Chúng
tôi (TMH) vừa nhận được email của nhà thơ, nhà văn Lý Thụy Ý nói về bài thơ
“Lính mà em” của bà đã từng in trên báo “Văn nghệ tiền phong” tại Sài Gòn năm
1967, sau đó in vào tập thơ “Khói lửa” của bà in năm 1972 tại Sài Gòn. Bài thơ
này còn in trong tuyển tập: “Thơ tình nam 1975” của miền Nam.
Nhưng,
lạ lùng thay, bài thơ “Lính mà em” của nhà thơ Lý Thụy Ý lại thấy nằm trong
tuyển tập thơ Phạm Tiến Duật do nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt Nam xuất bản năm
2007, tất nhiên là bài thơ mang tên Phạm Tiến Duật (có sửa một số chữ màu xanh)
dưới đây .
Còn đây
là lá thư điện tử của nhà thơ Lý Thụy Ý gửi chúng tôi (TMH) :
Kính gởi
nhà thơ Trần Mạnh Hảo
Tôi tình
cờ đọc được trên trang mạng của Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Khắc Phục những
luồng ý kiến về bài thơ “LÍNH MÀ EM” mà tôi là tác giả. Tôi, Lý Thụy ý, viết
báo và làm thơ tại Sài gòn trước 1975, đã viết “Lính mà em” khoảng năm
1967-1968. Bài thơ sau đó đăng lên tuần báo Văn nghệ Tiền phong của Sài gòn,
tạo được tiếng vang cho tên tuổi Lý Thụy Ý, và được đưa vào thi phẩm “Khói lửa
20″…
Đó là
tâm tư của một người con gái thời chiến
yêu
lính, “đặc sệt” chất “Em gái hậu phương”, nói với người tình lính chiến hay
dùng “Lính mà em” để biện hộ cho những lần thất hứa…Tôi tin rằng nhiều người
Sài gòn vẫn còn nhớ “Lính mà em” của Lý thụy Ý, vì bài thơ được hai nhạc sĩ Y
Vân và Anh Thy phổ nhạc, Hùng Cường hát và phát đi phát lại trên đài phát thanh
nhiều lần…
Tôi gởi
kèm cho ông 2 bài thơ, 1 được cho là của nhà thơ Phạm Tiến Duật (Ông Nguyễn
Khắc Phục gần như khẳng định ). Bài thơ có lẽ được chép qua những người không
“thuộc” cho lắm nên lôm côm và mất ý, tôi tin nếu Phạm Tiến Duật làm, chắc chắn
sẽ hay hơn nhiều! Và một “Lính mà Em” của chính tác giả, Lý Thụy Ý, để ông thấy
rõ sự khác biệt giữa “thật” và “tam sao thất bổn”…Thật ra, tôi đã đọc nhiều
“Lính mà em”…và thất vọng khi thấy câu chữ hầu như…chẳng còn gì ngoài ba từ
“Lính mà em!”
Hy vọng
với sự khách quan, ông cho vài ý kiến, và tôi cũng chỉ biết ngậm ngùi khi mà
bài thơ nầy giờ đây cũng đã nằm chễm chệ trong tập thơ cuối cùng của nhà thơ
Phạm Tiến Duật với những câu cú…đáng buồn!
Cũng xin
nói thêm rằng, chỉ có “người ngoài cuộc” là nói Lính mà Em của Phạm Tiến Duật,
còn bản thân ông thì không thừa nhận. Trên báo TUỔI TRẺ số ra ngày Chủ nhật-
4-11-2007, trong bài “Một người lính đặc biệt trên đường mòn huyền thoại” của
nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết về Phạm Tiến Duật có đoạn:( xin trích nguyên
văn )”…Khi tôi đến, ông lấy tập thơ tặng tôi và mở tập thơ ra chỉ cho tôi xem
một bài thơ và nói đó không phải là thơ của ông, nhưng vì yêu quí mà những
người làm sách đã đưa bài thơ đó vào. Đó là bài “Lính mà Em”. Phạm Tiến Duật
nói đây là bài thơ của một nhà thơ nào đó của Sài gòn viết trước 1975…”(Nguyễn
Quang Thiều).
Thật ra,
những dư luận cũng đã qua khá lâu, nhưng gần đây tôi mới tình cờ biết được nên
nghĩ tác giả Lính Mà Em lên tiếng cũng không thừa, trước hết để tránh sự ngộ
nhận không đáng có, thứ hai là đưa ra nguyên bản bài thơ để những người yêu
Lính mà em có một bài thơ đúng nghĩa.
Hy vọng
không làm phiền nhà thơ.
Chân
thành cám ơn.
Lý Thụy
Ý
Sài gòn
22- 12- 2012
***
Phạm
Tiến Duật
LÍNH MÀ
EM !
Em trách
Anh gửi thư sao chậm trễ
Em đợi
hoài em sẽ giận cho xem
Thư Anh
viết bao giờ Anh muốn thế
Hành
quân hoài đấy chứ,
Lính mà
em!
Anh gửi
cho Em mấy nhành hoa dại
Để làm
quà không về được em ơi
Không dự
lễ Nô-En cùng em được
Thôi
đừng buồn em nhé,
Lính mà
em!
Ngày
nghỉ phép Anh cùng Em dạo phố
Tay
chiến binh đan năm ngón tay mềm
Em xót
xa đời anh nhiều gian khổ
Anh mỉm
cười rồi nói,
Lính mà
em!
Qua xóm
nhỏ anh ghi dòng lưu niệm
Trời mưa
to, hai đứa nép bên thềm
Anh che
em khỏi ướt tà áo tím
Anh quen
rồi không lạnh,
Lính mà
em!
Anh kể
em nghe chuyện trong này
Trăng
đầu mùa không đủ viết thư đâu
Thư Anh
viết chữ mờ nét vụng
Hãy hiểu
dùm Anh nhé,
Lính mà
em!
Ghét Anh
ghê chỉ được tài biện hộ
Làm cho
người ta thêm nhớ thương
Em xa
lánh những ngày vui trên phố
Để nhớ
người hay nói,
Lính mà
em!
Phạm
Tiến Duật, sinh năm 1941 tại Phú Thọ.
Ông đóng
góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham
gia quân ngũ. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng
như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch” nhưng cũng rất sâu
sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu
nhất là “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”.
Những
tập thơ chính:
Vầng
trăng quầng lửa (thơ, 1970),
Ở hai
đầu núi (thơ, 1981)
Vầng
trăng và những quầng lửa (thơ, 1983)
Thơ một
chặng đường (tập tuyển, 1994)
Nhóm lửa
(thơ, 1996)
Tiếng
bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997)
Tuyển
tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày 17-11-2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm
nặng)
Ông được
ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng
già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh
giá là “có sức mạnh của một sư đoàn” .
Lý Thụy
Ý
LÍNH MÀ
EM
Mình
trách anh hay hồi âm thư trễ
-Em đợi
hoài! Em sẽ giận cho xem
Thư anh
viết:- Bao giờ anh muốn thế
Hành quân
hoài đấy chứ- Lính mà Em!
Anh gởi
về em mấy cành hoa dại:
-Để làm
quà không về được Noel
Không đi
lễ nửa đêm cùng em gái
Thôi
đừng buồn anh nhé- Lính mà em!
Anh kể
chuyện hành quân nằm sương gối súng
Trăng
tiền đồn không đủ viết thư đêm
Nên thư
cho em nét mờ, chữ vụng
-Hãy
hiểu dùm anh nhé- Lính mà Em!
Qua hành
lang Eden ghi kỷ niệm
Buổi
chiều mưa hai đứa đứng bên thềm
Anh che
cho em khỏi ướt tà áo tím
-Anh
quen rồi, không lạnh- Lính mà em
Ngày về
phép anh hẹn mình dạo phố
Tay
chinh nhân đan năm ngón tay mềm
Mình xót
xa đời anh nhiều gian khổ
Anh cười
buồn khẽ nói:- Lính mà em!
Ghét anh
ghê! Chỉ được tài biện hộ
Làm
“người ta” càng thương mến nhiều thêm
Nên xa
lánh những cuộc vui thành phố
Để nhớ
một người hay nói LÍNH MÀ EM !
(Khói
Lửa 20-1967)
(Lính Mà
Em, thơ Lý Thụy Ý, trong tập THƠ TÌNH NAM 1975 do gio-o.com tuyển chọn và giới
thiệu)
Qua
những bằng chứng trên đây, rõ ràng bài thơ “Lính mà em” là thơ của nhà thơ Lý
Thụy Ý chứ không phải thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Chỉ cần nghe hơi thơ biết
đây là thơ của một người phụ nữ, càng không phải phong cách thơ tinh nghịch,
hóm hỉnh, nghiêng về bút pháp hiện thực của Phạm Tiến Duật.
Chắc là
người chủ biên tuyển tập Phạm Tiến Duật (tập 1) là nhà văn Nguyễn Khắc Phục đã
có sự nhầm lẫn đáng tiếc khi thực hiện tuyển tập thơ này. Mong nhà văn Nguyễn
Khắc Phục cho công luận biết vì sao một bài thơ của nữ thi sĩ Việt Nam Cộng hòa
làm cho lính miền Nam lại biến thành bài thơ của nhà văn cộng sản miền Bắc làm
cho lính miền Bắc trong khi hai bên đang ở hai chiến tuyến giao tranh?
Bài thơ
“Lính mà em” của nhà thơ Lý Thụy Ý viết năm 1967, khi Phạm Tiến Duật chưa nổi
tiếng ngoài miền Bắc. Trong cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ năm 1969, chùm thơ
của Phạm Tiến Duật được giải nhất, bạn đọc mới biết tên tác giả này.
Chúng
tôi xin giới thiệu thêm hai bài thơ của chị Lý Thụy Ý để thấy hơi thơ cùng hơi
thơ của ‘Lính mà em” là do một người viết:
Những
Bài Thơ Viết Trước 1975
Mang ý
tưởng về những người lính chiến
Từng đêm
buồn gác bên súng vào Thơ
Phương
trời xa – theo ánh hỏa châu mờ
Nghe
chiến trận về gần miền đô thị
1968
Vì…
Viết
trong mùa hè đỏ lửa
Vì tất
cả những người trong cuộc chiến
Đều mỉm
cười chấp nhận chuyện chia ly
Vì chúng
mình là người trong cuộc chiến
Em không
buồn khi tiễn bước anh đi
Vì hai
tiếng Việt Nam trìu mến quá
Nên hàng
hàng lớp lớp tiếp chân nhau
Vì mãnh
đất quê hương kiều diễm quá
Nên hoa
ngụy trang áo chiến chóng phai màu!
Vì
Trường Sơn còn kiêu hùng ngạo nghễ
Nên từng
đoàn chim sắt lướt tung mây
Vì Cửu
Long còn từng cơn sóng vỗ
Nên tàu
đi những chuyến hải trình dài
Vì
thương người bên kia bờ vĩ tuyến
Nên vạn
bàn tay chung sức đắp con đường
Còn ngăn
cách bởi dòng sông Bến Hải
Và nhịp
cầu mang hai chữ Hiền Lương!
Vì dưới
bóng quân kỳ bay phất phới
Còn
những người lính trẻ đứng hiên ngang
Nên như
ngày xưa tiễn Người ra quan ải
Em hai
tay nâng rượu tiển đưa Chàng…
1972
LÝ THỤY
Ý
- Tên
thật Nguyễn Thị Phước Lý, Sinh nhật vào ngày : 02-04-1947
- Quê
nội: Quảng Nam – Quê ngoại: Thừa Thiên – Huế
- Làm
thơ, viết văn, viết báo ở đất Sài Gòn từ giữa thập niên 60 thế kỷ XX.
Lý Thụy
Ý, một nữ văn, thi sĩ nổi danh từ trước 1975, khởi sự viết cho tuần báo ‘Văn
Nghệ Tiền Phong’, thư ký tòa soạn tờ báo này trông coi mục Văn nghệ Kaki (Văn
nghệ lính)
Sau
1975, Lý Thụy Ý, bạn cải tạo của các nhà văn, báo Thanh Thương, Lý Đại Nguyên,
Doãn Quốc Sỹ, v.v… sau về tp. HCM lấy chồng, viết văn, sáng tác.
Những
tác phẩm chính:
Thơ: –
Khói lửa 20 (1972) – Thơ tình Lý Thụy Ý (1995) – Kinh tình yêu (2003)
Văn: – Theo
triền nắng đổ (1970) – Người sau tuyến lửa (1972) – Bông hồng không tỏa hương
(1992) – Ngọc lai (1993) – Khuya hoang (1994) – Những mùa xuân chín (1999)
Sưu Tầm từ Facebook
Sưu Tầm từ Facebook
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét