Gia Định Thành Thông Chí
Trịnh Hoài Đức
[1a] CƯƠNG VỰC CHÍ CHÉP VỀ
BỜ CÕI [22b] TOÀN THÀNH CƯƠNG VỰC [24a] TRẤN PHIÊN-AN
[36a] TRẤN BIÊN-HOÀ [45a] TRẤN ĐỊNH-TƯỜNG [53b] TRẤN VĨNH-THANH
[63A] TRẤN HÀ-TIÊN
Mục lục
[1a] CƯƠNG VỰC CHÍ CHÉP VỀ BỜ CÕI
[22b] TOÀN THÀNH CƯƠNG VỰC
[24a] TRẤN PHIÊN-AN
[36a] TRẤN BIÊN-HOÀ
[45a] TRẤN ĐỊNH-TƯỜNG
[53b] TRẤN VĨNH-THANH
[63A] TRẤN HÀ-TIÊN
[1a] CƯƠNG VỰC CHÍ CHÉP VỀ BỜ CÕI
Giữa vũ trụ, khí Khinh-thanh nổi lên trời, chất trọng-trọc ngưng
dưới đất. Từ đời Bàn-cổ khai phá khi chất hỗn-độn mà thoát ra, từ đó vật loại
mới hóa sanh ra nhiều. Những khu đất ở giữa rộng lớn thì gọi là trung-châu, còn
bốn phía đông tây nam bắc đều tùy các chỗ mà gọi danh hiệu, chứ khi đầu chưa có
hoạch định cương giới từng nơi nào cả. Kịp khi khí-vận lần mở, nhân dân lần
đông, khi ấy vua Hoàng-đế (2697-2596 trước Dương-lịch) vạch ra khu vực, vua
Thần- vũ (đời Hạ 2205-2198 tr. D.L.) chia ra làm 9 châu, có sách vở tương
truyền. Nhưng ở Trung- quốc chỉ biết có 9 châu mà thôi, chứ sự thực thì ngoài 9
châu ấy ra lại có 9 châu nữa, cũng như ngoài bốn biển còn có 4 biển nữa. Như
sách nhà Phật có nói: "4 Đại-bộ-châu" vậy thì những nước biết ăn gạo
lúa mặc tơ lụa, chẳng biết còn có bao nhiêu nước nữa, chỉ vì sách xưa thiếu sót
đó thôi.
[1b] Như vậy thì sơn hà nhân vật có phải ngày nay mới khai sinh ra
đâu ? Như người Tây- dương bảo có "tân-thế giới" là cuộc theo cái
kiến thức hạ-trùng[1] tỉnh-oa[2] tất nhiên không được hiệp lý vậy.
Do đó mà ta nhận thấy từ khi ngao-cực (trụ cá ngao)[3] đã lập,
hồng-trảo[4] (móng chim hồng) đã phân, trời đất mở ở hội Tý, thì Gia-định cũng
đồng thời mở từ khi ấy, đất mở ở hội Sửu, thì Gia-định cũng đồng thời mở từ khi
ấy, người sinh ở hội Dần, thì người Gia-định cũng đồng thời sinh từ khi ấy,
không phải trong ấy có chỗ riêng sinh riêng dưỡng riêng che riêng chở gì. Còn
những cương thường, thân thể, ẩm thực, ngôn động, thì người thuở ấy bẩm thụ
thiên tánh cũng như những người đời nay; hoặc có khác là chỉ khác sự ăn mặc vật
dụng, xưng hô danh mục, do theo sự tập thượng của người, tùy theo thế đại
Văn-minh hay chất phác mà biến chuyển đó thôi; ấy là lý tất nhiên vậy.
Nhưng thật ra, những người trong thời đại ấy [2a] ngày thường không
biết sẽ làm việc gì ? Lúc đi cũng không biết sẽ đi đến đâu ? Cả đời già chết
không qua lại nhau, lại ở khoảng giữa trời đất minh mông rộng lớn, núi sông
cách trở, hiểm yếu, mà kiến thức của con người thì có hạn, ví như dừng chân
đứng nơi bờ biển, phóng tầm con mắt trông ra ngoài khơi, chỉ thấy lai láng mờ
mịt, mặt nước sát với chân trời, không tiến được nữa, bèn chỉ chỗ mình trông
thấy nhận cho là chỗ trời đất tận cùng, như vậy đâu phải là lời nói đã do sự
thấy biết một cách chắc chắn rõ ràng.
Vậy cho nên đời vua Thần-nông địa giới phía nam đến Giao-chỉ, đời
vua Hoàng-đế phía nam đến sông Giang, đời Ngu-thuấn Hy-thúc trắc nghiệm khí hậu
cũng chỉ đi đến Nam-giao; đời Hạ- vũ tuần hành phía nam, hội chư-hầu cũng tại
Đồ-sơn (huyện Thọ-xuân tỉnh An-huy), ấy là cứ theo chỗ thanh giáo phổ cập và
dấu chân đi đến mà biên chép theo sách vở đó thôi. Còn ngoài ra thế nào, phải
đợi người đời sau, chứ chưa có thể cứu xét đến cùng. Vậy thì Gia-định của nước
ta [2b] không biên vào sử sách của Tàu cũng vì lẽ ấy. Nếu không phải như vậy,
thì sao đối với một khu vực vĩ đại cách tỉnh Hà-nam của Trung-quốc là nơi
Kinh-đô của các vị đế vương ngày xưa, chỉ có 13.189 dặm, vả lại đất ấy liên
tiếp cùng nhau nằm trong bốn biển, các nước đều đã giao thông, không phải sánh
như nước ở hẻo lánh xa xôi; mà từ
kỷ-nguyên Giáp-thìn (2597 trước Tây lịch) đời Đế-Nghiêu đến năm
Nhâm-tuất (1802) niên hiệu Gia-khánh đời Thanh, trải qua 4164 năm mà sách sử
Trung-hoa không từng nói đến, mãi cho đến năm nước ta bắt đầu sang cống hiến,
thì tên Nông-nại (Gia-định, tục danh là Đồng-nai, người Thanh gọi là Nông-nại)
mới thấy bày rõ ở nơi sử-quán, ấy là một điểm lớn mà sách xưa còn thuyết lược
vậy.
Lại cử một tỷ lệ nữa mà nói: như phía bắc Trung-hoa có Mãn-châu,
Mông-cổ, phía tây có Tây-dương Thổ-lỗ [3a], phía đông có Lưu-cầu, Lữ-tống, các
nước ấy đất rộng lớn có đến hơn vạn dặm, đất nước nhỏ cũng không dưới vài ngàn
dặm, đều có nước phụ dung thuộc quốc la liệt như sao đăng, đời sau sử sách luôn
luôn bày tỏ trước tai mắt người, vậy đâu nên vịn lấy cớ sách xưa không chép
danh hiệu mà gác bỏ ra ngoài, chứ không kể đến hay sao ? Như vậy là sự học vấn
của bọn thư-sinh theo những kiều-ngôn[5] truyền thuyết vào lai, chứ không phải
là lối học hỏi in sâu vào lòng.
Nhưng thời đại khác nhau, sự nghiệp đều khác, chính-sách
kiết-thẳng[6] không ghi nhớ được xa, chỉ nhớ việc cận liền, cứ theo ngôn-luận,
chứ không có sáng tác sử sách nên không lấy làm lạ gì sách Ngoại-kỷ của
Lưu-đạo-Nguyên lượm lặt nhiều việc kỳ quái vậy. Nay chỉ lựa lấy điều nào trọng
yếu xác thật có khảo chứng để biên chép, vậy là chẳng những lý đương nhiên, mà
cũng là cái thể bất đắc bất nhiên vậy.
[3b] Gia-định ngày xưa nguyên đất của Thủy-chân-Lạp (tức nay là
nước Cao-miên, có biệt danh Lục-chân-Lạp và Thủy-chân-Lạp), đất ruộng phì nhiêu
có địa lợi sông biển cả muối và lúa đậu rất nhiều. Các Tiên-hoàng-đế triều ta
(tức triều Nguyễn) chưa rảnh mưu tính việc ở xa nên phải tạm để đất ấy cho
Cao-miên ở, nối đời làm phiên-thuộc ở miền nam, cống hiến luôn luôn. Đến đời
vua Thái-tông Hiếu-triết hoàng-đế năm thứ 11 Mậu-tuất (1658) tháng 9 (tức
Lê-thần- Tông hiệu Vĩnh-thọ nguyên-niên, Thanh Thuân-trị năm thứ 14), Vua nước
Cao-miên là Năc- ong-Chân phạm biên-cảnh ( Ghi chú: người Cao-miên không có họ,
những con cháu nhà vua đều xưng là Nặc-ong, còn chữ Chân là tên người, mà mạng
danh thì lấy chữ tốt đẹp, tuy ông cháu cũng đồng tên mà không kiêng cữ. Nước ta
có gởi văn-thơ xuống cho nước ấy, thì xưng là " Cao- miên quốc-vương
Nặc-ong (Mỗ )"... là lấy cái tên của con vua nước ấy mới được phong mà
gọi. Còn như Vương-tước nước ấy tự-xưng thì có 11, 12 chữ đến 23, 24 chữ, tùy ý
dùng chữ tốt đẹp chứ không định lệ). Khâm mạng Trấn-biên-dinh ( Ghi chú: khi
đầu khai thác, phàm những chỗ đầu biên-giới gọi tên là Trấn-biên . Xét
Trấn-biên đây, tức là trấn Phú-yên ngày nay), Phó-tướng Yến-vũ-Hầu, [4a] Tham
mưu Minh-lộc-Hầu, và Tiên-phong Cai-đội Xuân-thắng-Hầu đem 3 ngàn binh đi 2 tuần
đến thành Mỗi-xuy (hay Mô-xoài) nước Cao-Miên, đánh phá kinh thành và bắt được
vua nước ấy là Nặc-ong-Chấn giải về hành-tại dinh Quảng-bình. Vua dụ cho tha
tội, và phong Nặc-ong-Chấn làm Cao-miên quốc-vương, cho được giữ đạo phiên-thần
của Việt-nam, lo bề cống-hiến, không được xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương,
và khiến quan binh hộ tống về nước.
Khi ấy địa đầu Gia-định là Mỗi-xuy (hay Mô-xoài) và Đồng-nai (tức
nay là đất Biên-hòa trấn) đã có lưu dân của nước ta đến ở chung lộn với người
Cao-miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao- miên khâm phục oai đức của triều-đình,
đem nhượng hết cả đất ấy, rồi tránh ở chỗ khác, không dám tranh trở chuyện gì.
[4b] Mùa xuân tháng 2 năm Giáp-dần (1674) đời vua Thái-tông
Hiếu-triết hoàng-đế (chúa Hiền Nguyễn-phúc-Tần) Nặc-Đài Cao-miên (xét sách
Nam-việt-chí của Nguyễn-bảng-Trung gọi là Nặc-Ô-Đài, sách Phủ-biên-lục của
Lê-quý-Đôn gọi là Nặc-Đài đuổi vua nước ấy là Nặc-ong- Non, Non chạy sang cầu
cứu, vua sai Thái-khang dinh tướng Dương-lâm-hầu làm Thống-xuất, Tham-mưu Diên-phái-hầu
hiệp lý biên-vụ, đem binh đi tiến thảo.
Tháng 4, phá vỡ luôn được 3 lũy: Sài-côn (nay là đất Phiên-an trấn)
Gò-bích và Nam-vang.
Nặc-Đài thua chạy rồi tử trận.
Nặc-Thu đến xin hàng. ( Ghi-chú:xét sử Cao-miên về ngôi vua gồm có
3 đẳng, Chánh-vương, Nhị-vương và Tam-vương, thuở trước Nặc-Sô làm Chánh-vương,
em là Nặc-Tân làm Nhị-vương, con lớn của Nặc-Sô là Nặc-sá-Phủ-tâm không được
làm vua bèn giết cha rồi tự lập. Nặc-tân cùng con người em là [5a] Nặc-Non đầu
nhập nước ta. Khi ấy Nặc-sá-Phủ-tâm liền bị người vợ giết chết, người con là
Nặc-Chi tự lập kế vị. Năm Giáp-dần niên hiệu Thiên-vận[7] (năm 1594) quan binh
tiến thảo, Nặc-Chi bỏ chạy rồi chết. Quan quân đem Tân và Non về nước, con thứ
của Năc- Sô là Nặc-Su đầu hàng, còn Nặc-Tân thì bịnh chết, cho nên triều-đình
cho lập Nặc-Su làm Chính- quốc-vương, Nặc-Non làm Nhị-vương, chia nhau trị
nước. Như trên đã nói, thì danh-tự không đồng với Nặc-Đài mà sự tích cũng hơi
khác, nghi cho 2 chữ Su, Thu quốc âm gần nhau, nên có sai lầm vậy).
Tháng 6 mùa hạ năm ấy tiệp thơ tâu lên, triều-đình nghi cho Nặc-Thu
là phái đích, phong làm Cao-miên chính-quốc-vương, ngự trị ở thành Vũng-long,
còn Nặc-Non làm Phó-quốc-Vương ngự-trị ở thành Sài-Côn vẫn giữ triều cống như
cũ. Vua lại thăng cho Dương-lâm-Hầu làm Trấn- thủ Thái-khang-dinh, phòng ngự
việc ngoài biên giới.
[5b] Tháng 5 năm Kỷ-vị (1679) đời vua Thái-tông Hiếu-triết Hoàng-đế
năm thứ 32 (tức năm thứ 18 niên hiệu Khang-hy nhà Thanh), quan Tổng-binh
trấn-thủ các địa-phương thủy lục ở Long-môn thuộc tỉnh Quảng-đông nước Đại-minh
là Dương-ngạn-Địch và Phó-tướng là Hoàng- Tấn quan Tổng-binh trấn-thủ, các châu
Cao, Lôi, Liêm, là Trần-thắng-Tài và Phó tướng là bọn Trần-an-Bình, đều đem
binh hiền và gia quyến trên 3000 người, chiến thuyền hơn 50 chiếc nhập cửa biển
Tư-dung và cửa Đà-nẵng gần Kinh-đô.
Quan địa phương tâu lên rằng: có bọn cựu thần (người tôi cũ bỏ nước
trốn đi) của nhà Minh thề cùng tận trung với nước, chỉ vì thế cùng lực tận mà
vận nước nhà Minh đã hết, họ không chịu thuần phục nhà Thanh, nên mới chạy sang
nước ta xin làm thần-dân v.v... Khi ấy ở Bắc hà dương có nhiều việc phiến loạn,
mà quan binh họ ở xa đến, chưa biết thực hư thế nào, huống chi họ lại y phục
khác, tiếng nói khác, khó sử dụng được. Nhưng họ trong lúc thế cùng, nên phải
chạy sang, khẩn khoản bày tỏ một tấm lòng thành thì cũng không nên cự tuyệt.
[6a] Vả lại địa phương Giản-phố (biệt danh đất Gia-định hồi xưa) của nước
Cao-miên, đất ruộng béo tốt kể đến ngàn dặm, triều-đình chưa rảnh kinh lý, chi
bằng ngày nay lợi dụng sức lực của họ, giao cho khai phá đất đai để ở, cũng là
một việc mà được 3 điều tiện lợi.
Nghĩ như thế vua bèn ra lệnh khao đãi khuyến khích, chuẩn y cho họ
giữ nguyên chức hàm và lại phong cho quan tước, cho vào Nông-nại khai thác
ruộng đất làm ăn và phải lo hết nghĩa vụ; đồng thời giáng dụ cho Quốc-vương
Cao-miên biết, để tỏ ý không phân biệt họ là người ngoại-quốc.
Nhận được lệnh trên bọn họ Dương và họ Trần cùng đến kinh đô tạ ơn,
rồi sau phụng chỉ tiến hành. Tướng Long-môn là bọn họ Dương đem binh lính ghe
thuyền chạy vào cửa Xoi-rạp và Đại-Tiểu hải-khẩu (thuộc trấn Định-tường) rồi
lên đồn trú ở xứ Mỹ-tho. Tướng Cao Lôi Liêm là bọn họ Trần đem Binh thuyền chạy
vào cửa biển Cần-giờ [6b] rồi lên đồn trú ở địa phương Bàn- lăng xứ Đồng-nai,
khai phá đất hoang, lập chợ phố thương mãi, giao thông với người Tàu, người
Nhật-bổn, Tây-dương, Đồ-bà, thuyền buôn tụ tập đông đảo. Phong hóa Trung-quốc
từ đấy bồng bột lan khắp ở vùng Giản-phố vậy.
Tháng 6 mùa hạ năm Mậu-thìn (1688) đời vua Anh-tông Hiếu-nghĩa
hoàng-đế, Phó-tướng Long-môn là Hoàng-tấn sinh lòng hung hãn, đem binh đánh
giết Dương-ngạn-Địch, rồi dời binh đến đóng ở xứ Rạch-nan (thuộc trấn
Định-tường) chiếm cứ hiểm-yếu, đóng chiến thuyền, đúc đại bác, ngăn cấm người
buôn qua lại, cướp bóc nhân dân Cao-miên. Vua nước Cao-miên là Nặc- ong-Thu
phải đắp lủy đất ở 3 xứ Cầu-nơm, Nam-vang và Gò-bích, còn ở sông Cầu-nơm thì
kết bè nổi, [7a] xâu dăng dây kẽm ngang cửa sông để chống giữ. Lúc ấy Phó-vương
nước ấy là Nặc-Non đóng ở Sài-côn đem hết sự tình vào tấu. Tháng 10 triều-đình
sai Thái-đức-Dinh Phó-tướng Vạn- long-Hầu làm Thống-suất, Thắng-long-Hầu và
Tân-lễ-Hầu là Tả-hữu Vệ-trận, Vị-xuyên-Hầu làm Tham-mưu đến đánh. Và ủy cho
phương lược khai biên.
Quan quân kéo đến Rạch-sầm (thuộc thôn Kim-sơn, huyện Kiến-đăng,
trấn Định-tường) nói thác là đánh Nặc-Thu, rồi sai Hoàng-tấn là Tiên-phong, dụ
y hội tại giữa sông, sẵn có phục-binh ở đấy chụp bắt, phá cả đồn trại.
Hoàng-tấn chạy trốn rồi bị tử nạn, quan quân chiêu dụ đoàn binh Long-môn, còn
những người bị hiếp tùng thì được tha tội tất cả.
Giết được Hoàng-tấn quan quân thừa thế tấn công Nặc-Thu, ủy cho
tướng Cao Lôi Liêm Thắng-tài-Hầu kiêm quản tướng sĩ Long-môn [7b] làm
tiên-phong, bắt chước việc cũ của Tấn- Vương-Tuấn nhà Tấn[8] đốt hết dây kẽm
ngang sông rồi tới lấy được 3 lũy Cầu-nơm, Nam-vang và Gò-bích ; Nặc-Thu lui
binh đóng ở Vũng-long, lập mưu sai Chiêm-Luật làm nữ-sứ (sứ-giả đàn bà) đến xin
đầu hàng, và xin tạ việc lui quân để chúng trang biện lễ vật cống hiến, mà kỳ
thiệt là chúng dụng kế hoãn binh để mộ thêm viện binh chống cự. Vạn-long-Hầu sơ
xuất tin theo, kéo quân về đóng ở Bến-nghé (nay là chợ Điều-khiển), hơn năm mà
Nặc-thu không nạp cống khoản, vừa khi ấy có phát bệnh dịch, quân sĩ nhiều người
bị chết, các tướng hiệu bèn liên danh đứng tờ tấu đàn hạch Vạn-long chần chừ
không chịu tiến quân, bỏ lỡ cơ hội.
Mùa đông năm Kỷ-tỵ (1689) vua sai [8a] Cai-cơ Hào-lương-Hầu
Nguyễn-hữu-Hào (con ông Tiết-chế Chiêu-võ-Hầu Nguyễn-hữu-Dật) làm Thống-binh,
Hòa-tín-Hầu làm Tham-mưu. Cai đội Thắng-sơn-Hầu làm Tiên-phong, tuyển lựa tinh
binh các xứ Phú-yên, Thái-khương và Bình- thuận tấn công Cao-miên, và trói bọn
Vạn-long-Hầu giải về Kinh-sư. Sau khi ấy triều-đình kiến nghị miễn chức
Vạn-long-Hầu xuống làm thứ dân (dân thường), giáng chức Vị-xuyên-Hầu xuống làm
lại thuộc tướng thần.
Tháng 3 mùa xuân năm Canh-ngọ (1690) Hào-lương-Hầu đánh Cao-miên
đắc thắng, bắt vua nước ấy là Nặc-Thu về Sài-côn, rồi nghỉ binh.
Nước Cao-miên được bình định nhưng ít lâu sau Nặc-Thu lâm bệnh
chết, Nặc-ông cũng chết nốt, đích phái giòng vua Cao-miên không có người nào,
[3b] các tướng có đề tấu lên, nhân theo lời tấu, vua phong con Nặc-Non là
Nặc-Yêm làm vua cho đóng ở thành Gò-bích. ( Ghi chú: xét quốc-sử Cao-miên
Niên-hiệu Thiên-vận năm 1632 là vào năm Thìn, con Nặc-Non là Nặc-Yêm tức là
Tham-đích-Sá-chiêu-Thùy lên làm vua, so sánh theo thời đại danh hiệu cũng hơi
phù hiệp, nhưng chỗ năm tháng thì sai khác, nay cứ biên vào để khảo cứu sau).
Mùa xuân năm Mậu-dần (1698) đời vua Hiển-tông Hiếu-minh hoàng-đế
sai Thống-suất Chưởng-cơ Lễ-thành-Hầu Nguyễn-hữu-Kính sang kinh lược Cao-miên,
lấy đất Nông-nại đặt làm Gia-định phủ, lập xứ Đồng-nai làm huyện Phước-long,
dựng dinh Trấn-biên, lập xứ Sài-côn làm huyện Tân-bình, dựng dinh Phiên-trấn
[9a] mỗi dinh đặt chức Lưu-thủ, Cai-bộ, và Ký-lục để quản trị ; Nha thuộc có 2
ty Xá-lại để làm việc ; quân binh thì có cơ đội-thuyền thủy-bộ tinh-binh và
thuộc-binh để hộ vệ.
Đất đai mở rộng 1000 dặm, dân số hơn 40.000 hộ, chiêu mộ những
lưu-dân từ Bố-chánh- châu trở vô nam đến ở khắp nơi, đặt ra phường ấp xã thôn,
chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh điền và
lập bộ tịch đinh điền. Từ đó, con cháu người Tàu ở nơi Trấn-biên thì lập thành
xã Thanh-hà, ở nơi Phiên-trấn thì lập thành xã Minh-hương rồi ghép vào sổ
hộ-tịch.
Mùa thu năm Kỷ-mão (1699) tra bắt đạo [9b] Hòa-lang (tức đạo
Thiên-chúa ở Tây-dương) phàm những người thuộc về dân nước ta thì bắt bỏ đạo
trở lại như người thường, đốt những sách đạo và lấy những chỗ nhà tu đạo làm
nhà thường dân ở, còn người Tây-dương thì đuổi về nước của họ.
Tháng 8 mùa thu năm Giáp-ngọ[9] (1714) đời vua Hiển-tôn Hiếu-minh
hoàng-đế năm thứ 24, vua phong cho người ở Lôi-châu tỉnh Quảng-đông là Mạc-Cửu
làm Tổng-binh trấn Hà-tiên.
Mùa xuân năm Nhâm-tý (1732) đời vua Túc-tôn Hiếu-minh hoàng-đế năm
thứ 8 sai Khổn- súy Gia-định chia đất ấy lập làm châu Định-viễn, dựng dinh
Long-hồ (lỵ sở ở địa phận thôn An- bình-đông, huyện Kiến-đẳng tục gọi là đình
Cái-bè).
[10a] Năm Bính-thìn (1736) vua phong cho Mạc-thiên-Tứ (tự Sĩ-Lân)
trấn Hà-tiên làm Đô- đốc Tôn-đức-Hầu kế lập theo ông cha là Mạc-Cửu. Tháng 6
mùa hạ năm Mậu-ngọ (1738) đời vua Thế-tôn Hiếu-võ hoàng-đế năm đầu, định
quan-chế, cải phục sắc, đổi phong tục trung dân- gian đều theo lối mới, trừ tập
tệ ở Bắc-hà từ xưa tới nay (thuở ấy lấy từ sông Linh-châu Bố- chanh trở vào nam
làm Nam-hà, trở ra bắc làm Bắc-hà). Từ đấy miền nam tỏ rạng làm một lãnh thổ y
quan văn vật vậy.
Mùa đông năm Quí-dậu (1753) đời vua Thế-tôn Hiếu-võ hoàng-đế, hạ
lệnh cho Cai-đội Thiện-chánh-hầu làm Thống-suất, Ký-lục Nghi-biểu-hầu
Nguyễn-cư-Trinh làm Tham-mưu, điều khiển tướng-sĩ 5 dinh: Bình-khương (Năm
Canh-ngọ thứ 4 cải phủ Bình-khương làm dinh Bình- khương) Bình-thuận,
Trấn-biên, Long-hồ [10b] đem đi kinh-lược Cao-miên, đồn trú ở xứ Bến- nghé kết
lập dinh trại gọi là Đồn-dinh (tức nay là chợ Điều-khiển) huấn luyện quân ngũ,
trù tính lương thực, lập kế khai thác đất đai.
Tháng 6 năm Giáp-tuất (1754) binh ở Gia-định chia làm 2 đạo,
Nghi-biểu-hầu đem cơ-binh do sông Bát-đông tấn đánh, quân đi đến đâu, địch đều
tan rã. Lần lần đến đất Tần-lê-Bắc rồi ra Đại-giang hiệp cùng chánh-binh
Tiền-giang của Thiện-chánh-hầu hội ở Lò-yêm rồi đồn trú tại 4 phủ[10]
Xoi-rạp[11], Tầm-đôn, Câu-nâm và Nam-vang, Cao-miên đều đầu hàng. Quan quân ta
bèn sai thuộc tướng Cai-đội Chấn-long-hầu qua Tầm-phong-tiêm-phủ chiệu-dụ
Tỳ-man ở Thuận- thành[12] để làm thanh thế. Khi ấy Cao-miên Quốc-Vương là
Nặc-ong-Nguyên chạy qua ở phủ Tầm-phong-Thu (nay gọi là La-bích phủ) vừa có
trận lụt mùa thu tràn ngập, quan quân đều trở về đồn tạm nghỉ.
Mùa xuân năm Ất-hợi (1755) đại binh của Thiện-chánh-hầu đã về trước
ở đồn Mỹ-tho, ra lệnh cho Côn-man Thuận-thành bỏ đất Ca-khâm [11b] đem cả bộ
lạc xe cộ xuống đồn trú ở đất Bình-thanh (nay gọi là Gò-vấp) quân tinh tráng có
trên vạn người, đi đến đất Võ-tà-ôn bị binh chúng Cao-miên hơn một vạn thừa cơ
đuổi theo chụp đánh, quân của Côn-man đuối sức và cô thế, bèn đem xe kết thúc
lại làm thành lũy đồng tâm chống giữ, và cấp báo với Thiện-chánh-hầu.
Thiện-chánh-hầu bị rừng ao ngăn trở khó bề cứu ứng cho mau được. Duy có
Nghi-biểu-hầu đem 5 đội tùy-binh đến cứu viện. Cao-miên trông thấy oai-phong
phải rút lui. Nghi-biểu-hầu đem bọn Côn-man cả nam nữ hơn 5000 người đem về cư
trú dưới núi Bà-đinh và hạch tấu Thiện- chánh-hầu về tội làm thất cơ-nghi, rút
quân không kỷ-luật, bỏ những người mới qui phụ mà không viện trợ, để cho quân
giặc bắt đi. Tấu-trạng dâng lên, triều-đình ra lệnh tra vấn, giáng chức
Thiện-chánh-hầu làm Cai-đội, thâu quyền Thống-suất lại, rồi cho Khâm-sai
Cai-đội Du- chánh-hầu Trương-phước-Du làm Thống-suất [12a] dùng Côn-man làm
hướng-đạo qua đánh phủ Cầu-nâm và Nam-vang giết vài Nha-ốc. Vua nước ấy cả sợ
chạy sang nương dựa Tôn-đức- hầu là Mạc-thiên-Tứ ở trấn Hà-Tiên, nhờ Tứ thay
lời tâu rõ: Việc đáng tiếc ấy là do biên-tướng Cao-Niên là Chiêu Thùy-Ếch lén
tập kích bọn Côn-Non, nay vua nước ấy xin chịu tội.
Năm Bính-tý (1756) vua nước Cao-miên là Nặc-ông-Nguyên xin dâng 2
phủ Tầm-đôn và Xoi- rạp để chuộc tội, và bù cống-lễ trong 3 năm trước chưa nạp.
Triều-đình buộc phải bắt tên cầm đầu cuộc loạn là Chiêu-thùy-Éch đóng cũi đem
nộp. Nhưng Nặc-ong-Nguyên gọi Chiêu-thùy-Éch bằng cậu ngoại, sẵn tình thân ái,
mà việc tập kích đó y cũng dự mưu, bèn trá xưng rằng: y đã đem Chiêu-thùy-Éch
ra chánh-pháp rồi. Triều-đình biết [12b] y nói dối, chất vấn đến cùng, rồi sai
y bắt giải vợ con của Chiêu-thùy-Éch đến. Nặc-ong-Nguyên cũng thác từ nói chúng
hiện còn ẩn-náu. Nghi-biểu-Hầu tâu xin chuẩn hứa cho y chuộc tội, lấy đất 2 phủ
bổ và châu Định-viễn để cho hoàn toàn biên-giới. Vua hạ chiếu y cho.
Năm Đinh-sửu (1757) Quốc-vương Cao-miên Nặc-ong-Nguyên mất, người
chú họ là Nặc- ong-Nhuận quyền nhiếp việc nước. Khổn-thần Gia-định tâu xin nên
nhơn theo tình trạng mà lập Nặc-ong-Nhuận để tỏ ân ý và để củng cố biên cương.
Vua dụ rằng phải hiến thêm 2 đất Trà-vang và Ba-thắc, nhiên hậu cho lập.
Giữa lúc ấy người rể của Nặc-ong-Nhuận là Nặc-Hinh cướp ngôi, giết
Nặc-ong-Nhuận, cháu của Nhuận là Nặc-ong-Tôn [13a] chạy sang Hà-tiên,
Du-chính-Hầu thừa thế tấn công, Nặc-Hinh chạy đến Tầm-phong-Xoi bị
Phiên-liêu[13] là Ốc-nha-Uông giết. Thuở ấy Mạc-thiên-Tứ cũng bị Nặc-ong-Tôn
trần tấu, vua ban sách phong Nặc-ong-Tôn làm Quốc-vương Cao-miên, khiến Mạc-
thiên-Tứ hiệp binh tướng 5 dinh đem Nặc-ong-tôn về nước, nhưng buộc y phải dâng
đất Tầm- phong-Long.
Quan quân khải-hoàn Gia-định. Du-chính-hầu và Nghi-biểu-Hầu nghị
tâu dời dinh Long-hồ qua xứ Tần-xoi (địa phận thôn Long-hồ ngày nay). Lại đem
xứ Sa-đéc đặt làm đạo Đông-khẩu, xứ Cù-lao (tục danh gò cát giữa sông gọi là
Cù-lao) ở Tiền-giang đặt làm đạo Tân-châu, xứ Châu- đốc ở Hậu-giang đặt làm đạo
Châu-đốc. Đem binh ở dinh Long-hồ đến trấn thủ ngăn chận chỗ yếu hại nơi địa
đầu.
Bởi vậy Nặc-ong-Tôn [13b] đem 5 phủ: Vũng-thơm, Cần-bột, Chân-sâm,
Sài-mạc, và Linh- quỳnh biếu Mạc-thiên-Tứ để tạ ơn Tứ đã bảo-toàn y. Thiên-Tứ
lại đặt xứ Rạch-giá làm đạo Kiên- giang, xứ Cà-mâu là đạo Long-xuyên, đều đặt
quan lại, chiêu mộ cư-dân, lập thành thôn ấp, nên đất đai Hà-tiên mới rộng lớn
ra vậy.
Tháng 10 mùa đông năm Kỷ-hợi đời Thế-tổ Cao-hoàng-đế năm thứ 2
(1779) họa địa đồ[14] cắt xén địa giới 3 dinh Trấn-biên, Phiên-trấn và Long-hồ
cho liên lạc nhau. Lại lấy địa-bộ 3 dinh tọa lạc xứ Mỹ-tho đặt làm
Trường-đồn-dinh, đặt lỵ-sở ở Giồng-cai-Yến.
[14a] Địa phương Nông-nại nguyên xưa có nhiều ao chằm rừng rú, khi
đầu thiết lập 3 dinh, mộ dân đến ở. Pháp chế còn khoan dung giản dị, có đất ở
hạt Phiên-trấn mà kiến trưng[15] làm đất ở hạt Trấn-biên, hoặc có đất ở hạt
Trấn-biên mà Kiến-trưng làm đất của Phiên-trấn, như vậy cũng tùy theo dân
nguyện không có ràng buộc chi cả, cốt yếu khiến dân mở đất khẩn hoang cho thành
điền, lập làm thôn xã mà thôi. Lại hoặc có đất hiện còn bùn cỏ mà trưng làm
sơn-điền, hoặc đất gò-đống mà trưng làm ruộng cỏ cũng có phần nhiều, đến như
sào mẫu khoảng sở tùy theo miệng khai rồi biên vào bộ chứ không hạ thước đo
khám, phân bổ đẳng hạng tốt xấu, còn thuế lệ nhiều ít và cái hộc ( đồ đong
lương) lớn nhỏ cũng tùy nguyên lệ sở-thuộc phỏng theo đó mà làm [14b] không có
đồng nhau một mực. Đến đây mới tham chước mà làm cho có mực quân bình, nhưng so
với các dinh trấn về phía bắc thì pháp chế ở Gia-định khoan hồng mà thuế cũng
nhẹ hơn.
Năm Canh-thân (1800) triều Thế-tổ năm 21 đổi Gia-định-phủ làm
Gia-định-trấn.
Tháng 6 mùa hạ niên hiệu Gia-long thứ 4 (Ất-sửu-1805) vua sai 6
dinh trấn: Gia-định, Phiên-trấn, Trấn-biên, Vĩnh-trấn (tức Vĩnh-thanh)
Trấn-định (tức Định-tường) và Hà-tiên kê khảo sự tích cương-vực thổ sản trong
địa hạt, và đo xem đường xá xa gần, núi sông chỗ nào hiểm-yếu hay bình-thản, vẽ
vào bản-đồ, ghi chép biên-bản theo từng khoản, cước chú rõ ràng, dâng lên để
làm Trình-lục (sách kê hành trình).
[15a] Tháng 7 mùa thu niên hiệu Gia-long thứ 6 (1807) Nặc-ong-Chân
Cao-miên khiến sứ thần Ốc-nha-Vị Bôn-lịch, Ốc-nha-lịch-già-phủ-phủ-rách đệ
biểu-văn đến kinh-sư xin phong cho làm vua.
( Ghi chú: Năm Đinh-sửu (1757) Nặc-ong-Tôn làm vua nước Cao-miên,
Nặc-ong-Non chạy sang Tiêm-la. Năm Kỷ-sửu (1769) Tiêm-vương là Phi-nhã-Tân sai
binh hộ tống Nặc-ong-Non về nước đánh lấy lại Cao-miên không được, bèn đến phủ
Lò-gò đánh cướp rồi trở về. Năm Tân- mão (1771) binh nước Tiêm sang đánh úp phủ
Nam-vang bắt mất hơn vạn dân, gia dĩ ở đó phát ra dịch chứng, hư hao nặng nề.
Năm Ất-vị (1775) Nặc-ong-Tôn nhường ngôi cho em là Nặc-ong- Vinh làm
Chính-vương, Nặc-ong-Tôn giáng làm Nhị-vương, Nặc-ong [15b] Thâm làm Tam-
vương.
Năm Bính-thân (1776) Nặc-ong-Vinh không kính trọng giữ chức
nhân-thần, nên Tiết-chế Tuấn-quận-công đến đánh. Năm Đinh-dậu (1777) Cao-miên
có nội-biến, Nặc-ong-Thâm bị giết, Nặc-ong-Tôn oán hận mà chết. Năm Mậu-tuất
(1778) Tiêm-vương Phi-nhã-tân sai Phi-nhã Chất-tri Phi-nhã Sô-sĩ lãnh một vạn
binh Tiêm và mượn một vạn binh Cao-miên lấy đường Cao- miên chia 2 đạo thủy lục
tấn công Xương-tinh Lao-khổng Ba-thắc, thẳng đến Viên-chăn Lao đều hàng phục
cả. Thuở ấy Cao-miên phải chuyển vận lương thực, mà nước lại nghèo, dân chúng
phải đi lưu tán. Năm Kỷ-hợi (1779) Nặc-ong-Vinh mất chính quyền, anh em
Chiêu-thùy-Nò chiếm cứ phủ Phong-xoi, Vị-bôn-Sưu chiếm cứ phủ La-bích, xin binh
ở Gia-định đánh giết Nặc- ong-Vinh, bèn lập con Nặc-ong-Tôn là Nặc-ong-Ấn làm
vua, Ấn mới [16a] 8 tuổi, nên dùng Chiêu-thùy-Mô làm phụ-chính.
Năm Tân-sửu (1781) Tiêm-vương Phi-nhã-Tân chia binh làm 3 đạo, sai
con là Chiêu-Nỗi đánh phủ La-bích, Phi-nhã Sô-sĩ đánh Phong-xoi. Khi ấy
Cao-miên xin viện-binh, triều-đình sai quan Điều-khiển Thụy[16] -ngọc-hầu đến
cứu viện. Tháng 3 năm Nhâm-dần (1782) Thụy-ngọc- hầu cùng tướng nước Tiêm giảng
hòa, chia địa giới Tiêm-la, Chân-lạp rồi về. Năm Quí-mão (1783) cựu thần của
Nặc-ong-Vinh là Ốc-nha Nhẫm-rạch-Bèn từ nước Tiêm trở về chụp giết
Chiêu-thùy-Mô cùng Thảm-đích-Sửu, Nhẫm-rạch-Bèn tự xưng là Chiêu-thùy.
Năm ấy người Đồ-bà là Toàn-sét-Cháu-voi-vuốt xướng loạn, Nặc-ong-Ấn
Chiêu-thùy-Bền chạy qua Tiêm-la, vua Tiêm thấy Nặc-ong-Ấn tuổi nhỏ bèn
lưu-dưỡng ở Tiêm, sai Chiêu-thùy- Bèn [16b] làm A-phi-phò-liệt (chức lớn, trấn
thủ Cao-miên.
Năm Giáp-dần (1794) Chiêu-thùy-Luyện chụp đánh giết được Toàn-sét.
Viện binh Tiêm-la cũng quét sạch quân giặc Đồ-bà. Năm Kỷ-tỵ, Đô-đốc Trấn của
Tây-sơn đánh cướp phủ Nam-
vang. Ngày 27 tháng 5 năm Giáp-dần, vua Tiêm đưa Nặc-ong-Ấn về nước, phục lại
ngôi vua, Chiêu-thùy phong Phụ-chính Phò-liệt-Bèn về trấn Bắc-tầm-bôn. Năm
Bính-thìn (1796) Nặc- ong-Ấn chết, con là Nặc-ong-Chân nối ngôi.
Nước Cao-miên nguyên làm phiên-thần nước ta trải đời cung thuận, vì
nước ta gặp vận trung suy, Tây-sơn làm
rối, thuở ấy Cao-miên bị khốn đống đã nhiều, mà nước ta không rảnh cứu vớt. Năm
Tân-dậu (1801) khôi phục Thần-kinh, năm Nhâm-tuất (1802) bình định được cả giặc
loạn. Năm ấy, Nặc-ong-Chân sai [17a] sứ đến xin phép kế tập ngôi vua, ngày 2
tháng 9 vua sắc phong Nặc-ong-Chân làm Cao-miên Quốc-vương, sau Khâm-mạng
Binh-bộ Tham-tri Tĩnh- viễn-Hầu Ngô-nhân-Tĩnh, Ký-lục Dinh Vĩnh-trấn:
Đàn-ngọc-hầu Trần-công-Đàn làm chính phó sứ, cung đệ sắc phong và ấn mạ vàng,
mà tráp đựng ấn thì chạm hình con lạc-đà sang Cao-miên làm lễ sách-phong, chuẩn
định cống-lễ lấy năm Đinh-mão (1807) làm đầu, sau lấy năm Tỵ, Thân, Hợi, Dần,
cách 3 năm một lần cống-hiến. Cống-phẩm gồm 2 thớt voi đực cao trên 5 thước, 2
cái sừng tê ngưu 2 cái ngà voi, 50 cân đậu-khấu, 50 cân sa-nhơn, 50 cân sáp
vàng, 50 cân cánh-kiến, 50 cân trần-hoàng, 20 chum ô-tất (sơn đen). Sứ-bộ gồm 1
chính-sứ, 1 phó-sứ, 2 thông-ngôn, 6 tùy tùng [17b] cộng 10 nhân viên, đến kỳ
cung đệ biểu văn và cống phẩm, trong tuần tháng 4, đến thành Gia-định trình
khám cống phẩm, nhận thâu trang hoàng tử tế rồi có ủy- viên ở Gia-định hướng
dẫn bắt trạm hộ tống đến Kinh-sư dâng nạp, còn sự cung đốn yến khoản sẽ có bộ
Lễ chiếu biện.
Ngày 12 tháng giêng năm Mậu-thìn (1808) niên hiệu Gia-long thứ 7,
đổi Gia-định-trấn làm Gia-định-thành, chỉ định Khâm-sai chưởng Chấn-võ-Quân
Nhân-quận-Công Nguyễn-văn-Nhân làm Tổng-trấn, Khâm-sai Lễ-bộ Thượng-thơ
An-toàn-hầu Trịnh-hoài-Đức làm Hiệp-tổng-trấn, ban cho ấn trên chóp có sư-tử
hình được dùng son đỏ, trấn-thành thì đóng ở huyện Bình-dương phủ Tân-bình.
[18a] ngày 4 tháng 10 năm Canh-ngọ (1810) niên hiệu Gia-long thứ 9,
vua hạ chiếu cho Thần-sách-Quân Tả-dinh Đô-thống-Chế Phong-đăng-hầu
Lê-văn-Phong và Định-tường-Trấn Ký- lục Minh-đức-hầu Bùi-văn-Minh lãnh chiến
thuyền và 3000 thủy binh án cừ địa diện Tân-châu để tuần tiêu biên phòng.
Vì trước khi ấy vua Tiêm sai em của Nặc-ong-Chân là Nặc-ong-Yêm và
Nặc-ong-Đôn về Cao- miên, và bắt Nặc-ong-Chân chia đất Cao-miên cho
Nặc-ong-Nguyên làm Nhị-vương, Nặc-ong- Yêm làm Tam-vương, còn Nặc-ong-Chân thì
chưa cho làm gì. Vừa khi tháng 8 niên hiệu Gia-long thứ 8, vua Tiêm hạ trát nói
là Tiêm-la cùng Diến-điện (tục danh Ô-đỗ lại danh là Phò-ma) đương khai chiến ở
địa phương Xa-lãng [18b] đất nước Tiêm, nên hiệu triệu 10.000 binh Cao-miên
nhưng phải đem 3.000 người đi trước do đường biển đến thành Vọng-các để chờ sai
khiến.
Những binh ấy chưa phát hành thì ngày 13 tháng 8 năm ấy, Ốc-nha
Cao-la-hâm-Mang và Ốc- nha-ca-tri-Bèn mưu phản, (2 người nầy nguyên phụng mệnh
vua Tiêm làm Phụ-thần vua Cao- miên) bị Mặc-ong-Chân giết, đồng đảng của y là
Đê-đô-Minh phản lại chiếm cứ phủ Phong-xoi, A-phi-phò-biệt-Bèn đắp đồn ở
Bắc-tàm-Bòn, ý muốn giết Nặc-ong-chân. Nên biệc tuần-biên nầy do Lê-văn-Phong
và Bùi-văn-Minh đảm nhiệm, (đã nói trên) là để làm thanh viện cho Cao-miên vậy.
Ngày 8 tháng 11 vua hạ chiếu cho Khâm-sai Tổng-trấn Chưởng
Chấn-võ-quân Nhân-quận- Công đem đại binh [19a] kinh lược Cao-miên làm thanh
thế bảo-hộ nước ấy. Khi ấy tướng nước Tiêm là Poi-nhã-ong-Mang, Phi-nhã-na-Trật
và Phi-nhã-na-Lạc đem trọng-binh ở Gò-rạch tới đóng Bắc-tầm-Bòn. Nặc-ong-Chân
xin viện binh, ngày 1 tháng 12 Bảo-hộ: Nhân-quận-công đem binh đến dinh La-bich
(chỗ ở của quốc vương Cao-miên) trù hoạch kế sách an biên, nước Tiêm thấy vậy
không dám hành động gì cả.
Ngày 14 tháng giêng năm Gia-long thứ 9 (1810) Nhân-quận-công kéo
binh về đến thành Gia- định.
Ngày 16 tháng 12 năm thứ 10 Tân-vị (1811) Nặc-ong-Nguyên ban đêm
trốn qua ở phủ Vũ- lật, bọn tội-thần Cao-miên đương trốn tránh, nhiều người
hưởng ứng theo, Nặc-ông-Chân khiến bọn Rạch-y-giá-Thiên lần lượt đến đón,
Nặc-ong-Nguyên chống cự mệnh lệnh của Chân [19b] bắt giữ bọn Thiên không cho
về, lại chỉnh đốn binh bị, đòi lại đất đai 3 phủ: Ca-gò, Phủ-tròng, Phủ-trong,
Nặc-ong-Chăn nghi sợ đem việc báo cáo sang Gia-định, bèn ủy phái Định-tường
Trấn-thủ Chưởng-cơ Thụy-ngọc-hầu Nguyễn-văn-Thụy đem liền 500 binh tới dinh
La-bích, bề ngoài giả làm người đến đốn cây gỗ, mà bên trong là âm thầm để bảo
vệ Cao-miên. Khi ấy vua nước Tiêm sai Phi-nhã Nhẫm-ba-lạc làm đại-tướng quản
lãnh binh tượng của bọn Phi-nhã Thái- nam nối tiếp đến Bắc-tầm-Bôn, khí thế rất
mạnh mẽ.
Ngày 24 tháng 3 năm Nhâm-thân (1812) niên hiệu Gia-long 11, tướng
nước Tiêm là Phi-Nhã Nhẫm-ba-Lạc chia binh làm 2 đạo thủy lục thẳng đến dinh
La-bích. Thụy-ngọc-hầu đem quan binh ngăn trở, chúng không dám phạm đến.
Ngày 28 Nặc-ong-Chân [20a] đem gia quyến xuống thuyền và sai bọn bề
tôi chạy xuống đạo Tân-châu, còn em của Chân là Nặc-ong-Yêm và Nặc-ong-Đôn
trước đêm ngày 29 đã chạy vào đồn binh nước Tiêm. Vừa gặp lúc Viện-binh
Gia-định đến hộ tống Nặc-ong-Chân về thành. Thụy-ngọc-hầu thống quản đồn
Uy-viễn, Dung-ngọc-hầu Nguyễn-văn-Dung đóng ở Lò-xứ, Trấn- thủ Vĩnh-Thanh là
Tưởng-quang-hầu Lưu-phước-Tường đóng ở đạo Châu-đốc, bảo thủ chốn địa-đầu. Binh
nước Tiêm đóng lại ở Vũng-long, niêm phong kho đụn, sửa sang thành lũy. Không
tính đến việc tấn công.
Ngày 15 tháng 4 quan binh để Nặc-ong-Chân ở nơi công-thự (dành
riêng cho chư hầu ở) bên sông lớn phía đông thành. Những binh-biền và bọn nam
phu lớn nhỏ tùy tùng đều theo thứ tự cấp cho tiền gạo [20b] ngày 15 tháng giêng
năm Qui-dậu (1813) niên hiệu Gia-long 12, nước Tiêm sai Phi-nhã-Ma Kha-a-Mặc,
Phi-nhã Lạc-đồ-Tha-sá-Thong-sứ đến Gia-định thành đệ trình quốc-thư, rồi từ đó
phái trạm để ra kinh thành bái yết.
Trong quốc-thư đại ý nói: “Nặc-ong-Nguyên vốn là anh em ruột thịt,
mà Nặc-ong-Chân không có lòng hiếu hữu, nên Nặc-ong-Nguyên phải trốn qua ở phủ
Vũ-lật kiến thiết phòng bị làm chước bảo thân. Nặc-ong-Chân lại sai binh truy
nả rất gắt gây nên cuộc đánh giết nhau. Sợ 2 anh em thương tình cốt nhục mà phụ
ý của 2 nước lớn (tức nước Việt và nước Tiêm) đã có công bồi dưỡng, nên nước
chúng tôi khiến người thân-tín trọng thần đến nơi hòa giải, không ngờ
Nặc-ong-Chân bỏ nước chạy đi. Chúng tôi phải tu sửa thành lũy để đợi cho y về
đó thôi.”
[21a] ngày 15 tháng 2 vua hạ chiếu cho Gia-định thành Tổng-trấn
chưởng Tả-quân Binh-tây Tướng quân Duyệt Quận-công Lê-văn-Duyệt, và Hiệp
tổng-trấn Công-bộ Thượng-thơ Tĩnh-viễn- hầu Ngô-nhân-Tĩnh, nói: "Trong thơ
của Tiêm-vương tình hòa lý thuận, không có ý chống cự, các khanh nên chỉnh sức
chiến thuyền binh bị đợi Tiêm sứ đến, đồng thời dẫn Nặc-ong-Chân về nước".
Ngày 3 tháng 4, Duyệt quận-công và Tĩnh-viễn-hầu lãnh chiến thuyền
và 13.000 quân cùng bọn Tiêm sứ là Phi-nhã Ma-kha-a Mặc hộ tống Nặc-ong-Chân
lên đường. Vua cấp cho tiền lộ phí 5000 quan, lụa 20.000 vuông, và bạc nén trị
giá tiền 10.000 quan để chi dụng. Ngày 14, quan binh đến dinh La-bích hội kiến
với tướng nước Tiêm là Phi-nhã-phi sai-phủ-liên-tra và Phi-nhã- phi Phạt-cô-sả
để kinh lý mọi việc. [21b] Ngày 18 tháng 7 đắp xong thành Nam-vang, hộ tống
Quốc-vương đến ở. Tướng nước Tiêm bàn giao kho đụn, đồn bảo, rồi triệt binh về.
Còn em Quốc vương là Nguyên, Yêm, Đôn thì đã lẻn sang Tiêm-la từ trước.
Tháng 8, để Chưởng-cơ Thụy-ngọc-Hầu và 1.500 quân ở lại bảo hộ nước
Cao-miên, ngày 16 Duyệt-quận-công và Tĩnh-viễn-Hầu dẫn toàn tuân khải hoàn. Ấy
là nhờ oai của triều đình, nên Tiêm-la sợ phục, sự giao hảo ngày càng bền chặt,
mà Cao-miên cũng nhờ đó được yên.
Ngày 26 tháng 8, dựng đài An-biên ở xứ Ngòi-chàng-Oa (?) trên đài
xây Nhu-viễn-Đường, phàm những lễ nguyên-đán, trừ-tịch, đoan-dương, vạn-thọ và
nhận lịch-sóc, thì vua tôi nước ấy đều đến trước đường Nhu-viễn chiếu theo nghi
chú làm lễ vọng bái.
[22a] Ngày 25 tháng 9 vua ban dụ cho Chưởng-cơ Nguyễn-văn-Thụy và
Binh-bộ Tham-tri Đàn-ngọc-Hầu Trần-công-Đàn trấn thủ thành Nam-vang bảo hộ nước
Cao-miên.
Ngày 5 tháng 10 xây xong đồn Lò-yêm để làm chỗ dự trữ tiền lương.
Ngày 2 tháng 12 vua ban cho Nặc-ong-Chân những đồ triều phục:
kim-phốc-đầu (mão đội nạm vàng) hồng mãng-bào (áo bào sắc hồng thêu rồng 4
móng) và ngọc-đái (đai thắt ngang lưng có đính ngọc).
Ngày 6 tháng 7 năm Bính-tý (1816) niên hiệu Gia-long 15 vua ban cho
bề tôi Cao-miên những đồ văn võ triều phục.
Từ đấy y phục khí dụng của quan và dân Cao-miên đều bắt chước theo
phong tục của ta, và các man-lục như trùm vải lên đầu, quấn vải làm váy, lạy
kiểu nhà Phật, tay đập cơm mà ăn đều đổi bỏ cả.
[22b] TOÀN THÀNH CƯƠNG VỰC
Đất Gia-định nguyên xưa là đất Chân-lạp, phía đông-nam giáp biển,
có 17 hải-cảng lớn: Xích- lam, Tắc-ký, Cần-giờ, Đồng-tanh, Xoi-rạp, Cửa-đại,
Cửa-tiểu, Ba-lai, Bâng-côn, Ngao-châu, Cổ- chiên, Ba-thắc, Mỹ-thạnh, Hào-bàn,
Long-xuyên, Kiên-giang và Hà-tiên. Còn vũng biển nhỏ thì nhiều hơn, nhưng bùn
cát khi mở ra khi lấp lại, dời đổi không thường. Sông suối dọc ngang la liệt,
đi trên sông ấy không phải người thổ dân thuộc đường thì ắt hẳn bị cùng đường
lộn lạch. Duy có vũng biển Cần-giờ ở phía đông-nam có Thát-sơn (tục danh núi
Gành-rái) đứng che ở ngoài, Vũng-tàu nằm ở trong, 4 mùa đều được yên ổn, không
có cái nạn núi đá nằm chùm dưới nước và những sóng lớn gió to. [23a] Các nước
đều khen nơi đây là một hải cảng tốt thứ nhất vậy?
Ngoài biên giới Gành-rái có hiệp-sào-giới-thủy tục gọi là
Giáp-nước, tiết gió nam thì chỗ giáp nước dời ra phía bắc tiết gió bắc thì chỗ
giáp nước dời vô phía nam, ghe thuyền qua lại biết rõ giới hạn đặng tránh trước
đi, thì khỏi tai nạn.
Phía tây-bắc giáp giới mán rừng Cao-miên.
Phía tây từ Lao-quốc đến phủ Sơn-bô Cao-miên, có nhiều núi hoặc nổi
hoặc chìm, hoặc xuyên theo ruộng, hoặc chạy qua eo, dọc theo đại giang Cao-miên
chạy đến dài dặc, trải ra đồng bằng rồi đột khởi lên núi Bà-đinh, so rừng giăng
ngang, cỏ rậm bùn sâu, không có sạn-đạo (đường sàn gác vào cây để qua lại) thì
không đi được. Theo nơi đây chuyển qua phía bắc, núi rừng sầm uất dài đến ngàn
dặm, sách động sơn man chia giới hạn để ở, và nạp thuế.
Phía bắc giáp giới núi Thần-phong trấn Bình-thuận (tục danh là mũi
bà Khiết), theo từ phía đông qua phía bắc, núi non trùng điệp dài đến ngàn dặm,
trong có những súc, mang, động, sách liên tiếp của bọn Mọi quen, chính phía bắc
trong núi cao còn có Mọi lạ chưa thuần giáo hóa.
Phía nam giáp giới Cao-miên, có 4 đạo Quang-hóa, Tuyên oai,
Tân-chân và Châu-đốc để trấn thủ, lấy Tiền-giang, Hậu-giang làm hào rãnh thiên
nhiên, chạy dài nối tiếp đất 5 phủ: Linh- quỳnh, Chân-sâm, Sài-mạt, Cần-bột và
Vũng-thơm thuộc tỉnh Hà-tiên.
Thành nầy từ đông đến tây cách 352 dặm rưỡi, hành trình 5 ngày; từ
nam đến bắc cách 742 dặm rưỡi, hành trình 13 ngày. Từ thành đến Kinh 2340 dặm
rưỡi, hành trình 30 ngày, đến địa đầu Cao-miên 447 dặm, hành trình 7 ngày. Lãnh
coi các việc binh dân, xâu thuế, và hình phạt của 5 trấn: Phiên-an, Biên-hòa,
Định-tường, Vĩnh-thanh, và Hà-tiên, lại coi xa thêm đến trấn Bình-thuận, phàm
việc binh thì do ở thành tiết chế, còn xâu thuế hình phạt thì do trấn ấy [24a]
xử đoán và thâu liễm.
Đất Gia-định núi sông hiểm yếu, binh mạnh lương đủ, sở trường về
nghề ghe chèo, dịch sử bọn Đê man,[17] khống chế hai nước Tiêm-lạp, các ngoại
quốc tụ hội làm thành một hùng-trấn ở miền nam nước Việt ta.
[24a] TRẤN PHIÊN-AN
Trấn Phiên-an đất rộng việc nhiều, đường thủy đường bộ giao thông,
Phía bắc giáp giới trấn Biên-hòa, trên từ sông Đức-giang (tục gọi sông Thủ-đức)
đến Bình-giang chuyển quanh xuống đến cửa Tam-giang Nhà-bè, thẳng ra cửa biển
Cần-giờ [24a] đất ở bờ phía nam sông là địa giới trấn Phiên-an. Phía nam giáp
trấn Định-tường, trên tử đạo Quang-hóa, Quang-phong vòng lên phía tây đến thác
Phiến, Rạch-cỏ, và sông Bát-chiên rồi chuyển xuống đông đến Vũng-gù, Tra- giang
rồi ra cửa biển Xoi-rạp, lấy bờ phía bắc con sông làm địa giới trấn Phiên-an.
Trấn Phiên-an phía đông giáp biển, tây giáp Cao-miên, từ đông đến
tây cách 325 dặm, từ nam đến bắc cách 107 dặm. Trấn nầy khi đầu kiến thiết gọi
là Phiên-trấn-dinh, lãnh coi 1 huyện 4 tổng. Lỵ-sở ở thôn Tân-lân, tổng
Bình-trị, huyện Bình-dương.
Ngày 12 tháng giêng năm Mậu-thìn (1807) niên hiệu Gia-long cải làm
Phien-an-trấn, đem huyện làm phủ đem tổng làm huyện, đó là xét theo phần đất
rộng hẹp, số dân nhiều ít, và địa thế liên lạc mà chia đều, lại đặt thêm các
tổng, đều lập giới hạn phân minh.
Năm Gia-long thứ 10 (1811) [25a] dời lỵ-sở đến chợ Điều-khiển (tức
chỗ nền cũ đồn-dinh) xóm Tân-mỹ.
Năm Bính-tý niên hiệu Gia-long 15 (1816) lỵ sở đổi đến địa phương
thôn Hòa-mỹ, phụ phía bắc thành Gia-định. Lãnh 1 phủ, 4 huyện 8 tổng, danh mục
phủ, huyện, tổng, xã, thôn, phường, lân, ấp sự thay đổi liệt kê ra sau (trong
số mục ấy là cứ theo những người bản thổ có ruộng đấy ở trong xã thôn mà liệt
kê, ngoài ra còn hạng người biệt-nạp biệt-tính, có xâu thuế mà không có địa
phận riêng thì gọi là ngụ-cư. Lại còn nhiều danh mục hộ khẩu đều chưa gồm vào ở
đây).
PHỦ TÂN-BÌNH
Trước là huyện nay thăng làm phủ. Lãnh 4 huyện, 8 tổng, 460 xã,
thôn, phường, lân, ấp, điếm.
[25b] HUYỆN BÌNH-DƯƠNG[18]
Trước là tổng, nay cải làm huyện. Lãnh 2 tổng, 150 xã, thôn,
phường, lân, ấp. Phía đông đến cửa biển Cần-giờ, phía tây vượt qua chằm gò tiếp
giáp với miền thượng ; phía nam đến ngã-ba Thị-phổ tổng Tân-long huyện
Tân-long, rồi ngược dòng sông Tiểu-phong thẳng lên cửa cống chợ Tân-cảnh đến
Lão-nhông, phía đông-nam giáp tổng Bình-cách, huyện Thuận-an.
TỔNG BÌNH-TRỊ ( mới đặt )
Có 76 xã, thôn, phường, lân, ấp. Phía đông giáp Bình-giang, từ sông
ở trước thành dọc đến kho gian thảo, phía tây giáp đầu suối Bến-nái [26a] đến
cầu Tham-lương giáp địa giới phía đông tổng Dương-hòa, phía nam giáp kho
gian-thảo qua miếu Hội-đồng đến cầu Tham-lương, phía bắc giáp trấn Biên-hòa,
trên từ sông Đức-giang xuống đến bờ phía nam Bình-giang.
TÊN CÁC THÔN, PHƯỜNG, LÂN, ẤP:
Long-hưng thôn Thanh-hoa thôn Tân-phước phường
An-hòa lân Trọng-hòa
thôn Tây-tự lân
Giang-trạm Tân lộc Tây-hòa lân phường (tây giáp)
Thanh-phú lân Tân-thuận lân Tân-thuận-Nhị lân
Tân-hội lân Tân-hội-Nhị
lân Tân-mỹ lân
Tân-mỹ-Đông lân Tân-khánh
lân Tân-hòa lân
Tân-thạnh lân Tân-phú lân Vĩnh-quí lân
[26a] Tân-thái lân Tân-hưng
lân Lưỡng-thạnh lân
Tân-an lân Tân-lộc lân Thanh-bình lân
Thái-thành lân Tân-định lân Nhân-hòa thôn
Long-điền thôn Tân-khai thôn Hòa-mỹ thôn
Phú-mỹ thôn Thạnh-đa thôn Mỹ-hội Tân-an thôn
Hạnh-thông thôn Hạnh-thông-Tây
thôn An-hội thôn
Bình-quí thôn (t.g) Thái-hòa
thôn Phú-nhuận thôn
Phú-hanh thôn Tân-an xã
(t.g) Hanh-thạnh thôn
An-lộc thôn An-lộc-Đông
thôn Anh-thạnh thôn (trung giáp)
Cựu-Bình-nhan thôn Bình-lý
thôn Bình-lý Đông thôn
Tử-thánh Tân-mỹ thôn đông An-thái thôn
Mỹ-đức thôn
[27a] Mỹ-hạnh thôn Tân-đông
thôn (đông giáp)
Tân-đông thôn (tr.g) Tân-đông
thôn (t.g) Phước-an thôn
An-hòa ấp Bình hòa thôn (mới
lập) Tân-thạnh trung thôn
Hưng-thạnh thôn (mới lập) Tân-an-Thạnh
thôn Tân-thạnh thôn (đông giáp)
Tân-thạnh thôn (t.g) Tân-an-Thạch
thôn Phú-hòa đông thôn
Định-hòa thôn Nhuận-đức
thôn An-nhơn thôn (tây giáp)
An-bình thôn (mới lập) Thái-hòa
thôn Vĩnh-khánh lân
Tân-đức thôn Hoa-đăng
thôn Mộc-khôi Mỹ-thạnh thôn
TỔNG DƯƠNG-HÒA
Có 74 xã, thôn, phường, ấp. Phía đông giáp biển, phía tây giáp
Cao-miên, vượt qua chằm gò tiếp đến sơn-man; phía nam, giáp tổng Tân-phong,
huyện Tân-long, từ ngã ba Thị-phổ [27b] dọc theo sông Tiểu-phong qua cửa cống
chợ Tân-cảnh đến hồ Lão-nhông; phía bắc giáp sông cái Phước-bình, từ cửa cảng
Cần-giờ ngược dòng qua Tam-giang Nhà-bè đến sông Phước-thành; phía đông-nam
giáp tổng Lộc-thành huyện Phước-lộc; phía tây-nam giáp bờ phía đông-nam hồ
Lão-nhông tổng Tân-phong huyện Tân-long, ôm quanh theo núi Bà-đinh rồi vượt hồ
chằm tiếp giáp sơn-man.
TÊN CÁC THÔN, PHƯỜNG, LÂN ẤP:
Bình-định thôn Hòa-thuận Đông
thôn An-phú thôn
Mỹ-hòa thôn Tân-thuận
thôn Bình-sơn thôn
An-định thôn An-sơn thôn An-sơn đông thôn
Phú-thuận thôn An-thành thôn An-thành thôn (t.g)
An-hòa trung thôn Thanh-tuyền
thôn Trung-hòa thôn
[28a] Thuận-kiều thôn Thanh-tuyền
thôn Thanh-hòa trung thôn
Tứ-chánh Giao-đức thôn Tân-thái bình thôn Tân-thái đông thôn
Tân-thái tây thôn Tân-thái
trung thôn Tân-thái nhất thôn
Tân-thái nhì thôn Tân-thái
tam thôn Tân-thái tứ thôn
Mỹ-toàn thôn Tân-thái nhứt
thôn (tây giáp) Tân-thái nhị tây thôn
Xuân-thái thôn Xuân-thái tây
thôn Tân-phú thôn (t.g)
Tân-thông thôn Tân-thông thôn
(t.g) Phước-an thôn
Vĩnh-an thôn An-thuận tây
thôn Trung-chánh thôn
Trung-chánh tây-thôn Phước-tường
thôn Vĩnh-an tây thôn
Tân-lập trung-thôn Tân
thông trung-thôn Phước-mỹ thôn
Vĩnh-hòa thôn (mới lập) Tân-thông-an
thôn [28b] Phú-nghĩa thôn
Long-thanh thôn Cần-giờ
anh-thạnh thôn Phú-mỹ tây thôn
Tân-thuận đông-thôn Tân-vĩnh
thôn Đồng-tranh Tân-hòa thôn
Phụ-đinh-cảo khánh-hội thôn (trước đây là phường Tân-hội)
Bình-ý thôn Vĩnh-khánh
thôn Hòa-trung thôn
Tân-thạnh thôn Tứ-chánh-điếm Tứ-xuân ấp
Tứ-chánh-điếm Bình-thuyên ấp Tứ-chánh điếm Tân-an ấp
Tứ-chánh-điếm, Bình-hòa ấp Bình-an phường
Tân-cảnh thôn Tân-chân
đông-ấp Đồng-văn phường
Tân-chánh thôn (xưa là
Tân-châu thôn) Hòa-dương thôn
Phú-hội thôn An-nhơn thôn Phước-thạnh thôn
Mỹ-xuân thôn Tân-thông thôn
(đ-g)
*
*
(Xưa là tổng nay đổi làm huyện )
HUYỆN TÂN-LONG
Lãnh 2 tổng, 150 thôn,
phường, ấp, điếm, [29a] Phía đông giáp tổng Dương-hòa, huyện Bình-dương; phía
tây giáp hồ Lão-nhông; phía nam giáp sông cái Thuận-an, phía bắc giáp ngã- ba
Thị-phổ huyện Bình-dương đến sông Tiểu-phong, qua cửa cống chợ Tân-cảnh đến cầu
Tham-lương.
TỔNG TÂN-PHONG
Tổng nầy có 76 thôn, phường, ấp, điếm. Phía đông giáp chỗ ngã ba
Khúc-rang (?), rồi theo chỗ ngã ba sông Biên-bức chạy đến hạ khẩu sông Sa-hà,
phía tây giáp hồ Lão-nhông ; phía nam giáp tổng Hưng-long, cách một cái khe đến
thượng-khẩu Sa-hà, phía bắc giáp cửa cống chợ Tân- cảnh đến sông Tiểu-phong
xuống ngã ba Thị-phổ.
TÊN CÁC THÔN, PHƯỜNG, ẤP, ĐIẾM:
Khánh-hòa thôn Bình-nghi thôn Tân-hóa thôn
Phú-hưng thôn Long-vĩnh thôn Bình-long thôn
Cựu An-phú thôn Tân Phú-hội thôn Hiệp-ân thôn
Thuận-an thôn Tân-thuận
thôn Tấn-lộc thôn
Bình-tây thôn Bình-tiên
thôn [29b] Bình-đăng thôn
Bình-đông thôn Quang-phục thônNgũ
phúc thôn
Tân-thuận thôn Bình-lộc thôn Long-cảnh thôn
Hội-đức thôn (mới lập) Hòa-định thôn Tân-đồn thôn
Phú-an thôn Tân-liêm
thôn Tân-lạc thôn (đ.g)
Tứ-chánh điếm Tứ-xuân phường
Vạn-xuân thôn
An-phú thôn Phước-thanh
thôn, Tứ-chánh điếm, Tấn-đức phường
Nhơn-mỹ thôn Bình-đức thôn Tân-phú thôn
Phước-lộc Đông thôn (mới lập) Toàn-lộc phường
Tân-quảng thôn Phú-vinh thôn, Tứ-chánh Thái-lộc phường
Tân-an thôn tây-giáp Tân-an
thôn(đ-g) Tân-long thôn
Giang-trạm Tân-an
trung thôn Tân hương thôn
Nhơn-nghĩa thôn
[30a] An-thái thôn Tân-phú-thạnh-Đông
thôn Tân-hưng thôn
Tân-khánh thôn Tân-phú-điền
thôn, Tân-an xã (đ-g)
Tân-hội thôn Tân-miên
thôn Tân-lộc xã
Tân-đức thôn Tân-thanh
thôn Tân-thành thôn
Phú-hữu thôn Tân-phú-Lâm
thôn Bình-quí thôn
Minh-phụng thôn Cựu-phú-Lâm
thôn Tân-định thôn (mới lập)
Tân-hòa thôn (đ-g), Tân-hòa
thôn tây-giáp
Bình-hòa thôn Sài phú Tân-an phường
Tứ-chánh Tân-hòa thôn (mới
lập) Tân-tạo thôn
Bình-trị đông thôn (mới lập) Tân-lộc
thôn
An-hòa ấp Tân-hòa thôn Tân-lạc tây thôn Tân-phú đông-điếm.
[30b] TỔNG LONG-HƯNG
Tổng nầy có 74 thôn, phường. Phía đông giáp hạ khẩu Sa-hà, theo ngã
ba sông Cần-bột chuyển qua chợ Thị-Đắc ra đến sông Thang-giang (hay
Tranh-giang); phía tây giáp hồ Lão- nhông dọc theo khe Miễn-mộ (?) tổng
Bình-cách huyện Thuận-an; phía nam giáp sông cái Thuận-an, phía bắc giáp tổng
Tân-phong cách ngòi đến thượng-khẩu Sa-hà.
TÊN CÁC THÔN, PHƯỜNG:
Mỹ-thuận thôn Mỹ-thuận-Tây
thôn An-lạc phường
Trung-hưng thôn Phú-mỹ
thôn Thái-bình thôn
Tân-hội Đông thôn Tân-kiên
thôn Long-đức thôn
Tân-nhựt thôn Tân-tảo thôn Tân-hữu thôn
Tân-phú tây thôn Lương-hòa
tây thôn Lương-hòa đông thôn
Tân-sơn thôn nhị giáp [31a] Sơn-hòa
thôn Bình-hưng thôn
Bình-hưng đông thôn Bình-thạnh
thôn Tân-hòa thôn
Tân-phước-Thiện thôn, Lương-phú
thôn (mới lập) Tân-tảo tây thôn
Tân-nguyên thôn Tân-hồ
thôn An-tường thôn
Bình-trường thôn Bình-chánh
thôn Long-thạnh thôn
Bình-thượng thôn, Tân-tú
thôn Hòa-thạnh đông thôn
Bình-định thôn Tân-hưng tây
thôn Bình-an thôn
An-phú tây thôn An-phước tây
thôn Đức-hòa thôn
An-thạnh thôn Tân-phú-An
thôn An-mỹ thôn
Mỹ-an thôn Tân-phú-An
tây thôn Mỹ-hòa thôn
Mỹ-thạnh thôn Thanh-tuyền
thôn Bình-nghĩa thôn
[31b] Bình-phước thôn Tân-sơn
thôn nhứt giáp Tân-kim thôn
Tú-chánh Phước-lộc thôn (mới
lập) Tân-mỹ thôn
Hưng-long thôn Bình-giao thôn Chân-thái thôn
Tân-kiều thôn Tân-nhiễu
thôn Tân-thủy thôn
Tân-quí thôn Tân-quí tây
thôn Phước tri phường
Long-thái tân thôn Sông-tra Châu-thạnh thôn Mỹ-hạn thông(lập lại)
Phú-thạnh thôn Tân-câu tây
thôn Ninh-đức thôn (lập lại)
Tân-liễu thôn Tân-kinh
thôn Tân-phong thôn
Bình-an tây thôn Mỹ-hội
đông thôn Qui-hòa thôn (mới lập)
HUYỆN PHƯỚC LỘC
Nguyên trước là tổng, nay cải làm huyện. Khi xưa là tổng Phước-lộc
thuộc huyện Phước- long, dinh Trấn-biên; sau khi có địa-đồ, chiếu theo địa thế
liên lạc [32a] cho thuộc về dinh Phiên-trấn, nay cũng để y như cũ.
Huyện nầy lãnh 2 tổng, 95 xã, thôn, phường, lân, ấp, điếm. Phía
đông giáp vũng biểu Xoi-rạp; phía tây giáp sông Tranh, tổng Tân-phong, huyện
Tân-long; phía nam giáp sông Xá-hương và cửa sông Tranh; phía bắc giáp sông
Loát-giang tổng Dương-hà, huyện Bình-dương, rồi qua sông Ô-giang đến sông
Biên-bức (giơi giơi).
TỔNG PHƯỚC-ĐIỀN
Có 48 xã, thôn, phường, lân, ấp, điếm. Phía đông giáp bến ngã ba
sông Xá-hương tiếp đến vũng biển Xoi-rạp; phía tây giáp chợ Thị-đắc và Tranh-giang;
phía nam giáp tổng Thuận-đạo huyện Thuận-an; phía bắc giáp tổng Lộc-thành.
TÊN CÁC THÔN, PHƯỜNG, LÂN, ẤP:
Phước-cơ thôn Long-thạnh
tây thôn An-xuân điếm
Hòa-nghĩa thôn Tân-an thôn Phú-long đông-thôn
Long-đinh thôn Phước-bình
phường [32b] Vĩnh-phước phường
Tân-mỹ thôn Phước lý
thôn Long-hưng thôn
Phước-quảng thôn Phước-toàn
thượng thôn Phước-toàn trung thôn
Phước-nghĩa thôn Long-phú
thôn Tấn-long thôn
Phước-tịnh thôn Phú-thạnh tân
ấp Long-hiệp thôn
Bảo-hòa thôn Bình-an thôn Bình-thiện thôn
Nhơn-lợi thôn (mới lập) Phú-lợi
thôn Long-hựu thôn
Phước-an đông-phường Phước-an
phường Tân-an xã
Nhơn-hòa thôn Tân-lân thôn Phước-thạnh thôn
Phước-mỹ thôn Phước-tường
thôn Long-mỹ thôn
Mỹ-lệ thôn Vạn-phước
phường Tân-thạch thôn
Phước-lại thôn Tân-thanh
thôn Vĩnh-khánh thôn
Phước-vĩnh tây thôn Phước-vĩnh
đông thôn Phước-khoa thôn
Long-phụng thôn Long-thạnh-thôn
đông giáp Tân-châu-phước phường
Thuận-an thôn Hòa-xuân thôn
* *
*
[34a] HUYỆN THUẬN-AN
Nguyên trước là tổng Bình-thuận: Phía đông giáp sông Xá-hương; phía
tây giáp rừng hoang nguồn Quan-hóa phủ Tầm-đôn Cao-miên; phía nam giáp sông lớn
Hưng-hòa trấn Định-tường, ngược dòng theo dọc sông Bát-chiên đến thủ-sở đạo
Tuyên-oai; phía bắc giáp cửa sông Xá- hương ngược lên sông Thuận-an, ngòi
Miễn-mộ giáp chằm lớn ở núi Bà-đinh.
TỔNG BÌNH-CÁCH
Có 33 xã, thôn, phường. Phía đông giáp ngã ba nước mặn cửa sông
Tranh, phía tây giáp chằm lớn ở núi Bà-định nguồn Quang-hóa và phủ Tầm-đôn
Cao-miên; phía nam giáp Thuộc- lãnh Tra-giang trấn Định-tường; phía bắc giáp
sông Đội-ma dọc sông Thuận-an đến ngòi Miên- mộ
TÊN CÁC THÔN, PHƯỜNG:
Bình-thuận thôn Bình-đức thôn Bình-thanh thôn
Bình-thạnh thôn Bình-cảnh thôn Bình-nghị thôn
Bình-tường tây thôn [34b] Bình-tường
đông thôn Phú-mỹ đông thôn
Nhơm-hoà thôn Bình-nhựt thôn Bình-tự thôn
Tân-đức thôn Tân-an xã
đông-giáp An-lý phường
Bình-dạ thôn Cựu-bình-sơn
thôn Hậu-đức thôn
Cảm-giàng tây thôn Long-tuyền
thôn Thạnh-đức thôn
Thái-bình thượng thôn Bình-thánh
thôn Thanh-phước thôn
Mỹ-an thôn Tân-phủ
thượng-thôn Tân-lợi thượng thôn
Bình-tinh đông thôn Tân-phước
thôn Tây-giáp Bình-an thôn
Dơí-nhựt thôn Thuận-thành
đạo Tân-hoá thôn
Quang-hoá đạo Bình-phú thôn
TỔNG THUẬN-ĐẠO
Có 32 thôn phường: Phía đông giáp sông Xá-hương và giáp biển: phía
tây giáp [35a] phủ Tầm-đôn Cao-miên; phía nam giáp Thuộc-lãng, Tra-giang, ngược
dòng qua Hưng-hoà đến sông Bát-chiên đạo Tuyên-oai, giáp Cao-miên; phía bắc
giáp tổng Bình-cách đến ngã ba nước mặn sông Tranh rồi qua Cai-dao Bô-bô đến
địa_giới Cao-miên
TÊN CÁC THÔN, PHƯỜNG
Hậu-đức thôn Tân-trụ thôn Bình-chánh thôn
Quảng-phủ thôn ( mới lập) Bình-lãnh
thôn Bình-dương thôn
Mỹ-thuận thôn Tân-phong thôn Hưng-thạnh thôn
Bình-khuê thôn Bình-tung thôn Phú-thạnh thôn
Long-tang thôn Bình-tang
thôn Bình-phú thôn
Long-thạnh thôn Bình-định
tây thôn Bình-lương tây thôn
[35b] Bình-lương đông thôn An-hoà
trung thôn Long-thạnh đông thôn
Vĩnh-thạnh thôn Cựu Bình-hoà
thôn Hưng-thạnh đông thôn
Toàn-hoà thôn Thuận-nghĩa
thôn Long-xuân thôn
Thuận-hoà đông thôn Thuận-nghĩa
thượng-thôn Thạnh-hoà đông thôn
Bình-cang trung thôn Bình-lương
trung thôn
[36a] TRẤN BIÊN-HOÀ
Trấn biên-hoà tựa lưng vào núi, trở mặt ra sông. Khống chế vùng
sơn-man, chặn nơi yếu hiểm. Ranh giới cũ: phía đông-bắc đến trấn Bình-thuận lấy
nửa sông La-ly làm giới hạn. Năm Mậu-thìn (1808) niên-hiệu Gia-long thứ 7,
Chuẩn-định phía đông giáp núi Thần-mẫu, lập trạm Thuận-biên, chạy dài ra phía
bắc đều là sách động của sơn-man; phía nam giáp trấn Phiên-an, trên từ suối
Băng-bột qua sông Đức-giang đến Bình-giang bẻ quanh về Tam-giang Nhà-bè, thẳng
xuống vũng biển Cần-giờ qua Vũng-tàu ra Thát-sơn, (núi Rái) lấy một dải sông
dài làm giới hạn. Phàm đất ở bờ phía bắc con sông là địa giới trấn Biên-hoà;
phía đông giáp biển; phía tây đến sơn-man.
Từ đông đến tây cách 542 dặm rưỡi, từ nam đến bắc cách 587 dặm
rưỡi, phía nam đến trấn cách 55 dặm rưỡi.
Khi đầu đặt trấn [36b] gọi là Trấn-biên-dinh, lãnh 1 huyện 4 tổng,
lỵ-sở tại địa phận thôn Phước-lư. Ngày 12 tháng giêng năm Gia-long thứ 7
(1808), cải làm trấn Biên-hoà, đem huyện làm phủ đem tổng làm huyện, xét đất
rộng hẹp dân nhiều ít, cứ theo địa thế liên lạc nhau mà chia đều, lại đặt thêm
tổng, đều lập giới hạn. Năm Gia-long thứ 15 (1816) tháng 2, đời lỵ-sở đặt thôn
Tân-lân, huyện Phước chánh.
Danh mục các phủ, huyện, tổng, xã, thôn, phường thay đổi liệt-kê ra
sau:
PHỦ PHƯỚC-LONG
Trước là huyện nay thăng làm phủ: lãnh 4 huyện, 8 tổng- 310 xã,
thôn, phường
[37a] HUYỆN PHƯỚC-CHÁNH
Xưa là tổng Tân-chánh, nay đổi ra Phước-chánh, khi mới khai thác,
thì đầu nguồn Đồng- nguyên còn là rừng rậm, thổ dân lấy bãi Tân-chánh làm tổng,
thuộc [37a] về dinh Trấn-biên và huyện Tân-binh, sau lại đem những đất rậm biên
vào sở thuế, đều lấy chữ Tân đứng đầu. Cho nên trong chỗ hoang tạp lại phức tạp
thêm. Mãi đến khi lập thành đồ bản thì mới có đầu mới, và đổi về dinh
Trấn-biên, công việc mới nhất định nay theo đó.
Gồm 2 tổng, 85 xã, thôn, phường. Phía đông giáp bến đò Thị-nghĩa,
chợ thôn Bình-dương tổng Long-vĩnh, huyện Long-thành sát đến núi rừng; phía tây
giáp man-sách đầu nguồn; phía nam giáp huyện Bình-an từ núi Chiêm-thái liền đến
xứ Ba-đốc sông Thị-kiên; phía bắc giáp Man-sách rừng lớn.
TỔNG PHƯỚC-VINH (mới đặt)
Có 46 thôn phương. Phía đông giáp bến đò Thị-nghĩa thôn Bình-dương,
tổng Long-vĩnh, huyện Long-thành, liền đến rừng núi; phía tây giáp thượng
nguyên ba-can và thủ-sở Táo-mộc ( cây táo); phía nam giáp Phước-giang; phía bắc
giáp Man-sách rừng lớn.
[37b] TÊN CÁC XÃ, THÔN, PHƯỜNG
Bình-đa thôn Bình-an thôn Vĩnh-an thôn
Tân-mai thôn Tân-nhơn
thôn Tân-phong thôn
Phước-thạnh thôn Tân-tục
thôn Bình-trúc thôn
Phụ-hội-đồng miếu Phước-lư
thôn Tân-lân thôn
Bình-thành thôn Tân-lai thôn Bạch-khôi thôn
Bình-điện thôn Bình-thạch
thôn Bình-sơn thôn
Bình-thới thôn Tân-thạch
thôn Tân-thạch đông thôn
Bình-thuận thôn Bình-thạnh
thôn Bình-ý thôn
Bình-hậu thôn Bình-thảo
thôn Tân-xuân thôn
Tân-triều tây thôn [38a]
Tân-triều đông thôn Tân-thành thôn
Bình-lục thôn Long-phủ
thôn Xuân-hoà thôn
Bình-thanh thôn Bình-định thôn Bình-lợi thôn
Long-chánh thôn Tân-lộc
tây thôn Phú-an thôn
Tân-huệ tây thôn Tân-huệ
đông thôn Tân-quan chánh thôn
Tân-quan trung thôn Tân-quan
đông thôn An-lâm thôn
Bình-an tây thôn Tân-định
thôn
TỔNG CHÁNH-MỸ
Có 39 xã, thôn, phường. Phía đông giáp sông Thị-lộ, tổng Thành-tuy,
huyện Long-thành; phía tây giáp thương-nguyên đạo Đường-sứ và thủ Tham-linh,
giao-dịch trường[19] ; phía nam giáp huyện Bình-an từ núi Chiêm-thái đến xứ
Ba-đốc sông Thị-kiên; phía bắc giáp Phước-giang
[38b] TÊN CÁC XÃ, THÔN, PHƯỜNG
Tân-phước thôn Tân-phú thôn Tân-vạn thôn
Tân-bản thôn Bình-tiền
thôn Tân-hạnh đông thôn
Bình-trị thôn Tân-hạnh
thôn Phước-hạnh thôn
Phước-hạnh trung thôn Tân-trung
thôn tây giáp Tân-hoa thôn
Tân-thạnh thôn đông giáp Tân-hội
thôn Tân-khánh đông thôn
Tân-khánh trung thôn Tân-lương
thôn Bình-chử thôn
Bình-hưng thôn Tân-trúc thôn Tân-chánh thôn
Bình-chữ trung thôn Điều-hoà
thôn Bình-chánh đông thôn
Bình-hoá thôn Tân-hoà thôn Bình-thuận đông thôn
Bình-hoá tây thôn Tân-lợi
thôn Tân-lập thôn
Tân-lộc đông thôn Tân-định
thôn ( có thôn Tân-đức tháp nhập)
[39a] Tân-lộc thượng thôn Tân-quan
thôn Phú-xuân đông thôn
Mỹ-thạnh thôn Tân-thạnh thôn Tân-quan thượng thôn
Bình-an Đông thôn
HUYỆN BÌNH-AN
Gồm 2 tổng, 119 xã, thôn, phường, ấp, điếm. Phía đông giáp tổng
Thành-tuy huyện Long- thành; từ sông Thị-lội nối đến đống Lão-tố ( giồng Ông
Tố); phía tây giáp man-sách thượng- nguyên Băng-bột; phía nam giáp Bình-giang
trấn Phiên-an; phía bắc giáp tổng Chánh-mỹ huyện Phước-chánh; từ núi Chiêu-thới
đến xứ Ba-đốc sông Thị-kiên.
TỔNG BÌNH-CHÁNH
Có 50 xã, thôn, ấp, điếm. Phía đông giáp tổng An-thuỷ, từ xứ Ba-đốc
đến Gò-trà; phía tây giáp man-sách nguồn Băng-bột; phía nam giáp Bình-giang,
trấn Phiên-an; [39b] phía bắc giáp sông Thị-kiên xứ Ba-đốc tổng Chánh-mỹ huyện
Phước-chánh.
TÊN CÁC XÃ, THÔN, ẤP, ĐIẾM
An-phước thôn Long-tuyền
thôn Hoà-thanh đông thôn
Hoà-thuận thôn Hoà-thuận đông
thôn An-định thôn
An-định tây thôn Tân-an
xã nhị giáp Tân-an xã đông giáp
Tân-an xã thuận giáp Tân-an
xã hoà giáp
Tân-an xã lợi giáp Tân-an
xã thạnh giáp
Tân-an xã trung giáp Tân-an
xã tây giáp
Tân-mỹ tây thôn Bến-sắn điếm
Hoà-mỹ thôn Phú-an ấp Vĩnh-tường thôn
Bình-nhan tây thôn Phước-hoá
thuận thôn Tân-khánh tây thôn
Tân-phước thôn Vĩnh-phú thôn
Bình-hoà thôn Tân-đồng thôn Phú-lợi thôn trung giáp
[40a] Phú-lợi tây thôn Bình-điền
thôn Bình-luật tây thôn
Chánh-an trung thôn Phú-thạnh
thôn Phú-thuận thôn
Hoà-thạnh thôn Chánh-an tây
thôn Chánh-an thôn tây giáp
Chánh-an thôn Chánh-hoà thôn Phú-lợi thôn tây giáp
Phú lợi thôn Phú-hoà
thon An-phú ấp
Bình-nhan thượng thôn Tân-thái
thôn tây giáp
Tân-thái thôn đông giáp Tông-thái
thôn Vĩnh-phước thôn
TỔNG AN-THUỶ
Có 69 xã, thôn, phường. Phía đông giáp sông Thị-lộ tổng Thành-tuy
huyện Long-thành liền đến đống Lão-tố Giồng Ông Tố; phía tây giáp sông Gò-thà
xứ Ba-đốc tổng Tây-chánh; phía nam giáp Binhg-giang trấn Phiên-an; phía bắc
giáp núi Chiêu-thái xứ Ba [40b] đốc tổng Chánh-mỹ huyện Phước-chánh.
TÊN CÁC XÃ, THÔN, PHƯỜNG
Tân-an xã đông giáp Tân-thạnh
thôn Phú-mỹ thôn
Tân-long thôn
Lý nhơn tây thôn ( có thôn Phú-xuân
tháp
nhập)
Hành-hoa thôn Phước-an thôn An-phú thôn
Long-quí thôn Phước-thọ
thôn Đông-an trung thôn
Minh-phụng thôn Đông-an
thôn Đông-an tây thôn
Tân-an xã tây giáp Tân-an
xã đông giáp
Bình-chiểu thôn
Bình-chiểu tây thôn Bình-chiểu
thôn
trung giáp
Bình-xuân phường ( có thôn Bình-
xuân đông giáp nhập)
Bình-thắng tây thôn Bình-thắng
phường Hoà-thạnh thôn
Tân-nhơn thôn
Trường-xuân thôn tây giáp Tân-quí
thôn
thượng giáp
An-thạnh thôn ( mới lập, có thôn
Thạnh-sơn tháp nhập)
[41a] Xuân-hoà thôn Linh-chiểu
thôn tây giáp Bình-đường thôn
Bình-thạnh thôn Linh-chiểu
thông đông giáp Bình-qui đông
thôn
Bình-lợi đông thôn Bình-qui
thượng thôn Bình-qui hạ thôn
Bình-kinh thôn
Bình-lợi tây thôn Bình-phú
thượng thôn
Bình-đán đông thôn Tân-lợi
thôn Phước-lộc thôn
Tân-lộ thôn Bình-đồng
thôn đông giáp
Bình-đồng trung thôn (có thôn Bình- đồng-chánh tháp nhập)
Bình-đồng thôn tây giáp Bình-kinh
tây thôn
Phú-long đông thôn Long-đức
thôn Bình-phú thôn
Tân-giám thôn Bình-kinh
đông thôn Bình-hoà thôn
Tân-hưng xã Bình-quan
thôn Long-qui thôn
Bình-qui thôn Bình-xương
thôn Bình-trị thôn
[39b] Tân-mỹ thôn Bình-phú
trung thôn (có 4 thôn Bình-lộc, Chánh-thái, Thuận-bình, Phước-đông và Bình-hạnh nhất giáp tháp vào)
Bình-thuận nhứt thôn
Bình-hoà nhứt thôn Bình-hoà
đông thôn
Om-tài thôn Bình-qui
thôn An-lợi thôn
Bình-tâm thôn Bình-phước
thôn Mỹ-an thôn
HUYỆN LONG-THÀNH
Trước kia là tổng, nay đổi làm huyện, lãnh 2 tổng, 63 xã, thôn,
phường, ấp. Phía đông giáp tổng An-phú huyện Phước-an, từ núi Nữ-ni đến cửa
Ngã-bảy; phía tây giáp núi Lượng-ni, tổng An-thuỷ, huyện Bình-an; phía nam giáp
sông lớn Nhà-bè; phía bắc giáp xứ Ao-cá, tổng Phước- vinh, huyện Phước-thành.
TỔNG LONG-VĨNH
Có 34 xã, thôn, phường, ấp. Phía đông giáp man-sách rừng lớn liền
đến sông Đồng-môn; phía tây giáp núi Lượng-ni, tổng An-thuỷ; phía bắc sông
Trảo-trảo tổng An-thuỷ- phía bắc giáp xứ Ao-cá, tổng Phước-vinh huyện
Phước-chánh,
[61a] TÊN CÁC XÃ, THÔN, PHƯỜNG, ẤP:
Long-tường thôn Bình-lương
thôn Long-an thôn
An-hòa thôn Vĩnh-thọ
thôn Vĩnh-hòa thôn
Vĩnh-đông thôn Phước-toàn thôn Vạn-toàn thôn
An-xuân thôn Phước-châu
thôn Phước-tân thôn
Phước-khả thôn Phước-gia thôn Phước-miên thôn
Phước-trường thôn Long-hòa
thôn Phước-quí thôn
Phước-mỹ thôn Phước-tường
thôn Long-thạnh Tây-thôn
Long-thạnh đông thôn Long-phú
đông-thôn Phước-thiện thôn
Phước-hậu thôn Phước-thái
thôn Long-đại thôn
Phước-tuy phường Phước-hòa
thôn [63A] Phước-lợi thôn
Vĩnh-thuận thôn Long-thành
thôn An-hưng thôn
Phước-mỹ thôn.
TỔNG THÀNH-TUY (mới đặt)
Có 29 thôn ấp. Phía đông giáp tổng An-phú, huyện Phước-an, từ núi
Nữ-ni đến cửa sông Ngã-bảy ; phía tây giáp sông Trảo-trảo tổng Long-vĩnh đến
sông Nhà-bè ; phía nam giáp sông Phước-bình ; phía bắc giáp man-sách rừng lớn
đến sông Đồng-môn.
TÊN CÁC THÔN, ẤP:
Vĩnh-an thôn Phước-lộc
thôn Phước-lợi-An thôn
Vĩnh-xương thôn (mới lập) Phước-thành
thôn Phước-kiên thôn
Mỹ-khoan thôn Phú-mỹ-an thôn Phước-lai thôn
Long-tạo thôn Long-thuận
thôn Phước-hòa đông thôn
[43b] Phú-an thôn Phú-hòa
thôn Long-hưng thôn
Hương-mỹ thôn Lý-nhơn thôn Vĩnh-hưng thôn
Lương-phước thôn Lương-phước
đông thôn Phước-thanh thôn
An-thuận thôn (mới lập) An-phước
thôn Long-đức thôn
Lương-thạnh thôn Thanh-hòa
thôn Trường-lộc thôn
Mỹ-an thôn Long-hiệu
thôn
HUYỆN PHƯỚC-AN
Lãnh 2 tổng, 43 xã, thôn, phường, ấp. Phía đông giáp biển ; phía
tây giáp núi Cam-la và núi Nữ-ni đến cửa sông Ngã-bảy ; phía nam giáp trấn
Phiên-an dọc theo phía bắc vũng biển Cần-giờ
; phía bắc giáp Man-sách thủ Sông-nục
[44a] TỔNG AN-PHÚ
Có 21 xã thôn ấp. Phía đông giáp biển cả ; phía tây giáp núi Nữ-ni
đến cửa sông Ngã-bảy ; nam giáp xã Phước-bình trấn Phiên-an dọc theo bờ phía
bắc vũng biển Cần-giờ ; phía bắc giáp đường quan tổng Phước-hưng.
TÊN CÁC XÃ, THÔN, ẤP
Long-hòa xã Long-hiệp
thôn Long-thắng thôn
Phước-đức thôn Long-lập thôn Long-xuyên thôn
Long-kiên thôn Long-thuận
thôn Phước-thạnh thôn
An-nhứt thôn Hắc-lăng
thôn Phước-thiện thôn
Long-an thôn Long-điền
thôn Long-thạnh thôn
Long hương thôn Phụ
lủy Tỉnh-bổng thôn (Giếng-bộng)
[44b] TỔNG PHƯỚC-HƯNG
Có 22 xã, thôn, phường. Phía đông giáp biển cả ; tây giáp núi
Cam-La đến núi Nữ-ni ; phía nam giáp đường quan tổng An-Phú ; phía bắc giáp
man-sách thủ Sông-Nục.
TÊN CÁC XÃ, THÔN, PHƯỜNG:
Phước-thái thôn Phước-hưng
thôn Phước-liễu thôn
Long-thinh thôn Long-hưng thôn Phước-hiệp thôn
Thái-thạch thôn Phước-lộc
thượng-phường Long-hòa thôn
Phước-an trung xã Long-thái
thôn Gia-thạch thôn
Phước-lợi thôn Phú-thạnh
thôn Phước-hoa thôn
Long-sơn thôn Phước-hải
thôn Long-hội sơn thôn
Long-hải thôn Giang-trạm[20] Long-mỹ tây thôn
Giang-trạm Hòa-mỹ
thôn Giang-trạm Tân-an thôn.
[45a] TRẤN ĐỊNH-TƯỜNG
Đất Định-tường khi đầu khai thác, nhơn dân chia ra thống thuộc
nhiều mối, bởi vì đất Nông- nại rộng lớn nên phải mộ dân đến ở. Đầu tiên đặt ra
2 huyện Phước-long và Tân-bình ở cũng chưa khắp hết, mà đất ấy cách Biên-hòa,
Phiên-an xa xăm hiểm trở, tình thế không thể gấp lấy pháp luật ràng buộc, vậy
nên phải trù hoạch nhiều phương, lập ra sổ sách biệt nạp. Có 9 khố- trường: Qui-an,
Qui-hóa, Cảnh-dương, Thiên-mụ, Gian-thảo, Hoàng-lạp, Tam-lịch, Bả-canh, Tân-
Thạnh cho dân tùy tiện lập ấp khai canh cho khắp. Nhưng ở dựa theo núi hoặc
nương theo biển, những chỗ hẻo lánh rời rạc [45b] lại còn có người chuyên
nghiệp về lợi núi chằm mà không có chỗ quản cố. Lại lập ra trang, trại,
mạn,[21] nậu[22] để thâu thập dân chúng, đều tùy theo nghề nghiệp mà nạp thuế
cho có thống thuộc, cốt yếu về việc mở-mang ruộng đất trồng tỉa hoa lợi mà
thôi, như vậy tuy thấy có sự phức tạp, nhưng tựu trung đều có giường mối.
Khi đầu ở xứ Mỹ-Tho có lập đạo Trường-đồn dùng chức Thơ-ký đảm
nhiệm. Năm Kỷ-hợi đời Thế-tổ Cao-hoàng-đế năm thứ 2 (1779) lập địa-đồ bằng châu
bản (bản in) hoạch-định rõ địa- giới Trấn-biên, Phiên-trấn, Long-hồ và Hà-tiên,
bãi bỏ thể lệ biệt nạp theo 9 khố-trường (đã nói trên), trừ ra hạt nào khi trước lệ thuộc các nha [46a]
thì đem người và ruộng lập thành ra huyện Kiến-Khương, lập dinh
Đồn-trưởng đặt chức Lưu-thủ, Cai-bộ và Ký-lục để cai quản lỵ-sở ở giồng
Kiến-định (tục gọi chỗ đất bốn phía bằng ở giữa nổi cao gọi là đống), lãnh 1
huyện, 3 tổng.
Năm Tân-sửu thứ 4 (1781) đổi làm dinh Trấn-định dời lỵ-sở qua thôn
Mỹ-chánh chợ Mỹ- tho. Tháng giêng năm Mậu-thìn niên hiệu Gia-long thứ 7 (1808)
đổi làm trấn Định-tường lãnh 1 phủ, 3 huyện, 6 tổng, nơi đây đất ruộng béo tốt,
đường thủy lục tiếp giáp, phía đông giáp biển, phía tây giáp nước Cao-miên, bắt
đầu từ Phiếm-da[23]: Rạch-cỏ, Tuyên-oai. Bát-chiên-giang chuyển qua phía bắc
trải sông Hưng-hòa xuống sông Tra-giang, rồi qua phía đông ra cửa biển Xoi-rạp,
chạy theo một dải trường giang… Bờ phía nam con sông là giới-hạn trấn
Định-tường, phía nam từ đạo Tân-châu, thủ Hùng-ngự dẫn theo Tiền-giang xéo ra
phía bắc quẹo về phía đông trải, qua sông Hàm-long [46b] rồi thẳng ra cửa biển
Ba-lai, bởi phía bắc là trấn Phiên-an.
Từ đông đến tây cách 430 dặm rưỡi, từ nam đến bắc cách 348 dặm, từ
lỵ-sở đến thành Gia- định 149 dặm rưỡi, ao chằm uất hiểm, sông nguồn lưu thông.
*
* *
Những danh-mục phủ, huyện, tổng, thôn, ấy thay đổi liệt kê sau đây:
PHỦ KIẾN-AN
Nguyên trước là huyện, nay thăng làm phủ. Lãnh 3 huyện, 6 tổng, 314
thôn, ấp.
HUYỆN KIẾN-ĐĂNG
Lãnh 2 tổng, 87 thôn. Phía đông giáp những sông Tranh-giang,
Ba-lai, Tân-kinh, tổng Kiên- xương, huyện Kiến-hưng, phía tây giáp phủ Cầu-nôm
nước Cao-miên ; phía nam giáp trấn Vĩnh-
thanh lấy Tiền-giang đến sông Hiệp-ân, Cái-tử[24] Cổ-lịch làm giới
hạn ; phía bắc giáp trấn Phiên- an, gối đầu địa giới Cao-miên, ôm vòng theo
sông Bát-chiên và sông Bát-đông.
[47a] TỔNG KIẾN-HÒA
Có 44 thôn. Phía đông giáp những sông Tranh-giang, Ba-lai,
Tân-kinh, tổng Kiến-xương, huyện Kiến-hưng ; phía tây giáp tổng kiến-phong lấy
từ ngòi nhỏ sông Bát-chiên thẳng đến cửa sông Mỹ-lương (tục danh Cái-thìa) ;
phía nam giáp sông Tiền-giang, dọc theo sông lớn Mỹ- lương và Ba-lai, phía bắc
giáp sông Bát-chiên và sông Bát-đông.
TÊN CÁC THÔN:
Kim-sơn thôn Giao-long
thôn Phú-phong thôn
Bình-chánh trung thôn Bình-chánh
đông thôn Bình-chánh thôn
Mỹ-đông chánh thôn Mỹ-hòa
thôn Mỹ-đông trung thôn
Mỹ-đông thôn An-thủy thôn Long-phú thôn
Phú-hòa an thôn An-thủy tây
thôn Tân-sơn thôn
Long-điền thôn (mới lập) Mỹ-quí
thôn Mỹ-ân thôn
Trà-luật thôn Mỹ-an thôn [47b] Phú-long thôn
Mỹ-trang thôn Mỹ-tường thôn Mỹ-trinh thôn
Tân-hội thôn Tân-hòa thôn Hòa-thuận thôn
Hữu-hòa thanh-sơn thôn Hội-sơn
thôn Xuân-sơn thôn
Cảm-sơn thôn Phú-thuận
đông thôn Bình-chánh tây thôn
Phú-an thôn Bình-Phú
thôn Mỹ-hạnh đông thôn
Mỹ-hạnh trung thôn Mỹ-hạnh
tây thôn Phước-an thôn
Phú-mỹ thôn Đông-an thôn An-mỹ
thôn
Bình-hiệp thôn (mới lập) Mỹ-hưng
thôn
TỔNG KIẾN-PHONG
Có 43 thôn. Phía đông giáp ngòi nhỏ sông Bát-chiên thẳng đến cửa
sông Mỹ-lương ; phía tây giáp phủ Cầu-nôm Cao-miên ; phía nam giáp sông lớn
Tiền-giang, Hiệp-ân, Cái-lao. [48a] Cổ-lịch
; phía bắc giáp sông Bát-chiên tiếp đất Cao-miên.
TÊN CÁC THÔN:
Tân-đức thôn Tân-hiệp
thôn Tân-phú sơn thôn
Tân-bình đông thôn An-bình
tây thôn An-thành thôn
Mỹ-chánh thôn Mỹ-thạnh thôn Hòa-mỹ thôn
Mỹ-đức đông thôn Mỹ-đức
tây thôn Mỹ-thiện thôn
Mỹ-lợi thôn Mỹ-lương
thôn An-thái đông thôn
An-thái trung thôn An-thái
tây thôn Hòa-lộc thôn
Mỹ-hưng thôn Mỹ-thuận thôn Mỹ-an đông thôn
Thanh-hưng thôn Mỹ-an
tây thôn An-mỹ thôn
Mỹ-long thôn Bình-hàn tây
thôn, Bình-hàn trung thôn
Mỹ-toàn thôn [48b]
Mỹ-xương thôn Mỹ-đảo thôn
Mỹ-lộc thôn (mới lập) Mỹ-định
thôn Mỹ-trà thôn
Mỹ-nghĩa thôn Tân-an thôn An-bình-long thôn
Tân-mỹ thôn An-long thôn Tân-phú thôn
Tân-thạnh thôn Tân-an thôn Tân-khánh thôn
Tân-phú-đông thôn
*
* *
HUYỆN KIẾN-HƯNG
Lãnh 2 tổng, 76 thôn. Phía đông giáp sông Bảo-định chạy dài ngang
đến cửa sông Mỹ-tho, qua bờ phía đông nửa sông kênh đào làm giới hạn ; phía tây
giáp Tranh-giang, và kênh mới Ba- lai; phía nam giáp sông lớn Tiền-giang,
Ba-lai và Mỹ-tho; phía bắc giáp trấn Phiên-an, và giáp trường-giang Bát-đông,
Hưng-hòa.
TỔNG KIẾN-THUẬN (mới đặt)
Có 39 thôn. Phía đông giáp giới sông Bảo-định chạy dài ngang đến
cửa sông Mỹ-tho [49a] qua Kênh đào và hạ khẩu sông Ba-lai ; phía tây giáp tổng
Hưng-xương, và kênh mới Tranh- giang, dọc theo ngã ba xã-Quảng đến Rạch-khoai ;
phía nam giáp Rạch-khoai tổng Hưng-xương đến sông An-đức (tục danh sông
Xoài-miệt) ; phía bắc giáp trường-giang, Bát-đông và Hưng- hòa.
TÊN CÁC THÔN
Thái-sơn thôn Phú-an Tây thôn Phú-an-lộc thôn
Giang-trạm Điều-hòa
thôn An-đức chánh thôn
Bình-tạo thôn An-hòa thôn Trung-lương thôn
Đạo-ngạn thôn An-đức đông
thôn Long-hội thôn
An-vĩnh thôn Cữu-viễn
thông Nghĩa-hữu thôn
Tân-nhơn thôn An-thái thôn Nhơn-hòa thôn
Long-hội tây thôn An-thạnh
thôn Tân-thạnh trung thôn
[49b] An-phước thôn Tân-an
thôn Long-thạnh thôn
Mỹ-thuận đông thôn Mỹ-thuận
tây thôn Bình-toàn đông thôn
Long-hưng thôn Vĩnh-kiên đông
thôn Bình-đông thôn
Bình-toàn tây thôn Tân-đức
đông thôn Tân-đức chánh thôn
Hữu-đạo thôn Bình-sơn thôn Vĩnh-kim tây thôn
Mỹ-điền thôn Tân-phú thôn
(mới lập) Phú-an thôn
Tân-hưng thôn
TỔNG HƯNG-XƯƠNG (mới đặt)
Có 37 thôn. Phía đông-bắc giáp ngòi nhỏ xã Quảng tổng Kiến-thuận
qua Rạch-khoai (chằm khoai) đến sông An-đức ; phía tây giáp tổng Kiến-lợi huyện
Kiến-phong lấy ngòi xã Quảng, và kênh mới Ba-lai làm giới hạn ; phía nam giáp
sông Tiền-giang Ba-lai rồi quan theo cù.lao Trà- luật xuống sông lớn An-đức.
[50a] TÊN CÁC THÔN:
Hòa-mỹ thôn (mới lập) Tân-hiệp
thôn Tân-lý tây thôn
Tân-lý đông thôn Tân-hương
tây thôn Tân-hương thôn
Nhơn-hậu thôn Tân-hương
trung thôn Bình-quân thôn
Nhơn-lợi và Lương-tri Lương-thanh nghị thôn Nhơn-lý tây thôn (lập
lại)
Bình-định thôn Nhơn-thượng
thôn Xuân-sanh thôn
Nhơn-hậu đông thôn Bình-an
thôn Nghĩa-lợi thôn
Dương-hòa thôn Tân-hội đông
thôn Tân-hội tây thôn
Vĩnh-hòa thôn Phú-mỹ thôn Vĩnh-hòa đông thôn
Mỹ-thạnh thôn Long-định thôn Trường-khánh thôn
Bình-an đông thôn (mới lập) Phú-khương
thôn Phú-thượng thôn
Thân-hòa thôn Đông-an thôn [50b]
Mỹ-phước thôn
Đông-an thôn (mới lập) Tân-đông
thôn Chánh-đông trung thôn
Tân-thạnh thôn (mới lập ) Tuyên-thạnh
thôn.
*
* *
HUYỆN KIẾN-HÒA
Xưa là tổng nay thăng làm huyện, lãnh 2 tổng, 151 thôn ấp. Phía
đông giáp đến cửa biển Xoi_rạp và Ba-lai ; phía tây giáp tổng Kiến-thuận huyện
Kiến-hưng lấy sông Bảo-định chạy ngang qua sông cái Mỹ-tho đến cửa sông lớn
Ba-lai làm giới hạn ; phía nam giáp trấn Vĩnh- thanh lấy sông Tiền-giang,
Ba-lai và Mỹ-tho chạy ra biển làm giới-hạn ; phía bắc giáp trấn Phiên-an lấy
sông dài Hưng-hòa làm giới-hạn.
TỔNG KIẾN-THẠNH
Có 65 thôn. Phía đông giáp Tra-giang, tổng Hòa-bình chạy ngang qua
sông cái Kỳ-hôn Mỹ- tho và Kinh đào đến hạ khẩu sông Ba-lai ; phía tây giáp
kinh Hòa-hưng chảy ngang qua sông cái Mỹ-tho đến hạ khẩu sông Ba-lai; phía nam
giáp sông cái Mỹ-tho ; phía bắc giáp sông Hưng-hòa.
TÊN CÁC THÔN:
Ái-nghĩa thôn Tân-nho thôn Tân-hòa thôn
Bình-thanh thôn Đông-an thôn [51b] Tân-xuân thôn
Mỹ-chánh thôn Phú-hội thôn Mỹ-hóa thôn
Bình-hài thôn Bình-phong
thôn Long-hòa thôn
Thanh-xuân thôn Bình-hạnh
thôn An-hòa thôn
Lương-phú thôn Phú-an thôn Phú-đức thôn
Mỹ-trung thôn Bình-trung-lộc
thôn Bình-phú thôn
Bình-trị thôn Nhơn-nghĩa
thôn Phú-lộc thôn
Bình-cang thôn Bình-nguyên
thôn Bình-thâm thôn
Phú-long thôn Bình-quí thôn Phú-đà thôn
Bình-hiệp thôn Bình-định
đông thôn Bình-công tây thôn
Tân-thạnh thôn Bình-an thôn Bình-dương thôn
Nhật-tân thôn An-khương
thôn Phú-hòa thôn
Phú-xuân thôn Bình-phước
thôn Tân-hưng-long thôn
Mỹ-hội thôn Tân-an tây
thôn Tân-thủy thôn
Phú-tây thôn Bình-thuận
thôn Mỹ-đức thôn
Thanh-xuân đông thôn Bình-thái
thôn Tân-an thôn
Tân-giang thôn Bình-đăng
thôn Vĩnh-phước thôn
Tân-mỹ thôn Tân-thạnh-lợi
thôn Hưng-nghĩa thôn
Long-trì thôn Long-hựu
thôn Tân-trinh đông thôn
Tân-trịnh thôn Điền-trang thôn Bình-thời
thôn
Mỹ-thuận thôn Tân-hưng thôn
[52a] TỔNG HÒA BÌNH (mới đặt)
Có 86 thôn, phường, ấp. Phía đông giáp cửa Xoi-rạp và cửa đại
Ba-lai, tiểu Ba-lai ; phía tây giáp Tra-giang chạy ngang qua sông Kỳ-thôn,
Mỹ-tho, đến kênh đào và hạ khẩu sông Ba-lai ; phía nam giáp sông lớn Ba-lai ;
phía bắc giáp sông dài Hưng-hòa.
TÊN CÁC THÔN, PHƯỜNG, ẤP:
Bình-phú đông thôn Bình-xuân
thôn Bình-sơn thôn
Bình-hưng thôn Bình-quang
thôn Thuận-hòa thôn
Tân-hóa thôn Long-thạnh
thôn Bình-phương thôn
An-định thôn Bình-thạnh
thôn Toàn-thạnh thôn
Bình-thủy thôn Bình-phục nhứt
thôn Tân-nhựt thôn
Bình-phục nhứt đông thôn Bình-phục
nhị thôn Bình-phú chánh thôn
Vĩnh_hộ thôn [52b]Vĩnh-lợi
thôn (mới lập) Vĩnh-an thôn
Vĩnh-thạnh thôn Bình-long tây
thôn Bình-long thôn
An-long đông thôn An-long
tây thôn Tân-cang thôn
Tân-câu trung thôn Tân-câu
đông thôn Bình-nghị thôn
Bình-ân thôn Tăng-huy An-hòa nhị thôn
Toàn-phước phường Tân-niên
đông thôn Tân-niên tây thôn
Dương-phước thôn An-hòa
ấp Tân-long thôn
Tân-niên
trung thôn
Bình-thạnh đông thôn Bình-thuận
đông thôn Bình-thuận tây thôn
Bình-công thôn Tân-phước thôn Miếu ông thôn
Giao-long thôn Phước-an đông
thôn Phước-hòa thôn
Tân-thạnh an-hồ thôn Thái-phước
thôn Phước-hậu thôn
Phú-vinh thôn [53a] Hoàng-long
Quí-sơn thôn Phú-an thạnh thôn
Phú-an-hòa thôn (mới lập) An-hải
thôn Giao-hòa thôn
An-hòa tân thôn Long-phụng
thôn Phú-nhuận thôn
Thanh-long Long-thạnh
nhị thôn Phú-mỹ thôn Chân-hưng thôn
Long-thái thôn Vinh-qui thôn Lộc-thuận thôn
Tân-định thôn Tân-hội thôn Phú-hòa thôn
Phước-thuận thôn Lương-thạnh
thôn Bình-đại thôn
An-lộc Tân thôn Thái-hòa thôn Vĩnh-thạnh thôn
Tân-quang thôn Long-thái Long-hòa thôn Phước-toàn thôn
Phước-định thôn Phú-thanh
thôn Phước-hạnh tây thôn
Phú-mỹ thôn (mới lập) Phước-hạnh
thôn (mới lập)
Long-hưng thôn (mới lập) Bình-thanh
đông thôn
Phước-hạnh đông thôn (mới lập) Vĩnh-đức-Hòa
thôn (mới lập)
[53b] TRẤN VĨNH-THANH
Trấn Vĩnh-thanh nầy nguyên so lập ra châu Định-viễn và dựng dinh
Long-hồ ở xứ Cái-bè, sau dời qua ấp Long-an, thôn Long-hồ, lãnh 1 châu, 4 tổng.
Năm thứ 2 (1779) đời vua Thế-tổ cao Hoàng-đế đổi tên là Hoằng-trấn dinh, lỵ-sở
ở chỗ này, tục gọi là xứ Bãi-bà-lúa. Năm thứ 3 (1780) vì Cao-miên hữu sự, ở xa
khó chế ứng, nên đem lỵ sở về thôn Long-hồ, đổi tên làm Vĩnh- trấn-Dinh.
Năm Mậu-thân (1778) đầu thời trung-hưng, đem 2 đạo Long-xuyên và
Kiên-giang nhập về quản hạt, trong ấy có phủ Ba-thắc [54a] nguyên người
Cao-miên ở, ngoại trừ ra để làm thuộc địa Cao-miên.
Năm Mậu-thìn (1808) niên hiệu Gia-long thứ 7, đổi châu (Định-viễn)
làm phủ, và Vĩnh-trấn làm Vĩnh-thanh-trấn.
Năm Gia-long thứ 9 (1810) trích đem Long-xuyên, Kiên-giang thuộc về
trấn Hà-tiên.
Ngày 22 tháng 2 năm Gia-long 12 (1813) đắp thành trì dựng công thự
ở địa-phận ấp Bình- an và ấp Trường-xuân thôn Long-hồ. Nơi đây có những dải
sông to lớn ràng buộc, chiếm cứ yếu hiểm, làm một hùng-phiên cự-trấn cho thành
Gia-định, khống chế Cao-miên, lại có đường thủy của 2 con sông rất tiện lợi về
sự giao thông, mà ruộng vườn cũng béo tốt.
Phía đông giáp huyện Kiến-hòa trấn Định-tường, lấy hạ-khẩu sông lớn
Ba-lai làm giới hạn ; phía tây giáp 3 phủ Nam-vang, Linh-quỳnh, Chân-sâm nước
Cao-miên ; phía nam giáp 2 đạo Kiên-giang, Long-xuyên trấn Hà-tiên ; phía
đông-nam giáp biển lớn: Ba-lai, Ngao-châu, Băng- cung, Ba-thắc, Mỹ-thanh ; phía
bắc giáp huyện Kiến-đăng trấn Định-tường, lấy Tiền-giang làm giới hạn [54b]. Từ
đông đến tây cách 200 dặm rưỡi, từ nam đến bắc cách 350 dặm rưỡi, phía bắc đến
thành Gia-định 240 dặm rưỡi, lãnh 1 phủ, 4 huyện, 6 tổng.
*
* *
Danh-mục phủ, huyện, tổng, thôn, phường, ấp thay đổi kê ra sau đây:
PHỦ ĐỊNH-VIỄN
Trước là châu nay thăng làm phủ, lãnh 4 huyện, 6 tổng, 353 thôn,
phường, ấp, điếm, trại.
HUYỆN VĨNH-BÌNH
Nguyên trước là tổng Bình-dương nay đổi tên là huyện Vĩnh-bình.
Lãnh 2 tổng, 100 thôn ấp. Phía đông giáp Tiền-giang lấy cù lao Tân-cù sông
Hàm-long và thượng khẩu Cần-đai đến nửa sông Cổ-chiên làm giới hạn ; phía tây
lấy Ngư-câu (ngòi cá) đến nửa sông Cái-bồn làm giới hạn ; Phía nam lấy Hậu
giang từ Ba-thắc đến nửa sông Cái-bồn làm giới hạn ; phía bắt từ Ngư-câu đến cù
lao Tân-củ làm giới hạn.
[55a] TỔNG VĨNH-TRƯỜNG (mới đặt)
Có 52 thôn ấp. Phía đông giáp tổng Tân-minh huyện Tân-an lấy từ cù
lao Tân-cù đến thượng khẩu Cần-đài xuống mân-thít đến nửa sông Trà-ôn làm
giới-hạn ; phía tây từ ngư-câu đến nửa sông Cai-bồn dọc sông Trà-ôn làm
giới-hạn ; phía bắc giáp Tiền-giang từ Ngư-câu đến cù lao Tân-cù làm giới-hạn.
TÊN CÁC THÔN
Long-hồ thôn Bình-an thôn Trường-xuân thôn
Thanh-mỹ thôn An-thành thôn Bình-lương thôn
Bình-an Bình-thạnh An-cù tam thôn Phú-thuận thôn
Phú-hòa thôn Bình-long
thôn Tân-cù Tân-bình nhị thôn
Phước-đức thôn Tân-thái thôn Tân-phú thôn
Bình-phụng thôn Phước-định
thôn [55b] Phú-hưng thôn
Phú-sơn thôn Phước-lộc
thôn Bình-toàn thôn
Bình-sơn thôn Bình-định
thôn Mỹ-tường thôn
Mỹ-thạnh thôn Sơn-đông thôn Mỹ-hòa thôn
An-phú-Hòa thôn Xuân-sơn
thôn Tân-điền thôn
Định-thái thôn Hòa-phú-Đông
thôn Thủy-thuận thôn
Tân-hạnh thôn Tân-mỹ đông
thôn Tân-hiệp An-phú nhị thôn
Tân-hội đông thôn Tân-phú
đông thôn Bình-an thôn
Phú-lộc thôn Mỹ-lợi thôn Phú-trường thôn
Mỹ-thạnh trung thôn Mỹ-phú
trung thôn (mới lập) Long-hội thôn
Bình-thắng thôn An-hội thôn Tân-phước-an thôn
Phú-trường đông thôn [56a] Long-cù
thôn Hạnh-hoa thôn (mới lập)
An-thạnh-hòa thôn Long-thạnh
thôn (mới lập)
TỔNG BÌNH-CHÁNH
Có 48 thôn. Phía đông lấy sông Lãng-the xuống đến nửa sông Cổ-chiên
làm giới-hạn ; phía tây lấy sông Ba-kỳ đến nửa sông Tra-ôn làm giới hạn, phía
nam lấy sông Hậu-giang và Trà-ôn đến sông Ba-thắc Cổ-chiên làm giới hạn ; phía
bắc lấy sông Mân-thít đến nửa sông Lãng-the làm giới-hạn
TÊN CÁC THÔN:
Phước-tường thôn Phú-thái
thôn Thái-bình thôn
Cựu Phước-khánh thôn, Thanh-hưng
thôn An-phú thôn
Thái-khánh thôn (trước là Long-cang thôn) Bình-thạnh thôn
Phú-nhuận thôn An-toàn thôn Tân-hưng thôn
Bình-thạnh thôn (mới lập) Quang-đức
thôn Hiệp-nghĩa thôn
An-tường thôn Phước-toàn
thôn (trước là Bình-hòa thôn)
[56b] Phú-đức Bình-mỹ nhị thôn Long-thạnh
thôn
Tân-phú thôn (trước là Tân-toản thôn) Tân-định thôn
Vĩnh-tường thôn Long-hưng
thôn Vĩnh-long, Vĩnh-an nhị thôn
Phước-long thôn Cựu
Phước-hoà thôn Long-tuyền thôn
Long-hậu, Mỹ-lý nhị thôn Hoàng-long
thôn Tân-an tây thôn
Tường-lộc thôn Thi-lập
Thái-hoà thôn Vĩnh-hưng thôn
An-thạnh-mỹ thôn Long-an
thôn Long-thái thôn
Long-trị thôn Long-phước
thôn Hoà-hữu thôn
An-thái trung thôn Long-vĩnh
thôn Long-phú thôn
Long-khánh thôn Cựu Long-an thôn Phước-thọ thôn
Phú-an thôn Long-định
thôn An-thạnh thôn
[57a] Từ chánh Mỹ-hoà thôn (tục gọi người ở bốn phương là tứ chánh)
bởi vi qui tụ nhận dân lưu-tân bốn phương làm một thôn, chớ không phải thổ dân
của ông cha để lại)
HUYỆN VĨNH-AN
Nguyên trước là tổng nay đổi làm huyện, lãnh 2 tổng, 81 thôn,
phường; phía đông giáp huyện Vĩnh-bình lấy từ ngư-câu ngang đến tiểu-câu Đồ-bà
rồi đến cửa sông Cái-bồn làm giới- hạn; phía tây giáp phủ Nam-vang Cao-miên lấy
cửa sông Tiền-giang ngang đến thượng-khẩu Hậu-giang làm giới hạn; phía nam giáp
huyện Vĩnh-định lấy thượng-khẩu Hậu-giang xuống đến cửa sông Cái-bồn làm giới hạn;
phía bắc lấy thượng-khẩu Tiền-giang bao cả những cù lao Cái Vừng, bãi Tê, bãi
Tân, bãi Ngưu, bãi Long ẩn, Cai-nga, Tân-phụng, Vĩnh-long đến bờ nam nửa sông
cái làm giới hạn.
TỔNG VĨNH-TRINH (mới đặt)
Có 29 thôn. Phía đông giáp tổng An-trung lấy thượng-khẩu sông
Cái-tàu [57b] thẳng đến thủ Cường-oai làm giới-hạn; phía tây giáp phủ Nam-vang
Cao-miên lấy thượng khẩu hai con sông (Tiền-giang, Hậu-giang) làm giới-hạn;
phía-nam giáp huyện Vĩnh-định, lấy thượng-khẩu Hậu- giang, qua Châu-đốc đến thủ
Cường-oai làm giới hạn; phía bắc từ thượng-khẩu Tiền-giang bao gồm các cù lao
Cái-vừng, bãi Tê, bãi Tân, bãi Ngưu, đến thượng-khẩu sông Cái-tàu làm giới-hạn.
TÊN CÁC THÔN:
Tân phú-lâm thôn Long-khánh
thôn (mới lập) Long-sơn thôn
Mỹ-lương thôn Tân-hưng thôn Tân-điền thôn
Tân-thuận thôn Nhơn-hoà trung
thôn (mới lập)
Tân-hoà thôn Mỹ-hưng thôn Mỹ-chánh thôn
Phú-hưng thôn Phú-an đông
thôn Tân-thái thôn
Toàn-đức thôn Toàn-đức đông
thôn [58a] Tân-phước thôn
Tân-tịch thôn Tòng-sơn
thôn Mỹ-long thôn
Mỹ-phú thôn Bình-thành tây
thôn Bình-thạnh đông thôn
Bình-thạnh-hoà thôn Nhơn-lợi-
trung, Tân-an nhị thôn (mới lập)
Tấn-an thôn (mới lập) Thái-bình
thôn Mỹ-khánh thôn
Tân-long thôn
TỔNG VĨNH-TRUNG (mới đặt)
Có 52 thôn, phường. Phía đông giáp tổng Vĩnh-trường huyện Vĩnh-bình
lấy Ngư-câu Tiền- giang đến tiểu-câu Đồ-bà rồi đến cửa sông Cái-bồn làm
giới-hạn; phía tây giáp tổng Vĩnh-trinh lấy thượng-khẩu sông Cái-tàu đến nửa
sông Cường-oai làm giới-hạn; phía nam giáp huyện Vĩnh-định lấy từ sông
Hậu-giang qua đồn Cường-oai đến bờ phía bắc sông Cái-bồn làm giới- hạn; phía
bắc từ thượng-khẩu sông Cái-tàu [58b] thuộc Tiền-giang, bao gồm các cù lao
Long-ẩn, Cai-nga, Tân-phụng và Vĩnh-tòng đến Ngư-câu (ngòi-cá) làm giới-hạn.
TÊN CÁC THÔN, PHƯỜNG
Mỹ-an thôn Cựu-hội-an
thôn Tân-mỹ thôn
Tân-an trung thôn Nhơn-qui
thôn Tân-long thôn
Long-hậu thôn Bình-an thôn Tân-bình thôn
Nhơn-hoà thôn Tân-xuân thôn Tân-lâm thôn
An-tịch thôn Tân-phụng
thôn Sùng-văn phường
Vĩnh-phước thôn Tân-phú
đông thôn Tân-phú trung thôn
Bình-tiên thôn Long-phụng
thôn Tân-qui tây thôn
Tân-qui đông thôn Tân-đông
thôn Tây-khánh thôn
Tân-khánh
tây thôn
Tần-triều thôn Tân-thạnh
thôn Định-an-phú thôn
[59a] Định-hoà thôn Tân-lộc
trung thôn Đông-thành trung thôn
Phú-lộc thôn Bình-lữ
thôn Tân-hoa thôn
Vĩnh-long thôn Tân-hạnh thôn Tân-sơn thôn
Tân-hội thôn Phú-hữu thôn An-thuận thôn
Tân-nhơn thôn Tân-an đông
thôn Tân-hựu thôn
An-hoà đông thôn An-phú
thôn Đông-thành thôn
Mỹ-thuận thôn Giang-trạm
Tân-giai thôn Phú-hội thôn
Tân-hoà thôn Tân-lộc thôn
(mới lập)
Giang-trạm Phước-hậu thôn
HUYỆN VĨNH-ĐỊNH
Phía đông giáp biển, phía tây giáp đất 3 phủ Nam-vang. Linh-quỳnh
và Chân-sâm của Cao- miên; nam giáp đất Kiên-giang, Long-xuyên trấn Hà-tiên,
khởi từ thượng-khẩu Hậu-giang trải qua sông Châu-đốc [59b] và hạ khẩu mới đào
của sông Vĩnh-tế đến hạ-khẩu Thụỵ-hoà luôn đến Ba-lãng, Bãi-xao ra cửa biển
Mỹ-thanh làm giới hạn; phía bắc giáp 2 tổng Vĩnh-trinh Vĩnh- trường huyện
Vĩnh-an và tổng Bình-chánh huyện Vĩnh-bình, lấy thượng khẩu Hậu-giang đến bờ
phía nam con sông ở nơi cửa biển Ba-thắc làm giới hạn.
CỘNG 37 THÔN ĐIẾM KỂ SAU:
(huyện Vĩnh-định địa giới tuy rộng, nhưng nhơn-dân chưa đông nên
chưa chia ra làm tổng).
Bình-thạnh tây thôn Bình-trung
(mới lập) thôn Bình-lâm thôn (mới lập)
Bình-đức thôn Mỹ-phước thôn Mỹ-thạnh thôn
Đại-hữu thôn Thái-thuận
thôn Thái-hoà trung thôn
Tân-thuận đông thôn Tân-lộc
đông thôn Thái-hưng thôn
Thái-an thôn Thái-an
đông thôn Bình-thuỷ thôn
Thái-bình thôn [60a] Tân-an
thôn Tân-thạnh thôn
Tân-nhơn thôn Tân-phú đông
thôn Phú-mỹ đông thôn
An-lạc thôn (mới lập) Phú-long
thôn Tân-thạnh đông thôn
An-thạnh nhứt thôn Đại-hoà
thôn An-thạnh nhị thôn
An-hoà thôn (mới lập) Hoà-mỹ
thôn Châu-qui-an thôn
Mỹ-hội đông thôn Long-hưng
thôn Mỹ-đức thôn
Tân-lợi thôn An-thạnh
điếm Tâu-thạnh điếm
Hậu-giang cựu Vĩnh-thạnh thôn (mới lập)
HUYỆN TÂN-AN
Nguyên trước là tổng nay đổi làm huyện, lãnh 2 tổng 135 thôn trại,
phía đông giáp cửa biển Ba-lai, Ngao-châu, Băng-cung, Cổ-chiên; phía tây giáp
thượng-khẩu sông Cần-đài đến sông cái Hàm-long; phía nam giáp [60b] thượng-khẩu
sông Cần-đài đến nửa sông Cổ-chiên làm giới hạn; phía bắc giáp những sông
Tiền-giang, Hàm-long, Súc-sĩ và Ba-lai làm giới hạn.
TỔNG TÂN-MINH (mới đặt)
Có 72 thôn. Phía đông giáp cửa biển Ngao-châu, Băng-cung, Cổ-chiên;
phía tây giáp thượng- khẩu Cần-đài đến sông Hàm-long làm giới hạn; phía nam
giáp thượng-khẩu Cần-đài đến sông Cổ-chiên làm giới hạn; phía bắc giáp hạ-khẩu
Cần-đài xuống đến cửa biển Ngao-châu làm giới hạn.
Bình-an thôn Bình-thanh
thôn Thanh-tránh thôn
Tân-hương Bình-chánh nhị thôn Bình-trung
thôn
Thanh-an thôn Thanh-hoà
thôn Phú-thạnh thôn
Tân-thuận thôn Tân-qui thôn Vĩnh-khánh thôn
Bình-hiệp thôn [61a] Bình-phụng
(mới lập) Bình-long nhị thôn
An-lộc thôn
Lộc-hoà thôn Phú-thuận
thôn (hiệp cả thôn tân, thôn
cựu)
Vĩnh-hội thôn Vĩnh-hoà thôn Vĩnh-thuận thôn
Tân-phụng thôn Long-an thôn Gia-khánh thôn
Tân-nhơn thôn Nguyên-khánh
thôn Tân-cù thôn
Đông-thành thôn Khánh-hoà
thôn (mới lập, trước là An-mỹ
thôn)
Tân-phú đông thôn Phước-hạnh
thôn Trung-mỹ thôn
Phú-mỹ thôn Mỹ-sơn thôn Mỹ-thạnh thôn
Tân-nghĩa thôn Gia-thạnh thôn Thanh-long thôn
Tân-thiện thôn Tân-thông
thôn Thanh-xuân thôn
Thanh-sơn thôn Tân-viên thôn An-hoà thôn
Hội-an thôn Bình-trạch
thôn [61b] Tân-điều thôn
An-thái thôn Phú-thạch
thôn Cảm-sơn thôn
Thái-hoà thôn Trường-lộc
thôn Thanh-tân tây thôn
Tân-thành thôn Tân-đức thôn Thái-thuỷ thôn
Long-thạnh thôn (trước là Long-hoá thôn) Định-phước thôn
Tân-khánh thôn Phước-khánh
thôn Phú-an định thôn
Tân-trung thôn Tân-xuân thôn Mỹ-điều thôn
Phú-khánh thôn An-qui thôn Long-điền thôn (mới lập)
Giao-thạnh thôn Toàn-phú đông
thôn Tân-lộc trung thôn
Giao-long thôn (mới lập) Vĩnh-an
thôn An-thạnh thôn
Vĩnh-thành thôn Hoà-thạnh thôn
[62a] TỔNG AN-BẢO (mới lập)
Có 63 thôn trại, phía đông giáp biển Ba-lai và Ngao-châu; phía tây
giáp thượng-khẩu Cần-đài và sông Hàm-long, Bình-thuỷ (tục danh Súc-sĩ ở thôn
Bình-thuỷ) làm giới-hạn; phía nam giáp tổng Tân-minh lấy hạ-khẩu sông Cần-đài
đến nửa sông Cổ-chiên làm giới-hạn; phía bắc giáp sông Bình-thuỷ đến biển
Ba-lai làm giới-hạn.
TÊN CÁC THÔN TRẠI
Hàm-long thôn Hoà-thuỷ thôn Phụ-long thôn
Mỹ-phú thôn Tiên-thuỷ
thôn Tiên-thuỷ tây thôn
Sơn-an thôn Sơn-hoà
thôn Sơn-thuận thôn
Mỹ-thành thôn Phú-lợi thôn Phú-an Nhuận-đức thôn
Phú-khương thôn Tân-thành
đông thôn Phú-tự thôn
Phú-hưng thôn Tân-sơn thôn Tân-điền thôn
Mỹ-an thôn Long-thạnh
thôn [62b] Long-hưng thôn
Hưng-thạnh thôn Tân-hào
thôn Tân-hào đông thôn
Tân-định thôn Tân-thanh
đông thôn Tân-thanh trung thôn
Cựu Tân-hưng thôn An-toàn
thôn An-nghĩa tây thôn
An-nghĩa trung thôn An-hoà
đông thôn Vĩnh-đức tây thôn
Vĩnh-đức đông thôn Vĩnh-đức
trung thôn An-bình đông thôn
An-bình tây thôn Phú-long
tây thôn An-hoà thôn
An-thuỷ thôn Tân-thuận
thôn (mới lập) Tân-thuỷ thôn
Bình-thuỷ tây Bình-thuỷ
đông nhị thôn Phú-quí thôn
Phước-đức thôn Phước-lộc thôn Phước-tường thôn
Phước-an trung Phước-an-chánh
nhị thôn [63a] Phước-an-thạnh thôn
Phú-an-thuận thôn Định-hoà
thôn Châu-thái thôn
Bình-hoà thôn (mới lập) Phước-thạnh Long-thạnh nhị thôn
Châu-bình thôn Mỹ-nhơn thôn Tân-trang thôn
Bình-định thôn Mỹ-nhơn thôn Tân-thạnh thôn
Phú-long đông thôn Tân-thạnh
thôn Đồng-gia trại
Tân-xuân thôn
[63A] TRẤN HÀ-TIÊN
Hà-tiên nguyên đất của Chân-lạp, tục xưa lag Mang-khảm, tiếng Tàu
gọi là Phương-Thành, khi ban đầu Mạc-Cửu người xã Lê-quách huyện Khang-hải phủ
Lôi-châu tỉnh Quảng-đông nước Đại-minh, vào năm niên-hiệu Khang-Hy thứ 19
(1680) đời Đại-thanh, nhà Minh mất, ông Cửu không phục chánh sách nhà Thanh, để
tóc dài chạy qua phương nam ở tại phủ Nam-vang nước Cao-miên, thấy nơi phủ
Sài-mạt của nước ấy có những người các nước: Trung-hoa, Cao-miên, Đồ-bà tụ tập
mở trường đổ-bác trưng thuế, gọi là thuế hoa-chi, ông bèn trưng mua thuế ấy,
lại được cái hầm bạc nữa, nên mau phát giàu có, ông lại chiêu mộ dân phiêu lưu
ở Phú-quốc, Lũng- kỳ, Cần-bột, Vũng-thơm, Rạch-giá, Cà-mau lập làm 7 xã thôn.
Xứ sở nầy tương truyền thường có người tiên hay xuất hiện trên sông, nhơn đó
gọi tên là Hà-tiên.
[63b] Mạc-Cửu bèn sai người thuộc hạ là Trương-Cầu, Lý-Xá đệ
biểu-văn trần-tình đến kinh đô Phú-xuân xin làm quan trưởng xứ ấy.
Mùa thu tháng 8 năm Mậu-tý (1708) đời vua Hiếu-tông Hiếu-minh
Hoàng-đế (Nguyến-phúc- chu) sắc cho Mạc-Cửu làm Tổng-binh trấn Hà-tiên phong
tước Cửu-ngọc-hầu; Cửu lập đinh trại đồn trú ở đất Phương-thành, nhơn dân càng
ngày qui tụ càng đông đảo.
Tháng 4 năm 21 Tân-mão (1711) Hà-tiên trấn Tổng-binh Cửu-ngọc-hầu
Mạc-Cửu đến cửa Khuyết tạ ơn.
[64a] Tháng 5 năm thứ 11 Ất-mão (1735) đời vua Túc-tôn Hiếu-minh
Hoàng-đế (Nguyễn- phúc-Chú) Mạc-Cửu mất. Con trưởng là Mạc-Tông, tự là Thiên-tứ
(hiệu là Sĩ-lân-thị Thọ-đức- hiên) dâng thơ cáo phó. Tháng 2 mùa xuân năm Bính-thìn
(1736) Vua ban cho Thiên-tứ Kế tập theo cha, thăng làm Khâm-sai Đô-đốc
Tôn-đức-hầu và cho 3 chiếc long-bài-thuyền được miễn thuyền-thuế, thường năm
thuyền xuất dương lựa mua vật quí đem về Kinh thượng-tiến, Vua lại ra ơn cho
được mở lò đúc tiền.
Tứ chia đặt Văn Võ nha thuộc, tuyển lựa quản binh, dựng công-thự,
đắp thành-bảo, chia đặt đường sá chợ quán, sau đấy thương thuyền các nước vãng
lai đông đảo.
Tứ lại chiêu tập những văn-sĩ tài nghệ các xứ, nên những văn nhơn
tỉnh Phúc-kiến là bọn Châu-phát Trần-minh-Hạ, Châu-cảnh-Dương, Ngô-chi-Hàn,
Lý-nhơn-Trưởng, Trần-duy-Đức, Trần-dược-Uyên, Trần-tự-Nam [64b] Từ-Hoằng,
Lâm-duy-Tắc, Tạ-Chương, Đơn-bỉnh-Ngự, Vương-đắc-Lộ, Từ-hiệp-Phỉ, Từ-đăng-Cơ,
người tỉnh Quảng-đông là Lâm-kỳ-Nhiên, Tôn-thiên- Thuỵ, Lương-hoa-Phong,
Tôn-thiên-Trân, Lội-phùng-Cái, Thang-ngọc-Sùng, Dự-tích-thuần, Trần-thuỵ-Phụng,
Lư-triệu-Dinh, Trần-thiệp-Tứ, Vương-húc, Hoàng-kỳ-Trấn, Trần-bá-Phát; người phủ
Triệu-phong là Phan-đại-Quảng, Nguyễn-Nghi, Trần-Ngoan, Đặng-minh-Bần. Người
phủ Gia-định là Trịnh-liên-Sơn, Lê-bá-Bình, Người ở Qui-nhơn là Hoàng-Long
Hoà-thượng (người phật giáo). Người Phúc - Kiến là Đạo sĩ Tô -Dần tiên - sinh.
Nối nhau đi đến Tứ mở gác Chiêu-anh mua sách vở, thường ngày cùng chư-nho
giảng-luận, có thơ vịnh 10 cảnh ở Hà-tiên, thi sĩ họa lại rất đông, từ đấy
văn-phong mới truyền bá ra miền biển ấy. Tôn đức-hầu có khắc bản Hà-tiên thập
vịnh và bản Minh-bột di-ngư truyền lại cho đời.
[65a] Tháng 8 mùa thu năm Đinh mão (1747) đời vua Thế Tôn Hiếu-võ
Hoàng-đế (Nguyễn- phúc-Khoái) có tên giặc biển ngụy xưng là Võ-vương Đức-bụng
(người ở Qui-nhơn tên là Đức, vì có bụng lớn nên gọi là Đức-bụng) cướp lấy
thuyền Long-bài ở ngoài biển Hà-tiên. Trước khi ấy, trung tuần tháng 4 Tông
đức-hầu sai người cưỡi thuyền Long-bài đem thủy hỏa ngọc châu mỗi thứ 1 viên,
20 hạc-đỉnh, (?) 1 con hỏa-kê (gà tía) Tây-dương, 1 con chó ngao Tây-dương, 1
con cù-cốc ngũ sắc, 1 con anh-võ ngũ sắc và vải Tây-dương, chiếu giao-văn chiếu
đẳng-hoa các quí vật ấy đến dâng. Vu ban cấp cho cáo-thân-bằng[25], 2 đạo sắc
Cai-đội, 2 đạo sắc Đội-trưởng và các hạng gấm đoạn, khí vật... Tháng 8 sứ giả
của Thiên tử về đến hải phận Long-xuyên gặp bọn giặc biển là ngụy Võ-vương tên
là Đức-bụng đã do thám biết trước, chờ đón ngoài biển cướp lấy tài vật, Tôn
đức-hầu được tin báo, lập tức sai người rể là Ngũ-nhung Cai-đội Kỳ-tài-hầu
Từ-hữu-Dung đem 10 chiếc chiến hạm [65b] ra bắt được 4 người trong đảng của
giặc trảm thủ, còn Đức-bụng chạy trốn qua hải phận Ba-thắc, Tông đức-hầu đem
việc tư qua Gia-định, điều khiển quan binh chia đi tuần bắt, năm sau bắt được
Đức-bụng làm tội lăng-trì[26] dư đảng đều dẹp yên cả.
Năm thứ 18 (Ất-hợi - 1755) nước Cao-miên trái mạng, vu sai quan
quân đến đánh, vua nước ấy là Nặc-ong-Nguyên chạy sang Tôn-đức hầu ở Hà-tiên,
nhờ Tôn-đức-hầu tâu giúp mới được dâng đất để khỏi tội.
Năm thứ 20 (Đinh-sửu - 1757) nước Cao-miên có loạn, vương tôn là
Nặc-ong-Tôn chạy sang nương náu ở Hà-tiên rồi xin làm con nuôi Tôn-đức-hầu,
Tôn-đức-hầu đem việc tấu lên, vua phong cho Nặc-ong-Tôn làm quốc vương
Cao-miên, rồi hộ tống về nước. Sau khi được sắc phong, Nặc-ong-Tôn đem đất 5
phủ Chân-sân, Sài-mạt [66a] Cần-bột, Linh-quỳnh, Vũng-thơm dâng cho Tôn-đức-hầu
để tạ ơn giúp đỡ. Tôn-đức-hầu đem dâng đất ấy lên triều, và vua hạ chỉ chuẩn
đặt 5 phủ thuộc trấn Hà-tiên quản hạt. Tôn-đức-hầu lại lập đạo Kiên-giang ở xứ
Rạch-giá, lập đạo Long-xuyên ở xứ Cà-mau, đều đặt quan lại cai trị.
Tháng 8 mùa thu năm Bính-tuất (1766) đời vua Duệ-tôn
Hiếu-định-Hoàng-đế năm thứ 2 (Nguyễn-phúc-Thuần) có thám-tử trấn Hà-tiên từ
nước Tiêm-la về báo tin rằng Phong-vương nước Tiêm (vua nước ấy có bịnh phong
hủi) nên người trong nước gọi là phong-vương) đã chỉnh bị chiến tháp (chiến
thuyền của nước Tiêm gọi là tháp, cách thức giống chiếc tam-bản của tàu
Tây-dương mà lớn hơn, người thủy-thủ ngồi xây mặt ra sau mà chèo) và binh biển
sẽ đến đánh trấn Hà-tiên.
Phong vương thuở ấy ưa việc sử dụng võ toan xâm-lấn nước ngoài, gây
oán với bốn bên lân- quốc, mà chánh-trị rất tàn bạo. Tôn-đức-hầu lấy làm lo
[66b], nên sự phòng bị càng thêm chặt chẽ, tháng 9 tư báo với khổn-súy
(chủ-tướng) thành Gia-định xin binh ứng-viện. Ngày 10 tháng 10, quan Điều-khiển
(ở Gia-định) là thống-suất Khôi-khoa-hầu Nguyễn-phúc-Khôi, Tham-mưu
Miên-trường-hầu Nguyễn-hữu-Miên, sai Bộ-đạo-quan Cai-đội Siêu-nghĩa-hầu,
Tân-châu-đạo Cai-đội Kế-thiện-hầu, Binh-luận Duy-tài-bá, đem 20 chiếc thuyền
tuần bể và 1000 tinh-binh đến trấn Hà-tiên, đề phòng bị ngoại hoạn.
Tháng 3 mùa xuân năm thứ 3 (Đinh-hợi - 1767) nước Miến-điện[27]
nhơn oán dân nước Tiêm-la, bèn cử binh qua đánh phá nước này, đốt cung thất,
cướp [67a] ngọc lụa, bắt Phong- Vương và con vua là Chiêu-Đốc, cùng mấy vạn dân
số đem về, bỏ nơi ấy làm đất trống. Con thứ 3 của Tiêm-vương là Chiêu-xí-Xan
trốn qua nước Cao-miên. Con thứ 2 của vua ấy là Chiêu-thủy chạy sang Hà-tiên.
Từ đấy Tiêm-la không còn mưu toan đến đánh nước ta nữa.
Tôn-đức-hầu đem đủ tình trạng đề đạt lên triều và tạ ơn quan điều-khiển xin rút viện
binh về cho khỏi lao khổ. Tháng 5 Khổn-súy Gia-định triệu bọn Siêu-nghĩa-hầu
kéo binh về an nghỉ.
Tôn-đức-hầu lại sợ Miến-điện nhơn có nhuệ-khí thắng trận, rồi chúng
lại hoành hành xâm nhiễu đến ta, bèn sai cháu ngoại là Thắng-thủy-đội Cai-đội
Sửu tài-hầu Trần-văn-Lực (con của viên tướng trấn thủ ở các châu Cao-lỗi-Liêm
là Tổng-binh Định-sách-hầu, cháu của Đô-đốc Thắng-tài-Hầu, và con người
em gái của Tôn-đức-Hầu) đem chiến hạm binh lính ra đông Chân-bôn
(địa-giới sát nước Tiêm) để tuần phòng việc bất ngờ ở biên cảnh.
Thuở ấy nước Tiêm sau khi binh hỏa [67b] bị dịch bệnh hoành hành,
quân Hà-tiên qua đồn thú và dân Tiêm bị chết ngổn ngang, Sửu-tài-Hầu cũng bị
chết, nhưng ở biên-giới chưa yên, việc binh không nên bãi bỏ, bèn sai Ngũ-nhung
Kỳ-tài-Hầu qua thế, không bao lâu Kỳ-tài-Hầu cũng bịnh được triệu về, đi đến
nửa đường thì chết, bèn sai Cai-đội Đức-nghiệp-Hầu đem thú-binh tuần-tiễu các
hải-đảo Cổ-công, Cổ-cốt và Dần-khảm.
Trước khi ấy có côn đồ Triều-châu tên là Hoắc-nhiên am-thông võ
nghệ tụ tập đồng-lõa. Thấy đảo Cổ-công là nơi hiểm trở hẻo lánh, trong liền với
núi cao của Cao-miên, ngoài có núi làm bình phong che kín, giữa có vũng sâu đầm
rộng ghe thuyền đậu được yên-ổn, chúng bèn chiếm cứ làm sào huyệt, thường ra
vào dọc biển đón cướp thuyền buôn Nam Bắc đi lại, cùng sang đoạt của cải của
dân Tiêm tỵ nạn nơi bờ biển.
Hoắc-nhiên có nghề dùng mũi tên lớn bịt sắt bắn đứt dây buồm, hoặc
dùng cái khiên mây [68a] che mình nhảy qua thuyền buôn. Y hoành-hành trên biển,
đảng-lõa rất đông, bèn âm mưu toan chiếm đoạt Trấn Hà-tiên. Mưu ấy bị tiết lậu,
Tôn-đức-Hầu mật sai Cai-đội Khang-thành- Hầu đem quan binh tinh nhuệ lặng lẽ
đến vây bắt. Khi tiếng súng đều nổ, tiếng trống và tiếng hò hét vang lên, quân
giặc hoảng kinh chạy trốn; Hoắc-nhiên chỉ cầm một cái đoản đao cỡi chiếc ghe
nhỏ phá vòng vây chạy ra, bị súng điểu-thương loạn xạ, y liền nhảy xuống nước
để tránh, lại bị thương nhiều phải chết. Sau khi y bị bêu đầu lên giữa dân
chúng, dư đảng của y đều giải tán.
Năm thứ 4 (Mậu-tý - 1768) có người Triều-châu tỉnh Quảng-đông tên
là Trịnh-quốc-Hoa ở Tiêm gọi là Phi-nhã-Tân, nguyên trước lưu ngụ Tiêm-la nối
theo nghiệp cha (tên là Yển) làm quan-trưởng đất Mang-tát, lại gọi là
Phi-nhã-Tát (Phi-nhã là tên chức quan). Nhơn khi nước Tiêm không có vua, trộm
cướp dấy lên như ong, Phi-nhã-Tân bèn chiêu nạp những bọn cừ khôi mà thống-nhất
lại [68b] rồi tự xưng làm Vua, và viện lễ để đòi Cao-miên phải cống hiến hoa
vàng hoa bạc. Vua Cao-miên là Nặc-ong-Đôn tự cho Phi-nhã Tân không phải là thế
hệ của Tiêm- la nên chống cự không tuân mệnh.
Ngày 1 tháng 2 mùa xuân năm Kỷ-sửu (1769) có con mãnh hổ vào thành
Hà-tiên chạy rống cả trong nha thự, quan quân hiệp nhau vây bắt, con hổ ấy rống
lên một tiếng rồi vọt nhảy ra ngoài thành, không thấy tông tích chi nữa. Khi ấy
Tiêm-vương Phi-nhã-Tân sai Phi-nhã sô-sĩ bôn-ma đốc suất binh biển qua đánh
Nặc-ong-Tôn ở Cao-miên và hộ tống Ngụy vương Cao- miên là Nặc-ong-Non về nước.
Khi đến Lô-khu-vật đánh mãi không thắng, bèn bắt dân đem về.
Trấn Hà-tiên nghe lân-quốc phiến động, phải nghiêm sức việc
biên-phòng. Vừa có người lưu vong ở Triều-châu là Trần-thái quần tu bọn cướp ở
núi Bạch-mã (địa phận Hà-tiên) mưu chụp lấy trấn Hà-tiên, mật kết người họ Mạc
[69a] là Mạc-sùng, Mạc-khoan, ước hẹn đếm ngày 13 tháng 6 đốt lửa làm nội ứng.
Việc ấy phát giác Tôn-đức-hầu bèn y theo đúng ước hẹn của chúng
rồi đặt phục-binh vây bắt. Đồng đảng của chúng ở chùa Hương-sơn,
Trần-thái chạy trốn qua xứ Chân-bôn Tiêm-la. Qua ngày 20, ở Cao-miên có lời đồn
rằng: ở Súc-nặc-bồn tụ tập hơn 900 người toan gây rối loạn, nhưng liền bị dẹp
yên cả.
Tháng 7 năm thứ 6 (Canh-dần - 1770) có tên đào binh là Phạm-Lam
chiêu-tập ác-phỉ ở Vũng-thơm, Cần-bột cùng Vinh-ly Ma-lú ở Đồ-bà, Nha-ốc-kê ở
Cao-miên đảng lõa có hơn 800 người chia đường thủy lục chụp đánh Trấn thành, và
thuyền giặc 15 chiếc vào cửa biển Hà-tiên. Vừa đến núi Thúy-bình đều bị
Trấn-binh đánh phá, đâm chết Phạm-Lam ở giữa sông và bắt được bọn Lư-Kẻ đem
chém tất cả.
Nhưng cũng từ đây Hà-tiên binh lương thiếu thốn [69b] dân tâm nao
động, Tôn-đức-hầu dâng sớ bày tỏ và xin cố gắng hết sức, Triều đình khoan dung
ủy lạo và sắc cho Khổn-súy Gia- định rằng: khi nào Hà-tiên hữu sự báo cáo nguy
cấp, thì nên cứu ứng cho mau.
Tháng 8 năm thứ 7 Tân-mão dò biết Tiêm-vương Phi-nhã-Tân đương kiểm
điểm binh giáp định ngày tấn công. Tôn-đức-Hầu gởi dịch qua quan Điều-khiển
Gia-định xin viện binh. Khôi- khoa-hầu và Miên-trường-hầu phúc thơ nói: năm
trước hoang báo việc biên-cảnh làm cho quan quân lao khổ, ngày nay nên chỉnh
sức tướng-sĩ, đợi khi nào có tin binh Tiêm tràn qua biên cảnh chắc chắn, chúng
tôi sẽ phát binh ứng chiến thì cũng không muộn.
Thế rồi ngày 14 tháng ấy trong thành Hà-tiên ở phía nam thấy có 2 cái
mống đỏ giao lại thành chữ thập (+), dài hơn 3 trượng, ngày 16 ở dưới lầu
Bắc-đế nguyên có đống cát cao hơn 1, trượng [70a] bỗng bị gió cuộn bay lên
không trung, làm cho trong thành mù mịt, rồi khi đổ xuống thành một đống hình
chữ thập, kẻ thức giả dự đoán đó là điềm “tháng 10 thì mất thành”.
Tháng 9 Phi-nhã-Tân lo lắng Chiêu-thủy (con thứ 2 Phong-vương
Tiêm-la đã nói trên) hiện ở Hà-tiên tình thế chẳng khác gì như ở bên gường nằm
có người thở ngáy ò ò thì ngủ không yên giấc, bèn nhân nhuệ khí mới phá được
giặc ở Lục-côn (thuộc Miến-điện) nên đem 20.000 binh thủy lục dùng tên cướp ở
núi Bạch-mã là Trần-Thái làm hướng-đạo. Ngày 3 tháng 10 tiến đến Hà-tiên vây
đánh Trấn-thành, 3 mặt thành dựng ván gỗ không đắp đất đá, khi ấy Trấn-binh ít
ỏi, nên phải đóng thành cố thủ, một mặt phi báo với đồn dinh Long-hồ, thì ngay
lúc ấy thủy-binh của Tiêm chiếm cứ núi Tô-châu bắn đại-bác vào trong thành, thế
rất nguy ngập! Đêm ngày 10 kho thuốc súng ở núi ngũ-hổ phát hỏa làm cho trong
thành kinh động, đêm ngày 13 binh Tiêm theo cửa phía sau thành nơi cửa sông nhỏ
chỗ không đắp thành, chúng chặt phát cửa quan xông vào [70b] phóng hỏa đốt
dinh, sáng rực cả rừng núi, binh Tiêm nội ngoại giáp công, đánh trống hò hét
huyên náo, tiếng súng nổ vang như sấm, Tôn-đức-hầu thâu đốc binh bản bộ đánh
theo lối xáp lá cà dọc theo trên đường, một chặp, quân dân trong thành tan chạy
rối loạn, qua canh 3 thành bị hãm, Tôn-đức-hầu đương quyết tử chiến thì Cai-đội
Đức-nghiệp-hầu bèn cặp nách Tôn-đức-hầu lên thuyền chèo đến đường sông giang-thành
(tên một thủ-sở) mà tẩu thoát, còn Hiệp-trấn mạc-tử hoàn, Thắng-thủy
Mạc-tử-xương và Tham-tướng Mạc-tử-Dung dều đem thủy- binh phá vòng vây do đường
biển chạy xuống Kiên-giang rồi qua Trấn-giang đồn trú. Ngày 15 thuyền
Tôn-đức-hầu đi đến đạo Châu-đốc, bị truy-binh của tướng Tiêm là Chiêu-khoa-Liên
(Người Triềm-châu, họ Trần, tên Liên, làm Mưu sĩ cho Tân. Chiêu-khoa là tên
chức quan của Tiêm) theo đến, Tôn-đức-hầu sai Đồ-bà Cai-đội Sa chống cự, nhưng
cũng bị thua. Cai-đội Sa có phép cấm đao-thương [71a] tuy bị nhiều vết thương
nhưng không chết, chạy ra Tân-châu-đạo Tiền giang, vừa gặp Lưu-thủ Long-hồ-dinh
là Cai-cơ Kính-thân-hầu Tống-phước-Hiệp đem dinh-binh đến tiếp ứng, cấp tốc bắt
người Hải-đạo dẫn vào Châu-đốc đánh lui binh giặc. Binh
Tiêm không biết đường sá đi lầm vào cùng giang, bị đại binh ta theo
kịp chém được hơn 300 thủ-cấp, Chiêu-khoa Liên bỏ thuyền lên bờ theo đường
Chân-sâm đương đêm chạy về Hà-tiên, Dinh binh thâu hoạch 5 chiếc chiến-thuyền
và súng ống khí-vật của Tiêm và thuyền Hà-tiên rồi để binh phòng thủ đạo
Châu-đốc, còn đại-binh trở về Tân-châu, cùng Tôn-đức-hầu hỏi thăm cơ- sự, rồi
sai ghe thuyền hộ tống Tôn-đức-hầu đến dinh Long-hồ tạm trú.
Còn Cai-đội đạo Đông-khẩu là Nhơn-thanh-hầu Nguyễn-hữu-Nhân đón
đánh binh Tiêm ở thủ Cường-thành Hậu-giang chận lối hiểm [71b] xuất Kỳ binh
đánh luôn mấy trận đều thắng cả, thâu được chiến thuyền của Tiêm 10 chiếc, binh
Tiêm do đường bộ chạy trốn bị chém và bị đói khát chết mất quá nửa, sau cho đất
Long-hồ là nhiều chỗ hiểm-yếu không dám tái phạm. Phi- nhã-Tân bèn để
Chiêu-khoa-Liên ở lại chiêu phủ Trấn Hà-tiên, rồi đem đại-binh thẳng đến nước
Cao-miên. Vua nước ấy là Nặc-ong-Tôn chạy qua địa phương Bát-chiên Long-quật,
Phi-nhã-Tân đem Nặc-ong-Non trở về làm Vua Cao-miên, binh Tiêm chiếm cứ phủ Nam-vang,
có ý dòm ngó đánh thành Gia-định.
Tháng 11 Thống-suất Khôi-khoa-hầu, Tham mưu Miên-trường-hầu đưa
công văn mời Tôn- đức-hầu hội nghị, Kính-đức-hầu (hiện ở Long-hồ) phái ủy thuộc
viên dẫn đến công quán Nghi- giang, quan Điều-khiển mời Tôn-đức-hầu đến bản
dinh ủy lạo và hỏi gốc ngọn công việc để tục tấu về Triều. Tôn-đức-hầu trình
bày nguyên do thất thủ, dâng biểu thọ tội.
[72a] tháng 12 phụng Chiếu văn khoan miễn tội cho Tôn-đức-hầu, lại
cấp cho tiền lương và sai Điều-khiển Khổn-thần sức bắt binh-biển hộ vệ
Tôn-đức-hầu về Trấn-giang cư trú, đặng chiêu dụ kẻ lưu vong, để toan có ngày
dẹp giặc.
Tháng 2 năm thứ 8 Nhâm-thìn (1772) Vua sai Đốc-chiến Đàm-ân-hầu
Nguyễn-phước Đàm, Tham-tám Tiến-lễ-hầu Nguyễn-đại-Tiến lãnh đem thủy bộ
tinh-binh 10000 người ở 2 dinh Bình-khang Bình-thuận và 300 chiếc thuyền vào
Gia-định thay làm công việc Điều-khiển. Nghị tội Thống-suất Khôi-khoa-hầu về
việc không tiếp viện nên Hà-tiên bị hãm với quân địch, giáng làm Cai-đội và
triệu Tham-mưu Miên-trường-hầu về kinh đợi lệnh.
Tháng 6 quan Điều-khiển điều độ việc tấn chính: Đàm-ân-hầu lãnh
đại-binh kéo tới Tiền- giang [72b] Cai-bộ dinh Long-hồ là Hiến-chương-hầu
Nguyễn-khoa-Toàn đem quan-binh Đông- khẩu do đường biển kéo tới, Lưu-thủ
(Long-hồ-dinh) Kính-thận-hầu do đường Hậu-giang tiến đến Châu-đốc để làm hại
đường sá chứng. Khi ấy Nhơn-thanh-hầu vừa bị trọng bệnh, chỉ có Hiến-chương-hầu
quản lãnh 3000 binh biển và 50 chiếc thuyền cả lớn và nhỏ tới giao-chiến cùng
binh Tiêm, nhưng giao-chiến bất lợi phải rút lui về Kiên-giang. Đàm-ân-hầu dùng
Nhâm- lịch-Tối làm tiên-phong đến Nam-vang đánh phá binh Tiêm giết chết rất
nhiều. Phi-nhã-Tân chạy xuống Hà-tiên, Nặc-ong-Non chạy về Cần-bột, quân ta
thâu phục được các phủ Nam-vang, La-bích Nặc-ong-Tôn trở lại làm vua, nước
Cao-Miên bình-định, đại-binh khải-hoàn, làm tờ báo tiệp về Triều.
Đàm-ân-hầu về đến đồn-dinh đắp lũy đất, [73a] phía nam từ
Cát-ngang, phía tây đến cầu Lão-huệ, phía bắc giáp thượng-khẩu Nghi-giang dài
15 dặm bao quanh đồn dinh, cắt ngang đường bộ, để ngăn ngừa sự bất-trắc.
Phi-nhã-Tân về đến Hà-tiên đưa thư giảng hòa cho Tôn-đức-hầu, nhưng
Tôn-đức-hầu không trả lời. Phi-nhã-Tân nghĩ mình mới chiếm được nước Tiêm cội
rễ chưa được vững bền, nay toan kế lược viễn chinh cũng chưa thành tựu, nếu để
quân sĩ ngày tháng rong chơi rồi già cỗi mất, một mai nước Tiêm có người chiếm
cứ sào huyệt, thì mình tới lui đều bị cùng đường, ăn năn không kịp, bèn lụa
binh biển ủy cho Chiêu-liên án thủ Hà-tiên, còn Tân thì dẫn binh cướp bắt con
cái của Tôn-đức-hầu và Chiêu-thúy đem xuống chiến-thuyền trở về Vọng-các.
Tháng 2 năm thứ 9 (Quí-tỵ - 1773) Tôn-đức-hầu ở Trấn-giang phái
viên qua Tiêm thăm dò động tĩnh, bề ngoài thì nói đi giảng cuộc hòa thân,
Phi-nhã-Tân bằng lòng, [73b] đưa người thiếp thứ tư và con gái nhỏ của
Tôn-đức-hầu mà y đã bắt trao về Trấn-giang để làm tin, và triệu Chiêu-khoa-Liên
về nước.
Thuở ấy binh nước Tiêm kéo sang đã phá tan thành bảo Hà-tiên và đốt
nhà cửa, lấy tài vật, nhân dân đào tán, chỉ để lại một gò đất hoang mà thôi.
Tôn-đức-hầu không nỡ nhìn thấy cái cảnh thành quách hoang vu, nên mới tạm trú ở
Trấn-giang, rồi ủy cho Hiệp-trấn Mạc-tử-Hoàng về trước (về Hà-tiên) chỉnh lý
lại.
Tháng 7 được báo tin người Tây-sơn ở phủ Qui-nhân là anh em
Nguyễn-văn-Nhạc,Nguyễn- văn-Huệ đã đoạt lấy thành Qui-nhân.
Tháng 5 năm Giáp-ngọ (1774) An-nam-quốc Đại-tư-đồ Diệp-quận công
Hoàng-ngũ-Phước xâm chiếm vào miền nam, ngày 28 tháng 12 Kinh-thành thất thủ,
Vua chạy vào địa phương Bến- giá thuộc Quảng-nam-dinh. Ngày 12 tháng 2 năm
Ất-vị (1775) Vua cùng Thế-tổ Cao-hoàng-đế đi theo đường biển vào nam, ngày
[74a] 25 đến phủ Gia-định tạm trú ở địa phương Bến-nghé phía bắc Đồn-dinh,
Tôn-đức-hầu đến hành-tại (chỗ vua ở) bái kiến, Vua tấn phong cho làm Quốc-lão
Đô-đốc quận công gia cho 3 người con: là Mạc-tử-Hoàn làm Chưởng-cơ Xướng làm
Thắng-thủy Cai-đội, Dung làm Tham-tướng cai-cơ, đều về án thủ Trấn-giang-đạo,
chiêu tập lưu dân tàn-tốt Hà-tiên để đợi cơ-hội.
Ngày 8 tháng 2 năm Bính-thân (1776) em thứ hai nhà Tây-sơn là
Tiết-chế Nguyễn-văn-Lữ đem binh thuyền vào lấy Gia-định phủ.
Trước khi ấy Tây-sơn chiếm cứ Qui-nhơn và Quảng-ngãi, ở Phủ-yên báo
cấp về Gia-định. Năm Giáp-ngọ Lưu-thủ dinh Long-hồ là Kính-thận-hầu Cai-bộ là
Hiến-chương-hầu đốc lãnh tướng sĩ 5 dinh (Điều khiển Gia-định lãnh coi tướng sĩ
5 dinh: Bình-khang, Bình-thuận [74b] Trấn-biên, Phiên-trấn và Long-hồ, khi ấy
Kính-thuận-hầu đốc suất đánh giặc) gồm cả lính thủy bộ 20.000 người thẳng đến
Phú-yên, bộ binh của Kính-thận-hầu đồn trú ở Chợ-gò, Thủy-binh của
Hiến-chương-hầu đóng ở Vũng-lâm, oai thanh như gió táp sấm vang, quân Tây-sơn đều
hoảng sợ. Nguyễn-Nhạc bèn trước đưa thư trá hàng, sau Nguyễn-Huệ đem cả binh ở
Qui-nhơn vào chụp đánh phá được, rồi thừa thắng đến bắt Cai-cơ Triệu -vân-hầu ở
Ba-non, Kính-thận-hầu lui về đóng quân ở Ô-cam chặn chỗ hiểm yếu, thế rồi
Quảng-nam có xảy việc Nguyễn-Nhạc cấp báo cho Nguyễn-Huệ rút binh về, để đạo
binh Hòa-nghĩa ở lại ngăn đón mặt sau Phú-yên. (Đạo binh Hòa-nghĩa sẽ nói ở
sau).
Lúc bấy giờ Vua đặc cách tấn chức cho Kính-thận-hầu làm
hữu-phủ-quốc-công, Hiến- chương-hầu làm Tham-chánh và triệu 2 ông kéo quân về
để lo toan hậu sự.
Thuở ấy Gia-định thế cô sức yếu [75a] Văn-lữ thốt nhiên vào chiếm,
Chưởng-cơ Hựu-đức- hầu Tống-phước-Hựu chỉ đem có một số quan binh để bảo vệ
Thánh-giá chạy qua Trấn-biên- dinh đóng ở Đồng-tràm rồi chiêu mộ binh Cần-vương
để tiễu trừ quân địch. Vậy nên Thạch- thuyền Cai-đội Phương-danh-hầu
Đỗ-thanh-Nhơn đem 3000 binh của bọn hổ tướng là Nguyễn- hoàng-Đức, Trần-búa,
Đỗ-vàng, Đỗ-tai, Võ-nhàn, Đỗ-bảng thuộc Nghĩa-lữ Đông-sơn, xưng là
Đông-sơn Thượng-tướng-quân chặt cây vác sào bôi áo vẽ mặt rồi từ
Ba-giồng cuồn cuộn kéo tới, đến đâu quân địch đều lui tránh cả.
Tháng 5 thu phục được Gia-định, Văn-lữ chỉ cướp lấy lúa kho chở hơn
200 chiếc thuyền [75b] chạy về Qui-nhơn. Phương-danh-hầu phụng Thánh-giá trở về
hành tại Bến-nghé thuộc dinh-Phiên-trấn. Vua đặc cách tấn phong cho
Phương-danh-hầu làm Ngoại-hữu-chưởng-dinh Quận-công. Còn Hữu-phủ Kính-quốc-công
đem quân bản bộ cùng tướng đầu hàng là bọn Lý- tướng-quân đạo Hòa-nghĩa
(Lý-tướng-quân là người Phúc-kiến (Trung-hoa) lưu ngụ phủ Qui- nhơn, gặp khi
Nguyễn-Nhạc dấy binh, có chiêu lập người Tàu (Đường-nhơn) làm binh sĩ gọi là
Hòa-nghĩa-đạo để hưởng ứng theo, Nguyễn-Nhạc thấy Lý là người cảm tử hung-hãn
dùng làm vai cánh. Từ năm Ất-vị (1775) đạo Hòa-nghĩa cùng binh Bắc-hà giao chiến
ở Quảng-nam, sau khi bại trận ở Cẩm-sa bị Tây-sơn bạc đãi, nhơn năm ấy Tây-sơn
giao cho Tài bảo-thủ Phú-yên, Lý Tài bèn đem binh đến qui thuận với
Kính-quốc-công, nên đồng thời kéo về Gia-định đến Trấn-biên-dinh trú binh ở đấy
[76a] rồi thân dẫn thuộc tướng đến hành tại bái yết.
Tháng 6 năm ấy Kính-quốc-công ốm chết, thuở ấy Tôn-quận-công cũng
còn ở Trấn-giang mà trong tay không đủ binh quyền, chỉ ngồi nhìn nạn nước, nên
thường đấm ngực nghiến răng phẫn uất hổ
thẹn mà than thở mãi.
Tháng 3 năm thứ 13 (Đinh-dậu_1777) Long-nhương tướng quân Tây-sơn
là Nguyễn-văn- Huệ lại vào chiếm Gia-định; tháng 4 xa giá chạy qua
Trấn-giang-đạo, Tôn-quận-công nghinh giá tại đấy. Tháng 6 Vua để Tôn-quận-công
lưu thủ Kiên-giang, còn đại-giá qua Long-xuyên, tháng 8 bị binh Tây-sơn bắt đưa
về đồn Phiên-trấn đồng thời với Mục-vương, duy Thế-tổ Cao-hoàng-đế tránh ở địa
hạt Long-xuyên nên mới thoát nạn. Tháng 9 Tôn-quận-công chạy qua La-giang. Phi-
nhã-Tân được biên cảnh báo tin [76b] bèn sai Bò-ong-Giao người Cao-miên lấy hảo
ý đến đón rước Hoàng-thân Xuân-quận-công cùng Tôn-quận-công qua Tiêm-la lưu
trú. Tháng 10 vua Cao- miên là Nặc-ong-Vinh giết người anh là Nhị-vương
Nặc-ong-Tôn.
Ngày 5 tháng giêng năm Mậu-tuất, ba quân mặc đồ vải trắng tôn
Thế-tổ Cao-hoàng-đế lên làm Đại-nguyên-súy, khởi binh khôi phục Gia-định phủ.
Tháng 6 khiến Chánh-sứ cai-cơ Trưng- tín-hầu Lưu-phước-Trưng qua Tiêm-la thương
thuyết sự lân-hảo và thăm tìm Xuân-quận-công và Tôn-quận-công về.
Năm thứ 2 (Kỷ-hợi) mùa Xuân Chiêu-thủy-mô Đê-đô-luyện ở Cao-miên
đánh Nặc-ong-Vinh, Vinh sai Vị-bộn-xu [77a] triệu binh Ba-thắc cứu viện, Xu lại
đem tội trạng thi nghịch của Vinh đến kinh đô trần-tố. Tháng 6, Triều-đình
khiến Phương-quận-Công qua đánh Cao-miên bắt giết Nặc-ong-Vinh, lập con là
Nặc-ong-Ấn làm quốc vương Cao-miên.
Tháng giêng năm thứ 3 (Canh-tý_1780) Đại Nguyên-súy lên ngôi ở
Gia-định. Tháng 6 vua sai Cai-cơ Tấn-đức-hầu Tĩnh-viễn-hầu qua Tiêm-la giao
hảo, thì vừa lúc tàu buôn của vua Tiêm (tục nước Tiêm cả vua tôi đều chuyên
việc thương-mãi) về báo rằng: khi từ Quảng-đông về ngang qua hải phận Hà-tiên,
bị tướng chưởng-cơ Thăng-binh-hầu cướp giết. Phi-nhã-Tân giận lây, bắt 2
sứ-thần (đã nói trên) hạ ngục. Thế rồi Bo-ong-Giao từ cao-miên qua Tiêm tố cáo
rằng y có bắt được mật thơ của Gia-định ngầm sai Xuân-quận-công [77b] và
Tôn-quận-công làm nội ứng mưu đánh thành Vọng-các. Vua Tiêm nghe tưởng thực,
ngày 5 tháng 10 các ông bị trói cột tra tấn, nhưng đều kêu oan không phục tội,
Tham-tướng Mạc-tử-dung ra sức biện thuyết cho việc ấy là vu-cáo, liền bị
Phi-nhã-Tân đánh chết, còn Tôn-quận-công thì tự tử. Ngày 24, Xuân-quận-công
cùng sứ-thần nước ta cùng gia quyến của Tân-quận-công cộng 53 người
đều ngộ hại, còn nhân dân Việt-nam ở bên nước ấy đều bị lưu đày ra biệt xứ.
Tháng 10 năm Tân-sửu (1781) Đại tướng Tiêm-la là Chất-tri và Sô-si
2 anh em sang đánh nước Cao-miên, vua nước ấy là Nặc-ong-Ấn cấp báo về triều.
Tháng giêng năm Nhâm-dần (1782) Triều đình sai Điều-khiển Chưởng-cơ
Thụy-ứng-Hầu Nguyễn-hữu-Thụy đem binh cứu viện. [78a] Khi ấy Phi-nhã-Tân làm
việc tàn bạo, ai hơi trái ý là bị chém giết, nhân dân không được yên ổn, bọn
trộm cướp dấy lên tứ tung, duy quận giặc ở thành Cổ-lạc thì lại rất mạnh. Phi-
nhã-Tân bèn sai đại tướng Phi-nhã Oan-sản đem binh đi đánh, tên thủ tướng giặc
ở thành Cổ- lạc là em ruột của Oan-sản bèn bày tỏ tệ chánh của bạo quân
(Phi-nhã-Tân), nếu không tính việc trước, ắt bị Tân tàn sát đến nơi. Oan-sản
nghe theo, bèn hiệp-binh kéo về thành Vọng-các vây đánh, dân chúng đều hưởng
ứng theo, bắt được Phi-nhã-Tân bỏ tù, rồi phát ngân khố khao thưởng cho tướng
sĩ khởi nghĩa, và đón anh em Chất-tri về nước thương nghị.
Tháng 3 Chất-tri được tin báo, lập tức sai em là Sô-si ở lại sau,
để cùng Thụy-ứng-Hầu giảng hòa. Còn Chất-tri tự đem vệ-binh đi đêm về thành
Vọng-các kể tội Phi-nhã-Tân rồi giết chết [78b] phơi thây ngoài thành để đáp tạ
lòng người trong nước.
Khi ấy Chất-tri lên ngôi Phật-vương Tiêm-la (tục nước Tiêm trọng
Phật, gọi vua là Phật- vương, cũng như ở trung thổ hay kinh trời, xưng vua là
Thiên-vương). Còn Sô-si về sau phong làm Nhị-vương, và phong người cháu là
Ma-lặc làm Tam-vương. Những nhân dân Việt-nam trước bị Phi-nhã-Tân lưu đày, thì
nay đều được ân xá cho về Vọng-các an-trí, cấp cho tiền gạo để nuôi sống. Còn
Oan-sản tự quyền phát bạc kho nên bị bỏ tù. Oan-sản phẫn uất tự tử, ấy là cũng
do sự nghi kỵ nhau vậy. Rồi sau Chất-tri lại sai Thát-xỉ-Đa đến chiếm đất
Hà-tiên.
Tháng 2, anh em Tây-sơn Nguyễn-văn-Nhạc, Nguyễn-văn-Huệ đem 30.000
binh thủy-bộ vào lấy Gia-định, thủy-tinh ta bày trận ở ngã bảy Cần-giờ. Binh
Tây-sơn nhơn thuận theo chiều gió và nước thủy-triều kéo buồm xông thẳng vào
trận ta, binh ta không đánh mà tan rã, [79a] chỉ có tàu Tây-dương của Man-hòe
chống cự được lâu. (Man-hòe người là nước Lang-sa Tây-dương giúp sức với
Bản-triều, làm quan Khâm-sai cai quản Trung-khuông-Đội tước An-hòa-Hầu, khi mất
được tặng Hiếu-nghĩa Công-thần phụ-quốc thượng-tướng-quân, tòng sự vào miếu
Hiến- trung). Sau Nguyễn-Huệ hiệp binh vây đánh đốt tàu, Man-hòe chết, Tây-sơn
bèn thừa thắng phá luôn binh ta ở ngã ba Xoi-rạp thẳng đến Bến-nghé, quan binh
ta tan chạy. Khi ấy vua chạy đến Ba-đống hiệu triệu các quân sĩ, bốn phương
hưởng ứng tụ-tập rất đông. Tháng 5 anh em Nguyễn-Nhạc đem binh thủy bộ về
Qui-nhơn, để tướng Tây-sơn là Đỗ-nhàn-Trập đốc lãnh binh biển trấn thủ
Gia-định, đồn trú ở Bến-nghé. Tháng 8 quan binh khắc-phục được Gia-định, Nhàn-
trập thua chạy.
[79b] Tháng 2 năm Quí-mão (1783) Nguyễn-văn-Lữ, Nguyễn-văn-Huệ lại
vào chiếm Gia- định. Vua triệu Tiếp-quận-công từ Sơn-đồn Chà-rang kéo quân về
để điều-khiển thủy binh lập trận hỏa công, điều khiển Trừng-thanh-Hầu giữ đồn
Thủ-thiêm, Hoàng đệ Thiếu-phó-Mân giữ đồn Rạch-bàng, Giám-quân-Phiên-trấn-Dinh
là Tô-văn-Hầu giữ bè hoa-công, tàu thuyền của Tiếp-quận-công đem phân bố
thảo-long (bè cỏ) giăng ngang trên sông lớn Bến nghé. Ngày 24 Chương-thủy-quân
Hoàng-nhật-Hầu và Thăng-bình-Hầu đem kỳ binh đón đánh ở Khúc-láng (?) nhử giặc
vào trận để khởi hỏa công, ngày ấy gặp ngày đạp-triều[28] từ giờ đần đến giờ tỵ
nước lên tràn ngập, thình lình ngọn gió đông bắc quật lại làm cháy cả bè
hỏa-công của binh ta, khói lửa cháy nổ kịch liệt, binh Tây-sơn thừa thế hỗn
chiến, binh ta chạy tán loạn. Tiếp-quận-công do
đường núi chạy lên Lao-quốc [80a] (Tộc loại Ai-lao tiếp giáp phía
nam tỉnh Vân-nam, phía tây bắc nước ta, ngoài Sơn-man có những tộc loại Ai-lao,
Lạc-hoàn, Vạn-tượng, Xỉ-đa, Mục-đa, Hán- viên, Chân-man, Khống-xương,
Mại-xương, Tinh-ba-Thắc danh hiệu rất nhiều, nhưng tổ tiên của họ gốc ở
Lao-sơn, nên tổng danh gọi là Lao). Vua phải chạy đến Mỹ-tho, đi qua cửa Đôm ra
Phú- quốc đảo, rồi sai Tả-thủy Dụ-tài-Hầu vào Hà-tiên chiêu tập tàn-binh. Thuở
ấy chức điều-khiển đạo Hòa-nghĩa là Trần-Đĩnh trái mạng không hiệp tác, bị
Dụ-tài-Hầu chém chết, đảng của Đĩnh là Tống-binh Trần-Hưng, Lâm-Húc chụp đánh
giết Hữu-chi Khuôn-chánh-Hầu, rồi chiếm cứ Hà- tiên làm việc phản-nghịch. Quan
binh đến hội-tiễu giết được Trần-Hưng. còn Lâm-Húc chạy trốn. Giữa lúc ấy có
tên Vinh-ly-ma-Luyện người Đồ-bà từ ngoài hải-đảo đem hơn 10 chiếc thuyền đến
xin đầu hàng.
Tháng 6, vua trở ra Phú-quốc lánh ở trong vũng Lụy-thạch, [80b] vừa
bị du-binh của Thống- suất Thân (Tây-sơn) chụp đánh bắt đặng Vinh-ly-ma-Luyện,
vua chạy qua đảo Côn-lôn, lại bị trinh-thám Tây-sơn dò biết. Tháng 7, ngự-binh
dời qua hướng đông đậu neo ở Eo-lội Băng-côn, ngày 12 chiến-thuyền của Đô-úy
Trấn, Ngự-úy văn (Tây-sơn) kéo đến vây đánh, thế rất nguy bức. Ngày ấy trời
đương tạnh sáng, thốt-nhiên mây mù bốn phía, gió sóng nổi lên ồ ạt, chiến
thuyền của địch rời rạc như bèo trôi giữa biển, xuôi theo chiều gió, bị chìm
đắm không biết bao nhiêu mà kể. Thuyền của Vua liền trương 2 buồm trông hướng
tây bắc chạy ra, vừa đến chỗ ngang với vũng biển Ma-ly, lại bị chiến-thuyền của
thủ-binh Tây-sơn xông đến, nhưng không dám phạm, một lát thì nổi gió mưa ban
ngày mù tối cả, ngự-châu phải nhắm hướng đông trở buồn chạy ra giữa biển, không
biết bở bến nơi nào.
Lúc nước ngọt trong thuyền đã hết, quân sĩ khát nước đã 7 ngày,
[81a] vậy mà bỗng chốc thì thấy mặt biển khói tan, đầu thuyền sóng lặng, mặt
nước chia ra có giới-hạn đen trắng phân- minh, nước trong tràn ra, nếm thủ thấy
ngọt. Quân sĩ nhờ đó được khỏi chết khát, bèn quay thuyền về đảo Phú-quốc, rồi
các thuyền hộ-tùng lần lượt qui tụ lại.
Tháng 8 vua trở về Long-xuyên-đạo tu bổ ghe thuyền để vận tải
lương. Rồi sau Lưu-thủ Hóa của Tây-sơn dò biết, đem đại đội thủy binh từ Ba-thắc
kéo đến đầy biển, vừa chiều tối đình quân ở hạ-khẩu Đốc-vàng, phân phái điều
đô, định sáng ngày mai thì hiệp vây. Đêm ấy vua dò biết được, lập tức thâu quân
chạy ra Hòn-chong, quân Tây-sơn biết vua có chuẩn-bị, không dám đuổi theo. Quan
quân lại chạy ra đảo Thổ-châu ẩn-tránh cho xa chiến địa.
Tháng 12, sứ nước Tiêm là Thát-xỉ-Đa đệ biểu văn của Tiếp-quận-công
và quốc-thư của vua Tiêm mời vua sang Tiêm hội nghị việc phục-quốc. [81b] Vì
thế vua mới biết rằng: sau khi binh bại ở Bến nghé, Tiếp-quận-công đã lo trước,
do đường nước Lào để sang Tiêm cầu viện binh, mà Hoàng-thiên giúp đỡ cho
Thánh-chủ (chỉ Thế-tổ) có những báo ứng thần kỳ, được truyền bá ở bia miệng
người Tây-sơn. Vì vậy nên Chưởng-cơ Vân-long-hầu Nguyễn-đăng-Vân là con nuôi
Nguyễn-Huệ mà là người đứng đầu trong bọn mười người anh-kiệt, lại nghiêng lòng
hướng mộ Thế-tổ, bèn giả bệnh câm, cởi bỏ binh quyền, lén ra hải đảo truy tầm
không gặp. Tháng giêng năm Đinh-vị (1787), Vân đến hành tại thành Vọng-các bái
yết, xin làm tiền khu cho vua để tảo thanh bọn ác. Sau binh bại ở Mỹ-tho, ông
bị Tây-sơn bắt, ông mắng chửi rồi tuyệt thực mà chết.
Tháng 3 năm thứ 7 (Giáp-thìn_1784) vua sang Tiêm-la kể hết đầu đuôi
[82a] những lúc dầm dãi phong trần, và yêu cầu viện binh phục quốc. Vua Tiêm
tiếp đãi và giúp đỡ rất trọng hậu, Phật-vương lấy nghĩa trọng lân giao hứa hẹn
cử nghĩa binh giúp vua khôi phục. Giữa khi ấy Nhị- vương Tiêm-la nhắc đến việc
năm trước, Cao-miên đã cùng Thụy-ngọc-hầu giao hòa thì có ước
thệ rằng hễ gặp hoạn nạn thì phải ra sức cứu trợ lẫn nhau. Cách
không bao lâu xảy có việc chiến tranh với Miến-điện, Nhị-vương phải xuất chinh,
bèn ủy người cháu là Chiêu-tăng làm súy tướng, Chiêu-sương làm tiên phong đem
2.000 thủy binh, 300 chiến thuyền, định 5 ngày 9 tháng 6 khởi hành đưa vua về
nước, Tiếp-quận-công đi theo hộ giá.
Khi đầu Tôn-quận-công cùng con cháu đều ngộ hại, duy con thứ là
Tử-Sanh, Tử-Tuấn và Tử Thiêm vì còn nhỏ tuổi và lại nhờ có Cao-la-hàm-Hốc (?)
(người cao-miên làm quan nước Tiêm) thương tình giấu kín, còn bọn cháu là
Công-Bính, Công-du, Công-Thế, Công-Tài hãy còn thơ ấu lẫn lộn theo dân ta lưu
cư ở cõi xa, [82b] sau được vua Tiêm (vua mới) đem về cấp dưỡng, đến lúc này
vua nghĩ đến giòng sót của công thần, bèn dùng Tử-Sanh làm Tham-tướng tước Lý-
chánh-hầu. Tháng 7 đại binh tới lấy đạo Kiên-giang, rồi vào Trấn-giang đánh phá
quân Đốc-hóa (Tây-sơn) rồi lại thẳng đến các chỗ Ba-thắc, Trà-ôn, Mân-thít,
Sa-đéc chia binh đồn trú.
Ngày 18 tháng 10, Tiếp-quận-công ban đêm chụp đánh thủy binh của
Phò-mã-Đa ở sông Mân-thít, chém được Chưởng-tiền-Bảo, quân Tây-sơn bị tử thương
rất nhiều, bỏ thuyền lội chạy. Khi ấy Tiếp-quận-công ở trong vòng hỗn chiến, bị
địch ám hại, cách mấy ngày rồi chết. Quân nhà vua thâu được ghe thuyền khí giới
của Tây-sơn không xiết kể, còn Phò-mã-Đa trốn về Long-hồ cùng Đô-đốc Trấn cứ
thủ ở đấy.
Tháng 11 binh ta đánh phá đồn Trà-luật, Ba-lai, đến đâu quân địch
đều tan rã. Trước khi ấy tướng Tây-sơn cấp báo về Qui-nhơn, [83a] Nguyễn-Nhạc
sai Nguyễn-Huệ đem hết tinh binh đi thuyền vào Gia-định ứng viện, mà quân
Cần-vương của ta khi ấy bốn phương tụ tập binh oai cũng đã chấn hưng, duy có
binh Tiêm đến đâu đều cướp bóc khó bề hạn chế, nên vua lấy làm lo. Đã vậy mà
binh Tiêm lại kiêu hãnh, lòng dân bất phục, khi kéo đến Rạch-sâm không biết địa
thế hiểm dị thế nào, lại bị quân giặc dùng kế dụ cho đi sâu vào ơi trọng địa.
Phục binh thủy bộ của địch đổ ra chặn đánh, toàn quân chìm đắm, Chiêu-Tăng,
Chiêu-Sương đem vài ngàn tàn binh do đường Cao-miên chạy về nước Tiêm.
Ngày 18 tháng 12, vua đến Trấn-giang, Tham-tướng Lý-chánh-hầu
nghinh tiếp về qua Hà- tiên-trấn. Vua sai Lý-chánh-hầu cùng Cai-cơ
Trung-nghĩa-hầu đệ quốc thư nói rõ duyên do bị thất lợi để vua Tiêm biết.
[83b] Tháng giêng năm thứ 6 (Ất-tỵ - 1785) vua tạm trú ở đảo
Thổ-châu, địch binh kéo đến, vua chạy ra đảo Cổ-cốt, khi ấy đã có ghe thuyền
của quan Tiêm chực sẵn ở đấy để nghinh giá. Ngày 1 tháng 3, vua lại qua thành
Vọng-các, vua Tiêm tiếp-rước và hỏi thăm tình hình rồi nói: "bọn cháu tôi
kiêu căng phóng tử, nên bị thua nhục, làm nhọc thánh giá phải bôn ba". Nói
xong, sai đem Chiêu-Tăng, Chiêu-Sương ra chém; vua ta lấy lòng nhân từ khoan
hồng can rằng đó là ý trời chưa muốn bình định nên còn đợi một thời cơ. Vậy xin
khoan thứ tội lỗi của 2 vị tướng đó. Vì thế vua Tiêm mới tha.
Thuở ấy văn-võ tướng sĩ ngày càng tụ-tập thêm đông, tuy rằng tiền
lương cấp trên và cấp dưới không phải đến nỗi thiếu thốn, nhưng về đại kế thì
binh lương cần có súc tích từ trước. Bởi thế vua bèn tạm trú ở đất Long-khâu để
chuyên việc đồn điền. Vua lại phân phái chư tướng hoặc giúp cho vua Tiêm đi
đánh Miến-điện ở Sài-nặc (năm Bính ngọ -1786 - nước Miến-điện [84a] đánh nước
Tiêm ở phủ Sài-nặc, vua Tiêm cầu cứu vua ta đi thân chinh dùng súng hỏa-hổ đánh
Miến-điện được thắng trận) hoặc đánh Đô-bà ở Tòa-ni (bọn Hoa thương ở hải-đảo
tây nam xưng là Đại-niên làm thuộc-quốc Tiêm-la. không tuân chức cống, năm Bính
- ngọ vua Tiêm yêu cầu nước ta giúp binh, vua ta sai Tiền-quân Dũng-quận-công
hiệp với Nhị-vương nước Tiêm dẹp yên được), hoặc tới các hải đảo tu chỉnh ghe thuyền, hoặc
lẻn về Gia-định chiêu mộ nghĩa binh toan kế hưng phục. Tháng 5 năm thứ 10 (Đinh-vị - 1787) Giám-quản Uất-văn-hầu
Tống-phước-Đạm đến Vọng- các tâu bày việc anh em Nguyễn-Nhạc, Nguyễn-Huệ đương
gây chiến sát hại lẫn nhau. Tường Đô-trấn ở Gia-định rút hết binh bản-bộ về
Qui-nhơn cứu viện. Do đó, Gia-định hiện nay hết sức yếu, có cơ lấy được.
[84b] Ngày 1 tháng 7, vua trù tính sáng suốt, hiệp theo ý trời,
không theo thường-linh mà đi cầu mượn binh lương, để cho họ (người Tiêm) được
thế kiêu căng khó bề kìm hãm và hại nhơn- dân: và cũng không câu nệ tiểu tiết
là phải đương diện từ tạ, để họ tự nghĩ không thể giúp đỡ, rồi lại mượn cớ ngăn
trở. Vì thế nên ngài chỉ lưu bức thư tử tạ tại nơi nhà ở rồi ban đêm kéo đoàn
thân binh từ cửa biển Bắc-nam đến đảo Tre điều khiển công việc tấn chinh, chém
Cai-cơ Trung lấy thủ cấp gởi tạ Tiêm-vương (vì Trung hiếp giết người Tiêm, việc
sắp phát giác, cho nên thanh tội bắt chém). Khi ấy vua Tiêm khiến quan rượt
theo, ân-cần bày tỏ những lời tự trách, và nói như có cần thiết gì thì xin cung
cấp đầy đủ. Vua chỉ gởi lời cảm tạ, rồi thẳng đến Hà-tiên.
Lúc bấy giờ có hai chủ đảng hải-phỉ tàu-ô Thiên-địa-hội (đảng
Bạch-liên-giáo tỉnh Tứ-xuyên vào biển xưng vương hiệu là Thiên-địa-hội, cướp
bóc tứ bề, ở mân Việt không kiềm chế được) là tướng quân Hà-hỷ-Văn và Châu-viễn-Quyền
[85a] đem binh-thuyền đến xin qui-phụ. Quân vua đến đạo Long-xuyên, tướng
Tây-sơn là Lưu-thủ Quyền-chánh-hầu Nguyễn-văn-Trương đem binh bản-bộ đầu hàng,
nguyện làm tiền phong, tới phá đồn của địch ở Trà-ôn, Ba-lai. Khi ngự- giá đến
chỗ Hồi-thủy (tức đồn Hồi-hoa, thôn Hưng-long tỉnh An-giang) đồn trú, nghĩa
quân bốn phương đều hưởng ứng qui tụ: ở Trấn-định có Tiên-phong Tánh-thiện-hầu
Võ-công-Tánh, ở Trấn-biên có Chưởng-cơ Nghĩa-lý-hầu Nguyễn-văn-Nghĩa, là những
người có đại thủ đoạn, kỳ dư những bọn hào kiệt thường hay đánh giết quan lại
của Tây-sơn, lúc nầy cũng theo quan binh, không sót nơi nào. Cũng có những nhóm
thế cô mưu sự bất thành, bị địch giết, [85b] sau cũng có nhóm vì lòng trung
phẫn xúc phát, ứng nghĩa để làm nội công, trông thấy khói lửa nổi lên ngùn
ngụt, quân địch không sao chế nổi,nên nhà vua trung hưng, có thể định trước
được cả ngày tháng vậy.
Tháng 6 Tham-tướng Lý-chánh-hầu ở Tiêm-la về giữ trấn Hà-tiên, thuở
ấy thanh thế của ta vang dậy. Đông-định-vương Nguyễn-văn-Lữ (mấy người sau đây
cũng là tướng tá Tây-sơn) dẫn binh lánh đến gò Mu-lượng ở Trấn-biên đắp lũy đất
ở không được bao lâu phải đem thuộc hạ trở về Qui-nhơn. Tham-đốc Tú giữ
Phiêu-trấn, giới nghiêm phòng thủ, đường thương mãi bị cắt đứt. Thái-bảo-Sâm ở
Long-hồ Mỹ-tho mỗi khi giao chiến thường bị thua, phải dùng thuyền chiến làm
thủy-thành, kết thành đội ngũ để bảo vệ nhau. Còn ở các địa phương Ba-lai,
Kiến- định, Mỹ-tho quân địch không dám lên bờ, vừa có Thái-úy... đem 30 thuyền
từ Qui-nhơn chở binh đến cùng Thái-bảo-Sâm hiệp lực trợ chiến, nhưng cũng bị
bại trận luôn. Mùa hạ năm Mậu- thân (1788) chúng phải chở lương về [86a] duy
còn Thái-bảo-Sâm ở lại chống chọi một cách mệt nhọc thôi.
Ngày 8 tháng 8 năm thứ 11 (Mậu-thân - 1788) Thánh-giá thu phục
Gia-định, đồn trú ở Bình- dương, Tham-đốc Tú đến đầu hàng. Thái-bảo-Sâm dẫn
binh thuyền ở Qui-nhơn và Thuận-hóa ngoại phủ đến Cần-giờ vào cửa Tiểu-hải qua
Ba-lai, Long-hồ rồi trú ở Ba-thắc, bôn ba khắp ngã, bị đại binh ta đuổi theo.
Tháng giêng năm thứ 12 (Kỷ-dậu) vua ngự giá thân chinh, Sâm bị cùng
khốn phải đầu hàng, vua tha cho tội chết. Sau Sâm mưu phản, việc phát giác bị
tru lục, Gia-định thành từ đây được bình định thống nhất.
Thuở ấy Tham-tướng Lý-chánh-hầu đã lâm bệnh chết rồi. Vua Tiêm đưa
Mạc-công-Binh về ở Hà-tiên trấn. Trấn ấy ở nơi hẻo lánh, bị binh hỏa lâu ngày,
nhơn dân chưa phục hồi, vua gia chức cho Công-Binh làm Lưu-thủ Binh-chánh-hầu
[86b] đồn trú ở đạo Long-xuyên. Không bao lâu Công-Binh lâm bệnh mất, phải thay
người khác phân quản 2 đạo Long-xuyên và Kiên-giang, duy có Hà-tiên trấn thì
còn để khuyết.
Năm thứ 22 (Ất-vị - 1799) vua triệu Mạc-tử-Thiêm và Mạc-công-Du
(con Hiệp-trấn Hoàn- công-hầu) từ Tiêm-la về. Tháng 10 năm Nhâm-tuất niên hiệu
Gia-long nguyên-niên (1802) dùng Mạc-tử-Thiêm làm Hà-tiên Trấn-thủ với chức
Cai-cơ, trở về trấn ấy để chiêu tập nhân dân, tha khỏi đóng thuế. Còn số thuế
nhân dân 2 đạo Long-xuyên và Kiên–giang thì đem nạp lại tại Vĩnh-trấn-dinh.
Tháng 12 năm Kỷ-tỵ (1809) niên hiệu Gia-long thứ 8, Hà-tiên-trấn
Trấn-thủ Chưởng-cơ Thiêm-lộc-hầu Mạc-tử-Thiêm mất. Thuở ấy Công-Du, Công-Thê,
Công-Tài còn nhỏ tuổi, chưa am hiểu chánh sự, [87a] vua bèn ban cho bọn ấy chức
hàm Cai-đội để thờ phụng Mạc Thống-binh và Mạc Quận-công, cấp cho sái phu và
quân thủ mộ 53 người.
Tháng giêng nam Canh-ngọ niên hiệu Gia-long thứ 9 (1810) Tổng-trấn
Gia-định-thành Khâm-sai chưởng chấn võ-quản Nhơn-quận-công Nguyễn-văn-Nhơn,
khâm-sai Hộ-bộ Thượng- thơ Hiệp-tổng-trấn An-toàn-hầu thần Trịnh-hoài-Đức,
quyền Khâm-sai Cai-đội Nghiệm-chánh- hầu Ngô-y-Nghiễm, Tham-luận Tri-lễ-hầu
Lê-tấn-Phước án thủ Hà-tiên-trấn; Y-Nghiễm và Tấn- Phước tâu xin cho đổi bỏ 3
ngạch thuế hoa-chi nha-phiến và mỡ heo. Vua dụ: các tàu buôn và ghe buôn ở hạt
Hà-tiên từ nay về sau đều cho miễn thuế.
Tháng 9, khâm-mạng thuyên chuyển Thiện-chánh-hầu Nguyễn-văn-Thiện
hiện Trấn-thủ Vĩnh-thanh-trấn làm Trấn-thủ Hà-tiên [87b] kỹ-lục Hội-lý-hầu
Nguyễn-đức-Hội làm Hiệp-trấn, Tham-luận Châu-quang-hầu Dương-văn-Châu làm
Tham-hiệp, ban cho đồng-chương tử-nê (ấn đồng mực đỏ) để làm việc, đem 2 đạo
Long-xuyên, và Kiên-giang thuộc về trấn Hà-Tiên như cũ, và chuyển đi 20
thuộc-viên trong 2 thừa-ty tả hữu của 4 trấn Phiên-an, Biên-hòa, Vĩnh-thanh,
Định-tường, sung bổ làm 2 thừa-ty cho trấn nầy; lại cấp 200 cơ cho 4 trấn, và 6
chiếc ghe sai- phái, chuẩn định trong 6 tháng một phiên thay đổi, thuộc quyền
quan Lưu-thủ sai sử việc công, tuần phòng giặc biển. Vì trấn nầy trải qua cuộc
biến loạn đã điêu tàn, nên ngạch lại-thuộc và binh sĩ cũng đều thiếu thốn.
Thiện-chánh-hầu được thuyên bổ làm Trấn-thủ, nhưng chưa đến trấn
thì bị bệnh mất. Còn Hội-lý-hầu và Chân-quang-hầu thì không đủ tài chấn chỉnh,
lại còn cạnh tranh với nhau, dắt dẫn quân đi ẩu đả rối loạn địa-phương.
Khổn-súy Gia-định phải bắt hạ ngục, tâu xin tra xét, [88a] rồi quyền sai
Thủy-quân Khâm-sai chưởng-cơ Thụy-văn-hầu Nguyễn-phước-Thụy đến phủ dụ cư- dân
và tuần phong đạo tặc.
Tháng 8 năm Tân-vị (1911) niên hiệu Gia-long thứ 10, Khâm-mạng
Kiên-giang-đạo Cai-cơ giao-hóa-hầu Trương-phước-Giáo thăng làm Trấn-thủ trấn
Hà-tiên, thuyên chuyển Kỷ-lục-trấn Định-tường là Minh-đức-hầu Bùi-văn-Minh làm
Hiệp-trấn.
Từ đấy Minh-đức hầu chỉnh lý quan-nha quản-trại chiêu dụ lưu-dân,
tụ tập người thương mãi, đặt trường-học, mở các đường sá chợ quán, có thứ tự
phân biệt. Lúc bấy giờ người Trung- hoa, Cao-miên, Đồ-bà theo tộc-loại đến ở
cùng nhau nhờ được chánh tích khoan giản, không có phiền nhiễu, từ đó việc trấn
mới có thứ tự khả quan.
Tháng giêng năm Bính-tý (1816) niên hiệu Gia-long thứ 15, vua hạ
chiếu cho Trịnh-công-Du làm Hiệp-trấn trấn Hà-tiên. [88b] Tháng 12 năm Mậu-dần
(1818) niên hiệu Gia-long 17, vua gia thăng cho Hiệp-trấn Du-thành-hầu làm
Trấn-thủ Hà-tiên. Ấy là Triều-đình nghĩ thương công- thần khai thác đất đai mà
con cháu được nhờ phúc ấm tổ tông lâu dài vậy.
Trấn nầy phía nam giáp trấn Vĩnh-thanh, phía tây giáp nước Tiêm-la,
phía tây nam ngó ra biển, phía đông trông xuống thành Gia-định, phía bắc giáp
nước Cao-miên, đảo Đại-tiểu Kim-dự làm viên ngọc châu trấn phía trước hải đảo,
núi Ngũ-hổ làm khẩu ấn kẹp phía sau, phía đông có núi Tô-châu đứng sững, làm hùng
quan bảo vệ dòng sông cho được thấm nhuần, phía tây có dãy núi Lộc-trĩ làm
thạch trụ đón ngăn các lớp sóng cồn. Vả lại Hà-tiên phía tả có Bình-sơn triều
về, phía hữu có quần-đảo hộ vệ, án gần không đứng ngay hàng thẳng lối, hình như
răng chó vậy, hoặc giống như đai ngọc, cánh cung, hoặc như khay vương, đờn sắt,
nằm ngang, cúi xuống mà có từng dãy bao quanh. Lại có đảo Phú-quốc triều ở
ngoài xa, hình cao tốt đẹp, nay lại có sông Vĩnh-tế mới đào, [89a] ghe thuyền
trong sông và ngoài biển đến tụ hội làm cho đường thủy lục giao thông tiện lợi,
thật là một nơi có hình thắng vậy.
Phía nam đến phía bắc cách nhau chỉ 45 dặm, phía đông đến phía tây
cách 419 dặm, phía đông bắc đến thành Gia-định 773 dặm. Lãnh 2 huyện, 4 tổng,
103 xã, thôn, điếm, đội, nậu, phố, thuộc, sơ, súc, danh mục thay đổi liệt kê
sau đây:
HÀ-TIÊN TRẤN LỆ-THUỘC
(Chưa đặt danh hiệu phủ, huyện, tổng)
Phía đông giáp tổng Kiên-định huyện Kiên-giang, phía tây giáp địa
đầu Chân-bôn Đại-đồng nước Tiêm-la, phía nam giáp bờ biển, phía bắc giáp nước
Cao-miên, có 52 xã, thôn, điếm, phố, sở, thuộc, đội, súc.
19 XÃ, THÔN, THUỘC VIỆT-NAM:
Minh-hương xã Hòa-mỹ xã
Tân-an thôn Thuận-an
thôn
Tân-đông xã [89b]
Tiêm-hương thôn
Tiêm-hưng thôn
Dương-cảng đông-thôn
An-hòa thôn Thái-thạnh
thôn
Vĩnh-thạnh thôn Phước-lộc thôn
Phú-đông thôn Tân-qui thôn
Cảm-sơn thôn Mỹ-thạnh thôn
Phước-sơn thôn Tiên-tỉnh thôn
Minh-hương thuộc.
(Trong số trên đây, có 12 thôn thuộc, kể từ Dương-cảng đông thôn
trở xuống, nguyên ở ngoài đảo Phú-quốc, thuộc đạo Long-xuyên quản hạt, đến
tháng 11 năm Gia-long thứ 18, tức 1819, được đem về lệ thuộc Hà-tiên cho cận
tiện).
6 PHỐ, SỞ, ĐIẾM, THUỘC CỦA NGƯỜI TÀU:
Minh-bột đại phố Minh-bột tân phố
Minh-bột kỳ-thọ phố (trước tên là Cây-cầy) Minh-bột lư-khê-sở
(trước tên là xứ Rạch-vược) Minh-bột thổ-khâu-điếm (trước tên là Điếm-rê)
Đường-nhơn-thuộc (ở Phú-quốc, nguyên trước thuộc đạo Long-xuyên
quản hạt, năm Gia- long 18 lệ-thuộc về Hà-tiên)
[90a] 26 SÚC CAO-MIÊN[29]
Lộc-trĩ súc Phiếm-súc
Cổ-cần-lộ súc Cò-vinh súc
Sa-cà-mao súc Xoài ?... súc
Cớ-sâm (hay tham) súc Hấp-tra
súc
Cố…?... súc Kiên xà nư
Rạch-vược súc
…?... súc Ta lo súc
Ba-nam-rạp súc Côn…?... súc
Hòn-chông súc Côn-đồng súc
Nam-rạp súc Việt-trắc
súc
Côn-trà-Vị súc Cốt-trà-mục
súc
Cốc-tầm-lai súc Bài-tầm-man
súc
Cốt-trà-câu súc Lạc-bà-già
súc
Phun-vàng-co súc Tầm-nặc-tà-bẹt
súc
[90b] một đội Đồ-bà: Đồ -bà đội.
HUYỆN LONG-XUYÊN
Huyện mới đặt, lãnh 2 tổng, 40 xã, thôn, điếm, nậu, thuộc.
TỔNG TÂN-THỦY (mới đặt)
Có 23 xã, thôn, nậu, thuộc. Lấy 2 bên Cai-điều đến Gành-hầu giáp
Mương đào làm giới-hạn.
TÊN CÁC XÃ, THÔN, THUỘC, NẬU, ĐIẾM:
Tân-xuyên xã Minh hương xã
Sai-phu nậu Tân-phong
thôn
Tân-trạch thôn Tân-qui thôn
Mỹ-chánh thôn Tân-định thôn
Bình-thạnh thôn Phong-thạnh
thôn
Mỹ-thuận thôn Vĩnh-thạnh
thôn
[91a] Tân-long thôn Tân-thuộc
thôn
Hòa-thạch thôn Hòa-thạnh
thuộc (Tàu)
Tân-đức thôn Tân-nghĩa
thôn
Bình-lâm thôn Tân-thái thôn
Cát-an thôn Tân-bình
thôn
Tân-an thôn
TỔNG QUẢNG-XUYÊN (mới đặt)
Có 9 thôn, nậu. Lấy bên tả cửa bể Gành-hầu lưu thông giáp Mương-đào
làm giới hạn.
TÊN 9 THÔN, NẬU:
Tân-hưng thôn Tân-duyệt thôn
Tân-thuận thôn Tân-ân thôn
An-phong thôn Lâm-an thôn
Tân-khánh thôn Hoàng-lạp
phú-thạnh nậu.
Sạn-du thôn (ở đảo Sơn-lại)
Lãnh 2 tổng, 11 xã. Thôn.
[91b] HUYỆN KIÊN-GIANG (mới đặt)
TỔNG KIÊN-ĐỊNH (mới đặt)
Có 7 xã thôn. Từ Phong-đồng đến ngã ba sông Cai-huệ rồi đến Đồng
Riềng theo cửa sông Thổ-khâu, sông Trà-minh, cảng Lịch-giang, cảng Kiên-giang,
cảng Khâu-giang, núi Tật-lê giáp Phong-đồng làm giới-hạn.
TÊN CÁC XÃ, THÔN:
Bình-an xã Thái-hòa xã
Vĩnh-thạnh xã Vĩnh-an xã
Cầu-hòa thôn An hòa thôn
Lái-phu xã
Tổng Thanh - Giang (mới đặt)
Có 4 xã, thôn. Từ ngã ba Cạnh - đền đến Cái - tàu, Cái - Tư, Nước -
trong Nước - đục, Thầy - quang (hay Sài - quang) Diệm - hỏa, Cái - bần, Cái -
mới, Cái - nước, Cái - số, đảo Rùa - vang 1 số dọc theo đảo Bạch - thạch lại
giáp ngã ba Cạnh - đền.
[92a] TÊN CÁC XÃ, THÔN:
Vĩnh-thuận thôn Vĩnh - hòa
thôn
Thái-an thôn Đông-an xã
Chú thích:
[1] Trang-Tử nói: Hạ-trùng bất khả di ngữ vu băng giã: con trùng
mùa hạ không thể nói đến băng tuyết mùa đông.
[2] Hậu-Hán thơ: Công-tôn-Thuật xưng đế đất Thục, Mã-viện nói với
Ngỗi-ngao rằng: Thuật là con ếch ở đáy giếng. (2 câu trên đều nói người có kiến
thức hẹp hòi).
[3] Sử-ký bộ Tam-Hoàng Kỷ: Họ Cung-công đánh nhau với Chúc-Dung, bị
thua nổi giận, đụng đầu vào núi Bát-chu, làm cho trụ trời gãy, giường đất lở,
bà Nữ-Oa phải luyện đá để vá trời, chặt đứt chân con cá ngao, dựng làm 4 trụ.
[4] Hồng-trảo: móng chim hồng. Người xưa có câu: hồng trảo ấn tuyết
nê: móng chim hồng in trên mặt tuyết. Ý nói việc đời trước còn để dấu tích lại
(1, 2, 3, 4 đều chú giải trong Từ-nguyên).
[5] Từ-Nguyên giải: chữ kiểu nghĩa là kiểu sức, kiểu tá. Sách
Lữ-thị Xuân-thu có câu: "Tắc dữ Kiểu-ngôn vô trạch" thì cũng là lời
nói vô căn cứ.
[6] Kiết-thẳng: gút dây. Đời Thượng-cổ chưa có chữ để biên chép
việc gì chỉ thắt gút dây để nhớ mà thôi.
[7] Niên hiệu của Cao-miên
[8] Vương-Tuấn người đời Tấn-võ-Đế (265-289)
[9] Theo sách Đại-nam tiền-biên liệt-truyện quyển 6 trang 2 và sách
Hoàng-việt giáp-tý niên biểu quyển hạ trang 170, thì Mạc-Cửu được phong
Tổng-binh trấn Hà-tiên là vào năm Mậu-tý (1708) chứ không phải là năm Giáp-ngọ
(1714).
[10] Nguyên Văn chú: Nước Cao-miên có đại-súc cai quản các
tiểu-súc, cũng gọi là phủ, nơi phủ có đặt quan An-phủ.
[11] Nguyên văn chú: Những chỗ người Bắc-địch tụ hội ; mà chỗ lớn
gọi là bộ, chỗ nhỏ gọi là lạc, người Tiêm, Lào đều gọi là mang, người Cao-miên
gọi là Súc . Súc Xoi-rạp nguyên sơ ở bên biển, tức nay là cửa biển Loi-lạp
thuộc trấn Định-tường, bởi vì khi Cao-miên nhượng đất ấy cho dân ta rồi đem súc
dời ở xứ Quang-hóa. Nay ở địa-giới trấn Phiên-an, tên súc nay vẫn còn.
[12] Nguyên-Văn chú: nơi đây xưa gọi tên là Chiêm-thành rồi cải làm
Thuận-thành, Tù-trưởng bộ lạc ở tại trấn Bình-thuận, nhưng cũng có lưu cứ vào
đất Cao-miên.
[13] Phiên-liêu: quan chức Cao-miên.
[14] Địa-đồ có đóng dấu son để làm căn-cứ.
[15] Kiến trưng là sổ thuế.
[16] Chữ Thụy, quen đọc là Thoại
[17] Đê-man: giống mọi Ra-đê.
[18] Tác giả thích nghĩa: chữ huyện nghĩa là huyền, chữ huyền theo
tiếng Việt nghĩa là huyện treo dính với phủ. Chữ tổng nghĩa là tụ hiệp, các
làng ở phân tán các nơi, phải tụ hiệp lại để thuộc với huyện.
[19] Giao dịch trường: Thị trường ở cửa rừng để dân Kinh dân Thượng
đổi chác phẩm vật.
[20] Giang-trạm: thôn có phu trạm chuyên đệ đi theo đường sông.
[21] Tác giả chú: chỗ ở liền lạc nhau gọi là man cũng như cỏ mọc
liên tiếp lai rai vậy.
[22] Tác giả chú: nậu là bừa cỏ trong ruộng, tục xưng số đông người
là nậu, ý nói hiệp đông người làm ruộng vậy.
[23] Phiếm-da: có lẽ là Hòn dừa.
[24] Có chỗ biên là: Cái-lao.
[25] Cáo-thân bằng là Văn-bằng bỏ quan (Từ nguyên)
[26] Lăng-trì là tội đại hình. Tội nhơn bị xẻo thịt từng miếng mỗi
miếng một tấc, gọi là thốn- kiệt (theo luật Gia Long)
[27] Tác giả chú: Miến-điện vốn là tây-nam-di. Đời Nguyên-Thế-Tổ
đánh Miến-điện, Quế- Vương nhà Minh tên là Do-Long chạy qua Miến-điện. Người
nước ấy có tục vẽ nơi bụng, nên gọi là Hoa-đỗ, người Tiêm gọi là Phù-ma.
[28] Đạp-triều: hai con nước lên gặp nhau. Vì con nước lên trước
rút xuống chưa hết, mà con nước sau đã đến thành ra lớn hơn.
[29] Chữ súc đã chú giải ở đoạn đầu nơi trang số 11.
Chia sẻ ebook: https://downloadsach.com
Follow us on Facebook: https://facebook.com/caphebuoitoi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét