta đã xác định được vị trí của làng Cổ châu, nghĩa là vị trí thực sự của một thành
phần Long Biên, là ở tại Khương tự và Đại tự. Chúng tôi hiện chưa có dịp điều
tra hiện địa vùng này, nên không thể xác nhận rõ làng Cổ giao phải là làng nào
hiện nay tại tỉnh Hà bắc. Có người đồng nhất làng Cổ giao với Cổ điển thuộc
huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông, nhưng không biết dựa vào đâu. Xem Trần Văn Giáp,
Lược truyện các tác gia Việt nam tr.190 và Gaspardone, Bibliographie Annamite,
BEFEO XXXIV (1934) 215.
3 Chùa
Phổ Quang này rất có thể là chùa Phổ quang tại làng Nghĩa trú huyện Văn giang,
mà Tam tổ thực lục tờ 26a4 nói tới như là chỗ ở của Trùng Chiếu người chủ trì
việc đúc 1000 tượng Phật vào năm 1322.
Nghiêm
hỏi: "Ngươi chưa ổn cái gì?"
Sư liền
đem việc trước thuật lại. Nghiêm bèn than rằng:
"Ngươi
tự quên mất rồi. Không nhớ trong kinh nói: "Ba đời các Đức Phật cùng giáo
pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của các đức Phật, đều từ kinh ấy ra".1
Há đó chẳng phải là ý nghĩa của mẹ Phật sao?"
Sư thưa:
"Phải, phải, đó là chỗ con đã mê muội vậy". Nghiêm lại hỏi:
"Kinh đó là người nào nói?"
Sư đáp: "Há
không phải Như Lai nói sao?"
Nghiêm
hỏi: "Trong kinh nói: Nếu ai nói Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy
báng Phật, người ấy không (47a1) thể hiểu nghĩa ta nói. Ngươi nên khéo suy
nghĩ, nếu bảo kinh này không phải là Phật nói tức là hủy báng Phật; nếu bảo nó
do Phật nói tức là hủy báng kinh. Ngươi phải làm sao? Nói mau ! Nói mau
!"2
Sư sắp
mở miệng, Nghiêm cầm cái phất trần đánh ngay vào miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ,
bèn sụp xuống lạy. Sau Sư đến chùa Kiến dương, dạy dỗ đồ chúng.
Hoá
duyên hoàn tất, Sư tịch vào năm Bính tuất, đời Đường Thùy Củng thứ 2 (686).
1 Dẫn
kinh Kim cang: "Nhất thiết chư Phật cập chư Phật a nậu đa la tam miệu tam
bồ đề pháp giai tùng thử kim xuất". (Tất cả các đức Phật và giáo pháp giác
ngộ không gì hơn của các Đức Phật đó đều từ kinh đấy mà ra). Xem Kim cang bát
nhã ba la mật kinh tờ 74b23.
A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề, Phạn: Anuttara-samyak-sambodhi, nghĩa là sự giác ngộ
đúng đắn không gì hơn.
2 Đại
Châu Huệ hỏi một vị tăng giảng kinh Kim cang: "Kinh đó là do ai nói?. Tăng
lên tiếng nói: "Thiền sư sắp đùa rồi đấy. Há không biết là Phật nói
sao?". Sư đáp: "Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp là hủy báng Phật,
người đó không hiểu ý nghĩa những điều do ta nói. Nếu bảo kinh đó không phải là
do Phật nói tức là hủy báng kinh. Xin Đại đức trả lời xem". Vị Tăng không
trả lời được. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a2-6.
Thế Hệ Thứ Năm (1 người khuyết lục) Thế Hệ Thứ
Sáu (1 người khuyết lục) Thế Hệ Thứ Bảy (1 người khuyết lục)
Thế Hệ Thứ Tám (3 người, 2 người khuyết lục)
43. THIỀN SƯ Định Không (? - 808)
Chùa
Thiền chúng1, làng Dịch bảng, phủ Thiên Đức. Người Cổ pháp2, họ Nguyễn, mấy đời
là vọng tộc. Sư là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc (47b1). Người
trong làng tôn thờ, đều gọi là trưởng lão.
Về già,
Sư đến Pháp hội của Nam dương ở Long tuyền nghe giảng, hiểu được ý chỉ, do đó
Sư phát tâm theo Phật.
Trong
khoảng Đường Trinh Nguyên (785-804), Sư lập chùa Quỳnh lâm ở làng mình. Khi mới
đào đất đắp nền, gặp một lư hương và 10 cái khánh. Sư sai người đem xuống sông
rửa. Một cái lặn mất đi, đến đáy sông mới dừng. Sư giải thích rằng: Chữ thập,
chữ khẩu hợp thành chữ cổ, chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp, chữ thổ chỉ
chỗ ta ở, chỉ đất đai làng này. Nhân đó, Sư đổi tên làng mình làm Cổ pháp {Tên
cũ là Diên Uẩn}. Sư lại làm bài tụng rằng:
"Đất
bày pháp khí Một món đồ ròng
Để Phật
pháp được hưng long
Đặt tên
làng là Cổ pháp".
Sư lại
nói:
Hiện ra
pháp khí
Mười hai
chuông đồng
1 Cảm
ứng xá lợi ký do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 dẫn trong Quảng hoằng minh
tập 17 tờ 216b10 có ghi chùa Thiền chúng như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào
năm đó tại Giao châu. Thiền uyển tập anh nói dựng tháp nơi chùa Pháp vân, có lẽ
hợp lý hơn. Xem chú thích (5) truyện Pháp Hiền. Làng Dịch bảng nay là làng Đình
bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Ở làng này nay còn có chùa nào tên Thiền chúng
hay không, chúng tôi hiện chưa biết.
2 Cương
mục chính biên 2 tờ 6b3-6 nói: "Cổ pháp, tên châu, đời Đinh về trước là
châu Cổ lãm, đời Lê đổi Cổ pháp , đời Lý thăng làm phủ Thiên đức, đời Trần cải
làm huyện Đông ngạn. Đời Hậu Lê nhân theo. Nay là huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc
ninh". Nhưng truyện đây nói Định Không "đổi tên làng mình thành Cổ
pháp rồi chua thêm "tên cũ là Diên uẩn". Như vậy, Cổ pháp nguyên là
tên một làng từ thời Định Không, sau đó tới thời Lê mới trở thành tên châu.
Thực tế, ta không hiểu tại sao nếu Không đã đổi Diên uẩn thành Cổ pháp thì tại
sao cho đến thời Lý Công Uẩn vẫn còn có tên Diên Uẩn. Viết về việc sét đánh
thành sấm báo hiệu sự lên ngôi của Uẩn, Toàn thư B1 tờ 31a7-8 nói: "Nguyên
trước cây bông gạo làng Diên uẩn, Cổ pháp bị sét đánh", trong khi đó Đại
Việt sử lược 2 tờ 1a9 chép: "Trong làng vua ở có cây bông gạo bị sét
đánh". Rõ ràng làng của Lý Công Uẩn ở có tên Diên uẩn, và đây là vào thời
Lý. Thế sao, ở đấy truyện bảo Không đổi tên Diên uẩn, thành Cổ pháp?. Dầu sao
đi nữa Diên Uẩn cũng là Cổ pháp, và Cổ pháp là làng Đình bảng hay làng Dịch
bảng sau này.
Cương
mục chính biên 2 tờ 7b2, nhân chú về chùa làng Cổ pháp, nói "chùa Cổ pháp
ở tại xã Đình bảng, huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Làng Cổ pháp của Định
Không do đó là làng Đình bảng, huyện Từ sơn hiện nay.
Trong cả
bản in đời Lê lẫn đời Nguyễn chỉ ghi "Định Không cổ nhân", nhưng
chúng tôi ở đây đã thêm chữ pháp thành "người Cổ pháp", bởi vì truyện
Định Không đây rõ ràng nói Không người Cổ pháp.
Họ Lý
làm vua
Ba phẩm
thành công".
Sư lại
nói:
"Mười
cái xuống nước đất Cổ pháp đấy tên làng
Gà sau
tháng chuột ở1
Chính
lúc Tam bảo hưng".
Khi sắp
tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện dạy rằng:
"Ta
muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa (48a1), chắc có kẻ lạ đến
phá hoại đất nước ta. {Sau Cao Biền của nhà Đường đến trấn yếm. Quả đúng} Sau
khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta mãn
vậy".
Nói
xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi. Lúc ấy là năm Mậu tý Đường Nguyên Hòa
thứ 3 (808)2. Thông Thiện dựng tháp ở phía tây chùa Lục tổ3 và ghi lời phú chúc
của Sư mà chôn dấu đi
1 Nguyên
văn: Kê cư loan nguyệt hậu. "Loan nguyệt" nghi là một viết sai của
chữ thử nguyệt, mà sau này La Quý dùng trong một câu tương tự: "Thố kê thử
nguyệt nội", để nói tới việc Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 11, tức tháng
con chuột, tức thử nguyệt của năm con gà, tức năm Kỷ dậu Cảnh Thụy thứ 2
(1009). Chúng tôi dựa vào cách hiểu đây và dịch là "tháng chuột". Chữ
loan và chữ thử, tự dạng chúng khá giống nhau.
2 Nguyên
văn: Đường Nguyên Hòa tam niên bính tý. Nhưng Đường Nguyên Hoà năm thứ 3, cứ
Cựu Đường thư thì phải là năm Mậu tý, chứ không phải Bính tý. Chữ Bính chắc
chắn là một viết lộn của chữ Mậu.
3 Chùa
Lục tổ đây tức cũng ở làng Dịch bảng. Xem chú thích (1) truyện Thường Chiếu.
Thế Hệ Thứ Chín (3 người, đều khuyết lục)
Thế Hệ Thứ Mười (4 người, 1 người khuyết lục)
44. TRƯỞNG
LÃO La Quý
Chùa
Song lâm, làng Phù ninh, Phủ Thiên đức1. Người An chân2, họ Đinh. Thuở nhỏ vân
du các phương, khắp hỏi các bậc thiền. Trải qua nhiều năm không gặp duyên đạo,
bèn sắp thối chí. Sau tại pháp hội của Thông Thiện ở chùa Thiền chúng nghe nói
một lời, lòng liền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy.
Khi
Thiền sắp tịch, gọi Sư đến dạy: "Xưa thầy ta là Định Công, căn dặn ta
rằng: con khéo giữ pháp của ta, gặp người họ Đinh thì truyền. Con đúng là người
đó. Ta nay (48a1) đi vậy".
Khi đã
đắc pháp, Sư tùy phương diễn hóa, chọn đất dựng chùa. Mỗi khi nói ra lời nào
tất là phù sấm. Sư có lần ở chùa Lục tổ, đúc tượng Lục tổ bằng vàng, sau sợ
trộm cướp nên đem chôn ở cửa chùa và dặn: "Gặp vua sáng lấy ra, đụng chúa
tối thì dấu".
Khi sắp
tịch, Sư dạy đệ tử là Thiền Ông rằng: "Xưa kia, Cao Biền3 xây thành bên
sông Tô lịch, biết đất Cổ pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt con
sông Điềm4 và những ao Phù chẩn5 v.v... đến 19 chỗ để trấn yểm nó. Nay ta đã
khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại nữa ở chùa Châu minh6 ta có trồng một cây
bông gạo để trấn chỗ dứt, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng
Chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng
phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy".
Nói xong
Sư tịch, thọ 85 tuổi
1 Tức làng
Phù ninh huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Thường
Chiếu.
2 Bắc
thành địa dư chí lục 4 có liệt ra hai xã mang tên An chân thuộc trấn Sơn nam
hạ. Một thuộc tổng Đông hối huyện Thanh quan, phủ Tiên hưng. Và một tổng Đông
Chân, huyện Quỳnh côi, phủ Thái bình. Hai huyện này ngày nay đều thuộc tỉnh
Thái bình. Huyện Thanh quan nay là huyện Thái bình, còn huyện Quỳnh côi nay vẫn
giữ tên cũ. Chúng tôi hiện chưa biết làng An chân nào là quê quán của La Quý.
Ngoài ra
cũng cần thêm là, chữ "An chân" có thể là một viết sai của An trinh.
Chữ chân với chữ trinh, tự dạng chúng rất giống nhau. Thực ra nếu La Quý là
người An trinh, thì nó hợp lý hơn. Bởi vì cứ truyện Định Huệ tờ 53a9 thì làng
An trinh thuộc phủ Thiên đức, còn truyện La Quý ở đây để cho thấy La Quý hình
như có quê quán tại Cổ pháp với những câu nói như "đất Cổ pháp ta"
hay những việc làm như trồng cây bông gạo tại chùa Châu minh.
3 Cao
Biền (? - 887) bắt đầu xây thành khoảng vào tháng 11 năm Hàm Thông thứ 7 (866).
Thành đây là thành Đại la, nằm tại địa phận thủ đô Hà nội ngày nay. Xem Đại
Việt sử lược 1 tờ 12b2 và Toàn thư B5 tờ 14b-15a. Về sông Tô lịch, xem chú
thích (9) truyện Đạo Hạnh.
4 Sông
Điềm hay là Điềm Giang, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một tài liệu nào khác nói
tới, nhưng nghi nó có thể chỉ sông Đuống, tức sông Thiên đức cũ. Tuy nhiên,
sông Thiên đức chưa từng có tên sông Điềm, như tài liệu hiện tại cho biết. Có
thể sông Điềm là sông Thiên đức hay một nhánh nó chảy qua làng Vân điềm huyện
Từ Sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số
tiến sĩ xuất thân từ làng Vân điềm, hạt Đông ngạn như Nguyễn Quán khoa 1595,
Nguyễn Nghi khoa 1619 ...
5 Ao Phù
chẩn chắc nằm tại làng Phù chẩn huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Bởi vì Đại
Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 có ghi một số người đậu các khoa tiến sĩ
đến từ làng Phù chẩn, huyện Đông ngạn như Trần Cô trạng nguyên khoa 1266,
Nguyễn Thì Phùng tiến sĩ khoa 1508, Nguyễn Niệm và Nguyễn Hiên khoa 1588,
Nguyễn Xuân Chỉ khoa 1637, Nguyễn Đình Bảng khoa 1670 v.v... Đại nam nhất thống
chí, tỉnh Bắc ninh, mục Từ miếu, có ghi miếu vua Lê Uy Mục ở xã Phù chẩn, huyện
Đông ngạn.
Những ao
khác đào tại vùng xung quanh Phù chẩn này, ngày nay ta không biết và chắc không
bao giờ ta biết, vì truyện nói "La Quý khuyên Khúc Lãm lấp chúng lại như
xưa".
6 Cây
bông gạo chùa Châu minh này chắc là cây bông gạo làng Diên uẩn, nơi đã bị sét
đánh thành bài sấm tuyên truyền cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn, mà Đại Việt sử
lược 2 tờ 1a-b và Toàn thư B1 tờ 31a-32 đã chép lại... Xem chú thích (8) truyện
Vạn Hạnh.
Lại kể
rằng, vào năm Bính thân đời Đường Thanh Thái thứ 3 (936). Sư trồng cây bông
gạo, thường có làm bài thơ kệ rằng:
(49a1) "Đại sơn đầu rồng ngững
Đuôi cù ẩn Châu minh Thập bát tử định thành Bông gạo hiện long hình Thỏ gà
trong tháng chuột
Nhất
định thấy trời lên". (49a1).1
45. THIỀN
SƯ Pháp Thuận (925-990)
Chùa Cổ
sơn, làng Thừ, quận Aũi2. Không biết người đâu. Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có
tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa
Long thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm
ngữ.
Đang vào
lúc nhà Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Đến
khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành càng thêm
kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn
thư giao phó cho Sư3.
1 Nguyên
văn:
"Đại
sơn long đầu khỉ Cù vĩ ẩn châu minh Thập bát tử định thiền Miên thọ hiện long
hình Thổ kê thử nguyệt nội
Định
kiên nhật xuất thanh".
Đây là
một bài thơ tuyên truyền cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Và nhà
Lý quả ra đời vào tháng 10 năm Đinh dậu Cảnh Thụy thứ hai (1009). Bài này do
thế có thể sáng tác trước lúc Lý Công Uẩn lên ngôi không bao xa.
2 Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có ghi một ngọn núi tên Cổ
sơn, và nói "nó nằm tại phía đông huyện Tam dương, cách huyện lỵ 6
dặm". Rồi sau đó lại ghi thêm một ngọn núi khác tên Lộng sơn và cũng chua
"tục gọi là núi Trống". Núi này cũng "ở phía đông của huyện tại
xã Tam lộng, trên có miếu Long sơn thần". Cổ sơn với Lộng sơn như vậy là
một. Thế thì, phải chăng chùa Cổ sơn của Pháp Thuận nằm tại núi này? Đó là một
có thể.
Nhưng
Hồng Đức bản đồ tr.78-79 trong Thiên nam tứ chí lộ đồ thư có ghi tên một chợ
gọi là chợ Aũi, rồi chua thêm "có núi Tượng bốn bên như rồng bao bọc không
hở". Khảo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Phố thị, không thấy
nói chợ nào tên chợ Aũi cả. Nhưng về núi Tượng, nó viết ở quyển 16 tờ 40a1 rằng
"núi Tượng ở tại xã Bất quần phía tây huyện Quảng xương, giữa đồng ruộng
bỗng nổi lên một ngọn núi đá. Núi nhỏ mà cao, sắc xanh mà lạ, dáng giống như
voi phục. Trạng nguyên Trịnh Huệ đời Lê dựng am đọc sách dưới chân núi
đó". Cổ sơn của Pháp Thuận chẳng qua là núi Tượng này? Và Ái quận phải
chăng là chợ Ái đây? Chúng tôi hiện chưa trả lời được và chỉ xin nêu ra ý kiến
kêu gọi sự đóng góp của những người hiểu biết khác.
3 Nguyên
văn: _ dĩ văn hàn chi nhiệm. Số văn thư đầu triều Lê Đại Hành do Pháp Thuận
thảo ra, ngày nay đã thất lạc hết. Chỉ còn một lá thư xin cho Đinh truyền do
Giang Cự Hoàng và Vương Thiệu Tộ mang sang triều đình nhà Tống vào năm 980, mà
Toàn thư B1 12a8-b2 và Tống hội yếu 197 tờ 7724a-b đã chép lại. Văn cú của hai
bản chép này khác nhau, nên chúng tôi chép ra cả hai, để cho thấy một phần nào
văn tài của Pháp Thuận.
Toàn thư
chép: "Thần phụ mỗ huyễnh mỗ, câu hà quốc ân, thiêm phân môn ký, cẩn bảo
phong giới, cảm hữu bối vi, hản mã lao vị thi, triêu lộ chi bi dĩ cập. Thần
đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quản nội quân dân tướng sứ, phiên duệ
kỳ diệt đẳng, cọng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân thống chi sự. Thần
khẩn từ số tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tương truyền tấu trần, hựu lự khể tuy sơn dã
khoáng ác chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng
hoặc sinh dị biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết độ hành quân tư mã quyền lĩnh châu
quân sự. Phục vọng, giả dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần tân trung
chi tâm, cử thánh đại diên".
Tổng hội
yếu chép: "Thần thế triều tưởng, tị xử x chế ư man tựu, tu chức cống ư tế lữ,
thuộc tư môn chi bạc hựu, trỉ tuấn mảng cảm khể ư trợ tế, mao thổ thế cập vị dự
ư thủ phiên. Thần phụ Tiên xử Lin, câu hà quốc ân, thiêm phân khổn ký, cẩn bảo
phong lược, võng cảm đải hoàng, hản mã chi lao vị thi, lộ triều chi bỉ dĩ cập.
Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quảng nội tướng lại quân dân,
phương duệ kỳ diệt đẳng, cộng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân lữ chi
sự, Thần khẩn từ sổ tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tỷ sỹ tấu trần, hựu lự khể tuy. Sơn
thành ngoan khoáng chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ Năm
Thiên Phúc thứ 7 (987) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang
làm kẻ lái
đò để
theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm
chơi rằng: "Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt
ngó ven trời". Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp:
"Lông
trắng phơi dòng biếc
Sóng
xanh chân hồng (49b1) bơi" Giác do đó thán phục1
Vua
thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp: Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái
bình Vô vi trên điện các
Xứ xứ
hết đao binh"
Năm Hưng
Thống thứ 2 (990) sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn
1 quyển, lưu hành ở đời. tình, khủng nhân nhi sinh biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết
x hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng tích dĩ chân mạng, lịnh bị
liệt phiên, ủy vi thần trung tẩn chi tâm, x thưởng diên chi điển, khắc thiệu di
nghiệp, nhân phủ vin di, đồng trụ chi hư già tuyên ngự hải chi lực tượng
khuyết, x hiệu hiến thâm chi thành". Những chữ x là tượng trưng cho những
chữ bị thiếu trong bản chép.
1 Tham
chiếu Toàn thư B1 tờ 18a5-8: "Thiên Phúc năm thứ 8 (987) nhà Tống lại sai
Lý Giác đến san phong. Bấy giờ vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm người lái đò,
đi đón. Giác rất giỏi bàn luận văn chương. Gặp lúc có hai con nga bơi trên mặt
nước, Giác vui ngâm:
Ngỗng
ngỗng đôi con ngỗng?
Ngửa mặt
ngó ven trời.
Pháp sư
đang lúc cầm chèo, tiếp vận theo rằng: Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng
xanh chân hồng bơi.
Giác
càng làm lạ, làm thơ gửi cho Sư rằng: May gặp thời minh giúp việc vua Một mình
hai đợt sứ Giao châu Đông đô đôi biệt lòng thêm luyến
Nam Việt
muôn trùng ngóng chửa bưa Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời
núi biêc thả dòng đưa Ngoài trời còn có trời soi rạng
Sóng
lặng khe đầm thấy trăng thu.
Thuận
đem thơ dâng vua cho triệu Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt thưa: "Bài
thơ này có ý tôn bệ hạ cùng với chúa nó không khác". Vua khen ý ấy, ban
thưởng rất hậu".
Bài thơ
đôi con ngỗng trên dĩ nhiên không tượng trưng gì hơn một giai thoại ngoại giao,
chứng tỏ niềm tự tín và sự lớn mạnh về văn hóa của một dân tộc vừa mới lập quốc
chưa đầy 90 năm. Bởi vì nó chỉ là một nhuận sắc khác tinh tế cái bài thơ Vịnh
nga, mà Lạc Tân Vương làm khi mới hơn 10 tuổi và Toàn Đường thi tập 2 quyển 79
tờ 864 chép như:
Nga nga
nga
Khúc
hạng hướng thiên ca Bạch mao phù lục thủy Hồng chưởng bát thanh ba.
46. THIỀN
SƯ Ma Ha (Tên cũ là Ma Ha Ma Gia)
Chùa
Quan ái, làng Đào gia, Cổ miệt1. Tổ tiên là giống người Chiêm thành, sau mạo
tánh họ Dương. Cha tên Bối Đà, rành về sách bối, làm quan dưới triều Lê với
chức Bối {Xưa gọi là Đà Phan}2. Lớn lên, Sư là người có hiểu biết thấu đáo mọi
việc, học thông cả hai ngôn ngữ Hán và Phạn.
Năm 24
tuổi, Sư nối nghiệp cha, tiếp tục trụ trì ngôi chùa cũ. Thường vào những lúc
diễn tập kinh bối, Sư thấy Hộ pháp, Thiện thần quở rằng: "Sao dùng cái học
bên ngoài đó3, chắc chắn không hiểu được nghĩa lý". Sư do đó bị mù, rất tự
hối lỗi. Khi sắp gieo mình xuống vực sâu mà chết thì gặp Viễn Biệt chùa Đông
lâm(50a1) ngăn rằng: "Đừng ! Đừng !". Sư nghe lời đó liền tỉnh ngộ.
Về sau,
Sư đến chùa Cổ sơn thọ giáo với Đỗ Pháp Thuận. Sư chuyên việc sám hối và trì
tụng Đại bi tâm chú4, trải ba năm chưa từng một chút biếng trễ bèn được Bồ tát
Quan Âm lấy nước sạch cành dương rưới lên đầu mặt, mắt bỗng nhiên sáng lại và
lòng càng thêm thanh tịnh.
Năm
Thuận Thiên thứ 5 (1014), Sư dời về ở núi Đạt vân5 tại Trường an, ngày ngày
siêng năng tu tập, đạt được Tổng trì tam muội và các ảo thuật, người đời không
lường nổi.
Hoàng đế
Lê Đại Hành1 ba lần mời Sư vào cung thưa hỏi, Sư chỉ chấp tay cúi đầu mà thôi.
Bắt
đến lần
thứ ba, Sư mới đáp: "Cuồng tăng ở chùa Quan ái". Vua cả giận, sai
giam Sư ở chùa Vạn tuế
1 Bắc
thành địa dư chí lục 2 có ghi hai xã mang tên Cổ miệt thuộc tổng Hương đại,
huyện Thanh hà, trấn Hải dương tức nay huyện Thanh hà, huyện Hải dương. Dưới
mỗi tên, người viết còn chua thêm hai thôn, đấy là thôn Tràng liệt và thôn
Khánh mậu, thì như vậy, Cổ miệt trước chắc địa phận rộng hơn những xã cũng có
tên đây. Nhưng tại tổng Hương đại cũng như trong toàn huyện Thanh hà, chúng tôi
không thấy ghi một xã thôn nào có tên Đào gia cả. Điểm chắc chắn là Cổ miệt
phải ở vùng huyện Thanh hà, huyện Hải dương, bởi vì tỉnh này vốn là đất Hồng lộ
thời Lý Trần, như Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên
cách nói: Mà ta biết vào thời Lý có một làng Cổ miệt thuộc Hồng lộ. Đại Việt sử
lược 3 tờ 18b1-4 viết: "Trị Bình Long Ứng năm thứ 4 (1208) trộm cướp nhân
đó nổi lên như ong... vua sai Thượng phẩm phụng ngụ Phạm Bỉnh Di đem người Đằng
châu đi chống, mà Phạm Du thì lại về làng Cổ miệt cùng với người Hồng lộ là
Đoàn Thượng và Đoàn Chủ gặp nhau đánh Đằng châu. Người Đằng châu xin Bỉnh Di
đánh Du, không dẹp được bèn trở về".
2 Bối
thông thường là một phiên âm tiêu chuẩn của chữ Phạn Bhanna tiếng phạn và
Bhanna tiếng ba lị. Xem Thập luật tụng 37 tờ 269c18-19: Phật ngôn: "Thính
nhữ tác thanh bối". So sánh với Cullavagga.v. 3: Bhagavato etam attham
ârocesum: anujânâmi bhikkhave sarabhannam ti. Nó thông thường cũng là một gọi
tắt của chữ Bối nặc. Xem Tứ phần luật 3 tờ 587 b21-23 và Sa di tắc bộ hoà ê ngũ
phần luật. Và Bối nặc đúng ra là phiên âm tiêu chuẩn của Bhannaka hay Bhãnnaka.
Vậy Bối và Bối nặc là gì? Cứ những tư liệu vừa dẫn Bối hay Bhanna là một lối
đọc kinh Phật giáo với những nốt nhạc, nên nó cũng thường được gọi là Thanh bối
hay Svarabhanna tiếng phạn và Sarabhanna tiếng ba lị. Nó khác với lối đọc kinh
theo lối ca hát với giọng dài của những người theo Vệ đà, mà Thập tụng luật cho
là có tác dụng chính yếu là "làm cho mình và người khác tham trước",
trong khi tác dụng của nó là làm cho người đọc và người nghe khỏi mệt mỏi và
giữ được sự trong sáng và âm điệu của ngôn ngữ. Còn Bối nặc hay Bhannaka có
nghĩa người đọc tụng theo nốt nhạc, có thể nói đó là người hát lễ nhạc Phật
giáo. Vậy nếu Bối Đa giữ chức Bối trong triều đình nhà tiền Lê, thì Bối đây
chắc hẳn là chức quan coi về lễ nhạc Phật giáo. Sau này, ta thấy Ma Ha cũng nối
nghiệp cha tiếp tục hát bối ở chùa mình, thì cũng đủ rõ bối đây tượng trưng cho
lễ nhạc Phật giáo. Cũng cần thêm là, sau chữ bối, Thiền uyển tập anh còn chú
thêm rằng, "Xưa gọi là Đà phan". Chữ Đà có lẽ là một khắc sai của chữ
Xà. Và "Xà phan" quả là một phiên âm khá trung thực chữ Sarabhanna
tiếng ba lị hay Svarabhanna tiếng Phạn.
3 Tán
Bối vẫn là một thứ ngoại học, một cái học bên ngoài, tối thiểu là cứ theo luật
tạng. Xem Thập tụng luật 37 tờ 269c6-21.
4 Đại Bi
tâm chú, gọi đủ là Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Aâm bồ tát quảng đại viên mãn
vô ngại đại bi tâm đà la ni, Đại bi chú v.v...Đây là bài chú rút ra từ kinh
Thiên thủ. Nó gồm cả thảy 82 câu chữ phạn do Già Phạm Đạt Ma phiên âm trong
kinh Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Aâm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi
tâm đà la ni hiện nay trong ĐTK 1060 tờ 107b 25-26. Ngoài bản dịch của Già Phạm
Đạt Ma ra, mà ngày nay đã trở thành bản văn chính thức dùng trong hầu hết các
chùa chiền Việt nam và Trung Quốc, nó còn có những bản dịch khác của Bất Không,
Trí Thông v.v...Cứ vào sự thông dụng ngày nay, chúng tôi giả thiết nó chắc cũng thông dụng thời Lý.
5 Tức
núi Long triều tại xã Trường yên hạ, huyện Gia vin, tỉnh Ninh bình ngày nay.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, huyện Sơn xuyên, nói: "Núi Long
triều ở cách huyện Gia viễn 10 dặm, một là tên núi Đại vân, có miếu vua Đinh,
vua Lê ở dưới chân núi". Mục Từ hiếu nói: "Miếu vua Đinh Tiên Hoàng ở
phía dưới huyện Gia viễn tại chân núi Long triều xã Trường yên hạ"... Miếu
vua Lê Đại Hành ở dưới chân núi Đại vân xã Trường yên hạ".
Đây là
ngọn núi, mà Lê Đại Hành đã cho dựng điện Bách bảo thiên tuế vào năm 984 để làm
nơi thị triều, phía đông dựng điện Phong lưu, phía tây dựng điện Tử hoa, bên
trái điện Bồng lai, bên phải điện Cực lạc, lại dựng lầu Đại Vân liền với điện
Trường Xuân là nơi vua ngủ, như Đại Việt sử lược 1 và Toàn thư tờ 16b ghi lại.
Đại Việt sử lược 1 tờ 19b7 viết Đại vân thành Hỏa vân.
trong
Đại nội, cho người khóa cửa canh gác. Đến sáng thì đã thấy Sư ở ngoài phòng
Tăng mà cửa vẫn khóa kín như cũ. Vua rất ngạc nhiên, bèn cho phép Sư đi đâu thì
đi.
Sư đi về
phía Nam
đến Ái châu, ở trấn Sa đảng2. Phong tục trấn đấy ưa thờ cúng quỷ thần, lại
chuyên nghề sát sinh.
Sư
khuyên họ ăn chay, họ đều nói: "(50b1) Thiên thần của chúng tôi, họa phước
không dám trái".
Sư bảo:
"Các ngươi nếu có thể bỏ ác làm lành, giả như có quỷ thần xúc hại, lão
tăng sẽ tự chịu thế cho".
Dân làng
thưa: "Gần đây có người bệnh lâu sắp chết, thầy thuốc, đồng bóng đều bó
tay. Nếu ông chữa được bệnh này, chúng tôi sẽ theo lời khuyên".
Sư bèn
lấy nước đọc chú rồi phun vào, người bệnh tức khắc bớt ngay. Họ tuy cảm phục
nhưng thói cũ ăn sâu, chưa thể chóng đổi.
Có hương
hào họ Ngô, nhân uống rượu say, đem rượu thịt đến trước mặt ép Sư: "Hoà
thượng có thể theo được cuộc vui này thì chúng tôi sẽ tuân theo lời ngài
dạy".
Sư bảo:
"Đã mời thì chẳng dám từ, chỉ sợ đau bụng đấy thôi". Họ Ngô mừng
thưa: "Có đau thì Ngô tôi tự thay cho".
Sư nhận
lời làm theo rồi bỗng giả bộ làm bụng sình to, trong bụng tiếng sôi như sấm,
hơi thở hào hễn, van to: "Ông Ngô đâu chịu thay cho ta". Họ Ngô xanh
mặt, chẳng biết làm gì.
Sư tự
chấp tay niệm: "Nam
mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng3, cứu con với". Giây lát, bèn mửa ra
thịt thì biến thành thú chạy, cá thì thành cá nhảy, rượu thì hóa ra nước đồng.
Mọi người rất kinh hãi.
Sư bảo:
"Thân các ngươi bị bệnh, theo (51a1) ta thì lành ngay. Đến khi ta đau
bụng, các ngươi không thay thế ta được. Các ngươi nay chịu theo lời dạy của ta
chưa?" Tất cả dân làng đều bái tạ xin vâng.
Năm
Thiên Thành thứ 2 (1029), Đô úy Nguyễn Quang Lỵ4 thỉnh Sư trụ trì chùa Khai
thiên ở phủ Thái bình5. Được sáu năm, Sư lại từ chức lui về Hoan châu. Sau
không biết Sư mất ở đâu {Nam
tôn đồ nói pháp tự của Nam
dương, ấy làm lầm{.
1 Hoàng đế
Lê Đại Hành, nghi là một chép sai, bởi vì trước đó đã nói là đến năm 1014 Ma Ha
mới về tu tại núi Đại vân, thì sự việc tiếp theo phải xảy ra với Lý Thái Tổ mới
hợp lý. Hơn nữa, ta biết chùa Vạn tuế ở trong Đại nội là do Lý Thái Tổ dựng vào
năm 1011, như Đại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 đã ghi. Do thế,
việc giam Ma Ha "tại chùa Vạn tuế trong Đại nội" phải xảy ra sau năm
1011 ấy. Ngoài ra, núi Đại vân vào thời Lê Đại Hành là nơi Lê Đại Hành xây dựng
cung điện, như đã thấy, thì làm sao Ma Ha có thể "dời về ở núi Đại vân tại
Trường an ngày ngày siêng năng tu tập" được? Từ đó, Lê Đại Hành chắc là
một chép lầm của Lý Thái Tổ.
2 Ái
châu tức tỉnh Thanh hóa ngày nay. Xem chú thích (9) truyện Pháp hiền, trấn Sa
đảng, Đại Việt sử lược 2 tờ 12a1 có ghi động tên Sa đảng. Nó viết: "năm
Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) động Sa đảng phản, vua thân chinh dẹp
được". Trấn Sa đảng chắc đây là một. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh
hóa, mục Kiến trí diên cách, có ghi một động tên Sa lung trước thuộc huyện Cẩm
thủy, đến 1904 cắt thuộc châu Quan hóa. Chúng tôi đoán đất Sa đảng thời Lý chắc
nằm tại huyện Cẩm thủy và Quan hóa, tỉnh Thanh hóa ngày nay.
3 Nam mô Phật,
Phạn: namo buddhàya, nghĩa là kính lễ các Đức Phật.
4 Toàn
thư B2 tờ 1363 viết: Năm Thiên Thành thứ nhất (1028) lấy Nguyễn Quang Lỵ làm
Thái úy. Đây là đô úy Nguyễn Quang Lỵ, chữ đô có lẽ là một cách viết sai của
chữ thái.
5 Cứ Toàn
thư B1 tờ 27c7-8 và truyện Khai thiên trấn quốc trung phụ tá dực đại vương
trong Việt điện u linh tập tờ 48 khi Lê Ngọa Triều "đã được ngôi, thăng
Đằng châu làm phủ Thái bình". Phủ Thái bình ở truyện Ma Ha đây chắc phải
là đất Đằng châu, chứ không phải là đất phủ Thái bình thời Nguyễn, tức không
phải đất những huyện Quỳnh côi, Phụ dực, Đông quan và Thụy anh tỉnh Thái bình
ngày nay. Mà Đằng châu, theo Cương mục tiền biên 5 tờ 30b5-7, là đất Khoái lộ
đời Trần, Khoái châu đời Lê. Nay huyện Kim động, tỉnh Hưng yên còn có xã tên
Đằng châu. Làng Đằng châu thời Lê Ngoạ Triều mà Việt điện u linh tập nói tới,
và làng
Thế Hệ Thứ Mười Một (4 người, 2 người khuyết
lục)
47. THIỀN
ÔNG Đạo Giả (902-979)
Chùa
Song lâm, làng Phù ninh, phủ Thiên đức1. Người Cổ pháp2, họ Lữ. Nhỏ học đòi
việc đời, sau theo Đinh Trưởng Lão3 xuất gia. Khi đã đắc pháp thì Sư tịch vào
năm Kỷ mão Đinh Thái Bình thứ 10 (979), thọ 78 tuổi.
48. THIỀN
SƯ Sùng Phạm (1004-1087)
Chùa
Pháp vân4, làng Cổ châu, Long biên, họ Mâu. Vóc dáng khôi ngô, tai dài đến vai.
Lúc mới
xuất gia, ban đầu Sư đến tham vấn với Vô Ngại ở Hương thành5. Khi đã được tâm
ấn, bèn dạo khắp Thiên trúc để cầu học rộng. Trải qua 9 năm, Sư trở về nước gồm
(51b1) hiểu giới, định.
Về sau,
Sư ở chùa Pháp vân giảng pháp học giả quy tụ rất đông. Hoàng đế Lê Đại Hành
nhiều lần thỉnh Sư vào cung6 để thưa hỏi Thiền chỉ, đãi ngộ rất hậu.
Năm Đinh
mão Lý Quảng Hựu thứ 3 (1087) Sư viên tịch, thọ 84 tuổi. Vua Lý Nhân Tông
thường có kệ truy tặng Sư:
"Sùng
Phạm ở nước Nam Lòng vắng, đỗ đạt về7 Tai dài hiện tướng tốt Pháp pháp thảy ly
vy.1
Thái
bình thời Lý, mà Toàn thư B3 tờ 36b9, và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định, mục
Kiến trí diên cách, ghi chắc là xã Đằng châu đó. Phủ Thái bình đời Lý như vậy
không phải là phủ Thái bình thời Hậu Lê, ngược lại nó nằm trong địa phận Đằng
châu, tức tương đương với tỉnh Hưng yên ngày nay. Chùa Khai thiên, nay không
thấy sách nào nói tới.
Đại Việt
sử lược 1 tờ 22a2 nói khi Ngoạ Triều "đánh Nghị Man Vương Bình rồi, cải
Phong châu làm phủ Thái bình". Chữ Phong đây chắc là một viết sai của chữ
Đằng. Tuy về lý, việc đổi Phong châu làm phủ Thái bình không phải là phi lý.
1 Tức
nay làng Phù ninh, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Xem chú thích (2) truyện Thường
Chiếu.
2 Tức
làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện
Định Không.
3 Đinh
trưởng lão, tức trưởng lão La Quý, bởi vì La Quý họ Đinh.
4 Tức
chùa Diên ứng hay chùa Dâu làng Khươn g tự, huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc hiện
nay. Xem chú thích (2) truyện Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
5 Vô
Ngại chùa Hương thành, đây chắc chắn không phải chùa Tĩnh cứ, núi Cửu chân ở
thế kỷ thứ VIII và nhà sư Vô Ngại thế kỷ thứ IX trong Man thư của Phàn Xước. Vô
ngại ở Hương thành như vậy chắc chắn thuộc thế hệ thứ 10 của dòng Thiền Pháp
vân.
6 Lê Đại
Hành nghi là một khắc sai của Lý Thái Tôn, bởi Phạm mất năm 1087 và thọ 84 tuổi
thì tất không thể nào gặp Lê Đại Hành
được.
Chữ Lê Đại Hành, nếu gặp phải một bản chữ mờ thì rất dễ đọc lộn thành Lý Thái
Tôn.
7 Bàng
Uẩn tham bái Mã Tổ, hỏi: "Ai là kẻ không cùng vạn pháp làm bạn lữ?"
Tổ nói: "Đợi ngươi uống một hớp, hết trọn cả nước sông Tây, thì ta sẽ
nói". Uẩn tỉnh ngộ, làm bài tụng:
Thập
phương đồng tụ hội Cá cá học vô vi
Thử thị
tuyển Phật trường Tâm không cập đệ quy.
Xem Bích
nham lục 5 tờ 179c3-6
Thế Hệ Thứ Mười Hai (7 người, 2 người khuyết
lục)
49. HIỀN
SƯ Vạn Hạnh (?-1025)
Phật.
Chùa Lục
tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức. Người Cổ pháp, họ Nguyễn. Gia đình đời đời
thờ
Thuở nhỏ
Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận2, xem thường công
danh. Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục tổ làm
thầy. Ngoài lúc hầu hạ,
Sư học
tập quên cả mệt mỏi.
Sau khi
Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa3, lấy đó làm
việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra (52a1) lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm.
Hoàng đế Lê Đại Hành hết lòng tôn kính Sư.
Năm
Thiên Phúc thứ 1 (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta,
đóng quân tại Cương giáp, Lãng sơn4. Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra
hỏi, Sư đáp:
"Trong
vòng 3, 7 ngày giặc phải lui". Sau quả nhiên như thế.
Đến khi
vua muốn đánh Chiêm thành, việc bàn định chưa dứt khoát5, Sư tâu: "Xin mau
cất binh, nếu không, ắt mất cơ hội". Sau đánh quả nhiên thắng trận.
Thường
có kẻ gian là Đỗ Ngân, muốn mưu hại Sư. Khi việc chưa phát, Sư biết trước, đưa
cho y một bài thơ:
"Cây
đất sinh nhau bạc với vàng6 Cớ sao thù địch mãi cưu mang Bấy giờ năm miệng hồn
thu dứt1
1 Ly vy
là một từ lấy từ phẩm Ly vy thể tịnh của Bảo tạng luận và nó được định nghĩa
thế này: "Sở dĩ nói là Ly, vì bản thể chẳng phải hợp nhất với sự vật, cũng
chẳng tách rời sự vật. Ví như gương sáng soi ảnh của mọi vật, nhưng gương sáng
ấy không hiệp nhất với ảnh cũng không tách rời nó. Lại như hư không hiệp nhập
hết thảy, nhưng không bị ô nhim. Năm sắc không thể làm nhớp năm âm không thể
làm loạn, muôn vật không thể buộc vào, phong phú không thể làm lộn. Cho nên gọi
là Ly. Sở dĩ nó là vy, vì bản thể mầu nhiệm, không hình, không sắc, không
tướng, ứng dụng muôn ngõ mà không thể thấy, lắng không thể nghe, nhưng có hằng
sa muôn đức, không thường, không đoạn, không rời, không tan, cho nên gọi là vy.
Vì thế, hai chữ ly vy bao trùm hết yếu lý của đạo xem Bảo tạng luận tờ
146a7-15.
2 Ba học
là giới, định, tuệ của giáo dục Phật giáo. Trăm luận chỉ các tác phẩm của Bách
gia chư tử trong nền giáo dục truyền thống của nước ta.
3 Tổng
trì tam ta địa, cũng gọi đà la ni tam muội, Phạn: Dhàrani-samàdhi, một lối
thiền định thực hiện bằng cách đọc các khẩu quyết Phạn ngữ. Kinh Đại phẩm bát
nhã viết: "Sao gọi là đà la ni tam muội? Vì trụ trong tam muội đó thì có
thể giữ hết những tam muội, nên gọi đà la ni tam muội". Luận Đại trí độ
viết: "Đàụ la ni tam muội vì được sức của tam muội đó thì các đà la ni văn
và trì đều tự nhiên mà được". Xem Đại trí độ luận 40 tờ 398b24 và
401c27-28.
4 Đại
Việt sử lược 1 tờ 19a8-9: Thiên phúc năm thứ nhất, mùa xuân tháng ba, quân Hầu
Nhân Bảo đến Lãng sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch đằng
giang". Toàn thư B1 tờ 14a1-3: "Thiên Phúc năm thứ 2 mùa xuân tháng
3, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu
Trừng đến Bạch Đằng Giang".
5 Đại
Việt sử lược 1 tờ 19b1-3: "Thiên phúc năm thứ 2, vua sai Từ Mục v.v...đi
sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt. Vua nổi giận, tự làm tướng đem quân đi
đánh, chém đầu vua Chiêm là Bề Mi Thuế tại trận, xẻo tai không thể kể xiết, bắt
kỹ nữ trong cung Chiêm vài trăm người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng
bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm". Toàn thư B1 tờ 16a2-
6: "Thiên Phúc năm thứ 3, vua thân chinh Chiêm thành, thắng. Trước đó, vua
sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt, vua nổi giận,
đóng chiến thuyền, đúc khí giới, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu Bề Mi
Thuế tại trận, Chiêm thành đại bại, bắt giết sĩ tốt không thể kể xiết, bắt kỹ
nữ trong cung Chiêm trăm người và thầy tu Ấn độ một người, dời trọng khí của
Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm".
6 Nguyên
văn: Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim. Đọc theo lối chiết tự thì Thổ mộc là chữ Đỗ.
Nguyên câu này chỉ Đỗ Ngân. Đỗ
Ngân này
là ai, không thấy sách sử nào nói tới cả.
Thật đến
về sau chẳng hận lòng".
Ngân sợ
liền thôi. Ấy, tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.
Bấy giờ
Ngọa Triều bạo ngược, trời người oán ghét. Lý Thái Tổ khi ấy giữ chức Thân vệ,
chưa lên ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điều tốt xấu đều xuất hiện lẫn
lộn nhau. Như viện Hàm toại chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp, có con chó trắng,
lông trên lưng kết thành chữ "Thiên tử"2. Sét đánh vào cây bông gạo
(52b1) để lại dấu chữ3. Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng
đọc
1 Nguyên
văn: Đương thời ngụ khẩu thu tâm tuyệt. Đọc theo lối chiết tự, ngũ với khẩu là
chữ ngô là "ta", thu với tâm là chữ sầu. Bồ Đề Đạt Ma tiên đoán cho
Thái thú Dương Huyền về sự mình bị đầu độc sau này với những câu:
Giang
tra phần ngọc lãng Quản cự khai kim toả
Ngũ khẩu
tương cọng thành Cửu thập vô bỉ ngã.
Xem
Truyền đăng lục 6 tờ 220a.
2 Đại
Việt sử lược 2 tờ 2b5-7: "Nguyên trước đó chùa Ứng thiên làng Cổ pháp sinh
một con chó trắng, trên lưng mọc lông đen thành chữ "Thiên tử", đến
lúc ấy vua sinh nhằm năm Giáp tuất". Toàn thư B2 tờ 1b 6-2a1: "Nguyên
trước đó viện Cảm tuyển chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp sinh một con chó trắng
có lông đen viền thành hai chữ "Thiên tử". Người biết việc nói rằng
bởi đó là cái điềm của người sinh nhằm năm Tuất. Đến lúc ấy Vua sinh nhằm năm
Giáp tuất mà làm Thiên tử, nên điều ấy quả đúng". Việt sử tiêu án 1 tờ
77a9-b1 nói chuyện này xảy ra tại chùa Thiên tâm.
3 Đại
Việt sử lược 2 tờ 1a9-b3: "Trong làng vua ở có một cây bông gạo bị sét
đánh, dấu để lại thành văn rằng: Gốc cây nhiều công
Cơn lá
xanh xanh Hòa đao mộc rụng Thập bát tử thành Cung chấn trời hiện Cung đoài sao
chênh Trong sáu bảy ngày Thiên hạ thái bình
Vạn Hạnh
bèn gọi vua bảo: "Tôi gần đây thấy sự lạ của sấm, biết nhà Lê đương mất,
nhà Nguyễn đương lên. Họ Nguyễn không ai là có sự nhân từ, khoan thứ rất được
lòng người như ông. Tôi tuổi 70 hơn rồi, chỉ sợ không kịp thay sự thịnh trị mà
lấy làm hận".
Toàn thư
, tờ 31a7-32a5: "Trước đó, cây bông gạo làng Diên uẩn, châu Cổ pháp bị sét
đánh. Người trong làng thấy rõ dấu sét có văn rằng:
Gốc cây
thăm thẳm Cơn lá xanh xanh Hoà đao mộc rụng Thập bát tử thành Đông a vào đất
Cây khác tái sanh Cung chấn trời hiện
Cung
đoài sao chênh Khoảng sáu bảy năm Thiên hạ thái bình.
Thầy Vạn
Hạnh riêng tự mình bình rằng: "Gốc cây thăm thẳm, gốc là cái cội thì giống
như vua vậy. Diểu là âm đồng với chữ yểu, nên viết chữ yểu. Một biểu thanh
thanh, biểu là ngọn mà ngọn thì giống như bề tôi, còn thanh và thiên, âm chúng
gần nhau, nên viết chữ thiên có nghĩa là thịnh vượng. Hòa đao mộc là chữ Lê,
Thập bát tử là chữ Lý. Đông a là họ Trần. Vào đất là người phương bắc vào ăn cướp. Cây khác tái sinh là
họ Lê lại sinh ra. Cung chấn trời hiện, chấn chỉ phương đông, hiện là ra, trời
tức là thiên tử vậy. Cung đoài sao chênh, đoài chỉ phương tây, chênh cũng như
mất đi, sao thì giống như dân thường. Cả bài trên muốn nói vua yểu, tôi thịnh,
Lê rụng, Lý thành, phương đông Thiên tử ra đời, phương tây thứ dân chìm mất đi,
trải khoảng sáu bảy năm thiên hạ thái bình vậy". Bèn gọi Lý Công Uẩn nói
rằng: "Gần đây, tôi thấy sự lạ của phù sấm, biết họ Lý tráng thịnh thì
việc dấy nghiệp là một chắc chắn vậy. Nay xem thiên hạ họ Lý rất nhiều nhưng
không có ai khoan từ nhân thứ, rất được lòng người mà tay nắm binh quyền như
Thân vệ. Làm tôn chủ muôn dân, mà bỏ Thân vệ thì ai sẽ cáng đáng cho. Tôi nay
tuổi hơn 70, mong sao cho đừng mau chết, để thấy được sự đức hóa ra sao thì
thật là sự may ngàn năm một lần vậy".
Việt sử
tiêu án 1 tờ 75a-76b cũng chép sự việc và bài thơ như Toàn thư nhưng rút ngắn
lời bàn của Vạn Hạnh lại thành: "Gần đây, tôi xét phù sấm, thì họ Lý đang
lên, mà không có ai như Thân vệ cả". Song lại thêm một lời bàn khá dài
nói: "Xét một cơn sét đánh thành văn chỉ bốn chục chữ, mà trong khoảng
1100 năm, sự phế hưng của các đời, tên họ đều bao gồm gần hết. Trời có nói gì
đâu. Đó là bởi Vạn Hạnh giỏi việc xét bói, nhân sét đánh cây bông gạo, thác văn
vào đó để tỏ ra thần dị, Lý Nhân Tôn tặng thơ nói:
Thật
hiệp sấm trời xưa Quê hương tên Cổ pháp Chống gậy trấn kinh vua
Xem mấy
câu bình văn trên cây ở trước, biện bạch rõ ràng không sai việc. Hạnh bình luận
cả bài cho tới câu"Dị mộc tái sinh" thì sự biện luận đó rõ ràng không
sai. Từ câu "Chấn cung... " trở xuống, lời văn hàm hồ, riêng có ý sâu
huyền diệu, không chịu tỏ
tụng1.
Cây đa chùa Song lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ "Quốc"2. Ấy đại khái
những việc mà tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp
với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục
tổ đã biết trước, bảo với người bác và người chú của vua3 rằng:
"Thiên
tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên
tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi". Rồi yết bảng ở
đường cái nói rằng:
"Tật
Lê chìm bể Bắc Hạt Lý mọc trời Nam4
Bốn
phương gươm giáo dẹp Tám cõi mừng bình an".
Hai
vương nghe nói rất sợ sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.
Đến ngày
15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025)5, Sư không bệnh, nói kệ bài:
"Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ
xuân tươi thu héo hon Tùy vận thịnh suy không hãi sợ
Thịnh
suy đầu cỏ có phơi sương".6
Rồi Sư
dạy đệ tử rằng: "Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không
(53a1) nương vào chỗ không trụ để trụ".
hết. Gần
đây, có kẻ hiếu sự, riêng đem ý mình suy din, mê hoặc trí người, đến nỗi thứ
gian phu dối toan làm việc phi phận, binh loạn không thôi. Cái hại của sấm cũng
thật mãnh liệt thay".
1 Mộ
Hiển Khánh đại vương tức mộ của cha Lý Công Uẩn. Khi lên ngôi, Uẩn truy phong
cho cha mình là Hiển Khánh Vương. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 2a1 và Toàn thư B1
tờ 34a6. Về những tiếng đọc tụng xung quanh mộ này, xem nguyên chú ở cuối
truyện đây.
2 Chùa
Song lâm đây tức là chùa Song lâm, làng Phù ninh phủ Thiên đức, nơi ở chính
thức của Thiền ông, thầy của Vạn Hạnh
3 Đại
Việt sử lược 2 tờ 2b3 nói: "Tháng 11 nguyên niên (1009) vua lên ngôi...
lấy anh vua Mỗ làm Vũ Uy Vương, em vua là Dực Thánh Vương". Toàn thư B1 tờ
34b5-6 viết: "... lấy Hoàng huyễnh làm Vũ Uy Vương, Hoàng thúc làm Vũ Đạo
Vương, con của Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái úy, con của Dực Thánh Vương
là Phó làm Tổng quản". Cương mục chính biên 2 tờ 8a4-7 chép lại Toàn thư
thấy rõ Dực Thánh Vương không biết là ai, mà con cũng được phong làm Tổng quản,
nên đã chua thêm là: "Thiên nam trung nghĩa lục của Phạm Phi Hiển nói Dực
Thánh Vương là con thứ của Thái Tổ". Nhưng rõ ràng theo Đại Việt sử lược
thì Dực Thánh Vương là em của Lý Công Uẩn.
Cứ vào
truyện Vạn Hạnh đây thì Lý Công Uẩn còn có chú và bác, và đều được phong vương.
Bằng vào những dẫn chứng trên, thì chỉ Toàn thư và những sử chép theo nó mới
ghi phong hiệu của người chú của Uẩn, đây là Vũ Đạo Vương, còn trong đây thì
không thấy nói. Đoạn sử khoảng này của nhà Lý có nhiều ám muội chưa rõ.
4 Tật Lê
và hạt Lý là ý muốn chỉ họ Lê và họ Lý.
5 Cả hai
bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều ghi Vạn Hạnh mất vào ngày 15 tháng 5 năm
Thiên Ứng thứ 9, tức năm 1002. Nhưng đây dĩ nhiên là một khắc sai, bởi vì với
một cuộc đời như vừa đọc, Vạn Hạnh tất không thể chết, trước khi Lý Công Uẩn
lên ngôi vào năm 1010 được. Do thế, một số tác giả như Trần Văn Giáp (Le
Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII (1932) 239 và Lược truyện các tác giả Việt
Nam, nhà xuất bản Sử học, Hà nội, 1962, tr. 183) đã sửa Ứng Thiên thứ 9 thành
năm Thuận Thiên thứ 9 và nói Vạn Hạnh mất vào năm 1018. Song sửa như thế là
chưa chính xác cho lắm, bởi vì năm mất của Vạn Hạnh các bộ sử khác ghi rất kỹ
và nó nhất định không phải năm Thuận Thiên thứ 9. Trái lại, cứ Đại Việt sử lược
2 tờ 4a7 và Toàn thư B2 tờ 10a3-4 thì "năm Thuận Thiên thứ 16 thầy Vạn
Hạnh hóa thân". Như vậy, Vạn Hạnh mất năm 1025, chứ không phải năm 1018,
như từ trước tới nay thường chép. Từ đó, Ứng Thiên cửu niên là một chép sai của
Thuận Thiên thập lục niên. Chữ thuận bị đoán lộn thành chữ ứng, còn chữ thập
lục bị đọc rút thành cửu.
6 Việt
sử tiêu án 1 tờ 83a7-b1, nhân ghi "thầy Vạn Hạnh chết", viết:
"Vạn Hạnh không bệnh mà chết. Người bây giờ gọi đó là hóa thân. Vạn Hạnh
thường có thơ.
Thân như
điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Tùy vận thạnh suy hưu bố ủy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Vua thân
hành đến điếu viếng, lập đàn siêu độ". (Những chữ in đậm là khác với bản ở
đây).
Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm
lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng
rằng:
"Vạn
Hạnh dung ba cõi Thật hiệp lời sấm xưa Quê hương tên Cổ pháp Chống gậy trấn
kinh đô"1
Về
chuyện mộ Đại vương Hiền Khánh thì ban đêm thường vào lúc Sư thiền định bố phía
mộ đều có tiếng:
Tiếng
phía đông nói:
Khánh
vạn Tường nham với Quế phong Ruột dê, rồng thế, phụ nhau vờn
Triều
tôn, Đông liệt ba trăm thế Sáu tuất tới đây nhắm Thiên bồng2.
Tiếng
phía nam nói:
1 Kiến
văn tiểu lục 4 tờ 13a4-5 và Việt sử tiêu án 1 tờ 76b2-3 chép nguyên bài thơ.
Tam tế, mà đây dịch là "ba cõi", tức chỉ cho quá khứ, hiện tại và vị
lai. Xem Kiến văn tiểu lục 9 tờ 12a6-7 về chữ Tam tế. Vạn Hạnh dung tam tế, có
nghĩa Vạn Hạnh thấu suốt tất cả sự việc của quá khứ, thời hiện tại và thời vị
lai.
2 Nguyên
văn:
"Khánh
vạn tường nham dự Quế Phong Dương trường long thế dực tương tùng Đông liệt
triều tôn thế tam bách
Lục tuất
(thiếu hai chữ) đối thiên bồng".
Khánh
vạn, Tường nham và Quế phong, chúng tôi nghi là ba tên đất. Đại Việt lịch triều
đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Khánh duệ thuộc huyện Tiên du, quê hương
của Nguyễn Đán, tiến sĩ khoa 1580. Khánh vạn từ đó rất có thể là Khánh duệ đấy,
nhưng chúng tôi chưa có bằng chứng gì đích xác. Còn Tường nham và Quế phong thì
chưa thể khảo được. Đông liệt và Triều tôn, chúng tôi cũng nghĩ là những tên
đất, song chưa tìm thấy tài liệu chứng thực. Trong một cuộc nói chuyện riêng,
cụ Nguyễn Đăng Thục, quê Bắc ninh, bảo tỉnh Bắc ninh hiện có làng tên Đông
liệt. Với những tên đất như thế, thì rõ ràng đây là một bài thơ nói về mạch đất
của các nhà địa lý thời xưa với những từ địa lý rõ rệt như dương trường (chúng
tôi nghi chữ dương, đúng ra phải đọc là ngưu) long thể. Thực thể, nếu câu thứ
hai đọc "Ngưu trường long thể dực tương tùng", thì ý nghĩa địa lý của
bài thơ trên khá phù hợp với quẻ tả huyệt thứ 6 trong Tả Ao chân truyền địa lý
tờ 7b:
Điều
điều phát tổ khỉ căn nguyên
Uyển
chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền. Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu
Bàn vu
cục thế tợ ngưu niên
Đương
khai nội ngoại giai kỳ huyệt Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên Xa xa phát tổ
nỗi căn nguyên
Uyển
chuyển quanh co mạch khúc huyền Hữu kiên đến trái mà rẽ phải
Nằm vào
thế cục trâu lim dim
Trong
ngoài nên mở đều huyệt thiệt Núi soi sao lắm phước liên miên.
Qua bài
thơ này, ta có thể thấy bài thơ trên là một thứ bói quẻ đất. Việt sử tiêu án 1
tờ 128b1, trong khi bình luận về việc nhà Lý mất ngôi,có dẫn viết: "Lại Cổ
pháp địa quyết chép: Ngôi truyền tám lá, lá rụng âm sinh. Thì sự hưng vong cũng
có do đất". Như thế, cái gọi là Cổ pháp địa quyết đấy phải chăng gồm những
bài thơ loại thơ mộ Hiển Khánh đại vương ở truyện Vạn Hạnh đây? Phải chăng Cổ
pháp địa quyết là một tác phẩm của Vạn Hạnh? Và bốn bài thơ ở mộ Hiển Khánh đại
vương đây là rút ra từ nó? Chúng tôi nghĩ đấy là những có thể. Điều chắc chắn
là bài thơ trên cùng với ba bài thơ tiếp theo là những bài địa quyết do Vạn
Hạnh sáng tác.
Tám
phương gặp Nữ thường xuất vua1.
Tiếng
phía tây nói:
Trông
tây xa ngắm ngó Thiên trụ Trai gái đời cao thượng tướng thủ Thiên đức giàu sang
cùng Viễn thế Thọ mạng quân vương chín chín đủ2.
Tiếng
phía bắc nói:
Chính
bắc Phù cấm đối Bạch hổ Yên vui trai gái thường không khổ Sống lâu Thiên đức
sướng đời đời
1 Nguyên
văn:
Chính
nam phù ninh hộ trạch thần Vinh thế nam nữ đa xuất nhân Thiên đức phú quý mãn
ốc thành Bát vạn hội nữ thường xuất quân.
Phù ninh
như đã thấy là một tên làng. Truyện Thường Chiếu tờ 37b7 nói Chiếu "người
làng Phù ninh". Rồi đến truyện của La Quý tờ 48a7 và truyện Thiền Ông tờ
51a8 thì chúng xác định rõ ràng là làng Phù ninh đấy là "làng Phù ninh,
phủ Thiên đức". Đại Việt lịch triều đăng khoa lục cũng ghi một làng tên
Phù ninh thuộc hạt Đông ngạn là quê hương hay trú quán của một số người đậu
trạng tiến sĩ dưới thời Lê như Phạm Ngữ khoa 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa 1523,
Lê Diêu khoa 1557, Đào Quốc Hiển khoa 1691 v.v...Ngày nay, tỉnh Bắc ninh hiện
đang có một làng mang tên Phù ninh và ở đúng chính phía nam của làng Đình bảng,
tức đất Cổ pháp xưa. Vĩnh thế, chúng tôi nghi cũng là một tên làng. Đại Việt
lịch triều đăng khoa lục có ghi một làng tên Vĩnh thế thuộc hạt Siêu loại, quê
hương của Nguyễn văn Hiển tiến sĩ khoa 1502, Nguyễn Bỉnh Khuê tiến sĩ khoa
1526, Nguyễn Địch Khanh khoa 1532, Nguyễn Thừa Hựu khoa 1535, Nguyễn Đình
khoa1580 v.v...Vĩnh thế, nghi là Vinh thế đổi ra, nhưng chúng tôi hiện chưa có
bằng chứng gì rõ rệt. Làng này rất có thể là quê hương của Đào Cam Mộc hay một
trong những khai quốc công thần của triều Lý Thế Tổ. Thiên đức trong câu thứ ba
và Bát vạn trong câu thứ 4 thì cả bản in đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều viết là
Đại đức và Bát phương. Chúng tôi sửa Đại đức thành Thiên đức, không những bởi
vì hai bài thơ tiếp theo đến câu thứ 3 thì bắt đầu bằng chữ Thiên đức, mà còn
vì sau đó vài dòng thì có câu "đổi Cổ pháp là Đại đức", nhưng ai cũng
biết rằng Lý Công Uẩn đổi Cổ pháp làm Thiên đức, chứ không phải Đại đức. Đại
đức trong câu ấy và Đại đức trong bài thơ trên do thế là những chép sai của
Thiên đức như vậy rõ ràng là một tên đất, và nó cũng rõ ràng "phú quý mãn
ốc thành", như bài thơ nói, với sự lên ngôi của Lý Công Uẩn. Và chữ bát
vạn, mà những bản in đời Lê và đời Nguyễn đều viết là Bát phương, chúng tôi sửa
chữ phương thành chữ vạn, không những vì chữ vạn viết tắt rất dễ biến thành chữ
phương, nếu người ta bất cẩn thêm trên đầu nó một chấm, mà còn vì tại huyện
Siêu loại trước đây, tức huyện Thuận thành ngày nay, có núi tên Bát vạn. Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Bát vạn ở phía
Đông nam huyện Tiên du hai dặm, tương truyền Cao Biền đời Đường dựng tháp Bát
vạn, để yểm nó nên có tên đó". Chúng tôi hiện chưa biết có phải Lê Thánh
Tôn đi cầu tự tại núi Bát vạn này, mà gặp _ Lan trên đường đi không" Nhưng
với văn ý của câu thứ 4 thì đó là một có thể. Dẫu sao chăng nữa, chúng tôi nghĩ
chữ bát vạn hợp nghĩa hơn chữ bát phương.
2 Nguyên
văn:
Tây vọng
viễn vọng khán Thiên Trụ Dao thế nam nữ thượng tướng thủ Thiên đức phú quý dự
vin thế
Quân
vương thọ mạng cửu thập cửu.
Thiên
trụ là một từ của khoa địa lý bói huyệt đất. Sự liên hệ của Thiên trụ với việc
sống lâu, mà bài thơ đây nói đến, Thiên địa tạo sơn thủy phú trong Tả Ao chân
truyện địa lý tờ 27a10-b1 nói:
"Càn
sơn cao như Thiên trụ, thọ tỷ Thương nham Tốn thủy tụ tợ uyên minh, lộc hữu
đỉnh nãi.
(Núi càn
cao như Thiên Trụ, sống lâu như núi Thương Sông Tốn họp tợ uyên minh, lộc vua
có đỉnh chung)
Trong
một cuộc nói chuyện riêng, cụ Nguyễn Đăng Thục nói núi Tiên du có một tên Thiên
trụ. Như thế, một mặt Thiên trụ chỉ cho sự sống lâu, và mặt khác nó lại chỉ một
ngọn núi của Tiên du. Chỉ có vấn đề là, nếu Thiên trụ quả ở núi Tiên du, mà
trên thực tế núi Tiên du ở về phía đông của làng Đình bảng hiện nay, thì làm
sao đứng ở Đình bảng ngó về phía tây, ta lại thấy được núi Tiên du? Phải chăng
Thiên trụ muốn chỉ một ngọn khác ở phía tây làng Đình bảng, nơi chúng tôi giả
thiết có mộ của Hiển Khánh đại vương? Chúng tôi nghĩ, Thiên trụ có thể chỉ là
một gò đất hay ngọn núi ở phía tây, nhưng hiện chưa có những bằng chứng rõ rệt.
Cao thế và Viễn thế trong hai câu 2 và 3 chắc chỉ những tên đất, những làng
xóm, song chúng tôi chưa truy cứu được. Thượng tướng là tên ngôi sao thứ nhất
trong cung Văn xương thuộc Trung cung thiên văn học cổ đại Trung Quốc. Xem
chẳng hạn Sử kyù 27 tờ 3a13. Nó nhằm chỉ uy vũ.
Thế thế
quân vương cầu Lục tổ1.
Sư sai
người chép lấy chúng và ghi lại mốc giới của ngôi mộ để Sư đến xem. Bèn nói bài
kệ rằng:
Đông có
Vũ long xóm Nam
có Vũ long bờ Tây có quán Rừng hạc Bắc có Trấn hải hồ2
Chặng
lâu sư lại nói:
Chỉ
trong ba tháng thôi Thân vệ lên ngôi xã tắc Lạc trà ấn có chữ Quốc
Mười
khẩu xuống nước đất3
Gặp
thánh gọi Thiên đức.
Sai vua cải
Cổ pháp làm Thiên đức4 ấy bởi đúng lời Sư vậy. Còn những chuyện xảy ra ở các
chùa thì đều lấy ra từ Quốc sử, nên đây không chép chúng.5
1 Nguyên
văn:
Chính
bắc Phù cầm đương bạch hổ An lạc nam nữ thường vô khổ
Đại đại
Thiên đức trường thọ lạc Thế thế quân vương kỳ Lục tổ.
Phù cầm
là một tên làng, mà chính Thiền uyển tập anh xác nhận trong truyện Minh Trí và
truyện Nguyện Học, khi nó bảo cả hai người này đều quê quán làng Phù cầm. Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tân lương, cũng có ghi một bến đò tên
Phù cầm trong 17 bến đò của sông Nguyệt Đức, nằm giữa hai bến đò Phù yên và Đấu
hàn. Đấu hàn là quê quán của Đỗ An Vĩnh tiến sĩ 1499 và Phù yên là quê quán của
Lê Doãn Chấp tiến sĩ 1505, như Đại Việt lịch triều đăng khoa lục đã ghi lại. Và
cả hai làng đó đều thuộc hạt Yên phong" nghĩa là thuộc huyện Yên phong,
tỉnh Bắc ninh ngày nay. Làng Phù cầm do thế cũng phải thuộc huyện đấy.
Còn chữ
Bạch hổ nó có thể là tên riêng chỉ một cây cầu hay bến đò hay ngọn núi nào đấy.
Nhưng nó cũng có thể là một từ thuần túy địa lý bói huyệt. Về trường hợp trước,
chúng tôi hiện chưa tìm thấy một địa danh Bạch hổ nào xung quanh Phù cầm, nên
không thể trả lời được. Về trường hợp sau, thì trong cách bói huyệt thứ 13, Tả
Ao chân truyền địa lý tờ 14b2-4 có viết:
Tổ phát
tả kiên nhập hữu kiên Sơn cao huyền vũ thủy chi huyền
Nhật
minh nguyệt chiếu đường triều nội Thử địa vinh hoa phú quý tuyền.
Rồi nó
chú tiếp thế này "Mạch bắt đầu từ cung Rồng, rồi chuyển đến cung phải lại
đến cung trái mới vào huyệt. Cung rồng là án chầu phía trước. Cát bạch hổ trùng
điệp, núi Huyền Vũ dốc cao, sông Minh đường nước đọng, nếu soi sáng vào trong
huyệt thì con gái sinh nhiều phú quý. Đây là một quý cách". Nếu hiểu từ
"bạch hổ" theo lối đây, thì dĩ nhiên mặt đất của Phù cầm có những
ngôi mộ làm sinh ra những người con gái có nhiều phú quí. Nếu vậy, phải chăng
mẹ của Lý Công Uẩn là người Phù cầm? Sử không ghi rõ nên ta không biết được.
Cuối
cùng, về chữ Lục tổ, đấy là đọc theo bản đời Lê, còn bản đời Nguyễn viết thành
Đại tổ. Nó hiển nhiên nhằm chỉ chùa Lục tổ, nơi Vạn Hạnh sống và dạy dỗ Lý Công
Uẩn, và là nơi Uẩn trưởng thành.
2 Bốn
câu thơ này để xác định ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương. Nhưng vị trí nó ngày
nay ta chưa thể khảo được, bởi vì những tên đất đến tên ao như: Vũ long, Hạc
lâm, và Trấùn hải, ta hiện chưa phát ra vị trí của chúng. Riêng về Hạc lâm, nó
có thể là chùa Hạc lâm của Pháp Thông, người đã cùng Huệ Sinh thờ Định Huệ làm
thầy, như truyện Huệ Sinh tờ 57b11 đã ghi.
3 Nguyên
văn: Thập khẩu thủy thổ khứ. Đây là nhắc lại việc Định Không làm chùa Quỳnh lâm
tại làng Đình bảng, đào gặp 10 cái khánh, mà khi đem đi rửa chìm mất một cái
xuống sông. Từ đó Không đề nghị đổi làng mình thành làng Cổ pháp. Chữ cổ là do
chữ thập và khẩu ghép lại, mà hai chữ đó có nghĩa "mười cái". Chữ
Pháp là do chữ thủy và chữ khứ ghép lại, và chúng có nghĩa "chìm xuống
nước". Xem truyện Định Không ở trên.
4 Đại
Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B3 tờ 3a3 viết: "Năm Thuận Thiên thứ 1
(1010) cải Cổ pháp làm phủ Thiên đức". Việt sử tiêu án 1 tờ 79b8 và Cương
mục chính biên 2 tờ 11a1 cũng chép vậy.
5 Quốc
sử chắc chỉ Đại Việt sử ký của Trần Chu Phổ và Lê Văn Hưu. Đại Việt sử lược và
Toàn thư hiện tại chỉ ghi lại trong hai ba việc, mà tác giả Thiền uyển tập anh
giả thuyết Quốc sử phải ghi đủ, đấy là chuyện chó chùa Thiên ứng tâm có lông
thành chữ
50. HIỀN
SƯ Định Huệ
Chùa
Quang hưng, làng An trinh, phủ Thiên đức1. Người Cảm điền, Phong châu2, họ
Khúc. Ban
đầu cùng
với Vạn Hạnh thờ Thiền Ông làm thầy, rồi nhận được tâm ấn.
Đến khi
tịch, bèn truyền pháp mình cho đệ tử là Lâm Huệ Sinh.{Cứ Nam tôn tự pháp
đồ thì nói là pháp tự của Vạn Hạnh. Sợ e sai. Nay theo y bản truyện} (33b1)
51. THIỀN
SƯ Đạo Hạnh (? - 1117)
Chùa
Thiên phúc3, núi Phật tích4, họ Từ, tên Lộ. Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng
quan đô án, thường đi học tại làng An lãng1. Lấy một người con gái họ Tăng rồi
theo quê vợ. Sư là con nàng Tăng Thị vậy.
"Thiên
tử" và chuyện sét đánh thành văn thôi. Còn chuyện sâu ăn cây đa chùa Song
lâm thì bây giờ không thấy cuốn sử nào ghi tới. Nó chắc đã bị các tác giả sau
Lê Văn Hưu tước bỏ.
1 Làng
An trinh, phủ Thiên đức này chúng tôi hiện chưa khảo được đích xác là làng nào
thuộc huyện nào của tỉnh Bắc ninh ngày nay. Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi
một làng tên An trinh thuộc tổng Văn thai, huyện Cẩm giàng, trấn Hải dương.
Chúng tôi chắc làng An trinh này không phải là làng An trinh của Định Huệ ở
đây, nhưng cứ ghi ra, bởi vì huyện Cẩm giàng theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh
Hải dương, mục Kiến trí diên cách thì huyện Cẩm giàng "đời thuộc Minh
thuộc vào châu Thượng hồng, phủ Lạng giang".
2 Tức
thuộc phần đất tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Xem chú thích (6) truyện Pháp Hiền. Về
Cẩm điền, bảng danh sách các tổng xã của hai tỉnh Sơn tây và Vĩnh yên trong Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tục khảo, không có tổng xã nào tên Cẩm
điền cả. Nhưng một số làng hai huyện Tam dương và Yên lạc có những tên bắt đầu
bằng chữ "cẩm" hay chữ "điền", hay kết thúc bằng chữ
"điền". Đấy là xã Điền trù của tổng Bình hòa, xã Cẩm trạch của tổng
Đạo tú và xã Đại điền của tổng Quan ngoại thuộc huyện Tam dương, và những xã
Cẩm la, Cẩm trạch và Cẩm viên của tổng Nhật chiếu thuộc huyện Yên lạc. Chúng
tôi nghĩ Cẩm điền có lẽ gồm phần đất của hai tổng Đạo tú và Quan ngoại vừa
thấy.
3 Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tự quan, viết: "Chùa Thiên phúc tại
xã Sài tây, huyện Yên sơn, xưa gọi là am Hương giang (nên đọc hải, Lê Mạnh Thát
chú) lại gọi là viện Phổ đà. Chùa bên trái thờ Từ thiền sư bên phải thờ tượng
Lý Thần Tôn, ở giữa thờ tượng Phật. Thiền sư họ Từ tên Lộ, tự Đạo Hạnh, người
An lãng huyện Vĩnh thuận, tỉnh Hà nội, là bậc cao tăng của thời đó đến trác
tích ở đây. Lý Nhân Tôn tuổi đã cao mà chưa có con nối dõi. Em vua là Sùng Hiền
Hầu cũng chưa có con, cùng với Đạo Hạnh nói việc cầu tự. Đạo Hạnh hẹn ngày kia
khi phu nhân sắp sanh thì nên báo trước cho biết. Sau đó, khi phu nhân sắp
sinh, bèn đi báo. Đạo Hạnh tức khắc thay quần áo tắm rửa, vào trong động mà thi
giải. Phu nhân liền sinh một người con trai ấy là Thần Tôn. Người làng cho đó
là điều lạ, đem thây bỏ vào trong khám mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3, tục
truyền đó là ngày kỵ của Sư, sĩ nữ tụ họp đông đảo, làm thành một chỗ du ngoạn
đẹp đẽ của địa phương. Văn nhân danh sĩ phần nhiều có làm thơ vịnh. Thâycủa Sư đến khoảng Minh Vĩnh
Lạc thì bị người Minh đốt cháy. Người làng lại đúc tượng Sư mà thờ. Trong
khoảng Lê Quang Thuận, cha của Hoàng hậu Trường Lạc là Nguyễn Đức Trung đi cầu
tự cho hậu ở trong động chùa đó thì có một mảnh đá bay tới. Bèn cầm về tạc
thành một tượng Phật mà thờ. Khi đã làm vậy, thì sau đó hậu mộng thấy rồng vàng
vào sườn bên trái, bèn sinh ra Hiến Tôn. Trong khoảng Cảnh Thống, bàn lập bia
am Hiển thụy khắc vào đá nay còn. Triều ta phong thần Từ Đạo Hạnh đại thiền sư
".
4 Lịch
triều hiến chương loại chí 3 tờ 8a6b1 viết: "Núi (Nguyên văn viết chùa, Lê
Mạnh Thát sửa) Phật tích ở xã Thủy khê, huyện Yên sơn, một tên là Sài sơn, lại
gọi là Cổ sài. Cảnh núi đẹp đẽ trông ngang xuống mặt hồ trên núi có hang sâu là
chỗ Từ Đạo Hạnh thi giải. Vách hang đang còn có dấu đầu và dấu chân. Trên đó có
am Hương hải và viện Phổ đà đều do Từ Công dựng nên, nay là chùa Thiên
phúc".
Kiến văn
tiểu lục 6 tờ 2a7-3a1 viết: "Sài sơn của huyện Yên sơn, đời Lý gọi là núi
Phổ đà lạc, đời Trần gọi là núi Phật tích.
Trên núi
có chùa và tiên động các nơi. Trong động có tám chỗ lõm, như dấu đầu người va
vào, lại có dấu chân như của người khổng lồ. Dưới núi có chùa Thiên phúc, trước
có hồ lớn, sau có lầu chuông, có chuông do Thiền sư Vạn Hạnh đúc thành, vào năm
Long Phù Nguyên Hoá thứ 9 (1109) triều Lý, đệ tử Huệ Hưng soạn ký, trước tác
lang Nghiêm Thường khắc chữ. Trên chuông có khắc hình cây bồ lao, dùng dây sắt
mà treo. Đấy là vật xưa 700 năm đến nay. Dưới lời ký có khắc sắc chỉ của Vua
Trần Anh Tôn cấp ruộng thờ cúngvào năm Hưng Long thứ 12 (1304). Bên cạnh có
Hiển thụy dựng trong khoảng Cảnh Thống, có bia ký do Thượng thư Nguyễn Bảo
soạn. Xét An nam chí có nói rằng: Núi Phật tích có một tảng đá, trên có dấu
chân người khổng lồ. Dưới chân núi có hồ, chu vi hơn ba dặm. Hai bên hồ và núi
có dựng nhà thủy tạ. Tháng 5 tháng 6 hoa sen nở đầy hồ, mùi thơm sặc cả người.
Trên núi có chùa Thiên phúc, sơn phết rực rỡ, thực là danh thắng một phương,
chỉ nói trên núi Phật tích có chùa Tư phúc, có am Biện tài và am Cực lạc. Người
của châu và những con em của phường du lịch thường mỗi năm vào tháng 3 đến dạo chơi
xem l, đèn nhang chất đống, xe ngựa dập dìu, văn nhân danh sĩ phần nhiều đều có
đề thơ vịnh cảnh. Tức là núi đó".
Xem thêm
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên và mục phụ khảo về núi.
Lúc nhỏ,
Sư ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, lại có hành động nói năng người
đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê
Toàn Nghĩa2 và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. Đêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì
thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Thân phụ thường trách Sư biếng nhác.
Một hôm,
ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất
đống, Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn.
Từ đấy
ông cụ không lo nữa.
Sau đó
ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch liên3. Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh
dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu4. Hầu nhờ pháp sư Đại Điên5 dùng phép
đánh chết (54a1), ném xác
1 Làng
Yên lãng đây tức là làng Yên lãng thuộc huyện Vĩnh thuận của Bắc thành địa dư
chí lục 1 và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Từ miếu và Tự quán, tức
làng Láng ở gần phía tây Thủ đô Hà nội ngày nay. Làng này hiện có chùa thờ Đạo
Hạnh, tục gọi là chùa Láng. Bắc thành địa dư chí lục 1 chép chuyện đấy vào thế
kỷ 19 như sau: "Chùa Yên lãng tại trại Yên lãng, huyện Vĩnh thuận, thế
truyền là chỗ tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh triều Lý. Thiền sư là kẻ có thù
với Thiền sư Đại Điên xã Dịch vọng. Đạo Hạnh sau đó đi Tây vực học đạo, trở về
giết Đại Điên, nên lệ chùa Yên lãng mỗi năm vào tháng 3 phải rước thần qua chùa
hai xã Yên quyết và Dịch vọng, đốt pháo múa gậy, giống như có việc đánh nhau,
để diễn lại chuyện đó. Nay chùa Yên lãng có một hòm gỗ trong đựng một miếng
đồng có chữ phạn viết bằng son. Đó là di tích của Sư. Sau Đạo Hạnh đến tu đạo
tại Sài sơn, tỉnh Sơn tây, rồi đầu thai làm Lý Thần Tôn".
Đây như
vậy chỉ nói tên cha và trú quán, nhưng không nói tên mẹ và nguyên quán của Từ
Đạo Hạnh. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục từ miếu, nhân viết về đến
Từ Đạo Hạnh Thiền sư ở chân núi Sài sơn huyện Yên sơn, nói: Xét trong đền thì
bên trái thờ tượng Từ Đạo Hạnh, bên phải thờ tượng Lý Thần Tôn, ở giữa thờ
tượng Phật. Một thuyết nói rằng Đạo Hạnh là người thôn Đồng bụt, huyện Yên sơn,
cha là Từ Vinh mẹ là Tăng thị Loan. Nay tương truyền ở Đồng bụt có nền cũ nhà
họ Từ, trước chùa có 70 mẫu ruộng là ruộng họ Từ, nay đem làm tự điền cho thôn
ấy".
Cứ đây
thì nguyên quán của Đạo Hạnh là thôn Đồng bụt, huyện Yên sơn tỉnh Sơn tây.
Truyện Đạo Hạnh ở đây nói rõ Yên lãng là trú quán của Hạnh, nên ta khỏi phải
đặt nghi vấn về chuyện đâu là quê quán của Hạnh, như Đại nam nhất thống chí đã
làm.
2 Đại
Việt sử lược 2 tờ 16a10 viết: "Năm Quảng Hựu thứ 7 (1091) kiến quan Lê
Toàn Nghĩa dâng rùa năm sắc". Toàn thư B3 tờ 12a9 cũng ghi chuyện này,
nhưng không ghi chức quan của Nghĩa.
3 Truyện
Từ Đạo Hạnh trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 28-31 chép hoàn toàn giống
truyện Từ Đạo Hạnh ở đây, nhưng sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí
trúng", nó lại thêm 7 chữ "Bạch liên khoa, vị cơ phụ Vinh",
trước khi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu". Truyện Đạo Hạnh
ở đây, sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng", lại bỏ trống một
đoạn đúng chỗ cho 7 chữ, rồi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành
Hầu". Chúng tôi nghĩ rằng khoảng trống 7 chữ đây đúng là chỗ của 7 chữ
hiện còn chép trong Lĩnh nam trích quái mà để bản của bản in Thiền uyển tập anh
năm 1715 đã bị rách hay mọt ăn mất, nên người hiệu đính cho bản in đây đã để
trống đúng 7 chỗ cho những chữ mất đó. Đây là một ưu điểm lớn của bản in năm
1715 giữa những ưu điểm khác của nó. Bản in đời Nguyễn không để một khoảng
trống nào cả, nên dù có bản của Lĩnh nam trích quái chăng nữa, ta cũng không
thể nào nhận ra khoảng đấy thiếu mấy chữ. Chúng tôi do thế đề nghị thêm 7 chữ
trên vào chỗ trống ở tờ 53b10 của Thiền uyển tập anh, để cho ý nghĩa của câu "hậu
ứng tăng quan ngự thí trúng... " và câu "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành
Hầu" ở trước và sau khoảng trống đấy được rõ hơn. Nếu chấp nhận, hai câu
ấy bây giờ đọc: "Hậu ứng tăng quan thí trúng Bạch liên khoa. Vị cơ phụ
Vinh dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu", mà ta có thể dịch thành: "Sau
đó Sư ứng thi điện thí tăng quan, trúng khoa Bạch liên. Chẳng bao lâu, cha Sư
là Vinh dùng tà thuật làm mích lòng Diên Thành Hầu ..."
Khoa
Bạch liên là khoa gì vào thời Lý, chúng tôi hiện chưa thể khảo được.
4 Diên
thành hầu (? - 1117) là con của Lý Thánh Tôn và em của Nhân Tôn. Tính tình của
vị hầu này chắc nóng nảy lắm. Đại Việt sử lược 2 tờ 20a3 ghi lại một chứng sau:
"Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 4 (1104), mùa thu tháng 9 ngày mồng một. Diên
Thành Hầu lấy hốt đánh Trung Nghĩa Hầu ở điện Thiên an". Trung Nghĩa Hầu
(? - 1117) cũng là con của Thánh Tôn và chắc là em của Diên Thành, và điện
Thiên an là nơi thị triều của vua. Thế mà, giữa mặt bá quan văn võ, Diên Thành
đã lấy hốt đánh Trung Nghĩa.
5 Tức
Nguyễn Đại Điên, mà truyện Thần Nghi tờ 40a11 nói tới như đại biểu cho một
Thiền phái thứ 4 của thời Lý. Cứ vào truyện Đạo Hạnh ở đây, ta có thể đoán Đại
Điên bị Đạo Hạnh đánh chết vào khoảng năm 1110 bởi vì cuối truyện có chua câu:
"Giác Hoàng, hoặc có người nói là Đại Điên ấy vậy". Mà Giác Hoàng
theo Đại Việt sử lược 2 tờ 21a4, thì vào năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112)
là đã 3 tuổi rồi. Vậy Hoàng phải sinh năm 1110. Bấy giờ, nếu bảo Giác Hoàng là
Đại Điên thì đương nhiên Điên phải chết vào năm Hoàng sinh, tức năm 1110 ấy,
mới đầu thai thành Hoàng được, tối thiểu là bằng vào sự tin tưởng huyền thuật
đương thời. Cho nên, việc liên hệ Đại Điên với sự sinh của Giác Hoàng phải giả
thiết rằng Điên chết vào năm Hoàng sinh.
Về
nguyên quán của Điên, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tăng thích, có
ghi một vị sư tên Nguyễn Đạo Hạnh và nói: "Sư người huyện Tiên phong là
miêu duệ của Thiền sư Thái Điên, bình sanh cùng sư Nguyễn Minh Không và Từ Đạo
Hạnh làm bạn, học thuật tu luyện, sau hóa thân ở xã Chiêu nhân thổ nhân bèn lập
đền thờ". Thái Điên đây, chúng tôi nghi cũng là Đại Điên, bởi vì Việt sử
tiêu án 1 tờ 108b9 dẫn Ngoại truyện nói: "Cha Đạo Hạnh là Từ Vinh vì pháp
thuật bị sư Thái Điên đánh giết". Như vậy quê hương của Đại Điên là vùng
đất huyện Tiên phong, tức huyện Quảng oai, tỉnh Sơn tây bây giờ. Kiến văn tiểu
lục 9 tờ 16a1 17a2 viết rất là dài về cuộc đời nhà sư Nguyễn Đạo Hạnh đây và
nói: "Ông người xã Vịnh phệ, huyện Tiên phong". Nếu vậy Điên là người
xã Vịnh phệ.
xuống
sông Tô lịch1. Xác trôi đến cầu Quyết2 là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà
chỉ tay vào nhà, suốt ngày không đi. Hầu sợ, đi báo cho Đại Điên. Đại Điên đến
nơi, đọc một câu kệ: " Tăng giận không cách đêm". Đọc xong, xác đáp
lại trôi đi.
Sư nghĩ
cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm, Sư rình Điên đi khỏi
nhà, muốn đánh lén, chợt nghe trên không có tiếng la: "Đừng, đừng! Sư sợ
hãi vứt cây mà chạy. Sư muốn sang Ấn độ, tìm học phép linh dị để chống lại Đại
Điên. Đi đến xứ Mọi răng vàng3, đường xá hiểm trở, Sư bèn trở về ẩn tại núi ấy,
hằng ngày chuyên tụng chú Đại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm Sư
thấy thần nhân đến trước mặt mình nói: "Đệ tử là Tứ trấn Thiên vương4, cảm
công đức trì xứ của Sư, nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo". Sư biết đạo
pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha nên mới đến bến Quyết, cầm gậy, thử
ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến cầu Tây
dương5 dừng lại. Sư mừng (54b1) nói: "Pháp ta thắng rồi". Bèn đến
thẳng chỗ Đại Điên. Điên thấy nói:
Cuối
cùng, về ngôi chùa trú trì của Điên, Bắc thành địa dư chí lục 1 nhân viết về
chùa Yên lãng dẫn trước nói "Đạo Hạnh có thù với Thiền sư Đại Điên xã Dịch
vọng". Như thế, vào thế kỷ thứ 19 người ta coi Điên sống ở xã Dịch vọng.
Làng Dịch vọng này, Toàn thư B3 tờ 3a3-8 nói là nơi có chùa Thánh chúa. Ở đây
đã có vị sư dạy Nguyễn Bông cái thuật đầu thai thành Lý Nhân Tôn. Dã sử về thần
tích của _ Lan nói rõ ra vị sư chùa Thánh chúa, đấy không ai khác hơn là Đại
Điên. Từ đó, ngôi chùa Đại Điên ở chắc không chùa nào khác hơn là Thánh chúa,
làng Dịch vọng, huyện Từ liêm ngày trước, tức huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày
nay. Sự việc Nguyễn Bông xảy ra vào năm 1063. Thế thì, Điên sống tại chùa đấy
vào khoảng từ năm đó.
1 Bắc
thành địa dư chí lục 1 viết: "Sông Tô lịch ở phía đông của thành (Hà nội)
phân lưu từ sông Nhị, theo thành từ phía Bắc mà chảy qua phía tây gặp sông Hà
liu và sông Nhuệ, hai sông cùng chảy đổ vào. Sông này, mùa đông và xuân thì khô
cạn, mùa thu và hạ thì thuyền đi được... Quốc sử của Ngô Sĩ Liên nói:
"Sông này hễ khi có mưa lớn thì nước đầy ứ mà chảy ngược. Họ Ngô nói:
"Sông Tô lịch chảy đi ra từ sông Nhị bắt đầu từ phường Hà khẩu chảy qua
Tây hồ, Thụy Chương, Yên hoa và Yên quyết thì cạn thuyền đi không được, vì dân
ở hai bên sông cứ để ngói đá lấp đầy, khi mưa to nước ứ lại không chảy được,
nên phải chảy ngược lại thì không có gì là lạ".
2 An nam
chí lược 1 tờ 24 viết: "Sông Tô lịch chảy quanh La thành. Sông có năm cầu
đều rất đẹp". Nhưng nó không cho biết năm cầu đó. Ta ngày nay có thể truy
nhận tối thiểu tên của ba cầu, đấy là cầu Tây dương, cầu Yên quyết và cầu Nhân
mục. Toàn thư B10 tờ 21b 2-5 trong khi mô tả diễn tiến của chiến dịch Tốt động,
Chúc động, đã viết về những hướng xuất quân của Vương Thông từ thành Đông quan
như sau: "Ngày mồng 6, Vương Thông v.v. của
nhà Minh đem lính cũ lính mới 10 vạn người phân
làm ba
đạo quân đánh ta. Vương Thông do ngã Khâu ôn qua cầu tây dương đến đóng ở bến
Cổ sở, dựng cầu nổi cho quân đi. Phương Chính xuất quân từ cầu Yên Quyết, đóng
ở cầu Sa đôi. Sơn Thọ và Mã Kỳ đi ra từ cầu Nhân mục, đóng ở cầu Thanh oai.
Chúng dựng doanh trại vài chục dặm, cờ xí rợp đồng, giáp trượng sáng trời, tự
bảo rằng chúng chỉ một lần đánh là bắt hết nghĩa quân".
Cầu Nhân
mục, tên nôm gọi là cống Mọc, ngày nay thuộc làng Nhân chính, huyện Hoài đức,
tỉnh Hà đông, và vết tích của nó hiện còn là chiếc cầu bắc ngang sông Tô lịch
tại làng đấy.
Còn cầu
Yên Quyết, tên nôm nó gọi là cống Cót, ngày nay là chiếc cầu bắc ngang sông Tô
lịch tại địa phận làng Yên quyết huyện
Hoài đức, tỉnh Hà đông. Vì cầu Yên quyết có tên nôm là cống Cót, cho nên chữ
Quyết kiều ở đây đúng ra phải dịch là cống Cót, nhưng vì không chắc chữ Cót
phát âm như thế nào vào thời Lý, nên chúng tôi vẫn để nguyên và dịch là:
"cầu Quyết". Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt tr.499 vì chấm câu
lộn, nên đã đọc thành cầu Vu quyết. Về cầu Tây dương thì cứ trên đường hành
quân của Vương Thông, nó phải là cầu Giấy, bởi vì để đi từ Đông quan tới Cổ sở,
người ta phải đi qua cầu Giấy ở sông Tô lịch, rồi qua cầu Din hay Phù diễn ở
sông Nhuệ thì tới bến Cổ sở trên sông Đáy thuộc làng Yên sở ngày nay. Như vậy,
cầu Tây dương không gì khác hơn là cầu Thượng yên quyết, mà Đại nam nhất thống
chí, tỉnh Hànội, mục Tân lương, nói là "tục gọi cầu Giấy, cầu dài ba
trượng, có lợp ngói ở về huyện Từ liêm".
3 Mọi
răng vàng hay Kim xỉ man là tên một dân tộc ít người, vào thời Đường thì đang
còn ở phần đất thuộc Vương quốc Pyu, nhưng
đến đời
Nguyễn và cho tới nay thì phần đất ấy thuộc tỉnh Vân nam của Trung Quốc. Xem
Nguyên sử 16 tờ 8a4.
Gọi là
mọi răng vàng dân tộc ấy dùng vàng lá mà trang sức răng mình, "khi ăn thì
lấy ra". Họ có nhiều giống, mà Tân đường thư 222 hạ tờ 15b-16a liệt ra như
giống Tú cước, giống Tú diện, giống Điêu đề, giống Xuyên tỷ. An nam chí lược 1
tờ 19 nói: "Đà Giang Lộ tiếp giáp với Kim xỉ". Kim xỉ đây đương nhiên
là Kim xỉ man. Và nếu như vậy, thì Đạo Hạnh vừa mới vượt khỏi biên giới nước ta
thôi.
4 Tức Tứ
Thiên Vương, đấy là Trì Quốc ở phía đông, Tăng Trưởng ở phía nam, Quảng mục ở
phía tây, và Tỳ Sa Môn ở phía bắc của tầng thứ tư núi Tu di, quản thủ bọn Dạ
xoa và La sát. Chúng có nhiệm vụ bảo vệ thế giới, theo vũ trụ quan thần thoại
của một số trường phái Phật giáo. Xem chú thích (7) truyện Khuông Việt, và Khỉ
thế nhân bản kinh 6 tờ 394c.
5 Chú
thích (10) trên cứ vào đường hành quân của Vương Thông do Toàn thư ghi lại, đã
đồng nhất cầu Tây dương với cầu Giấy. Mà cầu Giấy theo Đại nam nhất thống chí,
tỉnh Hà nội, mục Tân lương là tên nôm của cầu Thượng yên quyết. Làng Yên quyết
thực ra có hai, đấy là làng Thượng yên quyết và Hạ yên quyết. Đại Việt lịch
triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ hai làng đó như Đặng
Công Toản khoa 1520, Nguyễn Sằn khoa 1554, Nguyễn Dụng Ngãi khoa 1574, của làng
Thượng yên quyết, Hoàng Quản Chí khoa 1393, Nguyễn Như Uyên khoa 1409, Nguyễn
Khiêm Quang khoa 1523, Nguyễn Nhật Tráng khoa 1595, Nguyễn Dụng Triêm khoa 1602
v.v... của làng Hạ yên quyết. Vậy thì, cầu Quyết hay cầu Yên quyết của truyện
đây là cầu Hạ yên quyết, còn cầu Tây dương hay cầu Giấy là cầu Thượng yên
quyết. Bến Quyết cũng ở làng Hạ yên quyết. Xác định như thế, bây giờ nó trở
"Ngươi
không nhớ việc ngày trước sao?".
Sư ngửa
mặt lên nhìn trời, lặng lẽ không thấy gì, nhân đó đánh mạnh, Đại Điên phát bệnh
chết. Từ đấy oán xưa rửa sạch, niệm tục tiêu tan. Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin
ấn chứng. Nghe Kiều
Trí
Huyền hóa đạo ở Thái bình1, Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng
bài kệ: "Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng
Chẳng
hay đâu chốn, ấy lòng chân Nguyện xin chỉ rõ bày phương tiện Thấy trọn như như
khỏi nhọc tìm".
Trí
Huyền đáp lại bằng bài kệ:
"Tiếng
ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu
Ở trong
tỏ rõ ý thiền nao Bồ-đề đạo đó hà sa cõi
Muốn tới
còn xa mấy vạn sào".
Sư mù
mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp vân hỏi: "Thế
nào là chân tâm?".
Phạm hỏi
lại: "Cái gì chẳng phải là chân tâm?". Sư tỉnh ngộ, nói: "Làm
thế nào bảo đảm?".
Phạm
đáp: "Đói ăn, khát uống".2
Sư lễ
tạ, từ giã ra đi. Từ đấy (55a1) pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể
sai rắn núi, thú rừng, họp nhau đến chịu thần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa,
đọc chú dùng nước chữa bệnh, không gì là không tức khắc ứng nghiệm3.
Có vị
Tăng hỏi: "Đi, đứng, nằm, ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm
Phật?".
Sư dạy
bài kệ:
"Tạo
có, mảy may có thành rõ ràng là Đại Điên trụ trì chùa Thánh chúa làng Dịch vọng
ở sát làng Thượng yên quyết, thì khi đánh chết Từ Vinh, xác Vinh tất ném xuống
sông Tô lịch từ khoảng cầu Tây dương, trôi xuôi cho đến cống Cót, nơi có nhà
Diên Thành Hầu rồi dừng lại. Tới khi Đạo Hạnh ném gậy mình từ bến Cót, nếu trôi
ngược nó tất nhiên phải lên đến cầu tây dương hay cầu Thượng yên quyết, chứ
không thể cầu nào khác.
Cầu Tây
dương gọi là cầu Giấy tối thiểu bắt đầu từ thời Lý, bởi vì gần cầu đó có xóm
chuyên chế tạo giấy, tên là xóm Chỉ tác hay xóm làm Giấy. Xem Đại Việt sử lược
3 tờ 29a11.
1 Thái
bình đây chắc là phủ Thái bình, nơi có chùa Khai thiên do Nguyễn Quang Lỵ dựng,
và Ma Ha trụ trì. Xem chú thích (10)
truyện Ma Ha. Tuy nhiên, trong vùng Hưng yên, đất của phủ Thái Bình cũ,
không thấy có làng nào thờ Đạo Hạnh cả. Trái lại, theo Đại nam nhất thống chí,
tỉnh Nam định mới có một số làng thờ Đạo Hạnh thuộc huyện Nam chân như làng
Chân nguyên, làng Vân chàng, làng Kinh lủng... rồi nó viết tiếp: "Hạnh
thuở nhỏ ưa đi chơi đến xã Chân nguyên, dựng chùa Đại bi, ở đấy trú trì, sau
dân làng tôn làm Tổ sư. Thế thì, vùng Thái bình do Kiều Trí Huyền giáo hóa phải
chăng nằm tại đất tỉnh Nam
định? Đây là một có thể. Về Kiều Trí Huyền, nay ta không biết gì hết về tông
tích tôn phái của ông.
2 Cơ xan
khát ẩm, cách ngữ của Thiền gia chỉ đạo lý thiền không ở đâu xa, mà ở ngay
trong chính những công tác thường nhật nhất. Sư Nguyên Tân đến hỏi Thiền sư Đại
Châu Huệ Hải: "Hòa thượng tu đạo có dụng công không?". Hải đáp:
"Dụng công". Hỏi "Dụng công ra sao?". Đáp: "đói đến
thì ăn cơm mệt lại thì đi ngủ". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c 1-3.
3 An nam
chí nguyên tờ 209 dẫn ý chính của đoạn này về Đạo Hạnh: "Thiền sư Đạo Hạnh
là vị sư huyện Thạch thất, thường đi khắp tòng lâm tìm tòi bậc trí thức, khi
duyên đạo đã chín, pháp lực có thêm, Sư có thể sai sử chim rừng thú nội họp
nhau đến chịu phục. Sư cầu mưa trị bệnh, không gì là không ứng nghiệm, nay xác
thịt đang còn".
Việc sử
dụng những ngữ cú và văn ý đồng nhất với Thiền uyển tập anh như đây chứng tỏ
tác giả An nam chí nguyên hay tác giả một cuốn sách khác mà ông vẫn phải sử
dụng Thiền uyển tập anh. Do vậy, trước bản in năm 1715, Thiền uyển tập anh phải
có in một lần nào đó. Chính qua bản in hay tối thiểu bản chép trước năm 1715 mà
An nam chí nguyên hay một cuốn sách trước nó đã rút những dẫn trên về Đạo Hạnh.
Lại bảo:
Làm
không, tất cả không , Có không như trăng nước, Chớ vướng có không không".
"Trời
trăng đỉnh núi cao Người người mất hết châu Kẻ giàu cóngựa tốt
Đi bộ
chẳng cỡi câu".
Bấy giờ,
vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng. Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3
(1112), người phủ Thanh hóa dâng sớ tâu rằng: "Trên bãi cát biển, có đứa
bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết nói, tự xưng con đích của bệ hạ tên là
Giác Hoàng. Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không biết".
Vua sai
trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa Báo
thiên. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập làm
hoàng thái tử. Quần thần hết sức can gián, cho là không được (55b1), và nói:
"Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung cấm, sau mới có
thể lập". Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác
thai.
Sư nghe
chuyện, riêng nói rằng: "Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm. Ta há
nhẫn tâm, ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối chánh pháp
sao!".
Nhân
thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết
ấn, treo trên mái diềm. Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh, nói với mọi
người: "Đầy khắp cả nước đều có lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh, mà
sợ không có đường vào".
Vua nghi
Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng thánh, hợp
quần thần nghị tội. Khi Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Sư kêu van: "Xin hết
sức cứu bần tăng một phen, may thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để
đền ơn".
Hầu nhận
lời. Đến lúc hội nghị, quần thần đều nói: "Bệ hạ vì không có con, nên mới
cho Giác Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liều lĩnh dám làm chú giải, kết án tử hình,
để tạ lòng thiên hạ".
(56a1)
Hầu chậm rãi thưa: "Nếu Giác Hoàng có thần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải
cũng không làm hại được. Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy.
Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục Lộ, thì đừng cho y thác sinh".
Vua xá
tội1.
1 Đại
Việt sử lược 2 tờ 21 a4-b5: "Hội Tường Đại Khánh năm thứ 3 tháng 2 người
Thanh hóa nói rằng: "ở Hải tân có một đứa bé lạ lùng, tuổi mới lên ba, mà
hiểu được tiếng nói, tự xưng là đích tử của Hoàng đế, gọi mình là Giác Hoàng,
hễ vua cử động thì không gì là nó không biết trước. Vua sai Trung sứ đến hỏi
xem thì những gì người ta nói đều đúng cả, bèn rước về ở tại chùa Báo thiên. Vì
sự linh dị của nó, vua thương yêu nó càng nhiều. Bấy giờ, vua không có người
nối dõi, muốn lập nó làm Thái tử, quần thần không chịu, mới thôi. Bèn liền lập
trai hội ở trong cung cấm, muốn khiến Giác Hoàng đầu thai vào làm con mình.
Có nhà
sư núi Phật tích là Từ Lộ Đạo Hạnh nghe việc ấy mà không vui bèn sai người chị
mình là Từ Thị đến phó hội, lén lấy vài hạt châu có kết ấn rồi trao cho, bảo:
"Đến chỗ hội thì hãy nhét vào đầu mái diềm, đừng để cho ai thấy
biết". Từ Thị làm theo lời dặn của sư. Giác Hoàng bỗng chốc mắc bệnh sốt
trẻ con, bèn nói với người ta rằng: "Tôi thấy khắp cả nước đều có lưới sắt
bao phủ, không có ngõ nào mà thác sinh vào cung được". Vua ra lệnh mở một
cuộc lùng soát lớn thì bắt được những hạt châu do Từ Thị giấu, bèn bắt Lộ trói
ở làng Hưng thánh, muốn đặt vào tội xử tử. Gặp khi Sùng Hiền Hầu vào chầu, Lộ
gào khóc thảm thiết nói rằng: "Xin Hầu ra tay cứu vớt bần tăng nếu may mà
được thoát chết thì sẽ vào làm con của Hầu để đáp lại ân đức". Hầu bằng
lòng, nên khi vào gặp vua, Hầu mưu cứu bằng trăm lối, nói rằng: "Giác
Hoàng nếu thật có thần lực mà lại bị Lộ thư giải thì rõ ràng Lộ hơn Giác Hoàng vậy. Thần nghĩ
không gì hơn là cho Lộ thác sanh vậy". Vua bèn xá tội Lộ Toàn thư không
ghi chuyện này.
Sư đến
Nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư ép nhìn phu nhân. Phu nhân nổi
giận, đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu. Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt
cuộc không hỏi han gì. Phu nhân từ đó biết mình có thai. Sư dặn Hầu rằng:
"khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết".1
Đến ngày
đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay quần, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: Túc nhân
ta chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm quốc vương2. Đến khi thọ chung, lại
làm thiên tử trên cõi trời Tam thập tam3. Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy
ta mới vào Niết bàn, không ở cõi sinh diệt nữa".
Đồ chúng
nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ. Sư nói bài kệ rằng: "Thu
sang không báo nhạn về đây
Cười
nhạt người đời thương xót thay Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái
Thầy
xưa(56b1) bao thuở vẫn thầy nay".
Nói xong
kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn.4 5 6
1 Toàn
thư B3 tờ 16a2-6: "(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ ba, bây giờ tuổi vua đã
cao, mà không có con nối dõi, xuống chiếu chọn con tôn thất vào làm nối dõi. Em
vua là Sùng Hiền Hầu cũng chưa có con nối dõi. Gặp lúc nhà sư núi Thạch thất là
Từ Đạo Hạnh đến nhà Hầu để cùng nói chuyện cầu tự, Đạo Hạnh nói: "Ngày kia
khi phu nhân lâm bồn thì nên trước báo cho biết, bởi vì tôi đã vì Ngài đến cầu
xin ở thần núi rồi". Ba năm sau, phu nhân nhân thế mà có thai, sinh ra con
trai Dương Hoán".
2 Toàn
thư B3 tờ16b6-17a4: "(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ bảy, mùa hạ tháng sáu,
thầy Từ Đạo Hạnh thi giải ở chùa núi Thạch thất... Trước đó, phu nhân của Sùng
Hiền Hầu là Đỗ thị có thai. Đến lúc đó, khó sanh, Hầu nhớ lại lời nói ngày
trứơc của Đạo Hạnh, sai người chạy đến báo. Đạo Hạnh tức khắc tắm rửa thay áo,
vào trong hang thi giải mà mất. Phu nhân liền sanh được người con trai, tức là
Dương Hoán vậy. Người làng cho là truyện lạ, đem thi bỏ vào trong khám mà thờ.
Núi Phật tích ngày nay tức là chỗ của nó vậy. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 mùa
xuân, sĩ nữ tụ hội lại ở chùa, làm nó trở nên một nơi du ngoạn nổi tiếng. Người
sau ngoa truyền đó là ngày kỵ của Thầy". Đại Việt sử lược 2 tờ 22a5: ("Hội
Tường Đại Khánh thứ 7) mùa hạ tháng 6 thầy Đạo Hạnh hóa thân - Thần Tôn sinh
ra".
3 Tam
thập tam thiên (Phạn: Trayastrimsà), một tên gọi khác của cõi trời Đao lợi hay
Đâu suất đà (Phạn: Tusita), nơi ngự trị của Đế
Thích
theo huyền thoại Phật giáo. Xem Trường a hàm 20 và Câu xá luận 11 .
4 Toàn
thư B3 tờ 17a4-5: "Xác của Sư đến khoảng năm Vĩnh Lạc đời Minh mới bị
người Minh đốt. Người làng đúc lại tượng của Sư mà thờ như xưa, nay còn".
Thì rõ ràng, xác của Đạo Hạnh đang còn vào thời Trần, khi tác giả Thiền uyển
tập anh viết tác phẩm của mình. An nam chí lược 15 tờ 147-148 cũng nói:
"Sư nhục thân kim thượng tồn". An nam chí nguyên 3 tờ 209 viết:
"Kim chân hình thượng tồn".
5 Nguyên
văn: "Án Quốc sử, Hội Tường Đại Khánh bát niên, (nhân) Sùng hiền, Thành
Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Kỳ, Hầu tử, nghênh nhập trung cung giáo
dưỡng. Sùng Hiền (Khánh thọ bát niên đông thập nhị nguyệt đế băng) Hầu tử, niên
phương nhị tuế, đế thâm ái chi, toại lập vi Hoàng thái tử, chi Thiên Phù Khánh
Thọ nguyên niên đông thập nhị nguyệt đế băng, Thái tử tức vị, xuân thu nhị thập
nhất niên, tại vị phàn thập nhất niên, thuỵ viết Thần tôn, tức Sư thị giả, Giác
Hoàng hoặc Đại Điên thị giả".
Những
chữ để trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi coi như diễn tự và loại bỏ không
dịch, cứ vào lời chiếu tìm con tôn thất tìm con vào nuôi dưỡng trong cung của
Lý Nhân Tôn trong Toàn thư B3 tờ 18a8-b3: "Hội Tường Đại Khánh thứ 8 mùa
đông tháng 10... xuống chiếu nói rằng: "Trẫm trị muôn dân, đã lâu không có
con nối dõi, ngôi thứ của thiên hạ, thì có thể truyền lại cho ai. Vậy phải nên
nuôi dưỡng con của Sùng Hiền, Khánh Thành, Thành Quảng, Thành Chiêu và Thành
Hưng Hầu, rồi chọn đứa tốt nhất trong chúng mà lập lên". Bấy giờ con của
Sùng Hiền Hầu là Dương Hoán, tuổi mới lên hai mà đã thông minh lanh lợi, vua
rất thương yêu, bèn lập làm hoàng thái tử".
6 Lĩnh
nam trích quái tờ 28-31 chép truyện của Từ Đạo Hạnh hoàn toàn đồng nhất với
truyện đây, trừ một sai khác đáng chú ý là việc Đạo Hạnh thi trúng khoa Bạch
liên, mà Thiền uyển tập anh không nói rõ. Còn Từ Đạo Hạnh đại thành sự tích
thật lục do "Đạo nhân tam quán Tam Thanh" chép phụ vào Việt điện u
linh tập tờ 221-225, tuy cốt truyện vẫn giống, nhưng có một số chi tiết khá lôi
cuốn đáng ghi, nên đề nghị dịch lại sau:
"Xưa
Từ Đạo Hạnh, họ Từ tên Lộ cha là Vinh, dùng đạo Thích làm giáo tôn, làm quan
triều Lý đến chức Tăng quan đô sát, trước thường (qua chơi) làng An lăng, cưới
con gái họ Tăng tên Loan, làm nhà ở xóm Láng nam, làng An lãng, gặp được chốn
đất làm nhà là quí địa, nên bẩm sinh Đạo Hạnh có tiên phong đạo cốt.
Hạnh lúc
nhỏ ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, hành động cử chỉ, người ta không
thể lường. Thường cùng nhà nho Phí Sinh, Đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người hề Phan
Ất cùng nhau làm bạn. Ban đêm, Hạnh siêng năng chịu khó đọc sách, nhưng ban ngày thì đánh cầu, thổi sáo, đánh bạc làm
vui. Cha Hạnh thường quở trách Hạnh hoang chơi biếng nhác. Một hôm, ông lén
nhìn vào phòng Hạnh, thấy ngọn đèn leo lét như hạt đậu, sách vở chất đống, Đạo
Hạnh tựa vào bàn ngủ, mà tay vẫn chưa buông sách. Ông do thế không còn lo lắng
nữa. Sau Hạnh ứng thí khoa Bạch liên, đỗ đầu, nhưng không thích ra làm quan,
ngày đêm chỉ nghĩ tới việc báo thù cho cha.
Cha Hạnh
nguyên ngày trước dùng diệu thuật xúc phạm đến Diên Thành Hầu. Nhà Hầu có Pháp
sư Đại Điên dùng phù yếm giết chết, quăng thây xuống sông Tô lịch. Trôi đến cầu
Tây dương, chỗ nhà Diên Thành Hầu, cái thây dừng lại đó, suốt ngày không chịu
trôi đi. Hầu sợ, chạy báo cho Điên. Điên đến nói kệ rằng: "Tăng giận không
đầy đêm sao? Vả sống là trường du hý, chết mới thành đạo Bồ đề". Thây đáp
lại lời nói mà trôi đi, đến chỗ Hàm rồng làng Nhân mục cựu thì dừng lại. Người
ta thấy nó có linh dị, xã đó xây lăng miếu, đúc tượng phụng thờ, mỗi năm kỵ vào
ngày 10 tháng giêng. Bấy giờ mẹ Hạnh táng tại chùa Ba lăng, xã Thượng an. Nay
chùa Hoa lăng phụng thờ cả hai vị Thánh cha và Thánh mẹ.
Đạo Hạnh
chỉ nhằm phục thù, mà không tìm ra kế. Một hôm rình lúc Đại Điên đi ra sắp làm
pháp thuật, bèn lấy gậy sắp đánh Đại Điên, bỗng nghe trên không có tiếng mắng
bảo thôi. Đạo Hạnh bèn quăng gậy, trở về nhà, buồn rầu tức giận, muốn đi Tây
thiên Ấn độ, tìm học phép lạ, để chống Đại Điên. Bèn liền cùng Minh Không, Giác
Hải ra đi, đến nước Răng vàng đường đi hiểm trở, muốn trở về thì thấy một ông
già cỡi một thuyền con, thảnh thơi đi trên sông. Họ cùng đến hỏi: "Tới Tây
thiên còn bao xa". Ông già trả lời: "Đường núi hiểm cao, đi bộ không
được. Lão có chiếc thuyền nhỏ, xin giúp chở đi, lại có cây gậy nhỏ đây, nhắm
thẳng Tây quốc mà tới thì chẳng xa, lão xin bằng lòng ngay". Lại nói bài
kệ:
Cùng đi
đường đạo lẽ đương nhiên Nhiều ông xa học quyết nên danh Mênh mông muốn ngả sao
nhọc trải
Chỉ nhắm
Hoàng giang thấy thánh sanh.
Nói kệ
xong, trong khoảng nháy mắt, bỗng chốc đã đến bờ sông Tây thiên có nhiều thần
thông phép thiêng. Đạo Hạnh giữ thuyền. Giác Hải và Minh Không lên bờ, học được
phép thiêng, liền tự trở về trước. Đạo Hạnh giữ thuyền ba ngày, không thấy tin
tức hai người bạn , tự nhiên gặp một bà lão đến bên bờ sông, bèn chèo đến hỏi:
"Lão bà có từng thấy hai người đến cầu đạo không?" bà lão trả lời:
"Hai đứa đó đã nhận phép thiêng do ta dạy, đắc đạo trở về rồi". Đạo
Hạnh liền vái, vừa kể lại chuyện ba người cùng đi, bây giờ bỏ nhau, rất lấy làm
buồn. Bà lão nghe nói, tức sai Đạo Hạnh gánh hai thùng nước về nhà, ta sẽ dạy
cho ngươi vài phép thiêng cùng phép cho rút đất chân truyền và đà la ni.
Đạo Hạnh
tự hiềm hai người bạn đã thất ước, bèn tụng chú. Giác Hải và Minh Không đi đến
nửa đường thì bị chú làm đau tim, khó di động được. Hai người bạn nhìn nhau
kinh hãi. Bên ngoài tuy họ bị quấy rầy, nhưng bên trong nhờ đã học được linh
thuật, nên đang hoàn toàn tỉnh táo, biện biệt được hư thật, biết rằng nó quả do
Đạo Hạnh tạo ra. Họ nhìn nhau nói: "Ngươi muốn biết hậu thân của thân này,
thì hãy nhắm ta mà nói". Đạo Hạnh nhân thế đáp: "Chúng ta cùng học
đạo Thế Tôn, đạo quả đã thành hậu thân sẽ sinh lại thế gian làm bậc nhân chủ,
lại sinh mắc bệnh, quyết không thể tránh, các ngươi có duyên với ta, xin đến
cứu nhau".
Từ đó,
hận xưa hết sạch, cùng nhau truyền bá Phật pháp. Đi mặt nước, bay trên không,
hàng rồng phục cọp, lên trời rút đất, muôn quái nghìn kỳ, xuất quỷ nhập thần,
chẳng lường được mầu nhiệm. Họ bèn nhượng Đạo Hạnh làm anh cả, Minh Không làm
anh thứ và Giác Hải làm em. Chỗ đó nay gọi là cầu Beo ấy vậy. Minh Không và
Giác Hải giã từ trở về chùa Giao thủy. Đạo Hạnh ở lại tu luyện tại chùa Thiên
phúc núi Thạch thất. Trước chùa có đôi cây tùng già, người ta gọi là long thụ.
Đạo Hạnh thường ngày chuyên trì chú Đại bi tâm đà la ni đủ ức vạn ngàn biến thì
một nhánh cây rơi xuống. Khi đọc chú xong thì cả đôi cây đều trụi. Hạnh tưởng
được đức Quan Thế Aâm đã đến ứng giúp, sức chú gia trì đã thấu tới thiên đường.
Một hôm, thấy thần nhân hiện đến trước mặt, chân không đạp đất, Hạnh hỏi:
"Thần nào đó?" Vị thần trả lời: "Đệ tử là Tứ trấn thiên vương,
cảm động đức trì kinh của Sư, nên đến hầu hạ, để tiện việc sai sử". Đạo
Hạnh biết lục trí của mình đã viên thành, thù cha có thể trả. Bèn trở về ở tại
An lãng làng xưa, thân hành đến cầu An quyết sông Tô lịch, quăng một cây gậy
xuống sông. Cây bỗng trên mặt nước, trôi ngược lên như bay, đến cầu Tây dương
mới dừng lại. Đạo Hạnh vui mừng nói: "Phép ta thắng Đại Điên rồi
vậy". Bèn đi thẳng đến chỗ Điên. Điên thấy, nói: "Mày không nhớ
chuyện ngày trước sao?". Đạo Hạnh ngửa mặt ngó lên trời, vắng vẻ không
thấy gì cả, nhân thế đánh mạnh. Điên chết, lại quăng xác vào sông Tô lịch để
trả thù xưa.
Thù xưa
rửa sạch, niềm tục lắng trong, Hạnh lại đi khắp tòng lâm, cầu xin ấn quyết.
Nghe Cao Trí Huyền hóa đạo ở Thái
bình,
Hạnh lễ phép đến tham yết, tỏ hết chân tâm, có bài kệ rằng: Lâu mắc bụi đời
chưa biết vàng Chẳng hay đâu chỗ, ấy lòng chân Nguyện xin chỉ dạy bày phương
tiện Nương thấy Bồ đề khỏi nhọc tìm.
Trí
Huyền đáp lại lời kệ:
Bí quyết
chân truyền giả vạn kim Rõ ràng cái đó ấy thiền tâm
Hà sa
thế giới nên thôi nói Chẳng phải Bồ đề cách vạn tầm.
Từ Đạo
Hạnh mang nhiên không hiểu, bèn đến pháp hội của Sùng Phạm tại chùa Pháp vân,
thong dong hỏi rằng: "Thế nào mới là chơn tâm?" Phạm đáp: "Chỗ
nào lại không là chân tâm". Đạo Hạnh bỗng nhiên tự ngộ, bèn lại trở về
chùa Thiên phúc núi Thạch thất tu đạo luyện pháp xưa. Từ đó, pháp lực càng
thêm, lòng thiền càng thục, có thể sai sử chim rừng thú nội đều bay đến nép
phục xung quanh. Hễ dân các phương có ai bị tật dịch , bùa bay giấy chạy, phép
Hạnh lập tức có nghiệm. Đem cứu người, người đều thấm ơn.
Bấy giờ
vua Lý Nhân Tôn không có con nối dõi, cầu đảo không nghiệm. Em vua là Sùng Hiền
Hầu mời Đạo Hạnh về nhà cùng nói chuyện cầu tự. Từ Công nguyện thác thai để tạ
ân đức của Hầu. Lúc đó, phu nhân đang tắm ở nhà sau bỗng thấy Đạo Hạnh hiện ở
trong thau nước. Phu nhân sợ, đem nói với Hầụu. Hầu rõ biết ý Hạnh, lén gọi phu
nhân nói: "Bóng hiện trong thau nước, ấy là chân nhân đã nhập vào trong tử
cung rồi, cẩn thận chớ sợ hãi nghi ngờ. Phu nhân trong lòng cảm thấy mình có thai.
Từ Công bèn từ tạ mà về, dặn rằng : "Lúc lâm bồn thì nên đi báo cho
ta". Đến khi thai đủ tháng, phu nhân cảm thấy chuyển bụng muốn đẻ, nhưng
rất khó. Hầu bảo: "Nên mau đi báo cao tăng". Từ Công thấy người đi
báo đến, bèn gọi đồ đệ đến nói: "Nhân xưa chưa hết, ta tạm phải ra đời làm
con cõi người để làm vua, thọ hết lại làm (chúa) cõi trời Tam thập tam. Nếu
thấy chân thân ta hoại diệt thì ta mới vào Niết bàn, không còn ở trong sinh
diệt nữa. Môn nhân nghe nói, không ai là không cảm động đến rơi nước mắt. Bèn
lải rải nói kệ rằng:
Thu qua
không báo nhạn về đây
52. THIỀN
SƯ Trì Bát (1049-1117)
Chùa Tổ
phong, núi Thạch thất, làng Đại cù, Tân trại1. Người Luy lâu1, họ Vạn. Nhỏ đã
thiết tha với Phật giáo. Đến tuổi trưởng thành, tới xuống tóc và thọ Cụ túc giới
với Sùng Phạm chùa Pháp vân.
Phạm
thấy Sư tính hạnh siêng năng, gặp việc cẩn thận, bèn dốc lòng ấn khả và ban cho
hiệu trên.
D khiến
người đời thương xót thay Tỏ dấu người đời không ý tiếc Thầy xưa bao thuở vẫn
thầy nay.
Nói
xong, đi lên Động tiên, va đầu vào vách đá, dẫm chân lên bàn đá nghiễm nhiên
thi giải mà mất. Ấy là năm Bính thân Hội Tường Đại Khánh thứ 3 mùa xuân tháng 3
ngày mồng 7. Đạo Hạnh Niết bàn, ra đời làm con của Sùng Hiền Hầu, không phiền
nuôi nấng mà mau lớn, không nhọc dạy dỗ mà thông minh, nhan sắc đẹp đẽ, tài
năng hết sánh. Vua xuống chiếu đem vào nuôi dưỡng ở trong cung, sau phong làm
Hoàng thái tử. Nhân Tôn băng vua lên ngôi, ấy là Thần Tôn ...".
Từ Đạo
Hạnh đại thánh sự tích thật lục này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục
Tục biên chép với một vài sai khác không
đáng kể cho lắm. Trừ việc nó thiếu bài thơ thị tịch của Hạnh và thêm bài thơ
báo mộng cho Lý Nhân Tôn cùng chuyện nhờ Minh Không sau này chữa bệnh hộ mình.
An nam
chí lược 15 tờ 147-148 viết: "Từ Đạo Hạnh là Nho sinh, ưa thồi sáo ngày
cùng bạn leo núi du ngoạn, đêm đọc sách đến sáng. Một hôm, Hạnh vào núi Phật
tích thấy trên đá có dấu bàn chân bên phải, bèn lấy bàn chân mình án lên trên
thì giống như một. Bèn trở về nhà, giã từ mẹ mình, vào núi dựng am tu hành. Vua
Lý vô tự, sai danh tăng cầu đảo. Có một vị tăng không dự, dùng thuật yểm đi.
Vua nghe được sai bắt các vị tăng trong nước. Sư cũng bị hạ ngục. Vị Hoàng tử
đem sức ra cứu, nên Sư khỏi được. Vị hoàng tử nói: "Tôi cũng không có con
nối dòng, xin Sư cầu đảo dùm tôi". Sư bèn nói với vị Hoàng tử nên sai phu
nhân vào trong nhà tắm. Sư đi qua ngoài nhà. Phu nhân cảm được mà có thai. Đến
khi sinh, vị Hoàng tử cho mời Sư, nhưng Sư đã ngồi mà hóa. Phu nhân bèn sanh
một người con trai kỳ vĩ. Vua Lý lấy làm người nối dõi. Nhục thân Sư nay vẫn
còn".
Việt sử
tiêu án 1 tờ 101a1-16 chép: "Xét phu nhân Sùng Hiền Hầu có thai gặp Sư núi
Thạch thất là Từ Đạo Hạnh đến nhà cùng bàn việc cầu tự. Sư hẹn khi sắp đẻ, nên
trước báo cho Sư biết. Đến lúc ấy phu nhân đẻ khó, Hầu nhớ lời Sư, sai người đi
báo. Sư liền thay áo tắm rửa, vào trong hang thi giải mà chết. Phu nhân liền
sanh một người con trai, tức Dương Hoán. Núi Thạch thất ở tại làng Lật Sài,
huyện Yên sơn, cao vút xanh đẹp, mọc lên giữa một đám đất bằng. Động đá có in
dấu đầu và dấu chân, hình như rồng lân, tục truyền là nơi thi giải. Người làng
cho đó là điềm lạ, bỏ thây vào trong khám mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 là
thắng hội của một địa phương. Sau trong khoảng Vĩnh lạc, người Minh đốt thây
đó. Dân làng mới đắp tượng cùng thờ với Thần Tôn, Trong khoảng Lê Quang Thuận,
sai Nguyễn Đức Trinh đến cầu tự ở trong động thì điềm lạ là có một mảnh đá bay
tới. Bèn cung kính rước về dâng lên. Khi đã vậy, Thái hậu Trường Lạc mộng thấy
rồng vàng vào hông bên phải mình, bèn sinh ra Hiến Tôn. Từ đó dấu thiêng càng
hiện rõ".
Rồi nó
nhận xét thế này: "Xét Dã sử thì Đạo Hạnh là con của Từ Vinh, dòng dõi nổi
tiếng về pháp thuật, chẳng phải là một cao tăng. Việc thi giải đầu thai của ông
quái đản không thường. Cao tăng minh tâm kiến tánh, tất không dùng pháp thuật
mê hoặc mọi người. Sách sử nên bỏ chuyện lạ lùng, chỉ ghi lại việc thường, mà
không nên đem chuyện thần quái mà mê hoặc đời". Dẫu vậy, với dẫn chứng vừa
đọc, ta cũng thấy Việt sử tiêu án đã không quên bước chân theo Toàn thư và Đại
Việt sử lược để ghi lại những việc làm có vẻ quái đản của Đạo Hạnh. Chỉ Cương
mục chính biên là đã làm theo lời giáo huấn của Ngô Thời Sĩ, và từ đó đã tự làm giảm giá trị của chính mình
thôi.
1 Việt
sử tiêu án 1 tờ 101b2 nói Từ Đạo Hạnh là "nhà Sư núi Thạch thất"
nhưng cứ truyện Đạo Hạnh tờ 53b2 ở trên thì Hạnh sống ở Phật tích. Vậy Phật
tích đời Lý phải chăng là núi Thạch thất thời Ngô Thời Sĩ, tác giả Việt sử tiêu
án. Đây là một có thể vì dù Đại nam nhất thống chí, mục Sơn xuyên có ghi núi
Phật tích ở huyện Yên sơn đi chăng nữa thì ở mục Kiến trí diên cách nó lại dẫn
Đại thanh nhất thống chí nói rằng núi Câu lậu ở huyện Thạch thất, núi Phật tích
cũng ở huyện Thạch thất". Rồi nó bình luận: "Nay núi Phật tích ở
huyện Yên sơn là một huyện đời nào mới phân ra chưa rõ". Nhưthế ta có
chứng cứ mà nghĩ rằng núi Phật tích và núi Thạch thất là một.
Tuy
nhiên, theo Đại Việt sử lược 3 tờ 31 b4 thì núi Phật tích ở Ngoại trại, trong
khi cứ truyện Trì Bát đây thì núi Thạch thất lại ở Tân trại. Tân trại đương
nhiên không phải là Ngoại trại được. Từ đó núi Thạch thất không thể là núi Phật
tích, vấn đề này Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, đã cung
cấp sẵn một giải đáp. Nó dẫn Lê chí đời Minh nói rằng: "Núi Phật tích là
một danh sơn trong 21 núi ở An nam, năm Hồng Vũ thứ 3 (1371) sai sứ sang tế,
lại vẽ hình nó mang về. Phía đông bắc núi độ một dặm có sông Hát chạy vòng
quanh. Phía tây nam độ hai dặm có một khe nước nhỏ chảy khuất khúc hơn 10 dặm
đổ vào sông Tích. Núi chuyển hướng đông thuộc thôn Thiên phúc làm núi Long đẩu,
thuộc xã Sài khê thì làm núi Hoa phát, làm núi Lộc, làm núi Long, đến xã Khánh
tân thì làm núi Hương, núi Mộng, núi Phụng Hoàng và thôn Ô cách, xã Cù Sơn thì
làm núi Lân, núi Tượng, lại chuyển hướng nam làm núi Ma yên, thuộc thôn Trung,
xã Cù Sơn làm núi Dương. Xã Quảng động có núi Âm. Hai núi ấy đối ngọn nhau. Núi
Dương không có cỏ cây. Núi ÂM có cây rất tốt, nên có tên đó".
Cứ vào
những mẫu tin vừa dẫn của Lê chí thì núi Phật tích "chuyển hương đông đến
thôn Ô cách, xã Cù sơn thì làm núi Lân, núi Tượng, lại chuyển nam thuộc thôn
Trung, xã Cù Sơn là núi Dương". Xã Cù Sơn nói đây chúng tôi nghĩ nó là
phần đất làng Đại cù, mà truyện Trì Bát nói tới. Từ đó, núi Thạch thất nơi có
ngôi chùa Tổ phong của Trì Bát phải là núi Lân, núi Tượng ở thôn Ô cách, xã Cù
sơn. Chúng tôi không kể đến ngọn Dương sơn của xã này, bởi vì nó là một ngọn
núi: "không cây cỏ" thì khó lòng là nơi làm cảnh dựng chùa được. Về
núi Lân và núi Tượng, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có
nói về núi Phục tượng như sau: "Núi Phục tượng tại huyện Yên sơn, nó từ
Sài sơn mà đến, một chi phía nách trái có núi Phụng hoàng và núi Qui
tích". Nó không nói gì đến núi Lân hết, thế cũng có nghĩa núi Lân chắc
không có gì đặc sắc cho lắm. Núi Tượng như vậy cũng là núi Phục tượng. Và giống
Phục tượng là đến từ Sài sơn, thì núi Thạch thất, tức núi Phục tượng, cùng là
núi Phật tích, hay đúng
Khi Phạm
qui tịch, Sư tự mình đi khắp những chỗ giảng Thiền, trải hỏi các bậc Tôn túc,
rồi trở về chùa đó giảng dạy nghiên cứu. Tướng quốc Thái úy Nguyễn Thường
Kiệt2, lúc bấy giờ là vị đàn chủ.
Những gì
Sư được dâng cúng, đều đem dùng vào việc Phật. Sư đồng thời dựng lại các chùa
Pháp vân, Thiền cư, Thê tâm và Quảng an... để đáp lại ân pháp nhũ.
Ngày 18
tháng 2 (57a1), năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117), khi sắp thị tịch, Sư nói
kệ
rằng:
Có chết
tất có sống Có sống tất có chết Chết đời lấy làm buồn Sống đời lấy làm vui Buồn
vui thật vô cùng
Bỗng
nhiên thành đây đó Đối với việc sống chết Chẳng có gì bận lòng
Án tô rô
tô rô tất rị"3
Nói kệ
xong, Sư ngồi thẳng mà mất, thọ 69 tuổi. Môn đồ đệ tử là Thiền sư Tịnh Hạnh,
Pháp
Nhãn và
Thuần Chân thu di cốt hỏa táng.
53. THIỀN
SƯ Thuần Chân (? - 1105)
Chùa Hoa
quang, làng Tây kết, Thượng nghi4. Người Cửu ông, Tế giang1, họ Đào. Tuổi nhỏ
đã lầu thông kinh sử, đến đâu cũng gặp bọn học trò tranh nhau theo học. Sau gặp
Pháp Bảo chùa Quang hơn từ Phật tích "mà tới".
Đất Tân
trại do đó phần lớn gồm trong huyện Quốc oai, tỉnh Sơn tây ngày nay.
1 Tức
phần đất làng Khương Tự và Đại Tự huyện Thuận thành, tỉnh Hà bắc ngày nay. Toàn
thư B4 tờ 19b1-20a1 viết: "Năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 3 (1188) mùa hạ tháng
5 hạn. Vua thân hành đến chùa Pháp vân của Luy lâu (Nguyên văn có Luy bà, Nhưng
bà chắc chắn là một viết sai của lâu, Lê Mạnh Thát chú) cầu mưa, nhân đó rước
tượng Phật Pháp vân về chùa Báo thiên". Cương mục chính biên 5 tờ 23b3
cũng chép việc đấy, Nhưng không ghi tên đất nơi có chùa Pháp vân. Mà chùa Pháp
vân, ta đã biết là ở hai xã Khương tự và Đại tự ngày nay. Thì Luy lâu tất cũng
phải vậy.
2 Tức Lý
Thường Kiệt (1019-1105). Kiệt được phong chức Thái úy năm 1075.
3 Thiền
sư Viên Quang, có người hỏi: "Nếu không dính dáng đến chuyện đàn tràng nữa
thì Sư có tiếp chăng?" Sư trả lời: "Tô rô tô rô". Tô rô tô rô
hay nói cho đủ, tô rô tô rô tất rị là một phiên câu chú chữ Phạn: surà-suràsrì
nghĩa là: Sự vinh quang của người anh hùng và không anh hùng.
4 Tây
kết là một địa danh lịch sử nổi tiếng. Bọn xâm lược đời Tống thời Lê Hoàn đã
đến đóng quân ở đó. Bọn xâm lược Nguyên Mông dưới quyền chỉ huy của tên tướng khét
tiếng tàn ác Ô Mã Nhi cũng đến đóng quân ở đó. Tuy thế, Cương mục chính biên 1
tờ 18a1 đã phải chú là "Tây kết thất tường". Dẫu vậy, bây giờ cứ vào
mô tả của Toàn thư 5 tờ 48a2-49b8 về những chiến thắng Hàm tử, Chương dương và
Tây kết, ta thấy đầu tháng 3 năm 1285 Toa Đô đem 50 vạn quân đến đóng ở Tây
kết. Tháng 4 "vua sai Chiêu Thành Vương, Hoài văn hầu Quốc Toản và tướng
quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh giặc ở đầu bến Tây kết. Quan quân cùng
với người Nguyên đánh nhau ở cửa Hàm tử, các quân đều ở đó. Chỉ quân của Chiêu
Văn Vương Nhật Duật là có người Tống mặc áo người Tống cầm cung nỏ chiến đấu...
Người Nguyên thấy vậy, đều thất kinh nói: "Có người Tống đến giúp",
nhân đó thua chạy về Bắc. Ngày 10 có tiệp báo "Thượng tướng Quang Khải,
Hoài Văn Hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp cùng em Nguyễn Phó đem dân
binh các lộ đánh bại giặc ở các nơi Kinh thành và Chương dương". Ngày 17
Toa Đô cùng với Ô Mã Nhi từ biển mới vào đến đánh sông Thiên mạc. Ngày 22 vua
tiến lên đóng ở bến Đại mang, Tổng quản Trương Hiển của quân Nguyên đến hàng.
Ngày đó, đánh bại giặc ở Tây kết, giết chết và làm bị thương rất nhiều, chém
đầu tên Nguyên soái Toa Đô. Nửa đêm Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh hóa. Hai
vua đuổi theo không kịp, bắt dư đảng của y hơn 5 vạn mà trở về".
Cứ vào
những diễn tiến của chiến dịch Tây kết đây và cứ vào những chú thích của Cương
mục chính biên 7 tờ 39b6 và
41b4 và
vị trí của cửa Hàm tử và bến Chương dương cùng việc thoát thân của Ô Mã Nhi,
thì Tây kết phải là một tên làng nằm trên bờ sông Hồng tại huyện Đông anh, tỉnh
Hưng yên, tức huyện Khoái châu, tỉnh Hải hưng ngày nay. Bắc thành địa dư chí
lục 3 có Tịnh2 nói một lời mà Sư hiểu được Thiền chỉ, bèn bỏ chỗ học của mình
để theo học với Bảo. Chẳng được bao năm, cửa tù đập vỡ, ánh điện lửa đá theo gõ
phát ra, dẫn trẻ dắt mù, hầu không còn sức.
Vào ngày
7 tháng 2 năm Ất dậu Long Phù thứ 53 (1105) khi sắp tịch, đệ tử nhập thất là
Bổn Tịch vào thỉnh ích. Sư thuyết (57b1) bài kệ:
"Chân
tánh thường không tánh Sao từng có diệt sinh
Thân là
pháp sinh diệt Pháp tánh diệt chửa từng".
Rồi thì
mất. Phụ quốc thái bảo Cao Tối lo việc hỏa táng và dựng tháp.
ghi một
tổng và xã tên Đông kết thuộc huyện Đông yên của trấn Sơn nam hạ. Tây kết chắc
nằm phía tây của tổng xã đó, nhưng nó không ghi một tổng xã nào tên Tây kết
hết.
Chúng
tôi nghi Tây kết có thể nằm về hữu ngạn sông Hồng trên địa phận của huyện
Thượng phúc, tỉnh Hà đông trước đây, bởi vì cứ truyện Thuần Chân ở đây thì làng
Tây kết thuộc về Thượng nghi. Thượng nghi này, chúng tôi nghi là tên thời Lý
của châu Thượng phúc thời Trần, tức huyện Thượng phúc đời Lê cho tới ngày nay.
Huyện này ở đúng về tây huyện Đông yên. Mà huyện Đông yên, theo Đại nam nhất
thống chí, tỉnh Hưng yên, mục Kiến trí diên cách, là huyện Đông kết đời Trần và
thuộc Minh. Đến đời Lê Quang Thuận mới đổi ra Đông yên. Khảo những tên tổng xã
của huyện Thượng phúc trong Bắc thành địa dư chí lục 3 không thấy có một tên
nào có thể điểm chỉ cho biết có một làng tên Tây kết ở huyện đó. Vấn đề này cần
được nghiên cứu thêm, đặc biệt bằng nghiên cứu hiện địa.
1 Tức
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên ngày nay. Huyện Văn giang thời Nguyễn là thuộc
tỉnh Bắc ninh. Viết về lai lịch nó, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục
Kiến trí diên cách nói: "Huyện Văn giang đời Trần về trước gọi là Tế
giang. Sử kyù chép Lữ Đường chiếm cứ Tế giang, tức huyện đây đời thuộc Minh do
châu Gia lâm thống lĩnh thuộc phủ Bắc giang. Đời Lê Quang Thuận đổi thuộc phủ
Thuận an. Sau đổi tên Văn Giang. Năm Minh Mạng 13 (1832) triều ta đặt riêng
phân phủ kiêm lý huyện".
Đại Việt
sử lược 3 tờ 29a1 nói: "Tự Khánh dẫn quân đồn Cứu liên, chia tướng sĩ đồn
Cửu cao và Cửu ông để ngăn Nộn".
Cửu ông
ở đây tức Cửu ông, quê của Thuần Chân.
2 Pháp
Bảo chùa Tịnh quang này có thể là Pháp Bảo chùa Phúc diên tư thánh có hiệu là
Hải Chiếu đại sư, tác giả bài bia chùa Linh xứng viết năm 1126 nổi tiếng hiện
đã phát hiện được, và cũng là tác giả một bài bia khác cho chùa Sùng nghiêm
diên thánh viết năm 1118, mà Lê Quí Đôn đã phát hiện và ghi lại trong Kiến văn
tiểu lục 4 tờ 2a8, nhưng đã không chép lại toàn văn bản bia.
3 Nguyên
văn: Long Phù nguyên niên Ất dậu. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 19b1 và 20a5
và Toàn thư B3 tờ 13b6-14b5 thì không có năm nào Long Phù nguyên niên mà lại Ất
dậu hết. Long Phù ngũ niên thì phải là Tân tỵ, còn Ất dậu thì phải là Long
Phù nguyên niên. Chúng tôi nghĩ, chữ
nguyên trong Long Phù nguyên niên ở đây là một chép sai của chữ ngũ, bởi chữ
ngũ và chữ nguyên dễ viết lộn nhau lắm, và bởi Long Phù ngũ niên thì quả đúng
năm Ất dậu. Như vậy, nămmất của Thuần Chân chính là năm Long Phù thứ năm Ất dậu
Thế Hệ Thứ Mười Ba (6 người, 2 người khuyết lục)
54. TĂNG
THỐNG Huệ Sinh (? - 1064)
Chùa Vạn
tuế, kinh đô Thăng long, nguời Đông phù liệt1, họ Lâm, tên Khu, hậu duệ của Lâm
phú ở Trà sơn, Vũ an2. Khoáng lấy con gái của Quách tăng lục, nhân dời nhà đến
Phù liệt, sinh được 2 con, người lớn tên Trụ, làm quan đến chức Thượng thư binh
bộ viên ngoại lang. Sư là người con thứ vậy.
Tướng
mạo Sư kỳ vĩ, ăn nói lưu loát, rất giỏi văn chương, có tài viết, vẽ. Học Nho
rảnh rỗi, Sư nghiên cứu thêm sách Phật, học bách luận và các kinh, không gì là
không xem hết. Mỗi khi nói đến chỗ trọng yếu của Phật pháp, Sư thường than thở
rơi lệ.
Năm 19
tuổi, Sư bỏ đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc lâm3 thờ (58a1) Định Huệ chùa Quang
hưng làm thầy. Học thiền mỗi ngày một tiến. Định Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó,
Sư dạo khắp tòng lâm, hỏi hết thiền chỉ rồi đến đỉnh Bồ đề núi Trà4 trác tích.
Mỗi lần vào định, trải qua năm ngày mới dậy. Người bấy giờ gọi Sư là Đại sĩ
nhục thân5.
Lý Thái
Tôn nghe tiếng, sai sứ đến mời, Sư gọi sứ bảo: "Ông không thấy con vật
cúng sinh sao? Người ta đem lụa là cho nó mặc, cỏ tươi cho nó ăn, đến khi bị
dắt vào Thái miếu, dù muốn xin làm con vật hèn mọn, vĩnh viễn còn không thể
được huống gì khác nữa ư?"6. Sư cố từ không được, nên đến lần thứ hai, Sư
mới về kinh. Gặp mặt, vua rất mừng, phong làm Nội cung phụng tăng7 sắc trụ trì
chùa Vạn
1 Bắc
thành địa dư chí lục 3 có ghi một xã của tổng Nam phù liệt, huyện Thanh trì,
trấn Sơn nam thượng tên Đông phù liệt. Làng
Đông phù
liệt như vậy ở vào huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông ngày nay.
2 Vũ an
là tên một châu huyện thời Đường. Tân đường thư 43 thượng tờ 11a11 nói châu Vũ
an có hai huyện là Vũ an và Lâm giang. Đến thời Ngô Quyền, tên ấy vẫn dùng, bởi
vì truyện của Phạm Cự Lượng trong Việt điện u linh tập tờ 20 nói ông nội của
Lượng là Phạm Chiêm từng giữ chức Châu mục châu Vũ an. Đến thời Lý, tên Vũ an
đang lưu hành. Nhưng Vũ an nằm ở địa phận nào thì đấy là cả một vấn đề. Cứ
truyện Huệ Sinh đây thì tại Vũ an có Trà sơn. Trà sơn nay chắc chắn là tên
làng, chứ không phải là tên ngọn núi, như sẽ nhìn thấy dưới chú thích (4) sau
đây. Khảo Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi một xã thuộc tổng Dưỡng Chân, huyện
Thủy đường, trấn Hải Dương tên Trà sơn. Chúng tôi nghi Trà sơn quê của Huệ sinh
tức làng Trà sơn này. Nếu vậy, đất châu Vũ an đời Lý tất phải bao gồm đất huyện
Thủy đường đời Nguyễn, tức huyện Thủy nguyên, tỉnh Kiến An ngày nay.
3 Chùa
Hạc lâm này nghi là đền Hạc lâm truyện Vạn Hạnh tờ 53a7 nói tới trong bài thơ
ghi giới hạn ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương:
Đông hữu
Vũ long hạng Nam
hữu Vũ long pha Tây hữu Hạc lân quán Bắc hữu Trấn hải trì.
Nếu vậy
chùa này ở phía tây ngôi mộ tại làng Đình bảng?.
4 Tức
núi Nguyệt thường hay núi Bạch sắc ở huyện Tiên du tỉnh Bắc ninh. Đại nam nhất
thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Nguyệt thường, tại phía
tây nam huyện Tiên du ba dặm, một tên là núi Bạch sắc, cũng gọi là núi Trà.
Tương truyền Lý Thánh Tôn đến chơi núi đó và cho tên Nguyệt thường. Núi hơi
cao, đá đất lẫn lộn. Trên núi có liu, dưới núi có đền Cao sơn. Năm Tự Đức thứ 3
(1850) triều ta liệt vào hạng danh sơn, chép vào sách cúng".
Núi này
hiện có đỉnh Bồ Đề không, chưa thể biết được.
5 Đại sĩ
là một tên gọi khác các vị Bồ tát. Xem Đại trí độ luận. Nó đôi khi cũng để gọi
Phật, như trong Kim quang minh kinh Tứ nghi tập giải quyển thượng nói:
"Đại sĩ, đại là không phải nhỏ, sĩ là việc, vì vận dụng được lòng rộng lớn
làm nên việc Phật nên gọi Đạisĩ, cũng gọi Thượng sĩ". Du già sư địa luận
xác định rõ hơn nội dung của từ Thượng sĩ thế này: "Người làm không lợi
mình mà lợi người, ấy là hạ sĩ, làm lợi mình không lợi người, gọi là trung sĩ,
làm lợi cả mình lẫn lợi người gọi là thượng sĩ". Nội dung của từ Đại sĩ
cũng thế.
Đại sĩ
nhục thân như vậy, có nghĩa vị Bồ Tát hay Phật bằng xương thịt.
6 Trang
tử, "Liệt ngự khấu": "Hoặc sinh ư Trang tử, Trang Tử ứng kỳ sử
viết: "Tử kiến phù hy ngưu hồ? Y dĩ văn tú, thực dĩ sồ thúc, cập kỳ khiên
nhi nhập thái miếu, tuy dục vi cô độc, kỳ khả đắc hồ". Xem Trang tử 10 tờ
12a12b1.
7 Đại
tống tăng sử lược quyển hạ tờ 250a 4-10: "Nội cung phụng là chức quan trao
cho thầy tu. Từ khi Đường Túc Tôn nhóm binh ở Linh Vũ vào năm Chí đức thứ nhất
(756), rồi trở về Phú phong, sư Nguyên Hạo nhận được khẩu sắc, đặt đạo tràng
Dược sư, vua sai những người đi theo xa giá đến để cầu công nghiệm. Tới chùa
Khai nguyên, phủ Phụng dương, đạo tràng Dược sư có ba tuế. Một hôm, nhân dịp
trai tăng trong đại nội, vua gọi Sư nói: "Trẫm nghĩ, Phật tổ gốc ở tâm,
người học chớ nên chỉ trích lẫn nhau, xin cùng với thạc đức các phương, mọi vị
bày tỏ điều hiểu biết của mình, để xem chỗ dụng tâm của các vị ra sao". Sư
lên tiếng đáp thành kệ rằng:
"Pháp
vốn như không pháp Chẳng có cũng chẳng không Nếu người biết như vậy Chúng sinh
cùng Phật đồng Trăng Lăng-già vằng vặc
(58b1)Thuyền
vượt biển lâng lâng Hiểu không, không biết có
Tam muội
mặc thong dong".
Vua rất
khen thưởng, rồi phái làm Đô tăng lục. Bấy giờ các vương công như: Phụng Yết
Thiên Vương1, Thái Tử Vũ Uy2, Hỷ Từ, Thiện Huệ, Chiêu Khánh và Hiển Minh,
Thượng tướng Vương Cường3, Thái sư Lương Nhậm Văn, Thái bảo Đào Xử Trung và
Tham chính Kiều Bồng4 đều tới lui hỏi đạo, lấy lễ thầy trò đãi Sư .
tên5.
Đến triều Thánh Tôn, Sư đổi đến chức Tả nhai
Đô Tăng thống, tước Hầu, vua không gọi Sư bằng nhóm, mỗi nhóm bảy người, sáu
thời hành đạo. Bấy giờ trong đạo tràng bỗng mọc lên một cây mận. Sư phụng mệnh
kiểm xem hư thực thời cây mận có 49 cành. Nguyên Hạo dâng biểu mừng. Vua phê
đáp: "Cây mận lành sum xuê, đó là điềm nước thịnh, mà nó lại mọc trong già
lam thì biết mặt trời Phật pháp đang nổi lên trở lại. Cảm được cái điềm lành
đặc biệt này, trẫm xin chia vui với Sư". Lý Nhượng Quốc lại đọc sắc nói:
"Sắc sư Nguyên hạo là nội cung phụng". Đặt ra chức Nội cung phụng
đây, như vậy là bắt đầu với Nguyên Hạo. Sau Hạo có Tử Lân là người tuyền châu
kế tiếp. Đến thời Hiến Tôn thì Đoan Phổ, Hạo Nguyên và Hoàn Bạch nối nhau giữ
chức. Qua tới thời Chu, Lương, Hậu Đường, Tấn, Hán, Chu
và Đại Tống ta thì chức đấy không còn nghe tới nữa".
Đấy là
lai lịch chức Nội cung phụng tăng ở Trung Quốc. Ở nước ta, chức này được phong
cho một pháp sư tên Định sống vào những năm 800, mà Dương Cự Nguyên đã làm bài
thơ tặng nhan đề: "Cung phụng định pháp sư quy An nam". Xem Toàn
đường thi 333 tờ 3722. Đến đời Lê Đại Hành có Nguyễn Kha làm Nội cung phụng đô
úy.
1 Tức
Phụng Càn vương, tước do Lý Thái Tôn phong cho con mình là Lý Nhật Trưng vào
năm 1035. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 6a8 và Toàn thư B2 tờ 23a5.
2 Có lẽ
là Vũ Uy. Năm 1009, khi mới lên ngôi, Lý Công Uẩn phong cho anh mình là Vũ Uy
Vương. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 2b3 và Toàn thư B1 tờ 34b5.Nhưng Vũ Uy đây
không phải là Vũ Uy Vương,mà là Vũ Uy Hầu, con của Lý Thái Tôn và em của Phụng
Càn Vương. Đại Việt sử lược 2 tờ 8a4 có ghi một Vũ Uy Hầu đã cùng với Quách
Thịnh Dật đi đánh Nùng Trí Cao vào năm 1048, mà những sử khác không ghi. Vũ Uy
Hầu này là Vũ Uy của chúng ta ở đây.
Về tước
Thái tử, thì các sử ta đều nói trừ con trưởng ra, các con khác của các vua đời
Lý đều phong Hầu. Nhưng cứ Lĩnh ngoại đại đáp, thì các con vua đời Lý đều được
phong thái tử hết. Những Thái Tử Vũ Uy, Hỷ Từ v.v...chắc đều là con của Lý Thái
Tôn.
3 Có lẽ
là Vương Hành, người giữ chức hữu thanh đạo, do Lý Thánh Tôn phong lúc mới lên
ngôi vào năm 1054, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 10a5 nói tới, còn các sử khác không
thấy có. Chữ Hành rất dễ viết lên thành chữ Cường.
4 Lúc
mới lên ngôi vào năm 1028, Lý Thái Tôn "lấy Lương Nhiệm Văn làm Thái sư
(... ) Đào Xử Trung làm Thái bảo... Kiều Bỗng làm Hữu tham tri chính sự. Xem
Đại Việt sử lược 2 tờ 5a3-5 và Toàn thư B2 tờ 16a7-9.
5 Về sự
liên hệ giữa Huệ Sinh và Lý Thánh Tôn, Báo Cực truyện do Việt điện u linh tập
tờ 30-31 dẫn lại trong truyện Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ địa kỳ
nguyên quân có viết rằng:
"Xưa
Lý Thánh Tôn nam chinh Chiêm thành, đến cửa Hoàn bỗng bị gió lớn mưa to, sóng
nước cuộn lên, thuyền vua tròng trành muốn lật, nguy cấp xảy ra không thể lường
được. Vua rất lo sợ. Trong lúc bàng hoàng, vua bỗng thấy một người con gái,
tuổi ước trên dưới hai mươi, mặt tựa hoa đào, mày đượm dương liễu, mắt sáng như
sao, cười như hoa nở, mình mặc áo trắng quần lục, nai nịt gọn gàng, đi thẳng
đến trước Vua, nói rằng: "Thiếp là tinh của đại địa Nam quốc, sống nhờ ở
làng Thủy vân đã lâu, xem thời mà ra, may gặp dịp tốt, hân hạnh được thấy long
nhan, thì sở nguyện bình sinh của thiếp thật đã thỏa. Chỉ mong bệ hạ chuyến đi
này thông suốt, hoàn toàn thu hoạch thắng lợi. Thiếp tuy bồ liễu mong manh,
cũng xin đem sức mọn, lặng lẽ phò tá. Đến ngày khải hoàn, thiếp xin đợi ở đây
để bái yết". Nói xong thì không thấy nữa.
Vua tỉnh
dậy kinh hãi nhưng vui, cho mời tả hữu, kể hết những gì đã thấy trong mộng.
Tăng thống Lâm Huệ Sinh nói: "Thần nói thác sinh vào một cây ở tại làng
Thủy vân. Nay nên tìm thần cây đó, có thể có linh nghiệm". Vua đồng ý, sai
tùy tùng đi
Năm Giáp
thìn Gia Khánh thứ 6 (1064)1, lúc sắp thị tịch, Sư nhóm đồ chúng nói kệ rằng:
"Nước lửa ngày chan hòa
Do lai,
chửa nói ra Tin ông không xứ sở Ba ba lại ba ba".2
Lại nói:
"Từ
xưa đến theo học Người người chỉ phía nam3 Nếu ai hỏi việc mới
Việc mới
trăng mùng ba"
Rồi tắm
rửa, đốt hương, đến nửa đêm Sư an nhiên mà mất. Sư thường phụng chiếu soạn bia
văn các
chùa Thiên phúc4, Thiên thánh, Khai quốc tại Tiên du và chùa Diệu nghiêm, Báo
đức tại Vũ ninh5. Lại có Pháp sự trai nghi6 và Chư
đạo (59a1) tràng khánh tán văn một số quyển lưu hành ở đời.
tìm ở
bãi và bờ sông thì được một cây gỗ, đầu rất giống hình người qua dạng người đã
thấy trong mộng. Vua bèn đặt hiệu là Hậu Thổ phu nhân. Sai đặt hương án ở trong
ngự thuyền. Giây lát, sóng gió lặng im, cây cối hết động. Tới khi qua đến Chiêm
thành xáp trận thì giống như có sức thần giúp. Trận đó quả đại thắng.
Đến ngày
khải hoàn, thuyền vua đến đậu lại chỗ cũ, ra lệnh xây miếu, thì mưa gió lại nổi
lên lại như xưa. Lâm Huệ (Sinh) tâu rằng: "Để xin một keo có phải muốn về
kinh sư chăng". Thì quả được. Mưa gió lại im lặng. Đến khi về tới kinh sư,
vua chọn đất dựng miếu tại làng An lãng, rất nổi tiếng linh dị. Có kẻ bài báng
chú trở thì liền bị tai họa ...
Đấy là
chuyện Lâm Huệ Sinh tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh Tôn nguyên bản chép tay
viết Huệ Lâm Sinh hay Huệ Lâm, nhưng đó rõ ràng là chép ngược và thiếu cái tên
của Huệ Sinh họ Lâm. Suốt đời mình Lý Thánh Tôn chỉ đi đánh Chiêm thành có một
lần, ấy là vào năm 1069, nhưng như sẽ thấy, Huệ Sinh theo Thiền uyển tập anh
thì mất vào năm 1063 hay 1064. Vậy làm sao lại có thể tùng chinh? Xem chú thích
tiếp theo.
1 Nguyên
văn: Gia Khánh ngũ niên Giáp thìn. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 và Toàn thư B3
thì Chương Thánh Gia Khánh ngũ niên phải là Quý mão, chứ không phải Giáp thìn.
Nếu Giáp thìn thì phải là Chương Thánh Gia Khánh lục niên (1064). Chữ ngũ và
chữ lục cũng rất dễ lẫn. Vậy Huệ Sinh mất năm 1064? Nhưng như thế làm sao Huệ
Sinh có thể tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh Tôn trong cuộc chinh phạt xảy
ra vào năm 1069. Phải chăng Huệ Sinh đã tùng chinh với Lý Thái Tôn trong cuộc
chinh phạt năm 1044, mà Việt điện u linh tập viết lộn thành Lý Thánh Tôn? Chúng
tôi nghĩ đấy là một có thể, nhất là khi vấn đề truyền bản của Việt điện u linh
tập đưa nhiều điểm khá nghi ngờ, mà những cái tên Huệ Lâm Sinh và Huệ Lâm là
những thí dụ. Tuy nhiên không nhất thiết loại bỏ những sai lầm niên đại có thể
do sự truyền bản của Thiền uyển tập anh tạo ra, mà trường hợp Khánh Hỷ và Pháp
Dung là những thí dụ.
2 Công
án thiền. Thiền sư Vô Trước nói chuyện với Văn Thù trên Ngũ Đài Sơn. Vô trước
hỏi về sinh hoạt của các nhà sư ở đấy và con số của nó. Văn Thù trả lời:
"Trước ba ba, sau ba ba" (Tiền tam tam, hậu tam tam). Xem Bích nham
lục 4 tờ 173b29-174a7.
3 Điển
Thiện tài đi học đạo, được Văn Thù chỉ đi hướng nam tham học với 53 vị thiện
tri thức, mà từ Phật học Trung Quốc thường gọi "Thiện Tài đồng tử ngũ thập
tam tham", trong kinh Hoa nghiêm. Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm
kinh 62.
4 Đại
Việt sử lược 2 tờ 11a1 và Toàn thư B3 tờ 2a3-4 nói: "Năm Long Thụy Thái
Bình thứ tư (1057) mùa đông tháng 12 dựng chùa Thiên phúc và chùa Thiên thọ,
dùng vàng ròng đúc tượng Phạm Vương, Đế Thích hai pho để thờ". Toàn thư
còn chua thêm: "Đó là nơi đời Trần làm lễ yết chùa".
5 Đại
Việt sử lược 2 tờ 11a8 nói: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ sáu (1059) dựng
chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ ninh". Vậy thì, chùa Diệu nghiêm báo
đức ở truyện Huệ Sinh đây tức chùa Sùng nghiêm báo đức. Chữ Diệu có thể là viết
sai của chữ Sùng, hay ngược lại. Chúng ta ngày nay chưa có nghiên cứu hiện địa
để xác định đâu là đúng. Chùa Sùng nghiêm báo đức này cũng gọi tắt là chùa Báo
đức và là nơi tu hành của Đại Xả. Xem truyện Đại Xả ở trước.
6 Nghệ
văn chí và Văn tịch chí đều ghi: "Pháp sự trai nghi một quyển, Sư Huệ Sinh
soạn, người Đông phù liệt, huyện Thanh trì". Còn Chư đạo tràng khánh tán văn không thấy
sách nào ghi tới cả. Ta không hiểu Lê Quý Đôn đã dựa vào tiêu chuẩn gì để ghi
hay không ghi một cuốn sách.
55. THIỀN
SƯ Thiền Nham (1093-1163)
Chùa Trí
quả1, làng Cổ châu, Long biên. Người Cổ châu, họ Khương, tên Thông. Dòng dõi
Tăng quan, mặt mày sáng sủa, tán tụng2 trong hay. Thường tập môn tổng trí đà la
ni, xây lưng mà đọc, không sót một chữ.
Trong
khoảng Hội Phong (1092 -1100), Sư ứng thí3 kinh Pháp hoa và Bát nhã tại điện
vua, đều trúng Giáp khoa. Sau nhờ một lời của Pháp Y, chùa Thành đạo4 mà được
ấn khả, Sư nhân thế xuất gia.
Lúc đầu,
Sư đến ở chùa Thiên phúc, núi Tiên du, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm rộng lớn,
ăn lá cây uống nước suối, trãi đến sáu sương. Sao đó, Sư trở về làng mình,
trùng tu lại chùa Trí quả mà trụ trì. Trong khoảng Đại Thuận (1128-1132), trời
hạn. Vua mời Sư đến kinh cầu mưa thì tức có hiệu nghiệm.
Vua phái
làm danh tăng, ban cho áo ngự. Mỗi khi nhà nước có cầu đảo, Sư đều làm chủ5.
Tháng 2
năm Chánh Long Bảo Ứng thứ 1 (1163), Sư đốt hương dạy chúng, rồi nghiễm nhiên
ngồi mà mất, thọ 71 tuổi. Đến nay xác thân của Sư đang còn. Người thời (59b1)
bấy giờ gọi là Phật sống6.
Sau này,
mặc dù chùa bị cảnh binh lửa, nhưng xác Sư không hề hấn gì.
56. QUỐC
SƯ Minh Không (1066-1141)
Chùa Quốc
thanh,Trường an7, người làng Đàm xá, Đại hoàng8,họ Nguyễn, tên Chí Thành.
1 Chùa
Trí quả hiện nay ở làng Phương quan trên hữu ngạn sông Dâu đối diện với làng
Văn quan. Chùa đấy là nơi thờ Pháp Điện, một trong Tứ pháp. Nếu cứ vào địa điểm
làng này, thì vị trí làng Cổ châu thời Lý không phải chỉ gồm có làng Khương tự
và Đại tự mà thôi. Trái lại, nó phải bao gồm phần lớn những làng xung quanh hai
làng đấy, mà chính yếu là những làng Lũng khê, Thanh tương, Văn quan, Phương
quan và Công hà.
Vì chùa
Trí quả là chùa làng mình, nên Thiền Nham đúng ra là người Phương quan, tức
người làng Dâu ngày nay. Ta không biết làng này hiện còn ai họ Khương không?
2 Phạn
bối, tức một thứ ca hát tán tụng dùng một số nốt giới hạn nào đó của âm nhạc Ấn
độ, sau này trở thành lễ nhạc của Phật giáo tại các xứ phương Đông. Về ý nghĩa
và nguồn gốc chữ bối, xem chú thích (2) truyện Ma Ha.
3 Trong
khoảng Hội Phong (1092-1099) không thấy sử ghi một cuộc điện thí nào. Nhưng
truyện Viên Thông tờ 68b9-10 ghi một cuộc thi Tam giáo xảy ra vào năm Hội Phong
thứ 6 (1097), mà Viên Thông đỗ hạng đầu. Như thế, Thiền Nham và Viên Thông rất
có thể là hai người đồng khoa.
4 Chùa
Thành đạo nghi là chùa Thành đạo hiện ở tại làng Đông cốc, huyện Thuận thành,
tỉnh Bắc ninh ngày nay, nơi có thờ Pháp Vũ, một trong Tứ pháp, bởi vì chùa Trí
quả, nơi trú trì của Thiền Nham là nơi thờ Pháp Điện, thì tất Nham phải có một
liên hệ nào đó với các chùa có thờ Tứ Pháp khác. Tuy nhiên, tại làng Văn giáp,
huyện Thượng phúc, tỉnh Hà đông cũng có chùa Thành đạo và chùa đấy cũng thờ
Pháp Vũ. Dẫu thế, chúng tôi vẫn nghĩ, chùa Thành đạo của Pháp Y tức chùa Thành
đạo tại làng Đông cốc.
5 Trong
khoảng Đại Thuận, Đại Việt sử lược 3 tờ 1b7-8 chỉ viết: "Đại Thuận năm thứ
3 (1130) tháng 6 hạn, cầu thì mưa. Nhưng theo Toàn thư B3 thì trong khoảng
Thiên Thuận từ năm 1128 đến 1132 không năm nào là không có hạn nên Việt sử tiêu
án 1 tờ 110a6, khi nhận xét về biện pháp chống hạn của triều Lý Thần Tôn, đã
phải nói: "Xét trong khoảng 10 năm (trị vì của Thần Tôn) thì không năm nào
là không có hạn".
6 An nam
chí nguyên 3 tờ 210 viết: "Thiền sư Thiền Nham là vị sư huyện Siêu loại,
giới hạnh tinh nghiêm, ăn lá cây, uống nước suối, xác chết rồi vẫn còn tươi như
khi sống. Người bấy giờ gọi là Phật sống".
7 Tức
đất huyện Yên khánh, tỉnh Ninh bình ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Tịnh
Giới, chùa Quốc thanh hiện chưa truy cứu
được.
8 Tức xã
Đàm xá, huyện Gia viễn, tỉnh Ninh bình ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh
Ninh bình, mục Từ miếu, viết: "Đền Nguyễn Minh Không ở tại huyện Gia viễn,
xưa hai xã Đàm Xá và Điềm giang cùng thờ. Thần người Đàm xá, họ Nguyễn, tự Chí
Thành. Xét Sử ngoại truyện thì thầy đi du học và được tâm ấn từ Đạo Hạnh, hiệu
là Thiền sư Minh Không, ở chùa Quốc Thanh. Trong khoảng Hội Tường Đại Khánh đời
Lý Nhân Tôn, Đạo Hạnh khi sắp tạ thế, dặn Minh Không rằng: "Ta sẽ ở ngôi
nhân chủ, mắc bệnh khó tránh, ông nên cứu ta". Sau Thần Tôn bị bịnh hóa
thành hình cọp. Trẻ nít ca nói: "Muốn chữa Lý cửu trùng, phải tìm Nguyễn
Minh Không". Mời đến, Không nói tiền duyên cho vua nghe. Vua giác ngộ,
Minh Không nấu dầu một trăm cân, lấy tay khuấy rửa cho vua. Bệnh lành, phong
làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ. Đến năm Đại Định thứ 2 (1141) đời Anh Tôn,
Sư mất,
Sư
thường đi du học gặp Thiền Sư Từ Đạo Hạnh chùa Thiên phúc. Hạnh mến sư, cho phép
theo hầu. Trải qua 17 năm trời làm việc cực khổ, Hạnh khen Sư có chí, bèn sâu
ấn hứa và cho tên Minh Không. Đến khi sắp tạ thế, Hạnh gọi Sư nói rằng:
"Xưa Đức Thế Tôn ta, đạo quả đã tròn mà còn bị quả báo hùm vàng, huống ở
đời mạt pháp, công hạnh nhỏ mọn, há mình có thể tự giữ gìn được sao? Ta nay còn
phải ra đời, giữ ngôi nhân chủ, lai sinh mắc bệnh, chắc chắn khó tránh. Ta đối
với ngươi có duyên, xin nhờ cứu với".
Hạnh mất
rồi, Sư trở về làng cũ cày cấy hơn 20 năm, không màng tiếng tăm. Lúc bấy giờ Lý
Thần Tông mới mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng rên la hốt hoảng khiếp đảm,
lương y trong thiên hạ (60a1) ứng chiếu đến chữa, đều phải bó tay không làm gì
được1. Bỗng nghe có trẻ con ca rằng:
"Muốn
trị bệnh Thiên tử
Phải có
Nguyễn Minh Không".
Ben sai
sứ tìm khắp dân gian mới gặp đuợc Sư2.
Khi Sư
đến, Tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư ăn mặc quê
mùa, họ khinh khi không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5
tấc, đóng vào cột điện, lên tiếng nói: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì
trước đáng được tôn trọng". Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy
hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khiếp phục.
Khi gặp
vua, Sư lớn tiếng nói: "Đấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm
ra những điều cuồng loạn đấy ư?"
Vua rất
run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy
lên khoảng bốn lần, rồi tắm vua trong đó. Bệnh liền bớt ngay. Sau vua phong làm
Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ để tưởng thưởng.
Vào một
ngày tháng nào đó của năm Tân dậu Đại Định3 thứ 2 (1141), Sư mất, thọ (60b1) 76
tuổi4. thọ
76 tuổi. Người trong ấp lập đền thờ. Trước đền có một cây đèn đá cao độ một
thước, tương truyền là đèn tụng kinh của Sư.
Đền nổi
tiếng là linh ứng. Nay các chùa ở Giao thủy và Phổ lại đều đắp tượng Sư mà
thờ".
1 Những
tình tiết diễn tiến cho tới lúc này, nghi là một phụ hội, bởi vì năm năm trứơc
khi Minh Không đến chữa bệnh cho Thần tôn, tức năm Đại Thuận thứ 4 (1131), Toàn
thư 3 tờ 36a9 đã ghi việc vua "dựng nhà cho Đại sư Minh Không". Như
vậy, chắc chắn không có chuyện Minh Không "về quê cày cấy 20 năm hay
chuyện trẻ nít phải hát và phải sai sứ đi khắp dân gian mới gặp Sư".
2 Toàn
thư B3 tờ 39a7-9: "(Thiên Chương Bảo Tự) năm thứ 4 (1136) vua bệnh nặng,
thuốc men không bớt, thấy Minh Không chữa lành, phong làm Quốc sư, cho thuế hộ
vài trăm". Rồi chua tiếp: "Đời truyền rằng thầy Từ Đạo Hạnh khi sắp
thi giải, trong lúc bị bệnh, đenm thuốc và chú giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành
tức Minh Không, nói rằng: "Hai mươi năm sau thấy Quốc Vương gặp bệnh lạ
thì đến chữa". Bởi nó bắt nguồn từ việc này vậy".
3 Nguyên
văn có Đại Định nhị niên Tân sửu. Nhưng cứ Toàn thư 4 tờ 1b8 và 2b8-9 thì Đại
Định nhị niên phải là năm Tân dậu, và tháng 8 mùa thu năm đấy Minh Không mất.
4 Lĩnh
nam trích quái tờ 31-33 chép một tiểu sử của Minh Không hoàn toàn đồng nhất với
bản đây. Nhưng sau đó, nó lại ghi thêm một tiểu sử hoàn toàn khác và nói là lấy
từ Minh Không biệt truyện. Truyện như sau: "Làng Giao thủy có chùa Không
lộ, xưa có nhà sư tên... trong khoảng Trị Bình (1064-1067) xuất gia trụ trì
chùa đó, nổi tiếng là đức hạnh. Một hôm, Minh Không từ ngoài đi vào, nhà sư
cùng phòng, tức Đạo Hạnh núp trong cửa nhảy ra, giả tiếng cọp để nhát Minh
Không. Minh Không cười nói: "Người tu hành mà muốn làm cọp sao? Ta sẽ cứu
ngươi".
Sau
nhiều năm, nhà Sư ấy bỗng chốc chết, hóa làm Quốc vương, chẳng bao lâu bỗng hoá
ra mọc lông, vùng vẫy gào thét, mặt giống như cọp, khắp tìm thầy thuốc, thầy
bói, nhà sư, đạo sĩ, nhưng đều bó tay. Nghe Minh Không có pháp thuật, sai người
chèo thuyền đến mời. Minh Không lấy một chiếc om nhỏ, nấu cơm cho thủy thủ ăn.
Vị sứ giả cười nói: "Sợ khó đủ hết". Minh Không trả lời: "Không
phải, để cho họ ăn mỗi người một ít, xem chút hậu tình của ta". Rồi thủy
thủ bốn năm chục người, ăn mãi mà không hết. Mọi người đều làm lạ. Đến chiều,
họ sắp ra thuyền thì Sư lại bảo thủy thủ hãy ngủ ngon một đêm, đợi sáng mai
rạng đông, bần tăng gọi dậy thì mới có thể bắt đầu ra thuyền. Nếu không thì ta
sẽ không đi. Sứ giả nài nỉ không được, bèn nằm yên giả ngủ, thì chỉ nghe dưới
thuyền tiếng gió thổi veo veo. Lúc lâu mặt trời mọc, Sư gọi dây thì thuyền đã
cập bến ở kinh đô.
Minh
Không bay lên trời mà vào cung, đun nước tắm cho vua, lập tức lông rụng, thân
thể bình phục. Vua hỏi lý do. Sư đáp: "Người tu hành, nếu một niệm mê thì
sám hối là xong, không khó khăn gì hết". Lại hỏi: "Sư làm sao có thần
thông mà làm được như vậy?" Minh Không trả lời: "Đấy chẳng phải phép
thuật gì hết. Thần xưa có bệnh phong, phát ra thì không thấy, nên nhiều ít
không biết thì cái gì cũng trống, mình cứ tin mà bước đi, chẳng phải thần thông
gì thảy". Bèn lại đi bằng đường không mà
57. THIỀN
SƯ Bản Tịch (? - 1140) (Trước tên là Pháp Mật)
Chùa
Chúc thánh, làng Nghĩa trú, Bình lạc1. Người Tây kết, họ Nguyễn, hậu duệ của
Nội cung phụng đô úy Nguyễn Kha triều Lê. Sớm có nhiều tài, gặp một vị Tăng lạ,
lấy làm kỳ nói rằng: "Đứa bé này cốt tướng phi phàm nếu xuất gia, chắc
thành hạt giống của Phật pháp".
Đến khi
lớn, Sư trước đến thọ giáo với Thuần Chân chùa Hoa quang, rõ được yếu chỉ, rồi lại
thọ giới Cụ túc. Chân thấy Sư định lực tròn đầy, giới thể trong sạch, học một
biết mười, xoa đầu nói rằng: "Chánh pháp phía Nam , đang đợi ông đến xiển
dương". Từ đó, Sư không còn vướng mắc việc hữu vô, gồm rõ đốn tiệm2. Đến
đâu cũng gieo khắp mưa pháp, xa rải gió huyền, Tăng, Ni dốc theo, người tục
ngưỡng mộ.
trở về,
cho thưởng gì cũng không nhận, vua bèn ban hiệu là Thần tăng để khen
ngợi".
Tiểu
truyện này của Minh Không, tuy Lĩnh nam trích quái bảo là rút từ Minh Không
biệt truyện, nhưng chắc chắn là xuất phát từ truyện Minh Không thần Dị trong
Nam ông mộng lục, và nhất là bởi vì nó hoàn toàn giống với truyện kể trong đó.
Việt sử
tiêu án 1 tờ 108b7-109b9 cũng chép lại gần giống truyện trên và bảo là từ Ngoại
truyện. Nó viết: "Thế truyền Đạo Hạnh khi sắp thi giải, đem thuốc có làm
phù chú, giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không nói rằng: "Sau 20
năm quốc vương có bệnh thì đem mà trị". Thuyết này xuất phát từ Lĩnh nam
trích quái. Lại xét Ngoại truyện thì cha Đạo Hạnh là Từ Vinh dùng pháp thuật nên
bị sư Thái Điên giết. Đạo Hạnh nghĩ cách báo thù cha, đến tu đạo tại tịnh xá
Hương tích. Trên đường gặp Khổng Minh Không, bèn kết làm bạn cùng đi đến chùa
Vân mộng. Vị thầy dạy cho thần thông quyết. Sau 3 năm, hai người giã từ trở về.
Đạo Hạnh muốn thử thuật mình chơi, nấp vào một nơi hiểm, giả làm con cọp để dọa
Minh Không. Minh Không biết, trách Hạnh dùng tà hạnh lại gồm có chú ngữ. Đạo
Hạnh hổ thẹn và hối hận, đến tạ lỗi, vừa nói: "Nghiệp đời sau chưa trừ
hết, xin phiền giải thoát cho". Đạo Hạnh về am, Minh Không về Giao thủy.
Sau đó nghe Đạo Hạnh thi giải, MK cười, nói rằng: "ông Hoà thượng ấy còn
mê phú quý trần gian sao?". Đến lúc ấy, Thần Tôn bị bệnh kêu gầm, muốn
biến thành cọp. Thuốc chữa không chịu. Trẻ
con hát rằng: "Muốn chữa Lý cửu trùng, phải được Khổng Minh
Không". Thái hậu nghe được cho mời đến. Khi đã đến, bèn giảng chuyện nhân
quả đời trước cho vua. Vua bèn giác ngộ. Bệnh liền bớt. Minh Không có nói kệ:
Kỳ lân
đồ hậu mạc
Nguyệt
vọng đáo trung thiên.
Người
bấy giờ không hiểu. Sau vua ở ngôi và tuổi thọ, quả hiệp với lời kệ. Minh Không
người Đàm xá, huyện Gia vin. Nay chùa Phổ lại và Giao thủy có đắp tượng thờ.
Năm Đại Định thứ 2 (1141) Sư mất, thọ 76 tuổi".
Rồi Ngô
Thời Sĩ đưa ra lời bình luận sau: "Triều Lý tôn sùng đạo Phật, từ khi Vạn Hạnh
nổi tiếng, người ta mộ theo và bắt chước. Tiếp đó có Dương Không Lộ, Nguyễn
Giác Hải đều là người Hải thanh, thờ Sa môn Hà Trạch làm thầy. Lại có Thông
Huyền chân nhân cũng có đạo pháp cao tương tự, nên Nhân Tôn có câu: "Giác
Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo hựu huyền". Nhưng gọi rồng xuống, làm hổ
phục không phải là tài bình loạn cứu nguy. Đi chỗ trống, bay lên không, không
phải là sách lược trị dân giữ nước. Chỉ
cũng là loại La Thập, Đồ Trừng đó thôi, có giúp gì cho thế đạo ư? Thế mà các
triều đại đã thần dị hóa giáo lý nó, để đến nỗi có việc tha thuế hộ để làm tự
đinh, sự mê hoặc thật đã quá lắm".
Từ Đạo
Hạnh đại thánh sự tích thật lục trong Việt điện u linh tập tờ 51 và Đại nam
nhất thống chí tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, cũng có chép chuyện Minh Không chữa
bệnh cho Từ Đạo Hạnh, nhưng không có chi tiết gì đặc sắc cho lắm trừ sự cộng
tác với Giác Hải trong việc chữa bệnh đấy.
Về nơi
Minh Không thường sinh sống, Bắc thành địa dư chí 4, nhân viết về các đền
thiêng của trấn Sơn nam hạ, có ghi đền của Thiền sư Đạo Pháp Minh Không nói:
"Đền ở xã Cổ đam huyện Ý yên. Thế truyền Ngài bình sinh thường ở xã Cổ đam
huyện Ý yên. Thế truyền Ngài bình sinh thường ở xã đó. Sau khi mất người trong
thôn lập đền thờ". Còn về nơi mất của Không, Đại nam nhất thống chí, tỉnh
Hải dương, mục Từ miếu nói: "Đền thiền sư Minh Không ở xã Hán lý huyện
Vĩnh lại. Sư họ Nguyễn, tự Chí Thành, người xã Đàm xá, huyện Gia viễn, nhỏ kết
bạn với Từ Đạo Hạnh đến chùa Vân mộng thọ giới, sau làm cao tăng đời Lý. Vua
Thần Tôn mắc bệnh, Sư chữa liền lành, phong làm Quốc sư. Thế truyền, Sư mất ở
núi Tam viên, xã Hán lý, di tích nay còn". Xã Hán lý này theo nó cũng là
quê mẹ Minh Không, nên có dựng chùa Hưng long ở đó. Xem mục Tự quan.
Cuối
cùng cũng cần nhắc lại là, bản in đời Nguyễn không có tiểu sử của Minh Không, ở
đây không liệt Minh Không vào dòng thiền Pháp vân. Đương nhiên truyện của Không
đã bị bản in đời ấy hay "Tiêu sơn tự cựu bản" góp vào trong truyện
của Không lộ. Xem chú thích (6) truyện Không lộ. Nhưng có thể tờ có truyện Minh
Không đã bị mất trong "Cựu bản Tiêu sơn tự". Xem thêm phần nghiên
cứu.
1 Tức
phần đất thuộc huyện Văn giang và Mỹ hảo,tỉnh Hưng yên ngày nay, bởi vì hai
huyện đấy hiện đang có con kinh mang tên Nghĩa trụ chảy qua. Tên Bình lạc xuất
hiện từ năm 621, khi Lý Uyên đặt ra Long châu gồm ba huyện Long biên, Vũ ninh
và Bình lạc. Xem Tân đường thư 43 thượng tờ 9b13. Đến thời Lý, nó là tên một
đạo, như Đại Việt sử lược 3 tờ 25b7-8 ghi lại.
Làng
Nghĩa trú, chúng tôi cho là làng Nghĩa trang, tổng Sài trang, huyện Đường hào, trấn
Hải dương của Bắc thành địa dư chí lục 2, tức huyện Mỹ hào, tỉnh Hưng yên ngày
nay. Những tài liệu Lý, Trần đều có nói ngôi làng này. Đại Việt sử lược 3 tờ
29a4 gọi nó là một cái ấp, viết: "Năm Kiến Gia thứ 5 (1215) người Nghĩa
trú là Chu Đình đem ấp mình phụ theo Nguyễn
Nộn". Tam tổ thực tục tờ 26a4 nói Nghĩa trú còn cómột ngôi chùa tên Phổ
quang.
2 Hữu vô
và đốn tiệm là những phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo Trung quốc cũng như
Vin đông. Hữu vô hay có không, nguyên là cặp phạm trù lớn của học thuyết Lão
Trang, đấy là thuyết "Hữu vô tương sinh". Xem Đạo đức kinh tờ 1-2a:
"Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu... Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành,
trường đoản tương giảo, cao hạ tương khuyễnh... " Cặp phạm trù hữu vô đó,
tới khi Phật giáo truyền nhập Trung quốc, lại trở thành một trong những cặp
phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo, bởi vì, như Đạo An (312-385) đã viết:
"Người xứ đây(tức Trung Quốc) giáo thuyết Lão Trang đang thịnh hành... nên
nhân theo phong trào mà phát triển".
Ngày 14
tháng 6, mùa hè năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 31 (1139), Sư hợp môn đồ, dạy rằng:
"Vô sự ! Vô sự !". Nói xong thì mất.
Còn đốn
tiệm, hay mau chậm, là một cặp phạm trù lớn khác do kinh Lăng già giới thiệu
vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ 5, liên quan đến vấn đề người tu đạo có thể tức
khắc giác ngộ sự thực toàn diện toàn phần hay chầm chậm giác ngộ từng bước từng
phần.
Xem Phật
thuyết nhập lăng già kinh tờ 596a23-29. Sự phân biệt đó sau này trở thành tiêu
chuẩn duy nhất để phân biệt để xác định thế giá của hai trường phái thiền lớn
của Trung Quốc sau Hoằng Nhẫn, đấy là trường phái thiền của Huệ Năng, thường
gọi là Nam đốn, và trường phái thiền của Thần Tú, thường gọi là Bắc tiệm.
1 Theo
Đại Việt sử lược 3 tờ 3a2 mới có năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 3. Theo Toàn thư B4
tờ 1a7 thì năm Kỷ mùi nhằm năm Thiệu Minh thứ 2. Cương mục chính biên 4 tờ 34b4
cũng chép như Toàn thư.
[61A1]
Thế Hệ Thứ Mười Bố n (4 người, 3 người khuyết
lục)
58. TĂNG
THỐNG Khánh Hỷ (1067 - 1142)
Làng Từ
liêm, Vĩnh khương1. Người Cổ giao, Long biên, họ Nguyễn, dòng dõi Tịnh hạnh.
Nhỏ không ăn đồ tanh hôi, lớn theo thọ giáo với Bản Tịch chùa Chúc thánh.
Một hôm,
Sư theo Tịch đến cúng một nhà thí chủ. Trên đường đi, Sư hỏi rằng: "Cái gì
là ý chính Thiền tôn của các Tổ?". Gặp lúc nghe nhà dân đang đánh trống
lên đồng, Tịch trả lời: "Ấy chẳng phải là thứ lời đồng bóng, đang triệu
thỉnh quỷ thần đó sao?".
Sư thưa:
"Hoà thượng chớ giỡn mãi". Tịch nói: "Ta chưa từng giỡn bao
giờ".
Sư không
hiểu, bèn từ giã Tịch ra đi, đến Biện Tài ở chùa Vạn tuế. Biện Tài hỏi:
"Ngươi từ đâu đến đây?"
Sư thưa:
"Từ Tịch công đến".
Tài hỏi:
"Thầy đó cũng là một bậc thiện trí thức một phương, thế ông ta đã từng nói
câu gì?". Sư thưa: "Con thờ thầy ấy đã lâu năm, nhưng chỉ hỏi một câu
mà thầy không trả lời, nên con bỏ
đi".
Tài hỏi:
"Ông hỏi cái gì?". Sư kể lại chuyện trước.
Tài bảo:
"Ôi! (61b1) Tịch công đã vì ông nói rõ đạo lý, ông chớ phỉ báng Bổn sư của
ông". Sư trầm ngâm suy nghĩ.
Tài nói:
"Không thấy nói:
Hiểu
được khắp nơi đúng, Không ngộ mãi trái sai?"2
Sư bỗng
nhiên đốn ngộ, bèn trở về.
Tịch
thấy, hỏi: "Ngươi từ đâu đến mau thế?"
Sư lạy
nói: :Con có tội hủy báng Hoà thượng, nên đến xin sám hối vậy". Tịch dạy:
"Tướng và tánh của tội vốn không, ngươi làm sao sám hối?". Sư đáp:
"Xin sám hối như vậy".
Tịch bèn
thôi.
Sư
thường cùng hai Thiền sư Tịnh Nhãn và Tịnh Như trong khi đứng hầu, Tịch bảo:
"Các ông
theo học
với ta kể đã lâu ngày, vậy mỗi người hãy trình bày điều thấy biết của mình để
ta xem mỗi ông tiến đạo như thế nào?".
1 Tức
làng Từ liêm, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Xem chú thích (2) truyện
Vân Phong.
2 Đại
Châu Huệ Hải: "Sư vân: Đạt tức biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ".
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a24.
Nhãn và
Như sắp mở miệng thì Sư quát:
"Một
màn che mắt Hoa đốm rối rơi"1.
Tịch
nói: "Xà lê Khánh Hỷ can cớ gì cái thuyền ấy, sao lại đập vỡ cái hộc
đo?"2
Sư thưa:
"Cần gì thuyền"?
Tịch
nói: "Thằng ranh mãnh đó, chớ có ồn ào,
Ngươi
chỉ giải thoát đến việc bên này thôi, còn việc bên kia cũng chưa mộng thấy
được". (62a1) Sư đáp: "Tuy vậy, chỉ là việc khác thôi".
Tịch
nói: "Buông thả sào trăm thước Lao đầu một mình đi".3 Ngươi hiểu sao?
Sư giơ
hai tay lên đáp: "Không nguy hiểm, không nguy hiểm !" Tịch nói:
"Buông đi tức khắc !"
Từ đó,
danh Sư vang khắp tòng lâm. Trong khoảng năm Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137),
Sư được triệu về kinh, vua khen ngợi việc Sư trình bày đối đáp xứng chỉ, phái
làm Tăng lục, rồi thăng làm Tăng thống.
Một hôm,
đệ tử Pháp Dung hỏi: "Rõ được sắc không, thì sắc là phàm hay thánh?"
Sư trả lời bằng bài kệ:
"Nhọc
đời thôi hỏi sắc cùng không Học đạo chẳng qua phỏng tổ tông Thiên ngoại tìm tâm
khôn định thể Nhân gian trồng quế há thành rừng? Càn khôn gom lại đầu sợi tóc
Nhật
nguyệt nằm trong hạt cải mòng4.
1 Phù
Dung Linh Huấn: "Sư viết: Như hà bảo nhiệm. Tôn viết: Nhất ế tại nhãn,
không hoa loạn trụy". Xem Truyền đăng lục 10, tờ 280c26.
2 Bàng
Uẩn hỏi Mã Tổ Đạo Nhất: "Nước không có gân cốt mà có thể thắng thuyền muôn
hộc, lẽ ấy thế nào?". Đạo Nhất đáp: Trong
đó không
có nước cũng không có thuyền thì gân cốt là cái gì?". Xem Truyền đăng lục
6 tờ 246a26-28.
3 Bài kệ
của Thiền sư Cảnh Sầm:
"Bách
trượng can đầu bất động nhân Tuy nhiên đắp nhập vị vi chân
Bách
trượng can đầu tu tiến bộ
Thập
phương thế giới hiện toàn thân." (Trăm trượng đầu sào kẻ đứng im Dẫu cho
vào được chửa là chân
Trăm
trượng đầu sào thêm bước nữa Mười phương thế giới hiện toàn thân.)
Xem
Truyền đăng lục 10 tờ 274b 6-8
4 Duy Ma
Cật sở thuyết quyển trung tờ 546b25-c18:
"Nhược
Bồ tát trú thị giải thoát giả, dĩ Tu di chi cao quảng, nạp giới tử trung, vô sở
tăng giảm... Hựu thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao
khổng phổ sử hiện chi". Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 80 tờ
440c21-22 "Nhất mao khổng, tất hữu tam thiên đại thiên thế giới".
Trước
mặt nắm tay dùng việc lớn1 Ai hay phàm thánh với tây đông".
Nói
xong, ngày 25 tháng 01 năm Nhâm Tuất Đại Định thứ 3 (1142), Sư thị bệnh mà mất,
thọ 76 tuổi2. Có Ngộ đạo ca thi tập lưu hành ở đời3.
1 Thứ sử
Giang châu Lý Bột hỏi Qui Tôn: "Trong kinh, nếu nói núi Tu di chứa hột cải
thì Bột tôi không nghi, nhưng hạt cải chứa núi Tu di, phải chăng là nói
bậy?" Tôn đáp: "Người ta đồn Sứ quân đọc sách vạn quyển, chuyện đó có
không ?". Bột nói: "Phải". Tôn hỏi: "Sờ từ đầu đến chân,
ông chỉ lớn bằng cây dừa, thì sách vạn quyển treo đâu cho hết?". Bột chỉ
gật đầu mà thôi. Ngày khác, Bột hỏi: "Đại tạng kinh dạy rõ được việc
gì?" Tôn đưa nắm tay lên cho Bột coi, rồi hỏi: "Hiểu không?".
Bột nói: "Không hiểu". Tôn bảo: "Cái đầu nắm tay to thế mà cũng
không biết ?". Bột thưa: "Xin thầy chỉ bày". Tôn nói: "Gặp
người tức giữa đường trao cho. Không gặp thì thế đế bố khắp". Xem Truyền
đăng lục 7 tờ 256b 9-18.
2 Hoàng
Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt (Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài gòn, 1966, tr. 474) viết:
"Thiền uyển tập anh chép rằng: "Khánh Hỷ mất ngày 27 tháng giêng năm
Đại Định thứ ba, Nhâm tuất 1142, thọ 76 tuổi. Theo đó mà tính, thì ông sinh năm
1067 và ông có 10 tuổi, lúc Đạo Dung tới Thăng long. Làm sao ông làm thầy Đạo
Dung được? Sách Toàn thư có chép lại vào năm 1135, việc Hầu Khánh Hỷ mất. Chắc
rằng nguyên là chữ Tăng mà Toàn thư chép lầm ra chữ Hầu. Người chú thích sách
Thiền uyển tập anh, in đời Vĩnh Thịnh, cũng nói rằng: Theo Sử ký thì Tăng Khánh
Hỷ mất năm 1135. Nếu theo thoại sau thì lúc bấy giờ Khánh Hỷ cũng chỉ mới 17
tuổi mà thôi. Tôi nghĩ rằng Thiền uyển tập anh chép lầm năm mất và tuổi thọ. Có
lẽ thọ 96 tuổi, vì chữ cửu và chữ thất rất dễ lẫn. Với chữ cửu thì lúc Sư Đạo
Dung ra học với Khánh Hỷ, vị này đã 37 tuổi. Như thế mới hợp lý".
Thật ra
Toàn thư không chép việc Hầu Khánh Hỷ, mà là Hầu Khánh Thiện mất vào năm 1135.
3 Nghệ
văn chí của Lê Quý Đôn và Văn tịch chí của Phan Huy Chú đều ghi: "Ngộ đạo
thi tập, một quyển, thầy Khánh Hỷ soạn, người Cổ giao, Long biên.
[62b1]
Thế Hệ Thứ Mười Lăm (3 người, 1 người khuyết
lục)
59. THIỀN
SƯ Giới Không
Chùa
làng Tháp bát, quận Mãn đẩu1. Người quận đấy, họ Nguyễn, tên Tuân, con nhà
lương, nhỏ đã ưa Phật giáo. Ban đầu, Sư theo Quảng Phước chùa Nguyên hòa núi
Chân ma2. Xuất gia và thọ giới cụ túc, hầu hạ vài năm, Sư được Thiền chỉ. Sư
dựng một cái am ở núi Lịch3. Trải qua năm năm, chuyên thiền định, sau chống gậy
xuống núi, tùy nơi giảng hóa. Đi tới Nam sách, Sư vào núi Thánh chúa4 ở
cấm túc sáu năm, tu hạnh đầu đà, đến nỗi sai được quỷ thần theo lệnh, thú dữ
đến phục.
1 Cứ An
nam chí nguyên 3 tờ 210 thì "Thiền sư Giới Không là vị sư huyện Gia lâm tu
hạnh đầu đà, có thể sai khiến quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến chầu. Sau ngồi
thẳng mà mất".
Đại nam
nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tăng thích dẫn lại đoạn trích vừa dịch của
An nam chí nguyên và sửa lại một đôi chữ thành "Giới Không người huyện Gia
lâm, chân tu đắc đạo, sau ông ngồi ngay thẳng mà tịch". Nhưng truyện Giới
Không ở đây nói Không "người quận Mãn đẩu". Mãn đẩu chưa bao giờ là
tên của quận hay huyện Gia lâm cả. Chúng tôi nghĩ, có lẽ Giới Không được mời về
ở chùa Gia lâm vào khoảng những năm 1128-1132, nên Đại nam nhất thống chí đã
ghi lầm là người Gia lâm. Thế thì, quận Mãn đẩu ở đâu?
Các sách
sử khác không thấy có quyển nào nói tới một quận tên Mãn đẩu cả. Về làng Tháp
bát thuộc quận này, chúng tôi cũng chưa gặp ở một nơi nào khác. Dẫu vậy, Kiến
văn tiểu lục 6 tờ 14b 4-6 có viết: "Các núi của Tuyên quang và Hưng hóa,
nơi nơi đều có cây mạn để, lá nó như cây cổ độ tục gọi đát cây to tới hai hay
ba thước, rất độc. Cây và lá nó trôi vào sông khe thì cá chạch đều chết".
Chúng tôi nghi, quận Mãn đẩu là nơi có cây mạn để đấy. Mãn đẩu chắc là một ghi
âm khác mạn để, hay ngược lại, như Cứu lan của Đại Việt sử lược đã biến thành
Cứu liên của Toàn thư và Thiền uyển tập anh. Xem chú thích (1) truyện Mãn Giác.
Nếu vậy, quận Mãn đẩu nằm tại tỉnh Tuyên quang ngày nay giữa hai lưu vực sông
Chảy và sông Lô.
Xác định
quê hương của Giới Không như thế, ta sẽ hiểu tại sao Không đã từng Tu hành tại
núi Lịch và có môn nhân là Châu mục Phong châu là Lê Kiếm. Kiến văn tiểu lục 4
tờ 3a3 có ghi một bài bia có Hàn lâm quyền học sĩ Đỗ Nguyên Chương viết năm
Long Khánh thứ 5 (1377) cho chùa Phúc minh ỡ làng Mạn để. Làng Mạn để chắc là
quận Mãn đẩu còn sót lại.
2 Núi
Chân ma hiện không thấy các sách sử khác ghi. Nhưng cứ Kiến văn tiểu lục 6 tờ
6a3 có ghi một ngọn núi tên Đán ma thuộc sơn hệ Tam đảo. Chúng tôi nghi Chân ma
đó là Đán ma đó, bởi vì từ Đán ma đến Lịch sơn không xa lắm. Lịch sơn là núi
sau này Giới Không dựng am tu.
3 Kiến
văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b1: "Núi Lịch tại xã Yên lịch, huyện Sơn dương, khởi
từ núi Sư khổng, huyện Đương đạo mà xuống đến xã đó thì đất bằng bổng nổi lên
núi đất năm sáu ngọn, rẽ ngang phân một chi xuống lập thành thành Lãng sơn, chi
xuống huyện Tam dương thành núi Hoàng chỉ. Trong đó núi Lịch cao nhất. Trên
đỉnh có đất bằng như điện đài năm sáu chỗ, có động vua Thuấn rất thiêng. Hoa
quả trên núi người ta có thể hái mà ăn, nhưng không được mang về. Nếu có ai
mang về, họ liền lạc đường, không thể ra được nữa. Bên trên vua Thuấn có đền
vua Nghiêu, đều phải cúng chay. Ở đấy xưa có tự điền , để cung cấp cho người
giữ đền. Xã Yên lịch ở dưới núi lại có miếu vua Thuấn... "Xem thêm Đại nam
nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên.
4 Hang
Thánh chúa này là hang núi Kính chúa tại làng Kính chúa huyện Giáp sơn, tỉnh
Hải dương thời Nguyễn, tức hang núi Thạch môn, làng Dương nham, huyện Kính môn,
tỉnh Hải dương ngày nay, ở đấy có hang và hang núi hiện vẫn còn là hang Kính
chủ. Bởi vì truyện đây nói Giới Không đi đến Nam sách, mới vào ở hang Thánh
chúa. Và Nam
sách là tên một lộ đời Trần. An nam chí lược 1 tờ 19 ghi là lộ Nam sách giang.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách nói: "Năm
Lê Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt Nam sách thừa
tuyên. Năm thứ 10 (1469) định bản đồ thiên hạ, gọi đó là Hải dương, Thừa tuyên
gồm bốn phủ, tức Thượng hồng, Hạhồng, Nam sách và Kinh môn, lĩnh 18 huyện...
" Và Nam sách thừa
tuyên hay lộ Nam
sách giang theo Dư địa chí đã nổi tiếng với núi Kính chủ, nơi sản xuất đá hoa.
Viết về
núi này Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: "Núi Kính chủ tại xã Kính chủ,
huyện Giáp sơn, một tên là núi Thắng hóa nham, cao 160 trượng, hang dài 60
trượng, rộng 20 trượng. Lại có chùa ở núi Lương nham tử, hướng nam, không biết
dựng từ đời nào. Vua Trần Nhân Tôn đánh giặc Nguyên có đóng quân trên núi đó...
Hang bên phải dài 40 thước, rộng 50 thước thờ Thiền sư Minh Không. Hang bên
trái dài 7 thước rộng 20 thước thờ Lý Thần Tôn. Thổ nhân tương truyền xưa có
một người đánh cá bên sông Kính chủ thấy một tượng gỗ mắc vào lưới mình, vứt ra
mà tượng không ra, bèn khấn rằng nếu tượng có linh, xin giúp cho tôi có nhiều
cá thì tôi sẽ thờ làm thần. Từ đó người ấy đánh được rất nhiều cá được lời, bèn
rước tượng lên bờ. Người trong thôn đến xem thì thấy nó nói: "Ta là Lý
Thần Tôn, nhân đi chơi mà đến đây. Nhân thế, họ lập miếu ở động núi để thờ. Họ
lấy tháng giêng và tháng 10 làm tháng kỵ".
Sự tích
vừa dẫn, dù đầy đủ tính chất hoang đường quái đản, giải thích cho ta không ít
tại sao ngọn núi Kính chủ hay Thánh chủ đã có tên như vậy. Thêm vào đó, Toàn
thư B7 tờ 18b3 ghi: "Năm Thiệu Phong 15 (1355) mùa xuân tháng hai núi ở
Trà hương băng". Cương mục chính biên tờ 10a5-7 cũng ghi việc đó, nhưng
sửa lại là núi Kính chủ, rồi chua như: Kính chủ là Thánh chủ ở tại xã Kính chủ,
huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương.
Lý Thần
Tông trưng mời, Sư nhiều lần từ chối, rồi mới đến. Năm Đại Thuận thứ 81, có nạn
dịch lớn , Sư được triệu đến kinh, sắc ở chùa Gia lâm2, dùng nước chú giải để
trị. Người bệnh lành ngay. Ngày đến cả ngàn, vua rất khen thưởng cho hộ 10
người để làm cấp dưỡng.
Tuổi
già, Sư về làng cũ, trùng tu chùa hoang 95 ngôi. Một hôm không bệnh, Sư nói kệ
dạy chúng rằng:
(63a1)
"Ta có một việc kỳ đặc Chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen Thiên hạ tại gia xuất
gia
Yêu
sống, ghét chết là giặc Không biết sống chết khác đường Sống chết chỉ là được
mất
Nếu bảo
sống chết khác đườbg Dối lừa Thích Ca, Di Lặc
Nếu biết
sống chết, sống chết Mới hiểu chỗ ẩn lão tăng
Các
ngươi môn nhơn hậu học Chẳng nhận vòng vo phép tắc".
Nói kệ
xong, Sư cười lớn một tiếng, chấp tay mà mất. Môn nhân đệ tử là châu mục Lê
Kiếm(8) và phòng át sứ Hán Đinh làm lễ trà tỳ, thu xá lợi, dựng tháp đúc tượng
để hương khói.
60. THIỀN
SƯ Pháp Dung3 (? - 1174)
Chùa
Hương nghiêm, núi Ma ni4, phủ Thanh hóa. Người Bối lý1, họ Lê, là hậu duệ của
châu mục Ái châu Lê Lương đời Đường2, trải qua 15 đời là một danh tộc của châu
đó. cha là Huyền Ngưng, đạo
1 Niên
hiệu Đại Thuận, chỉ Đại Việt sử lược ghi lại, còn Toàn thư và tất cả các sử
khác của ta gọi là Thiên Thuận, là của Lý Thần Tôn kéo dài từ năm 1128-1132.
Như vậy, tất không thể nào có chuyện "năm Đại Thuận thứ 8" được.
Chúng tôi nghi năm Đại Thuận "thứ 8" chắc là một viết sai của năm Đại
Thuận thứ hai hoặc thứ ba. Nhưng trong khoảng Đại Thuận, cả Đại Việt sử lược
lẫn Toàn thư không ghi một nạn dịch lớn nào xảy ra cả, nên không thể quyết đoán
được. Do thế, chúng tôi vẫn để nguyên như nguyên văn đã có. Có thể năm Đại
Thuận thứ 8 là một chép lộn của năm Đại Định thứ 8, nhưng trong khoảng Đại
Định, các sử vẫn không thấy ghi một nạn dịch nào lớn cả.
2 Tức
cháu nội của châu mục Phong châu Lê Thuận Tôn và công chúa Kim Thành và là anh
của Thiền sư Trí Nhàn ở dưới đây. Cứ truyện Trí Nhàn, thì Kiếm giữ chức Châu
mục của Phong châu, chứ không phải một nơi nào khác.
3 Theo
bia chùa Hương nghiêm do Hoàng Xuân Hãn phát hiện và dẫn trong Lý Thường Kiệt
tr.453-461 thì Dung đúng ra phải có tên Đạo Dung "nhưng những bản nay còn
đều chép hiệu sư là Pháp Dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy Trần Hưng Đạo".
Thiền uyển tập anh, như một tác phẩm đời Trần, như vậy chắc đổi chữ Đạo thành
chữ Pháp.
4 Chùa
Hương nghiêm nay vẫn còn ở xã Phủ lý, huyện Đông sơn, tỉnh Thanh hóa. Chính tại
nơi đây, mà ta tìm tấm bia dựng vào năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 Giáp thìn (1124)
kể lại sự tích chùa và sự tích sư Đạo Dung. "Chùa này hoàn toàn mới, các
vật trong chùa đều mới, trừ quả chuông đúc đời Gia Long. Trong vườn không thấy
có tháp cổ. Còn có hồ". Tấm bia chùa này còn đọc rõ được là nhờ một nhà Sư
tên Lê văn Nghị trú trì chùa đó đã thuê thợ đúc lại theo nét chữ xưa vào năm Lê
Bảo Thái thứ 7 (1726).
"Ngày
nay làng Phủ lý không có núi cao. Núi Càn ni chép ở bia, có lẽ chỉ là mô đất
cao hơn cánh đồng chung quanh". Đấy là ý kiến của Hoàng Xuân Hãn. Núi Càn
ni ở bên chùa Hương nghiêm, tức núi Ma ni ở đây, vì chữ Càn là húy đời Trần.
Toàn thư B6 tờ 30a2-3 nói: "Cửa Cần trước đổi là Càn vì tránh húy nên gọi
làm Cần. Càn ni, do thế bị tác giả Thiền uyển tập anh đổi thành Ma ni.
hiệu
Tăng phán3. Sư hình dung tú dị, ăn nói thanh cao. Đối vơi kinh vàng kệ ngọc,
không gì là không đọc tụng. Nhỏ theo Tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ xuất gia4. Hỷ
thấy, lấy làm lạ, bèn trao (63b1) pháp ấn5.
Từ đó,
Sư buông chí núi sông, chẳng ngại chỗ tới. Đến lúc phải đi hóa đạo, Sư bèn trác
tích tại chùa Khai giác núi Thứu Phong, dạy dỗ học trò6, người học đầy nhà. Sau
Sư trở về núi Ma ni, dựng chùa để dưỡng lão.
Ngày
mồng 15 tháng 2 năm Giáp ngọ Thiên Cảm Chí Bảo thứ nhất (1174)7, Sư không bệnh
mà hóa. Môn nhơn Đạo Lâm v.v... làm lễ hỏa táng ở núi đó và dựng tháp để thờ.
1 Tức xã
Phủ lý, huyện Đông sơn, tỉnh Thanh hóa ngày nay, bởi vì không những ngày nay xã
đó đang có chùa Hương nghiêm, trái lại còn về phía tây xã hiện có hai làng Viên
quang và Hồ đàm, đất của giáp Viên đàm, mà bia chùa Hương nghiêm nói tới là đã
có sự tranh chấp đất đai với Giáp bối lý. Đất Giáp bối lý có lẽ phải bao gồm cả
những đất của làng Nhân lý và Mỹ lý nữa.
2 Theo
bia chùa Hương nghiêm thì Lê Lương là người đầu tiên dựng chùa Hương nghiêm ở
Giáp bối lý vào thời Hậu Đường (923- 937). "Ông thuộc một cự tộc ở quận
Cửu chân, châu Ái. Ông làm đến chức Trấn quốc bộc xạ. Nhà ông giàu rất có thế
lực trong xứ. Thóc ông trữ đến 110 lẫm. Trong nhà ông nuôi 3000 người khách.
Ông dốc một lòng thiện, rất sùng đạo Phật". Đến khi Đinh Tiên Hoàng lên
ngôi vào năm 968, ông được phong Ái châu Cửu chân đô oai quốc dịch sứ, hàm Kim
tử quang lộc đại phu, phong ấp. Ngoài chùa Hương nghiêm ra, bia còn nói ông có
dựng chùa Trinh nghiêm và Minh nghiêm nữa, nhưng nay ta chưa tìm thấy chúng.
Chúng có thể ở hai làng Nhân lý hay Mỹ lý.
3 Theo
bia chùa Hương nghiêm thì đến đời Lý, vua Lý Thái Tôn đi chơi về phương nam tới
Ái châu có qua chùa ấy. Hoàng Xuân Hãn Sđd., tr. 456, dựa vào Đại Việt sử lược
và Toàn thư giả thiết Lý Thái Tôn đến chùa Hương nghiêm khoảng năm 1031. Nhưng
chùa, trải mấy đời thờ cúng, rường cột đã đổ nát. Vua bèn sai sửa chữa lại. Vua
lại ban cho cháu ông Bộc xạ, là Đạo Quang trưởng lão làm thiền chủ, cấp cho 5
tên giúp việc, và sai trụ trì ở đó". Cha của Đạo Dung theo bia như vậy là
Đạo Quang trưởng lão, có lẽ đây là một tên phong khác, ngoài Huyền Ngung và
Tăng Phán.
4 Bia
chùa Hương nghiêm: "Năm Bính thìn (1076), Sư bỏ gia hương đi tìm bạn. Cỡi
thuyền ra bể, rồi tới Thăng long. Ở đó Thiền sư gặp một vị tăng hiệu là Cao
Tăng. Sư cảm phục, bèn theo học". Xem Lý Thường Kiệt tr. 457.
5 Bia
chùa Hương nghiêm: "Đạo Dung hỏi: "Điều gì cốt yếu trong pháp?"
Cao tăng trả lời: "Pháp vốn không phép, ta lấy gì mà bảo ngươi". Bỗng
nghe Sư thấy trong lòng mở mang, bèn giác ngộ". Xem sđd., tr. 457.
6 Bia
chùa Hương nghiêm: "Sư bèn ngược dòng sông Lô (Nhị Hà) trèo núi Thứu đài.
Ngắm xem cảnh đẹp ấy, Sư dừng chân lại, cho là rất vừa ý. Sư sai thợ chọn
hướng, ghép đá làm nền, mà dựng nên chùa. Đặt tên là chùa Khai giác". Xem
sđd., tr. 458.
7 Hoàng
Xuân Hãn, sđd, tr. 460, nhận xét: "Thiền uyển tập anh chép rằng: "Rồi
Sư trở về nhà, dựng chùa để ở đến lúc già. Sư mất ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp
ngọ 1174 đời Thiên Cảm Chí Báu". Chép như vậy chắc lầm, vì rằng năm 1076
Sư đã ra Thăng long. Nếu sống đến năm 1174, thì Sư phải ít nhất cũng một trăm
hai mươi tuổi".
Cứ theo
báo cáo của Hãn về cái bia chùa Hương nghiêm này, thì quả thực nó đưa ra khá
nhiều vấn đề cho chúng ta về niên đại của Đạo Dung, bởi vì theo nó thì năm 1076
Dung ra Thăng long gặp Khánh Hỷ, năm 1087 (Hãn sửa lại là năm1077) Dung trở về
quê và yêu cầu tùng huyễnh Lưu Khánh Đàm sửa lại chùa Hương nghiêm, cùng năm
này Dung được vua Lý Nhân Tôn mời ra Thăng long lập đạo tràng trong cung, rồi
năm 1122 Dung trở về quê, lại sửa chùa Hương nghiêm để ở. Sửa xong, viết bia đó
vào năm 1124. Đến lúc này, thế nào Dung cũng trên dưới 70 tuổi rồi. Không lẽ
nào Dung còn sống thêm 50 năm nữa cho tới năm 1174 mới mất sao? Chúng tôi hiện
chưa có nguyên văn cái bia chùa Hương nghiêm này, nên không thể bàn cãi gì
thêm. Nhưng cũng cần lưu ý rằng năm Bính thìn 1076 cũng có thể là năm Đinh mão
1147, và năm Nhâm dần 1122 có thể là năm Canh dần 1170.
Thế Hệ Thứ Mười Sáu (3 người)
61. THIỀN
SƯ Trí Nhàn (Một tên là Tĩnh Lự)1
Am Phù
môn, núi Cao dã, Yên lãng2. Người Phong châu3, họ Lê, tên Thước là miêu duệ của
Ngự Man Vương triều Lê4. Oâng nội là Thuận Tôn làm quan với triều Lý đến chức
Trung thư đại liêu ban, lấy công chúa Kim Thành5. Cha là Đạc, làm quan đến chức
Minh tự. Anh là Kiếm, xa nhận chức Tam nguyên đô tuần kiểm cùng được bổ làm
Châu mục6. Sư sớm lo việc học hành, thi đậu tiến sĩ, sung làm Cung hầu thư
gia7.
Năm 27
tuổi, một hôm (64a1) theo anh dẫn tới trường giảng của Giới Không, nghe giảng
kinh Kim cang đến câu "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt bóng, như
sương cũng như chớp, nên quán sát như thế"8. Sư bỗng nhiên cảm ngộ than
rằng: "Năm lời của Như Lai đâu có điêu ngoa1. Các
1 Cả hai
bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều có "Trí thiền sư". Nhưng Đạo
giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16a7-8 và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây,
mục Tăng thích, có ghi tên một vị Thiền sư tên Trí Nhàn, mà chúng mô tả như:
"Người huyện Yên lãng, siêng tu hạnh lành, thấy một con cọp đuổi một con
hươu bèn bảo: "Tất cả chúng sinh đều tiếc thân mình, mầy chớ hại
nhau". Con cọp cúi đầu xuống đất mà đi. Bọn mọi Lào gần núi họp nhau ăn
trộm. Sư dẫn dắt khuyên dỗ, phần lớn cảm hóa theo lời sư dạy mà làm lành".
Cứ vào
mô tả đó, thì Thiền sư Trí Nhàn của Đạo giáo lưu nguyên, Đại nam nhất thống
chí, tức "Trí Thiền sư" của Thiền uyển tập anh ở đây, chứ không ai
khác, bởi vì không những hợp về quê quán, mà còn hợp về những tình tiết sống
khác như chuyện nói chuyện với cọp và chuyện dạy "mọi Lào" đừng ăn
trộm. Chúng tôi do thế nghi rằng: "Trí thiền sư" của ba bản in Lê,
Nguyễn đã thiếu mất một chữ, đấy là chữ Nhàn, và tên đầy đủ của Trí thiền sư từ
đó phải là Trí Nhàn thiền sư. Chỉ có vấn đề là Đạo giáo nguyên lưu và Đại nam
nhất thống chí đã lấy tài liệu ở đâu đó có thể viết về Thiền sư Trí Nhàn như
vậy. Chúng tôi nghi nó lấy từ An nam chí nguyên và đúng là nó lấy ra từ sách
đó. An nam chí nguyên 3 tờ 210 chép việc Trí Nhàn giống như Đại nam nhất thống
chí dẫn trên. Từ đó, dĩ nhiên cuốn sách ấy tất phải sử dụng nếu không phải bản
in Thiền uyển tập anh xưa nhất thì một tài liệu đã dùng bản in Thiền uyển tập
anh trước bản năm 1715 xưa nhất của chúng ta hiện còn. Vì vậy, bản in trước năm
1715 chắc chắn phải có đầy đủ tên Thiền sư Trí Nhàn, chứ không phải cái tên
thiếu là Thiền sư Trí, mà bản in năm 1715 do in sót tạo ra, rồi di lụy đến bản
in đời Nguyễn.
Chúng
tôi do vậy đề nghị bổ sung tên Thiền sư Trí thành Thiền sư Trí (Nhàn), để cho
tên các vị Thiền sư ở đây được nhất quán. Thiền sư nào cũng có hiệu do hai chữ
ghép lại cả, dĩ nhiên trừ Thiền sư Ấn độ.
2 Yên
lãng ở đây dĩ nhiên không phải là trại Yên lãng, huyện Thọ xương, tỉnh Hà nội
đời Nguyễn, mà là huyện Yên lãng, tỉnh Sơn tây đời Nguyễn, bởi vì huyện Trí
nhàn ở đây nói "hai triều đại Anh và Cao Tôn nhiều lần triệu thỉnh mà Nhàn
không đáp", đến nỗi Tô Hiến thành và Ngô Hòa Nghĩa phải "đem lễ thầy
trò đi tìm", thì đủ rõ am của Nhàn tất không thể ở ngoại ô thành phố Hà
nội được. Theo Đại nam nhất thống chí tỉnh Sơn tây, mục Kiến trí diên cách, thì
Yên lãng là tên huyện từ thời Đinh và Lý. Nay là huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh
phúc.
Chúng
tôi hiện chưa truy ra một ngọn núi mang tên Cao đã thuộc huyện đấy.
3 Tức
gồm đất huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phúc ngày nay. Xem chú thích (6) truyện Pháp
Hiền. Đại nam nhất thống chí nói Nhàn người huyện Yên lãng. Xem chú thích (1)
trên.
4 Tức Lê
Long Đĩnh, con thứ tư của Lê Đại Hành, được phong làm Ngự Man Vương ở Phong
châu vào năm 991. Xem Toàn thư B1 tờ 20a3 và Cương mục chính biên 1 tờ 26b1.
5 Toàn
thư B2 tờ 24b3-4 viết: "Thông Thụy năm thứ 3 (1036) tháng 3, đem công chúa
Kim Thành gả cho Châu mục Phong châu Lê Thuận Tôn". Đại Việt sử lược 2 tờ
6b2 gọi công chúa Kim Thành là công chúa Khánh Thành. Lê Thuận Tôn như vậy là
con của Lê Long Đĩnh và là cháu nội của Lê Hoàn.
6 Châu
mục đây phải là Châu mục Phong châu, bởi vì tính tập ấm của chức ấy dưới thời
Lý. Nếu ông nội của Kiếm đã giữ chức Châu mục Phong châu và Kiếm lại là chắt
ngoại của Lý Công Uẩn, thì một sự tập ấm như vậy càng dễ dàng, như trường hợp
giòng họ Thân ở Lạng giang.
7 Toàn
thư B7 tờ 40b8 viết: "Năm Long Khánh thứ 2 đình thí tiến sĩ". Cương
mục chính biên 10 tờ 35a2 ghi: "Năm Long Khánh thứ 2 mùa xuân tháng 2 bắt
đầu đặt khoa tiến sĩ". Nhưng cứ truyện Trí Nhàn ở đây thì từ tiến sĩ đã
xuất hiện dưới thời Lý Anh Tôn, nếu không nói khoa tiến sĩ ra đời vào lúc ấy.
An nam chí lược 14 tờ 133 có ghi chức cung hầu thư gia thuộc loại quan văn.
8 Dẫn
kinh Kim cang tờ 752b:
Nhất
thiết hữu vi pháp Như mộng huyễn bào ảnh Như lộ, diệc như điển Ưng tác như thị
quán.
pháp thế
gian giả dối không thật, chỉ có đạo là thật. Ta lại đi tìm gì nữa? Vả, nhà nho
có thể nói tới đạo vua tôi, cha con2, còn Phật pháp thì có thể bàn đến công
hạnh của Thanh văn, Bồ tát3. Hai lời dạy dù khác nhưng đều quy về một. Tuy
nhiên, để ra khỏi cái khổ của sống chết, và dứt trừ điều có không, thì nếu
không phải giáo lý của Đức Thích Ca, quyết không thể vậy". Bèn xin xuống
tóc.
Sau khi
đã hiểu được yếu chỉ, Sư vào thẳng núi ấy, ở dưới gốc cây ngày đọc kinh, đêm
thiền
định,
chuyên tu khổ hạnh, thề đủ sáu năm.
Một hôm
Sư ngồi thấy một con cọp đuổi một con nai đến, Sư dỗ rằng: "Tất cả chúng
sinh đều tiếc tánh mạng, ngươi chớ nên giết hại nhau". Cọp cúi đầu sát
đất, tỏ dấu quy y rồi đi.
Về sau,
Sư làm một cái am ở dưới chân núi, dạy dỗ học trò. Bốn phương cúng dường, của
chất thành đống. Mọi Lào gần núi (64b1) gọi nhau họp lại làm trộm. Mỗi khi nhà
Sư ra đi, thường có con cọp lớn nằm giữ cửa am. Bọn trộm không dám xâm phạm.
Người được Sư dẫn dụ trở về đường lành, số không thể kể xiết.
Hai
triều đại Anh Tôn và Cao Tôn, nhiều lần triệu thỉnh mà Sư không đáp. Phụ quốc
thái úy Tô Hiến Thành và thái bảo Ngô Hòa Nghĩa đem lễ thầy trò đến tìm, trải
qua 10 năm chưa hề biết mặt. Bỗng một hôm, Sư cùng các vị ấy gặp nhau, họ vui
mừng khôn xiết. Vừa chào hỏi xong, Sư nói bài kệ rằng:
"Đã
mang chí vượt, dưỡng trong lòng Nghe nói lời mầu, ý những nương Tham dục bỏ xa
ngoài vạn dặm
Hi di
diệu lý ngày bao dung"4
Lại nói:
"Đạm
bạc giữ mình Chỉ đức là việc Hoặc bảo lời lành Một câu khăng khít Lòng không
kia, ta Đã hết mù mịt
Ngày đêm
xuống lên Không hình bám vít Như bóng như vang Không dấu theo vết
1 Theo
kinh Kim cang lời nói do Đức Phật phát biểu ra có năm tính chất đây là tính
chân, tính thật, tính đúng, tính không dối, tính không thần dị. Xem kinh Kim
cang tờ 750b27: "Như Lai ngữ giả thị chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ
giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả".
2 Đấy là
thuyết chính danh của Nho giáo. Thuyết đấy cho rằng để lập lại trật tự xã hội
và phục vụ lợi ích xã hội, thì người làm vua phải ra làm vua, người làm cha
phải ra người làm cha, người làm tôi phải ra người làm tôi, người làm chồng
phải ra người làm chồng, người làm vợ phải ra người làm vợ v.v... nếu không
được chính danh như vậy, xã hội sẽ loạn lạc, trật tự bị đảo điên.
3 Tức
thuyết tự lợi, lợi tha của Phật giáo. Trong Phật giáo thường chia làm hai phái,
đấy là phái Thanh văn, và phái Bồ tát. Phái Thanh văn có nghĩa là phái nghe lấy
những lời của Phật Thích Ca Mâu Ni để tu hành nhằm giải phóng những khổ não do
chính bản thân mình và chỉ nhằm sự giải phóng đó thôi. Do thế, có một phái khác
chủ trương phải giải phóng những khổ não của những kẻ khác nữa, chứ không phải
của chính mình. Phái này gọi là phái Bồ tát, tức phái của những người nhằm sự
giác ngộ hoàn toàn.
4 Hy Di
chi lý, tức đạo lý cao siêu. Đạo đức kinh chương 14 định nghĩa chữ Hy Di thế
này: "Xem mà không thấy, gọi là Di; lắng mà không nghe gọi là Hi" Xem
Đạo đức kinh thượng thiên tờ 7b2-3.
Nói
xong, Sư chấp tay ngồi thẳng mà mất. Các vị trên và đệ tử khóc lớn, tiếng vang
rung động cả núi rừng.
[65a1]
62. THIỀN
SƯ Chân Không (1046-1100)
Chùa
Chúc thánh, núi Phổ lại, Phù lan1. Người Phù đổng, Tiên du, họ Vương, tên Hải
Thiềm, xuất thân từ vọng tộc. Khi mẹ mang thai, cha mộng thấy một tăng sĩ trao
cho tích trượng, nhân đó có được Sư.
Thuở
nhỏ, Sư mồ côi, khổ công đọc sách, không thích việc vặt. Năm 15 tuổi rộng hiểu
sách vở. Đến năm 18 Sư dạo khắp thiền lâm đi tìm ấn chứng. Nhân đó đến hội
giảng của Thảo Nhất tại chùa Tịnh lự, núi Đông cứu2 nghe giảng kinh Pháp hoa,
Sư bỗng nhiên tỏ ngộ.
Từ đó,
cơ duyên hòa hợp, rùa gỗ gặp nhau3. Nhập thất sáu năm, học hỏi nghiên cứu mỗi
ngày một thêm tiến bộ. Sau nhận được tâm ấn. Sư liền đến ở núi ấy theo luật mà
tự phòng hộ, không rời khỏi núi, trải qua 20 năm tiếng khen đồn khắp.
Vua Lý
Nhân Tôn nghe được, xuống chiếu mời Sư vào đại nội để giảng kinh Pháp hoa,
thính giả tìm đến tấp nập. Bấy giờ thái uý Nguyễn Thường Kiệt, thứ sử Lạng châu
là tướng quốc Thân Công4 càng thêm kính trọng, thường bỏ của riêng ra cúng
dường Sư. Sư được những gì đều đem sửa chùa xây tháp (65b1) và đúc hồng chung
để lưu lại ở trấn.
Một lần,
có một vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo mầu?" Sư đáp: "Giác ngộ rồi
mới biết"
Tăng hỏi
thêm: "Đối với giáo chỉ của người xưa thì người học này chưa hiểu. Nay dạy
như vậy làm sao hiểu được?"
1 Lịch
triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a7-b1 viết: "Núi Phổ lại tại xã Phổ lại,
huyện Quế dương, núi đá rất cao, ngó xuống dòng sông Lục đầu, cảnh trí khoáng
đãng. Trên núi có chùa Chúc thánh, đó là nơi tu hành luyện tinh của Thiền sư
Không lộ. Thời Trần, vua quan thường hay đến đó ngâm vịnh. ". Xem thêm Đại nam nhất thống chí tỉnh
Bắc ninh, mục Sơn xuyên. Nay là núi Phả lại tại
xã Phả
lại, huyện Quế dương, tỉnh Hà bắc.
Một khi
đã xác định vị trí của núi Phả lại như thế thì vị trí của chùa Phù lan tất
không thể giới hạn theo Cương mục chính biên 1 tờ 27a4 được, bởi vì theo nó thì
"Phù lan là tên một trại, nay là xã Phù vệ thuộc huyện Đường hào, tỉnh Hải
dương". Đất của trại Phù lan đời Lê và Lý, ngoài huyện Đường hào ra, còn
phải ăn thâm lên một phần nào đất huyện Quế dương và có thể là huyện Chí linh
nữa.
2 Đại
Việt sử lược 2 tờ 10b3-4 viết: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ hai (1055) dựng
chùa Tĩnh lự ở núi Đông cứu". Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 6a1
viết: "Núi Đông cứu tại huyện Gia định gồm nhiều ngọn núi đứng thẳng, ngó
xuống dòng sông. Trên núi có chùa Thiên thai, cảnh trí cũng đẹp. Trịnh Dụ Tổ
thường đến chơi nơi ấy. ".
Huyện Gia định năm Minh mạng thứ 1 (1820) đổi
làm
huyện Gia bình, nên Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói:
"Núi Thiên thai tại tây bắc huyện Gia bình 5 dặm, một ngọn đứng cao chót
vót, đá đất lẫn lộn, bên cạnh có những ngọn khác ngó xuống dòng sông. Trên núi
có chùa, có thể gọi là đẹp đẽ. Nó một tên là núi Đông cứu một tên là núi Đông
cao".
Vị sư
Thảo Nhất của chùa này, mà truyện Chân Không đây nói tới, ta hiện không biết
một tí gì.
3 Qui
mộc tương giao. Điển rút từ kinh Tạp a hàm: "Trong biển lớn có một con rùa
đui, sống lâu vô lượng kiếp, cứ trăm năm thì ló đầu lên một lần. Lại có một
khúc gỗ nổi chỉ có một lỗ hổng, trôi dạt theo sóng biển, tùy gió mà trôi đông
hay trôi tây. Con rùa mù một trăm năm ló đầu một lần mà gặp lỗ hổng của khúc gỗ
đó, thật là khó thay". Xem Tạp a hàm kinh 16. Xem thêm kinh Niết bàn:
"Sinh ra đời làm người là một chuyện khó. Gặp được thời cũng khó. Giống
như con rùa mù trong biển lớn gặp được một lỗ hổng trên khúc cây". Xem Đại
bát niết bàn kinh 2.
4 Tức
phải chỉ Thân Đạo Nguyên, con của Thân Thiện Thái và công chúa Bình Dương, bởi
vì không những Nguyên đồng thời với Lý Thường Kiệt, mà còn vì vợ của Nguyên là
công chúa Thiên Thành dưới đây cũng đến cúng dường Chân Không. Theo Đại Việt sử
lược 2 tờ 11a7-8 và 15a2 thì Nguyên cũng có tên là Thân Cảnh Nguyên, được Lý
Thánh Tôn chọn làm phò mã năm 1059 và 1066 thì chính thức cưới công chúa Thiên
Thành. Tục tư trị thông giám trường biên 279 tờ 11a gọi Nguyên là Thân Cảnh
Phúc, còn Mộng khê bút đàm 2 thì gọi là Thân Cảnh Long. Ta chưa hiểu rõ tại sao
lại có nhiều sai chạy như vậy. Dẫu sao , Nguyên là một trong những vị tướng
lãnh có công đầu trong trận chống quân xâm lược Tống năm 1075.
Sư đáp:
"Nếu
đến nhà tiên trong động thẳm Thuốc đan đổi cốt được đem về" Hỏi: "Thế
nào là viên thuốc đan?" Sư đáp:
"Nhiều
kiếp ngu si không biết rõ Sáng nay chợt ngộ được tỏ bày" Hỏi: "Thế
nào là tỏ bày?"
Sư đáp:
"Tỏ bày chiếu khắp cõi Ta bà Tất cả chúng sinh cùng một nhà".
Lại hỏi:
"Tuy không giải đích xác nơi nơi đều gặp y1. Cái nào là y?" Sư đáp:
"Lửa kiếp2 lẫy lừng thiêu rụi hết
Núi xanh
như cũ trắng mây bay".
Lại hỏi:
"Sắc thân tan rã rồi thì sao?"
Sư đáp:
"Xuân đến xuân đi nghi xuân hết Hoa rơi hoa nở chỉ là xuân"
Tăng
ngẫm nghĩ, Sư quát:
"Đồng
bằng sau cơn lửa Cây cối mỗi tươi thơm" Tăng vái lạy.
Tuổi
già, Sư về quận mình, dựng lại chùa Bảo (66a1) cảm. Đến ngày 01 tháng 11 năm
Hội Phong thứ 9 (1100), khi sắp tịch, Sư nói bài kệ:
"Trống
vắng gốc mầu sáng rực ra Gió hòa nổi dậy khắp Ta bà Người người thảy biết vô vi
sướng Nếu được vô vi mới phải nhà".
Vào nửa
đêm hôm đó, Sư lại nói:
1 Thiền
sư Động Sơn Lương Giới, khi bước qua dòng nước thấy cái bóng mình mà ngộ đạo,
bèn làm bài thơ: "Thiết kỵ tùng tha mích
Thiều
thiều dữ ngã cư Ngã kim độc tự vãng Xứ xứ phùng đắc cừ". (Rất kỵ tìm nơi
khác Cùng ta nó luôn đi
Ta nay
riêng tự đến Nơi nơi đều gặp y)
Xem
Truyền đăng lục 15 tờ 321c19. Khái niệm "nơi nơi đều gặp y" là rút từ
bài thơ vừa dẫn.
2 Kiếp
hỏa. Thế mạt luận Phật giáo nói vào lúc hủy diệt, thế giới sẽ bị thiêu rụi bởi
một ngọn lửa có sức nóng bằng bảy mặt trời. Ngọn lửa đấy gọi là kiếp hỏa hay
lửa kiếp. Xem A tỳ đạt ma câu xá luận 12. Quan niệm thế mạt đó sau này Thiền
tôn mượn để đặt thành công án. Công án thứ 29 của Bích nham lục đặt vấn đề thế
này: "Khi lửa kiếp lẫy lừng, vũ trụ thiêu hoại, thì cái gì hoại, cái gì
không hoại?". Xem Bích nham lục 3 tờ 169a 17-18.
"Đạo
tâm đã thành Giáo ta đã hành Ta theo
biến hóa".
Rồi ngồi
kiết già mà mất, thọ 55 tuổi đời, 36 tuổi hạ1, hoàng thái hậu và công chúa
Thiên Thành2, cùng đệ tử Ni sư Diệu Nhân3 đều đem dâng lễ vật. Qua hai ngày
sau, đại sư Nghĩa Hải chùa Đại minh và sa môn được ban ấn tín Pháp Thành đem đồ
chúng và sắm sửa lễ vật đến chôn Sư, xây tháp ở ngoài trai đường. Học sĩ Nguyễn
Văn Cử phụng chiếu soạn bài minh cho tháp, công bộ thượng thư Đoàn Văn Khâm có
thơ truy điệu rằng:
"Triều
đình thôn dã nức cao phong Gậy chống như mây gặp hội rồng Kinh hãi nhà nhân,
cây huệ gẫy Than dài rừng đạo, đọt tùng buông Cỏ biếc vây mồ thêm tháp mới
Núi xanh
soi nước thấy hình vương (66b1) Cửa thiền vắng vẻ nào ai gõ
Qua đấy
chuông chiều vẳng tiếng buồn"4
63 THIỀN
SƯ Đạo Lâm (? - 1203)
Chùa
Long vân, làng Siêu loại, Long phước5. Người Cửu cao, Chu
diên6, họ Tăng sớm mộ Không tôn1, chỉ hạnh thuần khiết. Ban đầu, Sư theo Pháp
Dung chùa Hương nghiêm thọ nghiệp. Trải qua nhiều
1 Tuổi
hạ mà từ Phật học Trung Quốc gọi là hạ lạp, là một thứ tuổi tính theo tiêu
chuẩn tổ chức Phật giáo. Tuổi ấy bắt đầu tính từ khi một người được chính thức
nhận vào tổ chức Phật giáo của những người xuất gia, thể hiện qua việc người đó
chấp nhận những kỷ luật đầy đủ của một người sống hoàn toàn theo Phật giáo, tức
kỷ luật Tỳ kheo. Chỉ khi nào chấp nhận kỷ luật đó, tức thường gọi là "Cụ
túc giới", tuổi hạ bắt đầu tính.
Mỗi tuổi
hạ là tương đương với một tuổi đời, bởi vì nhận giới Tỳ kheo mỗi năm phải sống
cấm túc ba tháng mùa mưa, còn những tháng khác họ phải đi lang thang hoạt động
truyền giáo, nên nếu ai sống mỗi năm được ba tháng cấm túc đó thì được một tuổi
hạ.
2 Hoàng
thái hậu đây tức Linh nhân Hoàng thái hậu (?- 1117), mẹ của Lý Nhân Tôn. Xem
chú thích (3) truyện Thông Biện. Còn Thiên Thành công chúa (? - 1149) là con
của Lý Thánh Tôn và là vợ của Thân Đạo Nguyên. Xem chú thích (3) ở trên.
3 Cả hai
bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều viết: "Đệ tử Mậu Nhân ni sư".
Nhưng truyện của ni sư ở tờ 67a8 thì nói ni sư tên Diệu Nhân. Chúng tôi nghi
chữ Mậu là một sai khác của chữ Diệu, tỵ húy tên mẹ Trần Thái Tôn là Lê thị
Diệu, nên Diệu đổi làm Mậu.
4 Kiến
văn tiểu lục 4 tờ 13b3-6 chép y nguyên bài thơ, trừ câu thứ 5 mà nó chép thành:
"Vân oanh bích thảo thiêm tân tháp". Về những bàn cãi liên quan tới
tác giả bài thơ này cùng bài thơ ở truyện Quảng Trí xem chú thích (3).
5 Cái
tên Long Phúc được nhắc tới hai lần trong Thiền uyển tập anh một ở đây và một ở
truyện Y Sơn tờ 70b1. Cứ vào thành phần cấu tạo nên nó, tức làng Siêu loại và
Đại thông trường, ta có thể xác định phần đất đó thuộc gồm hai huyện Siêu loại
và Gia bình đời Nguyễn, tức huyện Thuận thành và phần bắc huyện Gia lương, tỉnh
Hà bắc hiện nay. Về vị trí là làng Siêu loại, xem chú thích
(1)
truyện Thiện Hội về Đại thông trường. Xem chú thích (1) truyện Y sơn.
6 Cương
mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: "Huyện Chu diên đời Hán đặt thuộc quận Giao
chỉ, đời Đường đổi làm Diên châu, đời Lê là phủ Tam đái, nay tức là đất phủ
Vĩnh tường, tỉnh Sơn tây". Nhưng cả Tùy thơ 21 tờ 7b8 lẫn Cựu Đường thơ 41
tờ 42b11 đều nói Chu diên là đất quận Vũ bình thời trước. Mà ta đã khảo ra đất
quận Vũ bình rơi vào khoảng tỉnh Hưng yên ngày nay. Xem chú thích (2) truyện
Tịnh Lực. Ngoài ra Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 13a1 và Thái bình hoàn vũ
ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu diên ở về phía đông nam, trị phủ Giao châu, nghĩa là
đóng phía nam thành phố Hà nội ngày nay. Chi tiết này Độc sử phương dư kỷ yếu
cũng chép y lại. Như vậy Chu diên chắc phải
nằm phía đông nam thành phố Hà nội, nhưng nó gồm phần đất những huyện nào?
Truyện
Đạo lâm đây nói Lâm "người Cửu cao, Chu
diên". năm, mật nhận tâm ấn, bèn
được chính Dung giao phó đèn Tổ, tùy chỗ thắp sáng, theo cơ giúp việc, lợi
người không ít.
Đến tháng 5 năm Quý hợi Thiên Gia Bảo Hựu thứ
2 (1203), Sư ngồi kiết già mà mất.2
Mà cứ
Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi ba người đỗ tiến sĩ xuất thân từ
làng Cửu cao "hạt Gia lâm". Đây là Trần Văn Bính khoa năm 1505, Vũ
Hữu Nghiêm khoa năm 1514 và Nguyễn Di khoa năm1532. Làng Cửu cao này đến khoảng
năm 1685 thì đổi thành làng Thượng tốn bởi vì khoa năm đó có Đỗ Công Bật
"người hạt Thượng tốn", đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân đến con
của Bật là Đỗ Công Đỉnh cũng là đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa 1706 và Đỉnh
lại ghi là người làng Thượng tốn hạt Gia lâm. Mà ta biết làng Thượng tốn là
làng Cửu cao đổi ra, vì Đại Việt lịch triều đăng khoa lục khi nói Trần Văn Bính
là người làng Cửu cao, thì có chua thêm tức làng Thượng tốn.
Như vậy,
làng Cửu cao, Chu diên nay là làng Thượng tốn,
huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Địa phận của Chu
diên do thế phải ăn thâm vào phần đất
của huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Vùng Chu diên xưa từ đó có thể gồm phần đất
của những huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh và huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên ngày
nay.
1 Tức
chỉ Phật giáo, bởi vì toàn bộ tư tưởng Phật giáo được xếp thành hữu tôn, Không
tôn và Tánh tôn mà Tánh tôn lại bao hàm cả hữu lẫn không tôn. Nhưng Tánh tôn và
Không tôn lại bị "các Thiền gia lộn cho là cùng một tôn, một giáo",
nên Phật giáo gọi là không tôn. Xem Tôn cảnh lục 34 tờ 616a6-617a4.
2 Truyện
Tịnh Thiền tờ 68a7 nói: "Đến khi Lâm mất rồi, Thiền bèn đi khắp chốn thiền
tìm bạn học thêm". Mà Thiền mất vào năm 1139. Như vậy Lâm tối thiểu cũng
phải mất trước năm đấy chừng mười năm, chứ đâu lại có chuyện mất vào năm 1203,
nghĩa là sau khi Thiền chết những mười năm. Lại thêm vấn đề, niên hiệu Thiên
Gia Bảo Hựu chỉ thấy ở Toàn thư B4 tờ 22b8 và 23a5, trong khi Đại Việt sử lược 3 tờ 14a1 v.v...
viết là Thiên Tư Bảo Hựu. Chúng tôi do thế nghi rằng có thể người hiệu đính bản
in năm 1715 đã sửa thêm niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu đấy vào, mà là tự nguyên ủy
có thể là Thiên Cảm Chí Bảo hay Chính Long Bảo Ứng. Vấn đề niên đại các vị sư ở
đây thật là nan giải. Trừ khi tìm thêm những bia văn mới, ta mới có thể giải
quyết một phần nào.
Chúng
tôi hiện biết tính chất ngược ngạo phi lý của niên đại 1203 đấy, nhưng không
thể đề nghị một cách có căn cứ một niên đại giả thiết nào mới, vì niên hiệu
Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 2 đã nhằm đúng năm can chi của nó, tức năm Quý hợi,
như Toàn thư đã có. Dẫu sao, ta phải giả thiết Lâm phải mất trước Thiền khoảng
mười năm, tức có thể khoảng năm 1175.
Thế Hệ Thứ Mười Bảy (có 4 người, 1 người khuyết
lục)
64. THIỀN
SƯ Diệu Nhân (1042-1113)
Viện
Hương hải, làng Phù đổng, Tiên du. Cô tên là Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng
Yết Vương1, bẩm tính hiền thục, ngôn hạnh có pháp. Vua Lý Thánh Tôn nuôi ở
trong cung. Đến tuổi cập kê, vua gả cho thâu mục Chân đăng họ Lê. Họ Lê mất, tự
thề ở vậy giữ nghĩa (67a1) không tái giá.
Một hôm
than rằng: "Ta xem thế gian, hết thảy các pháp cũng như mộng huyễn, huống
gì bọn phù vinh có thể nương tựa được sao?"
Do đó,
đem cho sạch các đồ trang sức, xuống tóc xuất gia, đến thọ Bồ tát giới với Chân
Không tại làng Phù đổng, học hỏi tâm yếu. Chân Không vì vậy ban hiệu và cho
phép trụ trì tại ni viện. Cô giữ giới, hành thiền, đạt được Tam ma địa, thật là
bậc tôn túc trong hàng ni chúng. Có ai đến cầu học, cô tất đem Đại thừa ra
giảng dạy và nói: "Chỉ trở về nguồn tự tính, thì đốn tiệm có thể tùy đó mà
thể nhập, hãy thường tịch tịnh, tránh xa
thanh sắc, ngôn ngữ"
Có học
trò hỏi: "Tất cả chúng sinh bệnh, cho nên ta bệnh2, sao gọi là khi nào
cũng tránh xa thanh sắc?"
Cô đem
giáo nghĩa đáp: "Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, là người làm tà
đạo, không thể thấy Như Lai"3
Lại hỏi:
"Sao gọi là ngồi yên"4 Cô đáp: "Xưa nay không đi" Lại hỏi:
"Sao gọi là không lời?" Cô đáp: "đạo vốn không lời".
Ngày 01
tháng 6 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113), cô cáo bệnh5 (67b1) nói kệ:
"Sinh, già, bệnh, chết
Từ xưa
thường vậy Muốn cầu thoát ly
1 Tức
Phụng Càn Vương, tước của Lý Nhật Trung do cha là Lý Thái Tôn phong vào năm
1035. Chữ Càn vì húy đời Trần, nên đổi ra chữ Yết. Toàn thư B6 tờ 30a2-3:
"Cửa Cần, trước gọi là Càn, vì tránh húy nên làm Cần".
2 Duy ma
cật sở thuyết kinh quyển trung tờ 544b21: "Dĩ nhất thiết chúng sanh bệnh,
thị cố ngã bệnh".
3 Kim
cang kinh tờ 752a17:
"Nhược
dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, Bất năng kiến Như
Lai".
4 Yến
tọa, ngồi tĩnh lặng tư duy. Ơũ đây ám chỉ thiền thoại Tu Bồ Đề yến tọa mà các
thiền gia thường nhắc tới như sau: "Tu Bồ Đề yến tọa trong một đống đá. Chư thiên mưa hoa tán thán. Tôn giả hỏi: "Trong hư
không làm mưa hoa tán thán là ai đó?" Thiên trả lời: "Tôi là Phạm
Thiên. Tôi tôn trọng Tôn giả khéo nói bát nhã ba la mật đa". "Ta đối
với Bát nhã chưa từng nói một chữ, làm sao ngươi tán thán?" Thiên nói:
"Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nghe, không nói ấy là một
chân thật về Bát nhã". Xem Giáo ngữ lục tờ 680a5.
5 Toàn
thư B3 tờ 16a7-9: "(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ 4 (1113) mùa hạ tháng 6,
phu nhân Châu mục châu Chân đăng công chúa họ Lý mất. Phu nhân tên Ngọc Kiều là
con gái lớn của Phụng Càn Vương. Thánh Tôn nuôi trong cung đến lớn, gả cho châu
mục họ Lê Châu chân đăng. Họ Lê chết, cô tự thề ở góa, rồi xuất gia làm Ni. Đến
đó mất, thọ 72 tuổi. Thần Tôn tôn hiệu là Ni sư".
Cởi trói
thêm buộc Mê mới tìm Phật Lầm mới cầu thiền
Thiền
Phật chẳng tìm Ngậm miệng không nói"1
Bèn gội
tóc, rửa mình, ngồi kiết già mà tịch, thọ 72 tuổi.
65. THIỀN
SƯ Viên Học (1073 -1136)
Chùa Đại
an quốc, làng Cổ hạnh, Tế giang2. Người Như nguyệt3, họ Huỳnh. Nhỏ học sách
đời, đến tuổi đội mũ, đi học nội điển4, nhân nghe một câu nói của Chân Không,
tâm địa bỗng nhiên tỏ ngộ.
Từ ấy,
Thiền học cao vút, luật nghi không ngại, thân mặc một áo suốt mùa lạnh nóng,
bình bát tích trượng mang theo bên mình, tùy phương khai hóa; cho đến sửa cầu,
đắp đường, không việc nào là không xung phong trước. Sau, Sư về làng Phù cầm5,
trùng tu chùa Quốc thanh và đúc chuông. Thường có bài kệ duyên hóa sau:
"Sáu
thức6 thường mê đêm trọn khổ, Vô minh che khuất mãi lưỡi buông Sớm tối nghe
chuông khơi giác ngộ Thần lười diệt sạch được thần thông".
Ngày 14
tháng 6 mùa hè năm Bính thìn Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 (1136), Sư thị tịch, thọ
(68a1) 64 tuổi. Các môn đệ Ngô Thông Thiền7, Lưu Vương Nhân, Lữ Pháp Hoa và
Châu Diệu Dụng thu di cốt, xây tháp để thờ.
1 Bài kệ
này Thái tôn hoàng đế ngự chế khóa hư quyển hạ tờ 33b 1-4 có chép và nói là bài
kệ khuyên chúng của Trần Thái Tôn: Sinh lão bệnh tử
Lý chi
thường nhiên Dục cầu giải thoát Giải phược thiêm triền Mê nhi cầu Phật
Hoặc nhi
cầu thiền Thiền giả bất cầu Đổ khẩu vong ngôn.
Những
chữ in nghiêng là khác với chữ trong bản Thiền uyển tập anh ở đây. Với những
chữ khác ấy, chúng tôi nghĩ rằng Trần Thái Tôn đã lấy lại bài kệ thị tịch của
Ni sư Diệu Nhân, rồi đổi một vài chữ, để làm của mình, nhất là khi quan niệm
"nhất hồi niêm xuất, nhất hồi
tân" (mỗi hồi nêu ra, mỗi hồi mới) của các Thiền gia đời Trần đối với các
công án cũ rất là phổ biến. Trần Nhân Tôn, khi có người hỏi sao mình cứ lập lại
các công án cũ của người xưa như thế, đã trả lời: "Nhất hồi niêm xuất,
nhất hồi tân".
Xem
Thánh đăng lục tờ 4b1-2.
2 Tức
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Thuần Chân.
3 Tức
làng Như nguyệt, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Nó không phải là lộ
Như nguyệt giang, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 ghi làng Như nguyệt như
là quê của Hứa Tam Tỉnh tiến sĩ khoa 1558.
4 Chỉ
kinh điển Phật giáo. Nhị giáo luận của Đạo An trong Quảng hoằng minh tập 8 tờ
136c11-16 viết: "Cổ cứu hình chi giáo, giáo xưng vi ngoại, tế thần chi
điển, điển hiệu vi nội... Thích giáo vi nội, Nho giáo vi ngoại".
5 Tức
làng Phù cầm, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện
Minh Trí.
6 Sáu
thức tức sáu thứ nhận thức do sáu giác quan đem lại, đây là nhận thức của mắt,
của tai, của mũi, của lưỡi, của thân và của ý.
7 Ngô
Thông Thiền đây không phải là Cư sĩ Thông Thiền, thầy của Tức Lự, thuộc phái
Kiến sơ.
66. THIỀN
SƯ Tịnh Thiền (1121 - 1193)
Chùa
Long hoa, làng Cổ giao, Long biên. Người làng Cổ giao, họ Phí, tên Hoàn. Ban
đầu, cùng với bạn đồng học là Tịnh Không thờ Đạo Lâm chùa Long vân làm thầy.
Hằng ngày miệt mài học hỏi, sâu hiểu lẽ huyền, Lâm biết Sư sẽ là pháp khí, nên
ban hiệu và ấn chứng rằng: "Tịnh là tịnh trí diệu viên, Thiền là thiền tâm
thường tịch". Đến khi Lâm tịch rồi, Sư bèn đi khắp chốn thiền, tìm bạn học
thêm. Lúc duyên đạo đã thuần, bèn tìm về làng cũ, trùng tu chùa Long hoa. Ngoài
lúc khảo sát thiền luật, Sư luôn nghĩ đến việc lợi tha.
Ngày 12
tháng 8 mùa thu năm Quí sửu Thiên Tư Gia Tự thứ 6 (1193) Sư thị tịch, thọ 73
tuổi.
Môn đồ
là Pháp Ký soạn văn bia tại chùa có nói: Sư sinh đời Lý
Ra gặp
thời minh Lục độ1 há quên
Tứ
hoằng2 không bỏ Chén thơm3 chỗ nổi
Mười
phương tín chủ sóng về Gậy tích khi khua
Bốn
chúng4 học đồ mây nhóm Thần thông khôn tính
Huyền
dụng khó lường
Nếu
chẳng đến Phật giác trường Đâu hay thảnh thơi nghiệp tốt. Quả đúng:
Trời
Thích trăng báu Vườn Pháp thôn thiêng.
1 Tức
sáu cái giúp ngừơi ta vượt bến khổ đau, cũng gọi là ba la mật, đấy là bố thí,
giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
2 Tức tứ
hoằng thệ nguyện, "Bốn thệ nguyện lớn", đấy là chúng sanh vô số lường
thệ nguyện đều độ khắp, phiền não vô cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch, pháp môn
không kể xiết thệ nguyện đều tu học, Phật đạo không gì hơn thệ nguyện đạt viên
thành. Đấy là bốn lời nguyện tổng quát của Đại thừa. Xem Tâm địa quán kinh 7 và
Vãng sanh yếu tập quyển thượng.
3 Hương
bôi, tức chén nước thơm dùng để cúng Phật, cũng gọi là a già bôi, hay ư già
bôi, chỉ cho chùa chiền.
4 Tứ bộ
hay tứ chúng, tức bốn thành phần người Phật giáo, đấy là Tỳ kheo, Kỳ kheo ni,
Ưu bàtắc và Ưu bà di.
Thế Hệ Thứ Mười Tám (có 2 người, 1 người khuyết
lục)
67. QUỐC
SƯ Viên Thông (1080 - 1151)
Chùa
Quốc ân, làng Cổ hiền, Nam định1. Người Cổ hiền, họ Nguyễn tên Nguyên Ức. Sau
về ngụ tại phường Thái bạch2 kinh thành Thăng long, nhân thể làm nhà ở đó. Dòng
dõi làm Tăng quan. Cha là Huệ Dục làm quan triều vua Lý Nhân Tôn đến chức Tả
hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác Thiền sư3. Sư bẩm tính thông minh, tài
học tinh diệu, sớm có chí xuất trần, thường gặp Viên Học chùa An quốc, nhân đó
mà được yếu chỉ. Năm Hội Phong thứ 6 (1197), đỗ Giáp khoa khoa thi tam giáo4
được sung vào chức Đại văn. Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8 (1106), vua chọn
những bậc hoằng tài trong thiên hạ, để bổ vào chỗ khuyết trong giai Tăng đạo,
Sư lại đứng đầu trong kỳ thi tuyển này, Vua càng cho (69a1) là lạ, sắp đem trao
Sư quyền hành chăn dân. Sư cố từ không được, bèn nhận chức Nội cung phụng
truyền giảng pháp sư.
Từ đó,
Sư tùy cơ diễn hóa, chỉ bày yếu chỉ, giác ngộ cho người, giải điều mê trừ việc
dốt, quyết không để vết. Những kẻ thọ nghiệp với Sư đều được hiển danh đương thời.
Năm
Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127), chùa Trung hưng diên thọ làm xong5, vua sai
Sư soạn văn bia. Vua kính trọng tài Sư, nên đổi Sư làm Tả nhai tăng lục. Năm
Đại Thuận thứ 3 (1130), Lý Thần Tôn mời Sư vào điện Sùng Khai. Vua hỏi về lý
trị loạn hưng vong trong thiên hạ.
1 Cứ Cựu
Đường thư 41 tờ 42b5-8 và Tân Đường thư 43 thượng tờ 9b10 thì Nam định là tên
một huyện đặt lần đầu tiên vào năm 621 thuộc Tống châu, mà ngoài nó ra còn gồm
hai huyện khác, đó là Tống bình và Hoằng giáo. Đến năm sau thì chia huyện Tống
bình thành hai huyện Giao chỉ và Hoài đức. Đến năm 627 hiệp ba huyện Giao chỉ,
Hoài đức và Hoằng giáo lại thành huyện Tống bình cùng với huyện Nam định thuộc
Giao châu. Thông điển 184 tờ 50a9-13 của Đỗ Hựu (735 - 812) nói: "An nam
đô hộ phủ nay đóng tại Tống bình". Như vậy, địa phận Tống bình tức tương
đương với phần đất thủ đô hà nội ngày nay với một phần những huyện ngoại vi của
nó thuộc tỉnh Hà đông. Từ đó, phần đất của huyện Nam định tất cũng phải rơi vào
khoảng tỉnh đấy.
Cứ Bắc
thành địa dư chí lục 3 thì huyện Thượng phúc, phủ Thường tín, thuộc trấn Sơn
nam thượng có một số tổng xã mang tên Cổ hiền. Làng Cổ hiền của Viên Thông chắc
chủ yếu là rơi vào địa phận tổng Cổ hiền đấy. Tổng có 9 xã thôn sau: Cổ hiền
(Thái công), Cổ hiền (Bảo hiền), Dưỡng hiền, Hưng hiền, Nhụy khê (Thượng đình
nam thôn), Nhụy khê (Hạ thôn), Thụy ứng, Nhân hiền và Nhuệ giang. Với những tên
xã thôn như vậy vào thời Nguyễn thì ta không còn nghi ngờ gì nữa về vị trí của
làng Cổ hiền thời Lý nữa. Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt nam
I tr. 190 nói: "hiện có hai làng Cổ hiền, một thuộc phủ Thường tín, một
thuộc huyện Phú xuyên, cùng ở tỉnh Hà đông". Nhưng nếu tra lại Bắc thành
địa dư chí lục 3 thì những tổng xã thôn của huyện Phú xuyên thời Nguyễn không
có tổng xã thôn nào tên Cổ hiền hết. Do thế, ta có thể dứt khoát xác định là
làng Cổ hiền của Viên Thông là tương đương với tổng Cổ hiền, huyện Thượng phúc,
phủ Thường tín, trấn Sơn nam thượng, tức nay thuộc huyện Thường tín, tỉnh Hà
đông. Chúng tôi nói là tương đương bởi vì tổng Đông cứu, thuộc huyện Thượng
phúc cũng có thôn tên Cổ hiền.
Đất Nam
định đời Lý như vậy là tương đương với địa phận huyện Thường tín, tỉnh Hà đông
ngày nay. Và làng Cổ hiền của Viên Thông là thuộc huyện đó.
2 Phường
Thái Bạch của kinh đô Thăng long hiện chưa thể khảo được. Cứ Địa dư chí cũng
như Bắc thành địa dư chí lục 1 và Phương đình dư địa chí 2 ta không tìm thấy
tên Thái bạch giữa những tên phố trại thuộc thủ đô Thăng long. Phải chăng Thái
bạch đời Lý đã bị đổi thành phường Thái cực, quê hương của Lê Kim Quế tiến sĩ
khoa 1580, mà Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 và Bắc thành địa dư chí lục 1
ghi lại.
3 Thiền
sư Bảo Giác, cha của Viên Thông đây chắc không phải Bảo Giác chùa Viên minh, vị
thầy của Tịnh Giới, mà truyện Tịnh Giới tờ 33b3 nói tới. Xem chú thích (4)
truyện Tịnh Giới. Bảo Giác cũng không phải là tác giả những tác phẩm Chư Phật
tích duyên sự, Tăng gia tạp lục và Viên Thông tập, như Văn nghệ chí của Lê Quí
Đôn đã ghi. Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Viên Thông tập là của Bảo
Giác thôi.
4 Những
kỳ thi tuyển đấy không thấy các sử sách khác ghi. Xem chú thích (3) truyện
Thiền Nham.
5 Nguyên
văn: "Đại Khánh tam niên. Những chữ "Đại Khánh tam" chắc là một
sửa sai của người viết tựa cho bản in năm 1715, bởi vì cứ Toàn thư B3 tờ 25a7
thì năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127) mùa thu tháng 7 ngày Đinh tỵ khánh
thành chùa Trùng hưng diên thọ". Chùa Trùng hưng diên thọ như vậy khánh
thành năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1, chứ không phải là vào năm Đại Khánh thứ 3.
Chữ Đại Khánh tam niên" chắc là do chữ "Thiên Phù Khánh Thọ nguyên
niên" mà ra. Có lẽ để bản của bản in năm 1715 có những chữ đó bị mờ hay bị
mối mọt ăn, nên nhà nho giữ chức vụ "Chính kỳ khuyết thất, trợ kỳ di
lậu" cho bản in đó đã lầm tưởng những chữ "Thiên Phù Khánh Thọ nguyên
niên" ấy thành "Đại Khánh tam niên", nhất là khi tự dạng 6 chữ
trước rất
Sư đáp:
"Thiên hạ cũng như đồ dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị
nguy, xin đấng nhân chủ hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với
lòng dân, cho nên dân yêu thương như cha mẹ, trông ngóng như trời trăng. Đó là
để thiên hạ vào chỗ yên vậy".
Lại đáp:
"Việc trị loạn là do quan chức, được người thì trị, mất người thì loạn.
Thần từng xem qua các triều vua chúa đời trước, chưa từng có triều đại nào,
không dùng bậc quân tử mà được thịnh, không dùng kẻ tiểu nhân mà (69b1) suy.
Cho đến nỗi như thế, không phải nguyên nhân một sớm một chiều, mà chỗ do lai đã
lâu lắm vậy1. Trời đất không thể bỗng nhiên sinh ra nóng lạnh tức là tuần tự có
xuân thu. Đấng nhân quân (không thể) bỗng nhiên trở nên hưng vong, tất là từ từ
có thiện, ác. Thánh chúa đời xưa vì biết nó như vậy, nên nương theo cái đức
không nghỉ của trời để sửa mình, dựa vào cái đức không nghỉ của đất để yên
người. Sửa mình tức cẩn thận trong lòng, run rẩy như đi trên băng mỏng. Yên người là kính yêu kẻ dưới, sợ hãi
tựa leo bám cành mục. Làm thế thì không gì là không hưng, trái thế thì không gì
là không suy, sự lần hồi của việc hưng vong, chính ở nơi đây vậy".
Sư đối
đáp quả thật xứng chỉ, nên được thăng làm Hữu nhai tăng thống tri giáo môn công
sự. Sư được tự do gần vua, dâng lời chỉ bảo, chưa tùng thiếu sót. Sau đó, Sư
phụng chiếu đến đền Tây dương2 cầu giữ thai vua có ứng nghiệm. Do đó vua càng
thêm kính trọng, ban cho Sư khi vào triều được đứng ngang hàng với Thái tử.
Năm
Thiên Chương Gia Thụy thứ 5 (1137), xe vua gác giá3 Sư dự nhận cố mạng và
(70a1) phụng di chiếu, chủ trì mọi việc bàn tính phó thác.4
Năm
Thiệu Minh thứ 1 (1137), Anh Tôn khi đã lên ngôi, Thái hậu5 nhiếp chính6, cho
Sư đã có công giúp vua, và nhiều lần trọng thưởng. Sau đó, Sư về lại quận mình
lập chùa dưỡng già. Phí tổn xây dựng1 đều do quỹ Vua ban cấp, đồng thời ban
chữ2 để chùa thêm sang.
giống
với 4 chữ sau, một khi chữ phù và chữ thọ đã bị mờ hẳn hay bị mọt ăn đứt hoàn
toàn. Còn lại chữ thiên thì rất dễ đọc thành chữ đại, và chữ nguyên rất dễ đọc
thành chữ tam. Chúng tôi do thế bằng vào Toàn thư và coi năm Thiên Phù Khánh
Thọ thứ 1 là năm khánh thành chùa Trùng hưng diên thọ.
1 Dẫn
Chu dịch: "Quẻ khôn" "Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất
triêu nhất tịch chi cố, kỳ do lai tiệm hỷ". (Tôi giết vua, con giết cha,
không phải chuyện một sớm một chiều mà nguồn gốc nó đã có từ lâu lắm). Xem Chu
Dịch 1 tờ 7a1.
2 Đền
Tây dương này nghi là đền Hai Bà Trưng mà sau này Lý Anh Tôn sai dựng "ở
ngoài Tây dương" như Đại Việt sử lược 3 tờ 7b9 ghi lại. Việc cầu thần linh
giữ gìn thai vua này, chúng tôi nghi là xảy ra vào hạ bán niên năm Thiên Chương
Bảo Tự thứ 3, bởi vì đến tháng 3 năm sau Lý Thiên Tộ sinh, tức Lý Anh Tôn, có
lẽ vì có tham dự vào việc đó nên dưới đây ta thấy nói tới chuyện mời Viên Thông
vào thọ cố mạng. Và việc thọ cố mạng như Lý Thần Tôn giao thì như Toàn thư B3
tờ 41 b2 42a3 đã bị tham tri chính sự Từ Văn Thông cải mạng vì nhận hối lộ của
"ba phu nhân". Thực ra qua việc đi cầu giữ thai trên "ba phu
nhân" đã biết cách tạo dựng phe đảng cho mình và sự lên ngôi của Lý Thiên
Tộ bằng cách kéo Viên Thông đi với mình. Cho nên không phải Từ Văn Thông trách
nhiệm trong việc cải mệnh đó thôi. Nó còn có Viên Thông dù một phần rất nhỏ đi
nữa.
3 Nguyên
văn: Cung xa yến giá. Hợp từ dùng trong truyện Phạm Huy của Sử kyù, mà Bùi Aân
dẫn Ứng Thiệu và Vỹ Chiêu viết: "Ứng Thiệu nói: "Thiên tử phải ban
sáng dậy làm việc sớm, như vừa băng hà, nên gọi nghỉ xe". Vỹ Chiếu nói:
"Hễ vừa mới băng hà thì là muộn
giá, vì lòng thần tử còn muốn nghỉ xe vua đang buộc ngựa nên ra muộn". Xem
Sử kyù 79 tờ 9b 13 - 10a1.
4 Nguyên
văn: Cập phụng di chiếu vương mạc hiến phó thác đẳng sự. Câu đấy có 3 chữ Vương
mạc hiến thật là khó hiểu. Chúng tôi thấy có một số cách hiểu chúng. Thứ nhất,
chúng tôi coi chữ Vương có khả năng là một khắc thiếu nét của chữ chủ. Coi chữ
hiến có thể là một khắc sai của chữ du. Thứ hai, vì chữ mạc và du đều có nghĩa
tính toán, xắp xếp, mưu tính. Nên cả câu Vương mạc hiến phó thác đẳng sự có thể
đọc dịch thành "Chủ mạc du phó thác đẳng sự" với nghĩa "chủ trì
mọi việc sắp xếp phó thác". Ý nói Viên Thông nhận di chiếu của Thần Tôn về
nên sắp xếp việc gửi gắm Hoàng tử lên kế vị cho Viên Thông chủ trì.
5 Thái
hậu đây tức Cảm Thánh phu nhân đời Lê, mẹ của Lý Anh Tôn. Việc Lê phu nhân khen
thưởng Viên Thông tất cũng không có gì là lạ hết, như ta đã thấy ở chú thích
(7) trên. Nhưng điều đáng lạ là không thấy sử sách nào khác ghi lại cả. Ngay cả
việc "nhận cố mạng và phụng di chiếu" cũng không thấy ghi.
6 Nguyên
văn: Thái hậu xưng chế, Thái hậu đây tức Cảm Thánh phu nhân họ Lê, mẹ Lý Anh
Tôn. Còn xưng chế là một từ dùng chỉ cho việc nhiếp chính thay vua, Bản kỷ của
Lữ Cao Hậu trong Tiền Hán thư nói: "Thái hậu lâm triều xưng chế".
Nhan Sư Cổ giải thích: "Lời nói của Thiên tử, một gọi là chế thư, hai gọi
là chiếu thư. Chế thư tức là những mệnh lệnh về chế độ, chẳng phải chỗ Hoàng
hậu có thể có được. Nay Lữ thái hậu lâm triều làm việc Thiên tử quyết đoán mọi
sự, nên xưng chế chiếu". Xem Tiền Hán thư 3 tờ 1a9-11. Việc nhiếp chính
của Lê Thái hậu, tuy cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi rõ, nhưng khi
viết về vụ triều biến năm 1148, Đại Việt sử lược 3 tờ 4a3-5 đã nói:
"Nguyên trước, khi vua còn nhỏ dại, việc triều chính, không kể lớn nhỏ,
đều giao cho (Đỗ) Anh Vũ, mà Anh Vũ lại tư thông với Thái hậu, nên càng trở nên
kiêu ngạo phóng túng. Ở triều thì vung tay lớn tiếng sai quan lại thì nhếch mép
truyền hơi, mọi người đều nghé mắt, không dám nói". Ta cũng đủ rõ Lê thái
hậu nhiếp chính như thế nào. Cũng cần thêm là, Lý Anh Tôn lúc lên ngôi mới có 3
tuổi.
Năm Đại
Định thứ 4 (1143) Vua thăng Sư giữ chức tả hữu nhai Tăng thống nội cung phụng
tri giáo môn công sự truyền giảng Tam tạng văn chương ứng chế hộ quốc quốc sư
tứ tử y đại sa môn. Đức vua đã trọng Sư, nên quần thần càng trọng vọng hơn nữa.
Từ triều đình đến thôn dã cũng đều như thế.
Ngày 21
tháng 4 nhuần năm Tân mùi Đại Định (1151), Sư nhóm đồ chúng từ biệt, không bệnh
mà mất, thọ 72 tuổi. Sư thường phụng chiếu biên soạn Chư Phật tích duyên sự3
hơn 30 quyển4, Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tạp lục hơn 50 quyển (14) và thi
phú hơn nghìn bài5 lưu hành ở đời.
1 Nguyên
văn: tam thôn chi phí. Chúng tôi nghĩ chữ thôn là một chép sai của chữ tài, nên
trong hiệu bản chúng tôi đã sửa tam thôn chi phí thành tam tài chi phí và dịch
thành phí tổn ăn uống". Lý do việc sửa và dịch ấy là như thế này. Thiên
Bản vị của Lã thị xuân thu có chữ
"ngũ vị tam tài". Cao Dụ chua rằng: "Năm mùi là mặn, đắng, chua,
cay và ngọt, tam tài là nước, củi và lửa". Xem Lã thị xuân thu 14 tờ
4b11-12 Tam tài chi phí do thế có nghĩa là "phí tổn về nước, củi và
lửa" tức là phí tổn về việc ăn uống tiêu dùng hàng ngày tức tổn phí xây
dựng.
2 Nguyên
văn: Thần du, chữ du ở đây nghi là một nét sai của chữ hàn vì dạng chữ chúng
khá giống nhau. Thần hàn như vậy có nghĩa là (chữ do bút vua viết). Điều này có
nghĩa chùa của Viên Thông có được ngự bút của Anh Tôn, để thêm sang quí.
3 Nghệ
văn chí của Lê Quí Đôn nói: "Chư Phật tích duyên sự, 30 quyển, thầy Bảo
Giác soạn theo lịnh của Lý Nhân Tôn". Đương nhiên, Chư phật tích duyên sự
không phải của Bảo Giác, mà là của Viên Thông. Bảo Giác là cha của Viên Thông.
Ta không hiểu tại sao Lê Quí Đôn lại có thể chép sai như thế. Phải chăng Đôn đã
dùng một bản thư tịch thiết lập từ trước? Đây là một có thể, bởi Đôn có ghi
thêm là Chư Phật tích duyên sự là soạn theo lịnh của Lý Nhân Tôn, một việc
Thiền uyển tập anh không nói tới. Văn
tịch chí của Phan Huy Chú không thấy ghi tác phẩm này.
4 Nghệ
văn chí ghi: "Tăng gia tạp lục 50 quyển, thầy Bảo Giác soạn" Văn tịch
chí có ghi tác phẩm này, nhưng không nói tác giả là ai.
5 Nghệ
văn chí và Văn tịch chí đều ghi: "Viên Thông tập, 2 quyển thầy Bảo Giác
soạn. Bảo Giác người Cổ hiền". Viên Thông tập tức không phải của Bảo Giác
mà là của Viên Thông. Xem chú thích (9) trên.
Thế Hệ Thứ Mười Chín - Hai Mươi (1 người khuyết
lục)
68. THIỀN SƯ Y Sơn (? - 1216)
(70b1)
Chùa Đại từ, Đại thông trường, Long phúc1. Người Cẩm hương, Nghệ an2, họ
Nguyễn, Sư mặt mày đẹp đẽ, ăn nói hoạt bát, Thuở nhỏ đi học, coi khắp thư sử,
chọn bạn, lựa nghề tất nhằm hữu ích. Nhưng đối với kinh điển Tây trúc, Sư hết
sức lưu tâm. Năm 30 tuổi sư xuất gia với một vị Trưởng lão trong làng, sau đến
kinh thành tham bái Quốc sư Viên Thông, nhờ một lời nói, đạt được yếu chỉ.
Từ đấy,
Sư tùy nơi đi giáo hóa, chỉ nhằm lợi người. Vật do người cúng Sư đều dùng vào
việc Phật. Sư có làm bài văn khuyên người:
Ham danh
chuộng lợi
Đều như
bọt nước trôi sông Kết phúc gieo duyên
Ấy là
trong lòng hoài bão.
1 Đại
thông được nhiều sách sử ghi lại. Đại Việt sử lược 3 tờ 20a4-5 ghi nó như một
tên châu và một bến đò. Toàn thư B4 tờ 6b1 nói nó là tên một trấn. Lĩnh ngoại
đại đáp 2 tờ 16 bảo nó là tên một phủ. Nhưng không thấy nơi nào ghi Đại thông
trường cả. Với chữ trường đi sau nó, Đại thông đây chắc phải liên hệ với một
cửa sông hay một của bể bởi vì ta thấy những địa danh thời Lý có chữ trường
theo sau thường chỉ liên hệ đó. Chẳng hạn Toàn thư B3 tờ 291 nói: "Năm
Thiên Thuận thứ nhất (1128) mùa xuân tháng giêng ngày Mậu thân Quang lang
trường dâng chín chiếc thuyền của thương gia người Tống dạt tới". Quang
lang trường đây dĩ nhiên không phải ở Lạng sơn mà là ở cạnh cửa bể Liêm hộ,
huyện Thụy anh, tỉnh Thái bình. Bắc thành địa dư chí lục 4 có ghi một làng
Quang lang thuộc huyện Thụy anh, trấn Sơn nam hạ.
Từ đó,
Đại thông trường chắc phải liên hệ với bến đò Đại thông và châu Đại thông do
Đại Việt sử lược nói tới. Bến đò Đại thông hay Đại thông bộ được Đại Việt sử
lược 3 nhắc nhiều lần như ở tờ 21a1, 22a2, 25a2 v.v...Nhưng đặc biệt có hai lần,
mà ta cần chú ý. Một ở tờ 25a3 nói: "Năm Kiến Gia thứ 3 (1213) mùa xuân
tháng giêng ngày Tân dậu (Trần) Tự Khánh, dẫn quân vào trong cấm thành, đốt cầu
Ngoạn thiền, rồi dẫn quân về bến Đại thông". Và một ở tờ 28a4 viết:
"Năm Kiến Gia thứ 4 (1213) mùa hạ tháng 4 Tự Khánh đóng quân ở bến Đại
thông, xây lũy ở Nghĩa trú". Như vậy một mặt bến Đại thông phải cách thủ
đô Hà nội không xa lắm. Mặt khác nó phải ở gần địa điểm Nghĩa trú, để Tự Khánh
có thể chỉ huy việc xây lũy. Mà Nghĩa trú hiện nằm tại huyện Mỹ hà, tỉnh Hưng
yên hiện nay. Như vậy bến Đại thông chắc nằm khoảng ranh giới huyện Gia lâm với
huyện Văn giang, có thể chính tại xã Xuân lâm, huyện Văn giang, nơi những
thượng lưu của sông Nghĩa trú tập họp lại để chảy xuống sông Kinh cầu. Từ đó,
Đại thông trường tất phải bao gồm xã Xuân lâm cũng như một vài xã khác quanh
vùng tại huyện Văn giang.
Một khi
đã xác định Đại thông trường như thế, thì châu Đại thông chắc phải là một bãi
đất lồi tại Đại thông trường. Đại Việt sử lược 3 tờ 28a5 nói: "Tháng tư
năm Kiến Gia thứ 4 (1213) Trần Tự Khánh giết Phan Lân ở châu Đại thông trong
khi đang ở bến Đại Thông xây lũy Nghĩa trú, vì Lân muốn liên kết với Nguyễn
Nộn. Nhưng trước đó, vào tháng giêng năm đó, Khánh giao cho Lân giữ Siêu loại.
Do vậy, châu Đại thông hẳn phải ở vùng bến Đại thông và không xa Siêu loại bao
nhiêu.
Kết luận
đấy hoàn toàn tỏ ra đúng đắn, khi truyện Y Sơn đây nói Đại thông trường thuộc
Long phúc, mà truyện Đạo lâm tờ 66b3 lại nói Long phúc có làng Siêu loại. Từ
đó, Long phúc chắc là tên một quận đời Lý và địa phận nó gồm một phần huyện
Siêu loại và một phần huyện Văn giang, tỉnh Bắc ninh đời Nguyễn, tức một phần
huyện Thuận thành, tỉnh Bắc ninh và phần đất phía bắc huyện Văn giang, tỉnh
Hưng yên ngày nay.
2 Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tăng Thích nói: "Thiền sư Y Sơn,
người huyện Gia lâm, nhỏ thông kinh sử, lại càng giỏi cả sách Phật, có chí lớn,
làm lợi người, đến khi thị tịch, hoa cỏ chim muông đều bi cảm". Rồi chua
thêm là: "Nói rõ trong An nam chí, về thế đại của Thiền sư chưa thể khảo
được".
An nam
chí mà lời chua nói đến, là tác phẩm của Cao Hùng Trưng, mà bản in ngày nay gọi
là An nam chí nguyên do một lầm lẫn. Khảo An nam chí nguyên 3 tờ 210 thì những
ghi chú trên của Đại nam nhất thống chí về Y Sơn quả đã rút ra từ đấy. Đến lượt
mình, An nam chí nguyên 3 tờ 208 nói là mình đã rút tài liệu từ "Cựu
chí" và quan báo các nơi cùng tương truyền của các phụ lão mà những bản
hiện còn như An nam chí lược và Việt kiều thư không thấy sách nào nói đến Y Sơn
cả. Phải chăng nó đã lấy từ những bản đã mất như Giao châu thông chí hay Các
châu huyện chí v.v...? Dẫu rút từ đâu đi nữa, thì những ghi chú trên về Y Sơn
cuối cùng cũng phải rút ra từ Thiền uyển tập anh, bởi vì văn cú giữa chúng và
những chi tiết đều giống nhau. Nếu vậy, tại sao những ghi chú ấy lại có thể bảo
Y Sơn là "người huyện Gia lâm?" đây là vì Sơn hoạt động chính ở Gia
lâm.
Đến lúc
tuổi già, Sư dời về làng Yên lãng1 trụ trì chùa Nam mô, thường dạy đồ chúng
rằng: "Các ngươi nên biết, Như Lai thành Chánh giác, đối với tất cả nghĩa
lý, không còn có chỗ xem xét. Đối với các pháp bình đẳng, không có gì nghi
hoặc, không hai, không tướng, không đi, không đứng, không lường, không hạn, xa
lìa hai bên, ở nơi trung đạo, vượt khỏi hết thảy văn tự, ngôn thuyết, truyền
được thân lượng bằng hết thảy chúng sanh, được thân lượng bằng hết thảy mọi
cõi, được thân lượng bằng hết thảy tam giới, được thân lượng bằng hết thảy
Phật, được thân bằng hết thảy ngôn ngữ, được thân lượng bằng hết thảy nguyện,
được thân lượng bằng hết thảy hành, được thân lượng bằng hết thảy tịch
diệt"2.
Lại nói
rằng:
"Như
Lai thành chánh giác Hết thảy lượng đẳng thân Hồi hổ không hồi hổ3 Đồng tử mắt
sáng thần"
Lại nói:
"Chân
thân thành vạn tượng Vạn tượng tức chân thân Cung trăng xanh quế đỏ Quế đỏ tại
cung trăng".
Khi sắp
thị tịch, Sư gọi môn đồ dạy: "Ta không trở lại đây nữa". Bấy giờ, hoa
trên cây trước chùa tự nhiên rơi rụng, chim sẻ kêu bi thương suốt ba tuần không
dứt.
Ngày 18
tháng 3 năm Bính tý Kiến Gia thứ 64 (1216) Sư mất.
1 Làng
Yên lãng này nghi là làng Yên lãng quê mẹ của Từ Đạo Hạnh, tức nay là làng Láng
ở phía tây ngoại thành thủ đô Hà nội. Xem chú thích (3) truyện Đạo Hạnh. Làng
này hiện có chùa Chiêu thiền, nơi thờ Đạo Hạnh và Lý Thần Tôn, mà Đại nam nhất
thống chí, tỉnh Hà nội, mục Tự quán, nói tới chùa đấy, Bắc thành địa dư chí lục
1 gọi là chùa Yên lãng. Nhưng chưa thấy tài liệu nào, ghi hay nói làng Yên lãng
đấy có chùa Nam mô. Phải chăng làng Yên lãng đây là Yên lãng thuộc huyện Yên
lãng, tỉnh Vĩnh phúc ngày nay? Chúng tôi hiện chưa biết làng đấy có một ngôi
chùa nào tên Nam mô?
2 Đại
phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 274c29-275a17: "Phật tử bồ tát ma
ha tát ưng tri Như Lai thành chánh giác ư nhất thiết nghĩa, vô sở quán sát, ư
pháp bình đẳng, vô sở nghi hoặc, vô nhị vô tướng, vô hành vô chỉ, vô lượng vô
tế, vin ly nhị biên, trú ư trung đạo, xuất quá nhất thiết văn tự ngôn thuyết
(... ), đắc nhất thiết chúng sanh lượng đẳng thân, đắc nhất thiết tam thế lượng
đẳng thân, đắc nhất thiết Phật lượng đẳng thân, đắc nhất thiết ngữ ngôn lượng
đẳng thân, đắc chân như lượng đẳng thân, đắc pháp giới lượng đẳng thân, đắc hư
không giới lượng đẳng thân, đắc vô ngại giới lượng đẳng thân, đắc nhất thiết
nguyện lượng đẳng thân, đắc nhất thiết hành lượng đẳng thân, đắc tịch diệt Niết
bàn giới lượng đẳng thân".
3 Hồi hộ
bất hồi hộ. Xem Thạch đầu tam đồng khế trong Nhân thiên nhãn mục 5 tờ 327a19.
4 Nguyên
văn: Kiến Gia tam niên Bính tý. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 24b9 và Toàn thư
B4 tờ 30b6 thì Kiến Gia tam niên là năm Quí dậu, chứ không phải năm Bính tý. Bính
tý thì phải là Kiến Gia lục niên, như Đại Việt sử lược và Toàn thư đã có. Chúng
tôi nghĩ, chữ tam là một viết lộn của chữ lục, một việc rất dễ xảy ra, và đề
nghị sửa lại thành Kiến gia lục niên, như bản dịch đã có.
[71b1]
Hệ Phái của Thiền Sư Thảo Đường
69. THIỀN
SƯ Thảo Đường1
Chùa
Khai quốc2, kinh thành Thăng long. (Truyền tôn phái của Tuyết Đậu Minh Giác3}
Thế Hệ Thứ Nhất (3
người)
70. HOÀNG
ĐẾ Lý Thánh Tôn
71. THIỀN
SƯ Bát Nhã4
Chùa Từ
quang, Phúc khánh5 Làng Dịch vương, Trương canh6.
72. CƯ
SĨ Ngộ Xá
Làng Bảo
tài1, Long chương {Ba vị trên đều thừa kế Thiền sư Thảo Đường}
1 An nam
chí lược 15 tờ 147 viết: "Thảo Đường theo Sư phụ đến sống khách ở Chiêm
thành. Xưa Lý Thánh Vương đi đánh Chiêm thành, bắt được, đem cho vị Tăng lục
làm đứa ở. Vị Tăng lục viết Ngữ lục, để trên bàn mà đi, Sư lén sửa lại. Vị Tăng
lục lấy làm lạ về đứa ở, đem tâu vua. Vua bèn phong làm Quốc sư".
An nam
chí nguyên 3 tờ 209 viết: "Thiền sư Thảo Đường, rất có đạo hạnh, biết rành
sách Phật, vua Lý tôn làm thầy, sau ngồi thẳng mà mất". Vua Lý đây tức Lý
Thánh Vương của An nam chí lược mà Lý Thánh Vương đấy tức Lý Thánh Tôn. Cứ Đại
Việt sử lược 2 tờ 13b3-14a8 và Toàn thư
B3 tờ 4b7-5a2 thì suốt đời mình Lý Thánh Tôn chỉ đi chinh phạt Chiêm
thành một lần vào năm Thần Vũ thứ nhất (1069). Việc bắt được Thảo Đường chắc
chắn xảy ra vào năm đó. Còn Thảo Đường được phong làm Quốc sư có lẽ vào năm
1070, hay cùng lắm là năm 1071, bởi vì đầu năm 1072, tức tháng giêng năm Thần
Vũ thứ 4, Lý Thánh Tôn bị bệnh nặng rồi mất luôn. Vị Tăng lục, ngày nay ta chưa
biết đích xác là ai. Rất có thể là Huệ Sinh, lúc bấy giờ đã làm Tăng Thống và
theo Việt điện u linh tập, đã có tham dự vào cuộc viễn chinh Chiêm thành ấy.
Đạo giáo
nguyên lưu quyển thượng tờ 15b10 viết Thiền sư Thảo Đường rất có đạo hạnh, tinh
thông kinh điển, Vua Lý tôn làm thầy, sau ngồi kiết già mà mất". Tây hồ
chí, tập Tự am, dưới mục chùa Khai quốc và chùa Vạn niên, nói Thảo Đường họ Lý,
và nơi cư trú của Đường không phải chỉ có chùa khai quốc, mà có cả chùa Vạn tuế,
tức Vạn niên nữa.
2 Về
chùa Khai quốc, xem chú thích (1) truyện Vân Phong.
3 Tức
Thiền sư Trùng Hiển (980 - 1052) núi Tuyết đậu tại châu Ninh, Trung Quốc, đệ tử
của Trí Môn Quang Tộ thuộc phái Vân môn. Xem Tục Truyền đăng lục 2 tờ
475a9-476a25 và Tuyết đậu minh giác ngữ lục.
4 Tức
Nguyễn Bát Nhã, đại diện cho thiền phái Thảo Đường, mà Quách Thần Nghi khi xem
xong Chiếu đối bản của Thông Biện và Nam tôn tự pháp đồ của Thường Chiếu đã hỏi
Chiếu: "Sao không thấy nói tới hai phái Nguyễn Đại Điên và Nguyễn Bát
Nhã?" Chiếu trả lời: "Aét Thông Biện có một ức ý nào đó".
5 Chùa
Từ quang, Phúc thánh này rất có thể là chùa Phúc thánh mà Toàn thư B4 tờ 5b4
nói là dựng vào năm Đại Định thứ 5, tức năm 1154, cùng với chùa Vĩnh long.
6 Tức
huyện Đan phụng, tỉnh Hà đông hiện nay. Làng Dịch vương, sau này gọi là Dịch
vọng của Hà nội ngày nay.
Thế Hệ Thứ Hai (4 người)
73. THAM
CHÁNH Ngô Ích
{Thừa kế
Hoàng đế Thánh Tôn}
74. THIỀN
SƯ Hoàng Minh
Làng An
lãng2, Vĩnh hưng {Thừa kế Thiền sư Bát Nhã}
75. THIỀN
SƯ Không Lộ
Chùa
Quang nghiêm, Hải thanh3 (72a1)
76. THIỀN
SƯ Định Giác {Tức Giác Hải}
Hai vị
trên đều thừa kế Ngộ Xá, bản truyện của họ dựa theo Nam tôn đồ, đều đặt vào
phái Kiến
1 Làng
Bảo tài cũng như Long chương, hiện chưa có thể khảo được.
2 Làng
Yên lãng đây nghi làng Yên lãng hay làng Láng tại ngoại thành Hà nội, quê của
mẹ Từ Đạo Hạnh. Xem chú thích (3) truyện Đạo Hạnh. Nhưng Toàn thư B2 tờ 20b1-2
viết: "Năm Thiên Thành thứ 3 (1030) mùa đông tháng mười được mùa lớn, vua
đi xem gặt ở ruộng Ô lộ, đổi tên ruộng là Vĩnh hưng. Ngày đó vua về cung".
Cương mục chính biên 2 tờ 35b6 chú rằng: "Ô lộ, Vĩnh hưng, chưa rõ đích
xác chỗ nào. Xét huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên, nghi là đó". Khảo Bắc
thành địa dư chí lục 3 về những tên xã của tổng Vĩnh hưng cũng như của huyện
Đông yên, ta không thấy có xã thôn nào tên Yên lãng cả, tuy có những tổng xã
mang tên Yên cảnh, Yên lịch, Yên vĩ, Yên viên. Do thế không phải là không có
thể làng Yên lãng của Vĩnh hưng ở tại vùng huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên đấy. Thêm
vào, truyện Cửu Chỉ nói núi Long đội ở Yên lãng. Như vậy, làng Yên lãng đời Lý
có thể gồm cả phần đất phía đông của huyện Duy tiên, Hà nam nữa.
3 Tức
chùa Thần quang hay chùa Keo tại xã Dũng nghĩa, huyện Giao chỉ, tỉnh Thái bình.
Xem chú thích (1) truyện Không Lộ.
Thế Hệ Thứ Ba (4 người)
77. THÁI
PHÓ Đỗ Vũ 1
{Thừa kế
Tham chánh hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác}
78. THIỀN
SƯ Phạm Âm
Làng
Thanh oai2, An la {Thừa kế Thiệu Minh3}
79. HOÀNG
ĐẾ Lý Anh Tôn
80. THIỀN
SƯ Đỗ Đô
Hai vị
trên đều thừa kế Không Lộ hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác.
Thế Hệ Thứ Tư (4 người)
81. THIỀN
SƯ Trương Tam Tạng
{Thừa kế
Phạm Âm có nơi nói thừa kế Không Lộ, hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác.
1 Có thể
là Đỗ Anh Vũ (? - 1158), Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 3a4 thì năm Thiệu Minh
thứ 3 (1139) Đỗ Anh Vũ đã giữ chức Thái uý. Theo Toàn thư B4 tờ 1b1 thì năm
sau, tức năm Đại Định thứ nhất (1140) "lấy Đỗ Anh Vũ làm Cung điện lịnh
trị nội ngoại sự", nhưng không bao giờ thấy nó ghi thêm một tước gì cho Đỗ
Anh Vũ cả. Dẫu thế, việc Đỗ Anh Vũ giữ chức Thái uý khoảng từ năm 1139 trở đi
là một chắc chắn. Và cứ An nam chí lược 14 tờ 133 thì Thái úy phải là chức trên
Thái phó. Do thế, chưa chắc Thái phó Đỗ Vũ là Thái uý Đỗ Anh Vũ.
2 Tức
địa phận tỉnh Thanh oai, tỉnh Hà đông hiện nay. Làng Thanh oai này, chúng tôi
nghi là tương đương với làng Trung thanh oai do Bắc thành địa dư chí lục 3 liệt
ra, bởi vì, làng đấy lúc bấy giờ có ba thôn, trong đó hai thôn mang tên Xa la
và An xá. An xá và Xa la đây chắc là một phân xã của tên An la. Có thể An xá và
Xa la thời Lý là phủ trị của An la, và chúng là một chứng tích cho sự có mặt
đó.
3 Thiệu
Minh đây nghi là Hoằng Minh chép sai.
82. THIỀN
SƯ Chân Huyền
83. THÁI
PHÓ Đỗ Thường1
{Ba vị
trên đều thừa kế Đỗ Đô hoặc có nơi nói thừa kế Thiền sư Tịnh Giới phái Kiến sơ2
Thế Hệ Thứ N ăm (4 người)
(72b1)
84. THIỀN
SƯ Hải Tịnh3
85. HOÀNG
ĐẾ Lý Cao
86. XƯỚNG
NHI QUẢN GIÁP Nguyễn Thức
{ba vị
trên đều thừa kế Trương Tam Tạng}
87. Phụng
Ngự Phạm Đẳng
{Thừa kế
Chân Huyền, hoặc lại nói thừa kế Đỗ Thái phó}
1 Đại
Việt sử lược 3 tờ 24a6 nói trong lần lánh nạn năm 1112, Lý Huệ Tôn "đã đến
nhà của Đại liêu ban Đỗ Thường ở Đông ngạn". Đại liêu ban dĩ nhiên là một
tên gọi khác của Thái phó. Do sắc lịnh năm Đại định thứ 20 (1159) của Lý Anh
Tôn thiết định, mà Đại Việt sử lược 3 tờ 6b3 đã ghi lại. Do đó Đại liêu ban Đỗ
Thường cũng là Thái phó Đỗ Thường. Chỉ có vấn đề là chữ thường của Đại liêu ban
Đỗ Thường, thông thường thì vẫn có thể đọc như chữ thường, nhưng cũng có thể
đọc thành chữ thưởng. Vì vậy, Đại liêu ban Đỗ Thường rất có thể là Đại liêu ban
Đỗ Thưởng chứ không phải Thái phó Đỗ Thường. Dầu sao đi nữa, chúng tôi vẫn nghĩ
Đại liêu ban Đỗ Thường hay Thưởng là Thái phó Đỗ Thường ở đây. Thế hệ này,
nguyên bản ghi có bốn người, nhưng chỉ liệt kê tên của ba người
2 Nguyên
văn: Tự Kiến sơ Tịnh ... thiền sư. Như vậy ta chỉ biết "nối dõi Thiền sư
Tịnh... của phái Kiến sơ". Chúng
tôi ghi thêm là Tịnh Giới, bởi nghĩ rằng thế hệ của Đỗ Thường còn có những
người như Trương Tam Tạng được coi là đệ tử của Định Giác, tức Giác Hải của
phái Kiến sơ. Cho nên nếu bảo Thường là một đệ tử của một Tịnh gì đấy của phái
Kiến sơ thì có lẽ không sai mấy khi ta đi tìm trong thế hệ của Giác Hải có một
người nào tên Tịnh gì đấy không. Nhưng thế hệ Giác Hải có đến ba người có tên
bắt đầu bằng chữ Tịnh, đấy là Tịnh Không(1091-1170), Tịnh Lực (1112 - 1175) và
Tịnh Giới (1140?- 1207). Chúng tôi chọn Tịnh Giới, không những vì Giới có một
đời sống phù phép không kém gì Không Lộ và Giác Hải, mà còn vì truyện Tịnh Giới
nói "Có nơi nói Giới ở chùa Quốc
thanh, Hải thanh", nghĩa là Giới đến từ một chùa và một vùng với Không Lộ
và Giác Hải.
3 Đạo
giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 15b5-6 dưới mục Tuyết đậu truyền pháp, viết:
"Kinh đô Thăng long, chùa Khai quốc Đại sư Thảo Đường, từ đó truyền tôn
phái Tuyết đậu làm đời thứ nhất. Đời thứ hai truyền cho Bát Nhã. Đời thứ ba
truyền cho Hoằng Minh. Đời thứ tư truyền cho cho bốn vị tổ, danh hiệu chưa rõ.
Đời thứ năm truyền cho Chân Huyền. Đời thứ sáu truyền cho Hải Tịnh".
Nói như
thế, chứng tỏ rằng khi An Thiền viết và in xong Đạo giáo nguyên lưu khoảng năm
1845, ông chưa có "Cựu bản chùa Tiêu sơn" của Thiền uyển tập anh, mà
sau này vào năm 1859 ông đã in thành quyển thượng của bộ Đại nam Thiền uyển
truyền đăng của ông. Thế thứ lưu truyền của phái Thảo Đường do ông liệt, do thế
có thể rút từ những tài liệu khác với Thiền uyển tập anh ở đây và vì vậy có một
giá trị kiểm chứng nào đó.
THIỀN UYỂN TẬP ANH XONG QUYỂN HẠ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét