Cổ nhân
thường nói “người tính không bằng trời tính”, trong lịch sử có rất nhiều bài
đồng dao tiên đoán trước được sự hưng thịnh, diệt vong của một triều đại và họa
phúc của các nhân vật lịch sử.
Trong
lịch sử có rất nhiều bài đồng dao có khả năng tiên đoán các việc đại sự.
Các bài
đồng dao này thường hay xuất hiện vào cuối triều đại và trong thời kỳ loạn thế,
có lẽ là bởi những đứa trẻ ngây thơ dễ truyền đạt ý trời, những lời tiên đoán
dường như nói với mọi người rằng, trong u minh mọi sự sớm đã có an bài.
1. “Nguyệt tương thăng, nhật tương tẩm; yểm hồ
ki phục, thực vong Chu quốc”
“Sử ký
Chu bản kỉ” ghi chép, một ngày nọ vào cuối thời Tây Chu, trên một con đường lớn
tại đô thành Cảo Kinh, Chu Tuyên vương nghe thấy một đám trẻ hò hét: “Hồ ki
phục, thực vong Chu”. Tuyên vương hốt hoảng, cho rằng người bán “Hồ ki phục”
(Bao đựng mũi tên) muốn tạo phản nên đã ra lệnh bắt và giết sạch tất cả những
người bán “hồ ki phục”. Ông đâu biết rằng, ‘Hồ ki phục’ trong bài đồng dao thực
ra là có ý nghĩa khác.
Lúc đó
có một đôi vợ chồng già bán hồ ki phục, để tránh khỏi bị truy bắt đã chạy ra
ngoài thành, bắt gặp một bé gái bị thả trôi sông, họ cảm thấy rất đáng thương,
nên mang về nuôi dưỡng. Cặp vợ chồng già này chạy đến bộ lạc Bao, bé gái này
được tộc người Bao nuôi dưỡng trưởng thành, đặt tên là Bao Tự.
Bao Tự
sau khi trưởng thành xinh đẹp phi phàm, sau đó thủ lĩnh của tộc người Bao vì
muốn cứu đại thần bị Chu U vương giam giữ, liền dùng mỹ nhân kế, dâng Bao Tự
cho U vương. Chu U vương vô cùng sủng ái Bao Tự, chỉ muốn nghĩ cách để lấy lòng
người đẹp. Không biết tại sao, Bao Tự từ lúc sinh ra đã có một đặc điểm kỳ quái
đó là không bao giờ cười, là một mỹ nhân cực kỳ lạnh lùng, vì điều này mà khiến
U vương rất buồn bã.
Lúc đó,
các tháp dầu ở trên núi Lệ Sơn bên ngoài thành chuyên dùng để đốt lửa báo hiệu
khi quân Tây Nhung tấn công, nhằm hiệu triệu các chư hầu đến ứng cứu. Không thể
tùy tiện đốt lửa. U vương vì muốn có được một nụ cười của Bao Tự, mà hạ lệnh
đốt lửa, trêu đùa các chư hầu, Bao Tự thấy trò hề, mặt mày rạng rỡ nở nụ cười.
………………
Sau đó
quân Tây Nhung đến tấn công thật, khi thấy tháp lửa cháy, các chư hầu lại nghĩ
chắc U vương lại giở trò bịp bợm, nên không có phản ứng gì. Chu U vương bị dồn
vào đường cùng phải bỏ chạy, về sau bị quân Tây Nhung giết trên núi Lệ Sơn, Tây
Chu diệt vong. Lời tiên đoán “Hồ ki phục, thực vong Chu” đã ứng nghiệm.
2. “Bình thực”, “Thương dương cổ vũ”
Theo ghi
chép trong “Gia ngữ”, một lần Sở Triệu vương đi thuyền qua sông, thì thấy một
vật hình tròn màu đỏ to bằng cái đầu, từ dưới sông đâm vào thuyền. Các thuộc hạ
trên thuyền liền vớt vật này lên cho Sở vương, Sở vương thấy vô cùng kỳ lạ. Hỏi
các đại thần xung quanh thì không ai biết đó là vật gì. Thế là Sở vương phái
người đến nước Lỗ hỏi Khổng Tử.
Khổng Tử
nói đó là “Bình thực”, tách ra có thể ăn, là đồ tốt, chỉ có bá vương mới có
duyên nhặt được. Các đại phu nước Lỗ nghe được tin này liền hỏi Khổng Tử: “Sao
tiên sinh lại biết?”. Khổng Tử đáp: “Lúc trước ta đi qua nước Triệu, ở một nơi
hẻo lánh có nghe qua một bài đồng dao: ‘Sở vương qua sông nhặt được bình thực,
to bằng cái đầu, đỏ như mặt trời, cắt ra ăn ngọt như mật’. Lần này quả nhiên
ứng nghiệm”.
Ngoài ra
trong “Gia ngữ” còn ghi lại rằng, một lần tại nước Tề, có một con chim một sừng
bay đến trước cung điện rồi giang cánh bay mất. Tề hầu cảm thấy kỳ lạ, liền
phái sứ giả đến nước Lỗ hỏi Khổng Tử.
Khổng Tử
nói: “Con chim này gọi là Thương dương, đại diện cho ‘thủy dương’. Lúc trước
từng có đứa trẻ đứng một chân (mô phỏng hình dáng con chim) vừa nhảy vừa vẫy
hai cánh tay, còn hát rằng ‘Trời đổ mưa to, thương dương cổ vũ’. Bây giờ con
chim này xuất hiện ở nước Tề, ắt hẳn muốn báo cho bách tính phải tu bổ đê điều
kênh mương, để tránh lũ lụt”. Sau đó quả nhiên trời đổ mưa lớn, các nước láng
giềng đều nổi lũ lớn, chỉ có nước Tề có sự chuẩn bị nên tránh được nạn.
4. Vong Tần giả, Hồ dã”
Sau khi
Tần Thủy Hoàng lập nên triều Tần, lúc nào cũng hi vọng giang sơn luôn bền vững,
thiên hạ có thể kéo dài đến ngàn vạn năm. Vậy mà lại vô tình thấy một tấm bia
đá bên trên khắc một lời tiên đoán khiến ông ăn ngủ không yên, đó là “Vong Tần
giả, Hồ dã”.
Lúc đó
quân Hung Nô ở phía Bắc còn rất hùng mạnh, trung nguyên gọi quân Hung Nô là Hồ.
Tần Thủy Hoàng liền coi quân Hung Nô chính là mối họa khiến Tần diệt vong, liền
phái đại tướng Mông Điềm dẫn theo 30 vạn đại quân Bắc phạt Hung Nô để diệt hậu
họa. Mông Điềm đẩy lui quân Hung Nô về phía Bắc, thu lại được phần lớn đất đai
bị mất, xây Vạn Lý Trường Thành, để tránh người Hồ xâm phạm về bờ cõi phía Nam.
Công
trình to lớn đem lại gánh nặng lớn cho bách tính, dân chúng oán thán khắp nơi,
Tần Thủy Hoàng bạo ngược hà khắc. Sau khi Tần Thủy Hoàng bị bệnh mất ở cung Sa
Khâu, Tần Nhị Thế Hồ Hợi lật đổ huynh trưởng để lên ngôi kế vị, còn giết hết
hơn 20 huynh đệ tỷ muội, thực hiện chế độ thống trị tàn bạo. Trong thời Tần Nhị
Thế, các cuộc khởi nghĩa chống Tần nổi lên khắp nơi, triều Tần vì thế mà diệt
vong trong tay Hồ Hợi.
Tần Thủy
Hoàng cho rằng “Hồ” trong “Vong Tần giả, Hồ dã” là người Hồ, mà lại không ngờ
rằng chính là người con trai Hồ Hợi của mình. Đúng là người tính không bằng
trời tính, lời tiên tri đã biến thành sự thật.
5. “Tỉnh thuỷ dật, diệt táo yên, quán ngọc
đường, lưu kim môn”
Thời Hán
Nguyên Đế, có bài đồng dao sau: “Tỉnh thuỷ dật, diệt táo yên, quán ngọc đường,
lưu kim môn”, ý rằng nước giếng tràn, dập khói bếp, tưới ngọc đường, chảy kim
môn. Đến thời Hán Thành Đế tháng ba Mậu Tử, năm Kiến Thủy thứ hai, giếng nước ở
trong Bắc cung dâng trào, sao đó nước giếng tràn ra ngoài chảy về phía Nam.
Nước
giếng, thuộc phần âm; khói bếp, thuộc phần dương; ngọc đường và kim môn là nơi
ở của bậc chí tôn, giống như âm thịnh mà dương suy, cung thất bị xâm lấn đã ứng
nghiệm. Vương Mãng sinh vào năm Hán Nguyên Đế sơ nguyên thứ tư, được Hán Thành
Đế phong hầu, làm Tam công phò tá triều chính, sau đó đã cướp ngôi.
6. “Yến yến vĩ tiên tiên, Trương công tử, thì
tương kiến. Mộc môn thương lang căn, yến phi lai, trác hoàng tôn, hoàng tôn tử,
yến trác thi”
Thời Hán
Thành Đế có bài đồng dao: “Yến yến vĩ tiên tiên, Trương công tử, thì tương
kiến. Mộc môn thương lang căn, yến phi lai, trác hoàng tôn, hoàng tôn tử, yến
trác thi”.
Năm Hán
Gia Hồng thứ ba, Hán Thành Đế cải trang vi hành, ông thường đi cùng Phú Bình
Hầu Trương Phóng, tự xưng là gia nhân của Phú Bình Hầu. Ông đến phủ Dương Hà
công chúa chơi, thấy ca nữ Triệu Phi Yến “nhảy múa xuất thần”, liền triệu bà
vào cung, hết mực sủng ái, thế nên mới có câu “yến yến vĩ tiên tiên” nghĩa là
diện mạo thanh tú xinh đẹp.
“Trương công tử”, ý chỉ Phú Bình Hầu. “Mộc môn
thương lang căn”, ý chỉ tiền bạc trong cung, tương lai sẽ có được sự tôn quý.
Về sau, Triệu Phi Yến được lập làm hoàng hậu. Em gái của bà là Triệu Chiêu Nghi
giết hại hoàng tử hậu cung, sau đó tự sát, đó chính là “yến phi lai, trác hoàng
tôn, hoàng tôn tử, yến trác thi”.
7. “Thiên lý thảo, hà thanh thanh”
Theo ghi
chép trong “Hậu Hán thư”, đầu năm nguyên niên Hán Hiến Đế, trong thành Trường
An lan truyền bài đồng dao: “Thiên lý thảo, hà thanh thanh. Thập nhật bốc, bất
đắc sinh”. Thoạt đầu rất khó để hiểu được ý nghĩa câu này.
“Thiên
lý thảo” thực ra là “Đổng” (董), “Thập nhất bốc” là
“Trác” (卓), bài đồng dao này nhắc đến Đổng
Trác, bất luận cụm từ “thiên lý thảo” hay “thập nhật bốc” đều được chơi chữ từ
dưới lên trên, không giống với cách chơi chữ thông thường là từ trên xuống dưới,
ẩn ý rằng Đổng Trác sẽ từ hèn mọn leo lên cao, phận bề tôi mà chèn ép vua.
“Thanh
thanh” ý là bộc phát, ám chỉ Đổng Trác hung bạo lạm quyền, nhưng lại thất bại
nhanh chóng, rơi vào kết cục bi thảm. Vì Đổng Trác ngông cuồng lộng hành nên đã
dẫn đến cuộc thảo phạt giữa các chư hầu, cuối cùng bị con nuôi của ông là Lữ Bố
giết chết.
7.“Bát cửu niên gian thuỷ dục suy, chí thập
tam niên vô kiết di”
Những
năm đầu Kiến An thời Hán Hiến Đế, tại Kinh Châu có bài đồng dao: “Bát cửu niên
gian thuỷ dục suy, chí thập tam niên vô kiết di” (tạm dịch: Tám chín năm bắt
đầu suy bại; đến 30 năm không còn lưu lại gì). Ý chỉ rằng triều Hán từ phong
trào phục hưng đến nay, chỉ có Kinh Châu là có thể được bảo toàn.
Sau khi
Lưu Biểu đến nhậm chức tại Kinh Châu, thì bách tính vẫn có thể sống an lạc vui
vẻ, nhưng đến năm Kiến An thứ 9 thì bắt đầu suy bại. Cái gọi là bắt đầu suy
bại, là chỉ từ sau khi vợ con của Lưu Biểu chết, các tướng lĩnh cũng lưu lạc
suy vong. Còn 30 năm không có gì lưu lại, là chỉ Lưu Biểu chết, Kinh Châu cũng
lụi tàn.
Lúc đó
huyện Hoa Dung có một người phụ nữ, bỗng nhiên khóc lóc than rằng: “Sắp có đại
tang”. Vì lời lẽ kém may mắn, nên huyện lệnh cho rằng đây là những lời tà
thuyết mê hoặc quần chúng, liền bắt vào ngục. Hơn một tháng sau, trong ngục bà
ta lại khóc lóc nói: “Lưu Biểu và Kinh Châu hôm nay đã tận số”.
Hoa Dung
cách Kinh Châu mấy trăm dặm, huyện lệnh lập tức phái người cưỡi ngựa đi kiểm
chứng, quả nhiên Lưu Biểu đã chết. Vậy nên huyện lệnh thả bà ta ra. Bà ta tiếp
tục ca hát: “Không ngờ Lý Lập là quý nhân”. Không lâu sau, Tào Tháo bình định
Kinh Châu, để Lý Lập, tự là Kiến Hiền người quận Trác Châu làm Thích sử Kinh
Châu.
8.“Tam công quy vu Tư Mã”
Nước
Đông Ngô lực không mạnh, Ngô vương không tín nhiệm bộ hạ, bố trí bắt giữ vợ con
của các vị tướng lĩnh trấn giữ biên cương làm con tin ở hậu phương. Hàng ngày
có mười mấy đứa trẻ cùng cảnh ngộ chơi đùa cùng nhau.
Tháng 2
năm Vĩnh An thứ ba thời Tôn Hưu, một hôm, có một đứa trẻ khoảng 6, 7 tuổi, mặc
áo màu xanh đột nhiên đến chơi đùa với đám trẻ này. Đám trẻ không biết cậu ta,
đều hỏi: “Ngươi là con cái nhà ai vậy, sao hôm nay lại đột nhiên tới đây?”. Cậu
bé đáp: “Thấy các ngươi chơi vui vẻ, nên ta cũng đến đây chơi!”
Mọi
người nhìn kĩ cậu ta, thì thấy đôi mắt cậu ta phát ra tia sáng rực rỡ. Đám trẻ
sợ hãi vội vã hỏi lại. Cậu bé đáp: “Các ngươi sợ ta không? Ta không phải là
người Trái Đất, ta là người sao Hỏa, ta có lời muốn nói cho các ngươi biết: Tam
công quy vu Tư Mã”, ý rằng thế cục Tam quốc sẽ rơi vào tay nhà Tư Mã.
Đám trẻ
hoảng sợ, có đứa chạy đi mách với người lớn, người lớn vội chạy đến xem chuyện
gì xảy ra. Cậu bé nói: “Ta đi đây”! Rồi nhún vai bay lên không trung. Mọi người
ngẩng đầu nhìn theo, thấy hình như cậu ta túm lấy một mảnh vải để đu lên trời.
Mấy người đang chạy tới vẫn nhìn thấy. Cậu ta dần dần bay lên cao, một lúc sau
thì biến mất.
Lúc đó
pháp lệnh của nước Ngô vô cùng hà khắc, mọi người không dám kể chuyện này ra.
Bốn năm sau nước Thục diệt vong, sáu năm sau nước Ngụy bị họ Tư Mã phế bỏ, 21
năm sau nước Ngô bị Tư Mã Viêm đánh chiếm, Tam Quốc thống nhất quy về triều Tấn
của họ Tư Mã.
9.“Hoàng chương ca”
Kể từ
những năm Như Ý thời Võ Tắc Thiên, trong dân gian lưu truyền bài ca “Hoàng
chương ca”, lời bài hát là: “Hoàng chương hoàng chương thảo lý tàng, loan cung
xạ nhĩ thương” (Tạm dịch: hoẵng vàng hoẵng vàng ẩn núp trong đám cỏ, bị người
giương cung bắn trọng thương). Không lâu sau tộc Khiết Đan nổi dậy, giết chết
Đô đốc Triệu Hội, doanh trại và phủ Đô đốc đều bị người Khiết Đan chiếm giữ.
Triều
đình ra lệnh cho bốn người là tổng quản Tào Nhân Sư, Trương Huyền Ngộ, Ma Nhân
Tiết, Vương Hiếu Kiệt, thống lĩnh hơn một trăm vạn binh mã đi thảo phạt, tất cả
đều bị người Khiến Đan đánh bại. Bọn họ dẫn quân bại trận lui về khe Hoàng
Chương, nhưng hết thảy đều bị người Khiết Đan giết sạch, không một ai chạy
thoát. “Hoàng Chương ca” đã ứng nghiệm.
10. “Dương liễu dương liễu mạn đầu đà”.
Sau năm
Vĩnh Thuần đời Đường Trung Tông, thiên hạ ngâm nga hát: “Dương liễu dương liễu
mạn đầu đà”. Sau đó xảy ra sự kiện Từ Kính Nghiệp, đầu tiên là ông nhậm chức Tư
Mã ở Liễu Châu, tiếp đến là ngụy tạo thánh chỉ của hoàng đế, tự bổ nhiệm mình
là Tư Mã Dương Châu, giết chết Trưởng sử Trần Kính, chiếm cứ một vùng Giang
Hoài để tạo phản. Triều đình phái Lý Hiếu Dật đi thảo phạt, chặt đầu Từ Kính
Nghiệp, dùng ngựa thồ về Lạc Dương. Chuyện này đã nghiệm chứng câu ca “Dương
liễu dương liễu mạn đầu đà”.
11.“Khả liên an nhạc tự, liễu liễu thụ đầu
huyện”
Trong
những năm Cảnh Long thời Đường Trung Tông, công chúa An Lạc dâm lạc vô độ, đã
dùng ngân lượng quốc khố để xây dựng phủ của mình một cách xa hoa phung phí,
trong phủ mới hào hoa còn xây An Lạc tự nguy nga đồ sộ, tiêu tốn mấy trăm vạn
lượng bạc trắng. Lúc đó có lưu truyền bài đồng dao: “Khả liên an nhạc tự, liễu
liễu thụ đầu huyện” (tạm dịch: Thảm thương An Lạc tự, thủ cấp treo đầu cây).
Sau đó, Đường Huyền Tông giết bè lũ Vi hoàng hậu, đồng thời giết công chúa An
Lạc, rồi mang đầu treo trên sào tre, và gọi bà là “tà đạo thứ dân”.
12.“Bát nguyệt vô sương tắc thảo thanh”
Trong
những năm Hi Tông triều Đường, thành Trường An lưu truyền bài đồng dao: “Bát
nguyệt vô sương tắc thảo thanh, tướng quân kỵ mã xuất không thành. Hán gia
thiên tử tây tuần thú, do hướng giang đông canh tác binh”. Lúc đó, Hoàng Sào
đang nổi loạn, Đường Hi Tông cả ngày buồn bã không vui. Nghe thấy bài đồng dao
này, mặc dù không hiểu rõ nghĩa, nhưng cũng biết rằng không phải điềm lành.
Theo lý
giải trong sử sách, “Bát nguyệt vô sương tắc thảo thanh” là nói cỏ vẫn chưa úa
vàng (Hoàng), ám chỉ rằng vẫn chưa gặp Hoàng Sào, đợi thêm một thời gian nữa,
gặp sương sẽ úa vàng, lúc đó sẽ gặp Hoàng Sào. “Tướng quân kỵ mã xuất không
thành” ngầm khuyên Hi Tông phải lập tức trốn khỏi thành Trường An. “Hán gia
thiên tử tây tuần thú, do hướng giang đông canh tác binh” chính là tiên đoán
sau khi Hi Tông trốn về Tứ Xuyên, phái sứ giả đến Giang Đông điều binh cứu giá.
13.“Mạc trục yên, trục yên nhật cao phi, cao
phi thượng đế kỳ!”
Sau khi
Minh thái tổ Chu Nguyên Chương mất, cháu của ông là Kiến Văn Đế kế vị, đồng
thời bắt tay thực hiện chính sách ‘tước phiên’ để củng cố thế lực cho bản thân.
Sau khi trừ khử mấy phiên vương có thế lực nhỏ bé, liền chĩa mũi nhọn về Yên
vương Chu Lệ – người nắm giữ trọng binh.
Chu Lệ
đảm nhiệm trọng trách đầy lùi quân Mông Cổ, là một phiên vương có ảnh hưởng
lớn, nhưng lần này, mặc dù đã giả điên nhưng vẫn không tránh khỏi tước phiên.
Cuối cùng Yên vương Chu Lệ đã khởi binh đánh bại Kiến Văn Đế, tấn công Nam
Kinh, làm hoàng đế.
Trong
thời gian Kiến Văn Đế thực hiện chính sách tước phiên, từng có một đạo sĩ điên
hát ngâm nga trên đường, “Mạc trục yến, trục yến nhật cao phi, cao phi thượng
đế kỳ!”. Sau khi chuyện kết thúc mọi người mới vỡ lẽ rằng, “Mạc trục Yên” là
chỉ không được bức ép Yên vương, nếu không Yên vương ắt sẽ đạt được vị trí cao,
cuối cùng làm hoàng đế. Đó chính là ý nghĩa của cụm “trục yên nhật cao phi, cao
phi thượng đế kỳ”.
Tuệ Tâm, theo SOH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét