XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

Thiên Nga Đen 1

Thiên Nga Đen
Lời Bạt

Thiên nga đen là một biến cố tưởng chừng như không thể xảy ra với ba đặc điểm chính: không thể dự đoán, có tác động nặng nề và sau khi nó xảy ra, người ta dựng lên một lời giải thích để khiến nó ít ngẫu nhiên hơn, dễ dự đoán hơn bản chất thật của nó. Thành công bất ngờ của Google có thể xem là một “thiên nga đen”; sự kiện 11/9 cũng vậy. Với Nassim Nicholas Taleb, “thiên nga đen” ẩn chứa hầu như mọi điều về thế giới này, từ sự trỗi dậy của tôn giáo đến những biến cố trong cuộc sống của chính chúng ta.

Vì sao chúng ta không nhận thấy những hiện tượng “thiên nga đen” mãi đến sau khi chúng xảy ra? Theo Taleb, một phần là vì con người chúng ta tự trói buộc mình vào những chi tiết trong khi lẽ ra nên tập trung vào cái tổng quát. Chúng ta tập trung vào những gì đã biết trong khi hết lần này đến lần khác bỏ qua những thứ mình chưa biết. Do đó, chúng ta không thể đánh giá được các cơ hội, không thể kháng lại xu hướng đơn giản hóa, tường thuật và phân loại, và không đủ phóng khoảng để tưởng thưởng cho những ai có thể hình dung được “những cái không thể”.

Tinh tế, bao quát và đầy kinh ngạc, Thiên Nga Đen sẽ thay đổi cách nhìn của bạn về thế giới. Taleb thực sự là tác giả của thể loại sách khai trí với những câu chuyện dí dỏm, ngông cuồng và khác thường. Ông là người có kiến thức uyên thâm trong nhiều lĩnh vực, từ khoa học nhận thức, kinh doanh cho đến lý thuyết xác suất. Thiên Nga Đen là cuốn sách mang tính bước ngoặt - bản thân nó chính là một “thiên nga đen”.

BÌA GẬP 2

NASSIM NICHOLAS TALEB đã dành cả đời mình theo đuổi các vấn đề về may rủi, bất định, xác suất và tri thức. Vừa là một nhà văn tiểu luận, vừa là một người theo chủ nghĩa thực nghiệm, vừa là một nhà giao dịch chứng khoán bằng phương pháp toán học, hiện ông là Chủ nhiệm khoa Các môn khoa học về tính bất định tại Đại học MassachusettsAmherst. Cuốn sách gần nhất của ông, Fooled by Randomness (Điên vì tình cờ), đã được xuất bản bằng 20 thứ tiếng. Taleb hầu như chỉ sống ở New York.

BÌA 4

“Một kiệt tác”.

- Chris Anderson, Tổng Biên tập Tạp chí Wired, tác giả cuốn “The Long Tail”

“Một cuốn sách mới vô cùng hấp dẫn… Thiên Nga Đen có cách dẫn truyện rất lôi cuốn với tham vọng đáng khâm phục”.

- The New York Times Book Review

“Phong cách riêng của một thiên tài”.

- Niall Ferguson, Los Angeles Times

“Một nội dung phê bình hấp dẫn và đầy thách thức… Tôi bị chinh phục bởi lối kết hợp ‘vượt ra ngoài khuôn khổ’ về các thử nghiệm tư duy, các câu chuyện về nhận thức luận của tác giả tài ba này”.

- Edward O. Thorp, tác giả cuốn “Beat the Dealer”

“Một suy ngẫm nghiêm túc về thế giới đương đại”.

- The Daily Telegraph

“Nassim Taleb thách thức độc giả chúng ta dám đứng ra chỉ trích những tay chuyên gia dởm… Hãy đọc cuốn sách này”.

- Philip E. Tetlock, tác giả cuốn “Expert Political Judgment”

Thiên Nga Đen
Phần Mở Đầu: Xoay Quanh Bộ Lông Chim

Trước khi phát hiện ra nước Úc, cư dân của Cựu Lục Địa vẫn tin rằng tất cả các thiên nga đều có bộ lông màu trắng. Niềm tin vững chắc ấy dường như được chứng thực hoàn toàn dựa trên bằng chứng thực tế. Vì vậy, việc lần đầu tiên nhìn thấy thiên nga đen có thể là điều bất ngờ thú vị đối với một số nhà điểu cầm học (hay những người đạc biệt quan tâm đến màu lông của các loài chim), nhưng đó không phải là ý nghĩa cốt lõi của câu chuyện. Vấn đề tôi muốn nêu ra ở đây chính là những hạn chế trong việc học hỏi từ quan sát hoặc kinh nghiệm cũng như sự mong manh của kiến thức loài người. Chỉ cần một quan sát đơn lẻ cũng có thể bác bỏ lối khẳng định chung bắt nguồn từ hàng nghìn năm trước xoay quanh những dấu hiệu tồn tại đầy xác thực của hàng triệu con thiên nga trắng. Tất cả những gì bạn cần là duy nhất một con thiên nga đen 1 (và tôi được biết, nó rất xấu xí).

Tôi cố gắng chuyển câu hỏi mang tính lôgic - triết học này - điều từng ám ảnh mình từ thuở nhỏ - thành trải nghiệm thực tế. Ở đây, yếu tố mà chúng ta gọi là Thiên Nga Đen (được viết hoa) chính là một biến cố với ba thuộc tính sau.

Thứ nhất, đây là một biến cố ngoại lai, không thuộc phạm vi những mong đợi thông thường bởi không có bằng chứng thuyết phục nào trong quá khứ có thể chỉ rõ khả năng xảy ra của biến cố này. Thứ hai, nó có tầm ảnh hưởng vô cùng lớn. Thứ ba, bất kể trạng thái ngoại lai của nó, bản chất con người luôn khiến chúng ta đưa ra những lời giải thích sau khi sự việc xảy ra, khiến nó trở nên rõ ràng và có thể dự đoán được.

Tôi muốn dừng lại một chút để tổng kết bộ ba thuộc tính này: hiếm khi xảy ra, ảnh hưởng cực lớn, và có thể dự đoán được khi hồi tưởng lại quá khứ (chứ không phải hướng đối tương lai) 2. Vì vậy, chỉ cần một lượng nhỏ các yếu tố Thiên Nga Đen là có thể giải thích được gần như mọi điều trong thế giới của chúng ta, từ thành công của các ý tưởng và các tôn giáo cùng động lực của các sự kiện lịch sử cho đến cả những yếu tố cấu thành cuộc sống riêng tư của mỗi người. Kể từ sau kỷ Pleistocene, tức một vạn năm về trước, ảnh hưởng của những yếu tố Thiên Nga Đen này không ngừng tăng lên. Nó đã bắt đầu tăng vọt lên trong suốt cuộc cách mạng công nghiệp khi thế giới bắt đầu trở nên phức tạp hơn, còn những sự kiện thông thường mà chúng ta nghiên cứu, thảo luận hay cố gắng dự đoán dựa trên thông tin thu thập được từ báo chí đang ngày càng trở nên nhỏ bé.

Hãy tưởng tượng xem, làm sao mà vốn hiểu biết ít ỏi về thế giới trước thềm của những sự kiện xảy ra trong năm 1914 lại có thể giúp bạn đoán được điều gì sắp xảy ra. (Đừng trả lời tôi bằng những cách giải thích mà các giáo viên trung học đã từng gieo vào đầu bạn). Đâu là căn nguyên của Hitler và cuộc chiến diễn ra sau đó? Do đâu mà khối Xô Viết bị tan rã?

Khởi nguồn của trào lưu chính thống Hồi giáo? Rồi sự bùng nổ của Internet? Và đâu là gốc rễ của sự sụp đổ thị trường năm 1987 (cũng như quá trình phục hồi đầy bất ngờ của nó)? Các trào lưu, dịch bệnh, thời trang, sự nổi lên của các trường phái nghệ thuật và trường đào tạo nghệ thuật. Tất cả đều xuất hiện sau những động lực mang yếu tố Thiên Nga Đen này. Quả thực, mọi thứ quan trọng xung quanh bạn đều có khả năng ẩn chứa yếu tố này.

Sự kết hợp giữa khả năng dự đoán thấp và sức ảnh hưởng lớn khiến yếu tố Thiên Nga Đen trở thành một câu hỏi lớn, tuy nhiên, đó chưa phải là vấn đề cốt lõi của cuốn sách này. Thực tế còn cho thấy chúng ta có xu hướng hành động như thể hiện tượng này không hề tồn tại. Ý tôi không phải chỉ có bạn, người nhà của bạn hay tôi, mà hầu như tất cả các “nhà khoa học xã hội” - những người, mà hơn cả trăm năm qua, đã bám theo một niềm tin sai lầm rằng các công cụ của họ có thể đo lường được sự bất định. Vì việc áp dụng các môn khoa học về sự bất định để giải quyết các vấn đề của thế giới thực đã tạo ra những hiệu ứng nực cười. Tôi có vinh dự được chứng kiến điều này trong ngành tài chính và kinh tế học. Hãy thử yêu cầu nhà quản lý danh mục vốn đầu tư của bạn định nghĩa “rủi ro” và tôi dám chắc anh ta sẽ cung cấp cho bạn biện pháp nhằm loại trừ yếu tố Thiên Nga Đen - mà như thế thì chẳng khác gì giá trị dự đoán những rủi ro toàn diện của ngành chiêm tinh học (rồi ta sẽ thấy làm cách nào các nhà khoa học này có thể ẩn mình dưới lớp vỏ trí thức nhờ toán học). Đây là căn bệnh trầm kha trong các vấn đề xã hội.

Ý tưởng trọng tâm của cuốn sách này nói về sự mù tịt của chúng ta về tính ngẫu nhiên, đặc biệt là những độ lệch lớn: Vì sao chúng ta, dù có là nhà khoa học hay không, là người nổi tiếng hay dân thường, đều đủ nhìn thấy được những đồng xu thay vì đồng đô-la? Vì sao chúng ta toàn chú trọng vào những chi tiết vụn vặt mà không quan tâm tới bằng chứng rõ ràng về ảnh hưởng to lớn của các sự kiện tầm cỡ mang tính trọng đại có thể xảy ra? Và, nếu chấp nhận lập luận của tôi thì tại sao việc đọc báo lại thực sự làm giảm kiến thức của bạn về thế giới?

Dễ nhận thấy rằng cuộc sống là kết quả tích lũy của nhiều cú sốc lớn. Và cũng không quá khó để nhận diện được vai trò của các yếu tố Thiên Nga Đen khi thả mình suy ngẫm trong một chiếc ghế bành (hay bên quầy rượu). Hãy thực hiện bài tập sau bằng cách xem xét sự tồn tại của chính bạn. Hãy tính đến những sự kiện trọng đại, những đổi mới công nghệ và những phát minh từng xuất hiện trong môi trường của chúng ta từ khi bạn sinh ra, rồi đem so sánh với điều được con người mong đợi trước đó. Có bao nhiêu trong số chúng xuất hiện theo dự tính? Hãy nhìn lại cuộc đời của chính bạn, chẳng hạn như việc lựa chọn nghề nghiệp, gặp bạn đời, tha phương cầu thực, sự phản bội, sự giàu có hoặc nghèo khổ. Những sự kiện ấy xảy ra theo kế hoạch đến mức nào?

Điều bạn chưa biết
Logic theo yếu tố Thiên Nga Đen khiến cho điều bạn chưa biết trở nên đáng giá hơn rất nhiều so với điều đã biết. Hãy cân nhắc rằng, nhiều yếu tố Thiên Nga Đen có thể xuất hiện và trở nên trầm trọng hơn bởi sự xuất hiện bất ngờ của chúng.

Hãy nghĩ tới vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001: rủi ro ấy đã không xảy ra nếu có thể được nhận thức một cách hợp lý vào ngày 10/9. Nếu một khả năng xảy ra như vậy được coi là đáng quan tâm thực sự thì các máy bay chiến đấu sẽ bay tuần tiễu quanh đỉnh hai tòa tháp, máy bay ắt đã có cửa chống đạn khóa chặt và cuộc tấn công sẽ không xảy ra, chấm hết. Một sự kiện khác cũng có thể đã xảy ra. Đó là gì vậy? Tôi không biết.

Chẳng phải lạ lùng sao khi được chứng kiến một biến cố mà người ta không hề nghĩ nó có thể xảy ra? Chúng ta có kiểu phòng thủ nào chống lại điều đó? Bất kể điều gì bạn biết (chẳng hạn như New York là một mục tiêu khủng bố dễ dàng) đều có thể trở nên không quan trọng nếu kẻ thù biết rằng bạn nắm rõ điều đó. Trong trò chơi chiến thuật như vậy, có lẽ hơi khác thường khi điều bạn biết thực sự chẳng quan trọng gì cả.

Điều này được áp dụng đối với tất cả các ngành nghề. Hãy nghĩ về “công thức bí mật” để tạo nên thành công bất ngờ trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng. Nếu là điều hiển nhiên, hẳn “gã hàng xóm” cũng đã phất lên từ đây và hẳn ý tưởng đó đã được mọi người biết đến. Vì vậy, thành công tiếp theo trong lĩnh vực nhà hàng là phải có một ý tưởng mà “dân trong nghề” không dễ gì nghĩ ra. Nó phải vượt xa hơn mong đợi của mọi người. Và thành công của một sự mạo hiểm như thế càng bất ngờ bao nhiêu, số lượng đối thủ cạnh tranh càng ít bao nhiêu thì doanh nghiệp thực thi ý tưởng đó càng thành công bấy nhiêu. Điều này cũng đúng trong ngành kinh doanh giày dép, sách báo - hoặc bất kỳ ngành nào. Nó còn đúng cả với các nguyên lý khoa học - không ai muốn nghe những chuyện tầm phào. Nhìn chung, phần thưởng cho sự mạo hiểm của con người tỷ lệ nghịch với những gì nó được kỳ vọng.

Hãy xem xét đợt sóng thần xảy ra hồi tháng 12/2004 ở Thái Bình Dương. Nếu người ta dự đoán được nó thì hậu quả đã không nghiêm trọng đến thế, bởi dân cư hẳn đã được sơ tán khỏi khu vực chịu ảnh hưởng và một hệ thống cảnh báo sớm hẳn đã được lắp đặt. Thế nên, những gì được biết không thực sự gây tổn hại cho bạn.

Chuyên gia và “những bộ complê rỗng tuếch”
Khả năng không thể dự đoán được các biến cố ngoại lai hàm ý về khả năng không thể đoán trước được tiến trình lịch sử, nếu dựa theo tỷ trọng của những biến cố loại này trong chuỗi các biến cố.

Thế nhưng, chúng ta lại hành động như thể mình có khả năng dự đoán được các sự kiện lịch sử hoặc thậm chí tệ hơn, thay đổi được cả tiến trình lịch sử. Chúng ta đưa ra những dự đoán về thâm hụt an sinh xã hội hay giá dầu của ba mươi năm sau mà không nhận thức rằng, thậm chí, không thể đoán trước được chúng sẽ như thế nào trong mùa hè tới - những sai lầm dự đoán của chúng ta đối với các sự kiện kinh tế hay chính trị tàn ác tới mức mỗi lần nhìn vào bản thống kê thực tế, tôi lại phải tự véo mình để chắc chắn không phải đang mơ. Điều đáng ngạc nhiên không phải ở tính chất nghiêm trọng của những sai lầm trong dự báo, mà chính là sự thiếu nhận thức của chúng ta về chúng. Điều này càng đáng lo hơn khi chúng ta tham gia vào những xung đột chết người: về cơ bản, chiến tranh là không thể dự đoán được (và chúng ta đều không biết điều này). Chính việc hiểu biết sai về các chuỗi mắt xích nhân quả giữa chính sách và hành động khiến chúng ta có thể dễ dàng gây ra các yếu tố Thiên Nga Đen nhờ sự xông xáo ngu dốt - giống như một đứa trẻ đang đùa nghịch với bộ đồ nghề hóa chất.

Cùng với sự thiếu nhận thức tổng quát về tình trạng của các sự việc, việc chúng ta không thể dự đoán được trong các môi trường bị lệ thuộc vào yếu tố Thiên Nga Đen, đồng nghĩa với khả năng một số chuyên gia nào đó thực sự không phải là chuyên gia dù vẫn tin rằng mình là chuyên gia. Dựa trên thành tích thực nghiệm của những người này, họ chỉ giỏi thuật lại chứ cũng chẳng biết về chuyên môn đó nhiều hơn đại đa số dân chúng là bao - hoặc tệ hơn là tung hỏa mù bằng những mô hình toán học phức tạp. Có khả năng họ cũng đeo một chiếc cà vạt.

Các yếu tố Thiên Nga Đen là không thể dự đoán được, vì vậy, chúng ta cần phải thích nghi với sự tồn tại của chúng (hơn là cố gắng dự đoán một cách ngây thơ). Có quá nhiều thứ chúng ta có thể làm nếu tập trung vào phần “phản tri thức” hoặc những điều chưa biết. Trong số nhiều lợi ích khác, bạn có thể bắt đầu thu thập những yếu tố Thiên Nga Đen có khả năng cầu may (theo nghĩa tích cực) thông qua việc tối đa hóa khả năng tiếp cận với chúng. Quả thật, trong một số lĩnh vực - chẳng hạn như khám phá khoa học hay đầu tư vốn mạo hiểm - có những phần thưởng to lớn từ điều chưa biết, bởi bạn thường chẳng mất gì mà lại nhận được rất nhiều từ một biến cố hiếm hoi. Chúng ta sẽ thấy rằng, trái với nền tri thức khoa học xã hội, hầu như không phát minh hay công nghệ tiên tiến nào được bắt nguồn từ thiết kế hoặc được lên kế hoạch trước - đơn giản chúng là Thiên Nga Đen. Chiến lược dành cho các nhà khám phá và doanh nhân chính là ít dựa vào quy hoạch từ trên đưa xuống mà tập trung tối đa vào việc chắp nối và nhận diện các cơ hội ngay khi chúng xuất hiện. Vì vậy, tôi không đồng ý với những người theo tư tưởng của Marx hay của Adam Smith rằng thị trường tự do thành công là bởi chúng cho phép con người gặp may mắn nhờ phương pháp “thử-sai” xông xáo chứ không phải bởi việc đưa ra những phần thưởng hay “biện pháp khích lệ” dành cho kỹ năng. Vậy thì, chiến lược cần có là chắp nối ngay khi có thể và cố gắng thu thập càng nhiều cơ hội mang yếu tố Thiên Nga Đen càng tốt.

Học cách học
Một trở ngại khác liên quan đến loài người bắt nguồn từ việc quá tập trung vào những điều chúng ta biết: chúng ta có xu hướng học những gì cụ thể chứ không phải chung chung.

Mọi người đã rút ra được gì từ sự kiện 11/9? Liệu họ có kết luận rằng, do những động lực của bản thân mà một số sự kiện chủ yếu nằm ngoài phạm vi có thể được dự đoán? Không. Liệu họ có rút ra được nhược điểm gắn liền với sự suy xét theo quy ước? Không. Vậy họ đã rút ra được điều gì? Họ đã học được những nguyên tắc chính xác về việc ngăn ngừa mầm mống các cuộc khủng bố Hồi giáo cùng các tòa nhà cao tầng. Nhiều người vẫn luôn nhắc tôi rằng điều quan trọng đối với chúng ta là phải thực tế và áp dụng những biện pháp cụ thể thay vì “lý thuyết hóa” kiến thức. Câu chuyện về Phòng tuyến Maginô cho thấy cách thức chúng ta được huấn luyện để trở nên khác biệt. Sau Thế Chiến thứ nhất, người Pháp đã xây một bức tường rào dọc theo tuyến đường quân Đức xâm chiếm trước kia nhằm ngăn chặn sự xâm lược trở lại - đơn giản, Hitler hầu như vượt qua nó khá dễ dàng. Người Pháp chính là những sinh viên xuất sắc về lịch sử, đơn giản là họ nghiên cứu nó với độ chính xác quá cao. Họ quá thực dụng và tập trung vào sự an toàn của chính bản thân mình.

Chúng ta không tự nhiên rút ra được rằng chúng ta không biết rằng mình không biết. Vấn đề nằm ở cấu trúc trí não: chúng ta không nghiên cứu các quy tắc mà chỉ nghiên cứu các sự kiện và chỉ sự kiện mà thôi. Các siêu nguyên tắc (chẳng hạn như nguyên tắc rằng chúng ta có xu hướng không nghiên cứu các nguyên tắc) có vẻ như rất khó nắm bắt. Chúng ta coi khinh những gì trừu tượng với một sự thích thú.

Vì sao vậy? Như lập luận của tôi trong phần còn lại của cuốn sách cho thấy rằng, ở đây, nó cần thiết cho cả việc giữ đúng sự suy xét theo quy ước lẫn việc chỉ ra cách không thể áp dụng được đối với môi trường hiện đại, phức tạp và đệ quy 3 ngày càng cao của chúng ta.

Nhưng có một câu hỏi chuyên sâu hơn: Trí não của chúng ta được sinh ra để làm gì? Cứ như thể chúng ta đang sở hữu cuốn “cẩm nang dành cho người sử dụng” sai lầm. Bộ não của chúng ta dường như không sinh ra để suy nghĩ và tự xem xét nội tâm bởi nếu có thì ngày nay, mọi thứ sẽ dễ dàng hơn cho chúng ta. Mà như vậy, lúc này, bạn hay tôi cũng chẳng ở đây để nói về điều đó - ông bà tổ tiên của tôi sống hướng nội, phản thực tế và suy nghĩ cứng rắn có thể đã bị sư tử ăn tươi nuốt sống trong khi đứa cháu tối dạ nhưng nhanh nhạy lại sống sót nhờ biết tìm nơi ẩn nấp. Hãy cân nhắc rằng tư duy là một việc làm tốn thời gian và thường lãng phí rất nhiều công sức, rằng tổ tiên của chúng ta đã mất hàng trăm triệu năm như những động vật hữu nhũ vô tư khác và rằng trong suốt thời điểm phát sáng của lịch sử sử dụng não bộ, chúng ta từng động não về những vấn đề quá xa rời mục đích. Bằng chứng cho thấy rằng chúng ta thường tin tưởng nhiều hơn là suy nghĩ - dĩ nhiên, ngoại trừ những lúc nghĩ về điều đó.

KIỂU VONG ÂN BỘI NGHĨA MỚI
Thật buồn khi nghĩ tới những người từng bị lịch sử ngược đãi. Có những nhà thơ sống bên ngoài xã hội hay có tư tưởng chống lại xã hội, thường là những người dùng rượu, ma túy, mắc chứng điên loạn, nhúng tay vào những tội ác, bạo động, và thường chết trẻ (những nhà thơ bị nguyền rủa - poetes maudit) như Edgar Allan Poe hoặc Authur Rimbaud - những người từng bị xã hội khinh miệt nhưng về sau lại được tôn thờ và có ảnh hưởng lớn đến các em học sinh. (Thậm chí, có những trường học được đặt tên theo tên những học sinh bỏ học). Than ôi! Sự thừa nhận này đến quá muộn màng để vị thi sĩ kia có thể tìm thấy được chút niềm vui hoặc giúp nâng đỡ tinh thần của ông nơi trần thế. Nhưng thậm chí còn có những vị anh hùng bị ngược đãi hơn nữa - những người mà chúng ta không biết rằng đó là anh hùng, những người đã cứu chúng ta, giúp chúng ta tránh được thảm họa. Họ không để lại bất kỳ dấu tích nào và thậm chí không biết rằng mình đang có đóng góp. Chúng ta tưởng nhớ những liệt sĩ đã ngã xuống vì một sự nghiệp mà ta đều biết, nhưng lại chẳng bao giờ quan tâm đến những người cũng có đóng góp quan trọng không kém bởi vì - nói một cách chính xác - họ là những người thành công. Sự vong ân bội nghĩa của chúng ta đối với những nhà thơ bị nguyền rủa (poetes maudit) kia sẽ chẳng thấm tháp gì so với sự vô ơn này. Đây là một kiểu vong ân bội nghĩa xấu xa hơn cả: cảm giác xem thường vai trò của người anh hùng thầm lặng. Tôi sẽ minh họa bằng một thử nghiệm tư duy sau đây.

Giả định rằng một nhà lập pháp với sự can đảm, uy lực, trí tuệ, tầm nhìn và tính kiên trì tìm cách ban hành một đạo luật có ảnh hưởng và được áp dụng rộng khắp vào ngày 10/9/2001, buộc các cửa chống đạn ở buồng lái phi công đều phải luôn khóa chặt (với chi phí tốn kém đối với những hãng hàng không còn đang chật vật) - vừa đúng lúc những kẻ khủng bố quyết định dùng máy bay tấn công Trung tâm Thương mại Thế giới tại thành phố New York. Tôi biết đây là ý nghĩ điên rồ nhưng chỉ là thử nghiệm tư duy (Tôi nhận thấy rằng không thể có một điều như vậy - một nhà lập pháp với trí tuệ, sự can đảm, tầm nhìn và tính kiên trì; đây chỉ là quan điểm về thử nghiệm tư duy). Vả lại, đối với nhân viên hàng không, pháp chế không phải là phương sách phổ biến vì nó làm cho cuộc sống của họ thêm rối rắm. Nhưng, dứt khoát nó sẽ ngăn chặn được sự cố 11/9.

Cá nhân người áp đặt việc khóa chặt các của buồng lái phi công không hề được dựng tượng tri ân tại các quảng trường công cộng, thậm chí còn không được đề cập ngắn gọn trong cáo phó của mình. “Joe Smith, người đã giúp tránh được thảm họa 11/9, chết do các biến chứng về gan”. Nhận thấy sự vô dụng cũng như sự lãng phí trong phương pháp của nhà lập pháp này, cùng với sự hỗ trợ nhiệt tình từ các phi công, công chúng có thể tống cổ ông ta ra khỏi phòng làm việc của mình. Tiếng kêu cứu nơi hoang dã. Nhà lập pháp đó sẽ về hưu trong tâm trạng chán nán, với cảm giác thất bại quá lớn và khi tạ thế vẫn cảm thấy mình chưa làm được điều gì có ích. Tôi ước mình có thể tới dự lễ tang của ông, nhưng thưa độc giả, tôi không thể tìm thấy người này. Tuy nhiên, việc công nhận có thể là một sự thổi phồng. Song hãy tin tôi, thậm chí những người thành thật tuyên bố rằng không tin vào sự công nhận, rằng họ tách biệt lao động khỏi thành quả của nó, thực sự đều cảm thấy hưng phấn từ chính sự công nhận đó. Hãy xem người anh hùng thầm lặng được đối xử ra sao: thậm chí không có được sự đền đáp nào, dù là về mặt tình cảm.

Bây giờ, hãy xem lại những sự kiện xảy ra trong ngày 11/9. Sau khi thảm họa xảy ra, ai đã được công nhận? Những người mà bạn nhìn thấy qua các phương tiện truyền thông, trên ti-vi đang thực hiện những hành động dũng cảm, hay những người cố gây cho bạn ấn tượng rằng họ đang thực hiện những hành động dũng cảm? Nhóm thứ hai này gồm những nhân vật như Chủ tịch sở giao dịch Chứng khoán New York, Richard Grasso, người “đã cứu nguy cho Sở giao dịch” và nhận được một khoản tiền thưởng khổng lồ cho đóng góp đó (tương đương vài nghìn tháng lương của ông ta). Tất cả những gì ông ta phải làm là xuất hiện trong lễ rung chuông khai mạc sở giao dịch được tường thuật trên truyền hình - chương trình truyền hình mà chúng ta sẽ thấy, là phương tiện truyền tải sự bất công và là nguyên nhân chính của sự mù tịt về yếu tố Thiên Nga Đen.

Ai được đền ơn, giám đốc Ngân hàng trung ương, người tránh được tình trạng suy thoái hay một nhân vật tới “sửa chữa” những sai lầm của người tiền nhiệm và tình cờ có mặt trong suốt thời kỳ phục hồi kinh tế? Người nào có giá trị hơn, chính trị gia tránh được một cuộc chiến tranh hay người châm ngòi một cuộc chiến mới (và có đủ may mắn để giành chiến thắng)?

Điều này tương tự như sự đảo lộn hợp lý mà chúng ta đã tìm hiểu trước đó về giá trị của những gì mình chưa biết; mọi người đều biết rằng “phòng bệnh hơn chữa bệnh” nhưng chỉ một số ít tán thưởng hành động phòng bệnh. Chúng ta ca ngợi những người đã được lưu tên vào sử sách bằng công sức của những người đóng góp thầm lặng không được sử sách ghi danh. Con người chúng ta không chỉ là một loài thiển cận (điều này có thể chữa được trong một chừng mực nào đó) mà còn là một loài rất bất công.

CUỘC SỐNG RẤT BẤT THƯỜNG
Đây là cuốn sách viết về tình trạng bất định, theo quan điểm của tác giả, sự kiện hiếm hoi cũng được xem là bất định. Có lẽ điều này giống như một tuyên bố hùng hồn - rằng chúng ta cần nghiên cứu chủ yếu những sự kiện cực đoan và hiếm hoi cốt để luận ra những sự kiện phổ biến hơn - nhưng tôi xin giải thích rõ như sau. Ở đây có hai cách khả thi để tiếp cận hiện tượng. Cách thứ nhất là loại trừ yếu tố bất thường và tập trung vào yếu tố “thông thường”. Người thẩm tra sẽ gạt “những yếu tố ngoại lai” sang một bên và nghiên cứu những tình huống thông thường. Cách thứ hai, để hiểu được một hiện tượng, trước tiên phải cân nhắc được các thái cực - đặc biệt nếu chúng gây ra hậu quả lũy tích bất thường giống như yếu tố Thiên Nga Đen.

Tôi không quan tâm đặc biệt đến những điều thông thường. Nếu muốn nắm bắt được tính khí, đạo đức và sự lịch lãm của một người, bạn chỉ cần chú ý tới anh ta qua những thử nghiệm trong một số tình huống khắt khe chứ không phải qua lăng kính màu hồng của cuộc sống thường nhật. Bạn có thể đánh giá được sự hiểm nguy mà một tên tội phạm gây ra bằng việc xem xét những gì hắn làm trong một ngày bình thường không? Chúng ta có thể hiểu được tình trạng sức khỏe của mình mà không tính đến những căn bệnh lạ hay dịch bệnh? Quả thật, những điều thông thường lại thường không liên quan.

Hầu như mọi thứ trong đời sống xã hội đều được tạo ra bởi những cú sốc và những đột biến hiểm hoi nhưng lôgic; trong khi đó, hầu hết mọi nghiên cứu về đời sống xã hội đều tập trung vào yếu tố “thông thường”, đặc biệt với các phương pháp suy luận theo “đường cong hình chuông” - thứ gần như không giúp ích gì cho bạn. Tại sao ư? Bởi đường cong hình chuông đã bỏ qua những độ lệch lớn, không thể quản lý, song lại khiến chúng ta tin rằng mình vừa chế ngự được tình trạng bất định. Trong cuốn sách này, tôi gọi nó là GIF - Trò gian lận trí tuệ vĩ đại (Great Intellectual Fraud).

PLATO VÀ NHỮNG KẺ LẬP DỊ
Phần lớn sự tức giận khiến người Do Thái nổi dậy vào thế kỷ thứ nhất bắt nguồn từ sự khăng khăng của người La Mã đòi đặt tượng của Caligula trong ngôi đền của người Do Thái tại Jerusalem và đổi lại, tượng thánh Yahweh của người Do Thái được đặt trong các ngôi đền của người La Mã. Người La Mã đã không nhận ra rằng, khái niệm vị thánh đối với người Do Thái (và những người theo thuyết một thần vùng Cận Đông) là trừu tượng, rộng lớn và không liên quan gì đến thuyết hình người - học thuyết thể hiện quá nhiều yếu tố con người trong tư duy của người La Mã khi nói về Chúa. Trầm trọng hơn, vị thánh của người Do Thái không thích hợp với sự hiện thân mang tính biểu tượng. Tương tự, những gì mà nhiều người thương mại hóa lên và gán cho cái mác “không biết”, “không có khả năng xảy ra” hoặc “không chắc chắn” đều không giống điều tôi đang bàn đến ở đây; đó không phải là phạm trù kiến thức rõ ràng và cụ thể, một lĩnh vực bị lập dị hóa, ngoại trừ sự đối lập với nó: sự thiếu hụt (hay những hạn chế) về kiến thức. Đây chính xác là sự đối lập về kiến thức; một người nên học cách tránh dùng những từ ngữ đặc trưng của kiến thức để diễn tả trạng thái đối nghịch của nó.

Cái mà tôi gọi là quan điểm Plato, phỏng theo những tư tưởng (và tính cách) của triết gia Plato, chính là xu hướng của chúng ta đối với sự nhầm lẫn giữa bản đồ và lãnh thổ, giữa việc tập trung vào “những hình thái” thuần túy và được định nghĩa rõ ràng, chẳng hạn những vật thể như hình tam giác hay các ý niệm xã hội như xã hội không tưởng (những xã hội được xây dựng theo một bản kế hoạch nào đó về những thứ “có ý nghĩa”), thậm chí cả quốc tịch của chúng ta. Khi những tư tưởng này cũng như các cấu trúc chính xác hiện hữu trong tâm trí ta, chúng ta sẽ ưu tiên cho chúng hơn so với những mục đích kém thanh lịch, có cấu trúc lộn xộn và khó kiểm soát (một tư tưởng mà tôi sẽ trình bày tỉ mỉ hơn xuyên suốt cuốn sách này).

Quan điểm Plato khiến chúng ta nghĩ rằng mình hiểu biết nhiều hơn vốn kiến thức mà bản thân thực có. Nhưng điều này không xảy ra ở mọi lĩnh vực. Tôi không nói rằng các hình thái Plato không tồn tại. Các mô hình và khuôn mẫu - những bản đồ trí tuệ về thực tại này - không phải lúc nào cũng sai, chúng chỉ sai trong một số ứng dụng cụ thể. Cái khó là a) bạn không thể nào biết trước (cho đến khi thực tế xảy ra) bản đồ đó sẽ sai chỗ nào và b) những sai lầm có thể dẫn đến những hậu quả khủng khiếp. Những mô hình này giống như những liều thuốc công hiệu tiềm năng mang tính ngẫu nhiên nhưng lại có tác dụng phụ rất khốc liệt.

Hàng rào Plato (Platonic fold) chính là ranh giới bùng nổ, nơi hệ tư tưởng của Plato tiếp xúc với thực tế hỗn độn, nơi khoảng cách giữa điều bạn biết và điều bạn nghĩ rằng mình biết sẽ trở nên rộng lớn một cách đáng báo động. Đây là nơi yếu tố Thiên Nga Đen được tạo ra.

QUÁ BUỒN TẺ ĐỂ VIẾT
Người ta nói rằng nhà làm phim nghệ thuật Luchino Visconti thừa nhận là khi các diễn viên chỉ tay vào một chiếc hộp đóng kín được cho là chứa đá quý thì quả thật bên trong có đá quý. Đó có thể là một cách hiệu quả để giúp các diễn viên hoàn thành vai diễn của mình. Tôi cho rằng hành động của Visconti có thể cũng xuất phát từ ý nghĩa đơn giản về thẩm mỹ và khát khao về tính xác thực - dù thế nào chăng nữa, việc lừa dối người xem không phải là một điều đúng đắn.

Đây là bài luận văn trình bày một ý tưởng sơ khai chứ không phải được “xào nấu” lại từ suy nghĩ của người khác. Một bài luận văn là một suy ngẫm bốc đồng chứ không như báo cáo khoa học. Xin thứ lỗi nếu tôi bỏ qua một vài chủ đề hiển nhiên trong cuốn sách này vì tôi cho rằng những gì buồn tẻ đến mức mình không viết nổi thì cũng có thể khiến độc giả chán ngán. (Mà biết đâu việc né tránh sự buồn tẻ đó có khi lại giúp loại bỏ được những thứ không cần thiết).

Trò nói suông là việc làm rẻ tiền. Những ai học quá nhiều (hay không đủ) các tiết triết học ở trường đại học có thể cho rằng sự xuất hiện của Thiên Nga Đen không bác bỏ học thuyết rằng tất cả thiên nga đều trắng vì một con chim đen như vậy không phải là thiên nga về mặt ngữ nghĩa, vì đối với anh ta, màu trắng chính là thuộc tính cần thiết của một con thiên nga. Quả thực, những ai đọc quá nhiều về Wittgenstein 4 (cũng như các tác phẩm bình luận về ông) sẽ có cảm giác rằng các vấn đề ngôn ngữ thật quan trọng. Dĩ nhiên, chúng có thể quan trọng với những ai muốn đạt được sự lỗi lạc trong lĩnh vực triết học, nhưng đối với chúng ta - những người hoạt động và ra quyết định trong thế giới thực thi việc đó được dành cho dịp cuối tuần. Trong chương “The Uncertainty of the Phony” (Sự bất định của những thứ giả mạo), tôi có giải thích rằng bất kể sự hấp dẫn về mặt trí tuệ, những tiểu tiết này chẳng có hàm ý nghiêm túc nào vì chúng tương phản với các vấn đề lớn lao hơn (nhưng đã bị lãng quên). Những người vùi đầu trên giảng đường mà không đối mặt với các tình huống thực của việc đưa ra quyết định dưới điều kiện không chắc chắn sẽ không nhận biết được điều gì là quan trọng và điều gì không - ngay cả những học giả chuyên nghiên cứu tính bất định (hay đặc biệt những học giả chuyên nghiên cứu tính bất định). Những thứ mà tôi gọi là thực tiễn của sự bất định có thể là việc sao chép bất hợp pháp, hoạt động đầu cơ hàng hóa, hoạt động đánh bạc chuyên nghiệp, làm việc tại một trong những phân nhánh của mafia hay chỉ đơn giản là quá trình không ngừng đầu tư vào việc thành lập các doanh nghiệp mới (serial entrepreneurship). Do đó, tôi kịch liệt chỉ trích “thái độ hoài nghi vô ích”, một kiểu hoài nghi hoàn toàn không có ý nghĩa gì với chúng ta và tương phản với các vấn đề ngôn ngữ mang nặng tính lý thuyết - điều đã khiến cho đại bộ phận triết học hiện đại trở nên không phù hợp với những gì được gọi một cách mỉa mai là “đại chúng”. (Trong quá khứ, bất chấp hậu quả thế nào, những nhà triết học và nhà tư tưởng hiếm hoi vốn không thể tự đúng vững thường phụ thuộc vào sự ủng hộ của người bảo trợ. Ngày nay, các viện sĩ trong các ngành trừu tượng cũng dựa vào ý kiến của nhau mà không kiểm tra từ thực tế bên ngoài, và đôi khi gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng là biến các mục tiêu theo đuổi của họ thành các cuộc tranh tài thiển cận nhằm phô diễn kiến thức. Dù có khiếm khuyết gì thì hệ thống cũ đó ít nhất cũng thực thi được một tiêu chuẩn thích đáng nào đó).

Triết gia Edna Ullmann-Margalit phát hiện ra một mâu thuẫn trong cuốn sách này và yêu cầu tôi chỉnh sửa cách dùng hình ảnh ẩn dụ Thiên Nga Đen để mô tả những gì con người không biết, trừu tượng, bất định và mơ hồ - ví dụ như quạ trắng, voi hồng hay sự biến mất của cư dân một hành tinh xa xôi quay quanh hệ Tau Ceti. Quả thật, nhà triết gia này đã bắt đúng chỗ sai của tôi. Có một mâu thuẫn ở đây; cuốn sách này là một câu chuyện, tôi thích dùng những chuyện kể và đoản văn để minh họa cho tính cả tin cũng như sở thích của chúng ta trước các câu chuyện và sự cô đọng nguy hiểm của những bài trần thuật.

Muốn thay thế một câu chuyện, bạn cần một câu chuyện khác. Các hình thái ẩn dụ và chuyện kể tỏ ra có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn nhiều so với ý tưởng, chúng cũng dễ nhớ và thú vị đối với người đọc. Nếu phải theo đuổi cái mà mình gọi là các quy tắc trần thuật, công cụ tốt nhất của tôi chính là một bài trần thuật.

Ý tưởng đến rồi đi, chỉ có câu chuyện là ở lại.

ĐIỂM CHÍNH YẾU
Điều tồi tệ nhất mà cuốn sách này đề cập đến không chỉ là đường cong hình chuông và các nhà thống kê tự lừa dối chính mình, hay các học giả chịu ảnh hưởng của Plato - những người cần đến các học thuyết để tự lừa dối mình, mà đó chính là động lực để “tập trung” vào những gì có ý nghĩa đối với chúng ta. Ngày nay, việc sống trên hành tinh này đòi hỏi nhiều khả năng tưởng tượng hơn những gì hiện có. Chúng ta đang thiếu khả năng tưởng tượng nhưng lại kìm nén khả năng của người khác.

Xin lưu ý rằng tôi không thực hiện cuốn sách này theo phương pháp thu thập “bằng chứng xác thực” cẩn thận vốn rất phiền toái. Tôi sẽ giải thích nguyên nhân đó trong Chương 5, và gọi sự quá tải của các ví dụ này là chủ nghĩa kinh nghiệm ngây thơ (naive empiricism) - hàng chuỗi giai thoại được chọn lựa để khớp với một câu chuyện sẽ không cấu thành bằng chứng. Bất kỳ ai đang tìm kiếm sự xác thực sẽ tìm thấy nó với mức độ đủ để lừa dối chính mình - và chắc chắn là cả những đồng nghiệp của mình. 5 Ý tưởng về Thiên Nga Đen được dựa theo cấu trúc của tính ngẫu nhiên qua trải nghiệm thực tế.

Nói tóm lại, trong bài tiểu luận (cá nhân) này, tôi dám thách thức các thói quen tư duy của chúng ta, và khẳng định rằng thế giới này đang bị thống trị bởi những gì cực độ, bí ẩn, ít có khả năng xảy ra (dựa theo vốn hiểu biết hiện tại của chúng ta) trong khi, chúng ta dành thời gian nói chuyện phiếm, tập trung vào những gì đã biết và cứ lặp đi lặp lại. Điều này nói lên sự cần thiết phải sử dụng một sự kiện cực độ làm điểm khởi đầu và không xem nó như một ngoại lệ mà ta có thể dễ dàng bỏ qua. Tôi cũng xin đưa ra một nhận định táo bạo (và dễ mếch lòng) hơn rằng, bất chấp tiến trình với phát triển về kiến thức của chúng ta, hoặc có lẽ bởi tiến trình và sự phát triển về kiến thức đó, tương lai ngày càng trở nên khó dự đoán hơn trong khi cả bản chất con người lẫn “khoa học” xã hội dường như đang hợp sức không cho chúng ta biết về điều đó.

Bản đồ các chương
Trình tự cuốn sách này tuân theo một lôgic đơn giản, bắt đầu từ những gì được cho là văn chương thuần túy (xét về chủ đề lẫn nghiên cứu) đến những thứ được cho là hoàn toàn mang tính khoa học (xét về chủ đề, không xét đến nghiên cứu). Hầu như tâm lý học chỉ xuất hiện trong Phần 1 và đầu Phần 2, phần còn lại của Phần 2 và Phần 3 sẽ là các vấn đề về kinh doanh và khoa học tự nhiên. Nội dung của phần 1, “Umberto Eco's Antilibrary” (Phản thư viện của Umberto Eco) chủ yếu đề cập đến cách nhận thức của chúng ta về các sự kiện lịch sử và hiện tại cũng như những sự bóp méo hiện diện trong các nhận thức đó. Phần 2, “We just can't predict” (Đơn giản là chúng ta không thể dự đoán được), nói về những sai lầm mà chúng ta mắc phải khi đối diện với tương lai và các hạn chế không được báo trước của một số môn “khoa học” - cũng như cách giải quyết những hạn chế này. Phần 3, “Those Gray Swans of Extremistan” (Những con Thiên Nga Xám của Extremistan), sẽ đi sâu vào chủ đề về các sự kiện cực độ, giải thích sự hình thành của đường cong hình chuông (trò gian lận trí tuệ vĩ đại) và xem xét lại những ý tưởng về các môn khoa học tự nhiên và xã hội vốn được kết hợp một cách lỏng lẻo dưới cái nhãn “phức tạp”. Phần 4 - phần Kết thúc - sẽ rất ngắn gọn.

Việc viết nên cuốn sách này tạo cho tôi một sự thích thú ngoài mong đợi - và thực tình, chính cuốn sách đã tự viết nên nó - và tôi hy vọng rằng bạn đọc cũng sẽ có những trải nghiệm tương tự. Tôi thừa nhận ràng mình đã bị sa vào quá trình suy luận những ý tưởng thuần túy này sau nhiều dồn nén từ cuộc sống đầy biến động. Sau khi cuốn sách được xuất bản, tôi chỉ muốn lánh xa sự ồn ào của đám đông để được hoàn toàn tính lặng suy nghĩ về ý tưởng khoa học-triết học của mình.

Thiên Nga Đen
Phần I: Phản Thư Viện Của Umberto Eco Hay Cách Chúng Ta Tìm Kiếm Sự Phê Chuẩn

Nhà văn Umberto Eco là một trong số ít những học giả thông thái và sâu sắc. Ông sở hữu một thư viện cá nhân khá lớn (chứa ba nghìn cuốn sách) và phân chia độc giả của thư viện thành hai nhóm: nhóm những người có phản ứng “Ồ! Thưa tiến sĩ Eco, thư viện của ông thật tuyệt vời! Ông đọc bao nhiêu cuốn trong này rồi?” và nhóm khác, với số lượng rất ít, những người xem thư viện riêng là công cụ phục vụ nghiên cứu chứ không nhằm phô trương bản ngã cá nhân. Những cuốn sách chưa đọc có giá trị cao gấp nhiều lần so với những cuốn đã đọc. Một thư viện nên chứa đựng càng nhiều kiến thức bạn chưa biết càng tốt, miễn là khả năng tài chính, lãi suất cho vay thế chấp và thị trường bất động sản hà khắc cho phép bạn làm điều đó. Theo thời gian, bạn sẽ tích lũy thêm nhiều sách và kiến thức, đồng thời, số lượng sách chưa đọc ngày càng tăng trên các kệ sẽ trở nên khiêu khích bạn. Thật vậy, bạn biết càng nhiều thì số lượng dãy sách chưa đọc lại càng tăng. Chúng tôi xin gọi việc thu thập những cuốn sách chưa đọc này là phản thư viện.

Chúng ta có khuynh hướng xem kiến thức của mình như tài sản riêng cần được che chắn, bảo vệ. Nó là vật trang sức giúp ta vươn lên trong hệ thống thứ bậc xã hội. Chính vì vậy, khuynh hướng xúc phạm đến cảm giác về thư viện của Eco thông qua việc tập trung vào những gì đã biết này chính là thiên hướng của con người và nó ảnh hưởng đến các hoạt động thần kinh của chúng ta. Con người không lòng vòng với các bản phản sơ yếu lý lịch (anti-résumés) - thứ nói cho bạn biết những gì họ chưa được học hay trải nghiệm (đây mới là điều mà đối thủ của họ cần làm), nhưng nếu họ làm được như vậy thì đó là một điều tốt. Chỉ cần sắp xếp thư viện theo một thứ tự đề mục lôgic, khi đó, chúng ta cũng sẽ có một kiến thức đa ngành được sắp xếp một cách hợp lý. Lưu ý rằng, Thiên Nga Đen bắt nguồn từ hiểu biết sai lầm của chúng ta về khả năng có thể xảy ra của các yếu tố bất ngờ, những cuốn sách chưa đọc, bởi vì chúng ta có phần chú ý quá nhiều đến những gì mình biết.

Chúng tôi xin gọi một phản học giả (antischolar) - người chú ý đến những cuốn sách chưa đọc và cố không xem kiến thức của mình là một kho báu, một tài sản, hay ít ra là một công cụ nâng cao lòng tự trọng - là người theo chủ nghĩa hoài nghi thực nghiệm (skeptical empiricist).

Mục đích của các chương trong phần này là làm rõ vấn đề về cách xử trí kiến thức của con người - và sự ưa thích của chúng ta đối với những gì thuộc giai thoại hơn những gì thuộc về trải nghiệm. Chương 1 mô tả Thiên Nga Đen như một cơ sở vững chắc trong câu chuyện về nỗi ám ảnh của tôi. Tôi sẽ đưa ra nét khác biệt trọng tâm giữa hai biến thể ngẫu nhiên trong Chương 3. Chương 4 sẽ quay lại bài toán sơ khai về Thiên Nga Đen một cách vắn tắt: chúng ta có xu hướng khái quát hóa cách nhìn nhận vấn đề của mình. Tiếp theo, tôi sẽ trình bày ba khía cạnh khác nhau của cùng một hiện tượng Thiên Nga Đen: a) Lỗi chứng thực (The error of confirmation), hay cách chúng ta coi rẻ phần nguyên mẫu của thư viện này (hay xu hướng chỉ xem những gì làm nổi bật vốn kiến thức chứ không phải sự ngu dốt của mình), trong Chương 5; b) Liên tưởng ngụy biện (Narrative fallacy), (một lỗi lôgic có nguồn gốc sinh học), hay cách chúng ta đã tự lừa dối bản thân bằng những câu chuyện và các chi tiết vụn vặt (Chương 6); c) mức độ can thiệp của cảm xúc vào quá trình suy luận của chúng ta (Chương 7) và d) vấn đề của những bằng chứng thầm lặng, hay những mánh lới mà lịch sử đã dùng để che giấu các Thiên Nga Đen (Chương 8). Chương 9 sẽ thảo luận về sự ngụy biện chết người của ý tưởng xây dựng kiến thức thông qua thế giới trò chơi.

Thiên Nga Đen
Chương 1: Thời Gian Học Việc Của Một Người Theo Chủ Nghĩa Hoài Nghi Thực Nghiệm

GIẢI PHẪU HIỆN TƯỢNG THIÊN NGA ĐEN ■ BỘ BA MỜ ĐỤC ■ ĐỌC SÁCH TỪ SAU RA TRƯỚC ■ KÍNH CHIẾU HẬU ■ MỌI THỨ TRỞ NÊN DỄ GIẢI THÍCH ■ LUÔN TRÒ CHUYỆN (CẨN TRỌNG) VỚI TÀI XẾ ■ LỊCH SỬ KHÔNG LÊ TỪNG BƯỚC MÀ SẢI NHỮNG BƯỚC DÀI ■ “THẬT BẤT NGỜ” ■ NGỦ SUỐT MƯỜI HAI TIẾNG

Đây không phải là một cuốn tự truyện nên tôi sẽ bỏ qua mấy cảnh chiến tranh. Thật ra, dù nó là một cuốn tự truyện thì tôi vẫn lược bỏ các cảnh chiến tranh. Tôi không thể cạnh tranh với phim ảnh cũng như những cuốn ký sự phiêu lưu mạo hiểm vốn hoàn hảo còn hơn chính bản thân mình, vì thế, sẽ tận dụng các “món đặc sản” của mình - chuyên môn về sự tình cờ và bất định.

GIẢI PHẪU HIỆN TƯỢNG THIÊN NGA ĐEN
Hơn một nghìn năm nay, vùng duyên hải phía Đông Địa Trung Hải - vốn được biết đến với tên gọi Syria Libanensis hay Mount Li-băng - là nơi định cư của ít nhất hàng chục giáo phái, chủng tộc và tín ngưỡng khác nhau, cứ như có phép màu vậy. Nơi này tập trung nhiều thành phố lớn thuộc vùng bờ Đông Địa Trung Hải (gọi là vùng Cận Đông), nhiều hơn bất kỳ nơi nào khác nằm sâu trong đất liền thuộc vùng Cận Đông (ở những vùng đồi núi hiểm trở, việc di chuyển bằng đường thủy sẽ dễ dàng hơn so với đường bộ). Các thành phố vùng Cận Đông này như được sinh ra cho hoạt động thương nghiệp sầm uất; mọi người trao đổi buôn bán với nhau theo các điều khoản rõ ràng, duy trì được một nền hòa bình có lợi cho thương nghiệp, đồng thời thiết lập quan hệ với các cộng đồng khác. Trong suốt mười thế kỷ chung sống hòa bình này, đôi khi trong nội bộ cộng đồng người Hồi giáo và Thiên Chúa giáo chỉ xảy ra những xích mích nhỏ, nhưng ít khi có xung đột nghiêm trọng giữa hai giáo phái này. Nếu hầu hết các thành phố trọng thương này đều theo văn hóa Hy Lạp thì các vùng đồi núi lại là nơi cư ngụ của những giáo phái thiểu số, vốn được cho là đang trốn chạy khỏi cộng đồng Hồi giáo và La Mã Phương Đông chính thống. Địa hình núi non hiểm trở chính là nơi trú ngụ lý tưởng khỏi các giáo phái chính thống, ngoại trừ khả năng rằng kẻ thù của bạn lại là một cộng đồng khác đang tìm kiếm nơi trú ngụ giống như bạn. Sự đa dạng của các nền văn hóa và tôn giáo ở đây là bằng chứng cho khái niệm “chung sống”: các tộc người Thiên Chúa giáo (giáo phái Marôn, người Ac-mê-ni, người La Mã Phương Đông chính thống vùng Hy Lạp-Syria, thậm chí cả tín đồ Công Giáo La Mã Phương Đông cùng với một nhóm nhỏ người Công giáo La Mã đến từ vùng Crusades); Hồi giáo (Shiite và Sunni), giáo phái Druze và một nhóm nhỏ người Do Thái. Có một điều hiển nhiên là mọi người ở đó đều học cách trở nên bao dung; tôi chợt nhớ lại cách chúng ta được giáo dục tại trường rằng xã hội của mình văn minh và tiên tiến hơn nhiều so với những cộng đồng vùng Balkan, nơi người dân địa phương không chỉ lười tắm rửa mà còn là nạn nhân của các cuộc chiến mang tính bè phái. Ở đây, mọi thứ có vẻ như trong trạng thái cân bằng, mở ra khuynh hướng lịch sử hướng tới sự bao dung và những gì tốt đẹp hơn. Hai cụm từ thăng bằng và cân bằng thường xuyên được nhắc đến.

Dòng họ nội ngoại tôi đều xuất thân từ cộng đồng Hy Lạp-Syria, vùng dân cư heo hút nhất của đế quốc La Mã Phương Đông nằm ở Bắc Syria, gồm cả Li băng ngày nay. Nên nhớ rằng, trong ngôn ngữ của mình, người La Mã Phương Đông tự nhận mình là “Người La Mã”. Chúng tôi xuất thân từ vùng chuyên canh cây ô-liu nằm ở chân núi Li băng. Ở đây, trong trận đánh nổi tiếng Amioun - tên ngôi làng của tổ tiên - chúng tôi đã đánh đuổi người Thiên Chúa giáo Ma-rôn vào vùng đồi núi này. Kể từ sau cuộc xâm lăng của người Ả Rập vào thế kỷ thứ bảy, chúng tôi luôn sống trong hòa bình, thịnh vượng với người Hồi giáo, tuy thỉnh thoảng cũng có vài hành động quấy nhiễu của người Thiên Chúa giáo Marôn vùng núi Li băng. Do thỏa hiệp nào đó giữa các nhà cầm quyền Ả Rập và Đế quốc La Mã Phương Đông mà chúng tôi phải đóng thuế cho cả hai, nhưng đổi lại, được cả hai bảo vệ. Nhờ đó, chúng tôi sống trong hòa bình hơn một nghìn năm qua và gần như không có cuộc chiến đổ máu nào: khó khăn chỉ thật sự đến từ những đội quân thập tự chinh sau này chứ không phải từ người Ả Rập theo đạo Hồi. Người Ả Rập - vốn dường như chỉ quan tâm đến chiến tranh (và thơ văn) - và đế chế Ottoman của người Thổ (Ottoman Turks) sau này - vốn cũng chỉ quan tâm đến chiến tranh (và hưởng lạc) - đã khiến cho chúng tôi không mặn mà gì trong việc theo đuổi thương mại cũng như để lại một phạm vi kiến thức ít nguy hiểm hơn (như việc giải thích các nội dung từ tiếng Xy-ri và Hy Lạp).

Dù theo một tiêu chuẩn nào đi nữa thì đất nước với tên gọi Li băng - đất nước mà đột nhiên chúng tôi cảm thấy mình là một phần của nó sau khi đế chế Ottoman sụp đổ vào đầu thế kỷ 20 - có vẻ là một thiên đường vững chãi, dù cũng có những lúc bị gián đoạn dưới sự thống trị của người Thiên Chúa giáo. Trong một ví dụ kinh điển về trạng thái tư duy tĩnh, không ai xem trọng những khác biệt về tỷ lệ sinh đẻ giữa các cộng đồng, và người ta kết luận rằng cộng đồng người Thiên Chúa giáo sẽ mãi trường tồn. Người dân Cận Đông đã được công nhận là công dân La Mã - điều cho phép Saint Paul, một người Xy-ri, có thể đi lại tự do trong thế giới cổ đại. Con người luôn cảm thấy có liên quan với những gì họ cho là xứng đáng; nơi này trở nên rộng mở với thế giới bên ngoài nhờ vào lối sống sành điệu, nền kinh tế thịnh vượng, thời tiết ôn hòa như ở California và những đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa nhô ra khỏi vùng Địa Trung Hải. Đây là nơi thu hút hàng loạt gián điệp (từ cả Xô Viết lẫn phương Tây), gái điếm (tóc vàng), nhà văn, nhà thơ, tội phạm buôn ma túy, nhà thám hiểm, đám nghiện cờ bạc, vận động viên quần vợt, du khách mùa trượt tuyết và thương gia - tất cả mọi nghề nghiệp có thể bổ sung cho nhau. Nhiều người hành động như thể họ đang sống trong một bộ phim James Bond xa xưa hay thời mà những kẻ ăn chơi chỉ biết nhậu nhẹt, hút chích và gắng sức làm quen với những thợ may lành nghề thay vì đến phòng tập thể dục.

Đặc điểm chính của thiên đường là đây: cánh tài xế được cho là cư xử lịch sự (dù theo tôi nhớ, họ chẳng hề lịch sự với tôi). Đúng thế, với nhận thức muộn màng, nơi này chỉ còn là thiên đường trong trí nhớ của mọi người mà thôi.

Ngày ấy, tôi còn quá trẻ để nếm trải những lạc thú của thiên đường này trước khi trở thành một tư tưởng gia nổi loạn và chẳng lâu sau, hình thành cho mình một sở thích khổ hạnh - phản đối xu hướng phô trương và dị ứng với thứ văn hóa theo đuổi sự xa hoa và nỗi ám ảnh về những thứ liên quan đến tiền bạc ở xứ Cận Đông này.

Thời niên thiếu, tôi luôn mong có ngày được dọn đến sống tại thủ đô, nơi có ít người kiểu như James Bond lảng vảng xung quanh. Và tôi vẫn còn nhớ có một điều gì đó đặc biệt ở bầu không khí tri thức nơi đây. Tôi theo học trung học tại một trường Pháp, một trong những trường thành công nhất, cho dù chỉ trong lĩnh vực đào tạo ngôn ngữ Pháp. Ở đó, tiếng Pháp được nói với một sự trong sáng nhất định: tương tự như nước Nga thời kỳ trước cách mạng, khi người Thiên Chúa giáo vùng Cận Đông và tầng lớp quý tộc Do Thái (từ Istanbul đến Alexandria) nói và viết thứ tiếng Pháp trang trọng, một ngôn ngữ thể hiện sự cao quý của mình. Những học sinh con nhà quý tộc sẽ học ở Pháp, như ông nội tôi (năm 1912) và ông ngoại tôi (năm 1929). Từ hai ngàn năm trước, do được thừa hưởng một năng khiếu ngôn ngữ xuất chúng, tầng lớp quý tộc vùng Cận Đông đã viết bằng tiếng Hy Lạp chứ không phải tiếng Xy-ri bản địa. (Kinh Tân Ước được viết bằng thứ tiếng Hy Lạp xấu của tầng lớp quý tộc ở thủ đô, Antioch, khiến Nietzche phải thốt lên rằng “Chúa nói thứ tiếng Hy Lạp xấu.”). Và, sau khi nền văn minh Hy Lạp cổ đi xuống, họ chọn tiếng Ả Rập. Chính vì thế, nơi này không chỉ được xem là “thiên đường” mà còn là điểm giao thoa kỳ diệu của hai nền văn hóa Đông-Tây.

Trên những nẻo đường lang thang
Nét đặc biệt của tôi được hình thành ở tuổi 15, khi bị tống giam với tội danh tấn công cảnh sát bằng một thanh xi măng trong cuộc bạo động của sinh viên - một cuộc xung đột với sự chia rẽ lạ lùng kể từ thời ông tôi theo học tại đây giữa Bộ trưởng Bộ Nội vụ và người ký lệnh dẹp tan cuộc bạo loạn ấy. Một người tham gia bạo loạn đã bị bắn chết khi viên cảnh sát - người bị ném đá vào đầu - đã hoảng loạn nã đạn vào chúng tôi. Tôi còn nhớ mình là trung tâm của cuộc bạo loạn và cảm thấy vô cùng hả hê khi bị bắt trong khi các bạn của tôi lại sợ cảnh tù tội cũng như sợ các bậc phụ huynh biết chuyện. Chúng tôi đã khiến chính quyền sợ đến nỗi phải xá tội cho mình.

Dĩ nhiên, có một số lợi ích khi được chứng tỏ khả năng hành động theo những gì mình nghĩ và không hề nao núng để tránh “đụng chạm” hay làm phiền người khác. Tôi đang trong cơn thịnh nộ và chẳng cần quan tâm đến những gì mà cha mẹ (và ông nội) sẽ nghĩ gì về mình. Điều này khiến họ có vẻ sợ tôi, vì thế, tôi không thể chùn lại, hay thậm chí chớp mắt. Nếu giấu giếm việc mình tham gia vào cuộc bạo động (như nhiều người khác) mà chẳng may bị phát hiện thay vì công khai đấu tranh, tôi chắc rằng mình sẽ bị đối xử như một đứa con lạc loài. Việc làm đó là một cách công khai quyền hành động, cũng giống như một người khi mặc các bộ trang phục kỳ quặc - thứ mà các nhà kinh tế và khoa học xã hội gọi là “dấu hiệu rẻ tiền”- đồng thời, nó còn chứng tỏ tư thế sẵn sàng để biến niềm tin thành hành động.

Chú tôi không mấy bận tâm đến những quan điểm chính trị của tôi (bởi chúng thường đến rồi đi); nhưng ông cảm thấy bị xúc phạm trước việc tôi dùng những quan điểm chính trị đó làm lý do cho việc ăn mặc luộm thuộm. Đối với ông, việc cư xử không phải phép với thành viên gần gũi trong gia đình là một sự xúc phạm nghiêm trọng.

Việc mọi người biết tôi bị giam cũng là một thuận lợi lớn: nó giúp tôi tránh được những dấu hiệu nổi loạn thường thấy ở đám trẻ đồng lứa. Tôi khám phá ra rằng, bạn sẽ có sức ảnh hưởng lớn hơn khi hành động như một người tốt và hãy “biết điều” nếu muốn chứng tỏ mình sẵn sàng làm nhiều điều chứ không phải chỉ có nói suông. Đôi khi, trong những tình huống ít ngờ nhất nhưng hoàn toàn có thể biện minh được, bạn có đủ sức để trở thành người có lòng trắc ẩn, dễ dãi và lịch thiệp khi kiện ai đó ra tòa hay tấn công kẻ thù chỉ để chứng tỏ rằng mình nói được làm được.

“Thiên đường” biến mất
“Thiên đường” Li băng bỗng nhiên biến mất sau vài quả đạn cối. Vài tháng sau sự kiện tôi bị tống giam, sau gần mười ba thế kỷ chung sống hòa bình giữa các dân tộc, một Thiên Nga Đen - không biết từ đâu xuất hiện - đã biến thiên đường ấy thành địa ngục. Một cuộc nội chiến ác liệt diễn ra giữa người Thiên Chúa giáo và người Hồi giáo với sự giúp sức của người Palestine tị nạn. Cuộc chiến hết sức thảm khốc khi vùng giao tranh đều nằm trong trung tâm thành phố và hầu hết các trận đánh đều diễn ra tại khu vực đông dân cư (trường học của tôi cũng chỉ cách vùng chiến sự vài trăm feet). Chiến tranh kéo dài hơn 15 năm. Tôi sẽ không miêu tả nhiều về cuộc chiến này. Có lẽ việc phát minh ra súng và các loại vũ khí có sức công phá lớn khác đã biến những gì vốn chỉ được xem là tình trạng căng thẳng vào thời đại của dao kiếm thành cuộc chiến ăn miếng trả miếng không thể kiểm soát được.

Bên cạnh sự tàn phá về vật chất (vốn dễ đi ngược với lợi ích của một số nhà thầu chiến tranh, các chính trị gia tham nhũng và những kẻ ngây thơ nắm giữ trái phiếu), chiến tranh đã lấy đi gần hết vẻ bề ngoài tinh tế - thứ đã khiến những thành phố Cận Đông trở thành trung tâm vĩ đại của tinh hoa tri thức liên tục suốt ba ngàn năm. Người Thiên Chúa giáo đã bỏ đi từ thời Ottoman, đến phương Tây, lấy họ phương Tây và hòa tan vào xã hội ấy. Cuộc di cư đó không ngừng tăng tốc. Số lượng những người có học thức còn lại giảm xuống dưới mức báo động. Khu vực này đột nhiên trở nên rỗng tuếch. Nạn chảy máu chất xám nghiêm trọng đến mức không thể cứu vãn được và một số tinh hoa tri thức cổ xưa có lẽ sẽ vĩnh viễn mất đi.

Đêm đầy sao
Lần tới, khi nhà bạn bị mất điện, hãy nhìn lên trời để tìm nguồn an ủi. Bạn sẽ không nhận ra nó. Trong chiến tranh, Beirut thường xuyên bị ngắt điện. Trước khi người dân tự trang bị máy phát điện, cả một vùng trời đêm trong vắt vì không bị ô nhiễm ánh sáng. Đó là khu vực xa vùng chiến sự nhất của thành phố. Người dân không có tivi bèn lái xe đi xem những tia sáng bắn lên từ các cuộc giao chiến trong đêm. Có vẻ họ thích cái nguy hiểm bị nổ tan tành vì bom đạn hơn là chán nản ngồi nhà trong đêm tối.

Vì vậy, bạn có thể ngắm các vì sao thật rõ. Ở trường trung học, người ta dạy tôi rằng các hành tinh đều ở một trạng thái gọi là cân bằng, cho nên không cần lo sợ vào một ngày nào đó, các vì sao sẽ bất ngờ đâm sầm vào hành tinh chúng ta. Với tôi, điều đó giống như những câu chuyện chúng ta được nghe về “sự vững chãi phi thường về lịch sử” của Li băng. Chính cái ý tưởng về sự cân bằng mà nhiều người vẫn nghĩ đó khiến tôi băn khoăn. Tôi ngắm nhìn những chòm sao trên trời và không biết phải tin vào điều gì.

LỊCH SỬ VÀ BỘ BA MỜ ĐỤC
Lịch sử luôn mơ hồ. Bạn nhìn thấy những gì hiện ra từ cỗ máy vận hành lịch sử, chứ không phải kịch bản của các sự kiện diễn ra. Do không thể nhìn thấy những gì bên trong chiếc hộp, không biết cơ chế hoạt động của nó thì dĩ nhiên hiểu biết của bạn về các sự kiện không tránh khỏi thiếu sót. Cái mà tôi gọi là cỗ máy vận hành các sự kiện lịch sử hoàn toàn khác với bản thân những sự kiện ấy, cũng giống như không thể chỉ dựa vào hành động của thần linh mà biết được họ đang nghĩ gì. Bạn rất có thể bị những ý định của họ đánh lừa.

Sự tách biệt này cũng giống như sự khác biệt giữa những thức ăn bày trên bàn mà bạn thấy ở nhà hàng với quy trình chế biến trong nhà bếp. (Lần cuối khi dùng bữa tại một nhà hàng Trung Quốc ở đường Canal trong trung tâm Manhattan, tôi nhìn thấy một con chuột chạy ra từ nhà bếp).

Khi nói đến lịch sử, bộ não con người mang ba chứng bệnh - thứ mà tôi gọi là bộ ba mờ đục. Chúng gồm:

a. ảo tưởng về sự hiểu biết, hay cách mọi người nghĩ rằng mình biết những gì đang diễn ra trên thế giới này trong khi chúng phức tạp (hay ngẫu nhiên) hơn rất nhiều so với khả năng thực của mình.

b. sự bóp méo khi truy hồi về quá khứ, hay cách chúng ta hiểu được vấn đề chỉ sau khi nó xảy ra, như thể nó nằm trong chiếc gương chiếu hậu (lịch sử có vẻ rõ ràng và “ngăn nắp” trong sách vở hơn so với trải nghiệm thực tế.

c. sự đánh giá quá cao thông tin có thật cùng với sự cản trở của những người có học thức và có thẩm quyền, nhất là là khi tạo ra các phạm trù - khi “Plato hóa”!

Không ai biết điều gì đang diễn ra
Nhánh đầu tiên của bộ ba này chính là bệnh lý tư tưởng cho rằng thế giới mà chúng ta đang sống dễ hiểu, dễ giải thích và do đó dễ dự đoán hơn bản chất thực của nó.

Người lớn thường nói với tôi rằng chiến tranh sẽ kết thúc “trong nay mai”, dù trên thực tế nó kéo dài gần mười bảy năm. Họ tỏ ra khá tự tin với những dự báo về thời gian của cuộc chiến, cũng giống như nhiều người đang tạm trú tại khách sạn hay khu tạm cư ở Đảo Síp, Hy Lạp, Pháp và nhiều nơi khác chờ chiến tranh kết thúc. Một ông chú thường kể cho tôi nghe rằng, khi đến tị nạn ở Li băng khoảng chừng ba mươi năm trước, những người Palestin chỉ xem nơi này là giải pháp rất tình thế (nhưng sau sáu thập kỷ, hầu hết những người còn sống đều vẫn ở đó). Tuy nhiên, khi được hỏi liệu cuộc xung đột của chúng ta có diễn ra theo chiều hướng tương tự không, ông chú đáp: “Không, dĩ nhiên là không. Nơi này hoàn toàn khác và luôn như thế”. Không hiểu sao, những gì chú tôi phát hiện ở người khác có vẻ như chẳng được áp dụng với chính mình.

Sự mù tịt về thời gian trong cộng đồng những người tị nạn tuổi trung niên này giống như một căn bệnh truyền nhiễm. Sau này, khi quyết định tránh xa nỗi ám ảnh của những người tị nạn (nguồn cội này đã ăn sâu vào tính cách của họ), tôi nghiên cứu nền văn học của họ, đúng ra là để tránh cái bẫy của nỗi niềm hoài cổ có sức chi phối và ám ảnh cao. Những người tị nạn này có vẻ như đã trở thành tù nhân của chính ký ức về quá khứ tươi đẹp, yên bình - họ ngồi lại cùng nhau, cùng các tù nhân khác của quá khứ, nói về đất nước xa xưa, thưởng thức những món ăn truyền thống trong bầu không khí của nền âm nhạc dân tộc. Họ luôn có những ý nghĩ phản thực trong đầu, tạo ra nhiều kịch bản thay thế mà lẽ ra đã có thể giúp ngăn chặn những sự chia cắt trong lịch sử, chẳng hạn như “nếu người Shad không đưa gã bất tài này lên làm thủ tướng thì giờ đây chúng ta vẫn đang ở quê hương của mình”. Có vẻ như sự biến động lịch sử đó xuất phát từ một nguyên nhân cụ thể, và hẳn con người có thể tránh được thảm họa đó nếu loại bỏ được nguyên nhân cụ thể kia. Vì thế, giờ đây, khi gặp bất cứ một người tị nạn nào, tôi đều tìm cách dò hỏi thông tin về hành vi của họ trong quãng thời gian tị nạn. Hầu như tất cả đều hành xử theo cùng một cách.

Người ta cũng nghe vô số câu chuyện về người dân Cuba với những chiếc vali còn vơi phân nửa, những người chuẩn bị cho hành trình tị nạn đến Miami trong thập niên 60 chỉ để ở tạm “vài ngày” sau khi chính quyền Castro được thiết lập. Tương tự, nhiều người Iran tị nạn đến Paris hay Luân Đôn để lẩn tránh nhà nước Cộng hòa Hồi giáo mới ra đời năm 1978 cứ nghĩ chuyến đi của mình chỉ là một kỳ nghỉ ngắn ngày. Thế rồi, sau hơn một phần tư thế kỷ, chỉ còn một vài người mong chờ ngày trở về. Nhiều người Nga rời Tổ quốc đến Berlin năm 1917 - ví dụ như nhà văn Vladimir Nabokov - tưởng như được trở về cố quốc sau một thời gian ngắn, trong khi bản thân nhà văn thiên tài này đã sống cả đời trong những ngôi nhà tạm bợ, sang trọng có, tồi tàn có, cho đến khi qua đời tại khách sạn Montreux Palace, Lake Geneva.

Dĩ nhiên, có một mơ tưởng nào đó trong số các lỗi dự báo này, sự hy vọng mù quáng, nhưng cũng có cả vấn đề về kiến thức nữa. Rõ ràng, người ta không thể dự đoán được nguyên nhân gây ra xung đột của người Li băng, tuy nhiên, cách mà mọi người tranh luận khi nghiên cứu những sự kiện này lại khẳng định một điều rằng: hầu hết những ai quan tâm đều có vẻ như tin chắc rằng họ hiểu được điều gì đang diễn ra. Mỗi ngày trôi qua mang đến những sự kiện hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của họ, nhưng họ lại không nhận ra rằng chúng không phải là thứ mình đã dự đoán. Phần lớn những gì đã xảy ra đều được cho là hoàn toàn điên rồ so với quá khứ. Tuy nhiên, sau đó, có vẻ như không còn ai cho nó là điên rồ nữa. Chính sự hợp lý khi nhìn lại quá khứ này là nguyên nhân gây ra thái độ xem thường tính khan hiếm và khả năng hình thành ý niệm về sự kiện đó. Sau này, tôi cũng được chứng kiến chính sự ảo tưởng về hiểu biết này trong kinh doanh và các thị trường tài chính.

Lịch sử không lê từng bước mà sải những bước dài
Sau này, trong quá trình hình thành ý tưởng cho khái niệm về những biến cố ngẫu nhiên dựa trên những sự kiện đã xảy ra trong thời chiến, tôi có một ấn tượng rất sâu sắc rằng bộ não của chúng ta là những cỗ máy giải thích rất tuyệt vời, có khả năng hiểu được hầu hết mọi thứ, có thể đưa ra lời giải thích về bản chất của mọi hiện tượng, và thường không chấp nhận khái niệm về khả năng không thể dự đoán. Những biến cố này đều không thể lý giải được, nhưng những người thông minh thì nghĩ rằng mình có thể đưa ra lời lý giải thuyết phục cho những sự kiện đó - sau khi chúng xảy ra. Hơn nữa, người đó càng thông minh thì lời giải thích càng hợp lý. Điều đáng lo ngại hơn chính là tất cả những niềm tin và ghi chép này đều gắn kết với nhau một cách hợp lý và hầu như không có tuyên bố trái chiều nào.

Rời khỏi nơi có tên gọi Li băng khi còn là một thiếu niên, nhưng vì khá nhiều bà con, bạn bè còn sống ở đó nên tôi vẫn thường xuyên về thăm, nhất là trong thời chiến. Chiến tranh không diễn ra liên tục: có những giai đoạn ngắt quãng bởi các giải pháp “lâu dài”. Tôi cảm thấy mình trở nên gần gụi hơn với nguồn cội vào những thời khắc khó khăn và được thôi thúc trở về để giúp đỡ những người ở lại đang tuyệt vọng khi mọi người liên tục khăn gói ra đi đồng thời ganh tị với những kẻ cơ hội đã dứt áo ra đi để tìm kiếm sự an toàn cho bản thân cùng tài sản của mình và chỉ trở về thăm quê vào những dịp khi chiến sự yên ắng như thế này. Tôi không tài nào nghiên cứu hay sáng tác được trong thời gian sống ngoài lãnh thổ Li băng, khi đồng bào của mình đang ngã xuống, nhưng trái lại, khi ở trong lòng Li băng, tôi không còn bị chi phối bởi điều đó và có thể theo đuổi niềm đam mê tri thức của mình mà không cảm thấy cắn rứt lương tâm. Thật thú vị, trong những thời khắc như thế, người dân lại tiệc tùng rình rang hơn, sống xa hoa hơn, và điều này càng thôi thúc người ta về quê, ngay cả khi có chiến sự.

Có một vài câu hỏi khó. Làm thế nào người ta có thể dự đoán được cộng đồng dân cư vốn là hình mẫu về sự bao dung lại trở thành những kẻ man rợ nhất chỉ sau một đêm? Vì sao lại có sự thay đổi đột ngột đến vậy? Ban đầu, tôi cho rằng có lẽ cuộc chiến tại Li băng hoàn toàn không thể dự đoán được, không như những cuộc xung đột khác, và rằng Cận Đông là một tộc người quá phức tạp nên không thể hiểu thấu được, về sau, khi bất đầu phân tích những biến cố lớn trong lịch sử, tôi dần nhận ra rằng sự bất thường của họ không phải là một thuộc tính mang tính bản địa.

Xứ Cận Đông giống như một nơi sản xuất hàng loát các biến cố có tính lôgic mà không ai thấy được dấu hiệu xuất hiện của chúng. Ai đã từng dự đoán được Thiên Chúa giáo sẽ trở thành tôn giáo thống trị vùng Địa Trung Hải, và sau này là cả thế giới phương Tây? Những nhà ghi chép sử sách của đế quốc La Mã thời ấy cũng không có dòng nào nói về tôn giáo mới này - các sử gia nghiên cứu Thiên Chúa giáo cũng gặp khó khăn khi không tìm thấy sử liệu về thời này. Rõ ràng, ít có vị chức sắc đức cao vọng trọng nào thời ấy chịu cân nhắc ý kiến của một người Do Thái dị giáo đủ nghiêm túc để nghĩ rằng mình sẽ để lại dấu tích gì đó cho con cháu đời sau. Chúng ta chỉ có một nguồn sử liệu để tham khảo về Đức Chúa thành Nazareth - cuốn Những cuộc chiến tranh của người Do Thái (The Jewish Wars) của Josephus - mà bản thân nguồn tham khảo này cũng bị nghi ngờ là đã được thêm thắt bởi một người chép kinh sùng đạo. Thế còn việc có một tôn giáo cạnh tranh xuất hiện sau đó 7 thế kỷ thì sao; ai đã từng dự đoán được một nhóm ky sĩ lại có thể mở rộng đế chế và Luật Hồi giáo của mình từ tiểu lục địa Ấn Độ đến tận Tây Ban Nha chỉ trong một vài năm? Xét về mức độ không thể dự đoán được, sự bành trướng của đạo Hồi vượt xa sự trỗi dậy của Thiên Chúa giáo, nhiều sử gia xem lại những ghi chép lịch sử và hoàn toàn bất ngờ trước sự thay đổi diễn ra quá chóng vánh đó. Đầu tiên là Georges Duby, người bày tỏ sự kinh ngạc trước việc không biết làm cách nào mà một nền văn hóa cổ Hy Lạp của tộc người Cận Đông với bề dầy gần 10 thế kỷ như thế lại bị xóa sổ chỉ bằng “một nhát gươm”. Về sau, Paul Veyne - người kế nhiệm ông tại Collège de France - đã nói một cách khéo léo về sự lan tỏa của tôn giáo như những “tác phẩm bán chạy” - một cách so sánh ám chỉ tính chất không thể dự đoán được. Những kiểu gián đoạn trong niên đại của các sự kiện này đã gây không ít khó khăn cho công việc của sử gia; ngay cả công trình nghiên cứu công phu nhất về quá khứ cũng không thể dạy bạn nhiều điều về bộ não của Lịch sử mà chỉ khiến bạn ảo tưởng rằng mình hiểu biết về Lịch sử.

Lịch sử và các xã hội không lê từng bước mà sải những bước dài. Chúng nhảy từ vết gãy này đến vết gãy khác nhưng hầu như chỉ gặp một vài trở ngại. Tuy nhiên, chúng ta (và các nhà sử học) lại thích tin vào quá trình phát triển cấp tiến nhỏ bé và có thể dự đoán được đó.

Và từ đó, tôi luôn tin rằng chúng ta chỉ là những cỗ máy vĩ đại chuyên nhìn về quá khứ, và rằng con người chỉ giỏi lừa dối chính mình. Thời gian trôi qua càng cũng cố niềm tin của tôi về sự bóp méo này.

Cuốn nhật ký thân yêu: Khi lịch sử chạy ngược
Khi đến với chúng ta, các sự kiện đã bị bóp méo. Hãy phân tích bản chất của thông tin: trong số hàng triệu, hay thậm chí hàng nghìn tỷ những việc nhỏ bé xuất hiện tràn lan trước khi một biến cố xảy ra, hóa ra chỉ có một vài sự việc là có liên quan đến quá trình nhận thức của bạn về những gì đã xảy ra. Do trí nhớ bị giới hạn và được chắt lọc nên bạn có chiều hướng ghi nhớ những dữ liệu nào ăn khớp với các sự kiện sau này, trừ khi bạn là Funes trong truyện ngắn của Jorge Luis Borges, “Funes, Người cường ức” (Funes, the Memorions) - người không bao giờ quên và có vẻ như phải sống với gánh nặng chất đầy những thông tin chưa xử lý. (Và ông ta không thể sống thọ được).

Lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với sự bóp méo truy hồi về quá khứ như sau: Thời thơ ấu, tôi là một người ham mê đọc sách nhưng dễ thay đổi. Vào giai đoạn đầu của cuộc chiến, tôi nhốt mình trong một căn hầm, nơi mà cả thể xác lẫn tâm hồn mình đều hòa quyện với sách. Trường học đã bị đóng cửa và đạn cối dội xuống suốt ngày đêm. Thật chán không thể tưởng khi phải giam mình dưới hầm. Nhưng điều làm tôi lo lắng hơn cả chính là cách chống lại sự buồn chán và nên đọc thứ gì tiếp theo 6 - dù chuyện bị ép đọc do không có việc gì khác chẳng lấy gì làm thích thú so với việc đọc một cách tự nguyện. Tôi muốn trở thành một triết gia (và đến giờ vẫn thế), vì vậy, tôi nhận thấy mình cần phải đầu tư nghiêm túc vào việc học hỏi tư tưởng của những triết gia khác. Hoàn cảnh đã thôi thúc tôi nghiên cứu các ghi chép tổng quát và lý thuyết về chiến tranh và xung đột, cố gắng “bắt bài” Lịch sử và nắm bắt được quá trình vận hành của cỗ máy vĩ đại sản sinh ra các sự kiện này.

Thật đáng ngạc nhiên, cuốn sách có ảnh hướng lớn nhất đối với tôi không phải là tác phẩm của một người hoạt động trong lĩnh vực tư duy, mà được viết bởi một nhà báo: Willam Shirer's Berlin Diary: The Journal of a Foreign Correspondent, 1934-1941 (Tạm dịch: Nhật ký Berlin: Ghi chép của một phóng viên ngoại quốc, 1934-1941). Shirer là một phóng viên truyền thanh, nổi tiếng với tác phẩm The Rise and Fall of the Third Reich (Tạm dịch: Sự trỗi dậy và tan rã của Đệ Tam Quốc Xã, bản dịch tiếng Việt: Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ ba - nhà xuất bản Tri Thức ). Với tôi, cuốn nhật ký đã mang đến một góc nhìn khác lạ. Tôi đã đọc (và nghiên cứu) các tác phẩm của Hegel, Marx, Toynbee, Aron và Fichte về tính triết học của lịch sử, cũng như những thuộc tính của nó, và nghĩ rằng nhận thức của mình về khái niệm biện chứng còn mơ hồ vì cảm thấy còn có cái gì đó ở những lý thuyết này mà mình chưa hiểu được. Tôi không hiểu được nhiều, ngoại trừ việc lịch sử cũng có tính lôgic nhất định và những vật chất sinh ra từ mâu thuẫn (hay các dạng thức đối lập) theo chiều hướng đưa loài người lên các hình thái xã hội cao hơn - một dạng vật chất đó. Điều này rất giống với quá trình lý thuyết hóa đang diễn ra quanh tôi về cuộc chiến tại Li băng. Cho đến tận ngày nay, khi được bất cứ ai hỏi một câu hỏi buồn cười rằng cuốn sách nào đã “định hình tư tưởng của tôi”, tôi đều khiến họ ngạc nhiên khi trả lời rằng cuốn sách này đã dạy tôi (dù hết sức tình cờ) nhiều điều nhất về triết học và lịch sử lý thuyết - và, chúng ta sẽ thấy, nó còn dạy cả kiến thức về khoa học nữa, bởi tôi cũng học được sự khác nhau giữa các quy trình thuận và nghịch.

Bằng cách nào? Đơn giản thôi, nội dung cuốn nhật ký mô tả sự kiện ngay khi nó đang xảy ra chứ không phải sau đó. Tôi ở trong hầm và lịch sử đang diễn ra rành rành ngay phía trên đầu mình (âm thanh của những quả đạn cối khiến tôi trằn trọc suốt đêm). Tôi là một thiếu niên tham dự tang lễ của nhiều người bạn học. Tôi đang trải nghiệm một sự phô bày có thật (chứ không phải trên lý thuyết) của Lịch sử và đang đọc về một người hình như cũng đang trải nghiệm lịch sử khi nó xảy ra. Tôi cố hình dung trong đầu một bài diễn thuyết giống như phim về tương lai và nhận thấy bài thuyết trình này không được rõ ràng cho lắm. Tôi nhận ra rằng, nếu bắt đầu viết về các sự kiện (trong tương lai) dù sau đó, chúng lại có vẻ thuộc về lịch sử nhiều hơn. Có sự khác biệt giữa trước khi và sau khi.

Shirer viết cuốn nhật ký khi không biết điều gì sắp xảy ra, khi thông tin mà ông có trong tay không bị những kết quả xảy ra sau đó làm cho sai lệch. Có một vài nhận định sau đó thật sáng giá, đặc biệt là những nhận định liên quan đến niềm tin của người Pháp rằng Hitler chỉ là một hiện tượng nhất thời, điều này giải thích vì sao người Pháp đã không kịp chuẩn bị và nhanh chóng đầu hàng ngay sau đó. Chẳng bao giờ mức độ của sự tàn phá nghiêm trọng lại được coi là có thể chấp nhận được.

Trong khi trí nhớ của chúng ta rất thất thường thì một cuốn nhật ký ít nhiều có thể trực tiếp ghi lại những bằng chứng không thể chối cãi, do đó, cho phép cố định một quan điểm chưa được xem xét và sau này, giúp chúng ta nghiên cứu các sự kiện trong bối cảnh của nó. Một lần nữa, đây là phương pháp mô tả có chủ đích về sự kiện quan trọng, chứ không phải cách thực hiện sự kiện đó. Có vẻ như Shirer và các biên tập viên của ông đã giở trò gian lận, vì cuốn sách được xuất bản năm 1941, mà theo tôi được biết, các nhà xuất bản chỉ thực hiện công việc đưa câu chữ đến với công chúng thay vì mang đến một bức tranh chân thật về hệ thống tư duy của tác giả vốn thoát khỏi tác động của sự bóp méo khi truy hồi về quá khứ. (Từ “gian lận” ở đây theo tôi là việc loại bỏ các chi tiết không ăn nhập với những gì đã xảy ra, do đó đề cao những thứ có thể thu hút được sự quan tâm của công chúng. Quả thật, quá trình biên tập có thể có những bóp méo hết sức nghiêm trọng, đặc biệt khi tác giả được đánh giá là một “biên tập viên giỏi”). Mặc dù vậy, cuốn sách của Shirer đã giúp tôi có được trực giác về quá trình vận hành của lịch sử. Ai đó sẽ cho rằng những người sống từ giai đoạn đầu của Đệ Nhị Thế chiến sẽ có ý niệm mơ hồ rằng một sự kiện trọng đại nào đó sắp xảy ra. Hoàn toàn không có ai cả. 7

Cuốn nhận ký của Shirer trở thành một chương trình huấn luyện về động lực của tính bất định. Tôi từng muốn trở thành một triết gia dù lúc đó không biết hầu hết các triết gia chuyên nghiệp làm gì để sống. Nhưng chính mong muốn ấy đã dẫn tôi đến một quyết định mạo hiểm (đúng hơn là việc thực hành mạo hiểm về tính bất định) và đồng thời đến với các mục tiêu theo đuổi về toán học và khoa học.

Chuyện học trên chiếc tắc-xi
Tôi xin giới thiệu nhánh thứ ba trong bộ ba mờ đục - tai họa của chuyện học hành - như sau. Tôi thường quan sát kỹ ông tôi - người từng giữ chức Bộ trưởng Bộ quốc phòng và sau này giữ chức Bộ trưởng Bộ nội vụ và Phó Thủ tướng vào những ngày đầu của cuộc chiến trước khi vai trò chính trị của ông trở nên suy yếu. Dù nắm giữ những vị trí quan trọng, nhưng có vẻ như ông không biết về những gì sắp xảy ra nhiều hơn so với Mikhail, tài xế riêng của mình. Tuy nhiên, khác với ông tôi, Mikhail thường lặp lại câu nói “Có Chúa mới biết” như một câu bình luận “cửa miệng” về các sự kiện, nhường lại việc hiểu về điều đó cho những người ở cấp cao hơn.

Tôi nhận thấy rằng những người thông minh và có hiểu biết không hề có lợi thế nào hơn so với cánh tài xế tắc-xi trong việc dự đoán, tuy nhiên, có một khác biệt rất quan trọng. Cánh tài xế tắc-xi tin rằng mình không hiểu biết nhiều bằng những người có học thức - quả thật, họ không phải chuyên gia, và họ biết điều đó. Không ai biết hết mọi thứ, tuy nhiên, những nhà tư tưởng siêu sao lại luôn nghĩ rằng mình biết nhiều hơn người khác bởi mình là những nhà tư tưởng thuộc hạng siêu sao, và nếu là thành viên của cộng đồng siêu sao thì tự nhiên bạn sẽ hiểu biết nhiều hơn những người không thuộc cộng đồng đó.

Không chỉ có giá trị của kiến thức, mà ngay cả giá trị của thông tin cũng bị hoài nghi. Tôi nhận thấy hầu hết mọi người đều biết đến những chi tiết nhỏ nhất của các sự kiện hiện nay. Sự chồng chéo tin tức giữa các tờ báo lớn đến mức càng đọc, bạn càng nắm được ít thông tin hơn. Tuy nhiên, mọi người lại tỏ ra hào hứng biết về các sự kiện, đến mức có thể đọc hết mọi ấn phẩm vừa ra lò hay nghe tất cả các kênh radio như thể đáp án vĩ đại sẽ được tiết lộ trong bản tin sắp tới. Mọi người trở thành những cuốn bách khoa toàn thư mang nội dung đại loại như: người này đã gặp những ai, chính trị gia nào đã nói chuyện với chính trị gia kia, nói những gì (và với giọng điệu như thế nào: “Có phải ông ta thân thiện hơn bình thường không?”) Nhưng tất thảy chẳng mang lại lợi ích nào cả.

NHỮNG HÌNH THÁI BẦY ĐÀN
Tôi cũng nhận thấy rằng trong cuộc chiến tại Li băng, cánh nhà báo tập hợp lại không nhất thiết để chia sẻ những ý tưởng tương đồng mà thường xoay quanh phạm vi các bài phân tích. Họ đặt các nhóm sự kiện tương đồng vào một mức độ quan trọng như nhau và chia thực tiễn thành nhiều danh mục - một lần nữa, đây là triệu chứng của căn bệnh lây nhiễm chủ nghĩa Plato hay niềm khát khao đưa thực tiễn vào những hình thù thô ráp. Cái mà Robert Fisk gọi là “nhà báo salon” (hotel journalism) càng làm cho căn bệnh thần kinh này thêm nghiêm trọng. Trong khi trước đây, cánh nhà báo cho rằng Li băng thuộc vùng Cận Đông hay vùng bờ Đông Địa Trung Hải dù đột nhiên bây giờ, nó lại là một bộ phận của Trung Đông, cứ như thể có ai đó đã chuyển cả thành phố về xứ Ả Rập Saudi đầy cát nóng này vậy. Còn đảo Síp nằm ở phía Bắc Li băng, cách ngôi làng của tôi chừng 60 dặm, nhưng thức ăn, nhà thờ và thói quen của người dân nơi đây gần như giống hệt làng tôi, lại đột nhiên trở thành một phần của châu Âu (dĩ nhiên, theo đó, cư dân bản địa của hai nơi này - Trung Đông mới và châu Âu mới - phải học cách thích nghi). Nếu trong quá khứ, vùng Địa Trung Hải và các vùng miền khác có sự khác biệt với nhau (ví dụ như dầu ô-liu và bơ) thì trong thập niên 70, sự khác biệt ấy được nâng lên thành sự khác biệt của châu Âu và các châu lục khác. Đạo Hồi giờ đây bị kẹt giữa một bên là châu Âu mới và một bên là Trung Đông mới, và người ta không biết xếp những người Thiên Chúa giáo (hay Do Thái) bản xứ nói tiếng Ả Rập vào nhóm nào. Trong xã hội loài người, việc phân chia theo phạm trù là cần thiết, nhưng nó sẽ trở nên vô lý nếu như quá cứng nhắc, ngăn cản con người xem xét sự mong manh của các ranh giới, như thế, chuyện chỉnh sửa lại các nhóm xem ra là điều không tưởng. Chính căn bệnh lây nhiễm kia là thủ phạm. Nếu có thể chọn ra được một trăm nhà báo có tư duy độc lập, có khả năng xem xét vấn đề này một cách tách bạch với vấn đề khác, bạn sẽ nhận được một trăm ý kiến khác nhau từ họ. Tuy nhiên, việc người ta làm báo theo một quy trình không cần động não này đã khiến cho tính đa chiều của ý kiến giảm đi một cách đáng kể - họ, cánh nhà báo, thống nhất ý tưởng và sử dụng những mẫu tin tương tự nhau để giải thích cho các sự kiện. Ví dụ, tạm thời không nhắc tới Li băng nữa, cánh nhà báo hiện nay đang chú ý đến “thập niên tám mươi ầm ĩ”, và cho rằng có điều gì đó thật khác biệt về thập niên này. Với cuộc khủng hoảng bong bóng Internet vào cuối thập niên 90, cánh nhà báo đã nhất trí xem các dấu hiệu chỉ thị điên khùng là lời giải thích cho chất lượng của những công ty vô giá trị mà ai cũng muốn sở hữu. 8

Nếu bạn muốn tìm hiểu ý nghĩa mà tôi muốn nói về sự tùy tiện trong việc phân chia theo phạm trù, hãy xem xét trường hợp của nền chính trị bị phân cực. Lần tới, khi người Sao Hỏa viếng thăm Trái Đất, hãy cố gắng giải thích cho anh ta hiểu vì sao những người ủng hộ việc phá thai lại không ủng hộ án tử hình. Hay, hãy cố gắng giải thích với anh ta là sao những người chấp nhận nạn phá thai, ủng hộ chính sách thuế cao nhưng lại không muốn có một quân đội hùng mạnh. Vì sao những người ủng hộ tự do tình dục lại chống quyền tự do kinh tế cá thể?

Tôi đã nhận thấy sự ngu xuẩn của tính bầy đàn ngay từ hồi còn trẻ. Khi các sự kiện biến chuyển theo một vòng quay khá buồn cười, trong cuộc nội chiếu ở Li băng, người Thiên Chúa giáo đã trở thành người ủng hộ thị trường tự do và hệ thống tư bản chủ nghĩa - cái mà một phóng viên gọi là “Phe Hữu”- còn người Hồi giáo lại đi theo chủ nghĩa xã hội, tiếp nhận sự hỗ trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa.

Cách tốt nhất để chứng minh tính tùy tiện của các phạm trù này và tác động truyền nhiễm của chúng chính là ghi nhớ xem những hình thái bầy đàn này đã đảo chiều bao nhiêu lần trong lịch sử. Ngày nay, sự liên minh giữa những người Thiên Chúa giáo chính thống và các nhà vận động hành lang Israel hẳn sẽ gây hoang mang cho giới trí thức của thế kỷ 19 - Người Thiên Chúa từng chống lại người Semite (thành viên nhóm chủng tộc gồm Do Thái và Ả Rập), trong khi người Hồi giáo lại từng đứng ra bảo vệ người Do Thái, những người mà họ thích giao du hơn người Thiên Chúa. Những người tự cho chủ nghĩa từng là Phe Tả. Điều khiến tôi, với tư cách một người theo thuyết cái nhiên, cảm thấy thích thú chính là một biến cố ngẫu nhiên nào đó có thể khiến cho nhóm ủng hộ một vấn đề liên kết với nhóm ủng hộ một vấn đề khác, do đó, khiến cả hai liên kết và hợp nhất… cho đến khi đều bất ngờ về sự chia cắt đó.

Việc phân loại phạm trù luôn làm giảm tính phức tạp thực sự của vấn đề. Nó chính là biểu hiện khởi xướng của Thiên Nga Đen, hiện tượng Plato hóa vững chắc mà tôi đã trình bày trong Phần mở đầu. Bất kỳ sự suy giảm nào của thế giới quanh ta đều để lại những hậu quả dễ bùng nổ vì một số yếu tố bất định đã được giải phóng; nó khiến chúng ta hiểu sai về kết cấu của thế giới. Chẳng hạn, bạn có thể nghĩ rằng những người Hồi Giáo cực đoan (và cả những giá trị của họ) là đồng minh của mình, và bạn sẽ giúp họ phát triển cho đến một ngày, họ cho hai chiếc phi cơ bay thẳng đến trung tâm thành phố Manhattan.

Vài năm sau khi cuộc chiến Li băng nổ ra, tôi tròn hai mươi tuổi và bắt đầu theo học trường Wharton. Tại đây, lần đầu tiên, tôi tiếp xúc với ý tưởng về thị trường hiệu quả - một ý tưởng cho rằng không có cách nào có thể kiếm lợi từ những chứng khoán đã giao dịch bởi vì những công cụ này đã tự động cập nhật tất cả các thông tin hiện có. Do đó, thông tin công cộng trở nên vô dụng, nhất là đối với các thương gia, bởi giá cả đã “bao hàm” tất cả những thông tin đó và khi tin tức đã được lan truyền cho hàng triệu người thì bạn cũng không còn lợi thế thực sự nào nữa. Nhưng điều kỳ lạ ở chỗ là ít nhất một trong số hàng trăm triệu người đọc được thông tin đó đã tìm mua chứng khoán này, do đó, đẩy giá của nó lên cao. Về sau, tôi ngưng hẳn việc đọc báo, xem tivi và đã tiết kiệm được một khoảng thời gian đáng kể (tức là một hoặc vài giờ mỗi ngày, đủ để đọc thêm hàng trăm cuốn sách mỗi năm; và sau vài thập kỷ, con số này bắt đầu gia tăng). Tuy nhiên, đây không phải là lý do chính để tôi tuyên bố rời bỏ báo chí trong cuốn sách này, bởi chúng ta sẽ hiểu thêm về lợi ích từ việc né tránh độc tính của thông tin. Ban đầu, nó là lý do tuyệt vời để tránh xa những chi tiết vụn vặt của công việc kinh doanh, một sự thông minh hoàn hảo bởi tôi thấy chẳng có gì thú vị ở những tiểu tiết của thế giới kinh doanh vốn cục mịch, ngu ngốc, khoa trương, tham lam, thiếu trí tuệ, ích kỷ và nhàm chán.

Vở kịch ở đâu?
Không hiểu vì sao những người có dự định trở thành “triết gia” hay “triết gia khoa học về lịch sử” cuối cùng lại trở thành sinh viên trường kinh doanh. Tôi nhận thấy rằng, ở một đất nước nhỏ bé và lạc hậu, không phải chỉ có những chính trị gia tầm thường (và anh tài xế Mikhail bình thản của ông ta) mới là người không biết điều gì đang diễn ra. Suy cho cùng, người dân ở những nước nhỏ bé có vẻ như không biết gì đến thế sự xung quanh. Những gì tôi đã thấy chính là tại một trong những trường dạy kinh doanh uy tín nhất thế giới, ở đất nước hùng mạnh nhất trong lịch sử thế giới, những vị giám đốc điều hành của các tập đoàn hùng mạnh nhất thường có xu hướng mô tả về công việc họ làm để kiếm sống, và có thể bản thân họ cũng không biết những gì đang diễn ra xung quanh. Trên thực tế, theo tôi nghĩ, điều này không chỉ dừng lại ở một sự kiện có thể xảy ra. Từ trong xương tủy mình, tôi cảm nhận được sức nặng về sự kiêu ngạo tri thức của loài người. 9

Tôi bị ám ảnh. Vào lúc đó, tôi bắt đầu có khái niệm về chủ đề của mình - những sự kiện không ai nghĩ có thể xảy ra nhưng lại để lại hậu quả nghiêm trọng. Không chỉ những vị điều hành doanh nghiệp ăn mặc chỉn chu, thiếu kích thích tố sinh dục nam, mà cả những người có học vấn uyên thâm cũng bị thứ vận may này đánh lừa. Nhận thức này đã thay đổi cách nhìn của tôi về Thiên Nga Đen, từ sự may rủi thường tình của những người làm kinh doanh thành vấn đề về tri thức và khoa học. Tôi cho rằng kết quả khoa học không chỉ vô dụng trong thực tế, bởi nó xem nhẹ ảnh hưởng của những điều gần như không thể xảy ra (hay khiến chúng ta bỏ qua chúng), mà phần lớn trong số chúng thậm chí có thể tạo ra các Thiên Nga Đen. Những vấn đề nêu trên không chỉ dừng lại ở các lỗi phân loại khiến bạn trượt môn điểu cầm học. Tôi đã bắt đầu nhìn thấy hậu quả của ý tưởng trên.

TĂNG THÊM GẦN 4 KÍ LÔ
Ngày 19/10/1987, tức 4 năm rưỡi sau khi tốt nghiệp trường Wharton (và tăng gần 4 kí lô), tôi tản bộ từ văn phòng của Ngân hàng Đầu tư Credit Suisse First Boston ở trung tâm Manhattan về nhà ở khu Upper East Side. Tôi đi chậm rãi vì khi đó tâm trạng rất hoang mang.

Có một sự kiện tài chính đáng buồn xảy ra trong ngày hôm đó - ngày thị trường sụt giảm nhiều nhất trong lịch sử (hiện đại). Đáng buồn hơn cả là nó xảy ra trong lúc chúng tôi tưởng rằng mình đã đủ tinh vi để có thể ngăn chặn hay ít ra cũng dự đoán và kiểm soát được những cú sốc lớn, bởi trong tay chúng tôi có nhiều nhà kinh tế học thông minh, Plato hóa (với những phương trình dựa trên đường cong hình chuông hóa ra chỉ là đồ dỏm). Thậm chí không có một dấu hiệu nào dự báo về cú rơi đó của thị trường. Chỉ mới ngày hôm trước, không ai có thể hình dung sự cố này sẽ xảy ra - nếu tôi nhìn ra khả năng này thì biết đâu người ta sẽ gọi tôi là đó mất trí. Sự kiện này hội đủ tiêu chuẩn của một Thiên Nga Đen, nhưng khi đó, tôi hoàn toàn không có khái niệm gì về thuật ngữ này.

Tình cờ, tôi gặp Demetrius, một đồng nghiệp của mình trên phố Park, và khi chúng tôi bắt đầu nói chuyện thì một phụ nữ trông rất căng thẳng, mất hết tự chủ chen ngang vào, “Này, hai anh có biết chuyện gì đang xảy ra không?” Những người đi bộ trên vỉa hè trông có vẻ bàng hoàng. Trước đó, tôi còn thấy một vài người lặng lẽ thổn thức trong phòng giao dịch của Ngân hàng First Boston. Tôi đã trải qua ngày “tâm chấn” của sự kiện đó, chứng kiến cảnh mọi người chạy trong hoảng loạn giống như những chú thỏ đứng trước đèn pha ô tô vậy. Khi về đến nhà, Alexis - cậu em họ tôi - gọi đến thông báo rằng người hàng xóm của cậu ta đã chết do gieo mình từ tầng thượng xuống đất. Điều này không có gì kỳ lạ cả. Nó cũng giống như Li băng với một khúc quanh lịch sử: nếm trải cả hai sự kiện, tôi nhận thấy rằng, sự túng quẫn về tài chính còn khiến người ta tuyệt vọng hơn cả chiến tranh (thử nghĩ xem, khó khăn tài chính và cảm giác tủi nhục có thể khiến một người tự sát nhưng chiến tranh dù không thể có tác động mạnh mẽ đến vậy).

Tôi sợ thứ chiến thắng mà người thắng phải trả một cái giá quá đắt: tôi được minh oan nhưng lại sợ bản thân mình luôn đúng và có một ngày phải chứng kiến toàn bộ hệ thống vỡ vụn dưới chân mình. Tôi không muốn mình đúng như thế một chút nào. Tôi sẽ nhớ mãi cảnh Jimmy P. quá cố vào cuối ngày hôm đó: chứng kiến tài sản của mình đang trên đà tan biến, anh nửa đùa nửa thật van xin chỉ số giá trên màn hình hãy ngừng thay đổi.

Nhưng khi đó, tôi nhận ra rằng mình không hề quan tâm đến tiền bạc. Tôi đã có một thứ cảm giác kỳ lạ nhất trong suốt cuộc đời mình, tiếng kèn trumpet cho biết rằng tôi đã đúng nhưng nó điếc tai đến nỗi xương tôi run lên. Tôi chưa từng có cảm giác này và sẽ không bao giờ giải thích được với những ai chưa từng trải qua cảm giác đó. Nó là một cảm giác tự nhiên, có thể là sự kết hợp của sung sướng, tự hào và sợ hãi.

Và tôi cảm thấy mình được minh oan? Bằng cách nào?

Trong suốt quãng thời gian một hoặc hai năm gì đó sau khi vào học tại Wharton, tôi đã phát triển được một biệt tài, dù chính xác nhưng hơi kỳ quặc: đặt cược vào những sự kiện hiếm hoi mà không ai nghĩ có thể xảy ra, những sự kiện thuộc về Platonic fold (hàng rào Plato) mà các “chuyên gia” về triết học Plato cho rằng “không thể hiểu được”. Nên nhớ rằng, Platonic fold là nơi mà hình dung của chúng ta về thực tế không còn hiệu lực - nhưng chúng ta không hề biết về nó.

Tôi sớm nhận được công việc với chuyên môn “tài chính định lượng” (quantitative finance). Tôi vừa là quant, một dạng nhà khoa học trong ngành nghề mà bạn đang làm, người chuyên áp dụng những mô hình toán học về tính bất định để xử lý dữ liệu tài chính (hay kinh tế xã hội) và các công cụ tài chính phức tạp, vừa là nhân viên kinh doanh. Trường hợp của tôi thì ngược lại: tôi nghiên cứu những thiếu sót, hạn chế của các mô hình này, tìm kiếm Platonic fold khi những mô hình đó đổ vỡ. Tôi còn tham gia vào giao dịch đầu cơ, chứ không chỉ “nói chuyện phiếm”, điều rất hiếm khi xảy ra với các quant bởi họ phải tránh việc “chấp nhận rủi ro”, nhiệm vụ của họ chỉ là phân tích chứ không phải đưa ra quyết định.

Tôi thừa nhận rằng mình hoàn toàn không có khả năng dự đoán giá cả thị trường - tuy nhiên, cũng có nhiều người khác hoàn toàn không có khả năng như tôi nhưng lại không biết điều này, hoặc không biết rằng họ đang chấp nhận những rủi ro lớn. Hầu hết các nhà giao dịch thường “nhặt đồng xu trước đầu xe lu”, tự đưa mình vào những tình huống hiếm hoi nhưng có tác động vô cùng to lớn trong khi vẫn ngủ vô tư như những đứa trẻ. Công việc của tôi là công việc duy nhất mà bạn có thể làm nếu cho rằng mình là người ghét rủi ro, nhận thức được rủi ro và vô cùng dốt nát.

Thêm nữa, ngoài kinh nghiệm làm việc thực tế, hành trang tri thức để bước vào nghề quant (một sự kết hợp giữa toán học ứng dụng, kiến thức khoa học và thống kê) hóa ra lại rất hữu ích cho những ai muốn trở thành một triết gia. 10 Thứ nhất, nếu làm việc theo kinh nghiệm với hàng loạt dữ liệu và dám chấp nhận những rủi ro đã qua nghiên cứu trong vài thập niên, bạn có thể dễ dàng chỉ ra những yếu tố trong kết cấu của thế giới mà các “tư tưởng gia Plato hóa” hoặc là đã bị tẩy não, hoặc quá sợ hãi nên không nhận ra. Thứ hai, hành trang tri thức ấy cho phép tôi tư duy một cách nghiêm túc và có hệ thống thay vì chìm đắm trong những tiểu tiết. Và sau cùng, cả triết học lịch sử lẫn nhận thức luận (triết học về tri thức) có vẻ như không thể tách rời khỏi nghiên cứu thực nghiệm về dữ liệu chuỗi thời gian - một chuỗi liên tiếp các con số về thời gian, một dạng sử liệu chứa đựng con số thay vì từ ngữ. Và số liệu sẽ giúp quy trình xử lý trên máy vi tính trở nên dễ dàng hơn. Việc nghiên cứu dữ liệu của lịch sử giúp bạn nhận ra rằng lịch sử di chuyển về phía trước chứ không lùi về phía sau và lộn xộn hơn rất nhiều so với những gì được thuật lại. Nhận thức luận, triết học lịch sử, thống kê học đều hướng đến mục tiêu thấu hiểu sự thật, tìm hiểu cơ chế sản sinh ra sự thật và tách biệt tính quy tắc khỏi tính ngẫu nhiên trong những vấn đề lịch sử. Tất cả đều hướng tới câu hỏi là chúng ta biết những gì, ngoại trừ việc phải góp nhặt chúng trong các cấu trúc khác nhau.

Từ “độc lập” có bốn ký tự
Đêm hôm đó, ngày 19/10/1987, tôi ngủ một mạch 12 tiếng.

Thật khó để nói với bạn bè - những người đã bị tổn thương bởi cú rớt của thị trường - về cảm giác được minh oan của mình. Tiền thưởng vào thời ấy chỉ bằng một phần nhỏ của hôm nay, nhưng nếu công ty tôi, First Boston, và hệ thống tài chính có thể trụ vững đến cuối năm, tôi có thể nhận được một khoản tương đương với suất học bổng nghiên cứu sinh. Đây là những gì mà đôi khi người ta gọi là “f*** you money”, và nếu bỏ qua cách dùng từ thô lỗ thì đó là khoản tiền cho phép bạn sống như một qúy ông thời Victoria, sống mà không cần lao động cực nhọc. Nó là một cái đệm tâm lý: số tiền không quá lớn để khiến bạn trở nên hư hỏng, nhưng đủ để giúp bạn tự do chọn lựa một nghề nghiệp mới mà không cần phải quá bận tâm đến các khoản tiền thưởng. Nó bảo vệ bạn khỏi việc bán rẻ linh hồn và giải phóng khỏi thế lực bên ngoài - bất kỳ thế lực nào. (Sự độc lập được thể hiện tùy theo mỗi cá nhân: Tôi không khỏi ngạc nhiên trước việc rất nhiều người có thu nhập cực kỳ cao lại phải chịu cảnh ăn bám, bởi thu nhập càng cao, họ càng lệ thuộc vào khách hàng, vào ông chủ và càng nghiện kiếm tiền). Dù không nhiều nhưng ít ra khoản tiền đó đã kéo tôi ra khỏi tham vọng tiền bạc, khiến tôi cảm thấy xấu hổ mỗi khi dùng thời gian nghiên cứu cho mục đích làm giàu vật chất. Xin lưu ý rằng cụm từ “f*** you” cũng thể hiện sự hồ hởi của người nói chuyện điện thoại khi được bộc lộ cảm xúc mạnh mẽ trước lúc dập máy.

Vào những ngày tháng ấy, việc nhà đầu tư đập vỡ điện thoại khi biết mình mất tiền là điều cực kỳ phổ biến. Vài người đập phá bàn ghế hoặc làm ầm theo bất kỳ cách nào. Có một lần, ở Chicago, một nhà đầu tư đã cố siết cổ tôi đến chết và phải cần đến bốn nhân viên an ninh mới kéo anh ta ra được. Anh ta nổi điên vì tôi đứng tại nơi mà anh ta cho là “lãnh thổ” của mình. Ai mà muốn rớt khỏi một môi trường như thế chứ? Hãy so sánh nó với những buổi ăn trưa tại căng-tin buồn tẻ của trường đại học, nơi những vị giáo sư lịch thiệp đang bàn tán về những tình tiết mới nhất của khoa. Vì thế, tôi vẫn tiếp tục công việc của một quant và kinh doanh chứng khoán (hiện giờ vẫn thế), nhưng tổ chức công việc của mình một cách hiệu quả (và thư giãn), chỉ tập trung vào những khía cạnh chuyên sâu nhất, không bao giờ tham gia các cuộc “họp”, tránh xa danh hiệu “nhân vật của công ty” và những người ăn mặc sang trọng nhưng không bao giờ đọc sách, và trung bình sau mỗi ba năm, xin nghỉ phép một năm nói (bằng tiếng Anh) để lấp đầy những khoảng trống văn hóa khoa học và triết học của mình. Để từng ý tưởng của mình có thời gian phát triển, tôi muốn trở thành một người thích bát phố, một người suy tư chuyên nghiệp, ngồi tại quán cà phê, băng ghế dài, thoát ly khỏi những chiếc bàn và giới hạn chật hẹp của công ty, có thể ngủ bao lâu tùy thích, đọc một cách háo hức và không phải nhờ đến ai giải thích hộ. Tôi muốn được một mình để từng bước xây dựng cả một hệ thống tư duy dựa trên ý tưởng chủ đạo - Thiên Nga Đen.

Triết gia Limousine 10a
Có vẻ như cuộc chiến ở Li băng và sự sụp đổ của thị trường năm 1987 là hai hiện tượng giống nhau. Với tôi, rõ ràng, gần như mọi người đều có điểm mù nhận thức về vai trò của các sự kiện: như thể họ không thấy “những chú voi ma-mút” này hoặc nhanh chóng quên mất chúng. Câu trả lời chiếu thẳng vào tôi: đó là mù tâm lý thậm chí có thể mù sinh học; vấn đề không nằm ở bản chất của các sự kiện mà ở cách chúng ta nắm bắt chúng.

Tôi xin kết thúc phần mở đầu có tính chất tự truyện bằng câu chuyện sau. Tôi không có chuyên môn nào khác (ngoài công việc hàng ngày), và tôi cũng không muốn thêm nữa. Trong một buổi tiệc cocktail, khi được hỏi về nghề nghiệp của mình, tôi sẽ không ngần ngại trả lời “Tôi là người theo chủ nghĩa hoài nghi thực nghiệm và là một độc giả thích ngao du, một người luôn cam kết đào sâu từng ý tưởng,” nhưng để đơn giản, tôi chỉ nói rằng mình là người lái chiếc limousine.

Một lần, trên chuyến bay vượt Đại Tây Dương, tôi cảm thấy mình được nâng lên tầng lớp thượng lưu khi ngồi gần một quý bà ăn vận sang trọng, trang điểm rất đậm, đeo nữ trang khắp người, liên tục nhai lạc (có lẽ là khẩu phần ăn ít carbohydrates), chỉ khăng khăng uống nước khoáng hiệu Evian và dán mắt vào tờ The Wall Street Journal, phiên bản châu Âu. Bà ta cố nói chuyện với tôi bằng thứ tiếng Pháp sai be bét vì nhìn thấy tôi đọc một cuốn sách (bằng tiếng Pháp) của nhà xã hội học, triết học Pierre Bourdieu - trớ trêu thay, cuốn sách lại nói về sự tương phản xã hội. Tôi cho bà ta biết rằng tôi là tài xế chiếc Limousine, nhấn mạnh một cách đầy tự hào rằng tôi chỉ lái những chiếc xe “rất thượng lưu” mà thôi. Sự im lặng lạnh lẽo kéo dài suốt thời gian còn lại của chuyến bay, và dù nhận thấy tình trạng căng thẳng, nhưng điều đó giúp tôi được đọc trong yên tĩnh.


Thiên Nga Đen
Chương 2: Yevgenia Và Thiên Nga Đen

MẮT KÍNH HỒNG VÀ THÀNH CÔNG ■ VÌ SAO YEVGENIA KHÔNG KẾT HÔN VỚI CÁC TRIẾT GIA NỮA ■ TÔI ĐÃ NÓI VỚI BẠN NHƯ THẾ

Năm năm trước, Yevgenia Nikolayevna Krasnova vẫn còn là một tiểu thuyết gia vô danh và chưa có tác phẩm nào được xuất bản với lai lịch khác thường. Cô ta từng là một nhà khoa học về thần kinh, yêu thích triết học (ba người chồng đầu tiên của cô ta đều là triết gia) và đã đưa triết học vào cái đầu bướng bỉnh mang hai dòng máu Pháp-Nga của mình nhằm diễn đạt những ý tưởng và công trình nghiên cứu theo lối văn chương. Cô ta biến những lý thuyết của mình thành truyện kể và pha trộn chúng với chất văn bình luận tự truyện. Cô tránh phong cách loanh quanh báo chí của các tác phẩm phi tiểu thuyết đương thời (kiểu như “Vào buổi sáng tháng Tư trong vắt, John Smith rời khỏi nhà…”) Các đoạn đối thoại bằng tiếng nước ngoài luôn được giữ nguyên ngôn ngữ gốc và chèn thêm phần dịch vào giống như phụ đề phim. Cô từ chối lồng thứ tiếng Anh xấu vào các đoạn hội thoại tiếng Ý xấu. 11

Không nhà xuất bản nào chịu dành thời gian cho cô, ngoại trừ một số nơi người ta tỏ ra thích thú với các nhà khoa học hiếm hoi có khả năng biểu lộ bản thân qua những câu văn đọc mãi mới hiểu. Một vài nhà xuất bản đồng ý nói chuyện với cô; họ hy vọng cô sẽ trưởng thành và viết nên một “một tác phẩm khoa học về ý thức được mọi người đón nhận”. Cô ta được quan tâm ở mức độ đủ để nhận được những lá thư từ chối kèm theo vài lời bình luận xấc xược thay cho sự lặng im đầy sỉ nhục khiến con người ta cảm thấy phẩm giá mình bị hạ thấp.

Các nhà xuất bản lúng túng khi đứng trước bản thảo của cô. Thậm chí, cô không thể trả lời được câu hỏi đầu tiên của họ “Đây là tác phẩm tiểu thuyết hay phi tiểu thuyết?” và cả câu hỏi “Cuốn sách này được viết cho ai?” trong mẫu giới thiệu sách của nhà xuất bản. Người ta nói rằng “Cô cần phải biết độc giả của mình là ai” và “kẻ nghiệp dư viết vì bản thân, còn người chuyên nghiệp viết vì người khác”. Cô ta còn được yêu cầu phải tuân theo một thể loại nhất định bởi “nhà sách không muốn bị lúng túng và cần biết phải đặt cuốn sách vào vị trí nào trên kệ”. Một biên tập viên tiếp lời: “Bạn thân mến của tôi ơi, cuốn sách này sẽ chỉ bán được cho khoảng 10 người, trong đó có những người chồng cũ và thành viên trong gia đình cô mà thôi”.

Năm năm trước nữa, cô ta tham dự một buổi hội thảo khá nổi tiếng chuyên đề viết lách và bỏ ngang chạy ra ngoài trong trạng thái như thể có cái gì đó làm cô thấy buồn nôn”. “Viết tốt” dường như có nghĩa là tuân thủ những quy tắc mà một số cá nhân nào đó nghĩ ra và phát triển thành nguyên tắc chủ đạo, với sự củng cố có tính xác thực về cái mà chúng ta gọi là “kinh nghiệm”. Những nhà văn mà cô gặp đang học cách thêm thắt chi tiết mới cho các tác phẩm mà người ta gọi là thành công: tất cả đều cố gắng phỏng theo các mẩu chuyện được đăng trên vài số báo The New Yorker gần đây - mà không nhận ra rằng những thứ được gọi là mới mẻ, ngay từ định nghĩa của từ này, không thể là việc sao chép những cái đã có sẵn trên các số báo The New Yorker mới đây. Thậm chí, Yevgenia cho rằng ý tưởng “truyện ngắn” cũng là một khái niệm ăn theo. Người hướng dẫn trong hội thảo này, lịch thiệp nhưng rất cương quyết, nói rằng trường hợp của cô “hoàn toàn vô phương cứu chữa”.

Sau cùng, Yevgenia đành phải đưa toàn bộ bản thảo cuốn Câu chuyện về sự đệ quy (Story of Recursion) lên web. Và cuốn sách cũng tìm được độc giả cho mình, dù ít, trong đó có ông chủ sắc sảo của một nhà xuất bản nhỏ vô danh, người đeo kính gọng màu hồng và nói thứ tiếng Nga nguyên thủy (cứ cho là ông ta nói lưu loát). Ông ta đề nghị xuất bản cuốn sách và chấp nhận điều kiện của cô ta là không biên tập bất kỳ câu chữ nào trong tác phẩm. Đổi lại, ông chỉ trả cho cô một số tiền nhỏ so với mức tiền bản quyền chuẩn - ông ta hầu như chẳng mất gì. Và cô đã đồng ý vì không còn lựa chọn nào khác.

Phải mất năm năm, Yevgenia mới thay đổi cách nhìn của người khác về mình từ “quá ích kỷ và vô phương cứu chữa, cứng đầu và khó đối phó” thành “kiên nhẫn, cương quyết, chịu khó và độc lập một cách mạnh mẽ”. Dần dần, cuốn sách của cô bắt đầu nổi tiếng, trở thành một trong những thành công vĩ đại và lạ lùng nhất trong lịch sử văn học, hàng triệu bản được bán và nhận được cái gọi là sự tán dương của giới phê bình. Nhà xuất bản mới nổi ngày nào nay đã trở thành một tập đoàn lớn, có hẳn tiếp tân (lịch sự) chào đón quan khách tại văn phòng chính. Cuốn sách của cô được dịch ra 40 thứ tiếng (có cả tiếng Pháp). Chân dung cô xuất hiện khắp nơi. Người ta nói cô là nhân vật tiên phong cho cái gọi là Trường phái Trùng hợp (Consilient School). Các nhà xuất bản thì tìm ra được một nguyên lý: “tài xế xe tải nào đọc sách thì sẽ không đời nào đọc loại sách dành riêng cho giới tài xế xe tải” và khẳng định rằng “người đọc coi rẻ những nhà văn nào chỉ chăm chăm chạy theo thị hiếu công chúng”. Một tác phẩm khoa học, mà giờ đây trở nên dễ hiểu, có thể ẩn giấu trong đó một số câu chuyện tầm phào bằng các phương trình và thuật ngữ; bằng cách thể hiện một ý tưởng ở dạng thô sơ, lối diễn đạt kiểu văn xuôi trùng khớp sẽ giúp nó đến được với công chúng.

Giờ đây, Yevgenia không còn lấy chồng là triết gia nữa (chắc do họ tranh luận quá nhiều) và tránh xa báo giới. Trong lớp học, các nhà nghiên cứu văn học thảo luận những manh mối cho thấy tính chất tất yếu của việc hình thành phong cách mới. Việc phân biệt giữa tiểu thuyết và phi tiểu thuyết đã trở nên quá lỗi thời và không thể trụ vững trước những thách thức trong xã hội hiện đại. Rõ ràng, chúng ta cần tìm ra phương thuốc để hàn gắn nghệ thuật và khoa học. Thực tế đã chứng minh tài năng của Yevgenia.

Sau này, nhiều biên tập viên trách Yevgenia sao không tìm đến họ bởi tin rằng họ có thể phát hiện ra ngay sự xuất chúng trong tác phẩm của cô. Vài năm nữa, một nhà nghiên cứu văn học nào đó sẽ viết một bài có tựa đề “Từ Kundera đến Krasnova”, mô tả cách thức người ta tìm thấy những hạt mầm trong tác phẩm của cô ở Kundera - người đã kết hợp tiểu luận với siêu bình luận (metacommentary) (Yevgenia chưa từng đọc tác phẩm của Kundera nhưng có xem phim chuyển thể từ một cuốn sách của ông - không có lời bình luận nào trong phim). Một học giả lỗi lạc sẽ giải thích được mức độ ảnh hưởng của Gregory Bateson, người nổi tiếng bởi thường lồng ghép nhiều khung cảnh có tính tự truyện vào các công trình nghiên cứu học thuật của mình, trên mỗi trang giấy (dù Yevgenia chưa từng nghe nói đến Bateson).

Cuốn sách của Yevgenia chính là một Thiên Nga Đen.

Thiên Nga Đen
Chương 3: Kẻ Đầu Cơ Và Gái Điếm

VỀ SỰ KHÁC BIỆT QUAN TRỌNG GIỮA MỘT KẺ ĐẦU CƠ VÀ GÁI ĐIẾM ■ SỰ CÔNG BẰNG, BẤT CÔNG VÀ NHỮNG HIỆN TƯỢNG THIÊN NGA ĐEN ■ NGUYÊN LÝ VỀ KIẾN THỨC VÀ THU NHẬP CỦA TỪNG NGHỀ ■ VÌ SAO KHÔNG NÊN ĐẾN THĂM EXTREMISTAN, CÓ LẼ TRỪ KHI BẠN LÀ NGƯỜI THẮNG CUỘC

Sự thăng tiến của Yevgenia từ cấp bậc hạng hai lên hàng siêu sao chỉ xảy ra trong một môi trường duy nhất, nơi tôi gọi là Extremistan. 12 Ngay sau đây, tôi sẽ giới thiệu sự khác biệt chủ yếu giữa tỉnh Extremistan, nơi sản sinh ra Thiên Nga Đen và một tỉnh nhạt nhẽo, tĩnh lặng và quanh năm suốt tháng không có sự kiện nào quan trọng của vùng Mediocristan.

LỜI KHUYÊN HAY NHẤT (TỆ NHẤT)
Khi lục tìm trong trí nhớ tất cả “lời khuyên” mà mình từng nhận được, tôi thấy rằng chỉ có một vài ý tưởng theo mình suốt cuộc đời. Những lời khuyên còn lại chỉ đơn thuần là các câu chữ mà tôi cảm thấy mừng vì đã bỏ qua gần hết. Hầu hết đều là những gợi ý đại loại như “hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, điều hoàn toàn trái ngược với Thiên Nga Đen, bởi thực tế được trải nghiệm thì không “đo lường” được và phiên bản về “tính hợp lý” của nó lại không tuân theo định nghĩa của những học giả xa xưa mà vốn hiểu biết chỉ dừng ở mức độ vừa phải. Trải nghiệm thực sự nghĩa là phản ánh thực tế một cách trung thực nhất; còn xứng đáng nghĩa là không sợ sự xuất hiện và hậu quả của việc trở nên kỳ quặc. Lần tới, nếu ai đó quấy rầy bạn với những lời khuyên không cần thiết, hãy lịch sự gợi cho anh ta nhớ đến số phận của nhà sư, người đã bị Ivan Bạo chúa giết chết vì đưa ra những lời khuyên không được chào đón (và có tính dạy đời). Lời khuyên chỉ có tác dụng trong ngắn hạn.

Nhìn lại quá khứ, lời khuyên quan trọng nhất mà tôi nhận được không có gì tốt đẹp, nhưng ngược đời thay, nó lại là lời khuyên có ý nghĩa nhất vì đã khiến tôi tìm hiểu sâu hơn về động lực của Thiên Nga Đen. Nó diễn ra vào một buổi chiều tháng Hai, năm tôi hai mươi hai tuổi, tại hành lang của tòa nhà số 3400 Phố Walnut ở Philadelphia. Một sinh viên năm thứ hai trường Wharton đã khuyên tôi hãy kiếm một nghề gì đó “có tính thang bậc”, một nghề mà người ta không trả lương cho bạn theo giờ và vì thế, buộc phải tuân theo những giới hạn về lượng công việc của bạn. Đó là một cách rất đơn giản để phân biệt các dạng nghề nghiệp, và cũng từ đó có thể khái quát hóa sự khác nhau giữa các loại biến cố bất định - và nó cũng đưa tôi đến một bài toán lớn của triết học, bài toán về phương pháp quy nạp, tên chuyên môn của Thiên Nga Đen. Nó giúp tôi thay đổi Thiên Nga Đen từ một ngõ cụt lôgic thành một giải pháp dễ thực thi, và, như chúng ta sẽ thấy trong những chương sau, nhằm nuôi dưỡng nó trên nền trải nghiệm thực tế.

Làm sao một lời khuyên nghề nghiệp lại dẫn đến những ý tưởng như thế về bản chất của tính bất định? Với các nghề như nha sĩ, tư vấn viên hay nhân viên mát-xa thì không có chuyện thăng tiến theo thang bậc: thu nhập trên số lượng bệnh nhân hay khách hàng mà họ tiếp xúc trong một khoảng thời gian nhất định dường như không đổi. Còn đối với gái điếm, họ hoạt động theo giờ và (thường) được trả công theo giờ. Hơn nữa, (theo tôi) hình thức cũng là điều kiện cần thiết cho dịch vụ mà bạn cung cấp. Nếu định mở một nhà hàng đẹp mắt, tốt hơn hết bạn nên trang trí hài hòa khắp các căn phòng (trừ phi bạn thực hiện việc nhượng quyền cửa hàng đó). Với những nghề này, dù mức lương được trả có cao cỡ nào thì thu nhập vẫn theo quy luật trọng trường. Mức thu nhập sẽ phụ thuộc vào những nỗ lực không ngừng của bạn nhiều hơn so với chất lượng của các quyết định mà bạn đưa ra. Hơn nữa, các loại công việc này rất dễ dự đoán: nó sẽ thay đổi nhưng không đến mức làm cho thu nhập trong một ngày của bạn có thể nhiều hơn thu nhập mà bạn kiếm được trong suốt quãng đời còn lại. Nói cách khác, nó không bị chi phối bởi yếu tố Thiên Nga Đen. Yevgenia Nikolayevna hẳn đã không thể vượt qua hố sâu ngăn cách giữa một kẻ “chiếu dưới” và một người quyền uy tối thượng chỉ sau một đêm nếu cô ta là một kế toán thuế hay chuyên gia về chứng sa ruột (mà lẽ ra cô ta cũng không nên là một kẻ “chiếu dưới”).

Những nghề nghiệp khác cho phép bạn bổ sung thêm nhiều số 0 vào thu nhập của mình, mà nếu làm tốt, sẽ không cần phải tốn thêm nhiều công sức. Tôi đang lười biếng, xem lười biếng là một tài sản, và sẵn sàng sử dụng tối đa khoảng thời gian trống trong ngày để suy ngẫm và đọc sách, ngay lập tức tôi rút ra một kết luận (một cách sai lầm). Tôi tách mẫu người của “ý tưởng” - người bán sản phẩm tri thức ở dạng một giao dịch hay một công việc ra khỏi mẫu người “lao động” - người chỉ bán sức lao động.

Nếu thuộc mẫu người ý tưởng, bạn không cần phải làm việc nặng nhọc mà chỉ phải tư duy thật nhiều. Và cho dù có làm ra hàng trăm hay hàng nghìn đơn vị sản phẩm thì công việc mà bạn cần làm đều như nhau. Trong lĩnh vực kinh doanh quant, khi mua một trăm, một trăm ngàn hay thậm chí một triệu cổ phiếu, bạn sẽ thấy rằng khối lượng công việc không có gì khác nhau - vẫn chỉ một cú điện thoại, một phép toán, một văn bản pháp lý, một số lượng tế bào não bị tiêu hao, một nỗ lực để thẩm tra độ chính xác của giao dịch. Hơn nữa, bạn có thể làm việc trong bồn tắm hay tại một quán bar ở Rome. Bạn có thể dùng tác dụng đòn bẩy để thay thế cho công việc! Ừ, thì tôi thừa nhận mình có chút sai sót khi nói về giao dịch: một người không thể thực hiện giao dịch trong bồn tắm, nhưng một khi được hoàn thành tốt, công việc này sẽ cho bạn một khoảng thời gian rảnh rỗi đáng kể.

Nghề ca sĩ và diễn viên điện ảnh cũng mang thuộc tính tương tự phần việc thường được giao cho các kỹ sư âm thanh và người điều khiển máy chiếu; người nghệ sĩ không cần thiết phải tham gia tất cả các buổi diễn. Tương tự, dù chinh phục một hay hàng trăm triệu độc giả thì công sức mà nhà văn dành cho tác phẩm của mình đều như nhau. J. K. Rowling, tác giả của Harry Porter đâu cần phải viết lại từng cuốn sách mỗi khi có ai đó muốn đọc tác phẩm. Nhưng với người làm bánh thì khác, anh ta phải nướng từng chiếc để làm hài lòng từng khách hàng tiếp theo.

Chính vì thế, sự khác nhau giữa người thợ làm bánh và nhà văn, kẻ đầu cơ và bác sĩ, kẻ lừa đảo và gái điếm là phương pháp hiệu quả để xem xét thế giới của sự vận động. Nó phân biệt những nghề cho phép người ta bổ sung thêm nhiều con số 0 vào nguồn thu nhập mà chẳng cần tốn nhiều công sức với những nghề phải luôn đầu tư nhiều thời gian và công sức (cả hai đều có nguồn cung hạn chế) - hay nói cách khác, đó là những nghề tuân theo quy luật trọng trường.

CẨN TRỌNG VỚI SỰ THĂNG TIẾN THEO THANG BẬC
Nhưng tại sao lời khuyên từ người đồng môn của tôi lại là tệ hại?

Nếu có ích, mà thực tế điều này là đúng, trong việc phân thứ hạng các yếu tố bất định và kiến thức thì lời khuyên ấy là một sai lầm cho dù bạn chọn nghề nghiệp nào đi chăng nữa. Lẽ ra lời khuyên ấy đã khiến tôi trả giá nhưng do may mắn và tình cờ dừng lại “đúng chỗ đúng lúc”. Nếu phải đưa ra lời khuyên cho một ai đó, tôi sẽ gợi ý về một nghề không có tính thang bậc. Một nghề có tính thang bậc đủ là lựa chọn tốt khi bạn thành công bởi chúng tạo ra nhiều bất công lớn, có tính cạnh tranh và ngẫu nhiên cao hơn bất kỳ nghề nào khác với độ chênh lệch lớn giữa công sức và sự tưởng thưởng - một vài người chiếm được miếng to của chiếc bánh trong khi những người khác bị gạt ra ngoài dù bản thân không mắc lỗi gì.

Một danh mục nghề khác thì lại bị điều khiển bởi những thứ tầm thường, trung bình và ôn hòa, trong đó, những thứ tầm thường đều có ý nghĩa. Danh mục khác có cả người khổng lồ lẫn những chú lùn - hay chính xác hơn, rất ít người khổng lồ và rất nhiều chú lùn.

Chúng ta hãy tìm hiểu điều gì đằng sau sự hình thành của những gã khổng lồ không mong đợi - sự hình thành của Thiên Nga Đen.

Phát minh ra tính thang bậc

Chúng ta thử xem xét vận mệnh của Giaccomo, một ca sĩ opera vào cuối thế kỷ 19, khi máy thu âm chưa được phát minh. Nghe nói anh ta hát ở một thị trấn nhỏ xa xôi ở miền Trung nước Ý, thoát khỏi những kẻ tự kỷ trung tâm ở La Scala, Milan và những nhà hát opera lớn khác. Anh ta cảm thấy an toàn bởi đâu đó trong cái thị trấn nhỏ này, người ta vẫn luôn cần đến giọng hát của mình. Anh ta không đời nào “xuất khẩu” giọng hát của mình, còn những ngôi sao hạng nặng thì cũng đừng hòng chịu đến cái thị trấn này nên không có gì làm ảnh hưởng đến công việc của anh ta. Tuy nhiên, Giaccomo vẫn chưa có cách nào ghi âm lại tác phẩm của mình, chính vì thế, người ta cần sự hiện diện của anh ở khắp mọi nơi giống như ngày nay người ta luôn (và vẫn) cần thợ cắt tóc cho công việc cắt tóc. Vì thế, dù xét về mặt tổng thể, cái bánh vẫn được chia không đều, nhưng không đáng kể, điều này khá giống quá trình tiêu thụ calorie của bạn. Miếng bánh được cắt ra làm nhiều mảnh và ai cũng có phần; ngôi sao danh tiếng có lượng khán giả lớn hơn và nhận được nhiều lời mời hơn những người chưa có tên tuổi, nhưng cũng đừng quá lo lắng về điều này. Sự bất công luôn tồn tại, nhưng chúng ta hãy gọi nó là ôn hòa. Không hề có tính thang bậc ở đây, lượng khán giả không tự nhiên mà tăng theo tính bậc thang, không có cách nào làm tăng lượng khán giả thực sự lên gấp đôi trừ khi phải nỗ lực hát bằng hai lần bình thường.

Và bây giờ, chúng ta hãy phân tích ảnh hưởng của sự kiện con người lần đầu tiên tìm ra phương pháp thu âm, một phát minh đã mang đến rất nhiều bất công. Việc chúng ta có khả năng sao chép và phát đi phát lại những tác phẩm âm nhạc cho phép tôi thưởng thức hàng giờ nhạc nền. Những khúc dạo đầu của Rachmaninoff của nghệ sĩ piano Vladimir Horowitz (quá cố) trên máy tính xách tay của mình thay vì xem biểu diễn của một nhạc sĩ người Nga tha hương (vẫn còn sống) - người giờ đây phải kiếm sống bằng việc dạy đàn cho đám trẻ không có năng khiếu. Dù đá chết nhưng Horowitz vẫn khiến ông nhạc sĩ nghèo kia phải từ bỏ âm nhạc. Tôi thà mua một đĩa nhạc của Vladimir Horowitz hay Arthur Rubinstein với giá 10,99 đô-la chứ nhất định không chịu bỏ ra 9,99 đô-la để mua tác phẩm của một nhạc sĩ vô danh (dù cũng rất tài năng) tốt nghiệp từ Juilliard School hay Nhạc viện Prague. Nếu được hỏi vì sao lại chọn Horowitz, tôi sẽ trả lời rằng đó là do trình tự, nhạc điệu hay cảm xúc mạnh mẽ, trong khi thật ra cũng có khối người chơi hay không kém mà tôi chưa từng nghe và sẽ không bao giờ nghe nói đến - những người không đưa tác phẩm của mình lên sân khấu.

Theo mạch lôgic mà tôi vừa trình bày, một số người ngây thơ tin rằng bất công khởi nguồn từ máy hát. Tôi không đồng ý. Tôi tin rằng quá trình sinh ra sự bất công ấy xuất hiện sớm hơn rất nhiều, từ ADN, nơi lưu trữ thông tin về bản thân mỗi người và cho phép chúng ta lặp lại phong cách biểu diễn của mình mà không cần phải hiện diện, gen của bạn truyền cho những thế hệ sau để thực thi điều đó. Quá trình tiến hóa có tính thang bậc: ADN nào chiến thắng (dù do may mắn hay nhờ lợi thế sinh tồn) thì ADN đó sẽ tự nhân bản - giống như một cuốn sách bán chạy hoặc một đĩa ghi âm thành công - và trở nên tràn ngập. Những ADN khác sẽ biến mất. Chỉ cần xem xét sự khác biệt giữa loài người chúng ta (ngoại trừ các nhà kinh tế học tài chính và doanh nhân) và các sinh vật sống trên hành tinh này thì rõ.

Hơn nữa, tôi tin rằng sự chuyển biến to lớn trong đời sống xã hội không thể bắt đầu với chiếc máy hát được, mà là khi ai đó có một ý tưởng vĩ đại nhưng bất công, phát minh ra hệ thống chữ cái, từ đó cho phép chúng ta lưu trữ thông tin và nhân bản chúng. Bất công càng gia tăng khi một nhà phát minh khác bắt đầu triển khai ý tưởng nguy hiểm và tội lỗi của mình - thành lập một tờ báo in để đưa các mẩu tin vượt khỏi biên giới các nước và khởi sự cho cái sau này trở thành một môi trường sinh thái, nơi kẻ chiến thắng sẽ lấy đi tất cả. Vậy giờ đây, có gì không đúng khi phổ biến các cuốn sách? Hệ thống chữ cái cho phép người ta sao chép lại các câu chuyện và ý tưởng với độ chính xác cao cùng không giới hạn, và cũng không phải tốn thêm công sức làm việc với tác giả cuốn sách trong những lần xuất bản tiếp theo. Tác giả không nhất thiết phải còn sống thì sách mới xuất bản được, thậm chí chết đi lại càng tốt cho sự nghiệp của anh ta. Điều này có nghĩa là, vì một số lý do nào đó, những người bắt đầu được công chúng chú ý đến sẽ có thể tiếp cận giới trí thức nhanh hơn người khác và cuốn sách của họ sẽ đánh bật các đối thủ ra khỏi kệ sách. Vào thời của những nhà thơ, những người hát rong (khoảng thế kỷ 11 đến thế kỷ 13), ai cũng có khán giả của mình. Giống như thợ nướng bánh hay thợ đúc đồng, người kể chuyện cũng có thị trường riêng và luôn an tâm rằng không một kẻ cha vơ chú váo ngụ cư nào đó có thể đuổi anh ta ra khỏi lãnh địa của mình. Còn ngày nay, một số ít gần như có tất cả; trong khi số còn lại hầu như chẳng có gì.

Cùng cơ chế ấy, việc phát minh ra rạp chiếu phim đã thay thế các diễn viên địa phương, đẩy những anh chàng nhỏ bé đến chỗ thất nghiệp. Nhưng có một sự khác biệt. Với những nghề có tính chuyên biệt như nghệ sĩ piano hay bác sĩ phẫu thuật não, chúng ta có thể dễ dàng đánh giá tài năng của họ, trong đó ý kiến chủ quan đóng vai trò khá nhỏ. Bất công xảy đến khi một người, vốn chỉ nổi trội hơn người khác đôi chút, lại được hưởng trọn cái bánh.

Trong lĩnh vực nghệ thuật - chẳng hạn như điện ảnh - mọi thứ còn tồi tệ hơn nhiều. Mỹ từ “tài năng” thường được chúng ta trao cho những kẻ thành công chứ không phải ngược lại. Chủ nghĩa kinh nghiệm có ảnh hưởng rất lớn trong vấn đề này, đáng chú ý nhất là Art De Vany, một nhà tư tưởng độc đảo và sâu sắc chuyên nghiên cứu tính bất định bừa bãi trong các bộ phim. Đáng buồn thay, theo ông, đa số những gì chúng ta cho là kỹ năng lại là sự quy kết sau khi sự việc đã xảy ra. Ông khẳng định chính bộ phim đã làm nên diễn viên và một khối lượng lớn may mắn phi tuyến tính đã làm nên bộ phim.

Thành công của các bộ phim phụ thuộc rất nhiều vào các mức độ lây nhiễm. Sự lây nhiễm này không chỉ tác động đến các bộ phim mà dường như còn ảnh hưởng đến nhiều sản phẩm văn hóa khác. Chúng ta thấy khó chấp nhận chuyện công chúng không yêu các tác phẩm nghệ thuật không chỉ vì lợi ích cá nhân mà còn nhằm có được cảm giác rằng họ thuộc về một cộng đồng nào đó. Bằng cách bắt chước, chúng ta trở nên thân thiết với người khác hơn - mà những người này cũng chuyên đi bắt chước. Đây là hình thức chống lại trạng thái cô độc.

Bài tranh luận này cho thấy khó khăn trong việc dự đoán kết quả trong môi trường thành công tập trung. Vì thế, lúc này, hãy ghi nhớ một điều rằng sự khác biệt giữa các nghề nghiệp có thể được sử dụng để giúp chúng ta tìm hiểu về sự khác biệt giữa các biến cố ngẫu nhiên. Chúng ta hãy đi sâu vào vấn đề của tri thức, của sự suy luận về những điều chưa biết và thuộc tính của những cái đã biết.

TÍNH THANG BẬC VÀ TOÀN CẦU HÓA
Bất cứ khi nào nghe một người châu Âu trình độ vừa phải, khinh khỉnh (và chán nản) thuyết trình một cách rập khuôn về người Mỹ, bạn sẽ thấy ông ta thường mô tả họ bằng các cụm từ “văn hóa thấp”, “không có kiến thức” và “dốt toán”, bởi vì, khác với những đồng nghiệp châu Âu, người Mỹ không bắt buộc phải chuyên sâu về các bài tập phương trình và những cấu trúc mà các “học giả vừa phải” ấy gọi là “văn hóa cao” - giống như kiến thức từ chuyến đi đầy cảm hứng (và trọng tâm) đến nước Ý của Goethe, hay hiểu biết sâu sắc về trường hội họa Delft. Tuy nhiên, người đưa ra các phát ngôn này rất có khả năng đang nghiện dùng iPod, mặc quần jean xanh, xài chương trình Microsoft Word để ghi lại những tuyên bố “đầy tính văn hóa” trên máy tính của mình, thi thoảng lang thang trên Google để tìm kiếm thông tin cho bài luận văn. Quả nhiên, sự sáng tạo của nước Mỹ hiện đang lớn hơn rất, rất nhiều so với quốc gia của những người thích thăm thú bảo tàng và giải phương trình. Đất nước này cũng bao dung hơn rất nhiều đối với hành động vá lỗi từ dưới lên và phương pháp thử sai. Và quá trình toàn cầu hóa đã cho phép nước Mỹ tập trung chuyên môn vào khía cạnh sáng tạo của mọi việc, vào quá trình sản sinh ra các quan niệm và ý tưởng, nghĩa là phần có tính thang bậc của sản phẩm và, theo xu hướng ngày càng tăng, xuất khẩu việc làm ra nước ngoài, tách những thành phần có tính thang bậc thấp hơn và chuyển giao chúng cho những ai muốn được trả lương theo giờ. Tiền trả cho người thiết kế đôi giày luôn cao hơn rất nhiều so với thù lao của người sản xuất: Nike, Dell và Boeing kiếm được tiền chỉ nhờ vào công việc tư duy, tổ chức và cung cấp những bí quyết cùng ý tưởng trong khi công việc nặng nhọc nhàm chán sẽ được giao cho nhà máy ở các quốc gia đang phát triển; còn kỹ sư ở những nước có truyền thống học tập và giỏi toán thì đảm nhận các công việc kỹ thuật chẳng có gì sáng tạo. Nền kinh tế Mỹ đã phát triển chủ yếu nhờ vào việc tạo ra ý tưởng - điều giải thích lý do vì sao việc mất đi công việc sản xuất gia công lại gắn liền với sự gia tăng chất lượng cuộc sống. Rõ ràng, trở ngại của nền kinh tế thế giới, nơi phần thưởng luôn dành cho các ý tưởng, chính là sự bất công ngày càng cao giữa những người tạo ra ý tưởng trong bối cảnh vai trò của cơ hội và may mắn ngày càng lớn - tuy nhiên, tôi để dành phần tranh luận về kinh tế xã hội cho Phần 3 và ở đây chỉ tập trung nói về kiến thức.

NHỮNG CHUYẾN DU HÀNH BÊN TRONG MEDIOCRISTAN
Khác biệt giữa tính thang bậc/phi thang bậc cho phép chúng ta phân biệt rõ hai biến thể của những điều không chắn chắn, hai loại ngẫu nhiên.

Hãy tham gia thí nghiệm tư duy sau. Giả sử bạn tập hợp được một ngàn người ngẫu nhiên và sắp họ đứng cạnh nhau trong một sân vận động. Bạn có thể mời cả người Pháp (nhưng làm ơn, đừng quá nhiều, hãy dành chỗ cho các nhóm khác), thành viên thuộc băng nhóm mafia, không thuộc mafia và những người ăn chay.

Hãy tưởng tượng ra một người nặng nhất mà bạn có thể nghĩ đến và bổ sung anh ta vào danh sách trên. Giả sử anh ta nặng gấp ba lần người thường, vào khoảng 400, 500 pound gì đó, như vậy, trọng lượng của anh ta chiếm tỷ lệ rất nhỏ (trong ví dụ này chỉ khoảng 0,5%).

Bạn có thể quyết liệt hơn. Hãy chọn một người nặng nhất có thể về mặt sinh học trên hành tinh này (người mà vẫn được xem là người), trọng lượng của anh ta cũng không thể chiếm quá 0,6% tổng trọng lượng, một sự gia tăng không đáng kể. Và nếu bạn có mười ngàn người thì phần trọng lượng mà anh ta đóng góp là rất nhỏ.

Trong xã hội không tưởng của vùng Mediocristan, bản thân từng sự kiện đặc biệt không có tác động lớn - trừ khi chúng được kết hợp với nhau. Tôi có thể nêu một đạo luật tối cao của vùng Mediocristan như sau: Khi số lượng mẫu thử của bạn lớn, không một trường hợp đơn lẻ nào có thể thay thế được kết quả tổng thể. Việc quan sát với số lượng mẫu thử lớn nhất vẫn ấn tượng, nhưng rốt cuộc, nó không còn quan trọng với tổng thể nữa.

Tôi xin nêu một ví dụ khác từ người bạn của mình, Bruce Goldberg: đó là quá trình tiêu thụ calorie của bạn. Hãy xem bạn đã tiêu tốn hết bao nhiêu calorie một năm - nếu được xếp vào hàng ngũ con người thì con số đó là gần 800.000 calorie. Không một ngày nào, thậm chí dịp Lễ Tạ ơn tại nhà bà cô của bạn, có thể làm tiêu tốn một lượng lớn calorie trong con số trên. Thậm chí khi bạn có ăn cho đến chết, lượng calorie trong ngày đó cũng không ảnh hưởng lớn đến tổng lượng tiêu thụ của cả năm.

Bây giờ, nếu tôi nói rằng có thể bạn sẽ gặp một người nặng vài ngàn tấn hay cao vài chục dặm, bạn sẽ hoàn toàn đúng khi bảo tôi đi khám não hoặc chuyển sang viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Tuy nhiên, bạn không thể dễ dàng bác bỏ những biến thể cực độ với một tiêu chuẩn số lượng khác, đây là lý do chúng ta cần đi tiếp.

Đất nước Extremistan lạ lùng
Hãy xem xét trị giá tài sản của một ngàn người mà bạn tập hợp trong sân vận động. Hãy bổ sung vào nhóm ấy người giàu nhất hành tinh - cứ cho là Bill Gates, nhà sáng lập Microsoft. Giả định rằng giá trị tài sản của ông ta vào khoảng 80 tỷ đô-la trong khi tổng tài sản của một ngàn người chỉ chừng vài triệu đô-la. Vậy tài sản của Bill Gates chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số? 99,9%? Thật ra, tất cả tài sản của một ngàn người đó cũng không bằng phần số lẻ mất đi do lỗi làm tròn số tài sản, hay chỉ là khoản biến thiên trong danh mục đầu tư cá nhân của ông ta trong vài giây vừa qua. Nếu áp dụng tỷ lệ trên cho trọng lượng, Bill Gates phải nặng đến 50 triệu pound!

Hãy lập lại thí nghiệm đó với doanh số bán sách. Hãy chọn ra một ngàn tác giả (hay những người nài nỉ xin xuất bản sách nhưng tự gọi mình là “tác giả” thay vì “người chầu chực”) và kiểm tra doanh số bán sách của họ. Sau đó bổ sung vào nhóm này một tác giả đương thời (hiện đang) có nhiều độc giả nhất, chẳng hạn như J. K. Rowling, tác giả của Harry Porter với vài triệu cuốn sách đã được tiêu thụ, ta sẽ khiến một ngàn tác giả còn lại trở nên nhỏ bé bởi tổng lượng độc giả của họ tối đã cũng chỉ khoảng vài trăm ngàn.

Hãy thử tiến hành thí nghiệm tương tự với những câu trích dẫn có tính học thuật (việc một học giả này mượn lời học giả khác trong các ấn phẩm trang trọng), các tham khảo của phương tiện truyền thông, thu nhập, quy mô công ty… Chúng tôi xin gọi đó là những vấn đề xã hội bởi chúng do con người tạo ra, khác với các vấn đề về thể chất như số đo vòng eo chẳng hạn.

Ở Extremistan, sự bất bình đẳng (inequalities) là những thứ mà ở đó một quan sát đơn lẻ có thể ảnh hưởng đến tổng thể chung không theo một tỷ lệ nào cả.

Như vậy, trong khi trọng lượng, chiều cao và lượng tiêu thụ calorie xuất phát từ Mediocristan, thì sự giàu có lại không bắt nguồn từ đó. Hầu như tất cả các vấn đề xã hội đều xuất phát từ Extremistan. Hay nói cách khác, các định lượng xã hội có tính thông tin chứ không có tính vật chất: bạn không thể chạm vào chúng. Tiền trong tài khoản ngân hàng là một thứ quan trọng nhưng dĩ nhiên nó không có tính vật chất. Như thế, nó vẫn có giá trị dù không gây tiêu tốn năng lượng. Nó chỉ là một con số!

Xin lưu ý rằng, trước khi con người phát minh ra công nghệ kỹ thuật hiện đại, chiến tranh từng thuộc về Mediocristan. Rất khó để giết nhiều người nếu bạn muốn hành hình họ từng người một. Ngày nay, với các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt, chỉ cần một cái bấm nút, một gã điên nào đó, cũng có thể quét sạch hành tinh này.

Hãy xem xét hàm ý của nó về Thiên Nga Đen. Extremistan có thể sinh ra Thiên Nga Đen, và điều này đã xảy ra, bởi một vài sự kiện lại có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến lịch sử. Đây chính là ý tưởng cốt lõi của cuốn sách này.

Extremistan và Tri thức
Mặc dù sự khác biệt (giữa Mediocristan và Extremnistan) để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho cả tính công bằng xã hội lẫn động lực của các sự kiện, nhưng chúng ta hãy thử tìm hiểu ứng dụng của nó đối với tri thức, nơi chứa đựng gần như toàn bộ giá trị của nó. Nếu đến Trái Đất và tiến hành đo chiều cao của những cư dân trên hành tinh may mắn này, một người Sao Hỏa có thể chặn cả trăm người để đo và có được cái nhìn đầy đủ về chiều cao trung bình mà không gặp rắc rối gì. Nếu sống trong Mediocristan, bạn có thể cảm thấy thoải mái với những gì mình đã đo được - miễn là biết chắc nó đến từ Mediocristan. Bạn còn có thể cám thấy thoải mái với những gì học được từ dữ liệu đó. Hệ quả nhận thức luận chính là: với tính ngẫu nhiên kiểu Mediocristan, không thể 13 có sự bất ngờ mang tên Thiên Nga Đen theo kiểu một sự kiện đơn lẻ có thể chi phối cả một hiện tượng. Một là, một trăm ngày đầu tiên sẽ tiết lộ tất cả những gì bạn cần biết về dữ liệu đó. Hai là, dù cho bạn thật sự bất ngờ, như chúng ta đã thấy trong ví dụ về người đàn ông nặng nhất, điều đó cũng không tạo ra khác biệt đáng kể.

Nếu đang đối phó với các định lượng đến từ Extremistan, bạn sẽ gặp khó khăn trong việc tìm ra giá trị trung bình từ bất cứ vật mẫu nào bởi nó phụ thuộc nhiều vào từng quan sát riêng lẻ. Ý tưởng này cũng không quá khó hiểu. Ở Extremistan, một đơn vị có thể dễ dàng ảnh hưởng đến tổng thể chung mà không theo một tỷ lệ nào. Trong thế giới này, lúc nào bạn cũng nên hoài nghi về kiến thức đúc kết từ dữ liệu. Đây là một thí nghiệm rất đơn giản về sự bất định giúp bạn có thể phân biệt được hai loại ngẫu nhiên. Bạn hiểu điều tôi nói chứ?

Trong Mediocristan, những gì bạn biết được qua dữ liệu sẽ tăng lên nhanh chóng khi lượng thông tin bạn tiếp xúc càng tăng. Nhưng kiến thức trong Extremistan lại phát triển một cách chậm rãi và thất thường khi dữ liệu tăng thêm, một số gia tăng với tốc độ không ai biết được.

Dữ dội và ôn hòa
Nếu dựa theo cách phân biệt của tôi về tính thang bậc và phi thang bậc, chúng ta sẽ thấy rõ những khác biệt đang hình thành giữa Mediocristan và Extremistan. Sau đây là một vài ví dụ.

Các vấn đề có vẻ thuộc về Mediocristan (tức thuộc về cái chúng ta gọi là ngẫu nhiên loại 1): chiều cao, cân nặng, sự tiêu thụ calorie, thu nhập của một người làm bánh, chủ một nhà hàng nhỏ, gái điếm hay nha sĩ; tiền lời từ đánh bạc (trong trường hợp rất đặc biệt này, giả định rằng một người bước vào sòng bạc và vẫn duy trì được mức đặt cược), tai nạn xe ô tô, tỷ lệ tử vong, “IQ!” (đã được tính toán).

Các vấn đề có vẻ thuộc về Extremistan (tức thuộc về cái chúng ta gọi là ngẫu nhiên loại 2): sự giàu có, thu nhập, doanh số bán sách của từng tác giả, số trích dẫn được sử dụng trong sách, những tên tuổi được công nhận là “người nổi tiếng”, số lần được tham khảo trên Google, dân số của các thành phố, số lần sử dụng một từ trong vốn từ vựng, số người nói một ngôn ngữ, thiệt hại do động đất, thương vong do chiến tranh, thương vong do các vụ tấn công khủng bố, kích thước các hành tinh, quy mô các công ty, quyền sở hữu cổ phiếu, chiều cao giữa các loài (nếu giữa voi và chuột thì như thế nào nhỉ), các thị trường tài chính (nhưng nhà quản lý khoản đầu tư của bạn lại không biết điều này), giá cả hàng tiêu dùng, tỷ lệ lạm phát, dữ liệu kinh tế. Danh sách Extremistan dài hơn nhiều so với danh sách Mediocristan.

Sự áp đặt của yếu tố ngẫu nhiên
Có một cách khác để diễn đạt lại sự khác biệt chung đó như sau: Mediocristan là nơi chúng ta phải cam chịu sự áp đặt của cái chung, cái thường lệ, cái rõ ràng và cái đã được dự đoán; Extremistan là nơi chúng ta chịu sự áp đặt của cái cá nhân, cái ngẫu nhiên, cái không thấy được và cái không dự đoán được. Dù cố gắng thế nào thì cân nặng của bạn cũng không giảm nhiều sau một ngày; bạn cần tác dụng tổng hợp của nhiều ngày, nhiều tuần hay thậm chí nhiều tháng. Tương tự, nếu là nha sĩ, bạn không thể trở nên giàu có chỉ sau một ngày - nhưng sẽ giàu có nếu hăng say, chăm chỉ, nghiêm túc và thường xuyên tham gia các lớp học huấn luyện kỹ năng chữa răng trong suốt hơn ba mươi năm liền. Tuy nhiên, nếu đi theo hoạt động đầu cơ dựa vào Extremistan, một phút có thể quyết định số phận của bạn được gì hay mất gì.

Bảng 1

Mediocristan (Bình thường)

Không có tính thang bậc

Ngẫu nhiên ôn hòa hay ngẫu nhiên loại 1

Đối tượng đặc trưng nhất: tầm thường

Người chiến thắng sẽ được một phần nhỏ của cái bánh

Ví dụ khán giả của ca sĩ opera vào thời máy thu âm chưa được phát minh

Thường được tìm thấy trong môi trường của tổ tiên chúng ta

Không chịu ảnh hưởng của Thiên Nga Đen

Theo luật trọng trường

(Thường) tương ứng với khối lượng tự nhiên, tức là chiều cao

Gần như một sự công bằng không tưởng vì thực tế diễn ra một cách tự nhiên

Một hiện tượng hay quan sát đơn lẻ không thể quyết định tổng thể

Nếu quan sát được một lúc, bạn có thể biết điều gì đang xảy ra

Sự áp đặt của cái chung

Dễ dự đoán thông qua những gì được thấy và mở rộng đến những gì chưa thấy

Lịch sử lê từng bước nhỏ

Các biến cố được phân phối 14 theo “đường cong hình chuông” (GIF) hoặc các biến thể của nó.

Extremistan (Cực độ)

Có tính thang bậc

Ngẫu nhiên dữ dội (thậm chí siêu dữ dội) hay ngẫu nhiên loại 2

Đối tượng “đặc trưng” nhất: nếu không là một gã khổng lồ thì là một người tí hon, tức là không có đối tượng đặc trưng

Người chiến thắng sẽ lấy hết

Khán giả của một nghệ sĩ thời nay

Thường được tìm thấy trong môi trường hiện đại

Dễ bị tác động bởi Thiên Nga Đen

Không có giới hạn vật lý nào về số lượng

Tương ứng với các con số, ví dụ như tài sản

Bị chi phối bởi sự bất công “người chiến thắng sẽ lấy đi tất cả”

Một số lượng nhỏ các sự kiện cực độ có thể quyết định cả tổng thể

Phải mất nhiều thời gian mới biết điều gì đang xảy ra

Sự áp đặt của cái ngẫu nhiên

Khó dự đoán từ những thông tin về quá khứ

Lịch sử nhảy những bước dài

Được phân phối bởi hoặc là những con Thiên Nga “xám” của Mandelbrot (dễ kiểm soát về mặt khoa học) hoặc là những con Thiên Nga Đen hoàn toàn không thể kiểm soát.

Bảng 1 tóm tắt những khác biệt giữa hai nguồn động lực mà tôi sẽ trình bày trong phần còn lại của cuốn sách; việc nhầm lẫn cột bên trái với cột bên phải có thể gây ra những hậu quả thảm khốc (hoặc may mắn tột cùng).

Mặc dù chứng tỏ Extremistan là nơi chứa đựng hầu hết hành động Thiên Nga Đen nhưng minh họa trên cũng chỉ là một phép tính xấp xỉ thô sơ - xin đừng Plato hóa, đừng đơn giản hóa nó hơn mức cần thiết.

Không phải lúc nào Extremistan cũng đồng nghĩa với Thiên Nga Đen. Một số biến cố hiếm xảy ra và có ý nghĩa lớn, nhưng trong một chừng mực nào đó, vẫn có thể dự đoán được, đặc biệt với những ai luôn sẵn sàng chờ đón chúng và có những công cụ để hiểu được chúng (thay vì lắng nghe các nhà thống kê, nhà kinh tế học, và những tên “lang băm” với biến thể đường cong hình chuông). Chúng là những biến cố gần giống Thiên Nga Đen. Trong một chừng mực nào đó, người ta có thể kiểm soát những biến cố đó về mặt khoa học - nghĩa là nếu biết được phạm vi ảnh hưởng của chúng, bạn sẽ ít bất ngờ hơn khi chúng xuất hiện; những biến cố này tuy hiếm, nhưng mọi người đã có sự chuẩn bị. Tôi gọi trường hợp đặc biệt về những chú Thiên Nga “xám” này là sự ngẫu nhiên của tập hợp Mandelbrot. Danh mục này bao gồm tính ngẫu nhiên sản sinh ra các hiện tượng thường được biết đến qua các thuật ngữ như có tính thang bậc, tính chất bất biến đối với các phép thay đổi kích thước (scale-invariant), định luật lũy thừa, định luật Pareto-Zipf, định luật Yule, các quy trình Paretian-stable, Levy-stable và định luật fractal, nhưng bây giờ, chúng ta tạm thời không quan tâm đến chúng nữa bởi chúng sẽ được trình bày cụ thể hơn trong Phần 3. Theo mạch của chương này, những sự kiện đó có tính thang bậc, nhưng bạn có thể biết thêm đôi chút về cách thức leo thang của chúng bởi chúng cũng tuân theo các quy luật của tự nhiên.

Bạn vẫn có thể nếm trải những biến cố Thiên Nga Đen nghiêm trọng trong Mediocristan, dù điều này không dễ dàng gì. Bằng cách nào? Có thể bạn sẽ quên rằng mọi việc luôn có tính ngẫu nhiên, và nghĩ rằng nó có tính tiền định để rồi chuốc lấy bất ngờ. Hoặc bạn có thể đi bằng đường hầm và bỏ lỡ mất một nguồn tập hợp sự bất định, dù dữ dội hay ôn hòa, do thiếu khả năng tưởng tượng - hầu hết Thiên Nga Đen đều bắt nguồn từ căn bệnh “đi đường hầm” mà tôi sẽ trình bày trong Chương 9.

Đây là nội dung mô tả khái quát mang phong cách văn chương về sự khác biệt trọng tâm của cuốn sách này, giúp bạn phân biệt giữa những gì có thể thuộc về Mediocristan và những gì thuộc về Extremistan. Như đã trình bày, tôi sẽ tiến hành xem xét một cách thấu đáo hơn trong Phần 3, vì thế, bây giờ, hãy tập trung vào nhận thức luận và xem xét mức độ ảnh hưởng của sự khác biệt này đối với kiến thức của chúng ta.

Thiên Nga Đen
Chương 4: Nghìn Lẻ Một Ngày, Hay Cách Để Không Trở Thành Một Gã Khờ

NGẠC NHIÊN, NGẠC NHIÊN ■ CÁC PHƯƠNG PHÁP TINH VI ĐÃ HỌC HỎI TỪ TƯƠNG LAI ■ SEXTUS LUÔN ĐI TRƯỚC ■ MỤC ĐÍCH CHÍNH LÀ KHÔNG PHẢI TRỞ THÀNH MỘT GÃ KHỜ ■ HÃY CÙNG ĐẾN MEDIOCRISTAN, NẾU CHÚNG TA CÓ THỂ TÌM THẤY NÓ 

Điều gì đưa chúng ta đến Bài toán Thiên Nga Đen ở dạng nguyên sơ của nó?

Giả sử một người có quyền hành và địa vị, hoạt động ở nơi mà địa vị được coi trọng - chẳng hạn như, cơ quan chính phủ hay một tập đoàn lớn. Người này có thể là tay bình luận chính trị lắm lời trên kênh Fox News mà bạn luôn đụng mặt ở trung tâm chăm sóc sức khỏe (vì không thể tránh nhìn vào màn hình được), hay chủ tịch một công ty đang nói về “tương lai tươi sáng phía trước”, một bác sĩ y khoa “kiểu Plato” nhất quyết bác bỏ lợi ích của sữa mẹ (bởi vì ông ta không thấy có gì đặc biệt trong đó), hay một giáo sư Trường Kinh doanh Harvard, người không bao giờ cười khi bạn kể chuyện cười. Ông ta hơi quá xem trọng vốn hiểu biết của mình.

Giả định rằng một ngày nào đó, có một gã hay chơi khăm khiến ông ta bất ngờ bằng cách trượt cọng lông vũ lên mũi khi ông ta đang ngả người thư giãn. Thái độ ra vẻ tự đắc kia sẽ như thế nào sau bất ngờ ấy? Tương phản với lối hành xử hách dịch là cú sốc bởi những thứ ông ta không thể hiểu và hoàn toàn không ngờ đến. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, trước khi ông ta kịp định thần lại, bạn sẽ thấy có cảm xúc xáo trộn gì đó trên gương mặt ông ta.

Xin thú nhận ràng tôi đã hình thành một sở thích không thể sửa được với những trò chơi khăm này trong lần đầu tiên đi cắm trại hè xa nhà. Khi được đưa vào mũi một trại sinh đang say ngủ, cọng lông vũ sẽ khiến người ấy hoảng hốt thật sự. Tôi sử dụng một phần tuổi thơ của mình để luyện tập các biến thể của trò chơi này: thay vì dùng lông vũ, bạn có thể cuộn một góc mảnh khăn giấy cho nó dài và hẹp lại. Tôi thử trò này vài lần với đứa em trai. Một trò khác hấp dẫn không kém chính là việc thả viên nước đá vào cổ áo một người khi anh ta không hề phòng thủ, như trong một buổi ăn tối bàn công chuyện chẳng hạn. Dĩ nhiên, khi trưởng thành, tôi buộc phải ngưng những trò này lại, nhưng thỉnh thoáng vẫn vô tình nhớ lại những hình ảnh ấy khi quá ngán ngẩm với những bữa gặp mặt với các vị doanh nhân mặt mày lúc nào cũng nghiêm trọng (với những bộ complê sẫm màu và những khối óc đã được chuẩn hóa) thao thao thuyết giảng, giải thích mọi việc hay nói về các biến cố ngẫu nhiên với rất nhiều từ “bởi vì” trong đó. Tôi nhìn vào một người trong số họ và tưởng tượng cảnh viên nước đá trượt dài xuống sống lưng ông ta - mặc dù kém văn minh hơn, nhưng chắc chắn sẽ ngoạn mục hơn, nếu bạn bỏ một con chuột còn sống vào đó, đặc biệt nếu người này có máu buồn và thắt cà vạt, khi đó, trò này sẽ chặn đứng lối thoát thông thường của loài gặm nhấm ấy. 15

Việc chơi khăm cũng thể hiện lòng trắc ẩn. Tôi còn nhớ những ngày đầu đi giao dịch, lúc đó tôi 25 tuổi, và là khoảng thời gian kiếm tiền rất dễ. Tôi thường đi tắc-xi, và nếu bác tài nói thứ tiếng Anh “da bọc xương” (ND: chẳng buồn nói chuyện) và trông rất chán nản, tôi sẽ boa 100 đô-la, chỉ để khiến ông ta “choáng” và để mình được thưởng thức vẻ ngạc nhiên đó. Tôi thấy ông ta mở tờ giấy bạc ra và nhìn nó với đôi chút bàng hoàng (nếu là 1 triệu đô-la thì hẳn hiệu quả còn cao hơn nữa, nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi). Đó cũng là một thí nghiệm đơn giản mang tính hưởng lạc: cảm giác “thăng hoa” khi được bổ sung vào ngày công của ai đó số tiền nho nhỏ 100 đô-la. Sau cùng, tôi chấm dứt việc làm này; tất thảy chúng ta đều trở nên bủn xỉn và tính toán khi của cải của mình gia tăng và bắt đầu coi trọng tiền bạc.

Tôi không cần nhiều đến bàn tay của số phận để có được những trò tiêu khiển quy mô lớn hơn: thực tế cho thấy các quá trình thay đổi niềm tin như thế diễn ra ở tần số rất cao. Nhiều trường hợp diễn ra khá ngoạn mục. Trên thực tế, toàn bộ quá trình tìm kiếm tri thức đều dựa trên việc tiếp nhận sự hiểu biết thông trường và những niềm tin khoa học đã được chấp nhận, đồng thời dùng bằng chứng phản trực giác mới để phân nhỏ chúng thành nhiều phần, dù ở quy mô nhỏ (mỗi khám phá khoa học chính là một nỗ lực sản sinh ra tiểu Thiên Nga Đen) hay với quy mô lớn hơn (như với thuyết tương đối của Poincaré và Einstein). Các nhà khoa học có lẽ chỉ biết cười nhạo các bậc tiền bối của mình, nhưng do chuỗi các khuynh hướng thần kinh của con người mà hầu như không ai trong số họ nhận ra rằng trong tương lai (thật đáng buồn là không xa), sẽ có người cười nhạo lại những niềm tin của họ. Như trong trường hợp này, tôi và quý độc giả đang cười nhạo trạng thái hiện tại của kiến thức xã hội. Những nhân vật quan trọng này không thấy được tính tất yếu của quá trình xem xét lại toàn bộ công việc sắp đến, điều này có nghĩa là bạn có thể tin rằng những người này sẽ mang bất ngờ đến cho mình.

PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP TỪ GÀ TÂY
Siêu triết gia Bertrand Russell trình bày một biến thể vô cùng độc hại khiến tôi choáng váng trong minh họa cho cái mà giới của ông gọi là Bài Toán Quy Nạp hay Bài Toán về Kiến Thức Quy Nạp (in hoa để thể hiện mức độ quan trọng của nó) - hiển nhiên, nó là nguồn gốc của mọi vấn đề phát sinh trong cuộc sống. Làm thế nào chúng ta có thể đi từ những trường hợp cụ thể đến các kết luận tổng quát một cách lôgic được? Làm thế nào chúng ta biết được mình biết những gì? Làm thế nào để biết những gì mình quan sát được từ một số đối tượng và biến cố nhất định có đủ để rút ra các thuộc tính khác của chúng? Luôn có những cái bẫy được giăng sẵn trong bất kỳ loại kiến thức nào mà chúng ta có được nhờ quan sát.

Lấy ví dụ về một con gà tây được cho ăn mỗi ngày. Việc mỗi ngày được cho ăn sẽ giúp con gà tin rằng quy luật chung của cuộc đời là nó sẽ được cho ăn mỗi ngày bởi những con người thân thiện “luôn vì lợi ích tốt nhất của nó”, đúng theo cách mà chính trị gia hay nói. Vào buổi chiều trước Lễ Tạ ơn, có chuyện bất ngờ xảy đến với con gà tây đó. Nó sẽ phải tự xem xét lại niềm tin của mình. 16

Phần còn lại của chương này sẽ phác thảo bài toán Thiên Nga Đen ở dạng nguyên thể. Làm thế nào chúng ta biết được tương lai nếu dựa trên kiến thức về quá khứ; hay nói một cách tổng quát hơn, làm sao có thể chỉ ra thuộc tính của những thứ chưa biết (vô hạn) nếu chỉ dựa vào những thứ đã biết (hữu hạn)? Quay trở lại với ví dụ về việc cho gà ăn; Con gà có thể học được gì từ các biến cố của ngày hôm qua để biết ngày mai người ta cho nó ăn gì? Nhiều, nhưng có lẽ sẽ hơi ít hơn những gì nó nghĩ, và chỉ cần cái “hơi ít hơn” ấy thôi cũng đủ để tạo nên sự khác biệt.

Bài toán về con gà tây có thể được áp dụng vào bất kỳ tình huống nào mà bàn tay cho bạn ăn cũng chính là bàn tay vặn cổ bạn. Hãy xem xét trường hợp về những người Đức gốc Do Thái đang trong quá trình hợp nhất vào thập niên 30 - hoặc miêu tả của tôi trong Chương 1 về cách mà người dân Li băng đã bị ru ngủ bằng cảm giác an toàn giả tạo bởi sự hiện diện của tính thần thiện và vị tha giữa mọi người với nhau.

Chúng ta hãy tiếp tục đi sâu hơn và xem khía cạnh đáng lo ngại nhất của phương pháp quy nạp: nghiên cứu ngược về quá khứ. Giả sử rằng kinh nghiệm của con gà tây mang giá trị âm, thay vì không có giá trị. Nó đã học được từ quan sát, giống như cách tất cả chúng ta được khuyên bảo (suy cho cùng thì đây là cái mà người ta tin là phương pháp khoa học). Niềm tin của con gà tăng lên theo số lần được cho ăn thân thiện, và nó cảm thấy ngày càng an toàn mặc dù ngày hành hình đã dần điểm. Và khi cảm giác an toàn lên cao nhất cũng chính là lúc nguy hiểm đã đạt đến đỉnh điểm! Tuy nhiên, vấn đề đó thậm chí còn có tính tổng quát hơn thế nữa; nó nhằm vào bản chất của chính kiến thức thực nghiệm. Nhiều thứ tỏ ra có ích trong quá khứ cho đến khi đột nhiên không còn hữu ích nữa, và những gì chúng ta học được trong quá khứ, nếu nhẹ thì trở nên sai lầm hoặc không liên quan, còn nặng thì gây ra lạc lối nghiêm trọng.

Minh họa 1: Nghìn lẻ một ngày lịch sử

thienngaden1

Con gà tây trước và sau Lễ Tạ ơn. Lịch sử của một quá trình hơn một nghìn ngày không thể giúp bạn biết được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Việc dự đoán tương lai từ quá khứ một cách ngây thơ ấy có thể được vận dụng vào bất kỳ trường hợp nào.

Minh họa 1 cho thấy dạng nguyên mẫu của bài toán quy nạp được va chạm từ thực tế cuộc sống. Bạn quan sát một biến số giả thuyết trong một nghìn ngày. Nó có thể là bất cứ thứ gì (với một vài thay đổi không đáng kể) như: doanh số bán sách, huyết áp, tội ác, thu nhập cá nhân, một mã cổ phiếu, lãi suất vay hay số người đến một nhà thờ Chính Thống giáo ở Hy Lạp nào đó trong ngày Chủ Nhật. Sau đó, bạn chỉ dựa vào dữ liệu quá khứ để rút ra một vài kết luận về thuộc tính của mẫu quan sát đó kèm theo các dự báo cho một nghìn, hay thậm chí là năm nghìn ngày tiếp theo. Vào ngày thứ một nghìn lẻ một - bùm! Một thay đổi lớn xảy ra mà quá khứ hoàn toàn không có sự chuẩn bị nào cho nó cả.

Lấy ví dụ về tính bất ngờ của Cuộc Chiến Vĩ Đại (Great War). Sau các trận đánh của Napoleon, thế giới trải qua những ngày tháng hòa bình - điều khiến nhiều nhà quan sát tin rằng những cuộc xung đột có tính tàn phá nghiêm trọng đã chấm dứt. Tuy nhiên, thật ngạc nhiên! Nó đã trở thành một cuộc chiến gây thương vong lớn nhất trong lịch sử nhân loại tính đến thời điểm đó.

Lưu ý rằng, sau mỗi sự kiện, bạn bắt đầu dự đoán khả năng xảy ra của các yếu tố ngoại lai theo hướng cục bộ, nghĩa là trong phạm vi của quá trình vừa mới làm bạn ngạc nhiên, chứ không phải ở một nơi nào khác. Sau sự kiện thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1987, cứ đến tháng Mười hằng năm, một nửa số giao dịch viên ở Mỹ lại chuẩn bị đón chờ một cuộc khủng hoảng tương tự - nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sụp đổ đầu tiên cũng không có tiền lệ. Chúng ta bắt đầu lo lắng khi đã quá muộn - tức sau khi sự việc đã xảy ra. Việc ngây thơ tin rằng những gì quan sát được từ quá khứ như một cái gì đó điển hình hay đại diện cho tương lai chính là nguyên nhân duy nhất khiến chúng ta không thể hiểu được Thiên Nga Đen.

Có vẻ như đối với một kẻ không chuyên ưa trích dẫn - tức là một trong những nhà văn và học giả chuyên lấp đầy câu chữ của mình bằng lời nói của các vị chuyên gia đã khuất - theo cách diễn giải của Hobbes 17, là “từ những thứ giống như tiền lệ dẫn đến những thứ giống như kết quả”. Những ai tin vào lợi ích vô điều kiện từ trải nghiệm quá khứ hãy nên suy nghĩ về kiến thức quý báu dưới đây - câu nói này được cho là của vị thuyền trưởng một con tàu nổi tiếng:

Tuy nhiên, trong những gì đã trải qua, tôi chưa bao giờ gặp phải tai nạn nào cả… ý tôi là bất kỳ tai nạn nào đáng nói. Trong suốt quãng đời đi biển, chỉ duy nhất một lần tôi chứng kiến một con tàu lâm vào cảnh khốn cùng. Tôi chưa từng chứng kiến một vụ đắm tàu nào và cũng chưa bao giờ bị đắm tàu đồng thời cũng chưa từng lâm vào tình huống khó khăn nào đó.

E.J SMTTH, 1907, Thuyền Trưởng, RMS Titanic

Con tàu của thuyền trưởng Smith đắm vào năm 1912, trở thành tai nạn đắm tàu được người ta nhắc đến nhiều nhất trong lịch sử. 18

Được đào tạo để trở nên đần độn
Tương tự, ví dụ một chủ nhà băng với công ty làm ăn có lãi liên tục trong thời gian dài, để rồi mất hết tất cả chỉ sau một cú đảo chiều. Theo thông lệ, chủ các ngân hàng cho vay thường có khuôn mặt hình quả lê, “mày râu nhẵn nhụi” và ăn mặc theo cách thoải mái nhất nhưng cũng nhàm chán nhất, đó là complê sẫm màu, sơ mi trắng, cà vạt đỏ. Quả thật, trong lĩnh vực cho vay, các ngân hàng thuê những kẻ ngốc nghếch và huấn luyện họ trở nên đần độn hơn. Nhưng đây chỉ mới là hình thức thôi. Nếu trông họ có vẻ cẩn trọng thì đó là do các khoản cho vay của họ rất hiếm khi lâm vào cảnh vỡ nợ. Bạn sẽ không thể nào đánh giá mức độ hiệu quả của hoạt động cho vay mà những người này đang tiến hành nếu chỉ quan sát nó một ngày, một tuần, một tháng, hay… thậm chí một thế kỷ! Mùa hè năm 1982, các ngân hàng lớn của Mỹ gần như mất hết tất cả tài sản (tích lũy) từ trước, tức gần như mọi thứ họ đã gây dựng được trong lịch sử ngành ngân hàng của Mỹ - mọi thứ. Họ cho các nước Nam và Trung Mỹ vay và tất cả những nước này vỡ nợ cùng một lúc - “một sự kiện có bản chất khác thường”. Vì thế, chỉ mất một mùa hè, người ta đã phát hiện ra rằng đó là việc làm của một gã khờ, và rằng tất cả thu nhập của họ đều đến từ một canh bạc rất rủi ro. Trong khi đó, các chủ ngân hàng cố gắng thuyết phục mọi người, và đặc biệt chính mình, rằng mình “cẩn trọng”, nhưng thật ra chẳng cẩn trọng chút nào, mà chỉ giỏi lừa dối bản thân khi che giấu một khoản thua lỗ có sức tàn phá ghê gớm dưới tấm thảm trải sàn. Trên thực tế, trò bôi bác này đã lặp lại một thập niên sau đó với việc các ngân hàng lớn dù đã “nhận biết được rủi ro” nhưng vẫn lâm vào tình trạng căng thẳng tài chính. Nhiều ngân hàng nằm trong tình trạng hấp hối sau khi thị trường bất động sản sụp đổ vào đầu thập niên 90, khiến cho chính phủ phải thực hiện chính sách cứu trợ tài chính trị giá hơn 500 tỷ đô-la lấy từ tiền đóng thuế của người dân trong lĩnh vực cho vay và tiết kiệm đang bị xóa sổ. Ngân hàng Dự trữ Liên bang đã dùng tiền của chúng ta để bảo vệ các ngân hàng này: khi họ tạo ra lợi nhuận, nhận được nhiều lợi ích; còn khi họ bị tổn thương, chính chúng ta là người phải hứng chịu.

Sau khi tốt nghiệp Wharton, nơi đầu tiên tôi làm việc là Bankers Trust (hiện đã bị xóa sổ). Ở đó, nhanh chóng quên đi câu chuyện của năm 1982, văn phòng chủ tịch thường công bố kết quả đạt được sau mỗi quý kèm theo thông báo tuyên dương việc họ đã sáng suốt, cẩn trọng ra sao, đem về nhiều lợi nhuận đến mức nào (và cả đẹp trai như thế nào nữa). Rõ ràng, lợi nhuận mà họ mang về chỉ đơn thuần là tiền mặt vay mượn từ một nguồn nào đó với thời gian hoàn trả bất định trong tương lai. Tôi không hề hấn gì khi dám chấp nhận rủi ro, nhưng làm ơn đừng tự cho rằng mình cẩn trọng và cư xử như kẻ bề trên với các công ty khác, người ta không dễ bị tác động bởi Thiên Nga Đen như công ty bạn đâu.

Thêm một sự kiện xảy ra gần đây, năm 1998, là sự phá sản gần như ngay lập tức của công ty đầu tư tài chính (quỹ đầu tư mạo hiểm) Long-Term Capital Management (LTCM) dù đã sử dụng phương pháp và kiến thức của hai nhà kinh tế học từng đoạt giải Nobel trong quản trị rủi ro. Thực ra, hai “thiên tài” một thời ấy đã sử dụng loại toán học dỏm, theo kiểu đường cong hình chuông trong quản lý và tự thuyết phục bản thân rằng đó là một môn khoa học vĩ đại và vì thế, biến cả một thể chế tài chính lâu đời thành những kẻ khờ khạo. Một trong những giao dịch thua lỗ lớn nhất lịch sử diễn ra chỉ sau một cái nháy mắt, và không có dấu hiệu cảnh báo nào về điều đó cả (để biết thêm về vấn đề này, hãy tiếp tục đọc Chương 17). 19

Một Thiên Nga Đen có liên quan đến tri thức
Xét theo quan điểm của con gà tây thì việc nó không được cho ăn vào ngày thứ một nghìn lẻ một chính là một Thiên Nga Đen. Còn đối với ông hàng thịt thì không, bởi sự việc này không có gì bất ngờ cả. Vì thế, qua đây, bạn có thể thấy rằng Thiên Nga Đen chính là vấn đề của một gã khờ. Nói cách khác, sự xuất hiện của nó có liên quan đến sự mong đợi của bạn. Bạn nhận thấy rằng mình có thể loại trừ được Thiên Nga Đen nhờ vào khoa học (nếu có khả năng) hay bằng cách giữ cho đầu óc phóng khoáng. Dĩ nhiên, cũng giống như nhân viên của công ty đầu tư tài chính LTCM, bạn có thể tạo ra Thiên Nga Đen bằng kiến thức khoa học của mình qua việc thuyết phục người khác tin rằng Thiên Nga Đen không thể xảy ra - đây chính là thời điểm khoa học biến những công dân bình thường thành kẻ ngốc.

Lưu ý rằng, những biến cố này không nhất thiết phải gây bất ngờ ngay lập tức. Một vài đứt gãy về lịch sử mà tôi đề cập trong Chương 1 tồn tại qua nhiều thập kỷ như máy vi tính chẳng hạn, đã tạo ra những ảnh hưởng có ý nghĩa to lớn đối với xã hội mà chúng ta không hề nhận thấy rằng nó đang xâm chiếm cuộc sống của mình từ ngày này qua ngày khác. Một số hiện tượng Thiên Nga Đen còn bắt nguồn từ quá trình tích tụ chậm chạp của những thay đổi tăng thêm trong cùng một hướng, ví dụ như những cuốn sách được bán ra với số lượng lớn trong nhiều năm liền nhưng chưa bao giờ xuất hiện trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất, hay những công nghệ đang tác động lên chúng ta một cách chậm chạp nhưng chắc chắn. Tương tự, sự tăng trưởng của cổ phiếu Nasdaq vào cuối thập niên 90 chỉ diễn ra trong vòng vài năm, nhưng sẽ rõ nét hơn nếu được hiển thị trên sơ đồ dài hạn. Các sự cố cần được xem xét dưới thước đo thời gian tương đối, chứ không phải tuyệt đối: những trận động đất kéo dài trong vài phút, sự kiện 11/9 kéo dài trong vài giờ, nhưng những biến đổi lịch sử và ứng dụng công nghệ là những Thiên Nga Đen kéo dài suốt nhiều thập kỷ. Nhìn chung, những hiện tượng Thiên Nga Đen tích cực cần nhiều thời gian để phát huy tác dụng trong khi những hiện tượng tiêu cực thì diễn ra rất nhanh - phá hoại bao giờ cũng dễ dàng và nhanh chóng hơn xây dựng rất nhiều. (Trong chiến tranh Li băng, nhà bố mẹ tôi ở Amioun và nhà ông bà tôi ở một ngôi làng gần đó đã bị phá hủy chỉ trong vài giờ bằng thuốc nổ sau khi kẻ thù của ông tôi giành quyền kiểm soát khu vực đó. Phải mất gần bảy lần khoảng thời gian ấy, tức 2 năm, người ta mới tái thiết được nơi này. Chính sự không cân xứng về thước đo thời gian đã giải thích vì sao việc lật ngược lại thời gian lại khó khăn đến thế.)

LƯỢC SỬ BÀI TOÁN THIÊN NGA ĐEN
Bài toán con gà tây (hay còn gọi là bài toán quy nạp) này đã quá cũ nhưng vì một số lý do, giáo viên triết học của bạn thường gọi nó là “Bài toán Hume”.

Người khác hình dung chúng ta - những người theo chủ nghĩa hoài nghi và chủ nghĩa thực nghiệm - là những kẻ khinh khỉnh, hoang tưởng và khổ sở trong cuộc sống riêng tư, điều hoàn toàn trái ngược với những gì lịch sử (cũng như kinh nghiệm của cá nhân tôi) ghi nhận. Giống như hầu hết những người theo chủ nghĩa hoài nghi mà tôi từng tiếp xúc, Hume là người vui tính và lịch lãm, luôn hào hứng tham dự các cuộc họp văn nghệ sĩ và các buổi trò chuyện thân mật. Có nhiều giai thoại xoay quanh cuộc đời ông. Có lần, ông rơi xuống một đầm lầy gần ngôi nhà đang xây ở Edinburgh. Do nhiều người dân địa phương biết ông là người theo chủ nghĩa vô thần nên lần đó, một phụ nữ đã từ chối kéo ông lên cho đến khi nào ông chịu đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính (The Lord's Prayer and The Belief); với đầu óc nhanh nhạy của mình, ông đã làm được. Tuy nhiên, sau khi tranh luận với người phụ nữ ấy về việc liệu người theo đạo Tin Lành có bị ép buộc giúp đỡ kẻ thù của mình hay không, Hume không còn giữ được vẻ ngoài thiện cảm nữa. Một chuyên gia viết tiểu sử đã nhận xét như sau, “Ông ta thể hiện cái nhìn lo lắng của một vị học giả uyên thâm, cái nhìn luôn khiến những người không hiểu biết nghĩ về ông như một gã khờ”.

Lạ thay, trong suốt quãng đời của mình, Hume không được biết đến nhờ những tác phẩm đã làm nên tên tuổi ông hiện nay - ông trở nên giàu có và nổi tiếng nhờ vào một tác phẩm về lịch sử nước Anh được xếp vào hàng bán chạy nhất. Trớ trêu thay, khi Hume còn sống, những công trình nghiên cứu về triết học của ông - những tác phẩm mà ngày nay chúng tôi vẫn thường hay trích dẫn - “đã chết yểu trước khi được báo giới biết đến”, trong khi những tác phẩm làm nên tên tuổi ông vào thời ấy đang ngày càng trở nên khó tìm. Hume viết bằng sự trong sáng đến mức hầu hết các tư tưởng gia thời nay, và dĩ nhiên, toàn bộ chương trình giảng dạy sau đại học của Đức, phải cảm thấy hổ thẹn. Không giống như Kant, Fichte, Schopenhauer và Hegel, Hume là nhà tư tưởng mà người đang đề cập đến công trình của ông thỉnh thoảng có đọc qua.

Tôi thường nghe cụm từ “Bài toán Hume” được nhắc đến khi bàn về bài toán quy nạp, nhưng nó đã trở nên cũ xưa rồi, thậm chí còn lớn tuổi hơn cả người Scotland, có lẽ lâu đời như chính bản thân triết học và xưa như những câu chuyện về rừng ô-liu vậy. Chúng ta hãy cùng nhau ngược về quá khứ, thời điểm mà bài toán này được hình thành với độ chính xác cao bởi người La Mã và Hy Lạp cổ.

Sextus 20, người theo chủ nghĩa kinh nghiệm
Sextus Empiricus, tác giả phản kinh viện và nhà hoạt động phản giáo điều, đã phát huy ảnh hưởng của mình trước thời của Hume gần một nghìn năm trăm năm, và đã giải quyết được bài toán con gà tây với độ chính xác tuyệt vời. Chúng ta không biết nhiều về ông, cũng không biết liệu ông có phải là một triết gia, hoặc hơn thế, là người chuyên chép lại các công trình triết học của những tác giả mà chúng ta hoàn toàn mù tịt. Chúng ta ước tính rằng ông sống ở thời Alexandria vào thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, ông thuộc trường phái y học có tên là “chủ nghĩa thực nghiệm”, vì những người theo trường phái này luôn hoài nghi về các lý thuyết và thuyết nhân quả, và chỉ tin vào trải nghiệm trong quá khứ, xem nó như kim chỉ nam trong quá trình chữa trị, dù bản thân mình cũng không hoàn toàn tin tưởng chúng. Hơn nữa, họ cũng không tin rằng giải phẫu sẽ giúp khám phá ra các chức năng một cách rõ ràng. Người ta cho rằng Menodotus of Nicomedia, người khởi xương nổi tiếng nhất của trường phái chủ nghĩa kinh nghiệm này, đã hợp nhất chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa hoài nghi triết học, luôn xem y học là một môn nghệ thuật chứ không phải “khoa học”, và đã tách thực tiễn của chủ nghĩa kinh nghiệm ra khỏi các vấn đề của khoa học mang tính giáo điều. Thực tiễn y học cũng giải thích cho phần bổ sung empiricus (“thuộc trường phái thực nghiệm”) vào tên của Sextus.

Sextus đã thể hiện và ghi chú những ý tưởng của trường phái hoài nghi Pyrrho - trường phái của những người theo đuổi một dạng liệu pháp tinh thần bắt nguồn từ việc từ bỏ niềm tin. Liệu có khi nào bạn phải đối mặt với một sự cố bất lợi? Đừng lo lắng. Ai biết được, biết đâu nó lại có ích cho bạn thì sao. Việc hoài nghi hậu quả của một tác động sẽ khiến bạn giữ được sự điềm tĩnh. Người theo chủ nghĩa hoài nghi Pyrrho là những công dân dễ sai khiến, luôn tuân theo các phong tục và truyền thống bất cứ khi nào có thể, tuy nhiên, luôn tự rèn luyện mình phải nghi ngờ mọi thứ một cách có hệ thống, và do đó, đạt được một mức độ trầm tính nhất định. Nhưng dù duy trì thói quen cẩn trọng, họ vẫn điên cuồng chống lại chủ nghĩa giáo điều.

Trong số những tác phẩm còn sót lại của Sextus, người ta tìm thấy một bài văn chỉ trích với cái tên thật đẹp Adversos Mathematicos mà đôi khi được dịch ra là Chống lại các chuyên gia ngữ pháp. Tưởng chừng như rất nhiều điều trong bài văn ấy vừa được sáng tác tối qua!

Điểm mà tôi thấy thú vị nhất ở Sextus là sự hòa trộn hiếm hoi giữa triết học và khả năng ra quyết định trong hành động của ông. Ông là mẫu người của hành động, vì lý do đó mà các học giả cổ điển không dành cho ông những lời lẽ tốt đẹp. Các phương pháp y học thực nghiệm - những thứ chỉ dựa vào phương pháp thử-sai không mục đích - sẽ đóng vai trò trung tâm cho những ý tưởng của tôi về hoạch định và dự đoán, về cách kiếm lợi từ Thiên Nga Đen.

Năm 1998, trong khi ra ngoài một mình, tôi đã gọi cho phòng nghiên cứu và cũng là công ty giao dịch Empirica nơi tôi làm việc, không phải vì những nguyên nhân phản giáo điều mà vì cảm thấy rất phiền muộn khi nghĩ rằng phải mất thêm ít nhất mười bốn thế kỷ nữa, tính từ thời những công trình của trường phái y học thực nghiệm, y học mới thay đổi và trở nên phản giáo điều, không tin vào lý thuyết, mang tính hoài nghi sâu sắc và dựa theo bằng chứng! chúng ta rút ra bài học gì từ đây? Sự nhận thức đó cũng không mang nhiều ý nghĩa - đặc biệt khi bạn có các mối quan tâm đặc biệt và các thể chế vị kỷ đang hoạt động.

Algazel
Nhà tư tưởng quan trọng thứ ba giải quyết bài toán này là một người nói tiếng Ả Rập theo chủ nghĩa hoài nghi sống vào thế kỷ 11, Al-Ghazali, hay còn được biết đến với tên La-tinh là Algazel. Đối với một nhóm học giả giáo điều thì tên của ông là ghabi, nghĩa là “gã đần” mà theo tiếng Ả Rập, nghĩa của từ này nghe buồn cười hơn - “đứa con nít to xác”- và ấn tượng hơn - “người theo chính sách ngu dân”. Algazel cũng có một phiên bản “Chống lại các chuyên gia ngữ pháp” của riêng mình - một bài công kích mang tên Tahafut al falasifa mà tôi xin tạm dịch là “Sự kém cỏi của triết học”. Tác phẩm này hướng tới một trường phái mang tên falasifah - tổ chức tinh thần Ả Rập kế thừa trực tiếp nền triết học cổ điển của kinh viện và cố gắng hòa hợp nó với đạo Hồi thông qua tranh luận hợp lý.

Cuộc tấn công của Algazel nhắm vào kiến thức “khoa học” bắt đầu bằng một tranh luận với Averroes, triết gia thời Trung cổ, người về sau có ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với các nhà tư tưởng Trung cổ (trong đó có người Do Thái, Thiên Chúa, nhưng không có người Hồi Giáo). Cuộc tranh luận giữa Algazel và Averroes sau cùng cũng kết thúc với chiến thắng, đáng buồn là, thuộc về cả hai. Từ đó, nhiều nhà tư tưởng tôn giáo Ả Rập đã hợp nhất và phóng đại chủ nghĩa hoài nghi của Algazel về phương pháp khoa học, phó mặc cho sự phán quyết của Chúa trời (thật ra đây là tư tưởng mở rộng của Algazel). Phương Tây thì lại đi theo chủ nghĩa duy lý của Averroes, vốn được xây dựng trên nền móng của Aristotle và sống sót trước những triết gia Do Thái và triết gia chịu ảnh hưởng của Thánh Aquinas, những người luôn tự nhận mình là Averroan 21 trong một thời gian dài. Nhiều nhà tư tưởng đã buộc tội Algazel vì ảnh hưởng to lớn của ông đã khiến nhiều người Ả Rập sau này quay lưng lại với phương pháp khoa học. Cuối cùng, ông ủng hộ chủ nghĩa huyền bí Sufi, theo đó, người sùng bái nỗ lực tìm cách đạt được sự đồng điệu với Chúa, đồng thời chỉ trích tất cả các mối liên hệ với những thứ trần tục. Tất cả những điều này đài bắt nguồn từ Thiên Nga Đen.

Người theo chủ nghĩa hoài nghi, người bạn của tôn giáo
Trong khi những người theo chủ nghĩa hoài nghi cổ đại tán thành sự ngu dốt có học thức (learned ignorance) như bước đầu tiên để điều tra về sự thật, thì những người theo chủ nghĩa hoài nghi thời Trung cổ, cả người Hồi giáo lẫn người Thiên Chúa giáo, lại sử dụng chủ nghĩa hoài nghi như một công cụ để tránh phải chấp nhận cái mà ngày nay chúng ta gọi là khoa học. Niềm tin vào tầm quan trọng của bài toán Thiên Nga Đen, những lo lắng về phương pháp quy nạp, và chủ nghĩa hoài nghi có thể làm cho một số tranh luận về tôn giáo trở nên có sức lôi cuốn hơn dù ở dạng nguyên sơ, phản giáo hội và thuộc thuyết hữu thần. Ý tưởng về việc chỉ tin vào niềm tin chứ không tin vào lý lẽ còn được biết đến với cái tên tín ngưỡng luận. Do đó, có một truyền thống về những người theo chủ nghĩa hoài nghi mang yếu tố Thiên Nga Đen - những người tìm thấy niềm an ủi trong tôn giáo, mà hiện thân tiêu biểu nhất là Pierre Bayle, một nhà thần học, một triết gia, một nhà thông thái theo đạo Tin Lành nói tiếng Pháp, người bị lưu đày ở Hà Lan, và là người đã xây dựng được một kiến trúc triết học rộng lớn liên quan đến những người theo chủ nghĩa hoài nghi Pyrrho. Các tác phẩm của Bayle có ảnh hưởng lớn đến mức Hume phải sử dụng hàng loạt tư tưởng của ông - điều góp phần đưa Hume đến với chủ nghĩa hoài nghi cổ đại. Tác phẩm Từ điển lịch sử và phê phán (Dictionaire historique et critique) của Bayle trở thành một tuyệt tác của tri thức được đọc nhiều nhất trong thế kỷ 18, tuy nhiên, tương tự nhiều vị anh hùng người Pháp mà tôi ngưỡng mộ (như Frédéric Bastiat chẳng hạn), có vẻ Bayle không có tên trong chương trình giảng dạy của Pháp và gần như không thể tìm thấy tài liệu nào về ông được viết bằng thứ tiếng Pháp chính gốc Nicolas of Autrecourt, người theo trường phái Algazel, sống vào thế kỷ 14, cũng gặp phải hoàn cảnh tương tự.

Quả thật, có một sự thật mà không phải ai cũng biết là mãi gần đây, phần mô tả hoàn chỉnh nhất về những ý tưởng của chủ nghĩa hoài nghi vẫn còn là công việc của một vị giám mục Cơ Đốc giáo quyền uy, thành viên đức cao vọng trọng của Viện Hàn lâm Pháp. Năm 1690, Pierre-Daniel Huet đã viết tác phẩm Philosophical Treatise on the Weaknesses of the Human Mind (Chuyên luận triết học về những điểm yếu của bộ não con người) - một cuốn sách xuất chúng xé tan mọi giáo điều và chất vấn năng lực tri giác của con người. Huet trình bày những lý lẽ chống lại thuyết nhân quả vốn dĩ có sức thuyết phục khá mạnh mẽ, chẳng hạn như ông nói rằng bất kỳ sự kiện nào cũng có thể được sinh ra từ hằng hà sa số nguyên nhân.

Cả Huet lẫn Bayle đều là những người có học thức uyên bác và dành cả đời để đọc. Huet sống thọ đến hơn chín mươi tuổi, lúc nào cũng có một người hầu cầm sách theo sau để đọc cho ông nghe mỗi khi đang dùng bữa hay thư giãn nhằm tránh lãng phí thời gian. Người ta cho rằng ông là người đọc nhiều nhất thời đó. Cho phép tôi nhấn mạnh rằng, với tôi, học vấn uyên bác rất quan trọng. Nó là dấu hiệu của tính ham học hỏi chân thành, đi kèm với một trí óc phóng khoáng và khát khao tìm hiểu ý tưởng của người khác. Trên hết, một học giả uyên bác không bao giờ cảm thấy hài lòng về kiến thức của mình, và chính sự không hài lòng ấy là tấm chắn tuyệt vời để bảo vệ họ khỏi quan điểm Plato (Platonidty), tức những biện pháp đơn giản hóa của một vị giám đốc năm phút, hay tính tầm thường của một học giả quá chú tâm vào các tiểu tiết. Quả thật, học rộng mà không uyên thâm có thể dẫn đến nhiều thảm kịch.

Tôi không muốn trở thành con gà tây
Tuy nhiên, việc phát triển chủ nghĩa hoài nghi triết học không phải là sứ mệnh của cuốn sách này. Nếu nhận thức về bài toán Thiên Nga Đen có thể đưa chúng ta đến một cuộc tháo chạy và đến với chủ nghĩa hoài nghi Cực độ thì ngay lúc này, tôi sẽ chọn hướng hoàn toàn ngược lại. Tôi thích những chiến công và chủ nghĩa thực nghiệm chân chính. Vì thế, cuốn sách này không phải được viết nên bởi một người thần bí theo đạo Sufi, hay bởi người theo chủ nghĩa hoài nghi mang nhận thức của thời cổ đại hay Trung cổ, mà bởi một người luôn tìm cách để không trở thành một kẻ khờ trước những sự kiện có ý nghĩa. Chấm hết.

Về cơ bản, Hume tỏ ra hoài nghi về các công cụ khoa học, nhưng đã từ bỏ ngay ý nghĩ đó khi nói đến cuộc sống thường ngày bởi không thể tìm ra câu trả lời cho chúng. Những gì tôi đang làm ở đây hoàn toàn ngược lại: tôi hoài nghi những vấn đề có liên quan đến cuộc sống hàng ngày. Hay nói cách khác, tất cả những gì tôi quan tâm chính là làm cách nào để ra quyết định mà không trở thành một con gà tây.

Trong suốt hơn hai mươi năm qua, nhiều tay hiểu biết lưng lửng liên tục hỏi tôi “Này Taleb, làm cách nào băng qua đường nếu như ông luôn nhận biết về một rủi ro cực độ?” hay thậm chí còn có nhiều câu ngốc nghếch hơn như “ông đang yêu cầu chúng tôi không chấp nhận bất cứ rủi ro nào”. Dĩ nhiên, tôi không cổ súy cho nỗi ám ảnh về rủi ro (bạn sẽ thấy tôi thích kiểu chấp nhận rủi ro mạo hiểm): tất cả những gì tôi sắp trình bày với bạn trong cuốn sách này là làm cách nào để băng qua đường khi bị bịt mắt.

Họ muốn sống ở Mediocristan
Tôi vừa trình bày bài toán Thiên Nga Đen ở dạng lịch sử khó khăn chủ yếu của việc khái quát hóa từ những thông tin sẵn có, hay của việc học tập từ quá khứ, từ những gì đã biết và đã thấy. Tôi cũng đã cung cấp danh sách những nhân vật lịch sử mà mình cho là có liên quan nhiều nhất.

Bạn có thể thấy rằng sẽ vô cùng thuận lợi nếu được sống trong Mediocristan. Vì sao? Bởi nó cho phép bạn loại trừ những bất ngờ xuất phát từ Thiên Nga Đen này! Khi bạn sống trong Mediocristan, bài toán Thiên Nga Đen hoặc là không tồn tại hoặc là gây hậu quả rất nhỏ!

Kỳ diệu thay, giả định này xóa bỏ bài toán về quy nạp - thứ vốn dĩ không ngừng lây lan trong suốt lịch sử tư duy từ thời Sextus Empiricus. Một chuyên gia thống kê có thể làm việc mà không cần đến phương pháp nhận thức luận.

Mơ tưởng! Chúng ta không sống trong Mediocristan, chính vì thế mà Thiên Nga Đen cũng mang một tâm tính khác. Vì không thể che giấu được vấn đề nên chúng ta sẽ phải đào sâu nghiên cứu nó. Đây không phải là khó khăn cuối cùng - thậm chí chúng ta có thể kiếm lợi từ nó.

Giờ đây, có một số chủ đề khác phát sinh từ sự mù tịt của chúng ta về Thiên Nga Đen:

a. Chúng ta tập trung vào những phân khúc chọn sẵn của những gì đã được chứng kiến và khái quát chúng để áp đặt lên những gì chưa được chứng kiến: đây là lỗi chứng thực.

b. Chúng ta tự lừa dối mình bằng những câu chuyện nhằm thỏa mãn cơn khát triết học Plato về những hình mẫu đặc trưng: một lối liên tưởng ngụy biện.

c. Chúng ta cư xử như thể Thiên Nga Đen không hề tồn tại: bản chất của con người không được lập trình để đón nhận những hiện tượng Thiên Nga Đen.

d. Những gì chúng ta nhìn thấy không nhất thiết phải có ở đó. lịch sử che giấu Thiên Nga Đen và khiến chúng ta nghĩ sai về khả năng xảy ra của các hiện tượng này: đây là sự bóp méo các bằng chứng thầm lặng.

e. Chúng ta “đi bằng đường hầm”: tức là, chỉ tập trung vào một số ít nguồn gốc đã được xác định về tính bất định và một danh sách quá chi tiết về các Thiên Nga Đen (khiến chúng ta không dễ gì nhìn thấy các hiện tượng khác).

Tôi sẽ lần lượt trình bày từng điểm trên trong năm chương tiếp theo. Sau đó, ở cuối Phần 1, tôi sẽ chứng minh chúng thực chất chỉ là một.


Thiên Nga Đen
Chương 5: Chứng Thực Hay “Trứng” Thực

TÔI CÓ RẤT NHIỀU BẰNG CHỨNG ■ (CÓ KHI NÀO) ZOOGLES LẠI TRỞ THÀNH BOOGLES? ■ CHỨNG THỰC HAY “TRỨNG” THỰC ■ TƯ TƯỞNG POPPER 

Khi đã ăn sâu vào thói quen và hiểu biết truyền thống của chúng ta, chứng thực là một lỗi nguy hiểm.

Giả sử tôi nói rằng mình có bằng chứng chứng minh cầu thủ bóng đá O. J. Simson (người bị kết tội mưu sát vợ trong thập niên 90) không phạm tội.

Nghe này, một ngày kia, tôi ăn sáng với anh ta và anh ấy không giết bất kỳ ai. Tôi đang nghiêm túc đây, tôi không hề thấy anh ấy giết người. Liệu điều đó có thể chứng thực rằng anh ta vô tội? Nếu tôi thốt ra những lời đại loại như thế, chắc chắn bạn sẽ gọi ngay một bác sĩ tâm thần, xe cứu thương hay thậm chí cả cảnh sát nữa, bởi có thể bạn nghĩ rằng tôi đã dành quá nhiều thời gian trong phòng giao dịch hay trong các quán cà phê để tư duy về đề tài mang tên Thiên Nga Đen này, và rằng chuỗi lý luận của tôi có thể trực tiếp gây nguy hiểm cho xã hội nên bản thân tôi cần phải bị tống giam ngay tức khắc.

Bạn cũng sẽ phản ứng tương tự nếu như tôi nói rằng, một ngày kia, tôi ngủ trên đường ray xe lửa ở New Rochelle, New York mà không bị cán chết. Này, nhìn tôi này, tôi sẽ nói, và đây cũng là bằng chứng cho thấy việc nằm trên đường ray xe lửa sẽ không nguy hiểm gì hết. Tuy nhiên, cần xem xét trường hợp sau. Trong Minh họa 1 ở Chương 4, một người quan sát con gà trong một nghìn ngày đầu tiên (nhưng bỏ qua cú sốc của ngày thứ một nghìn lẻ một) chắc chắn sẽ nói với bạn rằng không có bất kỳ bằng chứng nào về khả năng xảy ra của các biến cố lớn, chẳng hạn như những hiện tượng mang tính Thiên Nga Đen. Tuy nhiên, bạn thường mắc sai lầm với phát ngôn đó, nhất là khi không để tâm nhiều đến nó, câu phát ngôn ấy có thể được hiểu là có bằng chứng cho thấy không có hiện tượng Thiên Nga Đen nào xảy ra. Dù trên thực tế, hai lời khẳng định này có sự khác biệt rất lớn về mặt lôgic, nhưng trong tâm trí bạn, khoảng cách ấy có vẻ như rất hẹp, chính vì thế, phát ngôn này có thể dễ dàng thay thế cho phát ngôn kia. Trong mười ngày tới, nếu tìm cách ghi nhớ phát ngôn đầu tiên, bạn có khuynh hướng ghi nhớ phiên bản thứ hai thiếu chính xác này - tức là có bằng chứng cho thấy không có hiện tượng Thiên Nga Đen. Tôi gọi sự nhầm lẫn này là ngụy biện xoay vòng (round-trip fallacy), bởi những lời khẳng định ấy không thể hoán đổi cho nhau.

Trong một chừng mực nào đó, sự ngộ nhận giữa hai phát ngôn trên là một lỗi lôgic rất nhỏ (nhưng lại có vai trò quyết định) - tuy nhiên, chúng ta không miễn nhiễm trước những lỗi lôgic nhỏ, và đặc biệt, các giáo sư, các nhà tư tưởng lại càng không thể tránh được chúng (bởi các phương trình phức tạp không thể nào “chung sống hòa bình” với lối tư duy rành mạch được). Nếu không tập trung cao độ, chúng ta có xu hướng đơn giản hóa vấn đề một cách vô thức do bộ não của mình đã quen hoạt động như thế mà không hề hay biết.

Điều này đáng để chúng ta nghiên cứu sâu hơn.

Nhiều người lẫn lộn giữa “hầu hết những tên khủng bố đều là người Hồi giáo” và “hầu hết những người Hồi giáo đều là khủng bố”. Cứ cho là phát ngôn đầu tiên đúng, tức 99% những tên khủng bố theo đạo Hồi. Tuy nhiên, thực tế chỉ có khoảng 0,001% người Hồi giáo là khủng bố, bởi có hơn 1 tỷ người theo đạo Hồi trong khi quân số khủng bố chỉ vào khoảng mười nghìn người, tức là theo tỷ lệ 1/100.000. Chính vì thế, lỗi lôgic trên đã khiến bạn đánh giá (một cách vô thức) xác suất trở thành khủng bố của một người Hồi giáo được chọn ngẫu nhiên (trong độ tuổi từ mười lăm đến năm mươi chẳng hạn) cao hơn bình thường gần năm mươi nghìn lần!

Theo lối ngụy biện xoay vòng này, bạn có thể nhận thấy sự bất công của các khuôn mẫu - các tộc người thiểu số sinh sống tại các khu đô thị ở Mỹ phải gánh chịu sự ngộ nhận tương tự: cho dù phần lớn tội phạm đều xuất thân từ các tộc người thiểu số thì hầu hết cư dân của họ cũng không phải là tội phạm, tuy nhiên, họ vẫn bị đối xử phân biệt bởi những người mà lẽ ra phải thấu hiểu vấn đề hơn.

Có lần John Stuart Mill than phiền rằng “Tôi không bao giờ có ý nói những người theo Đảng Bảo thủ đều ngu ngốc. Ý tôi là những người ngu ngốc thường là những người theo Đảng Bảo thủ”. Vấn đề này đã trở thành căn bệnh kinh niên: nếu bạn nói với mọi người rằng chìa khóa dẫn đến thành công không phải lúc nào cũng là kỹ năng, họ sẽ hiểu là thành công không phải nhờ kỹ năng mà hoàn toàn dựa vào may mắn.

Phương pháp suy luận, thứ mà chúng ta luôn sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, không được sử dụng cho môi trường phức tạp, nơi mà một phát ngôn thay đổi rõ rệt khi nội dung của nó chỉ biến chuyển đôi chút. Hãy lưu ý, trong môi trường nguyên sơ, không có khác biệt đáng kể nào giữa các phát ngôn kiểu như hầu hết những tên sát nhân đều là loài dã thú và hầu hết các loài dã thú đều là kẻ sát nhân. Ở đây cũng có sai sót nhưng gần như không đáng kể. Những hiểu biết trực giác về thống kê của chúng ta không tiến hóa cho môi trường, nơi những tiểu tiết này có thể tạo nên khác biệt to lớn.

Không phải boogle nào cũng là zoogle
Tất cả zoogle đều là boogle. Bạn thấy một boogle. Đó có phải là zoogle không? Không hẳn, bởi vì không phải boogle nào cũng là zoogle; những thanh thiếu niên nào mắc lỗi khi trả lời những câu hỏi dạng này trong bài thi SAT có thể sẽ không lặp lại nó ở bậc đại học. Tuy nhiên, một người khác có thể đạt điểm SAT rất cao nhưng vẫn cảm thấy ớn lạnh khi có người lạ bước vào thang máy. Việc không thể tự động chuyển kiến thức và sự tinh tế từ tình huống này sang tình huống khác hay từ lý thuyết sang thực tiễn là một thuộc tính khá phiền toái của bản chất con người.

Chúng ta hãy gọi nó là đặc trưng miền (domain specialcity) trong các phản ứng của mình. Khi sử dụng cụm từ đặc trưng miền, tôi muốn nói rằng phản ứng, cách thức suy nghĩ, trực giác của chúng ta, tất cả đều phụ thuộc vào bối cảnh mà vấn đề đó được thể hiện, đó là thứ mà các nhà tâm lý học tiến bộ gọi là “miền”. Lớp học là một miền, cuộc sống thực cũng thế. Chúng ta phản ứng trước một thông tin không phải do tính lôgic của nó mà do bối cảnh xung quanh và mức độ ăn nhập của nó trong hệ thống cảm xúc - xã hội của chúng ta. Những bài toán lôgic được tiếp cận theo cách này trong lớp học, nhưng có thể được giải quyết theo một cách hoàn toàn khác trong đời sống thực. Thật vậy, trên thực tế, chúng được giải quyết theo một cách rất khác.

Ngay cả khi được cho là chính xác thì kiến thức đó cũng không tạo nên những hành động thích hợp, bởi chúng ta thường quên đi những gì mình biết, hoặc quên cách xử lý nó thật thích đáng do thiếu quan tâm, ngay cả khi chúng ta là chuyên gia. Rõ ràng, các nhà thống kê có xu hướng bỏ quên bộ não của mình trong lớp học và sa vào những lỗi suy luận tầm thường nhất một khi bước chân ra thế giới bên ngoài. Năm 1971, hai nhà tâm lý học Danny Kahneman và Amos Tversky đã công kích các giáo sư môn thống kê học bằng những câu hỏi về thống kê nhưng không được diễn đạt theo kiểu thống kê. Có một câu tương tự như sau (tôi phải thay đổi ví dụ để ý tứ rõ ràng hơn): Giả sử bạn đang sống trong một thị trấn có hai bệnh viện - một cái to, một cái nhỏ. Một ngày nọ, 60% trẻ em sinh ra tại một trong hai bệnh viện là con trai. Hỏi đó là bệnh viện nào? Nhiều nhà thống kê học đã đưa ra nhận định sai (tại buổi tranh luận không chính thức) khi chọn bệnh viện lớn, trong khi trên thực tế, yếu tố rất cơ bản của thống kê học là: tính từ mức trung bình dài hạn - mà ở đây là 50% cho mỗi giới tính - thì mẫu thử lớn luôn ổn định và ít biến động hơn so với mẫu thử nhỏ. Chắc hẳn các nhà thống kê này thường xuyên thi trượt. Trong quãng thời gian làm quant, tôi đã đếm được hàng trăm lỗi suy luận nghiêm trọng như thế của các nhà thống kê - những người đã quên rằng mình chính là các nhà thống kê.

Một minh họa khác chứng minh cho cái cách đặc trưng miền hết sức lố bịch của chúng ta trong cuộc sống hàng ngày: hãy đến câu lạc bộ thể thao cao cấp Reebok ở New York, và xem một số người sau khi trượt trên thang cuộn vài tầng lầu mới tiến thẳng đến máy tập đi bộ StairMasters.

Phần đặc trưng miền trong các suy luận và phản ứng của chúng ta hoạt động theo cả hai cách: đối với một số vấn đề, chúng ta hiểu trong ứng dụng thực tiễn nhanh hơn trong sách vở, nhưng đối với một số khác, chúng ta nắm bắt trong sách vở nhanh hơn so với ứng dụng thực tế. Mọi người có thể dễ dàng giải quyết một vấn đề trong bối cảnh xã hội nhưng lại loay hoay một cách khó nhọc khi vấn đề đó được thể hiện dưới dạng một bài toán lôgic trừu tượng. Chúng ta có xu hướng sử dụng cơ cấu thần kinh khác nhau - còn gọi là các mô-đun - trong các tình huống khác nhau: bộ não chúng ta thiếu một máy tính trung ương có khả năng hoạt động bằng các quy tắc lôgic và ứng dụng chúng một cách đồng đều trong tất cả các tình huống khả dĩ.

Và như tôi đã nói, chúng ta có thể phạm phải lỗi lôgic trong thực tế chứ không phải trong lớp học. Tính không đối xứng này thể hiện rõ nét nhất là trong tiến trình tìm kiếm căn bệnh ung thư. Lấy ví dụ các bác sĩ đang kiểm tra dấu hiệu ung thư ở một bệnh nhân; thông thường, quá trình xét nghiệm được thực hiện cho những bệnh nhân nào muốn biết bệnh của họ có được chữa khỏi hay sẽ “tái phát”. (Thực ra, tái phát là cách dùng từ sai; nói một cách đơn giản, nó có nghĩa là quá trình chữa trị không tiêu diệt hết các tế bào ung thư và lượng tế bào ác tính bị bỏ sót này bắt đầu nhân lên gấp nhiều lần cho đến khi chúng ta không thể kiểm soát được). Trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay không cho phép chúng ta xét nghiệm từng tế bào của cơ thể bệnh nhân để biết liệu tất cả có lành tính hay không, chính vì thế, bác sĩ chỉ lấy một mẫu thử sau khi thực hiện chụp cắt lớp cơ thể bệnh nhân với độ chính xác cao nhất có thể. Sau đó, vị bác sĩ này sẽ đưa ra giả định về những điều mình không nhìn thấy. Có lần, sau khi kết thúc buổi kiểm tra ung thư định kỳ, tôi giật mình khi một vị bác sĩ nói với tôi thế này: “Đừng lo, chúng ta đã có căn cứ để chữa trị”. Tôi hỏi lại, “Như thế nào?” Ông ta đáp, “Bằng chứng thể hiện không có ung thư”. Tôi hỏi tiếp, “Làm thế nào ông biết được?” ông ta trả lời, “Chụp cắt lớp cho kết quả âm tính”. Mặc dù vậy, ông ta vẫn cứ đi rêu rao mình là bác sĩ!

Có một từ viết tắt được sử dụng trong nhiều tài liệu y học là NED (No Evidence of Disease), nghĩa là Không Có Dấu Hiệu Bệnh Tật, nhưng không có cái nào đại loại như END (Evidence of No Disease), nghĩa là Có Bằng Chứng Cho Thấy Không Có Bệnh Tật. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm mà tôi có được qua quá trình thảo luận xoay quanh vấn đề này với nhiều bác sĩ, kể cả với những người đã đăng báo công trình nghiên cứu của mình, nhiều người đã rơi vào lối ngụy biện xoay vòng.

Những bác sĩ thuộc nhóm các nhà khoa học kiêu ngạo của thập niên 60 xem thường sữa mẹ, coi nó như một thứ gì đó cổ xưa và có thể được tái chế trong phòng thí nghiệm, nhưng không nhận ra rằng sữa mẹ có thể chứa đựng những thành phần hữu ích vượt ngoài tầm hiểu biết về khoa học của bản thân mình - đó là một sự ngộ nhận đơn giản giữa không có bằng chứng về lợi ích của sữa mẹ và có bằng chứng cho thấy sữa mẹ không có lợi ích (một minh họa khác của quan điểm Plato là “không có lý do gì” lại cho con bú sữa mẹ trong khi có thể dễ dàng cho bú bằng sữa bình). Nhiều người đã phải trả giá cho lối suy luận ngây thơ này: những đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ trong giai đoạn sơ sinh có nguy cơ gặp nhiều vấn đề về sức khỏe hơn, trong đó bao gồm nguy cơ mắc một số bệnh ung thư - chắc chắn trong sữa mẹ có một số dưỡng chất thiết yếu nào đó mà chúng ta vẫn chưa phát hiện ra. Hơn nữa, người ta cũng quên mất lợi ích dành cho những bà mẹ cho con bú, như giảm nguy cơ bị ung thư vú chẳng hạn.

Tương tự với amiđan: việc cắt amiđan có thể làm tăng tỷ lệ mắc ung thư cổ họng, nhưng trong suốt nhiều thập niên, các bác sĩ không bao giờ đặt câu hỏi rằng liệu cái mô “vô tích sự” này có một tác dụng nào đó mà họ chưa phát hiện ra không. Sự việc cũng diễn ra tương tự với chất xơ thực phẩm tìm thấy trong hoa quả và rau củ: các bác sĩ trong thập niên 60 coi nó là vô dụng bởi không thấy có bằng chứng trực tiếp nào về sự cần thiết của nó, và do đó, đã khiến cho cả một thế hệ bị suy dinh dưỡng. Hóa ra chất xơ ấy có vai trò làm chậm quá trình hấp thụ đường trong máu và quá trình bào mòn ống tiêu hóa của các tế bào tiền ung thư. Quả thật, trong suốt tiến trình lịch sử, do sự ngộ nhận trong suy luận này mà y học đã gây ra nhiều hậu quả nặng nề.

Ở đây, tôi không nói là các bác sĩ không nên có niềm tin, nhưng cần phải tránh một số dạng niềm tin tuyệt đối và bảo thủ - chắc hẳn điều này sẽ được Menodotus cùng trường phái của ông tán thành bởi ông và trường phái của mình cũng ủng hộ một nền y học đi theo chủ nghĩa hoài nghi và dựa trên kinh nghiệm, tránh xa chủ trương lý thuyết hóa. Ngày nay, y học đã tiến bộ hơn nhiều - nhưng nhiều thể loại tri thức lại không được như thế

Bằng chứng
Với cơ chế tư duy mà tôi gọi là chủ nghĩa thực nghiệm ngây thơ, chúng ta thường có xu hướng tìm kiếm những ví dụ nào có thể chứng thực cho câu chuyện hay tầm nhìn của mình về thế giới - những ví dụ này rất dễ tìm. Nhưng hỡi ôi, với công cụ và những kẻ ngốc trong tay thì mọi thứ đều rất dễ tìm. Bạn có thể lấy những ví dụ trong quá khứ để chứng thực cho lý thuyết của mình và xem chúng như bằng chứng. Chẳng hạn, một nhà ngoại giao sẽ giới thiệu với bạn “những thành tựu” mà ông ta đã đạt được chứ không phải những thất bại. Các nhà toán học sẽ cố thuyết phục bạn rằng môn khoa học của họ giúp ích nhiều cho xã hội bằng cách chỉ ra những trường hợp mà toán học chứng minh được tính hữu dụng của nó chứ không phải những trường hợp gây lãng phí thời gian, hoặc, tệ hơn, nhiều ứng dụng toán học lại khiến xã hội phải trả giá (tốt bởi những lý thuyết toán tao nhã thường mang bản chất phi kinh nghiệm chủ nghĩa rất cao.

Thậm chí, khi kiểm tra một giả thuyết, chúng ta vẫn có xu hướng tìm kiếm những trường hợp mà giả thuyết ấy được chứng minh là đúng. Dĩ nhiên, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy sự chứng thực; tất cả những gì cần làm là tìm kiếm, hay thuê một nhà nghiên cứu làm hộ phần việc này. Tôi có thể tìm thấy sự chứng thực ở mọi thứ, hệt như cách một tài xế tắc-xi thạo nghề tại Luân Đôn dựa vào lưu lượng giao thông để tăng cước phí, thậm chí vào ngày lễ.

Một số người nghiên cứu sâu hơn và cung cấp cho tôi ví dụ về những biến cố mà chúng ta đã có thể đoán trước với một mức độ thành công nhất định - thú thật là có rất ít biến có như thế, giống như việc đưa người lên mặt trăng hay tăng trưởng kinh tế của thế kỷ 21. Một người có thể làm thấy nhiều “phản bằng chứng” chống lại các quan điểm trong cuốn sách này, “phản bằng chứng” tốt nhất chắc hẳn phải là nhận định: báo chí rất xuất sắc trong việc dự đoán lịch chiếu phim và lịch biểu diễn tại các nhà hát. Nghe này, hôm qua tôi dự đoán rằng hôm nay mặt trời sẽ mọc và nó mọc thật đấy!

CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM TIÊU CỰC
Đáng mừng là vẫn có cách để vượt qua chủ nghĩa kinh nghiệm ngây thơ này. Tôi muốn nói rằng chuỗi các sự kiện chứng thực không nhất thiết phải là bằng chứng. Việc trông thấy những con thiên nga trắng không thể làm bằng chứng cho sự không tồn tại của thiên nga đen. Tuy nhiên, vẫn có một trường hợp ngoại lệ: tôi biết phát ngôn nào là sai nhưng không cần thiết phải biết phát ngôn nào là đúng. Nếu trông thấy một con thiên nga đen, tôi có thể khẳng định rằng không phải tất cả thiên nga đều là màu trắng! Nếu chứng kiến ai đó giết người thì gần như chắc chắn tôi sẽ nghĩ anh ta là tội phạm. Nếu không thấy anh ta giết người, tôi không thể chắc chắn rằng anh ta có vô tội hay không. Tương tự với quá trình phát hiện ung thư: việc phát hiện ra một khối u ác tính có thể chứng minh rằng bạn đã bị ung thư, nhưng ngay cả khi không có phát hiện nào như thế thì bạn cũng không thể khẳng định chắc rằng mình hoàn toàn không bị ung thư.

Bạn có thể tiến gần hơn đến sự thật nhờ vào các ví dụ tiêu cực, chứ không phải nhờ vào chứng cứ! Việc xây dựng một quy luật chung từ những sự việc đã qua quan sát là một sai lầm. Trái với hiểu biết thông thường, khối lượng kiến thức của chúng ta không tăng lên nhờ vào các quan sát chứng thực, cũng giống như kiến thức của con gà vậy. Nhưng có vài điều mà tôi còn hoài nghi, còn những điều khác tôi hoàn toàn cho là chắc chắn. Điều này khiến cho kết quả của các quan sát trở nên phiến diện. Sự việc không phức tạp nhiều hơn thế đâu.

Tính bất cân xứng này lại vô cùng thiết thực. Nó cho biết rằng chúng ta không nhất thiết phải tuyệt đối đi theo chủ nghĩa hoài nghi mà chỉ cần đi theo bán phần. Sự tinh tế của cuộc sống thực ngoài sách vở chính là, trong quá trình ra quyết định, bạn cần quan tâm đến một mặt của câu chuyện mà thôi: nếu muốn biết chắc chắn bệnh nhân có bị ung thư hay không, chứ không phải chắc chắn rằng anh ta khỏe mạnh hay không, bạn có thể hài lòng với kết luận âm tính, bởi nó khẳng định thứ mà bạn đang tìm kiếm. Chính vì thế, chúng ta có thể học được nhiều điều từ dữ liệu - nhưng không nhiều như mong đợi. Đôi khi, nhiều thông tin chẳng tạo ra ý nghĩa gì; nhưng có lúc, chỉ một mẩu tin thôi lại có ý nghĩa rất lớn. Đúng là một nghìn ngày không thể chứng tỏ rằng bạn đúng, nhưng chỉ một ngày cũng đủ để chứng minh bạn đã sai.

Người ủng hộ ý tưởng về chủ nghĩa hoài nghi bán phần phiến diện này là Giáo sư, Tiến sĩ Karl Raimund Popper, người có thể được xem là triết học gia khoa học duy nhất, được những người hành động trong thế giới thực thật sự đọc và tranh luận (mặc dù không được hào hứng như các triết gia chuyên nghiệp). Khi tôi viết những dòng này, bức ảnh đen trắng của ông đang được treo trên tường trong phòng làm việc của tôi. Đây là món quà tôi nhận được từ nhà văn tiểu luận Jochen Wegner tại Munich; giống như tôi, ông cũng xem Popper gần như là tất cả những gì “chúng tôi có được” từ các nhà tư tưởng hiện đại - phải, gần như tất cả ông đã viết thư cho chúng tôi thay vì cho các triết gia khác. “Chúng tôi” là những người đưa ra quyết định dựa theo kinh nghiệm, là người hiểu được rằng tính bất định chính là ngành nghiên cứu dành cho mình, và rằng việc hiểu được cách hành động trong những điều kiện thông tin không đầy đủ chính là mục tiêu cao nhất và cấp thiết nhất của loài người.

Popper đã hình thành nên một lý thuyết có phạm vi rộng xoay quanh tính bất cân xứng này, dựa vào phương pháp kỹ thuật gọi là “chứng minh sai”, nhằm mục đích phân biệt khoa học với phi khoa học, và ngay lập tức mọi người bắt đầu tranh cãi về những chi tiết kỹ thuật của nó, mặc dù đây không phải là ý tưởng thú vị nhất hay nguyên bản nhất của Popper. Ý tưởng về tính bất cân xứng của kiến thức được những người trực tiếp hành nghề ưa thích bởi nó rõ ràng và cũng chính là cách mà họ đang điều hành công việc của mình. Cũng giống như một nghệ sĩ vốn chỉ nhận được sự tôn trọng sau khi đã qua đời, triết gia bị nguyền rủa Charles Sanders Pierce đã phát hiện ra một giải pháp cho bài toán Thiên Nga Đen này khi Popper hãy còn quấn tã - thậm chí nhiều người còn gọi đây là phương pháp Pierce-Popper. Popper có một ý tưởng mạnh mẽ và nguyên bản hơn nhiều, đó là một xã hội “mở” chỉ dựa vào chủ nghĩa hoài nghi như một cách thức để hoạt động, bác bỏ và chống lại những sự thật tuyệt đối. Theo những luận điểm mà tôi đã giới thiệu trong Phần mở đầu, ông kết tội Plato vì đã đóng kín bộ ráo của chúng ta. Tuy nhiên, ý tưởng lớn nhất của Popper chính là sự thấu hiểu về khả năng không thể dự đoán được của thế giới - những thứ vốn rất cơ bản, khắc nghiệt và không thể cứu chữa được, và tôi sẽ dành phần này lại cho chương nói về dự đoán. 22

Dĩ nhiên, không dễ dàng gì để “chứng minh sai”, tức là tuyên bố chắc chắn rằng điều gì đó hoàn toàn sai. Những thiếu sót trong phương pháp kiểm tra của bạn có thể dẫn đến sai lầm khi đưa ra câu trả lời “không”. Vị bác sĩ phát hiện ra các tế bào ung thư có thể đã mắc một số biểu hiện ảo giác do lỗi máy móc; hoặc có thể ông ta là nhà kinh tế học sử dụng đường cong hình chuông được ngụy trang dưới lớp áo bác sĩ. Người tận mắt chứng kiến một vụ phạm tội cũng có thể đang trong tình trạng say xin vào lúc đó. Tuy nhiên, bao giờ bạn cũng tự tin hơn khi kết luận điều gì là sai so với khi kết luận điều gì là đúng. Không phải thông tin nào cũng quan trọng như nhau.

Popper đã giới thiệu một cơ chế phỏng đoán và bác bỏ theo nguyên tắc sau: bạn đưa ra một phỏng đoán (táo bạo) và bắt đầu tìm kiếm một quan sát nào đó có thể chứng minh mình sai. Đây là giải pháp thay thế cho quá trình tìm kiếm những ví dụ được sử dụng cho việc chứng thực của chúng ta. Nếu nghĩ rằng đây là một công việc dễ dàng thì bạn sẽ thất vọng bởi rất ít người có được khả năng bẩm sinh để thực hiện điều đó. Tôi thừa nhận mình không phải là một trong số họ; khả năng đó không tự nhiên đến với tôi.

Đếm đến ba
Các nhà khoa học về nhận thức đã nghiên cứu vì sao chúng ta chí có xu hướng tìm kiếm sự chứng thực; họ gọi tính dễ bị tác động bởi lỗi chứng thực này là thiên kiến chứng thực (confirmation bias). Có nhiều thí nghiệm chứng minh rằng người ta chỉ tập trung vào những cuốn sách đã đọc trong thư viện của Umberto Eco. Bạn có thể kiểm tra một quy tắc nào đó theo cách trực tiếp là tìm kiếm những trường hợp nào chứng minh quy tắc đó đúng, hoặc theo cách gián tiếp là tập trung vào những trường hợp chứng minh quy tắc đó sai. Như chúng ta đã thấy, những ví dụ mang tính bác bỏ luôn có sức thuyết phục hơn rất nhiều trong quá trình chứng minh sự thật Tuy nhiên, chúng ta thường có xu hướng thờ ơ với đặc tính này.

Thí nghiệm đầu tiên mà tôi biết có liên quan đến hiện tượng này đã được thực hiện bởi nhà tâm lý học P.C Wason. Ông cho các đối tượng tham gia thí nghiệm xem một dãy số gồm 2, 4, 6 và yêu cầu họ cố gắng đoán xem quy luật nào tạo nên dãy số đó. Phương pháp suy đoán của họ là tạo ra các dãy số gồm ba chữ số, mà theo đó người thực hiện thí nghiệm sẽ trả lời “đúng” hoặc “sai” tùy vào mức độ phù hợp của những dãy số mới đó với quy luật chung. Một khi đã tự tin với lài giải của mình, các đối tượng tham gia thí nghiệm sẽ bắt đầu hình thành quy luật. (Xin lưu ý, thí nghiệm này cũng có nhiều nét tương đồng với nội dung thảo luận trong Chương 1 về cách tự thể hiện của lịch sử giả định rằng lịch sử được hình thành từ một lôgic nào đó, chúng ta chỉ nhìn thấy các sự kiện chứ không thấy được quy tắc, nhưng cần phải đoán ra cơ chế hoạt động của nó). Và quy tắc chính là “các số xếp theo thứ tự tăng dần”, chỉ có thế thôi. Rất ít đối tượng tham gia thí nghiệm phát hiện ra quy tắc này bởi để làm được như thế, họ phải đưa ra một dãy số theo thứ tự giảm dần (mà người thực hiện thí nghiệm sẽ cho là “sai”). Wason nhận thấy các đối tượng tham gia thí nghiệm đều nghĩ ra một quy tắc riêng nhưng lại cung cấp cho ông những ví dụ nhằm chứng minh cho quy tắc ấy thay vì tìm cách tạo ra các dãy số trái với nó. Các đối tượng này chỉ cố tìm cách chứng minh những quy tắc mà mình đã nghĩ ra.

Thí nghiệm này đã truyền cảm hứng cho hàng loạt thí nghiệm tương tự, trong đó có ví dụ sau: Các đối tượng tham gia được yêu cầu tìm ra những câu hỏi để xác định người đó có hướng ngoại hay không, cứ cho đây là một dạng thí nghiệm khác cũng được. Và kết quả cho thấy các đối tượng tham gia chủ yếu đưa ra những câu hỏi với câu trả lời “có/vâng” để củng cố cho giả thuyết ban đầu.

Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ. Đó là sự xuất hiện của các đại kiện tướng cờ vua - những người đã được chứng minh là thật sự tập trung vào điểm yếu của một nước cờ suy đoán; ngược lại, cũng có các “tân binh” chỉ biết tìm kiếm những ví dụ nhằm mục đích chứng thực thay vì các trường hợp “chứng minh sai”. Nhưng xin đừng chơi cờ để luyện tập tính hoài nghi. Các nhà khoa học tin rằng chính quá trình tìm kiếm điểm yếu của bản thân đã giúp những người đó trở thành bậc thầy về cờ vua, chứ việc tập luyện cờ vua không biến họ thành người theo chủ nghĩa hoài nghi được. Tương tự, khi đưa ra một dự đoán tài chính, nhà đầu cơ George Soros, luôn tìm kiếm những trường hợp có khả năng bác bỏ lý thuyết ban đầu. Có lẽ đây mới đích thực là sự tự tin: khả năng nhìn nhận thế giới mà không cần phải tìm kiếm các dấu hiệu để thỏa mãn cái tôi của mình. 23

Nhìn thấy một chiếc xe Mini đỏ khác
Quan điểm sau sẽ minh họa thêm cho sự ngu xuẩn của việc chứng thực. Nếu tin rằng việc nhìn thấy thêm một con thiên nga trắng nữa sẽ giúp khẳng định rằng không có thiên nga đen thì bạn nên chấp nhận phát biểu sau: với những lý lẽ hoàn toàn lôgic, việc trông thấy một chiếc xe Mini Cooper màu đỏ có thể chứng thực rằng không có thiên nga đen.

Vì sao? Chỉ cần cho rằng phát biểu “tất cả thiên nga đều màu trắng” đồng nghĩa với tất cả những vật thể không có màu trắng đều không phải là thiên nga. Điều gì có thể chứng thực cho phát biểu sau thì cũng có thể chứng thực cho phát biểu ban đầu. Do đó, việc nhìn thấy một vật thể không có màu trắng, nhưng không phải là thiên nga, đã dẫn đến khẳng định trên. Lập luận này, còn được biết đến với tên gọi nghịch biện con quạ của Hempel, đã được bạn tôi, nhà toán học (duy lý) Bruno Dupire, phát hiện lại trong một lần chúng tôi dạo phố ở Luân Đôn với những suy tư luôn biểu hiện trong trí óc - một trong những cuộc tranh luận sâu sắc kết hợp với cuộc bát phố hào hứng đến mức chúng tôi không hề nhận thấy trời đang mưa. Bạn tôi chỉ vào một chiếc Mini Cooper đỏ và hét lên, “Nhìn kìa Nassim, nhìn kìa! Không có Thiên Nga Đen!”

Không phải mọi thứ
Chúng ta không ngây thơ đến mức tin rằng có ai đó bất tử chỉ là không nhìn thấy ông ta chết, hoặc tin rằng ai đó vô tội chỉ vì chưa bao giờ thấy anh ta giết người. Không phải lúc nào sự khái quát hóa ngây thơ cũng gây rắc rối cho chúng ta. Nhưng, các nhóm biệt lập khéo léo đó của chủ nghĩa hoài nghi quy nạp lại có xu hướng bao hàm cả các sự kiện mà chúng ta đã gặp phải trong môi trường tự nhiên - những vấn đề mà mình đã học để tránh sa vào quá trình khái quát hóa một cách ngu xuẩn.

Chẳng hạn, khi được trao cho bức ảnh chụp một thành viên của một nhóm với yêu cầu đưa ra dự đoán về đặc tính của các thành viên còn lại, những đứa trẻ có khả năng lựa chọn đặc tính nào cần được khái quát hóa. Hãy cho một đứa trẻ xem hình một người thừa cân và nói rằng người này là thành viên của một bộ tộc, sau đó, yêu cầu đứa bé mô tả các thành viên khác của bộ tộc ấy, đứa bé (nhiều khả năng nhất) sẽ không vội kết luận rằng tất cả thành viên của bộ tộc ấy đang gặp các rắc rối về trọng lượng cơ thể, mà phản ứng theo cách có liên quan đến yếu tố màu da. Nếu bạn cho cô bé xem hình những người có nước da đen và yêu cầu miêu tả các thành viên khác trong cùng bộ tộc, cô bé sẽ cho rằng họ cũng có nước da đen.

Vì vậy, có vẻ như trời đã ban cho chúng ta những bản năng quy nạp đặc trưng và phức tạp để dẫn đường. Trong khi David Hume vĩ đại cũng như những người Anh theo chủ nghĩa thực nghiệm cho rằng niềm tin xuất phát từ thói quen, vì tin rằng mình chỉ học được quá trình khái quát hóa từ kinh nghiệm và các quan sát thực nghiệm, thì trái lại, các nghiên cứu về hành vi trẻ thơ đã cho thấy chúng ta được trang bị một cơ chế thần kinh khiến ta khái quát hóa một cách có chọn lọc từ những trải nghiệm (tức là chỉ đạt được kiến thức quy nạp ở một số miền và vẫn giữ thái độ hoài nghi ở các miền khác). Bằng cách đó, chúng ta không chỉ học từ một nghìn ngày, mà trái lại, nhờ vào quá trình tiến hóa, sẽ được hưởng lợi từ kiến thức của các thế hệ đi trước - điều đã được chứng minh trong y học.

Trở lại Mediocristan
Và có thể chúng ta đã học những điều sai trái từ các bậc tiền bối. Ở đây, tôi cho rằng có thể chúng ta đã thừa hưởng những bản năng chỉ thích hợp để sống sót ở khu vực Hồ Lớn vùng Đông Phi, nơi được cho là nguồn cội của tất cả chúng ta, và dĩ nhiên, những bản năng ấy không thể thích ứng với môi trường hiện tại thời hậu-ký-tự-chữ-cái vốn rất phức tạp về mặt thống kê và chứa đựng rất nhiều thông tin.

Quả thật, môi trường nơi chúng ta đang sống phức tạp hơn những gì mình (và các thể chế của mình) có thể nhận ra. Vì sao thế? Bởi thế giới hiện đại mang tên Extremistan đang bị thống trị bởi những biến cố hiếm, rất rất hiếm. Nó có thể mang đến một “con” Thiên Nga Đen sau hàng nghìn nghìn con thiên nga trắng, vì thế, chúng ta cần lưu giữ ý kiến đánh giá của mình lâu hơn bình thường. Như đã trình bày trong Chương 3, việc bắt gặp một người cao vài trăm dặm là không thể, cả về mặt sinh học, do đó, các thể chế của chúng ta đối loại bỏ những biến cố này. Nhưng doanh số bán của một cuốn sách hay tầm quan trọng của các biến cố xã hội không tuân theo những giới hạn chật hẹp ấy. Phải mất hơn một nghìn ngày mới có thể khẳng định rằng một tác giả không có tài năng gì đặc biệt, một thị trường không sụp đổ, một cuộc chiến không xảy ra, một dự án hết hy vọng, một đất nước là “đồng minh của chúng ta”, một công ty không phá sản, một nhà phân tích chứng khoán không phải là kẻ bất tài, hay một người hàng xóm sẽ không tấn công chúng ta. Trước đây rất lâu, con người có thể can thiệp nhanh và chính xác hơn rất nhiều.

Không dừng lại ở đó, nguồn gốc hình thành Thiên Nga Đen ngày nay đã tăng theo cấp số nhân vượt khỏi tầm kiểm soát. 24 Trong môi trường nguyên sơ, chúng đủ giới hạn trong phạm vi của những cuộc chạm trán bất ngờ với thú hoang, kẻ thù hay những thay đổi thời tiết khắc nghiệt. Những biến cố này lặp lại theo một tần suất đủ để hình thành trong chúng ta một nỗi lo sợ bẩm sinh. Bản năng đưa ra những suy luận khá nhanh chóng, và lối “băng hầm” này (tức chỉ tập trung vào một số lượng rất ít các nguồn gốc của sự bất định, hoặc vào nguyên nhân của những hiện tượng Thiên Nga Đen đã biết) vẫn còn ăn sâu trong chúng ta. Tóm lại, bản năng này chính là tình thế khó khăn mà chúng ta đang phải đối mặt.

Thiên Nga Đen
Chương 6: Liên Tưởng Ngụy Biện

NGUYÊN NHÂN CỦA LỐI GIẢI THÍCH “BỞI VÌ” ■ LÀM THẾ NÀO ĐỂ CHIA NHỎ BỘ NÃO ■ CÁC PHƯƠNG PHÁP HIỆU QUẢ ĐỂ CHỈ LÊN TRẦN NHÀ ■ CHẤT DOPAMINE SẼ GIÚP BẠN CHIẾN THẮNG ■ TÔI SẼ KHÔNG LÁI MÔ-TÔ NỮA (NHƯNG KHÔNG PHẢI HÔM NAY) ■ VỪA LÀ NGƯỜI THEO CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM, VỪA LÀ NHÀ TÂM LÝ HỌC? TỪ KHI NÀO?

VỀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN KHIẾN TÔI BÁC BỎ CÁC NGUYÊN NHÂN
Mùa thu năm 2004, tôi tham dự hội thảo về mỹ học và khoa học được tổ chức tại Rome. Có lẽ đây là nơi tốt nhất để tổ chức những cuộc hội thảo như thế này bởi mỹ học đã ngấm vào mọi thứ nơi đây, cả trong cách cư xử lẫn giọng nói của từng người dân địa phương. Trong bữa ăn trưa, một vị giáo sư lỗi lạc đến từ một trường đại học thuộc miền Nam nước Ý đã chào đón tôi hết sức nồng nhiệt. Sáng hôm đó, tôi đã nghe ông thuyết trình một cách say sưa; ông ta lôi cuốn, tự tin và có sức thuyết phục đến mức dù không hiểu hết những gì nghe thấy nhưng tôi cảm thấy bản thân mình hoàn toàn nhất trí với ông ở mọi điều. Vốn tiếng Ý của tôi chỉ thích hợp cho các buổi tiệc cocktail hơn là những buổi hội thảo uyên thâm và mang tính học thuật như thế này. Ở một số điểm trong bài thuyết trình của mình, ông giận đến đỏ cả mặt - do đó càng thuyết phục tôi (và khán giả) rằng ông hoàn toàn đúng.

Ông không ngừng hỏi chuyện trong suốt bữa ăn trưa và chúc mừng tôi vì đã chứng minh được ảnh hưởng của các liên kết ngẫu nhiên vốn thường tồn tại trong bộ não con người hơn trong thực tế. Cuộc trò chuyện sôi nổi đến mức chúng tôi mải đứng tại bàn tiệc buffet khiến cho các đại biểu khác không lấy được thức ăn. Ông ta trò chuyện bằng thứ tiếng Pháp nặng (kèm theo cử chỉ múa tay), trong khi tôi trả lời bằng thứ tiếng Ý nguyên thủy (cũng kèm theo động tác múa tay), chúng tôi sôi nổi đến mức những vị khách khác không dám chen vào một cuộc đàm thoại đầy ắp thông tin quan trọng và vô cùng hào hứng như thế. Với kiểu phản ứng của một nhà giao dịch giận dữ về sự mù mờ của mình trước vận may trong cuộc sống và trên thị trường, ông nói một cách rất quả quyết về cuốn sách mới nhất của tôi liên quan đến tính ngẫu nhiên vừa được xuất bản tại đây với một cái tên đầy chất nhạc: Giocati dal caso. Tôi may mắn có được một người biên dịch thậm chí còn hiểu rõ về chủ đề này hơn cả mình và cuốn sách nhận được sự ủng hộ của một số ít trí thức Ý. Vị giáo sư nói, “Tôi là một người hâm mộ cuồng nhiệt các ý tưởng của anh, nhưng cảm thấy hơi bị xúc phạm. Những ý tưởng đó hoàn toàn giống với ý tưởng của tôi, và anh đã viết một cuốn sách mà (gần như) tôi đã dự tính viết. Anh thật may mắn; anh đã trình bày một cách thật dễ hiểu ảnh hưởng của sự may rủi đối với xã hội và sự đánh giá quá cao về nguyên nhân và kết quả. Anh đã chỉ ra được sự ngu ngốc của chúng ta khi cố gắng giải thích các kỹ năng một cách có hệ thống”.

Ông ngưng một lúc và sau đó bổ sung bằng một chất giọng trầm hơn: “Nhưng, bạn thân mến, cho phép tôi nói với anh vài điều [ông phát biểu rất chậm rãi, ngón tay cái chạm với ngón trỏ và ngón giữa]: nếu lớn lên trong một xã hội theo đạo Tin Lành - nơi người ta được dạy dỗ rằng nỗ lực đi kèm với phần thưởng và trách nhiệm của cá nhân được nhấn mạnh - anh sẽ không thể nhìn thế giới theo cách này được. Anh có thể nhìn thấy sự may mắn và đồng thời có thể tách biệt được nguyên nhân và kết quả nhờ vào di sản với Chính Thống giáo Vùng Địa Trung Hải của mình”. Ông sử dụng từ nhờ vào bằng tiếng Pháp. Ông nói thuyết phục đến mức, trong một khoảnh khắc, tôi đã đồng ý với cách lý giải đó.

Chúng ta thích những câu chuyện, thích tóm tắt và thích đơn giản hóa, nghĩa là giảm quy mô của vấn đề. Điều đầu tiên trong số những vấn đề về bản chất con người mà chúng ta sẽ xem xét trong phần này - những điều vừa được minh họa trên đây chính là liên tưởng nguy biện, theo cách gọi của tôi. (Thật ra, đây là một sự gian lận, nhưng để lịch sự hơn, tôi sẽ gọi nó là ngụy biện.) Sự ngụy biện này có liên quan đến khả năng dễ bị tổn thương của chúng ta trước cách diễn giải quá mức, cũng như việc chúng ta thích các mẩu chuyện súc tích hơn sự thật trần trụi. Nó bóp méo nghiêm trọng cách hình dung của chúng ta về thế giới; và trở nên vô cùng nguy cấp khi có liên quan đến các biến cố hiếm hoi.

Hãy chú ý cách mà ông bạn đồng hành sâu sắc người Ý đã chia sẻ với tôi tư tưởng chiến đấu chống lại lối diễn giải quá mức và sự đánh giá quá cao một nguyên nhân nào đó, trong khi ông ta lại không thể nhìn nhận tôi và công việc của tôi như một thứ gì đó nằm ngoài câu chuyện mà không cần đến một lý do hay nguyên nhân nào. Ông ta phải nghĩ ra một nguyên nhân. Nhưng hơn thế, ông ta không nhận thấy mình đang sa vào cái bẫy nhân quả, cũng như tôi không thể tự mình nhận ra điều đó ngay lập tức được.

Lối liên tưởng ngụy biện này đã chỉ ra khả năng hạn chế của chúng ta khi nhìn vào các chuỗi sự kiện mà không lồng ghép vào đó một lời giải thích, hay một sợi dây liên kết lôgic, một mũi tên quan hệ. Những lời giải thích có tác dụng kết nối các sự kiện với nhau, khiến chúng trở nên dễ nhớ và có nhiều ý nghĩa hơn. Thời điểm xu hướng này trở nên lệch lạc là khi nó làm tăng ấn tượng của chúng ta về sự hiểu biết.

Cũng như chương trước, chương này chỉ xoay quanh một vấn đề nhưng ở nhiều ngành kiến thức khác nhau. Dù một trong các phiên bản của nó đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu rất sâu, nhưng vấn đề về trần thuật lại không mang nhiều yếu tố “tâm lý học”: một điều gì đó trong phương pháp thiết kế những chuyên ngành kiến thứ: này đã che mất đi chi tiết quan trọng, đó là nhìn chung nó giống với vấn đề về thông tin hơn. Trong khi đặc tính trần thuật bắt nguồn từ một nhu cầu sinh học vốn đã ăn sâu trong mỗi chúng ta về việc giảm bớt kích cỡ thì các robot sẽ có xu hướng đi theo một quy trình giảm thiểu tương tự Thông tin muốn được rút gọn.

Để giúp bạn xác định vị trí của mình: trong quá trình nghiên cứu bài toán quy nạp ở chương trước, chúng ta đã kiểm tra những gì có thể suy ra được từ những điều chưa thấy, những gì nằm ngoài tập hợp thông tin của mình. Ở đây, chúng ta sẽ xem xét những gì đã được chứng kiến, những gì nằm trong tập hợp thông tin, và nghiên cứu những bóp méo xảy ra trong quá trình xử lý chúng. Có nhiều điều cần bàn về chủ đề này, nhưng góc tiếp cận mà tôi chọn sẽ liên quan đến sự đơn giản hóa tính trần thuật của thế giới xung quanh mình và ảnh hưởng của nó đến nhận thức của chúng ta về Thiên Nga Đen và sự bất định không thể kiểm soát.

NHỮNG BỘ NÃO BỊ CHIA TÁCH
Việc khám phá ra các yếu tố phản lôgic là công việc thú vị. Khi bước chân vào một thế giới mới, trong vài tháng đầu, bạn sẽ có cảm giác rất rộn ràng. Nhưng sau đó, sự mới lạ mất dần đi và đầu óc của bạn trở về trạng thái bình thường. Thế giới lại bao phủ một màu ảm đạm cho đến khi bạn tìm thấy một chủ đề khác kích thích mình (hoặc tìm cách chọc giận một người khéo ứng xử).

Nhờ vào các tài liệu về nhận thức, trong một yếu tố phản lôgic như trên, tôi đã khám phá ra rằng: trái với suy nghĩ của mọi người, việc không lý thuyết hóa là một hành động, và rằng việc lý thuyết hóa có thể tương ứng với sự thiếu vắng của hoạt động định sẵn, tức lựa chọn “mặc định”. Người ta phải mất nhiều công sức để xem xét các sự kiện (và ghi nhớ chúng), đồng thời kiềm chế việc đưa ra các đánh giá và chống lại những lời giải thích. Và hiếm khi nào chúng ta kiểm soát được căn bệnh lý thuyết hóa này: nó chủ yếu thuộc cấu trúc cơ thể của con người, là một phần của sinh vật học, do đó, việc đấu tranh với nó là đấu tranh với chính bản thân mình. Vì thế, việc những ai theo chủ nghĩa hoài nghi cổ đại khuyên con người nên kiềm chế việc đưa ra phán đoán sẽ đi ngược lại bản chất của chúng ta. Trò chuyện thì không mất mát gì - một vấn đề về triết lý của việc đưa ra lời khuyên (advice-giving philosophy) sẽ được đề cập trong Chương 13.

Hãy thử trở thành một người hoài nghi thực thụ đối với những lời giải thích của chính mình và bạn sẽ nhanh chóng mệt lử cho mà xem. Bạn còn có thể bị bẽ mặt vì dám chống lại lý thuyết hóa. (Có nhiều thủ thuật để đạt được chủ nghĩa hoài nghi thực thụ; nhưng bạn sẽ phải đi bằng cửa hậu thay vì chiến đấu trực diện với chính mình). Thậm chí từ góc nhìn của giải phẫu học, bộ não chúng ta không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì ở dạng thô mà không cần diễn giải. Và thậm chí chúng ta không phải lúc nào cũng ý thức được điều này.

Sự hợp lý hóa nguy biện nhân quả (Post hoc rationalization). Trong một thí nghiệm, các nhà tâm lý học yêu cầu những người phụ nữ tham gia thí nghiệm chọn ra đôi vớ ni lông nào mà họ thích trong số mười hai đôi có sẵn. Sau đó, họ được yêu cầu giải thích về sự lựa chọn của mình. Chất liệu vải, “cảm giác” và màu sắc là những lý do mà họ đưa ra. Nhưng trên thực tế, tất cả các đôi vớ đều giống hệt nhau. Những người phụ nữ này đưa ra lời giải thích lắp ghép và mắc lỗi ngụy biện. Liệu thí nghiệm này có chứng minh được rằng chúng ta giỏi giải thích hơn thấu hiểu không? Hãy cùng xem xét.

Một loạt các thí nghiệm nổi tiếng thực hiện trên những bệnh nhân mắc chứng não tách (split-brain) đã cung cấp bằng chứng sinh học thuyết phục về tính tự động của hành động giải thích. Có vẻ như trong cơ thể chúng ta tồn tại một cơ quan tạo cảm giác - mặc dù rất khó phát hiện một cách chính xác. Hãy cùng tìm hiểu cách mà người ta đã phát hiện ra nó.

Bán cầu não trái và bán cầu não phải của những bệnh nhân mắc chứng não tách không thể kết nối với nhau và điều này cản trở việc chia sẻ thông tin giữa hai bán cầu não. Những bệnh nhân này là của qúy, hiếm gặp và rất có giá trị đối với các nhà nghiên cứu. Nói một cách chính xác, bạn có hai người hoàn toàn khác nhau và có thể giao tiếp với từng người; những khác biệt giữa hai người này sẽ giúp bạn ít nhiều hiểu được sự chuyên hóa của hai bán cầu não. Chứng não tách thường là hậu quả của phẫu thuật nhằm chữa trị các căn bệnh nghiêm trọng hơn như chứng động kinh; giờ đây, các nhà khoa học ở các nước phương Tây (và hầu hết các nước phương Đông) không còn được phép cắt đôi bộ não con người, cho dù hành động đó là vì mục đích nghiên cứu và mở rộng kiến thức.

Bây giờ, ví dụ bạn thuyết phục một người mắc chứng bệnh này thực hiện một hành động nào đó - như nâng ngón tay lên, cười hay nắm một cái xẻng - để xác định cách anh ta tìm được lý do cho hành động của mình (dù biết rõ không có lý do nào, tất cả là do bạn thuyết phục mà thôi). Nếu bạn yêu cầu bán cầu não phải, lúc này đã tách biệt với bán cầu não trái, thực hiện một hành động và ra lệnh cho bán cầu trái giải thích nguyên nhân của hành động đó, trong mọi trường hợp, bệnh nhân sẽ cho bạn lời giải thích như: “Tôi chỉ lên trần nhà để...”, “Tôi thấy có thứ gì đó thú vị ở trên tường”, hoặc nếu bạn hỏi tác giả cuốn sách này, tôi sẽ trả lời bằng câu nói quen thuộc “bởi tôi xuất thân từ ngôi làng Chính Thống giáo Hy Lạp có tên Amioun ở miền Bắc Li băng”.

Bây giờ, nếu làm ngược lại, tức là yêu cầu bán cầu não trái của một người thuận tay phải thực hiện một hành động và ra lệnh cho bán cầu não phải cho biết nguyên nhân của hành động đó, bạn sẽ nhận ngay được câu trả lời, “Tôi không biết”. Hãy nhớ rằng bán cầu não trái đảm nhận các chức năng ngôn ngữ và suy luận. Xin cảnh báo người đọc đang đói “khoa học” về những nỗ lực xây dựng một bản đồ trung lập: tất cả những gì tôi đang cố gắng trình bày chính là nền tảng sinh học của xu hướng này đối với tính nhân quả, chứ không phải vị trí chính xác của nó. Có nhiều lý do để chúng ta hoài nghi về những khác biệt “não trái/não phải” này cũng như những tổng kết của khoa học đại chúng tiếp sau đó về tính cách con người. Quả thật, ý nghĩ rằng não trái điều khiển chức năng ngôn ngữ có thể không chính xác lắm: nhìn nhận một cách đúng đắn hơn, có vẻ như não trái là nơi điều khiển chức năng nhận dạng mẫu và chỉ có thể kiểm soát chức năng ngôn ngữ khi ngôn ngữ đó cũng có thuộc tính nhận dạng mẫu. Một khác biệt nữa giữa hai bán cầu não là nửa bên phải thường quan tâm đến những điều mới lạ và có xu hướng nhìn thấy các chuỗi sự kiện (những cái cụ thể, chẳng hạn như cây cối), trong khi nửa bên trái thì nhận biết những khuôn mẫu, cấu trúc hình thức (những cái chung, chẳng hạn như khu rừng).

Để minh họa cho sự phụ thuộc về mặt sinh học của chúng ta vào cốt truyện, hãy phân tích thí nghiệm sau. Trước tiên, hãy đọc đoạn này:

A.BIRD IN THE

THE HAND IS WORTH

TWO IN THE BUSH

Bạn có thấy điều gì bất thường không? Thử làm lại nhé. 25

Alan Snyder nhà khoa học chuyên nghiên cứu về não sống tại Sydney, (người có chất giọng Philadelphia), đã tiến hành khám phá sau. Nếu gây ức chế lên bán cầu não trái của một người thuận tay phải (hay nói theo thuật ngữ chuyên môn là truyền các xung điện từ tần số thấp vào thùy trán não trái), bạn sẽ làm giảm tỷ lệ mắc lỗi của anh ta khi đọc đoạn văn trên. Chính thiên hướng áp đặt ý nghĩa và ý niệm của bản thân đã khiến chúng ta không thể nhận thức được những chi tiết hình thành nên ý niệm. Nhưng, nếu bạn phá hủy bán cầu não trái của một người, anh ta sẽ có óc thực tế hơn - anh ta có thể vẽ đẹp hơn và giống thật hơn. Bộ não của anh ta phát hiện các vật thể tốt hơn và hoàn toàn “sạch bóng” lý thuyết, trần thuật và định kiến.

Vì sao lại khó né tránh sự diễn giải đến vậy? Như chúng ta đã chứng kiến ở bài đoản văn của vị học giả người Ý nọ, điểm mấu chốt là các hoạt động chức năng của bộ não thường nằm ngoài nhận thức của chúng ta. Bạn thực hiện công việc diễn giải cũng thường xuyên như các hoạt động khác vốn được xem là tự động và nằm ngoài khả năng kiểm soát, như hít thở chẳng hạn.

Những điều gây ra hành động phi lý thuyết hóa khiến bạn mất nhiều công sức hơn hành động lý thuyết hóa? Thứ nhất, mọi hoạt động đều có tính chắn (khiến người ta không thể hiểu được). Tôi đã nói rằng phần lớn hoạt động đều xảy ra ngoài phạm vi nhận thức của chúng ta: nếu không biết rằng mình đang suy đoán, làm sao bạn có thể dừng lại trừ phi lúc nào cũng trong trạng thái cảnh giác? Và nếu phải liên tục ở trong trạng thái cảnh giác như thế, chẳng phải bạn sẽ cảm thấy mệt mỏi sao? Hãy thử như thế suốt một buổi chiều mà xem.

Thêm một ít Dopamine 26 nữa
Ngoài câu chuyện về người phiên dịch sử dụng bán cầu não trái, nhờ vào vốn kiến thức không ngừng gia tăng của chúng ta về vai trò của các chất dẫn truyền thần kinh - những dạng hóa chất truyền tín hiệu giữa các bộ phận khác nhau của bộ não, chúng ta có thêm nhiều bằng chứng sinh lý học về xu hướng tìm kiếm những dạng khuôn mẫu vốn đã ăn sâu vào tâm trí của mình. Có vẻ như nhận thức về khuôn mẫu sẽ gia tăng cùng với quá trình tổng hợp chất dopamine trong bộ não con người. Dopamine còn có tác dụng điều hòa trạng thái tinh thần và cung cấp một hệ thống ban thưởng nội tại trong bộ não (không lấy gì làm ngạc nhiên khi người ta phát hiện chất này được tổng hợp ở bán cầu náo trái của người thuận tay phải nhiều hơn ở bán cầu não phải). Có vẻ như một lượng dopamine cao hơn lại làm giảm tính hoài nghi và làm tăng mức độ tổn thương đối với việc tìm thấy các khuôn mẫu; một mũi tiêm L-dopa - chất dùng để chữa trị cho bệnh nhân bị bệnh Parkinson - dường như giúp gia tăng các hoạt động như thế và đồng thời giảm thiểu việc từ bỏ niềm tin của một người. Người đó sẽ dễ bị tổn thương trước tất cả các loại “mốt tân thời” như chiêm tinh học, mê tín, kinh tế học và trò chơi bài ta-rô.

Trên thực tế, khi đang viết những dòng này, tôi có nghe tin về một vụ kiện sắp xảy ra: một bệnh nhân kiện bác sĩ của mình và đòi bồi thường hơn 200.000 đô-la - số tiền mà anh ta cho là mình đã thua khi đánh bạc. Bệnh nhân đó khẳng định rằng quá trình trị liệu căn bệnh Parkinson đã khiến anh ta đánh cược như điên dại tại các sòng bạc. Hóa ra một trong các phản ứng phụ của L-dopa là khiến cho một số ít bệnh nhân, nhưng đáng kể - trở thành những con bạc không có khả năng kiểm soát hành vi của bản thân. Bởi vì hành động cá cược như thế có liên quan đến việc nhìn thấy cái mà họ tin là khuôn mẫu rõ ràng trong các con số ngẫu nhiên, điều minh họa cho mối quan hệ giữa kiến thức và tính ngẫu nhiên. Nó cũng cho thấy rằng một số khía cạnh của cái mà chúng ta gọi là “kiến thức” (và cái mà tôi gọi là trần thuật) chính là một căn bệnh.

Một lần nữa, xin cảnh báo bạn đọc rằng tôi không tập trung vào dopamine như thể đây là lý do cho lối diễn giải quá mức của chúng ta; thay vào đó, quan điểm của tôi là có một sự tương quan về thể chất và thần kinh đối với hoạt động diễn giải đó, và rằng bộ não của chúng ta phần lớn là nạn nhân của sự hiện diện thể chất. Cũng giống như những người mắc bệnh tâm thần, bộ não của chúng ta bị giam cầm trong “nhà tù” sinh học của chính mình, trừ phi chúng ta thực hiện một cuộc tẩu thoát khéo léo. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng ta không kiểm soát được những suy luận như thế. Ngày mai, ai đó sẽ khám phá ra nền tảng hóa học hay hữu cơ cho quá trình nhận thức của chúng ta về các khuôn mẫu, hay phản bác lại những gì tôi đã trình bày về người phiên dịch sử dụng bán cầu não trái bằng cách chỉ ra được vai trò của một cấu trúc phức tạp hơn; nhưng phát minh đó sẽ không phủ định ý tưởng về nền tảng sinh học của nhận thức về tính nhân quả.

Quy tắc Andrey Nikolayevich
Có một nguyên do khác, thậm chí còn sâu sắc hơn, giải thích cho khuynh hướng trần thuật của chúng ta, và không mang tính tâm lý học. Nó có liên quan đến ảnh hưởng của trình tự lưu trữ và phục hồi thông tin trong bất kỳ hệ thống nào, và xứng đáng được giải thích bởi tôi cho đây chính là những vấn đề trung tâm của xác suất và lý thuyết thông tin.

Vấn đề đầu tiên: việc có được thông tin rất tốn kém.

Vấn đề thứ hai: việc lưu trữ thông tin cũng rất tốn kém - giống như bất động sản tại New York. Một chuỗi các từ ngữ hay biểu tượng càng ngăn nắp, càng ít ngẫu nhiên, càng tuân theo khuôn mẫu và càng có thể tường thuật lại thì người ta càng dễ ghi nhớ trong đầu hoặc ghi chép vào một cuốn sổ để một ngày nào đó con cháu họ có thể đọc lại.

Cuối cùng, việc chế tác và phục hồi thông tin càng tốn kém hơn.

Với quá nhiều tế bào thần kinh - chừng một trăm tỷ (và còn tiếp tục thay đổi), kích thước vùng thượng nhĩ (attic) cũng khá lớn, do đó, khó khăn không bắt nguồn từ những hạn chế về sức chứa mà có thể là từ các vấn đề trong quá trình lập bảng chú dẫn. Trí nhớ thuộc ý thức (conscious memory) hay trí nhớ thao tác (working memory), thứ mà bạn đang sử dụng để đọc và hiểu những dòng này, được cho là có kích thước nhỏ hơn vùng thượng nhĩ. Hãy nghĩ về điều này: trí nhớ thao tác của bạn gặp khó khăn khi lưu giữ một số điện thoại dài hơn bảy ký tự. Thay đổi các hình ảnh ẩn dụ một chút, hãy tưởng tượng ý thức của bạn chính là một chiếc bàn trong Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: bất kể thư viện đó chứa bao nhiêu sách, và hiện có sẵn bao nhiêu sách phục vụ bạn đọc, kích thước chiếc bàn của bạn cũng có một số giới hạn về khả năng xử lý. Do đó, việc chèn nén sẽ mang ý nghĩa sống còn đối với hiệu quả của hoạt động ý thức.

Hãy phân tích ví dụ về một tập hợp các từ được gắn kết với nhau để tạo thành một cuốn sách dài 500 trang. Nếu những từ ấy được nhặt ngẫu nhiên trong từ điển, bạn sẽ không thể nào tóm lược, loại bỏ hay giảm kích thước của cuốn sách mà không làm mất một vài điểm quan trọng trong đó. Bạn cần 100.000 từ để chuyển tải chính xác thông điệp của 100.000 từ ngẫu nhiên trong chuyến đi đến Siberia sắp tới của mình. Bây giờ, xem xét một ví dụ ngược lại: trong một cuốn sách có câu “Chủ tịch công ty [hãy điền tên công ty của bạn vào đây] là một người may mắn khi luôn xuất hiện đúng nơi đúng lúc và nhận lấy mọi sự tán dương cho thành công của công ty mà không chút đoái hoài đến yếu tố may rủi” được lặp lại mười lần trong một trang và diễn ra liên tục suốt 500 trang như thế. Cả cuốn sách có thể được nén lại còn khoảng 41 chữ (thay vì 100.000 chữ), như cách tôi vừa mới thực hiện, mà không làm thay đổi nội dung; với nội dung cốt lõi như thế, bạn hoàn toàn có thể tái bản nó một cách chính xác đến từng chi tiết. Nhờ vào việc đi tìm khuôn mẫu, tức tính lôgic của một chuỗi (sự kiện), bạn không còn phải ghi nhớ tất cả mà chỉ cần lưu trữ khuôn mẫu đó thôi. Và, như chúng ta thấy ở đây, một khuôn mẫu bao giờ cũng cô đọng hơn thông tin ở dạng thô. Bạn nghiên cứu một cuốn sách và tìm ra một quy luật. Tương tự, cũng theo các giới hạn này mà nhà xác suất học vĩ đại Andrey Nikolayevich Kolmogorov đã đưa ra khái niệm về cấp độ của tính ngẫu nhiên mà người ta gọi là “độ phức tạp Kolmogorov”.

Là thành viên của loài linh trưởng, chúng ta luôn khát khao tìm được các quy luật bởi cần phải cắt giảm kích thước của các vấn đề để chúng dễ dàng đi vào đầu, hay nói đúng hơn là nhồi nhét chúng vào đầu. Thông tin càng ngẫu nhiên thì kích thước của nó càng lớn, và do đó, càng khó tóm tắt. Bạn càng tóm tắt thường xuyên thì tính ngẫu nhiên càng giảm. Vì thế, hoàn cảnh khiến chúng ta phải đơn giản hóa cũng chính là hoàn cảnh khiến chúng ta nghĩ rằng thế giới ít ngẫu nhiên hơn bản chất thực của nó.

Và Thiên Nga Đen chính là những gì chúng ta bỏ sót trong quá trình đơn giản hóa.

Cả công trình nghệ thuật lẫn công trình khoa học đều là sản phẩm phát sinh từ nhu cầu cắt giảm kích thước và áp đặt một trình tự lên mọi vật. Hãy nghĩ về thế giới xung quanh bạn, nơi chứa đựng hàng tỷ tỷ chi tiết. Hãy cố gắng mô tả nó và bạn sẽ thấy muốn xâu một sợi chỉ vào những gì mình nói. Một cuốn tiểu thuyết, một câu chuyện thần thoại hay hư cấu đều có cùng một chức năng: giúp ta tránh được sự phức tạp và ngẫu nhiên của thế giới. Các câu chuyện thần thoại giúp sắp xếp lại trật tự trong nhận thức và “sự hỗn loạn trong trải nghiệm của con người” 27 đã được cảm nhận.

Quả thật, mức độ rối loạn tâm lý nghiêm trọng thường khiến cho một người cảm thấy mất kiểm soát, hay mất khả năng “cảm nhận ý nghĩa” đối với môi trường của chính mình.

Quan điểm Plato lại một lần nữa ảnh hưởng đến chúng ta. Thật thú vị là vẫn chính niềm khao khát tìm thấy trình tự ấy lại được áp dụng đối với các mục tiêu khoa học - không giống như nghệ thuật, mục tiêu của khoa học (đã được xác lập) là phải đạt đến chân lý, chứ không phải để khiến bạn hạnh phúc hay cảm giác có tổ chức hơn. Chúng ta có xu hướng sử dụng kiến thức như phương pháp chữa bệnh.

Một cái chết nhẹ nhàng hơn
Để biết được sức thuyết phục mạnh mẽ của lối viết tường thuật, hãy phân tích phát biểu sau: “Nhà vua băng hà và hoàng hậu băng hà”, rồi so sánh với câu: “Nhà vua băng hà và sau đó hoàng hậu cũng băng hà vì quá đau khổ”. Bài tập này, do tiểu thuyết gia E. M. Forster thực hiện, cho thấy sự khác biệt giữa chuỗi thông tin đơn thuần và cốt truyện. Nhưng hãy chú ý, có một nút thắt ở đây: mặc dù bổ sung thông tin vào câu thứ hai, nhưng thật ra chúng ta đã cắt giảm kích thước của tổng thể. Theo một cách nào đó, câu thứ hai “nhẹ” hơn và dễ ghi nhớ hơn nhiều; giờ đây, chúng ta có một mẩu thông tin thay vì hai. Do dễ dàng nhớ được thông tin này nên chúng ta cũng có thể bán nó cho người khác, nghĩa là bán như một ý tưởng trọn gói. Nói tóm lại, đây chính là định nghĩa và chức năng của một bài tường thuật.

Để biết được làm cách nào một bài trần thuật lại dẫn đến sai lầm trong đánh giá các khả năng, hãy thực hiện thí nghiệm sau. Hãy đưa cho ai đó một câu chuyện trinh thám được viết hết sức ly kỳ - chẳng hạn như tiểu thuyết của Agatha Christie mà nhiều nhân vật trong đó đều có thể là nghi can hợp lý. Bây giờ, hãy hỏi đối tượng tham gia thí nghiệm của bạn xem anh ta/cô ta đánh giá thế nào về xác suất trở thành kẻ sát nhân của từng nhân vật. Nếu người này không viết ra giấy số điểm phần trăm để cộng cho chính xác thì tổng các con số phần trăm ấy có thể vượt quá 100% (hay thậm chí là hơn 200% nếu là một cuốn tiểu thuyết hay). Đối với truyện trinh thám, tác giả càng tài tình thì con số ấy càng cao.

NHỚ VỀ QUÁ KHỨ KHÔNG XA
Xu hướng nhận thức - và áp đặt - của chúng ta đối với tính trần thuật và tính nhân quả chính là triệu chứng của cùng một căn bệnh - giảm kích thước. Hơn nữa, giống như tính nhân quả, tính trần thuật có một quy mô niên đại và tạo ra nhận thức về dòng chảy thời gian. Tính nhân quả duy trì dòng chảy thời gian theo một hướng và tính trần thuật cũng thế.

Tuy nhiên, trí nhớ và mũi tên thời gian có thể bị lẫn lộn. Tính trần thuật có thể tác động xấu đến hoạt động ghi nhớ những sự kiện thuộc về quá khứ như sau: chúng ta dễ có xu hướng ghi nhớ những sự kiện quá khứ nào khớp với một bài trần thuật trong khi lại thường lãng quên các sự kiện khác vốn không có vẻ gì đảm đương vai trò nhân quả trong bài trần thuật đó. Hãy chú ý rằng chúng ta có thể hồi tưởng lại tất cả sự kiện được lưu trữ trong trí nhớ và đồng thời biết được câu trả lời cho những gì xảy ra sau đó. Nói một cách chính xác, khi giải quyết một vấn đề, chúng ta không thể bỏ qua những thông tin đến sau. Chính khả năng không thể ghi nhớ chuỗi sự kiện được dựng lại, chứ không phải chuỗi sự kiện có thật, sẽ khiến cho lịch sử xuất hiện trong nhận thức muộn màng của con người với vẻ bề ngoài dễ giải thích hơn nhiều so với bản chất thực của nó. Theo lẽ phải thông thường, trí nhớ được xem như một công cụ lưu trữ hàng loạt, như đĩa mềm của máy vi tính. Trên thực tế, trí nhớ có tính động - chứ không phải tĩnh - giống như một tờ giấy mà trên đó những đoạn văn mới (hay phiên bản mới của đoạn văn đó) liên tục được lưu lại nhờ sức mạnh của thông tin đến sau. (Với một sự hiểu biết vô cùng sâu sắc, Charles Baudelaire - nhà thơ sống tại Paris vào thế kỷ mười chín - đã so sánh trí nhớ của chúng ta với palimxet, một dạng giấy da mà người ta có thể xóa đi những nội dung cũ và chồng lên đó những nội dung mới). Trí nhớ giống như một cỗ máy động có chức năng tự chỉnh sửa: bạn ghi nhớ lần cuối cùng mình nhớ lại một sự kiện và thay đổi nội dung của sự kiện đó tại từng thời điểm tiếp theo của trí nhớ mà không hề nhận biết.

Vì thế, ký ức của chúng ta trải dài theo các lằn ranh nguyên nhân (causative lines) một cách không chủ tâm và vô thức. Chúng ta không ngừng thuật lại những sự kiện đã qua dưới góc độ của những gì có vẻ sẽ biến những điều chúng ta nghĩ thành thứ có ý nghĩa lôgic sau khi các sự kiện này xảy ra.

Thông qua một quá trình được gọi là ảnh hưởng dội lại (reverberation), một ký ức sẽ tương ứng với việc cũng cố các mối liên kết từ sự gia tăng hoạt động của não bộ trong một khu vực não bộ nhất định - càng có nhiều hoạt động thì ký ức càng mạnh. Trong khi chúng ta đều tin rằng trí nhớ là cố định, bất biến và liên thông, thì tất cả những điều này lại rất khác xa thực tế. Những gì có ý nghĩa phù hợp với thông tin nhận được sau đó sẽ được ghi nhớ sâu hơn. Chúng ta cũng tự mình tạo ra một số ký ức - một hành động gây chạnh lòng trong các phiên tòa, bởi sự thật cho thấy nhiều người tự sáng tác ra những câu chuyện về lạm dụng trẻ em vì phải nghe mãi các giả định.

Bài trần thuật của một người điên
Chúng ta có quá nhiều cách để diễn giải những sự kiện trong quá khứ theo hướng có lợi cho mình.

Hãy xem xét hành vi của những người hoang tưởng. Tôi có cơ hội được làm việc với nhiều đồng nghiệp, những người thường che giấu các rối loạn hoang tưởng nhưng thỉnh thoảng cũng để lộ ra ngoài. Một người cực kỳ thông minh có thể khiến bạn ngạc nhiên bởi khả năng diễn giải một lời bình luận vô thưởng vô phạt theo lối cường điệu nhất, nhưng lại vô cùng hợp lý. Nếu tôi nói “Tôi e rằng...” khi đề cập đến một trạng thái không mong đợi nào đó, họ có thể diễn giải nó theo nghĩa đen rằng tôi đang nếm trải một nỗi lo sợ thực sự và điều này châm ngòi cho phần tình tiết sợ hãi theo cách hiểu của kẻ hoang tưởng đó. Khi đối mặt với sự lộn xộn như thế, có thể một vài người sẽ đi góp nhặt những chi tiết vụn vặt nhất rồi đưa ra một lý thuyết công phu và mạch lạc về việc vì sao có âm mưu chống lại anh ta. Và nếu tập hợp được, ví dụ khoảng mười người hoang tưởng - tất cả đều trong cùng một trạng thái ảo giác từng hồi, bạn sẽ nhận được mười cách diễn giải khác nhau nhưng rất mạch lạc về các sự kiện.

Khi tôi lên bảy, cô giáo cho chúng tôi xem bức tranh mô tả một nhóm người Pháp nghèo khổ thời Trung cổ tại bữa tiệc được tổ chức bởi một trong những mạnh thường quân của họ, mà theo tôi nhớ, là một vị vua nhân từ nào đó. Họ đang cầm bát súp đưa lên miệng. Cô giáo bèn hỏi vì sao mũi họ lại ở trong bát súp và tôi trả lời “Bởi họ không được dạy cách cư xử”, Cô giáo đáp, “Sai rồi. Vì họ đang đói”. Tôi cảm thấy mình thật ngu ngốc khi không nghĩ đến điều này, nhưng lúc đó lại không thể hiểu được điều gì khiến cho lời giải đáp này được chấp nhận hơn so với lời giải đáp khác, hay vì sao cả tôi và cô giáo đều không sai cùng một lúc (Có vẻ như “Không có, hoặc có rất ít đồ dùng làm bằng bạc vào thời đó” là câu trả lời khả dĩ nhất).

Ngoài những bóp méo về nhận thức của chúng ta, bản thân lôgic cũng có vấn đề. Làm thế nào một người vốn không có bất kỳ gợi ý gì nhưng vẫn hình thành được những quan điểm hoàn toàn hợp lý và mạch lạc trùng khớp với các quan sát và tuân theo mọi quy luật về lôgic? Hãy nghĩ mà xem, hai người có thể theo đuổi hai niềm tin trái ngược nhau vốn cùng bắt nguồn từ một dữ liệu. Phải chăng điều này có nghĩa là có sự tồn tại của các nhóm giải nghĩa khả dĩ và mỗi nhóm đều hoàn hảo và hợp lý như nhau? Dĩ nhiên là không. Một người có thể có hàng triệu cách giải thích, nhưng lời giải thích đúng thì chỉ có một mà thôi, dù có nằm trong phạm vi hiểu biết của chúng ta hay không.

Trong một tranh luận nổi tiếng, nhà lôgic học W. V. Quaine đã chứng minh rằng có sự tồn tại của các nhóm lời diễn giải và nguyên lý nhất quán có thể thích hợp với một chuỗi sự kiện nào đó. Cái nhìn thấu đáo đó cảnh tỉnh chúng ta rằng nếu chỉ thiếu vắng những thứ vô nghĩa cũng chưa đủ để kết luận điều gì đó là đúng.

Luận đề của Quaine có liên hệ với khám phá của ông về khó khăn trong việc chuyển ngữ các câu phát ngôn, đơn giản vì một người có thể có hàng tỷ cách để dịch một câu văn. (Xin lưu ý rằng, những ai thích “bới lông tìm vết” có thể phát hiện ra một khía cạnh có tính tự bác bỏ trong chính bài viết của Quine. Tôi tự hỏi không biết làm thế nào ông lại hy vọng chúng ta sẽ không hiểu luận điểm này theo hàng tỷ cách).

Điều này không có nghĩa là chúng ta không thể bàn về các nguyên nhân; vẫn có nhiều cách để thoát khỏi lối liên tưởng ngụy biện. Như thế nào? Bằng cách đưa ra phỏng đoán và tiến hành thí nghiệm, hoặc, như chúng ta sẽ thấy trong Phần 2, đưa ra những dự đoán có thể kiểm tra được. 28 Các thí nghiệm tâm lý mà tôi đang nói ở đây sẽ hoạt động như sau: chọn ra một nhóm dân cư và tiến hành kiểm nghiệm. Kết quả có thể được ghi nhận tại Tennessee, Trung Quốc hay thậm chí ở Pháp.

Lối viết trần thuật và Liệu pháp tâm lý
Nếu tính trần thuật khiến chúng ta nhìn thấy các sự kiện đã xảy ra dễ dự đoán hơn, ít bất ngờ và ít ngẫu nhiên hơn bản chất thực của chúng, thì chúng ta nên xem nó như một liệu pháp chữa trị một số vấn đề nhức nhối của tính ngẫu nhiên.

Lấy ví dụ về một sự kiện không dễ chịu nào đó, chẳng hạn như tai nạn ô tô mà bạn cảm thấy mình có trách nhiệm gián tiếp sẽ để lại trong bạn một dư vị xấu trong thời gian dài. Bạn bị hành hạ bởi ý nghĩ rằng mình đã gây chấn thương cho hành khách, lúc nào cũng nghĩ lẽ ra mình đã có thể tránh được tai nạn đó. Tâm trí bạn không ngừng xuất hiện hình ảnh của những kịch bản thay thế hệt như cành lá liên tục mọc ra từ thân cây: nếu thức dậy như thường lệ hẳn bạn đã tránh được tai nạn ấy rồi. Việc gây chấn thương cho hành khách là điều xảy ra ngoài ý muốn, nhưng tâm trí bạn cứ cảm thấy ăn năn tội lỗi. Những người làm các công việc có tính ngẫu nhiên cao (ví dụ như hoạt động trên thị trường) có thể phải chịu đựng nhiều hơn mức ảnh hưởng vốn có của nỗi đau khi nhìn lại quá khứ lẽ ra tôi nên bán danh mục đầu tư của mình khi nó đang ở thời kỳ đỉnh; nếu mua cổ phiếu này cách đây vài năm thì giờ đây tôi đang lái một chiếc Convertible màu hồng, vân vân và vân vân. Nếu là một chuyên gia, bạn có thể cảm thấy mình “đã mắc một sai lầm” hay tệ hơn, “nhiều sai lầm” khi không thể làm được việc đại loại như mua một tờ vé số chắc chắn trúng giải cho các nhà đầu tư của mình, và cảm thấy cần phải xin lỗi vì chiến lược đầu tư khinh suất (ý nói khinh suất sau khi nhìn lại quá khứ) của mình.

Làm thế nào có thể dứt bỏ sự hồi hộp dai dẳng này? Đừng bao giờ tìm cách tránh nghĩ về nó: điều này gần như chắc chắn phản tác dụng. Giải pháp thích hợp hơn hết là tăng tính tất yếu của sự kiện. Này, nó buộc phải xảy ra và lo lắng cũng chẳng có ích gì. Làm cách nào để thực hiện được điều này? À, với một bài trần thuật. Những bệnh nhân nào dành ra mười lăm phút mỗi ngày để ghi lại các vấn đề phát sinh trong ngày sẽ thật sự cảm nhận rõ hơn về những gì đang xảy ra với mình. Bạn sẽ cảm thấy ít tội lỗi hơn khi không thể né tránh một vài sự cố nào đó, và cảm thấy ít phải chịu trách nhiệm về nó. Mọi thứ dường như tất yếu phải xảy ra.

Nếu làm một công việc đầy tính ngẫu nhiên, bạn thường phải chịu đựng những tác động khiến bản thân mệt nhoài vì thường xuyên xem xét lại các hành động quá khứ của mình trong phạm vi những gì xảy ra sau đó. Luôn có sẵn một cuốn sổ ghi chép là điều tối thiểu mà bạn có thể làm trong những tình huống này.

SAI LẦM VỚI ĐỘ CHÍNH XÁC TUYỆT ĐỐI
Chúng ta nuôi dưỡng thái độ tẩy chay lệch lạc đối với những gì trừu tượng.

Một ngày của tháng 12 năm 2003, khi Saddam Hussein bị bắt, bản tin lúc 13:01 của Bloomberg giật dòng tít: NGÂN KHỐ MỸ GIA TĂNG, VỤ BẮT BỚ HUSSEIN KHÔNG THỂ TIÊU DỆT CHỦ NGHĨA KHỦNG Bố.

Bất cứ khi nào thị trường có biến động, các phương tiện truyền thông đều tự cảm thấy phải đưa ra “nguyên nhân”. Nửa giờ đồng hồ sau, họ giật một dòng tít mới. Khi trái phiếu chính phủ Mỹ rớt giá (thật ra chúng lên xuống suốt ngày, vì thế, không có gì đặc biệt cả). Bản tin Bloomberg lại đưa tin về nguyên nhân của sự sụt giá đó: vụ bắt giữ Saddam (vẫn cùng một ông Saddam). Vào lúc 13:31, họ đăng một bản tin mới: NGÂN KHỐ MỸ SỤT GIẢM, VỤ BẮT BỚ HUSSEIN LÀM TĂNG SỨC HẤP DẪN CỦA CÁC LOẠI TÀI SẢN RỦI RO.

Như vậy, vẫn chỉ một vụ bắt bớ (tức cùng một nguyên nhân) nhưng lại lý giải cho hai sự kiện đối lập nhau. Rõ ràng, điều này không thể xảy ra; hai sự kiện này không thể kết hợp với nhau.

Liệu các nhà báo có đến phòng mạch bác sĩ mỗi sáng để tiêm dopamine nhằm tăng khả năng tường thuật của mình không? (Thật mỉa mai là từ “dope” dùng để chỉ loại chất kích thích mà các vận động viên thường dùng để tăng thành tích thi đấu có cùng nguồn gốc với dopamine).

Điều này xảy ra thường xuyên: người ta đưa ra một nguyên nhân để bạn chấp nhận một mẩu tin và để cho vấn đề trở nên cụ thể. Sau thất bại của một ứng cử viên trong cuộc tranh cử, bạn sẽ nhận được “nguyên nhân” của việc cử tri không ủng hộ cho ứng cử viên đó. Bất kỳ nguyên nhân nào mà người ta có thể tưởng tượng ra đều được sử dụng. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông đã làm mọi cách để quy trình tưởng tượng đó trở nên “toàn diện” nhờ vào cả một đạo quân kiểm tra thông tin. Cứ như thể họ muốn mắc sai lầm với độ chính xác tuyệt đối (thay vì chấp nhận rằng mình chỉ đúng một cách tương đối, hệt như một nhà văn viết truyện ngụ ngôn vậy).

Lưu ý rằng khi không có bất kỳ thông tin nào về một người mà bạn bất ngờ gặp phải, bạn có xu hướng sử dụng quốc tịch và lai lịch của cô ta làm thuộc tính quan trọng nhất là (giống như trường hợp của vị học giả người Ý mà tôi đã gặp vậy). Làm thế nào để biết được sự quy kết lai lịch ấy lại không có thật? Tôi tự mình tiến hành kiểm tra thực nghiệm bằng cách đếm số nhân viên giao dịch có lai lịch giống mình, trải nghiệm cùng cuộc chiến, và đã trở thành những người theo chủ nghĩa hoài nghi thực nghiệm, nhưng không tìm thấy bất kỳ ai trong số hai mươi sáu người được chọn. Vấn đề về quốc tịch này có thể giúp bạn thêu dệt nên một câu chuyện vĩ đại và làm thỏa mãn cơn khát tìm kiếm nguyên nhân của mình. Có vẻ như tất cả những lời giải thích trước đó đều tầm thường cho đến khi ai đó tìm ra được câu trả lời rõ ràng hơn (chẳng hạn như một luận cứ về tiến hóa “có lý” nào đó). Quả thật, con người thường có xu hướng tự lừa dối mình bằng lối trần thuật về “bản sắc dân tộc”, mà theo công trình nghiên cứu mang tính đột phá do sáu mươi lăm tác giả thực hiện đăng trên tạp chí Science đã được chứng minh là hoàn toàn bịa đặt. (“Nét đặc trưng của dân tộc” có thể là đề tài thú vị cho các bộ phim, có thể giúp ích nhiều về đề tài chiến tranh, nhưng lại là những khái niệm thuộc trường phái Plato không mang giá trị kinh nghiệm thực tiễn nào cả - tuy nhiên cả người Anh lẫn những người không mang quốc tịch Anh đều sai lầm khi tin vào “khí chất dân tộc” Anh.) Theo kinh nghiệm của tôi, so với quốc tịch thì giới tính, tầng lớp xã hội và nghề nghiệp có vẻ là những công cụ dự báo hữu hiệu hơn về hành vi của một người (một người đàn ông Thụy Điển sẽ có nhiều điểm tương đồng với một người đàn ông Togo hơn với một phụ nữ Thụy Điển; một triết gia người Peru sẽ có nhiều điểm tương đồng với một triết gia người Scotland hơn với một người quản gia Peru, và còn nhiều ví dụ khác nữa).

Vấn đề về lạm dụng nguyên nhân này không phải ở các nhà báo, mà là ở công chúng. Không ai thèm bỏ ra một đô-la để mua các thông tin thống kê trừu tượng gợi nhớ về bài giảng nhàm chán thời còn đi học. Chúng ta muốn được nghe những câu chuyện, và điều này không có gì sai cả - ngoại trừ việc nên kiểm tra một cách toàn diện hơn xem liệu câu chuyện đó có bóp méo sự thật quá mức hay không. Có thể nào câu chuyện giả tưởng cho chúng ta biết sự thật trong khi chuyện người thật việc thật lại là nơi nuôi dưỡng sự dối trá? liệu có khi nào truyền thuyết và chuyện kể lại gần với sự thật hơn bản tin được kiểm tra toàn diện của ABC News? Hãy nhớ rằng các tờ báo đều cố gắng có được sự thật hoàn hảo nhưng lại thêu dệt nó thành một bài tường thuật theo cách để có thể chuyển tải ấn tượng về thuyết nhân quả (và tri thức). Nhưng than ôi, có những người chuyên kiểm tra sự thật, nhưng lại không kiểm tra trí năng.

Nhưng không có lý do gì chúng ta chỉ soi các nhà báo. Giới viện sĩ hàn lâm cũng làm điều này nhưng khoác lên mình lớp vỏ ngôn ngữ trịnh trọng - chúng ta sẽ nghiên cứu họ trong Chương 10 - chương về dự đoán. Ngoài tính trần thuật và tính nhân quả, cánh nhà báo và giới trí thức xã hội (public intellectuals) chuyên về thể loại sound-bite (hình ảnh, âm thanh được giới truyền thông chuyển đi như những hình ảnh tiêu biểu) không thể làm cho thế giới này trở nên đơn giản hơn. Thay vào đó, họ gần như lúc nào cũng khiến nó có vẻ phức tạp hơn nhiều so với thực tế. Lần tới, khi bạn được yêu cầu thảo luận về các sự kiện diễn ra trên thế giới, hãy tìm cớ thoái thác và sử dụng những luận cứ mà tôi đã trình bày trong chương này để hoài nghi tính minh bạch của các nguyên nhân trực tiếp. Người ta sẽ nói rằng “Anh/Chị phân tích quá xa rồi” hoặc “Anh/Chị quá phức tạp”. Tất cả những gì bạn cần nói là “tôi không biết!”

Khoa học công tâm
Giờ đây, nếu bạn nghĩ rằng khoa học là một đề tài trừu tượng không chịu ảnh hưởng của thuyết duy cảm và những bóp méo thì tôi có một vài thông tin có thể làm bạn thức tỉnh. Các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa thực nghiệm đã tìm ra bằng chứng cho thấy các nhà khoa học cũng dễ bị tác động bởi các bài trần thuật, các đề tựa nổi bật và các nút thất “gợi cảm” về những sự kiện lớn lao hơn. Để chữa trị căn bệnh này cần phải tiến hành các siêu phân tích về những công trình nghiên cứu khoa học, trong đó, một nhà siêu nghiên cứu sẽ xem xét thật kỹ toàn bộ tài liệu, kể cả các bài báo có tính quảng cáo thấp, và đưa ra một bài tổng hợp.

TIN TỨC GIẬT GÂN VÀ THIÊN NGA ĐEN
Bây giờ, hãy cùng nhau xem xét ảnh hưởng của lối viết trần thuật đối với hiểu biết của chúng ta về Thiên Nga Đen. Cùng với đặc tính nổi bật của thông tin giật gân, bài trần thuật có thể làm nhiễu dự đoán của chúng ta về các khả năng xảy ra. Hãy phân tích thí nghiệm dưới đây của Kahneman và Tversky, bộ đôi đã được nhắc đến trong chương trước: các đối tượng tham gia thí nghiệm là những chuyên gia dự đoán, được yêu cầu tưởng tượng ra các viễn cảnh sau, và đồng thời dự đoán xác suất xảy ra của chúng.

a. Một trận lụt dữ dội xảy ra tại Mỹ làm hơn một nghìn người chết.

b. Một trận động đất tại California, gây ra lũ lụt dữ dội, và làm hơn một nghìn người chết.

Những người tham gia thí nghiệm ước đoán rằng sự kiện đầu tiên ít có khả năng xảy ra hơn so với sự kiện thứ hai. Tuy nhiên, trận động đất tại California chính là nguyên nhân mà người ta có thể tưởng tượng ra, điều làm tăng đáng kể tính hữu dụng trí lực (mental availability) - mà ở đây được hiểu là xác suất ước lượng - về viễn cảnh lũ lụt.

Tương tự, nếu tôi hỏi có bao nhiêu ca ung thư phổi có khả năng xảy ra trên khắp đất nước này, bạn sẽ đưa ra một con số nào đó, chẳng hạn nửa triệu ca. Bây giờ, đổi lại, nếu tôi hỏi có bao nhiêu ca ung thư phổi do hút thuốc, nhiều khả năng là bạn sẽ đưa ra một con số cao hơn rất nhiều (có thể đoán là cao gấp hai lần con số trước đó). Việc bổ sung từ bởi vì khiến vấn đề trở nên đáng tin cậy hơn và hợp lý hơn nhiều. Ung thư do hút thuốc có vẻ hợp lý hơn ung thư mà không có nguyên nhân rõ ràng - một nguyên nhân không xác định đồng nghĩa với không có nguyên nhân nào hết.

Tôi sẽ quay lại với câu chuyện của E. M. Forster được trình bày trong phần đầu chương, nhưng dưới góc độ của môn khoa học xác suất. Câu nào trong hai câu sau đây hợp lý hơn?

Cuộc sống hôn nhân của Joey có vẻ rất hạnh phúc. Anh ta giết vợ mình

Cuộc sống hôn nhân của Joey có vẻ rất hạnh phúc. Anh ta giết vợ mình để chiếm đoạt tài sản.

Thoạt nhìn, câu thứ hai có khả năng xảy ra cao hơn, tuy nhiên, đấy chính là một sai lầm thuần túy của lôgic, bởi câu đầu tiên, với phạm vi rộng hơn, có thể ẩn chứa nhiều nguyên nhân hơn như anh ta giết vợ bởi khi đó anh ta lên cơn điên, hay do cô ấy qua lại với gã đưa thư và huấn luyện viên trượt tuyết, hay bởi vì anh ta bị ảo giác và tưởng nhầm cô vợ mình là gã dự báo tài chính.

Tất cả điều này có thể dẫn đến các bệnh lý trong quá trình ra quyết định của chúng ta? Bằng cách nào?

Hãy tưởng tượng rằng, như Paul Slovic và cộng sự của ông đã trình bày, con người thường thích chi tiền cho bảo hiểm khủng bố hơn là bảo hiểm thông thường (mà thực ra loại bảo hiểm này cũng bao gồm cả nguy cơ khủng bố cùng với nhiều thứ khác).

Những hiện tượng Thiên Nga Đen mà chúng ta tưởng tượng, thảo luận và lo ngại không giống với những thứ sẽ trở thành Thiên Nga Đen thực sự. Chúng ta đã phí công lo lắng về những chuyện “không đâu”, và để biết được nguyên nhân vì sao, hãy cùng xem xét tiếp.
Sự mù tịt về Thiên Nga Đen
Câu hỏi đầu tiên về nghịch biện của nhận thức về Thiên Nga Đen như sau: Làm thế nào một số hiện tượng Thiên Nga Đen lại bị thổi phồng quá mức trong tâm trí của chúng ta trong khi nội dung chính của cuốn sách này lại nói về việc chúng ta thờ ơ với Thiên Nga Đen?

Câu trả lời chính là có hai biến thể của các biến cố hiếm: a) những hiện tượng Thiên Nga Đen được tường thuật lại, được trình bày trong các buổi diễn thuyết và được lặp đi lặp lại thường xuyên trên tivi, và b) những hiện tượng không ai nhắc đến, bởi chúng không thuộc về một hình mẫu nào cả - những thứ khiến bạn cảm thấy xấu hổ khi thảo luận công khai bởi chúng dường như không hợp lý chút nào cả. Tôi hoàn toàn có thể khẳng định rằng chính bản chất con người đã khiến chúng ta đánh giá quá cao phạm vi tác động của các hiện tượng Thiên Nga Đen “nhóm a”, nhưng lại đánh giá thấp một cách trầm trọng mức độ tác động của “nhóm b”.

Quả thật, những người mua vé số đã đánh giá quá cao khả năng trúng giải bởi chỉ mơ mộng về khoản thưởng hấp dẫn - thật ra, họ mù quáng đến mức cho rằng khả năng giữa một phần nghìn và một phần triệu là ngang nhau.

Phần lớn các nghiên cứu thực nghiệm đều khớp với khuôn mẫu của việc đánh giá quá cao hay quá thấp các hiện tượng Thiên Nga Đen. Ban đầu, Kahneman và Tversky đã chứng minh rằng con người thường phản ứng thái quá trước những kết quả có xác suất thấp khi bạn thảo luận biến cố đó với họ, và khiến họ nhận thức về nó. Nếu bạn hỏi ai đó “Xác suất tử vong của một tai nạn máy bay là bao nhiêu?” ngay lập tức, con số tử vong sẽ được nâng lên. Tuy nhiên, khi nói về các mô hình bảo hiểm, Slovic và cộng sự của ông đã phát hiện ra sự thờ ơ trước các biến cố tưởng chừng như không thể xảy ra trong các hợp đồng bảo hiểm. Họ gọi nó là “ưu tiên bảo hiểm các tổn thất nhỏ có thể xảy ra”- và phải trả giá bằng những tổn thất ít xảy ra nhưng có tác động nghiêm trọng hơn nhiều.

Cuối cùng, sau nhiều năm tìm kiếm các kiểm tra thực nghiệm về việc chúng ta khinh rẻ những gì trừu tượng, tôi đã tìm thấy thứ mà mình mong đợi từ các nhà nghiên cứu tại Israel. Greg Barron và Ido Erev đã cung cấp bằng chứng thục nghiệm cho thấy các đối tượng tham gia thí nghiệm thường xem nhẹ những xác suất nhỏ khi tham gia vào chuỗi các thí nghiệm mà trong đó họ tự mình tìm kiếm các xác suất, tức là khi không được cung cấp bất kỳ tỷ lệ nào. Nếu số bi đỏ bạn lấy ra từ một cái bình là rất nhỏ trong khi số bi đen lại rất nhiều, và nếu không có kiến thức về tỷ lệ tương đối, nhiều khả năng bạn sẽ đánh giá thấp số bi đỏ ấy. Chỉ khi nào biết được tần số xuất hiện của nó - chẳng hạn như bi đỏ chiếm 3% - bạn mới đánh giá cao nó trong quyết định mạo hiểm của mình.

Tôi đã mất nhiều thời gian tự vấn bản thân mình rằng không biết làm cách nào những người thiển cận và có tư duy ngắn hạn như chúng ta lại có thể sống sót trong một môi trường hoàn toàn không phải Mediocristan này. Một ngày nọ, nhìn vào bộ râu vốn khiến tôi trông già hơn mười tuổi và nghĩ về niềm vui khi được “triển lãm” nó, tôi chợt nhận ra một điều. Sự tôn kính dành cho người cao tuổi hiện diện trong nhiều xã hội có thể là một hình thức bù đắp cho trí nhớ ngắn hạn của chúng ta. Chữ senate (Viện nguyên lão) có nguồn gốc từ chữ senatus, có nghĩa là “có tuổi” trong tiếng La-tinh; còn chữ sheikh trong tiếng Ả Rập vừa có nghĩa là “thành viên của giới trí thức cầm quyền”, vừa là “người cao tuổi”. Người cao tuổi chính là kho lưu trữ quý báu những kiến thức quy nạp phức tạp, trong đó bao gồm cả thông tin về các biến cố hiếm hoi. Họ có thể khiến chúng ta hoảng sợ bằng những câu chuyện của mình - đó chính là nguyên nhân vì sao chúng ta bị kích động quá mức khi nghĩ về một hiện tượng Thiên Nga Đen cụ thể nào đó. Tôi cảm thấy rất hào hứng khi phát hiện điều này cũng đúng trong thế giới động vật: một bài báo đăng trên tạp chí Science đã chỉ ra rằng trong xã hội loài voi, những con voi cái đầu đàn sẽ đóng vai trò người dẫn dắt khi các biến cố hiếm hoi xảy ra.

Chúng ta học hỏi từ sự lặp lại - và phải trả giá bằng những biến cố chưa từng xảy ra trước đây. Các biến cố nào không lặp lại thường bị lãng quên cho đến khi thực sự xảy ra, đồng thời bị đánh giá quá mức (trong một khoảng thời gian nhất định) sau đó. Sau một hiện tượng Thiên Nga Đen như sự kiện 11 tháng 9 năm 2001, người ta đoán rằng nó sẽ lặp lại trong khi trên thực tế, khả năng này được nhiều người đánh giá là rất thấp. Chúng ta thích nghĩ về các hiện tượng Thiên Nga Đen cụ thể mà mình đã biết, trong khi trên thực tế, bản chất của tính ngẫu nhiên lại nằm ở chính sự trừu tượng của nó. Như tôi đã trình bày trong Phần mở đầu, đó chính là định nghĩa không đúng về một vị thần.

Nhà kinh tế học Hyman Minsky đã nhìn thấy các chu kỳ mạo hiểm trong nền kinh tế tuân theo một khuôn mẫu sau: tính ổn định và việc thiếu vắng các cuộc khủng hoảng sẽ làm tăng sự mạo hiểm, tính tự mãn và nhận thức khinh suất về khả năng xảy ra khó khăn. Và rồi khi một cuộc khủng hoảng xảy ra, người ta trở nên bàng hoàng và sợ hãi không dám đầu tư nữa. Thật lạ lùng là cả Minsky cùng trường phái hậu Keynes của ông lẫn trường phái đối lập - những nhà kinh tế học tự do chủ nghĩa “Áo” lại có cùng một phân tích, ngoại trừ việc nhóm đầu tiên ủng hộ can thiệp của chính phủ nhằm “bôi trơn” các chu kỳ đó trong khi nhóm hai lại tin rằng những người công bộc của nhân dân không đáng tin cậy để được giao phó trọng trách giải quyết các vấn đề như thế. Mặc dù có vẻ như đang tranh đấu với nhau nhưng thực ra, hai trường phái tư tưởng này lại nhất trí với nhau khi coi trọng tầm ảnh hưởng của tính bất định cơ sở và hoạt động bên ngoài những bộ phận kinh tế chính thống (mặc dù có nhiều doanh nhân và những người không thuộc giới học thuật cũng đi theo hai trường phái ấy). Rõ ràng, việc tập trung vào tính bất định cơ sở đã gây lo ngại cho những người theo chủ nghĩa Plato.

Tất cả những thí nghiệm về xác suất mà tôi thảo luận trong phần này đều quan trọng cả; chúng chỉ ra cách mà chúng ta bị “qua mặt” bởi sự hiếm hoi của Thiên Nga Đen chứ không phải tác động của chúng. Trong một nghiên cứu sơ bộ, nhà tâm lý học Dan Goldstein và tôi đã giới thiệu cho sinh viên Trường Kinh doanh Luân Đôn hai ví dụ thuộc hai miền Mediocristan và Extremistan. Chúng tôi lựa chọn chiều cao, cân nặng và lượng truy cập cao nhất của mỗi website. Những sinh viên tham gia thí nghiệm rất giỏi phán đoán vai trò của các biến cố hiếm trong các môi trường theo kiểu Mediocristan. Nhưng trực giác của họ chào thua trước những biến thể nằm ngoài môi trường Mediocristan - điều chứng tỏ rằng chúng ta thực sự không có khả năng phán đoán tác động của những điều tưởng chừng như không thể, chẳng hạn như đóng góp của tác phẩm “bom tấn” vào tổng doanh số sách bán ra. Trong một thí nghiệm, các sinh viên đã đánh giá thấp ảnh hưởng của một biến cố hiếm đến ba mươi ba lần.

Tiếp theo, hãy xem việc thiếu kiến thức trước các vấn đề trừu tượng đã ảnh hưởng như thế nào đến chúng ta.

Sức hút của những thứ giật gân
Quả thật, thông tin thống kê trừu tượng không thể tác động đến chúng ta nhiều như một giai thoại - dù cho ta có tinh tế đến mấy. Tôi sẽ đưa ra một vài ví dụ sau.

Cậu bé người Ý. Vào cuối thập niên 70, ở Ý có một cậu bé bị rơi xuống giếng. Nhóm cứu hộ không thể kéo nó ra khỏi miệng giếng và đứa bé khóc trong vô vọng khi mắc kẹt dưới đáy giếng. Có thể hiểu được là cả nước Ý đều lo ngại cho số phận của cậu bé này; cả nước dõi theo các bản tin cập nhật. Tiếng khóc của cậu bé khiến cho các nhân viên cứu hộ và cánh nhà báo bất lực đau xé lòng vì cảm giác tội lỗi. Chân dung cậu bé được các tờ báo, tạp chí địa phương đăng ở những vị trí nổi bật và dường như khắp nơi thuộc trung tâm Milan đều đầy ắp hình ảnh về cảnh ngộ khốn khổ của cậu bé này.

Cùng thời điểm đó, cuộc nội chiến Li băng đang diễn ra khốc liệt, nhưng thỉnh thoảng cũng có lúc đình chiến. Trong cơn hỗn loạn như thế, người dân Li băng vẫn dõi theo số phận của cậu bé đó. Cậu bé người Ý. Cách đó năm dặm, người ta đang chết vì chiến tranh, người dân đang hoảng sợ trước các vụ tấn công bằng ô tô cài bom nhưng số phận cậu bé người Ý vẫn chiếm vị trí quan tâm hàng đầu trong cộng đồng Thiên Chúa giáo tại Beirut. Người ta nói với tôi rằng: “Thằng bé tội nghiệp ấy mới dễ thương làm sao”. Cả thành phố thở phào nhẹ nhõm khi cuối cậu bé đã được cứu.

Như Stalin, người biết vài điều về vấn đề tử vong, đã nói, “Một cái chết là một bi kịch; nhưng một triệu thương vong lại là một con số thống kê”. Chúng ta không chú ý đến các con số thống kê.

Chủ nghĩa khủng bố gây ra gần 13 triệu thương vong mỗi năm, nhưng kẻ sát nhân lớn nhất vẫn chính là môi trường. Nhưng chỉ có chủ nghĩa khủng bố gây ra làn sóng phẫn nộ, điều này khiến chúng ta đánh giá quá cao khả năng xảy ra của các cuộc tấn công khủng bố mới chỉ ở dạng tiềm năng - và phản ứng còn quyết liệt hơn thế khi xảy ra một cuộc tấn công thật sự. Chúng ta cảm thấy sự tàn phá do con người gây ra luôn để lại nỗi đau sâu sắc hơn thiệt hại do thiên nhiên.

Công viên Trung tâm. Bạn đang trên chuyến bay hướng về New York cho kỳ nghỉ cuối tuần (chè chén) dài ngày. Bạn ngồi cạnh một nhân viên bán bảo hiểm, mà với đặc tính của một người bán hàng, anh ta không thể nào ngưng nói được. Đối với anh ta, việc không nói chuyện là một hoạt động đòi hỏi nhiều nỗ lực. Anh ta sẽ kể cho bạn nghe về người em họ (người sẽ cùng tham gia kỳ nghỉ này với anh ta) đang làm việc trong một văn phòng luật, nơi người em song sinh của đối tác của người em vợ của anh ta đã bị bóp cổ chết tại Công viên Trung tâm. Quả thật, đó chính là Công viên Trung tâm của một New York tráng lệ. Chuyện xảy ra vào năm 1989. Nạn nhân xấu số khi ấy mới ba mươi tám tuổi, có vợ và ba con, trong đó, một đứa bị thiểu năng bẩm sinh và cần được chăm sóc đặc biệt tại Comell Medical Center. Ba đứa trẻ, một trong số đó phải được chăm sóc đặc biệt, trở nên mồ côi bố do chính chuyến viếng thăm ngu xuẩn Công viên Trung tâm của người đàn ông ba mươi tám tuổi này.

Như vậy, chắc bạn sẽ không dám đến Công viên Trung tâm trong kỳ nghỉ. Bạn biết rằng mình có thể kiếm được số liệu thống kê về tội phạm từ trang web hay bất kỳ nguồn tài liệu nào khác hơn là tin vào thông tin có tính giai thoại từ một người bán hàng không kiểm soát được cái miệng của mình. Nhưng bạn không thể bỏ qua câu chuyện trên. Trong một khoảnh khắc, cái tên Công viên Trung tầm gợi nên hình ảnh một người đàn ông nghèo khổ, thấp kém nằm trên bãi cỏ dơ bẩn. Phải có thật nhiều thông tin thống kê nữa thì mới có thể khiến bạn không còn do dự.

Chạy xe mô tô. Tương tự, cái chết của một người họ hàng do tai nạn mô tô sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan điểm của bạn hơn so với các bài phân tích thống kê về tai nạn mô tô. Bạn có thể dễ dàng tìm thấy số liệu thống kê này trên trang web nhưng những thứ (khô cứng) đó không dễ gì đi vào đầu bạn. Tôi có thể cưỡi trên chiếc Vespa đỏ của mình chạy vòng quanh thành phố bởi vì chưa có ai sống gần đó gặp tai nạn cả - mặc dù xét trên khía cạnh lôgic, tôi nhận thức được vấn đề này, nhưng cũng không thể làm gì để thay đổi nó.

Giờ đây, tôi không còn phản đối những người khuyến khích việc sử dụng lối văn trần thuật để gây chú ý. Quả thật, ý thức của chúng ta có thể liên quan đến khả năng dựng lên một câu chuyện nào đó về chính mình, vấn đề ở đây là: lối văn trần thuật có thể “gây chết người” nếu sử dụng không đúng chỗ.

NHỮNG LỐI ĐI TẮT
Không dừng lại ở lối viết trần thuật, tiếp sau đây, tôi sẽ thảo luận thêm nhiều thuộc tính của tư duy và suy luận ẩn đằng sau sự nông cạn què quặt của chúng ta. Những khuyết điểm trong suy luận này đã được phân loại và nghiên cứu theo phương pháp truyền thống được thực hiện bởi một trường phái mang tên Hiệp hội Đánh giá và Ra quyết định. (Đây là tổ chức học thuật và chuyên nghiệp duy nhất mà tôi tham dự và thật sự cảm thấy tự hào; những lần nhóm họp của hội không khiến tôi cảm thấy căng thẳng hay tức giận). Hiệp hội này có liên kết với trường phái nghiên cứu do Daniel Kahneman, Amos Tversky cùng các cộng sự như Robyn Dawes và Paul Slovic khởi xướng. Hầu hết những người tham gia hiệp hội đều là các nhà tâm lý học theo chủ nghĩa hoài nghi và các nhà khoa học về nhận thức - những người luôn tuân thủ chặt chẽ phương pháp luận của mình khi thực hiện các thí nghiệm (dưới dạng thí nghiệm vật lý) chính xác và có kiểm chứng trên con người, đồng thời ghi chép có phân loại các phản ứng của con người, với mức độ lý thuyết hóa thấp nhất. Họ tìm kiếm những thứ có tính quy củ. Lưu ý rằng các nhà tâm lý học thực nghiệm thường sử dụng đường cong hình chuông để phát hiện ra sai sót trong các phương pháp thử nghiệm của mình, nhưng, như chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn trong Chương 15, đây chính là một trong những ứng dụng phù hợp hiếm hoi của đường cong hình chuông trong ngành khoa học xã hội nhờ vào bản chất các thí nghiệm đặc thù của ngành này. Chúng ta đã gặp vài kiểu thí nghiệm như thế trong chương này, đoạn nói về lũ lụt ở California, và trong phần nghiên cứu thiên kiến chứng thực ở Chương 5. Các nhà nghiên cứu này đã sử dụng hình thức tư duy kép để mô tả các hoạt động của chúng ta và phân chúng thành hai hệ thống gồm “Hệ thống 1” và “Hệ thống 2”, hay dựa trên kinh nghiệm và dựa trên suy ngẫm. Sự khác biệt đã đó trở nên rõ ràng.

Hệ thống 1, hệ thống dựa trên kinh nghiệm, không đòi hỏi nhiều nỗ lực, tự động, nhanh chóng, không rõ ràng (nghĩa là chúng ta sử dụng nó một cách vô thức), được xử lý song song và có thể tự mắc lỗi. Nó là thứ mà chúng ta gọi là “trực giác”, và thực hiện những hoạt động này một cách nhanh chóng, thành thạo, được biết đến với tên gọi trong nháy mắt, “ăn theo” tựa cuốn sách thuộc hàng bán chạy nhất của Malcolm Gladwell. Hệ thống 1 rất cảm tính, chính xác bởi nó diễn ra nhanh chóng, hình thành những lối đi tắt gọi là “suy nghiệm” (phương pháp giải quyết vấn đề bằng cách đánh giá kinh nghiệm và tìm kiếm giải pháp qua thực nghiệm), cho phép chúng ta thực hiện các chức năng một cách nhanh chóng và hiệu quả Dan Goldstein gọi những phương pháp suy nghiệm này là “nhanh và ít tốn kém”. Còn người khác thích gọi nó là “nhanh và bẩn”. Giờ đây, những lối đi tắt này hiển nhiên là tốt, bởi diễn ra nhanh chóng, nhưng cũng có lúc, có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Ý tưởng cốt lõi này đã hình thành nên một trường phái nghiên cứu mang tên phương pháp suy nghiệm và thiên kiến (suy nghiệm tương ứng với việc nghiên cứu các lối đi tắt, còn thiên kiến tượng trưng cho sai lầm).

Hệ thống 2, hệ thống dựa trên suy ngẫm, cái chúng ta thường gọi là tư duy. Nó chính là những gì bạn sử dụng trong lớp học, đòi hỏi nhiều nỗ lực (ngay cả với người Pháp), chặt chẽ, chậm rãi, lôgic, theo trình tự, lũy tiến và tự nhận thức (bạn có thể tuân theo các bước này theo cách suy luận của mình). Nó không phạm nhiều lỗi như hệ thống dựa trên kinh nghiệm bởi vì bạn biết kết quả mình nhận được xuất phát từ đâu và có thể rà soát lại các bước để sửa chữa và tăng tính thích ứng.

Hầu hết sai lầm trong suy luận của chúng ta bắt nguồn từ việc nghĩ rằng mình đang sử dụng Hệ thống 2, trong khi trên thực tế lại đang theo Hệ thống 1. Vì sao lại thế? Do chúng ta phản ứng mà không suy nghĩ hay rà soát lại ý tưởng, cảm xúc; đặc tính quan trọng của Hệ thống 1 chính là chúng ta sử dụng nó mà không hề hay biết!

Hãy nhớ lại lỗi xoay vòng, hay xu hướng nhầm lẫn giữa “không có bằng chứng về sự tồn tại của Thiên Nga Đen” và “có bằng chứng là không có Thiên Nga Đen tồn tại”; điều này chứng tỏ rằng Hệ thống 1 đang hoạt động. Bạn phải nỗ lực (tức sử dụng Hệ thống 2) để gạt qua một bên phản ứng ban đầu. Rõ ràng, Mẹ Thiên Nhiên đã khiến bạn sử dụng Hệ thống 1 để nhanh chóng thoát khỏi khó khăn và bạn không thể ngồi yên để ngẫm nghĩ xem liệu thực sự có con hổ nào sắp tấn công mình không hay đó chỉ là ảo giác. Ngay lập tức, bạn sẽ bỏ chạy trước khi kịp “nhận thức” về sự hiện hữu của con hổ.

Người ta cho rằng cảm xúc chính là thứ vũ khí mà Hệ thống 1 đã sử dụng để điều khiển và buộc chúng ta phải hành động nhanh chóng. Nó điều khiển hành động né tránh rủi ro hiệu quả hơn hệ thống nhận thức của chúng ta rất nhiều. Thật vậy, các nhà sinh học thần kinh - những người nghiên cứu về hệ thống cảm xúc - đã chỉ ra mức độ phản ứng thường xuyên của hệ thống này trước sự hiện diện của nguy hiểm rất lâu trước khi chúng ta thực sự nhận thức về nguy cơ đó - chúng ta cảm thấy sợ hãi và bắt đầu phản ứng khoảng vài phần nghìn giây trước khi nhận ra mình đang đối diện với một con rắn.

Phần lớn các vấn đề xoay quanh bản chất con người bắt nguồn từ việc chúng ta không thể tận dụng Hệ thống 2 hoặc sử dụng nó liên tục không ngừng. Ngoài ra còn có một nguyên nhân nữa: chúng ta thường quên sử dụng nó.

Thận trọng với bộ não
Lưu ý rằng, các nhà sinh học thần kinh còn chỉ ra một khác biệt tương tự với sự khác biệt giữa Hệ thống 1 và Hệ thống 2 xét trên khía cạnh giải phẫu học. Khác biệt này thể hiện ở từng bộ phận của não bộ, phần vỏ não phục vụ quá trình tư duy, nó khiến chúng ta khác biệt với loài thú, còn não giữa (hay hệ limbic) là trung tâm cảm xúc, cái mà chúng ta cũng như các loài hữu nhũ khác đều có.

Là một người hoài nghi thực nghiệm, tôi không muốn trở thành con gà tây, vì thế không muốn chỉ tập trung vào các cơ quan đặc trưng của não bộ bởi ưu tiên của chúng ta không phải là quan sát các chức năng của nó. Một số người cố gắng xác định cái gọi là thể tương liên thần kinh của quá trình ra quyết định, hay quyết tâm hơn, còn muốn tìm kiếm “thể nền” thần kinh của trí nhớ chẳng hạn. Não bộ có thể là một cấu trúc phức tạp hơn chúng ta nghĩ; trong quá khứ, chúng ta vẫn thường mắc sai lầm khi nghiên cứu về cấu trúc giải phẫu học của nó. Tuy nhiên, chúng ta có thể ước đoán các quy luật thông qua các thí nghiệm chính xác và toàn diện về cách phản ứng của con người trong một số hoàn cảnh cụ thể, sau đó, lưu lại những gì mình nhìn thấy.

Để tìm ra một ví dụ có thể giải thích cho thái độ hoài nghi về niềm tin vô điều kiện đối với sinh học thần kinh, và xác minh sự tồn tại của những ý tưởng về trường phái y học kinh nghiệm chủ nghĩa Sextus, chúng ta hãy cùng phân tích trí thông minh của loài chim. Nhiều tài liệu khác nhau đều cho rằng vỏ não là nơi các loài động vật thực hiện chức năng “tư duy”, và rằng những sinh vật nào có vỏ não lớn nhất là thì thông minh nhất - loài người chúng ta có vỏ não lớn nhất, tiếp đến là các giám đốc ngân hàng, cá heo và những người họ hàng của chúng ta - loài vượn. À, hóa ra nhiều loài chim, như loài vẹt chẳng hạn, cũng có chỉ số thông minh cao tương đương với cá heo đây, tuy nhiên, trí thông minh của loài chim cũng tương ứng với kích cỡ của một bộ phận khác của não bộ có tên gọi là siêu thể vân (hyperstriatum). Do đó, sinh học thần kinh cùng với thuộc tính “khoa học tự nhiên, vật lý” của nó cũng có lúc đánh lừa bạn vào một phát ngôn rút gọn theo kiểu Plato. Tôi hết sức ngạc nhiên vì “những người kinh nghiệm chủ nghĩa”, vốn hoài nghi về mối liên hệ giữa giải phẫu và chức năng, lại có sự thấu hiểu như thế - thảo nào trường phái của họ chỉ chiếm một phần khiêm tốn trong lịch sử tri thức. Là một người hoài nghi thực nghiệm, tôi thích những thí nghiệm về tâm lý học dựa theo kinh nghiệm hơn phương pháp rọi cắt lớp MRI dựa vào các nguyên lý của những nhà sinh học thần kinh, dù rằng đối với công chúng, các thí nghiệm thứ nhất có vẻ không được “khoa học” cho lắm.

Làm cách nào để tránh lối liên tưởng ngụy biện
Tôi sẽ kết luận vấn đề như thế này: hiểu biết sai lệch của chúng ta về Thiên Nga Đen phần lớn xuất phát từ việc sử dụng Hệ thống 1, nghĩa là những bài tường thuật, những tin tức giật gân, cũng như những hành vi cảm xúc, đã khiến chúng ta có cái nhìn sai lệch về khả năng xảy ra của các biến cố. Trong khi ngày qua ngày, chúng ta không xem xét nội tâm ở mức đủ để nhận ra rằng hiểu biết của mình về những gì đang diễn ra ít hơn cái mà bản thân mình chắc chắn nhận được từ một quan sát công tâm về các trải nghiệm trong quá khứ. Chúng ta cũng có xu hướng quên đi khái niệm về Thiên Nga Đen ngay sau khi nó xảy ra - bởi nó quá trừu tượng - và thay vào đó, tập trung vào những biến cố xác định, sinh động và dễ dàng đi vào đầu hơn. Chúng ta thật sự lo lắng về các hiện tượng Thiên Nga Đen, nhưng lại lo không đúng chỗ.

Tôi sẽ đưa Mediocristan vào đây. Trong Mediocristan, lối viết trần thuật dường như phát huy tác dụng - quá khứ có thể sẽ nhượng bộ trước sự thẩm tra của chúng ta. Nhưng điều này không xảy ra trong Extremistan bởi đây là nơi không có sự lặp lại, là nơi mà bạn cần phải hoài nghi về quá khứ bí ẩn và né tránh thể văn trần thuật rõ ràng và dễ dãi.

Giả định rằng tôi có rất ít thông tin, thường xuyên cảm giác rằng mình đang sống trên một hành tinh khác với hành tinh của những người đồng trang lứa, điều này đôi lúc khiến mình cảm thấy vô cùng đau khổ. Giống như có một con virus điều khiển trí não của những người này khiến họ không thể nhìn thấy được những gì sắp diễn ra ở phía trước - một Thiên Nga Đen sắp xuất hiện.

Cách để tránh những rủi ro của lối liên tưởng ngụy biện này là ủng hộ hoạt động thí nghiệm hơn hình thức kể chuyện, kinh nghiệm hơn lịch sử, và kiến thức lâm sàng hơn lý thuyết. Rõ ràng, một tờ báo không thể thực hiện thí nghiệm nhưng có thể lựa chọn báo cáo này thay cho báo cáo kia - có nhiều nghiên cứu thực nghiệm cần trình bày và làm sáng tỏ - như những gì tôi đang làm trong cuốn sách này. Để hoạt động theo lối thực nghiệm không có nghĩa là bạn phải có hẳn một phòng thí nghiệm dưới tầng hầm nhà mình: chỉ cần một hệ tư tưởng ủng hộ một nhóm kiến thức nào đó hơn các nhóm khác. Tôi không cấm bản thân mình dùng từ nguyên nhân, nhưng những nguyên nhân mà tôi nhắc đến là những suy xét táo bạo (đã được sử dụng nhiều trong cuốn sách này) hoặc kết quả thực nghiệm chứ không phải những mẩu chuyện đơn thuần.

Một phương pháp khác là dự đoán và lưu lại một bản sao các dự đoán ấy. Sau cùng, có lẽ có một cách để áp dụng lối viết trần thuật - nhưng phải với mục đích tốt. Vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn; chúng ta có thể sử dụng khả năng của mình để thuyết phục mọi người bằng một câu chuyện chuyển tải đúng thông điệp - giống như cách những người kể chuyện thường làm.

Đến đây, chúng ta đã cùng bàn về hai cơ chế nội tại đằng sau sự mù tịt về Thiên Nga Đen, đó là thiên kiến chứng thực và liên tưởng ngụy biện. Chương tiếp theo sẽ đi sâu vào một cơ chế bên ngoài: lỗi trong cách tiếp nhận và diễn giải các biến cố được ghi lại, cũng như lỗi trong cách chúng ta hành động theo các biến cố này.

Thiên Nga Đen
Chương 7: Sống Trong Căn Phòng Chờ Hy Vọng

CÁCH TRÁNH BỘ TẢN NHIỆT ■ LỰA CHỌN EM VỢ ■ CUỐN SÁCH YÊU THÍCH CỦA YEVGENIA ■ NHỮNG GÌ SA MẠC CÓ THỂ VÀ KHÔNG THỂ TẠO RA ■ TRÊN HÀNH TRÌNH NÉ TRÁNH NIỀM HY VỌNG ■ SA MẠC CỦA NGƯỜI TARTAR ■ NHỮNG LỢI THẾ CỦA CHUYỂN ĐỘNG CHẬM

Giống như Yevgenia, giả sử hoạt động của bạn cũng phụ thuộc vào yếu tố bất ngờ mang tên Thiên Nga Đen - tức bạn là một con gà tây “lội ngược dòng”. Các hoạt động trí thức, khoa học và nghệ thuật đều thuộc phạm vi Extremistan, nơi có sự tập trung cao độ về thành công với một số ít người chiến thắng chia nhau phần lớn tài sản. Có vẻ như điều này cũng đúng với những hoạt động chuyên môn mà tôi cảm thấy “thú vị” và không nhàm chán (Tôi vẫn đang tìm kiếm một phản ví dụ đơn giản, tức một hoạt động không nhàm chán thuộc về Mediocristan).

Việc thừa nhận vai trò của mức độ tập trung thành công này và hành động theo sự thừa nhận đó sẽ khiến chúng ta bị trừng phạt hai lần: chúng ta sống trong một xã hội nơi sự tưởng thưởng được dựa trên ảo tưởng về những thứ có tính quy củ; hệ thống khen thưởng chịu tác động của hormon trong chúng ta cũng đòi hỏi những kết quả hữu hình và ổn định. Hệ thống này còn cho rằng thế giới này ổn định và hành xử “phải phép” - nghĩa là rơi vào lỗi chứng thực. Thế giới thay đổi nhanh đến mức cấu trúc gien của chúng ta không thể theo kịp. Chúng ta không được hoan nghênh trong chính môi trường của mình.

SỰ TÀN NHẪN CỦA NHỮNG KẺ ĐỒNG ĐẲNG
Mỗi sáng, bạn rời khỏi căn hộ chật hẹp ở khu East Village, thành phố Manhattan để đến phòng thí nghiệm tại trường Đại học Rockerfeller, khu East Sixties. Tối mịt bạn mới về, những người quen sẽ hỏi thăm về ngày làm việc của bạn, và chỉ hỏi theo cách xã giao thuần túy. Ở phòng thí nghiệm, mọi người cư xử khéo léo hơn. Dĩ nhiên, ngày hôm đó của bạn không suôn sẻ gì; bạn không phát hiện ra gì mới cả. Bạn không được như anh thợ sửa đồng hồ. Tuy nhiên, việc không phát hiện được gì lại rất có giá trị bởi nó là một phần của quá trình khám phá - tức bạn đã biết được không cần phí công nghiên cứu ở những chỗ nào. Khi biết được kết quả (nghiên cứu) của bạn, các nhà nghiên cứu khác sẽ tránh lặp lại những thí nghiệm đó, với điều kiện phải có một tờ báo đủ sâu sắc để đánh giá việc không phát hiện được gì chính là thông tin và cho đăng tải nó.

Trong khi đó, em vợ của bạn đang là nhân viên bán hàng cho một công ty ở Phố Wall và liên tục nhận được các khoản hoa hồng lớn - không chỉ lớn mà còn ổn định. Bạn sẽ nghe người ta nói “Nó đang ăn nên làm ra đấy”, đặc biệt là từ cha vợ của bạn, và sau đó là sự im lặng trầm ngâm trong một phần triệu giây, nhưng đủ để nhận ra rằng ông vừa thực hiện một phép so sánh. Dù không cố ý nhưng chuyện đã rồi.

Những ngày nghỉ có thể trở nên rất tồi tệ. Bạn chạm mặt đứa em vợ trong các buổi họp mặt gia đình và, lúc nào cũng vậy, nhận ra những dấu hiệu thất vọng không thể lẫn vào đâu được từ phía vợ mình, mà nói một cách ngắn gọn, cô ấy đang lo sợ không biết có cưới nhầm một gã vô tích sự không, trước khi nhớ ra các nguyên tắc lôgic trong nghề nghiệp của bạn. Tuy nhiên, cô ấy vẫn phải đấu tranh với cơn bốc đồng của mình. Cô em dâu thì không thôi nói về những thứ cần mua sắm hay loại giấy dán tường mới. Suốt đoạn đường về nhà, vợ bạn hơi im lặng so với thường ngày. Sự hờn dỗi của cô ấy sẽ trầm trọng hơn đôi chút nếu bạn đang lái một chiếc xe thuê và không thể xây nổi một cái ga-ra ở Manhattan. Bạn nên làm gì bây giờ? Chuyển đến Úc sống và nhờ đó ít phải họp mặt gia đình, hoặc thay đổi đứa em vợ bằng cách cưới một cô nào khác có em trai ít “thành công” hơn.

Liệu bạn có nên ăn mặc như một tên hippie và tỏ ra thách thức? Điều này có vẻ hợp với giới nghệ sĩ nhưng lại chẳng dễ dàng gì với một nhà khoa học hay một doanh nhân. Bạn không còn lối thoát.

Bạn đang thực hiện một dự án mà không mang lại kết quả tức thì hay ổn định; trong khi đó, những người xung quanh mình lại đang thực hiện những dự án có thể cho ra kết quả ngay. Bạn đang gặp rắc rối. Đó chính là số phận của những nhà khoa học, nghệ sĩ và nhà nghiên cứu chấp nhận đi lạc trong xã hội hơn phải sống trong một cộng đồng bị cách ly hay một nhóm nghệ sĩ.

Những kết quả phập phù tích cực - mà theo đó, chúng ta hoặc sẽ chiến thắng vẻ vang, hoặc sẽ chẳng có gì, thường xuất hiện trong nhiều ngành nghề vốn được xem như một sứ mệnh đối với những ai đầu tư vào nó, chẳng hạn như việc theo đuổi phương pháp chữa trị ung thư (trong một phòng thí nghiệm hôi hám), viết một cuốn sách có khả năng thay đổi quan điểm của mọi người về thế giới (trong khi vẫn sống chật vật qua ngày), sáng tác nhạc, hay vẽ các biểu tượng thu nhỏ lên thân xe điện ngầm và xem nó là một loại hình nghệ thuật cao cấp bất chấp những lời chỉ trích không ngớt của Harold Bloom - một “học giả” theo trường phái cổ điển.

Nếu là một nhà nghiên cứu, bạn cần phải đăng tải những bài viết tầm phào lên các ấn phẩm “uy tín” để thỉnh thoảng được người khác chào hỏi trong các buổi hội thảo.

Nếu điều hành một tập đoàn đại chúng, mọi thứ đều tuyệt vời trước khi có sự góp mặt của các cổ đông bởi khi đó, bạn cùng các thành viên hùn vốn khác là những người đồng sở hữu duy nhất của công ty, bên cạnh đó còn có các nhà đầu tư mạo hiểm khôn ngoan, những người hiểu thấu được các kết quả thất thường cũng như bản chất hay thay đổi của đời sống kinh tế. Nhưng giờ đây, bạn để cho một chuyên viên phân tích chứng khoán chậm tiêu với tuổi đời khoảng chừng ba mươi làm việc tại trung tâm Manhattan “đánh giá” kết quả hoạt động và tìm hiểu quá nhiều về chúng. Anh ta thích được khen thưởng thường xuyên và việc cuối cùng bạn có thể làm là thường xuyên khen thưởng.

Nhiều người gắng sức làm việc với cảm giác rằng mình đang làm một điều gì đó đúng đắn nhưng lại không thể trưng ra được kết quả bền vững về lâu dài. Họ cần phải có khả năng trì hoãn sự hài lòng của bản thân để có thể tồn tại trước sự tàn nhẫn diễn ra như “cơm bữa” của những người đồng đẳng mà vẫn giữ cho đạo đức của mình không bị suy đồi. Họ trông như những tên ngốc trong mắt những người anh em của mình, trong mắt những người đồng đẳng, và cần được khích lệ để tiến lên. Không ai thừa nhận, không ai công nhận, không học trò nào theo nịnh hót họ, cũng không hề có giải Nobel hay “Lobel” nào dành cho họ. Câu hỏi “Năm vừa qua của anh như thế nào?” khiến họ đau nhói tận đáy lòng bởi dường như trong mắt người khác, phần lớn cuộc đời họ trôi qua trong vô nghĩa. Rồi bỗng đâu một sự kiện bất thường xuất hiện mang đến cho họ danh hiệu cao quý, hoặc sẽ không bao giờ có chuyện đó xảy ra.

Hãy tin tôi, rất khó giải quyết những hậu quả mang tính xã hội khi thất bại cứ liên tục xuất hiện. Chúng ta là những động vật mang tính xã hội; còn những người khác mới chính là địa ngục (hell is other people - đây là một dòng trong vở kịch của Jean-Paul Sartre, Huis Clos (Không lối thoát). Trong vở kịch này, một số nhân vật ngồi trong phòng đợi ngay lối vào địa ngục. Các nhân vật nghĩ rằng họ đang chờ đến lượt mình bước vào cửa địa ngục và sẽ bị hành hạ. Nhưng thông qua cuộc đối thoại, các nhân vật bắt đầu dằn vặt lẫn nhau và điều này mang ý nghĩa là chúng ta có thể khiến cho người khác đau khổ (đơn giản bằng các thói quen của họ) và với những nỗi khổ đó thì người ta chẳng cần đến địa ngục nào nữa cả - ND).

Khi những thứ có liên quan chính là những thứ “giật gân”
Trực giác của chúng ta không sẵn sàng cho những hiện tượng phi tuyến tính. Hãy xem xét cuộc sống của mình trong môi trường sơ khai, nơi quy trình và kết quả gắn kết chặt chẽ với nhau. Bạn khát nước; chỉ cần uống nước là đủ để giải tỏa cơn khát. Hay thậm chí trong một môi trường không quá nguyên sơ, khi tham gia xây dựng một cây cầu hay một ngôi nhà bằng đá chẳng hạn, bạn làm càng nhiều thì thành quả càng mau hiện hữu, vì thế, tinh thần của bạn được khích lệ nhờ vào sự phản hồi rõ ràng và liên tục đó.

Trong môi trường sơ khai, những thứ có liên quan chính là những thứ “giật gân”. Điều này cũng đúng với kiến thức của chúng ta. Khi cố gắng thu thập thông tin về thế giới xung quanh, chúng ta thường bị hệ thống sinh học của chính mình dẫn dắt, và dễ dàng hướng sự chú ý đến những gì gây ra cảm xúc mạnh mẽ - chứ không phải những gì có liên quan. Bằng cách nào đó, hệ thống dẫn dắt đó lại bị hỏng trong quá trình tiến hóa cùng với môi trường sống - nó được mang đi gieo trồng vào một thế giới mà ở đó, những thứ liên quan thường nhàm chán và không tạo ra cảm xúc đặc biệt nào.

Hơn nữa, chúng ta cho rằng nếu hai biến số có thể liên kết với nhau theo mối quan hệ nhân quả thì đầu vào ổn định của một biến số luôn tạo ra kết quả trong biến số còn lại. Bộ máy cảm xúc của chúng ta được thiết kế dành cho thuyết nhân quả đơn tính (linear causality). Ví dụ, nếu học tập mỗi ngày, bạn hy vọng mình sẽ đạt được nhiều thành quả tương xứng với công sức. Nếu cảm thấy rằng mình sẽ chẳng đi đến đâu, bạn sẽ trở nên thoái chí. Tuy nhiên, thực tiễn trong xã hội hiện đại này hiếm khi nào tạo cơ hội để chúng ta phát triển tích cực, dưới dạng tuyến tính và đáng hài lòng: có thể bạn mất hàng năm trời nghĩ về một vấn đề nào đó và rốt cuộc chẳng học được gì cả; nhưng sau đó, nếu không nản lòng và bỏ cuộc thì trong chớp mắt, một điều gì đó sẽ đến với bạn.

Các nhà nghiên cứu đã dành thời gian để tìm hiểu về khái niệm hài lòng này; môn thần kinh học đã giúp chúng ta hiểu về sự căng thẳng xảy ra giữa những ý niệm về phần thưởng tức thì và phần thưởng bị trì hoãn. Bạn sẽ chọn đi mát-xa hôm nay hay hai tuần nữa? Có nguồn tin cho rằng phần não bộ đảm trách chức năng lôgic - tức phần “cao cấp hơn” phân biệt chúng ta với các động vật khác - có thể lấn át “phần con” vốn lúc nào cũng đòi hỏi phần thưởng tức thì. Rốt cuộc, chúng ta vẫn khá hơn loài thú nhưng có lẽ không nhiều. Và không phải lúc nào cũng thế.

Các đặc điểm phi tuyến tính
Tình hình có thể bi thảm hơn - thế giới mang nhiều đặc điểm phi tuyến tính hơn chúng ta nghĩ, và hơn những gì các nhà khoa học muốn nghĩ.

Với các đặc điểm tuyến tính, mối quan hệ giữa các biến số là rõ ràng, chính xác và liên tục, do đó, theo trường phái Plato, chúng ta có thể dễ dàng nắm bắt được vấn đề chỉ với một câu đơn giản, chẳng hạn như “Khi tiền gửi ngân hàng của bạn tăng thêm 10%, lãi suất sẽ tăng 10% và sự khúm núm của chủ nhà băng cũng tăng thêm 5%”. Càng gửi nhiều tiền vào ngân hàng, bạn càng hưởng nhiều lãi. Nhưng điều này có thể không đúng đối với các mối quan hệ phi tuyến tính; có lẽ “không lời nào có thể diễn đạt thỏa đáng” chính là cách tốt nhất để mô tả chúng. Hãy xem xét mối quan hệ giữa sự khoan khoái và hành động uống nước. Nếu bạn đang rất khát nước thì một chai nước sẽ khiến bạn hạnh phúc hơn rất nhiều. Càng nhiều nước đồng nghĩa với càng khoan khoái. Nhưng nếu như tôi cho bạn cả một bể nước thì sao? Dễ thấy rằng trạng thái hạnh phúc đó nhanh chóng giảm đi khi lượng nước tăng dần. Và trên thực tế, nếu được chọn giữa một chai nước và một bể nước, bạn sẽ lấy chai nước - do đó, sự khoan khoái giảm khi lượng tăng thêm.

Các mối quan hệ phi tuyến này xuất hiện khắp nơi trong cuộc sống của chúng ta. Thật ra, các mối quan hệ tuyến tính mới là ngoại lệ chúng ta chỉ đề cập đến chúng trong lớp học và sách giáo khoa bởi chúng dễ hiểu. Trưa hôm qua, tôi cố gắng nhìn thế giới xung quanh bằng một cái nhìn thật tươi mới để tìm xem có sự kiện tuyến tính nào diễn ra trong ngày. Tôi không tìm thấy được gì, không khá hơn là bao so với những người vào rừng mưa nhiệt đới để tìm các dạng khối hình vuông hay hình tam giác, hoặc, như chúng ta sẽ thấy trong Phần 3, không hơn gì ai đó đang tìm kiếm sự ngẫu nhiên hình chuông trong các hiện tượng kinh tế xã hội.

Bạn chơi tennis mỗi ngày nhưng chẳng có tiến bộ gì, rồi đột nhiên, bạn bắt đầu hạ gục những tay chuyên nghiệp.

Con trai bạn dường như không có khó khăn gì trong việc học, nhưng có vẻ cậu bé không muốn nói chuyện. Hiệu trưởng thúc ép bạn phải cân nhắc “những khả năng khác”, tức các phương pháp trị liệu. Bạn tranh luận với bà ta nhưng không mang lại kết quả gì (có vẻ bà ta là một “chuyên gia”). Rồi đột nhiên, đứa trẻ bắt đầu nói những câu phức tạp, có lẽ hơi quá phức tạp so với tuổi của nó. Tôi xin nhắc lại rằng sự phát triển theo tuyến tính - một ý tưởng thuộc trường phái Plato - không phải là một chuẩn tắc.

Quá trình so với kết quả
Chúng ta thường thiên vị những gì “giật gân” và cực kỳ rõ ràng. Điều này ảnh hưởng đến cách chúng ta đánh giá các vị anh hùng. Hầu như ý thức của chúng ta không còn nhiều khoảng trống dành cho những vị anh hùng nào không tạo ra kết quả hữu hình - hay những người chỉ tập trung vào quy trình chứ không vào kết quả

Tuy nhiên, những người - dĩ nhiên vẫn thuộc xã hội loài người - luôn quả quyết rằng mình đánh giá cao quy trình hơn kết quả đều đang che giấu một phần sự thật. Người ta thường nói theo kiểu nửa đùa nửa thật rằng nhà văn không sáng tác vì danh tiếng, nghệ sĩ sáng tạo vì nghệ thuật, bởi vì “bản thân hoạt động đó chính là phần thưởng dành cho họ rồi”. Đúng vậy, những hoạt động này có thể thường xuyên mang đến cảm giác tự hài lòng. Nhưng điều này không có nghĩa là những người làm nghệ thuật không bao giờ mong muốn được chú ý, hay sẽ không kiếm được tiền nếu được công chúng yêu mến; và cũng không có nghĩa là những người cầm bút sẽ không thức dậy sớm vào sáng thứ Bảy để kiểm tra xem có tên tác phẩm của mình trong mục Giới thiệu sách của tờ New York Times hay không, hoặc sẽ không thường xuyên kiểm tra hòm thư để mong nhận được lá thư phúc đáp của New York Times mà mình trông chờ bấy lâu nay. Thậm chí một nhà triết học có tầm cỡ của trường phái Hume phải ốm liệt giường mấy tuần liền khi tuyệt tác của mình (mà sau này được biết đến như một công trình nghiên cứu về bài toán Thiên Nga Đen) bị một nhà phê bình nông cạn nào đó xem như rác rưởi - dù ông biết rằng người ấy đã sai và chắc hẳn không hiểu hết được những ý tưởng cốt lõi của mình.

Nhưng đau khổ nhất là khi bạn phải chứng kiến một trong số những người đồng đẳng với mình, người mà mình coi thường, đang trên đường đến Stockhom để nhận giải Nobel.

Hầu hết những ai theo đuổi những mục tiêu mà tôi gọi là “trước sau như một” đều dành phần lớn thời gian của mình để chờ đợi một ngày trọng đại mà (thường) sẽ không bao giờ đến.

Đúng vậy, điều này khiến bạn không còn quan tâm đến những chi tiết vụn vặt của cuộc sống nữa - cappuccino quá nóng hay quá nguội, người phục vụ quá chậm chạp hay quá nhiệt tình, thức ăn quá nhiều hay quá ít gia vị, căn phòng khách sạn bị tính giá quá cao và khác xa với hình ảnh quảng cáo về nó - những mối bận tâm như thế sẽ biến mất bởi tâm trí bạn giờ đây đang dành cho những việc trọng đại và tốt đẹp hơn nhiều. Nhưng điều này không có nghĩa là một người cách ly khỏi những mưu cầu vật chất sẽ được “miễn nhiễm” trước các nỗi đau khác, như không được tôn trọng chẳng hạn. Những kẻ săn Thiên Nga Đen này thường cảm thấy hổ thẹn hay bị làm cho cảm thấy hổ thẹn vì không đóng góp được gì. Việc người ta nói rằng “Anh đã phụ lòng những người đã đặt rất nhiều kỳ vọng vào anh” còn làm tăng thêm cảm giác tội lỗi trong họ. Cái giá mà họ phải trả không phải nằm ở khía cạnh tiền bạc mà ở tôn ty xã hội, sự mất phẩm giá, sự bẽ mặt.

Tôi tha thiết hy vọng một ngày nào đó được chứng kiến khoa học và những người có vai trò ra quyết định sẽ khám phá lại những hiểu biết của người xưa, cụ thể là đồng tiền có giá trị cao nhất của chúng ta chính là sự tôn trọng.

Thậm chí xét về mặt kinh tế, những cá nhân đi săn Thiên Nga Đen không phải là người kiếm được nhiều tiền. Nhà nghiên cứu Thomas Astebro đã chứng minh rằng lợi nhuận thu được từ các phát hiện thành công thấp hơn rất nhiều so với những gì bạn nhận được qua hoạt động đầu tư tài chính. Sự mù tịt về khả năng xảy ra của Thiên Nga Đen hay nỗi ám ảnh về Thiên Nga Đen tích cực của riêng mình là yếu tố cần thiết để các chủ doanh nghiệp hoạt động. Nhà đầu tư mạo hiểm là những người có tiền. Kinh tế gia William Baumol cho rằng đây là hành động “hơi điên rồ”. Quả thật, điều này có thể áp dụng trong tất cả các ngành nghề kinh doanh tập trung: khi nhìn vào hồ sơ lưu trữ, bạn sẽ không chỉ thấy các nhà đầu tư mạo hiểm thành công hơn chủ doanh nghiệp, mà còn chứng kiến việc các nhà xuất bản kiếm lợi nhiều hơn nhà văn, nhà buôn làm ăn tốt hơn nghệ sĩ, và khoa học làm tốt hơn các nhà khoa học (gần 50% công trình nghiên cứu khoa học và học thuật tiêu tốn công sức hàng tháng, có khi hàng năm chưa bao giờ được người ta đọc hết). Những người tham gia vào trò chơi may rủi này được trả công bằng một thứ khác xa với thành công về vật chất: đó là hy vọng.

Bản chất con người, Hạnh phúc và Những phần thưởng
Cho phép tôi được chắt lọc ý chính đằng sau những gì mà các nhà nghiên cứu gọi là niềm hạnh phúc khoái lạc (hedonic happiness).

Việc kiếm được 1 triệu đô-la trong một năm trong khi chẳng có lấy một xu trong suốt chín năm trước đó sẽ không làm bạn vui sướng bằng việc đem tổng số tiền ấy chia đều cho mười năm, tức 100.000 đô-la/năm. Điều này cũng được áp dụng theo chiều ngược lại - năm đầu rất khấm khá nhưng lại chẳng kiếm được xu nào trong chín năm còn lại. Bằng cách nào đó, hệ thống thỏa mãn của bạn nhanh chóng bị bão hòa và không tạo được trạng thái cân bằng cảm xúc. Trên thực tế, niềm hạnh phúc của bạn phụ thuộc rất nhiều vào số lượng cảm xúc tích cực - những thứ mà các nhà tâm lý học gọi là “ảnh hưởng tích cực”- hơn so với cường độ của chúng. Hay nói cách khác, tin tốt thì trước hết phải là tin tốt đã, còn tốt như thế nào không quan trọng lắm. Vì thế, để có một cuộc sống vui vẻ, bạn nên duy trì “những ảnh hưởng” nho nhỏ này càng đều đặn càng tốt. Nhiều tin tốt lành đến một cách nhẹ nhàng vẫn tốt hơn một tin cực kỳ tuyệt vời đến bất chợt.

Thật buồn là sự việc thậm chí còn tồi tệ hơn nếu bạn kiếm được 10 triệu đô-la, nhưng sau đó mất đi đến chín triệu, như thế thì không có xu nào vẫn hơn! Đứng vậy, có thể sau cùng bạn vẫn còn 1 triệu đô-la (so với không còn gì) nhưng tốt hơn hết là không còn xu nào cả. (Dĩ nhiên, giả sử rằng bạn quan tâm đến các phần thưởng tài chính).

Do đó, từ một quan điểm hẹp về kế toán, cái mà tôi gọi là “phép đánh giá về các lựa chọn thay thế khả thi liên quan đến sự hưởng thụ sẽ đạt được và sự đau khổ sẽ bị loại bỏ” (hedonic calculus), nỗ lực cho một chiến thắng huy hoàng sẽ không mang đến cho bạn phần thưởng nào cả. Mẹ Thiên Nhiên đã ban cho chúng ta cơ hội được tìm thấy niềm vui từ một chuỗi phần thưởng nhỏ nhưng thường xuyên và dễ chịu. Như tôi đã nói, phần thưởng không nhất thiết phải lớn, chỉ cần thường xuyên thôi - đây một chút, kia một chút và thế là đủ. Hãy nghĩ xem, hàng nghìn năm nay, thức ăn và nước uống là hai yếu tố quan trọng nhất khiến chúng ta thỏa mãn (dĩ nhiên còn một vài thứ khác riêng tư hơn), và dù luôn cần những thứ ấy nhưng chúng ta cũng nhanh chóng đạt đến trạng thái bão hòa.

Rõ ràng, vấn đề chính là chúng ta đang sống trong một môi trường, nơi mà kết quả không bao giờ xuất hiện một cách ổn định - những hiện tượng Thiên Nga Đen đã chiếm lĩnh gần hết lịch sử loài người. Thật đáng tiếc, chiến lược đúng đắn cho môi trường hiện tại của chúng ta có thể không tạo ra phần thưởng nội tại và phản hồi tích cực.

Khi áp dụng theo hướng ngược lại, đặc điểm ấy cũng đúng với tâm trạng đau khổ của con người. Thà nếm trải mọi đau khổ trong một khoảng thời gian ngắn còn hơn kéo dài dai dẳng tình trạng khó chịu này.

Tuy nhiên, một số người có thể vượt qua sự mất cân xứng giữa hạnh phúc và khổ đau, thoát khỏi sự suy giảm hưởng thụ (hedonic deficit), đặt mình đứng ngoài cuộc chơi - và sống trong hy vọng, vẫn còn tin tốt lành, như chúng ta sẽ thấy sau đây.

Căn phòng chờ hy vọng
Đối với Yevgenia Krasnova, một người có thể yêu mến một cuốn sách, nhiều nhất là một vài cuốn - còn sau đó là một dạng cẩu thả. Những ai nói về sách như nói về một món hàng đều “đeo mặt nạ” cả, cũng giống như những ai thích sưu tập các mối quan hệ có thể rất hời hợt trong quan hệ bạn bè. Cuốn tiểu thuyết mà bạn thích cũng giống như một người bạn. Bạn đọc đi đọc lại và ngày càng thấu hiểu nó hơn. Giống như một người bạn, bạn chấp nhận cuốn sách theo cách nó vốn có và không đưa ra bất kỳ phán xét nào. Nhiều người hỏi Montaigne rằng “vì sao” ông và nhà văn Etienne de la Boétie là bạn của nhau - một dạng câu hỏi người ta thường hỏi trong các buổi tiệc cocktail như thể bạn biết được câu trả lời, hoặc như thể có lời giải cho câu hỏi ấy. Và câu trả lời điển hình của Montaigne là “Bởi chính anh ta và bởi chính tôi”. Tương tự, Yevgenia khẳng định rằng cô thích cuốn sách độc nhất ấy “bởi vì nó là nó còn tôi là tôi”. Có lần, Yevgenia không thèm nhìn mặt giáo viên của mình bởi ông ta đã “mổ xẻ” cuốn sách ấy và do đó, vi phạm nguyên tắc của cô. Chúng ta không thể ngồi yên nghe người khác bình phẩm về bạn bè của mình được. Yevgenia đúng là một học sinh bướng bỉnh.

Cuốn sách mà cô xem như tri kỷ là Il deserto dei tartari của Dino Buzzari, một cuốn sách rất nổi tiếng ở Ý và Pháp thời cô còn bé nhưng thật lạ lùng, không ai trong số những người cô quen ở Mỹ từng nghe nói đến cuốn sách này. Tựa tiếng Anh của cuối sách bị dịch sai thành The Tartar Steppe (Thảo nguyên Tartar) thay vì là The Desert of The Tartars (Sa mạc của người Tartar).

Yevgenia “gặp” Il deserto lần đầu tiên vào năm mười ba tuổi tại ngôi nhà nghỉ mát của bố mẹ mình ở một ngôi làng nhỏ cách thủ đô Paris hai trăm cây số, nơi mà số lượng sách tiếng Nga và tiếng Pháp cứ tăng lên không ngớt mặc cho gánh nặng cơm áo đang đè nặng lên gia đình đông miệng ăn này. Cô chán ngấy cảnh nông thôn đến mức chẳng buồn đọc. Rồi một trưa nọ, cô bé mở cuốn sách ra và bị hút ngay vào đó.

Chìm đắm trong hy vọng
Giovanni Drogo là một người đầy triển vọng. Anh vừa tốt nghiệp học viện quân sự với hàm thiếu úy, và một cuộc sống năng động mới chỉ bắt đầu. Nhưng “người tính không bằng trời tính”: bốn năm đầu tiên, anh bị phân về một tiền đồn hẻo lánh, pháo đài Bastiani, để bảo vệ tổ quốc trước sự tấn công của người Tartar ở vùng sa mạc biên giới - một công việc không hề mong muốn. Pháo đài nằm cách thị trấn gần nhất vài ngày đi ngựa; xung quanh chẳng có gì ngoài sự hoang sơ - chẳng có không khí ồn ào náo nhiệt mà một người trẻ tuổi như anh đang mong chờ. Drogo nghĩ rằng nhiệm vụ của mình tại tiền đồn này chỉ là tạm thời, và là cách để anh hoàn thành nghĩa vụ trước khi những công việc hấp dẫn hơn xuất hiện. Sau này, khi trở lại thị trấn, với bộ quân phục được ủi thẳng nếp kèm theo vóc dáng chuẩn của một vận động viên, ít có người phụ nữ nào cưỡng lại được sức hút của anh.

Drogo làm gì ở cái “hốc” đó? Anh phát hiện ra một kẽ hở, một cách để được thuyên chuyển trong vòng bốn tháng. Và anh quyết tâm tận dụng nó.

Tuy nhiên, vào thời khắc cuối cùng, Drogo nhìn về sa mạc qua cửa sổ phòng quân y và quyết định tiếp tục ở lại. Có điều gì đó bên trong bức tường của pháo đài và khung cảnh tĩnh mịch nơi đây đã níu chân anh. Sự quyến rũ của pháo dài và sự đón chờ những kẻ tấn công, một trận đánh lớn chống người Tartar hung tợn dần dần trở thành lẽ sống của anh. Cả pháo đài đều mang không khí phòng thủ. Những người lính nhìn về phía chân trời và đón chờ một cuộc tấn công của kẻ thù. Cũng có lúc vì quá tập trung mà họ nhầm lẫn một con thú đi lạc xuất hiện ở rìa xa mạc là kẻ thù.

Rõ ràng, Drogo tiếp tục dành phần đời còn lại của mình cho cuộc sống nơi đây mà bỏ lỡ kế hoạch khởi đầu một cuộc sống mới nơi thành thị - ba mươi lăm năm nuôi hy vọng, ngần ấy thời gian bị giam cầm trong ý nghĩ rằng một ngày nào đó, từ những ngọn đồi xa xôi chưa ai từng vượt qua ngoài kia, những kẻ tấn công cũng sẽ xuất hiện và giúp anh ta thăng tiến.

Ở phần cuối truyện, chúng ta thấy Drogo hấp hối trong một căn nhà trọ ven đường, còn sự kiện mà anh trông đợi cả đời lại đang diễn ra. Anh đã bỏ lỡ mất cơ hội đó.

Cái bẫy ngọt ngào của hy vọng
Yevgenia đã đọc Il deserto rất nhiều lần, thậm chí còn học cả tiếng Ý (và lấy chồng Ý nữa), vì thế, còn đọc được cả nguyên tác của nó. Tuy nhiên, cô không bao giờ đủ can đảm để đọc lại đoạn kết thương tâm ấy.

Tôi đã trình bày về Thiên Nga Đen như một yếu tố ngoại lai, một biến cố quan trọng mà người ta không nghĩ rằng nó có thể xảy ra. Tuy nhiên, hãy cân nhắc trường hợp ngược lại: một sự kiện bất ngờ mà bạn vô cùng muốn nó xảy ra. Drogo bị ám ảnh và mù quáng trước một biến cố không chắc sẽ xảy ra; và sự xuất hiện hiếm hoi đó lại là lẽ sống của anh. Ở tuổi mười ba, khi tiếp xúc với cuốn sách này, cô bé Yevgenia biết rằng mình sẽ dành cả cuộc đời để tái hiện hình ảnh của Giovanni Drogo trong căn phòng chờ hy vọng, trông đợi một sự kiện trọng đại nào đó, hy sinh cho nó và từ chối những bước đi trước mắt, những phần thưởng an ủi.

Cô không quan tâm đến cái bẫy ngọt ngào của hy vọng: với cô, nó đáng để theo đuổi suốt đời; đáng để sống một cuộc sống đơn giản với một mục đích giản đơn. Quả thực, “hãy thận trọng với ước muốn của mình”: có lẽ khoảng thời gian trước khi có được thành công từ biến cố Thiên Nga Đen là thời điểm cô hạnh phúc hơn cả.

Một trong những thuộc tính của Thiên Nga Đen chính là sự bất cân xứng của hậu quả - dù tích cực hay tiêu cực. Đối với Drogo, hậu quả chính là ba mươi lăm năm chờ đợi trong căn phòng chờ hy vọng chỉ để có được vài giờ ngẫu nhiên sống trong vinh quang - nhưng rốt cuộc lại bỏ lỡ mất điều đó.

Khi bạn cần đến pháo đài Bastiani
Lưu ý rằng trong các mối quan hệ xã hội của mình, Drogo không có người em vợ nào cả. Anh ta may mắn có nhiều tri kỷ cùng chung sứ mệnh như mình. Anh là thành viên của một cộng đồng ở cửa ngõ sa mạc cùng nhau hướng về phía chân trời. Drogo có lợi thế là sự kết giao với đồng đội và tránh xa các mối quan hệ với những người bên ngoài. Chúng ta là những động vật có tính cục bộ, chỉ quan tâm đến các vùng lân cận và mặc cho những người ở nơi xa xôi nào đấy xem chúng ta là một lũ ngốc. Những người thông thái kia thật quá trừu tượng và xa xôi và chúng ta không thèm để ý đến họ bởi sẽ không phải giao tiếp bằng ánh mắt hay tình cờ gặp nhau trong thang máy. Đôi khi, sự hời hợt cũng trở nên hữu ích.

Có vẻ tầm thường khi nói rằng chúng ta cần nhiều thứ ở người khác, nhưng thực ra chúng ta cần ở họ nhiều hơn ta tưởng, đặc biệt là phẩm cách và sự tôn trọng. Quả thật, lịch sử đã chứng minh ít có ai đạt được những thành tựu phi thường mà không có sự công nhận của bạn bè, đồng nghiệp - nhưng chúng ta lại có thể tự do chọn lựa bạn bè đồng lứa. Nếu nhìn lại các tư tưởng trước đây, chúng ta sẽ thấy rất nhiều trường phái tư tưởng thỉnh thoảng cũng hình thành, sản sinh ra các tác phẩm khác thường và ít được các trường phái khác biết đến. Bạn sẽ nghe nói về những người theo trường phái Stoics, trường phái hoài nghi học thuật, trường phái Cynics, trường phái hoài nghi Pyrrhon, trường phái Essene, trường phái siêu thực, trường phái Dadaist, chủ nghĩa vô chính phủ, trào lưu Hippie, trào lưu chính thống. Trường phái nào cũng cho phép những người có ý tưởng khác thường nhưng ít có khả năng thành công tìm kiếm bạn đồng hành và tạo ra một thế giới thu nhỏ tách khỏi những người khác. Tất cả thành viên trong nhóm đó có thể đồng loạt bị khai trừ - như thế vẫn tốt hơn bị khai trừ một mình.

Nếu tham gia vào một hoạt động phụ thuộc vào Thiên Nga Đen, tốt hơn hết bạn nên là thành viên của một nhóm.

SA MẠC CỦA NGƯỜI TARTAR
Yevgenia gặp Nero Tulip tại sảnh khách sạn Danieli ở Venice. Anh ta là một tay buôn chứng khoán thường xuyên bay đi bay về giữa Luân Đôn và New York. Thời đó, khi thị trường vào mùa thấp điểm, các nhà đầu tư chứng khoán Luân Đôn thường đến Venice mỗi trưa thứ Sáu chỉ để trò chuyện cùng các nhà đầu tư khác (cũng đến từ Luân Đôn).

Khi nhanh chóng bị hút vào câu chuyện của Nero, Yevgenia nhận thấy chồng mình đang nhìn hai người một cách khó chịu từ quầy bar nơi anh ta đang ngồi, cố gắng tập trung lắng nghe những lời nhận định mang tính giáo điều từ một trong những người bạn thời niên thiếu của mình. Yevgenia nhận ra rằng cô sắp sửa hiểu thêm một chút về Nero.

Họ gặp lại nhau tại New York, đầu tiên còn bí mật. Chồng cô, một giáo sư triết học, vốn có nhiều thời gian nên bắt đầu theo dõi thời gian biểu của cô và theo sát cô như hình với bóng. Anh ta càng theo sát chừng nào thì Yevgenia càng cảm thấy ngột ngạt chừng đó và điều này lại càng khiến anh ta bám chặt hơn nữa. Cô “đá” anh chồng, gọi cho luật sư của mình, người mà lúc đó đang mong tin từ cô, và qua lại với Nero công khai hơn.

Nero đi đứng khó nhọc vì mới hồi phục sau vụ tại nạn trực thăng - anh ta trở nên có phần quá ngạo mạn sau nhiều thành công và bắt đầu thách thức những nguy hiểm liên quan đến cơ thể mà không suy tính, mặc dù vậy, về khía cạnh tài chính, anh ta vẫn siêu thận trọng và thậm chí có phần hoang tưởng. Anh ta phải mất nhiều tháng nằm bất động trong một bệnh viện ở Luân Đôn, gần như không thể đọc hay viết, cố gắng làm gì đó để không phải xem tivi, chọc ghẹo y tá và chờ cho xương của mình lành lại. Anh ta có thể dùng trí nhớ để vẽ lại cái trần nhà với đủ 14 vết nứt trên đó cũng như tòa nhà màu trắng cũ kỹ bên kia đường với 63 khung cửa sổ đều đang trong trạng thái cần được lau chùi kỹ lưỡng.

Khi hai người ngồi uống nước, Nero khẳng định rằng anh ta có thể sử dụng tiếng Ý thông thạo nên Yevgenia đưa anh ta xem cuốn Il deserto. Nero không đọc tiểu thuyết - anh ta từng tuyên bố “Viết tiểu thuyết thú vị hơn đọc”. Vì vậy, cuốn tiểu thuyết vẫn nằm ở góc giường của anh.

Trong một chừng mực nào đó, Nero và Yevgenia hệt như ngày và đêm. Yevgenia thức cả đêm làm việc với bản thảo và đi ngủ lúc bình minh. Còn Nero, giống như nhiều nhà đầu tư khác, thức dậy vào sớm tinh mơ, thậm chí cả cuối tuần, sau đó, dành một giờ đồng hồ cho tác phẩm của mình, Treatise on Probability (Chuyên luận về Xác suất), và không bao giờ đụng đến nó nữa. Anh đã viết cuốn chuyên luận đó được một thập niên và đủ cảm thấy áp lực phải hoàn thành khi sự sống của mình bị đe dọa. Yevgenia hút thuốc còn Nero rất chăm lo cho sức khỏe của mình, anh ta dành ít nhất một giờ mỗi ngày để tập thể dục hoặc bơi lội. Yevgenia thường kết bạn với giới trí thức và những người theo phong cách Bohem - người có phong cách phóng túng, không chịu theo khuôn phép xã hội; Nero lại thích trò chuyện với những nhà đầu tư lọc lõi và những doanh nhân chưa bao giờ trải qua trường lớp và nói chuyện với chất giọng Brooklyn đầy vẻ nghiêm trọng hão. Yevgenia không thể nào hiểu được vì sao một người cổ điển và biết nhiều thứ tiếng như Nero lại có thể giao du với những loại người như thế. Tệ hơn, cô công khai bày tỏ sự khinh bỉ đối với tiền bạc, nếu không thì cũng ẩn giấu nó trong lớp vỏ bề ngoài trí thức và văn hóa, và đồng thời cũng không thể chịu nổi những gã Brooklyn với ngón tay đầy lông và tài khoản kếch xù trong ngân hàng. Những người bạn hậu-Brooklyn sau này của Nero đều lần lượt nhận xét rằng cô ta rất kiêu kỳ. (Một trong những hiệu ứng của sự thịnh vượng là tình trạng di cư liên tục của những người lọc lõi đường phố từ Brooklyn đến Staten Island và New Jersey).

Nero còn là một thiên tài, đến mức không thể tin được, nhưng theo một cách khác. Anh ta chia mọi người làm hai loại: loại có thể kết nối các điểm, bất kể có được sinh ra ở Brooklyn hay không, và loại không thể kết nối các điểm, bất kể trình độ học vấn hay vốn hiểu biết.

Vài tháng, sau khi chia tay Yevgenia (với một sự nhẹ nhõm khác thường), anh ta mở cuốn Il deserto ra và bị hút ngay vào đó. Yevegenia đã đoán trước rằng, cũng giống như cô, Nero sẽ đồng cảm với Giovanni Drogo, nhân vật chính trong Il deserto. Và quả thật đúng như vậy.

Đến lượt Nero, anh ta mua hàng tá vali bản dịch tiếng Anh (khá dở) của cuốn sách này và tặng nó cho bất kỳ ai chào hỏi anh một cách lịch sự, kể cả người gác cổng đến từ New York, người mà hiếm khi nói được một câu tiếng Anh chứ đừng nói đến chuyện đọc sách. Nero giải thích về cuốn sách nhiệt tình đến mức anh chàng gác cổng cũng cảm thấy thích thú với nó và Nero phải mua tặng anh ta một bản dịch tiếng Tây Ban Nha, Il desierto de los tártaros.

Mất máu hoặc là Nổ tan tành
Chúng ta hãy chia thế giới làm hai nhóm. Nhóm những người giống như con gà tây, rơi vào một biến cố lớn mà không hề nhận ra, và nhóm những người ngược lại, luôn chuẩn bị cho những sự kiện trọng đại nằm ngoài dự tính của người khác. Đôi khi trong cuộc sống, bạn đánh cược những đồng đô-la chỉ để thu về một mớ tiền xu nhưng lại lầm tưởng là mình đang chiến thắng. Cũng có lúc bạn mạo hiểm một số đồng xu để đổi lấy những đồng đô-la. Hay nói cách khác, bạn đang cược rằng Thiên Nga Đen hoặc sẽ xảy ra hoặc sẽ không bao giờ xảy ra, đó là hai chiến lược đòi hỏi phải có hai hệ tư tưởng hoàn toàn khác nhau.

Rõ ràng, (con người) chúng ta đặc biệt ưu tiên cho việc tạo ra một phần thu nhập vào một thời điểm nhất định. Hãy lật lại Chương 4, đoạn nói về sự phá sản của các ngân hàng lớn ở Mỹ vào mùa hè năm 1982.

Do đó, một số vấn đề thuộc về Extremistan là đặc biệt nguy hiểm nhưng không có vẻ gì là nguy hiểm trước đó bởi chúng ẩn nấp và trì hoãn các mức độ rủi ro của mình - do đó, những kẻ ngốc sẽ nghĩ rằng mình “an toàn”. Thật vậy, về ngắn hạn, Extremistan có thuộc tính là trông có vẻ ít rủi ro hơn bản chất thực sự của nó.

Nero gọi những công ty lâm vào các biến cố lớn như thế là không đáng tin cậy, nhất là kể từ khi anh ta không còn tin vào bất kỳ phương pháp nào được sử dụng để tính toán khả năng của một biến cố lớn. Hãy lật lại Chương 4 rằng, kỳ hạn kế toán dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty là quá ngắn nên không thể biết liệu công ty có hoàn thành tốt công việc hay không. Bên cạnh đó, do tính chất nông cạn của trực giác, chúng ta tiến hành đánh giá rủi ro một cách quá chóng vánh.

Tôi sẽ trình bày ý tưởng của Nero ngay sau đây. Tiền đề của anh ta chính là quan điểm rất đỗi bình thường: có một số hoạt động kinh doanh mạo hiểm, mà theo đó người ta ít khi thắng lớn nhưng lại hay thua nhỏ, là thứ đáng tham gia nếu người khác đều là những kẻ ngốc nghếch và nếu bạn có thể lực và trí lực ổn định. Tuy nhiên, không chỉ nếu mà bạn cần phải có khả năng chịu đựng này. Bạn cũng cần đối mặt với những người xung quanh vốn sẵn sàng làm đủ mọi cách để lăng mạ bạn, và đa số họ chọn cách công khai. Người ta thường nhất trí rằng một chiến lược tài chính ít có khả năng thành công không hẳn là một chiến lược tồi miễn là thành công đó đủ lớn để bù đắp. Tuy nhiên, vì rất nhiều lý do về mặt tâm lý, con người luôn gặp khó khăn khi thực hiện những chiến lược như thế bởi đơn giản nó đòi hỏi sự kết hợp của niềm tin, khả năng chịu đựng khi phần lợi ích do khen thưởng bị trì hoãn và sẵn sàng đối mặt tranh luận với khách hàng. Và những ai làm hao hụt tiền của vì bất kỳ lý do gì đều bị đối xử như một chú chó phạm tội, hứng chịu sự khinh rẻ từ những người xung quanh.

Không giống như bản chất của một biến cố lớn tiềm năng ngụy trang dưới lớp vỏ kỹ năng, Nero tham gia vào một chiến lược mà anh ta gọi là “mất máu”. Bạn thua lỗ đều đặn ngày qua ngày trong một thời gian dài, trừ khi có biến cố nào đó xảy ra khiến bạn được tưởng thưởng cao một cách bất ngờ. Không một sự kiện riêng lẻ nào có thể khiến bạn nổ tan tành mà trái lại, thế giới này có nhiều thay đổi có thể tạo ra lợi nhuận khổng lồ đủ để bù đắp những phần “xương máu” đã bỏ ra trong nhiều năm liền, có khi nhiều thập kỷ, hoặc thậm chí nhiều thế kỷ.

Trong tất cả những người Nero biết thì chính bản thân anh ta là người ít phù hợp nhất với chiến lược này. Não bộ và cơ thể của Nero có sự bất đồng nghiêm trọng đến nỗi anh ta cảm thấy mình luôn trong trạng thái xung đột không dứt. Khó khăn của anh ta chính là cơ thể, nơi tích tụ sự mệt mỏi về thể xác do ảnh hưởng (về mặt sinh học thần kinh) của những khoản thua lỗ nhỏ triền miên, giống như hình thức tra tấn bằng cách nhỏ nước trên trán ở Trung Quốc thời xưa. Nero khám phá ra rằng những khoản thua lỗ đi vào vùng não cảm xúc của mình, xuyên qua các cấu trúc vỏ não cao hơn, dần dần tác động đến vùng mã ngư trong não và làm giảm trí nhớ. Vùng mã ngư được xem là nơi kiểm soát trí nhớ của con người. Nó là phần đàn hồi nhất của bộ não, và cũng là bộ phận chịu đựng tất cả những thương tổn do những chấn thương thường xuyên, chẳng hạn như chứng căng thẳng kinh niên hình thành từ những cảm giác tiêu cực mà chúng ta trải qua mỗi ngày - trái ngược với trạng thái “căng thẳng tích cực” của việc một con hổ bất ngờ xuất hiện trong phòng của bạn. Bạn có thể hợp lý hóa tất cả những gì mình muốn; bộ phận mã ngư rất nhạy cảm trước tổn thương như căng thẳng kinh niên, từ đó bị suy yếu và không gì có thể phục hổi được. Trái với những gì mọi người vẫn nghĩ, những tác nhân gây căng thẳng nhỏ bé và tưởng chừng như vô hại này không khiến bạn mạnh hơn, mà thực chất đang cắt bỏ một bộ phận của chính cơ thể bạn.

Chính mức độ tiếp cận quá nhiều thông tin đã hủy hoại cuộc sống của Nero. Anh ta có thể chịu đựng được nỗi đau nếu như chỉ thấy những con số báo cáo về tình hình đầu tư mỗi tuần một lần thay vì hàng tá thông tin được cập nhật mỗi phút. Khía cạnh cảm xúc của anh ta cũng tốt hơn khi làm việc với danh mục đầu tư của chính mình so với khi quản lý danh mục của khách hàng bởi anh ta không phải giám sát nó liên tục.

Nếu hệ thống sinh học thần kinh của anh ta là nạn nhân của thiên kiến chứng thực, phản ứng trước những cái ngắn hạn và rõ ràng, anh ta có thể đánh lừa bộ não của mình để thoát khỏi tác động tiêu cực của lỗi lôgic ấy bằng cách chỉ tập trung vào món lợi trong tương lai xa hơn. Anh ta từ chối xem bất kỳ bảng số liệu phân tích nào ngắn hơn 10 năm. Về mặt kiến thức, Nero đã thật sự trưởng thành qua sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào năm 1987, đó là dịp anh ta kiếm được lợi nhuận khổng lồ từ số vốn đầu tư ít ỏi mà mình quản lý. Nhưng nhìn chung, một mình sự kiện này không thể nào đánh bóng bảng thành tích cá nhân của anh ta được. Sau gần hai mươi năm buôn chứng khoán, Nero chỉ có bốn năm ăn nên làm ra. Đối với anh ta, như thế đã là quá đủ. Tất cả những gì anh cần là một năm thành công trong một thế kỷ.

Các nhà đầu tư không phải là vấn đề khiến Nero bận tâm - họ cần đến khả năng giao dịch của anh ta như một sự đảm bảo và trả thù lao cho anh ta rất hậu. Anh ta chỉ cần nhẹ nhàng thể hiện thái độ khinh miệt khi muốn từ chối một khách hàng nào, về phần mình, việc này không lấy gì làm khó khăn cả. Hành động này là thiếu suy xét: Nero không quan tâm nhiều đến cảm giác của họ và cứ thoải mái biểu lộ ngôn ngữ cơ thể của mình, những cử chỉ lịch thiệp vốn bị xem là quá lỗi thời. Sau một chuỗi thua lỗ triền miên, Nero vẫn chắc chắn rằng họ không cho rằng anh ta có lỗi - đúng vậy, thật ngược đời, họ còn tỏ ra thông cảm với anh ta nữa. Người ta sẽ tin bất kỳ những gì bạn nói miễn là bạn đừng để cho họ thấy mình thiếu tự tin; cũng giống như động vật, họ có thể phát hiện ra vết “rạn nứt” nhỏ nhất trong sự tự tin của bạn trước khi bạn kịp bộc lộ nó. Bí quyết ở đây chính là hãy cư xử càng mềm mỏng càng tốt. Điều này dễ thực hiện hơn rất nhiều so với việc thể hiện sự tự tin bằng cách tỏ ra quá lịch sự hay thân thiện; bạn có thể kiểm soát người khác mà không xúc phạm đến sự nhạy cảm của họ. Nero nhận ra rằng, trong kinh doanh, nếu hành động như một kẻ thua cuộc thì bạn sẽ bị đối xử như một kẻ bại trận - bạn là người đặt ra tiêu chuẩn cho chính mình. Không có một biện pháp đánh giá tốt xấu nào là tuyệt đối cả. Điều quan trọng không phải là nội dung mà là cách bạn thể hiện nội dung đó với người khác.

Tuy nhiên, bạn cũng cần tự chủ và duy trì sự trầm tĩnh của “một nhà vô địch Olympic” trước mặt người khác.

Khi còn đảm nhiệm vai trò giao dịch chứng khoán cho một ngân hàng đầu tư, Nero phải tuân theo một mẫu đánh giá nhân viên điển hình. Mẫu đánh giá này được cho là công cụ theo dõi “thành tích hoạt động”, để kiểm soát những nhân viên lười nhác. Nero cảm thấy việc làm đó thật ngớ ngẩn bởi nó chẳng giúp ích gì nhiều mà thậm chí còn khuyến khích anh đánh lừa hệ thống bằng cách chỉ tập trung vào những khoản lợi nhuận ngắn hạn nhưng có nguy cơ sụp đổ tiềm ẩn - giống như những ngân hàng cung cấp các khoản vay ngu xuẩn tiềm ẩn khả năng vỡ nợ, bởi vì nhân viên quản lý bộ phận cho vay đang phấn đấu cho đợt bình xét hàng quý sắp tới. Vì vậy, khi khởi nghiệp chưa được bao lâu, một ngày nọ, Nero điềm tĩnh ngồi nghe “giám sát” của mình đánh giá. Khi nhận được mẫu đánh giá đó, Nero đã xé nó thành từng mảnh trước mặt người giám sát. Anh ta làm việc này một cách chậm rãi, càng làm nổi bật sự đối lập giữa bản chất của hành động và sự điềm tĩnh khi xé vụn tờ giấy. Cấp trên nhìn anh ta đầy hoảng sợ với con người như thể muốn bật ra ngoài. Nero vẫn tập trung vào hành động từ tốn ấy, lòng cảm thấy hoan hỉ bởi đã đứng lên vì niềm tin của mình và vì tính mỹ học của hành động mình đang thực hiện. Sự kết hợp giữa tính tao nhã và phẩm cách sẽ khiến bạn cảm thấy rất hồ hởi. Nero biết rằng sau chuyện này, hoặc là anh ta sẽ bị sa thải, hoặc người ta sẽ để yên. Và đúng là chẳng ai động đến anh ta nữa.

Thiên Nga Đen
Chương 8: May Mắn Luôn Mỉm Cười Với Giacomo Casanova: Bài Toán Về Bằng Chứng Thầm Lặng

BÀI TOÁN DIAGORAS ■ LÀM CÁCH NÀO THIÊN NGA ĐEN CÓ THỂ THOÁT KHỎI KHUÔN KHỔ NHỮNG CUỐN SÁCH LỊCH SỬ ■ CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÚP BẠN KHỎI CHẾT ĐUỐI ■ NGƯỜI CHẾT ĐUỐI THƯỜNG KHÔNG BỎ PHIẾU ■ TẤT CẢ CHÚNG TA NÊN TRỞ THÀNH NHÀ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN ■ LIỆU BẰNG CHỨNG THẦM LẶNG CÓ GIÁ TRỊ KHÔNG? ■ CÔ VŨ CÔNG BALÊ (ÉTOILE) CỦA CASANOVA ■ NEW YORK LÀ “BẤT KHẢ CHIẾN BẠI”

Một ảo tưởng sai lầm khác trong cách chúng ta hiểu về các sự kiện là bằng chứng thầm lặng. Lịch sử đã che giấu cả hiện tượng Thiên Nga

CÂU CHUYỆN VỀ NHỮNG NGƯỜI SÙNG TÍN BỊ CHẾT ĐUỐI
Hơn hai ngàn năm trước, Stoic, nhà hùng biện, nhà văn, nhà tư tưởng La Mã, cùng với Marcus Tullius Cicero - một quý ông đức cao vọng trọng -đã kể câu chuyện sau. Người ta đưa cho Diagoras, một triết gia vô thần, xem những bảng gỗ khắc chân dung một số người sùng tín - những người đã cầu nguyện và sống sót sau một vụ đắm tàu. Hàm ý ở đây là sự cầu nguyện sẽ giúp bạn khỏi tai nạn chết đuối. Digoras bèn hỏi, “Thế còn bức ảnh những người cầu nguyện nhưng sau đó vẫn chết đuối đâu?”

Những người sùng tín bị chết đuối hẳn sẽ gặp nhiều khó khăn khi muốn “quảng bá” về trải nghiệm của mình dưới đáy đại dương. Điều này có thể đánh lừa những người quan sát cẩu thả và khiến họ tin vào phép màu.

Chúng tôi gọi đây là bài toán về bằng chứng thầm lặng. Ý tưởng này đơn giản nhưng có sức thuyết phục và ảnh hưởng mạnh mẽ. Trong khi hầu hết các nhà tư tưởng đều nỗ lực để vượt trội hơn tiền bối của mình thì Cicero đã bỏ xa lớp hậu bối - những tư tưởng gia theo chủ nghĩa thực nghiệm cho đến tận ngày nay.

Về sau, cả hai vị anh hùng trong số những anh hùng mà tôi ngưỡng mộ - nhà văn tiểu luận Michel de Montaigne và tư tưởng gia theo chủ nghĩa hoài nghi Frands Bacon - cũng nhắc đến quan điểm này trong tác phẩm của mình, đồng thời áp dụng nó vào quá trình hình thành những niềm tin sai lầm. Bacon đã viết trong tác phẩm Novum Organum của mình như sau “Và những điều như vậy đều là mê tín, dù trong thuật tử vi, giấc mơ, điềm báo, lời tiên tri hay những gì tương tự thế”. Dĩ nhiên, vấn đề là nếu không diễn ra một cách có hệ thống, hoặc hợp nhất với phương pháp tư duy của chúng ta thì những quan sát vĩ đại này sẽ nhanh chóng bị lãng quên.

Bằng chứng thầm lặng có ảnh hưởng đối với tất cả những thứ liên quan đến khái niệm lịch sử. Khi sử dụng hai từ lịch sử, tôi không chỉ muốn nói đến những cuốn sách nhàm chán mà chúng ta bị buộc phải học trong lĩnh vực Lịch sử (với những bức tranh thời Phục Hưng in ở bìa để thu hút người xem). Xin nhắc lại rằng, lịch sử là một chuỗi các sự kiện được xem xét trong ảnh hưởng của trình tự diễn ra sau đó.

Thiên kiến này mở rộng đến việc phân bổ các yếu tố tạo nên sự thành công của các ý tưởng và các tôn giáo, đến ảo tưởng về kỹ năng trong nhiều ngành nghề, đến thành công trong các hoạt động nghệ thuật, đến tranh luận giữa phẩm chất nội tại và trải nghiệm cá nhân, đến những sai lầm trong việc sử dụng chứng cứ tại tòa án, đến những ảo tưởng về tính lôgic của lịch sử - và dĩ nhiên, nghiêm trọng nhất là đến nhận thức của chúng ta về bản chất của các biến cố cực độ.

Bạn đang ngồi trong lớp học, lắng nghe một ai đó tự cho mình là quan trọng, có phẩm cách và cần cù (nhưng đần độn), khoác trên mình một chiếc áo vét bằng vải tuýt (với sơ mi trắng, cà vạt thắt nút polka) và rêu rao suốt hai giờ liền về các nguyên lý của lịch sử. Bạn đờ người vì chán nản nên không hiểu anh ta đang nói cái quái gì nhưng vẫn nghe nhắc đến tên một số nhân vật nổi tiếng như Hegel, Fichte, Marx, Proudhon, Plato, Herodotus, Ibn Khaldoun, Toynbee, Spengler, Michelet, Carr, Bloch, Fukuyama, Schmukuyama, Trukuyama. Anh ta có vẻ sâu sắc và uyên bác, việc cố gắng tập trung khiến bạn không còn nhớ phương pháp của anh ta là “hậu-Marxist”, “hậu biện chứng” hay hậu cái gì đó cũng được. Và bạn nhận ra phần lớn những gì anh ta nói đều chỉ dựa trên ảo giác! Nhưng điều này cũng không tạo ra sự khác biệt nào: vì đã đầu tư cho nó nhiều đến nỗi, nếu bị chất vấn về phương pháp của mình, anh ta sẽ quẳng cho bạn hàng đống tên gọi khác nữa.

Có thể dễ dàng để tránh nhìn vào nghĩa trang khi dựng lên lý thuyết về lịch sử. Tuy nhiên, đây không chỉ là vấn đề về lịch sử, mà về cách chúng ta xây dựng ví dụ mẫu và thu thập bằng chứng trong mọi lĩnh vực. Chúng ta có thể gọi sự bóp méo này là một thiên kiến, nghĩa là sự khác nhau giữa những gì bạn nhìn thấy và những gì hiện hữu. Khi nói đến thiên kiến, tôi muốn ám chỉ một lỗi có tính hệ thống - lỗi này cho thấy ảnh hưởng từ một hiện tượng thường tích cực hơn hay tiêu cực hơn bản chất thật sự của nó, cũng giống như một cái cân chạy sai mà theo đó, trọng lượng của bạn có thể thừa hoặc thiếu đi vài cân, hoặc trong một đoạn phim nào đấy, vòng eo của bạn đột nhiên to hơn đôi chút. Thiên kiến này được nhiều trường phái khám phá lại trong thế kỷ qua, nhưng thường bị lãng quên nhanh chóng (giống như nghiên cứu của Cicero). Vì những người sùng tín bị chết đuối không thể viết lại trải nghiệm của mình (còn sống để làm điều này vẫn tốt hơn), nên những con người hay ý tưởng bại trận ấy vẫn nằm lại cùng lịch sử. Thật lạ thường là các sử gia và những học giả khác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nhân văn, những người lẽ ra cần phải hiểu rõ bằng chứng thầm lặng nhất thì lại chẳng quan tâm gì đến nó (tôi nói sau khi đã nghiên cứu kỹ). Còn đối với báo giới, hãy quên chuyện này đi! Họ là lớp “đạo diễn” chuyên sản sinh ra sự bóp méo.

Thuật ngữ thiên kiến còn thể hiện bản chất định lượng tiềm tàng của điều kiện đó. Bạn có thể tính toán và hiệu chỉnh sự bóp méo đó bằng cách xem xét cả người chết lẫn những người đang sống, thay vì chỉ mỗi những người còn sống.

Bằng chứng thầm lặng là thứ mà các biến cố dùng để che đậy tính ngẫu nhiên của chúng, đặc biệt là tính ngẫu nhiên mang đặc điểm Thiên Nga Đen.

Francis Bacon là một người thú vị và dễ mến ở nhiều khía cạnh.

Ông nuôi dưỡng cho mình phẩm chất kiên định, hoài nghi, kinh nghiệm chủ nghĩa, không hàn lâm và không giáo điều, mà đối với một số người cũng hoài nghi, kinh nghiệm chủ nghĩa, không hàn lâm và không giáo điều như tác giả cuốn sách này, thì những phẩm chất nói trên gần như không thể tìm thấy trong ngành học về tư duy. (Bất kỳ ai cũng có thể hoài nghi; bất kỳ một nhà khoa học nào cũng có thể quá dựa vào kinh nghiệm - khó khăn hơn cả chính là không phải ai cũng có khả năng kết hợp được chủ nghĩa hoài nghi và chủ nghĩa kinh nghiệm). Hơn nữa, chủ nghĩa kinh nghiệm của ông muốn chúng ta chứng thực chứ không phải phản bác; do đó ông giới thiệu bài toán về chứng thực - một sự chứng thực vô cùng khó chịu nhưng lại hình thành nên Thiên Nga Đen.

NGHĨA TRANG CỦA NHỮNG CHỮ CÁI
Chúng ta vẫn thường được nhắc nhở rằng người Phê-ni-xi không hề có một tác phẩm văn học nào mặc dù được cho là người đã phát minh ra bảng chữ cái. Các nhà phê bình thảo luận về sự tầm thường của người Phê-ni-xi dựa trên sự thiếu vắng các di sản dưới dạng chữ viết, quả quyết rằng những người này quan tâm đến thương nghiệp hơn nghệ thuật. Theo đó, việc phát minh ra chữ cái của người Phê-ni-xi được cho là vì một mục đích tầm thường: phục vụ cho việc ghi chép thương mại thay vì một mục đích cao quý hơn là sáng tác văn chương. (Trên kệ sách của một trang viên nơi tôi từng thuê để ở, tôi có nhìn thấy một cuốn sách lịch sử đã mốc meo của Will và Ariel Durant mô tả người Phê-ni-xi là “tộc người thương nghiệp”. Tôi chỉ muốn quẳng nó vào lò sưởi cho rồi.) Ngày nay, có vẻ người ta đã biết đến các tác phẩm viết của người Phê-ni-xi nhiều hơn một chút nhưng vì thời đó người ta sử dụng loại giấy dễ bị phân hủy nên những tác phẩm ấy không thể tồn tại theo thời gian. Những bản thảo như thế đang đứng trước nguy cơ biến mất hoàn toàn. Mãi đến thế kỷ thứ hai hay thứ ba, các tác giả và người sao chép mới chuyển sang viết trên giấy da. Những tác phẩm không được chép lại vào thời đó đã hoàn toàn biến mất.

Sự thờ ơ trước bằng chứng thầm lặng là đặc tính cố hữu trong phương pháp mà chúng ta nghiên cứu năng lực so sánh, đặc biệt trong những hoạt động có tính chất kẻ-thắng-lấy-hết. Chúng ta có thể thích thú với những gì mình nhìn thấy, nhưng chẳng ích gì khi đọc quá nhiều câu chuyện thành công bởi sẽ không nhìn thấy được bức tranh toàn cảnh.

Hãy nhớ lại hiệu ứng kẻ-thắng-lấy-hết trong Chương 3: lưu ý rằng phần lớn những người tự nhận mình là nhà văn thực chất (chỉ “tạm thời”) đang làm việc bên cạnh những chiếc máy pha cà phê sáng bóng ở Starbucks. Sự bất công trong lĩnh vực này lớn hơn rất nhiều so với lĩnh vực y học bởi chúng ta hiếm khi thấy tiến sĩ y khoa đi phục vụ bánh hamburger. Do đó, tôi luận ra rằng, có thể đánh giá hiệu quả công việc của nhóm nghề thứ hai qua mẫu thử nào mà mình nhìn thấy. Điều này cũng xảy ra với thợ sửa ống nước, tài xế tắc-xi, gái mại dâm và những nghề không có hiệu ứng siêu sao. Chúng ta sẽ tiếp nối tranh luận về Mediocristan và Extremistan trong Chương 3. Hậu quả của động lực siêu sao chính là những thứ mà chúng ta gọi là “di sản văn học” hay “kho báu văn học” chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số tác phẩm đã được sáng tác. Đây là ý thứ nhất. Cách thức mà động lực này vô hiệu hóa quá trình nhận dạng tài năng có thể xuất phát từ chính bản thân nó: ví dụ bạn cho rằng thành công của tiểu thuyết gia thế kỷ 19 Honoré de Balzac là nhờ ông ta có được những phẩm chất siêu hạng như “thuyết duy thực”, “thấu hiểu”, “nhạy cảm”, “cách xử lý các nhân vật”, “khả năng thu hút độc giả”, và nhiều phẩm chất khác. Những điều nói trên có thể được cho là phẩm chất “siêu hạng” mang đến thành công siêu hạng khi, và chỉ khi những người không có thứ mà chúng ta gọi là tài năng và cũng không có những phẩm chất nêu trên. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như hàng loạt kiệt tác văn học với các thuộc tính tương đồng bắt đầu lụi tàn? Và, theo mạch lôgic của tôi, nếu quả thật có nhiều bản thảo tương đồng nhau về thuộc tính bị hư hỏng thì, tôi rất tiếc khi phải nói, thần tượng Balzac của bạn chỉ là kẻ hưởng lợi từ sự may mắn bị bóp méo so với đồng nghiệp của ông ta. Hơn nữa, có thể bạn sẽ tỏ ra bất công với người khác do quá thần tượng ông ta.

Xin được nhắc lại, tôi không cho rằng Balzac bất tài mà là tài năng của ông không đến nỗi độc nhất vô nhị như chúng ta vẫn nghĩ. Hãy nghĩ xem có hàng ngàn nhà văn hiện nay hoàn toàn bị rơi vào quên lãng: thành tích của họ không được đưa vào phân tích. Có hàng tấn bản thảo bị trả lại nhưng chúng ta không nhìn thấy bởi chưa ai biết đến tên tuổi của những tác giả này. Chỉ riêng tờ New York Times thôi đã từ chối cả trăm bản thảo mỗi ngày, vì vậy, hãy tưởng tượng xem số lượng thiên tài mà chúng ta chưa bao giờ nghe nói đến sẽ nhiều như thế nào. Ở một quốc gia như Pháp, nơi mà buồn thay, có nhiều người viết sách hơn người đọc sách, những nhà xuất bản văn học có uy tín đủ chọn một trong mười nghìn bản thảo mà họ nhận được từ các tác giả mới toanh. Tương tự, hãy nghĩ mà xem có bao nhiêu diễn viên chưa bao giờ vượt qua vòng sơ tuyển, những người mà hẳn sẽ diễn xuất rất tốt nếu như được số phận ban tặng may mắn lớn lao như thế trong đời.

Lần tới, khi bạn đến thăm một người Pháp có đời sống vật chất tiện nghi, bạn có thể sẽ nhìn thấy những cuốn sách thô cứng từ tuyển tập Bibliothèque de la Pléiade 29, loại sách mà chủ nhân của nó không bao giờ, hay hầu như chưa bao giờ đọc chủ yếu do kích thước và trọng lượng bất tiện của chúng. Tư cách thành viên của nhóm Pléiade 30 (Nhóm Tao Đàn Thất Tinh) đồng nghĩa với tư cách thành viên trong cộng đồng văn chương. Bộ sách này rất đắt tiền; nó có mùi đặc trưng của loại giấy siêu mỏng từ Ấn Độ, gần một nghìn năm trăm trang sách được nén lại chỉ bằng độ dày của những cuốn sách bìa mềm. Có vẻ như cách làm đó sẽ giúp bạn tận dụng được tối đa mỗi foot vuông giấy để in được nhiều kiệt tác. Nhà xuất bản Gallimard cực kỳ cẩn thận khi chọn lựa một tác giả xứng đáng với giải thưởng Tao Đàn Thất Tinh - chỉ một số ít tác giả như André Malraux, nhà mỹ học và là người thích phiêu lưu, có được sự công nhận này khi còn sống, ngoài ra còn có các tác giả lớn khác như Dickens, Dostoyevsky, Hugo, Stendhal, Mallarmé, Sartre, Camus và… Balzac. Tuy nhiên, nếu đi theo tư tưởng của Balzac, chủ đề mà tôi sắp phân tích, bạn phải chấp nhận một điều là không có một lời lẽ biện minh sau cùng nào dành cho một tập văn chính thống như thế.

Balzac đã phác họa toàn bộ vấn đề liên quan đến bằng chứng thầm lặng trong cuốn tiểu thuyết mang tên Ảo tưởng tiêu tan (Lost Illusions). Lucien de Rubempré 31 (hay còn gọi là Lucien Chardon), một vĩ nhân tỉnh lẻ đến Paris để bắt đầu nghiệp văn chương. Người ta bảo rằng ông rất có tài - sự thật là tầng lớp nửa quý tộc vùng Angoulême có nói với ông như thế. Nhưng thật khó biết được lời khen đó xuất phát từ ngoại hình đẹp hay từ chất lượng văn chương trong các tác phẩm của ông - hay thậm chí liệu chất lượng văn chương có hữu hình hay không, hoặc, như Balzac luôn tự hỏi, có liên quan gì nhiều đến bất cứ thứ gì trong số đó không. Thành công được trao tặng mà không cần lý do, cũng giống như thành quả của mưu toan và thăng tiến hay sự gia tăng đột biến mức độ yêu thích chỉ vì những lý do hoàn toàn nằm ngoài phạm vi các tác phẩm đó. Lucien khám phá ra sự tồn tại của nghĩa trang rộng lớn vốn là nơi sinh sống của cái mà Balzac gọi là “chim sơn ca”.

Người ta nói với Lucien là danh hiệu “chim sơn ca” này được các hiệu sách “trao tặng” cho những tác phẩm nằm trên các kệ sâu hun hút trong của hàng.

Balzac khiến chúng ta cảm thấy tiếc nuối cho nền văn học thời đó khi mà một nhà xuất bản từ chối bản thảo của Lucien dù chưa bao giờ đọc qua nó, về sau, khi Lucien đã có danh tiếng, cũng chính cái bản thảo ấy nhưng một nhà xuất bản khác lại chấp nhận mà (cũng) không cần đọc qua nó. Cho nên, bản thân tác phẩm chỉ đóng vai trò thứ yếu mà thôi.

Một ví dụ khác về bằng chứng thầm lặng, các nhân vật trong cuốn sách cứ liên tục than vãn rằng mọi thứ đã không còn như trước kia nữa, điều muốn ám chỉ tính công bằng trong văn học được tôn trọng hơn vào thời xưa - họ than vãn như thể trước kia không có cái nghĩa trang nào chôn vùi tài năng vậy. Họ không xét đến những chú chim sơn ca trong các tác phẩm cổ đại! Lưu ý rằng gần hai thế kỷ trước, con người thường lý tưởng hóa khi nghĩ về quá khứ của mình, cũng giống như chúng ta vẫn lý tưởng khi nghĩ về quá khứ của ngày hôm nay.

Như tôi đã đề cập, để hiểu được thành công và phân tích điều gì đã làm nên nó, chúng ta cần nghiên cứu những đặc điểm hiện hữu trong thất bại. Sau đây, tôi sẽ trình bày một phiên bản phổ quát hơn về luận điểm này.

10 bước để trở thành triệu phú
Hàng loạt công trình nghiên cứu về triệu phú với mục tiêu tìm kiếm những kỹ năng cần có để thành công được thực hiện theo phương pháp luận sau. Họ chọn ra một số người thành công, những người có danh tiếng và đang nắm giữ các vị trí quan trọng, và nghiên cứu đặc điểm từng người. Họ xem xét những đặc điểm chung của những người này như sự can đảm, dám chấp nhận rủi ro, lạc quan, vân vân, và suy ra rằng những phẩm chất này, mà nổi bật nhất là dám chấp nhận rủi ro, sẽ giúp bạn thành công. Bạn có thể cũng có cảm giác tương tự nếu đọc tự truyện của một số tổng giám đốc được viết bằng ngòi bút của người khác hay tham gia các buổi hội thảo của họ với các sinh viên MBA nịnh bợ.

Bây giờ, hãy cùng nhìn vào nghĩa trang. Cũng khó thuyết phục những người thất bại viết hồi ký, và trong trường hợp họ chịu viết thì những nhà xuất bản thể loại sách kinh doanh mà tôi biết thậm chí còn không thèm có một cử chỉ lịch sự là gọi điện hồi âm (cũng như viết thư hồi âm, quên nó đi!). Bạn đọc không bao giờ chịu trả 26,95 đô-la cho một câu chuyện về sự thất bại, thậm chí dù bạn có thuyết phục họ rằng câu chuyện đó chứa đựng nhiều bí quyết hữu ích hơn cả một câu chuyện về thành công. 32 Toàn bộ ý niệm về tiểu sử đều dựa trên sự quy kết độc đoán về mối quan hệ nhân quả giữa các đặc điểm cụ thể và các sự kiện diễn ra sau đó. Bây giờ, hãy nghĩ đến nghĩa trang. Bãi tha ma dành cho những người thất bại là nơi hiện diện đông đảo những người có cùng các đặc điểm sau: can đảm, dám chấp nhận rủi ro, lạc quan, v.v. Cũng giống hệt như nhóm các nhà triệu phú. Có thể có một vài khác biệt về kỹ năng, nhưng điều thực sự chia tách họ làm hai nhóm chính là một tác nhân duy nhất: may mắn. Đơn giản chỉ là may mắn.

Bạn không cần vận dụng nhiều kiến thức của chủ nghĩa kinh nghiệm để tìm ra lời giải cho vấn đề này: chỉ cần một thí nghiệm đơn giản về tư duy là đủ. Lĩnh vực quản lý quỹ đòi hỏi một số người phải thực sự có khả năng bởi vì hết năm này qua năm khác, họ phải tìm cách “vượt mặt” thị trường. Người ta sẽ tôn vinh những “thiên tài” này và thuyết phục bạn rèn luyện để có được những kỹ năng như họ. Phương pháp mà cho đến nay tôi vẫn sử dụng là tạo ra một nhóm các nhà đầu tư được lựa chọn hoàn toàn ngẫu nhiên và, bằng phương pháp giả lập trên máy tính, chỉ ra quy trình tất yếu của việc sản sinh ra những “thiên tài” trên thành công chỉ nhờ may mắn này. Hết một năm, bạn lại sa thải kẻ bại trận và chỉ giữ lại người chiến thắng và từ đó, công ty chỉ toàn những người chiến thắng liên tục trong dài hạn. Vì không quan sát nghĩa trang của những nhà đầu tư chiến bại nên bạn sẽ nghĩ rằng công ty đang vận hành tốt, và rằng một số nhân viên điều hành hoàn toàn vượt trội hơn so với người khác. Dĩ nhiên, người ta dễ dàng tìm ra lời giải thích cho thành công của những người may mắn sống sót đó: “Anh ta ăn đậu hũ”, “Cô ta ở lại công ty đến tối mịt, một ngày nọ tôi gọi đến văn phòng cô ấy lúc 8 giờ tối và...” hoặc dĩ nhiên cũng có những ý kiến đại loại như “Bản chất cô ta là lười nhác rồi. Mà người lười nhác như cô ấy thì nhìn nhận sự việc rất rõ ràng”. Nhờ vào cơ chế của thuyết tiền định truy hồi về quá khứ, chúng ta sẽ tìm thấy “nguyên nhân” - thật vậy, chúng ta cần phải nhìn thấy nguyên nhân. Tôi gọi sự mô phỏng về những nhóm người giả sử này, vốn thường được thực hiện bằng máy tính, là cơ chế nhận thức luận tính toán (computational epistemology). Những thí nghiệm về tư duy của bạn có thể được thực hiện bằng máy tính. Bạn chỉ cần giả lập một thế giới khác, một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, và xác nhận là nó tương tự với thế giới mà chúng ta đang sống. Việc không đưa các tỷ phú may mắn vào các thí nghiệm này có thể xem là ngoại lệ. 33

Hãy nhớ lại điểm khác biệt của Mediocristan và Extremistan ở chương 3. Tôi đã nói là không nên làm một công việc “có tính thang bậc”, đơn giản là vì ít ai thành công trong những nghề như thế. Và những nghề như vậy tạo ra một nghĩa trang rộng lớn: nhóm người làm diễn viên sống trong đói kém luôn đông đảo hơn nhóm người hành nghề kế toán, dù bạn có thể cho rằng thu nhập trung bình của họ là như nhau.

CÂU LẠC BỘ CHĂM SÓC SỨC KHỎE DÀNH CHO CHUỘT
Tính đa dạng thứ hai, và cũng khắc nghiệt hơn về bằng chứng thầm lặng như sau. Khi ở độ tuổi đôi mươi, tôi vẫn còn đọc báo và nghĩ rằng cứ đọc báo đều đặn thì ít nhiều gì cũng có ích, và tôi tình cờ đọc được một bài báo nói về mối đe dọa ngày càng lớn của giới mafia Nga ở Mỹ và việc bọn chúng đã hất cẳng băng nhóm lâu đời Louie và Tony ra khỏi một số khu vực lân cận Brooklyn. Bài báo lý giải sự lì lợm và tàn bạo của băng nhóm này chính là hậu quả của những trải nghiệm cay đắng mà họ đã hứng chịu ở Gulag. Gulag là hệ thống trại cải tạo tại Siberia, nơi tội phạm và các phần tử chống đối bị lưu đày. Việc đưa người đến Siberia là một trong những phương pháp thanh lọc được các triều đại Nga Hoàng sử dụng lần đầu tiên và sau đó được tiếp tục hoàn thiện. Nhiều tù nhân đã không thể sống sót trong các trại cải tạo này.

Chai sạn vì Gulag? Với tôi, câu này vừa hết sức sai lầm, (vừa như một suy luận hợp lý. Phải mất một khoảng thời gian tôi mới nhận thấy những điều vô nghĩa ẩn bên trong lớp vỏ hào nhoáng của nó; thí nghiệm về tư duy sau sẽ cho chúng ta lời giải đáp. Giả sử rằng bạn có thể tập hợp được một bầy chuột đông đúc và hỗn tạp: mập, ốm, bệnh hoạn, khỏe mạnh, dáng vóc cân đối, vân vân. (Bạn có thể dễ dàng bắt chúng trong bếp ăn của các nhà hàng nổi tiếng ở New York). Với hàng ngàn con chuột này, bạn lập ra một nhóm hỗn tạp - nhóm có thể đại diện cho toàn bộ chuột tại New York. Bạn mang chúng đến phòng thí nghiệm của tôi ở đường East 59th, New York và chúng ta cùng nhau cho tất cả đám chuột này vào một bể chứa lớn. Chúng ta khiến lũ chuột bị nhiễm phóng xạ với liều lượng ngày càng cao (do đây là một thí nghiệm về tư duy nên người ta nói với tôi rằng không có khái niệm tàn ác trong quá trình thực hiện). Tại mỗi mức phóng xạ, những con chuột nào bản chất vốn khỏe mạnh (và đây chính là chìa khóa) sẽ sống sót; những con chết sẽ được đưa ra khỏi mẫu thử. Càng về sau, chúng ta sẽ có được một tập hợp những con chuột ngày càng khỏe mạnh. Nhưng hãy chú ý một thực tế quan trọng: tất cả những con chuột, dù là những con khỏe mạnh, đều trở nên yếu hơn so với thời điểm trước khi nhiễm phóng xạ.

Một nhà quan sát được trời phú cho khả năng phân tích, người mà chắc hẳn điểm số đại học phải vào loại xuất sắc, sẽ tin rằng thí nghiệm đó của tôi là một hình thức thay thế hoàn hảo cho câu lạc bộ chăm sóc sức khỏe, và nó có thể được áp dụng cho bất kỳ loài động vật hữu nhũ nào (hãy nghĩ đến khả năng thành công về mặt thương mại). Logic của anh ta như sau: Những con chuột này khỏe mạnh hơn tất cả những con còn lại. Vậy chúng có điểm chung gì? Tất cả chúng đều đến từ phòng thí nghiệm của tay chuyên nghiên cứu Thiên Nga Đen, Taleb. Không mấy ai muốn đến xem những con chuột chết.

Tiếp đến, chúng ta chơi khăm tờ New York Times theo cách sau: chúng ta thả những con chuột còn sống vào thành phố New York và gợi ý cho con chuột đầu đàn viết một bài báo lý thú về sự chia rẽ trong tôn ty trật tự xã hội loài chuột ở New York. Chú ta sẽ viết một bài dài (và mang tính phân tích) về động lực xã hội của loài chuột ở New York, trong đó có đoạn sau: “Những chú chuột đó đã trở thành “đầu gấu” trong xã hội loài chuột chúng ta. Thật vậy, chúng bắt đầu điều khiển mọi việc. Trở nên mạnh mẽ hơn nhờ vào những trải nghiệm trong phòng thí nghiệm của nhà thống kê học/nhà triết học/nhà môi giới chứng khoán sống ẩn dật (nhưng thân thiện) - Tiến sĩ Taleb - chúng...”

Thiên kiến tội lỗi
Có một thuộc tính xấu xa trong thiên kiến này: nó ẩn mình giỏi nhất khi ảnh hưởng của nó ở mức nghiêm trọng nhất. Do người ta không nhìn thấy những con chuột chết nên càng trở nên nguy hiểm chừng nào thì rủi ro lại càng khó phát hiện bởi những hậu quả nghiêm trọng thường bị loại khỏi bằng chứng. Tính sát thương của thí nghiệm trên càng cao thì khác biệt giữa những con chuột sống sót và phần còn lại trong đàn sẽ càng lớn, và điều này đồng nghĩa với việc bạn sẽ tiếp tục bị hiệu ứng mạnh mẽ hơn đánh lừa. Một trong hai thành phần sau rất cần thiết để giải thích cho sự khác biệt giữa tác động thực sự (suy yếu đi) và tác động theo quan sát (mạnh mẽ hơn): a) mức độ chênh lệch của sức mạnh, hay sự đa dạng, trong đàn, hoặc b) sự biến đổi, hay sự đa dạng, xuất hiện ở bước nào đó trong quá trình thí nghiệm. Sự đa dạng ở đây có liên quan đến độ bất định cố hữu trong quá trình thí nghiệm.

Thêm nhiều ứng dụng ẩn
Chúng ta có thể phát triển luận điểm này; nó có tính phổ quát cao đến nỗi một khi chúng ta đã mắc phải rồi thì rất khó có thể nhìn nhận thực tế như trước đây được nữa. Rõ ràng, nó đã cướp mất sức mạnh duy thực trong các quan sát của chúng ta. Tôi sẽ liệt kê ra một vài trường hợp để minh họa cho những điểm yếu trong cơ chế suy luận của chúng ta.

Tính ổn định của các loài. Lấy ví dụ một số loài động vật mà chúng ta cho là đã tuyệt chủng. Trong một thời gian dài, các nhà khoa học chỉ phân tích những mẫu hóa thạch vẫn còn tồn tại đến ngày nay để xác định số loài tuyệt chủng. Nhưng con số được công bố này đã bỏ sót cả một nghĩa trang lặng im những loài xuất hiện rồi diệt vong và không để lại dấu tích nào ở dạng hóa thạch; số mẫu hóa thạch mà chúng ta đã tìm thấy chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số các loài đã xuất hiện rồi diệt vong. Điều này có nghĩa là sinh học trên hành tinh này phong phú hơn rất nhiều so với nghiên cứu ban đầu. Một hậu quả đáng lo ngại hơn chính là tỷ lệ tuyệt chủng của các loài cao hơn rất nhiều so với suy nghĩ của chúng ta - gần 99,5% loài xuất hiện trên trái đất này hiện đã tuyệt chủng, trong khi số nhà khoa học thì cứ liên tục tăng. Cuộc sống dễ đổ vỡ hơn khả năng chịu đựng của chúng ta rất nhiều. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta (loài người) nên cảm thấy tội lỗi trước sự diệt vong đang diễn ra xung quanh hay chúng ta phải hành động để ngăn chặn nó - các loài sinh vật đã xuất hiện rồi biến mất trước khi chúng ta bắt đầu phá tung môi trường mà không cần phải gánh trách nhiệm đạo đức cho bất kỳ sinh vật nào đã tuyệt chủng.

Liệu phạm tội có phải trả giá? Báo chí thường đưa tin tội phạm bị bắt giữ. Nhưng không có mục nào trên tờ The New York Times đăng tải câu chuyện về những tên tội phạm chưa bị bắt. Điều này cũng xảy ra với các vấn đề như trốn thuế, hối lộ trong chính quyền, tệ nạn mại dâm, chuyện những cặp đôi nổi tiếng bị đầu độc (bằng các loại chất không tên và không thể phát hiện được), và vận chuyển ma túy.

Hơn nữa, rất có thể hiểu biết của chúng ta về tội phạm được căn cứ trên đặc điểm của những tên vì kém thông minh nên mới bị bắt.

Một khi bản thân chúng ta dần thoát khỏi ảnh hưởng của bằng chứng thầm lặng thì rất nhiều điều trước kia vốn ẩn mình nay bắt đầu hiện ra trước mắt. Trải qua một vài thập niên với hệ tư tưởng này, tôi tin rằng (nhưng không thể chứng minh) giáo dục và đào tạo có thể giúp chúng ta tránh được cạm bẫy.

Sự phát triển của vóc dáng vận động viên bơi lội
Hai cụm từ thông dụng “vóc dáng của một vận động viên bơi lội” và “may mắn của người mới bắt đầu” có gì giống nhau? Chúng có gì giống với khái niệm về lịch sử?

Giới cá cược tin rằng những người mới bắt đầu hầu như luôn may mắn.

Bạn sẽ nghe người ta nói rằng, “Càng chơi càng thua, nhưng ban đầu, tay cờ bạc nào cũng gặp vận đỏ”. Quả thật, theo kinh nghiệm nhiều người, câu nói này đúng: các nhà phân tích xác nhận rằng những con bạc thường có khởi đầu đầy may mắn (điều này cũng tương tự với nhiều nhà đầu cơ trên thị trường chứng khoán). Liệu điều này có nghĩa là mỗi người trong chúng ta nên trở thành con bạc trong một khoảng thời gian nhất định, tận dụng sự hiện hữu của Thần May Mắn dành cho người mới bắt đầu và sau đó ngưng lại?

Câu trả lời là không. Ảo giác sau vẫn thường xảy ra: những người mới bắt đầu cá cược hoặc may mắn hoặc xui xẻo (cứ cho là các sòng bạc gặp may, nhiều người xui hơn may). Những người may mắn thì cảm thấy rằng số phận đã chọn họ nên sẽ tiếp tục lao vào cá cược; những người xui xẻo thì trái lại, cảm thấy thoái chí, nên không đến sòng bạc nữa. Tùy thuộc vào khí chất của từng người mà mọi người có thể bắt đầu tham gia các hình thức giải trí khác như quan sát chim, trò chơi sắp chữ Scrabble, trò cướp biển, v.v. Những người tiếp tục cá cược sẽ nhớ rằng họ đã từng có một khởi đầu may mắn. Theo lý thuyết, những người bỏ cuộc sẽ không còn là thành viên của cộng đồng những con bạc sống sót. Điều này lý giải cho may mắn của những người mới bắt đầu.

Có một phép loại suy trong cách nói mà chúng ta quen dùng là “vóc dáng của vận động viên bơi lội”, mà vài năm trước đã khiến tôi mắc phải một sai lầm đáng xấu hổ (mặc dù có kiến thức chuyên môn về lỗi thiên kiến này nhưng tôi vẫn không nhận thấy mình đang bị đánh lừa). Khi hỏi mọi người về vóc dáng của các vận động viên, tôi thường nghe thấy rằng vận động viên điền kinh trông có vẻ còm nhom, vận động viên xe đạp thì mông to, còn vận động viên cử tạ thì không cân đối và có vẻ gì đó nguyên sơ. Tôi suy luận ra rằng mình nên dành thời gian đến hồ bơi Đại học New York hít thở khí clo để có được những “cơ bắp thon dài”. Bây giờ, tạm thời không quan tâm đến thuyết nhân quả. Giả sử rằng sự khác biệt về gien khiến cơ thể mỗi người chỉ phù hợp với một vóc dáng nào đó. Những ai sinh ra với một cơ thể có thiên hướng trở thành vận động viên bơi lội sẽ trở thành một người bơi rất giỏi. Họ là những người liên tục làm nước bắn tung tóe ở hồ bơi. Nhưng nếu tăng cân thì cơ thể họ vẫn không có nhiều khác biệt. Thực ra, một số cơ bắp chỉ phát triển theo cùng một cách dù bạn có tiêm xteroit hay tập leo tường trong phòng thể dục gần nhà.

NHỮNG GÌ BẠN THẤY VÀ KHÔNG THẤY
Katrina, cơn bão đã tàn phá New Orleans năm 2005, khiến nhiều chính trị gia đang vận động tranh cử phải xuất hiện trên truyền hình. Xúc động bởi hình ảnh vẻ sự tàn phá của trận bão và cơn thịnh nộ của những nạn nhân giờ đã trở những kẻ vô gia cư, các nhà lập pháp hứa sẽ “tái thiết” nơi này. Với họ, làm một điều gì đó mang tính nhân văn, vượt lên trên sự ích kỷ thấp hèn của chính mình là những việc làm hết sức cao quý.

Liệu họ sẽ thực hiện lời hứa bằng tiền túi của chính mình? Không. Họ sử dụng tiền của công chúng. Hãy nhớ rằng những nguồn quỹ đó được chuyển đến từ một nơi nào khác, giống như trong “Của Thiên trả Địa” vậy. Một nơi nào khác ấy có thể là ngân sách dành cho nghiên cứu chữa trị ung thư hay dùng vào các nỗ lực ngăn chặn bệnh tiểu đường. Ít ai quan tâm đến những bệnh nhân ung thư đang nằm cô độc trong trạng thái suy sụp - những hình ảnh không được phát lên truyền hình. Những bệnh nhân ung thư này không những không được bầu cử (vì họ sẽ chết trước khi kỳ bỏ phiếu kế tiếp bắt đầu) mà hình ảnh của họ còn không nằm trong hệ thống xúc cảm của chúng ta. Hàng ngày có nhiều người chết vì ung thư hơn số lượng nạn nhân của cơn bão Katrina; họ mới chính là những người cần chúng ta nhất, không chỉ là trợ giúp về mặt tài chính mà là sự quan tâm và thái độ ân cần của chúng ta. Và có thể dưới hình thức gián tiếp hay trực tiếp, nguồn tiền cho kế hoạch “tái thiết” ấy được trích ra từ chính nguồn tiền dành cho những bệnh nhân ung thư này. Tiền (dù ở dạng của công hay tài sản cá nhân) được rút ra từ các dự án nghiên cứu có thể phải chịu trách nhiệm cho cái chết của những bệnh nhân này - một dạng tội ác vẫn còn nằm trong im lặng.

Một nhánh của ý tưởng này có liên quan đến quá trình ra quyết định của chúng ta trong điều kiện có nhiều khả năng có thể xảy ra. Chúng ta nhìn thấy rõ các hậu quả chứ không mơ hồ và vô hình. Tuy nhiên, những hậu quả không nhìn thấy - không, phải nói là nhìn chung - có thể sẽ mang ý nghĩa hơn.

Frédéric Bastiat là một nhà nghiên cứu khoa học nhân văn sống vào thế kỷ 19, một người kỳ lạ và là một trong những tư tưởng gia độc lập hiếm hoi thời đó, độc lập đến mức trở nên vô danh tại chính nước Pháp - quê hương của mình - bởi ý tưởng của ông đi ngược với quan điểm chính trị chính thống của Pháp (ông là một trong những tư tưởng gia mà tôi yêu kính, cũng như Pierre Bayle, họ là những người vô danh ngay tại chính quê hương và trong chính ngôn ngữ mẹ đẻ của mình). Nhưng có rất nhiều người ở Mỹ đi theo tư tưởng của ông.

Trong bài tiểu luận “Những gì chúng ta thấy và không thấy” của mình, Bastiat muốn chuyển tải ý tưởng sau: chúng ta có thể thấy hành động của chính quyền và do đó, ca ngợi họ - và chúng không thấy được giải pháp thay thế. Nhưng thật sự là có một giải pháp thay thế dù nó không hiện hữu rõ ràng và vẫn còn vô hình.

Hãy nhớ lại phần ngụy biện chứng thực: chính phủ các nước thường rất giỏi thông báo cho bạn biết họ đã làm được gì, nhưng không hé nửa lời về những gì họ chưa làm được. Trên thực tế, chúng ta có thể gọi việc làm của họ là “lòng bác ái” giả tạo - hành động giúp đỡ mọi người theo cách dễ nhận thấy và tạo cảm giác mạnh, nhưng lại chẳng thèm bận tâm đến chuyện vẫn còn đó cả một nghĩa trang thầm lặng với các hậu quả vô hình. Bastiat truyền cảm hứng cho những người tán thành chủ nghĩa tự do bằng cách công kích những luận điểm thông thường phục vụ cho lợi ích của chính quyền. Tuy vậy, các ý tưởng của ông vẫn có thể khái quát hóa để áp dụng cho cả Phe Hữu lẫn Phe Tả.

Bastiat đi sâu hơn một chút. Nếu cả hậu quả tiêu cực lẫn tích cực của một hành động dòng ảnh hưởng đến tác giả thì quá trình học tập của chúng ta sẽ diễn ra rất nhanh chóng. Tuy nhiên, hậu quả tích cực của một hành động thường chỉ làm lợi cho tác giả của nó, trong khi hậu quả tiêu cực vô hình lại rơi vào người khác và kèm theo đó là một chi phí tính cho xã hội. Hãy phân tích các biện pháp bảo trợ việc làm mà xem: bạn chú ý đến những người có công ăn việc làm được bảo trợ và kết luận phúc lợi xã hội chính là biện pháp bảo trợ đó. Nhưng bạn lại không nhận thấy nó đã khiến nhiều người thất nghiệp vì số lượng cơ hội việc làm giảm đi đáng kể. Trong một số trường hợp, như hoàn cảnh những bệnh nhân ung thư bị cơn bão Katrina trừng phạt chẳng hạn, kết quả tích cực của một hành động tức thì sẽ sinh lợi cho các chính trị gia và những nhà hoạt động nhân đạo giả tạo, trong khi hậu quả tiêu cực thì còn lâu mới xuất hiện - hoặc cũng có thể chúng không bao giờ được nhận thấy. Thậm chí người ta có thể kết tội báo chí vì đã hướng các khoản đóng góp từ thiện đến những người mà ít cần chúng nhất.

Chúng ta hãy áp dụng cách lý luận này cho sự kiện 11 tháng 9 năm 2001. Có khoảng 2.500 người chết khi máy bay của trùm khủng bố Bin Laden đâm sập tòa Tháp Đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới. Gia đình các nạn nhân nhận được hỗ trợ dưới mọi hình thức từ các cơ quan và tổ chức từ thiện, và họ xứng đáng được như thế. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, trong ba tháng cuối năm đó, có gần một ngàn người chết và họ chính là nạn nhân thầm lặng của bọn khủng bố. Vì sao? Những người sợ đi máy bay chuyển sang lái ô tô và phải gánh chịu một rủi ro tử vong cao hơn. Có bằng chứng về tỷ lệ thương vong trên xa lộ gia tăng trong giai đoạn này; xa lộ tiềm ẩn nguy cơ tử vong cao hơn bầu trời. Những gia đình này không nhận được bất kỳ sự hỗ trợ nào - thậm chí họ còn không biết người thân của mình là nạn nhân của Bin Laden.

Bên cạnh Bastiat, tôi còn chỉ ra một yếu điểm của Ralph Nader (nhà hoạt động xã hội và luật sư bảo vệ người tiêu dùng, dĩ nhiên, ông không phải chính trị gia hay một người có tư duy chính trị). Có thể ông là công dân Mỹ đã cứu sống nhiều người nhất khi công bố hồ sơ đánh giá độ an toàn của các công ty kinh doanh ô tô. Tuy nhiên, trong chiến dịch tranh cử cách đây vài năm, ông lại quên công bố rằng có hàng vạn người đã được cứu sống nhờ luật về thắt dây an toàn của ông. Thuyết phục người khác bằng câu “Nhìn xem, tôi đã làm gì cho anh” luôn dễ dàng hơn rất nhiều so với “Nhìn xem, tôi đã giúp anh tránh được những gì”.

Hãy nhớ lật lại Phần mở đầu để thấy rằng, câu chuyện về một nhà lập pháp giả định nào đó với những động thái có thể giúp chúng ta tránh được thảm họa 11/9. Có bao nhiều người như thế bước đi trên đường mà không có dáng đi thẳng đứng của một vị anh hùng giả tạo?

Hãy dũng cảm xem xét những hậu quả thầm lặng khi đứng trước một kẻ hoạt động nhân đạo lừa đảo.

Bác sĩ
Sự thờ ơ của chúng ta trước các bằng chứng thầm lặng đang cướp đi mạng sống của nhiều người mỗi ngày. Cứ cho là thuốc men sẽ giúp nhiều người tránh được một số bệnh nguy hiểm tiềm ẩn, nhưng lại có nguy cơ giết chết một số người, và đồng thời mang đến cho xã hội một lợi ích sau cùng nào đó. Liệu bác sĩ có đồng ý kê toa? Ông ta không có động cơ gì để làm thế cả. Luật sư của người chịu ảnh hưởng từ tác dụng phụ của thuốc sẽ theo sát vị bác sĩ đó như chó săn, trong khi số người được cứu sống nhờ liều thuốc mà bác sĩ kê toa lại không được nhắc đến.

Một mạng người được cứu sống là một con số thống kê, một người bị tổn thương là một giai thoại, số liệu thống kê thì mơ hồ còn một giai thoại thì lại rất rõ ràng. Tương tự, rủi ro của một hiện tượng Thiên Nga Đen cũng rất mơ hồ.

PHƯƠNG PHÁP BẢO VỆ KIỂU TEFLON 34 CỦA GIACOMO CASANOVA
Điều này đưa chúng ta đến với hình thái biểu hiện nghiêm trọng nhất của bằng chứng thầm lặng, đó là ảo tưởng về tính ổn định. Lỗi thiên kiến làm giảm khả năng nhận thức của chúng ta về những rủi ro đã gặp trong quá khứ, đặc biệt đối với những người may mắn sống sót. Mạng sống của bạn đang bị đe dọa nghiêm trọng, nhưng sau khi vượt qua, bạn lại đánh giá thấp mức độ nguy hiểm thật Sự của tình huống ấy khi nhìn lại quá khứ.


Giacomo Casanova, hay còn gọi là Jacques, Chevalier de Seingalt. Có lẽ một số độc giả sẽ ngạc nhiên vì tay tán gái huyền thoại này lại chẳng giống James Bond chút nào.

Giacomo Casanova là một người thích phiêu lưu mạo hiểm, người mà về sau tự gọi mình là Jacques, Chevalier de Seingalt, một người trí thức, nhiều hoài bão và một tay cưa gái huyền thoại, ở ông có một đặc điểm kiểu Teflon mà giới quý tộc mafia dù gan lì nhất cũng phải ganh tị: bất hạnh không bao giờ đến với ông. Trong khi được nhiều người biết đến bởi sự quyến rũ thì Casanova lại tự xem mình là một dạng học giả nào đó. Ông muốn tìm kiếm danh vọng trong làng văn bằng tác phẩm dài mười hai tập History of my life (Nhật ký đời tôi) được viết bằng thứ tiếng Pháp tệ (tệ một cách thú vị). Bên cạnh những bài học cưa gái vô cùng hữu ích, cuốn Nhật ký này còn gửi đến bạn đọc hàng loạt tình huống “chuyển bại thành thắng” đầy may mắn nhưng vô cùng thú vị. Casanova cảm thấy rằng mỗi khi ông gặp khó khăn thì ngôi sao may mắn của ông, cô vũ công ba lê, đều luôn giúp ông vượt qua. Khi mọi thứ trở nên tồi tệ với ông thì như có bàn tay vô hình nào đó đã khiến tình hình tốt đẹp trở lại, và ông buộc phải tin rằng việc vượt qua khó khăn bằng cách đón chào cơ hội mới chính là đặc tính thực chất bên trong con người mình. Bằng cách nào đó, ông gặp một người đang trong cơn cùng cực và chào mời ông ta một giao dịch tài chính. Đó là một khách hàng mới mà ông chưa từng lừa gạt trước đây, hoặc là người đủ rộng lượng hoặc đủ kém về trí nhớ để quên những trò lừa của ông trong quá khứ. Liệu có phải định mệnh đã ban cho Casanova khả năng vượt qua tất cả khó khăn không?

Không hẳn thế. Hãy xem xét nhận định sau: trong số tất cả những tay phiêu lưu tài giỏi trên trái đất này, nhiều người đôi khi bị khó khăn quật ngã, trong khi số khác thì lúc nào cũng có thể vượt qua. Chính những người sống sót thường có xu hướng tin rằng không gì có thể đánh bại được mình; họ có những kinh nghiệm đủ sâu sắc để viết sách. Dĩ nhiên là cho đến khi…

Thật ra, có rất nhiều người phiêu lưu cảm thấy rằng số phận đã chọn họ, đơn giản là vì có quá nhiều người thích phiêu lưu mạo hiểm và chúng ta không hề nghe đến những chuyện đen đủi mà họ gặp phải. Khi bất đầu viết chương này, tôi chợt nhớ có lần đã trò chuyện với một phụ nữ về vị hôn phu thích khoa trương của cô - con trai một công chức nhà nước, người đã thành công trong một số phi vụ làm ăn và nhờ đó mà có một cuộc sống vương giả: giày được làm thủ công, xì gà Cuba, sưu tập ô tô, v.v. Tiếng Pháp có một từ mô tả những người này - flambeur (người làm ăn lớn) - sự pha trộn giữa khái niệm về một người lịch thiệp quá mức, một nhà đầu cơ ngông cuồng và một người dám chấp nhận rủi ro; đó là một từ mà dường như không hiện diện trong nền văn hóa các nước Anglo-Saxon. Vị hôn phu này rất giỏi xài tiền và khi chúng tôi nói về vận mệnh của anh ta (rốt cuộc thì cô gái cũng lấy anh ta), người phụ nữ cho tôi biết rằng anh ta đang gặp một vài khó khăn nhưng không cần phải lo lắng vì anh ta luôn vượt qua được cùng với một kế hoạch phục thù. Câu chuyện đã xảy ra cách đây vài năm. Vốn tò mò, tôi theo dõi anh ta (và cố gắng làm sao cho thật tinh tế): anh ta vẫn không (hay chưa) phục hồi sau thất bại gần nhất. Anh ta cũng hoàn toàn biệt tăm khỏi nhóm những người làm ăn lớn.

Điều này thì có liên hệ gì với động năng của lịch sử? Hãy nghĩ đến điều mà chúng ta thường gọi là tính quật cường của thành phố New York. Với những nguyên nhân có phần huyền bí, mỗi khi đứng trước bờ vực của thảm họa thì thành phố này nó luôn có cách thoát hiểm và phục hồi. Một số người thật sự tin rằng đây là một thuộc tính nội tại của New York. Đoạn văn sau được trích từ một bài báo đáng trên tờ New York Times:

Điều này lý giải tại sao New York vẫn cần Samuel M. E. - nhà kinh tế học năm nay đã 77 tuổi, người đã nghiên cứu những thăng trầm của New York trong suốt hơn nửa thế kỷ qua… Ông nói: “Chúng ta có truyền thống vượt khó và trở lại mạnh mẽ hơn bao giờ hết”.

Bây giờ, hãy lật ngược ý tưởng trên: nghĩ về những thành phố có quy mô nhỏ như người Giacomo Casanova hay bầy chuột trong phòng thí nghiệm. Tương tự như cách chúng ta đặt hàng ngàn con chuột vào một quy trình thử nghiệm đầy nguy hiểm, hãy đặt những thành phố sau vào một giả lập lịch sử Rome, Athens, Carthage, Byzantium, Tyre, Catal Hyuk (tọa lạc tại Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, một trong những nơi định cư đầu tiên của loài người), Jericho, Peoria và, dĩ nhiên là phải có New York. Chỉ một số thành phố có thể sống sót sau nhiều biến động khắc nghiệt của giả lập lịch sử. Bởi vì chúng tôi biết rằng, với nhiều nước khác, lịch sử không có vẻ gì là tử tế cả. Tôi chắc rằng Carthage, TyreJericho đều có một câu nói đặc trưng, giống như của Samuel M. E. và cũng không kém phần hùng biện “Kẻ thù nhiều lần muốn tiêu diệt chúng ta; nhưng chúng ta lại trở nên kiên cường hơn bao giờ hết. Giờ đây chúng ta là bất khả chiến bại”.

Lỗi thiên kiến này khiến những trường hợp sống sót không đủ điều kiện trở thành chứng nhân của quá trình thí nghiệm đó. Liệu có đáng lo không? Việc bạn sống sót là một điều kiện có thể khiến bạn hiểu không đầy đủ về thuộc tính của trường hợp sống sót đó, bao gồm cả ý niệm nông cạn về “nguyên nhân”.

Bạn có thể áp dụng nhận định trên trong nhiều trường hợp. Hãy thay thế vị giáo sư Samuel M. E. đã về hưu bằng một tổng giám đốc và bàn về khả năng khắc phục khó khăn của công ty ông. “Sự khôi phục nhanh chóng của hệ thống tài chính” mà nhiều người chế nhạo được hiểu như thế nào? Số phận vị tổng giám đốc đã lèo lái công ty hoạt động hiệu quả sẽ như thế nào?

Giờ đây, bạn đọc có thể hiểu được vì sao tôi sử dụng sự may mắn liên tục của Casanova như một khuôn khổ chung cho quá trình phân tích lịch sử hay tất cả những sự kiện đã xảy ra. Tôi tạo ra những tình huống giả định về lịch sử về hàng triệu người như Giacomo Casanova chẳng hạn và quan sát sự khác biệt giữa đặc điểm của những Casanova thành công (bởi vì chính bạn là người tạo ra chúng nên bạn biết chính xác các đặc điểm) với những đặc điểm mà người quan sát kết quả nhận. Từ góc nhìn này, việc trở thành một Casanova không phải là một ý kiến hay.

“Tôi là một người dám chấp nhận rủi ro”
Hãy phân tích công việc kinh doanh nhà hàng tại một nơi cạnh tranh như New York. Quả thật, nếu chỉ mở một nhà hàng thôi, bạn sẽ thấy rằng đó là một ý tưởng ngốc nghếch bởi ngành kinh doanh này vốn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro với hành động phá rối diễn ra khắp nơi, đó là chưa kể đến các khách hàng khó tính, kén chọn. Nghĩa trang yên nghỉ của những nhà hàng thất bại rất tĩnh lặng: dạo một vòng quanh Midtown Manhattan, bạn sẽ thấy những nhà hàng ấm cúng luôn đầy ắp khách hàng quen, bên ngoài những chiếc limousin đang đậu chờ thực khách bước ra với người phụ tá, “chiến lợi phẩm” và “một nửa” của mình. Chủ nhà hàng làm việc mệt nhoài nhưng hạnh phúc vì những nhân vật quan trọng này đã chiếu cố tới quán của ông. Nhưng liệu điều này có nghĩa là nên mở nhà hàng tại một khu vực có tính cạnh tranh cao như thế? Dĩ nhiên là không, tuy nhiên, nhiều người vẫn làm, họ lao vào những cuộc phiêu lưu như thế, chấp nhận rủi ro một cách ngu xuẩn bởi lợi ích trước mắt đã làm họ mù quáng.

Rõ ràng, trong chúng ta có đặc điểm sinh tồn kiểu Casanova, đó là loại gien dám chấp nhận rủi ro, nó khiến ta mù quáng chấp nhận các rủi ro và không nhận thức được tính tùy biến của những kết quả có thể xảy đến. Chúng ta được thừa hưởng sở thích chấp nhận rủi ro ngoài dự tính. Liệu chúng ta có nên khuyến khích những hành vi như vậy?

Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế bắt nguồn từ những hành vi dám chấp nhận rủi ro ấy. Nhưng một gã khờ nào đó sẽ cãi lại như sau: nếu ai đó làm theo cách lý luận của tôi thì hẳn chúng ta đã không đạt được mức tăng trưởng thần kỳ trong quá khứ. Điều này cũng hoàn toàn giống với việc một người chơi trò Ru-lét Nga 35 và xem nó là một trò hay bởi anh ta sống sót và kiếm được tiền.

Mọi người thường nói rằng loài người chúng ta có xu hướng lạc quan và điều đó có vẻ tốt cho chúng ta. Luận điểm này nhằm biện minh cho việc dám chấp nhận rủi ro mà chúng ta thường thấy như một sự táo bạo tích cực, và là một hành động thường được biểu dương trong cộng đồng. Này, cha ông của chúng ta dám đương đầu thách thức trong khi ông, NNT, lại khuyến khích chúng tôi không làm gì (tôi đâu có ý như thế)

Quả thật, chúng ta có đủ bằng chứng để xác nhận rằng loài người là một loài vô cùng may mắn và rằng chúng ta thừa hưởng gien chấp nhận rủi ro. Nhưng trên thực tế, những người dám chấp nhận rủi ro một cách ngu xuẩn chính là những Casanova sống sót.

Một lần nữa, xin khẳng định là tôi không phủ nhận ý tưởng chấp nhận rủi ro vì bản thân tôi cũng từng trải nghiệm nó. Tôi chỉ phê phán cái lối khuyến khích người ta mạo hiểm khi không có thông tin gì về rủi ro. Nhà siêu tâm lý học Danny Kahneman đã đưa ra bằng chứng cho thấy chúng ta chấp nhận rủi ro không phải xuất phát từ sự can đảm mà từ sự ngu dốt và mù quáng trước khả năng xảy ra của rủi ro đó! Các chương tiếp theo sẽ đề cập sâu hơn vì sao chúng ta có xu hướng phủ nhận những yếu tố ngoại lai và kết quả bất lợi khi tiên đoán về tương lai. Nhưng tôi vẫn duy trì quan điểm sau: việc chúng ta có được thành công nhờ may mắn không có nghĩa là chúng ta nên tiếp tục mạo hiểm với những rủi ro tương tự. Chúng ta là một loài đủ trưởng thành để nhận ra điều này, hãy tận hưởng hạnh phúc và cố gắng gìn giữ những gì chúng ta có được nhờ may mắn bằng việc trở nên thận trọng hơn. Chúng ta đang chơi trò Ru-lét Nga; giờ hãy ngưng lại và tìm kiếm một công việc thực tế.

Tôi còn hai ý muốn trình bày về chủ đề này. Thứ nhất, lời biện minh cho thái độ lạc quan thái quá bằng lý lẽ như “nó mang chúng ta đến đây” xuất phát từ một sai lầm còn nghiêm trọng hơn về bản chất con người: đó là niềm tin cho rằng con người sinh ra để hiểu thiên nhiên và bản chất của chính mình, và rằng quyết định của chúng ta đã và đang dựa trên lựa chọn của chính chúng ta. Tôi xin được phản bác điều này. Có quá nhiều bản năng chi phối chúng ta.

Thứ hai - điều hơi đáng lo hơn ý thứ nhất: sự đấu tranh sinh tồn vẫn không ngừng bị phóng đại và thêu dệt bởi nhóm người xem nó là Chân Lý Phúc Âm. Một người càng xa lạ với tính ngẫu nhiên sinh ra Thiên Nga Đen chừng nào thì càng tin vào công dụng tối ưu của tiến hóa. Bằng chứng thầm lặng không hiện hữu trong lý thuyết của họ. Tiến hóa là một chuỗi những may rủi, nhưng rủi nhiều may ít và bạn chỉ thấy những gì tốt đẹp mà thôi. Nhưng về ngắn hạn, rất khó nhận biết đặc điểm nào thật sự tốt cho bạn, nhất là khi bạn đang ở trong môi trường sản sinh ra Thiên Nga Đen như Extremistan. Điều này giống như khi bạn quan sát thấy những tay cờ bạc giàu có bước ra từ sòng bạc và tuyên bố rằng cái gu bài bạc là tốt cho muôn loài bởi nó khiến bạn trở nên giàu có! Việc chấp nhận rủi ro đã khiến nhiều loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng!

Ý tưởng rằng chúng ta đang ở đây, rằng đây là một thế giới tươi đẹp nhất trong mọi thế giới và rằng sự tiến hóa đã thực hiện một công việc vĩ đại có vẻ như khá mơ hồ nếu xét dưới góc độ tác động của bằng chứng thầm lặng. Những kẻ ngốc, giống Casanova hay những kẻ mạo hiểm mù quáng, thường chỉ chiến thắng trong ngắn hạn. Tệ hơn, trong môi trường của Thiên Nga Đen, nơi mà một biến cố hiếm có thể thình lình xuất hiện và làm biến đổi một chủng loài vốn đã thích nghi lâu nay, thì những người mạo hiểm một cách mù quáng cũng có thể chiến thắng trong dài hạn! Tôi sẽ trở lại với ý tưởng này trong Phần 3 và cho bạn thấy vì sao Extremistan lại khiến cho tác động của bằng chứng thầm lặng trở nên tồi tệ hơn.

Nhưng có một hình thái biểu hiện khác đáng để chúng ta nói đến.

TÔI LÀ MỘT THIÊN NGA ĐEN: MỘT LỖI THIÊN KIẾN CỦA LOÀI NGƯỜI
Tôi muốn tỏ ra thực tế hơn và tránh thảo luận về những luận điểm siêu hình hay luận chứng vũ trụ - đâu đó trên trái đất này vẫn còn nhiều mối nguy hiểm đáng để chúng ta lo ngại và vì thế sẽ thật khôn ngoan khi gác việc tự biện siêu hình này lại. Tuy nhiên, cũng tốt nếu bạn lén nhìn một lần (không hơn nhé) cái gọi là luận chứng vũ trụ của loài người bởi nó chỉ ra mức độ nghiêm trọng trong việc chúng ta hiểu sai về tính ổn định của lịch sử.

Gần đây có một làn sóng các nhà triết học và vật lý học (và những người thuộc cả hai nhóm ấy) đang nghiên cứu về sự tự giả định (self-sampling assumption), một dạng khái quát về nguyên lý của thiên kiến Casanova đối với sự hiện hữu của chính chúng ta.

Hãy nghĩ về số phận của chúng ta mà xem. Nhiều người lập luận rằng khả năng bất kỳ ai trong chúng ta có thể tồn tại trong thế giới này thấp đến nỗi nó không được xem là sự ngẫu nhiên của số phận. Hãy nghĩ về khả năng những tham số xuất hiện chính xác nơi chúng cần có mặt để tạo nên sự sống của chúng ta (bất kỳ sự chệch hướng nào trong quá trình định cỡ cũng có thể khiến thế giới của chúng ta nổ tung, sụp đổ hay đơn giản là không thể tồn tại). Người ta thường nói rằng trái đất được sinh ra với những đặc tính giúp cho chúng ta có thể tồn tại. Theo luận điểm này, nó không bắt nguồn từ may mắn.

Tuy nhiên, sự hiện diện của chúng ta trong mẫu thử đã vô hiệu hóa hoàn toàn việc tính toán các khả năng. Một lần nữa, câu chuyện về Casanova có thể khiến cho quan điểm trên trở nên khá đơn giản - đơn giản hơn nhiều so với cấu trúc thông thường của nó. Hãy nhớ lại tất cả những thế giới có thể tồn tại khi các Casanova bé nhỏ đi theo vận mệnh của mình. Người nào vẫn có thể tiếp tục tồn tại (nhờ may mắn) sẽ cảm thấy rằng (giả định là anh ta không thường gặp may) có một thế lực huyền bí nào đó đang dẫn đường cho anh và quan sát số mệnh của anh: “Này, bằng không thì khả năng có thể đến được đây sẽ rất thấp, dù là nhờ vào may mắn”. Đối với những ai đã quan sát tất cả những người thích phiêu lưu, khả năng tìm thấy một người như Casanova không thấp chút nào: có quá nhiều người thích phiêu lưu mạo hiểm thì buộc phải có một ai đó chiến thắng chứ.

Ở đây, vấn đề của vũ trụ và của loài người chính là chúng ta là những Casanova sống sót. Nếu ban đầu bạn có nhiều Casanova mạo hiểm thì hẳn thế nào cũng có một người sống sót, và đoán thử xem: nếu bạn đang ở đây để nói về điều đó thì nhiều khả năng bạn chính là người đặc biệt ấy (lưu ý “điều kiện” đó là bạn đã sống sót để nói về nó). Vì thế, chúng ta không còn ngây thơ khi tính toán các khả năng mà không cân nhắc đến việc điều kiện đảm bảo sống còn cho chúng ta sẽ đặt ra những giới hạn cho quá trình đưa ta đến đây.

Giả định rằng lịch sử sẽ tạo ra những viễn cảnh hoặc “u ám” (tức bất lợi) hoặc “hồng tươi” (tức có lợi). Viễn cảnh u ám sẽ dẫn tới sự diệt vong. Rõ ràng, nếu hiện giờ tôi vẫn ngồi đây viết ra những dòng này thì hẳn nhiên lịch sử đã mang đến một viễn cảnh tươi sáng - viễn cảnh cho phép tôi được hiện diện ở đây, một chặng đường lịch sử mà trong đó tổ tiên tôi đã tránh được họa thảm sát do quân xâm lược trên khắp miền Cận Đông gây ra. Ngoài những viễn cảnh có lợi đó ra thì không có sự hiện hữu của các vụ thiên thạch va vào trái đất, chiến tranh hạt nhân hay các đợt dịch bệnh chết người xảy ra trên diện rộng nào khác. Nhưng tôi sẽ không xem xét loài người như một tổng thể. Bất kỳ khi nào nhìn lại tiểu sử của mình, tôi đều cảm thấy lo lắng cho sự mong manh của đời mình. Một lần, khi trở lại Li băng trong thời gian diễn ra chiến sự vào năm mười tám tuổi, tôi cảm thấy mệt mỏi và ớn lạnh mặc cho cái nóng của mùa hè. Tôi bị sốt thương hàn. Nếu không nhờ vào sự phát minh ra chất kháng sinh của một vài thập niên trước thì có lẽ lúc này tôi sẽ không có mặt ở đây được. Sau này, cũng nhờ vào kỹ thuật trị liệu mới được khám phá mà tôi đã được “cứu sống” khỏi một căn bệnh nghiêm trọng khác. Là một người đang sống trong kỷ nguyên Internet, một người có thể viết và có được một lượng bạn đọc nhất định, tôi đã hưởng lợi rất nhiều từ may mắn của xã hội và từ sự thiếu vắng một cách khác thường của các cuộc chiến tranh quy mô lớn trong thời gian gần đây. Bên cạnh đó, tôi chính là kết quả của sự phát triển loài người mà bản thân nó cũng là một biến cố ngẫu nhiên.

Sự hiện diện của tôi ở đây là một biến cố có xác suất thấp và tôi có xu hướng quên béng nó đi.

Chúng ta hãy trở lại với công thức 10 bước để trở thành triệu phú. Một người thành công sẽ cố thuyết phục bạn rằng thành tựu của anh ta không phải do may mắn, cũng giống như một tay cờ bạc thắng trò Ru-lét 7 lần liên tiếp sẽ giải thích với bạn rằng khả năng thắng liền một mạch như thế còn nhỏ hơn một phần triệu, vì vậy, hoặc là bạn phải tin rằng có một sự can thiệp huyền bí nào đó đang diễn ra hoặc phải thừa nhận kỹ năng và hiểu biết của anh ta trong việc chọn lựa các con số. Nhưng nếu bạn tính đến tất cả các tay cờ bạc ngoài kia, và cả những hành vi mạo hiểm khác (tổng cộng cũng có vài triệu đấy), thì hiển nhiên phải có những trường hợp ăn may như thế. Và nếu bạn đang nói về chúng thì chúng đã xảy ra với bạn rồi.

Lý lẽ của điểm quy chiếu như sau: đừng tính toán các khả năng thông qua lợi thế chiến lược của tay cờ bạc thắng cuộc (hay qua một người may mắn như Casanova, một thành phố không ngừng khôi phục như New York, hoặc một thành phố bất khả chiến bại như Carthage), mà phải xuất phát từ tất cả những ai tham gia vào nhóm đánh bạc ngay từ đầu. Một lần nữa, tiếp tục xem xét ví dụ về người đánh bạc. Nếu xem xét toàn bộ nhóm người tham gia đánh bạc ngay từ đầu thì bạn gần như chắc chắn rằng một người trong số họ (nhưng không biết trước được là ai) sẽ đạt được thành công xuất chúng nhờ may mắn. Vì vậy, từ điểm quy chiếu là nhóm đánh bạc lúc ban đầu, bạn sẽ thấy thành tích ấy cũng không có gì ghê gớm. Nhưng từ điểm quy chiếu của người thắng bạc (và, đây là điểm mấu chốt, những người mà không bao gồm những người thua bạc), một chuỗi dài những chiến thắng sẽ xuất hiện như một cách quá khác thường đến mức không thể lý giải đó là nhờ may mắn. Lưu ý rằng một “tiến trình lịch sử” chỉ là một chuỗi các con số theo thời gian. Những con số này có thể nói lên mức độ giàu có, khả năng thích nghi, cân nặng và mọi thứ.

Khái niệm “bởi vì” đầy hào nhoáng
Chính bản thân khái niệm này đã làm suy yếu nghiêm trọng ý niệm “bởi vì” mà các nhà khoa học thường đề xuất, trong khi các nhà sử học thì lại luôn dùng sai. Chúng ta phải chấp nhận sự mơ hồ của những cái “bởi vì” tương tự nhau cho dù nó có làm ta buồn nôn đến mức nào đi nữa (và nó thực sự khiến ta buồn nôn khi loại bỏ ảo giác giảm đau của quan hệ nhân quả). Tôi xin lặp lại rằng chúng ta là loài động vật luôn tìm kiếm lời giải thích, là những người luôn có xu hướng cho rằng mọi việc đều có một nguyên nhân tương tự nhau và chộp lấy nguyên nhân nào rõ ràng nhất làm lời giải thích. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có những cái bởi vì rõ ràng mà trái lại, thường không có gì cả, thậm chí là một tia sáng nhỏ về những lời giải có thể có. Nhưng bằng chứng thầm lặng đã che phủ sự thật này. Bất cứ khi nào chúng ta còn tồn tại thì ý niệm về cái “bởi vì” vẫn còn bị suy yếu nghiêm trọng. Điều kiện sống còn đó lấn át mọi lời giải thích có thể xảy ra. Theo trường phái Aristotle, cái “bởi vì” không xuất hiện ở đó để giải thích cho mối liên kết chặt chẽ giữa hai sự vật, mà thay vào đó, như chúng ta đã thấy trong Chương 6, là nhằm phục vụ cho điểm yếu đã được che giấu của chúng ta trong việc truyền đạt lời giải thích.

Hãy áp dụng lối suy luận này vào câu hỏi sau: Tại sao bệnh dịch hạch không giết chết nhiều người hơn thế? Người ta sẽ đưa ra hàng loạt những lời giải thích “hào nhoáng”, trong đó có cả lý thuyết về quy mô của trận dịch đó và “các mô hình khoa học” về bệnh dịch. Bây giờ, hãy thử ứng dụng luận chứng suy yếu về quan hệ nhân quả mà tôi vừa mới nhấn mạnh trong chương này: nếu bệnh dịch hạch giết nhiều người hơn thì những người quan sát (tức chúng ta) sẽ không còn ở đây mà quan sát nữa. Vì vậy, các bệnh dịch không nhất thiết phải có đặc điểm là chừa lại vài người như chúng ta. Bất kỳ lúc nào bạn còn hiện hữu thì đừng vội tìm kiếm nguyên nhân và hậu quả. Có thể chúng ta không thể nhận biết được lý do chủ yếu cho sự tồn tại của mình trước những căn bệnh như thế: chúng ta có mặt ở đây là bởi viễn cảnh “hồng tươi” theo kiểu Casanova đã cứu nguy, và nếu như điều này có vẻ quá khó hiểu thì đó là do chúng ta đã bị tẩy não bởi các ý niệm về quan hệ nhân quả và cho rằng việc sử dụng chữ bởi vì sẽ là hành động khôn ngoan hơn việc chấp nhận sự ngẫu nhiên.

Vấn đề lớn nhất mà tôi nhìn thấy ở hệ thống giáo dục hiện nay chính là nó buộc học sinh phải cố nặn ra đáp án cho các nội dung môn học và làm chứng hổ thẹn vì không đưa ra được ý kiến hoặc vì thốt lên rằng “Tôi không biết”. Vì sao Chiến tranh lạnh kết thúc? Vì sao quân Ba Tư lại bại trận ở đảo Salamis? Vì sao Hannibal 36 lại bị phản bội? Vì sao Casanova có thể phục hồi sau gian khó? Trong mỗi ví dụ này, chúng ta xem xét một điều kiện, một tình huống sống sót và tìm kiếm lời giải thích thay vì cứ lật đi lật lại vấn đề và tuyên bố đó là điều kiện để tồn tại, một người không thể hiểu thái được quy trình nhiều như vậy nên họ cần học cách viện dẫn một chừng mực nào đó của tính ngẫu nhiên (ngẫu nhiên là thứ chúng ta không biết; để viện dẫn tính ngẫu nhiên thì phải thú nhận sự ngu dốt). Không chỉ giáo sư đại học là người duy nhất hình thành cho bạn thói quen xấu. Tôi đã trình bày trong Chương 6 về cách mà báo chí nhồi nhét những mối liên kết nhân quả vào nội dung để khiến bạn thích thú với các bài tường thuật đó. Nhưng xin hãy tỏ ra có nhân cách trong việc sử dụng từ “bởi vì” của mình; cố gắng giới hạn nó trong những tình huống mà cái “bởi vì” đó xuất phát từ thực nghiệm chứ không từ việc nhìn lại lịch sử.

Xin lưu ý rằng tôi không nói là nguyên nhân không hề tồn tại; đừng sử dụng luận chứng này để rồi không nỗ lực học tập từ lịch sử. Tất cả những gì tôi muốn nói chính là nó không quá đơn giản như bạn nghĩ; hãy tỏ ra hoài nghi những cái “bởi vì” và cẩn thận ứng phó với nó - đặc biệt trong những tình huống bạn nghi ngờ có bằng chứng thầm lặng.

Chúng ta đã chứng kiến nhiều loại bằng chứng thầm lặng đã bóp méo nhận thức của mình về trải nghiệm thực tế, khiến nó có vẻ dễ lý giải hơn (và ổn định hơn) so với bản chất thực sự. Bên cạnh lỗi chứng thực và liên tưởng ngụy biện, các dạng thức biểu hiện của bằng chứng thầm lặng còn làm méo mó vai trò và tầm quan trọng của Thiên Nga Đen. Trên thực tế, đôi lúc chúng khiến ta đánh giá quá cao (như những thành công trong văn học chẳng hạn), nhưng cũng có khi chúng khiến ta đánh giá quá thấp (như tính ổn định của lịch sử; sự bền vững của loài người).

Trước đây, tôi đã nói rằng hệ thống tri giác của chúng ta không thể phản ứng lại những gì không hiện ra trước mắt hoặc những gì không đánh thức được sự quan tâm về mặt cảm xúc của bản thân. Khi chào đời, chúng ta đã mang trong mình sự hời hợt, tức chỉ chú ý những gì nhìn thấy chứ không bận tâm đến những gì không hiện hữu rõ ràng trong tâm trí mình. Chúng ta tiến hành một cuộc chiến kép chống lại bằng chứng thầm lặng. Phần vô thức trong cơ chế suy luận của chúng ta (có một thứ như thế) sẽ phớt lờ cái nghĩa trang đó cho dù ý thức rõ được sự cần thiết phải xem xét nó. Xa mặt, cách lòng: chúng ta nuôi dưỡng thái độ khinh rẻ tự nhiên, thậm chí thô bạo, đối với những gì trừu tượng.

Điều này sẽ được minh họa cụ thể hơn ở chương tiếp theo.

Thiên Nga Đen
Chương 9: Ngụy Biện Khôi Hài Hay Tính Bất Ổn Của Kẻ Lập Dị

ĂN TRƯA TẠI HỒ COMO (TÂY) ■ QUÂN ĐỘI CŨNG GIỐNG NHƯ CÁC NHÀ TRIẾT HỌC ■ TÍNH NGẪU NHIÊN CỦA PLATO

TONY BÉO

“Tony Béo” là một trong những người bạn của Nero - người ghét cay ghét đắng Yevgenia Krasnova. Có lẽ chúng ta nên cân nhắc hơn khi gọi anh ta là “Tony thách thức bề ngang” vì xét một cách khách quan, anh ta không quá thừa cân như tên hiệu của mình; có chăng chỉ là cơ thể anh khiến bất cứ thứ gì mặc vào đều có vẻ không vừa. Quần áo anh ta mặc là hàng đặt may, nhiều bộ được may ở Rome nhưng trông như được mua từ mấy website bán hàng trên mạng. Anh ta có một bàn tay múp míp, ngón tay đầy lông, đeo lắc tay bằng vàng và lúc nào cũng nồng nặc mùi kẹo cam thảo, thứ mà anh ta ăn với số lượng lớn như một lựa chọn thay thế cho thói quen hút thuốc khi xưa. Anh ta thường không để tâm chuyện mọi người gọi mình là Tony Béo nhưng vẫn thích được gọi là Tony hơn. Nero gọi anh ta theo cách lịch sự hơn “Tony vùng Brooklyn” bởi vì giọng nói và cách nghĩ theo kiểu Brooklyn của anh ta, dù Tony là một trong những người Brooklyn giàu có nhất đã đến New Jersey cách đây 20 năm.

Tony là người có tính tình vui vẻ, thành công nhưng không lập dị. Anh ta chọn cho mình cách sống hòa đồng trong tập thể. Khó khăn duy nhất có thể thấy ở Tony có vẻ như là cân nặng, kèm theo đó là sự cằn nhằn của gia đình, họ hàng xa và bạn bè, những người luôn cảnh báo anh ta vẻ nguy cơ mắc bệnh tim sớm. Nhưng tất cả đều vô ích; Tony thường đến một nông trại màu mỡ ở Arizona để không phải ăn, giảm vài cân, nhưng rồi sau đó gần như toàn bộ số cân mất đi đều quay lại với anh ta trong khoang hạng sang của chuyến bay trở về. Thật bất ngờ khi anh ta không thể ứng dụng khả năng tự kiềm chế và tính kỷ luật đáng ngưỡng mộ cho chính vòng eo của mình.

Tony khởi đầu với vai trò nhân viên văn phòng cho bộ phận tín dụng thư của một ngân hàng tại New York vào đầu thập niên 80. Anh loay hoay với giấy tờ và làm một số việc nhàm chán, về sau, anh ta được chuyển đến bộ phận phụ trách việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và tìm lời giải cho bài toán về cách huy động vốn từ những ngân hàng khổng lồ, cách thức hoạt động của bộ máy quan liêu và những gì họ muốn nhìn thấy trên giấy tờ. Không lâu sau, với tư cách nhân viên ngân hàng, Tony có được cơ ngơi từ các vụ kiện phá sản, mua lại từ các tổ chức tài chính. Anh ta có sự hiểu biết sâu sắc về nhân viên ngân hàng, những người chào bán cho bạn ngôi nhà không phải là tài sản của họ thì bản thân họ không quan tâm đến ngôi nhà bằng chủ nhân thực sự của nó; Tony nhanh chóng hiểu ra cách để nói chuyện và sử dụng những người này. Sau này, anh ta còn học cách mua đi bán lại trạm xăng bằng tiền đi vay từ các ngân hàng nhỏ lân cận.

Tony có một sở thích khác thường là tìm cách kiếm nhiều tiền một cách dễ dàng nhằm mục đích tiêu khiển mà không hề cảm thấy căng thẳng, không cần công việc văn phòng, không hội họp, chỉ đơn giản là kết hợp hài hòa các thương vụ làm ăn vào cuộc sống riêng tư của mình. Phương châm của Tony là “Tìm xem ai là kẻ ngốc”. Rõ ràng, kẻ ngốc thường là các ngân hàng: “Các nhân viên văn phòng thì chẳng quan tâm đến điều gì”. Việc tìm kiếm những gã ngốc này là bản chất thứ hai của anh ta. Nếu dạo quanh một dãy nhà với Tony, bạn sẽ cảm thấy mình tiếp nhận thêm được rất nhiều thông tin về cấu trúc của thế giới này chỉ nhờ “nói chiện” với Tony.

Tony có biệt tài kiếm được những số điện thoại không có trong danh bạ, những vé máy bay hạng sang mà không phải mất thêm đồng nào, hoặc có thể giúp bạn gửi ô tô vào một garage đã được thông báo hết chỗ, tất cả đều nhờ vào mối quan hệ hay sức thuyết phục mạnh mẽ của anh ta.

John không đến từ Brooklyn
Tôi tìm thấy được một sự hoàn hảo không thuộc vùng Brooklyn ở một người mà tôi sẽ gọi là Tiến sĩ John. Trước đây, John từng là kỹ sư và hiện đang làm chuyên viên thống kê cho một công ty bảo hiểm. John gầy, rắn rỏi, đeo kính và diện complê sậm màu. Anh sống ở New Jersey, không xa chỗ Tony Béo lắm nhưng dĩ nhiên ít khi nào họ chạm mặt nhau. Tony không bao giờ đi làm bằng xe điện và, thực tế là không bao giờ đi làm bằng phương tiện giao thông công cộng (anh ta lái chiếc Cadillac, thỉnh thoảng cũng lái chiếc ô tô mui trần sản xuất tại Ý của vợ mình và nói đùa rằng, anh ta trông nổi bật hơn phần còn lại của chiếc xe nhiều). Tiến sĩ John là bậc thầy về giờ giấc; có thể ví anh như một chiếc đồng hồ vậy. Anh âm thầm đọc báo suốt thời gian ngồi xe điện đến Manhattan, sau đó gấp nó lại cẩn thận để dành lúc ăn trưa mang ra đọc tiếp. Trong lúc Tony làm giàu cho các chủ nhà hàng (họ rạng rỡ khi nhìn thấy anh ta đến và chào đón bằng những cái ôm ồn ào) thì mỗi sáng, John cẩn thận xếp bánh sandwich, salad trái cây vào hộp nhựa. Còn về cách ăn mặc, John cũng diện complê nhưng trông nó giống như được mua từ website bán hàng trên mạng, ngoại trừ việc rất có khả năng là đúng như thế.

Tiến sĩ John là một người rất chịu khó, có lý lẽ và hòa nhã. Không như Tony, anh ta làm việc rất nghiêm túc, nghiêm túc đến nỗi nếu ví thời gian làm việc và hoạt động giải trí là hai hạt cát thì bạn có thể thấy cả một đường ngăn cách giữa chúng. Anh ta có bằng tiến sĩ Kỹ thuật điện tại Đại học TexasAustin. Do có chuyên môn về điện toán và thống kê nên John được thuê thực hiện các giả lập trên máy tính cho một công ty bảo hiểm; và anh ta thích thú với công việc này. Phần lớn công việc của anh ta là vận hành những chương trình chạy trên máy tính để “quản lý rủi ro”.

Tôi hiểu rằng thật khó để Tony Béo và Tiến sĩ John cùng hít thở một bầu không khí, nói gì đến khả năng họ có thể gặp nhau trong một quầy bar, vậy hãy chỉ xem đây là một thí nghiệm về tư duy. Tôi sẽ đưa ra câu hỏi cho từng người và so sánh câu trả lời:

NNT (tức là tôi): Giả định bạn có một đồng xu “công tâm”, tức xác suất mặt ngửa hay mặt sấp xuất hiện khi gieo nó là như nhau. Tôi gieo đồng xu 99 lần và lần nào cũng được mặt ngửa. Vậy khả năng tôi được mặt sấp trong lần gieo tiếp theo là bao nhiêu?

Tiến sĩ John: Câu hỏi thật đơn giản. Dĩ nhiên là 0,5 bởi anh đã giả định xác suất xuất hiện mỗi mặt là 50% và các lần gieo độc lập với nhau. NNT: Ý anh thì sao Tony?

Tony Béo: Dĩ nhiên là không quá 1%.

NNT: Sao vậy? Tôi cho anh giả định ban đầu rằng đây là đồng xu nguyên chất, nghĩa là mặt nào cũng có xác suất là 50% cả.

Tony Béo: Hoặc là đầu óc anh toàn thứ bã đậu hoặc anh chỉ là một tên ngốc không hơn không kém khi tin vào cái nguyên tắc “50 phần chăm” ấy. Đồng xu không tinh khiết. Đây không thể là một trò chơi công bằng được. (Dịch ý anh ta ra: Có nhiều khả năng giả định ban đầu của bạn về tính công bằng của đồng xu là sai vì nó luôn cho mặt ngửa trong suốt 99 lần thử).

NNT: Nhưng Tiến sĩ John cho là 50%.

Tony Béo (thì thầm vào tai tôi): Tôi quen nhiều gã có những ví dụ ngu xuẩn từ ngày còn làm việc cho ngân hàng. Họ rất chậm tiêu. Và những gã này quá bão hòa rồi. Họ rất dễ bị lừa.

Bây giờ, bạn sẽ chọn ai trong hai người này cho chức thị trưởng Thành Phố New York (hay Ulan Bator, Mông Cổ) ? Tiến sĩ John hoàn toàn giới hạn suy nghĩ của mình trong “chiếc hộp” - một “chiếc hộp” mà người khác đưa cho anh ta; còn Tony Béo thì gần như hoàn toàn nằm ngoài “chiếc hộp” ấy.

Để làm rõ thuật ngữ “kẻ lập dị”, tôi xin giải thích như sau, “kẻ lập dị” ở đây không phải là người trông có vẻ lôi thôi, không có giá trị thẩm mỹ, nhìn vàng vọt, đeo kính và gài một cái máy tính xách tay ở thắt lưng như thể nó là vũ khí. Kẻ lập dị chỉ đơn giản mà một người có tư duy hoàn toàn được gói gọn bên trong “chiếc hộp” mà thôi.

Có bao giờ bạn tự hỏi vì sao có quá nhiều sinh viên liên lục đạt điểm A lại chẳng giành được thành tựu gì trong đời, trong khi một số kẻ lẹt đẹt phía sau lại đang kiếm được rất nhiều tiền, mua sắm kim cương và luôn chủ động gọi lại cho chủ nhân của những cuộc gọi đến, hay thậm chí còn đoạt giải Nobel trong một ngành khoa học danh giá như y học chẳng hạn? Một số trường hợp như thế này có thể liên quan đến vận may, nhưng chính cái đặc tính cằn cỗi và ngu dân vốn thường gắn với kiến thức trường lớp đã cản trở quá trình nhận thức những gì đang diễn ra trong thực tế cuộc sống. Trong một bài kiểm tra IQ cũng như trong bất kỳ môi trường học thuật nào khác (kể cả thể thao), Tiến sĩ John sẽ nổi trội hơn Tony Béo nhiều. Nhưng ngược lại, Tony Béo sẽ qua mặt Tiến sĩ John trong các tình huống đời thường gắn với môi trường sống. Thật ra, dù không có học thức cao nhưng Tony vô cùng hiếu kỳ trước kết cấu của thực tế và trình độ học vấn của chính mình - đối với tôi, anh ta còn khoa học hơn Tiến sĩ John, tôi nói thế xuất phát từ bản chất sự việc chứ không vì xã giao.

Chúng ta sẽ tìm hiểu thật sâu về sự khác biệt trong cách trả lời của Tony Béo và Tiến sĩ John; đây có thể là vấn đề gây tranh cãi nhất mà tôi biết về mối liên hệ giữa hai loại kiến thức: một cái chúng ta gọi là kiến thức Plato và cái còn lại là phi Plato. Nói một cách đơn giản, những người như Tiến sĩ John có thể tạo ra Thiên Nga Đen ngoài Mediocristan - đầu óc của họ bảo thủ. Dù vấn đề này rất phổ biến nhưng một trong những ảo tưởng tồi tệ nhất về nó là cái mà tôi gọi là ngụy biện trò chơi (ludic fallacy) - thuộc tính của những bất định mà chúng ta đối mặt trong cuộc sống hầu như không mấy liên quan đến những hiện tượng bất định đã được “xử lý” trong các bài kiểm tra hay các thí nghiệm.

Do đó, tôi sẽ kết thúc Phần 1 bằng câu chuyện sau.

ĂN TRƯA TẠI HỒ COMO
Một ngày mùa xuân vài năm trước, tôi rất bất ngờ khi nhận được thư mời từ viện chính sách do Bộ Quốc phòng Mỹ tài trợ để tham dự phiên họp tư duy về những nguy cơ có thể xảy ra tại Las Vegas mùa thu năm sau. Người mời tôi đã gọi điện thông báo “Chúng ta sẽ ăn trưa ở ngọn đồi nhìn ra Hồ Como” và điều này khiến tôi rất buồn. Las Vegas (cùng với vương quốc bài bạc anh em của nó ở Dubai) có lẽ là nơi tôi không bao giờ muốn đến trước khi nhắm mắt. Việc ăn trưa tại “Como giả” khác gì cực hình. Nhưng rất mừng là tôi đã đến.

Viện chính sách này đã tập hợp một nhóm người phi chính trị mà họ gọi là những người hành động và học giả (và cả những người đang hành nghề như tôi - những người không chấp nhận sự phân biệt đó) vốn thường xuyên tiếp xúc với tính bất định trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Và đặc biệt là họ hẹn nhau ở một sòng bạc lớn.

Buổi hội nghị được diễn ra dưới hình thức họp kín, mang màu sắc tôn giáo và quy tụ những người mà nếu không vì sự kiện này thì sẽ không bao giờ ngồi lại với nhau. Điều đầu tiên khiến tôi bất ngờ chính là giới quân nhân có cách tư duy, ứng xử và hành động không khác gì những nhà triết học - thậm chí còn hơn hẳn những nhà triết học hay “bới móc” những chuyện vặt vãnh trong hội nghị chuyên đề hàng tuần của họ, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về điều này trong Phần 3. Họ, nhóm quân nhân, cũng có lối tư duy mở như giới thương nhân nhưng chính xác hơn và không sợ yếu tố nội quan (introspection). Thư ký Bộ trưởng Quốc phòng cũng có mặt trong nhóm chúng tôi, tuy nhiên, nếu không biết công việc hiện tại của ông ta thì tôi sẽ nghĩ đó là một người hoài nghi theo chủ nghĩa thực nghiệm. Thậm chí một điều tra viên với chuyên môn về kỹ thuật từng khảo sát nguyên nhân vụ nổ của phi thuyền không gian cũng rất sâu sắc và có tư duy mở. Tôi rời cuộc họp và nhận ra rằng chỉ có nhóm quân nhân là đối mặt với tính ngẫu nhiên bằng sự trung thực độc đáo của trí tuệ nội quan - không giống như nhóm học thuật và nhóm điều hành cấp cao chuyên sử dụng tiền của người khác. Điều này không thể hiện trong phim ảnh về chiến tranh, nơi quân đội thường được miêu tả như những kẻ chuyên quyền hiếu chiến. Những người trước mặt tôi không phải là những người châm ngòi chiến tranh. Quả thật, với nhiều người, chính sách quốc phòng sẽ được coi là thành công khi có thể loại bỏ được các mối nguy cơ tiềm tàng mà không cần dùng đến chiến tranh, chẳng hạn như chiến lược làm người Nga phá sản do chi phí quốc phòng leo thang. Khi tôi bày tỏ sự ngạc nhiên với Laurence, người thuộc giới tài chính ngồi bên cạnh, ông ta bảo với tôi rằng quân đội là nơi quy tụ nhiều nhân tài và những nhà tư duy rủi ro thực thụ hơn hầu hết - nếu không muốn nói là tất cả - các lĩnh vực khác. Những người trong Bộ Quốc phòng muốn hiểu rõ nhận thức luận về rủi ro.

Trong nhóm thảo luận còn có một quý ông, người điều hành một nhóm cờ bạc chuyên nghiệp mà hầu hết các sòng bài đều cấm cửa. Ông đến để chia sẻ những hiểu biết uyên thâm với chúng tôi. Ngồi cách vị giáo sư khoa học chính trị không xa, không những nghiêm nghị, vị giáo sư này còn là người khô khan và tiêu biểu cho phong cách “ông lớn” khi rất giữ kẽ cho tiếng tăm của mình, không nói gì ngoài khuôn khổ của “chiếc hộp” và không bao giờ nở một nụ cười. Trong suốt các phiên họp, tôi cố tưởng tượng cảnh nhân vật lịch thiệp ấy bị bỏ một con chuột vào lưng và quằn quại trong hoảng loạn. Có thể ông ta giỏi thảo ra những mô hình kiểu Plato của cái gọi là lý thuyết trò chơi, nhưng khi bị Laurence và tôi chỉnh huấn vì dùng sai lối ẩn dụ trong tài chính, ông ta không còn vẻ kiêu ngạo nữa.

Bây giờ, khi bạn nghĩ về những rủi ro chính mà các sòng bài phải đối mặt thì các tình huống đánh bạc sẽ tự khắc hiện ra trong đầu. Một người có thể nghĩ rằng rủi ro cho các sòng bạc là những con bạc may mắn có thể đánh bại nhà cái khi cứ liên tục thắng lớn, hay tiền có thể chảy vào túi những tay chơi bịp với rất nhiều thủ đoạn xảo quyệt. Không chỉ công chúng tin vào điều đó mà quản lý các sòng bạc cũng thế. Do đó, các sòng bạc đều trang bị một hệ thống giám sát công nghệ cao để theo dõi những tên bịp bợm, những người sử dụng thủ thuật đếm bài và bất kỳ ai khác muốn qua mặt họ.

Từng người tham dự phiên họp sẽ trình bày ý kiến của mình và lắng nghe người khác. Tôi đứng lên trình bày về những hiện tượng Thiên Nga Đen và định nói với họ rằng điều duy nhất mà tôi biết đó là chúng ta biết rất ít về chúng, rằng đặc tính của chúng là lẳng lặng khiến cho chúng ta thót tim, và rằng mọi cố gắng Plato hóa chúng có thể làm phát sinh thêm nhiều hiểu lầm nữa. Giới quân nhân có thể hiểu những điều như thế và gần đây, ý tưởng đó đã trở nên phổ biến trong quân đội qua khẩu hiệu: ẩn số không biết (tương phản với ẩn số đã biết). Nhưng tôi đã chuẩn bị bài nói của mình (trên năm tấm khăn ăn trong nhà hàng, một số chữ bị nhòe) và sẵn sàng thảo luận khái niệm mà tôi mới nghĩ ra nhân dịp này: ngụy biện trò chơi. Tôi định nói với họ rằng mình không nên phát biểu tại một sòng bạc bởi nó chẳng liên quan gì đến yếu tố bất định cả.

Tính bất định của kẻ lập dị
Ngụy biện Ludic là gì? Ludic bắt nguồn từ chữ ludus trong tiếng Latin có nghĩa là trò chơi.

Tôi hy vọng các đại diện của sòng bạc sẽ nói trước để sau đó tôi có thể công kích họ khi chứng minh rằng sòng bạc hoàn toàn không phải là nơi lựa chọn cho buổi thảo luận như thế này, bởi những rủi ro mà một sòng bài phải đối mặt rất tầm thường và nằm ngoài khuôn viên sòng bạc, và nghiên cứu của họ không phải là thứ có thể dễ dàng chuyển nhượng được. Theo quan điểm của tôi, đánh bạc là một bất định đã được “vô trùng” và thuần hóa. Vào sòng bài, bạn phải biết luật, bạn có thể tính toán xác suất, và loại bất định bạn gặp trong đó - như chúng ta sẽ thấy sau đây - sẽ rất nhẹ nhàng và thuộc về Mediocristan. Phát biểu mà tôi đã chuẩn bị là những dòng như sau: “Sòng bạc chính là sự mạo hiểm duy nhất của loài người mà xác suất của nó được nhiều người biết đến, thể hiện bằng đường cong Gauss (tức đường cong hình chuông) và gần như có thể biểu thị bằng kết quả tính toán”. Bạn không thể hy vọng sòng bạc sẽ trả tiền thắng cược cho mình liên tục một triệu lần cho dù bạn có đạt được số lần thắng cược nhiều như thế; hoặc họ sẽ bất ngờ thay đổi luật chơi vì không bao giờ có chuyện người ta thiết kế “36 nút đen” 37 cùng xuất hiện với xác suất 95%. 38

Trong cuộc sống, bạn không thể biết được chính xác các khả năng; bạn cần phải khám phá ra chúng, và người ta cũng không định nghĩa được nguồn gốc của bất định. Các nhà kinh tế học, những người không bao giờ coi trọng khám phá của những nhân vật không phải là nhà kinh tế học, đã tìm ra sự khác biệt giả tạo về rủi ro Knight (thứ bạn có thể tính toán) và bất định Knight (thứ bạn không thể tính toán) sau khi có một chàng Frank Knight nào đó tái phát hiện khái niệm về bất định vô danh và bỏ công tư duy rất nhiều nhưng có lẽ anh ta chưa bao giờ mạo hiểm với rủi ro hoặc có thể anh ta sống gần một sòng bài nào đó. Nếu từng mạo hiểm với các rủi ro về kinh tế hay tài chính thì hẳn anh ta đã nhận ra rằng những rủi ro “có thể tính toán” này thường không dễ tìm thấy trong thực tế! Chúng chỉ là những cỗ máy kỳ lạ trong phòng thí nghiệm!

Tuy nhiên, chúng ta lại có xu hướng tự động gắn kết cơ hội với những trò chơi “Plato hóa” (Platonified) này. Có một điều khiến tôi điên tiết đó là, sau khi biết được tôi chuyên về các yếu tố may rủi, ngay lập tức, mọi người dồn dập hỏi tôi các vấn đề liên quan đến trò súc sắc. Hai họa sĩ vẽ minh họa cho ấn bản bìa mềm của một trong số các cuốn sách của tôi đã tự ý bổ sung một hột súc sắc lên cái bìa và dưới mỗi chương, làm tôi tức điên lên. Biên tập viên, vốn đã quen với cách nghĩ của tôi, cảnh báo họ nên “tránh lối ngụy biện trò chơi” như thể nó là một vi phạm trí tuệ phổ biến vậy. Và thật buồn cười là hai họa sĩ nọ đều phản ứng theo cùng một kiểu: “À, xin lỗi, tôi không biết”.

Những ai dành quá nhiều thời gian dí mũi vào các loại bản đồ sẽ có xu hướng nhận định sai lãnh thổ các quốc gia trên đó. Thử đi mua một cuốn sách mới nhất viết về lịch sử môn xác suất và tư duy xác suất mà xem; bạn sẽ ngập chìm trong hàng đống cái tên được người ta cho là “tư tưởng gia xác xuất”, những người hoàn toàn xây dựng ý tưởng của mình trên các công trình đã được “khử trùng”. Gần đây, tôi có theo dõi xem người ta dạy gì cho sinh viên trong môn học về may rủi và tôi thực sự kinh hãi; họ đã bị tẩy não bởi lối ngụy biện trò chơi và đường cong hình chuông kỳ quặc. Điều tương tự cũng xảy ra với những người theo học Tiến sĩ về lý thuyết xác suất. Tôi chợt nhớ ra gần đây có cuốn sách của nhà toán học uyên bác Amir Aczel, với tựa đề May rủi. Có thể đó là một cuốn sách xuất chúng nhưng cũng giống như nhiều cuốn sách đương đại khác, nó vẫn được dựa trên lối ngụy biện trò chơi. Hơn nữa, cứ cho rằng may rủi có gì đó liên quan đến toán học thì quá trình toán học hóa nhỏ nhoi mà chúng ta có thể thực hiện trong thế giới thực tại này cũng không thừa nhận tính ngẫu nhiên vừa phải do đường cong hình chuông thể hiện, ngoại trừ tính ngẫu nhiên vừa phải có tính thang bậc. Những gì có thể toán học hóa thường thuộc hệ Mandelbrot chứ không thuộc Gauss.

Bây giờ, hãy tìm đọc bất kỳ tác phẩm nào của các tư tưởng gia cổ điển, như Cicero chẳng hạn, những người có thể nói một điều gì đó thực tế về chủ đề may rủi, bạn sẽ khám phá ra một cái gì đó rất khác khái niệm về xác suất vốn vẫn còn mơ hồ, như nó vốn dĩ phải thế, bởi sự mơ hồ ấy là bản chất tự nhiên của bất định. Xác suất là một nghệ thuật tự do (liberal art); nó là con đẻ của chủ nghĩa hoài nghi chứ không phải công cụ để thỏa mãn tham vọng tìm ra các phép toán nhiệm màu và những điều chắc chắn của những người lúc nào cũng “kè kè” máy tính trong tay. Trước khi lối tư duy phương Tây chết chìm trong tâm lý “khoa học” của nó - cái mà được gọi một cách ngạo mạn là Thời đại khai sáng - người ta dùng bộ não để nghĩ chứ không phải để tính toán. Trong cuốn chuyên luận rất hay - nhưng hiện đã biến mất khỏi nhận thức của chúng ta - mang tên Dissertation on the Search for Truth (Chuyên luận truy tìm sự thật), xuất bản năm 1673, tay bút chiến Simon Foucher đã trình bày tâm lý chuộng những điều chắc chắn/tâm lý cầu an của con người. Tác giả đã dạy chúng ta nghệ thuật hoài nghi, cách định vị mình giữa hoài nghi và tin tưởng. Ông viết, “Một người cần thoát khỏi nghi ngờ để tạo nên khoa học - nhưng hầu như không mấy ai để ý đến tầm quan trọng của việc không sớm thoát khỏi nó… Trên thực tế, thường thì người ta thoát khỏi nghi ngờ mà không hề nhận ra”. Sau đó, ông tiếp tục cảnh báo: “Chúng ta có xu hướng giáo điều từ lúc còn là bào thai trong bụng mẹ”.

Bằng lỗi chứng thực đã được thảo luận trong Chương 5, chúng ta sử dụng ví dụ về những trò chơi với khả năng áp dụng thành công lý thuyết xác suất, và rồi khẳng định đây là một trường hợp phổ biến. Hơn nữa, dù đánh giá thấp vai trò của may mắn trong cuộc sống nói chung nhưng chúng ta lại có xu hướng quan trọng hóa nó trong các trò chơi may rủi.

Tôi muốn hét lên “Tòa nhà này đang ở trong rào chắn Plato (Platonic fold); ngoài kia mới là cuộc sống”.

Cá cược bằng hạt súc sắc gian
Tôi khá bất ngờ khi biết chính bản thân tòa nhà ấy cũng nằm ngoài rào chắn Plato.

Ngoài việc thiết lập luật chơi, công việc quản lý rủi ro của sòng bài còn nhằm mục đích giảm thiểu các khoản lỗ do những tay bạc bịp gây ra. Không cần phải được đào tạo sâu về lý thuyết xác suất, bạn cũng có thể hiểu rằng sòng bạc phải đạt đủ tiêu chuẩn đa dạng hóa giữa các bàn để không phải lo lắng về nguy cơ bị tấn công bởi một con bạc cực kỳ may mắn (luận chứng đa dạng hóa ấy dẫn đến đường cong hình chuông mà chúng ta sẽ tiếp tục theo dõi trong Chương 15). Tất cả những gì họ phải làm là kiểm soát “những con cá voi”, những con bạc đại gia đến từ Manila hay Hồng Kông vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các sòng bài; trong một lượt chơi, “cá voi” có thể “xoay xở” kiếm được dăm ba triệu đô-la Mỹ. Nếu không gian lận, thành tích mà những con bạc riêng lẻ đạt được thường không đáng kể và không ảnh hưởng gì đến sự ổn định của sòng bạc.

Tôi đã hứa là sẽ không đi sâu vào chi tiết hệ thống giám sát tinh vi của các sòng bạc; tất cả những gì được phép nói là tôi có cảm giác như mình xuất hiện trong một bộ phim về James Bond - tôi tự hỏi không biết có phải sòng bạc được xây dựng phỏng theo các bộ phim hay liệu các bộ phim được mô phỏng từ các sòng bạc. Tuy nhiên, mặc cho sự tinh vi đó, rủi ro mà họ đối mặt không liên quan đến những gì có thể tiên đoán sau khi biết rằng cơ sở kinh doanh đó là một sòng bạc. Tôi nói như thế bởi vì có bốn khoản thua lỗ lớn nhất mà các sòng bạc phải chịu hay khó tránh được và chúng hoàn toàn nằm ngoài khả năng kiểm soát tinh vi ấy.

Thứ nhất, họ mất khoảng 100 triệu đô-la Mỹ khi một diễn viên chủ chốt bị con hổ xé xác trong buổi diễn chính (buổi diễn Siegfried and Roy từng là một trò thu hút của Las Vegas). Diễn viên đó đã nuôi dạy con hổ và thậm chí còn cho nó ngủ trong phòng mình; cho đến khi không ai có thể nghĩ loài mãnh thú này lại tấn công chủ nhân của nó. Trong các tài liệu phần tích về những viễn cảnh có thể xảy ra, sòng bạc thậm chí đã tính đến khả năng con hổ có thể nhảy về phía khán giả nhưng không ai nghĩ đến việc mua bảo hiểm cho những trường hợp đó.

Thứ hai, một người thầu khoán bị thương khi đang xây dựng phần kiến trúc phụ cho một khách sạn. Quá giận dữ về cách bồi thường của họ, ông đã tìm cách cài mìn cho nổ tung khách sạn. Kế hoạch của ông là cài chất nổ quanh các cột móng của tòa nhà. Dĩ nhiên, nỗ lực của ông ta đã bị ngăn chặn (bằng không, theo lập luận trong Chương 8 thì giờ này chúng tôi không còn ở đây nữa), nhưng tôi vẫn rùng mình khi nghĩ đến chuyện mình từng ngồi trên một đống thuốc nổ.

Thứ ba, các sòng bài phải trình lên Tổng cục thuế (Intemal Revenue Service) một báo cáo nêu rõ khoản lợi nhuận của người đánh bạc nếu con số đó vượt quá mức cho phép. Lẽ ra phải gửi văn bản này đi thì không biết vì lý do gì, nhân viên sòng bạc lại giấu chúng trong những chiếc hộp dưới bàn làm việc của mình. Nhiều năm trôi qua mà không ai nhận thấy có điều sai trái đang diễn ra. Và không ai có thể nghĩ rằng nhân viên đó không chịu gửi văn bản đi. Trối thuế hay vi phạm các quy định về thuế là những tội rất nặng, và sòng bạc phải đứng trước nguy cơ bị rút giấy phép kinh doanh hoặc bị phạt nặng. Dĩ nhiên, sau cùng họ chọn cách nộp phạt (khoản phạt khổng lồ này không được công khai) nhưng đây chính là cách may mắn nhất để thoát khỏi khó khăn.

Thứ tư, có rất nhiều viễn cảnh nguy hiểm khác như con gái chủ sòng bạc bị bắc cóc buộc ông ta phải vi phạm luật bài bạc, mở két sắt lấy hết tiền mặt để chuộc lại con.

Kết luận: Phương pháp tính toán theo kiểu phỏng đoán cho thấy rằng giá trị tính theo đồng đô-la của những hiện tượng Thiên Nga Đen này - những nguy cơ “nằm ngoài khuôn mẫu” và những cuộc tấn công tiềm ẩn mà tôi vừa phác thảo trên đây - vượt xa những rủi ro “trong khuôn khổ” theo tỷ lệ gần 1000:1. Các sòng bài thường chi hàng trăm triệu đô-la để đầu tư cho việc xây dựng lý thuyết cá cược và hệ thống giám sát công nghệ cao trong khi rất nhiều rủi ro gặp phải lại nằm ngoài mô hình quản lý của họ.

Tất cả những người này, và cả phần còn lại của thế giới vẫn còn nghiên cứu về xác suất và tính bất định qua các ví dụ về bài bạc.

TÓM TẮT PHẦN MỘT
Những gì được tô điểm sẽ tự động nổi lên bề mặt
Tất cả các chủ đề trong Phần 1 thật ra chỉ là một. Bạn có thể suy nghĩ về một chủ đề suốt một thời gian dài đến mức bị nó ám ảnh. Bằng cách nào đó, bạn có rất nhiều ý tưởng nhưng chúng có vẻ không gắn kết với nhau một cách rõ ràng; cái lôgic gắn kết chúng vẫn lẩn trốn bạn. Tuy nhiên, bạn thật sự hiểu rõ rằng tất cả những ý tưởng này đều là một. Trong khi đó, những người mà Nietzsche gọi là những tên trọc phú trí thức (bildungs- philisters) 39 hay những tên trọc phú văn hóa, giới “cổ xanh” của lĩnh vực tư duy, sẽ nói với bạn rằng bạn đang đề cập đến nhiều lĩnh vực; bạn đáp lại rằng những ngành kiến thức này là giả tạo và tùy tiện, nên không có giá trị. Sau đó, bạn nói với họ rằng bạn là người lái chiếc limousine, và họ sẽ không thèm đếm xỉa đến bạn nữa - bạn cảm thấy như vậy tốt hơn vì bạn không giống họ và vì thế, bạn không còn phải chịu giải phẫu để nằm vừa chiếc giường Procrustes 40 của những ngành kiến thức đó nữa. Sau cùng, chỉ cần một biến cố nhỏ và bạn sẽ thấy chúng hoàn toàn là một vấn đề.

Buổi tối nọ, tôi tình cờ tham dự một buổi tiệc cocktail, tại căn hộ của một người từng là nhà sử học nghệ thuật ở Munich. Trong ngôi nhà đó có một thư viện lớn với nhiều sách nghệ thuật, đến nỗi tôi không tin rằng có đến ngần ấy đầu sách tồn tại trên đời. Tôi đứng nhâm nhi loại rượu vang trắng thượng hạng vùng Riesling giữa đám đông tự phát giao tiếp bằng tiếng Anh ở góc nhà với hy vọng rằng thứ men say này sẽ đưa tôi vào trạng thái có thể nói chuyện bằng thứ tiếng Đức nhái giọng của mình (ND: nghĩa là tiếng Đức thể hiện qua cách nói của một người không biết tiếng Đức). Một trong những tư tưởng gia uyên bác mà tôi biết, chủ một công ty máy tính, Yossi Vardi, thôi thúc tôi tóm tắt “ý tưởng của mình” trong khi chỉ đứng trên một chân. Không dễ gì đứng được bằng một chân sau vài ly rượu vang Riesling thơm lừng nên tôi không thể ứng biến được. Ngày hôm sau, tôi hiểu ra vấn đề một cách muộn màng. Tôi nhảy ra khỏi giường với ý tưởng sau: những cái được tô điểm và chủ quan kiểu Plato sẽ tự động nổi lên bề mặt. Đây là sự mở rộng giản đơn của bài toán về kiến thức. Đơn giản, tối qua tôi chỉ mới thấy được một mặt của thư viện Eco, mặt còn lại vốn không bao giờ được thấy đang bị lờ đi. Đây cũng là bài toán về bằng chứng thầm lặng. Nó là nguyên do vì sao chúng ta không thấy được Thiên Nga Đen: chúng ta lo lắng về những gì đã xảy ra chứ không phải những gì lẽ ra đã xảy ra nhưng lại không xảy ra. Đây là nguyên do khiến chúng ta bị Plato hóa, ưa chuộng những giản đồ đã biết với kiến thức được hệ thống tốt - đến mức không còn thấy thực tế nữa. Nó giải thích vì sao chúng ta rơi vào bài toán quy nạp, vì sao chúng ta chứng thực. Nó giải thích vì sao những người “học tập nghiên cứu” giỏi và đạt thành tích cao trong trường thường có xu hướng trở thành kẻ ngốc của ngụy biện trò chơi.
Và nó giải thích vì sao chúng ta có nhiều hiện tượng Thiên Nga Đen mà không bao giờ học tập từ sự xuất hiện của chúng, bởi những gì không xảy ra thường được cho là quá trừu tượng. Nhờ Vardi, giờ đây tôi thuộc về nhóm những người suy nghĩ đơn giản.

Chúng ta đều thích những gì hữu hình, chứng thực, có thể sờ mó được, rõ ràng, cụ thể, sống động, mang tính xã hội, đã được ghi nhớ, chất đầy cảm xúc, đáng chú ý, rập khuôn, chuyển động màu mè, cường điệu, hào nhoáng mang tính hình thức, cách nói ba hoa ra vẻ uyên bác (khỉ thật!), những nhà kinh tế học khoa trương thuộc trường phái toán học Gauss, những thứ tầm phào đã được toán học hóa, sự phô trương, Viện hàn lâm Pháp, Trường kinh doanh Harvard, giải Nobel, những bộ complê sậm màu với áo sơ mi trắng và cà vạt Ferragamo, bài diễn văn cảm động và những gì khủng khiếp. Suy cho cùng, chúng ta thích những gì được kể lại.

Than ôi, với phiên bản hiện tại của loài người, chúng ta không được lập trình để hiểu những vấn đề trừu tượng - chúng ta cần một bối cảnh cụ thể. Sự ngẫu nhiên và bất định đều trừu tượng. Chúng ta đánh giá cao những gì đã xảy ra nhưng lại thờ ơ trước những cái lẽ ra đã xảy ra. Nói cách khác, bản chất của chúng ta là nông cạn và hời hợt - nhưng chúng ta không nhận ra điều này. Đây không phải là vấn đề thuộc về tâm lý học; nó xuất phát từ thuộc tính chính của thông tin. Phần bị che khuất của mặt trăng rất khó thấy; muốn thấy được nó, ta phải mất nhiều công sức. Tương tự, việc làm sáng tỏ những gì chưa thấy đòi hỏi rất nhiều nỗ lực về tâm lý và khả năng tính toán.

Khoảng cách giữa con người và loài linh trường
Lịch sử đã ghi nhận rất nhiều sự khác biệt giữa các hình thái con người bậc cao và bậc thấp. Với người Hy Lạp, họ có người Hy Lạp và tộc người mọi rợ, những người ở phương Bắc giao tiếp bằng thứ ngôn ngữ rời rạc mà theo mô tả của người Athen thì nghe giống như tiếng rít của loài thú. Với người Anh, biểu tượng của cuộc sống cao cấp là những người quyền quý - trái với cách hiểu ngày nay, cuộc sống của giới quỹ tộc rất nhàn hạ, có nhiều luân thường đạo lý và các quy tắc ứng xử, nhưng hầu như họ không cần làm việc để đáp ứng nhu cầu cuộc sống vốn đã quá sung túc. Với người New York, họ gồm những người đến từ Manhattan, từ Brooklyn, hay tệ hơn, từ Queens. Với tư tưởng Nietzsche trước đây, có những người mang động thái Apollonian 41 và những người mang động thái Dionysian 42 còn với tư tưởng phổ biến hơn của Nietzsche thì có cả siêu nhân, độc giả của ông hiểu thế nào cũng được miễn là phù hợp. Còn với những người theo phái khắc kỷ hiện đại, một cá thể cao cấp hơn sẽ tán thành quy tắc đức hạnh cao quý - quy tắc sẽ quyết định sự lịch thiệp trong hành vi ứng xử và khả năng tách bạch kết quả ra khỏi nỗ lực. Tất cả những khác biệt này đều nhằm gia tăng khoảng cách giữa chúng ta với những người bà con trong họ linh trưởng. (Tôi vẫn nhấn mạnh rằng khi buộc phải đưa ra quyết định, khoảng cách giữa chúng ta và những người bà con lông lá này ngắn hơn chúng ta tưởng rất nhiều.)

Tôi đề nghị thế này, nếu muốn đơn giản bước chân vào một thế giới cao cấp hơn, hãy dứt bỏ phần “con” trong bạn đến mức có thể, bạn cần phải chống lại lối tường thuật, tức là hãy tắt ti vi, hạn chế tối đa thời gian đọc báo, không thèm đọc blog. Hãy rèn luyện để có thể đưa ra quyết định dựa trên khả năng lý luận của chính mình; tống cổ Hệ thống 1 (hệ thống tự khám phá hay dựa trên trải nghiệm) ra khỏi những quyết định quan trọng. Hãy tự rèn luyện để nhận ra sự khác biệt giữa những gì giàu cảm xúc và những gì dựa theo kinh nghiệm. Việc cách ly khỏi sự độc hại của thế giới này còn tạo ra một lợi ích: nó sẽ khiến bạn hạnh phúc hơn. Ngoài ra, luôn ghi nhớ sự hiểu biết nông cạn của chúng ta về xác suất, nơi sản sinh ra mọi khái niệm trừu tượng. Bạn không nhất thiết phải nỗ lực hơn nữa để hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới xung quanh. Trước tiên, hãy học cách tránh “đi đường hầm”.

Một cây cầu nối nhịp sẽ xuất hiện. Sự mù mờ kiểu Plato mà tôi đã minh họa qua câu chuyện về sòng bạc còn có cách thể hiện khác: tập trung. Khả năng tập trung là một ưu điểm lớn nếu bạn là anh thợ sửa đồng hồ, bác sĩ giải phẫu não hay kỳ thủ cờ vua. Nhưng “tập trung” là việc sau cùng bạn cần làm khi đối mặt với sự bất định (chính sự bất định mới cần phải tập trung, không phải chúng ta). Sự tập trung này sẽ biến bạn thành kẻ ngốc; nó sẽ chuyển thành những vấn đề về dự đoán mà chúng ta sẽ gặp trong phần tiếp theo. Dự đoán, chứ không phải tường thuật, mới chính là bài kiểm tra thực sự cho vốn hiểu biết của bạn về thế giới này.
Mục lục:


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét