Bài của Vương Trí Nhàn
Khi nói về văn hóa cư trú, ở ta
thường chỉ tới đề cập tới việc xây dựng nhà cửa và khoa kiến trúc.
Trong
khi đó cách chọn địa điểm cư trú và cách cư trú của cộng đồng trong một
"thời gian lớn" - chữ của nhà nghiên cứu văn hóa M. M.Bakhtin - và trên những khung cảnh lớn, cái đó lại cần
quan tâm hơn: đó là những động thái văn hóa ở tầm vĩ mô. Với tư cách một người
nghiên cứu nghiệp dư, một cách tự phát, tôi một số quan sát có liên quan tới bộ
phận văn hóa nói trên, xin trao đổi cùng các bạn.
NHÌN CHUNG VỀ DI CƯ
1/ "Đúng
là một cơ cấu siêu hiện đại nhảy dù xuống một lãnh thổ hoang dại!”
Tôi đã
tự nhủ như vậy khi chứng kiến những khách sạn toàn loại năm sao, bốn sao mọc
lên ven biển Phú Quốc.
Không
biết chụp ảnh nhưng tôi còn nhớ mãi hình ảnh ở góc đường nọ còn chưa có tên -
một loạt biển quảng cáo cho những thương hiệu sang trọng cỡ thế giới lố nhố
chen nhau giữa một cụm cỏ dại cao hơn đầu người.
Một cuộc
nhảy dù khác ít ngoạn mục hơn là cuộc nhảy dù của những người dân của những
vùng đất khác nhau tới vùng huyện đảo này.
Họ làm
các nghề mà có thể tạm gọi là tạp vụ linh tinh phục vụ cho cả dân bản địa lẫn đám
quý tộc hiện đại.
Miền Tây
thì cố nhiên là nhiều nhất rồi.
Nhưng có
cả những người mãi tận các tỉnh phía bắc.
Nay lại
là thời người ta đua nhau đi tìm đặc sản và các cửa hàng ăn hoặc chuyên bán các
đồ thủ công nào đó thì không bao giờ quên ghi rõ gốc gác nơi xuất xứ.
Nhớ đầu
2015, cùng anh bạn Nguyễn Văn Thành về thăm Nguyễn Dương Côn.
Hồi
1964, lên làm lính Tây Bắc tôi đã nghe câu ví “Thái Bình là đất ăn chơi – tay
bị tay gậy khắp nơi tung hoành.”
Nhưng đó
là “tán”.
Giờ tôi
mới biết trước đó Thái Bình đã là đất “tụ”.
Trai bỏ
vợ gái bỏ chồng, rồi buôn bán bán thua lỗ, rồi tù oan án nặng - đám người mà xã
hội học ngày nay gọi là thiểu số - đua nhau về vùng đất mới này để góp phần làm
nên “công nghiệp” – theo nghĩa cũ – của tác giả “Bài ca ngất ngưởng” là ông
Doanh điền xứ Nguyễn Công Trứ.
Phú Quốc
giờ đây ít nhiều cũng có cái chất của Thái Bình gần hai trăm năm trước.
2/ Hồi còn mồ ma nhà văn hóa học thứ thiệt
Trần Quốc Vượng, đọc ông tôi cứ thắc mắc
sao ông sớm đi vào các vùng khác nhau khi nghiên cứu văn hóa Việt.
Nay đọc
thêm các sách sử hiện đại mới được dịch – mà số một là những trích đoạn từ cuốn
“Lịch sử người Việt” của K.Taylor - , tôi mới hiểu cụ Vượng quá có lý.
Người
dân Việt mỗi vùng quê di cư đi đâu cũng mang theo nếp văn hóa vùng mình.
Họ sẽ
sống với nhau ra sao ở những vùng mới di chuyển tới ?
Tôi đoán
chắc chẳng ai ở ta nghĩ nhiều về việc này.
Nhưng
chính các tổ chức quốc tế đã nghĩ hộ.
Mấy năm
nay, báo chí đã được phép cho dân biết nước ngoài nói về xứ mình như thế nào.
Bà Phạm
Chi Lan mang về cái câu từ miệng một chuyên gia ngoại quốc hàng đầu “Có vẻ như
người Việt đất Việt không chịu phát triển” , nghe đã tuyệt rồi.
Đến như
cái câu thứ hai “Các anh lấy gì mà trả nợ?” thì thật đã tóm tắt đầy đủ cái tình
thế xã hội Việt hiện tại.
Theo cái
mạch đó, là chuyện dân di cư nội địa.
Bản thân
khái niệm này cũng mới du nhập.
Tôi biết
tới nó nhờ một mẩu tin mới nhất tôi đoán ít người chú ý.
"Được
sự hỗ trợ của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), sáng ngày 13 tháng 12 năm 2016,
Tổng cục Thống kê (TCTK) đã tổ chức Lễ khai mạc triển lãm ảnh di cư có chủ đề
“Nơi tôi gọi là nhà”.
Phát
biểu tại buổi Lễ, quan chức hàng đầu của Tổng cục này nói “Ngày nay, di cư đã
trở thành vấn đề toàn cầu, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, dòng người lao động
di cư đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là dòng người lao động di cư từ
nông thôn đến thành thị, khu công nghiệp, khu chế xuất. Di cư lao động phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: môi trường chính trị, sự phát triển kinh tế - xã
hội, cũng như các chính sách xã hội đối với người lao động di cư.”
Trong
các yếu tố chi phối hiện tượng người di cư nội địa mà người phụ trách vấn đề
Việt Nam nói ở đây chỉ thiếu mỗi vấn đề thiên hạ người ta coi là hàng đầu còn
riêng ở xứ ta chỉ được xếp áp chót: vấn đề văn hóa.
TỪ ĐỒNG BẰNG LÊN CAO NGUYÊN
Tôi muốn
nhân đây nhìn rộng ra một chút.
Ở trên,
ta mới xét tác động của môi trường mới với người di cư.
Giờ hãy
thử xét thêm những tác động ngược.
Những ý
nghĩ sau đây liên quan tới không phải Phú Quốc mà là Tây Nguyên.
Chuyến
lên Đắc Lắc của tôi tháng bảy 2016 thật là chuyến đi buồn bã với nghĩa chẳng
thấy vị Tây Nguyên đâu cả.
Buôn Mê
Thuột là một đô thị giống như nhiều thị xã còi cọc mãi giờ được đôn lên là
thành phố, địa điểm duy nhất có chất cao nguyên đất đỏ là Bảo tàng Tây Nguyên
được xây dựng dựa trên các thành quả nghiên cứu của người Pháp.
Quay về
xem các bản tin phát trên truyền hình chợt thấy thiêu thiếu cái gì, sau nhận ra
là sự thiếu vắng không thể tha thứ hình ảnh những đồng bào của anh hùng Núp .
Nghe
giọng nói và nghe tên tuổi mấy ông xã trưởng huyện trưởng hoặc các ông kiểm lâm
các ông tài nguyên môi trường ... biết ngay không Huế thì Nghệ An không miền
trung thì miền bắc.
Những
người này hẳn đã và sẽ áp đặt cho Tây Nguyên nơi cư trú mới của họ một nền văn
hóa đồng bằng .
Điều gì
đã xảy ra và sẽ xảy ra ?
Muốn dự
đoán được, chúng ta phải đi vào thực tế Tây Nguyên mà chẳng hạn những hiểu biết
của nhà văn kiêm nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc
cung cấp thời gian vừa qua rất có
ích.
Nhưng
còn một yếu tố nữa chúng ta phải tìm tới: những công trình nghiên cứu của thế
giới về vấn đề này.
Đó là
hiểu biết về tác động của phương thức sinh hoạt con người vừa di cư, bao gồm cả
hành động và tư tưởng của họ - tóm lại tức là tác động của văn hóa mà ở trên đã
nói - với môi trường mà họ mới tới sinh sống.
Thu
hoạch bước đầu của tôi: Khi xét và đối chiếu những biến động ở những khoảng
thời gian lớn, có một ý tưởng trước hết cần nhớ, đó là hiệu ứng thời gian.
Xưa
khoảng thời gian này kéo dài dăm bảy chục năm hoặc hàng trăm năm, nay thì rút
ngắn hơn rất nhiều.
TỪ TỈNH LẺ TỚI TRUNG TÂM
TỪ NÔNG
THÔN RA THÀNH PHỐ
NGUY CƠ
CỦA CUỘC SỐNG TẠM BỢ
1/ FB Nguyễn Kc Hậu ngày 8/1/2017 có bài mang tên “Sài Gòn dễ sống”, vốn
viết từ 12/2015 nay mới đưa lại. Bài viết ca ngợi khả năng mà thành phố từng là
hòn ngọc Viễn Đông bao dung những người nhập cư vào thành phố mấy chục năm nay,
nên dễ hiểu là được hoan nghênh.
Dân ta
vốn có thói quen nhân hậu “thương người như thể thương thân”.
Trong
hoàn cảnh hậu chiến, rồi tới công cuộc phát triển kinh tế tự phát hỗn loạn và
những biến đổi khí hậu dồn vào mấy chục năm nay, khả năng bao dung của Sài Gòn
thật đáng phục, cư dân mới tới phải biết ơn Sài Gòn lắm lắm.
Mặc dầu
trái tim của tôi, phần cảm tính trong tôi đồng tình với một suy nghĩ mà tác giả
đã ấp ủ nhiều năm như vậy – tôi cũng có nhiều người thân trong gia đình lập
nghiệp ở đây - nhưng lý trí của tôi lại xui tôi lo bàn thêm với nhà nghiên cứu
về đề tài này.
Ý tưởng
chính của tôi, bên cạnh sự chia sẻ lại có phần bổ sung, hơn nữa có khía cạnh
ngược lại với Nguyễn Thị Hậu, nên chắc sẽ làm cho nhiều bạn không đồng tình.
Nhưng
tôi thấy cứ nói ra đây, mong bạn đừng tuyệt đối hóa nó, đừng đối lập tôi với
một ý tưởng mà chính tôi cũng chia sẻ.
Cái điều
mà tôi ngập ngừng mãi không tiện nói nhưng cuối cùng vẫn buộc phải nói ra, gói
gọn lại là:
- Chính
vì chấp nhận dân nhập cư một cách bị động, một cách xô bồ dễ dãi mà mấy chục
năm nay, Sài Gòn có phần bị pha loãng ra, có phần lùi lại, có phần như đánh mất
mình; về mặt kinh tế xã hội Sài Gòn không thể trở thành một đô thị được chuẩn
hóa, nó là nỗi niềm mà chúng ta thường kỳ vọng nhất ở thành phố.
2/ Tôi sống ở Hà Nội từ trước 1954 và sống
liên tục tới nay. Sau 10/1954, việc nhập cư
vào Hà Nội rất khó khăn, trai gái lấy vợ lấy chồng mà “đối tượng” là người ở
các địa phương chung quanh thì không được nhập hộ khẩu.
Mới đầu
tôi cũng thấy Hà Nội có cách tự vệ khá tốt trước cái hoàn cảnh tư tưởng tiểu
nông bao trùm cả xã hội.
Sau tôi
mới hiểu hồi ấy đang thời bao cấp, đưa người nhập cư về là phải lập thêm cho họ
sổ gạo cùng các loại tem phiếu, một thành phố trung tâm của một đất nước đã bị
phá hoại trong tám năm chiến tranh chịu sao nổi.
Đấy, cái
lý của Hà Nội khi hạn chế người nhập cư là vậy.
Chứ xét
chung thì sau 10-1954, do sự nhập cư thiếu sàng lọc liên tục xảy ra, Hà Nội trở
nên quê mùa dần, mà cũng nhốn nháo lộn xộn hẳn đi - ai mà không thấy. Người Hà
Nội cũ nhiều khi lại có cảm giác lạc lõng không theo kịp xu thế chủ đạo mới.
Cách
quản lý Hà Nội bấy giờ không chỉ là phản khoa học - khoa học quản lý và phát
triển đô thị - mà còn là ngược với kinh nghiệm của ông cha.
Tìm hiểu
các lớp người Hà Nội cũ,, người ta được biết là mặc dù hình thành tự phát, song
trong quá khứ, đô thị này phát triển trong quá trình sàng lọc với nghĩa dù làm
nghề gì ở thang bậc nào chỉ những tinh hoa từ nơi xa tới mới trụ được ở thành
phố, những người kém cỏi có nhoi ra đây cũng phải bán xới từ sớm.
Những
người nhập cư tài ba và thông minh này đến với Hà Nội với sự hiểu biết tối
thiểu thế nào là đô thị, nó khác với sự hồn nhiên tự nhiên vốn có ở nông thôn.
Nhờ thế
họ hòa nhập nhanh, còn Hà Nội vẫn phát triển được mà lại là phát triển đúng
hướng trở nên một thành phố đầu tầu của cả nước.
Động
thái này cũng phù hợp với quy luật hình thành và tồn tại của các đô thị nói
chung trên thế giới: Đô thị phải là sản phẩm của trí tuệ.
Đọc mấy
ví dụ Nguyễn Thị Hậu đưa ra về thành công trong hòa nhập của dân nhập cư vào
Sài Gòn mấy chục năm qua, tôi cứ ước ao giá có cơ quan nào đó có thể nghiên cứu
về những phiền toái mà người dân thành phố phải chịu mấy chục năm qua do nhập
cư tùy tiện vô tổ chức.
Trong
điều kiện của khoa học xã hội hiện đại, điều này hoàn toàn có thể tính được.
Vả chăng
không tính đâu xa, ngay mỗi người dân thành phố đã nhập vào thành phố ba bốn
chục năm trước cũng đã cảm thấy gánh nặng của dân nhập cư dăm ba năm nay như
thế nào.
Đi lại
đông đúc hơn bởi đường xá chật chội hơn.
Công
việc bị cạnh tranh không lành mạnh.
Các nơi
giải trí quá tải.
Trường
học trở thành nơi tranh chấp, điều kiện học hành của con cái ta bị phân tán,
chất lượng đào tạo bị hạ thấp.
Tóm lại
trong khi đón tiếp dòng người từ các vùng xa trở về, một cách bừa bãi tùy tiện,
Sài Gòn cũng được nhiều cái lợi thật, nhưng đó là cái lợi trước mắt. Còn về lâu
dài nếu không xử lý tốt – mà chúng ta có làm tốt cái gì bao giờ đâu -- một
thành phố luôn luôn có những lớp “đất mượn’ như thế này sẽ rất khó vượt qua
giai đoạn dông dài và bị động trong những năm chiến tranh để phát triển theo
hướng hiện đại, mà vẫn giữ được cốt cách sang trọng vốn có.
Làm được
điều đó không chỉ có lợi cho Sài Gòn mà còn có lợi cho cả nước. Đó là theo quan
điểm phát triển. Còn như đặt vấn đề ở góc độ khác, người ta hẳn sẽ đi tới những
kết luận khác.
Lấy lại từ bài trên FB của tôi 1-2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét