XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2023

TỔ CHỨC QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THÔN (LÀNG) DƯỚI TRIỀU NGUYỄN TỪ 1832 ĐẾN 1945

TỔ CHỨC QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THÔN (LÀNG) DƯỚI TRIỀU NGUYỄN  TỪ 1832 ĐẾN 1945

I/ Tổ chức quản lý trong làng (thôn) có hai tổ chức

- Tổ chức thứ nhất là Hội đồng Kỳ mục: Gồm các quan viên về hưu, cựu Lý trưởng, phó lý, người nhiều tuổi có uy tín, có trách nhiệm cùng với tiên chỉ bàn định công việc làng, trước khi giao cho hội đồng Lý dịch;

- Tổ chức thứ hai là Hội đồng Ngũ vị Hương (Hội đồng Lý Dịch)

Bộ phận Lý Dịch (Từ Lý đến Dịch) này gồm:

1 – Lý trưởng đứng đầu chịu trách nhiệm quản lý mọi việc trong làng, thu tiền sưu, thuế, giải quyết các công việc tranh chấp, giữ đồng triện (đồng triện của Lý trưởng hình chữ nhật); Làng lớn có thêm Phó Lý giúp việc Lý trưởng;

2 – Hượng Bạ người giữ sổ sách, giá thú sinh tử, trích lục đất đai (Hương bạ cũng có con dấu hình bầu dục)

3 – Hương Mục: Giữ công việc công công trông coi các đường trong làng, kể cả đê điều (nếu có) mỗi khi ở huyện điều người đi làm đường xá hương mục phải lo điều này;

4 – Hương Bản: Giữ công quỹ của làng trong đó có việc thu chi các khoản (hương bản cũng có con dấu để đóng vào giấy tờ thu chi)

5 – Hương Kiểm: Coi việc tuần phòng trong làng, ngoài đồng điền và miếu mạo

6 – Hương Dịch: Coi công việc sản xuất, chăn nuôi, sổ sách hương ẩm và báo cáo các công việc trong làng

Về sau này còn có chức - Hương Nông coi việc khuyến nông, mương máng, tưới tiêu trên đồng ruộng; Chức Đoàn xã là người chỉ huy Đoàn viên theo hệ thống Tổng đoàn;

Nhìn chung Hội đồng Chức dịch có nhiệm vụ thu thuế má, đốc thúc phu phen, canh phòng, tuần tra bảo vệ trị an xóm làng, tổ chức tế lễ, đình đám, mở Hội hàng năm;

          Dưới chế độ phong kiến trong làng còn có phe giáp, đây là tổ chức phi hành chính; Nghĩa vụ đóng góp trong phe giáp rất nặng nề, nhất là đóng góp cho các làng trên tế lễ; Ngoài Phe giáp trong làng còn có tổ chức hội làng văn, hội làng võ (hương Binh), làng nhiêu,…Tổ chức làng văn là những người có tính hạnh thuần cẩn và biết chữ;

II/ Các Hội trong làng

1-Tìm hiểu về Giáp:

Làng xã xưa có năm dạng tập hợp người:

 - Theo địa vực (ngõ, xóm);

 - Theo huyết thống (họ);

 - Theo tinh thần tự nguyện (phe, hội phường…);

 - Theo theo bộ máy chính quyền cấp xã;

 - Theo lớp tuổi.

         Giáp là một tổ chức, một môi trường đặc biệt dành cho nam giới mà trong đó họ sẽ “tiến thân” và khẳng định vị thế bằng chính tuổi tác của mình; là một biểu hiện của truyền thống "trọng xỉ " (trọng người già, người nhiều kinh nghiệm sống và lao động, sản xuất) của làng xưa. Giáp là một tập hợp có tính cách tôn giáo việc gia nhập mang yếu tố gia đình và có trung tâm là một ngôi đền…”. Tham gia giáp theo tinh thần tự nguyện nên thường được gọi là Phe Giáp

          Hành trình “trưởng thành” của nam giới trong làng

Giáp là môi trường đặc biệt mà trong đó nam giới tiến thân, trưởng thành và xác lập vị thế của mình theo nguyên tắc “trọng xỉ” của làng xã. Chu kỳ trưởng thành đó gồm: Vào giáp, lên đinh, lên lão.

         Vào giáp: Khi đứa bé trai sinh ra, người cha phải biện một lễ mọn trình giáp để được ghi tên vào “sổ bộ” (sổ nhân danh) của giáp. Từ đó, cậu bé trở thành thành viên của giáp. Khi lớn lên, cậu bé được quyền theo cha, anh đến dự các cuộc họp của giáp. Thực ra vì còn nhỏ tuổi nên chủ yếu là cậu ta được ăn cỗ của giáp; nếu vắng mặt, cậu ta được giáp gửi phần.

        Lên đinh: Sang tuổi 18, trở thành thanh niên, anh ta phải làm lễ trình làng một lần nữa để được “lên đinh”. Đây là cột mốc chứng tỏ sự trưởng thành và đánh dấu tư cách của anh ta trong giáp, trong làng. Với tư cách trai đinh, từ lúc này cho đến khi lên lão, anh ta phải gánh vác rất nhiều trách nhiệm với làng, với nước.

        Trước hết, các trai đinh phải nộp thuế, đi phu và đi lính. Trong quãng thời gian này, mọi trai đinh trong giáp/làng phải thay nhau gánh vác công việc trong các "hội đồng niên” từ việc làm “ông lềnh” cho đến “câu đương”, “cai giáp”, cai đám”…  từ lo sổ sách của giáp đến việc đóng góp tiền của, chuẩn bị cỗ bàn cho giáp, cho làng rất vất vả và tốn kém.

        Tuy nhiên, trai đinh đồng thời cũng có những quyền lợi tinh thần và vật chất như được xác lập vị trí trong giáp, được quyền tham gia bàn bạc việc của giáp, được phân chia ruộng công của làng.

         Lên lão: Thông thường, sang tuổi 49, có nơi là 60, các trai đinh được “lên lão”. Kể từ lúc này, người đàn ông được ngồi chiếu trên, không còn phải làm các công việc trực tiếp mà được tham gia “phán bảo” hoặc “tư vấn” việc làng, việc giáp cho đám trai đinh thực hiện. Đó là con đường trưởng thành của một công dân nam giới của làng xưa theo "xỉ tước" (tước phẩm nhờ tuổi tác).

         Khác với sự thăng tiến quan tước - theo chức vụ chính quyền, hay trưởng thành theo nghĩa giàu có, sự tích lũy tài sản, trong môi trường này ai cũng có thể bình đẳng “trưởng thành”, miễn là sống thọ, sống trọn vẹn cho đến các thời điểm quan trọng của sự “thăng tiến”, của vòng đời.

         Từ một tổ chức hành chính, giáp dần trở thành một tổ chức mang tính hai mặt, vừa tổ chức theo lớp tuổi, lại vừa tổ chức theo những người cùng làng/địa vực. Một mặt, giáp mang tính tôn ty, “sống lâu lên lão làng”; mặt khác, cũng có tính dân chủ khi tất cả mọi thành viên cùng lớp tuổi đều bình đẳng với nhau, cứ đến tuổi thì sẽ thành trai đinh hoặc lên lão. Đó là một sự biến đổi sáng tạo về cấu trúc và vai trò của giáp của tinh thần dân chủ công xã của làng Việt.

2 - Tìm hiểu về Hội đồng Kỳ mục

        Hội đồng kỳ mục: Hội đồng kì mục là cơ quan quản lí truyền thống của làng xã người Việt ở đồng bằng, trung du Bắc Bộ. Hội đồng được xác lập vào nửa sau thế kỉ XV, khi Nhà nước phong kiến bỏ chế độ xã quan (quan lại do Nhà nước cử về nắm làng xã). Hội đồng có toàn quyền đối với các vấn đề lớn trong đời sống của làng như sửa đổi và bổ sung hương ước, chia hoặc đấu thầu công điền công thổ, quản lý theo kỳ hạn, đấu giá tài sản và thu chi ngân sách, sửa chữa đình chùa, mở hội, quan hệ với các làng khác... Hội đồng kỳ mục hoạt động không có nhiệm kỳ hạn định và hoàn toàn độc lập với chính quyền nhà nước cấp trên, chính quyền phong kiến cấp xã muốn thực thi các nhiệm vụ của mình phải nhờ sự giúp đỡ của Hội đồng kỳ mục.

        Đứng đầu Hội đồng kỳ mục là một Tiên chỉ, là người có phẩm hàm hay học vị, chức tước cao nhất trước khi về hưu. Khi có người cao hơn thì nhường chức Tiên chỉ cho người đó để trở thành Cựu Tiên chỉ. Dưới Tiên chỉ có Thứ chỉ.

        Tháng 8-1921, nhằm cải tổ cung cách quản lý của làng xã để nắm chặt làng xã hơn nữa, chính quyền thực dân Pháp ở Bắc Kỳ bãi bỏ Hội đồng kỳ mục, thay thế bằng Hội đồng tộc biểu. Song, Hội đồng tộc biểu không đảm đương được nhiệm vụ nên đến năm 1927, thực dân Pháp phải lập lại Hội đồng kỳ mục, làm nhiệm vụ tư vấn cho Hội đồng tộc biểu. Đến năm 1941, Hội đồng tộc biểu bị bãi bỏ, Hội đồng kỳ mục làm nhiệm vụ của Hội đồng tộc biểu, như nó từng tồn tại 20 năm trở về trước.

3 - Các hội khác trong làng xưa

3.1 - Hội Hội tư văn: là những thành viên trong một làng xã học chữ Nho, thường được gọi là hội của những kẻ sĩ dân gian ở làng quê. Sự ra đời của hội tư văn là kết quả của sự phát triển và tiếp thu Nho giáo cả về tư tưởng, văn hóa của các làng xã người Việt mấy thế kỷ trước. Khi đó, trong các làng xã hình thành nên một số đông người học chữ Nho, sau đó là các thế hệ kế tiếp nhau theo Nho học; do nhu cầu tự nhiên của cuộc sống đã làm nảy sinh Hội Tư văn. Ở thế kỷ XVI một số làng xã đã xuất hiện Hội Tư văn. Gốc gác của những người tham gia Hội Tư văn đều học chữ Nho. Họ tập hợp lại cùng sinh hoạt, giống như ngày nay người ta tập trung cùng hoạt động ở một câu lạc bộ chuyên ngành. Tôn chỉ, mục đích của Hội Tư văn là trọng đạo học, đề cao bậc thánh hiền – Khổng Tử và 72 học trò thành đạt của Ngài cùng những bậc tiên hiền đậu đạt ở làng quê. Với tôn chỉ, mục đích cao cả trên, Hội Tư văn đề ra những tiêu chuẩn xét  nhận và thu nạp thành viên riêng. Trước hết, việc kết nạp thành viên nhằm vào những người đã học chữ Nho: Nho sinh, Sinh đồ, Giám sinh, thi đỗ hoặc không thi đỗ. Với tiêu chuẩn xét chọn như vậy, ở một làng nông nghiệp bình thường khi Nho học chưa phát triển thì số thành viên của Hội Tư văn sẽ rất ít. Xét về hình thức, Hội Tư văn không chia lẻ như các giáp. Một làng, một xã cụ thể chỉ có duy nhất một Hội Tư văn. Đứng đầu Hội Tư văn do Văn trưởng hay Hội trưởng Hội Tư văn, do Hội bầu chọn. Hội trưởng là người phải có uy tín, quy định tuổi đời phải từ 35 tuổi trở lên. Hội trưởng chịu trách nhiệm điều khiển các hoạt động của Hội. Giúp việc đắc lực cho Hội trưởng từ cuối thời Lê đến đầu thời Nguyễn là Điển văn, do Hội cử ra. Điển văn lo giữ các giấy tờ, sổ sách của Hội, nhiệm vụ chính là lo văn tế trong các dịp lễ Xuân – Thu, Kỳ an, Kỳ phúc và lễ hội làng hằng năm. Điển văn có thể tham gia soạn tế, hoặc giao cho viên Tả văn lo soạn. Do vai trò đặc thù của Hội Tư văn nên tổ chức nhân sự của Hội gọn nhẹ, đơn giản, gồm Hội trưởng – Điển văn – Tả văn. Khi xem xét vai trò và hoạt động của Hội thông qua hương ước hay khoán ước riêng của Hội sẽ thấy rõ thêm. Vai trò chính của Hội Tư văn là làm chủ tế cho các lễ, tế hay là cầu an của làng xã, chủ tế phải là người hiểu chữ nghĩa, có hiếu hạnh, phu phụ (chồng vợ song toàn), không vướng bụi (không có đại tang). Do hiểu lễ nghĩa Nho giáo nên chủ tế đảm đương từ việc xét duyệt nội dung các kỳ tế Xuân – Thu, Cầu an, Cầu phúc, hội làng và các lễ tiết khác theo nông lịch trong một năm, đồng thời trực tiếp điều khiển hành lễ đúng theo khuôn phép Nho giáo và tập quán truyền thống của làng xã. Các thành viên trong Hội đều được tham dự vào lễ tế tại đình, hoặc ở Văn chỉ. Thành viên Hội Tư văn thường được mời dự lễ hiếu, hỷ ở làng. Sự hiện diện của Hội Tư văn vừa làm hãnh diện cho gia chủ, vừa là thành viên giám sát các lễ thức diễn ra theo đúng tập quán truyền thống. Ngoài việc tham dự tế lễ, Hội Tư văn ở nhiều làng có thành viên tham gia vào bộ máy quản lý làng xã, giữ chức Xã trưởng, Lý trưởng, Khán thủ, Trương tuần hoặc cầm trịch việc hội họp đình trung, hương ẩm, tham gia vào việc khuyến học ở làng. Ở một số làng, Hội Tư văn tham dự Hội đồng sát hạch học trò kỳ thi đầu năm, trước khi sĩ tử tham gia thi hương. Tư văn là thành viên tích cực nhất cỗ vũ và gìn giữ học phong ở làng xã. Những kẻ sĩ Hội Tư văn gắn bó với cuộc sống làng quê, gần gũi dân làng. Họ đem chút kiến thức Nho học để phụng sự đời sống văn hóa tâm linh vốn được lưu truyền ở làng. Có thể coi Hội Tư văn là cột trụ, là chỗ dựa của đời sống tâm linh ít nhiều ảnh hưởng của Nho giáo và ảnh hưởng sâu đậm của tín ngưỡng dân gian nông nghiệp. Tóm lại, trong xã hội làng xã cổ truyền không thể thiếu vai trò của Nho sĩ – trí thức – Hội Tư văn, một tổ chức xã hội khá quy củ và có mặt ở hầu khắp các làng quê với vai trò nổi trội trong đời sống tâm linh, văn hóa nêu trên.

3.2 -Hội  Hương  binh  (Hội    võ):  tập  hợp  những  người  cựu  chiến  binh,  những người lính đã giải ngũ sau một quãng thời gian phục vụ trong quân ngũ nay trở về làng, bất kể họ là lính trơn hay đã thăng hàm Đội trưởng, Ngũ trưởng... đều được vào hội Hương binh. Những người lính đảo ngũ bỏ nhiệm vụ không được mời tham gia Hội. Hội hương binh cũng là một hình thức tổ chức xã hội tự nguyện làng xã. Song, tổ chức có phần lỏng lẻo, những cựu chiến binh có thể tham gia hoặc không tham gia Hội Hương binh. Đứng đầu Hội Hương binh là viên đội trưởng, do cả Hội cử ra để điều hành chung công việc của Hội. Thời hạn làm Hội trưởng kéo dài từ một đến hai năm, tùy theo từng làng xã quy định. Hội Hương binh cũng xây dựng Vũ chỉ - một ngôi nhà giống như Văn chỉ của Hội Tư văn, làm một nơi hội họp, ăn uống khi hữu sự. Tuy vậy, không phải nơi nào cũng có Hội hương binh là nơi đó đều có Vũ chỉ. Hương binh cũng tham gia vào những dịp lễ tế ở đình làng với tư cách là thành viên của các giáp hay thành viên hay các tộc họ. Trong số những cựu chiến binh ở làng xã, nhiều người đã từng tham gia trận mạc vào sinh ra tử, lập được chiến công hiển hách, nên dân làng rất tin tưởng khi họ có chân trong đội tuần đinh, giữ chức Trưởng phiên, Trương tuần. Hội Hương binh được coi là nòng cốt trong việc tuần phòng bảo vệ làng xã. Dĩ nhiên, ngoại trừ nhiều thành viên thành viên của Hội do thành tích phục vụ trong quân ngũ đã được miễn trừ tuần phu, tạp dịch chung thân. Hội gắn bó với nhau không chỉ để nhớ lại những kỉ niệm quân ngũ về những ngày tháng gian khổ và vinh quang, mà điều quan trọng là sự sẻ chia cuộc sống đầy vơi của những thàng ngày còn lại nơi quê nhà. Đối với Hương binh cũng được dân làng cũng được dân làng nể trọng, biểu hiện từ cách xưng hô đến việc chia biếu phần, miễn giảm tạp dịch và vị trí chỗ ngồi xứng đáng ở đình trung. Hương binh – hưu binh, vai trò của Hội dù sao cũng hạn chế. Song, sự góp mặt của Hội khiến bức tranh xã hội của làng quê thêm phong phú sắc màu.

4 - Hương ước của làng xưa và nay

4.1 -Vai trò của hương ước: Hương ước được coi là thiết chế có tác dụng hỗ trợ pháp luật khi Nhà nước chưa kịp ban hành pháp luật hoặc chưa cần thiết sử dụng pháp luật để điều chỉnh, được ví như “cánh tay nối dài” của pháp luật và cùng với pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện các mối quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội. Thực tế, hương ước đang được chính quyền và người dân địa phương xem như một công cụ tham gia vào quá trình quản trị cộng đồng. Vì vậy, hương ước bên cạnh việc nên được cập nhật với tình hình thực tế tại cộng đồng thì cần nhận diện cơ chế đích thực, con người cụ thể từ cộng đồng đóng vai trò chủ chốt để duy trì tập tục, quản trị cộng đồng cũng như hòa giải các vướng mắc.

         Hương ước đã góp phần đưa pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; gìn giữ, phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp của cộng đồng dân cư ở cơ sở; bài trừ các hủ tục lạc hậu; hình thành giá trị chuẩn mực xã hội phù hợp với truyền thống, bản sắc của địa phương; phát huy và mở rộng dân chủ ở cơ sở. Qua việc thực hiện hương ước đã góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nông thôn mới; phát huy quyền tự do, dân chủ ở cơ sở, động viên, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ; giúp nhân dân tham gia, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.

          Nội dung của hương ước gắn với đặc điểm về văn hóa, xã hội của địa phương. Đến nay, việc xây dựng, thực hiện hương ước còn nhằm điều chỉnh, đảm bảo thực hiện tốt các chính sách về dân số, kế hoạch hóa gia đình, giáo dục, khuyến học, y tế, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (rừng, cây trồng...). Đồng thời, trong một số lĩnh vực quản lý, hương ước được coi là một trong các tiêu chí, chỉ tiêu đánh giá kết quả, chất lượng, như: Công nhận gia đình văn hóa, thôn, làng văn hóa; công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Như vậy, có thể khẳng định, hương ước là một công cụ quản lý gián tiếp của Nhà nước trong cộng đồng dân cư. Dù đất nước ta đang ngày một phát triển, bên cạnh công cụ pháp luật để quản lý nhà nước thì vẫn cần tiếp tục xây dựng, duy trì, thực hiện và phát huy hương ước bởi những giá trị của hương ước và nâng cao hiệu quả tự quản của cộng đồng dân cư tại thôn, làng.

4.2 - Những hạn chế của hương ước:

          Trước hết, là tư tưởng cục bộ địa phương, bè phái và những điều khoản của hương ước chỉ liên quan đến công việc, tới tập tục làng xã do vậy nó góp phần tạo ra tâm lý chỉ quan tâm đến lợi ích của làng mình “Ăn cây nào rào cây ấy”, “Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ” ít quan tâm đến quyền lợi của làng khác. Làng với kinh tế tiểu nông tự cung, tự cấp và các tổ chức xã hội riêng, tập tục riêng đã được hương ước thể chế hóa do đó làng xã trong tâm thức của người nông dân là nhất. Thành viên nào cũng mang trong mình và tự hào về điều này. Điều này giải thích tại sao có người nông dân vì danh dự của làng dẫn đến hành động “quá tả” lao vào các cuộc tranh chấp đất đai, cãi vã, ẩu đả tập thể,... thực chất chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp chức sắc, chức dịch trong làng.

          Thứ hai, việc quản lý làng xã bằng hương ước là một trong những cơ sở để hình thành lối sống theo lệ làng không quen sống với pháp luật, thậm chí còn coi thường pháp luật (phép vua thua lệ làng). Nhìn chung người nông dân trong làng ít được trang bị kiến thức về pháp luật và cho đến nay thì điều này vẫn còn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa miền núi dân tộc. Đây là vật cản lớn trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi những nhà quản lý phải có những biện pháp tích cực trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật cho mọi người dân để nâng cao trình độ dân trí.

          Thứ ba, mặt hạn chế của hương ước xưa phải kể đến là việc góp phần làm tăng các hủ tục nặng nề trong đám cưới, đám tang, khao vọng, hội lễ. Một tác động tiêu cực khác từ hậu quả của những hủ tục trong cưới, tang, khao vọng, hội lễ đã tạo ra óc mê tín dị đoan, quá tin vào tôn thờ thế lực siêu tự nhiên; cưới xin chọn ngày chọn giờ, cô dâu chú rể phải so tuổi, tang ma cũng phải xem giờ để nhập quan mai táng, con cái báo hiếu cha mẹ phải coi trọng phần mộ (đến nay tình trạng đô thị hóa nghĩa trang ngày càng phát triển, mọi người đều xây mộ to lấn chiếm cả đất canh tác).

          Từ việc nghiên cứu hương ước xưa, biết được những mặt tích cực của hương ước và những mặt còn hạn chế của nó để vận dụng trong việc xây dựng quy ước văn hoá đó là hướng đi đúng trong việc kế thừa di sản truyền thống của cha ông để lại, biết “gạn đục khơi trong” trong cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, đặc biệt trong việc xây dựng nông thôn mới. Hiện nay việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở gắn với việc xây dựng nông thôn mới và văn hóa nông thôn đang đặt ra nhiều vấn đề cho người nông dân chủ thể của xây dựng nông thôn mới. Rất nhiều mối quan hệ không chỉ trong ứng xử mà còn là việc thực hiện quy định chung về môi trường, cảnh quan, mùa màng, không gian thoáng của hội hè , đình đám, trong các di tích đình, chùa, đền, miếu của làng, bản. Vì vậy từ hương ước xưa, chúng ta học được nhiều điều khi xây dựng quy ước văn hóa hiện nay. Bên cạnh đó, sau khi hoàn chỉnh khâu dự thảo, hương ước, hay các quy ước, lệ tục của làng xã, xóm, bản, thôn cần phải được trình lên cấp chính quyền có thẩm quyền để xem xét và phê duyệt; để từ đó tránh tình trạng “Lệ làng to hơn phép nước”.

Tóm lại:  “Hương ước của các làng xã người Việt để lại là nguồn tư liệu gốc rất quý giá đẻ qua đó tìm hiểu xã hội Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử, nhất là ở nông thôn trong quá khứ cũng như hiện tại, là vốn trí thức dân gian về quản lý cộng đồng, về sử dụng và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên của cha ông để lại mà ngày nay nhiều điều chúng ta cần học hỏi, kế thừa; Là di sản văn hoá mà trong đó chứa đựng các giá trị nhân văn, giá trị văn hoá, nghệ thuật…Việc học tập, kế thừa hương ước cổ truyền xưa để xây dựng quy ước nông thôn mới hiện nay đã và đang là phong trào quần chúng ở các địa phương, được Đảng, nhà nước ủng hộ và chỉ đạo thực hiện”

         Quy định xưa: Từ cách mạng tháng tám năm 1945 trở về trước tụ điểm dân cư nào muốn được nhà nước công nhận là đơn vị hành chính (tưc là thành một làng riêng) phải có đủ những quy định đó là:

-         Có sổ địa bạ

-         Có sổ hương ẩm

-         Có bản hương ước

-         Có đình làng

-         Có Nghè (đền) thờ Thành hoàng

-         Có Hội đồng Kỳ mục (Hội đồng bô lão)

-         Có Hội đồng Ngũ vị Hương (Hội đồng Lý Dịch, Hội đồng của Lý trưởng và 5 ông Hương)

-         Có đồng triện (con dấu bằng đồng)

Sưu tầm từ nhiều nguồn 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét