Trích "Một trăm ngày trước tuổi hai mươi"
Chúng tôi đào hào ở thao trường. Tuy nằm
trong thung, nhưng đất đầy sỏi đá. Ngay lớp đất trên bề mặt đã cứng đơ. Không
dùng cuốc. Chỉ có xẻng. Mà xẻng bộ binh chỉ nhỉnh hơn bàn tay. Không dùng cuốc,
vì khi hành quân, mang theo cuốc, cồng kềnh lắm. Xẻng nào sục vào đất đồi được?
Nhưng cứ phải đào. Thổ nhưỡng ở đây không có nhiều tầng đất. Chỉ một lớp cứng
đanh. Nước mưa khó thấm . Đình nói:’’ Đúng là đất, chó ăn đá, gà ăn sỏi’’. Ông
Cự bảo: “Đất biên giới còn cằn cỗi hơn. Cho mẹ nó Trung Quốc, giữ làm gì!’’.
Ông Đông nghiêm giọng:’’Các anh đã lên ải Chi Lăng chưa? Đúng, đất biên giới
còn cằn hơn nơi đây. Nhưng đất đó, đã nhiều lần thấm máu tiền nhân. Và bây giờ,
lính tráng vẫn căng mình giữ. Nếu không
giữ cái vùng đất cằn khô ấy, chúng ta không có mái nhà mà chui vào đâu’’. Hai
bàn tay phồng rộp. Bắt chước mọi người, cầm cán xẻng nóng rẫy, tôi nhổ nước bọt
vào lòng bàn tay, xoa cho đỡ rát. Nhưng chỉ được lúc đó. Tối về, hai bàn tay
sưng mọng. Từng bọng nước nổi lên. Thằng Cần phải dùng kim băng, chọc vào cho
vỡ. Rát như phải bỏng.
Đào đến ngày thứ hai, chúng tôi phát hiện
nhiều đầu đạn, cát-tút chìm sâu trong đất. Tôi nhặt chiếc cát-tút, lau sạch
đất, cầm lên ngắm. Dù đã han gỉ nhưng
mầu đồng vẫn vàng sậm. Chắc lớp lính trước cũng luyện tập ở đây. Họ đã đi vào
Tưởng đào hào dễ. Lính tráng đào một đường
thẳng, dài chừng 50 mét, sâu chỉ chừng 40-50 phân. Ông Ngũ đi kiểm tra, chửi
rầm trời: “Ai dạy các anh đào hào thẳng thế này? Nếu một quả pháo nổ trong hào,
các anh chết ngóm cả lũ khi chưa kịp bắn phát nào. Hiểu chưa ? Đường hào thẳng thế này, khi bọn địch chiếm
được, chúng bắn tan xác các anh ngay tức khắc. Các anh có chỗ nào ẩn nấp không?
Có chỗ nào chui vào để bắn lại không?
Đào lại. Đào lại. Chữ chi. Chữ chi. Zic-zac. Zic-zac. Hiểu không hả lũ
vịt giời ? Đào sâu xuống. Ít nhất là một mét. Có chỗ sâu mét sáu, mét bẩy. Hiểu
không? Còn hàm ếch nữa. Khoét sâu vào
thân hào. Cách năm – bẩy mét lại có một
ụ súng. Cho RPD, cho đại liên, cho B.40 làm giá. Nhớ chưa? Trời ơi! Tiên sư các
ông lính công tử ! Tôi không dạy các ông bây giờ, ra chiến trường, địch sẽ dạy
các ông! Mà lúc đó, các ông thành ma rồi, biết chưa ?’’Ông Ngũ gân cổ chửi. Cái
cổ nhỏ xíu. Hai đường gân xanh nổi lên, đỡ lấy cái đầu hói. Trông rất tức cười.
Giọng ông lại the thé nên lính không sợ. Khánh nhẹ nhàng:’’ Bọn em tưởng chỉ
đào làm ví dụ cho vui !’’ –‘’ Vui vui cái gì? Đừng đùa với cái chết. Tôi nói
với các ông, sinh mạng mình chỉ có một. Bản thân tôi đây, sáu năm lính trận.
Tôi còn vác được cái gáo về, chỉ nhờ vào mỗi việc, chăm đào hào. Mấy thằng bạn
tôi, lười. Chết ráo cả! Làm đi !’’- Ông
Ngũ quay đi, Cự nói:’’ Mẹ, mấy bố chỉ giỏi dọa. Hầm hào là lý thuyết hết. Ra
chiến trường, có người có ta. Đồng đội che chở cho nhau chứ!’’ Ông Ngũ quay
lại:’’ Này, anh đừng lý tưởng hóa hai chữ ‘’đồng đội’’ nhé! Lúc ấy, chết đến
đít. Mặc ai nấy chạy. Rúc vào đâu cho kín cái đầu mình, kín cái mông mình là
cầm chắc mạng sống. Ai che chở cho mình?
Cây à? Bọn địch cứ nhằm vào cây mà rện. Xác mình bay tung. Không có mỏm
đá nào đâu. Chỉ có đất. Đất che chở cho mình. Che thân hình mình. Che nỗi khiếp
sợ của mình. Một hốc nhỏ thôi. Rúc đầu vào đấy.
Hai tay ôm lấy thủ. Thầm khấn tổ tiên che chở cho mình. Lúc ấy, hốc đất
là mẹ, là ông và ông vải. Lúc ấy, để hết cơn hoảng sợ, để có thêm sức lực, các
ông hãy dí sát mũi vào đất. Hít một hơi thật dài. Đất sẽ cho các ông sự can
đảm. Tôi nói thật ! Các ông hãy yêu đất. Mình đối xử với đất thế nào, đất
sẽ đối xử với mình như thế !’’ Giọng
nghiêm túc của ông Ngũ không thấm vào bọn tân binh. Khánh giễu cợt :’’ Triết lý nông dân’’. Thằng
Tới tung cái xẻng lên, lưới xẻng cắm xuống đất, giọng đùa cợt:’’ Từ cát bụi
sinh ra lại trở về cát bụi!’’ Thằng Sơn nghêu ngao:’’ Hạt bụi nào hóa kiếp thân
tôi/ Để một mai tôi về làm cát bụi/ Ôi! Cát bụi mệt nhoài.
Thao trường đầy cỏ. Cỏ tranh, cỏ
may, có gấu, có chân gà, cỏ mần trầu, cỏ
mật v.v…Chúng tôi đi trên cỏ,
ngồi trên cỏ, nằm trên cỏ, ngả mình trên cỏ nhìn trời xanh. Cỏ ôm lấy chúng
tôi, đùa giỡn, vỗ về, an ủi chúng tôi. Bệ bắn là những ụ đất đầy cỏ, Chúng tôi
kê AK lên cỏ. Lá cỏ cứa ram ráp vào má. Hơi ngứa ngứa, buồn buồn. Mong manh như
lá cỏ mà cũng dày đặc như lá cỏ. Ngày mai vào chiến trường, cỏ sẽ che chở cho
chúng tôi.
Từ ngày có hơi người, hình như, cỏ mọc nhanh
hơn. Những lá cỏ non nhọn hoắt, đâm vào da thịt, không đau mà dễ chịu. Sau một
ngày bị lính tráng quần nát, cỏ nhầu đi. Nhưng sáng mai, gặp chúng tôi, cỏ lại
tươi vui, hồi sinh, lại mượt mà, xanh mướt.
Cũng có những ngày , chúng tôi dùng liềm
phạt cỏ. Lá cỏ rụng xuống, héo dần, se lại. Nhưng từ những nắm cỏ se se ấy,
chúng tôi ngửi thấy mùi thơm . Một mùi thơm với rất nhiều hương. Vừa nồng nàn
vừa hoang dại; vừa có hương của
rừng vừa có vị của đất trung du. Và tôi
đã thèm, đã thử. Trong khoảnh khắc, hãy biến mình thành con dê, con bò, thử
nhai cỏ xem sao.
Có những lúc, chúng tôi phải cắt cỏ. Nhưng
ít ngày sau, cỏ lại mọc lên. Tinh khôi. Thanh mảnh. Như chưa từng đau đớn. Có
những ngày, vì công việc, chúng tôi phải cuốc cỏ lên. Những rễ, những mầm cỏ
trắng ngà, bật tung, lộn ngược. Nhưng ít ngày sau, từ những rễ, những mầm bị
cắt ấy, những ngọn cỏ lại bật ra, nhú lên. Tôi nhìn cái mầm nhỏ nhoi ấy mà lòng
đầy cảm phục.
Và có những chiều, chúng tôi phải đốt cỏ.
Lửa cháy đùng đùng trên cỏ. Thân cỏ cháy, nổ lep bép. Và những đống than ân ỉ
cháy trên cỏ. Nhưng chỉ sau một trận mưa, chính chỗ đất ấy, chính chỗ cỏ ấy,
những ngọn xanh nhọn hoắt lại tua tủa mọc lên. Tôi thầm hỏi: cỏ ơi, mày là ai
mà sức sống bền bỉ vậy ?
Rồi những phút giải lao, bứt cọng cỏ may,
đưa lên miệng ngậm, mắt nhìn xa xăm. Thằng lính trẻ mười tám tuổi trông như nhà
hiền triết. Nếu lộn ngược số tuổi, chúng tôi như những ông lão ngoài tám mươi.
Đúng là chúng tôi già. Già nua. Già cỗi.
Nhưng chúng tôi không thích nói chuyện tuổi già. Nó lừng khừng. Không hành động.
Trong khi đó, trên vành mũ, hầu như đứa nào cũng viết đậm dòng chữ:’’ Một xanh
cỏ - hai đỏ ngực’’. Đấy là thái độ sống
, thái độ chết của chúng tôi. Phải chăng, đời lính đơn giản thế ? Nói vậy thôi.
Đỏ ngực cũng chẳng để làm gì. Đất nước này, dân tộc này, chiến tranh dài đằng
đẵng. Nhà nào chẳng có con em đi lính.
Nhà nào chẳng có nơi thờ liệt sỹ. Ai trở
về chẳng có huân chương. Đeo làm gì cho nặng người, cho rách áo. Tự hào với ai
? Hãnh diện với ai? Bố tôi, có cái huy hiệu ‘’Chiến sỹ Điện Biên’’. Mấy khi ông
đeo? Để trong tủ, mốc xanh. Tôi thấy thế, lại càng kính trọng ông hơn.
Và sim. Sao nhiều sim thế ? Dẫu chúng tôi
đến đây vào mùa thu, hoa sim vẫn còn rải rác. Cái mầu tím ma mị đã làm bồn chồn
thương nhớ các thế hệ cha anh, từ kháng Pháp sang chống Mỹ, giờ lại làm xao
xuyến thế hệ chúng tôi. Và trái sim đã
chín Càng vào sâu phía trong chân núi càng nhiều. Thằng Cần phát hiện ra điều
này. Chiều chiều, sau khi tập xong, nó lại rủ tôi vào chân núi. Tha hồ chén
sim. Có những lần, rúc vào bụi rậm, vớ được bụi sim, quả mọng như trái nhót.
Chín rục. Thâm đen. Nhỏ dãi. Cho vào miệng. Vị ngọt tan ra, thấm vào lưỡi. Ngọt
lịm cả thân hình nặng hơn bốn chục cân. Một cây sim cằn khô nhưng đã cho tôi
tất cả vị ngọt lành thơm ngon nhất của nó. Giữa chúng tôi và những cây sim ,
nào có quen biết gì, nào có họ hàng gì, mà sao chúng đãi chúng tôi hào phóng
thế? Thiên nhiên là gì ? Đâu có phải bầu
trời cao rộng, đâu có phải là những dãy núi điệp trùng, nó chỉ là một gốc sim
cằn, lặng im ẩn mình bên chân núi. Nhưng đã bao ngày, mưa ngập thung và nắng
cháy lá cành, nó lặng lẽ hút hương vị của đất, nở ra hoa thơm cho loài ong, kết
thành trái ngọt cho con người. Cảm nhận điều bé nhỏ này, đất nước, quê hương tự
thấm vào mình bằng dáng hình và hương thơm cụ thể nhất.
ĐOÀN TUẤN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét