XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Hai, 5 tháng 8, 2019

Cuộc đời và Nguồn gốc bếp Hoàng Cầm

LỜI THỈNH CẦU LÚC CUỐI ĐỜI
Cuộc đời và Nguồn gốc bếp Hoàng Cầm
(xin phép mod đăng 2 bức ảnh để minh họa bài viết)

"...Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy..."
(Phạm Tiến Duật)
“Nổi lửa lên em, đánh Mỹ đêm ngày... Đôi quang gánh nặng tình yêu đất nước. Hơi bếp Hoàng Cầm sưởi ấm khắp nơi nơi...”. (Bài hát Nổi lửa lên em - Sáng tác của Nhạc sĩ Huy Du)

Nếu ai đã từng đi lính trước ngày 30/4/1975, thì không bao giờ quên chiếc bếp Hoàng Cầm.
Có sự trùng tên rất thú vi: Tướng Hoàng Cầm, Nhà thơ Hoàng Cầm và ông sinh ra "Bếp" Hoàng Cầm.

Đại đa số chúng ta sẽ nghĩ chắc là vị tướng kia rồi, nhưng sự thật tác giả chiếc bếp Hoàng Cầm nổi tiếng không phải vị tướng quân đội này và cũng không phải nhà thơ Hoàng Cầm với bài “Bên kia sông Đuống” nổi tiếng kia. Và thực sự người sáng tạo ra chiếc bếp cho quân đội sử dụng tận ngày nay chỉ mang quân hàm thiếu úy khi ra quân.

Hoàn cảnh ra đời Bếp Hoàng Cầm
Khi đơn vị tham gia chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hòa Bình năm 1952, được tận mắt chứng kiến cảnh đồng đội bị thương vong nhiều, sức khỏe giảm sút do máy bay địch oanh kích và điều kiện ăn uống không đảm bảo. Hoàng Cầm nhận ra chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bộ đội ta chiến đấu, hy sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hy sinh, thương vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc mất mát ấy có một phần do việc nấu ăn vì ban đêm thấy lửa ban ngày thấy khói. Rất nhiều thương vong của bộ đội xuất phát từ việc “khói bốc lên giữa rừng”, máy bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi của Hoàng Cầm và nhiều đơn vị khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn ban đêm, khi máy bay địch tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi vẫn không tránh kịp tai họa. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê, sống. Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm nguội lạnh, bộ đội ăn không đảm bảo sức khoẻ.
Hoàng Cầm đã trăn trở ngày đêm suy nghĩ, mình phải làm một cái gì đó giúp cho đồng đội giảm bớt thương vong. Một buổi sáng bên bờ suối, nhìn làn khói lượn lờ quanh mái bếp, Hoàng Cầm chợt nảy ra sáng kiến làm một kiểu bếp có thể nấu nướng mọi thứ ban ngày mà không sợ máy bay địch phát hiện. Sau nhiều ngày miệt mài nghiên cứu, vẽ sơ đồ một số kiểu bếp, và nhiều lần làm thử nhiệm. Hoàng Cầm đào hàng chục cái bếp khác nhau, với những kiểu bếp khoét sâu vào trong lòng đất có nhiều nhánh dẫn khói giống như hang chuột. Làm xong anh đặt nồi lên từng cái bếp, chất củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói vẫn phảng phất bay lên. Không nản chí Hoàng cầm lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa. Lần này Hoàng Cầm đào các đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp đôi. Trên rãnh dẫn khói rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu, trên lợp nilon hoặc lá vừa để đồ, vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút lửa mạnh hơn.
Cuối cùng, Hoàng Cầm đã tạo ra một kiểu bếp như ý, bếp lò khoét vào sườn đồi hoặc đào sâu xuống với những đường rãnh giống như râu mực từ bếp lò bò đi khá xa, trên rãnh được lát bằng cành cây và phủ đất ẩm tạo thành những ống thoát khói. Từ trong lò tuôn ra, khói tỏa vào khắp các rãnh, bốc lên gặp lượt đất ẩm, bị lọc và cản lại, lan ra là là trên mặt đất, thoảng nhẹ nhàng như làn sương buổi sớm. Kiểu bếp này ngay sau đó đã được phổ biến rộng rãi đến các đơn vị và được anh em nuôi quân hoan nghênh.

Bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù hợp với bộ đội thời chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối, không sợ máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát địch, anh nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày. Tháng 10 năm 1952, đơn vị đã quyết định lấy tên người chiến sỹ sáng tạo ra để đặt tên bếp: Bếp Hoàng Cầm.

Từ khi ra đời cho tới nay, bếp Hoàng Cầm được sử dụng rộng rãi trong quân đội Việt Nam và là bắt buộc sử dụng ở tất cả các đơn vị. Với sáng kiến này, bộ đội đã được ăn cơm nóng, có nước nóng để uống trong mùa đông, các viện quân y dã chiến có nước nóng để sát trùng dụng cụ y khoa... Sáng kiến này có giá trị lớn trong thực tiễn hoạt động hành quân, chiến đấu và góp phần quan trọng giữ gìn sức khỏe cho bộ đội. Từ khi bếp Hoàng Cầm ra đời các chiến sĩ nuôi quân không còn lo sợ máy bay địch nhòm ngó mỗi khi nổi lửa, bộ đội ta không phải ăn cơm nguội do nấu vào ban đêm. Bếp Hoàng Cầm đã góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sức khỏe cho bộ đội, đảm bảo quân số chiến đấu cao.

Bếp bảo đảm giữ được bí mật: quá trình nấu ăn ban đêm lửa không hắt sáng ra ngoài, ban ngày khói không bị thoát lên thành cột khói đúng theo chủ trương "đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”.; Bảo đảm được an toàn: bếp vững chắc, không bị sụt lở trong quá trình nấu ăn và hạn chế được sát thương do mảnh bom đạn, an toàn cho cả người và vật chất; Đồng thời bảo đảm cấp nhiệt tốt: Bếp cháy tốt, cung cấp đủ nhiệt cho quá trình nấu ăn thao tác thuận tiện.
Trong hồi ức “Đường tới Điện Biên Phủ” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (NXB QĐND- 2001), có đoạn viết: “Sẽ là một thiếu sót nếu không nhắc ở đây một sáng kiến đã mang lại sự cải thiện rất quan trọng trong đời sống các chiến sỹ ngoài mặt trận".

Đại tá, Giáo sư - Tiến sỹ Đặng Hiếu Trung, nguyên là chuyên viên đầu ngành của Khoa Tai mũi họng Bệnh viện Quân y 108 cho biết thêm: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông (Hoàng Cầm) là Đội trưởng Đội Điều trị 8, thuộc Đại đoàn 308. Đội điều trị 8 đóng cạnh suối Hồng Lếch, cách hầm Đờ Cát chỉ 4 km đường chim bay về phía tây. Đội Điều trị 8 có trên 100 người cộng với thương binh vì thế mặc dầu trong hoàn cảnh chiến trường, khó khăn, thiếu thốn, bom đạn của kẻ thù nhưng Tiểu đội trưởng nuôi quân Hoàng Cầm cùng tổ nuôi quân vẫn đảm bảo cơm nóng, canh ngọt cho Đội và thương binh.

Cuộc đời vất vả của cha đẻ "Bếp không khói"
Sau 16 năm phục vụ trong quân đội, Hoàng Cầm được phục viên khi đang giữ cấp bậc đại uý. Về làng Đồi Mây, Tam Đảo là quê ngoại của Hoàng Cầm. Về quê, ngày ngày vợ chồng ông lên đồi phát cỏ, cuốc đất trồng chè, sắn. Đất ở đây đá sỏi, bạc màu, làm lụng vất vả nhưng cuộc sống dân làng và gia đình ông quanh năm vẫn nghèo đói. Nhưng cái đói không trói nổi ông, ngay trong những năm sáu mươi, Hoàng Cầm đã xoay xở, tìm cách làm kinh tế để tự cứu mình và cứu dân làng. Ông chuyển sang làm que kem bán cho các cơ sở sản xuất ở Hà Nội và Vĩnh Yên để kiếm sống.

Bán kem que, ngày ngày phải lang thang khắp đây đó tìm nơi tiêu thụ rất vất vả. Sau ba năm bán que kem thu nhập thất thường, Hoàng Cầm lại chuyển sang mở xưởng nấu nước chấm (nước mari) và làm miến đao. Làm nước chấm và miến thu nhập tạm ổn, cuộc sống gia đình ông đã vượt qua những ngày đói kém.

Vợ Hoàng Cầm đau yếu luôn nên tất tật công việc nặng nhọc trong nhà đều dồn lên vai ông. Phải lao động quần quật, ông mới nuôi nổi năm miệng ăn. Khi người con trai duy nhất của vợ chồng ông là Hoàng Thư khôn lớn, những tưởng Thư sẽ gánh vác công việc nặng nhọc để bố đỡ vất vả, nhưng năm đó, cuộc kháng chiến chống Mĩ đang khốc liệt, ông Hoàng Cầm đã động viên con trai lên đường xung trận. Trước ngày nhập ngũ, ông dặn con cứ yên tâm đi, bố tuy sức yếu rồi nhưng vẫn cố gắng làm lụng để nuôi mẹ và các em con được, chiến trường đánh Mĩ chắc chắn sẽ ác liệt hơn thời đánh Pháp… Con trai ra đi một lèo cho đến ngày giải phóng miền Nam, ông ở nhà vật lộn với cuộc sống gian nan giữa vùng quê nghèo đói của thời kì bao cấp. Tuổi cao, ngày càng yếu, Hoàng Cầm không còn đủ sức làm xì dầu, miến đao nữa, ông tìm lên một ngôi đền thờ Đức Thánh Trần trên núi Tam Đảo, phục vụ đèn nhang, hương khói, quét dọn và trông coi đền. Gặp những người dân sinh sống quanh đền, họ kể, ngày ngày ông dậy từ tinh mơ, quét dọn, nhặt cỏ, tưới cây, lau bệ Phật, sắp hương, nến để người thập phương lên tham quan, nhang khói Đức Thánh. Không phải nhà sư tu hành chính quả, nhưng cái tâm của ông với ngôi đền, với dân làng khiến ai lui tới cũng đều kính nể. Họ gọi ông với những cái tên thân thuộc như: Hoàng Cầm giữ đền, ông từ Cầm...

Chị Hoàng Thị Định, con gái ông Hoàng Cầm hiện ở thị trấn Tam Đảo kể với chúng tôi: “Một hôm tôi lên đền giúp đỡ bố, gần trưa có đoàn cán bộ từ Hà Nội lên Tam Đảo tham quan và vào thắp hương Đức Thánh Trần, có ông cán bộ ăn mặc chỉnh tề, đầu đội mũ phớt, đeo kính trắng, sau khi thắp hương, quay ra cứ chằm chằm nhìn bố tôi. Lúc đó bố tôi đang mải quét lá khô dưới gốc cây đại. Ông cán bộ bỗng kêu lên: Anh Cầm hả? Ông cán bộ tháo kính ra, cái chổi trên tay bố tôi rơi xuống đất, hai người ôm chặt lấy nhau. Sao anh lại ở đây, anh Cầm? Rồi ông quay ra giới thiệu với những người cùng đi: Đây là anh Hoàng Cầm, bạn cùng đơn vị với tôi, người chế tạo ra bếp Hoàng Cầm nổi tiếng thời chống Pháp đấy. Mọi người vây quanh, hình như họ đều đã từng nghe tiếng cái bếp Hoàng Cầm của bố tôi. Có người đi bộ đội từng nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm, được thấy tác giả chế tạo ra cái bếp nổi tiếng, họ chăm chú nhìn bố tôi vẻ thán phục. Ông cán bộ buông bố tôi ra hỏi: Anh ở đền này lâu chưa? Hơn chục năm rồi - Bố tôi nói. Ông ta tròn mắt: Sao anh không chuyển ngành hay đi làm một nghề gì đó mà lại ở chùa? Tôi đã làm nhiều nghề rồi. Giờ đây sức yếu, ở đền cái tâm mình nó tĩnh tại, tôi thấy khỏe ra. Ông cán bộ nói: Anh hay thật, người ta mong có thành tích xuất sắc để được làm quan, có tiền, có chức, anh lại vào chùa để được hưởng tĩnh tâm. Và ông ta quả quyết: Không. Người “vĩ đại” như anh, người “đẻ” ra bếp Hoàng Cầm cho anh nuôi toàn quân không thể đi quét chùa. Về Hà Nội, tôi sẽ xin cho anh công việc khác. Bố tôi lắc đầu: Cảm ơn anh. Ước nguyện của tôi giờ chỉ mong mình sống khỏe mạnh. Làm được việc gì có ích cho dân, cho nước thì tôi làm. Bố tôi bảo, ông bạn gặp bố tôi hôm đó là cán bộ cấp Vụ trưởng. Về sau không thấy ông ta liên lạc lại, tôi nói hay ông ấy quên bố, bố tôi bảo, ông ấy làm lãnh đạo công việc bận chứ ông không quên đâu vì ngày ở đơn vị hai người rất thân nhau mà”.

Mười lăm năm hương khói trên cõi “niết bàn”, tuổi cao, đau yếu luôn, ông Hoàng Cầm không còn đủ sức coi đền Đức Thánh Trần núi Tam Đảo nữa. Lộc Thánh và sự giúp đỡ của địa phương cũng không cưu mang nổi ông lúc cuối đời. Ông về Hà Nội nương nhờ người con trai Hoàng Thư. Sau hơn 10 năm chiến đấu ở chiến trường B3, Thư xuất ngũ về học sư phạm rồi làm giáo viên trường trung học phổ thông Phan Đình Phùng, Hà Nội. Đồng lương giáo viên ít ỏi, phải nuôi vợ không việc làm cùng con nhỏ và người bố già bệnh tật, hoàn cảnh gia đình Hoàng Thư thật khốn khó. Thương con, ông Hoàng Cầm không muốn mình thành gánh nặng cho con nhưng chẳng còn cách nào. Cuộc sống kéo dài ngày một chồng chất khó khăn, ông đành viết một lá đơn đề nghị cấp trên cứu giúp. Nhưng vốn là người chỉ biết tự lực vượt khó, không bao giờ đòi hỏi kêu ca nên viết xong, ông ngần ngại rồi lại xé đi.

Một người bạn của Hoàng Cầm khuyên: “Cái chất trong con người ông là chất Hoàng Cầm. Nhưng Hoàng Cầm cũng là con người. Mình hoạn nạn, mình kêu, đấy mới là con người”. Nghe lời bạn, cộng với gia cảnh bức thúc quá, nên lá đơn thứ 2 đề ngày 15/3/1994 của Hoàng Cầm có đoạn: “... Cả gia đình tôi bốn bố con, ông cháu ở nhà một “mái vẩy” 9m2 của trường Phổ thông trung học Phan Đình Phùng cho mượn. Tôi không biết nằm dọc, nằm nghiêng, ngửa thế nào cho tiện. Các cháu học sinh của con tôi, bạn bè, đồng đội đến thăm khi đau yếu, thật ái ngại, xin ngồi xuống đất. Lúc ốm chìa tay bấu đồng lương ít ỏi của con để mua thuốc, thật không đành. Cực chẳng đã, có lần tôi chống gậy đến một bệnh viện khám bệnh và xin thuốc, một nhân viên phòng khám bảo: Bác phải có sổ, có giấy tờ, chế độ mới được khám cấp thuốc. Tôi trình bày, tôi là Hoàng Cầm, bộ đội phục viên ở với con nên không có giấy tờ gì. Họ nói: Một Hoàng Cầm chứ mười Hoàng Cầm cũng vậy thôi. Tôi viết lá đơn này đề nghị cấp trên xét cấp cho tôi một cái sổ khám bệnh, một tiêu chuẩn nhà đất như hàng vạn người khó khăn khác để ổn định sức khoẻ đoạn đời còn lại. Năm nay tôi đã 81 tuổi. Để khỏi có lúc chợt nghĩ “nếu có mệnh hệ nào” tôi không muốn nằm tại 9m2 nhà đi mượn cho con cháu khỏi phiền lòng...”.

Nỗi lòng ấy âu cũng là cái chất rất con người trong Hoàng Cầm. Và chính nó đã làm nên một Hoàng Cầm chân thật và cao thượng, làm rung động trái tim của không ít người. Lời thỉnh cầu của ông đã được những người làm chính sách hết lòng giúp đỡ.

Khi tôi gặp Thiếu tướng Nguyễn Thế Kỷ, nguyên Cục trưởng Cục Quản lí Hành chính Bộ Tổng tham mưu, hiện sống tại phường 2, Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, ông kể lại:

- Ngày ấy, nhận được đơn và ý kiến của cấp trên, chỉ trong một tuần lễ, chúng tôi đã lo chu tất cho ông Hoàng Cầm. Đã giải quyết cho ông một căn nhà 43m2 ở khu tập thể 28 Điện Biên Phủ, Hà Nội, một quyển sổ khám chữa bệnh tại Bệnh viện Quân đội và tạo việc làm cho người con dâu của ông là chị Minh, vợ anh Hoàng Thư vào giữ trẻ tại cơ quan.

Nhưng ông Hoàng Cầm hưởng cuộc sống đầm ấm trong căn nhà mới được gần ba năm thì đi theo tiên tổ. Ra đi, ông để lại cho đời một công trình vô giá. Dẫu mai này, có thể người ta lại quên cái tên người chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm nhưng bếp Hoàng Cầm của ông, cái bếp đã đi vào lịch sử hai cuộc kháng chiến vệ quốc của dân tộc, sẽ là cái bếp huyền thoại trong lòng tất cả mọi người.

Có thể ngày nay nhiều người không biết Hoàng Cầm là ai, nhưng di sản chiếc bếp ông đế lại cho quân đội vẫn luôn theo chân các chiến sỹ trong toàn quân.


Từ fb Quoc Toan Son Tay




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét