XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2020

Thiền uyển tập anh 2


Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục
Quyển Hạ
[44a1]

Dòng Pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi - Chùa Pháp Vân

40. THIỀN SƯ Tỳ Ni Đa Lưu Chi1
Chùa Pháp vân, làng Cổ châu, Long biên2. Người nước Nam Thiên trúc1, dòng Bà la môn. Nhỏ đã mang chí xuất tục, đi khắp Tây trúc, cầu tâm ấn Phật. Nhân duyên đạo chưa gặp, bèn cầm gậy sang Đông Nam.
1 Đối chiếu với các tư liệu Trung Quốc: (vinitaruci)
(a) Lịch đại tam bảo ký 10 tờ 102c3-9: "Tam tạng tháp sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi nước Ô trượng, Bắc Thiên trúc. Tùy dịch là "Diệt hỷ". Khi đã nghe đức Hoàng đế ta phục hưng Tam bảo, nên có thể không cho 500 do tuần là xa, bèn chống gậy nhắm phương đến xem sự thạnh hóa đến mức nào. Bèn được mời vào, sai dịch kinh, tức ở nơi chùa Đại hưng thiện dịch ra (kinh Tượng đầu tinh xá và Đại thừa phương quảng tổng trì). Cấp sự Lý Đạo Bảo và thứ tử của Bát Nhã Lưu Chi là Đàm Bì, hai người truyền dịch. Sa môn chùa Đại hưng thiện là Thích Pháp Toản từ Trường an bút thọ thành chữ Hán, cùng chỉnh đốn so sánh văn nghĩa, Sa môn Ngạn Tôn viết tựa cho cả hai".
(b) Đại Đường nội điển lục 5 tờ 275a14-19 chép như (a)
(c) Tục Cao tăng truyện 2 tờ 433b2-5 chép y như (b)
(d) Khai nguyên Thích giáo lục 7 tờ 547c8-14 đại cương chép như (a) nhưng thêm chi tiết là các kinh kể trên "dịch vào năm Khai Hoàng thứ 2 (582) Nhâm dần đời Văn Đế", và thêm đính chính rằng "Trường Phòng tức (a) nói phiên dịch tại chùa Đại hưng thiện là sai".
(e) Trinh nguyên tân định Thích giáo mục lục 10 tờ 646a8-14 chép như (đ). So sánh các tư liệu Trung Quốc vừa dẫn với nhau, ta thấy ngay một điểm bất thường nổi bật ngay, đấy là việc Khai nguyên Thích giáo lục nói Lịch đại tam bảo ký ghi Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch những kinh của ông tại chùa Đại hưng thiện là sai, nhưng không nói rõ nếu đúng thì dịch chúng ở đâu. Lịch đại tam bảo ký do Phí Trường Phòng viết xong năm 597, còn Khai nguyên Thích giáo lục do Trí Thăng soạn năm 730. Việc Thăng phản đối Phòng về nơi dịch Kinh của Tỳ Ni Đa Lưu Chi rõ ràng muốn nói rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi không bao giờ dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện cả. Ngược lại, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch chúng ở những nơi khác. Nhưng nới khác đây là nơi đâu, Thăng không nói. Do thế, Thiền uyển tập anh không phải là không có lý, khi nói Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch kinh Tượng đầu ở Quảng Châu và kinh Tổng trì ở  nước ta, dầu rằng nó có xuất hiện hậu kỳ. Từ kết luận đây, những chi tiết khác liên quan đến Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Phòng ghi lại vị tất là có thể đáng tin hoàn toàn. Sự thực, nếu Tỳ Ni Đa Lưu Chi không dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện, thì việc "mời vào khiến dịch kinh" khó có thể tin được.
2 Cương mục chính biên 3 tờ 32a1-3 nói: "Chùa Pháp vân ở tại thôn Văn giáp huyện Thượng phúc tỉnh Hà nội. Tương truyền một hôm mây mưa sấm chớp nổi lớn, cây si ngã xuống, người trong thôn lấy gỗ nó khắc tượng dựng chùa thờ, nên có tên đó". Xác định chùa Pháp vân như vậy, các tác giả Cương mục đã sử dụng tài liệu của Bắc thành địa dư chí lục 3, theo đó "chùa Đại Pháp vân, Pháp vũ, Pháp lôi, Pháp điện ở làng Văn giáp, huyện Thượng phúc". Nhưng đương nhiên chùa Pháp vân nói tới đây không phải là chùa Pháp vân làng Cổ châu, Long biên, mà thực ra chùa Pháp vũ hay chùa Thành đạo hay chùa Đậu, nơi thờ Pháp vũ. Vậy chùa Pháp vân làng Cổ châu là chùa nào?.
Làng Cổ châu, Long Biên, nay gồm đất làng Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh. Tại làng này hiện có một chùa tên Diên ứng và một cây tháp tên Hoà phong.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tự quan viết: "Chùa Diên ứng ở xã Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện rõ có linh tích. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp, di chỉ nay còn. Xét Pháp vân Phật truyện thì lúc Sĩ Nhiếp làm Thái thú cai trị thành Luy lâu, sư Khâu Đà La ở tại núi xanh  phía tây của thành. Có người con gái của Tu Định là A Man bị Sư đụng đến, mà có thai sinh một đứa bé gái. Sư đem bỏ vào trong một cây lớn ở rừng sâu. Sau gió mưa nổi lớn, cây trốc gốc, trôi nổi trong sông, trôi đến bến Luy lâu. Người ta lấy làm lạ, vớt lên bờ, sai thợ đẽo bốn pho tượng Phật, dựng chùa gọi là chùa Thiền định...tức nay chùa Diên ứng..., đặt bốn pho tượng Phật phụng thờ. Sau mỗi lần cầu mưa đều có linh ứng, người ta đặt tên Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện và Pháp Lôi. Thập Di ký của Lý Tế Xuyên nói người Cổ châu mỗi năm đến ngày mừng Phật đản thì hội họp tại chùa Thiền định. Trần Nghệ Tôn có ban mỹ hiệu. Sử nhà Lê chép: Năm Thái Hòa thứ 6 đời Nhân Tôn sai Lê thái úy đến Cổ châu rước Phật Pháp vân về đến chùa Báo thiên ở kinh
Đời trần Đại Kiến thứ 6 (574), năm Giáp ngọ2, Sư mới đến Trường an. Gặp lúc Chu Võ Đế phá diệt Phật pháp3, Sư muốn sang đất Nghiệp4. Bấy giờ đệ tam tổ Tăng Xán vì tị nạn, nên mang y bát ở ẩn trong núi Tư không5. Sư đến gặp Tổ, thấy cử chỉ phi phàm, trong lòng phát niềm kính mộ, bèn đến trước, chấp tay đứng ba lần. Tổ vẫn ngồi yên không nói. Sư suy nghĩ giây lát, bỗng nhiên lòng như có sở đắc, liền sụp lạy ba lạy. Tổ gật đầu ba cái mà thôi. Sư lùi ba bước, thưa rằng: "Đệ tử bấy lâu không gặp thuận tiện, nay nhờ Hoà thượng đại từ bi, cúi xin cho con theo hầu hạ hai bên".
Tổ dạy "Ngươi nên mau qua phương Nam (44b1) giáo hóa, không nên ở đây lâu".
Sư từ biệt ra đi, đến Quảng châu trác tích chùa Chế chỉ. Trải qua 6 năm, Sư dịch được kinh Tượng đầu6 báo nghiệp sai biệt7. Đến tháng 3 năm Canh tý đời Chu Đại Tường thứ 2 (580), Sư đến nước ta ở tại chùa đó, lại dịch ra kinh Tổng tri, 1 quyển (8).
Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền dạy rằng: "Tâm ấn chư Phật
Tất không lừa dối Tròn đồng thái hư không thiếu không dư8 Không đi không đến
Không được không mất Chẳng một chẳng khác Chẳng thường chẳng đoạn Vốn không chỗ sinh thành để cầu mưa".
Chùa Pháp vân ở Cổ châu, Long Biên tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu tại xã Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh ngày nay.
1 Tức nam Ấn. Nhưng các tư liệu Trung Quốc, đã dẫn đều nói người bắc Thiên trúc, tức bắc Ấn
2 Nguyên bản viết "Nhâm ngọ" là sai, Trần Đại Kiến thứ 6 năm Giáp ngọ.
3 Phật tổ lịch đại thông tải 10 tờ 557a: Năm Giáp ngọ, Chu Vũ Đế, niên hiệu Kiến Đức thứ 3 (574), tháng 5, ngày 17, xuống chiếu hủy Phật.
4 Nghiệp, bây giờ là kinh đô nhà Bắc Tề.
5 Tổ Tăng Xán, sau khi được truyền pháp, đến ẩn cư trong núi Hoàn công, Thư châu. Gặp lúc Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, ngài lánh sang núi Tư không, huyện Thái hồ sống không nhất định một nơi nào, trải qua 10 năm...Đến Tùy Khai Hoàng 12 (592), truyền pháp cho Đạo Tín. Xem Truyền đăng lục 3, ĐTK 2078, tr. 221c.
6 Các tư liệu Trung Quốc, xem chú thích (1) trên đều ghi như nhau. Sư dịch 2 tác phẩm:
(a) Tượng đầu tinh xá kinh 1 quyển (xem ĐTK.466). Chú thích của Trường Phòng (sđd. 102c1): "Năm Khai Hoàng thứ 2 (502), tháng 2 dịch. Bản dịch lần thứ 2, cùng nguyên bản với kinh Già da sơn đỉnh (xem ĐTK.465)".
(b) Đại phương quảng tổng trì kinh, 1 quyển (xem ĐTK.275). Ghi chú của Trường phòng (sđd): "Khai Hoàng, năm thứ 2, tháng 7, dịch".
7 Nghiệp báo sai biệt kinh, 1 quyển; gọi đủ là: Phật thuyết thủ trưởng giả nghiệp báo sai biệt kinh, đời Tùy, Cù Đàm Pháp Trí dịch (xem ĐTK.80) Ghi chú của Trường Phòng: "Khai Hoàng năm thứ 2, tháng 2, dịch..." Bản dịch của Tỳ Ni Đa Lưu Chi phải chăng đã mất và chắc chắn nội dung không phải thuộc loại kinh này. Bởi vì học lý của Tỳ Ni Đa Lưu Chi xuyên qua hai bản dịch trên, không thể nào để cho ông dịch một tác phẩm với một học lý, như nó thể hiện trong bản dịch Nghiệp báo sai biệt kinh ngày nay.
8 Tăng Xán, Tín tâm minh tờ 376b 22-23: Viên đồng thái hư
Vô khuyết vô dư Lương do thủ xả Sở dĩ bất như.
Cũng xem Truyền đăng lục 30 tờ 457a 21-22.  
Cũng không chỗ diệt Cũng chẳng lìa xa Chẳng không lìa xa Vì đối vọng duyên. Nên giả đặt tên
Bởi thế chư Phật ba đời Cũng dùng như thế mà được Tổ sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được Ta cũng dùng như thế mà được
Ngươi cũng dùng như thế mà được Cho đến hữu tình, vô tình
Cũng dùng như thế mà được Vả, Tổ ta Xán công
Khi ấn cho ta tâm đó
Bảo ta mau Nam hành giáo hóa Không nên (45a1) ở lại đây lâu Từng trải nhiều nơi
Mới đến được đây Nay gặp phải ngươi Quả hợp huyền ký Ngươi khéo giữ gìn Giờ đi ta đến.
Nói xong, Sư chấp tay mà mất. Pháp Hiền làm lễ trà tỳ, thu xá lợi 5 sắc, xây tháp để thờ. Khi ấy là năm Giáp dần, đời Tùy Khai Hoàng thứ 14 (594).
Vua Lý Thái Tông có làm bài kệ truy tán: "Mở lối sang nước Nam
Nghe ông giỏi tập Thiền Mở bày niềm tin Phật Xa hợp một nguồn tim
Trăng Lăng già vằng vặc Sen Bát nhã ngát thơm Bao giờ được gặp mặt Cùng nhau bàn đạo huyền1

1 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a1-3 chép: Phi Tích lai Nam quốc
Và tặng phong.
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tín
Viễn hiệp nhất tâm nguyên Hạo hạo Lăng già nguyệt Phần phần bát nhã liên
Hà thời tái đắc kiến
Tương dự thoại trùng huyền.
Những chữ in nghiêng là khác với chữ trong bản in 1715 ở đây.

Thế Hệ Thứ Nhất (1 người)

41. THIỀN SƯ Pháp Hiền (? - 626)

Chùa Chúng thiện, núi Thiên phúc1, Tiên du, người Châu diên2, họ Đỗ. Thân cao 7 thước 3 tấc. Ban đầu, Sư đến thọ giới cụ túc với Đại sư Quán Duyên, chùa Pháp vân. Hàng ngày cùng với Tăng chúng nghe giảng về yếu chỉ của Thiền. Khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi (45b1) từ Quảng châu đến ở chùa đó, thấy Sư, nhìn kỹ vào mặt hỏi: "Ngươi họ gì?"
Sư hỏi lại: "Hoà thượng họ gì?"
Lưu Chi lại hỏi: Ngươi không có họ sao?"
Sư đáp: "Họ thì không phải không có, nhưng làm sao Hoà thượng biết?" Tỳ Ni Đa Lưu Chi quát: "Biết để làm gì?"3
Sư bỗng nhiên tự tỉnh, liền sụp lạy, bèn được Thiền chỉ. Khi Chi tịch rồi, Sư thẳng vào núi ấy, tu tập thiền định, hình như cây khô, vật, ngã đều quên, chim bay đến chầu, dã thú vây quanh. Người đương thời nghe tiếng đến học, không thể đếm xiết. Nhân đó, Sư lập chùa, dạy dỗ học trò, Tăng chúng đến ở thường hơn 300. Thiền học phương Nam nhờ thế mà thịnh.
Thứ sử Lưu Phương nhà Tùy đem tâu vua Cao Tổ rằng:
"Phương này bấy lâu sùng kính Phật giáo, mà lại trọng Sư đức độ tiếng tăm".
Vua Tùy sai sứ ban cho 5 hòm xá lợi của Phật cùng điệp sắc, sai Sư dựng tháp cúng dường4. Sư xây tháp tại chùa Pháp vân ở Luy lâu1 và những chùa danh tiếng ở các châu Phong2, Hoan3, Trường4, Ái5.
1 Tức núi Tiên du ở xã Phật tích, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh. Xem chú thích (1) truyện Thiền Lão.
2 Cương mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: "Huyện Chu diên, đời Hán đặt thuộc quận Giao chỉ, đời Đường đổi làm Diên châu, đời Lê ở
phủ Tam đái, nay tức đất phủ Vĩnh tường, tỉnh Sơn tây".
Nhưng cả Tùy thơ 21 tờ 7b8 lẫn Cựu Đường thư 41 tờ 42b11 đều nói Chu diên là đất Vũ bình thời trước. Ngoài ra, Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 13a1 và Thái bình hoàn vũ ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu diên ở về phía đông nam của trị phủ Giao châu, mà sau này Độc sử phương dự kỷ yếu 112 tờ 8a3 chép lại, nghĩa là Chu diên ở về phía đông nam của thủ đô Hà Nội ngày nay. Phần đất của nó như vậy bao gồm trong tỉnh Hưng yên. Kết luận này tỏ ra hợp lý, bởi vì đất Quận Bình, chúng ta đã đồng nhất với đất những huyện Tiên lữ, Ân thi, Khoái châu, Kim động, Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Xem chú thích (2) truyện Tịnh Lực.
Hơn nữa truyện Đạo Lâm tờ 66b3 nói Lâm, người Cửu cao, Chu diên. Cứ Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 thì Cửu cao là tên một ngôi làng thuộc "hạt Gia lâm", nơi xuất thân của những tiến sĩ Trần Văn Bính khoa năm 1505, Vũ Hữu Nghiêm khoa năm 1514 v.v..., và khoảng đến năm 1706 thì đổi thành làng Thượng tốn, khi có Đỗ Công Đỉnh đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Như thế, địa phận của Chu diên đời Lý phải gồm luôn tối thiểu phần đất phía đông nam của huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh ngày nay.
Từ đó, quê của Pháp Hiền tất phải nằm khoảng huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh cho đến những huyện phía bắc tỉnh Hưng
yên.
3 Tham chiếu Truyền đăng lục về cuộc đối thoại đầu tiên giữa Đạo Tín và Hoằng Nhẫn: "Một hôm Tín đến huyện Hoàng mai, giữa đường gặp một đứa trẻ cốt tướng kỳ vĩ, khác với trẻ thường. Sư hỏi: "Con họ gì?" Trẻ đáp: "Là họ Phật." Sư hỏi: "Ngươi không có họ sao?" Trẻ đáp: "Tánh không vậy". Sư lặng biết nó là một bậc tài giỏi của đạo, liền sai người hầu đến nhà nó gặp cha mẹ, xin cho nó xuất gia. Cha mẹ cho là có duyên xưa, nên không có chút vẻ làm khó khăn, liền cho đi làm đệ tử, có tên gọi Hoằng Nhẫn". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 222b10-16.
4 Tục Cao tăng truyện 18 tờ 573b25-c14 trong truyện của Đàm Thiên ghi rõ là vua Tùy Cao Tổ ban xá lợi gồm cả thảy ba lần. Lần đầu cho 30 châu chỗ ở hơn ba mươi châu vào tháng 6, năm Nhân Thọ thứ nhất (601). Lần thứ hai cho 51 châu khác vào tháng giêng năm sau. Và lần thứ ba vào tháng giêng năm Nhân Thọ thứ 4 (604), ra lệnh các châu lớn xây thêm hơn một trăm bảo tháp, để nhận thêm xá lợi. Cứ Xá lợi cảm ứng ký trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 thì lần ban xá lợi thứ nhất, chùa Thiền chúng của Giao châu được chọn làm một trong 30 chỗ xây tháp của Cao Tổ. Nhưng năm đó, cứ Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư 4 tờ 23a1-8 và Tùy thư 2 tờ 10a6-7, nước ta hiện đang là một nước độc lập dưới quyền lãnh đạo của Lý Phật Tử, thì làm sao Cao Tổ có thể ban xá lợi qua được. Hơn nữa, nếu việc dẫn Pháp sư Đàm Thiên truyện ở trên của Thông Biện có thể tin được, thì hai năm sau, tức 504, khi mà chính quyền dân tộc của Lý Phật Tử đã bị Lưu Phương đánh dẹp, và khi mà Cao Tổ có những báo cáo

{Việc này nói rõ trong truyện của Thiền sư Thông Biện} Về sau, năm Bính tuất Đường Vũ Đức thứ 9 (626) (46a1), Sư thị tịch.rõ ràng về tình hình Giao châu, Cao Tổ đang còn lo cho việc Giao châu được giáo hóa theo Phật giáo. Nếu vậy, Giao châu làm gì mà được chọn làm một chỗ thanh tịnh giữa 30 mươi chỗ khác của Trung Quốc? Cho nên, chắc phải sau năm 602 khi Lưu Phương đã dụ hàng thành công Lý Sư Lợi, người con nối nghiệp của Lý Phật Tử, thì mới có chuyện ban xá lợi cho Giao châu. Việc ban năm hòm xá lợi cùng một lần do thế là một có thể, và việc Pháp Hiền chọn chùa Pháp vân, chứ không phải chùa Thiền chúng của Xá lợi cảm ứng ký làm nơi xây bảo tháp là một sự thực.
1 Xá lợi cảm ứng ký của Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 nói xây tháp tại chùa Thiền chúng để cúng dường xá lợi ở Giao châu. Nhưng đây nói là "xây ở chùa Pháp vân của Luy lâu", thì tỏ ra đúng sự thực hơn. Cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 6a5-7 thì vào năm 1034 "các nhà sư Pháp vân ở Cổ châu dâng thư nói rằng trong chùa phóng ánh sáng ra vài luồng, theo ánh sáng đó mà đào lên thì được hòm đá một hòm, trong hòm có hòm bạc, trong hòm bạc có hòm vàng, trong hòm vàng có bình lưu ly, trong bình có xá lợi". Cái hòm nói đến đến đây dĩ nhiên là cái hòm xá lợi mà Tùy Cao Tổ đã ban, bởi vì theo Xá lợi cảm ứng ký của Quảng Hoằng minh tập 17 tờ 213a18-22 đã mô tả với một sai khác không quan trọng là, thay vì bình bạc, nó có bình đồng bên trong bình đá.
2 Cương mục tiền biên 1 tờ 1b7-2a3 viết: "Phong châu, sử cũ chua là Bạch hạc. Địa lý chí đời Đường nói Phong châu gồm năm huyện. Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc sử chép quận Thừa hóa của Phong châu tức nước Văn lang xưa. Thế thì, Phong châu tức nay thuộc địa hạt cả phủ Vĩnh Tường và Lâm thao, tỉnh Sơn tây.
3 Cương mục tiền biên 4 tờ 15b2-6 viết: "Hoan châu xưa là bộ Hoài hoan đời Hùng Vương, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Nhật Nam, đời Lương đổi Đức châu. Đời Tùy Khai Hoàng đổi Hoan châu, khoảng Đại Nghiệp đổi Nhật nam, Đời Đường Trinh Quán lại đặt Hoan châu. Đời Đinh Lê nhân theo. Đời Lý đổi làm châu Nghệ an. Đời Trần cải trấn Lâm Giang. Đời thuộc Minh là các phủ Nghệ An và Diễn Châu. Đời Lê Quang Thuận đặt Nghệ An Thừa tuyên. Nay là tỉnh Nghệ An". Đất Hoan châu hiện nay thuộc tỉnh Nghệ tĩnh.
4 Cương mục tiền biên 4 tờ 20b1-2 nói: "Trường châu, xưa là bộ Vũ định, nay là tỉnh Tuyên quang". Nhưng Cựu Đường thư 41 tờ 42a11-12 nói Trường châu ở phía Tây nam của giao châu, còn Ái châu ở phía tây của châu đó. Ngoài ra, ở tờ 44b8-9 nó viết: "Trường châu, thổ tục nó giống với Cửu chân. Đời Đường đặt Trường châu. Năm tháng bắt đầu nó nay đã mất. Năm Thiên bảo thứ nhất (742) đổi làm quận Văn dương. Năm Càn Nguyên thứ nhất (758) lại đặt Trường châu, gồm bốn huyện Văn dương, Đồng thái, Trường Sơn và Kỳ thường, đều cùng đặt với châu một lần".
Cứ vào báo cáo đó của Cựu Đường thơ thì Trường châu rõ ràng phải rơi vào địa phận những tỉnh Ninh bình, Nam định ngày nay, chứ có thể nào lại ở tại tỉnh Tuyên quang, như Cương mục đã có. Bởi vì không những thổ tục ở Trường châu giống Ái châu, mà ngay cả vị trí của chúng cũng liên tiếp nhau, đây là Trường châu ở phía tây nam tị phủ Giao châu, trong khi Ái châu ở phía tây.
5 Cựu Đường thư 41 tờ 43b8 nói: "Ái châu, đời Tùy là quận Cửu chân. Năm Vũ Đức thứ 5 (622) đặt Ái châu, gồm bốn huyện Cửu chân, Tùng nguyên, Dương sơn và An Định". Đại nam nhất thống chí 16, tỉnh Thanh hóa, mục Kiến trí diên cách nói: "Tỉnh Thanh hóa, xưa thời Hùng Vương là quận Cửu chân, Đời Lưỡng Hán nhân theo tên quận cũ thuộc Giao chỉ. Đời Ngô năm Nguyên Hưng thứ 1 (264) phân một huyện của quận Cửu chân, mà đặt quận Cửu đức. Đời Tấn và Tống nhân theo. Đời Nam Tề lúc đầu ở quận Cửu chân đặt thêm Cao an, Quân an và Đô lung mà làm thành 10 huyện. Vua Vũ Đế lấy quận Cửu chân làm Ái châu, và tên Ái châu bắt đầu từ đây. Đời Tùy lúc đầu thì gọi Ái châu, sau đổi tên gọi là quận Cửu chân gồm 7 huyện. Đời Đường gọi Ái châu gồm huyện Cửu chân 6 huyện. Đời Minh phân làm đạo. Đời Lê đổi làm lộ. Đời Lý năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) đổi làm trại, sau cải làm phủ Thanh hóa...Xem việc ghi thời Lý Nhân Tôn, tên Thanh hóa bắt đầu từ đây. Đời Trần năm Thiên Ứng Chính Bình 11 (1242) định làm lộ Thanh hóa. Năm Nguyên Phong thứ 3 (1253) đổi làm trại. Trong khoảng Thiệu Long lại làm lộ gồm sở thuộc ba lộ Thanh hóa, Cửu chân và Ái châu, sau gọi là trấn...Đời thuộc Minh gọi là phủ Thanh hóa. Lê Quang Thuận năm thứ 1 (1460) thuộc đạo Hải tây. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt Thanh hóa thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) cải làm Thanh hóa thừa tuyên...  Gia Long năm thứ nhất (1808) triều ta gọi là trấn Thanh hóa...  Năm Thiệu Trị thứ 1 (1840) cải làm tỉnh Thanh hóa ..."
Nay là đất tỉnh Thanh hóa.

Thế Hệ Thứ Hai (1 người) Thế Hệ Thứ Ba (1 người) Thế Hệ Thứ Tư (1 người)
42. THIỀN SƯ Thanh Biện (? - 686)
Chùa Kiến dương, làng Hoa lâm, phủ Thiên đức1. Người Cổ giao2, họ Đỗ. Năm 12 tuổi theo Pháp
Đăng chùa Phổ Quang3 tu học. Khi Đăng sắp tịch, Sư hỏi: "Sau khi Hoà thượng đi, con sẽ nương tựa vào đâu?" Đăng dạy: "Con chỉ Sùng nghiệp mà thôi".
Sư hoang mang không hiểu. Pháp Đăng tịch rồi, Sư chuyên trì kinh Kim cang làm sự nghiệp. Một hôm có Thiền khách đến viếng hỏi:
"Kinh này là mẹ của ba đời các Đức Phật. Vậy thì nghĩa của mẹ Phật là thế nào?" Sư đáp: "Lâu nay tôi trì tụng nhưng chưa hiểu được ý kinh".
Thiền khách hỏi: "Thầy trì kinh đã bao lâu?" Sư đáp: "Đã tám năm"
Thiền khách hỏi: "(46b1) Thầy trì kinh đã tám năm mà ý một cuốn kinh không hiểu, thì dầu trì mãi đến trăm năm nào có ích gì?"
Sư bèn đảnh lễ, lại hỏi về chỗ tiến ích.
Người khách bảo nên đến Huệ Nghiêm ở chùa Sùng nghiệp để được giải quyết. Sư sực tỉnh nói: "Ta nay mới biết lời nói của Pháp Đăng, quả thật phù hợp". Bèn liền làm theo.
Vừa đến chùa, Huệ Nghiêm hỏi: "Ngươi đến đây có việc gì?" Sư thưa: "Con trong tâm có chỗ chưa ổn".
1 Toàn thư B5 tờ 7b6-9 nhân nói về Trần Thủ Độ chôn sống tôn thất nhà Lý vào năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 1 (1232) viết: "Mùa đông năm đó nhân khi họ đến bái yết Tiên hậu ở Thái đường Hoa lâm. Thủ Độ ngầm đào một hầm sâu dựng nhà ở trên, đợi khi các người họ Lý uống rượu say, bèn liền giựt máy, chôn sống hết". Cương mục chính biên 6 tờ 13a2 chú rằng: "Hoa lâm là tên xã. Thái đường là tên thôn, đều thuộc huyện Đông ngạn tỉnh Bắc ninh. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Hoa lâm hạt Đông ngạn, quê hương của Trịnh Xuân Chú tiến sĩ khoa 1743. Làng Hoa lâm, phủ Thiên đức đây như vậy chắc chắn là làng này. Nếu vậy, làng Hoa lâm ngày nay phải nằm tại huyện Từ sơn tỉnh Bắc ninh. Làng Hoa lâm của Trịnh Xuân Chú hiện gọi là  Danh lâm, tên gọi đời Nguyễn. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, phần Tục biên, có ghi Trịnh Xuân Thưởng tiến sĩ khoa 1847 là người làng Danh lâm, huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh.
2 Cái tên Cổ giao được Thiền uyển tập anh kể tới ba lần. Một ở đây. Một ở truyện Khánh Hỷ tờ 61a3 và một ở truyện Tịnh Thiền tờ 68a3. Hai lần nhắc sau đều ghi "làng Cổ giao, Long Biên". Cứ vào đấy thì làng Cổ giao phải nằm tại một làng nào đó chung quanh làng Cổ châu, tức những làng Khương tự và Đại tự huyện Thuận Thành hiện nay, bởi vì chùa Pháp vân làng Cổ châu ở Long biên, mà ta đã xác định được vị trí của làng Cổ châu, nghĩa là vị trí thực sự của một thành phần Long Biên, là ở tại Khương tự và Đại tự. Chúng tôi hiện chưa có dịp điều tra hiện địa vùng này, nên không thể xác nhận rõ làng Cổ giao phải là làng nào hiện nay tại tỉnh Hà bắc. Có người đồng nhất làng Cổ giao với Cổ điển thuộc huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông, nhưng không biết dựa vào đâu. Xem Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Việt nam tr.190 và Gaspardone, Bibliographie Annamite, BEFEO XXXIV (1934) 215.
3 Chùa Phổ Quang này rất có thể là chùa Phổ quang tại làng Nghĩa trú huyện Văn giang, mà Tam tổ thực lục tờ 26a4 nói tới như là chỗ ở của Trùng Chiếu người chủ trì việc đúc 1000 tượng Phật vào năm 1322.
Nghiêm hỏi: "Ngươi chưa ổn cái gì?"
Sư liền đem việc trước thuật lại. Nghiêm bèn than rằng:
"Ngươi tự quên mất rồi. Không nhớ trong kinh nói: "Ba đời các Đức Phật cùng giáo pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của các đức Phật, đều từ kinh ấy ra".1 Há đó chẳng phải là ý nghĩa của mẹ Phật sao?"
Sư thưa: "Phải, phải, đó là chỗ con đã mê muội vậy". Nghiêm lại hỏi: "Kinh đó là người nào nói?"
Sư đáp: "Há không phải Như Lai nói sao?"
Nghiêm hỏi: "Trong kinh nói: Nếu ai nói Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người ấy không (47a1) thể hiểu nghĩa ta nói. Ngươi nên khéo suy nghĩ, nếu bảo kinh này không phải là Phật nói tức là hủy báng Phật; nếu bảo nó do Phật nói tức là hủy báng kinh. Ngươi phải làm sao? Nói mau ! Nói mau !"2
Sư sắp mở miệng, Nghiêm cầm cái phất trần đánh ngay vào miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, bèn sụp xuống lạy. Sau Sư đến chùa Kiến dương, dạy dỗ đồ chúng.
Hoá duyên hoàn tất, Sư tịch vào năm Bính tuất, đời Đường Thùy Củng thứ 2 (686).
1 Dẫn kinh Kim cang: "Nhất thiết chư Phật cập chư Phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp giai tùng thử kim xuất". (Tất cả các đức Phật và giáo pháp giác ngộ không gì hơn của các Đức Phật đó đều từ kinh đấy mà ra). Xem Kim cang bát nhã ba la mật kinh tờ 74b23.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, Phạn: Anuttara-samyak-sambodhi, nghĩa là sự giác ngộ đúng đắn không gì hơn.
2 Đại Châu Huệ hỏi một vị tăng giảng kinh Kim cang: "Kinh đó là do ai nói?. Tăng lên tiếng nói: "Thiền sư sắp đùa rồi đấy. Há không biết là Phật nói sao?". Sư đáp: "Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp là hủy báng Phật, người đó không hiểu ý nghĩa những điều do ta nói. Nếu bảo kinh đó không phải là do Phật nói tức là hủy báng kinh. Xin Đại đức trả lời xem". Vị Tăng không trả lời được. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a2-6.
Thế Hệ Thứ Năm (1 người khuyết lục) Thế Hệ Thứ Sáu (1 người khuyết lục) Thế Hệ Thứ Bảy (1 người khuyết lục)
Thế Hệ Thứ Tám (3 người, 2 người khuyết lục)

43.     THIỀN SƯ Định Không (? - 808)
Chùa Thiền chúng1, làng Dịch bảng, phủ Thiên Đức. Người Cổ pháp2, họ Nguyễn, mấy đời là vọng tộc. Sư là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc (47b1). Người trong làng tôn thờ, đều gọi là trưởng lão.
Về già, Sư đến Pháp hội của Nam dương ở Long tuyền nghe giảng, hiểu được ý chỉ, do đó Sư phát tâm theo Phật.
Trong khoảng Đường Trinh Nguyên (785-804), Sư lập chùa Quỳnh lâm ở làng mình. Khi mới đào đất đắp nền, gặp một lư hương và 10 cái khánh. Sư sai người đem xuống sông rửa. Một cái lặn mất đi, đến đáy sông mới dừng. Sư giải thích rằng: Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ, chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp, chữ thổ chỉ chỗ ta ở, chỉ đất đai làng này. Nhân đó, Sư đổi tên làng mình làm Cổ pháp {Tên cũ là Diên Uẩn}. Sư lại làm bài tụng rằng:
"Đất bày pháp khí Một món đồ ròng
Để Phật pháp được hưng long
Đặt tên làng là Cổ pháp".
Sư lại nói:
Hiện ra pháp khí
Mười hai chuông đồng
1 Cảm ứng xá lợi ký do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 dẫn trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 có ghi chùa Thiền chúng như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào năm đó tại Giao châu. Thiền uyển tập anh nói dựng tháp nơi chùa Pháp vân, có lẽ hợp lý hơn. Xem chú thích (5) truyện Pháp Hiền. Làng Dịch bảng nay là làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Ở làng này nay còn có chùa nào tên Thiền chúng hay không, chúng tôi hiện chưa biết.
2 Cương mục chính biên 2 tờ 6b3-6 nói: "Cổ pháp, tên châu, đời Đinh về trước là châu Cổ lãm, đời Lê đổi Cổ pháp , đời Lý thăng làm phủ Thiên đức, đời Trần cải làm huyện Đông ngạn. Đời Hậu Lê nhân theo. Nay là huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Nhưng truyện đây nói Định Không "đổi tên làng mình thành Cổ pháp rồi chua thêm "tên cũ là Diên uẩn". Như vậy, Cổ pháp nguyên là tên một làng từ thời Định Không, sau đó tới thời Lê mới trở thành tên châu. Thực tế, ta không hiểu tại sao nếu Không đã đổi Diên uẩn thành Cổ pháp thì tại sao cho đến thời Lý Công Uẩn vẫn còn có tên Diên Uẩn. Viết về việc sét đánh thành sấm báo hiệu sự lên ngôi của Uẩn, Toàn thư B1 tờ 31a7-8 nói: "Nguyên trước cây bông gạo làng Diên uẩn, Cổ pháp bị sét đánh", trong khi đó Đại Việt sử lược 2 tờ 1a9 chép: "Trong làng vua ở có cây bông gạo bị sét đánh". Rõ ràng làng của Lý Công Uẩn ở có tên Diên uẩn, và đây là vào thời Lý. Thế sao, ở đấy truyện bảo Không đổi tên Diên uẩn, thành Cổ pháp?. Dầu sao đi nữa Diên Uẩn cũng là Cổ pháp, và Cổ pháp là làng Đình bảng hay làng Dịch bảng sau này.
Cương mục chính biên 2 tờ 7b2, nhân chú về chùa làng Cổ pháp, nói "chùa Cổ pháp ở tại xã Đình bảng, huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Làng Cổ pháp của Định Không do đó là làng Đình bảng, huyện Từ sơn hiện nay.
Trong cả bản in đời Lê lẫn đời Nguyễn chỉ ghi "Định Không cổ nhân", nhưng chúng tôi ở đây đã thêm chữ pháp thành "người Cổ pháp", bởi vì truyện Định Không đây rõ ràng nói Không người Cổ pháp.
Họ Lý làm vua
Ba phẩm thành công".
Sư lại nói:
"Mười cái xuống nước đất Cổ pháp đấy tên làng
Gà sau tháng chuột ở1
Chính lúc Tam bảo hưng".
Khi sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện dạy rằng:
"Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa (48a1), chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. {Sau Cao Biền của nhà Đường đến trấn yếm. Quả đúng} Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta mãn vậy".
Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi. Lúc ấy là năm Mậu tý Đường Nguyên Hòa thứ 3 (808)2. Thông Thiện dựng tháp ở phía tây chùa Lục tổ3 và ghi lời phú chúc của Sư mà chôn dấu đi
1 Nguyên văn: Kê cư loan nguyệt hậu. "Loan nguyệt" nghi là một viết sai của chữ thử nguyệt, mà sau này La Quý dùng trong một câu tương tự: "Thố kê thử nguyệt nội", để nói tới việc Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 11, tức tháng con chuột, tức thử nguyệt của năm con gà, tức năm Kỷ dậu Cảnh Thụy thứ 2 (1009). Chúng tôi dựa vào cách hiểu đây và dịch là "tháng chuột". Chữ loan và chữ thử, tự dạng chúng khá giống nhau.
2 Nguyên văn: Đường Nguyên Hòa tam niên bính tý. Nhưng Đường Nguyên Hoà năm thứ 3, cứ Cựu Đường thư thì phải là năm Mậu tý, chứ không phải Bính tý. Chữ Bính chắc chắn là một viết lộn của chữ Mậu.
3 Chùa Lục tổ đây tức cũng ở làng Dịch bảng. Xem chú thích (1) truyện Thường Chiếu.
Thế Hệ Thứ Chín (3 người, đều khuyết lục)
Thế Hệ Thứ Mười (4 người, 1 người khuyết lục)

44. TRƯỞNG LÃO La Quý
Chùa Song lâm, làng Phù ninh, Phủ Thiên đức1. Người An chân2, họ Đinh. Thuở nhỏ vân du các phương, khắp hỏi các bậc thiền. Trải qua nhiều năm không gặp duyên đạo, bèn sắp thối chí. Sau tại pháp hội của Thông Thiện ở chùa Thiền chúng nghe nói một lời, lòng liền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy.
Khi Thiền sắp tịch, gọi Sư đến dạy: "Xưa thầy ta là Định Công, căn dặn ta rằng: con khéo giữ pháp của ta, gặp người họ Đinh thì truyền. Con đúng là người đó. Ta nay (48a1) đi vậy".
Khi đã đắc pháp, Sư tùy phương diễn hóa, chọn đất dựng chùa. Mỗi khi nói ra lời nào tất là phù sấm. Sư có lần ở chùa Lục tổ, đúc tượng Lục tổ bằng vàng, sau sợ trộm cướp nên đem chôn ở cửa chùa và dặn: "Gặp vua sáng lấy ra, đụng chúa tối thì dấu".
Khi sắp tịch, Sư dạy đệ tử là Thiền Ông rằng: "Xưa kia, Cao Biền3 xây thành bên sông Tô lịch, biết đất Cổ pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt con sông Điềm4 và những ao Phù chẩn5 v.v... đến 19 chỗ để trấn yểm nó. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại nữa ở chùa Châu minh6 ta có trồng một cây bông gạo để trấn chỗ dứt, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng Chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy".
Nói xong Sư tịch, thọ 85 tuổi
1 Tức làng Phù ninh huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Thường Chiếu.
2 Bắc thành địa dư chí lục 4 có liệt ra hai xã mang tên An chân thuộc trấn Sơn nam hạ. Một thuộc tổng Đông hối huyện Thanh quan, phủ Tiên hưng. Và một tổng Đông Chân, huyện Quỳnh côi, phủ Thái bình. Hai huyện này ngày nay đều thuộc tỉnh Thái bình. Huyện Thanh quan nay là huyện Thái bình, còn huyện Quỳnh côi nay vẫn giữ tên cũ. Chúng tôi hiện chưa biết làng An chân nào là quê quán của La Quý.
Ngoài ra cũng cần thêm là, chữ "An chân" có thể là một viết sai của An trinh. Chữ chân với chữ trinh, tự dạng chúng rất giống nhau. Thực ra nếu La Quý là người An trinh, thì nó hợp lý hơn. Bởi vì cứ truyện Định Huệ tờ 53a9 thì làng An trinh thuộc phủ Thiên đức, còn truyện La Quý ở đây để cho thấy La Quý hình như có quê quán tại Cổ pháp với những câu nói như "đất Cổ pháp ta" hay những việc làm như trồng cây bông gạo tại chùa Châu minh.
3 Cao Biền (? - 887) bắt đầu xây thành khoảng vào tháng 11 năm Hàm Thông thứ 7 (866). Thành đây là thành Đại la, nằm tại địa phận thủ đô Hà nội ngày nay. Xem Đại Việt sử lược 1 tờ 12b2 và Toàn thư B5 tờ 14b-15a. Về sông Tô lịch, xem chú thích (9) truyện Đạo Hạnh.
4 Sông Điềm hay là Điềm Giang, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một tài liệu nào khác nói tới, nhưng nghi nó có thể chỉ sông Đuống, tức sông Thiên đức cũ. Tuy nhiên, sông Thiên đức chưa từng có tên sông Điềm, như tài liệu hiện tại cho biết. Có thể sông Điềm là sông Thiên đức hay một nhánh nó chảy qua làng Vân điềm huyện Từ Sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ làng Vân điềm, hạt Đông ngạn như Nguyễn Quán khoa 1595, Nguyễn Nghi khoa 1619 ...
5 Ao Phù chẩn chắc nằm tại làng Phù chẩn huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Bởi vì Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 có ghi một số người đậu các khoa tiến sĩ đến từ làng Phù chẩn, huyện Đông ngạn như Trần Cô trạng nguyên khoa 1266, Nguyễn Thì Phùng tiến sĩ khoa 1508, Nguyễn Niệm và Nguyễn Hiên khoa 1588, Nguyễn Xuân Chỉ khoa 1637, Nguyễn Đình Bảng khoa 1670 v.v... Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Từ miếu, có ghi miếu vua Lê Uy Mục ở xã Phù chẩn, huyện Đông ngạn.
Những ao khác đào tại vùng xung quanh Phù chẩn này, ngày nay ta không biết và chắc không bao giờ ta biết, vì truyện nói "La Quý khuyên Khúc Lãm lấp chúng lại như xưa".
6 Cây bông gạo chùa Châu minh này chắc là cây bông gạo làng Diên uẩn, nơi đã bị sét đánh thành bài sấm tuyên truyền cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 1a-b và Toàn thư B1 tờ 31a-32 đã chép lại... Xem chú thích (8) truyện Vạn Hạnh.
Lại kể rằng, vào năm Bính thân đời Đường Thanh Thái thứ 3 (936). Sư trồng cây bông gạo, thường có làm bài thơ kệ rằng:
(49a1)                   "Đại sơn đầu rồng ngững Đuôi cù ẩn Châu minh Thập bát tử định thành Bông gạo hiện long hình Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên". (49a1).1

45. THIỀN SƯ Pháp Thuận (925-990)
Chùa Cổ sơn, làng Thừ, quận Aũi2. Không biết người đâu. Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.
Đang vào lúc nhà Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Đến khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư3.


1 Nguyên văn:
"Đại sơn long đầu khỉ Cù vĩ ẩn châu minh Thập bát tử định thiền Miên thọ hiện long hình Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh".
Đây là một bài thơ tuyên truyền cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Và nhà Lý quả ra đời vào tháng 10 năm Đinh dậu Cảnh Thụy thứ hai (1009). Bài này do thế có thể sáng tác trước lúc Lý Công Uẩn lên ngôi không bao xa.
2 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có ghi một ngọn núi tên Cổ sơn, và nói "nó nằm tại phía đông huyện Tam dương, cách huyện lỵ 6 dặm". Rồi sau đó lại ghi thêm một ngọn núi khác tên Lộng sơn và cũng chua "tục gọi là núi Trống". Núi này cũng "ở phía đông của huyện tại xã Tam lộng, trên có miếu Long sơn thần". Cổ sơn với Lộng sơn như vậy là một. Thế thì, phải chăng chùa Cổ sơn của Pháp Thuận nằm tại núi này? Đó là một có thể.
Nhưng Hồng Đức bản đồ tr.78-79 trong Thiên nam tứ chí lộ đồ thư có ghi tên một chợ gọi là chợ Aũi, rồi chua thêm "có núi Tượng bốn bên như rồng bao bọc không hở". Khảo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Phố thị, không thấy nói chợ nào tên chợ Aũi cả. Nhưng về núi Tượng, nó viết ở quyển 16 tờ 40a1 rằng "núi Tượng ở tại xã Bất quần phía tây huyện Quảng xương, giữa đồng ruộng bỗng nổi lên một ngọn núi đá. Núi nhỏ mà cao, sắc xanh mà lạ, dáng giống như voi phục. Trạng nguyên Trịnh Huệ đời Lê dựng am đọc sách dưới chân núi đó". Cổ sơn của Pháp Thuận chẳng qua là núi Tượng này? Và Ái quận phải chăng là chợ Ái đây? Chúng tôi hiện chưa trả lời được và chỉ xin nêu ra ý kiến kêu gọi sự đóng góp của những người hiểu biết khác.
3 Nguyên văn: _ dĩ văn hàn chi nhiệm. Số văn thư đầu triều Lê Đại Hành do Pháp Thuận thảo ra, ngày nay đã thất lạc hết. Chỉ còn một lá thư xin cho Đinh truyền do Giang Cự Hoàng và Vương Thiệu Tộ mang sang triều đình nhà Tống vào năm 980, mà Toàn thư B1 12a8-b2 và Tống hội yếu 197 tờ 7724a-b đã chép lại. Văn cú của hai bản chép này khác nhau, nên chúng tôi chép ra cả hai, để cho thấy một phần nào văn tài của Pháp Thuận.
Toàn thư chép: "Thần phụ mỗ huyễnh mỗ, câu hà quốc ân, thiêm phân môn ký, cẩn bảo phong giới, cảm hữu bối vi, hản mã lao vị thi, triêu lộ chi bi dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quản nội quân dân tướng sứ, phiên duệ kỳ diệt đẳng, cọng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân thống chi sự. Thần khẩn từ số tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tương truyền tấu trần, hựu lự khể tuy sơn dã khoáng ác chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng hoặc sinh dị biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết độ hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng, giả dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần tân trung chi tâm, cử thánh đại diên".
Tổng hội yếu chép: "Thần thế triều tưởng, tị xử x chế ư man tựu, tu chức cống ư tế lữ, thuộc tư môn chi bạc hựu, trỉ tuấn mảng cảm khể ư trợ tế, mao thổ thế cập vị dự ư thủ phiên. Thần phụ Tiên xử Lin, câu hà quốc ân, thiêm phân khổn ký, cẩn bảo phong lược, võng cảm đải hoàng, hản mã chi lao vị thi, lộ triều chi bỉ dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quảng nội tướng lại quân dân, phương duệ kỳ diệt đẳng, cộng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân lữ chi sự, Thần khẩn từ sổ tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tỷ sỹ tấu trần, hựu lự khể tuy. Sơn thành ngoan khoáng chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ Năm Thiên Phúc thứ 7 (987) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm kẻ lái
đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng: "Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời". Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp:
"Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng (49b1) bơi" Giác do đó thán phục1
Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp: Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh"
Năm Hưng Thống thứ 2 (990) sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn 1 quyển, lưu hành ở đời. tình, khủng nhân nhi sinh biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết x hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng tích dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần trung tẩn chi tâm, x thưởng diên chi điển, khắc thiệu di nghiệp, nhân phủ vin di, đồng trụ chi hư già tuyên ngự hải chi lực tượng khuyết, x hiệu hiến thâm chi thành". Những chữ x là tượng trưng cho những chữ bị thiếu trong bản chép.
1 Tham chiếu Toàn thư B1 tờ 18a5-8: "Thiên Phúc năm thứ 8 (987) nhà Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm người lái đò, đi đón. Giác rất giỏi bàn luận văn chương. Gặp lúc có hai con nga bơi trên mặt nước, Giác vui ngâm:
Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng?
Ngửa mặt ngó ven trời.
Pháp sư đang lúc cầm chèo, tiếp vận theo rằng: Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
Giác càng làm lạ, làm thơ gửi cho Sư rằng: May gặp thời minh giúp việc vua Một mình hai đợt sứ Giao châu Đông đô đôi biệt lòng thêm luyến
Nam Việt muôn trùng ngóng chửa bưa Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biêc thả dòng đưa Ngoài trời còn có trời soi rạng
Sóng lặng khe đầm thấy trăng thu.
Thuận đem thơ dâng vua cho triệu Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt thưa: "Bài thơ này có ý tôn bệ hạ cùng với chúa nó không khác". Vua khen ý ấy, ban thưởng rất hậu".
Bài thơ đôi con ngỗng trên dĩ nhiên không tượng trưng gì hơn một giai thoại ngoại giao, chứng tỏ niềm tự tín và sự lớn mạnh về văn hóa của một dân tộc vừa mới lập quốc chưa đầy 90 năm. Bởi vì nó chỉ là một nhuận sắc khác tinh tế cái bài thơ Vịnh nga, mà Lạc Tân Vương làm khi mới hơn 10 tuổi và Toàn Đường thi tập 2 quyển 79 tờ 864 chép như:
Nga nga nga
Khúc hạng hướng thiên ca Bạch mao phù lục thủy Hồng chưởng bát thanh ba.

46. THIỀN SƯ Ma Ha (Tên cũ là Ma Ha Ma Gia)
Chùa Quan ái, làng Đào gia, Cổ miệt1. Tổ tiên là giống người Chiêm thành, sau mạo tánh họ Dương. Cha tên Bối Đà, rành về sách bối, làm quan dưới triều Lê với chức Bối {Xưa gọi là Đà Phan}2. Lớn lên, Sư là người có hiểu biết thấu đáo mọi việc, học thông cả hai ngôn ngữ Hán và Phạn.
Năm 24 tuổi, Sư nối nghiệp cha, tiếp tục trụ trì ngôi chùa cũ. Thường vào những lúc diễn tập kinh bối, Sư thấy Hộ pháp, Thiện thần quở rằng: "Sao dùng cái học bên ngoài đó3, chắc chắn không hiểu được nghĩa lý". Sư do đó bị mù, rất tự hối lỗi. Khi sắp gieo mình xuống vực sâu mà chết thì gặp Viễn Biệt chùa Đông lâm(50a1) ngăn rằng: "Đừng ! Đừng !". Sư nghe lời đó liền tỉnh ngộ.
Về sau, Sư đến chùa Cổ sơn thọ giáo với Đỗ Pháp Thuận. Sư chuyên việc sám hối và trì tụng Đại bi tâm chú4, trải ba năm chưa từng một chút biếng trễ bèn được Bồ tát Quan Âm lấy nước sạch cành dương rưới lên đầu mặt, mắt bỗng nhiên sáng lại và lòng càng thêm thanh tịnh.
Năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), Sư dời về ở núi Đạt vân5 tại Trường an, ngày ngày siêng năng tu tập, đạt được Tổng trì tam muội và các ảo thuật, người đời không lường nổi.
Hoàng đế Lê Đại Hành1 ba lần mời Sư vào cung thưa hỏi, Sư chỉ chấp tay cúi đầu mà thôi. Bắt
đến lần thứ ba, Sư mới đáp: "Cuồng tăng ở chùa Quan ái". Vua cả giận, sai giam Sư ở chùa Vạn tuế
1 Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi hai xã mang tên Cổ miệt thuộc tổng Hương đại, huyện Thanh hà, trấn Hải dương tức nay huyện Thanh hà, huyện Hải dương. Dưới mỗi tên, người viết còn chua thêm hai thôn, đấy là thôn Tràng liệt và thôn Khánh mậu, thì như vậy, Cổ miệt trước chắc địa phận rộng hơn những xã cũng có tên đây. Nhưng tại tổng Hương đại cũng như trong toàn huyện Thanh hà, chúng tôi không thấy ghi một xã thôn nào có tên Đào gia cả. Điểm chắc chắn là Cổ miệt phải ở vùng huyện Thanh hà, huyện Hải dương, bởi vì tỉnh này vốn là đất Hồng lộ thời Lý Trần, như Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách nói: Mà ta biết vào thời Lý có một làng Cổ miệt thuộc Hồng lộ. Đại Việt sử lược 3 tờ 18b1-4 viết: "Trị Bình Long Ứng năm thứ 4 (1208) trộm cướp nhân đó nổi lên như ong... vua sai Thượng phẩm phụng ngụ Phạm Bỉnh Di đem người Đằng châu đi chống, mà Phạm Du thì lại về làng Cổ miệt cùng với người Hồng lộ là Đoàn Thượng và Đoàn Chủ gặp nhau đánh Đằng châu. Người Đằng châu xin Bỉnh Di đánh Du, không dẹp được bèn trở về".
2 Bối thông thường là một phiên âm tiêu chuẩn của chữ Phạn Bhanna tiếng phạn và Bhanna tiếng ba lị. Xem Thập luật tụng 37 tờ 269c18-19: Phật ngôn: "Thính nhữ tác thanh bối". So sánh với Cullavagga.v. 3: Bhagavato etam attham ârocesum: anujânâmi bhikkhave sarabhannam ti. Nó thông thường cũng là một gọi tắt của chữ Bối nặc. Xem Tứ phần luật 3 tờ 587 b21-23 và Sa di tắc bộ hoà ê ngũ phần luật. Và Bối nặc đúng ra là phiên âm tiêu chuẩn của Bhannaka hay Bhãnnaka. Vậy Bối và Bối nặc là gì? Cứ những tư liệu vừa dẫn Bối hay Bhanna là một lối đọc kinh Phật giáo với những nốt nhạc, nên nó cũng thường được gọi là Thanh bối hay Svarabhanna tiếng phạn và Sarabhanna tiếng ba lị. Nó khác với lối đọc kinh theo lối ca hát với giọng dài của những người theo Vệ đà, mà Thập tụng luật cho là có tác dụng chính yếu là "làm cho mình và người khác tham trước", trong khi tác dụng của nó là làm cho người đọc và người nghe khỏi mệt mỏi và giữ được sự trong sáng và âm điệu của ngôn ngữ. Còn Bối nặc hay Bhannaka có nghĩa người đọc tụng theo nốt nhạc, có thể nói đó là người hát lễ nhạc Phật giáo. Vậy nếu Bối Đa giữ chức Bối trong triều đình nhà tiền Lê, thì Bối đây chắc hẳn là chức quan coi về lễ nhạc Phật giáo. Sau này, ta thấy Ma Ha cũng nối nghiệp cha tiếp tục hát bối ở chùa mình, thì cũng đủ rõ bối đây tượng trưng cho lễ nhạc Phật giáo. Cũng cần thêm là, sau chữ bối, Thiền uyển tập anh còn chú thêm rằng, "Xưa gọi là Đà phan". Chữ Đà có lẽ là một khắc sai của chữ Xà. Và "Xà phan" quả là một phiên âm khá trung thực chữ Sarabhanna tiếng ba lị hay Svarabhanna tiếng Phạn.
3 Tán Bối vẫn là một thứ ngoại học, một cái học bên ngoài, tối thiểu là cứ theo luật tạng. Xem Thập tụng luật 37 tờ 269c6-21.
4 Đại Bi tâm chú, gọi đủ là Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Aâm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni, Đại bi chú v.v...Đây là bài chú rút ra từ kinh Thiên thủ. Nó gồm cả thảy 82 câu chữ phạn do Già Phạm Đạt Ma phiên âm trong kinh Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Aâm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni hiện nay trong ĐTK 1060 tờ 107b 25-26. Ngoài bản dịch của Già Phạm Đạt Ma ra, mà ngày nay đã trở thành bản văn chính thức dùng trong hầu hết các chùa chiền Việt nam và Trung Quốc, nó còn có những bản dịch khác của Bất Không, Trí Thông v.v...Cứ vào sự thông dụng ngày nay, chúng tôi giả thiết  nó chắc cũng thông dụng thời Lý.
5 Tức núi Long triều tại xã Trường yên hạ, huyện Gia vin, tỉnh Ninh bình ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, huyện Sơn xuyên, nói: "Núi Long triều ở cách huyện Gia viễn 10 dặm, một là tên núi Đại vân, có miếu vua Đinh, vua Lê ở dưới chân núi". Mục Từ hiếu nói: "Miếu vua Đinh Tiên Hoàng ở phía dưới huyện Gia viễn tại chân núi Long triều xã Trường yên hạ"... Miếu vua Lê Đại Hành ở dưới chân núi Đại vân xã Trường yên hạ".
Đây là ngọn núi, mà Lê Đại Hành đã cho dựng điện Bách bảo thiên tuế vào năm 984 để làm nơi thị triều, phía đông dựng điện Phong lưu, phía tây dựng điện Tử hoa, bên trái điện Bồng lai, bên phải điện Cực lạc, lại dựng lầu Đại Vân liền với điện Trường Xuân là nơi vua ngủ, như Đại Việt sử lược 1 và Toàn thư tờ 16b ghi lại. Đại Việt sử lược 1 tờ 19b7 viết Đại vân thành Hỏa vân.
trong Đại nội, cho người khóa cửa canh gác. Đến sáng thì đã thấy Sư ở ngoài phòng Tăng mà cửa vẫn khóa kín như cũ. Vua rất ngạc nhiên, bèn cho phép Sư đi đâu thì đi.
Sư đi về phía Nam đến Ái châu, ở trấn Sa đảng2. Phong tục trấn đấy ưa thờ cúng quỷ thần, lại chuyên nghề sát sinh.
Sư khuyên họ ăn chay, họ đều nói: "(50b1) Thiên thần của chúng tôi, họa phước không dám trái".
Sư bảo: "Các ngươi nếu có thể bỏ ác làm lành, giả như có quỷ thần xúc hại, lão tăng sẽ tự chịu thế cho".
Dân làng thưa: "Gần đây có người bệnh lâu sắp chết, thầy thuốc, đồng bóng đều bó tay. Nếu ông chữa được bệnh này, chúng tôi sẽ theo lời khuyên".
Sư bèn lấy nước đọc chú rồi phun vào, người bệnh tức khắc bớt ngay. Họ tuy cảm phục nhưng thói cũ ăn sâu, chưa thể chóng đổi.
Có hương hào họ Ngô, nhân uống rượu say, đem rượu thịt đến trước mặt ép Sư: "Hoà thượng có thể theo được cuộc vui này thì chúng tôi sẽ tuân theo lời ngài dạy".
Sư bảo: "Đã mời thì chẳng dám từ, chỉ sợ đau bụng đấy thôi". Họ Ngô mừng thưa: "Có đau thì Ngô tôi tự thay cho".
Sư nhận lời làm theo rồi bỗng giả bộ làm bụng sình to, trong bụng tiếng sôi như sấm, hơi thở hào hễn, van to: "Ông Ngô đâu chịu thay cho ta". Họ Ngô xanh mặt, chẳng biết làm gì.
Sư tự chấp tay niệm: "Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng3, cứu con với". Giây lát, bèn mửa ra thịt thì biến thành thú chạy, cá thì thành cá nhảy, rượu thì hóa ra nước đồng. Mọi người rất kinh hãi.
Sư bảo: "Thân các ngươi bị bệnh, theo (51a1) ta thì lành ngay. Đến khi ta đau bụng, các ngươi không thay thế ta được. Các ngươi nay chịu theo lời dạy của ta chưa?" Tất cả dân làng đều bái tạ xin vâng.
Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), Đô úy Nguyễn Quang Lỵ4 thỉnh Sư trụ trì chùa Khai thiên ở phủ Thái bình5. Được sáu năm, Sư lại từ chức lui về Hoan châu. Sau không biết Sư mất ở đâu {Nam tôn đồ nói pháp tự của Nam dương, ấy làm lầm{.
1 Hoàng đế Lê Đại Hành, nghi là một chép sai, bởi vì trước đó đã nói là đến năm 1014 Ma Ha mới về tu tại núi Đại vân, thì sự việc tiếp theo phải xảy ra với Lý Thái Tổ mới hợp lý. Hơn nữa, ta biết chùa Vạn tuế ở trong Đại nội là do Lý Thái Tổ dựng vào năm 1011, như Đại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 đã ghi. Do thế, việc giam Ma Ha "tại chùa Vạn tuế trong Đại nội" phải xảy ra sau năm 1011 ấy. Ngoài ra, núi Đại vân vào thời Lê Đại Hành là nơi Lê Đại Hành xây dựng cung điện, như đã thấy, thì làm sao Ma Ha có thể "dời về ở núi Đại vân tại Trường an ngày ngày siêng năng tu tập" được? Từ đó, Lê Đại Hành chắc là một chép lầm của Lý Thái Tổ.
2 Ái châu tức tỉnh Thanh hóa ngày nay. Xem chú thích (9) truyện Pháp hiền, trấn Sa đảng, Đại Việt sử lược 2 tờ 12a1 có ghi động tên Sa đảng. Nó viết: "năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) động Sa đảng phản, vua thân chinh dẹp được". Trấn Sa đảng chắc đây là một. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Kiến trí diên cách, có ghi một động tên Sa lung trước thuộc huyện Cẩm thủy, đến 1904 cắt thuộc châu Quan hóa. Chúng tôi đoán đất Sa đảng thời Lý chắc nằm tại huyện Cẩm thủy và Quan hóa, tỉnh Thanh hóa ngày nay.
3 Nam mô Phật, Phạn: namo buddhàya, nghĩa là kính lễ các Đức Phật.
Nam mô Pháp, Phạn: namo dharmàya, nghĩa là kính lễ giáo pháp. Nam mô Tăng, Phạn: namo sanghàya, tức kính lễ đoàn thể hòa hợp.
4 Toàn thư B2 tờ 1363 viết: Năm Thiên Thành thứ nhất (1028) lấy Nguyễn Quang Lỵ làm Thái úy. Đây là đô úy Nguyễn Quang Lỵ, chữ đô có lẽ là một cách viết sai của chữ thái.
5 Cứ Toàn thư B1 tờ 27c7-8 và truyện Khai thiên trấn quốc trung phụ tá dực đại vương trong Việt điện u linh tập tờ 48 khi Lê Ngọa Triều "đã được ngôi, thăng Đằng châu làm phủ Thái bình". Phủ Thái bình ở truyện Ma Ha đây chắc phải là đất Đằng châu, chứ không phải là đất phủ Thái bình thời Nguyễn, tức không phải đất những huyện Quỳnh côi, Phụ dực, Đông quan và Thụy anh tỉnh Thái bình ngày nay. Mà Đằng châu, theo Cương mục tiền biên 5 tờ 30b5-7, là đất Khoái lộ đời Trần, Khoái châu đời Lê. Nay huyện Kim động, tỉnh Hưng yên còn có xã tên Đằng châu. Làng Đằng châu thời Lê Ngoạ Triều mà Việt điện u linh tập nói tới, và làng

Thế Hệ Thứ Mười Một (4 người, 2 người khuyết lục)

47. THIỀN ÔNG Đạo Giả (902-979)
Chùa Song lâm, làng Phù ninh, phủ Thiên đức1. Người Cổ pháp2, họ Lữ. Nhỏ học đòi việc đời, sau theo Đinh Trưởng Lão3 xuất gia. Khi đã đắc pháp thì Sư tịch vào năm Kỷ mão Đinh Thái Bình thứ 10 (979), thọ 78 tuổi.

48. THIỀN SƯ Sùng Phạm (1004-1087)
Chùa Pháp vân4, làng Cổ châu, Long biên, họ Mâu. Vóc dáng khôi ngô, tai dài đến vai.
Lúc mới xuất gia, ban đầu Sư đến tham vấn với Vô Ngại ở Hương thành5. Khi đã được tâm ấn, bèn dạo khắp Thiên trúc để cầu học rộng. Trải qua 9 năm, Sư trở về nước gồm (51b1) hiểu giới, định.
Về sau, Sư ở chùa Pháp vân giảng pháp học giả quy tụ rất đông. Hoàng đế Lê Đại Hành nhiều lần thỉnh Sư vào cung6 để thưa hỏi Thiền chỉ, đãi ngộ rất hậu.
Năm Đinh mão Lý Quảng Hựu thứ 3 (1087) Sư viên tịch, thọ 84 tuổi. Vua Lý Nhân Tông thường có kệ truy tặng Sư:
"Sùng Phạm ở nước Nam Lòng vắng, đỗ đạt về7 Tai dài hiện tướng tốt Pháp pháp thảy ly vy.1
Thái bình thời Lý, mà Toàn thư B3 tờ 36b9, và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định, mục Kiến trí diên cách, ghi chắc là xã Đằng châu đó. Phủ Thái bình đời Lý như vậy không phải là phủ Thái bình thời Hậu Lê, ngược lại nó nằm trong địa phận Đằng châu, tức tương đương với tỉnh Hưng yên ngày nay. Chùa Khai thiên, nay không thấy sách nào nói tới.
Đại Việt sử lược 1 tờ 22a2 nói khi Ngoạ Triều "đánh Nghị Man Vương Bình rồi, cải Phong châu làm phủ Thái bình". Chữ Phong đây chắc là một viết sai của chữ Đằng. Tuy về lý, việc đổi Phong châu làm phủ Thái bình không phải là phi lý.
1 Tức nay làng Phù ninh, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Xem chú thích (2) truyện Thường Chiếu.
2 Tức làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện Định Không.
3 Đinh trưởng lão, tức trưởng lão La Quý, bởi vì La Quý họ Đinh.
4 Tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu làng Khươn g tự, huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
5 Vô Ngại chùa Hương thành, đây chắc chắn không phải chùa Tĩnh cứ, núi Cửu chân ở thế kỷ thứ VIII và nhà sư Vô Ngại thế kỷ thứ IX trong Man thư của Phàn Xước. Vô ngại ở Hương thành như vậy chắc chắn thuộc thế hệ thứ 10 của dòng Thiền Pháp vân.
6 Lê Đại Hành nghi là một khắc sai của Lý Thái Tôn, bởi Phạm mất năm 1087 và thọ 84 tuổi thì tất không thể nào gặp Lê Đại Hành
được. Chữ Lê Đại Hành, nếu gặp phải một bản chữ mờ thì rất dễ đọc lộn thành Lý Thái Tôn.
7 Bàng Uẩn tham bái Mã Tổ, hỏi: "Ai là kẻ không cùng vạn pháp làm bạn lữ?" Tổ nói: "Đợi ngươi uống một hớp, hết trọn cả nước sông Tây, thì ta sẽ nói". Uẩn tỉnh ngộ, làm bài tụng:
Thập phương đồng tụ hội Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường Tâm không cập đệ quy.
Xem Bích nham lục 5 tờ 179c3-6

Thế Hệ Thứ Mười Hai (7 người, 2 người khuyết lục)

49. HIỀN SƯ Vạn Hạnh (?-1025)
Phật.
Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức. Người Cổ pháp, họ Nguyễn. Gia đình đời đời thờ
Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận2, xem thường công danh. Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ,
Sư học tập quên cả mệt mỏi.
Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa3, lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra (52a1) lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Đại Hành hết lòng tôn kính Sư.
Năm Thiên Phúc thứ 1 (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta, đóng quân tại Cương giáp, Lãng sơn4. Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, Sư đáp:
"Trong vòng 3, 7 ngày giặc phải lui". Sau quả nhiên như thế.
Đến khi vua muốn đánh Chiêm thành, việc bàn định chưa dứt khoát5, Sư tâu: "Xin mau cất binh, nếu không, ắt mất cơ hội". Sau đánh quả nhiên thắng trận.
Thường có kẻ gian là Đỗ Ngân, muốn mưu hại Sư. Khi việc chưa phát, Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ:
"Cây đất sinh nhau bạc với vàng6 Cớ sao thù địch mãi cưu mang Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt1
1 Ly vy là một từ lấy từ phẩm Ly vy thể tịnh của Bảo tạng luận và nó được định nghĩa thế này: "Sở dĩ nói là Ly, vì bản thể chẳng phải hợp nhất với sự vật, cũng chẳng tách rời sự vật. Ví như gương sáng soi ảnh của mọi vật, nhưng gương sáng ấy không hiệp nhất với ảnh cũng không tách rời nó. Lại như hư không hiệp nhập hết thảy, nhưng không bị ô nhim. Năm sắc không thể làm nhớp năm âm không thể làm loạn, muôn vật không thể buộc vào, phong phú không thể làm lộn. Cho nên gọi là Ly. Sở dĩ nó là vy, vì bản thể mầu nhiệm, không hình, không sắc, không tướng, ứng dụng muôn ngõ mà không thể thấy, lắng không thể nghe, nhưng có hằng sa muôn đức, không thường, không đoạn, không rời, không tan, cho nên gọi là vy. Vì thế, hai chữ ly vy bao trùm hết yếu lý của đạo xem Bảo tạng luận tờ 146a7-15.
2 Ba học là giới, định, tuệ của giáo dục Phật giáo. Trăm luận chỉ các tác phẩm của Bách gia chư tử trong nền giáo dục truyền thống của nước ta.
3 Tổng trì tam ta địa, cũng gọi đà la ni tam muội, Phạn: Dhàrani-samàdhi, một lối thiền định thực hiện bằng cách đọc các khẩu quyết Phạn ngữ. Kinh Đại phẩm bát nhã viết: "Sao gọi là đà la ni tam muội? Vì trụ trong tam muội đó thì có thể giữ hết những tam muội, nên gọi đà la ni tam muội". Luận Đại trí độ viết: "Đàụ la ni tam muội vì được sức của tam muội đó thì các đà la ni văn và trì đều tự nhiên mà được". Xem Đại trí độ luận 40 tờ 398b24 và 401c27-28.
4 Đại Việt sử lược 1 tờ 19a8-9: Thiên phúc năm thứ nhất, mùa xuân tháng ba, quân Hầu Nhân Bảo đến Lãng sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch đằng giang". Toàn thư B1 tờ 14a1-3: "Thiên Phúc năm thứ 2 mùa xuân tháng 3, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch Đằng Giang".
5 Đại Việt sử lược 1 tờ 19b1-3: "Thiên phúc năm thứ 2, vua sai Từ Mục v.v...đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt. Vua nổi giận, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu vua Chiêm là Bề Mi Thuế tại trận, xẻo tai không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm vài trăm người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm". Toàn thư B1 tờ 16a2- 6: "Thiên Phúc năm thứ 3, vua thân chinh Chiêm thành, thắng. Trước đó, vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt, vua nổi giận, đóng chiến thuyền, đúc khí giới, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu Bề Mi Thuế tại trận, Chiêm thành đại bại, bắt giết sĩ tốt không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm trăm người và thầy tu Ấn độ một người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm".
6 Nguyên văn: Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim. Đọc theo lối chiết tự thì Thổ mộc là chữ Đỗ. Nguyên câu này chỉ Đỗ Ngân. Đỗ
Ngân này là ai, không thấy sách sử nào nói tới cả.
Thật đến về sau chẳng hận lòng".
Ngân sợ liền thôi. Ấy, tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.
Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược, trời người oán ghét. Lý Thái Tổ khi ấy giữ chức Thân vệ, chưa lên ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điều tốt xấu đều xuất hiện lẫn lộn nhau. Như viện Hàm toại chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp, có con chó trắng, lông trên lưng kết thành chữ "Thiên tử"2. Sét đánh vào cây bông gạo (52b1) để lại dấu chữ3. Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc
1 Nguyên văn: Đương thời ngụ khẩu thu tâm tuyệt. Đọc theo lối chiết tự, ngũ với khẩu là chữ ngô là "ta", thu với tâm là chữ sầu. Bồ Đề Đạt Ma tiên đoán cho Thái thú Dương Huyền về sự mình bị đầu độc sau này với những câu:
Giang tra phần ngọc lãng Quản cự khai kim toả
Ngũ khẩu tương cọng thành Cửu thập vô bỉ ngã.
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 220a.
2 Đại Việt sử lược 2 tờ 2b5-7: "Nguyên trước đó chùa Ứng thiên làng Cổ pháp sinh một con chó trắng, trên lưng mọc lông đen thành chữ "Thiên tử", đến lúc ấy vua sinh nhằm năm Giáp tuất". Toàn thư B2 tờ 1b 6-2a1: "Nguyên trước đó viện Cảm tuyển chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp sinh một con chó trắng có lông đen viền thành hai chữ "Thiên tử". Người biết việc nói rằng bởi đó là cái điềm của người sinh nhằm năm Tuất. Đến lúc ấy Vua sinh nhằm năm Giáp tuất mà làm Thiên tử, nên điều ấy quả đúng". Việt sử tiêu án 1 tờ 77a9-b1 nói chuyện này xảy ra tại chùa Thiên tâm.
3 Đại Việt sử lược 2 tờ 1a9-b3: "Trong làng vua ở có một cây bông gạo bị sét đánh, dấu để lại thành văn rằng: Gốc cây nhiều công
Cơn lá xanh xanh Hòa đao mộc rụng Thập bát tử thành Cung chấn trời hiện Cung đoài sao chênh Trong sáu bảy ngày Thiên hạ thái bình
Vạn Hạnh bèn gọi vua bảo: "Tôi gần đây thấy sự lạ của sấm, biết nhà Lê đương mất, nhà Nguyễn đương lên. Họ Nguyễn không ai là có sự nhân từ, khoan thứ rất được lòng người như ông. Tôi tuổi 70 hơn rồi, chỉ sợ không kịp thay sự thịnh trị mà lấy làm hận".
Toàn thư , tờ 31a7-32a5: "Trước đó, cây bông gạo làng Diên uẩn, châu Cổ pháp bị sét đánh. Người trong làng thấy rõ dấu sét có văn rằng:
Gốc cây thăm thẳm Cơn lá xanh xanh Hoà đao mộc rụng Thập bát tử thành Đông a vào đất Cây khác tái sanh Cung chấn trời hiện
Cung đoài sao chênh Khoảng sáu bảy năm Thiên hạ thái bình.
Thầy Vạn Hạnh riêng tự mình bình rằng: "Gốc cây thăm thẳm, gốc là cái cội thì giống như vua vậy. Diểu là âm đồng với chữ yểu, nên viết chữ yểu. Một biểu thanh thanh, biểu là ngọn mà ngọn thì giống như bề tôi, còn thanh và thiên, âm chúng gần nhau, nên viết chữ thiên có nghĩa là thịnh vượng. Hòa đao mộc là chữ Lê, Thập bát tử là chữ Lý. Đông a là họ Trần. Vào đất là người  phương bắc vào ăn cướp. Cây khác tái sinh là họ Lê lại sinh ra. Cung chấn trời hiện, chấn chỉ phương đông, hiện là ra, trời tức là thiên tử vậy. Cung đoài sao chênh, đoài chỉ phương tây, chênh cũng như mất đi, sao thì giống như dân thường. Cả bài trên muốn nói vua yểu, tôi thịnh, Lê rụng, Lý thành, phương đông Thiên tử ra đời, phương tây thứ dân chìm mất đi, trải khoảng sáu bảy năm thiên hạ thái bình vậy". Bèn gọi Lý Công Uẩn nói rằng: "Gần đây, tôi thấy sự lạ của phù sấm, biết họ Lý tráng thịnh thì việc dấy nghiệp là một chắc chắn vậy. Nay xem thiên hạ họ Lý rất nhiều nhưng không có ai khoan từ nhân thứ, rất được lòng người mà tay nắm binh quyền như Thân vệ. Làm tôn chủ muôn dân, mà bỏ Thân vệ thì ai sẽ cáng đáng cho. Tôi nay tuổi hơn 70, mong sao cho đừng mau chết, để thấy được sự đức hóa ra sao thì thật là sự may ngàn năm một lần vậy".
Việt sử tiêu án 1 tờ 75a-76b cũng chép sự việc và bài thơ như Toàn thư nhưng rút ngắn lời bàn của Vạn Hạnh lại thành: "Gần đây, tôi xét phù sấm, thì họ Lý đang lên, mà không có ai như Thân vệ cả". Song lại thêm một lời bàn khá dài nói: "Xét một cơn sét đánh thành văn chỉ bốn chục chữ, mà trong khoảng 1100 năm, sự phế hưng của các đời, tên họ đều bao gồm gần hết. Trời có nói gì đâu. Đó là bởi Vạn Hạnh giỏi việc xét bói, nhân sét đánh cây bông gạo, thác văn vào đó để tỏ ra thần dị, Lý Nhân Tôn tặng thơ nói:
Thật hiệp sấm trời xưa Quê hương tên Cổ pháp Chống gậy trấn kinh vua
Xem mấy câu bình văn trên cây ở trước, biện bạch rõ ràng không sai việc. Hạnh bình luận cả bài cho tới câu"Dị mộc tái sinh" thì sự biện luận đó rõ ràng không sai. Từ câu "Chấn cung... " trở xuống, lời văn hàm hồ, riêng có ý sâu huyền diệu, không chịu tỏ

tụng1. Cây đa chùa Song lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ "Quốc"2. Ấy đại khái những việc mà tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục tổ đã biết trước, bảo với người bác và người chú của vua3 rằng:
"Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi". Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:
"Tật Lê chìm bể Bắc Hạt Lý mọc trời Nam4
Bốn phương gươm giáo dẹp Tám cõi mừng bình an".
Hai vương nghe nói rất sợ sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.
Đến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025)5, Sư không bệnh, nói kệ bài: "Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu héo hon Tùy vận thịnh suy không hãi sợ
Thịnh suy đầu cỏ có phơi sương".6
Rồi Sư dạy đệ tử rằng: "Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không (53a1) nương vào chỗ không trụ để trụ".
hết. Gần đây, có kẻ hiếu sự, riêng đem ý mình suy din, mê hoặc trí người, đến nỗi thứ gian phu dối toan làm việc phi phận, binh loạn không thôi. Cái hại của sấm cũng thật mãnh liệt thay".
1 Mộ Hiển Khánh đại vương tức mộ của cha Lý Công Uẩn. Khi lên ngôi, Uẩn truy phong cho cha mình là Hiển Khánh Vương. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 2a1 và Toàn thư B1 tờ 34a6. Về những tiếng đọc tụng xung quanh mộ này, xem nguyên chú ở cuối truyện đây.
2 Chùa Song lâm đây tức là chùa Song lâm, làng Phù ninh phủ Thiên đức, nơi ở chính thức của Thiền ông, thầy của Vạn Hạnh
3 Đại Việt sử lược 2 tờ 2b3 nói: "Tháng 11 nguyên niên (1009) vua lên ngôi... lấy anh vua Mỗ làm Vũ Uy Vương, em vua là Dực Thánh Vương". Toàn thư B1 tờ 34b5-6 viết: "... lấy Hoàng huyễnh làm Vũ Uy Vương, Hoàng thúc làm Vũ Đạo Vương, con của Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái úy, con của Dực Thánh Vương là Phó làm Tổng quản". Cương mục chính biên 2 tờ 8a4-7 chép lại Toàn thư thấy rõ Dực Thánh Vương không biết là ai, mà con cũng được phong làm Tổng quản, nên đã chua thêm là: "Thiên nam trung nghĩa lục của Phạm Phi Hiển nói Dực Thánh Vương là con thứ của Thái Tổ". Nhưng rõ ràng theo Đại Việt sử lược thì Dực Thánh Vương là em của Lý Công Uẩn.
Cứ vào truyện Vạn Hạnh đây thì Lý Công Uẩn còn có chú và bác, và đều được phong vương. Bằng vào những dẫn chứng trên, thì chỉ Toàn thư và những sử chép theo nó mới ghi phong hiệu của người chú của Uẩn, đây là Vũ Đạo Vương, còn trong đây thì không thấy nói. Đoạn sử khoảng này của nhà Lý có nhiều ám muội chưa rõ.
4 Tật Lê và hạt Lý là ý muốn chỉ họ Lê và họ Lý.
5 Cả hai bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều ghi Vạn Hạnh mất vào ngày 15 tháng 5 năm Thiên Ứng thứ 9, tức năm 1002. Nhưng đây dĩ nhiên là một khắc sai, bởi vì với một cuộc đời như vừa đọc, Vạn Hạnh tất không thể chết, trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào năm 1010 được. Do thế, một số tác giả như Trần Văn Giáp (Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII (1932) 239 và Lược truyện các tác giả Việt Nam, nhà xuất bản Sử học, Hà nội, 1962, tr. 183) đã sửa Ứng Thiên thứ 9 thành năm Thuận Thiên thứ 9 và nói Vạn Hạnh mất vào năm 1018. Song sửa như thế là chưa chính xác cho lắm, bởi vì năm mất của Vạn Hạnh các bộ sử khác ghi rất kỹ và nó nhất định không phải năm Thuận Thiên thứ 9. Trái lại, cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 4a7 và Toàn thư B2 tờ 10a3-4 thì "năm Thuận Thiên thứ 16 thầy Vạn Hạnh hóa thân". Như vậy, Vạn Hạnh mất năm 1025, chứ không phải năm 1018, như từ trước tới nay thường chép. Từ đó, Ứng Thiên cửu niên là một chép sai của Thuận Thiên thập lục niên. Chữ thuận bị đoán lộn thành chữ ứng, còn chữ thập lục bị đọc rút thành cửu.
6 Việt sử tiêu án 1 tờ 83a7-b1, nhân ghi "thầy Vạn Hạnh chết", viết: "Vạn Hạnh không bệnh mà chết. Người bây giờ gọi đó là hóa thân. Vạn Hạnh thường có thơ.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Tùy vận thạnh suy hưu bố ủy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Vua thân hành đến điếu viếng, lập đàn siêu độ". (Những chữ in đậm là khác với bản ở đây).
 Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng:
"Vạn Hạnh dung ba cõi Thật hiệp lời sấm xưa Quê hương tên Cổ pháp Chống gậy trấn kinh đô"1
Về chuyện mộ Đại vương Hiền Khánh thì ban đêm thường vào lúc Sư thiền định bố phía mộ đều có tiếng:
Tiếng phía đông nói:
Khánh vạn Tường nham với Quế phong Ruột dê, rồng thế, phụ nhau vờn
Triều tôn, Đông liệt ba trăm thế Sáu tuất tới đây nhắm Thiên bồng2.
Tiếng phía nam nói:
Nam hướng Phù ninh thần giữ nhà Đời tươi trai gái lắm người ra Thiên đức giàu sang đầy nhà cửa
1 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a4-5 và Việt sử tiêu án 1 tờ 76b2-3 chép nguyên bài thơ. Tam tế, mà đây dịch là "ba cõi", tức chỉ cho quá khứ, hiện tại và vị lai. Xem Kiến văn tiểu lục 9 tờ 12a6-7 về chữ Tam tế. Vạn Hạnh dung tam tế, có nghĩa Vạn Hạnh thấu suốt tất cả sự việc của quá khứ, thời hiện tại và thời vị lai.
2 Nguyên văn:
"Khánh vạn tường nham dự Quế Phong Dương trường long thế dực tương tùng Đông liệt triều tôn thế tam bách
Lục tuất (thiếu hai chữ) đối thiên bồng".
Khánh vạn, Tường nham và Quế phong, chúng tôi nghi là ba tên đất. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Khánh duệ thuộc huyện Tiên du, quê hương của Nguyễn Đán, tiến sĩ khoa 1580. Khánh vạn từ đó rất có thể là Khánh duệ đấy, nhưng chúng tôi chưa có bằng chứng gì đích xác. Còn Tường nham và Quế phong thì chưa thể khảo được. Đông liệt và Triều tôn, chúng tôi cũng nghĩ là những tên đất, song chưa tìm thấy tài liệu chứng thực. Trong một cuộc nói chuyện riêng, cụ Nguyễn Đăng Thục, quê Bắc ninh, bảo tỉnh Bắc ninh hiện có làng tên Đông liệt. Với những tên đất như thế, thì rõ ràng đây là một bài thơ nói về mạch đất của các nhà địa lý thời xưa với những từ địa lý rõ rệt như dương trường (chúng tôi nghi chữ dương, đúng ra phải đọc là ngưu) long thể. Thực thể, nếu câu thứ hai đọc "Ngưu trường long thể dực tương tùng", thì ý nghĩa địa lý của bài thơ trên khá phù hợp với quẻ tả huyệt thứ 6 trong Tả Ao chân truyền địa lý tờ 7b:
Điều điều phát tổ khỉ căn nguyên
Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền. Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu
Bàn vu cục thế tợ ngưu niên
Đương khai nội ngoại giai kỳ huyệt Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên Xa xa phát tổ nỗi căn nguyên
Uyển chuyển quanh co mạch khúc huyền Hữu kiên đến trái mà rẽ phải
Nằm vào thế cục trâu lim dim
Trong ngoài nên mở đều huyệt thiệt Núi soi sao lắm phước liên miên.
Qua bài thơ này, ta có thể thấy bài thơ trên là một thứ bói quẻ đất. Việt sử tiêu án 1 tờ 128b1, trong khi bình luận về việc nhà Lý mất ngôi,có dẫn viết: "Lại Cổ pháp địa quyết chép: Ngôi truyền tám lá, lá rụng âm sinh. Thì sự hưng vong cũng có do đất". Như thế, cái gọi là Cổ pháp địa quyết đấy phải chăng gồm những bài thơ loại thơ mộ Hiển Khánh đại vương ở truyện Vạn Hạnh đây? Phải chăng Cổ pháp địa quyết là một tác phẩm của Vạn Hạnh? Và bốn bài thơ ở mộ Hiển Khánh đại vương đây là rút ra từ nó? Chúng tôi nghĩ đấy là những có thể. Điều chắc chắn là bài thơ trên cùng với ba bài thơ tiếp theo là những bài địa quyết do Vạn Hạnh sáng tác.
Tám phương gặp Nữ thường xuất vua1.
Tiếng phía tây nói:
Trông tây xa ngắm ngó Thiên trụ Trai gái đời cao thượng tướng thủ Thiên đức giàu sang cùng Viễn thế Thọ mạng quân vương chín chín đủ2.
Tiếng phía bắc nói:
Chính bắc Phù cấm đối Bạch hổ Yên vui trai gái thường không khổ Sống lâu Thiên đức sướng đời đời
1 Nguyên văn:
Chính nam phù ninh hộ trạch thần Vinh thế nam nữ đa xuất nhân Thiên đức phú quý mãn ốc thành Bát vạn hội nữ thường xuất quân.
Phù ninh như đã thấy là một tên làng. Truyện Thường Chiếu tờ 37b7 nói Chiếu "người làng Phù ninh". Rồi đến truyện của La Quý tờ 48a7 và truyện Thiền Ông tờ 51a8 thì chúng xác định rõ ràng là làng Phù ninh đấy là "làng Phù ninh, phủ Thiên đức". Đại Việt lịch triều đăng khoa lục cũng ghi một làng tên Phù ninh thuộc hạt Đông ngạn là quê hương hay trú quán của một số người đậu trạng tiến sĩ dưới thời Lê như Phạm Ngữ khoa 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa 1523, Lê Diêu khoa 1557, Đào Quốc Hiển khoa 1691 v.v...Ngày nay, tỉnh Bắc ninh hiện đang có một làng mang tên Phù ninh và ở đúng chính phía nam của làng Đình bảng, tức đất Cổ pháp xưa. Vĩnh thế, chúng tôi nghi cũng là một tên làng. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một làng tên Vĩnh thế thuộc hạt Siêu loại, quê hương của Nguyễn văn Hiển tiến sĩ khoa 1502, Nguyễn Bỉnh Khuê tiến sĩ khoa 1526, Nguyễn Địch Khanh khoa 1532, Nguyễn Thừa Hựu khoa 1535, Nguyễn Đình khoa1580 v.v...Vĩnh thế, nghi là Vinh thế đổi ra, nhưng chúng tôi hiện chưa có bằng chứng gì rõ rệt. Làng này rất có thể là quê hương của Đào Cam Mộc hay một trong những khai quốc công thần của triều Lý Thế Tổ. Thiên đức trong câu thứ ba và Bát vạn trong câu thứ 4 thì cả bản in đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều viết là Đại đức và Bát phương. Chúng tôi sửa Đại đức thành Thiên đức, không những bởi vì hai bài thơ tiếp theo đến câu thứ 3 thì bắt đầu bằng chữ Thiên đức, mà còn vì sau đó vài dòng thì có câu "đổi Cổ pháp là Đại đức", nhưng ai cũng biết rằng Lý Công Uẩn đổi Cổ pháp làm Thiên đức, chứ không phải Đại đức. Đại đức trong câu ấy và Đại đức trong bài thơ trên do thế là những chép sai của Thiên đức như vậy rõ ràng là một tên đất, và nó cũng rõ ràng "phú quý mãn ốc thành", như bài thơ nói, với sự lên ngôi của Lý Công Uẩn. Và chữ bát vạn, mà những bản in đời Lê và đời Nguyễn đều viết là Bát phương, chúng tôi sửa chữ phương thành chữ vạn, không những vì chữ vạn viết tắt rất dễ biến thành chữ phương, nếu người ta bất cẩn thêm trên đầu nó một chấm, mà còn vì tại huyện Siêu loại trước đây, tức huyện Thuận thành ngày nay, có núi tên Bát vạn. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Bát vạn ở phía Đông nam huyện Tiên du hai dặm, tương truyền Cao Biền đời Đường dựng tháp Bát vạn, để yểm nó nên có tên đó". Chúng tôi hiện chưa biết có phải Lê Thánh Tôn đi cầu tự tại núi Bát vạn này, mà gặp _ Lan trên đường đi không" Nhưng với văn ý của câu thứ 4 thì đó là một có thể. Dẫu sao chăng nữa, chúng tôi nghĩ chữ bát vạn hợp nghĩa hơn chữ bát phương.
2 Nguyên văn:
Tây vọng viễn vọng khán Thiên Trụ Dao thế nam nữ thượng tướng thủ Thiên đức phú quý dự vin thế
Quân vương thọ mạng cửu thập cửu.
Thiên trụ là một từ của khoa địa lý bói huyệt đất. Sự liên hệ của Thiên trụ với việc sống lâu, mà bài thơ đây nói đến, Thiên địa tạo sơn thủy phú trong Tả Ao chân truyện địa lý tờ 27a10-b1 nói:
"Càn sơn cao như Thiên trụ, thọ tỷ Thương nham Tốn thủy tụ tợ uyên minh, lộc hữu đỉnh nãi.
(Núi càn cao như Thiên Trụ, sống lâu như núi Thương Sông Tốn họp tợ uyên minh, lộc vua có đỉnh chung)
Trong một cuộc nói chuyện riêng, cụ Nguyễn Đăng Thục nói núi Tiên du có một tên Thiên trụ. Như thế, một mặt Thiên trụ chỉ cho sự sống lâu, và mặt khác nó lại chỉ một ngọn núi của Tiên du. Chỉ có vấn đề là, nếu Thiên trụ quả ở núi Tiên du, mà trên thực tế núi Tiên du ở về phía đông của làng Đình bảng hiện nay, thì làm sao đứng ở Đình bảng ngó về phía tây, ta lại thấy được núi Tiên du? Phải chăng Thiên trụ muốn chỉ một ngọn khác ở phía tây làng Đình bảng, nơi chúng tôi giả thiết có mộ của Hiển Khánh đại vương? Chúng tôi nghĩ, Thiên trụ có thể chỉ là một gò đất hay ngọn núi ở phía tây, nhưng hiện chưa có những bằng chứng rõ rệt. Cao thế và Viễn thế trong hai câu 2 và 3 chắc chỉ những tên đất, những làng xóm, song chúng tôi chưa truy cứu được. Thượng tướng là tên ngôi sao thứ nhất trong cung Văn xương thuộc Trung cung thiên văn học cổ đại Trung Quốc. Xem chẳng hạn Sử kyù 27 tờ 3a13. Nó nhằm chỉ uy vũ.
Thế thế quân vương cầu Lục tổ1.
Sư sai người chép lấy chúng và ghi lại mốc giới của ngôi mộ để Sư đến xem. Bèn nói bài kệ rằng:
Đông có Vũ long xóm Nam có Vũ long bờ Tây có quán Rừng hạc Bắc có Trấn hải hồ2
Chặng lâu sư lại nói:
Chỉ trong ba tháng thôi Thân vệ lên ngôi xã tắc Lạc trà ấn có chữ Quốc
Mười khẩu xuống nước đất3
Gặp thánh gọi Thiên đức.
Sai vua cải Cổ pháp làm Thiên đức4 ấy bởi đúng lời Sư vậy. Còn những chuyện xảy ra ở các chùa thì đều lấy ra từ Quốc sử, nên đây không chép chúng.5
1 Nguyên văn:
Chính bắc Phù cầm đương bạch hổ An lạc nam nữ thường vô khổ
Đại đại Thiên đức trường thọ lạc Thế thế quân vương kỳ Lục tổ.
Phù cầm là một tên làng, mà chính Thiền uyển tập anh xác nhận trong truyện Minh Trí và truyện Nguyện Học, khi nó bảo cả hai người này đều quê quán làng Phù cầm. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tân lương, cũng có ghi một bến đò tên Phù cầm trong 17 bến đò của sông Nguyệt Đức, nằm giữa hai bến đò Phù yên và Đấu hàn. Đấu hàn là quê quán của Đỗ An Vĩnh tiến sĩ 1499 và Phù yên là quê quán của Lê Doãn Chấp tiến sĩ 1505, như Đại Việt lịch triều đăng khoa lục đã ghi lại. Và cả hai làng đó đều thuộc hạt Yên phong" nghĩa là thuộc huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Làng Phù cầm do thế cũng phải thuộc huyện đấy.
Còn chữ Bạch hổ nó có thể là tên riêng chỉ một cây cầu hay bến đò hay ngọn núi nào đấy. Nhưng nó cũng có thể là một từ thuần túy địa lý bói huyệt. Về trường hợp trước, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một địa danh Bạch hổ nào xung quanh Phù cầm, nên không thể trả lời được. Về trường hợp sau, thì trong cách bói huyệt thứ 13, Tả Ao chân truyền địa lý tờ 14b2-4 có viết:
Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên Sơn cao huyền vũ thủy chi huyền
Nhật minh nguyệt chiếu đường triều nội Thử địa vinh hoa phú quý tuyền.
Rồi nó chú tiếp thế này "Mạch bắt đầu từ cung Rồng, rồi chuyển đến cung phải lại đến cung trái mới vào huyệt. Cung rồng là án chầu phía trước. Cát bạch hổ trùng điệp, núi Huyền Vũ dốc cao, sông Minh đường nước đọng, nếu soi sáng vào trong huyệt thì con gái sinh nhiều phú quý. Đây là một quý cách". Nếu hiểu từ "bạch hổ" theo lối đây, thì dĩ nhiên mặt đất của Phù cầm có những ngôi mộ làm sinh ra những người con gái có nhiều phú quí. Nếu vậy, phải chăng mẹ của Lý Công Uẩn là người Phù cầm? Sử không ghi rõ nên ta không biết được.
Cuối cùng, về chữ Lục tổ, đấy là đọc theo bản đời Lê, còn bản đời Nguyễn viết thành Đại tổ. Nó hiển nhiên nhằm chỉ chùa Lục tổ, nơi Vạn Hạnh sống và dạy dỗ Lý Công Uẩn, và là nơi Uẩn trưởng thành.
2 Bốn câu thơ này để xác định ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương. Nhưng vị trí nó ngày nay ta chưa thể khảo được, bởi vì những tên đất đến tên ao như: Vũ long, Hạc lâm, và Trấùn hải, ta hiện chưa phát ra vị trí của chúng. Riêng về Hạc lâm, nó có thể là chùa Hạc lâm của Pháp Thông, người đã cùng Huệ Sinh thờ Định Huệ làm thầy, như truyện Huệ Sinh tờ 57b11 đã ghi.
3 Nguyên văn: Thập khẩu thủy thổ khứ. Đây là nhắc lại việc Định Không làm chùa Quỳnh lâm tại làng Đình bảng, đào gặp 10 cái khánh, mà khi đem đi rửa chìm mất một cái xuống sông. Từ đó Không đề nghị đổi làng mình thành làng Cổ pháp. Chữ cổ là do chữ thập và khẩu ghép lại, mà hai chữ đó có nghĩa "mười cái". Chữ Pháp là do chữ thủy và chữ khứ ghép lại, và chúng có nghĩa "chìm xuống nước". Xem truyện Định Không ở trên.
4 Đại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B3 tờ 3a3 viết: "Năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) cải Cổ pháp làm phủ Thiên đức". Việt sử tiêu án 1 tờ 79b8 và Cương mục chính biên 2 tờ 11a1 cũng chép vậy.
5 Quốc sử chắc chỉ Đại Việt sử ký của Trần Chu Phổ và Lê Văn Hưu. Đại Việt sử lược và Toàn thư hiện tại chỉ ghi lại trong hai ba việc, mà tác giả Thiền uyển tập anh giả thuyết Quốc sử phải ghi đủ, đấy là chuyện chó chùa Thiên ứng tâm có lông thành chữ

50. HIỀN SƯ Định Huệ
Chùa Quang hưng, làng An trinh, phủ Thiên đức1. Người Cảm điền, Phong châu2, họ Khúc. Ban
đầu cùng với Vạn Hạnh thờ Thiền Ông làm thầy, rồi nhận được tâm ấn.
Đến khi tịch, bèn truyền pháp mình cho đệ tử là Lâm Huệ Sinh.{Cứ Nam tôn tự pháp đồ thì nói là pháp tự của Vạn Hạnh. Sợ e sai. Nay theo y bản truyện} (33b1)

51. THIỀN SƯ Đạo Hạnh (? - 1117)

Chùa Thiên phúc3, núi Phật tích4, họ Từ, tên Lộ. Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan đô án, thường đi học tại làng An lãng1. Lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ. Sư là con nàng Tăng Thị vậy.
"Thiên tử" và chuyện sét đánh thành văn thôi. Còn chuyện sâu ăn cây đa chùa Song lâm thì bây giờ không thấy cuốn sử nào ghi tới. Nó chắc đã bị các tác giả sau Lê Văn Hưu tước bỏ.
1 Làng An trinh, phủ Thiên đức này chúng tôi hiện chưa khảo được đích xác là làng nào thuộc huyện nào của tỉnh Bắc ninh ngày nay. Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi một làng tên An trinh thuộc tổng Văn thai, huyện Cẩm giàng, trấn Hải dương. Chúng tôi chắc làng An trinh này không phải là làng An trinh của Định Huệ ở đây, nhưng cứ ghi ra, bởi vì huyện Cẩm giàng theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách thì huyện Cẩm giàng "đời thuộc Minh thuộc vào châu Thượng hồng, phủ Lạng giang".
2 Tức thuộc phần đất tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Xem chú thích (6) truyện Pháp Hiền. Về Cẩm điền, bảng danh sách các tổng xã của hai tỉnh Sơn tây và Vĩnh yên trong Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tục khảo, không có tổng xã nào tên Cẩm điền cả. Nhưng một số làng hai huyện Tam dương và Yên lạc có những tên bắt đầu bằng chữ "cẩm" hay chữ "điền", hay kết thúc bằng chữ "điền". Đấy là xã Điền trù của tổng Bình hòa, xã Cẩm trạch của tổng Đạo tú và xã Đại điền của tổng Quan ngoại thuộc huyện Tam dương, và những xã Cẩm la, Cẩm trạch và Cẩm viên của tổng Nhật chiếu thuộc huyện Yên lạc. Chúng tôi nghĩ Cẩm điền có lẽ gồm phần đất của hai tổng Đạo tú và Quan ngoại vừa thấy.
3 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tự quan, viết: "Chùa Thiên phúc tại xã Sài tây, huyện Yên sơn, xưa gọi là am Hương giang (nên đọc hải, Lê Mạnh Thát chú) lại gọi là viện Phổ đà. Chùa bên trái thờ Từ thiền sư bên phải thờ tượng Lý Thần Tôn, ở giữa thờ tượng Phật. Thiền sư họ Từ tên Lộ, tự Đạo Hạnh, người An lãng huyện Vĩnh thuận, tỉnh Hà nội, là bậc cao tăng của thời đó đến trác tích ở đây. Lý Nhân Tôn tuổi đã cao mà chưa có con nối dõi. Em vua là Sùng Hiền Hầu cũng chưa có con, cùng với Đạo Hạnh nói việc cầu tự. Đạo Hạnh hẹn ngày kia khi phu nhân sắp sanh thì nên báo trước cho biết. Sau đó, khi phu nhân sắp sinh, bèn đi báo. Đạo Hạnh tức khắc thay quần áo tắm rửa, vào trong động mà thi giải. Phu nhân liền sinh một người con trai ấy là Thần Tôn. Người làng cho đó là điều lạ, đem thây bỏ vào trong khám mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3, tục truyền đó là ngày kỵ của Sư, sĩ nữ tụ họp đông đảo, làm thành một chỗ du ngoạn đẹp đẽ của địa phương. Văn nhân danh sĩ phần nhiều có  làm thơ vịnh. Thâycủa Sư đến khoảng Minh Vĩnh Lạc thì bị người Minh đốt cháy. Người làng lại đúc tượng Sư mà thờ. Trong khoảng Lê Quang Thuận, cha của Hoàng hậu Trường Lạc là Nguyễn Đức Trung đi cầu tự cho hậu ở trong động chùa đó thì có một mảnh đá bay tới. Bèn cầm về tạc thành một tượng Phật mà thờ. Khi đã làm vậy, thì sau đó hậu mộng thấy rồng vàng vào sườn bên trái, bèn sinh ra Hiến Tôn. Trong khoảng Cảnh Thống, bàn lập bia am Hiển thụy khắc vào đá nay còn. Triều ta phong thần Từ Đạo Hạnh đại thiền sư ".
4 Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 8a6b1 viết: "Núi (Nguyên văn viết chùa, Lê Mạnh Thát sửa) Phật tích ở xã Thủy khê, huyện Yên sơn, một tên là Sài sơn, lại gọi là Cổ sài. Cảnh núi đẹp đẽ trông ngang xuống mặt hồ trên núi có hang sâu là chỗ Từ Đạo Hạnh thi giải. Vách hang đang còn có dấu đầu và dấu chân. Trên đó có am Hương hải và viện Phổ đà đều do Từ Công dựng nên, nay là chùa Thiên phúc".
Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a7-3a1 viết: "Sài sơn của huyện Yên sơn, đời Lý gọi là núi Phổ đà lạc, đời Trần gọi là núi Phật tích.
Trên núi có chùa và tiên động các nơi. Trong động có tám chỗ lõm, như dấu đầu người va vào, lại có dấu chân như của người khổng lồ. Dưới núi có chùa Thiên phúc, trước có hồ lớn, sau có lầu chuông, có chuông do Thiền sư Vạn Hạnh đúc thành, vào năm Long Phù Nguyên Hoá thứ 9 (1109) triều Lý, đệ tử Huệ Hưng soạn ký, trước tác lang Nghiêm Thường khắc chữ. Trên chuông có khắc hình cây bồ lao, dùng dây sắt mà treo. Đấy là vật xưa 700 năm đến nay. Dưới lời ký có khắc sắc chỉ của Vua Trần Anh Tôn cấp ruộng thờ cúngvào năm Hưng Long thứ 12 (1304). Bên cạnh có Hiển thụy dựng trong khoảng Cảnh Thống, có bia ký do Thượng thư Nguyễn Bảo soạn. Xét An nam chí có nói rằng: Núi Phật tích có một tảng đá, trên có dấu chân người khổng lồ. Dưới chân núi có hồ, chu vi hơn ba dặm. Hai bên hồ và núi có dựng nhà thủy tạ. Tháng 5 tháng 6 hoa sen nở đầy hồ, mùi thơm sặc cả người. Trên núi có chùa Thiên phúc, sơn phết rực rỡ, thực là danh thắng một phương, chỉ nói trên núi Phật tích có chùa Tư phúc, có am Biện tài và am Cực lạc. Người của châu và những con em của phường du lịch thường mỗi năm vào tháng 3 đến dạo chơi xem l, đèn nhang chất đống, xe ngựa dập dìu, văn nhân danh sĩ phần nhiều đều có đề thơ vịnh cảnh. Tức là núi đó".
Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên và mục phụ khảo về núi.

Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, lại có hành động nói năng người đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa2 và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. Đêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Thân phụ thường trách Sư biếng nhác.
Một hôm, ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống, Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn.
Từ đấy ông cụ không lo nữa.
Sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch liên3. Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu4. Hầu nhờ pháp sư Đại Điên5 dùng phép đánh chết (54a1), ném xác
1 Làng Yên lãng đây tức là làng Yên lãng thuộc huyện Vĩnh thuận của Bắc thành địa dư chí lục 1 và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Từ miếu và Tự quán, tức làng Láng ở gần phía tây Thủ đô Hà nội ngày nay. Làng này hiện có chùa thờ Đạo Hạnh, tục gọi là chùa Láng. Bắc thành địa dư chí lục 1 chép chuyện đấy vào thế kỷ 19 như sau: "Chùa Yên lãng tại trại Yên lãng, huyện Vĩnh thuận, thế truyền là chỗ tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh triều Lý. Thiền sư là kẻ có thù với Thiền sư Đại Điên xã Dịch vọng. Đạo Hạnh sau đó đi Tây vực học đạo, trở về giết Đại Điên, nên lệ chùa Yên lãng mỗi năm vào tháng 3 phải rước thần qua chùa hai xã Yên quyết và Dịch vọng, đốt pháo múa gậy, giống như có việc đánh nhau, để diễn lại chuyện đó. Nay chùa Yên lãng có một hòm gỗ trong đựng một miếng đồng có chữ phạn viết bằng son. Đó là di tích của Sư. Sau Đạo Hạnh đến tu đạo tại Sài sơn, tỉnh Sơn tây, rồi đầu thai làm Lý Thần Tôn".
Đây như vậy chỉ nói tên cha và trú quán, nhưng không nói tên mẹ và nguyên quán của Từ Đạo Hạnh. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục từ miếu, nhân viết về đến Từ Đạo Hạnh Thiền sư ở chân núi Sài sơn huyện Yên sơn, nói: Xét trong đền thì bên trái thờ tượng Từ Đạo Hạnh, bên phải thờ tượng Lý Thần Tôn, ở giữa thờ tượng Phật. Một thuyết nói rằng Đạo Hạnh là người thôn Đồng bụt, huyện Yên sơn, cha là Từ Vinh mẹ là Tăng thị Loan. Nay tương truyền ở Đồng bụt có nền cũ nhà họ Từ, trước chùa có 70 mẫu ruộng là ruộng họ Từ, nay đem làm tự điền cho thôn ấy".
Cứ đây thì nguyên quán của Đạo Hạnh là thôn Đồng bụt, huyện Yên sơn tỉnh Sơn tây. Truyện Đạo Hạnh ở đây nói rõ Yên lãng là trú quán của Hạnh, nên ta khỏi phải đặt nghi vấn về chuyện đâu là quê quán của Hạnh, như Đại nam nhất thống chí đã làm.
2 Đại Việt sử lược 2 tờ 16a10 viết: "Năm Quảng Hựu thứ 7 (1091) kiến quan Lê Toàn Nghĩa dâng rùa năm sắc". Toàn thư B3 tờ 12a9 cũng ghi chuyện này, nhưng không ghi chức quan của Nghĩa.
3 Truyện Từ Đạo Hạnh trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 28-31 chép hoàn toàn giống truyện Từ Đạo Hạnh ở đây, nhưng sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng", nó lại thêm 7 chữ "Bạch liên khoa, vị cơ phụ Vinh", trước khi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu". Truyện Đạo Hạnh ở đây, sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng", lại bỏ trống một đoạn đúng chỗ cho 7 chữ, rồi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu". Chúng tôi nghĩ rằng khoảng trống 7 chữ đây đúng là chỗ của 7 chữ hiện còn chép trong Lĩnh nam trích quái mà để bản của bản in Thiền uyển tập anh năm 1715 đã bị rách hay mọt ăn mất, nên người hiệu đính cho bản in đây đã để trống đúng 7 chỗ cho những chữ mất đó. Đây là một ưu điểm lớn của bản in năm 1715 giữa những ưu điểm khác của nó. Bản in đời Nguyễn không để một khoảng trống nào cả, nên dù có bản của Lĩnh nam trích quái chăng nữa, ta cũng không thể nào nhận ra khoảng đấy thiếu mấy chữ. Chúng tôi do thế đề nghị thêm 7 chữ trên vào chỗ trống ở tờ 53b10 của Thiền uyển tập anh, để cho ý nghĩa của câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng... " và câu "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu" ở trước và sau khoảng trống đấy được rõ hơn. Nếu chấp nhận, hai câu ấy bây giờ đọc: "Hậu ứng tăng quan thí trúng Bạch liên khoa. Vị cơ phụ Vinh dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu", mà ta có thể dịch thành: "Sau đó Sư ứng thi điện thí tăng quan, trúng khoa Bạch liên. Chẳng bao lâu, cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mích lòng Diên Thành Hầu ..."
Khoa Bạch liên là khoa gì vào thời Lý, chúng tôi hiện chưa thể khảo được.
4 Diên thành hầu (? - 1117) là con của Lý Thánh Tôn và em của Nhân Tôn. Tính tình của vị hầu này chắc nóng nảy lắm. Đại Việt sử lược 2 tờ 20a3 ghi lại một chứng sau: "Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 4 (1104), mùa thu tháng 9 ngày mồng một. Diên Thành Hầu lấy hốt đánh Trung Nghĩa Hầu ở điện Thiên an". Trung Nghĩa Hầu (? - 1117) cũng là con của Thánh Tôn và chắc là em của Diên Thành, và điện Thiên an là nơi thị triều của vua. Thế mà, giữa mặt bá quan văn võ, Diên Thành đã lấy hốt đánh Trung Nghĩa.
5 Tức Nguyễn Đại Điên, mà truyện Thần Nghi tờ 40a11 nói tới như đại biểu cho một Thiền phái thứ 4 của thời Lý. Cứ vào truyện Đạo Hạnh ở đây, ta có thể đoán Đại Điên bị Đạo Hạnh đánh chết vào khoảng năm 1110 bởi vì cuối truyện có chua câu: "Giác Hoàng, hoặc có người nói là Đại Điên ấy vậy". Mà Giác Hoàng theo Đại Việt sử lược 2 tờ 21a4, thì vào năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112) là đã 3 tuổi rồi. Vậy Hoàng phải sinh năm 1110. Bấy giờ, nếu bảo Giác Hoàng là Đại Điên thì đương nhiên Điên phải chết vào năm Hoàng sinh, tức năm 1110 ấy, mới đầu thai thành Hoàng được, tối thiểu là bằng vào sự tin tưởng huyền thuật đương thời. Cho nên, việc liên hệ Đại Điên với sự sinh của Giác Hoàng phải giả thiết rằng Điên chết vào năm Hoàng sinh.
Về nguyên quán của Điên, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tăng thích, có ghi một vị sư tên Nguyễn Đạo Hạnh và nói: "Sư người huyện Tiên phong là miêu duệ của Thiền sư Thái Điên, bình sanh cùng sư Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh làm bạn, học thuật tu luyện, sau hóa thân ở xã Chiêu nhân thổ nhân bèn lập đền thờ". Thái Điên đây, chúng tôi nghi cũng là Đại Điên, bởi vì Việt sử tiêu án 1 tờ 108b9 dẫn Ngoại truyện nói: "Cha Đạo Hạnh là Từ Vinh vì pháp thuật bị sư Thái Điên đánh giết". Như vậy quê hương của Đại Điên là vùng đất huyện Tiên phong, tức huyện Quảng oai, tỉnh Sơn tây bây giờ. Kiến văn tiểu lục 9 tờ 16a1 17a2 viết rất là dài về cuộc đời nhà sư Nguyễn Đạo Hạnh đây và nói: "Ông người xã Vịnh phệ, huyện Tiên phong". Nếu vậy Điên là người xã Vịnh phệ.
xuống sông Tô lịch1. Xác trôi đến cầu Quyết2 là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà chỉ tay vào nhà, suốt ngày không đi. Hầu sợ, đi báo cho Đại Điên. Đại Điên đến nơi, đọc một câu kệ: " Tăng giận không cách đêm". Đọc xong, xác đáp lại trôi đi.
Sư nghĩ cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm, Sư rình Điên đi khỏi nhà, muốn đánh lén, chợt nghe trên không có tiếng la: "Đừng, đừng! Sư sợ hãi vứt cây mà chạy. Sư muốn sang Ấn độ, tìm học phép linh dị để chống lại Đại Điên. Đi đến xứ Mọi răng vàng3, đường xá hiểm trở, Sư bèn trở về ẩn tại núi ấy, hằng ngày chuyên tụng chú Đại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm Sư thấy thần nhân đến trước mặt mình nói: "Đệ tử là Tứ trấn Thiên vương4, cảm công đức trì xứ của Sư, nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo". Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha nên mới đến bến Quyết, cầm gậy, thử ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến cầu Tây dương5 dừng lại. Sư mừng (54b1) nói: "Pháp ta thắng rồi". Bèn đến thẳng chỗ Đại Điên. Điên thấy nói:
Cuối cùng, về ngôi chùa trú trì của Điên, Bắc thành địa dư chí lục 1 nhân viết về chùa Yên lãng dẫn trước nói "Đạo Hạnh có thù với Thiền sư Đại Điên xã Dịch vọng". Như thế, vào thế kỷ thứ 19 người ta coi Điên sống ở xã Dịch vọng. Làng Dịch vọng này, Toàn thư B3 tờ 3a3-8 nói là nơi có chùa Thánh chúa. Ở đây đã có vị sư dạy Nguyễn Bông cái thuật đầu thai thành Lý Nhân Tôn. Dã sử về thần tích của _ Lan nói rõ ra vị sư chùa Thánh chúa, đấy không ai khác hơn là Đại Điên. Từ đó, ngôi chùa Đại Điên ở chắc không chùa nào khác hơn là Thánh chúa, làng Dịch vọng, huyện Từ liêm ngày trước, tức huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Sự việc Nguyễn Bông xảy ra vào năm 1063. Thế thì, Điên sống tại chùa đấy vào khoảng từ năm đó.
1 Bắc thành địa dư chí lục 1 viết: "Sông Tô lịch ở phía đông của thành (Hà nội) phân lưu từ sông Nhị, theo thành từ phía Bắc mà chảy qua phía tây gặp sông Hà liu và sông Nhuệ, hai sông cùng chảy đổ vào. Sông này, mùa đông và xuân thì khô cạn, mùa thu và hạ thì thuyền đi được... Quốc sử của Ngô Sĩ Liên nói: "Sông này hễ khi có mưa lớn thì nước đầy ứ mà chảy ngược. Họ Ngô nói: "Sông Tô lịch chảy đi ra từ sông Nhị bắt đầu từ phường Hà khẩu chảy qua Tây hồ, Thụy Chương, Yên hoa và Yên quyết thì cạn thuyền đi không được, vì dân ở hai bên sông cứ để ngói đá lấp đầy, khi mưa to nước ứ lại không chảy được, nên phải chảy ngược lại thì không có gì là lạ".
2 An nam chí lược 1 tờ 24 viết: "Sông Tô lịch chảy quanh La thành. Sông có năm cầu đều rất đẹp". Nhưng nó không cho biết năm cầu đó. Ta ngày nay có thể truy nhận tối thiểu tên của ba cầu, đấy là cầu Tây dương, cầu Yên quyết và cầu Nhân mục. Toàn thư B10 tờ 21b 2-5 trong khi mô tả diễn tiến của chiến dịch Tốt động, Chúc động, đã viết về những hướng xuất quân của Vương Thông từ thành Đông quan như sau: "Ngày mồng 6, Vương Thông v.v. của nhà Minh đem lính cũ lính mới 10 vạn người phân
làm ba đạo quân đánh ta. Vương Thông do ngã Khâu ôn qua cầu tây dương đến đóng ở bến Cổ sở, dựng cầu nổi cho quân đi. Phương Chính xuất quân từ cầu Yên Quyết, đóng ở cầu Sa đôi. Sơn Thọ và Mã Kỳ đi ra từ cầu Nhân mục, đóng ở cầu Thanh oai. Chúng dựng doanh trại vài chục dặm, cờ xí rợp đồng, giáp trượng sáng trời, tự bảo rằng chúng chỉ một lần đánh là bắt hết nghĩa quân".
Cầu Nhân mục, tên nôm gọi là cống Mọc, ngày nay thuộc làng Nhân chính, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông, và vết tích của nó hiện còn là chiếc cầu bắc ngang sông Tô lịch tại làng đấy.
Còn cầu Yên Quyết, tên nôm nó gọi là cống Cót, ngày nay là chiếc cầu bắc ngang sông Tô lịch tại địa phận làng Yên  quyết huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông. Vì cầu Yên quyết có tên nôm là cống Cót, cho nên chữ Quyết kiều ở đây đúng ra phải dịch là cống Cót, nhưng vì không chắc chữ Cót phát âm như thế nào vào thời Lý, nên chúng tôi vẫn để nguyên và dịch là: "cầu Quyết". Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt tr.499 vì chấm câu lộn, nên đã đọc thành cầu Vu quyết. Về cầu Tây dương thì cứ trên đường hành quân của Vương Thông, nó phải là cầu Giấy, bởi vì để đi từ Đông quan tới Cổ sở, người ta phải đi qua cầu Giấy ở sông Tô lịch, rồi qua cầu Din hay Phù diễn ở sông Nhuệ thì tới bến Cổ sở trên sông Đáy thuộc làng Yên sở ngày nay. Như vậy, cầu Tây dương không gì khác hơn là cầu Thượng yên quyết, mà Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hànội, mục Tân lương, nói là "tục gọi cầu Giấy, cầu dài ba trượng, có lợp ngói ở về huyện Từ liêm".
3 Mọi răng vàng hay Kim xỉ man là tên một dân tộc ít người, vào thời Đường thì đang còn ở phần đất thuộc Vương quốc Pyu, nhưng
đến đời Nguyễn và cho tới nay thì phần đất ấy thuộc tỉnh Vân nam của Trung Quốc. Xem Nguyên sử 16 tờ 8a4.
Gọi là mọi răng vàng dân tộc ấy dùng vàng lá mà trang sức răng mình, "khi ăn thì lấy ra". Họ có nhiều giống, mà Tân đường thư 222 hạ tờ 15b-16a liệt ra như giống Tú cước, giống Tú diện, giống Điêu đề, giống Xuyên tỷ. An nam chí lược 1 tờ 19 nói: "Đà Giang Lộ tiếp giáp với Kim xỉ". Kim xỉ đây đương nhiên là Kim xỉ man. Và nếu như vậy, thì Đạo Hạnh vừa mới vượt khỏi biên giới nước ta thôi.
4 Tức Tứ Thiên Vương, đấy là Trì Quốc ở phía đông, Tăng Trưởng ở phía nam, Quảng mục ở phía tây, và Tỳ Sa Môn ở phía bắc của tầng thứ tư núi Tu di, quản thủ bọn Dạ xoa và La sát. Chúng có nhiệm vụ bảo vệ thế giới, theo vũ trụ quan thần thoại của một số trường phái Phật giáo. Xem chú thích (7) truyện Khuông Việt, và Khỉ thế nhân bản kinh 6 tờ 394c.
5 Chú thích (10) trên cứ vào đường hành quân của Vương Thông do Toàn thư ghi lại, đã đồng nhất cầu Tây dương với cầu Giấy. Mà cầu Giấy theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, mục Tân lương là tên nôm của cầu Thượng yên quyết. Làng Yên quyết thực ra có hai, đấy là làng Thượng yên quyết và Hạ yên quyết. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ hai làng đó như Đặng Công Toản khoa 1520, Nguyễn Sằn khoa 1554, Nguyễn Dụng Ngãi khoa 1574, của làng Thượng yên quyết, Hoàng Quản Chí khoa 1393, Nguyễn Như Uyên khoa 1409, Nguyễn Khiêm Quang khoa 1523, Nguyễn Nhật Tráng khoa 1595, Nguyễn Dụng Triêm khoa 1602 v.v... của làng Hạ yên quyết. Vậy thì, cầu Quyết hay cầu Yên quyết của truyện đây là cầu Hạ yên quyết, còn cầu Tây dương hay cầu Giấy là cầu Thượng yên quyết. Bến Quyết cũng ở làng Hạ yên quyết. Xác định như thế, bây giờ nó trở
"Ngươi không nhớ việc ngày trước sao?".
Sư ngửa mặt lên nhìn trời, lặng lẽ không thấy gì, nhân đó đánh mạnh, Đại Điên phát bệnh chết. Từ đấy oán xưa rửa sạch, niệm tục tiêu tan. Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều
Trí Huyền hóa đạo ở Thái bình1, Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ: "Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng
Chẳng hay đâu chốn, ấy lòng chân Nguyện xin chỉ rõ bày phương tiện Thấy trọn như như khỏi nhọc tìm".
Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ:
"Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu
Ở trong tỏ rõ ý thiền nao Bồ-đề đạo đó hà sa cõi
Muốn tới còn xa mấy vạn sào".
Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp vân hỏi: "Thế nào là chân tâm?".
Phạm hỏi lại: "Cái gì chẳng phải là chân tâm?". Sư tỉnh ngộ, nói: "Làm thế nào bảo đảm?".
Phạm đáp: "Đói ăn, khát uống".2
Sư lễ tạ, từ giã ra đi. Từ đấy (55a1) pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể sai rắn núi, thú rừng, họp nhau đến chịu thần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa, đọc chú dùng nước chữa bệnh, không gì là không tức khắc ứng nghiệm3.
Có vị Tăng hỏi: "Đi, đứng, nằm, ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm Phật?".
Sư dạy bài kệ:
"Tạo có, mảy may có thành rõ ràng là Đại Điên trụ trì chùa Thánh chúa làng Dịch vọng ở sát làng Thượng yên quyết, thì khi đánh chết Từ Vinh, xác Vinh tất ném xuống sông Tô lịch từ khoảng cầu Tây dương, trôi xuôi cho đến cống Cót, nơi có nhà Diên Thành Hầu rồi dừng lại. Tới khi Đạo Hạnh ném gậy mình từ bến Cót, nếu trôi ngược nó tất nhiên phải lên đến cầu tây dương hay cầu Thượng yên quyết, chứ không thể cầu nào khác.
Cầu Tây dương gọi là cầu Giấy tối thiểu bắt đầu từ thời Lý, bởi vì gần cầu đó có xóm chuyên chế tạo giấy, tên là xóm Chỉ tác hay xóm làm Giấy. Xem Đại Việt sử lược 3 tờ 29a11.
1 Thái bình đây chắc là phủ Thái bình, nơi có chùa Khai thiên do Nguyễn Quang Lỵ dựng, và Ma Ha trụ trì. Xem chú thích (10)  truyện Ma Ha. Tuy nhiên, trong vùng Hưng yên, đất của phủ Thái Bình cũ, không thấy có làng nào thờ Đạo Hạnh cả. Trái lại, theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định mới có một số làng thờ Đạo Hạnh thuộc huyện Nam chân như làng Chân nguyên, làng Vân chàng, làng Kinh lủng... rồi nó viết tiếp: "Hạnh thuở nhỏ ưa đi chơi đến xã Chân nguyên, dựng chùa Đại bi, ở đấy trú trì, sau dân làng tôn làm Tổ sư. Thế thì, vùng Thái bình do Kiều Trí Huyền giáo hóa phải chăng nằm tại đất tỉnh Nam định? Đây là một có thể. Về Kiều Trí Huyền, nay ta không biết gì hết về tông tích tôn phái của ông.
2 Cơ xan khát ẩm, cách ngữ của Thiền gia chỉ đạo lý thiền không ở đâu xa, mà ở ngay trong chính những công tác thường nhật nhất. Sư Nguyên Tân đến hỏi Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: "Hòa thượng tu đạo có dụng công không?". Hải đáp: "Dụng công". Hỏi "Dụng công ra sao?". Đáp: "đói đến thì ăn cơm mệt lại thì đi ngủ". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c 1-3.
3 An nam chí nguyên tờ 209 dẫn ý chính của đoạn này về Đạo Hạnh: "Thiền sư Đạo Hạnh là vị sư huyện Thạch thất, thường đi khắp tòng lâm tìm tòi bậc trí thức, khi duyên đạo đã chín, pháp lực có thêm, Sư có thể sai sử chim rừng thú nội họp nhau đến chịu phục. Sư cầu mưa trị bệnh, không gì là không ứng nghiệm, nay xác thịt đang còn".
Việc sử dụng những ngữ cú và văn ý đồng nhất với Thiền uyển tập anh như đây chứng tỏ tác giả An nam chí nguyên hay tác giả một cuốn sách khác mà ông vẫn phải sử dụng Thiền uyển tập anh. Do vậy, trước bản in năm 1715, Thiền uyển tập anh phải có in một lần nào đó. Chính qua bản in hay tối thiểu bản chép trước năm 1715 mà An nam chí nguyên hay một cuốn sách trước nó đã rút những dẫn trên về Đạo Hạnh.
Lại bảo:
Làm không, tất cả không , Có không như trăng nước, Chớ vướng có không không".
"Trời trăng đỉnh núi cao Người người mất hết châu Kẻ giàu cóngựa tốt
Đi bộ chẳng cỡi câu".
Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng. Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112), người phủ Thanh hóa dâng sớ tâu rằng: "Trên bãi cát biển, có đứa bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết nói, tự xưng con đích của bệ hạ tên là Giác Hoàng. Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không biết".
Vua sai trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa Báo thiên. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập làm hoàng thái tử. Quần thần hết sức can gián, cho là không được (55b1), và nói: "Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung cấm, sau mới có thể lập". Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác thai.
Sư nghe chuyện, riêng nói rằng: "Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm. Ta há nhẫn tâm, ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối chánh pháp sao!".
Nhân thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết ấn, treo trên mái diềm. Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh, nói với mọi người: "Đầy khắp cả nước đều có lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh, mà sợ không có đường vào".
Vua nghi Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng thánh, hợp quần thần nghị tội. Khi Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Sư kêu van: "Xin hết sức cứu bần tăng một phen, may thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để đền ơn".
Hầu nhận lời. Đến lúc hội nghị, quần thần đều nói: "Bệ hạ vì không có con, nên mới cho Giác Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liều lĩnh dám làm chú giải, kết án tử hình, để tạ lòng thiên hạ".
(56a1) Hầu chậm rãi thưa: "Nếu Giác Hoàng có thần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải cũng không làm hại được. Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy. Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục Lộ, thì đừng cho y thác sinh".
Vua xá tội1.
1 Đại Việt sử lược 2 tờ 21 a4-b5: "Hội Tường Đại Khánh năm thứ 3 tháng 2 người Thanh hóa nói rằng: "ở Hải tân có một đứa bé lạ lùng, tuổi mới lên ba, mà hiểu được tiếng nói, tự xưng là đích tử của Hoàng đế, gọi mình là Giác Hoàng, hễ vua cử động thì không gì là nó không biết trước. Vua sai Trung sứ đến hỏi xem thì những gì người ta nói đều đúng cả, bèn rước về ở tại chùa Báo thiên. Vì sự linh dị của nó, vua thương yêu nó càng nhiều. Bấy giờ, vua không có người nối dõi, muốn lập nó làm Thái tử, quần thần không chịu, mới thôi. Bèn liền lập trai hội ở trong cung cấm, muốn khiến Giác Hoàng đầu thai vào làm con mình.
Có nhà sư núi Phật tích là Từ Lộ Đạo Hạnh nghe việc ấy mà không vui bèn sai người chị mình là Từ Thị đến phó hội, lén lấy vài hạt châu có kết ấn rồi trao cho, bảo: "Đến chỗ hội thì hãy nhét vào đầu mái diềm, đừng để cho ai thấy biết". Từ Thị làm theo lời dặn của sư. Giác Hoàng bỗng chốc mắc bệnh sốt trẻ con, bèn nói với người ta rằng: "Tôi thấy khắp cả nước đều có lưới sắt bao phủ, không có ngõ nào mà thác sinh vào cung được". Vua ra lệnh mở một cuộc lùng soát lớn thì bắt được những hạt châu do Từ Thị giấu, bèn bắt Lộ trói ở làng Hưng thánh, muốn đặt vào tội xử tử. Gặp khi Sùng Hiền Hầu vào chầu, Lộ gào khóc thảm thiết nói rằng: "Xin Hầu ra tay cứu vớt bần tăng nếu may mà được thoát chết thì sẽ vào làm con của Hầu để đáp lại ân đức". Hầu bằng lòng, nên khi vào gặp vua, Hầu mưu cứu bằng trăm lối, nói rằng: "Giác Hoàng nếu thật có thần lực mà lại bị Lộ thư giải thì  rõ ràng Lộ hơn Giác Hoàng vậy. Thần nghĩ không gì hơn là cho Lộ thác sanh vậy". Vua bèn xá tội Lộ Toàn thư không ghi chuyện này.

Sư đến Nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư ép nhìn phu nhân. Phu nhân nổi giận, đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu. Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt cuộc không hỏi han gì. Phu nhân từ đó biết mình có thai. Sư dặn Hầu rằng: "khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết".1
Đến ngày đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay quần, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: Túc nhân ta chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm quốc vương2. Đến khi thọ chung, lại làm thiên tử trên cõi trời Tam thập tam3. Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy ta mới vào Niết bàn, không ở cõi sinh diệt nữa".
Đồ chúng nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ. Sư nói bài kệ rằng: "Thu sang không báo nhạn về đây
Cười nhạt người đời thương xót thay Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái
Thầy xưa(56b1) bao thuở vẫn thầy nay".
Nói xong kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn.4 5 6
1 Toàn thư B3 tờ 16a2-6: "(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ ba, bây giờ tuổi vua đã cao, mà không có con nối dõi, xuống chiếu chọn con tôn thất vào làm nối dõi. Em vua là Sùng Hiền Hầu cũng chưa có con nối dõi. Gặp lúc nhà sư núi Thạch thất là Từ Đạo Hạnh đến nhà Hầu để cùng nói chuyện cầu tự, Đạo Hạnh nói: "Ngày kia khi phu nhân lâm bồn thì nên trước báo cho biết, bởi vì tôi đã vì Ngài đến cầu xin ở thần núi rồi". Ba năm sau, phu nhân nhân thế mà có thai, sinh ra con trai Dương Hoán".
2 Toàn thư B3 tờ16b6-17a4: "(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ bảy, mùa hạ tháng sáu, thầy Từ Đạo Hạnh thi giải ở chùa núi Thạch thất... Trước đó, phu nhân của Sùng Hiền Hầu là Đỗ thị có thai. Đến lúc đó, khó sanh, Hầu nhớ lại lời nói ngày trứơc của Đạo Hạnh, sai người chạy đến báo. Đạo Hạnh tức khắc tắm rửa thay áo, vào trong hang thi giải mà mất. Phu nhân liền sanh được người con trai, tức là Dương Hoán vậy. Người làng cho là truyện lạ, đem thi bỏ vào trong khám mà thờ. Núi Phật tích ngày nay tức là chỗ của nó vậy. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 mùa xuân, sĩ nữ tụ hội lại ở chùa, làm nó trở nên một nơi du ngoạn nổi tiếng. Người sau ngoa truyền đó là ngày kỵ của Thầy". Đại Việt sử lược 2 tờ 22a5: ("Hội Tường Đại Khánh thứ 7) mùa hạ tháng 6 thầy Đạo Hạnh hóa thân - Thần Tôn sinh ra".
3 Tam thập tam thiên (Phạn: Trayastrimsà), một tên gọi khác của cõi trời Đao lợi hay Đâu suất đà (Phạn: Tusita), nơi ngự trị của Đế
Thích theo huyền thoại Phật giáo. Xem Trường a hàm 20 và Câu xá luận 11 .
4 Toàn thư B3 tờ 17a4-5: "Xác của Sư đến khoảng năm Vĩnh Lạc đời Minh mới bị người Minh đốt. Người làng đúc lại tượng của Sư mà thờ như xưa, nay còn". Thì rõ ràng, xác của Đạo Hạnh đang còn vào thời Trần, khi tác giả Thiền uyển tập anh viết tác phẩm của mình. An nam chí lược 15 tờ 147-148 cũng nói: "Sư nhục thân kim thượng tồn". An nam chí nguyên 3 tờ 209 viết: "Kim chân hình thượng tồn".
5 Nguyên văn: "Án Quốc sử, Hội Tường Đại Khánh bát niên, (nhân) Sùng hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Kỳ, Hầu tử, nghênh nhập trung cung giáo dưỡng. Sùng Hiền (Khánh thọ bát niên đông thập nhị nguyệt đế băng) Hầu tử, niên phương nhị tuế, đế thâm ái chi, toại lập vi Hoàng thái tử, chi Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên đông thập nhị nguyệt đế băng, Thái tử tức vị, xuân thu nhị thập nhất niên, tại vị phàn thập nhất niên, thuỵ viết Thần tôn, tức Sư thị giả, Giác Hoàng hoặc Đại Điên thị giả".
Những chữ để trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi coi như diễn tự và loại bỏ không dịch, cứ vào lời chiếu tìm con tôn thất tìm con vào nuôi dưỡng trong cung của Lý Nhân Tôn trong Toàn thư B3 tờ 18a8-b3: "Hội Tường Đại Khánh thứ 8 mùa đông tháng 10... xuống chiếu nói rằng: "Trẫm trị muôn dân, đã lâu không có con nối dõi, ngôi thứ của thiên hạ, thì có thể truyền lại cho ai. Vậy phải nên nuôi dưỡng con của Sùng Hiền, Khánh Thành, Thành Quảng, Thành Chiêu và Thành Hưng Hầu, rồi chọn đứa tốt nhất trong chúng mà lập lên". Bấy giờ con của Sùng Hiền Hầu là Dương Hoán, tuổi mới lên hai mà đã thông minh lanh lợi, vua rất thương yêu, bèn lập làm hoàng thái tử".
6 Lĩnh nam trích quái tờ 28-31 chép truyện của Từ Đạo Hạnh hoàn toàn đồng nhất với truyện đây, trừ một sai khác đáng chú ý là việc Đạo Hạnh thi trúng khoa Bạch liên, mà Thiền uyển tập anh không nói rõ. Còn Từ Đạo Hạnh đại thành sự tích thật lục do "Đạo nhân tam quán Tam Thanh" chép phụ vào Việt điện u linh tập tờ 221-225, tuy cốt truyện vẫn giống, nhưng có một số chi tiết khá lôi cuốn đáng ghi, nên đề nghị dịch lại sau:
"Xưa Từ Đạo Hạnh, họ Từ tên Lộ cha là Vinh, dùng đạo Thích làm giáo tôn, làm quan triều Lý đến chức Tăng quan đô sát, trước thường (qua chơi) làng An lăng, cưới con gái họ Tăng tên Loan, làm nhà ở xóm Láng nam, làng An lãng, gặp được chốn đất làm nhà là quí địa, nên bẩm sinh Đạo Hạnh có tiên phong đạo cốt.
Hạnh lúc nhỏ ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, hành động cử chỉ, người ta không thể lường. Thường cùng nhà nho Phí Sinh, Đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người hề Phan Ất cùng nhau làm bạn. Ban đêm, Hạnh siêng năng chịu khó đọc sách, nhưng  ban ngày thì đánh cầu, thổi sáo, đánh bạc làm vui. Cha Hạnh thường quở trách Hạnh hoang chơi biếng nhác. Một hôm, ông lén nhìn vào phòng Hạnh, thấy ngọn đèn leo lét như hạt đậu, sách vở chất đống, Đạo Hạnh tựa vào bàn ngủ, mà tay vẫn chưa buông sách. Ông do thế không còn lo lắng nữa. Sau Hạnh ứng thí khoa Bạch liên, đỗ đầu, nhưng không thích ra làm quan, ngày đêm chỉ nghĩ tới việc báo thù cho cha.
Cha Hạnh nguyên ngày trước dùng diệu thuật xúc phạm đến Diên Thành Hầu. Nhà Hầu có Pháp sư Đại Điên dùng phù yếm giết chết, quăng thây xuống sông Tô lịch. Trôi đến cầu Tây dương, chỗ nhà Diên Thành Hầu, cái thây dừng lại đó, suốt ngày không chịu trôi đi. Hầu sợ, chạy báo cho Điên. Điên đến nói kệ rằng: "Tăng giận không đầy đêm sao? Vả sống là trường du hý, chết mới thành đạo Bồ đề". Thây đáp lại lời nói mà trôi đi, đến chỗ Hàm rồng làng Nhân mục cựu thì dừng lại. Người ta thấy nó có linh dị, xã đó xây lăng miếu, đúc tượng phụng thờ, mỗi năm kỵ vào ngày 10 tháng giêng. Bấy giờ mẹ Hạnh táng tại chùa Ba lăng, xã Thượng an. Nay chùa Hoa lăng phụng thờ cả hai vị Thánh cha và Thánh mẹ.
Đạo Hạnh chỉ nhằm phục thù, mà không tìm ra kế. Một hôm rình lúc Đại Điên đi ra sắp làm pháp thuật, bèn lấy gậy sắp đánh Đại Điên, bỗng nghe trên không có tiếng mắng bảo thôi. Đạo Hạnh bèn quăng gậy, trở về nhà, buồn rầu tức giận, muốn đi Tây thiên Ấn độ, tìm học phép lạ, để chống Đại Điên. Bèn liền cùng Minh Không, Giác Hải ra đi, đến nước Răng vàng đường đi hiểm trở, muốn trở về thì thấy một ông già cỡi một thuyền con, thảnh thơi đi trên sông. Họ cùng đến hỏi: "Tới Tây thiên còn bao xa". Ông già trả lời: "Đường núi hiểm cao, đi bộ không được. Lão có chiếc thuyền nhỏ, xin giúp chở đi, lại có cây gậy nhỏ đây, nhắm thẳng Tây quốc mà tới thì chẳng xa, lão xin bằng lòng ngay". Lại nói bài kệ:
Cùng đi đường đạo lẽ đương nhiên Nhiều ông xa học quyết nên danh Mênh mông muốn ngả sao nhọc trải
Chỉ nhắm Hoàng giang thấy thánh sanh.
Nói kệ xong, trong khoảng nháy mắt, bỗng chốc đã đến bờ sông Tây thiên có nhiều thần thông phép thiêng. Đạo Hạnh giữ thuyền. Giác Hải và Minh Không lên bờ, học được phép thiêng, liền tự trở về trước. Đạo Hạnh giữ thuyền ba ngày, không thấy tin tức hai người bạn , tự nhiên gặp một bà lão đến bên bờ sông, bèn chèo đến hỏi: "Lão bà có từng thấy hai người đến cầu đạo không?" bà lão trả lời: "Hai đứa đó đã nhận phép thiêng do ta dạy, đắc đạo trở về rồi". Đạo Hạnh liền vái, vừa kể lại chuyện ba người cùng đi, bây giờ bỏ nhau, rất lấy làm buồn. Bà lão nghe nói, tức sai Đạo Hạnh gánh hai thùng nước về nhà, ta sẽ dạy cho ngươi vài phép thiêng cùng phép cho rút đất chân truyền và đà la ni.
Đạo Hạnh tự hiềm hai người bạn đã thất ước, bèn tụng chú. Giác Hải và Minh Không đi đến nửa đường thì bị chú làm đau tim, khó di động được. Hai người bạn nhìn nhau kinh hãi. Bên ngoài tuy họ bị quấy rầy, nhưng bên trong nhờ đã học được linh thuật, nên đang hoàn toàn tỉnh táo, biện biệt được hư thật, biết rằng nó quả do Đạo Hạnh tạo ra. Họ nhìn nhau nói: "Ngươi muốn biết hậu thân của thân này, thì hãy nhắm ta mà nói". Đạo Hạnh nhân thế đáp: "Chúng ta cùng học đạo Thế Tôn, đạo quả đã thành hậu thân sẽ sinh lại thế gian làm bậc nhân chủ, lại sinh mắc bệnh, quyết không thể tránh, các ngươi có duyên với ta, xin đến cứu nhau".
Từ đó, hận xưa hết sạch, cùng nhau truyền bá Phật pháp. Đi mặt nước, bay trên không, hàng rồng phục cọp, lên trời rút đất, muôn quái nghìn kỳ, xuất quỷ nhập thần, chẳng lường được mầu nhiệm. Họ bèn nhượng Đạo Hạnh làm anh cả, Minh Không làm anh thứ và Giác Hải làm em. Chỗ đó nay gọi là cầu Beo ấy vậy. Minh Không và Giác Hải giã từ trở về chùa Giao thủy. Đạo Hạnh ở lại tu luyện tại chùa Thiên phúc núi Thạch thất. Trước chùa có đôi cây tùng già, người ta gọi là long thụ. Đạo Hạnh thường ngày chuyên trì chú Đại bi tâm đà la ni đủ ức vạn ngàn biến thì một nhánh cây rơi xuống. Khi đọc chú xong thì cả đôi cây đều trụi. Hạnh tưởng được đức Quan Thế Aâm đã đến ứng giúp, sức chú gia trì đã thấu tới thiên đường. Một hôm, thấy thần nhân hiện đến trước mặt, chân không đạp đất, Hạnh hỏi: "Thần nào đó?" Vị thần trả lời: "Đệ tử là Tứ trấn thiên vương, cảm động đức trì kinh của Sư, nên đến hầu hạ, để tiện việc sai sử". Đạo Hạnh biết lục trí của mình đã viên thành, thù cha có thể trả. Bèn trở về ở tại An lãng làng xưa, thân hành đến cầu An quyết sông Tô lịch, quăng một cây gậy xuống sông. Cây bỗng trên mặt nước, trôi ngược lên như bay, đến cầu Tây dương mới dừng lại. Đạo Hạnh vui mừng nói: "Phép ta thắng Đại Điên rồi vậy". Bèn đi thẳng đến chỗ Điên. Điên thấy, nói: "Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?". Đạo Hạnh ngửa mặt ngó lên trời, vắng vẻ không thấy gì cả, nhân thế đánh mạnh. Điên chết, lại quăng xác vào sông Tô lịch để trả thù xưa.
Thù xưa rửa sạch, niềm tục lắng trong, Hạnh lại đi khắp tòng lâm, cầu xin ấn quyết. Nghe Cao Trí Huyền hóa đạo ở Thái
bình, Hạnh lễ phép đến tham yết, tỏ hết chân tâm, có bài kệ rằng: Lâu mắc bụi đời chưa biết vàng Chẳng hay đâu chỗ, ấy lòng chân Nguyện xin chỉ dạy bày phương tiện Nương thấy Bồ đề khỏi nhọc tìm.
Trí Huyền đáp lại lời kệ:
Bí quyết chân truyền giả vạn kim Rõ ràng cái đó ấy thiền tâm
Hà sa thế giới nên thôi nói Chẳng phải Bồ đề cách vạn tầm.
Từ Đạo Hạnh mang nhiên không hiểu, bèn đến pháp hội của Sùng Phạm tại chùa Pháp vân, thong dong hỏi rằng: "Thế nào mới là chơn tâm?" Phạm đáp: "Chỗ nào lại không là chân tâm". Đạo Hạnh bỗng nhiên tự ngộ, bèn lại trở về chùa Thiên phúc núi Thạch thất tu đạo luyện pháp xưa. Từ đó, pháp lực càng thêm, lòng thiền càng thục, có thể sai sử chim rừng thú nội đều bay đến nép phục xung quanh. Hễ dân các phương có ai bị tật dịch , bùa bay giấy chạy, phép Hạnh lập tức có nghiệm. Đem cứu người, người đều thấm ơn.
Bấy giờ vua Lý Nhân Tôn không có con nối dõi, cầu đảo không nghiệm. Em vua là Sùng Hiền Hầu mời Đạo Hạnh về nhà cùng nói chuyện cầu tự. Từ Công nguyện thác thai để tạ ân đức của Hầu. Lúc đó, phu nhân đang tắm ở nhà sau bỗng thấy Đạo Hạnh hiện ở trong thau nước. Phu nhân sợ, đem nói với Hầụu. Hầu rõ biết ý Hạnh, lén gọi phu nhân nói: "Bóng hiện trong thau nước, ấy là chân nhân đã nhập vào trong tử cung rồi, cẩn thận chớ sợ hãi nghi ngờ. Phu nhân trong lòng cảm thấy mình có thai. Từ Công bèn từ tạ mà về, dặn rằng : "Lúc lâm bồn thì nên đi báo cho ta". Đến khi thai đủ tháng, phu nhân cảm thấy chuyển bụng muốn đẻ, nhưng rất khó. Hầu bảo: "Nên mau đi báo cao tăng". Từ Công thấy người đi báo đến, bèn gọi đồ đệ đến nói: "Nhân xưa chưa hết, ta tạm phải ra đời làm con cõi người để làm vua, thọ hết lại làm (chúa) cõi trời Tam thập tam. Nếu thấy chân thân ta hoại diệt thì ta mới vào Niết bàn, không còn ở trong sinh diệt nữa. Môn nhân nghe nói, không ai là không cảm động đến rơi nước mắt. Bèn lải rải nói kệ rằng:
Thu qua không báo nhạn về đây

52. THIỀN SƯ Trì Bát (1049-1117)
Chùa Tổ phong, núi Thạch thất, làng Đại cù, Tân trại1. Người Luy lâu1, họ Vạn. Nhỏ đã thiết tha với Phật giáo. Đến tuổi trưởng thành, tới xuống tóc và thọ Cụ túc giới với Sùng Phạm chùa Pháp vân.
Phạm thấy Sư tính hạnh siêng năng, gặp việc cẩn thận, bèn dốc lòng ấn khả và ban cho hiệu trên.
D khiến người đời thương xót thay Tỏ dấu người đời không ý tiếc Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay.
Nói xong, đi lên Động tiên, va đầu vào vách đá, dẫm chân lên bàn đá nghiễm nhiên thi giải mà mất. Ấy là năm Bính thân Hội Tường Đại Khánh thứ 3 mùa xuân tháng 3 ngày mồng 7. Đạo Hạnh Niết bàn, ra đời làm con của Sùng Hiền Hầu, không phiền nuôi nấng mà mau lớn, không nhọc dạy dỗ mà thông minh, nhan sắc đẹp đẽ, tài năng hết sánh. Vua xuống chiếu đem vào nuôi dưỡng ở trong cung, sau phong làm Hoàng thái tử. Nhân Tôn băng vua lên ngôi, ấy là Thần Tôn ...".
Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tục biên chép với một vài sai  khác không đáng kể cho lắm. Trừ việc nó thiếu bài thơ thị tịch của Hạnh và thêm bài thơ báo mộng cho Lý Nhân Tôn cùng chuyện nhờ Minh Không sau này chữa bệnh hộ mình.
An nam chí lược 15 tờ 147-148 viết: "Từ Đạo Hạnh là Nho sinh, ưa thồi sáo ngày cùng bạn leo núi du ngoạn, đêm đọc sách đến sáng. Một hôm, Hạnh vào núi Phật tích thấy trên đá có dấu bàn chân bên phải, bèn lấy bàn chân mình án lên trên thì giống như một. Bèn trở về nhà, giã từ mẹ mình, vào núi dựng am tu hành. Vua Lý vô tự, sai danh tăng cầu đảo. Có một vị tăng không dự, dùng thuật yểm đi. Vua nghe được sai bắt các vị tăng trong nước. Sư cũng bị hạ ngục. Vị Hoàng tử đem sức ra cứu, nên Sư khỏi được. Vị hoàng tử nói: "Tôi cũng không có con nối dòng, xin Sư cầu đảo dùm tôi". Sư bèn nói với vị Hoàng tử nên sai phu nhân vào trong nhà tắm. Sư đi qua ngoài nhà. Phu nhân cảm được mà có thai. Đến khi sinh, vị Hoàng tử cho mời Sư, nhưng Sư đã ngồi mà hóa. Phu nhân bèn sanh một người con trai kỳ vĩ. Vua Lý lấy làm người nối dõi. Nhục thân Sư nay vẫn còn".
Việt sử tiêu án 1 tờ 101a1-16 chép: "Xét phu nhân Sùng Hiền Hầu có thai gặp Sư núi Thạch thất là Từ Đạo Hạnh đến nhà cùng bàn việc cầu tự. Sư hẹn khi sắp đẻ, nên trước báo cho Sư biết. Đến lúc ấy phu nhân đẻ khó, Hầu nhớ lời Sư, sai người đi báo. Sư liền thay áo tắm rửa, vào trong hang thi giải mà chết. Phu nhân liền sanh một người con trai, tức Dương Hoán. Núi Thạch thất ở tại làng Lật Sài, huyện Yên sơn, cao vút xanh đẹp, mọc lên giữa một đám đất bằng. Động đá có in dấu đầu và dấu chân, hình như rồng lân, tục truyền là nơi thi giải. Người làng cho đó là điềm lạ, bỏ thây vào trong khám mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 là thắng hội của một địa phương. Sau trong khoảng Vĩnh lạc, người Minh đốt thây đó. Dân làng mới đắp tượng cùng thờ với Thần Tôn, Trong khoảng Lê Quang Thuận, sai Nguyễn Đức Trinh đến cầu tự ở trong động thì điềm lạ là có một mảnh đá bay tới. Bèn cung kính rước về dâng lên. Khi đã vậy, Thái hậu Trường Lạc mộng thấy rồng vàng vào hông bên phải mình, bèn sinh ra Hiến Tôn. Từ đó dấu thiêng càng hiện rõ".
Rồi nó nhận xét thế này: "Xét Dã sử thì Đạo Hạnh là con của Từ Vinh, dòng dõi nổi tiếng về pháp thuật, chẳng phải là một cao tăng. Việc thi giải đầu thai của ông quái đản không thường. Cao tăng minh tâm kiến tánh, tất không dùng pháp thuật mê hoặc mọi người. Sách sử nên bỏ chuyện lạ lùng, chỉ ghi lại việc thường, mà không nên đem chuyện thần quái mà mê hoặc đời". Dẫu vậy, với dẫn chứng vừa đọc, ta cũng thấy Việt sử tiêu án đã không quên bước chân theo Toàn thư và Đại Việt sử lược để ghi lại những việc làm có vẻ quái đản của Đạo Hạnh. Chỉ Cương mục chính biên là đã làm theo lời giáo huấn của Ngô Thời Sĩ, và từ  đó đã tự làm giảm giá trị của chính mình thôi.
1 Việt sử tiêu án 1 tờ 101b2 nói Từ Đạo Hạnh là "nhà Sư núi Thạch thất" nhưng cứ truyện Đạo Hạnh tờ 53b2 ở trên thì Hạnh sống ở Phật tích. Vậy Phật tích đời Lý phải chăng là núi Thạch thất thời Ngô Thời Sĩ, tác giả Việt sử tiêu án. Đây là một có thể vì dù Đại nam nhất thống chí, mục Sơn xuyên có ghi núi Phật tích ở huyện Yên sơn đi chăng nữa thì ở mục Kiến trí diên cách nó lại dẫn Đại thanh nhất thống chí nói rằng núi Câu lậu ở huyện Thạch thất, núi Phật tích cũng ở huyện Thạch thất". Rồi nó bình luận: "Nay núi Phật tích ở huyện Yên sơn là một huyện đời nào mới phân ra chưa rõ". Nhưthế ta có chứng cứ mà nghĩ rằng núi Phật tích và núi Thạch thất là một.
Tuy nhiên, theo Đại Việt sử lược 3 tờ 31 b4 thì núi Phật tích ở Ngoại trại, trong khi cứ truyện Trì Bát đây thì núi Thạch thất lại ở Tân trại. Tân trại đương nhiên không phải là Ngoại trại được. Từ đó núi Thạch thất không thể là núi Phật tích, vấn đề này Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, đã cung cấp sẵn một giải đáp. Nó dẫn Lê chí đời Minh nói rằng: "Núi Phật tích là một danh sơn trong 21 núi ở An nam, năm Hồng Vũ thứ 3 (1371) sai sứ sang tế, lại vẽ hình nó mang về. Phía đông bắc núi độ một dặm có sông Hát chạy vòng quanh. Phía tây nam độ hai dặm có một khe nước nhỏ chảy khuất khúc hơn 10 dặm đổ vào sông Tích. Núi chuyển hướng đông thuộc thôn Thiên phúc làm núi Long đẩu, thuộc xã Sài khê thì làm núi Hoa phát, làm núi Lộc, làm núi Long, đến xã Khánh tân thì làm núi Hương, núi Mộng, núi Phụng Hoàng và thôn Ô cách, xã Cù Sơn thì làm núi Lân, núi Tượng, lại chuyển hướng nam làm núi Ma yên, thuộc thôn Trung, xã Cù Sơn làm núi Dương. Xã Quảng động có núi Âm. Hai núi ấy đối ngọn nhau. Núi Dương không có cỏ cây. Núi ÂM có cây rất tốt, nên có tên đó".
Cứ vào những mẫu tin vừa dẫn của Lê chí thì núi Phật tích "chuyển hương đông đến thôn Ô cách, xã Cù sơn thì làm núi Lân, núi Tượng, lại chuyển nam thuộc thôn Trung, xã Cù Sơn là núi Dương". Xã Cù Sơn nói đây chúng tôi nghĩ nó là phần đất làng Đại cù, mà truyện Trì Bát nói tới. Từ đó, núi Thạch thất nơi có ngôi chùa Tổ phong của Trì Bát phải là núi Lân, núi Tượng ở thôn Ô cách, xã Cù sơn. Chúng tôi không kể đến ngọn Dương sơn của xã này, bởi vì nó là một ngọn núi: "không cây cỏ" thì khó lòng là nơi làm cảnh dựng chùa được. Về núi Lân và núi Tượng, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có nói về núi Phục tượng như sau: "Núi Phục tượng tại huyện Yên sơn, nó từ Sài sơn mà đến, một chi phía nách trái có núi Phụng hoàng và núi Qui tích". Nó không nói gì đến núi Lân hết, thế cũng có nghĩa núi Lân chắc không có gì đặc sắc cho lắm. Núi Tượng như vậy cũng là núi Phục tượng. Và giống Phục tượng là đến từ Sài sơn, thì núi Thạch thất, tức núi Phục tượng, cùng là núi Phật tích, hay đúng

Khi Phạm qui tịch, Sư tự mình đi khắp những chỗ giảng Thiền, trải hỏi các bậc Tôn túc, rồi trở về chùa đó giảng dạy nghiên cứu. Tướng quốc Thái úy Nguyễn Thường Kiệt2, lúc bấy giờ là vị đàn chủ.
Những gì Sư được dâng cúng, đều đem dùng vào việc Phật. Sư đồng thời dựng lại các chùa Pháp vân, Thiền cư, Thê tâm và Quảng an... để đáp lại ân pháp nhũ.
Ngày 18 tháng 2 (57a1), năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117), khi sắp thị tịch, Sư nói kệ
rằng:
Có chết tất có sống Có sống tất có chết Chết đời lấy làm buồn Sống đời lấy làm vui Buồn vui thật vô cùng
Bỗng nhiên thành đây đó Đối với việc sống chết Chẳng có gì bận lòng
Án tô rô tô rô tất rị"3
Nói kệ xong, Sư ngồi thẳng mà mất, thọ 69 tuổi. Môn đồ đệ tử là Thiền sư Tịnh Hạnh, Pháp
Nhãn và Thuần Chân thu di cốt hỏa táng.

53. THIỀN SƯ Thuần Chân (? - 1105)

Chùa Hoa quang, làng Tây kết, Thượng nghi4. Người Cửu ông, Tế giang1, họ Đào. Tuổi nhỏ đã lầu thông kinh sử, đến đâu cũng gặp bọn học trò tranh nhau theo học. Sau gặp Pháp Bảo chùa Quang hơn từ Phật tích "mà tới".
Đất Tân trại do đó phần lớn gồm trong huyện Quốc oai, tỉnh Sơn tây ngày nay.
1 Tức phần đất làng Khương Tự và Đại Tự huyện Thuận thành, tỉnh Hà bắc ngày nay. Toàn thư B4 tờ 19b1-20a1 viết: "Năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 3 (1188) mùa hạ tháng 5 hạn. Vua thân hành đến chùa Pháp vân của Luy lâu (Nguyên văn có Luy bà, Nhưng bà chắc chắn là một viết sai của lâu, Lê Mạnh Thát chú) cầu mưa, nhân đó rước tượng Phật Pháp vân về chùa Báo thiên". Cương mục chính biên 5 tờ 23b3 cũng chép việc đấy, Nhưng không ghi tên đất nơi có chùa Pháp vân. Mà chùa Pháp vân, ta đã biết là ở hai xã Khương tự và Đại tự ngày nay. Thì Luy lâu tất cũng phải vậy.
2 Tức Lý Thường Kiệt (1019-1105). Kiệt được phong chức Thái úy năm 1075.
3 Thiền sư Viên Quang, có người hỏi: "Nếu không dính dáng đến chuyện đàn tràng nữa thì Sư có tiếp chăng?" Sư trả lời: "Tô rô tô rô". Tô rô tô rô hay nói cho đủ, tô rô tô rô tất rị là một phiên câu chú chữ Phạn: surà-suràsrì nghĩa là: Sự vinh quang của người anh hùng và không anh hùng.
4 Tây kết là một địa danh lịch sử nổi tiếng. Bọn xâm lược đời Tống thời Lê Hoàn đã đến đóng quân ở đó. Bọn xâm lược Nguyên Mông dưới quyền chỉ huy của tên tướng khét tiếng tàn ác Ô Mã Nhi cũng đến đóng quân ở đó. Tuy thế, Cương mục chính biên 1 tờ 18a1 đã phải chú là "Tây kết thất tường". Dẫu vậy, bây giờ cứ vào mô tả của Toàn thư 5 tờ 48a2-49b8 về những chiến thắng Hàm tử, Chương dương và Tây kết, ta thấy đầu tháng 3 năm 1285 Toa Đô đem 50 vạn quân đến đóng ở Tây kết. Tháng 4 "vua sai Chiêu Thành Vương, Hoài văn hầu Quốc Toản và tướng quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh giặc ở đầu bến Tây kết. Quan quân cùng với người Nguyên đánh nhau ở cửa Hàm tử, các quân đều ở đó. Chỉ quân của Chiêu Văn Vương Nhật Duật là có người Tống mặc áo người Tống cầm cung nỏ chiến đấu... Người Nguyên thấy vậy, đều thất kinh nói: "Có người Tống đến giúp", nhân đó thua chạy về Bắc. Ngày 10 có tiệp báo "Thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn Hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp cùng em Nguyễn Phó đem dân binh các lộ đánh bại giặc ở các nơi Kinh thành và Chương dương". Ngày 17 Toa Đô cùng với Ô Mã Nhi từ biển mới vào đến đánh sông Thiên mạc. Ngày 22 vua tiến lên đóng ở bến Đại mang, Tổng quản Trương Hiển của quân Nguyên đến hàng. Ngày đó, đánh bại giặc ở Tây kết, giết chết và làm bị thương rất nhiều, chém đầu tên Nguyên soái Toa Đô. Nửa đêm Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh hóa. Hai vua đuổi theo không kịp, bắt dư đảng của y hơn 5 vạn mà trở về".
Cứ vào những diễn tiến của chiến dịch Tây kết đây và cứ vào những chú thích của Cương mục chính biên 7 tờ 39b6 và
41b4 và vị trí của cửa Hàm tử và bến Chương dương cùng việc thoát thân của Ô Mã Nhi, thì Tây kết phải là một tên làng nằm trên bờ sông Hồng tại huyện Đông anh, tỉnh Hưng yên, tức huyện Khoái châu, tỉnh Hải hưng ngày nay. Bắc thành địa dư chí lục 3 có Tịnh2 nói một lời mà Sư hiểu được Thiền chỉ, bèn bỏ chỗ học của mình để theo học với Bảo. Chẳng được bao năm, cửa tù đập vỡ, ánh điện lửa đá theo gõ phát ra, dẫn trẻ dắt mù, hầu không còn sức.
Vào ngày 7 tháng 2 năm Ất dậu Long Phù thứ 53 (1105) khi sắp tịch, đệ tử nhập thất là Bổn Tịch vào thỉnh ích. Sư thuyết (57b1) bài kệ:
"Chân tánh thường không tánh Sao từng có diệt sinh
Thân là pháp sinh diệt Pháp tánh diệt chửa từng".
Rồi thì mất. Phụ quốc thái bảo Cao Tối lo việc hỏa táng và dựng tháp.
ghi một tổng và xã tên Đông kết thuộc huyện Đông yên của trấn Sơn nam hạ. Tây kết chắc nằm phía tây của tổng xã đó, nhưng nó không ghi một tổng xã nào tên Tây kết hết.
Chúng tôi nghi Tây kết có thể nằm về hữu ngạn sông Hồng trên địa phận của huyện Thượng phúc, tỉnh Hà đông trước đây, bởi vì cứ truyện Thuần Chân ở đây thì làng Tây kết thuộc về Thượng nghi. Thượng nghi này, chúng tôi nghi là tên thời Lý của châu Thượng phúc thời Trần, tức huyện Thượng phúc đời Lê cho tới ngày nay. Huyện này ở đúng về tây huyện Đông yên. Mà huyện Đông yên, theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hưng yên, mục Kiến trí diên cách, là huyện Đông kết đời Trần và thuộc Minh. Đến đời Lê Quang Thuận mới đổi ra Đông yên. Khảo những tên tổng xã của huyện Thượng phúc trong Bắc thành địa dư chí lục 3 không thấy có một tên nào có thể điểm chỉ cho biết có một làng tên Tây kết ở huyện đó. Vấn đề này cần được nghiên cứu thêm, đặc biệt bằng nghiên cứu hiện địa.
1 Tức huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên ngày nay. Huyện Văn giang thời Nguyễn là thuộc tỉnh Bắc ninh. Viết về lai lịch nó, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Kiến trí diên cách nói: "Huyện Văn giang đời Trần về trước gọi là Tế giang. Sử kyù chép Lữ Đường chiếm cứ Tế giang, tức huyện đây đời thuộc Minh do châu Gia lâm thống lĩnh thuộc phủ Bắc giang. Đời Lê Quang Thuận đổi thuộc phủ Thuận an. Sau đổi tên Văn Giang. Năm Minh Mạng 13 (1832) triều ta đặt riêng phân phủ kiêm lý huyện".
Đại Việt sử lược 3 tờ 29a1 nói: "Tự Khánh dẫn quân đồn Cứu liên, chia tướng sĩ đồn Cửu cao và Cửu ông để ngăn Nộn".
Cửu ông ở đây tức Cửu ông, quê của Thuần Chân.
2 Pháp Bảo chùa Tịnh quang này có thể là Pháp Bảo chùa Phúc diên tư thánh có hiệu là Hải Chiếu đại sư, tác giả bài bia chùa Linh xứng viết năm 1126 nổi tiếng hiện đã phát hiện được, và cũng là tác giả một bài bia khác cho chùa Sùng nghiêm diên thánh viết năm 1118, mà Lê Quí Đôn đã phát hiện và ghi lại trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 2a8, nhưng đã không chép lại toàn văn bản bia.
3 Nguyên văn: Long Phù nguyên niên Ất dậu. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 19b1 và 20a5 và Toàn thư B3 tờ 13b6-14b5 thì không có năm nào Long Phù nguyên niên mà lại Ất dậu hết. Long Phù ngũ niên thì phải là Tân tỵ, còn Ất dậu thì phải là Long Phù  nguyên niên. Chúng tôi nghĩ, chữ nguyên trong Long Phù nguyên niên ở đây là một chép sai của chữ ngũ, bởi chữ ngũ và chữ nguyên dễ viết lộn nhau lắm, và bởi Long Phù ngũ niên thì quả đúng năm Ất dậu. Như vậy, nămmất của Thuần Chân chính là năm Long Phù thứ năm Ất dậu

Thế Hệ Thứ Mười Ba (6 người, 2 người khuyết lục)

54. TĂNG THỐNG Huệ Sinh (? - 1064)
Chùa Vạn tuế, kinh đô Thăng long, nguời Đông phù liệt1, họ Lâm, tên Khu, hậu duệ của Lâm phú ở Trà sơn, Vũ an2. Khoáng lấy con gái của Quách tăng lục, nhân dời nhà đến Phù liệt, sinh được 2 con, người lớn tên Trụ, làm quan đến chức Thượng thư binh bộ viên ngoại lang. Sư là người con thứ vậy.
Tướng mạo Sư kỳ vĩ, ăn nói lưu loát, rất giỏi văn chương, có tài viết, vẽ. Học Nho rảnh rỗi, Sư nghiên cứu thêm sách Phật, học bách luận và các kinh, không gì là không xem hết. Mỗi khi nói đến chỗ trọng yếu của Phật pháp, Sư thường than thở rơi lệ.
Năm 19 tuổi, Sư bỏ đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc lâm3 thờ (58a1) Định Huệ chùa Quang hưng làm thầy. Học thiền mỗi ngày một tiến. Định Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, hỏi hết thiền chỉ rồi đến đỉnh Bồ đề núi Trà4 trác tích. Mỗi lần vào định, trải qua năm ngày mới dậy. Người bấy giờ gọi Sư là Đại sĩ nhục thân5.
Lý Thái Tôn nghe tiếng, sai sứ đến mời, Sư gọi sứ bảo: "Ông không thấy con vật cúng sinh sao? Người ta đem lụa là cho nó mặc, cỏ tươi cho nó ăn, đến khi bị dắt vào Thái miếu, dù muốn xin làm con vật hèn mọn, vĩnh viễn còn không thể được huống gì khác nữa ư?"6. Sư cố từ không được, nên đến lần thứ hai, Sư mới về kinh. Gặp mặt, vua rất mừng, phong làm Nội cung phụng tăng7 sắc trụ trì chùa Vạn
1 Bắc thành địa dư chí lục 3 có ghi một xã của tổng Nam phù liệt, huyện Thanh trì, trấn Sơn nam thượng tên Đông phù liệt. Làng
Đông phù liệt như vậy ở vào huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông ngày nay.
2 Vũ an là tên một châu huyện thời Đường. Tân đường thư 43 thượng tờ 11a11 nói châu Vũ an có hai huyện là Vũ an và Lâm giang. Đến thời Ngô Quyền, tên ấy vẫn dùng, bởi vì truyện của Phạm Cự Lượng trong Việt điện u linh tập tờ 20 nói ông nội của Lượng là Phạm Chiêm từng giữ chức Châu mục châu Vũ an. Đến thời Lý, tên Vũ an đang lưu hành. Nhưng Vũ an nằm ở địa phận nào thì đấy là cả một vấn đề. Cứ truyện Huệ Sinh đây thì tại Vũ an có Trà sơn. Trà sơn nay chắc chắn là tên làng, chứ không phải là tên ngọn núi, như sẽ nhìn thấy dưới chú thích (4) sau đây. Khảo Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi một xã thuộc tổng Dưỡng Chân, huyện Thủy đường, trấn Hải Dương tên Trà sơn. Chúng tôi nghi Trà sơn quê của Huệ sinh tức làng Trà sơn này. Nếu vậy, đất châu Vũ an đời Lý tất phải bao gồm đất huyện Thủy đường đời Nguyễn, tức huyện Thủy nguyên, tỉnh Kiến An ngày nay.
3 Chùa Hạc lâm này nghi là đền Hạc lâm truyện Vạn Hạnh tờ 53a7 nói tới trong bài thơ ghi giới hạn ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương:
Đông hữu Vũ long hạng Nam hữu Vũ long pha Tây hữu Hạc lân quán Bắc hữu Trấn hải trì.
Nếu vậy chùa này ở phía tây ngôi mộ tại làng Đình bảng?.
4 Tức núi Nguyệt thường hay núi Bạch sắc ở huyện Tiên du tỉnh Bắc ninh. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Nguyệt thường, tại phía tây nam huyện Tiên du ba dặm, một tên là núi Bạch sắc, cũng gọi là núi Trà. Tương truyền Lý Thánh Tôn đến chơi núi đó và cho tên Nguyệt thường. Núi hơi cao, đá đất lẫn lộn. Trên núi có liu, dưới núi có đền Cao sơn. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) triều ta liệt vào hạng danh sơn, chép vào sách cúng".
Núi này hiện có đỉnh Bồ Đề không, chưa thể biết được.
5 Đại sĩ là một tên gọi khác các vị Bồ tát. Xem Đại trí độ luận. Nó đôi khi cũng để gọi Phật, như trong Kim quang minh kinh Tứ nghi tập giải quyển thượng nói: "Đại sĩ, đại là không phải nhỏ, sĩ là việc, vì vận dụng được lòng rộng lớn làm nên việc Phật nên gọi Đạisĩ, cũng gọi Thượng sĩ". Du già sư địa luận xác định rõ hơn nội dung của từ Thượng sĩ thế này: "Người làm không lợi mình mà lợi người, ấy là hạ sĩ, làm lợi mình không lợi người, gọi là trung sĩ, làm lợi cả mình lẫn lợi người gọi là thượng sĩ". Nội dung của từ Đại sĩ cũng thế.
Đại sĩ nhục thân như vậy, có nghĩa vị Bồ Tát hay Phật bằng xương thịt.
6 Trang tử, "Liệt ngự khấu": "Hoặc sinh ư Trang tử, Trang Tử ứng kỳ sử viết: "Tử kiến phù hy ngưu hồ? Y dĩ văn tú, thực dĩ sồ thúc, cập kỳ khiên nhi nhập thái miếu, tuy dục vi cô độc, kỳ khả đắc hồ". Xem Trang tử 10 tờ 12a12b1.
7 Đại tống tăng sử lược quyển hạ tờ 250a 4-10: "Nội cung phụng là chức quan trao cho thầy tu. Từ khi Đường Túc Tôn nhóm binh ở Linh Vũ vào năm Chí đức thứ nhất (756), rồi trở về Phú phong, sư Nguyên Hạo nhận được khẩu sắc, đặt đạo tràng Dược sư, vua sai những người đi theo xa giá đến để cầu công nghiệm. Tới chùa Khai nguyên, phủ Phụng dương, đạo tràng Dược sư có ba tuế. Một hôm, nhân dịp trai tăng trong đại nội, vua gọi Sư nói: "Trẫm nghĩ, Phật tổ gốc ở tâm, người học chớ nên chỉ trích lẫn nhau, xin cùng với thạc đức các phương, mọi vị bày tỏ điều hiểu biết của mình, để xem chỗ dụng tâm của các vị ra sao". Sư lên tiếng đáp thành kệ rằng:
"Pháp vốn như không pháp Chẳng có cũng chẳng không Nếu người biết như vậy Chúng sinh cùng Phật đồng Trăng Lăng-già vằng vặc
(58b1)Thuyền vượt biển lâng lâng Hiểu không, không biết có
Tam muội mặc thong dong".
Vua rất khen thưởng, rồi phái làm Đô tăng lục. Bấy giờ các vương công như: Phụng Yết Thiên Vương1, Thái Tử Vũ Uy2, Hỷ Từ, Thiện Huệ, Chiêu Khánh và Hiển Minh, Thượng tướng Vương Cường3, Thái sư Lương Nhậm Văn, Thái bảo Đào Xử Trung và Tham chính Kiều Bồng4 đều tới lui hỏi đạo, lấy lễ thầy trò đãi Sư .
tên5.
 Đến triều Thánh Tôn, Sư đổi đến chức Tả nhai Đô Tăng thống, tước Hầu, vua không gọi Sư bằng nhóm, mỗi nhóm bảy người, sáu thời hành đạo. Bấy giờ trong đạo tràng bỗng mọc lên một cây mận. Sư phụng mệnh kiểm xem hư thực thời cây mận có 49 cành. Nguyên Hạo dâng biểu mừng. Vua phê đáp: "Cây mận lành sum xuê, đó là điềm nước thịnh, mà nó lại mọc trong già lam thì biết mặt trời Phật pháp đang nổi lên trở lại. Cảm được cái điềm lành đặc biệt này, trẫm xin chia vui với Sư". Lý Nhượng Quốc lại đọc sắc nói: "Sắc sư Nguyên hạo là nội cung phụng". Đặt ra chức Nội cung phụng đây, như vậy là bắt đầu với Nguyên Hạo. Sau Hạo có Tử Lân là người tuyền châu kế tiếp. Đến thời Hiến Tôn thì Đoan Phổ, Hạo Nguyên và Hoàn Bạch nối nhau giữ chức. Qua tới thời Chu, Lương, Hậu Đường, Tấn, Hán, Chu và Đại Tống ta thì chức đấy không còn nghe tới nữa".
Đấy là lai lịch chức Nội cung phụng tăng ở Trung Quốc. Ở nước ta, chức này được phong cho một pháp sư tên Định sống vào những năm 800, mà Dương Cự Nguyên đã làm bài thơ tặng nhan đề: "Cung phụng định pháp sư quy An nam". Xem Toàn đường thi 333 tờ 3722. Đến đời Lê Đại Hành có Nguyễn Kha làm Nội cung phụng đô úy.
1 Tức Phụng Càn vương, tước do Lý Thái Tôn phong cho con mình là Lý Nhật Trưng vào năm 1035. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 6a8 và Toàn thư B2 tờ 23a5.
2 Có lẽ là Vũ Uy. Năm 1009, khi mới lên ngôi, Lý Công Uẩn phong cho anh mình là Vũ Uy Vương. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 2b3 và Toàn thư B1 tờ 34b5.Nhưng Vũ Uy đây không phải là Vũ Uy Vương,mà là Vũ Uy Hầu, con của Lý Thái Tôn và em của Phụng Càn Vương. Đại Việt sử lược 2 tờ 8a4 có ghi một Vũ Uy Hầu đã cùng với Quách Thịnh Dật đi đánh Nùng Trí Cao vào năm 1048, mà những sử khác không ghi. Vũ Uy Hầu này là Vũ Uy của chúng ta ở đây.
Về tước Thái tử, thì các sử ta đều nói trừ con trưởng ra, các con khác của các vua đời Lý đều phong Hầu. Nhưng cứ Lĩnh ngoại đại đáp, thì các con vua đời Lý đều được phong thái tử hết. Những Thái Tử Vũ Uy, Hỷ Từ v.v...chắc đều là con của Lý Thái Tôn.
3 Có lẽ là Vương Hành, người giữ chức hữu thanh đạo, do Lý Thánh Tôn phong lúc mới lên ngôi vào năm 1054, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 10a5 nói tới, còn các sử khác không thấy có. Chữ Hành rất dễ viết lên thành chữ Cường.
4 Lúc mới lên ngôi vào năm 1028, Lý Thái Tôn "lấy Lương Nhiệm Văn làm Thái sư (... ) Đào Xử Trung làm Thái bảo... Kiều Bỗng làm Hữu tham tri chính sự. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 5a3-5 và Toàn thư B2 tờ 16a7-9.
5 Về sự liên hệ giữa Huệ Sinh và Lý Thánh Tôn, Báo Cực truyện do Việt điện u linh tập tờ 30-31 dẫn lại trong truyện Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ địa kỳ nguyên quân có viết rằng:
"Xưa Lý Thánh Tôn nam chinh Chiêm thành, đến cửa Hoàn bỗng bị gió lớn mưa to, sóng nước cuộn lên, thuyền vua tròng trành muốn lật, nguy cấp xảy ra không thể lường được. Vua rất lo sợ. Trong lúc bàng hoàng, vua bỗng thấy một người con gái, tuổi ước trên dưới hai mươi, mặt tựa hoa đào, mày đượm dương liễu, mắt sáng như sao, cười như hoa nở, mình mặc áo trắng quần lục, nai nịt gọn gàng, đi thẳng đến trước Vua, nói rằng: "Thiếp là tinh của đại địa Nam quốc, sống nhờ ở làng Thủy vân đã lâu, xem thời mà ra, may gặp dịp tốt, hân hạnh được thấy long nhan, thì sở nguyện bình sinh của thiếp thật đã thỏa. Chỉ mong bệ hạ chuyến đi này thông suốt, hoàn toàn thu hoạch thắng lợi. Thiếp tuy bồ liễu mong manh, cũng xin đem sức mọn, lặng lẽ phò tá. Đến ngày khải hoàn, thiếp xin đợi ở đây để bái yết". Nói xong thì không thấy nữa.
Vua tỉnh dậy kinh hãi nhưng vui, cho mời tả hữu, kể hết những gì đã thấy trong mộng. Tăng thống Lâm Huệ Sinh nói: "Thần nói thác sinh vào một cây ở tại làng Thủy vân. Nay nên tìm thần cây đó, có thể có linh nghiệm". Vua đồng ý, sai tùy tùng đi
Năm Giáp thìn Gia Khánh thứ 6 (1064)1, lúc sắp thị tịch, Sư nhóm đồ chúng nói kệ rằng: "Nước lửa ngày chan hòa
Do lai, chửa nói ra Tin ông không xứ sở Ba ba lại ba ba".2
Lại nói:
"Từ xưa đến theo học Người người chỉ phía nam3 Nếu ai hỏi việc mới
Việc mới trăng mùng ba"
Rồi tắm rửa, đốt hương, đến nửa đêm Sư an nhiên mà mất. Sư thường phụng chiếu soạn bia
văn các chùa Thiên phúc4, Thiên thánh, Khai quốc tại Tiên du và chùa Diệu nghiêm, Báo đức tại Vũ ninh5. Lại có Pháp sự trai nghi6 và Chư đạo (59a1) tràng khánh tán văn một số quyển lưu hành ở đời.
tìm ở bãi và bờ sông thì được một cây gỗ, đầu rất giống hình người qua dạng người đã thấy trong mộng. Vua bèn đặt hiệu là Hậu Thổ phu nhân. Sai đặt hương án ở trong ngự thuyền. Giây lát, sóng gió lặng im, cây cối hết động. Tới khi qua đến Chiêm thành xáp trận thì giống như có sức thần giúp. Trận đó quả đại thắng.
Đến ngày khải hoàn, thuyền vua đến đậu lại chỗ cũ, ra lệnh xây miếu, thì mưa gió lại nổi lên lại như xưa. Lâm Huệ (Sinh) tâu rằng: "Để xin một keo có phải muốn về kinh sư chăng". Thì quả được. Mưa gió lại im lặng. Đến khi về tới kinh sư, vua chọn đất dựng miếu tại làng An lãng, rất nổi tiếng linh dị. Có kẻ bài báng chú trở thì liền bị tai họa ...
Đấy là chuyện Lâm Huệ Sinh tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh Tôn nguyên bản chép tay viết Huệ Lâm Sinh hay Huệ Lâm, nhưng đó rõ ràng là chép ngược và thiếu cái tên của Huệ Sinh họ Lâm. Suốt đời mình Lý Thánh Tôn chỉ đi đánh Chiêm thành có một lần, ấy là vào năm 1069, nhưng như sẽ thấy, Huệ Sinh theo Thiền uyển tập anh thì mất vào năm 1063 hay 1064. Vậy làm sao lại có thể tùng chinh? Xem chú thích tiếp theo.
1 Nguyên văn: Gia Khánh ngũ niên Giáp thìn. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 và Toàn thư B3 thì Chương Thánh Gia Khánh ngũ niên phải là Quý mão, chứ không phải Giáp thìn. Nếu Giáp thìn thì phải là Chương Thánh Gia Khánh lục niên (1064). Chữ ngũ và chữ lục cũng rất dễ lẫn. Vậy Huệ Sinh mất năm 1064? Nhưng như thế làm sao Huệ Sinh có thể tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh Tôn trong cuộc chinh phạt xảy ra vào năm 1069. Phải chăng Huệ Sinh đã tùng chinh với Lý Thái Tôn trong cuộc chinh phạt năm 1044, mà Việt điện u linh tập viết lộn thành Lý Thánh Tôn? Chúng tôi nghĩ đấy là một có thể, nhất là khi vấn đề truyền bản của Việt điện u linh tập đưa nhiều điểm khá nghi ngờ, mà những cái tên Huệ Lâm Sinh và Huệ Lâm là những thí dụ. Tuy nhiên không nhất thiết loại bỏ những sai lầm niên đại có thể do sự truyền bản của Thiền uyển tập anh tạo ra, mà trường hợp Khánh Hỷ và Pháp Dung là những thí dụ.
2 Công án thiền. Thiền sư Vô Trước nói chuyện với Văn Thù trên Ngũ Đài Sơn. Vô trước hỏi về sinh hoạt của các nhà sư ở đấy và con số của nó. Văn Thù trả lời: "Trước ba ba, sau ba ba" (Tiền tam tam, hậu tam tam). Xem Bích nham lục 4 tờ 173b29-174a7.
3 Điển Thiện tài đi học đạo, được Văn Thù chỉ đi hướng nam tham học với 53 vị thiện tri thức, mà từ Phật học Trung Quốc thường gọi "Thiện Tài đồng tử ngũ thập tam tham", trong kinh Hoa nghiêm. Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 62.
4 Đại Việt sử lược 2 tờ 11a1 và Toàn thư B3 tờ 2a3-4 nói: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057) mùa đông tháng 12 dựng chùa Thiên phúc và chùa Thiên thọ, dùng vàng ròng đúc tượng Phạm Vương, Đế Thích hai pho để thờ". Toàn thư còn chua thêm: "Đó là nơi đời Trần làm lễ yết chùa".
5 Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 nói: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ sáu (1059) dựng chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ ninh". Vậy thì, chùa Diệu nghiêm báo đức ở truyện Huệ Sinh đây tức chùa Sùng nghiêm báo đức. Chữ Diệu có thể là viết sai của chữ Sùng, hay ngược lại. Chúng ta ngày nay chưa có nghiên cứu hiện địa để xác định đâu là đúng. Chùa Sùng nghiêm báo đức này cũng gọi tắt là chùa Báo đức và là nơi tu hành của Đại Xả. Xem truyện Đại Xả ở trước.
6 Nghệ văn chí và Văn tịch chí đều ghi: "Pháp sự trai nghi một quyển, Sư Huệ Sinh soạn, người Đông phù liệt, huyện Thanh trì".  Còn Chư đạo tràng khánh tán văn không thấy sách nào ghi tới cả. Ta không hiểu Lê Quý Đôn đã dựa vào tiêu chuẩn gì để ghi hay không ghi một cuốn sách.

55. THIỀN SƯ Thiền Nham (1093-1163)

Chùa Trí quả1, làng Cổ châu, Long biên. Người Cổ châu, họ Khương, tên Thông. Dòng dõi Tăng quan, mặt mày sáng sủa, tán tụng2 trong hay. Thường tập môn tổng trí đà la ni, xây lưng mà đọc, không sót một chữ.
Trong khoảng Hội Phong (1092 -1100), Sư ứng thí3 kinh Pháp hoa và Bát nhã tại điện vua, đều trúng Giáp khoa. Sau nhờ một lời của Pháp Y, chùa Thành đạo4 mà được ấn khả, Sư nhân thế xuất gia.
Lúc đầu, Sư đến ở chùa Thiên phúc, núi Tiên du, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm rộng lớn, ăn lá cây uống nước suối, trãi đến sáu sương. Sao đó, Sư trở về làng mình, trùng tu lại chùa Trí quả mà trụ trì. Trong khoảng Đại Thuận (1128-1132), trời hạn. Vua mời Sư đến kinh cầu mưa thì tức có hiệu nghiệm.
Vua phái làm danh tăng, ban cho áo ngự. Mỗi khi nhà nước có cầu đảo, Sư đều làm chủ5.
Tháng 2 năm Chánh Long Bảo Ứng thứ 1 (1163), Sư đốt hương dạy chúng, rồi nghiễm nhiên ngồi mà mất, thọ 71 tuổi. Đến nay xác thân của Sư đang còn. Người thời (59b1) bấy giờ gọi là Phật sống6.
Sau này, mặc dù chùa bị cảnh binh lửa, nhưng xác Sư không hề hấn gì.

56. QUỐC SƯ Minh Không (1066-1141)
Chùa Quốc thanh,Trường an7, người làng Đàm xá, Đại hoàng8,họ Nguyễn, tên Chí Thành.
1 Chùa Trí quả hiện nay ở làng Phương quan trên hữu ngạn sông Dâu đối diện với làng Văn quan. Chùa đấy là nơi thờ Pháp Điện, một trong Tứ pháp. Nếu cứ vào địa điểm làng này, thì vị trí làng Cổ châu thời Lý không phải chỉ gồm có làng Khương tự và Đại tự mà thôi. Trái lại, nó phải bao gồm phần lớn những làng xung quanh hai làng đấy, mà chính yếu là những làng Lũng khê, Thanh tương, Văn quan, Phương quan và Công hà.
Vì chùa Trí quả là chùa làng mình, nên Thiền Nham đúng ra là người Phương quan, tức người làng Dâu ngày nay. Ta không biết làng này hiện còn ai họ Khương không?
2 Phạn bối, tức một thứ ca hát tán tụng dùng một số nốt giới hạn nào đó của âm nhạc Ấn độ, sau này trở thành lễ nhạc của Phật giáo tại các xứ phương Đông. Về ý nghĩa và nguồn gốc chữ bối, xem chú thích (2) truyện Ma Ha.
3 Trong khoảng Hội Phong (1092-1099) không thấy sử ghi một cuộc điện thí nào. Nhưng truyện Viên Thông tờ 68b9-10 ghi một cuộc thi Tam giáo xảy ra vào năm Hội Phong thứ 6 (1097), mà Viên Thông đỗ hạng đầu. Như thế, Thiền Nham và Viên Thông rất có thể là hai người đồng khoa.
4 Chùa Thành đạo nghi là chùa Thành đạo hiện ở tại làng Đông cốc, huyện Thuận thành, tỉnh Bắc ninh ngày nay, nơi có thờ Pháp Vũ, một trong Tứ pháp, bởi vì chùa Trí quả, nơi trú trì của Thiền Nham là nơi thờ Pháp Điện, thì tất Nham phải có một liên hệ nào đó với các chùa có thờ Tứ Pháp khác. Tuy nhiên, tại làng Văn giáp, huyện Thượng phúc, tỉnh Hà đông cũng có chùa Thành đạo và chùa đấy cũng thờ Pháp Vũ. Dẫu thế, chúng tôi vẫn nghĩ, chùa Thành đạo của Pháp Y tức chùa Thành đạo tại làng Đông cốc.
5 Trong khoảng Đại Thuận, Đại Việt sử lược 3 tờ 1b7-8 chỉ viết: "Đại Thuận năm thứ 3 (1130) tháng 6 hạn, cầu thì mưa. Nhưng theo Toàn thư B3 thì trong khoảng Thiên Thuận từ năm 1128 đến 1132 không năm nào là không có hạn nên Việt sử tiêu án 1 tờ 110a6, khi nhận xét về biện pháp chống hạn của triều Lý Thần Tôn, đã phải nói: "Xét trong khoảng 10 năm (trị vì của Thần Tôn) thì không năm nào là không có hạn".
6 An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: "Thiền sư Thiền Nham là vị sư huyện Siêu loại, giới hạnh tinh nghiêm, ăn lá cây, uống nước suối, xác chết rồi vẫn còn tươi như khi sống. Người bấy giờ gọi là Phật sống".
7 Tức đất huyện Yên khánh, tỉnh Ninh bình ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Tịnh Giới, chùa Quốc thanh hiện chưa truy cứu
được.
8 Tức xã Đàm xá, huyện Gia viễn, tỉnh Ninh bình ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục Từ miếu, viết: "Đền Nguyễn Minh Không ở tại huyện Gia viễn, xưa hai xã Đàm Xá và Điềm giang cùng thờ. Thần người Đàm xá, họ Nguyễn, tự Chí Thành. Xét Sử ngoại truyện thì thầy đi du học và được tâm ấn từ Đạo Hạnh, hiệu là Thiền sư Minh Không, ở chùa Quốc Thanh. Trong khoảng Hội Tường Đại Khánh đời Lý Nhân Tôn, Đạo Hạnh khi sắp tạ thế, dặn Minh Không rằng: "Ta sẽ ở ngôi nhân chủ, mắc bệnh khó tránh, ông nên cứu ta". Sau Thần Tôn bị bịnh hóa thành hình cọp. Trẻ nít ca nói: "Muốn chữa Lý cửu trùng, phải tìm Nguyễn Minh Không". Mời đến, Không nói tiền duyên cho vua nghe. Vua giác ngộ, Minh Không nấu dầu một trăm cân, lấy tay khuấy rửa cho vua. Bệnh lành, phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ. Đến năm Đại Định thứ 2 (1141) đời Anh Tôn, Sư mất,
Sư thường đi du học gặp Thiền Sư Từ Đạo Hạnh chùa Thiên phúc. Hạnh mến sư, cho phép theo hầu. Trải qua 17 năm trời làm việc cực khổ, Hạnh khen Sư có chí, bèn sâu ấn hứa và cho tên Minh Không. Đến khi sắp tạ thế, Hạnh gọi Sư nói rằng: "Xưa Đức Thế Tôn ta, đạo quả đã tròn mà còn bị quả báo hùm vàng, huống ở đời mạt pháp, công hạnh nhỏ mọn, há mình có thể tự giữ gìn được sao? Ta nay còn phải ra đời, giữ ngôi nhân chủ, lai sinh mắc bệnh, chắc chắn khó tránh. Ta đối với ngươi có duyên, xin nhờ cứu với".
Hạnh mất rồi, Sư trở về làng cũ cày cấy hơn 20 năm, không màng tiếng tăm. Lúc bấy giờ Lý Thần Tông mới mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng rên la hốt hoảng khiếp đảm, lương y trong thiên hạ (60a1) ứng chiếu đến chữa, đều phải bó tay không làm gì được1. Bỗng nghe có trẻ con ca rằng:
"Muốn trị bệnh Thiên tử
Phải có Nguyễn Minh Không".
Ben sai sứ tìm khắp dân gian mới gặp đuợc Sư2.
Khi Sư đến, Tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư ăn mặc quê mùa, họ khinh khi không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc, đóng vào cột điện, lên tiếng nói: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng". Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khiếp phục.
Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: "Đấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm ra những điều cuồng loạn đấy ư?"
Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên khoảng bốn lần, rồi tắm vua trong đó. Bệnh liền bớt ngay. Sau vua phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ để tưởng thưởng.
Vào một ngày tháng nào đó của năm Tân dậu Đại Định3 thứ 2 (1141), Sư mất, thọ (60b1) 76
tuổi4. thọ 76 tuổi. Người trong ấp lập đền thờ. Trước đền có một cây đèn đá cao độ một thước, tương truyền là đèn tụng kinh của Sư.
Đền nổi tiếng là linh ứng. Nay các chùa ở Giao thủy và Phổ lại đều đắp tượng Sư mà thờ".
1 Những tình tiết diễn tiến cho tới lúc này, nghi là một phụ hội, bởi vì năm năm trứơc khi Minh Không đến chữa bệnh cho Thần tôn, tức năm Đại Thuận thứ 4 (1131), Toàn thư 3 tờ 36a9 đã ghi việc vua "dựng nhà cho Đại sư Minh Không". Như vậy, chắc chắn không có chuyện Minh Không "về quê cày cấy 20 năm hay chuyện trẻ nít phải hát và phải sai sứ đi khắp dân gian mới gặp Sư".
2 Toàn thư B3 tờ 39a7-9: "(Thiên Chương Bảo Tự) năm thứ 4 (1136) vua bệnh nặng, thuốc men không bớt, thấy Minh Không chữa lành, phong làm Quốc sư, cho thuế hộ vài trăm". Rồi chua tiếp: "Đời truyền rằng thầy Từ Đạo Hạnh khi sắp thi giải, trong lúc bị bệnh, đenm thuốc và chú giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, nói rằng: "Hai mươi năm sau thấy Quốc Vương gặp bệnh lạ thì đến chữa". Bởi nó bắt nguồn từ việc này vậy".
3 Nguyên văn có Đại Định nhị niên Tân sửu. Nhưng cứ Toàn thư 4 tờ 1b8 và 2b8-9 thì Đại Định nhị niên phải là năm Tân dậu, và tháng 8 mùa thu năm đấy Minh Không mất.
4 Lĩnh nam trích quái tờ 31-33 chép một tiểu sử của Minh Không hoàn toàn đồng nhất với bản đây. Nhưng sau đó, nó lại ghi thêm một tiểu sử hoàn toàn khác và nói là lấy từ Minh Không biệt truyện. Truyện như sau: "Làng Giao thủy có chùa Không lộ, xưa có nhà sư tên... trong khoảng Trị Bình (1064-1067) xuất gia trụ trì chùa đó, nổi tiếng là đức hạnh. Một hôm, Minh Không từ ngoài đi vào, nhà sư cùng phòng, tức Đạo Hạnh núp trong cửa nhảy ra, giả tiếng cọp để nhát Minh Không. Minh Không cười nói: "Người tu hành mà muốn làm cọp sao? Ta sẽ cứu ngươi".
Sau nhiều năm, nhà Sư ấy bỗng chốc chết, hóa làm Quốc vương, chẳng bao lâu bỗng hoá ra mọc lông, vùng vẫy gào thét, mặt giống như cọp, khắp tìm thầy thuốc, thầy bói, nhà sư, đạo sĩ, nhưng đều bó tay. Nghe Minh Không có pháp thuật, sai người chèo thuyền đến mời. Minh Không lấy một chiếc om nhỏ, nấu cơm cho thủy thủ ăn. Vị sứ giả cười nói: "Sợ khó đủ hết". Minh Không trả lời: "Không phải, để cho họ ăn mỗi người một ít, xem chút hậu tình của ta". Rồi thủy thủ bốn năm chục người, ăn mãi mà không hết. Mọi người đều làm lạ. Đến chiều, họ sắp ra thuyền thì Sư lại bảo thủy thủ hãy ngủ ngon một đêm, đợi sáng mai rạng đông, bần tăng gọi dậy thì mới có thể bắt đầu ra thuyền. Nếu không thì ta sẽ không đi. Sứ giả nài nỉ không được, bèn nằm yên giả ngủ, thì chỉ nghe dưới thuyền tiếng gió thổi veo veo. Lúc lâu mặt trời mọc, Sư gọi dây thì thuyền đã cập bến ở kinh đô.
Minh Không bay lên trời mà vào cung, đun nước tắm cho vua, lập tức lông rụng, thân thể bình phục. Vua hỏi lý do. Sư đáp: "Người tu hành, nếu một niệm mê thì sám hối là xong, không khó khăn gì hết". Lại hỏi: "Sư làm sao có thần thông mà làm được như vậy?" Minh Không trả lời: "Đấy chẳng phải phép thuật gì hết. Thần xưa có bệnh phong, phát ra thì không thấy, nên nhiều ít không biết thì cái gì cũng trống, mình cứ tin mà bước đi, chẳng phải thần thông gì thảy". Bèn lại đi bằng đường không mà

57. THIỀN SƯ Bản Tịch (? - 1140) (Trước tên là Pháp Mật)
Chùa Chúc thánh, làng Nghĩa trú, Bình lạc1. Người Tây kết, họ Nguyễn, hậu duệ của Nội cung phụng đô úy Nguyễn Kha triều Lê. Sớm có nhiều tài, gặp một vị Tăng lạ, lấy làm kỳ nói rằng: "Đứa bé này cốt tướng phi phàm nếu xuất gia, chắc thành hạt giống của Phật pháp".
Đến khi lớn, Sư trước đến thọ giáo với Thuần Chân chùa Hoa quang, rõ được yếu chỉ, rồi lại thọ giới Cụ túc. Chân thấy Sư định lực tròn đầy, giới thể trong sạch, học một biết mười, xoa đầu nói rằng: "Chánh pháp phía Nam, đang đợi ông đến xiển dương". Từ đó, Sư không còn vướng mắc việc hữu vô, gồm rõ đốn tiệm2. Đến đâu cũng gieo khắp mưa pháp, xa rải gió huyền, Tăng, Ni dốc theo, người tục ngưỡng mộ.
trở về, cho thưởng gì cũng không nhận, vua bèn ban hiệu là Thần tăng để khen ngợi".
Tiểu truyện này của Minh Không, tuy Lĩnh nam trích quái bảo là rút từ Minh Không biệt truyện, nhưng chắc chắn là xuất phát từ truyện Minh Không thần Dị trong Nam ông mộng lục, và nhất là bởi vì nó hoàn toàn giống với truyện kể trong đó.
Việt sử tiêu án 1 tờ 108b7-109b9 cũng chép lại gần giống truyện trên và bảo là từ Ngoại truyện. Nó viết: "Thế truyền Đạo Hạnh khi sắp thi giải, đem thuốc có làm phù chú, giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không nói rằng: "Sau 20 năm quốc vương có bệnh thì đem mà trị". Thuyết này xuất phát từ Lĩnh nam trích quái. Lại xét Ngoại truyện thì cha Đạo Hạnh là Từ Vinh dùng pháp thuật nên bị sư Thái Điên giết. Đạo Hạnh nghĩ cách báo thù cha, đến tu đạo tại tịnh xá Hương tích. Trên đường gặp Khổng Minh Không, bèn kết làm bạn cùng đi đến chùa Vân mộng. Vị thầy dạy cho thần thông quyết. Sau 3 năm, hai người giã từ trở về. Đạo Hạnh muốn thử thuật mình chơi, nấp vào một nơi hiểm, giả làm con cọp để dọa Minh Không. Minh Không biết, trách Hạnh dùng tà hạnh lại gồm có chú ngữ. Đạo Hạnh hổ thẹn và hối hận, đến tạ lỗi, vừa nói: "Nghiệp đời sau chưa trừ hết, xin phiền giải thoát cho". Đạo Hạnh về am, Minh Không về Giao thủy. Sau đó nghe Đạo Hạnh thi giải, MK cười, nói rằng: "ông Hoà thượng ấy còn mê phú quý trần gian sao?". Đến lúc ấy, Thần Tôn bị bệnh kêu gầm, muốn biến thành cọp. Thuốc chữa không chịu. Trẻ  con hát rằng: "Muốn chữa Lý cửu trùng, phải được Khổng Minh Không". Thái hậu nghe được cho mời đến. Khi đã đến, bèn giảng chuyện nhân quả đời trước cho vua. Vua bèn giác ngộ. Bệnh liền bớt. Minh Không có nói kệ:
Kỳ lân đồ hậu mạc
Nguyệt vọng đáo trung thiên.
Người bấy giờ không hiểu. Sau vua ở ngôi và tuổi thọ, quả hiệp với lời kệ. Minh Không người Đàm xá, huyện Gia vin. Nay chùa Phổ lại và Giao thủy có đắp tượng thờ. Năm Đại Định thứ 2 (1141) Sư mất, thọ 76 tuổi".
Rồi Ngô Thời Sĩ đưa ra lời bình luận sau: "Triều Lý tôn sùng đạo Phật, từ khi Vạn Hạnh nổi tiếng, người ta mộ theo và bắt chước. Tiếp đó có Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải đều là người Hải thanh, thờ Sa môn Hà Trạch làm thầy. Lại có Thông Huyền chân nhân cũng có đạo pháp cao tương tự, nên Nhân Tôn có câu: "Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo hựu huyền". Nhưng gọi rồng xuống, làm hổ phục không phải là tài bình loạn cứu nguy. Đi chỗ trống, bay lên không, không phải là sách lược trị dân  giữ nước. Chỉ cũng là loại La Thập, Đồ Trừng đó thôi, có giúp gì cho thế đạo ư? Thế mà các triều đại đã thần dị hóa giáo lý nó, để đến nỗi có việc tha thuế hộ để làm tự đinh, sự mê hoặc thật đã quá lắm".
Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục trong Việt điện u linh tập tờ 51 và Đại nam nhất thống chí tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, cũng có chép chuyện Minh Không chữa bệnh cho Từ Đạo Hạnh, nhưng không có chi tiết gì đặc sắc cho lắm trừ sự cộng tác với Giác Hải trong việc chữa bệnh đấy.
Về nơi Minh Không thường sinh sống, Bắc thành địa dư chí 4, nhân viết về các đền thiêng của trấn Sơn nam hạ, có ghi đền của Thiền sư Đạo Pháp Minh Không nói: "Đền ở xã Cổ đam huyện Ý yên. Thế truyền Ngài bình sinh thường ở xã Cổ đam huyện Ý yên. Thế truyền Ngài bình sinh thường ở xã đó. Sau khi mất người trong thôn lập đền thờ". Còn về nơi mất của Không, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Từ miếu nói: "Đền thiền sư Minh Không ở xã Hán lý huyện Vĩnh lại. Sư họ Nguyễn, tự Chí Thành, người xã Đàm xá, huyện Gia viễn, nhỏ kết bạn với Từ Đạo Hạnh đến chùa Vân mộng thọ giới, sau làm cao tăng đời Lý. Vua Thần Tôn mắc bệnh, Sư chữa liền lành, phong làm Quốc sư. Thế truyền, Sư mất ở núi Tam viên, xã Hán lý, di tích nay còn". Xã Hán lý này theo nó cũng là quê mẹ Minh Không, nên có dựng chùa Hưng long ở đó. Xem mục Tự quan.
Cuối cùng cũng cần nhắc lại là, bản in đời Nguyễn không có tiểu sử của Minh Không, ở đây không liệt Minh Không vào dòng thiền Pháp vân. Đương nhiên truyện của Không đã bị bản in đời ấy hay "Tiêu sơn tự cựu bản" góp vào trong truyện của Không lộ. Xem chú thích (6) truyện Không lộ. Nhưng có thể tờ có truyện Minh Không đã bị mất trong "Cựu bản Tiêu sơn tự". Xem thêm phần nghiên cứu.
1 Tức phần đất thuộc huyện Văn giang và Mỹ hảo,tỉnh Hưng yên ngày nay, bởi vì hai huyện đấy hiện đang có con kinh mang tên Nghĩa trụ chảy qua. Tên Bình lạc xuất hiện từ năm 621, khi Lý Uyên đặt ra Long châu gồm ba huyện Long biên, Vũ ninh và Bình lạc. Xem Tân đường thư 43 thượng tờ 9b13. Đến thời Lý, nó là tên một đạo, như Đại Việt sử lược 3 tờ 25b7-8 ghi lại.
Làng Nghĩa trú, chúng tôi cho là làng Nghĩa trang, tổng Sài trang, huyện Đường hào, trấn Hải dương của Bắc thành địa dư chí lục 2, tức huyện Mỹ hào, tỉnh Hưng yên ngày nay. Những tài liệu Lý, Trần đều có nói ngôi làng này. Đại Việt sử lược 3 tờ 29a4 gọi nó là một cái ấp, viết: "Năm Kiến Gia thứ 5 (1215) người Nghĩa trú là Chu Đình đem ấp mình phụ theo Nguyễn Nộn". Tam tổ thực tục tờ 26a4 nói Nghĩa trú còn cómột ngôi chùa tên Phổ quang.
2 Hữu vô và đốn tiệm là những phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo Trung quốc cũng như Vin đông. Hữu vô hay có không, nguyên là cặp phạm trù lớn của học thuyết Lão Trang, đấy là thuyết "Hữu vô tương sinh". Xem Đạo đức kinh tờ 1-2a: "Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu...  Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương giảo, cao hạ tương khuyễnh... " Cặp phạm trù hữu vô đó, tới khi Phật giáo truyền nhập Trung quốc, lại trở thành một trong những cặp phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo, bởi vì, như Đạo An (312-385) đã viết: "Người xứ đây(tức Trung Quốc) giáo thuyết Lão Trang đang thịnh hành... nên nhân theo phong trào mà phát triển".

Ngày 14 tháng 6, mùa hè năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 31 (1139), Sư hợp môn đồ, dạy rằng: "Vô sự ! Vô sự !". Nói xong thì mất.
Còn đốn tiệm, hay mau chậm, là một cặp phạm trù lớn khác do kinh Lăng già giới thiệu vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ 5, liên quan đến vấn đề người tu đạo có thể tức khắc giác ngộ sự thực toàn diện toàn phần hay chầm chậm giác ngộ từng bước từng phần.
Xem Phật thuyết nhập lăng già kinh tờ 596a23-29. Sự phân biệt đó sau này trở thành tiêu chuẩn duy nhất để phân biệt để xác định thế giá của hai trường phái thiền lớn của Trung Quốc sau Hoằng Nhẫn, đấy là trường phái thiền của Huệ Năng, thường gọi là Nam đốn, và trường phái thiền của Thần Tú, thường gọi là Bắc tiệm.
1 Theo Đại Việt sử lược 3 tờ 3a2 mới có năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 3. Theo Toàn thư B4 tờ 1a7 thì năm Kỷ mùi nhằm năm Thiệu Minh thứ 2. Cương mục chính biên 4 tờ 34b4 cũng chép như Toàn thư.
[61A1]

Thế Hệ Thứ Mười Bố n (4 người, 3 người khuyết lục)

58. TĂNG THỐNG Khánh Hỷ (1067 - 1142)
Làng Từ liêm, Vĩnh khương1. Người Cổ giao, Long biên, họ Nguyễn, dòng dõi Tịnh hạnh. Nhỏ không ăn đồ tanh hôi, lớn theo thọ giáo với Bản Tịch chùa Chúc thánh.
Một hôm, Sư theo Tịch đến cúng một nhà thí chủ. Trên đường đi, Sư hỏi rằng: "Cái gì là ý chính Thiền tôn của các Tổ?". Gặp lúc nghe nhà dân đang đánh trống lên đồng, Tịch trả lời: "Ấy chẳng phải là thứ lời đồng bóng, đang triệu thỉnh quỷ thần đó sao?".
Sư thưa: "Hoà thượng chớ giỡn mãi". Tịch nói: "Ta chưa từng giỡn bao giờ".
Sư không hiểu, bèn từ giã Tịch ra đi, đến Biện Tài ở chùa Vạn tuế. Biện Tài hỏi: "Ngươi từ đâu đến đây?"
Sư thưa: "Từ Tịch công đến".
Tài hỏi: "Thầy đó cũng là một bậc thiện trí thức một phương, thế ông ta đã từng nói câu gì?". Sư thưa: "Con thờ thầy ấy đã lâu năm, nhưng chỉ hỏi một câu mà thầy không trả lời, nên con bỏ
đi".
Tài hỏi: "Ông hỏi cái gì?". Sư kể lại chuyện trước.
Tài bảo: "Ôi! (61b1) Tịch công đã vì ông nói rõ đạo lý, ông chớ phỉ báng Bổn sư của ông". Sư trầm ngâm suy nghĩ.
Tài nói: "Không thấy nói:
Hiểu được khắp nơi đúng, Không ngộ mãi trái sai?"2
Sư bỗng nhiên đốn ngộ, bèn trở về.
Tịch thấy, hỏi: "Ngươi từ đâu đến mau thế?"
Sư lạy nói: :Con có tội hủy báng Hoà thượng, nên đến xin sám hối vậy". Tịch dạy: "Tướng và tánh của tội vốn không, ngươi làm sao sám hối?". Sư đáp: "Xin sám hối như vậy".
Tịch bèn thôi.
Sư thường cùng hai Thiền sư Tịnh Nhãn và Tịnh Như trong khi đứng hầu, Tịch bảo: "Các ông
theo học với ta kể đã lâu ngày, vậy mỗi người hãy trình bày điều thấy biết của mình để ta xem mỗi ông tiến đạo như thế nào?".



1 Tức làng Từ liêm, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Vân Phong.
2 Đại Châu Huệ Hải: "Sư vân: Đạt tức biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a24.

Nhãn và Như sắp mở miệng thì Sư quát:
"Một màn che mắt Hoa đốm rối rơi"1.
Tịch nói: "Xà lê Khánh Hỷ can cớ gì cái thuyền ấy, sao lại đập vỡ cái hộc đo?"2
Sư thưa: "Cần gì thuyền"?
Tịch nói: "Thằng ranh mãnh đó, chớ có ồn ào,
Ngươi chỉ giải thoát đến việc bên này thôi, còn việc bên kia cũng chưa mộng thấy được". (62a1) Sư đáp: "Tuy vậy, chỉ là việc khác thôi".
Tịch nói: "Buông thả sào trăm thước Lao đầu một mình đi".3 Ngươi hiểu sao?
Sư giơ hai tay lên đáp: "Không nguy hiểm, không nguy hiểm !" Tịch nói: "Buông đi tức khắc !"
Từ đó, danh Sư vang khắp tòng lâm. Trong khoảng năm Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137), Sư được triệu về kinh, vua khen ngợi việc Sư trình bày đối đáp xứng chỉ, phái làm Tăng lục, rồi thăng làm Tăng thống.
Một hôm, đệ tử Pháp Dung hỏi: "Rõ được sắc không, thì sắc là phàm hay thánh?" Sư trả lời bằng bài kệ:
"Nhọc đời thôi hỏi sắc cùng không Học đạo chẳng qua phỏng tổ tông Thiên ngoại tìm tâm khôn định thể Nhân gian trồng quế há thành rừng? Càn khôn gom lại đầu sợi tóc
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng4.
1 Phù Dung Linh Huấn: "Sư viết: Như hà bảo nhiệm. Tôn viết: Nhất ế tại nhãn, không hoa loạn trụy". Xem Truyền đăng lục 10, tờ 280c26.
2 Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ Đạo Nhất: "Nước không có gân cốt mà có thể thắng thuyền muôn hộc, lẽ ấy thế nào?". Đạo Nhất đáp: Trong
đó không có nước cũng không có thuyền thì gân cốt là cái gì?". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 246a26-28.
3 Bài kệ của Thiền sư Cảnh Sầm:
"Bách trượng can đầu bất động nhân Tuy nhiên đắp nhập vị vi chân
Bách trượng can đầu tu tiến bộ
Thập phương thế giới hiện toàn thân." (Trăm trượng đầu sào kẻ đứng im Dẫu cho vào được chửa là chân
Trăm trượng đầu sào thêm bước nữa Mười phương thế giới hiện toàn thân.)
Xem Truyền đăng lục 10 tờ 274b 6-8
4 Duy Ma Cật sở thuyết quyển trung tờ 546b25-c18:
"Nhược Bồ tát trú thị giải thoát giả, dĩ Tu di chi cao quảng, nạp giới tử trung, vô sở tăng giảm... Hựu thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao khổng phổ sử hiện chi". Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 80 tờ 440c21-22 "Nhất mao khổng, tất hữu tam thiên đại thiên thế giới".
Trước mặt nắm tay dùng việc lớn1 Ai hay phàm thánh với tây đông".
Nói xong, ngày 25 tháng 01 năm Nhâm Tuất Đại Định thứ 3 (1142), Sư thị bệnh mà mất, thọ 76 tuổi2. Có Ngộ đạo ca thi tập lưu hành ở đời3.
1 Thứ sử Giang châu Lý Bột hỏi Qui Tôn: "Trong kinh, nếu nói núi Tu di chứa hột cải thì Bột tôi không nghi, nhưng hạt cải chứa núi Tu di, phải chăng là nói bậy?" Tôn đáp: "Người ta đồn Sứ quân đọc sách vạn quyển, chuyện đó có không ?". Bột nói: "Phải". Tôn hỏi: "Sờ từ đầu đến chân, ông chỉ lớn bằng cây dừa, thì sách vạn quyển treo đâu cho hết?". Bột chỉ gật đầu mà thôi. Ngày khác, Bột hỏi: "Đại tạng kinh dạy rõ được việc gì?" Tôn đưa nắm tay lên cho Bột coi, rồi hỏi: "Hiểu không?". Bột nói: "Không hiểu". Tôn bảo: "Cái đầu nắm tay to thế mà cũng không biết ?". Bột thưa: "Xin thầy chỉ bày". Tôn nói: "Gặp người tức giữa đường trao cho. Không gặp thì thế đế bố khắp". Xem Truyền đăng lục 7 tờ 256b 9-18.
2 Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt (Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài gòn, 1966, tr. 474) viết: "Thiền uyển tập anh chép rằng: "Khánh Hỷ mất ngày 27 tháng giêng năm Đại Định thứ ba, Nhâm tuất 1142, thọ 76 tuổi. Theo đó mà tính, thì ông sinh năm 1067 và ông có 10 tuổi, lúc Đạo Dung tới Thăng long. Làm sao ông làm thầy Đạo Dung được? Sách Toàn thư có chép lại vào năm 1135, việc Hầu Khánh Hỷ mất. Chắc rằng nguyên là chữ Tăng mà Toàn thư chép lầm ra chữ Hầu. Người chú thích sách Thiền uyển tập anh, in đời Vĩnh Thịnh, cũng nói rằng: Theo Sử ký thì Tăng Khánh Hỷ mất năm 1135. Nếu theo thoại sau thì lúc bấy giờ Khánh Hỷ cũng chỉ mới 17 tuổi mà thôi. Tôi nghĩ rằng Thiền uyển tập anh chép lầm năm mất và tuổi thọ. Có lẽ thọ 96 tuổi, vì chữ cửu và chữ thất rất dễ lẫn. Với chữ cửu thì lúc Sư Đạo Dung ra học với Khánh Hỷ, vị này đã 37 tuổi. Như thế mới hợp lý".
Thật ra Toàn thư không chép việc Hầu Khánh Hỷ, mà là Hầu Khánh Thiện mất vào năm 1135.
3 Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn và Văn tịch chí của Phan Huy Chú đều ghi: "Ngộ đạo thi tập, một quyển, thầy Khánh Hỷ soạn, người Cổ giao, Long biên.

[62b1]

Thế Hệ Thứ Mười Lăm (3 người, 1 người khuyết lục)

59. THIỀN SƯ Giới Không
Chùa làng Tháp bát, quận Mãn đẩu1. Người quận đấy, họ Nguyễn, tên Tuân, con nhà lương, nhỏ đã ưa Phật giáo. Ban đầu, Sư theo Quảng Phước chùa Nguyên hòa núi Chân ma2. Xuất gia và thọ giới cụ túc, hầu hạ vài năm, Sư được Thiền chỉ. Sư dựng một cái am ở núi Lịch3. Trải qua năm năm, chuyên thiền định, sau chống gậy xuống núi, tùy nơi giảng hóa. Đi tới Nam sách, Sư vào núi Thánh chúa4 ở cấm túc sáu năm, tu hạnh đầu đà, đến nỗi sai được quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến phục.



1 Cứ An nam chí nguyên 3 tờ 210 thì "Thiền sư Giới Không là vị sư huyện Gia lâm tu hạnh đầu đà, có thể sai khiến quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến chầu. Sau ngồi thẳng mà mất".
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tăng thích dẫn lại đoạn trích vừa dịch của An nam chí nguyên và sửa lại một đôi chữ thành "Giới Không người huyện Gia lâm, chân tu đắc đạo, sau ông ngồi ngay thẳng mà tịch". Nhưng truyện Giới Không ở đây nói Không "người quận Mãn đẩu". Mãn đẩu chưa bao giờ là tên của quận hay huyện Gia lâm cả. Chúng tôi nghĩ, có lẽ Giới Không được mời về ở chùa Gia lâm vào khoảng những năm 1128-1132, nên Đại nam nhất thống chí đã ghi lầm là người Gia lâm. Thế thì, quận Mãn đẩu ở đâu?
Các sách sử khác không thấy có quyển nào nói tới một quận tên Mãn đẩu cả. Về làng Tháp bát thuộc quận này, chúng tôi cũng chưa gặp ở một nơi nào khác. Dẫu vậy, Kiến văn tiểu lục 6 tờ 14b 4-6 có viết: "Các núi của Tuyên quang và Hưng hóa, nơi nơi đều có cây mạn để, lá nó như cây cổ độ tục gọi đát cây to tới hai hay ba thước, rất độc. Cây và lá nó trôi vào sông khe thì cá chạch đều chết". Chúng tôi nghi, quận Mãn đẩu là nơi có cây mạn để đấy. Mãn đẩu chắc là một ghi âm khác mạn để, hay ngược lại, như Cứu lan của Đại Việt sử lược đã biến thành Cứu liên của Toàn thư và Thiền uyển tập anh. Xem chú thích (1) truyện Mãn Giác. Nếu vậy, quận Mãn đẩu nằm tại tỉnh Tuyên quang ngày nay giữa hai lưu vực sông Chảy và sông Lô.
Xác định quê hương của Giới Không như thế, ta sẽ hiểu tại sao Không đã từng Tu hành tại núi Lịch và có môn nhân là Châu mục Phong châu là Lê Kiếm. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 3a3 có ghi một bài bia có Hàn lâm quyền học sĩ Đỗ Nguyên Chương viết năm Long Khánh thứ 5 (1377) cho chùa Phúc minh ỡ làng Mạn để. Làng Mạn để chắc là quận Mãn đẩu còn sót lại.
2 Núi Chân ma hiện không thấy các sách sử khác ghi. Nhưng cứ Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a3 có ghi một ngọn núi tên Đán ma thuộc sơn hệ Tam đảo. Chúng tôi nghi Chân ma đó là Đán ma đó, bởi vì từ Đán ma đến Lịch sơn không xa lắm. Lịch sơn là núi sau này Giới Không dựng am tu.
3 Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b1: "Núi Lịch tại xã Yên lịch, huyện Sơn dương, khởi từ núi Sư khổng, huyện Đương đạo mà xuống đến xã đó thì đất bằng bổng nổi lên núi đất năm sáu ngọn, rẽ ngang phân một chi xuống lập thành thành Lãng sơn, chi xuống huyện Tam dương thành núi Hoàng chỉ. Trong đó núi Lịch cao nhất. Trên đỉnh có đất bằng như điện đài năm sáu chỗ, có động vua Thuấn rất thiêng. Hoa quả trên núi người ta có thể hái mà ăn, nhưng không được mang về. Nếu có ai mang về, họ liền lạc đường, không thể ra được nữa. Bên trên vua Thuấn có đền vua Nghiêu, đều phải cúng chay. Ở đấy xưa có tự điền , để cung cấp cho người giữ đền. Xã Yên lịch ở dưới núi lại có miếu vua Thuấn... "Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên.
4 Hang Thánh chúa này là hang núi Kính chúa tại làng Kính chúa huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương thời Nguyễn, tức hang núi Thạch môn, làng Dương nham, huyện Kính môn, tỉnh Hải dương ngày nay, ở đấy có hang và hang núi hiện vẫn còn là hang Kính chủ. Bởi vì truyện đây nói Giới Không đi đến Nam sách, mới vào ở hang Thánh chúa. Và Nam sách là tên một lộ đời Trần. An nam chí lược 1 tờ 19 ghi là lộ Nam sách giang. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách nói: "Năm Lê Quang Thuận thứ   7 (1466) đặt Nam sách thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) định bản đồ thiên hạ, gọi đó là Hải dương, Thừa tuyên gồm bốn phủ, tức Thượng hồng, Hạhồng, Nam sách và Kinh môn, lĩnh 18 huyện... " Và Nam sách thừa tuyên hay lộ Nam sách giang theo Dư địa chí đã nổi tiếng với núi Kính chủ, nơi sản xuất đá hoa.
Viết về núi này Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: "Núi Kính chủ tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, một tên là núi Thắng hóa nham, cao 160 trượng, hang dài 60 trượng, rộng 20 trượng. Lại có chùa ở núi Lương nham tử, hướng nam, không biết dựng từ đời nào. Vua Trần Nhân Tôn đánh giặc Nguyên có đóng quân trên núi đó... Hang bên phải dài 40 thước, rộng 50 thước thờ Thiền sư Minh Không. Hang bên trái dài 7 thước rộng 20 thước thờ Lý Thần Tôn. Thổ nhân tương truyền xưa có một người đánh cá bên sông Kính chủ thấy một tượng gỗ mắc vào lưới mình, vứt ra mà tượng không ra, bèn khấn rằng nếu tượng có linh, xin giúp cho tôi có nhiều cá thì tôi sẽ thờ làm thần. Từ đó người ấy đánh được rất nhiều cá được lời, bèn rước tượng lên bờ. Người trong thôn đến xem thì thấy nó nói: "Ta là Lý Thần Tôn, nhân đi chơi mà đến đây. Nhân thế, họ lập miếu ở động núi để thờ. Họ lấy tháng giêng và tháng 10 làm tháng kỵ".
Sự tích vừa dẫn, dù đầy đủ tính chất hoang đường quái đản, giải thích cho ta không ít tại sao ngọn núi Kính chủ hay Thánh chủ đã có tên như vậy. Thêm vào đó, Toàn thư B7 tờ 18b3 ghi: "Năm Thiệu Phong 15 (1355) mùa xuân tháng hai núi ở Trà hương băng". Cương mục chính biên tờ 10a5-7 cũng ghi việc đó, nhưng sửa lại là núi Kính chủ, rồi chua như: Kính chủ là Thánh chủ ở tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương.
Lý Thần Tông trưng mời, Sư nhiều lần từ chối, rồi mới đến. Năm Đại Thuận thứ 81, có nạn dịch lớn , Sư được triệu đến kinh, sắc ở chùa Gia lâm2, dùng nước chú giải để trị. Người bệnh lành ngay. Ngày đến cả ngàn, vua rất khen thưởng cho hộ 10 người để làm cấp dưỡng.
Tuổi già, Sư về làng cũ, trùng tu chùa hoang 95 ngôi. Một hôm không bệnh, Sư nói kệ dạy chúng rằng:
(63a1) "Ta có một việc kỳ đặc Chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen Thiên hạ tại gia xuất gia
Yêu sống, ghét chết là giặc Không biết sống chết khác đường Sống chết chỉ là được mất
Nếu bảo sống chết khác đườbg Dối lừa Thích Ca, Di Lặc
Nếu biết sống chết, sống chết Mới hiểu chỗ ẩn lão tăng
Các ngươi môn nhơn hậu học Chẳng nhận vòng vo phép tắc".
Nói kệ xong, Sư cười lớn một tiếng, chấp tay mà mất. Môn nhân đệ tử là châu mục Lê Kiếm(8) và phòng át sứ Hán Đinh làm lễ trà tỳ, thu xá lợi, dựng tháp đúc tượng để hương khói.

60. THIỀN SƯ Pháp Dung3 (? - 1174)
Chùa Hương nghiêm, núi Ma ni4, phủ Thanh hóa. Người Bối lý1, họ Lê, là hậu duệ của châu mục Ái châu Lê Lương đời Đường2, trải qua 15 đời là một danh tộc của châu đó. cha là Huyền Ngưng, đạo

1 Niên hiệu Đại Thuận, chỉ Đại Việt sử lược ghi lại, còn Toàn thư và tất cả các sử khác của ta gọi là Thiên Thuận, là của Lý Thần Tôn kéo dài từ năm 1128-1132. Như vậy, tất không thể nào có chuyện "năm Đại Thuận thứ 8" được. Chúng tôi nghi năm Đại Thuận "thứ 8" chắc là một viết sai của năm Đại Thuận thứ hai hoặc thứ ba. Nhưng trong khoảng Đại Thuận, cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi một nạn dịch lớn nào xảy ra cả, nên không thể quyết đoán được. Do thế, chúng tôi vẫn để nguyên như nguyên văn đã có. Có thể năm Đại Thuận thứ 8 là một chép lộn của năm Đại Định thứ 8, nhưng trong khoảng Đại Định, các sử vẫn không thấy ghi một nạn dịch nào lớn cả.
2 Tức cháu nội của châu mục Phong châu Lê Thuận Tôn và công chúa Kim Thành và là anh của Thiền sư Trí Nhàn ở dưới đây. Cứ truyện Trí Nhàn, thì Kiếm giữ chức Châu mục của Phong châu, chứ không phải một nơi nào khác.
3 Theo bia chùa Hương nghiêm do Hoàng Xuân Hãn phát hiện và dẫn trong Lý Thường Kiệt tr.453-461 thì Dung đúng ra phải có tên Đạo Dung "nhưng những bản nay còn đều chép hiệu sư là Pháp Dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy Trần Hưng Đạo". Thiền uyển tập anh, như một tác phẩm đời Trần, như vậy chắc đổi chữ Đạo thành chữ Pháp.
4 Chùa Hương nghiêm nay vẫn còn ở xã Phủ lý, huyện Đông sơn, tỉnh Thanh hóa. Chính tại nơi đây, mà ta tìm tấm bia dựng vào năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 Giáp thìn (1124) kể lại sự tích chùa và sự tích sư Đạo Dung. "Chùa này hoàn toàn mới, các vật trong chùa đều mới, trừ quả chuông đúc đời Gia Long. Trong vườn không thấy có tháp cổ. Còn có hồ". Tấm bia chùa này còn đọc rõ được là nhờ một nhà Sư tên Lê văn Nghị trú trì chùa đó đã thuê thợ đúc lại theo nét chữ xưa vào năm Lê Bảo Thái thứ 7 (1726).
"Ngày nay làng Phủ lý không có núi cao. Núi Càn ni chép ở bia, có lẽ chỉ là mô đất cao hơn cánh đồng chung quanh". Đấy là ý kiến của Hoàng Xuân Hãn. Núi Càn ni ở bên chùa Hương nghiêm, tức núi Ma ni ở đây, vì chữ Càn là húy đời Trần. Toàn thư B6 tờ 30a2-3 nói: "Cửa Cần trước đổi là Càn vì tránh húy nên gọi làm Cần. Càn ni, do thế bị tác giả Thiền uyển tập anh đổi thành Ma ni.
hiệu Tăng phán3. Sư hình dung tú dị, ăn nói thanh cao. Đối vơi kinh vàng kệ ngọc, không gì là không đọc tụng. Nhỏ theo Tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ xuất gia4. Hỷ thấy, lấy làm lạ, bèn trao (63b1) pháp ấn5.
Từ đó, Sư buông chí núi sông, chẳng ngại chỗ tới. Đến lúc phải đi hóa đạo, Sư bèn trác tích tại chùa Khai giác núi Thứu Phong, dạy dỗ học trò6, người học đầy nhà. Sau Sư trở về núi Ma ni, dựng chùa để dưỡng lão.
Ngày mồng 15 tháng 2 năm Giáp ngọ Thiên Cảm Chí Bảo thứ nhất (1174)7, Sư không bệnh mà hóa. Môn nhơn Đạo Lâm v.v... làm lễ hỏa táng ở núi đó và dựng tháp để thờ.
1 Tức xã Phủ lý, huyện Đông sơn, tỉnh Thanh hóa ngày nay, bởi vì không những ngày nay xã đó đang có chùa Hương nghiêm, trái lại còn về phía tây xã hiện có hai làng Viên quang và Hồ đàm, đất của giáp Viên đàm, mà bia chùa Hương nghiêm nói tới là đã có sự tranh chấp đất đai với Giáp bối lý. Đất Giáp bối lý có lẽ phải bao gồm cả những đất của làng Nhân lý và Mỹ lý nữa.
2 Theo bia chùa Hương nghiêm thì Lê Lương là người đầu tiên dựng chùa Hương nghiêm ở Giáp bối lý vào thời Hậu Đường (923- 937). "Ông thuộc một cự tộc ở quận Cửu chân, châu Ái. Ông làm đến chức Trấn quốc bộc xạ. Nhà ông giàu rất có thế lực trong xứ. Thóc ông trữ đến 110 lẫm. Trong nhà ông nuôi 3000 người khách. Ông dốc một lòng thiện, rất sùng đạo Phật". Đến khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vào năm 968, ông được phong Ái châu Cửu chân đô oai quốc dịch sứ, hàm Kim tử quang lộc đại phu, phong ấp. Ngoài chùa Hương nghiêm ra, bia còn nói ông có dựng chùa Trinh nghiêm và Minh nghiêm nữa, nhưng nay ta chưa tìm thấy chúng. Chúng có thể ở hai làng Nhân lý hay Mỹ lý.
3 Theo bia chùa Hương nghiêm thì đến đời Lý, vua Lý Thái Tôn đi chơi về phương nam tới Ái châu có qua chùa ấy. Hoàng Xuân Hãn Sđd., tr. 456, dựa vào Đại Việt sử lược và Toàn thư giả thiết Lý Thái Tôn đến chùa Hương nghiêm khoảng năm 1031. Nhưng chùa, trải mấy đời thờ cúng, rường cột đã đổ nát. Vua bèn sai sửa chữa lại. Vua lại ban cho cháu ông Bộc xạ, là Đạo Quang trưởng lão làm thiền chủ, cấp cho 5 tên giúp việc, và sai trụ trì ở đó". Cha của Đạo Dung theo bia như vậy là Đạo Quang trưởng lão, có lẽ đây là một tên phong khác, ngoài Huyền Ngung và Tăng Phán.
4 Bia chùa Hương nghiêm: "Năm Bính thìn (1076), Sư bỏ gia hương đi tìm bạn. Cỡi thuyền ra bể, rồi tới Thăng long. Ở đó Thiền sư gặp một vị tăng hiệu là Cao Tăng. Sư cảm phục, bèn theo học". Xem Lý Thường Kiệt tr. 457.
5 Bia chùa Hương nghiêm: "Đạo Dung hỏi: "Điều gì cốt yếu trong pháp?" Cao tăng trả lời: "Pháp vốn không phép, ta lấy gì mà bảo ngươi". Bỗng nghe Sư thấy trong lòng mở mang, bèn giác ngộ". Xem sđd., tr. 457.
6 Bia chùa Hương nghiêm: "Sư bèn ngược dòng sông Lô (Nhị Hà) trèo núi Thứu đài. Ngắm xem cảnh đẹp ấy, Sư dừng chân lại, cho là rất vừa ý. Sư sai thợ chọn hướng, ghép đá làm nền, mà dựng nên chùa. Đặt tên là chùa Khai giác". Xem sđd., tr. 458.
7 Hoàng Xuân Hãn, sđd, tr. 460, nhận xét: "Thiền uyển tập anh chép rằng: "Rồi Sư trở về nhà, dựng chùa để ở đến lúc già. Sư mất ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp ngọ 1174 đời Thiên Cảm Chí Báu". Chép như vậy chắc lầm, vì rằng năm 1076 Sư đã ra Thăng long. Nếu sống đến năm 1174, thì Sư phải ít nhất cũng một trăm hai mươi tuổi".
Cứ theo báo cáo của Hãn về cái bia chùa Hương nghiêm này, thì quả thực nó đưa ra khá nhiều vấn đề cho chúng ta về niên đại của Đạo Dung, bởi vì theo nó thì năm 1076 Dung ra Thăng long gặp Khánh Hỷ, năm 1087 (Hãn sửa lại là năm1077) Dung trở về quê và yêu cầu tùng huyễnh Lưu Khánh Đàm sửa lại chùa Hương nghiêm, cùng năm này Dung được vua Lý Nhân Tôn mời ra Thăng long lập đạo tràng trong cung, rồi năm 1122 Dung trở về quê, lại sửa chùa Hương nghiêm để ở. Sửa xong, viết bia đó vào năm 1124. Đến lúc này, thế nào Dung cũng trên dưới 70 tuổi rồi. Không lẽ nào Dung còn sống thêm 50 năm nữa cho tới năm 1174 mới mất sao? Chúng tôi hiện chưa có nguyên văn cái bia chùa Hương nghiêm này, nên không thể bàn cãi gì thêm. Nhưng cũng cần lưu ý rằng năm Bính thìn 1076 cũng có thể là năm Đinh mão 1147, và năm Nhâm dần 1122 có thể là năm Canh dần 1170.

Thế Hệ Thứ Mười Sáu (3 người)

61. THIỀN SƯ Trí Nhàn (Một tên là Tĩnh Lự)1
Am Phù môn, núi Cao dã, Yên lãng2. Người Phong châu3, họ Lê, tên Thước là miêu duệ của Ngự Man Vương triều Lê4. Oâng nội là Thuận Tôn làm quan với triều Lý đến chức Trung thư đại liêu ban, lấy công chúa Kim Thành5. Cha là Đạc, làm quan đến chức Minh tự. Anh là Kiếm, xa nhận chức Tam nguyên đô tuần kiểm cùng được bổ làm Châu mục6. Sư sớm lo việc học hành, thi đậu tiến sĩ, sung làm Cung hầu thư gia7.
Năm 27 tuổi, một hôm (64a1) theo anh dẫn tới trường giảng của Giới Không, nghe giảng kinh Kim cang đến câu "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt bóng, như sương cũng như chớp, nên quán sát như thế"8. Sư bỗng nhiên cảm ngộ than rằng: "Năm lời của Như Lai đâu có điêu ngoa1. Các
1 Cả hai bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều có "Trí thiền sư". Nhưng Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16a7-8 và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tăng thích, có ghi tên một vị Thiền sư tên Trí Nhàn, mà chúng mô tả như: "Người huyện Yên lãng, siêng tu hạnh lành, thấy một con cọp đuổi một con hươu bèn bảo: "Tất cả chúng sinh đều tiếc thân mình, mầy chớ hại nhau". Con cọp cúi đầu xuống đất mà đi. Bọn mọi Lào gần núi họp nhau ăn trộm. Sư dẫn dắt khuyên dỗ, phần lớn cảm hóa theo lời sư dạy mà làm lành".
Cứ vào mô tả đó, thì Thiền sư Trí Nhàn của Đạo giáo lưu nguyên, Đại nam nhất thống chí, tức "Trí Thiền sư" của Thiền uyển tập anh ở đây, chứ không ai khác, bởi vì không những hợp về quê quán, mà còn hợp về những tình tiết sống khác như chuyện nói chuyện với cọp và chuyện dạy "mọi Lào" đừng ăn trộm. Chúng tôi do thế nghi rằng: "Trí thiền sư" của ba bản in Lê, Nguyễn đã thiếu mất một chữ, đấy là chữ Nhàn, và tên đầy đủ của Trí thiền sư từ đó phải là Trí Nhàn thiền sư. Chỉ có vấn đề là Đạo giáo nguyên lưu và Đại nam nhất thống chí đã lấy tài liệu ở đâu đó có thể viết về Thiền sư Trí Nhàn như vậy. Chúng tôi nghi nó lấy từ An nam chí nguyên và đúng là nó lấy ra từ sách đó. An nam chí nguyên 3 tờ 210 chép việc Trí Nhàn giống như Đại nam nhất thống chí dẫn trên. Từ đó, dĩ nhiên cuốn sách ấy tất phải sử dụng nếu không phải bản in Thiền uyển tập anh xưa nhất thì một tài liệu đã dùng bản in Thiền uyển tập anh trước bản năm 1715 xưa nhất của chúng ta hiện còn. Vì vậy, bản in trước năm 1715 chắc chắn phải có đầy đủ tên Thiền sư Trí Nhàn, chứ không phải cái tên thiếu là Thiền sư Trí, mà bản in năm 1715 do in sót tạo ra, rồi di lụy đến bản in đời Nguyễn.
Chúng tôi do vậy đề nghị bổ sung tên Thiền sư Trí thành Thiền sư Trí (Nhàn), để cho tên các vị Thiền sư ở đây được nhất quán. Thiền sư nào cũng có hiệu do hai chữ ghép lại cả, dĩ nhiên trừ Thiền sư Ấn độ.
2 Yên lãng ở đây dĩ nhiên không phải là trại Yên lãng, huyện Thọ xương, tỉnh Hà nội đời Nguyễn, mà là huyện Yên lãng, tỉnh Sơn tây đời Nguyễn, bởi vì huyện Trí nhàn ở đây nói "hai triều đại Anh và Cao Tôn nhiều lần triệu thỉnh mà Nhàn không đáp", đến nỗi Tô Hiến thành và Ngô Hòa Nghĩa phải "đem lễ thầy trò đi tìm", thì đủ rõ am của Nhàn tất không thể ở ngoại ô thành phố Hà nội được. Theo Đại nam nhất thống chí tỉnh Sơn tây, mục Kiến trí diên cách, thì Yên lãng là tên huyện từ thời Đinh và Lý. Nay là huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phúc.
Chúng tôi hiện chưa truy ra một ngọn núi mang tên Cao đã thuộc huyện đấy.
3 Tức gồm đất huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phúc ngày nay. Xem chú thích (6) truyện Pháp Hiền. Đại nam nhất thống chí nói Nhàn người huyện Yên lãng. Xem chú thích (1) trên.
4 Tức Lê Long Đĩnh, con thứ tư của Lê Đại Hành, được phong làm Ngự Man Vương ở Phong châu vào năm 991. Xem Toàn thư B1 tờ 20a3 và Cương mục chính biên 1 tờ 26b1.
5 Toàn thư B2 tờ 24b3-4 viết: "Thông Thụy năm thứ 3 (1036) tháng 3, đem công chúa Kim Thành gả cho Châu mục Phong châu Lê Thuận Tôn". Đại Việt sử lược 2 tờ 6b2 gọi công chúa Kim Thành là công chúa Khánh Thành. Lê Thuận Tôn như vậy là con của Lê Long Đĩnh và là cháu nội của Lê Hoàn.
6 Châu mục đây phải là Châu mục Phong châu, bởi vì tính tập ấm của chức ấy dưới thời Lý. Nếu ông nội của Kiếm đã giữ chức Châu mục Phong châu và Kiếm lại là chắt ngoại của Lý Công Uẩn, thì một sự tập ấm như vậy càng dễ dàng, như trường hợp giòng họ Thân ở Lạng giang.
7 Toàn thư B7 tờ 40b8 viết: "Năm Long Khánh thứ 2 đình thí tiến sĩ". Cương mục chính biên 10 tờ 35a2 ghi: "Năm Long Khánh thứ 2 mùa xuân tháng 2 bắt đầu đặt khoa tiến sĩ". Nhưng cứ truyện Trí Nhàn ở đây thì từ tiến sĩ đã xuất hiện dưới thời Lý Anh Tôn, nếu không nói khoa tiến sĩ ra đời vào lúc ấy. An nam chí lược 14 tờ 133 có ghi chức cung hầu thư gia thuộc loại quan văn.
8 Dẫn kinh Kim cang tờ 752b:
Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng huyễn bào ảnh Như lộ, diệc như điển Ưng tác như thị quán.
pháp thế gian giả dối không thật, chỉ có đạo là thật. Ta lại đi tìm gì nữa? Vả, nhà nho có thể nói tới đạo vua tôi, cha con2, còn Phật pháp thì có thể bàn đến công hạnh của Thanh văn, Bồ tát3. Hai lời dạy dù khác nhưng đều quy về một. Tuy nhiên, để ra khỏi cái khổ của sống chết, và dứt trừ điều có không, thì nếu không phải giáo lý của Đức Thích Ca, quyết không thể vậy". Bèn xin xuống tóc.
Sau khi đã hiểu được yếu chỉ, Sư vào thẳng núi ấy, ở dưới gốc cây ngày đọc kinh, đêm thiền
định, chuyên tu khổ hạnh, thề đủ sáu năm.
Một hôm Sư ngồi thấy một con cọp đuổi một con nai đến, Sư dỗ rằng: "Tất cả chúng sinh đều tiếc tánh mạng, ngươi chớ nên giết hại nhau". Cọp cúi đầu sát đất, tỏ dấu quy y rồi đi.
Về sau, Sư làm một cái am ở dưới chân núi, dạy dỗ học trò. Bốn phương cúng dường, của chất thành đống. Mọi Lào gần núi (64b1) gọi nhau họp lại làm trộm. Mỗi khi nhà Sư ra đi, thường có con cọp lớn nằm giữ cửa am. Bọn trộm không dám xâm phạm. Người được Sư dẫn dụ trở về đường lành, số không thể kể xiết.
Hai triều đại Anh Tôn và Cao Tôn, nhiều lần triệu thỉnh mà Sư không đáp. Phụ quốc thái úy Tô Hiến Thành và thái bảo Ngô Hòa Nghĩa đem lễ thầy trò đến tìm, trải qua 10 năm chưa hề biết mặt. Bỗng một hôm, Sư cùng các vị ấy gặp nhau, họ vui mừng khôn xiết. Vừa chào hỏi xong, Sư nói bài kệ rằng:
"Đã mang chí vượt, dưỡng trong lòng Nghe nói lời mầu, ý những nương Tham dục bỏ xa ngoài vạn dặm
Hi di diệu lý ngày bao dung"4
Lại nói:
"Đạm bạc giữ mình Chỉ đức là việc Hoặc bảo lời lành Một câu khăng khít Lòng không kia, ta Đã hết mù mịt
Ngày đêm xuống lên Không hình bám vít Như bóng như vang Không dấu theo vết
1 Theo kinh Kim cang lời nói do Đức Phật phát biểu ra có năm tính chất đây là tính chân, tính thật, tính đúng, tính không dối, tính không thần dị. Xem kinh Kim cang tờ 750b27: "Như Lai ngữ giả thị chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả".
2 Đấy là thuyết chính danh của Nho giáo. Thuyết đấy cho rằng để lập lại trật tự xã hội và phục vụ lợi ích xã hội, thì người làm vua phải ra làm vua, người làm cha phải ra người làm cha, người làm tôi phải ra người làm tôi, người làm chồng phải ra người làm chồng, người làm vợ phải ra người làm vợ v.v... nếu không được chính danh như vậy, xã hội sẽ loạn lạc, trật tự bị đảo điên.
3 Tức thuyết tự lợi, lợi tha của Phật giáo. Trong Phật giáo thường chia làm hai phái, đấy là phái Thanh văn, và phái Bồ tát. Phái Thanh văn có nghĩa là phái nghe lấy những lời của Phật Thích Ca Mâu Ni để tu hành nhằm giải phóng những khổ não do chính bản thân mình và chỉ nhằm sự giải phóng đó thôi. Do thế, có một phái khác chủ trương phải giải phóng những khổ não của những kẻ khác nữa, chứ không phải của chính mình. Phái này gọi là phái Bồ tát, tức phái của những người nhằm sự giác ngộ hoàn toàn.
4 Hy Di chi lý, tức đạo lý cao siêu. Đạo đức kinh chương 14 định nghĩa chữ Hy Di thế này: "Xem mà không thấy, gọi là Di; lắng mà không nghe gọi là Hi" Xem Đạo đức kinh thượng thiên tờ 7b2-3.
Nói xong, Sư chấp tay ngồi thẳng mà mất. Các vị trên và đệ tử khóc lớn, tiếng vang rung động cả núi rừng.
[65a1]

62. THIỀN SƯ Chân Không (1046-1100)
Chùa Chúc thánh, núi Phổ lại, Phù lan1. Người Phù đổng, Tiên du, họ Vương, tên Hải Thiềm, xuất thân từ vọng tộc. Khi mẹ mang thai, cha mộng thấy một tăng sĩ trao cho tích trượng, nhân đó có được Sư.
Thuở nhỏ, Sư mồ côi, khổ công đọc sách, không thích việc vặt. Năm 15 tuổi rộng hiểu sách vở. Đến năm 18 Sư dạo khắp thiền lâm đi tìm ấn chứng. Nhân đó đến hội giảng của Thảo Nhất tại chùa Tịnh lự, núi Đông cứu2 nghe giảng kinh Pháp hoa, Sư bỗng nhiên tỏ ngộ.
Từ đó, cơ duyên hòa hợp, rùa gỗ gặp nhau3. Nhập thất sáu năm, học hỏi nghiên cứu mỗi ngày một thêm tiến bộ. Sau nhận được tâm ấn. Sư liền đến ở núi ấy theo luật mà tự phòng hộ, không rời khỏi núi, trải qua 20 năm tiếng khen đồn khắp.
Vua Lý Nhân Tôn nghe được, xuống chiếu mời Sư vào đại nội để giảng kinh Pháp hoa, thính giả tìm đến tấp nập. Bấy giờ thái uý Nguyễn Thường Kiệt, thứ sử Lạng châu là tướng quốc Thân Công4 càng thêm kính trọng, thường bỏ của riêng ra cúng dường Sư. Sư được những gì đều đem sửa chùa xây tháp (65b1) và đúc hồng chung để lưu lại ở trấn.
Một lần, có một vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo mầu?" Sư đáp: "Giác ngộ rồi mới biết"
Tăng hỏi thêm: "Đối với giáo chỉ của người xưa thì người học này chưa hiểu. Nay dạy như vậy làm sao hiểu được?"
1 Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a7-b1 viết: "Núi Phổ lại tại xã Phổ lại, huyện Quế dương, núi đá rất cao, ngó xuống dòng sông Lục đầu, cảnh trí khoáng đãng. Trên núi có chùa Chúc thánh, đó là nơi tu hành luyện tinh của Thiền sư Không lộ. Thời Trần, vua quan thường hay đến đó ngâm vịnh. ". Xem thêm Đại nam nhất thống chí tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên. Nay là núi Phả lại tại
xã Phả lại, huyện Quế dương, tỉnh Hà bắc.
Một khi đã xác định vị trí của núi Phả lại như thế thì vị trí của chùa Phù lan tất không thể giới hạn theo Cương mục chính biên 1 tờ 27a4 được, bởi vì theo nó thì "Phù lan là tên một trại, nay là xã Phù vệ thuộc huyện Đường hào, tỉnh Hải dương". Đất của trại Phù lan đời Lê và Lý, ngoài huyện Đường hào ra, còn phải ăn thâm lên một phần nào đất huyện Quế dương và có thể là huyện Chí linh nữa.
2 Đại Việt sử lược 2 tờ 10b3-4 viết: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ hai (1055) dựng chùa Tĩnh lự ở núi Đông cứu". Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 6a1 viết: "Núi Đông cứu tại huyện Gia định gồm nhiều ngọn núi đứng thẳng, ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa Thiên thai, cảnh trí cũng đẹp. Trịnh Dụ Tổ thường đến chơi nơi ấy.         ". Huyện Gia định năm Minh mạng thứ 1 (1820) đổi
làm huyện Gia bình, nên Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Thiên thai tại tây bắc huyện Gia bình 5 dặm, một ngọn đứng cao chót vót, đá đất lẫn lộn, bên cạnh có những ngọn khác ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa, có thể gọi là đẹp đẽ. Nó một tên là núi Đông cứu một tên là núi Đông cao".
Vị sư Thảo Nhất của chùa này, mà truyện Chân Không đây nói tới, ta hiện không biết một tí gì.
3 Qui mộc tương giao. Điển rút từ kinh Tạp a hàm: "Trong biển lớn có một con rùa đui, sống lâu vô lượng kiếp, cứ trăm năm thì ló đầu lên một lần. Lại có một khúc gỗ nổi chỉ có một lỗ hổng, trôi dạt theo sóng biển, tùy gió mà trôi đông hay trôi tây. Con rùa mù một trăm năm ló đầu một lần mà gặp lỗ hổng của khúc gỗ đó, thật là khó thay". Xem Tạp a hàm kinh 16. Xem thêm kinh Niết bàn: "Sinh ra đời làm người là một chuyện khó. Gặp được thời cũng khó. Giống như con rùa mù trong biển lớn gặp được một lỗ hổng trên khúc cây". Xem Đại bát niết bàn kinh 2.
4 Tức phải chỉ Thân Đạo Nguyên, con của Thân Thiện Thái và công chúa Bình Dương, bởi vì không những Nguyên đồng thời với Lý Thường Kiệt, mà còn vì vợ của Nguyên là công chúa Thiên Thành dưới đây cũng đến cúng dường Chân Không. Theo Đại Việt sử lược 2 tờ 11a7-8 và 15a2 thì Nguyên cũng có tên là Thân Cảnh Nguyên, được Lý Thánh Tôn chọn làm phò mã năm 1059 và 1066 thì chính thức cưới công chúa Thiên Thành. Tục tư trị thông giám trường biên 279 tờ 11a gọi Nguyên là Thân Cảnh Phúc, còn Mộng khê bút đàm 2 thì gọi là Thân Cảnh Long. Ta chưa hiểu rõ tại sao lại có nhiều sai chạy như vậy. Dẫu sao , Nguyên là một trong những vị tướng lãnh có công đầu trong trận chống quân xâm lược Tống năm 1075.
Sư đáp:
"Nếu đến nhà tiên trong động thẳm Thuốc đan đổi cốt được đem về" Hỏi: "Thế nào là viên thuốc đan?" Sư đáp:
"Nhiều kiếp ngu si không biết rõ Sáng nay chợt ngộ được tỏ bày" Hỏi: "Thế nào là tỏ bày?"
Sư đáp: "Tỏ bày chiếu khắp cõi Ta bà Tất cả chúng sinh cùng một nhà".
Lại hỏi: "Tuy không giải đích xác nơi nơi đều gặp y1. Cái nào là y?" Sư đáp: "Lửa kiếp2 lẫy lừng thiêu rụi hết
Núi xanh như cũ trắng mây bay".
Lại hỏi: "Sắc thân tan rã rồi thì sao?"
Sư đáp: "Xuân đến xuân đi nghi xuân hết Hoa rơi hoa nở chỉ là xuân"
Tăng ngẫm nghĩ, Sư quát:
"Đồng bằng sau cơn lửa Cây cối mỗi tươi thơm" Tăng vái lạy.
Tuổi già, Sư về quận mình, dựng lại chùa Bảo (66a1) cảm. Đến ngày 01 tháng 11 năm Hội Phong thứ 9 (1100), khi sắp tịch, Sư nói bài kệ:
"Trống vắng gốc mầu sáng rực ra Gió hòa nổi dậy khắp Ta bà Người người thảy biết vô vi sướng Nếu được vô vi mới phải nhà".
Vào nửa đêm hôm đó, Sư lại nói:
1 Thiền sư Động Sơn Lương Giới, khi bước qua dòng nước thấy cái bóng mình mà ngộ đạo, bèn làm bài thơ: "Thiết kỵ tùng tha mích
Thiều thiều dữ ngã cư Ngã kim độc tự vãng Xứ xứ phùng đắc cừ". (Rất kỵ tìm nơi khác Cùng ta nó luôn đi
Ta nay riêng tự đến Nơi nơi đều gặp y)
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 321c19. Khái niệm "nơi nơi đều gặp y" là rút từ bài thơ vừa dẫn.
2 Kiếp hỏa. Thế mạt luận Phật giáo nói vào lúc hủy diệt, thế giới sẽ bị thiêu rụi bởi một ngọn lửa có sức nóng bằng bảy mặt trời. Ngọn lửa đấy gọi là kiếp hỏa hay lửa kiếp. Xem A tỳ đạt ma câu xá luận 12. Quan niệm thế mạt đó sau này Thiền tôn mượn để đặt thành công án. Công án thứ 29 của Bích nham lục đặt vấn đề thế này: "Khi lửa kiếp lẫy lừng, vũ trụ thiêu hoại, thì cái gì hoại, cái gì không hoại?". Xem Bích nham lục 3 tờ 169a 17-18.
"Đạo tâm đã thành Giáo ta đã  hành Ta theo biến hóa".
Rồi ngồi kiết già mà mất, thọ 55 tuổi đời, 36 tuổi hạ1, hoàng thái hậu và công chúa Thiên Thành2, cùng đệ tử Ni sư Diệu Nhân3 đều đem dâng lễ vật. Qua hai ngày sau, đại sư Nghĩa Hải chùa Đại minh và sa môn được ban ấn tín Pháp Thành đem đồ chúng và sắm sửa lễ vật đến chôn Sư, xây tháp ở ngoài trai đường. Học sĩ Nguyễn Văn Cử phụng chiếu soạn bài minh cho tháp, công bộ thượng thư Đoàn Văn Khâm có thơ truy điệu rằng:
"Triều đình thôn dã nức cao phong Gậy chống như mây gặp hội rồng Kinh hãi nhà nhân, cây huệ gẫy Than dài rừng đạo, đọt tùng buông Cỏ biếc vây mồ thêm tháp mới
Núi xanh soi nước thấy hình vương (66b1) Cửa thiền vắng vẻ nào ai gõ
Qua đấy chuông chiều vẳng tiếng buồn"4

63 THIỀN SƯ Đạo Lâm (? - 1203)

Chùa Long vân, làng Siêu loại, Long phước5. Người Cửu cao, Chu diên6, họ Tăng sớm mộ Không tôn1, chỉ hạnh thuần khiết. Ban đầu, Sư theo Pháp Dung chùa Hương nghiêm thọ nghiệp. Trải qua nhiều
1 Tuổi hạ mà từ Phật học Trung Quốc gọi là hạ lạp, là một thứ tuổi tính theo tiêu chuẩn tổ chức Phật giáo. Tuổi ấy bắt đầu tính từ khi một người được chính thức nhận vào tổ chức Phật giáo của những người xuất gia, thể hiện qua việc người đó chấp nhận những kỷ luật đầy đủ của một người sống hoàn toàn theo Phật giáo, tức kỷ luật Tỳ kheo. Chỉ khi nào chấp nhận kỷ luật đó, tức thường gọi là "Cụ túc giới", tuổi hạ bắt đầu tính.
Mỗi tuổi hạ là tương đương với một tuổi đời, bởi vì nhận giới Tỳ kheo mỗi năm phải sống cấm túc ba tháng mùa mưa, còn những tháng khác họ phải đi lang thang hoạt động truyền giáo, nên nếu ai sống mỗi năm được ba tháng cấm túc đó thì được một tuổi hạ.
2 Hoàng thái hậu đây tức Linh nhân Hoàng thái hậu (?- 1117), mẹ của Lý Nhân Tôn. Xem chú thích (3) truyện Thông Biện. Còn Thiên Thành công chúa (? - 1149) là con của Lý Thánh Tôn và là vợ của Thân Đạo Nguyên. Xem chú thích (3) ở trên.
3 Cả hai bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều viết: "Đệ tử Mậu Nhân ni sư". Nhưng truyện của ni sư ở tờ 67a8 thì nói ni sư tên Diệu Nhân. Chúng tôi nghi chữ Mậu là một sai khác của chữ Diệu, tỵ húy tên mẹ Trần Thái Tôn là Lê thị Diệu, nên Diệu đổi làm Mậu.
4 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13b3-6 chép y nguyên bài thơ, trừ câu thứ 5 mà nó chép thành: "Vân oanh bích thảo thiêm tân tháp". Về những bàn cãi liên quan tới tác giả bài thơ này cùng bài thơ ở truyện Quảng Trí xem chú thích (3).
5 Cái tên Long Phúc được nhắc tới hai lần trong Thiền uyển tập anh một ở đây và một ở truyện Y Sơn tờ 70b1. Cứ vào thành phần cấu tạo nên nó, tức làng Siêu loại và Đại thông trường, ta có thể xác định phần đất đó thuộc gồm hai huyện Siêu loại và Gia bình đời Nguyễn, tức huyện Thuận thành và phần bắc huyện Gia lương, tỉnh Hà bắc hiện nay. Về vị trí là làng Siêu loại, xem chú thích
(1) truyện Thiện Hội về Đại thông trường. Xem chú thích (1) truyện Y sơn.
6 Cương mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: "Huyện Chu diên đời Hán đặt thuộc quận Giao chỉ, đời Đường đổi làm Diên châu, đời Lê là phủ Tam đái, nay tức là đất phủ Vĩnh tường, tỉnh Sơn tây". Nhưng cả Tùy thơ 21 tờ 7b8 lẫn Cựu Đường thơ 41 tờ 42b11 đều nói Chu diên là đất quận Vũ bình thời trước. Mà ta đã khảo ra đất quận Vũ bình rơi vào khoảng tỉnh Hưng yên ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Tịnh Lực. Ngoài ra Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 13a1 và Thái bình hoàn vũ ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu diên ở về phía đông nam, trị phủ Giao châu, nghĩa là đóng phía nam thành phố Hà nội ngày nay. Chi tiết này Độc sử phương dư kỷ yếu cũng chép y lại. Như vậy Chu diên chắc phải nằm phía đông nam thành phố Hà nội, nhưng nó gồm phần đất những huyện nào?
Truyện Đạo lâm đây nói Lâm "người Cửu cao, Chu diên". năm, mật nhận tâm ấn, bèn được chính Dung giao phó đèn Tổ, tùy chỗ thắp sáng, theo cơ giúp việc, lợi người không ít.
Đến tháng 5 năm Quý hợi Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư ngồi kiết già mà mất.2
Mà cứ Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi ba người đỗ tiến sĩ xuất thân từ làng Cửu cao "hạt Gia lâm". Đây là Trần Văn Bính khoa năm 1505, Vũ Hữu Nghiêm khoa năm 1514 và Nguyễn Di khoa năm1532. Làng Cửu cao này đến khoảng năm 1685 thì đổi thành làng Thượng tốn bởi vì khoa năm đó có Đỗ Công Bật "người hạt Thượng tốn", đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân đến con của Bật là Đỗ Công Đỉnh cũng là đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa 1706 và Đỉnh lại ghi là người làng Thượng tốn hạt Gia lâm. Mà ta biết làng Thượng tốn là làng Cửu cao đổi ra, vì Đại Việt lịch triều đăng khoa lục khi nói Trần Văn Bính là người làng Cửu cao, thì có chua thêm tức làng Thượng tốn.
Như vậy, làng Cửu cao, Chu diên nay là làng Thượng tốn, huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Địa phận của Chu diên do thế  phải ăn thâm vào phần đất của huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Vùng Chu diên xưa từ đó có thể gồm phần đất của những huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh và huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên ngày nay.
1 Tức chỉ Phật giáo, bởi vì toàn bộ tư tưởng Phật giáo được xếp thành hữu tôn, Không tôn và Tánh tôn mà Tánh tôn lại bao hàm cả hữu lẫn không tôn. Nhưng Tánh tôn và Không tôn lại bị "các Thiền gia lộn cho là cùng một tôn, một giáo", nên Phật giáo gọi là không tôn. Xem Tôn cảnh lục 34 tờ 616a6-617a4.
2 Truyện Tịnh Thiền tờ 68a7 nói: "Đến khi Lâm mất rồi, Thiền bèn đi khắp chốn thiền tìm bạn học thêm". Mà Thiền mất vào năm 1139. Như vậy Lâm tối thiểu cũng phải mất trước năm đấy chừng mười năm, chứ đâu lại có chuyện mất vào năm 1203, nghĩa là sau khi Thiền chết những mười năm. Lại thêm vấn đề, niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu chỉ thấy ở Toàn thư B4 tờ 22b8 và 23a5,  trong khi Đại Việt sử lược 3 tờ 14a1 v.v... viết là Thiên Tư Bảo Hựu. Chúng tôi do thế nghi rằng có thể người hiệu đính bản in năm 1715 đã sửa thêm niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu đấy vào, mà là tự nguyên ủy có thể là Thiên Cảm Chí Bảo hay Chính Long Bảo Ứng. Vấn đề niên đại các vị sư ở đây thật là nan giải. Trừ khi tìm thêm những bia văn mới, ta mới có thể giải quyết một phần nào.
Chúng tôi hiện biết tính chất ngược ngạo phi lý của niên đại 1203 đấy, nhưng không thể đề nghị một cách có căn cứ một niên đại giả thiết nào mới, vì niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 2 đã nhằm đúng năm can chi của nó, tức năm Quý hợi, như Toàn thư đã có. Dẫu sao, ta phải giả thiết Lâm phải mất trước Thiền khoảng mười năm, tức có thể khoảng năm 1175.

Thế Hệ Thứ Mười Bảy (có 4 người, 1 người khuyết lục)

64. THIỀN SƯ Diệu Nhân (1042-1113)
Viện Hương hải, làng Phù đổng, Tiên du. Cô tên là Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng Yết Vương1, bẩm tính hiền thục, ngôn hạnh có pháp. Vua Lý Thánh Tôn nuôi ở trong cung. Đến tuổi cập kê, vua gả cho thâu mục Chân đăng họ Lê. Họ Lê mất, tự thề ở vậy giữ nghĩa (67a1) không tái giá.
Một hôm than rằng: "Ta xem thế gian, hết thảy các pháp cũng như mộng huyễn, huống gì bọn phù vinh có thể nương tựa được sao?"
Do đó, đem cho sạch các đồ trang sức, xuống tóc xuất gia, đến thọ Bồ tát giới với Chân Không tại làng Phù đổng, học hỏi tâm yếu. Chân Không vì vậy ban hiệu và cho phép trụ trì tại ni viện. Cô giữ giới, hành thiền, đạt được Tam ma địa, thật là bậc tôn túc trong hàng ni chúng. Có ai đến cầu học, cô tất đem Đại thừa ra giảng dạy và nói: "Chỉ trở về nguồn tự tính, thì đốn tiệm có thể tùy đó mà thể nhập,  hãy thường tịch tịnh, tránh xa thanh sắc, ngôn ngữ"
Có học trò hỏi: "Tất cả chúng sinh bệnh, cho nên ta bệnh2, sao gọi là khi nào cũng tránh xa thanh sắc?"
Cô đem giáo nghĩa đáp: "Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, là người làm tà đạo, không thể thấy Như Lai"3
Lại hỏi: "Sao gọi là ngồi yên"4 Cô đáp: "Xưa nay không đi" Lại hỏi: "Sao gọi là không lời?" Cô đáp: "đạo vốn không lời".
Ngày 01 tháng 6 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113), cô cáo bệnh5 (67b1) nói kệ: "Sinh, già, bệnh, chết
Từ xưa thường vậy Muốn cầu thoát ly
1 Tức Phụng Càn Vương, tước của Lý Nhật Trung do cha là Lý Thái Tôn phong vào năm 1035. Chữ Càn vì húy đời Trần, nên đổi ra chữ Yết. Toàn thư B6 tờ 30a2-3: "Cửa Cần, trước gọi là Càn, vì tránh húy nên làm Cần".
2 Duy ma cật sở thuyết kinh quyển trung tờ 544b21: "Dĩ nhất thiết chúng sanh bệnh, thị cố ngã bệnh".
3 Kim cang kinh tờ 752a17:
"Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai".
4 Yến tọa, ngồi tĩnh lặng tư duy. Ơũ đây ám chỉ thiền thoại Tu Bồ Đề yến tọa mà các thiền gia thường nhắc tới như sau: "Tu Bồ Đề yến tọa trong một đống đá. Chư thiên mưa hoa tán thán. Tôn giả hỏi: "Trong hư không làm mưa hoa tán thán là ai đó?" Thiên trả lời: "Tôi là Phạm Thiên. Tôi tôn trọng Tôn giả khéo nói bát nhã ba la mật đa". "Ta đối với Bát nhã chưa từng nói một chữ, làm sao ngươi tán thán?" Thiên nói: "Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nghe, không nói ấy là một chân thật về Bát nhã". Xem Giáo ngữ lục tờ 680a5.
5 Toàn thư B3 tờ 16a7-9: "(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ 4 (1113) mùa hạ tháng 6, phu nhân Châu mục châu Chân đăng công chúa họ Lý mất. Phu nhân tên Ngọc Kiều là con gái lớn của Phụng Càn Vương. Thánh Tôn nuôi trong cung đến lớn, gả cho châu mục họ Lê Châu chân đăng. Họ Lê chết, cô tự thề ở góa, rồi xuất gia làm Ni. Đến đó mất, thọ 72 tuổi. Thần Tôn tôn hiệu là Ni sư".
Cởi trói thêm buộc Mê mới tìm Phật Lầm mới cầu thiền
Thiền Phật chẳng tìm Ngậm miệng không nói"1
Bèn gội tóc, rửa mình, ngồi kiết già mà tịch, thọ 72 tuổi.

65. THIỀN SƯ Viên Học (1073 -1136)
Chùa Đại an quốc, làng Cổ hạnh, Tế giang2. Người Như nguyệt3, họ Huỳnh. Nhỏ học sách đời, đến tuổi đội mũ, đi học nội điển4, nhân nghe một câu nói của Chân Không, tâm địa bỗng nhiên tỏ ngộ.
Từ ấy, Thiền học cao vút, luật nghi không ngại, thân mặc một áo suốt mùa lạnh nóng, bình bát tích trượng mang theo bên mình, tùy phương khai hóa; cho đến sửa cầu, đắp đường, không việc nào là không xung phong trước. Sau, Sư về làng Phù cầm5, trùng tu chùa Quốc thanh và đúc chuông. Thường có bài kệ duyên hóa sau:
"Sáu thức6 thường mê đêm trọn khổ, Vô minh che khuất mãi lưỡi buông Sớm tối nghe chuông khơi giác ngộ Thần lười diệt sạch được thần thông".
Ngày 14 tháng 6 mùa hè năm Bính thìn Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 (1136), Sư thị tịch, thọ (68a1) 64 tuổi. Các môn đệ Ngô Thông Thiền7, Lưu Vương Nhân, Lữ Pháp Hoa và Châu Diệu Dụng thu di cốt, xây tháp để thờ.
1 Bài kệ này Thái tôn hoàng đế ngự chế khóa hư quyển hạ tờ 33b 1-4 có chép và nói là bài kệ khuyên chúng của Trần Thái Tôn: Sinh lão bệnh tử
Lý chi thường nhiên Dục cầu giải thoát Giải phược thiêm triền Mê nhi cầu Phật
Hoặc nhi cầu thiền Thiền giả bất cầu Đổ khẩu vong ngôn.
Những chữ in nghiêng là khác với chữ trong bản Thiền uyển tập anh ở đây. Với những chữ khác ấy, chúng tôi nghĩ rằng Trần Thái Tôn đã lấy lại bài kệ thị tịch của Ni sư Diệu Nhân, rồi đổi một vài chữ, để làm của mình, nhất là khi quan niệm "nhất hồi niêm  xuất, nhất hồi tân" (mỗi hồi nêu ra, mỗi hồi mới) của các Thiền gia đời Trần đối với các công án cũ rất là phổ biến. Trần Nhân Tôn, khi có người hỏi sao mình cứ lập lại các công án cũ của người xưa như thế, đã trả lời: "Nhất hồi niêm xuất, nhất hồi tân".
Xem Thánh đăng lục tờ 4b1-2.
2 Tức huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Thuần Chân.
3 Tức làng Như nguyệt, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Nó không phải là lộ Như nguyệt giang, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 ghi làng Như nguyệt như là quê của Hứa Tam Tỉnh tiến sĩ khoa 1558.
4 Chỉ kinh điển Phật giáo. Nhị giáo luận của Đạo An trong Quảng hoằng minh tập 8 tờ 136c11-16 viết: "Cổ cứu hình chi giáo, giáo xưng vi ngoại, tế thần chi điển, điển hiệu vi nội... Thích giáo vi nội, Nho giáo vi ngoại".
5 Tức làng Phù cầm, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Minh Trí.
6 Sáu thức tức sáu thứ nhận thức do sáu giác quan đem lại, đây là nhận thức của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi, của thân và của ý.
7 Ngô Thông Thiền đây không phải là Cư sĩ Thông Thiền, thầy của Tức Lự, thuộc phái Kiến sơ.

66. THIỀN SƯ Tịnh Thiền (1121 - 1193)

Chùa Long hoa, làng Cổ giao, Long biên. Người làng Cổ giao, họ Phí, tên Hoàn. Ban đầu, cùng với bạn đồng học là Tịnh Không thờ Đạo Lâm chùa Long vân làm thầy. Hằng ngày miệt mài học hỏi, sâu hiểu lẽ huyền, Lâm biết Sư sẽ là pháp khí, nên ban hiệu và ấn chứng rằng: "Tịnh là tịnh trí diệu viên, Thiền là thiền tâm thường tịch". Đến khi Lâm tịch rồi, Sư bèn đi khắp chốn thiền, tìm bạn học thêm. Lúc duyên đạo đã thuần, bèn tìm về làng cũ, trùng tu chùa Long hoa. Ngoài lúc khảo sát thiền luật, Sư luôn nghĩ đến việc lợi tha.
Ngày 12 tháng 8 mùa thu năm Quí sửu Thiên Tư Gia Tự thứ 6 (1193) Sư thị tịch, thọ 73 tuổi.
Môn đồ là Pháp Ký soạn văn bia tại chùa có nói: Sư sinh đời Lý
Ra gặp thời minh Lục độ1 há quên
Tứ hoằng2 không bỏ Chén thơm3 chỗ nổi
Mười phương tín chủ sóng về Gậy tích khi khua
Bốn chúng4 học đồ mây nhóm Thần thông khôn tính
Huyền dụng khó lường
Nếu chẳng đến Phật giác trường Đâu hay thảnh thơi nghiệp tốt. Quả đúng:
Trời Thích trăng báu Vườn Pháp thôn thiêng.
1 Tức sáu cái giúp ngừơi ta vượt bến khổ đau, cũng gọi là ba la mật, đấy là bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
2 Tức tứ hoằng thệ nguyện, "Bốn thệ nguyện lớn", đấy là chúng sanh vô số lường thệ nguyện đều độ khắp, phiền não vô cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch, pháp môn không kể xiết thệ nguyện đều tu học, Phật đạo không gì hơn thệ nguyện đạt viên thành. Đấy là bốn lời nguyện tổng quát của Đại thừa. Xem Tâm địa quán kinh 7 và Vãng sanh yếu tập quyển thượng.
3 Hương bôi, tức chén nước thơm dùng để cúng Phật, cũng gọi là a già bôi, hay ư già bôi, chỉ cho chùa chiền.
4 Tứ bộ hay tứ chúng, tức bốn thành phần người Phật giáo, đấy là Tỳ kheo, Kỳ kheo ni, Ưu bàtắc và Ưu bà di.

Thế Hệ Thứ Mười Tám (có 2 người, 1 người khuyết lục)

67. QUỐC SƯ Viên Thông (1080 - 1151)
Chùa Quốc ân, làng Cổ hiền, Nam định1. Người Cổ hiền, họ Nguyễn tên Nguyên Ức. Sau về ngụ tại phường Thái bạch2 kinh thành Thăng long, nhân thể làm nhà ở đó. Dòng dõi làm Tăng quan. Cha là Huệ Dục làm quan triều vua Lý Nhân Tôn đến chức Tả hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác Thiền sư3. Sư bẩm tính thông minh, tài học tinh diệu, sớm có chí xuất trần, thường gặp Viên Học chùa An quốc, nhân đó mà được yếu chỉ. Năm Hội Phong thứ 6 (1197), đỗ Giáp khoa khoa thi tam giáo4 được sung vào chức Đại văn. Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8 (1106), vua chọn những bậc hoằng tài trong thiên hạ, để bổ vào chỗ khuyết trong giai Tăng đạo, Sư lại đứng đầu trong kỳ thi tuyển này, Vua càng cho (69a1) là lạ, sắp đem trao Sư quyền hành chăn dân. Sư cố từ không được, bèn nhận chức Nội cung phụng truyền giảng pháp sư.
Từ đó, Sư tùy cơ diễn hóa, chỉ bày yếu chỉ, giác ngộ cho người, giải điều mê trừ việc dốt, quyết không để vết. Những kẻ thọ nghiệp với Sư đều được hiển danh đương thời.
Năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127), chùa Trung hưng diên thọ làm xong5, vua sai Sư soạn văn bia. Vua kính trọng tài Sư, nên đổi Sư làm Tả nhai tăng lục. Năm Đại Thuận thứ 3 (1130), Lý Thần Tôn mời Sư vào điện Sùng Khai. Vua hỏi về lý trị loạn hưng vong trong thiên hạ.
1 Cứ Cựu Đường thư 41 tờ 42b5-8 và Tân Đường thư 43 thượng tờ 9b10 thì Nam định là tên một huyện đặt lần đầu tiên vào năm 621 thuộc Tống châu, mà ngoài nó ra còn gồm hai huyện khác, đó là Tống bình và Hoằng giáo. Đến năm sau thì chia huyện Tống bình thành hai huyện Giao chỉ và Hoài đức. Đến năm 627 hiệp ba huyện Giao chỉ, Hoài đức và Hoằng giáo lại thành huyện Tống bình cùng với huyện Nam định thuộc Giao châu. Thông điển 184 tờ 50a9-13 của Đỗ Hựu (735 - 812) nói: "An nam đô hộ phủ nay đóng tại Tống bình". Như vậy, địa phận Tống bình tức tương đương với phần đất thủ đô hà nội ngày nay với một phần những huyện ngoại vi của nó thuộc tỉnh Hà đông. Từ đó, phần đất của huyện Nam định tất cũng phải rơi vào khoảng tỉnh đấy.
Cứ Bắc thành địa dư chí lục 3 thì huyện Thượng phúc, phủ Thường tín, thuộc trấn Sơn nam thượng có một số tổng xã mang tên Cổ hiền. Làng Cổ hiền của Viên Thông chắc chủ yếu là rơi vào địa phận tổng Cổ hiền đấy. Tổng có 9 xã thôn sau: Cổ hiền (Thái công), Cổ hiền (Bảo hiền), Dưỡng hiền, Hưng hiền, Nhụy khê (Thượng đình nam thôn), Nhụy khê (Hạ thôn), Thụy ứng, Nhân hiền và Nhuệ giang. Với những tên xã thôn như vậy vào thời Nguyễn thì ta không còn nghi ngờ gì nữa về vị trí của làng Cổ hiền thời Lý nữa. Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt nam I tr. 190 nói: "hiện có hai làng Cổ hiền, một thuộc phủ Thường tín, một thuộc huyện Phú xuyên, cùng ở tỉnh Hà đông". Nhưng nếu tra lại Bắc thành địa dư chí lục 3 thì những tổng xã thôn của huyện Phú xuyên thời Nguyễn không có tổng xã thôn nào tên Cổ hiền hết. Do thế, ta có thể dứt khoát xác định là làng Cổ hiền của Viên Thông là tương đương với tổng Cổ hiền, huyện Thượng phúc, phủ Thường tín, trấn Sơn nam thượng, tức nay thuộc huyện Thường tín, tỉnh Hà đông. Chúng tôi nói là tương đương bởi vì tổng Đông cứu, thuộc huyện Thượng phúc cũng có thôn tên Cổ hiền.
Đất Nam định đời Lý như vậy là tương đương với địa phận huyện Thường tín, tỉnh Hà đông ngày nay. Và làng Cổ hiền của Viên Thông là thuộc huyện đó.
2 Phường Thái Bạch của kinh đô Thăng long hiện chưa thể khảo được. Cứ Địa dư chí cũng như Bắc thành địa dư chí lục 1 và Phương đình dư địa chí 2 ta không tìm thấy tên Thái bạch giữa những tên phố trại thuộc thủ đô Thăng long. Phải chăng Thái bạch đời Lý đã bị đổi thành phường Thái cực, quê hương của Lê Kim Quế tiến sĩ khoa 1580, mà Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 và Bắc thành địa dư chí lục 1 ghi lại.
3 Thiền sư Bảo Giác, cha của Viên Thông đây chắc không phải Bảo Giác chùa Viên minh, vị thầy của Tịnh Giới, mà truyện Tịnh Giới tờ 33b3 nói tới. Xem chú thích (4) truyện Tịnh Giới. Bảo Giác cũng không phải là tác giả những tác phẩm Chư Phật tích duyên sự, Tăng gia tạp lục và Viên Thông tập, như Văn nghệ chí của Lê Quí Đôn đã ghi. Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Viên Thông tập là của Bảo Giác thôi.
4 Những kỳ thi tuyển đấy không thấy các sử sách khác ghi. Xem chú thích (3) truyện Thiền Nham.
5 Nguyên văn: "Đại Khánh tam niên. Những chữ "Đại Khánh tam" chắc là một sửa sai của người viết tựa cho bản in năm 1715, bởi vì cứ Toàn thư B3 tờ 25a7 thì năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127) mùa thu tháng 7 ngày Đinh tỵ khánh thành chùa Trùng hưng diên thọ". Chùa Trùng hưng diên thọ như vậy khánh thành năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1, chứ không phải là vào năm Đại Khánh thứ 3. Chữ Đại Khánh tam niên" chắc là do chữ "Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên" mà ra. Có lẽ để bản của bản in năm 1715 có những chữ đó bị mờ hay bị mối mọt ăn, nên nhà nho giữ chức vụ "Chính kỳ khuyết thất, trợ kỳ di lậu" cho bản in đó đã lầm tưởng những chữ "Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên" ấy thành "Đại Khánh tam niên", nhất là khi tự dạng 6 chữ trước rất
Sư đáp: "Thiên hạ cũng như đồ dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên dân yêu thương như cha mẹ, trông ngóng như trời trăng. Đó là để thiên hạ vào chỗ yên vậy".
Lại đáp: "Việc trị loạn là do quan chức, được người thì trị, mất người thì loạn. Thần từng xem qua các triều vua chúa đời trước, chưa từng có triều đại nào, không dùng bậc quân tử mà được thịnh, không dùng kẻ tiểu nhân mà (69b1) suy. Cho đến nỗi như thế, không phải nguyên nhân một sớm một chiều, mà chỗ do lai đã lâu lắm vậy1. Trời đất không thể bỗng nhiên sinh ra nóng lạnh tức là tuần tự có xuân thu. Đấng nhân quân (không thể) bỗng nhiên trở nên hưng vong, tất là từ từ có thiện, ác. Thánh chúa đời xưa vì biết nó như vậy, nên nương theo cái đức không nghỉ của trời để sửa mình, dựa vào cái đức không nghỉ của đất để yên người. Sửa mình tức cẩn thận trong lòng, run rẩy như đi trên băng  mỏng. Yên người là kính yêu kẻ dưới, sợ hãi tựa leo bám cành mục. Làm thế thì không gì là không hưng, trái thế thì không gì là không suy, sự lần hồi của việc hưng vong, chính ở nơi đây vậy".
Sư đối đáp quả thật xứng chỉ, nên được thăng làm Hữu nhai tăng thống tri giáo môn công sự. Sư được tự do gần vua, dâng lời chỉ bảo, chưa tùng thiếu sót. Sau đó, Sư phụng chiếu đến đền Tây dương2 cầu giữ thai vua có ứng nghiệm. Do đó vua càng thêm kính trọng, ban cho Sư khi vào triều được đứng ngang hàng với Thái tử.
Năm Thiên Chương Gia Thụy thứ 5 (1137), xe vua gác giá3 Sư dự nhận cố mạng và (70a1) phụng di chiếu, chủ trì mọi việc bàn tính phó thác.4
Năm Thiệu Minh thứ 1 (1137), Anh Tôn khi đã lên ngôi, Thái hậu5 nhiếp chính6, cho Sư đã có công giúp vua, và nhiều lần trọng thưởng. Sau đó, Sư về lại quận mình lập chùa dưỡng già. Phí tổn xây dựng1 đều do quỹ Vua ban cấp, đồng thời ban chữ2 để chùa thêm sang.
giống với 4 chữ sau, một khi chữ phù và chữ thọ đã bị mờ hẳn hay bị mọt ăn đứt hoàn toàn. Còn lại chữ thiên thì rất dễ đọc thành chữ đại, và chữ nguyên rất dễ đọc thành chữ tam. Chúng tôi do thế bằng vào Toàn thư và coi năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 là năm khánh thành chùa Trùng hưng diên thọ.
1 Dẫn Chu dịch: "Quẻ khôn" "Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kỳ do lai tiệm hỷ". (Tôi giết vua, con giết cha, không phải chuyện một sớm một chiều mà nguồn gốc nó đã có từ lâu lắm). Xem Chu Dịch 1 tờ 7a1.
2 Đền Tây dương này nghi là đền Hai Bà Trưng mà sau này Lý Anh Tôn sai dựng "ở ngoài Tây dương" như Đại Việt sử lược 3 tờ 7b9 ghi lại. Việc cầu thần linh giữ gìn thai vua này, chúng tôi nghi là xảy ra vào hạ bán niên năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3, bởi vì đến tháng 3 năm sau Lý Thiên Tộ sinh, tức Lý Anh Tôn, có lẽ vì có tham dự vào việc đó nên dưới đây ta thấy nói tới chuyện mời Viên Thông vào thọ cố mạng. Và việc thọ cố mạng như Lý Thần Tôn giao thì như Toàn thư B3 tờ 41 b2 42a3 đã bị tham tri chính sự Từ Văn Thông cải mạng vì nhận hối lộ của "ba phu nhân". Thực ra qua việc đi cầu giữ thai trên "ba phu nhân" đã biết cách tạo dựng phe đảng cho mình và sự lên ngôi của Lý Thiên Tộ bằng cách kéo Viên Thông đi với mình. Cho nên không phải Từ Văn Thông trách nhiệm trong việc cải mệnh đó thôi. Nó còn có Viên Thông dù một phần rất nhỏ đi nữa.
3 Nguyên văn: Cung xa yến giá. Hợp từ dùng trong truyện Phạm Huy của Sử kyù, mà Bùi Aân dẫn Ứng Thiệu và Vỹ Chiêu viết: "Ứng Thiệu nói: "Thiên tử phải ban sáng dậy làm việc sớm, như vừa băng hà, nên gọi nghỉ xe". Vỹ Chiếu nói: "Hễ vừa mới băng hà thì  là muộn giá, vì lòng thần tử còn muốn nghỉ xe vua đang buộc ngựa nên ra muộn". Xem Sử kyù 79 tờ 9b 13 - 10a1.
4 Nguyên văn: Cập phụng di chiếu vương mạc hiến phó thác đẳng sự. Câu đấy có 3 chữ Vương mạc hiến thật là khó hiểu. Chúng tôi thấy có một số cách hiểu chúng. Thứ nhất, chúng tôi coi chữ Vương có khả năng là một khắc thiếu nét của chữ chủ. Coi chữ hiến có thể là một khắc sai của chữ du. Thứ hai, vì chữ mạc và du đều có nghĩa tính toán, xắp xếp, mưu tính. Nên cả câu Vương mạc hiến phó thác đẳng sự có thể đọc dịch thành "Chủ mạc du phó thác đẳng sự" với nghĩa "chủ trì mọi việc sắp xếp phó thác". Ý nói Viên Thông nhận di chiếu của Thần Tôn về nên sắp xếp việc gửi gắm Hoàng tử lên kế vị cho Viên Thông chủ trì.
5 Thái hậu đây tức Cảm Thánh phu nhân đời Lê, mẹ của Lý Anh Tôn. Việc Lê phu nhân khen thưởng Viên Thông tất cũng không có gì là lạ hết, như ta đã thấy ở chú thích (7) trên. Nhưng điều đáng lạ là không thấy sử sách nào khác ghi lại cả. Ngay cả việc "nhận cố mạng và phụng di chiếu" cũng không thấy ghi.
6 Nguyên văn: Thái hậu xưng chế, Thái hậu đây tức Cảm Thánh phu nhân họ Lê, mẹ Lý Anh Tôn. Còn xưng chế là một từ dùng chỉ cho việc nhiếp chính thay vua, Bản kỷ của Lữ Cao Hậu trong Tiền Hán thư nói: "Thái hậu lâm triều xưng chế". Nhan Sư Cổ giải thích: "Lời nói của Thiên tử, một gọi là chế thư, hai gọi là chiếu thư. Chế thư tức là những mệnh lệnh về chế độ, chẳng phải chỗ Hoàng hậu có thể có được. Nay Lữ thái hậu lâm triều làm việc Thiên tử quyết đoán mọi sự, nên xưng chế chiếu". Xem Tiền Hán thư 3 tờ 1a9-11. Việc nhiếp chính của Lê Thái hậu, tuy cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi rõ, nhưng khi viết về vụ triều biến năm 1148, Đại Việt sử lược 3 tờ 4a3-5 đã nói: "Nguyên trước, khi vua còn nhỏ dại, việc triều chính, không kể lớn nhỏ, đều giao cho (Đỗ) Anh Vũ, mà Anh Vũ lại tư thông với Thái hậu, nên càng trở nên kiêu ngạo phóng túng. Ở triều thì vung tay lớn tiếng sai quan lại thì nhếch mép truyền hơi, mọi người đều nghé mắt, không dám nói". Ta cũng đủ rõ Lê thái hậu nhiếp chính như thế nào. Cũng cần thêm là, Lý Anh Tôn lúc lên ngôi mới có 3 tuổi.
Năm Đại Định thứ 4 (1143) Vua thăng Sư giữ chức tả hữu nhai Tăng thống nội cung phụng tri giáo môn công sự truyền giảng Tam tạng văn chương ứng chế hộ quốc quốc sư tứ tử y đại sa môn. Đức vua đã trọng Sư, nên quần thần càng trọng vọng hơn nữa. Từ triều đình đến thôn dã cũng đều như thế.
Ngày 21 tháng 4 nhuần năm Tân mùi Đại Định (1151), Sư nhóm đồ chúng từ biệt, không bệnh mà mất, thọ 72 tuổi. Sư thường phụng chiếu biên soạn Chư Phật tích duyên sự3 hơn 30 quyển4, Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tạp lục hơn 50 quyển (14) và thi phú hơn nghìn bài5 lưu hành ở đời.

1 Nguyên văn: tam thôn chi phí. Chúng tôi nghĩ chữ thôn là một chép sai của chữ tài, nên trong hiệu bản chúng tôi đã sửa tam thôn chi phí thành tam tài chi phí và dịch thành phí tổn ăn uống". Lý do việc sửa và dịch ấy là như thế này. Thiên Bản vị của Lã thị       xuân thu có chữ "ngũ vị tam tài". Cao Dụ chua rằng: "Năm mùi là mặn, đắng, chua, cay và ngọt, tam tài là nước, củi và lửa". Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 4b11-12 Tam tài chi phí do thế có nghĩa là "phí tổn về nước, củi và lửa" tức là phí tổn về việc ăn uống tiêu dùng hàng ngày tức tổn phí xây dựng.
2 Nguyên văn: Thần du, chữ du ở đây nghi là một nét sai của chữ hàn vì dạng chữ chúng khá giống nhau. Thần hàn như vậy có nghĩa là (chữ do bút vua viết). Điều này có nghĩa chùa của Viên Thông có được ngự bút của Anh Tôn, để thêm sang quí.
3 Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn nói: "Chư Phật tích duyên sự, 30 quyển, thầy Bảo Giác soạn theo lịnh của Lý Nhân Tôn". Đương nhiên, Chư phật tích duyên sự không phải của Bảo Giác, mà là của Viên Thông. Bảo Giác là cha của Viên Thông. Ta không hiểu tại sao Lê Quí Đôn lại có thể chép sai như thế. Phải chăng Đôn đã dùng một bản thư tịch thiết lập từ trước? Đây là một có thể, bởi Đôn có ghi thêm là Chư Phật tích duyên sự là soạn theo lịnh của Lý Nhân Tôn, một việc Thiền uyển tập anh không nói tới. Văn  tịch chí của Phan Huy Chú không thấy ghi tác phẩm này.
4 Nghệ văn chí ghi: "Tăng gia tạp lục 50 quyển, thầy Bảo Giác soạn" Văn tịch chí có ghi tác phẩm này, nhưng không nói tác giả là ai.
5 Nghệ văn chí và Văn tịch chí đều ghi: "Viên Thông tập, 2 quyển thầy Bảo Giác soạn. Bảo Giác người Cổ hiền". Viên Thông tập tức không phải của Bảo Giác mà là của Viên Thông. Xem chú thích (9) trên.

Thế Hệ Thứ Mười Chín - Hai Mươi (1 người  khuyết  lục)

68.     THIỀN SƯ Y Sơn (? - 1216)
(70b1) Chùa Đại từ, Đại thông trường, Long phúc1. Người Cẩm hương, Nghệ an2, họ Nguyễn, Sư mặt mày đẹp đẽ, ăn nói hoạt bát, Thuở nhỏ đi học, coi khắp thư sử, chọn bạn, lựa nghề tất nhằm hữu ích. Nhưng đối với kinh điển Tây trúc, Sư hết sức lưu tâm. Năm 30 tuổi sư xuất gia với một vị Trưởng lão trong làng, sau đến kinh thành tham bái Quốc sư Viên Thông, nhờ một lời nói, đạt được yếu chỉ.
Từ đấy, Sư tùy nơi đi giáo hóa, chỉ nhằm lợi người. Vật do người cúng Sư đều dùng vào việc Phật. Sư có làm bài văn khuyên người:
Ham danh chuộng lợi
Đều như bọt nước trôi sông Kết phúc gieo duyên
Ấy là trong lòng hoài bão.
1 Đại thông được nhiều sách sử ghi lại. Đại Việt sử lược 3 tờ 20a4-5 ghi nó như một tên châu và một bến đò. Toàn thư B4 tờ 6b1 nói nó là tên một trấn. Lĩnh ngoại đại đáp 2 tờ 16 bảo nó là tên một phủ. Nhưng không thấy nơi nào ghi Đại thông trường cả. Với chữ trường đi sau nó, Đại thông đây chắc phải liên hệ với một cửa sông hay một của bể bởi vì ta thấy những địa danh thời Lý có chữ trường theo sau thường chỉ liên hệ đó. Chẳng hạn Toàn thư B3 tờ 291 nói: "Năm Thiên Thuận thứ nhất (1128) mùa xuân tháng giêng ngày Mậu thân Quang lang trường dâng chín chiếc thuyền của thương gia người Tống dạt tới". Quang lang trường đây dĩ nhiên không phải ở Lạng sơn mà là ở cạnh cửa bể Liêm hộ, huyện Thụy anh, tỉnh Thái bình. Bắc thành địa dư chí lục 4 có ghi một làng Quang lang thuộc huyện Thụy anh, trấn Sơn nam hạ.
Từ đó, Đại thông trường chắc phải liên hệ với bến đò Đại thông và châu Đại thông do Đại Việt sử lược nói tới. Bến đò Đại thông hay Đại thông bộ được Đại Việt sử lược 3 nhắc nhiều lần như ở tờ 21a1, 22a2, 25a2 v.v...Nhưng đặc biệt có hai lần, mà ta cần chú ý. Một ở tờ 25a3 nói: "Năm Kiến Gia thứ 3 (1213) mùa xuân tháng giêng ngày Tân dậu (Trần) Tự Khánh, dẫn quân vào trong cấm thành, đốt cầu Ngoạn thiền, rồi dẫn quân về bến Đại thông". Và một ở tờ 28a4 viết: "Năm Kiến Gia thứ 4 (1213) mùa hạ tháng 4 Tự Khánh đóng quân ở bến Đại thông, xây lũy ở Nghĩa trú". Như vậy một mặt bến Đại thông phải cách thủ đô Hà nội không xa lắm. Mặt khác nó phải ở gần địa điểm Nghĩa trú, để Tự Khánh có thể chỉ huy việc xây lũy. Mà Nghĩa trú hiện nằm tại huyện Mỹ hà, tỉnh Hưng yên hiện nay. Như vậy bến Đại thông chắc nằm khoảng ranh giới huyện Gia lâm với huyện Văn giang, có thể chính tại xã Xuân lâm, huyện Văn giang, nơi những thượng lưu của sông Nghĩa trú tập họp lại để chảy xuống sông Kinh cầu. Từ đó, Đại thông trường tất phải bao gồm xã Xuân lâm cũng như một vài xã khác quanh vùng tại huyện Văn giang.
Một khi đã xác định Đại thông trường như thế, thì châu Đại thông chắc phải là một bãi đất lồi tại Đại thông trường. Đại Việt sử lược 3 tờ 28a5 nói: "Tháng tư năm Kiến Gia thứ 4 (1213) Trần Tự Khánh giết Phan Lân ở châu Đại thông trong khi đang ở bến Đại Thông xây lũy Nghĩa trú, vì Lân muốn liên kết với Nguyễn Nộn. Nhưng trước đó, vào tháng giêng năm đó, Khánh giao cho Lân giữ Siêu loại. Do vậy, châu Đại thông hẳn phải ở vùng bến Đại thông và không xa Siêu loại bao nhiêu.
Kết luận đấy hoàn toàn tỏ ra đúng đắn, khi truyện Y Sơn đây nói Đại thông trường thuộc Long phúc, mà truyện Đạo lâm tờ 66b3 lại nói Long phúc có làng Siêu loại. Từ đó, Long phúc chắc là tên một quận đời Lý và địa phận nó gồm một phần huyện Siêu loại và một phần huyện Văn giang, tỉnh Bắc ninh đời Nguyễn, tức một phần huyện Thuận thành, tỉnh Bắc ninh và phần đất phía bắc huyện Văn giang, tỉnh Hưng yên ngày nay.
2 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tăng Thích nói: "Thiền sư Y Sơn, người huyện Gia lâm, nhỏ thông kinh sử, lại càng giỏi cả sách Phật, có chí lớn, làm lợi người, đến khi thị tịch, hoa cỏ chim muông đều bi cảm". Rồi chua thêm là: "Nói rõ trong An nam chí, về thế đại của Thiền sư chưa thể khảo được".
An nam chí mà lời chua nói đến, là tác phẩm của Cao Hùng Trưng, mà bản in ngày nay gọi là An nam chí nguyên do một lầm lẫn. Khảo An nam chí nguyên 3 tờ 210 thì những ghi chú trên của Đại nam nhất thống chí về Y Sơn quả đã rút ra từ đấy. Đến lượt mình, An nam chí nguyên 3 tờ 208 nói là mình đã rút tài liệu từ "Cựu chí" và quan báo các nơi cùng tương truyền của các phụ lão mà những bản hiện còn như An nam chí lược và Việt kiều thư không thấy sách nào nói đến Y Sơn cả. Phải chăng nó đã lấy từ những bản đã mất như Giao châu thông chí hay Các châu huyện chí v.v...? Dẫu rút từ đâu đi nữa, thì những ghi chú trên về Y Sơn cuối cùng cũng phải rút ra từ Thiền uyển tập anh, bởi vì văn cú giữa chúng và những chi tiết đều giống nhau. Nếu vậy, tại sao những ghi chú ấy lại có thể bảo Y Sơn là "người huyện Gia lâm?" đây là vì Sơn hoạt động chính ở Gia lâm.

Đến lúc tuổi già, Sư dời về làng Yên lãng1 trụ trì chùa Nam mô, thường dạy đồ chúng rằng: "Các ngươi nên biết, Như Lai thành Chánh giác, đối với tất cả nghĩa lý, không còn có chỗ xem xét. Đối với các pháp bình đẳng, không có gì nghi hoặc, không hai, không tướng, không đi, không đứng, không lường, không hạn, xa lìa hai bên, ở nơi trung đạo, vượt khỏi hết thảy văn tự, ngôn thuyết, truyền được thân lượng bằng hết thảy chúng sanh, được thân lượng bằng hết thảy mọi cõi, được thân lượng bằng hết thảy tam giới, được thân lượng bằng hết thảy Phật, được thân bằng hết thảy ngôn ngữ, được thân lượng bằng hết thảy nguyện, được thân lượng bằng hết thảy hành, được thân lượng bằng hết thảy tịch diệt"2.
Lại nói rằng:
"Như Lai thành chánh giác Hết thảy lượng đẳng thân Hồi hổ không hồi hổ3 Đồng tử mắt sáng thần"
Lại nói:
"Chân thân thành vạn tượng Vạn tượng tức chân thân Cung trăng xanh quế đỏ Quế đỏ tại cung trăng".
Khi sắp thị tịch, Sư gọi môn đồ dạy: "Ta không trở lại đây nữa". Bấy giờ, hoa trên cây trước chùa tự nhiên rơi rụng, chim sẻ kêu bi thương suốt ba tuần không dứt.
Ngày 18 tháng 3 năm Bính tý Kiến Gia thứ 64 (1216) Sư mất.

1 Làng Yên lãng này nghi là làng Yên lãng quê mẹ của Từ Đạo Hạnh, tức nay là làng Láng ở phía tây ngoại thành thủ đô Hà nội. Xem chú thích (3) truyện Đạo Hạnh. Làng này hiện có chùa Chiêu thiền, nơi thờ Đạo Hạnh và Lý Thần Tôn, mà Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, mục Tự quán, nói tới chùa đấy, Bắc thành địa dư chí lục 1 gọi là chùa Yên lãng. Nhưng chưa thấy tài liệu nào, ghi hay nói làng Yên lãng đấy có chùa Nam mô. Phải chăng làng Yên lãng đây là Yên lãng thuộc huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phúc ngày nay? Chúng tôi hiện chưa biết làng đấy có một ngôi chùa nào tên Nam mô?
2 Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 274c29-275a17: "Phật tử bồ tát ma ha tát ưng tri Như Lai thành chánh giác ư nhất thiết nghĩa, vô sở quán sát, ư pháp bình đẳng, vô sở nghi hoặc, vô nhị vô tướng, vô hành vô chỉ, vô lượng vô tế, vin ly nhị biên, trú ư trung đạo, xuất quá nhất thiết văn tự ngôn thuyết (... ), đắc nhất thiết chúng sanh lượng đẳng thân, đắc nhất thiết tam thế lượng đẳng thân, đắc nhất thiết Phật lượng đẳng thân, đắc nhất thiết ngữ ngôn lượng đẳng thân, đắc chân như lượng đẳng thân, đắc pháp giới lượng đẳng thân, đắc hư không giới lượng đẳng thân, đắc vô ngại giới lượng đẳng thân, đắc nhất thiết nguyện lượng đẳng thân, đắc nhất thiết hành lượng đẳng thân, đắc tịch diệt Niết bàn giới lượng đẳng thân".
3 Hồi hộ bất hồi hộ. Xem Thạch đầu tam đồng khế trong Nhân thiên nhãn mục 5 tờ 327a19.
4 Nguyên văn: Kiến Gia tam niên Bính tý. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 24b9 và Toàn thư B4 tờ 30b6 thì Kiến Gia tam niên là năm Quí dậu, chứ không phải năm Bính tý. Bính tý thì phải là Kiến Gia lục niên, như Đại Việt sử lược và Toàn thư đã có. Chúng tôi nghĩ, chữ tam là một viết lộn của chữ lục, một việc rất dễ xảy ra, và đề nghị sửa lại thành Kiến gia lục niên, như bản dịch đã có.
[71b1]

Hệ Phái của Thiền Sư Thảo Đường

69. THIỀN SƯ Thảo Đường1

Chùa Khai quốc2, kinh thành Thăng long. (Truyền tôn phái của Tuyết Đậu Minh Giác3}

Thế Hệ Thứ Nhất (3 người)

70. HOÀNG ĐẾ Lý Thánh Tôn

71. THIỀN SƯ Bát Nhã4

Chùa Từ quang, Phúc khánh5 Làng Dịch vương, Trương canh6.

72. CƯ SĨ Ngộ Xá

Làng Bảo tài1, Long chương {Ba vị trên đều thừa kế Thiền sư Thảo Đường}

1 An nam chí lược 15 tờ 147 viết: "Thảo Đường theo Sư phụ đến sống khách ở Chiêm thành. Xưa Lý Thánh Vương đi đánh Chiêm thành, bắt được, đem cho vị Tăng lục làm đứa ở. Vị Tăng lục viết Ngữ lục, để trên bàn mà đi, Sư lén sửa lại. Vị Tăng lục lấy làm lạ về đứa ở, đem tâu vua. Vua bèn phong làm Quốc sư".
An nam chí nguyên 3 tờ 209 viết: "Thiền sư Thảo Đường, rất có đạo hạnh, biết rành sách Phật, vua Lý tôn làm thầy, sau ngồi thẳng mà mất". Vua Lý đây tức Lý Thánh Vương của An nam chí lược mà Lý Thánh Vương đấy tức Lý Thánh Tôn. Cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 13b3-14a8 và Toàn thư  B3 tờ 4b7-5a2 thì suốt đời mình Lý Thánh Tôn chỉ đi chinh phạt Chiêm thành một lần vào năm Thần Vũ thứ nhất (1069). Việc bắt được Thảo Đường chắc chắn xảy ra vào năm đó. Còn Thảo Đường được phong làm Quốc sư có lẽ vào năm 1070, hay cùng lắm là năm 1071, bởi vì đầu năm 1072, tức tháng giêng năm Thần Vũ thứ 4, Lý Thánh Tôn bị bệnh nặng rồi mất luôn. Vị Tăng lục, ngày nay ta chưa biết đích xác là ai. Rất có thể là Huệ Sinh, lúc bấy giờ đã làm Tăng Thống và theo Việt điện u linh tập, đã có tham dự vào cuộc viễn chinh Chiêm thành ấy.
Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 15b10 viết Thiền sư Thảo Đường rất có đạo hạnh, tinh thông kinh điển, Vua Lý tôn làm thầy, sau ngồi kiết già mà mất". Tây hồ chí, tập Tự am, dưới mục chùa Khai quốc và chùa Vạn niên, nói Thảo Đường họ Lý, và nơi cư trú của Đường không phải chỉ có chùa khai quốc, mà có cả chùa Vạn tuế, tức Vạn niên nữa.
2 Về chùa Khai quốc, xem chú thích (1) truyện Vân Phong.
3 Tức Thiền sư Trùng Hiển (980 - 1052) núi Tuyết đậu tại châu Ninh, Trung Quốc, đệ tử của Trí Môn Quang Tộ thuộc phái Vân môn. Xem Tục Truyền đăng lục 2 tờ 475a9-476a25 và Tuyết đậu minh giác ngữ lục.
4 Tức Nguyễn Bát Nhã, đại diện cho thiền phái Thảo Đường, mà Quách Thần Nghi khi xem xong Chiếu đối bản của Thông Biện và Nam tôn tự pháp đồ của Thường Chiếu đã hỏi Chiếu: "Sao không thấy nói tới hai phái Nguyễn Đại Điên và Nguyễn Bát Nhã?" Chiếu trả lời: "Aét Thông Biện có một ức ý nào đó".
5 Chùa Từ quang, Phúc thánh này rất có thể là chùa Phúc thánh mà Toàn thư B4 tờ 5b4 nói là dựng vào năm Đại Định thứ 5, tức năm 1154, cùng với chùa Vĩnh long.
6 Tức huyện Đan phụng, tỉnh Hà đông hiện nay. Làng Dịch vương, sau này gọi là Dịch vọng của Hà nội ngày nay.

Thế Hệ Thứ Hai (4 người)

73. THAM CHÁNH Ngô Ích

{Thừa kế Hoàng đế Thánh Tôn}

74. THIỀN SƯ Hoàng Minh

Làng An lãng2, Vĩnh hưng {Thừa kế Thiền sư Bát Nhã}

75. THIỀN SƯ Không Lộ

Chùa Quang nghiêm, Hải thanh3 (72a1)

76. THIỀN SƯ Định Giác {Tức Giác Hải}

Hai vị trên đều thừa kế Ngộ Xá, bản truyện của họ dựa theo Nam tôn đồ, đều đặt vào phái Kiến
1 Làng Bảo tài cũng như Long chương, hiện chưa có thể khảo được.
2 Làng Yên lãng đây nghi làng Yên lãng hay làng Láng tại ngoại thành Hà nội, quê của mẹ Từ Đạo Hạnh. Xem chú thích (3) truyện Đạo Hạnh. Nhưng Toàn thư B2 tờ 20b1-2 viết: "Năm Thiên Thành thứ 3 (1030) mùa đông tháng mười được mùa lớn, vua đi xem gặt ở ruộng Ô lộ, đổi tên ruộng là Vĩnh hưng. Ngày đó vua về cung". Cương mục chính biên 2 tờ 35b6 chú rằng: "Ô lộ, Vĩnh hưng, chưa rõ đích xác chỗ nào. Xét huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên, nghi là đó". Khảo Bắc thành địa dư chí lục 3 về những tên xã của tổng Vĩnh hưng cũng như của huyện Đông yên, ta không thấy có xã thôn nào tên Yên lãng cả, tuy có những tổng xã mang tên Yên cảnh, Yên lịch, Yên vĩ, Yên viên. Do thế không phải là không có thể làng Yên lãng của Vĩnh hưng ở tại vùng huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên đấy. Thêm vào, truyện Cửu Chỉ nói núi Long đội ở Yên lãng. Như vậy, làng Yên lãng đời Lý có thể gồm cả phần đất phía đông của huyện Duy tiên, Hà nam nữa.
3 Tức chùa Thần quang hay chùa Keo tại xã Dũng nghĩa, huyện Giao chỉ, tỉnh Thái bình. Xem chú thích (1) truyện Không Lộ.

Thế Hệ Thứ Ba (4 người)

77. THÁI PHÓ Đỗ Vũ 1

{Thừa kế Tham chánh hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác}

78. THIỀN SƯ Phạm Âm

Làng Thanh oai2, An la {Thừa kế Thiệu Minh3}

79. HOÀNG ĐẾ Lý Anh Tôn

80. THIỀN SƯ Đỗ Đô

Hai vị trên đều thừa kế Không Lộ hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác.

Thế Hệ Thứ Tư (4 người)

81. THIỀN SƯ Trương Tam Tạng

{Thừa kế Phạm Âm có nơi nói thừa kế Không Lộ, hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác.

1 Có thể là Đỗ Anh Vũ (? - 1158), Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 3a4 thì năm Thiệu Minh thứ 3 (1139) Đỗ Anh Vũ đã giữ chức Thái uý. Theo Toàn thư B4 tờ 1b1 thì năm sau, tức năm Đại Định thứ nhất (1140) "lấy Đỗ Anh Vũ làm Cung điện lịnh trị nội ngoại sự", nhưng không bao giờ thấy nó ghi thêm một tước gì cho Đỗ Anh Vũ cả. Dẫu thế, việc Đỗ Anh Vũ giữ chức Thái uý khoảng từ năm 1139 trở đi là một chắc chắn. Và cứ An nam chí lược 14 tờ 133 thì Thái úy phải là chức trên Thái phó. Do thế, chưa chắc Thái phó Đỗ Vũ là Thái uý Đỗ Anh Vũ.
2 Tức địa phận tỉnh Thanh oai, tỉnh Hà đông hiện nay. Làng Thanh oai này, chúng tôi nghi là tương đương với làng Trung thanh oai do Bắc thành địa dư chí lục 3 liệt ra, bởi vì, làng đấy lúc bấy giờ có ba thôn, trong đó hai thôn mang tên Xa la và An xá. An xá và Xa la đây chắc là một phân xã của tên An la. Có thể An xá và Xa la thời Lý là phủ trị của An la, và chúng là một chứng tích cho sự có mặt đó.
3 Thiệu Minh đây nghi là Hoằng Minh chép sai.

82. THIỀN SƯ Chân Huyền

83. THÁI PHÓ Đỗ Thường1

{Ba vị trên đều thừa kế Đỗ Đô hoặc có nơi nói thừa kế Thiền sư Tịnh Giới phái Kiến sơ2

Thế Hệ Thứ N ăm (4 người)
(72b1)

84. THIỀN SƯ Hải Tịnh3

85. HOÀNG ĐẾ Lý Cao


86. XƯỚNG NHI QUẢN GIÁP Nguyễn Thức

{ba vị trên đều thừa kế Trương Tam Tạng}

87. Phụng Ngự Phạm Đẳng

{Thừa kế Chân Huyền, hoặc lại nói thừa kế Đỗ Thái phó}
1 Đại Việt sử lược 3 tờ 24a6 nói trong lần lánh nạn năm 1112, Lý Huệ Tôn "đã đến nhà của Đại liêu ban Đỗ Thường ở Đông ngạn". Đại liêu ban dĩ nhiên là một tên gọi khác của Thái phó. Do sắc lịnh năm Đại định thứ 20 (1159) của Lý Anh Tôn thiết định, mà Đại Việt sử lược 3 tờ 6b3 đã ghi lại. Do đó Đại liêu ban Đỗ Thường cũng là Thái phó Đỗ Thường. Chỉ có vấn đề là chữ thường của Đại liêu ban Đỗ Thường, thông thường thì vẫn có thể đọc như chữ thường, nhưng cũng có thể đọc thành chữ thưởng. Vì vậy, Đại liêu ban Đỗ Thường rất có thể là Đại liêu ban Đỗ Thưởng chứ không phải Thái phó Đỗ Thường. Dầu sao đi nữa, chúng tôi vẫn nghĩ Đại liêu ban Đỗ Thường hay Thưởng là Thái phó Đỗ Thường ở đây. Thế hệ này, nguyên bản ghi có bốn người, nhưng chỉ liệt kê tên của ba người
2 Nguyên văn: Tự Kiến sơ Tịnh ... thiền sư. Như vậy ta chỉ biết "nối dõi Thiền sư Tịnh...  của phái Kiến sơ". Chúng tôi ghi thêm là Tịnh Giới, bởi nghĩ rằng thế hệ của Đỗ Thường còn có những người như Trương Tam Tạng được coi là đệ tử của Định Giác, tức Giác Hải của phái Kiến sơ. Cho nên nếu bảo Thường là một đệ tử của một Tịnh gì đấy của phái Kiến sơ thì có lẽ không sai mấy khi ta đi tìm trong thế hệ của Giác Hải có một người nào tên Tịnh gì đấy không. Nhưng thế hệ Giác Hải có đến ba người có tên bắt đầu bằng chữ Tịnh, đấy là Tịnh Không(1091-1170), Tịnh Lực (1112 - 1175) và Tịnh Giới (1140?- 1207). Chúng tôi chọn Tịnh Giới, không những vì Giới có một đời sống phù phép không kém gì Không Lộ và Giác Hải, mà còn vì truyện Tịnh Giới nói "Có nơi nói  Giới ở chùa Quốc thanh, Hải thanh", nghĩa là Giới đến từ một chùa và một vùng với Không Lộ và Giác Hải.
3 Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 15b5-6 dưới mục Tuyết đậu truyền pháp, viết: "Kinh đô Thăng long, chùa Khai quốc Đại sư Thảo Đường, từ đó truyền tôn phái Tuyết đậu làm đời thứ nhất. Đời thứ hai truyền cho Bát Nhã. Đời thứ ba truyền cho Hoằng Minh. Đời thứ tư truyền cho cho bốn vị tổ, danh hiệu chưa rõ. Đời thứ năm truyền cho Chân Huyền. Đời thứ sáu truyền cho Hải Tịnh".
Nói như thế, chứng tỏ rằng khi An Thiền viết và in xong Đạo giáo nguyên lưu khoảng năm 1845, ông chưa có "Cựu bản chùa Tiêu sơn" của Thiền uyển tập anh, mà sau này vào năm 1859 ông đã in thành quyển thượng của bộ Đại nam Thiền uyển truyền đăng của ông. Thế thứ lưu truyền của phái Thảo Đường do ông liệt, do thế có thể rút từ những tài liệu khác với Thiền uyển tập anh ở đây và vì vậy có một giá trị kiểm chứng nào đó.

THIỀN UYỂN TẬP ANH XONG QUYỂN HẠ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét