Ivanhoe
Tác giả:
Walter Scott
Thể
loại: Giả tưởng, Lịch sử
Giới thiệu
Ivanhoe
là một cuốn tiểu thuyết hư cấu lịch sử của nhà văn Walter Scott xuất bản vào
năm 1820, cốt chuyện được xây dựng lấy bối cảnh của nước Anh thế kỷ 12. Câu
chuyện mô tả năm 1194, sau khi thất bại của cuộc thập tự chinh thứ ba, khi
nhiều kẻ tham gia thậm tự quay trở lại châu Âu. Vua Richard, người đã bị bắt
bởi công tước Áo trên đường trở về cố quốc.
Câu
chuyện của một gia đình quý tộc Saxon tại một thời điểm khi giới quý tộc Anh là
người Norman áp đảo người Saxon và xoáy sâu phân tích sự mâu thuẫn của hai tập
đoàn người này. Truyện tập trung kể về nhân vật chính là Ivanhoe người ủng hộ
cha mình cho lòng trung thành của mình cho vua Norman
tức vua Richard Tim Sư tử. Câu chuyện cũng kể về mối tình giữa Ivanhoe và
Rebecca – một cô con gái của một tên Do Thái keo kiệt bủn xỉn.
Cuốn
tiểu thuyết được xuất bản năm 1819. Đây chính là đỉnh cao trong sáng tác văn
học của ông, kể về cuộc đấu tranh giữa người Normandy từ Pháp tới với người Saxon cũng
như về những đụng độ tranh giành quyền lực trong giới quý tộc Anh. Chính nhờ
“Ivanhoe” mà một năm sau đó, Scott đã được phong tặng tước hiệu nam tước và trở
thành Sir Walter Scott. Cũng trong thời điểm này, con gái nhà văn đã lấy chồng
là J.G. Lockhart, người về sau đã viết cả một cuốn sách về cuộc đời bố vợ…
Chương 1
Chuyện
chúng tôi kể xảy ra ở nước Anh vào những năm cuối ngôi vua Ric-hard Coeur de
Lion Đệ nhất, trong một vùng đất đẹp đẽ trải ra giữa Sheffield và thành phố mơ
mộng Don-caster.
Một cánh
rừng rộng lớn bao phủ phần lớn núi đồi và thung lũng vùng này. Truyền thuyết
kể: nơi đây con rồng huyền thoại Wan-tley đã ra công phá hoại; cũng là nơi diễn
ra một vài trận giao tranh đẫm máu nhất trong những năm nội chiến giữa hai phái
hoa hồng bạch và hoa hồng điều; lại cũng là nơi những băng nhóm của những người
tù biệt xứ can trường phát triển mạnh: những kỳ tích của họ, được phổ vào các
bài hát cổ của nước Anh và đã trở thành quen thuộc với dân chúng.
Ric-hard
đệ nhất đi chinh chiến ở Đất thánh, mang theo các tướng lĩnh, tinh hoa của
kỵ-sĩ-đạo nước Anh; vận mệnh xoay vần không mấy mỉm cười với ông và các thần
dân của ông đã buồn bã lại còn nghe tin ông bị quận công nước áo giam giữ nữa.
Tuy nhiên điều này không làm sự thù hằn giữa hai dân tộc Normands và Saxons dịu
bớt đi. Thật vậy, khi vua vắng mặt, những người Normands cư xử càng tàn bạo hơn
đối với người Saxons.
ở đây,
muốn để bạn đọc hiểu rõ câu chuyện, chúng tôi thấy cần phải đi ngược thời gian
hơn một trăm năm về trước, vào năm 1066. Guil-laume le Conquérant, quận công xứ
Norman-die, chiến thắng quân Saxons, ở Hastings, và chiếm lấy ngôi vua nước
Anh. Nắm quyền bính trong tay, quý tộc người Normanrd tha hồ lợi dụng làm nhục
người Saxons, ra tay cướp bóc và tàn phá đất nước của họ. Những lãnh chúa
Sax-ons nào còn giữ được nguyên vẹn gia sản của họ là rất hiếm. Bốn thế hệ qua
chưa đủ để hòa chung hai dòng máu thù địch Normanrd và Anglo-Sax-ons, cũng
không đủ để hòa giải, trong cùng một ngôn ngữ và các quyền lợi chung, hai dân
tộc đối địch nhau, một đằng hãy còn đang say sưa trong chiến thắng, một đằng
đang rên xiết vì tủi nhục và chiến bại. Tất cả các vị vua gốc Nor-manrd đều
thiên vị rõ nét nhất đối với thần dân gốc người Normanrd. ở triều đình và trong
lâu đài các quý tộc, người ta chỉ nói tiếng Pháp.
Tiếng
Anglo-Saxons bị bỏ rơi, chỉ có dân vùng nông thôn và hạng cùng đinh nói.
Đó là
tình trạng các sự việc xảy ra khi câu chuyện của chúng tôi bắt đầu.
Ai biết
được những cây cao bóng cả nọ không là những vật chứng kiến lặng lẽ những cảnh
man rợ diễn ra giữa những người sống đầu tiên trên mảnh đất này? Ai biết những
mô đá còn lại nằm rải rác trên mặt đất kia, trong những thời kỳ đầu lịch sử,
không là nơi đặt các nạn nhân sẽ bị thiêu sống làm lễ vật dâng lên các vị thần
độc ác. Trong những vật chứng lâu năm kia mà sấm sét hay bão táp hãy còn nhường
lại ấy, chúng ta bắt gặp hai người cùng ngồi trên một mô đất ở cánh rừng thưa.
Bề ngoài trông họ dữ dằn và thô kệch: người thứ nhất mặc một cái áo che thân
làm bằng da thú dài từ cổ đến đầu gối; chân xỏ dép, quai làm bằng da lợn lòi;
thắt lưng đeo một cái túi nhỏ, một cái tù và đồng và một con dao găm mài sắc
hai cạnh. Người cùng đi kém vài tuổi mặc một chiếc áo như người trên nhưng bằng
vải và vẽ màu một cách kỳ dị. Dép đi cũng thế nhưng hai chiếc khác màu nhau,
một chiếc màu vàng, một chiếc màu đỏ. Trái với anh bạn đầu trần, anh đội một
chiếc mũ không vành có đeo khánh nhạc làm anh dễ bị phát hiện mỗi bước chân đi.
Điều
đáng chú ý ở hai người là họ đều đeo ở cổ một chiếc vòng bằng đồng y như vòng
đeo cổ chó. Một vài chữ saxons ghi rõ: "Đây là nô lệ của ngài Cedric de
Rotherwood".
Những
chiếc vòng đó khá rộng nên không làm người đeo khó thở hoặc cử động khó khăn.
Chúng
làm liền một mảnh, chỉ có giũa mới tháo ra được.
Lúc này,
hai người ngồi nói chuyện với nhau dưới vòm cây; họ như không hề chú ý chút nào
đến thân phận khốn khổ của họ ghi trên cổ.
Người
thứ nhất làm nghề chăn lợn, người thứ hai thuộc loại hề mà các lãnh chúa hồi đó
thường mang theo để làm vui cho họ những lúc buồn chán..Gurth, tên người chăn
lợn, tính tình hay cáu gắt. Anh thổi tù và nhiều lần để giục đàn lợn vào hàng
nhưng không ăn thua. Anh đứng dậy nói:
– ôi,
Thánh địa ơi! Những con vật khốn nạn này! Quỷ tha ma bắt chúng mày đi! Từ sáng
đến giờ chúng mày đã không nhá khá nhiều quả sồi dại rồi sao? Wamba này, hãy
nhìn xem này, chúng không nghe tao, vẫn dầm mình trong bùn kìa!
Đối
tượng nghe anh nói những lời trên không trả lời chỉ vươn vai ngáp dài. Đầu anh
ta ngả ra đằng sau và lắc lắc khiến các quả chuông con phát ra vài tiếng kêu dè
dè.
– Fang,
lại đây Fang! – Gurth nói tiếp với con chó to lớn đang chạy đi dồn đàn lợn.
Nhưng
Fang chỉ nghe theo bản năng nó, nhảy lung tung làm đàn lợn càng thêm rối loạn.
– Trời
đất ơi! Hãy vật chết con chó ngớ ngẩn này đi! – Gurth kêu lên. – Wamba, anh bạn
ơi, hãy giúp tôi một tay, dồn các con lợn này lại!
– Chân
tay tôi sinh ra không phải để làm những việc đó, – anh hề trả lời, – và quần áo
tôi sẽ chịu thương tổn vô cùng nếu tôi dùng nó để đi đuổi lợn cho anh. Vì nó
che thân tôi nhưng nếu tôi cởi ra là tôi phạm phép lịch sự nên anh bạn ạ, tôi
không dại gì mà nhấn chân xuống bùn xua lợn cho anh!
– Không
rút ra được điều gì gọi là lẽ phải ở cái đầu to của thằng rồ này! – Gurth thở
dài nói.
Nói xong
anh đi đuổi lợn vào hàng. Fang dáng chừng đã hiểu chủ muốn gì nên một vài phút
sau nó đã lùa đàn lợn đâu vào đấy vào một trong những con đường dài khúc khuỷu
xuyên qua rừng,.
Hai
người đi sau, tiếp tục trò chuyện bằng tiếng saxons là thứ tiếng, như chúng tôi
nói ở trên, chỉ để cho dân hạ lưu và một số lãnh chúa saxons hiếm hoi còn gắn
bó với phong tục tập quán của tổ tiên nói.
– Chúng
ta hãy mau chóng ra khỏi vùng này đi, – Gurth nói; – chúng ta đã đi sát địa thổ
nhà ông Philippe de Malvoisin quá nhiều rồi đấy; ông ấy và ông chủ Cedric tốt
bụng nhà ta không hòa hợp với nhau đâu; ông ấy có thể gây rắc rối cho chúng ta
và đàn lợn đấy… Nhất là lại có cơn giông đang đe dọa kia kìa, mình chẳng muốn
bị ướt chút nào..- Nước càng giội mát đầu óc chúng ta, anh Gurth ạ, – Wamba vừa
trịnh trọng nói, vừa giơ một ngón tay chỉ lên bầu trời tối đen trên đầu họ.
– Đầu
cậu đã rạn rồi, anh rồ ạ, – anh chăn lợn lẩm bẩm nói, – óc cậu sẽ càng hứng đầy
nước thôi!
Dường
như Wamba không nghe thấy những lời nói vừa rồi: anh còn chú ý nghe một tiếng
động xa xa, những tiếng vó ngựa tới gần của nhiều kỵ mã.
– A, có
quân! – Anh kêu lên. – Hãy gượm đã, anh Gurth, để xem có chuyện gì nào.
– Mặc
kệ! – Người bạn đồng hành nói. – Cậu không thấy cơn giông đe dọa kia à, mình
thì chẳng quan tâm đến…
– Suỵt!
Có lẽ ông Philippe de Malvoisin và tên hầu đáng sợ Réginal Front-de-Boeuf đến
gây sự với ông chủ chúng ta chăng? Ai biết…
Wamba
ngừng nói, vì đã thấy các kỵ mã phóng nước kiệu xuất hiện. Gurth quát chó đang
sủa gầm gừ.
Đi đầu
là hai lãnh chúa; nhìn vào cách ăn mặc và ngựa cưỡi ta biết họ là ở đẳng cấp
cao:
một là
giáo sĩ cấp cao mặc một bộ áo dạ rất đẹp vùng Flandre; ông thuộc dòng Citeaux;
quân hầu gồm hai frères tạp vụ và hai tu sĩ. Cũng như ông tu sĩ cấp cao, ông đi
cùng mặc một áo choàng nhà đạo màu hồng điều và như vậy là ông ta không thuộc
vào một trong bốn dòng đạo chính quy. Trên vai phải đeo một thập tự màu trắng,
hình dáng đặc biệt chứng tỏ ông thuộc vào dòng Templiers. Mặt ông có một vết
sẹo dài và nước da ngăm ngăm đen. Có thể ông đã ở lâu ngày ở các nước phương
đông. Mắt ông nhìn rắn rỏi và nghiêm khắc. Ai gặp ông đều phải công nhận ông
quen giáp mặt với nguy nan và không chịu lùi bước trước một kẻ thù nào. Thoạt
tiên, hai tên giữ ngựa theo sau, một tên dắt con ngựa chiến của ông, một tên
cầm ngọn giáo buộc một miếng vải mỏng trên vẽ một chữ thập quốc hiệu
Sau đến,
khép hậu, là hai kỵ sĩ da nâu, đầu quấn khăn trắng. Họ cưỡi hai con ngựa ả Rập.
ông chủ lấy họ làm quân hầu trong một cuộc chinh phạt bên châu Phi.
Wamba và
Gurth chưa hết bàng hoàng trước một đoàn người ngựa kỳ lạ như vậy thì ông giáo
sĩ cao cấp đã nói với hai anh bằng tiếng Pháp:
– Chúa
ban ơn lành cho các con! Ta xin các con hãy chỉ cho chúng ta, những người lữ
hành đã mệt vì một chặng đường dài, một chỗ dừng chân gần nhất.
Wamba
hình như không nghe thấy vì vẫn mải nhìn ông tu sĩ dòng Templier và những người
tháp tùng của ông, còn Gurth hoặc không hiểu hay không muốn hiểu tiếng nói của
những kẻ tiếm quyền nên hai anh chàng chày cối này chẳng nói câu nào.
Ông thầy
tu nhắc lại câu hỏi nhưng lần này nói bằng thứ tiếng pha giữa Saxons với tiếng
Pháp mà người Normanrd lẫn người Saxons thỉnh thoảng có dùng.
– Xung
quanh đây có nhà lãnh chúa nào ta có thể xin nghỉ và uống chén nước được không?
– Thưa
cha kính mến và các ngài cùng đi, muốn tìm một nơi trú chân thì có tu viện
Brinx-worth gần đây và…
– Anh
bạn tốt bụng ơi, – ông cha đạo nghe nói thế thì lắc đầu trả lời, – nếu khánh
nhạc ở mũ anh không kêu lanh canh liên hồi làm rối loạn đầu óc anh thì anh ắt
hiểu những người nhà thờ chúng ta không xin ở nhờ nhà lẫn nhau. Họ muốn trú
chân ở nhà những người vô đạo để những người này có dịp làm đẹp lòng Chúa bằng
cách phục vụ và tôn vinh những giáo sĩ nô bộc của Chúa.
Wamba
cũng như bạn mình không muốn chủ mình phải chứa trong nhà những kẻ lạ mặt có
dáng điệu quá kênh kiệu và nói một thứ tiếng thật kinh tởm này, liền nói:
– Tuy
nhiên, thưa các ngài, tôi thấy tu viện này rất thích hợp. Mặc dầu các quả
chuông có kêu đến rạn đầu tôi và có ảnh hưởng chút ít trí óc tôi thì không phải
các tu sĩ ở tu viện này không là những người vui sướng nhất và đón tiếp niềm nở
nhất một vị phẩm tước cao trong giới đạo đó sao?.- Có câm ngay đi không, cái
thằng vớ vẩn này! – ông bạn đi cùng vị cố đạo dõng dạc mắng.
– Hãy
mau chỉ đường cho chúng ta nếu mi không muốn nếm nhát dao của những người chăn
ngựa của ta đấy nhá!
Gurth
tiến lên một bước nói:
– Xin
ngài lãnh chúa chưa quen hãy nhẹ lời một chút. ông chủ chúng tôi, ngài Cedric
de Saxon, là người biết bảo vệ quyền của mình. Kẻ nào chạm đến nô lệ của người
là không yên đâu!
– Cám ơn
anh bạn tốt bụng đã cho ta biết điều đó. ông Cedric de Saxon ở đâu? Liệu ông ấy
có sợ làm nhiệm vụ đỡ đầu một người nhà thờ và có từ chối không cho ăn đối với
một templier quang vinh như ngài Brian de Bois-Gulbert, bạn tôi đây, vừa ở Đất
Thánh về không?
Tức thì
Wamba trả lời:
– Các
ngài cứ theo con đường trước mặt mà mà đi. Các ngài sẽ tới một nơi gọi là chữ
thập Đảo ngược vì ở đó chỉ còn mỗi cái bệ. Có bốn con đường giao nhau: các ngài
hãy đi theo đường rẽ trái.
Các kỵ
sĩ cho ngựa đi nước kiệu; họ không chú ý đến nụ cười hóm hỉnh của hai gã nô lệ
ranh ma đang trao đổi với nhau.
– Cầu
trời cho ông templier nóng như lửa ấy không gặp lại cậu trên đường đi, – Gurth
thốt lên. – Nhưng cậu chỉ lối sai cho những người không biết đường đi thì có
hay không đấy?
– Tôi
làm điều gì không đúng hở anh Gurth?
Tôi
không chỉ đúng đường đi sao? Đường nào cũng là đúng cả vì đường nào cũng dẫn
đến Rome cả
thôi. Mưa rơi trên những cành lá; mây đen che phủ bầu trời, màn đêm buông
xuống. Gurth và Wamba rảo bước, tay xua, miệng hét, đuổi đàn lợn chạy mau.
Các kỵ
sĩ cũng đi gấp gáp và họ đã đi xa.
– Cái ý
khó khăn không muốn chỉ nhà chủ của hai tên nô lệ là nghĩa làm sao, thưa cha
Ay-mer?
– ông
dòng templier hỏi.
– Chúng
đáng mặt là đầy tớ đấy, frère Brian ạ, – cha Aymer trả lời. – Tôi biết tay
Cedric này, hắn tự xưng là cháu đích tôn của Hereward và tự hào thuộc về một
dòng họ mà kẻ khác không dám nói ra sợ làm phật ý những người thắng trận đang
cai quản đất nước. Cái tên chăn lợn y hệt chủ hắn và không gì buộc hắn phải trả
lời chúng ta cả, cậy thế càng không được, còn tên thứ hai là một thằng rồ!
– Thằng
rồ chỉ là bề ngoài thôi…
Đêm bây
giờ thật là tối đặc và các kỵ sĩ khi đến Chữ thập Lộn ngược chỉ thấy có ba con
đường.
– Hai
tên gian giảo đã lừa chúng ta! – ông dòng templier nguyền rủa. – Chỉ có ba
đường.
Chúng ta
sẽ đi đường nào đến nhà Cedric de Saxon đây?
– Chẳng
có đường nào đâu ạ. – Một tiếng nói như chính ở bệ đá phát ra.
Những kẻ
theo hầu giật mình sợ hãi; nhưng chủ của họ, nhất là ông thầy dòng templier,
rất hoài nghi nên chẳng tin có thần linh ma quỷ nào hiện hình ra cả.
– Ngươi
là ai đó hả? – Brian giật ngựa về phía bệ đá hỏi. – Nào, hãy trả lời đi không
thì vó ngựa ta sẽ xéo nát mi ra bây giờ.
– Chẳng
phải tốn công làm thế các ngài ạ, -một bóng người hình như từ trong bệ đá nhảy
ra nói. – Tại sao các người đến quấy rầy ta đang nhập địch?
– Chúng
tôi chỉ là những người đi lạc đường thôi, – cha đạo trả lời, – chúng tôi tìm
đường đến nhà ông Cedric de Saxon ở Rotherwood.
– Nếu
tôi có ngựa tôi sẽ dẫn các ngài đi, -người lạ mặt trả lời, – vì chính tôi cũng
đến đấy.
– Thế
thì hay quá, – cha đạo nói. – Frère Benoit đâu, hãy cho anh này mượn con ngựa
dắt tay của tôi; rồi tôi sẽ thưởng cho anh ta con ngựa đó nếu chúng ta đi được
đến nơi đến chốn.
Người lạ
mặt nhẹ nhàng nhảy lên ngựa và đi hướng ngược lại con đường Wamba chỉ. Phải nói
rằng con đường bị lá cây che kín, nếu không phải là người địa phương thì không
tài nào tìm thấy..Người dẫn đường đi khẩn trương trên con đường rộng khúc khuỷu
quanh co, thỉnh thoảng có những con đường nhỏ xen qua. Con ngựa do anh ta chắc
tay điều khiển chạy không chút ngập ngừng theo hướng đi anh định.
– Cậu
phải gần nhà lắm mới nhận ra đường đi trong đêm tối thế này, đến thánh cũng
chịu chẳng lần ra đâu nhỉ! – Brian de Bois-Guilbert nhận xét như vậy.
Bây giờ
mưa đã tạnh, gió đuổi những đám mây cuối cùng bay đi. Các kỵ sĩ đi theo con
đường hai bên là những cây to cành lá giao nhau thành vòm.
– Đến
rồi. – Người lạ mặt nói ngắn gọn.
Thật
vậy, trước mặt anh ta là một khu nhà lớn xám xịt; các kỵ sĩ dừng ngựa trước một
hàng rào cao bảo vệ thường thấy ở thời kỳ đó. ông dòng templier lấy tù và ra
thổi.
Cha
Aymer hài lòng đã đến nơi bởi vì cưỡi ngựa giữa đêm tối trên những con đường
lầy lội chẳng làm ông vui thích chút nào. Thấy được thoải mái trở lại, ông bắt
đầu hỏi chuyện anh chàng may mắn gặp ở ngã ba Chữ thập Đảo ngược.
Thoạt
tiên ông hỏi:
– Anh ở
đâu?
– Thưa
cha kính mến, tôi là người hành hương từ Đất Thánh trở về.
– Tốt
hơn là anh cứ ở đấy. – ông dòng tem-plier lẩm bẩm nói.
– Tôi có
việc phải về nước Anh, – người đi đường ưỡn ngực trả lời. – Với lại, những kẻ
khác, không phải là tôi đâu nhé, đã tuyên thệ đi bảo vệ Đất Thánh lại không
đến, không đến cái nơi mà bổn phận kêu gọi họ phải đến ấy, hình như cũng không
có một lý do đứng đắn nào thì phải!
Khi nói
những lời đó một cách tự hào, người lữ hành quay sang nhìn ông dòng templier,
đối với người lữ hành ông không phải là xa lạ.
Brian
thấy bị chọc ngòi, nổi nóng sắp trả lời thì họ nghe thấy ở cổng có tiếng chân
người lẫn tiếng chìa khóa và then mở cửa kêu lẻng xẻng.
Chương 2
Lâu đài
Rotherwood gồm nhiều khu nhà ngăn cách nhau bằng những cái sân lớn, nó không
giống chút nào với những lâu đài khác lênh khênh những tháp canh cao ghê gớm đã
trở thành phong cách chung của nền kiến trúc Anh và giới quý tộc Normanrd. Lâu
đài của Cedric de Saxon cổ hơn nhiều; dáng dấp trông man rợ và dễ sợ với ai nhỡ
lạc vào. Có hai hàng rào bao quanh lâu đài, hàng rào được xây cất sao cho những
người bắn cung hay dùng gươm, giáo có thể ngăn cản được dễ dàng không cho quân
địch tới gần. Một cái hào rộng và sâu lượn khắp một vòng. Nước trong hào được
lấy từ một cái suối cạnh lâu đài. Một chiếc cầu bằng gỗ thô có thể kéo lên khi
bị tấn công và hạ xuống khi muốn vào lâu đài. Cedric de Saxon ở trong lâu đài
đó. Chủ lâu đài ở hàng họ thane hay franklin; ông thuộc dòng dõi quý tộc và là
người Saxons chính cống, điều ông tự hào cao nhất. ông coi người Normanrd là
những kẻ đi chinh phục và tiếm quyền và ông tự coi mình là người bảo hộ nhà quý
tộc Athelstane, máu mủ ruột thịt của hoàng gia; ông mơ tưởng đặt lại ông này
lên ngôi vua thay cho Ric-hard Coeur de Lion, ông vua thích tìm phiêu lưu trận
mạc trên Đất Thánh hơn là cai quản chính thần dân mình. Nhưng đối với Ric-hard
Plantagenêt nguồn gốc là Normanrd thì hạnh phúc của những người Saxons thô kệch
liệu có quan trọng gì!
ít ra,
đó là quan niệm của Cedric.
Cedric ở
với cô cháu gái, lady Rowena, cô này nhờ những quan hệ đặc biệt nên có thể hy
vọng làm nữ hoàng Anh. ông quý tộc saxon Ce-dric có ý định xe duyên cô với
người bạn thân của mình là Athelstane…
Cuối
ngày hôm đó, Cedric đi đi lại lại trong một căn phòng rộng rãi nhưng thấp. Bữa
ăn tối đã được dọn lên từ lúc nãy trên một chiếc bàn dài; Cedric ngồi vào bàn
ăn. ông ngồi vào chiếc ghế cao theo phong tục là chỗ của chủ nhà. Phía đầu bàn
bên kia, trước mặt ông, cũng có một chiếc ghế cao lúc này còn trống.
Thỉnh
thoảng ông đưa mắt nhìn chiếc ghế, vẻ sốt ruột; ông lấy tay xoa đầu con nọ con
kia trong đám chó săn giống mâtins hay lévriers mõm nhọn đang xúm xít quanh
ông.
Cedric
không hài lòng; ông đã đói mà cô cháu lại chưa chịu xuống nhà để dùng bữa với
ông; mặt khác, Gurth, tên chăn lợn và Wamba, tên hề cũng chưa trở về mặc dầu
trời đã tối. ông e ngại rằng một trong hai ông láng giềng Réginal Fron-de Boeuf
hay Philippe de Malvoisin ra cướp đàn lợn của ông. Ngoài sự lo lắng đó ra, ông
còn sốt ruột vì không có anh hề bên cạnh để mua vui cho ông. Hơn nữa từ trưa
ông không ăn uống gì và bây giờ đã quá giờ ăn khuya từ lâu rồi.
– Lady
Rowena làm gì lâu thế? – ông hỏi một trong các cô hầu đứng trong phòng.
– Dạ, cô
nương xuống ngay đây ạ. – Cô hầu gái trả lời. – Cô chỉ còn chải đầu nữa thôi ạ.
– Thế
còn thằng Gurth, thằng Wamba đâu?
Hay
chúng bị những quân ăn cướp Normanrd bắt mất rồi? Chúng còn chưa về ư? – ông
hỏi thêm.
– Dạ,
lệnh giới nghiêm điểm mới chưa đầy một tiếng và…
– Quỷ
tha ma bắt mày đi, Oswald ạ! – ông quát mắng tên hầu rượu. – Sao mày dùng từ
ngữ của kẻ địch đó hả? Từ giới nghiêm là từ Nor-manrd, nó chỉ dùng để nói với
những tên nô lệ của chúng… Nhưng chúng hãy coi chừng! Ta sẽ cho chúng biết ta
là ai! Cedric de Saxon này chưa phải thân già không cầm nổi thanh kiếm… – Rồi,
đưa tay lên mắt soi, ông lặng đi một lúc không nói… – A! Hỡi Wilfrid, Wilfrid,
con trai ta, nếu không vì mê mệt lady Rowena phải rời nhà của tổ tiên ra đi thì
nay ta đã không phải trơ trọi một mình chống đỡ với quân thù!
Vừa hay
lúc đó có tiếng tù và thổi, nhưng lập tức bị lũ chó sủa át ngay đi. Phải cần
đến ông chủ và các người hầu cầm roi mới làm yên được chúng.
– Này
chúng bay! Chạy ra cửa xem ai gọi thế? – Sau cùng ông Cedric mới ra được lệnh.
Một vài
phút sau một người chạy vào báo có hai người đi đường, cha Aymer và ông dòng
Brian de Bois-Guilbert, đến nhờ cho đoàn của họ trú chân.
– Cha
Aymer, người Normanrd đấy! Hiệp sĩ Brian de Bois-Guilbert ta biết tên: ông là
người tên tuổi nhất trong dòng đạo templier nhưng trái lại những thói hư tật
xấu của ông ấy thì chồng chất đến mức các frère của ông không ngờ được.
Ông ta
độc ác, tính khí thất thường, nóng nảy và không thương người. Thêm nữa, ông là
người Normanrd, nhưng thôi, không cần, ta hãy tỏ cho họ biết người Saxons chúng
ta hiếu khách và biết tôn trọng mọi luật lệ về cái việc đó. Hãy để họ vào.
Khi mọi
người đi làm theo lệnh ông, ông quay ra nói với cô hầu của cháu gái ông:
–
Elgitha này, con hãy nói với cô con là những người lạ đến đêm nay là khách của
ta và như thế, nếu thấy tiện, cô có thể dùng bữa ở trên phòng của cô cũng được.
– Sao
lại thế ạ? – Elgitha hỏi. – Cô con rất thích nghe tin tức về Palestine ..Chúng tôi đã nói là Cedric vốn coi
cháu gái mình như là một hoàng hậu tương lai. Cô được ông cậu rất kiêng nể,
không bao giờ bị ông quát mắng giận dữ. Thế cho nên lần này ông chỉ cau mày
nhấn mạnh thôi:
– Cứ nói
ý tôi như vậy còn tùy cô nương làm theo ý muốn.
Người
hầu gái vừa ra khỏi phòng thì anh hầu rượu bước vào phòng, sau bốn gia nhân cầm
đuốc đi trước. Đi sau họ là Aymer và ông dòng tem-plier.
Hai
người đã thay trang phục. Cedric rất đàng hoàng đứng dậy và chào hỏi họ bằng
tiếng mẹ đẻ. ông dòng đáp lễ bằng tiếng Pháp, điều đó làm ông Cedric người
Saxons khó chịu, song nhớ ra bổn phận chủ nhà, ông giơ tay mời họ ngồi vào bàn.
ông lệnh mang thức ăn lên. Khi chủ khách sắp bắt đầu ăn thì người hầu rượu cầm
cây gậy trắng gõ lên sàn nhà, thể thức như đối với một nữ hoàng, báo:
"Lady Rowena an tọa!" Mọi người đứng lên chào; Cedric nhảy bổ về phía
cô nương và dẫn cô về chỗ ngồi với tất cả sự kính trọng sâu sắc. Lady Rowena có
một thân hình đẹp nhất ở tuổi thanh xuân. Da cô trắng hồng rực rỡ, mắt cô rất
đẹp và xanh biếc một màu khiến mặt cô mang một nét dịu dàng hiếm có. Người ta
cũng nhận thấy cô có thói quen sai khiến và được vị nể nên cô phần nào có một
dáng vẻ kiêu kỳ. Mớ tóc dài của cô được chải chuốt và uốn thành những lọn xoắn
cài ghim rất nghệ thuật.
Brian bị
choáng ngợp khi cô xuất hiện nên không tài nào rời mắt khỏi cô. Cedric nhận
thấy và có nhận xét: điều này không làm vừa ý ông dòng templier xưa nay chỉ
hành động theo ý của mình. Aymer muốn đánh lạc đề liền mời cô chủ lâu đài đi dự
một cuộc thi đấu sẽ diễn ra ở Ashby-de-la-Zouche.
– Thưa
ông, chúng tôi sẽ đi, – Cedric trả lời, – người đồng hương của chúng tôi là
Athelstane de Coningsburgh sẽ nhận đấu với những nhà vô địch Normanrd tài giỏi
nhất.
Trong
khi họ trò chuyện, Gurth và Wamba đã về tới nhà và hai người rất ngạc nhiên
thấy những kẻ mình định đánh lạc lại cùng ngồi ăn với chủ.
Mặt khác
Wamba rất băn khoăn không biết làm sao người khách hành hương lại cùng vào với
nhóm theo hầu hai viên lãnh chúa. Người này ngồi trên một chiếc ghế đẩu đặt gần
lò sưởi và cố tránh.mặt Cedric. Trong khi các ông khách ăn đã đỡ đói, một gia
nhân vào báo có một người Do Thái tên la Isaac d’Yorke đến xin nghỉ qua đêm.
Cedric
trả lời:
– Cứ cho
anh ta vào, bất kỳ anh ta là ai. Vào một đêm giông bão như thế này, các con vật
cũng còn tìm đến kẻ tử thù của chúng là con người để xin được che chở hơn là
đứng giữa trời chống đỡ với thiên nhiên đang lồng lộn nữa là.
– Để anh
Gurth tiếp hắn, – Wamba ăn nói tự do như thường lệ. – Một anh chăn lợn là xứng
danh để tiếp một anh Do Thái.
– ôi Đức
mẹ Marie! – ông cố đạo làm dấu nói. – Làm sao người ta lại đưa đến trước mặt
chúng ta một tên Do Thái phản bội thế kia!
Ông cha
cố cũng như ông dòng templier không muốn lùi ra cho ông già ướt sũng nước được
vào ngồi ăn. Những gia nhân cũng khuỳnh tay ra che chỗ nên ông già khốn khổ
chẳng biết ngồi vào đâu thì người khách hành hương đứng dậy nhường chỗ và thức
ăn cho người đại diện bộ lạc Israel
ấy.
Trong
khi đó, ông cố đạo và ông Cedric bàn luận về các giống chó săn. Sau câu chuyện
chuyển sang những cuộc chiến ở Palestine
và những người đi theo Ric-hard Coeur de Lion.
– Này,
rót rượu! – Cedric nói to. – Các quý khách, chúng ta hãy nâng cốc chúc sức khỏe
những người can đảm, những người dũng cảm đang chiến đấu ở Đất Thánh!
– Không
có những vị lãnh chúa Saxons đi theo vua Ric-hard trong thập tự chinh của ngài
hay sao? – Lady Rowena có ý ngầm hỏi.
– Có
chứ, thưa quý bà, – Brian trả lời. – Có những lãnh chúa Saxons rất sáng giá chỉ
nhường bước trước những hiệp sĩ bảo vệ lăng tẩm Saint-Sépulcre thiêng liêng.
– Không
nhường bước trước ai hết. – Một tiếng nói bỗng vang lên.
Mọi
người quay lại nhìn người vừa xen vào câu chuyện một cách bất ngờ. Đó là vị
khách hành hương.
– Tôi
xin nhắc lại, – người này nói một cách cương quyết: – không thua kém ai hết.
Những hiệp sĩ Anh đi theo vua Ric-hard giá trị không kém các hiệp sĩ Normanrd.
ở Saint-Jean-d’Acre, nhà vua tổ chức một trận đấu thách thức bất cứ ai đến nhận
đấu; có năm nhà quý tộc người Anh theo hầu nhà vua. Mỗi người ra nhận thách ba
cuộc và ba lần làm địch thủ ngã xuống nếm mùi cát bụi. Hẳn hiệp sĩ Brian de
Bois-Guilbert phải biết rõ điều này hơn ai hết vì trong những người thua cuộc
có bảy hiệp sĩ templier.
Brian
tức giận như điên, ngòi bút khó lòng tả được; tay ông đặt lên đốc kiếm nhưng
ông kịp nhận ra mình không được tự ý gây sự ở chốn này. Cedric hãnh diện về
những kỳ tích của các lãnh chúa dân tộc mình nên không có nhận xét gì.
– Thế
các vị thắng cuộc đó tên là gì?
– Người
thứ nhất chính là vua Ric-hard, rồi đến bá tước Leicester ,
ngài Thomas Multon de Guisland, ngài Edwin Turneham và ngài Foulk Doilly.
Ông
Cedric mặt mày hớn hở hỏi tiếp:
– Anh
mới kể có bốn. Vị thứ năm là ai?
Người lạ
mặt lưỡng lự một chút, sau trả lời:
– Đó là
một hiệp sĩ trẻ được các bạn đấu nhận vào toán mình cho đủ con số. Tên anh ta
là gì tôi không nhớ nữa.
Ông dòng
templier lên tiếng, nói rằng tên chàng hiệp sĩ đó là Ivanhoé, và Ivanhoé đã
thắng ông, tức Brian de Bois-Guilbert. ông nói tiếp:
– Sự
nghiệp binh đao không hợp với tôi, ngựa tôi trượt chân đúng lúc tôi đưa mũi
giáo quyết định. Tôi lấy làm tiếc là anh ta không có mặt ở Ashby-de-la-Zouche.
Tôi sẽ yêu cầu anh để tôi phục thù và tôi tin chắc rằng tôi sẽ cho anh ta nếm
mùi cát bụi. Anh ta phải biết rằng cái không may đã làm tôi thất bại lần ấy sẽ
không xảy ra và như vậy sự khôn ngoan sẽ làm anh ta suy nghĩ lại…
– Vì
danh dự, anh ấy sẽ nhận thách thức của ông. – lady Rowena ngắt lời. – Tôi xin
đảm bảo cho hiệp sĩ Ivanhoé: anh ấy không phải là người nghi ngờ giá trị con
người ông khi ông vắng mặt.
– Lady
Rowena, con nói quá nặng lời đấy. -ông Cedric nhận xét. – Con biết tại sao ta
đuổi con trai ta khỏi cái nhà này nhưng nếu phải bảo vệ danh dự của con trai ta
thì ta không sẵn sàng.sao? Hiệp sĩ templier không phải là người nghi ngờ về
lòng dũng cảm của con trai ta, ta chắc như vậy.
Lady
Rowena đứng dậy, nhẹ nhàng cúi đầu chào những người có mặt rồi lui về phòng,
theo sau là các cô hầu.
Từ đáy
sâu lòng mình, Brian cảm thấy mình bị cô gái chủ nhà lăng nhục. Nhất định rồi,
ngày hôm nay sẽ được ghi nhớ như một ngày đen đủi trong đời ông: Sau việc người
hành hương nhắc cho ông nhớ cuộc thi đấu thất bại cay đắng, người cha và người
em họ của Ivanhoé còn nhận xét hình như ông có sự thách đố với một người vắng
mặt mà người đó không thể làm gì được.
Sự việc
nhỏ đó xảy ra đã kết thúc sớm cuộc họp. Vả lại những khách lỡ đường cũng đã
mệt; người hầu rượu dẫn Aymer và Brian về buồng của họ. Những người trong đoàn
thì ngủ chung buồng với các gia nhân. Còn ông già Do Thái được dẫn về một chái
lâu đài lâu nay vẫn bỏ không; Gurth tàn nhẫn chỉ cho lão một cái buồng nhỏ rỗng
không, chỉ có một vài bộ da cừu và một ít rơm vứt trong xó.
Khi mọi
người chuẩn bị ai về chỗ nấy thì Wamba tiến lại gần vị khách hành hương mời ông
ta về phòng mình cạn một ly rượu mật ong.
– Cái
thằng rồ đứng trước mặt anh đây là người Saxons đấy, nhà hành hương ạ. Anh bẻ
gãy cái thói kiêu ngạo của cái tay dòng templier người Normanrd ấy là một làn
hương thơm thổi vào lòng chúng tôi, làm chúng tôi khoan khoái, nở từng khúc
ruột.
– Tôi
tuân thủ sự điều độ, – người khách lạ trả lời, – nên tôi không dám nhận lời mời
của anh.
Wamba
định nhấn lại lần nữa thì người hầu gái thứ nhất của lady Rowena đến, nhân danh
cô chủ, mời nhà hành hương đi theo cô. Cô dẫn anh ta vào một phòng trang hoàng
sang trọng; lady Rowena đang chờ anh ở đấy và hỏi thăm anh tin tức về Ivanhoé.
Người khách lạ run sợ và trả lời ấp úng là anh không quen biết lắm Ivanhoé, là
anh mới thoát vòng vây quân địch và anh chuẩn bị về nước Anh. Anh khuyến khích
cô công chúa hãy can đảm, Ivanhoé sẽ lành lặn trở về đất nước thôi..Bạn đọc đã
đoán ra là Ivanhoé bị cha đuổi ra khỏi nhà vì tội tình cảm của anh đối với lady
Rowena với thời gian đã đổi thành tình yêu. Mặc dầu ông Cedric le Saxon hãnh
diện thấy tình cảm đó mỗi ngày một phát triển, – việc này cho phép ông nghĩ tới
việc thông gia với một gia đình có cô con gái là công chúa thực thụ, – mặc dầu
vậy, nhưng vì ông quá công minh chính trực và thấm nhuần quá nhiều những nguyên
tắc cứng nhắc về giống nòi nên ông không thể để tình trạng trên kéo dài được
nữa. Thế không phải là vì nhà quý tộc Athelstane mà ông chọn làm chồng cho cháu
gái ông sao? Chỉ mỗi cuộc hôn nhân ấy mới đảm bảo vững chắc cho triều đại
Saxons mà thôi. Sự gắn bó giữa con trai ông và lady Rowena là một cản trở và
đấy là nguyên nhân buộc ông đuổi con trai với hy vọng sự xa cách sẽ hàn gắn vết
thương lòng. Những hành động sáng giá của hiệp sĩ Ivanhoé đạt được đã gây tiếng
tăm cho anh là người gan dạ trước mọi thử thách. Lòng tự hào của Cedric là lớn
nhưng không phải vì thế mà nỗi buồn của ông khi nghe tin con ông là bạn chiến
đấu của vua Ric-hard, con cháu của cái giống đi tiếm quyền, được dịu đi…
Người
khách hành hương đi một mình về phía được chỉ định để qua đêm, việc đó thật là lạ…
trừ khi người đó đã biết trước cái cách xếp đặt ở nơi đây. Đến chỗ các nhà cửa
bị đổ nát một phần, anh gặp một gia nhân liền hỏi xem người Do Thái ở đâu.
– Kia, ở
cái buồng kia. Buồng của anh ở xa hơn. – Người đầy tớ trả lời.
– Anh
cho tôi biết anh Gurth chăn lợn ở đâu. – Người đó hỏi thêm.
Khi anh
được chỉ dẫn rồi, anh liền về phòng, vật mình xuống ổ rơm và như thiu thiu ngủ.
Tuy nhiên suốt đêm anh nghĩ đến những bí mật: môi anh lập bập, mắt anh ướt lệ.
Khi
những tia sáng đầu tiên của buổi ban mai nhợt nhạt xuyên qua màn sương đêm,
người hành hương nhỏm dậy, đi theo hành lang rồi bước vào phòng người Do Thái.
Đêm qua, người này ngủ không yên giấc vì trông nét mặt của lão không được tỉnh
táo. Người lạ mặt để bàn tay lên vai ông già làm ông giật mình sợ hãi..- Nhân
danh Chúa Abraham, xin hãy thương lấy già này. Già chẳng có gì cho anh cả.
– Isaac,
tôi không đến đòi tiền chuộc của lão đâu, – người khách hành hương trả lời. –
Đừng sợ gì cả.
– ôi
mong Chúa của các vị tiên tri ban phước lành cho anh! – ông già Do Thái đỡ sợ
hơn nói.
– Nhưng
mới sớm tinh mơ thế này anh đến hỏi tôi làm gì?
– Đến
báo cho lão biết hãy khôn ngoan rút ngay khỏi nơi này, nếu lão còn muốn giữ
nguyên túi tiền của lão.
– ôi
Chúa của Moise! Nhưng ai có lợi gì mà gây tai nạn cho một lão già khổ sở như
ta? Tuy nhiên, không phải là ngài Cedric chính trực chính đại rồi…
– Không
phải, già Isaac ạ, không phải là ông Cedric, đó là ông dòng Brian…
– ôi,
lạy Chúa của Israel !
-… ông
dòng sáng nay đã lệnh cho các nô lệ người Sarrasins của ông ta phải theo dõi
khi nào lão đi là phải bắt ngay lão, dẫn đến lâu đài bạn thân của ông ta là
Philippe de Malvoisin hay Reginald Front-de-Boeuf.
– Không
thể thế được đối với một người Do Thái khốn khổ như tôi!
– Thôi
đừng than vãn nữa, ông Isaac ạ. Tôi nghe và hiểu tiếng Sarrasine rất rõ, điều
tôi nói ra là chắc chắn… Thôi đi nào, mau lên, tôi với lão cùng đi.
Ông già
Do Thái nhìn người bạn trẻ một cách nghi ngờ. ông tự hỏi không biết có phải anh
bạn định giăng bẫy lừa ông không. Nhưng cử chỉ nhân từ của anh đêm qua, sự tàn
ác của ông dòng templier làm ông hoảng sợ, khiến ông quyết định được ngay. ông
thu vội cái sắc giấu dưới tấm da dê và nhét nó vào túi áo măng-tô.
– Chạy
trốn thôi, anh bạn, nhưng xin anh đừng để ý đến chiếc sắc của tôi giấu trong áo
nhé, toàn giấy của gia đình…
– Mà kêu
lẻng xẻng như tiền vàng! – Người hành hương ngắt câu và nói theo, giọng chế
giễu.
– Xin
thề trước Chúa của Abraham, tôi khẳng định rằng…
– Đừng
khẳng định gì cả, ông Isaac ạ, và đừng sợ tôi điều gì cả. áo quần rách rưới tôi
mặc không tỏ rõ lời hứa trước Chúa của tôi rồi sao?
– Chúng
ta hãy chạy trốn Brian, trốn Malvoisin, trốn Front-de-Boeuf! Xin Chúa của David
che chở chúng ta!‘ Hai người lữ hành lẻn đi không gây một tiếng động. Người
hành hương đi về buồng của Gurth. Anh bước vào và thấy anh chăn lợn đang nói
chuyện với Wamba.
– Gurth,
anh có thể mở cửa đường ngầm cho chúng tôi không? Tôi với ông già Do Thái muốn
đi sớm.
– Gì
thế, đồ quỷ sứ! Kẻ nào dám nói với ta bằng cái giọng như vậy ? à ra anh, anh
làm ta ngạc nhiên đấy.
– Lão đã
ăn cắp cái gì của ông chủ ta đấy?
– Wamba
trợn tròn mắt hỏi. – Lão giấu cái gì dưới áo măng-tô đấy?
– Các
ngươi chỉ có thể ra qua cổng lớn thôi, – Gurth nói tiếp, – nhưng ta không mở
sớm hơn thường lệ đâu.
Người
khách lạ tiến lên, thầm thì bên tai anh chăn lợn mấy câu; tức thì anh này như
bị điện giật, anh chăm chú nhìn người khách hồi lâu.
– Vâng,
đi theo tôi, tôi xin mở cửa. – Gurth nói.
– Gurth,
anh đi tìm cho tôi con la, anh dắt ra đây một thể con la của ông Isaac.
Gurth đi
làm ngay, một lúc sau mang đến hai con vật. Người hành hương nói tiếp:
– Đến
Ashby, tôi sẽ trao trả lại cho người nhà ông Cedric. Sau đó, ông ghé tai thầm
thì mấy câu nữa với Gurth.
– Nhất
định rồi… – Gurth trả lời. – Tôi xin hứa…
Wamba
không hiểu làm sao Gurth thay đổi thái độ nhanh chóng thế. Anh nhún vai làm các
khánh nhạc trên đầu kêu lanh canh. Anh nói:
– Chà!
Mình triết lý đấy nhưng thực chất chỉ là một anh rồ Saxon…
Hai
người đi qua chiếc cầu kéo thì lên ngựa, nhanh chóng đi khỏi lâu đài.
Gurth
đứng một lúc bên cạnh con hào. Bây giờ trong mắt anh hiện lên niềm vui nhiều
hơn là sự ngạc nhiên. Anh rồ Wamba, lạ lùng nhìn anh bạn Gurth đang luôn mồm
nói:
– ôi
thánh thần Withold… Thánh thần Withold! Ai có thể ngờ được một điều như thế…
Ôi,
thánh thần Withold…
Hai
người khách đã đi xa. Người hành hương đã dẫn ông bạn đường qua những đường to,
lối nhỏ chằng chịt, ông không kịp mở miệng nói câu nào vì người dẫn đường trẻ
đi rất nhanh. Sau cùng họ tới được một con đường rộng: sắp đến một thành phố.
– Chúng
ta tới đây, còn nửa giờ đi nước kiệu nữa là tới Sheffield ,
– người hành hương nói. -ông Isaac ạ, chúng ta phải chia tay nhau ở đây thôi.
– Anh
bạn trẻ, tôi xin cảm ơn anh về tất cả những gì anh làm cho tôi. Thề trước thánh
Isaac và thánh Abraham, cuộc đời ta trải nhiều năm nhưng chưa từng gặp một
người nào theo đạo Gia-tô như anh từ Đất Thánh trở về mà lại sẵn sàng thương và
giúp đỡ một người Do Thái khốn khổ như ta. Xin thánh Jacob ban phước lành cho
anh…
– Thôi
đi, thôi đi, tôi chỉ làm bổn phận của người theo đạo Christ.
– Tuy
nhiên, anh bạn trẻ ạ, ta muốn thưởng cho anh…
Vì thấy
người đối thoại có vẻ từ chối, ông già Do Thái nói tiếp:
– ồ! Tôi
biết anh không muốn nhận tiền của tôi, nhưng… tôi cũng biết anh muốn gì rồi..-
Muốn gì nào? – Người trẻ tuổi ngạc nhiên hỏi.
– Tôi
muốn giúp anh một cái áo giáp thật tốt và một con ngựa chiến, anh nghĩ sao?
– Sao!
Ai bảo ông là tôi…? – Người trẻ tuổi giật mình kêu lên.
– › này!
Không phải phong tục những người theo đạo Gia-tô của anh, những chàng trai trẻ
kiên cường cầm chiếc gậy hành hương và khoác chiếc áo nghèo khổ là để đến Đất
Thánh Pales-tine cầu Chúa Jesus đó sao? Tuy nhiên những chàng trai trẻ đó
thường là những lãnh chúa không sợ đọ sức với những hiệp sĩ tên tuổi nhất trên
các chiến trường hay… trong một cuộc đua đọ sức thi tài… hê, hê… anh bạn trẻ,
anh nghĩ thế nào khi ta muốn mua biếu anh một con ngựa chiến và một chiếc áo
giáp bằng thứ kim loại tốt nhất… Nào, anh bạn hiệp sĩ trẻ tuổi và kiên cường…
Không… đừng ngắt lời tôi… tôi đã thấy một cái dây vàng dưới áo măng-tô của anh
khi anh nhảy lên mình ngựa… đó không phải là huy hiệu của những hiệp sĩ hay
sao?
– Nếu
mắt tôi cũng tinh như mắt bác thì tôi hỏi trong cái sắc ở áo măng-tô bác giấu
cái gì quý giá không mà chăm sóc giữ gìn cẩn thận thế?
Isaac
tái mặt trả lời:
– Đừng
tưởng nó là vàng đâu, đối với anh, tôi có thể nói… nó là tiền lẻ, một dúm, một
dúm thôi mà… Với lại, cái tôi hứa cho anh không phải là của tôi đâu. Anh sẽ đến
gặp tay lái buôn giàu có Kirgath Jairam ở Manchester :
ông ta có bốn áo giáp làm từ Milan
và sáu con ngựa chiến xứng cho một vị hoàng đế cưỡi…
Vừa nói,
Isaac vừa nhảy trên lưng lừa xuống, rồi viết mấy chữ ả Rập trên một tờ giấy
cuốn.
-… Anh
sẽ đưa giấy này cho Kirgath, ông ấy sẽ để anh chọn cái áo giáp nào tốt nhất, con
ngựa nào khỏe nhất.
– Nhưng
mà, ông Isaac ạ…
– ồ! Anh
bạn trẻ, tôi biết là anh không có tiền, nhưng cần gì, sau cuộc thi đấu anh trả
lại tôi sau.
– Nhưng
có thể tôi bị thua! ông biết rằng nếu tôi thua, ngựa, áo giáp, vũ khí của tôi
là thuộc về người thắng cuộc.
Đôi tay
ông già Do Thái run run khi nghĩ đến cảnh tượng đó….- Không, hiệp sĩ, anh sẽ
thắng, ta cảm thấy thế… nhưng giữ gìn cẩn thận áo giáp… dùng đúng mức con ngựa…
lão muốn nói là, nhất là phải bảo vệ lấy thân mình rồi còn thì, Chúa của Abra-ham
sẽ che chở cho anh. Tạm biệt.
– Rất
cám ơn điều ông căn dặn, ông Isaac ạ.
Tôi sẽ
chú ý và tôi hy vọng được trả ân ông.
Hai
người chia tay nhau đi vào thành phố, mỗi người theo một ngả đường.
Chương 3
Hoàng tử
Jean, em của vua Ric-hard, trị vì nước Anh trong khi vua đi vắng. Jean vận dụng
hết ảnh hưởng của mình để quận công nước áo giam giữ nhà vua lâu hơn nữa mặc
dầu Jean đã nhận được của nhà vua nhiều bổng lộc. Dần dần, ông tập họp chung
quanh ông những lãnh chúa chia sẻ các quan điểm với ông và sẵn sàng ủng hộ ông
vì hoàng tử Jean chiếm được ngôi vua là rất có lợi cho họ. Người này đã nhận
được đất đai, người kia lâu đài, toàn là chiếm đoạt cả, vì những người chủ sở
hữu cũ, toàn là người Saxons, đã bị đi đày, bị giam cầm hay nhiều khi bị ám
sát. Giả sử vua Ric-hard trở lại thì trật tự và công bằng cũng được lập lại:
thế là tất cả những kẻ xu nịnh hoàng tử Jean sẽ mất hết của cải và ân huệ họ
được hưởng khi vua đi vắng.
Bên cạnh
cái tầng lớp xu nịnh ấy là những người thuộc giới quý tộc nhỏ bé và dân chúng,
chính gốc Saxons, bị người Normanrd khinh bỉ;.những người này, trái lại, mong
mỏi vua cha trở về.
Còn
những người khác nữa, do thất thế sinh tuyệt vọng thì đương đầu với chính quyền
Nor-manrd:
đó là
những người nổi loạn, những người không chịu khuất phục, những người tù biệt xứ
mà cái đầu bị mang treo giá; thông thường họ gọi những người này là outlaws mà
băng nhóm của họ ẩn sâu trong rừng, rình cướp của những người đi đường riêng lẻ
hoặc vào cướp các nhà không được bảo vệ chắc chắn. Tuy nhiên phải công nhận
rằng một tình cảm hiệp sĩ nung nấu trong lòng thủ lĩnh của họ như một thủ lĩnh
đáng gờm và nổi tiếng Robin Hood: những người Normanrd và những kẻ phản bội
Saxons bị cướp, và của cướp được thỉnh thoảng đem chia cho những người Saxons
khốn khổ…
Tuy
nhiên, mặc cho những nguyên nhân của tình trạng khốn cùng trên, dân chúng cũng
như những nhà quý tộc đều yêu thích và chú trọng đến cuộc thí võ sắp mở và là
một cảnh diễn to lớn của thế kỷ này.
Cuộc thi
sẽ diễn ra ở Ashby, quận Leicester ; những đấu
thủ phải là những nhà vô địch nổi tiếng nhất; chính hoàng tử Jean đến xem, mang
vinh dự lớn cho cuộc đua tài. Một ngày hội vui như vậy gây sự chú ý chung của
mọi người: vào buổi sớm ngày quy định, lũ lượt những người đủ mọi lứa tuổi và
đủ đẳng cấp xã hội kéo nhau đến chen chúc ở nơi được chọn làm trường đua.
Đó là
một nơi được chọn tốt nhất: không cách xa thành phố mấy và là một bãi cỏ lớn
mượt mà, một bên có rừng bao bọc, bên kia đây đó có những cây sồi cao lớn kỳ
lạ. Khu đất như đã được thiên nhiên tạo ra cấp tốc để phục vụ cho cuộc thi: vì
cả bốn phía khu đất đều thoai thoải như một vòng đài lớn; một khoảng rộng ở
giữa, nhẵn nhụi và phẳng đều được bao quanh bởi các hàng rào chắc chắn. ở phía
bắc và phía nam người ta để hai lối ra vào cho đấu sĩ có những cánh cửa rộng
bằng gỗ. ở cửa bắc có năm chái nhà tuyệt đẹp treo các tấm biển hiệu nâu hay đen
là những màu được năm hiệp sĩ thách đấu chọn. ở trước mỗi chái nhà treo cái
khiên của hiệp sĩ ở chái đó; bên cạnh là anh chăn ngựa của hiệp sĩ giả trang
thành người rợ, người rừng hay mặc bất cứ áo quần kỳ lạ nào theo ý vị của chủ
nhân. Một lều vải ở giữa coi như cái lều danh dự được dành cho Brian de
Bois-Guilbert; ông này nổi tiếng – thắng trong tất cả các trận đấu – nên được
tôn làm thủ lĩnh và niềm nở tiếp đón trong đoàn thách đấu. Các bạn chiến đấu
của ông là ngài Reginald Front-de Boeuf, ngài Philippe de Malvoisin, ngài
Hugnes de Grant-mesnil và hiệp sĩ Ralph de Vipont.
Một hàng
rào bao quanh các lều và các hiệp sĩ thách đấu có một lối đi riêng rộng ngót
một thước để ra trường đấu.
ở cửa
phía nam đối diện, cũng một hàng rào như vậy bao quanh một khu đất rào kín là
nơi các hiệp sĩ đến thi đấu tụ tập. Đối diện với khu rừng người ta lập một bục
cao để đón hoàng tử Jean, những người cùng đi và gia đình của họ.
Theo
phong tục, các hiệp sĩ thắng cuộc sẽ bầu trong đám các bà đến dự hội lấy một bà
làm hoàng hậu của hội thi, hội này diễn ra không quá ba ngày: ngày đầu có những
trận đấu đôi; ngày thứ hai là một cuộc đấu tập thể, lực lượng hai bên bằng
nhau; ngày thứ ba, một cuộc thi bắn cung giữa những tay cung cự phách trong
nước đọ với những tay cung của lính đánh thuê nước ngoài đến từ xứ Normandie.
Những
người đến xem chen vai thích cánh trong những hàng rào dành riêng cho họ; một
số trèo lên cây để xem. Cedric de Saxon, lady Rowena, nhà quý tộc Athelstane và
các người hầu, kể cả Wamba đến ngồi trên bục như tất cả các bục khác rất đơn
giản, trơ trụi tương phản với cái bục cao trải thảm đẹp đẽ và cờ bay phấp phới
dành cho hoàng tử Jean và những người cùng đi.
Mọi người
đều nóng ruột chờ hoàng tử đến; họ tranh luận về giá trị và cơ may thắng cuộc
của những người đứng ra thách đấu.
Khán giả
bỗng nhiên nhốn nháo.
Một
tiếng hét lên:
– Đồ chó
Do Thái, hãy cút đi, biến đi cho khỏi gai mắt chúng ta!
Chính họ
nhằm Jsaac d’York mà mắng; Isaac bị xua đuổi khắp nơi. Cô con gái Rebecca quàng
tay ông và tỏ ra khiếp sợ vì những lời chửi rủa cha mình. Giữa lúc xảy ra những
sự việc đó, hoàng tử Jean bước vào trường đấu và tiến lên bục danh dự. Trong
những người cùng đi, người.ta nhận thấy trước nhất cha Aymer, nam tước Waldemar
Fitzurse, một cận thần già nua nhất của nhà vua, hiệp sĩ De Bracy, người
Normanrd dẫn đầu một đoàn quân nhân sang nước Anh; những người còn lại gồm thủ
lĩnh các băng nhóm đã bị mua chuộc, những nam tước ăn cướp và trụy lạc là thành
viên của đoàn tùy tùng thường xuyên của nhà vua tạm quyền và một số những người
thuộc dòng đạo templiers.
Hoàng tử
đã nghe thấy những lời đe dọa dội lên đầu ông già Do Thái, là người hoàng tử
quen biết vì đang thương thuyết với hoàng tử về một khoản tiền cho vay to lớn.
Khi hoàng tử tiến lên bục thì một người yeoman (người dân thường) vai đeo một
cánh cung dài thước tám, lưng thắt một túi đựng mười hai mũi tên, chạy ra dọa
Jsaac sẽ cho ông nếm một mũi tên.
– Hỡi
tên cho vay nặng lãi xấu xa kia, ngươi đã hút bao nhiêu máu mủ của đồng bào ta,
đã làm tất cả chúng ta khuynh gia bại sản, hãy coi chừng ta điên tiết lên rồi
đây. Thề có thánh Odin và thánh Thor linh thiêng! Ta sẽ bắn thủng bụng ngươi ra
bằng một trong những mũi tên không bao giờ trượt đích này…
Hoàng tử
nghe vậy ngắt lời:
– Các vị
nghe thấy không? Tay cung này xem ra không mấy
khiêm nhường!
– Một
tay cung không sợ ai và sống là người tự do! – Người dân yeoman trả lời; mắt
anh ta kiêu hãnh, trừng trừng nhìn hoàng tử.
– De
Bracy, nhà ngươi hãy cho người theo dõi cái gã hung hăng này; nếu đến ngày thi
bắn hắn không làm được như lời hứa thì ngươi hãy cho bắt giam hắn lại để phạt
vì cái tội nói dối và cái thói huênh hoang! Và Jsaac, kẻ xuất vốn của ta, hãy
ngồi vào chỗ cùng với những tên hèn hạ Saxons kia!
Những
người mà hoàng tử bảo hèn hạ là ám chỉ Cedric và cô cháu gái, Athelstane và
những người cùng đi. Cedric định trả lời, nhưng lady Rowena đặt tay lên cánh
tay ông cho ông bớt giận.
Về phần
mình, nam tước Waldemar Fitzurse thầm thì mấy câu với hoàng tử Jean; ông trách
hoàng tử đã có những lời nói tàn nhẫn đối với các nhà quý tộc Saxons..Hoàng tử
Jean tiếp tục đi lên. ông ngạc nhiên về sắc đẹp của Rowena mà hiệp sĩ De Bracy
vừa chỉ cho ông.
– Khẩn
trương lên, khẩn trương lên, đã quá giờ rồi, đừng để chậm nữa. – ông Fitzurse
nói to lên cốt để chấm dứt mau hơn nữa sự
Chương 4
Ông
hoàng lên ngai ngồi, xung quanh là những người cùng đi. Một hồi kèn tơ-rông-pét
nổi lên rồi các quan tuyên cáo ra tuyên bố thể lệ cuộc thi. Những người thách
đấu phải nhận đấu với bất cứ địch thủ nào muốn đấu. Mỗi người thách đấu phải
cam kết đấu năm trận.
Mỗi hiệp
sĩ nhận đấu có thể chọn hiệp sĩ nào đứng ra thách đấu; như vậy anh phải qua
suốt trường đấu đến lều địch thủ của mình và lấy thương đập vào khiên của người
đó. Nếu lấy chuôi thương bằng gỗ chạm vào nghĩa là cuộc đấu sẽ "lịch
sự", nhẹ nhàng, đầu thương sẽ cắm một miếng gỗ dẹt ngăn cản không đâm chết
người; nếu trái lại người nhận đấu chạm cái khiên bằng phần sắt của cái thương
mình, thế nghĩa là cuộc đấu sẽ dữ dội như một cuộc chiến thực sự với mũi thương
nhọn hoắt. Người thắng cuộc ở ngày thứ nhất sẽ chọn hoàng hậu cuộc thi trong
đám các bà quý tộc ngồi xem trên các bục. Hoàng hậu này sẽ thưởng cho người
thắng.cuộc ở ngày thứ hai, và ngày thứ ba, thưởng cho các nhà vô địch bắn cung.
Những
người tuyên bố làm xong việc công bố những thể lệ cuộc thi, họ kết thúc bằng
cách hô khẩu hiệu thường lệ: "Hỡi các hiệp sĩ kiên cường, xin hãy rón tay,
xin hãy rón tay!" Một trận mưa tiền vàng, tiền bạc ào ạt tung từ trên tầng
cao xuống: giới hiệp sĩ muốn tỏ ra hào phóng đối với những người mà họ coi như
lính bảo vệ danh dự.
Sau
những dấu hiệu của sự hào phóng đó, những người tuyên cáo hô lên những câu
thường lệ: "Hạnh phúc, các quý bà! – Tử chiến, các nhà vô địch – Danh giá,
những ai hào hiệp! – Vinh quang, những ai dũng cảm!" Dân chúng cũng hô to
như vậy làm không khí náo nhiệt hẳn lên; kèn tơ-rông-pét cùng họa theo với
những âm thanh chiến trận. Những người tuyên cáo rời khỏi trường đấu; ở đó chỉ
còn lại hai sĩ quan cưỡi ngựa, vũ trang từ đầu đến chân, đứng yên như hai tượng
đá, đối diện nhau.
Tuy
nhiên khu vực dành cho những người nhận đấu chật cứng những hiệp sĩ muốn đọ sức
với những hiệp sĩ thách đấu. Từ trên tầng cao nhìn xuống thì trường đấu như một
biển người trên đó lất phất những chùm lông mũ. Những chiếc mũ đồng sáng loáng,
những cái thương sắt buộc những tấm bảng hiệu tung bay trước gió cùng với lông
chim chỏm mũ khiến cho trường đấu có một cảnh sắc muôn màu.
Sau cùng
những hàng rào chắn được nâng lên và năm hiệp sĩ được số phận chọn chậm rãi
bước ra sàn đấu. Một người đi đầu; bốn người còn lại thì hai người một hàng
theo sau. Tất cả trang bị rất đẹp. Khi họ bước ra trường đấu, một thứ nhạc
phương đông cất lên từ sau những túp lều vải của những hiệp sĩ thách đấu. Đó là
tiếng chũm chọe và tiếng của những nhạc cụ khác mà châu OEu còn chưa biết tới,
những nhạc cụ này là do những hiệp sĩ mang về từ Đất Thánh.
Những âm
thanh man rợ đó hình như vừa thách thức các hiệp sĩ nhận đấu vừa như hoan nghênh
họ có mặt ở ngày hội. Tất cả các con mắt đều đổ dồn về năm nhà vô địch đang
tiến vào trường đấu; họ lấy thương nhẹ nhàng đập phía cán gỗ về khiên của người
mà họ chọn làm địch thủ.
Dưới
tiếng kèn đồng và kèn tơ-rông-pét thúc giục họ phi nước đại lao vào nhau. Nhờ
vào tài.khéo léo trội hơn của các hiệp sĩ thách thức hoặc nhờ vào cái vận may
yểm trợ mà các địch thủ của họ đều ngã ngựa. Dân chúng reo hò, các tuyên cáo hô
vang và tiếng tơ-rông-pét rộn ràng báo hiệu có kẻ thắng người thua. Những người
thắng thì rút về lều của mình còn những người thua thì vừa ngượng vừa nhục nhã
bước ra khỏi đấu trường để đến thương lượng với địch thủ của mình nhằm chuộc
lại trang bị và ngựa mà theo thể lệ của cuộc đấu là thuộc về người thắng.
Nhóm
nhận thách đấu thứ hai và thứ ba lần lượt vào trường đấu; một vài người trong
số họ đã chiếm ưu thế; nhưng nói chung thắng lợi thuộc về những người thách
đấu, không một người nào phải ngã ngựa; điều này lại xảy ra với địch thủ của họ
ở mỗi trận đấu. Sự thắng lợi liên tục như vậy làm nguội rất lớn lòng nhiệt tình
của những hiệp sĩ nhận lên đấu. Vào trận đấu thứ tư, chỉ còn hai hiệp sĩ dám
đương đầu với những hiệp sĩ thách đấu ít nguy hiểm hơn.
Ralph de
Vipont, một hiệp sĩ tế bần, một trong năm người anh hùng của ngày đấu, sau cùng
phải thua. Những người đi xem đã thấy Brian là người thắng cuộc: cái cách làm
ngã địch thủ của Brian đã gây ấn tượng mạnh đối với người xem bởi sự khéo léo
và sức mạnh của nó.
Hàng rào
quây ở cửa phía nam bây giờ vắng lặng. Mặc cho những lời kêu gọi của các quan
tuyên cáo: "Dũng cảm lên nào! Kiên cường hơn nữa!" Không ai dám mạo
hiểm ra đọ sức với những nhà vô địch trên, cứng rắn và ghê gớm nhất trong ngày.
Cedric đã khuyến khích anh bạn quý tộc Athelstane hãy can đảm đứng ra bảo vệ
danh dự của các hiệp sĩ Saxons nhưng anh này thoái thác nói rằng mình còn phải
để dành sức cho cuộc đấu ngày mai. Nói đúng ra, anh bạn quý tộc đó thích ăn
ngon và có một cái bụng hoạt động không bao giờ mệt mỏi – điều đó đối với anh
cũng là điều quan trọng không kém việc chiếm lĩnh ngôi báu xa vời làm vua nước
Anh; sự lặng lờ của anh đã nhiều lần làm ông Cedric phải thất vọng.
Hoàng tử
Jean thảo luận cùng với đám cận thần và chuẩn bị tuyên bố ông dòng templier
thắng cuộc thì bỗng nhiên những tiếng hò reo và vỗ tay của dân chúng làm ông
phải chú ý.
Ông quay
về phía đó, nói to:
– Thưa
các ngài! Còn một hiệp sĩ dám đương đầu với các nhà vô địch của chúng ta.
Quả vậy,
một hiệp sĩ mặc áo giáp sáng loáng, cưỡi con ngựa chiến hùng dũng tiến vào hàng
rào ở cửa nam rồi phi nước đại qua trường đấu đến thẳng lều vải của Brian.
Những
tiếng reo hò của dân chúng tứ phía vang lên khi họ thấy hiệp sĩ Déshérité
– người
đó chỉ báo cho quan tuyên cáo gọn thon lỏn mỗi cái tên – đã chọn tay thương
đáng sợ nhất trong ngày làm địch thủ của mình.
Đáng sợ
hơn nữa là anh lấy đầu sắt cộp rất mạnh vào cái khiên của nhà vô địch, có nghĩa
là anh yêu cầu trận đấu quyết liệt, với mũi thương không bịt gỗ.
Brian
tức khắc ra đứng ở cửa lều mình.
– Anh đã
sẵn sàng chịu chết không đấy? -Brian giễu cợt hỏi. – Hãy ngẩng đầu lên mà nhìn
trời lần cuối, và hãy chuẩn bị hồn siêu về Chúa.
– Cám ơn
anh quá lịch sự, nhưng anh hãy chú ý nhé, anh đã hạ ngã nhiều người nhưng anh
hãy coi chừng; anh hãy chọn một con ngựa mới, một cái thương mới đi! Tôi lấy
danh dự mà thề, anh sẽ cần chúng đấy!
Hiệp sĩ
Déshérité cho ngựa đi giật lùi xuống dốc trường đấu; anh điều khiển khéo léo và
ngồi trên mình ngựa gọn gàng đến mức làm cho khán giả, – lẽ đương nhiên là trừ
các khán giả người Normanrd, – coi ngay anh là chàng hiệp sĩ thương yêu của
mình.
Cedric
nhoài người ra đằng trước và hồi hộp nhìn chăm chú chàng hiệp sĩ mà vành mũ kéo
xuống làm ông không nhận ra rõ nét mặt.
– Cái
dáng điệu ấy, cái cách thức cưỡi ngựa ấy… Trời ơi! Có phải là con trai ta
không?
Lady
Rowena không kém phần cảm động; nàng như mê sảng vặn xoắn cái khăn tay viền
đăng-ten tinh tế trong đầu ngón tay mình.
Thách
đấu quyết liệt do hiệp sĩ Déshérité đưa ra làm cho Brian tức điên người. Thế
nên ông quyết định chọn một con ngựa khác lanh lợi và đầy sát khí, một cái
thương mới vì sợ rằng cái cũ qua ba trận đấu, chuôi gỗ dễ bị rạn. Người giám mã
trình ông một cái khiên khác.
Các khán
giả nóng lòng chờ đợi hai kỳ phùng địch thủ gặp nhau; mặc dầu thiện cảm thiên
về phía hiệp sĩ còn chưa ai biết họ, biết tên, nhưng rất ít người tin anh là
người thắng cuộc. Bây giờ hai địch thủ đứng hai đầu trường đấu. Khi kèn
tơ-rông-pét nổi lên báo hiệu trận đấu bắt đầu, hai đối thủ phi ngựa nước đại
vào nhau, cây thương đưa về phía trước. Sự va chạm thật khủng khiếp: cả hai
người đều bị gãy thương, các mảnh vỡ bay đến tận chỗ khán giả. Ngựa của họ chân
sau khuỵu xuống nhưng chủ của chúng là những kỵ mã giỏi, điều khiển chúng rất
khéo. Hai đấu thủ giờ lại sẵn sàng, mỗi người một thương mới cầm tay. Các khán
giả thích thú đến độ không tiếc sức hò hét và cổ vũ cho hiệp sĩ Déshérité.
Các bà
cởi khăn quàng phất lên trước gió để tỏ lòng vui sướng. Sau vài phút nghỉ, kèn
lại thổi báo trận đấu tiếp tục! Thương của Brian trúng giữa khiên của chàng
hiệp sĩ lạ mặt rất mạnh và chính xác làm anh phải ngả người ra đằng sau mới
không ngã. Về phía mình Brian bị một động tác lừa nên phải nhận ngay một miếng
đòn đánh vào đỉnh mũ. Đó là một đòn rất khó nhưng Déshérité thực hiện được. Do
đó, ông dòng tem-plier, mặc dầu võ nghệ cao cường, cũng phải lăn kềnh xuống đất
cùng với ngựa và giữa những tiếng hoan hô, các quan viên trường đấu tuyên bố
Déshérité thắng cuộc. Nhưng Brian nhỏm ngay dậy, rút gươm, định tiếp tục đánh
nhưng không được phép. Brian nói:
– Ta hy
vọng có ngày chúng ta sẽ gặp nhau mà không có trọng tài ngăn cản.
Tùy anh.
Đấu dưới đất, trên mình ngựa, đấu thương hay đấu kiếm, tôi luôn sẵn sàng đọ sức
với anh. – Hiệp sĩ lạ mặt kiêu hãnh trả lời.
Trong
khi ông dòng templier rút về lều mình để che giấu sự tức giận và hổ thẹn thì
người thắng trận đấu vừa rồi tiếp tục ra đấu với người trong nhóm của Brian de
Bois-Guilbert. Người thứ nhất, Fron-de-Boeuf ngã ngựa ngay và bị tuyên bố thua
cuộc; số phận của Philippe de Malvoisin không hơn gì: mũ của anh bị hất
tung.ngay khi vừa va chạm và các quan hầu cuộc thi tuyên bố người thắng cuộc là
người vừa làm các khán giả ngạc nhiên vì lòng dũng cảm và sự táo bạo của mình.
Người thách đấu cuối cùng đi vào đấu trường: đó là Hugues de Granfmesnil. Khi
đang chạy, con ngựa của anh ta, non tuổi và hung hăng, bỗng chồm lên đứng trên
hai chân sau làm anh ta không giữ được ngang bằng cây thương trước mặt; tức thì
hiệp sĩ Déshérité chứng minh ngay tính lịch sự cùng sự khéo léo của mình trong
cách đánh chính xác: anh hướng thẳng mũi thương vào đầu địch thủ nhưng vừa chạm
anh đã nhấc nhẹ lên tha đòn cho Grantmesnil. Tất cả mọi người đều hoan nghênh
cử chỉ đó. Các quan hầu đề nghị hai bên đấu lại. Nhưng Hugues tự nhận thua cuộc
do bái phục tính cao thượng cũng như tài nghệ của đối phương.
Người
thắng cuộc trong ngày được xác định:
chính là
hiệp sĩ Déshérité chứ không ngoài ai khác. Theo thông lệ, anh được mời một ly
rượu. Nhấc phần dưới chiếc mũ lên, anh uống sau khi nói mấy câu sau đây:
– Tôi
uống chúc mừng những ai thực sự là người Anh dũng cảm, tôi uống nguyền rủa
những tên tàn bạo ngoại bang, chúng phải thất bại và hổ thẹn nhục nhã!
Trong
khi các quan hầu chăm lo trận đấu chúc mừng người vừa giành thắng lợi thì hoàng
tử Jean và những người cùng đi hết sức ngạc nhiên về việc hiệp sĩ Déshérité
khăng khăng không chịu cho biết mình là ai. ông De Bracy, ông Waldemar Fitzurse
hay bất cứ một quan cận thần nào khác, không ai tìm được tên gán cho người có
sức mạnh và can đảm phi thường đó.
Tuy
nhiên họ vẫn vô cùng kinh ngạc khi thấy những người vô địch của họ như ông dòng
tem-plier, Front-de-Boeuf, Philippe de Malvoisin bị hạ bằng miếng đánh như trời
giáng nhưng được thực hiện vô cùng lẹ làng và khéo léo.
Ngay lúc
đó có người gợi ý: "Hay chính là Ric-hard Coeur de Lion chăng?" Nghe
vậy, hoàng tử Jean và các cận thần nín tiếng và tái mặt.
– Không
phải, – Fitzurse nói. – Các ngài biết thân hình cao lớn của đức vua; các ngài
hãy so sánh chiều cao của hiệp sĩ lạ mặt này, thấy khác ngay..Điều nhận xét đó
trấn an hoàng tử Jean và làm bớt nỗi lo thể hiện trên tất cả các khuôn mặt.
Lúc đó
người thắng cuộc được giới thiệu với hoàng tử; ông khen ngợi nhưng lòng vẫn sợ
khi nhận ra trong giọng nói của hiệp sĩ có âm thanh của ông anh mình, người mà
hoàng tử đã lừa dối một cách hèn hạ vì muốn chiếm ngôi. Nhưng hiệp sĩ Déshérité
chỉ chào rất lễ phép và lẩn đi rất nhanh, không đứng lại nghe các quan cận thần
chúc mừng nữa. Hai giám mã dắt đến bục cao của hoàng tử con ngựa thưởng với yên
cương rất đẹp. Hiệp sĩ nhẹ nhàng nhảy lên lưng ngựa và đi quanh vòng đấu hai
lượt giữa những tiếng hoan hô của khán giả. Ai sẽ là người anh chọn làm hoàng
hậu trường thi đây? Anh đứng trên bục và nhận chiếc vương miện bằng sa-tanh
thêu chỉ vàng hoàng thân cài vào đầu cây thương cho anh.
Lần này,
hiệp sĩ chậm rãi vòng quanh đấu trường, dừng bước trước lầu của Cedric de Saxon
và duyên dáng chúc mũi thương xuống trước mặt lady Rowena. Cùng lúc, tiếng kèn
tơ-rông-pét nổi lên và các quan tuyên cáo tuyên bố ngôi nữ hoàng ngày hội đã
được chọn.
– Lady
Rowena muôn năm, hoàng hậu sắc đẹp muôn năm! – Đám đông hô to.
Một số
người còn thêm:
– Công
chúa Saxon duy nhất hợp pháp muôn năm!
Hoàng tử
Jean làm như không nghe thấy những tiếng hoan hô vừa rồi; theo thông lệ ông mời
lady Rowena đến dự bữa tiệc tổ chức đêm nay ở lâu đài d’Ashby. Nàng xin thứ
lỗi; còn Cedric và Athelstane sẽ đến, ở đó họ sẽ phải nghe những lời nhạo báng
vụng về của các lãnh chúa Normanrd.
Trong
khi ấy, người thắng cuộc lạ mặt được các quan hầu trường đấu mời vào ngồi trong
lều của họ. ở đó anh tiếp những giám mã của các hiệp sĩ thua cuộc đến thỏa
thuận về việc mua lại ngựa và mũ áo của chủ họ. Anh chấp nhận hết những giá cả
của họ đặt ra, trừ giá của Brian de Bois-Guilbert.
Anh nói
với người giám mã của Brian:
– Anh về
nói với chủ anh, tôi không nhận ngựa và mũ áo của ông ta. ông ấy đã thách đấu
một sống hai chết, tôi không quên điều đó. Về nói với ông ta tôi coi ông ta như
kẻ thù. Và một.người như vậy tôi không thể tỏ ra lịch sự như đối với các bạn
đấu của ông ta.
Khi họ
ra khỏi lều thì Gurthe – chính anh làm người chăm sóc ngựa cho chàng hiệp sĩ
-quay về phía chủ mình nói:
– Thưa
ông chủ, tôi không làm trọn vẹn phận sự của người giám mã sao? Làm giám mã cho
một người Anh đích thực và ngoan cường!
– Có
chứ. Cậu sẽ được thưởng đây. Đây là túi đựng đầy tiền vàng trả công cho cậu.
– Xin
thề trước thánh Withold! Nhiều tiền quá, một anh chăn lợn saxon như tôi bao giờ
có được!
Gurth
phải nhận làm một việc nữa, một việc kinh tởm là phải dắt trả lại ông già Jsaac
d’York con ngựa mà chàng hiệp sĩ đã mượn. Anh chàng còn phải mang thêm một túi
tiền vàng để trả ông già Do Thái. Hiệp sĩ đã vay để mua mũ và áo giáp.
Chương 5
Hôm sau
là ngày đấu chung: khán giả đến đông hơn hôm qua; hoàng tử Jean dẫn lady Rowena
lên ngồi trên ngai nhất nhật đế vương và sau khi các tuyên cáo viên đọc xong
những điều lệ của trận đấu trong tiếng kèn tơ-rông-pét thì các địch thủ chia
thành hai đội bằng nhau, một bên do ông dòng Brian, một bên do hiệp sĩ
Déshérité cầm đầu, tiến ra trường đấu. Thật là một quang cảnh vừa hết sức oai
nghiêm, vừa vô cùng khủng khiếp khi thấy các đấu thủ mặc áo giáp đẹp đẽ, cưỡi
những con ngựa lực lưỡng chuẩn bị lao vào một trận đấu chết người; họ ngồi
thẳng trên mình ngựa như những cột thép bằng đồng, chờ cuộc đấu bắt đầu, hăng
say như những con ngựa của họ đang hí vang và giậm chân xuống đất tỏ lòng sốt
ruột. Các hiệp sĩ cầm những cây thương dựng thẳng; mũi thương sáng loáng phản
chiếu những tia sáng mặt trời và những dây lụa buộc ở cổ thương tung bay trước
gió; chóp mũ có những chùm lông. Họ ngồi như vậy cho tới khi có tiếng hô của
những tuyên cáo viên: "Buông cương!" Thế là họ lao vào nhau. Đó là
một cuộc hỗn chiến đẫm máu.
Lúc đầu,
hai người cầm đầu hai nhóm tìm nhau không thấy, sau gặp nhau, cuộc giao tranh
giữa hai người bắt đầu. Front-de-Boeuf và Athelstane thuộc nhóm của Brian, sau
khi thoát được các địch thủ bám riết mình, thì chạy đến ứng cứu Brian nhằm cho
nhóm mình thắng thế. Déshérité một mình chống lại ba địch thủ ngoan cường và
sắp bị họ đánh bại thì bỗng nhiên một người trong nhóm, đặc biệt to cao, cưỡi
con ngựa màu đen, mặc áo giáp cũng màu đen, từ nãy vẫn tỏ ra không mặn mà lắm
với cuộc chiến, bỗng gạt các chiến sĩ còn lại trên trường đấu ra và tức giận
xông tới ba địch thủ của Déshérité. Front-de- Boeuf sắp thọc một nhát kiếm kinh
khủng thì không kịp nữa… anh cùng ngựa ngã lăn trên cát. Noir-Fainéant – tên mà
khán giả gán cho người nãy đến giờ vẫn tỏ ra thờ ơ với cuộc đấu – Noir-Fainéant
vừa đẩy mạnh Front-de-Boeuf cùng với ngựa ngã xuống đất liền quay ra đấu với
Athelstane. Vì kiếm của anh bị gãy khi đâm vào áo giáp của Front-de-Boeuf nên
anh giật lấy cái rìu cán dài của anh chàng Saxon này còn đang đứng ngây người;
và bổ một nhát khủng khiếp lên mũ của Athelstane làm chàng ta chông chiêng và
sắp ngã. Rồi trở lại vẻ thờ ơ ban đầu, Noir-Fainéant ngồi yên trên mình ngựa,
làm người quan sát bình lặng nhìn cuộc giao tranh giữa hai người cầm đầu hai
nhóm.
Ngựa của
Brian bị thương nên gặp cái va chạm đầu tiên đã khuỵu ngã. Déshérité vội nhảy
xuống ngựa và kêu Brian đầu hàng.
Nhưng
hoàng tử Jean không chấp nhận chàng hiệp sĩ yêu quý của mình phải thất bại lần
thứ hai nên ông cho ngừng cuộc đấu; ông tuyên bố người thắng cuộc là Hiệp sĩ áo
đen, người mà theo ông đã quyết định trận đấu khi anh vào trợ giúp Déshérité
đánh hai địch thủ đáng sợ Front-de- Boeuf và Athelstane. Thật ra, ông không
thích lần thứ hai lại thấy một lãnh chúa Saxon hơn người.
Người ta
đi tìm Hiệp sĩ áo đen để trao vương miện mà hôm qua đã trao cho nữ hoàng sắc
đẹp, nhưng mọi người ngạc nhiên, anh đã biến mất.
Thế là
hiệp sĩ Déshérité được chỉ định ra nhận phần thưởng. Khi anh quỳ gối trước lady
Rowena để nhận vương miện, người ta thấy bà hoàng sắc đẹp bỗng toàn thân run
bắn và thốt lên một tiếng khe khẽ.
Tuy
nhiên cô vẫn đặt vương miện lên đầu chàng hiệp sĩ:
– Không
bao giờ vương miện được đặt lên đầu ai xứng đáng hơn. – Nàng nói.
Chàng
hiệp sĩ đứng dậy, nghiêng mình chào và định hôn tay lady Rowena thì anh bỗng
loạng choạng ngã xuống, bất tỉnh.
Cedric
chạy ra, cởi áo giáp người thắng cuộc.
Ông ngạc
nhiên đứng sững, không thốt nổi một câu. ông vừa nhận ra con trai mình,
Ivanhoé, bên sườn bị một vết thương xuyên qua áo giáp.
Tên
chàng Ivanhoé được truyền từ miệng người này sang người khác rồi đến tận tai
ông hoàng. ông hoàng xanh mặt, quay sang nói với các triều thần:
– Các
ngài, nếu Ivanhoé có mặt ở đây thì Ric-hard, người vẫn quý mến Ivanhoé, cũng ở
không xa đây lắm.
– Thế
thì đến lúc chúng ta phải nghiêm túc mà tính các sự việc rồi, – Fitzurse nói. –
Chúng ta hãy gặp York
để tập họp người của phe phái chúng ta. Hãy gác lại cuộc đua này và chúng ta
phải cẩn trọng!
– Tuy
nhiên, đừng làm mất lòng các yeomen và dân làng, – De Bracy nói, – đừng làm họ
không được xem cái cảnh đang gây cho họ nhiều vui thích.
– Cái đó
được thôi, – Fitzurse nói tiếp, – ngày hôm nay hãy còn dài. Có thể tổ chức ngay
lập tức cuộc tranh tài giữa các thợ bắn cung.
– Được,
– hoàng tử gật đầu, – vả lại ta còn có chuyện phải tính với cái tên cục cằn hôm
qua đã đối xử quá dã man với Isaac, người giúp vốn rất nhiều cho ta. Hắn hãy rờ
hồn nếu không bắn giỏi như các thợ bắn cung hay nhất của ta ở hai quận
Strafford và Leicester .
Tiếng
kèn tơ-rông-pét giục những người đã bỏ đi xa, quay lại và các tuyên cáo viên
thông báo vì có tình hình rất nghiêm trọng nên hoàng tử Jean không thể dự hội
đến tận ngày mai. Tuy nhiên Người muốn có mặt ở cuộc thi thố tài năng của bao
người yeomen dũng cảm nên Người quyết định cuộc thi bắn cung sẽ tổ chức ngay
trong ngày hôm nay. Khoảng ba mươi người xin thi đấu; phần lớn họ là những
người gác khu rừng săn bắn của nhà vua, có một vài người là ở đội cảnh vệ của
hoàng tử. Vì họ quen biết nhau cả nên những người còn non tay bắn xin rút lui
trước còn hơn là chắc chắn bị thất bại. Sau cùng chỉ còn lại sáu tay cung nổi
tiếng nhất ở các quận.
Hoàng tử
bước xuống sân đấu nhìn kỹ các người dự thi có mặt.
– Trong
các anh, ai là người sẽ giật giải?
Giải
thưởng là một cái tù và đi săn nạm bạc kèm theo một dải lụa để đeo qua vai rất
đẹp.
Thêm vào
đấy là một tấm lác chạm hình thánh Hubert là thần các trò chơi đồng áng. Không
có ai trả lời, hoàng tử nói tiếp:
– Tệ
thật, ta không thấy trong bọn ngươi có tên khoe mã mặc áo xanh hôm qua ăn nói
rất xấc!
– Thưa
đây, có nó. – Một tiếng nói từ trong đám đông cất lên.
Ông
hoàng quay ra nhìn. ông nhận ra cái thân hình cao lớn và con mắt nhìn kiêu hãnh
của người đối thoại với ông hôm qua. ông nói:
– Ngươi
giỏi giang không bằng ngươi láo xược, vì ta không thấy ngươi có mặt trong số
những người cứng tay nỏ kia!
– Tôi
chỉ sợ mỗi việc ngài lại phải trao giải lần thứ ba cho một kẻ không làm ngài
hài lòng thôi.
Máu nóng
dồn lên mặt ông hoàng.
–
Yeoman, tên ngươi là gì, nói đi.
– Vốn
gọi là Locksley, thưa hoàng tử.
– Thế
thì anh Lockley, anh cứ đọ sức đi; nhưng anh sẽ bị khốn đấy nếu anh thất bại.
Ta sẽ lột chiếc áo xanh của anh ra và quất người anh cho đến ứa máu.
Locksley
trả lời hết sức bình tĩnh:
– Ngài
thật bất công. Nếu thua, ngài phạt cho bị đánh roi, nhưng nếu được, ngài thưởng
thêm cho cái gì?
Thấy kẻ
nọ ăn nói quá bạo mồm, các cận thần xì xào tức giận, nhưng hoàng tử ra hiệu bảo
yên.
– Đúng
rồi, – ông nói, – nếu anh thắng ta sẽ thưởng thêm cho hai mươi đồng tiền bạc.
Đoạn ông quay sang nói với các lính cảnh vệ: "Hãy để mắt đến y", rồi
quay sang các thợ bắn cung và những người gác rừng, ông nói tiếp: "Các anh
hãy bảo vệ uy tín của mình. Hãy cho cái tên khoác lác này biết khả năng của các
anh!" Người chủ trò chơi bốc thăm lần lượt cho sáu người vào đấu. Những
người này phải bắn ba lần vào mục tiêu ở một cự ly rất xa. Người được tiếng bắn
giỏi nhất tên gọi là Hubert, trông coi khu vực săn của ngài De Malvoisin. Hoàng
tử liền nói:
– Này
Locksley, anh có dám thi tài với Hubert không?
– Được
chứ ạ, thưa hoàng tử. Cứ để Hubert bắn trước vào mục tiêu đã chọn. Sau đó, nếu
ngài cho phép, thần sẽ chọn mục tiêu của thần.
– Được,
ta đồng ý… Hubert, nếu ngươi thắng cái tên xấc láo này, ta sẽ thưởng tiền cho
anh.
– Thần
sẽ làm hết sức mình, thưa hoàng tử.
– Hubert
trả lời.
Người
quản rừng của Malvoisin chọn một cái khiên mới để làm bia, dạng chân cho chắc
rồi ngắm rất lâu tấm bia. Mũi tên bay vút đi, cắm vào vòng trong vẽ trên cái
khiên. Tuy nhiên không trúng hồng tâm.
– Anh có
thể bắn tốt hơn, – Locksley nói, -nhưng vì anh quên không tính chiều gió.
Nói
xong, Locksley bước vào chỗ đứng quy định, rồi chẳng thèm ngắm bia, giương cung
bắn.
Mũi tên
bắn trúng hồng tâm.
Ông
hoàng tức giận nhìn Hubert nhưng không nói gì. Hubert bước vào chỗ cũ, bắn mũi
tên thứ hai. Lần này, anh ta chú ý đến chiều gió:
mũi tên
rơi chính giữa tấm bia khác người ta vừa cắm.
– Hoan
hô, hoan hô! – Các khán giả reo lên.
– Hoan
hô Hubert!
– Lần
này, ngươi có thể tuyên bố thua cuộc rồi đấy. – Hoàng tử chế giễu.
– Thần
còn chưa bắn, xin hoàng tử hãy đợi.
Nhưng vì
Hubert không để cho thần còn chỗ nên thần sẽ xẻ mũi tên của Hubert ra làm đôi.
Các khán
giả còn chưa kịp bình luận gì về lời thách thức cực kỳ khó khăn, gần như không
thể thực hiện được thì Locksley đã giương cung, ngắm, lần này kỹ càng hơn chút
ít so với lần trước, và bật dây cung. Mũi tên chạm trúng tên của Hubert, tách
nó làm đôi..- Không phải là con người nữa mà là con quỷ! – Hubert lẩm bẩm nói,
cốt cho hoàng tử nghe thấy và cũng là để biện bạch về sự yếu kém của mình.
– Đến
lượt thần chọn mục tiêu. – Locksley nói và đi bẻ một cành liễu chỉ bé bằng ngón
út, cắm xuống đất cách xa ba mươi bước.
– Xin
thề trước cụ tổ nhà tôi, – Hubert kêu lên. – Tôi không bắn vào mục tiêu đó đâu.
Nếu địch thủ của tôi bắn trúng, tôi sẽ tự tuyên bố thua cuộc.
Locksley
thay dây cung vì dây cũ không còn thật chắc nữa. Lần này anh ngắm thật kỹ lưỡng
rồi bật lẫy. Cành liễu bay lên, gãy khúc…
– Trời!
– Hoàng tử Jean kêu lên. – Ta đã đánh giá nhầm về ngươi. Nhà ngươi là người bắn
cung giỏi nhất nước; phần thưởng thuộc về nhà ngươi. Ta cho ngươi thêm năm mươi
đồng tiền bạc nữa nếu ngươi chịu nhận làm người bắn cung trong đội cảnh vệ của
ta.
– Xin
cám ơn ngài, thần đã thề làm người tự do và ngay khi có thể, thần chỉ làm nô
bộc cho một vị hoàng tử duy nhất là đức vua Ric-hard.
Về hai
mươi đồng tiền bạc, thần xin tặng lại anh Hubert, một người giỏi cung tên, vì
tính khiêm nhường anh không muốn bắn mục tiêu cuối cùng như thần, nếu không,
thần dám chắc, anh cũng không thua kém gì thần.
Nói đến
đấy, người đội mũ màu xanh vội vàng đi thật nhanh và mất hút trong đám đông.
Jean lại
tái mặt khi nghe nhắc tới tên anh mình, làm ông nhớ tới những mối nguy hiểm
chắc chắn sẽ giội xuống đầu ông nếu như Ric-hard trở về nước Anh. ông nhảy lên
ngựa, phóng nước đại về thành phố Ashby, theo sau là một đám đông hiệp sĩ…
Chương 6
Sau cuộc
đua tài ở Ashby, những nhân vật chính ở câu chuyện này mỗi người đi một ngả;
chúng tôi thấy cần phải kể những gì xảy ra với mỗi người trong số họ trước khi
lại thấy họ tụ tập ở dinh cơ Front-de-Boeuf.
De Bracy
sửng sốt vì sắc đẹp của Rowena nên gợi ý với hoàng tử Jean về một cuộc hôn nhân
với một công nương dòng dõi gần nhất với triều đại Saxons chắc chắn sẽ làm ông
vừa ý và chỉ làm cho ngôi vua mà ông ao ước được củng cố thêm mà thôi. Jean,
ruột gan rối bời vì những lo lắng chúng ta vừa biết, bằng lòng cho De Bracy thử
đi lo công việc ấy với điều kiện sau ba ngày anh phải trở về. Thì giờ thế thì
ít. Tuy nhiên anh có kế hoạch của mình; anh rời khỏi nhà cùng với Brian và
Front-de-Boeuf.
Một vài
công việc cần thiết phải chuẩn bị để thực hiện ý đồ cưới xin đó, anh muốn đem
ra bàn cùng hai hiệp sĩ nọ.
Ba người
và các tay chân phải mặc bộ đồ xanh giả và họ phải như chim cắt đâm bổ xuống
mồi, nhảy xổ vào đám người Saxons đi xem trở về. Lúc đó De Bracy xuất hiện dưới
dáng vẻ cận thần của hoàng tử Jean, giải phóng người đẹp không may rơi vào tay
bọn cướp áo xanh và dẫn cô về lâu đài của Front-de-Boeuf.
Chúng ta
hãy để ba người đấy cho họ bàn tỉ mỉ kế hoạch của họ và hãy quay về ngày thứ
hai của hội đấu. Bạn đọc hẳn không thể quên thắng lợi được quyết định do tài
năng của một hiệp sĩ lạ mặt mà khán giả mệnh danh là Noir-Fainéant vì anh đã tỏ
ra thụ động và uể oải trong phần đầu trận đấu. Nhưng khi chiến thắng anh đã rời
khỏi trường đấu và khi người ta đi tìm để trao phần thưởng thì không thể tìm
thấy anh đâu. Trong khi các tuyên cáo viên gọi anh bằng miệng và bằng kèn đồng
thì anh đã đi về phía bắc; anh tránh không đi những con đường nhiều người qua
lại; anh đi con đường ngắn nhất xuyên qua rừng.
Khi
sương đêm bắt đầu bao phủ các vùng xung quanh, anh gặp một quán trọ nhỏ
trên.đường đi; anh qua đêm ở đó và sáng sớm hôm sau, anh tiếp tục lên đường.
Chàng kỵ
sĩ hình như đang phải suy nghĩ lao lung; chỉ khi gặp đoạn đường khó đi anh mới
sực tỉnh. Lúc đó, anh mới chú ý đến điều khiển ngựa, kích thích nó bằng lời nói
hay chân thúc.
Khi trời
tối, anh lọt vào giữa rừng sâu, tìm chẳng có một quán trọ để nghỉ chân, trong
lúc anh và ngựa đều đói và mệt.
Trong
đêm tối, Hiệp sĩ áo đen không thể biết mình đi có đúng đường không. Rừng rất
rộng và rậm rạp! Khổ hơn nữa là hiệp sĩ đến một chỗ có nhiều chỗ rẽ.
Anh kêu
lên:
– Thề
trước thánh George, vua nước Anh!
Họa mình
có là thầy bói hay phù thủy mới đi được đúng đường!
Nét mặt
anh, mặc dầu có chút ít không vừa ý, vẫn giữ được cái vẻ vui tươi của con người
biết chấp nhận như nhau những ngày lành hay ngày hạn.
Tuy
nhiên, muốn tận dụng cơ hội gặp may, anh cố gắng phân biệt lối đi nào nhẵn nhụi
nhất, vì anh nghĩ – cũng đúng thôi – đó là con đường sẽ dẫn đến một nơi có nhà
ở một cách chắc chắn nhất.
Cái may
không phụ anh. Sau một lúc đi, anh đã đến một chỗ rừng thưa, có một túp lều
dựng bằng các cây gỗ đẽo gọt sơ sài. Chắc hẳn đó là nơi ở của một người ẩn dật.
Hiệp sĩ
áo đen xuống ngựa. Phải gõ cửa đến hai lần mới có tiếng trả lời, mà giọng nói
xem ra không êm ái lắm.
– Ai
đấy, hãy đi đi, là ai cũng mặc kệ nhé.
– Một
tiếng nói mạnh và gắt cất lên. – Đừng đến quấy nhiễu trong giờ cầu kinh đêm của
ta nhé!
– Thưa
cha kính mến, – chàng hiệp sĩ trả lời, – tôi là một kẻ lữ hành lạc rừng; giúp
đỡ tôi qua cái đêm này là cha đã sinh phúc theo lời răn của Chúa.
– Thôi
anh ơi, tôi không sinh phúc đâu; ngược lại thánh Nữ Đồng Trinh và thánh
Dun-stan còn vui lòng để người khác sinh phúc cho ta nữa kia. ở đây đến thức ăn
để chia sẻ cùng với chó ta cũng chẳng có. Chỗ ngủ của ta thì một con ngựa chỉ
tinh tế một chút nó sẽ chẳng chấp nhận. Vậy anh hãy đi đi! Cầu trời giúp anh..-
Nhưng làm sao tôi tìm được đường đi trong rừng giữa đêm tối thế này? Tôi xin
cha kính mến, ít ra cha hãy ra mở cửa chỉ giúp đường tôi.
– Đường
đi dễ thôi, – người ẩn sĩ trả lời. -Con đường nhỏ trước mặt sẽ dẫn đến một đám
sình lầy có một con suối bao bọc xung quanh, gần đây ít mưa rào có thể lội qua
được đấy.
Nhưng
khi lội qua anh phải để ý đến bờ bên trái vì nó hơi dốc đấy và cái lối đi ở
phía trên, tôi nghe nói (vì ít khi tôi bỏ lễ ra ngoài) gần đây bị vỡ mất mấy
đoạn. Sau đó anh cứ theo đường thẳng trước mặt…
– Một
bãi sình lầy, một con suối lội qua, những bờ dốc thẳng, một con đường sạt lở!
-Chà ng hiệp sĩ kêu lên. – Ngài ẩn sĩ ơi, ngài không thuyết phục nổi tôi đi một
con đường như vậy trong đêm tối đâu. Ngài phải mở cửa ngay tức khắc cho tôi,
nếu không buộc tôi phải đạp đổ.
– Anh
bạn lữ hành ơi! – Nhà ẩn sĩ trả lời. -Anh đừng buộc tôi phải dùng đến thứ trời
cho tôi để tự bảo vệ mình là vũ khí: điều đó chẳng lợi lộc gì cho anh đâu.
Nghe
thấy tiếng chó sủa chàng hiệp sĩ nghĩ có lẽ nhà ẩn sĩ đã huýt chó từ chái nhà
sang.
Tức
giận, anh lấy chân đạp mạnh vào cửa khiến cái cột nhà rung chuyển.
– Gượm
đã nào, đừng nóng thế, anh bạn lữ hành ơi. – Nhà ẩn sĩ rõ ràng không muốn cánh
cửa của mình bị đạp lần thứ hai liền nói. – Hãy để dành sức, tôi ra mở cửa đây
mà.
Nói
xong, cửa mở, nhà ẩn sĩ, một con người khỏe mạnh, mặc áo thầy tu và đội mũ trùm
đầu hiện ra trước mặt chàng hiệp sĩ. Một tay ông cầm bó đuốc, một tay cầm chiếc
gậy to bằng gỗ cây táo dại. Hai con chó, nửa vẻ chó săn thỏ, nửa vẻ chó ngao,
đứng bên cạnh và hình như chỉ chờ lệnh của chủ là nhảy xổ vào cắn người khách
lạ.
Nhưng
nhờ vào bó đuốc, nhà ẩn sĩ thấy một hiệp sĩ gươm giáo đầy đủ, liền thay đổi
ngay ý kiến; rồi đuổi chó đi, ông bỗng nhiên lễ phép mời hiệp sĩ vào nhà đồng
thời tìm cách xin lỗi, nói rằng ông không bao giờ mở cửa cho ai vào lúc đêm tối
như thế này sợ là kẻ trộm hoặc những tên outlaws đầy rẫy trong rừng.
Sau khi
vào nhà và đảo mắt nhìn quanh, hiệp sĩ chỉ thấy một chiếc giường trải lá làm ổ,
một cây thánh giá bằng gỗ sồi gọt đẽo sơ sài, một quyển sách kinh, một chiếc
bàn làm bằng các tấm ván không bào, hai chiếc ghế đẩu ba chân và một vài dụng
cụ nấu nướng; anh nói:
– Thưa
cha, cha sống khổ sở thế này thì sợ gì kẻ cướp, chưa kể có hai con chó trung
thành đủ sức vật nổi một con hươu, còn đối với người thì tôi tưởng ít có người
chống cự nổi chúng.
Khi nhà
ẩn sĩ đã mời hiệp sĩ vào nhà, ông cài cây đuốc lên một que sắt đóng sâu vào một
trong những thân cây dùng làm tường nhà. Rồi bỏ thêm củi vào bếp cho bốc lửa,
ông ngồi lên một chiếc ghế ba chân bên cạnh bàn và ra hiệu cho hiệp sĩ cùng
ngồi.
Hai
người ngồi xuống, người nọ nghiêm trang nhìn người kia một lúc lâu, mỗi người
chắc hẳn đều nghĩ mình chưa bao giờ giáp mặt với một người trông khỏe hơn và
quyết đoán hơn thế.
Sau cùng
hiệp sĩ nói:
– Thưa
ngài ẩn sĩ kính mến, nếu không phiền nhiễu ngài khi đang buổi cầu kinh thì tôi
xin hỏi ngài ba điều: một là tôi phải dắt ngựa vào đâu, hai là ngài có cho tôi
chút cơm cháo gì không, ba là đêm nay tôi ngủ ở chỗ nào.
ẩn sĩ
trả lời:
– Tục lệ
của tôi đã thành bổn phận: tôi chỉ trả lời khi thật cần thiết: bởi vậy tôi sẽ
trả lời anh chừng mực nào có thể. – Nói xong ông lần lượt chỉ vào hai góc lều:
– Đây là chuồng ngựa; kia là giường của anh. – Sau lấy trên tấm ván một cái đĩa
đựng hai nắm hạt đậu khô rồi đặt trên bàn trước mặt khách: – Còn đây là thức ăn
của anh.
Hiệp sĩ
nhún vai, bước ra khỏi lều, dắt ngựa vào, buộc vào một thân cây. Anh tháo yên
cương, cởi áo choàng của mình ra đắp lên lưng ngựa.
Có thể
nhà ẩn sĩ nhìn thấy chàng hiệp sĩ săn sóc con ngựa của anh như vậy thì cảm động
lắm.
Ông làm
như chợt nhớ ra hôm nọ người gác rừng đến thăm còn để lại ít cỏ khô; ông đi ra
phía cửa sau, đem vào một bó rơm thơm vàng và một đấu yến mạch cho ngựa. ông ra
lần nữa, đem vào một tải lá cành khô đặt vào một xó rồi ra hiệu là chỗ ngủ của
chàng hiệp sĩ. Hiệp sĩ cảm ơn ông đã có lòng giúp đỡ; sau đó hai người lại.ngồi
vào chiếc ghế cạnh bàn, trên đó vẫn còn cái đĩa đựng hạt đậu khô. Nhà ẩn sĩ đọc
kinh trước bữa ăn có lẽ trước kia bằng tiếng la-tinh nhưng bây giờ khó nhận ra
đó là thứ tiếng ấy trừ có vài tiếng hay vài câu chỗ này chỗ nọ giọng đọc kéo
dài ra. Nhà ẩn sĩ thấy cần ăn trước để ông khách ăn theo nên ông lấy ba hay bốn
hạt đậu bỏ vào miệng để lộ ra hàm răng rất khỏe, vừa nhọn vừa trắng như răng
con lợn lòi.
Chàng
hiệp sĩ bắt chước ông, liền bỏ mũ, cởi áo giáp ngoài, tháo bỏ bớt phần lớn các
cân đai khiến nhà ẩn sĩ thấy anh có bộ tóc màu nâu xoăn một cách tự nhiên, nét
mặt đầy đặn, đôi mắt tinh nhanh, hàng ria mép sẫm hơn bộ tóc chứng tỏ anh là
một người gan dạ, dám nghĩ dám làm, y như cái thân hình cao lớn của anh đã mách
bảo.
Nhà ẩn
sĩ như muốn đáp lại sự tin cậy của người khách liền hất cái mũ trùm đầu ra sau,
để lộ một cái đầu tròn của người đang ở tuổi thanh xuân. Tóc ở đỉnh đầu khoanh
gọt, chung quanh là một vòng tóc đen cứng và xoăn làm người ta liên tưởng đến
một cái sân làng xung quanh có hàng rào chắn cao. Nét mặt ông không mang dấu
vết gì gọi là khắc khổ của đời sống tu hành hay dấu vết của việc ăn đói nhịn
khát nghiêm trọng. Khuôn mặt cộng thêm cái thân hình đẫy đà của người nhà thánh
cho thấy khẩu phần của ông phải là những miếng thịt bò hay thịt lợn bổ béo chứ
không phải là những hạt đậu khô hay lá rau lá cỏ này đâu. Chàng hiệp sĩ không
phải không có sự nhận xét ấy. Cố nghiền vất vả được năm hay sáu hạt đậu, anh
hỏi chủ nhân xem có nước cho anh xin một hụm để chiêu miếng ăn không.
Người ẩn
sĩ đến đặt trước mặt người khách một hũ nước đầy trong và mát. Anh đưa lên miệng,
uống một hụm.
– Thưa
cha quý mến, – hiệp sĩ nói, – tôi thấy cha ăn rất ít thứ đậu khô này, cha cũng
không uống nhiều lắm cái thứ nước trong sạch này, vậy mà chúng có một tác dụng
diệu kỳ đối với sức khỏe của cha. Trông cha có thừa khả năng rượt đuổi đến cùng
một con hươu hay vật ngã dễ dàng một địch thủ hơn là một nhà ẩn sĩ ở chỗ quạnh
hiu này để hàng ngày cầu kinh hay hát những bài thánh ca.
Nhà ẩn
sĩ đáp:.- Thưa hiệp sĩ, những ý nghĩ của ngài không nói theo phần hồn mà giống
như của những người vô đạo. Tôi tự cho phép ăn những thức ăn trên là làm theo ý
của thánh Nữ Đồng Trinh và thánh Dunstan, những thánh đã gia ân cho tôi. Nhưng,
thưa hiệp sĩ, – ông nói tiếp, – tôi nhớ ra hình như lần trước ông gác rừng hảo
tâm đến thăm tôi, ngoài bó rơm kia ông còn để lại một số thức ăn mà tôi không
đụng đến do tinh thần tôn trọng kỷ luật của tôi thì phải; và tôi lúc nào cũng
bận suy tư học đạo nên tôi quên khuấy mất, không lấy ra mời ông ăn.
– Tôi
cam đoan là ông ấy có để lại mà! -Chà ng hiệp sĩ kêu lên. – Ngay lúc ông lật mũ
ra trông đầu ông, tôi tin nhất định nơi ông ở phải có một thức ăn gì bổ béo hơn
thứ đỗ này.
Nhà ẩn
sĩ nhìn trừng trừng ông khách rồi đi về cuối lều, mở cánh tủ được che đậy khéo
léo và kỹ càng, lấy ra một gói patê to tướng đặt lên bàn. Chàng hiệp sĩ rút con
dao găm ở thắt lưng ra mở phăng gói patê và không để mất thì giờ lấy một miếng
thật to nếm thử.
Nhà ẩn
sĩ buồn rầu nhìn ông khách tấn công mạnh vào gói patê mà mình đành chịu không
làm được như ông khách vì vừa rồi đã chót nói ra mình chẳng ăn gì chỉ có ăn
chay. Chàng hiệp sĩ ngừng ăn nói:
– Về
việc này, khi ở Palestine, tôi thấy dân họ có thói quen khi cho ai ăn uống, họ
cũng ngồi ăn với khách để tỏ cho khách biết là thức ăn không có thuốc độc. Nói
thế nhưng thề có Chúa, tôi không nghi ngờ ông có ý định xấu!
Tôi rất
yên tâm, tuy nhiên tôi rất sung sướng thấy ông theo phong tục đó.
– ông
thật chu đáo nên chiều theo ý ông tôi tạm lần này xếp việc ăn chay lại.
Thời kỳ
đó chưa có dĩa nên nói xong ông thò ngay năm đầu ngón tay vào món patê véo một
miếng.
Như vậy
băng lạnh giữa chủ và khách vỡ tan, hai người cùng lao vào ăn uống thoải mái;
nhưng ông khách mặc dầu đã nhịn đói nhiều hơn, vẫn chịu thua ông ẩn sĩ ăn khỏe
hơn mình một mức xa.
– ông ẩn
sĩ này, – chàng hiệp sĩ nói, – tôi xin đánh cuộc với ông con ngựa của tôi lấy
một đồng tiền vàng ý, là ông gác rừng tốt bụng đã.cho chúng ta món patê tuyệt
diệu này, chúng ta phải cám ơn nhưng ngoài ra ông ấy còn để lại cho chúng ta
vài chai rượu ngon nữa kia đấy.
Ông ẩn
sĩ đứng dậy, nửa mỉm cười vui thích, nửa nhăn nhó khó chịu; lần thứ hai ông đến
cửa tủ lôi ra một cái bong bóng lớn đựng rượu có thể chứa tới tám chai rượu
thường. ông đặt lên bàn cùng với hai cái chén bằng sừng miệng chén viền bạc;
ông nghĩ đã góp rượu thêm vào bữa ăn như vậy là có thể bỏ hết những dè dặt đi
rồi nên ông rót đầy hai chén, cầm lấy một chén nâng lên, nói bằng tiếng Saxon:
– Waes
hael! Chúc sức khỏe hiệp sĩ! – Rồi ông uống cạn ly rượu.
– Drinc
hael! Chúc sức khỏe ẩn sĩ! – Hiệp sĩ bắt chước làm theo. – Nhưng tôi xin hỏi:
Hình như trong tủ của ông có một cây đàn harpe, tôi xin chơi một bản nhạc có
được không?
– Thưa
hiệp sĩ, tôi hy vọng ông sẽ chơi một bản nhạc hay. ông sẽ luôn luôn là thượng
khách của tôi ở Coopmanhurst chừng nào tôi trở về đấy thờ Chúa ở nhà thờ thánh
Dunstan. Đó sẽ là thời điểm tôi đổi được đời sống ẩn dật này sang một đời sống
khác, đàng hoàng hơn để phụng sự Chúa. Còn bây giờ chúng ta hãy cùng ngồi đây,
cùng nhau uống ly rượu, cùng đàn hát vì còn phải một thời gian nữa mọi việc mới
ổn thỏa được. Rượu ta uống đây làm cho giọng thanh hơn, tai tinh tường hơn: về
phần tôi, phải chờ cho cái chất nho này nó ngấm ra mười đầu ngón tay mới mong
gảy một vài tiếng hay ho được.
Họ cùng
nhau uống, nói chuyện, cười, hát hai ba tiếng đồng hồ sau mới nghe thấy có
tiếng gõ cửa dồn dập. Cái gì làm ngắt quãng họ vậy?
Chúng
tôi chỉ có thể giải thích được bằng cách đi gặp một đám khác.
Chương 7
Khi
Cedric de Saxon thấy con trai mình ngã ngựa trên trường đấu Ashby, phản xạ đầu
tiên của ông là lệnh cho gia nhân chạy ra cấp cứu con; nhưng lệnh đó vội tắt
trên môi ông.
Ông
không thể thừa nhận công khai người con đã bị đuổi ra khỏi nhà. Tuy nhiên ông
căn dặn Oswald phải để mắt tới Ivanhoé, phải chở anh đi ngay Ashby một khi đám
đông đã giải tán.
Nhưng
Oswald không thực hiện được lệnh của chủ. Một lúc sau, đám đông có giải tán đi
thật; nhưng đã có những bàn tay khác khiêng chàng hiệp sĩ bị thương đi nơi
khác: Oswald mất công tìm mãi Ivanhoé trong các lều nhưng chỉ thấy những vết
máu, anh không thể biết giờ đây Ivan-hoé tình trạng ra sao: hình như có những
nàng tiên đến bế anh đi.
Oswald
dễ tin nhảm như những người Saxons khác có lẽ sẽ giải thích Ivanhoé biến đi
bằng cách như vậy nếu anh không chợt nhìn thấy một người ăn mặc kiểu giám mã mà
anh nhận ra là bạn anh, anh chăn lợn Gurth. Anh chàng này lo lắng cho số phận
của thân chủ mình, tuyệt vọng vì bỗng nhiên chẳng thấy ông đâu, liền bổ đi tìm
khắp nơi mà không hề lo lắng cho thân phận mình.
Oswald
thấy bổn phận mình phải bắt Gurth là một nông nô bỏ trốn; Gurth ắt sẽ bị ông
Cedric trị tội.
Tuy
nhiên Oswald vẫn ra sức thăm dò tin tức về số phận của Ivanhoé, nhưng chỉ được
mỗi một tin là chàng đã được các kẻ hầu ăn mặc tử tế khiêng lên chiếc kiệu của
một bà đến xem rồi khiêng ra khỏi trường đấu. Nhưng họ đã đi theo lối nào thì
không ai trả lời anh được. Vậy là anh về báo tin ấy cho chủ và làm cách cho
Gurth đi theo, người anh coi như kẻ đào ngũ.
Cedric
rất lo lắng về số phận của con trai cho đến khi Oswald trở về báo tin trên
nhưng ông không biết là Isaac và cô con gái Rebecca là những người đã săn sóc,
giúp đỡ con trai mình.
Cả hai
đều đội ơn chàng hiệp sĩ đã giúp đỡ họ.
Với
Isaac, chàng đã ngăn không cho Brian de Bois-Guilbert bắt giữ, với cô gái
Rebecca, chàng đã giữ lại cho cô một người cha mà cô rất đỗi yêu thương. Còn
rất nhiều năm sau nữa, Cedric.và Ivanhoé hai cha con không biết đã sống gần
nhau.
Cedric,
Athelstane và lady Rowena cùng với một số gia nhân lên đường trở về nhà. Trong
khi nhà quý tộc Athelstane chỉ nhớ tới bữa ăn đầy những thức ăn ngon ở lâu đài
Asyby thì Ce-dric de Saxon sảng khoái khi nghĩ đến trận đấu mà một người Saxon
đánh bại hoàn toàn năm hiệp sĩ Normanrd. ôi! Đương nhiên ông càng cảm thấy tự
hào khi người đó chính là con trai ông, tuy nhiên, ông vẫn chưa tha thứ cho con
ông đã yêu Rowena cũng như chưa tha thứ cho anh đã theo chân một ông vua đi
phiêu lưu trận mạc, một ông vua anh dũng kiên cường có lẽ, nhưng là một kẻ tiếm
quyền. Còn lady Rowena, nàng tư lự. Nỗi vui mừng được gặp lại người yêu giờ
không bằng sự lo lắng về vết thương trầm trọng của anh. Anh không vượt qua được
mối hiểm nghèo đó thì sao? ông dòng templier hằn học không tìm cách trả thù hèn
nhát trong lúc anh đang suy yếu vì vết thương sao?
Wamba và
Gurth đi giữa đoàn tùy tùng.
Gurth
tay bị trói nhưng không vì thế mà không cười đùa với anh bạn Wamba. Hai gã rất
vui thích khi nghĩ cậu chủ đã được tuyên dương vô địch. Hình phạt Gurth phải
chịu không làm anh lo lắng lắm. Wamba còn nhiều lần rút con dao găm rất sắc ra
khỏi thắt lưng. Anh đưa mắt trông chừng những gia nhân cùng đi và ra hiệu cho
Gurth biết anh đang chờ thời cơ cắt dây trói cho anh.
Các lữ
khách của chúng ta vừa đi qua một cánh đồng lớn và họ sắp đi vào những cánh
rừng có tiếng là nguy hiểm vì có nhiều tên outlaws mà họ sẽ là mục tiêu để
chúng tấn công. Cedric và Athelstane không chút sợ hãi những tên ăn cắp vườn
này dù họ phải đi một phần đêm trong rừng; số đông trong bọn họ là nông dân và
là những yeoman gốc Saxon: thường người ta tin rằng chúng không cướp của và
giết hại đồng bào chúng.
Bỗng
nhiên các lữ khách nghe thấy những tiếng kêu rên rỉ không cách xa họ mấy làm họ
chú ý. Họ đến nơi có tiếng kêu thì thấy một cái kiệu che kín, người ta mới tháo
ngựa và dắt đi; một cô gái ăn mặc sang trọng kiểu áo Do Thái ngồi khóc bên cạnh
kiệu và một ông già đội cái mũ không vành màu vàng hẳn cũng là một ông.già Do
Thái. ông đi đi lại lại vẻ tuyệt vọng, tay xoắn lại như đang chịu những nỗi đau
khổ dằn vặt to lớn nhất.
Athelstane
và Cedric hỏi làm sao ông lại ở nơi này với cô con gái mà không có ngựa và gia
nhân đi cùng; Isaac d’York – vì chính là ông ta – nói cho hai ông Saxons biết
là ông có thuê ở Ashby sáu người vũ trang đi theo; họ sẽ đưa ông đến tận
Doncaster, kiếm ngựa cho ông và cô con gái, mua la để thồ cái kiệu trong có
người bị thương nhưng sáu tên khốn nạn đã bỏ rơi ông và cô con gái ở chỗ này.
Chúng tháo ngựa đi vì sợ những tên outlaws mà một người đốn gỗ trước đó cho ông
biết đã gặp một toán đông cách đây không xa.
Ông già
Do Thái nói, vẻ khúm núm sợ sệt:
– Nếu
các quan cho phép chúng tôi được núp dưới bóng các quan, đi cùng đường thì ơn
ấy chúng tôi không bao giờ quên.
– Tên Do
Thái chó má kia! – Athelstane nói.
– Nếu
những tên outlaws chỉ ăn cướp của các người như nhà ngươi thôi thì ta cho họ là
những người rất tử tế đấy vì ngươi còn ăn cướp của tất cả mọi người kia mà.
Câu mắng
trên của Athelstane không làm vừa ý ông Cedric. ông nói:
– Tốt
nhất là cho họ vài con ngựa để họ có thể tiếp tục lên đường và cử hai người đi
với họ đến làng nào gặp đầu tiên thì thôi. Điều ấy làm lực lượng của ta bị giảm
đi một chút; nhưng không sao, gặp trường hợp chúng ta bị tấn công, lưỡi kiếm
của anh, của tôi, của tám người còn lại của chúng ta sẽ đủ đẩy lùi hai chục tên
ăn cướp.
Lady
Rowena nghe nói có một toán cướp outlaws đã thấy sợ nên tán thành mạnh mẽ ý
kiến của cha đỡ đầu. Rebecca bỗng nhiên đứng dậy, chạy đến lady Rowena, quỳ một
chân xuống đất, nâng vạt áo nàng lên hôn một cách kính cẩn.
Vẻ quý
phái và trang nhã của cô gái Do Thái làm cô gái Saxons đẹp đẽ cảm động. Cô nói
với cha đỡ đầu:
– ông
già này tứ cố vô thân, lại thêm một người đau ốm trong kiệu nữa; mặc dầu họ là
người Do Thái nhưng nếu chúng ta bỏ mặc họ trong cơn hoạn nạn này thì chúng ta
không phải là những con chiên ngoan đạo. Tại sao chúng ta không cho phép họ
cùng đi với chúng ta được?.Cedric tán thành ý kiến đó ngay; Athelstane chỉ nêu
thêm một điều kiện là người Do Thái phải đi sau đám gia nhân.
Lady
Rowena mời Rebecca lên cùng đi với mình.
– Việc
đó không được. – Rebecca hạ mình trả lời, không phải không pha chút kiêu hãnh.
-Là m như vậy cô nương làm ơn hóa ra bị mang tiếng đấy.
Trong
khi họ nói chuyện, Gurth kêu cổ tay bị trói chặt quá nên rất đau. Wamba ra nới
lỏng cho; nhưng không biết vô tình hay hữu ý anh buộc lại hết sức sơ sài khíên
chẳng mấy chốc Gurth đã tìm cách cởi được trói. Trước khi mọi người tiếp tục
đi, anh đã lẩn sâu vào trong rừng.
Con ngựa
của Gurth vẫn cưỡi được trao cho ông già Do Thái; nếu đi tiếp, anh sẽ ngồi đằng
sau một gia nhân nên ai cũng tưởng anh bị che lấp nên không để ý khi anh vắng
mặt. Một việc khác làm mọi người bận tâm hơn là không biết lúc nào những tên ăn
cướp xuất hiện.
Lối đi
rất hẹp nên hai người không thể đi song song. Mặt đất dốc thoải. Đó là một
khoảng bùn lầy có một con suối chảy qua; những cây liễu già mọc hai bên bờ
suối. Cedric và Athelstane đi đầu đoàn nhận thấy rằng nơi này rất thuận lợi cho
bọn cướp tấn công. Lội qua dòng suối nhỏ, họ mới đến bờ bên kia đã thấy chỗ nào
cũng có người cầm vũ khí bao vây khiến họ khó lòng chống đỡ. Bọn cướp hô to:
"Rồng bạch!
Thánh
George và nước Anh đây!" để tỏ rõ chúng là những dân outlaws Saxons chính
cống. Những tên khác chạy đến đông thêm như để tăng cường lực lượng.
Hai
người đi đầu đoàn lữ khách bị bắt ngay nhưng mỗi người bị bắt trong những tình
huống khác nhau phù hợp với tính cách của từng người.
Cedric
phóng một cây lao vào tên cướp xuất hiện trước tiên, trúng đích một cách tuyệt
vời. Vì tên cướp đứng trước một cây sồi, cây lao xuyên thủng qua người cắm phập
y vào đó. ông cầm kiếm xông vào tên thứ hai, chém một nhát thật mạnh khiến lưỡi
kiếm, gặp một cành cây lớn, gãy đôi.
Hai, ba
tên khác lao ngay tới, xô ông ngã ngựa và trói nghiến. Về phần Athelstane thì
khác.
Trong
khi anh đang suy nghĩ không biết nên đánh địch trước mặt hay ở hai bên sườn thì
đã bị tóm dây cương, thế là anh đành chia sẻ số.phận tù binh với ông Cedric vì
không đủ thì giờ đứng ra nghênh chiến dù chỉ một phút tẻo teo chăng nữa.
Những
gia nhân của hai ông vừa lúng túng giữa đám lừa và ngựa lủng củng các đồ, hàng
trên lưng vừa ngạc nhiên và lo lắng cho số phận của hai thân chủ mình đã bị
tước vũ khí một cách dễ dàng. Quân cướp bắt cả lady Rowena đứng giữa đám người
và ngựa lộn xộn, bắt cả Isaac và cô con gái đi đằng sau.
Không
người nào thoát khỏi tay bọn cướp, trừ mỗi anh rồ Wamba trong tình huống này
lại tỏ ra can đảm hơn những người tự coi mình có đầu óc hoàn toàn bình thường
hay minh mẫn.
Anh giật
lấy thanh kiếm của một gia nhân, anh này hình như không còn nghĩ đến cách sử
dụng nó nữa; Wamba đi những đường kiếm rất kín, rất hiểm khiến quân địch trông
thấy phải nể; song nhận thấy quân cướp quá mạnh, quá đông và người nhà mình đều
bị trói lại cả rồi, nên anh từ từ tụt xuống ngựa, lợi dụng đêm tối và người
đang nhốn nháo, lẩn vào rừng mà không ai biết.
Tuy
nhiên, anh rồ dũng cảm đi thoát bọn cướp không được mấy chốc đã tự hỏi không
biết có nên quay về chia sẻ số phận với ông chủ xưa nay anh vẫn thật gắn bó hay
không.
– Wamba!
– Có tiếng gọi khe khẽ, thận trọng của người nào cách xa anh vài bước.
– Gurth,
– Wamba hỏi bằng một giọng cũng rất khẽ, – có phải cậu đấy không?
– Đúng
rồi, – Gurth tiến lại gần, trả lời, -nhưng có chuyện gì xảy ra thế? Có tiếng
gươm, đao va chạm là thế nào?
– Một
chuyện phiêu lưu như hàng ngày vẫn xảy ra ấy mà: cả nhà bị bắt rồi!
– Bị
bắt? Những ai bị bắt?
– ông
chủ này, lady Rowena này, Athelstane, Hundibert, Oswald và tất cả những người
khác.
– Trời
ơi! Ai bắt giam họ? Chuyện xảy ra làm sao?
– ông
chủ chúng ta vội vàng chiến đấu quá, còn Athelstane không đánh mấy tí, những
người khác chẳng đánh chút nào. Những kẻ bắt họ đều đội mũ màu xanh, đeo mặt
nạ. Tất cả cánh nhà ta bị trói gô trên cỏ như những quả táo đằng ấy ném cho lợn
của đằng ấy ăn đấy mà. Ta không biết ta nên cười hay nên khóc. – Nói rồi, Wamba
khóc thành thật..Khuôn mặt của Gurth bốc lửa:
– Wamba!
– Anh kêu lên. – Cậu có vũ khí và lúc này cậu phải có tấm lòng hơn lý trí chứ!
Chúng ta
chỉ có hai đứa nhưng một cuộc tấn công bất thần có thể thành công. Cậu hãy theo
tớ, chúng ta phải cứu ông Cedric.
– Nhưng
Gurth ơi! Cậu đã quên cách đây một tiếng, cậu thề không bao giờ cậu tha thứ cho
ông ấy đó sao?
– Đấy là
lúc ông ấy không cần tớ cứu giúp.
Đi thôi,
theo tớ.
Hai anh
bạn sắp sửa chạy đi bỗng nhiên có một người xuất hiện và bảo đứng lại. Cứ theo
cách ăn mặc và đeo vũ khí thì Wamba cho người ấy là một trong những người
outlaws vừa bắt thân chủ của anh, vì họ chỉ khác người này ở chỗ họ đeo mặt nạ;
nhưng nhìn cái dây đeo gươm sang trọng và chiếc tù-và cài ở đấy, nghe giọng nói
bình tĩnh và oai nghiêm của người ấy thì Wamba trong đêm tối cũng nhận ra đó là
Lock-sley, một yeoman đã thắng vẻ vang trong cuộc thi bắn cung.
– Thế
nghĩa là thế nào? – Người lạ hỏi hai anh. – Ai ngang nhiên đi bắt người giam
trong rừng này?
– ông cứ
nhìn mũ họ đội thì biết, xem có phải đó là các con cháu của ông hay không.
-Wamba trả lời. – Vì một hạt đậu xanh vẫn là một hạt đậu xanh, không thể lẫn
lộn.
– Một
lát nữa, ta sẽ biết ngay, – Locksley nói, – nhưng các anh cứ chờ ta ở đây; ta
cấm các anh không được động đậy trước khi ta trở lại, nếu không ta lấy đầu các
ngươi. Hãy nghe theo ta, hai anh và chủ của các anh sẽ có lợi. Tuy nhiên ta
cũng phải đề phòng.
Người đó
cởi cái dây đeo gươm ra, rút cái lông chim trên mũ rồi trao cho Wamba nhờ anh
giữ hộ: Lấy trong túi cái mặt nạ đeo lên mặt, người ấy từ biệt Gurth và anh hề
để đi thám thính, sau khi không quên dặn lại lần nữa là hai anh phải đợi.
– Này
Gurth, – Wamba nói, – có phải đợi không hay chúng ta cần tỏ ra chúng ta có hai
cẳng để chuồn? Nếu tôi thiển nghĩ mà đúng thì cái ông này vớ ở đâu cái áo của
thằng ăn trộm mặc vội vào nên trông ông ta không là một con người tử tế.
– Nếu là
quỷ sứ, – Gurth trả lời, – thì ta đứng đợi hỏi có sợ gì? Nhưng nếu là người
trong nhóm cướp thì ông ta đã báo cho đồng bọn rồi, chúng ta sẽ không thể nào
thoát thân nổi.
Một vài
phút sau Locksley trở lại.
– Hai
anh bạn, – ông nói, – tôi đã thấy họ, tôi đã nói chuyện với họ. Tôi biết họ là
ai và họ đi đâu. Nhưng chúng đông người quá, mà chúng ta chỉ có ba, đánh họ thì
thật điên rồ; chúng còn đặt người gác khắp nơi, ai đến gần ắt có báo động. Vậy
phải có một lực lượng lớn hơn, tôi biết chỗ tìm ra lực lượng ấy. Hình như hai
anh là đày tớ trung thành của ông Cedric de Saxon; vậy hai anh hãy theo tôi:
không thể nói người bạn của nước Anh và của những người dân Anh lại không kiếm
đâu ra những người giúp đỡ ông Cedric trong cơn hoạn nạn được. Nhưng chúng ta
phải nhanh lên vì bọn chúng sắp lên đường rồi.
Nói
xong, ông vẫy tay ra hiệu, ba người đi sâu vào rừng.
Wamba
không thích thú đi lâu mà không trò chuyện gì. Anh nhìn cái dây đeo kiếm và cái
tù-và anh còn giữ hộ và nói nhỏ với Gurth:
– Anh
Gurth này, tôi thấy cái giải này hình như có người chiếm được cách đây không
lâu lắm đâu.
– Còn
tớ, – Gurth nói giọng còn nhỏ hơn, – tớ lấy cả đàn lợn của ông chủ tớ đánh cược
là tớ đã nghe được giọng nói của người chiếm giải ấy.
Mặc dầu
hai anh bạn cẩn thận nói rất khẽ, Locksley vẫn nghe thấy, ông nói:
– Này
hai anh bạn, lúc này không phải lúc cần biết tôi là ai, tôi như thế nào, điều
đó không quan trọng. Nếu tôi giải thoát được chủ các anh, các anh sẽ có dịp coi
tôi như người bạn thân thiện nhất của các anh. Tôi có mang họ này hay họ kia,
tôi có bắn cung giỏi hay bắn cung kém thì đó là những việc không liên quan đến
các anh, tôi yêu cầu các anh không phải bận tâm về những chuyện đó nữa.
– Chúng
ta đã cưỡi lên lưng hổ rồi, – Wamba thì thầm vào tai Gurth, – không biết trời
có cho chúng ta xuống được không.
– Câm
đi, – Gurth nói, – đừng làm cho ông ta bực mình vì điều gì điên rồ của cậu nhé;
về phần tớ, tớ có nhiều lý do để hy vọng mọi việc sẽ kết thúc tốt đẹp..
Chương 8
Sau ba
tiếng đi gấp trong rừng, Wamba, Gurth và người dẫn đường bí hiểm tới một cánh
rừng thưa, ở giữa có cây sồi to cao, cành lá um tùm xòe ra bốn phía. Năm hay
sáu yeomen ngủ dưới bóng cây còn một người canh gác đi đi lại lại dưới ánh
trăng.
Nghe
tiếng bước chân, người gác báo động.
Mấy
người kia chồm ngay dậy, vớ vội lấy cung và sẵn sàng bật lẫy. Thủ lĩnh của họ
đánh tiếng, họ tỏ ngay vẻ kính trọng và phục tùng thay vì thái độ cảnh giác
đáng sợ vừa rồi. Cái lo lắng gặp nhau có va chạm biến mất.
Nhiều
người được tỏa đi báo động cho những người ngoài vòng pháp luật biết. Họ phải
tập họp nhau ở gần lâu đài Front-de-Boeuf. Thủ lĩnh băng nhóm mũ xanh quyết
định mang quân đến hỏi tội tên hiệp sĩ phản nghịch và giải thoát cho những
người mới bị bắt.
– Còn
nhà ẩn sĩ trước ở nhà thờ thánh Dus-tan đâu? – ông hỏi.
– ở
trong lều của ông ấy. – Một người trả lời.
– Ta
trực tiếp đến tìm ông, nói hãy tạm ngừng cầu kinh. Còn hai anh, – ông quay sang
hỏi Wamba và Gurth, – hai anh sẽ đi theo tôi chứ?
Wamba và
Gurth ngạc nhiên hơn là thấy Lock-sley quyết định đi đánh lâu đài kiên cố
Front-de-Boeuf với một vẻ cương quyết lớn đến thế.
Anh rồ
rất muốn nói thêm nhưng vừa sợ vừa kính trọng, anh không dám hỏi người kia,
người bắn cung giỏi nhất nước Anh, người mà tất cả dân outlaws đều răm rắp nghe
theo lệnh. Wamba nghĩ khôn ngoan nhất là đừng làm phật ý một người rất oai
phong mạnh mẽ và không muốn để cho ai vô kỷ luật.
Ba người
đi về phía nhà thờ Coopmanhurst.
Lát sau
họ tới một cánh rừng thưa ở đó túp lều của ông ẩn sĩ hiện ra như một chấm đen
dưới ánh trăng.
Gurth và
Wamba dừng chân một lúc sững sờ nhìn nhau. Đó có phải là vì cái buồn toát ra.từ
phong cảnh trong đêm ấy hay họ sợ hãi vì phải đứng trơ vơ trong khi những cánh
rừng xung quanh có thể che giấu một cạm bẫy gì đấy?
Không
đâu!
Họ nghe
thấy một giai điệu Saxon nhưng câu hát không giống chút nào với những bài thánh
ca thường thấy các nhà ẩn sĩ hay hát.
– Đó là
một cách để tĩnh tâm và suy tưởng độc đáo. – Wamba không thể không nhận xét như
vậy.
– Nhưng
không phải là một giọng đơn ca. -Đ ến lượt mình Gurth nhận xét.
– Điều
ngược lại mới làm tớ ngạc nhiên. -Anh hề nói tiếp. – Cứ cái kiểu ca tụng thánh
Dustan như thế này thì cái ông ẩn sĩ nhà ta không ở một mình là phải thôi.
– Thôi
đi, hai anh bạn, – Locksley ngắt lời, – tiến lên nào! Wamba, cậu có vẻ ngạc
nhiên khi nghe thấy một bài hát ca tụng ma men chứ không phải bài thánh ca buổi
sáng ở cửa miệng một ông ẩn sĩ đấy nhỉ?
– Có lẽ
là hai ông ẩn sĩ. – Wamba chỉnh lại.
– Thế
ông không nghe thấy cái giọng song ca có khả năng đánh thức thánh Dustan đi ra
khỏi nấm mồ sao?
– Frère
của chúng ta là một người vui tính kiêm bắn trộm giỏi. Những anh gác rừng nhà
vua biết ít nhiều chuyện ấy rồi đấy! Nếu nhà vua bây giờ ở đây, Người sẽ phiền
lòng khi biết chuyện trong rừng của mình lại có một anh chàng chuyên nghiện
thịt hươu tạm trú.
Vừa nói,
Locksley vừa đập gấp cửa nhà ẩn sĩ, phá đám hai gã đang chén tạc chén thù, hẳn
các bạn còn nhớ.
– Thề có
thánh Dustan! – Nhà ẩn sĩ kêu lên.
– Có lẽ
có thêm những lữ khách lạc đường. Họ nghĩ gì về những bài thánh ca chúng ta vừa
hát nhỉ? Những kẻ hay nói xấu có thể sẽ nhắc đi nhắc lại chỉ nghe thấy ta ca
ngợi rượu và thịt hươu. Thế thì thanh danh ta bị tổn thương rồi!
– Chính
lời lẽ của anh phản ánh sự khôn ngoan đấy, nhà ẩn sĩ ạ. – Hiệp sĩ áo-đen Lười-biếng
ngồi cạnh nói. – Bởi vậy, hãy giấu cốc chén đi và đậy ngay chỗ patê này lại nếu
anh muốn các vị khách kia tin lời anh.
Nhà ẩn
sĩ phá lên cười và vội vàng cất giấu rượu và đồ nhắm. Hiệp sĩ áo đen cố tạo một
sắc mặt nghiêm chỉnh nhưng cố gắng lắm anh cũng không nhịn được cười; tiếng
cười của anh được tiếng cười của ông bạn ẩn sĩ kỳ dị hòa theo.
Những
tiếng chó sủa xen vào những tiếng ồn ào ấy. Một lữ khách nào giả thử lạc vào
nơi đây sẽ tưởng mình nghe thấy những tiếng reo hò của một sápba kỳ dị mà quỷ
sứ nắm tay các phù thủy nam, phù thủy nữ nhảy điệu vòng tròn dưới ánh trăng.
– Này,
ẩn sĩ, có mở cửa ra không? – Locksley sốt ruột kêu lên. – Hay để đây phải đạp
cửa đấy?
– Anh
hãy đi đường anh, đừng quấy ta khi đang cầu nguyện. – Nhà ẩn sĩ đáp.
– Này,
mở ra, Locksley đây nhé!
Cửa vội
mở. Locksley bước vào có hai bạn đường cùng theo là Gurth và Wamba.
– Anh ẩn
sĩ, – Locksley nói khi trông thấy chàng hiệp sĩ, – anh kiếm đâu ra ông bạn mới
đấy?
– à, đấy
là một frère thuộc dòng tôi. Chúng tôi đang đọc kinh cầu nguyện. – Nhà ẩn sĩ
mỉm cười giải thích.
– Người
dòng nhà anh mặc áo giáp từ khi nào đấy?
– áo
giáp ấy ư?
– Thôi
đi, anh uống quá say rồi đấy. Hiệp sĩ này là người thế nào?
– Tôi…
– Chính
anh cũng không biết tên! Thật là mất cảnh giác; sự an toàn của chúng ta bị đe
dọa khi anh bạ ai cũng…
Hiệp sĩ
kia cắt ngang lời:
– Hãy
thôi, anh bạn bắn cung tài hoa ạ. Một ngày kia anh sẽ biết tôi là người như thế
nào.
Nhưng,
bây giờ chưa phải lúc. Còn với nhà ẩn sĩ này, anh ta chẳng sai sót gì; anh
không dám chối từ cho tôi trú chân vì tôi tự ý xông vào.
– Tự ý
à! Hãy đợi ta cởi áo thầy tu này ra, để xem… – Nhà ẩn sĩ nói.
Wamba
nghĩ:
– Có lẽ
đây là lúc nhà ẩn sĩ thánh thiện của ta hiện nguyên hình là một anh săn bắn
trộm chính cống.
Trong
khi nghe nhà ẩn sĩ nói, Locksley nhận rõ mặt Hiệp sĩ áo đen Lười, liền tiến lại
gần nói:
– Lấy
danh dự là một người Anh, tôi xin cám ơn anh đã giúp đỡ có hiệu quả hiệp sĩ
Déshérité của chúng tôi. ôi! Xin anh đừng chối, chính anh, tôi nhận ra rồi,
chính anh là người quyết định thắng lợi ngày thứ hai thi đấu ở Ashby.
– Tôi
xin cám ơn thay cho chủ tôi. – Gurth tỏ lòng biết ơn nói thêm.
Thủ lĩnh
của những kẻ ngoài vòng pháp luật nói tiếp:
– Cứ xem
cách anh xen vào giữa trận đấu thì tôi biết tôi đã gặp một hiệp sĩ chân chính
đây.
Xin hỏi
anh, anh có sẵn sàng đi cứu giúp kẻ yếu không, sẵn sàng đi giải phóng những lữ
khách khốn khổ bị một tên hiệp sĩ phản nghịch và kẻ cướp bắt đi không.
– Bổn
phận của tôi là vậy. – Hiệp sĩ Noir-Fainéant nói.
– Thế
thì hãy đi với chúng tôi đến nhà Front-de- Boeuf đầu bò đòi hắn và các bạn hắn
là Brian de Bois-Guilbert và De Bracy trả lại tự do cho ngài Cedric de Saxon và
Athelstane, người bạn của ngài. Lady Rowena cũng là nạn nhân của những tên
ngoại bang đáng nguyền rủa ấy…
– Tôi sẽ
đi theo anh, anh là một người Anh chân chính nhưng anh chưa cho tôi biết quý
danh là gì. – Hiệp sĩ áo đen cười nói.
– Tôi
không có họ, có tên… có chăng chỉ là người bạn của những người nghèo và của tự
do.
–
Locksley thành thật nói.
Nhà ẩn
sĩ quẳng chiếc áo thầy tu vào một xó rồi chụp vào đầu cái mũ xanh. Người ta
không thể phân biệt ông với những người khác trong băng nhóm Locksley. Khi ra
khỏi lều, ông ngụp đầu vào một chậu nước để phả hơi rượu.
– Thề có
thánh Georges, những thằng kẻ cướp đó ở đâu, đến đây ta xẻ chúng mày ra thành
muôn mảnh. – Nhà ẩn sĩ nói, giọng rít lên hợp với lời lẽ đó hơn là với lời
trong những bài thánh ca.
– Thôi
hãy im đi, hãy rảo bước lên, đã đến giờ ở điểm hẹn! Đến lâu đài của
Front-de-Boeuf nào. – Hiệp sĩ Noir-Fainéant nói.
– Tiến
lên hỡi anh em, tiến đến lâu đài Front-de- Boeuf! – ông frère, con người không
sửa chữa được hô to.
Năm
người bạn biến trong rừng tối.
Rừng
thưa trở lại im ắng… Không người nào có thể nói được, trước đây ít lâu, đã có
những.người đến đây phá rối cái yên tĩnh này bằng những lời ca tụng rượu và
thịt dâng lên… thánh Dustan!
Trong
khi họ huy động mọi lực lượng để giải thoát cho Cedric và các bạn đồng hành thì
những người này đã bị bọn cướp dẫn về nơi an toàn để giam giữ. Nhưng vì đêm
tối, những tên đi ăn đêm này chỉ biết rất lơ mơ đường đi lối lại trong rừng,
buộc chúng phải nghỉ làm nhiều chặng.
Do đó
hai tên cầm đầu bọn giả hiệu làm những tên ăn cướp trao đổi với nhau:
– De
Bracy này, – thầy dòng templier nói, -đã đến lúc anh phải chia tay chúng tôi để
diễn hồi hai tấn kịch chúng ta dựng, anh phải chuẩn bị để sắm vai người hiệp sĩ
giải phóng.
– Tôi đã
nghĩ lại rồi, – De Bracy nói, – tôi chỉ tạm biệt người tôi cướp được sau khi đã
đặt anh ta vào nơi an toàn trong lâu đài của Front-de- Boeuf. Lúc đó tôi sẽ ra
trình diện với lady Rowena trong bộ áo hàng ngày, và tôi hy vọng nàng sẽ cho
hành động bạo lực mà tôi nhận phần trách nhiệm là do cái bồng bột của một tình
yêu say đắm mà thôi.
– Lý do
gì làm anh thay đổi ý kiến?
– Cái đó
chỉ mình tôi biết, tôi cho là thế. -Brian de Bois-Guilbert hết nhìn lady Rowena
lại nhìn Rebecca, điều đó làm De Bracy thay đổi ý kiến. Anh đã biết tiếng những
thầy dòng templier, anh sợ rằng anh gặp ở Brian không còn là một người đồng
minh nữa mà là một địch thủ không dễ nhường bước như đã thỏa thuận. Đến lâu đài
Front-de-Boeuf, De Bracy nhận thấy ông templier thèm muốn Rebecca có sắc đẹp
thật kỳ diệu, chứ không phải lady Rowena như có lúc anh đã sợ là thế.
Cedric
và Athelstane bị nhốt cùng với nhau; người ta dọn cho hai người một bữa ăn
thịnh soạn; điều đó cho thấy Front-de-Boeuf muốn đòi tiền chuộc hậu hĩ mới thả
tự do cho bọn họ.
Hai
người chưa kịp ăn sáng đã bị quấy rầy trong cái công việc thực thi rất quan
trọng đó, ít nhất là với Athelstane, bởi một tiếng tù-và rúc ở ngoài cổng, rúc
đi rúc lại ba lần khiến người ta nghĩ người thổi phải là một hiệp sĩ giang hồ
mà khi người đó sờ vào tường thành, nhà cửa, tháp canh của một tay phù thủy nào
đó thì chúng cũng phải tan như sương sớm mai. Hai ông người.Saxons đứng dậy,
rời khỏi bàn ăn và chạy ra cửa sổ; nhưng họ không thể thỏa mãn được sự tò mò vì
tất cả cửa sổ đều nhìn xuống sân. Tiếng tù-và đó hẳn báo động một sự kiện quan
trọng sắp xảy ra vì một lúc sau, trong lâu đài sự náo động rộ hẳn lên.
Khi hai
ông Saxons thấy họ không thỏa mãn được trí tò mò liền quay về bàn ăn để ít nhất
cố gắng thỏa mãn được cơn đói. Chúng ta hãy để họ làm cái công việc ấy để đi
thăm Isaac d’York đang bị giam giữ một cách khắc nghiệt hơn.
Ông già
Do Thái bị vứt xuống một cái hầm dưới đất ẩm thấp và hôi hám, sâu hơn cái hào
bao quanh lâu đài. ánh sáng chỉ lọt qua một chiếc cửa sổ tầng hầm trổ trên cao
cho kẻ bị giam không đu tay lên được.
Front-de-Boeuf
to lớn như lực sĩ, khỏe như vâm, cả đời đã đi qua trận mạc hay đi đánh nhà ông
hàng xóm này hay nhà hàng xóm nọ. ông ta không bao giờ lưỡng lự về những phương
tiện phải dùng để vơ thêm của cải và tăng cường thế lực. Với tư tưởng như vậy,
ông bước xuống hầm giam, theo sau là hai tên nô lệ da đen. ông đi vào, cài cửa
lại cẩn thận.
Sau khi
đề phòng cẩn thận như vậy, ông tiến lại phía ông già Do Thái, nhìn bằng con mắt
hằn học, dữ tợn. ông phá tan sự yên lặng bằng một câu mắng nhiếc:
– Thằng
chó kia, – hắn nói to mà tiếng vang trên trần nghe còn khủng khiếp hơn nữa, –
mày có trông thấy cái cân kia không? Mày phải nặng đến nghìn livrơ bạc trắng
tiền chuộc đấy.
– ôi,
lạy thánh Abraham! – Isaac kêu lên.
– Có ai
nghĩ yêu cầu một món tiền lớn đến như vậy? Xin hiệp sĩ cao cả hãy thương kẻ già
này, vừa yếu đuối, vừa nghèo túng.
– Hãy
nghĩ trước tiên đến số phận dành cho mày đã. Cái hầm này không phải chỗ để nói
đùa.
Những
tên tù khác cao sang hơn mày đã chết trong bốn bức tường này. Nhưng số phận của
chúng chỉ là một thú vui nhỏ so với những gì đang chờ đợi nhà ngươi…
Hắn ra
hiệu cho hai tên nô lệ lại gần và nói bằng tiếng mẹ đẻ của chúng, thứ tiếng học
được ở Palestin cũng là nơi có lẽ hắn tiếp thu được những bài học tàn ác.
– Isaac,
– Front-de-Boeuf nói, – ngươi có trông thấy những thanh sắt nung trên đống lửa
rực đỏ kia không? Ta sẽ đặt ngươi lột hết quần áo lên trên cái giường êm ấm ấy…
Chính
lúc đó người ta nghe thấy tiếng tù và thổi ba lần. Tên nam tước dã man không
muốn bị bắt gặp khi đang làm trò tra tấn khủng khiếp đó vội chạy lên lầu, hai
tên nô lệ chạy theo, bỏ mặc ông già Do Thái ở lại, ông vội cảm ơn Thượng đế đã
cho mình một phút được ngơi.
Lady
Rowena bị tách ra khỏi đoàn và bị dẫn đến giam ở một chái riêng lẻ của lâu đài.
Rebecca cũng bị lâm vào cảnh giam giữ riêng rẽ đáng ngờ đó. Người bị thương nằm
trong kiệu cũng bị khiêng đi, có hai tên tay chân của De Bracy đi theo giám sát
chặt chẽ. ở đây cần phải nói rõ thêm là trong lúc chặn đánh trong rừng, bọn
cướp lúc đầu không để ý lắm đến chiếc kiệu; có lẽ chúng cũng chẳng nghĩ đến
chuyện khiêng đi theo nếu De Bracy không nghĩ lady Rowena có thể ngồi trong đó.
Nàng trùm một tấm khăn voan nên De Bracy khó tìm ra. Vì vậy khi hắn mở cánh rèm
hắn rất ngạc nhiên thấy trong đó có một hiệp sĩ bị thương; người này tưởng mình
bị những tên outlaws người Saxons bắt và nghĩ rằng nói thật tên mình ra sẽ được
chúng che chở liền nói mình là Ivanhoé.
Mặc dầu
có tính nhẹ dạ và đã sống một cuộc đời buông thả, nhưng De Bracy vẫn luôn giữ
một vài nguyên tắc. Anh đã không đối xử thô bạo với người anh ngờ là đối thủ
của mình, anh còn giữ kín chuyện không nói cho Front-de-Boeuf hay. Thế lại là
may vì tên này đã được hoàng tử Jean cắt đất của Ivanhoé ban cho, như vậy
Front-de- Boeuf tham lam và tàn ác không ngại ngùng gì mà không khử ngay
Ivanhoé, người chủ có quyền sở hữu hợp pháp ấy.
Thế là
các tên giám mã của De Bracy khiêng Ivanhoé đặt riêng vào một buồng, coi anh
như một người của bọn chúng bị thương.
Lady
Rowena bị De Bracy quấy rầy ướm hỏi còn Rebecca cũng bị ông dòng templier tấn
công tình ái như thế. Hai nàng sắp hết sức cự tuyệt thì cũng là lúc nghe thấy
tiếng tù-và rúc ba hồi..
Chương 9
De Bracy
nói với ông dòng templier:
– Tôi
cho rằng tiếng tù-và đã làm gián đoạn câu tình tự của anh và của tôi. Nhưng xem
ra anh tiếc rẻ vì anh đến muộn hơn, điều đó chứng tỏ cuộc hội ngộ của anh được
tiến hành suôn sẻ hơn của tôi.
– Vậy ra
anh không được cô gái hoàng tộc saxon tiếp đón may mắn lắm sao?
– Người
đẹp saxon như bị quỷ dữ ám!
– Còn
người đẹp Do Thái, cô này bị cả bày ám kia!
Câu
chuyện của họ vừa bị Front-de-Boeuf chạy tới cắt ngang.
– Không
biết cớ gì có tiếng tù-và đáng ghét ấy, – hắn bực tức nói. – Đây là bức thư một
tên đưa thư vừa cầm đến đây xong, nếu tôi không nhầm, nó được viết bằng tiếng
saxon đấy.
Hắn ngắm
nghía bức thư, xoay đi tứ phía như mong làm thế thì hiểu được con chữ, sau hắn
đưa cho De Bracy.
– Thư
này đối với tôi cũng bí hiểm như thế, – De Bracy nói, – hắn đã nhận được đầy đủ
cái phần ngu si gần như phổ cập ở các nhà quý phái trong thế kỷ. Vị linh mục
riêng của gia đình tôi, – hắn nói tiếp, – đã muốn dạy tôi học viết; nhưng nhận
thấy tôi chỉ vẽ đao và kiếm thay vì tập viết nên vị linh mục thôi không dạy tôi
nữa.
– Đưa
đây cho tôi, – Bois-Guilbert nói, -chúng tôi là tu sĩ, biết ít nhiều chữ nghĩa,
luận ra may cũng hiểu chăng.
– Vậy
xin ngài cứ đọc, – De Bracy nói. – Thế nào, thư nó viết gì thế?…
Bois-Guilbert
đọc như sau:
– Tôi là
Wamba, hề của nhà quý tộc Cedric de Saxon, và tôi là Gurth, chăn lợn của người,
cùng với hiệp sĩ Noir-Fainéant, yeoman dũng cảm, Locksley và các chiến sĩ Mũ
Xanh cảnh cáo ông Reginald Front-de-Boeuf và những người cùng cánh, khi nhận
được thư này phải trao trả ngay những người bị các ông bắt giữ khi họ đi trên
đường của đức vua, người mà.họ vẫn chung sống hòa bình. Nhược bằng không làm
như vậy các ông sẽ bị coi như là phản bội và là quân ăn cướp; chúng tôi sẽ tìm
mọi cách, kể cả dùng vũ lực, đánh hoặc bao vây, để cho sự công bằng được thực
hiện.
Thư này
được nhà ẩn sĩ ở Coopmanhurst phụng sự thánh Dustan viết và chúng tôi ký xác
nhận.
ở dưới
vẽ cái đầu gà kèm theo một điều ghi thay cho chữ ký của Wamba; Gurth ký bằng
hình cây thánh giá chữ thập vì hai người chẳng biết làm gì hơn.
– Anh có
điên không đấy? – Front-de-Boeuf kêu lên.
– Thề có
thánh Luc chứng giám! Tôi đọc những điều ấy trong thư. – ông dòng templier trả
lời.
Hai hiệp
sĩ ngạc nhiên nhìn nhau, không hiểu nổi bức thư. De Bracy là người đầu tiên phá
lên cười. ông thầy dòng bắt chước cười theo nhưng ý tứ hơn. Riêng
Front-de-Boeuf giữ nét mặt nghiêm trang, hắn còn tỏ ra khó chịu khi hai ông bạn
vui vẻ quá đáng, không đúng lúc.
– Tôi
nói thật với hai anh, chúng ta phải nghĩ nên làm gì trong lúc này hơn là cười
không phải chỗ.
– Ta tập
họp gia nhân lại và xông ra. – ông templier đề nghị.
– Xông
ra! Chúng ta mới có số người gọi là đủ để giữ lâu đài. Các tay súng cừ của tôi
còn hầu bên hoàng tử Jean; đại đội của ông De Bracy cũng vậy. Chúng ta phải báo
cho họ biết nhưng bằng cách nào? Cử người mang thư đi sẽ bị bắt ngay giữa
đường.
– Viết
thư trả lời cho bọn khố rách ấy, -Brian nói, – bảo chúng vì lòng thương của
Chúa hãy cử đến chỗ chúng ta một vị linh mục để nhận lễ xưng tội của bọn bị bắt
giữ và làm lễ phục đạo cho chúng được gần Chúa trước khi bước sang thế giới bên
kia.
Khi thấy
De Bracy và Front-de-Boeuf nhìn mình ngạc nhiên không hiểu, Brian nói tiếp để
trả lời:
– Thượng
đế không cấm chúng ta biếu vị linh mục ấy một túi to đựng vàng và hứa sẽ cho
thêm bằng thế nếu chạy nhanh đi báo tin cho người bên ta đến cứu..Tiếng tù-và
cất lên lần nữa; tiếng vọng vang lên từ tháp canh đến vọng lầu, từ tường thành
này sang tường thành cạnh rồi tắt lịm trên những ngọn cây mọc quanh lâu đài.
Tiếng tù-và thúc giục các hiệp sĩ đến chân tường lâu đài. Những người đội mũ
xanh làm nốt công việc cuối cùng của cuộc bao vây thực sự. Những người ngoài
vòng pháp luật làm theo sự chỉ huy của Hiệp sĩ áo đen là người hình như nắm vững
được tất cả chiến thuật ứng dụng ngày đó. Những người bắn cung, những người đốn
gỗ từ khắp nơi chạy đến, có cả các gia nhân của Cedric de Saxon và của
Athelstane chạy đến cứu chủ.
– Cuộc
chiến đấu sẽ gay go, – Front-de-Boeuf nói thầm, – nhưng đám quân vô lại kia làm
gì nổi cái pháo đài vững chắc của ta?
Khi Hiệp
sĩ áo đen nhận được thư trả lời của đối phương do người cầm thư của Wamba và
Gurth mang về thì hiệp sĩ thông báo ngay cho Locksley, hai gã hề và chăn lợn và
nhà ẩn sĩ biết nội dung. ông này đương nhiên được chỉ định làm nhiệm vụ đó
nhưng ông từ chối lấy cớ là mình thích nghề cầm súng hơn là làm người đi xá
tội.
Chính
Wamba gợi ý xin đi; gã nói:
– Xin
các bạn nhớ cho rằng trước kia tôi mặc áo dài đen chứ không đội mũ hề đính
chuông nhạc và tôi đã trở thành tu sĩ rồi, vì quá thông minh tôi mới phải làm
kẻ rồ như hiện nay.
Mặc
chiếc áo đen và đội cái mũ của nhà ẩn sĩ, buộc sợi dây thừng thay chiếc dây
lưng, Wamba đi đến trước cửa lâu đài của Front-de-Boeuf.
Gã được
dẫn ngay vào phòng các hiệp sĩ trong lâu đài ngồi đợi.
Wamba
gần như mất hết can đảm khi đứng trước một kẻ đáng gờm, đáng sợ như Reginald
Front-de-Boeuf; anh đọc bài kinh pax vobiscum mà anh hy vọng vai trò tu sĩ của
mình sẽ được diễn đạt trôi chảy nhưng lúc này giọng anh run run không được tự
nhiên như trước. Front-de-Boeuf vẫn quen thói thấy mọi người sợ mình nên thấy
Wamba lúng túng hắn không nghi ngờ gì.
Front-de-Boeuf
cho người dẫn Wamba vào phòng của Cedric và Athelstane để làm cho anh không
nghi ngờ, hắn nghĩ như vậy.
Trong
phòng, Wamba nói mình là ai và nhấn mạnh, để buộc Cedric phải đóng thay vai
mình.
Ông chủ
liền mặc cải trang, tạm biệt hai người Athelstane và Wamba.
Trước
khi tiếp tục chương này, chúng tôi thấy cần phải giới thiệu một nhân vật mới
nữa; nhân vật này sẽ quyết định số phận và đời sống của những người sống trong
lâu đài của Reginald Front-de-Boeuf. Muốn thế chúng ta phải trở lại nhiều năm
về trước và nhớ rằng cái lâu đài nói ở đây trước kia là thuộc về Torquil
Wolfganger, một nhà quý tộc Saxons cùng với hai con trai và một con gái tên là
Ulrique sống ở đó. ông có một kẻ thù không đội trời chung, đó là sire De
Front-de-Boeuf, cha của Reginald Front-de-Boeuf nói trong chuyện này.
Gia đình
Front-de-Boeuf sống bằng bạo lực, cướp của, giết người. Một đêm nọ, nhà của
Tor-quil Wolfganger bị đánh phá một cách bất ngờ.
Mặc dầu
người trong lâu đài chống cự rất dũng cảm, nhưng vẫn bị thua; cả người cha và
hai con trai đều bị giết trước con mắt hoảng sợ của Ulrique.
Cô con
gái không bị chúng giết không phải vì thương mà vì chúng ác: cô sẽ làm nô tỳ
cho Front-de-Boeuf cha. Bị đánh đập, bị bắt làm những công việc bẩn thỉu và mệt
nhọc nhất, bị tên sát hại cả gia đình cô chửi mắng, cô thề sẽ trả thù. Cô hùn
cậu con trai Front-de-Boeuf hất cẳng cha mà mãi hắn chẳng chịu chết cho… Một
tối hai cha con uống rượu say, Reginald được Ulrique khuyến khích, giết cha
mình… Những năm tháng qua đi. Ulrique bây giờ là một bà lão lưng còng vì làm
lụng vất vả, gầy khô và bị ngược đãi, thiếu thốn.
Từ lâu,
cô con gái của Torquil Wolfganger đã là một công cụ đích thực trong tay Chúa để
trừng trị tội ác, rửa mọi oan trái, cô chỉ nghĩ mỗi việc làm sụp đổ đến tận gốc
cái nền móng thế lực và giàu sang của gia đình Front-de-Boeuf.
Ulrique
ngồi ở đầu giường bệnh Ivanhoé, cùng lúc ấy tiếng tù-và làm Reginald cùng các
tay chân thân cận và Brian lẫn De Bracy giật mình, vang lên ở cổng lâu đài.
Bà già
Ulrique giật mình, đứng bật dậy.
– Có
phải đã đến lúc báo thù rồi chăng? -Bà già lẩm bẩm.
Một ánh
sáng khủng khiếp lóe lên trong đôi mắt bà..Cedric cố gắng đi đến cửa đường
ngầm. Các tay chân của Front-de-Boeuf đang bận làm các công việc bảo vệ lâu đài
nên ông đi qua không ai thấy trừ Ulrique đang lảng vảng ở các cầu thang lâu
đài. Bà nhận ra sự giả mạo, đến báo cho Cedric khi nào thấy lửa bốc cháy ở vọng
lâu thì ra lệnh xung phong. Dặn xong ám hiệu đó, bà cầm tay Cedric dẫn ra khỏi
lâu đài bằng một lối đi bí mật.
Nhưng
Brian hỏi ông linh mục đâu, mọi người chạy đi tìm nhưng không thấy: quân cứu
viện sẽ không có và như vậy những kẻ bị bao vây chỉ dựa vào sức mình là chính
để bảo vệ lâu đài.
Cedric
báo thông tin của Ulrique cho mọi người bên mình biết và giam gia cùng họ giải
phóng con gái và ông bạn Athelstane.
Đợt đầu
xung phong họ lọt qua được tường ngoài lâu đài. Nhiều lần quân mũ xanh bị đẩy
lùi. Họ như bị lộ thiên mà chiến đấu, đánh một quân thù kém về quân số thật đấy
nhưng được nấp đằng sau những bờ rào cao, những lỗ châu mai chắc chắn những bức
tường dày cộp và có ba tay vô địch đốc chiến. Tuy nhiên ở chỗ nào dân outlaws
lùi bước là ở đấy có Hiệp sĩ áo đen. Thật là kinh hoàng khi thấy người hiệp sĩ
ấy, cao hơn các bạn chiến đấu hai cái đầu, đi đến đâu là phạt quang chỗ ấy.
Địch thủ của anh đầu rụng như sung, thân ngã rụi như những bông lúa chín vào
ngày gặt. Mỗi một mũi tên của Locksley là một quân thù bị hạ và lưỡi rìu của
nhà ẩn sĩ thì bổ toác sọ quân thù.
Brian,
Front-de-Boeuf và De Bracy không chịu lùi bước và những đợt đánh trả của họ
cũng gây thiệt hại trong hàng ngũ những người tấn công. Cuộc chiến đấu còn đang
bất phân thắng bại thì hiệp sĩ Noir-Fainéant đứng trước Front-de- Boeuf, mặt
đối mặt. Họ quần nhau như hai mãnh hổ và quân lính hai bên hình như chờ đợi
cuộc đấu tranh kết thúc. Gươm của Hiệp sĩ áo đen đâm vào áo giáp của địch thủ
Front-de-Boeuf nhưng tên này vẫn đánh trả lại được từng miếng.
Kiếm của
Noir-Fainéant bỗng bị gãy và anh trượt chân… Front-de-Boeuf giơ tay cao để bổ
xuống nhưng nhanh như chớp, Hiệp sĩ áo đen Noir-Fainéant vớ ngay cái rìu của
một yeoman bổ xuống một nhát rất mạnh vào đầu Reginald làm.hắn lảo đảo và ngã
xuống. Tay templier chạy đến cứu và kéo được
người bạn đồng minh ra… nhưng quân bị bao vây thấy chủ mình thua liền lùi bước
và chạy trốn vào lâu đài. Chúng đứng dồn vào trong còn những kẻ thắng keo đầu
thì củng cố chỗ mới chiếm được, chuẩn bị đợt xung phong thứ hai.
Những
người trong lâu đài không chịu bó tay. ông dòng templier thôi thúc, khuyến
khích họ, thổi vào trong lòng họ một sinh khí mới, một lòng quả cảm không hy
vọng.
– Nào,
các bạn bắn cung dũng cảm, hãy trả thù cho chủ soái! Thế nào! Các bạn sợ cái thằng
cục cằn kia sao? Hãy tin lời ta. Thắng hay bại là ở chúng ta, do chúng ta. Quân
địch chúng không buông tha chúng ta đâu, ta phải giết để không bị giết. Máu của
Front-de-Boeuf đã đổ, chúng ta hãy trả thù.
– Tất cả
hãy còn hy vọng, – De Bracy nói tiếp. – Lát nữa, hoàng tử Jean thấy chúng ta
chưa về sẽ điều quân đến cứu. Chỉ cần giữ vững được một ngày, có lẽ hai ngày…
Những tường thành kia không che chắn cho chúng ta được tốt lắm sao? Chúng ta
không có lương thực dồi dào rồi sao? Hãy can đảm lên các bạn ơi! Hãy ra tường
thành nghênh chiến, cho chúng nếm một đòn phải sợ không dám chạm đến lỗ chân
lông chúng ta nữa.
Những
lời hô hào đó làm nức lòng quân lính.
Tất cả
hăng hái đem đến các lỗ châu mai, người thì những tảng đá nặng, người thì những
thân gỗ lớn để ném xuống những người bao vây dám mò đến chân tường.
Ngay
những kẻ bị thương cũng cố làm được việc gì đó có ích như theo dõi quân của
Locksley chuyển động còn những người lành lặn thì làm những công việc nặng hơn.
Sau khi
ông dòng templier ở phía nam và De Bracy phía bắc kiểm tra tỉ mỉ các công việc
phòng thủ xong thì họ gặp nhau ở một phòng trong lâu đài.
Vẻ mặt
họ suy tư. Sau đợt tấn công đầu tiên, họ nhận thấy kẻ địch sẽ dai dẳng, bền bỉ.
Khi động viên quân lính, họ quên không nhắc đến hai tên tuổi Chevalier Noir và
Locksley. Với những người chỉ huy như vậy thì những quân mũ xanh và người của
Cedric và Athelstane không mấy khi chịu lùi bước sau lần đầu bị vấp váp..Cái
hùng dũng của Hiệp sĩ áo đen, sự khéo léo của Locksley là những con bài chủ, là
chất kích thích mạnh mẽ tinh thần của những kẻ bao vây.
– Anh
Front-de-Boeuf đâu rồi? – De Bracy hỏi. – Có phải anh ta bị thương nặng như tôi
được tin đó không?
– Nếu
hắn chưa chết thì cũng chẳng còn bao lâu nữa hắn sẽ phải trao lại linh hồn cho
quỷ. -ông dòng templier lạnh lùng nói.
– Anh ta
bị thương chỗ nào?
– ở đầu,
cái tên Đầu Bò của hắn cũng không che nổi sọ hắn bị nhát rìu của kẻ địch bổ
xuống.
– Thật
là một tổn thất lớn cho hoàng tử Jean và cánh của ông ta.
– Mặc kệ
hoàng tử! Mong sao ông ấy bị trừng phạt vì kiêu ngạo và tham vọng. Đáng lẽ ông
phải đến ứng cứu chúng ta mới phải, vì chúng ta xưa nay vẫn giúp đỡ ông ta biết
bao nhiêu đấy thôi.
– ạ! ông
templier… ông hãy còn biết quá ít về vị hoàng tử ích kỷ ấy. Nhưng thôi, nói
những chuyện ấy làm gì… Tốt hơn hết chúng ta hãy tự lực cánh sinh cái đã.
– Đó
cũng là ý kiến của tôi, chúng ta hãy chiến đấu đến cùng!
– Trước
khi đến bước đường cùng ấy, chúng ta không thể thương lượng với Hiệp sĩ áo đen
được sao? Chúng ta bắt một số con tin mà có thể đánh đổi lấy tự do cho chúng
ta. Đó cũng là thực chất vấn đề họ yêu cầu trong thư, và…
– Anh
nói sao! Anh nghĩ thế ư, anh De Bracy?
Làm theo
những yêu cầu của những tên cục súc, những tên trộm cướp ấy không hợp với danh
dự chúng ta. Thà chết còn hơn!
– Hãy
nghĩ đến số phận của các tù nhân của chúng ta. Họ sẽ ra sao trong cuộc chém
giết sắp tới này.
– Họ sẽ
chết cùng chúng ta nếu hoàng tử Jean mất chúng ta thì hoàng tử đồng thời cũng
thoát nạn tay Athelstane cùng với những ý định điên rồ của hắn được lên ngôi
vua nước Anh!
– Chúng
ta hãy lên vị trí chiến đấu của chúng ta đi và chúng ta sẽ là những người đứng
đầu bảo vệ lâu đài.
– Chiến
đấu! – ông dòng hô to.
Cả hai
đều lên bờ thành và thi hành mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ lâu đài. De
Bracy.phụ trách con đường ngầm còn ông dòng cầm đầu một toán hai chục người sẵn
sàng chạy đến chỗ nào cần ứng cứu.
Front-de-Boeuf
được khiêng đến gian phòng lớn của lâu đài, đặt lên giường. Hắn bị một vết
thương chém vào sọ, đang hấp hối. Tất cả quân của hắn đều lên mặt thành. Đêm đã
xuống phải canh gác cẩn thận đề phòng đối phương đánh úp. Quân của hắn đã bị hạ
dần; kẻ nào mất đi thì không thay thế được còn bên đối thủ hàng ngũ mỗi lúc một
đông nhờ quân outlaws và những nông dân sinh sống trên đất của Cedric và Athelstane
chạy đến.
Front-de-Boeuf
một mình trước cái chết!
Không,
có… một cái bóng luồn tới bên hắn. Đó là Ulrique, nạn nhân của hắn, đến hỏi tội
hắn và tội của cha ông hắn.
–
Reginald, – Ulrique nói, – giờ tận số của ngươi đã điểm; trước khi lửa địa ngục
liệm xác nhà ngươi, ta sẽ đốt cháy cái lâu đài này mà gia đình nhà ngươi đã
cướp trắng của cha ta. Buồng để củi ở ngay dưới giường ngươi nằm, ta sẽ châm
lửa ở đấy trước. Rồi linh hồn của ngươi sẽ đi sau, giữa đám lửa sẽ thiêu sống
nhà ngươi.
Ulrique
biến mất… Front-de-Boeuf không thể ngồi dậy được; hắn cảm thấy sắp chết đến
nơi.
Bỗng một
mùi hăng hắc chẹn lấy cổ họng hắn…
Liệu hắn
có bị sặc khói như con cáo bị hun trong hang không.
– Cứu
tôi với, Brian ơi! Cứu tôi với, De Bracy, cứu tôi với! Tôi chết mất… Cứu tôi
với! Còn chúng bay nữa, những tên hầu khốn nạn, chúng bay để tao chết trong
đống lửa sao? Hiệp sĩ tem-plier ơi… lửa… lửa… Cứu tôi với… Tôi bị lửa cháy rồi!
Front-de-Boeuf
bỗng nhiên cười lên sằng sặc, âm vang dội khắp gian phòng… Lửa đã bén lên sàn.
Một
tiếng cười khác cất lên rùng rợn bên cạnh Front-de-Boeuf hấp hối.
– Có
phải mụ đấy không, hả Ulrique? Mụ là con quỷ lúc này còn dám cất lên tiếng
cười… Mụ hay là quỷ dữ đấy… ôi! Tôi bị sặc… Brian… De Bracy… Cứu tôi với…
Front-de-Boeuf ngạt thở; đôi mắt hoảng hốt của hắn nhìn thấy những bóng ma hiện
lên, bóng ma những nạn nhân của hắn, bóng ma cha hắn…
Chúng ta
hãy lùi về sau một lúc để nắm tình hình những người bao vây và bị bao vây thế
nào.
Trong
khi những người bị bao vây chuẩn bị đẩy lùi một đợt công kích mới không tránh
được thì Athelstane và Wamba vui sướng vì những tiếng động giao tranh; rõ ràng
là có người đến cứu họ và hai người hy vọng những người đến cứu sẽ thắng.
Trong
buồng Rowena không nhìn thấy gì nhưng những tiếng reo hò chiến trận thì bay tới
tai nàng; nàng quỳ xuống cầu xin Thượng Đế hãy thương lấy nàng và cứu giúp thân
nhân của nàng; ý nghĩ của nàng còn đi xa, tới chàng Ivan-hoé mà nàng yêu mến.
Chao ôi! Giá mà nàng biết được chàng đang cùng ở một mái nhà dây!
Ivanhoé
được Rebecca giúp đỡ, đến gần cửa sổ phòng giam; qua cửa sổ, anh nhìn thấy tất
cả công việc chuẩn bị cuộc tấn công. Lúc nào anh cũng muốn xô cửa phòng giam
xông ra nhưng Rebecca đều ngăn lại. Anh vừa bị thương, vừa yếu thế này thì làm
gì được!
Isaac ở
chỗ giam của mình chẳng nhận ra điều gì; lão thương con gái đến phát khóc, gọi
tên con gái Rebecca lẫn với những tiếng rên rỉ, than thở sợ mất hết gia tài.
Cuộc tấn
công được tiến hành tiếp vào sáng sớm hôm sau; Locksley cùng với một số anh em
hăng hái nhất đánh phía bắc; anh cố gắng thu hút số đông quân địch về phía đó;
Cedric và anh em khác phụ trách cửa đường hầm phía nam.
Hiệp sĩ
áo đen đi đầu, tay cầm rìu. Anh bổ những nhát mạnh mẽ vào cánh cửa gỗ nặng,
tiếng rìu còn át cả các tiếng vũ khí. Không gì làm anh lùi bước, tuy nhiên quân
địch lăn đá và thân gỗ nặng xuống rào rào như mưa.
Đứng ở
cửa sổ nhìn xuống, Ivanhoé nhìn thấy thân hình cao lớn của hiệp sĩ áo đen liền
thốt lên:
– Xin
thề trước thánh chủ Wilfrid, ta chỉ biết mỗi một người ở nước Anh có khả năng múa
rìu như vậy! Nhưng ông ta đang bị giam ở nước áo rồi kia mà…
Cửa
đường hầm bắt đầu lung lay… một làn khói đặc tuôn ra từ vọng lầu; lâu đài bốc
cháy..Đó là ám hiệu thỏa thuận giữa Ulrique và Cedric.
Locksley
cùng người của mình bỏ trận địa phía bắc chạy về kết hợp với quân của
Chevalier-Noir và của Cedric phía nam.
De Bracy
biết là mình bị mắc mưu vội chạy đến ứng cứu ông dòng templier.
Người
của lâu đài đã phá được chiếc cầu dẫn thẳng đến cánh cửa chính đường ngầm. Hào
sâu ngập nước là một trở ngại lớn rất khó vượt qua vì kẻ địch đã chuẩn bị mọi
thứ để từ trên cao ném xuống.
Hiệp sĩ
áo đen lập tức cho làm một cái cầu vừa đủ cho hai người đi đầu vượt qua. Khi
chiếc cầu tạm thời được làm xong thì hiệp sĩ Cheva-lier- Noir và Cedric băng
qua, không khó khăn gì tới được bờ bên kia, ngay trước cánh cửa ngầm.
Búa rìu
của họ một lần nữa bổ lên cánh cửa nặng. Công việc phá cửa không làm nhanh được
nhưng trước sau gì cửa cũng bị bật thôi.
Người ở
lâu đài không làm được gì với hai chiến sĩ kiên cường kia bởi vì không những họ
núp được dưới chiếc cầu cũ gãy mà còn vì quân mũ xanh bắn tên sang như mưa khi
thấy ai lấp ló ở lỗ châu mai.
Chính
vào lúc đó De Bracy đến gặp Brian de Bois-Guilbert.
– De
Bracy ơi, hỏng cả rồi, chúng ta chịu chết thôi! Lâu đài cháy cả rồi, phần lớn
người của chúng ta bị tên quỷ Locksley bắn chết hay bắn bị thương cả rồi.
– Chúng
ta phải mở một con đường máu; với lực lượng còn lại chúng ta cố chọc thủng hàng
ngũ quân địch, tiến về Ashby.
Hai
người tập họp quân lại và ra lệnh mở đường; họ không còn đủ thời gian nữa: cửa
ngầm bị Chevalier-Noir và Cedric phá, bật tung; nghĩa quân tràn vào như nước.
Mặc dầu De Bracy ra sức cản phá, quân của Front-de-Boeuf lùi bước trước Hiệp sĩ
áo đen dũng mãnh; ông dòng tem-plier đã chạy biến; De Bracy rất can đảm; không
lưỡng lự hắn tấn công chiến sĩ mặc áo giáp đen.
Lúc sau,
kiếm của De Bracy bị gãy trước lưỡi rìu của hiệp sĩ áo đen.
– De
Bracy, đầu hàng đi, – Hiệp sĩ áo đen vừa đưa mũi dao găm về chỗ rách của áo
giáp De Bracy vừa nói, – đầu hàng đi không thì chết.
– Mi hãy
nói mi là ai để ta xem mi có xứng đáng ta phải hàng không. – De Bracy nói..Hiệp
sĩ áo đen nghiêng mình xuống, ghé sát tai kẻ bại trận nói nhỏ, De Bracy ngạc
nhiên.
– Kẻ này
xin đầu hàng hoàn toàn, – hắn kính cẩn trả lời, – xin ngài hãy chạy nhanh đi
cứu Ivanhoé đi nếu không anh sẽ bị chết cháy. Xin ngài đi theo cầu thang này
dẫn đến buồng anh ta ở.
Lời nói
bị một tiếng ầm dữ dội át đi, đó là tháp ở vọng lâu sụp đổ; xác Front-de-Boeuf
bị chôn vùi dưới đó. Các chiến sĩ dừng tay một lúc để nhìn một thân hình đầu
tóc rũ rượi, tay bíu vào cửa sổ; tiếng hét dữ dội, tiếng cười điên dại nghe rõ
hơn cả tiếng lửa lốp bốp, Ulrique buông tay rơi xuống đống than hồng.
Cuộc
chiến đấu gần như kết thúc: quân mũ xanh chém giết không chút nhẹ tay và người
của Front-de-Boeuf còn lại một dúm chống đỡ một cách tuyệt vọng. Chúng dựa vào
chân cầu thang có thể gây thêm nhiều thương vong cho đối phương hơn nữa nếu
không có Wamba và Athel-stane chặn đánh bên sườn bằng những chiếc ghế đẩu nặng
chắc buộc chúng phải tháo chạy. Bây giờ chúng đang ở giữa sân. Đối với
Athelstane, đánh chúng chỉ là một công việc chốc lát; anh muốn trả mối thù
những ngày bị giam giữ lên đầu những tên sống sót. Đầu không mũ che, thân không
áo giáp, anh tiến lên, đánh phải, gạt trái, mỗi lần cánh tay giơ lên là một tên
địch gục xuống.
Bỗng
nhiên người ta thấy một kỵ sĩ từ chuồng ngựa chạy ra, trên yên ngựa, đằng trước
có một phụ nữ ngồi. Lợi dụng lúc không ai để ý, hắn phóng ngựa chạy đến cửa
ngầm, giữa những người yeomen đang ngây người vì bất ngờ.
– Brian
de Bois-Guilbert! – Athelstane ra chặn thầy dòng templier lại, kêu lên. – Này
hiệp sĩ ăn cướp, muốn sống thả ngay lady Rowena ra, nếu không…
Anh
không nói thêm được nữa, Brian phang anh một chùy mạnh. Chàng hiệp sĩ Saxon
khốn khổ đầu trần, bị một đòn giáng xuống, chết ngay.
Những
người chứng kiến chạy lại, Brian đã chui tọt vào vòm nhà dẫn đến cửa ngầm, thục
ngã những ai định cản đường. Hắn đến được cánh rừng với người phụ nữ cướp được.
– Lady
Rowena bị bắt cóc rồi! Lady Rowena bị bắt cóc rồi!.Đó là những tiếng hô hoán
trong sân; nhưng không phải Rowena bị bắt cóc. Gurth đã nhận ra người phụ nữ;
đó là người anh trả tiền mua áo giáp cho chủ.
– Đó là
cô con gái ông Isaac. – Gurth kêu lên. – Lạy Chúa tôi, cậu chủ tôi phải ở đây
rồi.
Thật
vậy, Cedric cầm tay cô cháu gái Rowena kéo đi, còn hiệp sĩ áo đen ở cầu thang
gác khác bước xuống, đỡ Ivanhoé. Chàng được trao cho những người yeomen.
– Các
ngươi trông nom cẩn thận nhé, – Lock-sley nói, – có làm sao, ta lấy đầu các
ngươi.
– Các
anh hãy đi khỏi nơi đây nhanh lên, -hiệp sĩ Noir-Fainéant ra lệnh. – Chúng ta
đã thắng lợi!
Locksley
nói tiếp:
– Hỡi
các tay cung giỏi giang, chúng ta hãy hô vang lên thắng lợi! Front-de-Boeuf đầu
bò, kẻ tù của chúng ta, Front-de-Boeuf, tên hiệp sĩ ăn cướp và bội thề, lâu đài
của nó đã bị thiêu hủy thành tro. Các bạn sẽ đến tập trung ở cây sồi già
Hart-Hill-Wolk. Sáng sớm ngày mai, chúng ta sẽ phân loại xác các kẻ thù của
chúng ta.
Những ai
đã tham gia trận đánh trả ân báo oán này hãy nên có mặt: rồi sẽ có thưởng.
Đám quân
còn chưa ra tới bìa rừng đã nghe thấy phần quan trọng nhất của lâu đài sụp đổ
trong một tiếng ầm dữ dội. Tất cả mọi người quay đầu lại nhìn, họ nghĩ đến tên
hiệp sĩ gian ác bị thiêu cháy trong ngọn lửa, ở ngay chính hang ổ của hắn, đè
lên hắn. Mọi người đứng yên lặng một lúc lâu.
– Công
bằng của Chúa!… – hiệp sĩ áo đen lẩm bẩm nói, trong khi những người chiến thắng
làm dấu thánh….
Chương 10
Ngày hôm
sau, ngay từ sáng sớm, các quân mũ xanh đã tề tựu đông đủ dưới gốc cây sồi, gốc
cây trước đó Wamba và Gurth đã gặp Lock-sley.
Những
outlaws ngoài vòng pháp luật đã qua đêm bằng cách người thì uống rượu, người
thì nghỉ ngơi vì chiến đấu mệt mỏi. Bây giờ, trong khi chờ đợi chia chiến lợi
phẩm, họ thảo luận những sự kiện trong những ngày qua và đánh giá phần mình sẽ
được hưởng. Nhiều vật quý giá đã bị lửa thiêu trụi nhưng những kẻ chiến thắng,
tuy nhiên vẫn vớt vát được vô số bát đĩa bằng vàng bằng bạc, những áo giáp,
những đồ trang sức và những quần áo quý giá.
Theo
luật lệ của họ, không ai có quyền tự chọn lấy bất cứ thứ gì làm của riêng cho
mình:
mọi thứ
phải được tập trung, người đứng đầu sẽ đứng ra chia phần một cách công bằng.
Một lúc
sau, Locksley rời chỗ ngồi với Chevalier Noir và Cedric, ra ngồi trên chiếc ghế
có tay ngai ở bãi cỏ. Quân lính của anh đứng vòng cung trước mặt. Anh nói với
hai hiệp sĩ nọ:
– Thưa
các ngài, mong các ngài thứ lỗi cho, tôi ra ngồi ở chỗ cao nhất này để các
người out-laws của tôi sẽ nhìn bằng con mắt khác nếu người ra ngồi trên chiếc
ghế ngai quê mùa này không phải là thủ lĩnh của họ.
Bằng một
cái khoát tay, anh mời hai hiệp sĩ đến ngồi bên cạnh. Anh nói tiếp:
– Nhà ẩn
sĩ, người được thánh Dustan che chở đâu rồi? Chúng ta sẽ bắt đầu ngày hôm nay
bằng một buổi lễ cầu kinh trang trọng cho những người anh em ngã xuống vì nghĩa
cả!
Nhưng từ
khi lâu đài bốc cháy, không ai trông thấy nhà ẩn sĩ ở đâu. Riêng có một người
tên là Maillard nói có nghe thấy hình như ông chửi đổng vào cái lúc Chevalier
Noir và Cedric phá tung cánh cửa ngầm: "Lạy tất cả các thánh trên trời! Kẻ
sĩ này còn muốn ném tất cả các thứ rượu ngon của tên tướng cướp Front-de-Boeuf
cất giấu trong hầm!" – Hẳn ông ta ở lại uống rượu và bây giờ đang bị vùi
dưới tro bụi. – Locksley nói. – Mail-lard, anh hãy lấy mười người đi cùng anh
tìm.ông cố đạo ấy về cho ta. Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy chia phần. Ngài
Cedric, xin ngài chọn trước.
Cedric
de Saxon từ chối: ông ở lại chỉ cốt để cám ơn anh em mũ xanh và vị thủ lĩnh của
họ đã có công giúp đỡ, giải thoát cho ông và lady Rowena. Sau ông xá tội cho
Gurth và tuyên bố từ nay anh và Wamba được làm người tự do.
Ngoài
ra, ông còn cho hai anh nhiều tiền bạc và mười acres đất.
Vừa lúc
đó, lady Rowena xuất hiện, đẹp đẽ và đĩnh đạc như một bà hoàng. Nàng duyên dáng
chào mọi người và nói vài lời vắn tắt cám ơn Locksley và những người khác đã
cứu vớt nàng; sau nàng cùng Cedric và gia nhân đi về hướng lâu đài Rotherwood.
Trước
khi đi, Cedric nhắc lại ông đội ơn muôn đời Chevalier Noir và ông mời hiệp sĩ
đến Coningsburgh dự đám tang Athelstane, con cháu cuối cùng của dòng họ nhà vua
Saxon. Đêm qua, các tu sĩ ở tu viện bên cạnh đã liệm di hài Athel- stane vào
một quan tài gỗ quý và rước về lâu đài của chàng hiệp sĩ xấu số.
– Tôi sẽ
có mặt ở đám tang, – hiệp sĩ áo đen trả lời, – rồi sau tôi sẽ xin ngài một đặc
ân.
– Dù nó
thế nào, tôi sẽ cố gắng chiều theo ý ngài.
Sau đến
lượt Noir-Fainéant xin cáo lui. Lock-sley đề nghị chàng chọn lấy phần của mình.
Noir-Fainéant nói:
– Tôi
chỉ mong được một điều. Đó là để tôi xử trí với hiệp sĩ De Bracy…
– Thì
hắn không phải là tù nhân của ngài rồi sao? Thôi, xin để toàn quyền cho ngài.
– Tôi
xin một con ngựa cho hắn đi về thành phố gần đây. – Chàng hiệp sĩ chưa quen
biết nói tiếp.
Đề nghị
này tức khắc được chấp nhận.
– De
Bracy, ta cho ngươi được tự do. Hãy đi đi và nhớ rằng ta không hiềm thù gì với
nhà ngươi nữa đâu. Hãy quên quá khứ đi và hãy sống cho lương thiện.
Tên tù
nhân lễ phép cúi đầu chào, nhảy lên ngựa người ta vừa dắt đến và quất roi chạy
mau. Thủ lĩnh quân mũ xanh tháo chiếc tù-và đồng luôn cài ở dây lưng ra.
– Thưa
hiệp sĩ, vì hiệp sĩ không chịu nhận phần mình nên tôi xin phép tặng ngài chiếc
tù-và này. Xin ngài nhớ cho rằng khi gặp nạn, ngài chỉ cần thổi lên ba tiếng:
wa-sa-ha! là có ngay người đến cứu ngài.
Nói
xong, Locksley thổi ngay tù-và để cho hiệp sĩ ghi nhớ ba tiếng trên. Đến lượt
mình, Chevalier-Noir thổi mạnh hơn Locksley nên âm vang trong rừng lâu mới tan.
– Thổi
mạnh lắm, – thủ lĩnh những người outlaws nói. – Tôi cho rằng ngài đi săn cũng
giỏi như ngài ra trận. Này chiến sĩ, các bạn đã nghe thấy tiếng tù-và này rồi
nhé, các bạn hãy nhớ ba tiếng: wa-sa-ha! nhé! Đó là tiếng gọi của hiệp sĩ đứng
đây, hễ ai nghe thấy tiếng tù-và thổi phải chạy ngay đến ứng cứu.
– Hiệp
sĩ áo đen muôn năm! – Những người mũ xanh hô vang.
Sau đó,
người ta tiến hành chia chiến lợi phẩm. Phần của Maillard và của những người
cùng đi cất một chỗ. Mỗi người nhận được phần mình theo thứ hạng hay theo công
trạng trong chiến đấu.
Chiến
lợi phẩm chia xong không được mấy chốc thì ở chỗ rừng thưa thấy một toán người
kỳ lạ xuất hiện: đó là Maillard và những người cùng đi vây quanh nhà ẩn sĩ. Nhà
ẩn sĩ chân đi hơi tập tễnh một chút; một tay ông cầm thanh giáo, tay kia cầm
một chiếc thừng quàng vào cổ lão già Do Thái Isaac.
– Hãy
tránh ra các bạn, nhà ẩn sĩ của các bạn mang về cho các bạn một tù nhân đây! Và
là tù nhân khiếp đấy! Một lão Do Thái tôi cứu khỏi nanh vuốt của quỷ Satăng.
– Cứu
tôi với, – ông già van xin. – Chẳng ai thương lấy tôi và cứu tôi thoát khỏi tên
điên…
ấy chết,
xin lỗi, thoát khỏi con người thánh thiện này!
– Cái gì,
quân khốn nạn! Thế mi đã quên kinh Credo và kinh Pater ta dạy ngươi đêm qua rồi
ư? Và kinh Ave Maria nữa?
– Im
nào. – Locksley nói. – Tốt hơn là hãy kể cho tôi nghe đã, anh mang ông già này
về như thế nào..Nhà ẩn sĩ kể là khi đi tìm rượu ở tầng hầm nhà Front-de-Boeuf,
ông mở được một cánh cửa khóa chặt. ông tưởng trong đó có nhiều rượu mùi và
rượu vang. Than ôi! Lại chỉ thấy mỗi lão Do Thái khốn khổ này; ông định lôi lão
ra ngoài thì bỗng nhiên lâu đài bị sụp, bịt mất cửa căn hầm.
– May
thay, – nhà ẩn sĩ nói tiếp, – tôi tìm thấy một thùng rượu vang ngon Canaries và
trong khi chờ người đến cứu, tôi quyết định kết hợp làm công việc kính Chúa với
cái vui thưởng thức thứ rượu vang nức mùi thơm kia. Tôi truyền đạo cho Isaac
và… thề có thánh Dustan chứng giám, tôi nhận được một người học trò thật dễ bảo
và thật hào phóng. ông lão tự nguyện hiến hết của cải của lão cho dòng thánh
của tôi.
– Xin
thề trước tất cả các nhà tiên tri, – Isaac lo lắng kêu lên. – Xin các bậc lãnh
chúa kính mến, tôi chẳng có của cải gì, tôi chẳng hứa hẹn gì…
– Này,
quỷ tha ma bắt nhà mi đi, – nhà ẩn sĩ nâng ngọn mác lên, ngắt lời. – Nhà ngươi
định chối đấy hả?
Ông vung
tay lên định sửa tội ông già Do Thái thì Hiệp sĩ áo đen kịp giữ lại làm ông này
quay sang tức giận nói với chàng hiệp sĩ:
– Này,
đừng có xen vào chuyện của người khác, nếu không tôi sẽ cho biết tay, dù anh có
ba đầu sáu tay cũng kệ.
– Được
thôi, tôi chấp nhận đấu. – Hiệp sĩ áo đen mỉm cười nói. – Anh đánh trước đi,
tôi đánh sau.
Nhà ẩn
sĩ muốn tỏ sức mạnh của mình chẳng chờ phải mời đến lần thứ hai. Anh xắn tay áo
đến tận khuỷu, nắm chặt quả đấm rồi giáng lên đầu kẻ đối thoại một quả rất mạnh
có thể làm chết một con bò. Đối thủ vẫn đứng trơ như không, chẳng nhúc nhích
chút nào.
– Giờ
đến lượt tôi, ông ẩn sĩ đáng kính nhé.
ông hãy
đứng cho vững.
Hiệp sĩ
áo đen tháo nắm tay sắt ra, rồi chẳng phải lên gân lên cốt chút nào, giáng quả
đấm rất mạnh lên đầu đối thủ làm anh chàng ngã quay lơ xuống đất, mọi người
đứng xem hết sức kinh ngạc. Nhà ẩn sĩ lồm cồm đứng dậy, chìa tay cho chàng hiệp
sĩ nói:.- Xin hòa giải với anh; giờ ta chỉ còn phải nghĩ xem tiền chuộc lão già
này lấy như thế nào thôi.
Khi đã
thỏa thuận xong với Isaac món tiền chuộc – Isaac không phải không rên la giá
cao quá – Isaac yêu cầu được đưa con gái tới. Mặc dầu biết không mấy người coi
trọng và thương cái giống nòi của Jacob ấy, Locksley nhớ việc Rebecca bị bắt
mang đi cũng nhắc tin ấy cho người cha khốn khổ biết.
– ông sẽ
tìm thấy con gái ông ở điện Tem-plestowe ấy, – anh nói tiếp. – Theo tin tôi
nhận được, ông dòng templier mang cô ấy đến đấy.
Tôi tin
ông sẽ gặp con và chuộc lại với cái giá phải kha khá.
– Khổ
cái thân tôi! Lại chuộc, lại tiền chuộc.
Xin thề
trước các đấng tiên tri, bây giờ tôi đã cạn hết tiền rồi; tôi lấy gì mà chuộc
lại con tôi?
– Thôi
hãy im đi, Isaac! Chúng ta đã nghe ông kêu quá nhiều rồi. ở đây ai cũng biết
ông có nhiều tiền. ông hãy yên tâm, rồi thế nào ông cũng tìm ra tiền chuộc con
gái ông thôi. – Hiệp sĩ áo đen nghiêm khắc nói. – Ai đã là chủ cho vay tiền của
hoàng tử Jean thì người đó không phải là người ít tiền. Rồi ông sẽ bị oan gia
đấy vì tội đã dám cho hoàng tử em vay tiền để truất ngôi anh là đức vua nước
Anh, Ric-hard Coeur de Lion.
Lão già
Do Thái tái xanh mặt và hoảng hốt lẩn trốn.
– Đồ quỷ
sứ! Tay hiệp sĩ này phải là con quỷ mới biết
được điều bí mật ấy. – Lão vừa chạy thục mạng, vừa lẩm bẩm.
Chàng
hiệp sĩ lạ mặt liền tiến lên và giơ tay ra hiệu muốn nói:
– Các
bạn chiến đấu anh dũng, tôi xin cám ơn các bạn, cám ơn trước tiên thủ lĩnh của
các bạn, người đã nghiêm khắc trị tội tên Front-de-Boeuf và bè lũ để lập lại
công bằng. Bây giờ tôi xin phép tạm biệt các bạn. Các bạn hãy nhớ chắc chắn
rằng tôi không bao giờ quên các bạn! Các bạn hãy luôn luôn là những đày tớ
trung thành của đức vua Ric-hard Coeur de Lion!
Các
outlaws hoan hô nhiệt liệt và Hiệp sĩ áo đen nhận những tràng hoan hô của các
con người đó, thực ra họ là lương thiện, nhưng vì quân Normanrd ăn cướp và bất
công nên họ phải sống ngoài vòng pháp luật. Hiệp sĩ áo đen, xin nhắc lại, nhận
những tiếng hoan hô và những biểu hiện kính trọng mà coi đó là những việc tất
nhiên phải đến với chàng. Locksley suy nghĩ, nhìn chàng đi xa.
– Nếu
đúng là người đó! – Anh lầm bầm nói, một ánh lửa lạ lùng lóe trong đôi mắt anh.
Bạn đọc
có lẽ lo lắng cho số phận của Ivan-hoé, Gurth và Wamba, hai đày tớ can đảm và
trung thành đã gửi "cậu chủ nhỏ" ở tu viện Saint-Botolph để anh nghỉ
ngơi, tĩnh dưỡng ở đó. Hai anh cũng báo cho các tu sĩ biết sự ra đi của nhà quý
tộc Athelstane.
Tu viện
Saint-Botolph cũng chính là nơi Hiệp sĩ áo đen đến. Hai người ngồi với nhau,
nói chuyện rất lâu về một vấn đề quan trọng.
Về sau
chúng ta sẽ biết là việc gì. Lúc này chúng ta chỉ cần biết là trong vài ngày
tới, khi vết thương đã đỡ thì Ivanhoé phải trở về lâu đài Coningsburg cùng với
Gurth. Còn ngày mai, Hiệp sĩ áo đen sẽ đi cùng với Wamba đến dự đám tang
Athelstane.
Đến đây,
chúng tôi cần mở một dấu ngoặc nhỏ: chúng ta hãy quay trở lại với hoàng tử
Jean.
Vào
chiều cái ngày lâu đài của Front-de-Boeuf bị thiêu hủy thì ở thành phố York nơi
ở của hoàng tử Jean và những người cùng đi có một tin đồn: De Bois-Guilbert,
Front-de-Boeuf, De Bracy đã bị giết và bị bắt làm tù binh, tin bất ngờ thật đấy
nhưng có thể tin được vì các vị hiệp sĩ nọ đi ít người hộ tống.
Hoàng tử
nhận được tin ấy rất tức giận và dọa sẽ treo cổ ngay những tên giết hại ba viên
cột trụ triều đình. Sự kiện đó làm cản trở ông ta thi hành các mưu đồ. Thật
vậy, ông làm gì được nếu không có hỗ trợ của Brian và những người dòng đạo của
ông ta, của Front-de-Boeuf và những tay thiện xạ của ông ta, của De Bracy và
những quân lính của ông ta?.- Những tên bất nghĩa! Những tên điên rồ! Những lúc
gay go thế này chúng không có mặt. – ông vỗ tay lên trán tức giận nói với
Fitzurse.
– Tôi đã
lệnh cho chỉ huy phó của De Bracy báo động cho binh lính yên cương phải sẵn
sàng, – Fitzurse trả lời, – và đích thân ông chỉ huy phó phải cầm quân cấp tốc
đến ứng cứu Front-de-Boeuf.
Có lẽ họ
cần sự giúp đỡ của chúng ta đấy.
– Thưa
hoàng tử, chậm rồi, chậm quá mất rồi, ngài Waldemar …
– Một
giọng nói quen thuộc cắt ngang, giọng nói của De Bracy.
– Trời
ơi, De Bracy đấy ư! – Hoàng tử kêu lên. – Nhưng tình trạng thế nào thế này! Nói
mau, nói mau lên, anh bạn. Dân Saxons nổi loạn à? Front-de-Boeuf và ông dòng
templier thế nào?
– ông
dòng templier đã bỏ trốn và Front-de- Boeuf đã bị chôn vùi dưới lâu đài cháy
rụi của ông ta, – De Bracy trả lời. – Nhờ vào lòng cao thượng của kẻ thắng trận
tha cho nên tôi mới chạy được về đây báo tin hoàng tử biết. Thế chưa phải đã
hết, – ông hạ giọng nói tiếp, – ông anh hoàng tử, vua Ric-hard, đã trở về nước
Anh, tôi đã gặp ông, nói chuyện với ông và đã là tù binh của ông.
Ông
hoàng tái mét mặt. ông phải dựa vào một chiếc ghế.
– Hoàng
đế Ric-hard! – Fitzurse kêu lên. -Ngà i có dẫn đầu một đoàn quân nào không?
– Không,
ngài chỉ chiến đấu với một nhóm người outlaws; ngài cũng sắp từ biệt họ sau khi
đánh chiếm được lâu đài Front-de-Boeuf.
– Nếu
ông ấy một mình, tôi sẽ cùng những người của tôi đi gặp ngài. Thưa hoàng tử,
ngài có lệnh gì cho tôi không? Tôi có phải…
– Không,
không cần, – vị hoàng tử mắt nhìn đi đâu ngơ ngác trả lời. – Nhà tù là đủ. Trừ
chúng ta ra không ai được biết chuyện ông ấy đã trở về. Dân chúng sẽ tưởng ông
vẫn bị quận công nước áo giam giữ.
– Tôi
thích ông ta ở dưới mồ hơn ở trong tù. – Waldemar nói tiếp. – ở dưới mồ thì
không bao giờ vượt được. – Anh hãy thi hành lệnh của tôi, – hoàng tử trả lời, –
hãy làm những điều anh thấy là cần thiết.
Waldemar
hiểu chủ mình định nói gì liền chạy ngay đi tìm Ric-hard Coeur de Lion, gọi
khác là Hiệp sĩ áo đen hay còn có tên khác nữa là hiệp sĩ áo-đen Lười Vậy là
Hiệp sĩ áo đen và anh dẫn đường đã cùng nhau đi trong rừng. Hiệp sĩ là con
người vui tính còn Wamba thì không để mồm được yên: thế cho nên các chuyện vui
chưa hết đã đến các câu đối đáp hóm hỉnh, giữa chừng lại rộ lên những chuỗi
cười. Hiệp sĩ hát phần chính còn anh dẫn đường hát câu điệp khúc.
Lúc này,
Wamba nói cho Hiệp sĩ áo đen biết những phong tục, tập quán, luật lệ của những
quân mũ xanh và như vậy câu chuyện đương nhiên nói về Locksley và ông ẩn sĩ vui
tính.
– Rất
tiếc là họ không cùng đi với chúng ta.
– Hiệp
sĩ áo đen nói. – Đó là những ông bạn đường vui tính cho chuyến đi của chúng ta
được đến nơi đến chốn một cách vui vẻ.
– Giá mà
nó được kết thúc vui vẻ như ông mong muốn, – Wamba nói lại. – Đường đi còn dài
và không mấy yên ổn. Lẽ đương nhiên là ông có chiếc tù-và đeo bên hông giúp ông
tránh những điều phiền toái.
– à, ừ,
phải rồi, cái tù-và diệu kỳ đó, ta chỉ cần thổi lên ba tiếng là ta có ngay một
toán tay cung cứng cáp.
Ngay lúc
đó, Wamba hốt hoảng nhìn quanh.
Anh như
một con chó săn thiện nghệ đánh mùi con mồi từ xa và linh tính báo cho anh biết
một sự nguy hiểm – nguy hiểm gì? Anh không thể nói rõ được – đang đe dọa người
bạn đường của anh. ông này không nghi ngờ chút nào về những lo lắng của anh hề
điên rồ đó.
– Wamba
này, cậu nói với tôi rất nhiều điều hay về Locksley và các bạn của ông ấy, –
ông nói tiếp, – nhưng có thật cậu không tin rằng sau khi đốt phá trơ trụi lâu
đài Front-de-Boeuf họ sẽ không cướp bóc thẳng tay người Saxon lương thiện không?
– Thưa
ông, có thể như thế nhưng trong những khu rừng này có thể còn gặp những toán
cướp nguy hiểm hơn..- Ai vậy? Như ta biết, chỉ có những chú gấu và chó sói mà
thôi.
– Hê,
hê! Những lính tráng của Malvoisin lại không dữ tợn hơn các con vật kia sao? Chúng
không muốn sát hại chúng ta để trả thù cho bạn chúng là Front-de-Boeuf hay sao?
Nhưng có lẽ chiếc tù-và của ông sẽ đến đúng lúc để…
– Cái
gì! Phải gọi giúp đỡ để chống cái nhóm vô lại ấy ư? Mình ta cũng đủ xuyên người
chúng xuống đất bằng cái lưỡi mác này.
Lời đáp
đó không làm Wamba thỏa mãn chút nào, càng không làm cậu yên tâm hơn.
– Thưa
ông, ông có thể cho phép tôi nhìn tận nơi cái tù-và của ông để xem nó thế nào
mà gọi được các bạn bè từ những bụi cây, lùm cỏ chạy ra ứng cứu.
Ông hiệp
sĩ chiều ý anh bạn đường; tức thì Wamba quàng cái dây buộc lên cổ rồi thổi:
–
Wa-sa-ha! Thưa ông, ông thấy con cũng thổi được như ông đấy chứ!
– Này
Wamba, hãy coi chừng. – ông hiệp sĩ nghiêm nghị nói. – Ta cấm anh thổi bậy đấy
nhé.
ông
Locksley sẽ nghĩ như thế nào về ta khi anh báo động vô ích các tay cung tay nỏ
của ông ta.
– Kia
kìa, ông hãy nhìn cái mũ óng ánh trong bụi cây kia. Người đội nó hẳn chẳng có ý
nghĩ tốt nào, nếu không đã chẳng ẩn nấp như thế; sẽ đi đàng hoàng trên lối đi
như ông con ta đây.
– Xin
thề có thánh Georges nước Anh, anh nói đúng. – Người hiệp sĩ bẻ lưỡi chai mũ
xuống nói.
Vừa kịp:
sáu mũi tên từ bụi cây bắn ra; ba mũi trúng đích: một mũi trúng trán, sẽ xuyên
thủng sọ nếu lưỡi chai mũ không kéo xuống, hai lưỡi khác vô tác dụng vì chạm
phải áo giáp.
– Suỵt,
Wamba, suỵt! – Hiệp sĩ áo đen vừa nói vừa đẩy con ngựa vào bụi cây, tay lăm lăm
chiếc kiếm.
Bảy tên
lính đối địch chờ sẵn, lưỡi mác ở thế sẵn sàng. Người hiệp sĩ không quan tâm.
Mắt chàng nảy lửa.
– Các
thầy, thế này là thế nào? – Chàng đàng hoàng hỏi.
– Là mi
phải chết! – Bảy tên vừa hét vừa xông tới..Ba lưỡi mác đâm thẳng vào chàng
nhưng nó như gặp phải đá, quằn lại.
– A!
Quân khốn nạn! A! Đồ ăn cướp! – Hiệp sĩ thét lên, mỗi tiếng thét kèm theo một
đường kiếm vung lên và một kẻ địch gục xuống.
Những
tên khác tháo chạy ra khỏi tầm tay của tử thần dễ dàng ban cho cái chết: người
bị tấn công giờ thành người tấn công. Chàng sắp sửa đuổi hết quân còn lại bỏ
chạy thì một kỵ sĩ mặc áo giáp xanh từ nãy vẫn nấp ở một chỗ nay nhảy ra đánh
lén. Ngọn mác của hắn đâm chết con ngựa của Hiệp sĩ áo đen. Hiệp sĩ ngã ngựa
không còn cách nào khác phải dựa vào một thân cây để đối phó với những kẻ tiến
lên tiếp tục trận đánh.
Tất cả
sự việc trên xảy ra rất nhanh khiến Wamba đến tận lúc này vẫn còn ngây người
đứng nhìn. Anh lấy lại can đảm và cầm lấy tù-và, thổi thật lâu, nhắc đi nhắc
lại ba tiếng một: Wa-sa-ha!
Wa-sa-ha!…
rồi chạy đến cứu người bạn đường.
Những kẻ
tấn công lùi lại lần nữa, tưởng rằng có quân kéo đến.
– Mới
nghe thấy tiếng tù-và đã bỏ chạy không thấy xấu hổ sao? – Chàng Hiệp sĩ áo xanh
hét lên.
Lời lẽ
trên kích thích bọn lâu la, chúng áp sát địch thủ của mình. Tên thủ lĩnh chuẩn
bị lưỡi mác nhằm ngực Hiệp sĩ áo đen đâm thẳng, chẳng khác nào đóng đinh người
anh vào thân cây.
Nhưng
Wamba đoán được ý đồ của hắn; anh phi như bay đến gần hắn, nhanh nhẹn cắt được
khoeo chân ngựa của hắn. Tình hình của Hiệp sĩ áo đen không vì thế đã đỡ nguy.
Chàng phải chống đỡ vất vả với năm tên địch thủ rất hung hăng, sức khỏe của
chàng đã thấy suy giảm; bỗng nhiên một nắm tên vun vút bay tới các địch thủ của
anh. Cùng lúc ấy, Locksley xuất hiện với một toán tay cung, tay nỏ đi theo.
Một lần
nữa, Locksley phải ngạc nhiên về cái vẻ đĩnh đạc của Hiệp sĩ áo đen khi đến cám
ơn anh.
Wamba
đang cởi dây buộc mũ của Hiệp sĩ áo xanh; anh này còn choáng váng vì cú ngã,
chân tay còn lúng túng vướng dây cương nên.không thể thi thố một hành động
chống đỡ nhỏ nào.
Hiệp sĩ
áo đen cùng những ân nhân của mình lại gần; mũ được nhấc lên, lộ ra một bộ mặt:
Hiệp sĩ áo đen ngạc nhiên kêu lên:
–
Waldemar Fitzurse! Ta đã làm gì đến nỗi nhà ngươi phải đối xử với ta như vậy?
–
Ric-hard, hãy bảo bọn chúng lui ra, tôi sẽ nói…
– Các
bạn, xin các bạn hãy lui ra một chút, -Ric-hard yêu cầu, và cúi xuống Fitzurse,
ông nói tiếp, – bây giờ còn có mình ta, ta nghe đây, nói đi.
– Em
ông… – Fitzurse nói.
Mắt
Ric-hard quắc lên tức giận.
– Cái
gì! Quân khốn nạn! Em ta, đến mức đốn mạt thế ư? Lại muốn giết hại ta!
– Phế vị
ông anh, trị vì thay… Tôi biết thế đấy, còn bây giờ muốn làm gì tôi thì làm.
– Anh sẽ
được bảo toàn tính mạng và được tự do. – Ric-hard dõng dạc trả lời. – Ta không
phải là đao phủ. Ta chỉ lệnh cho anh phải rời bỏ nước Anh này ra đi, hẹn trong
ba ngày phải ra đi, và không bao giờ… không bao giờ, nghe rõ không, được lộ ra
cho ai biết em trai ta định mưu sát ta, nghe rõ không?
Rồi quay
ra phía Locksley:
– Mang
một con ngựa ra đây cho ông hiệp sĩ, để ông đi.
– ý tôi
là muốn bắn một mũi tên cho hắn chết, – thủ lĩnh những người bắn cung nói. –
Tôi không biết cái gì đã giữ tay tôi lại. Tiếng nói của ông có một sức mạnh
khiến tôi phải tuân theo, như theo lệnh chủ vậy.
– Tôi là
chủ và tôi có quyền buộc anh phải tuân theo, anh Locksley ạ. Tôi là Ric-hard
Coeur de Lion, vua nước Anh.
Nghe
vậy, cả bọn yeomen quỳ lạy nhà vua và thề trung thành.
Thủ lĩnh
của họ nói:
– Đối
với tôi, các anh đừng gọi là Locksley nữa. Tôi là Robin Hood ở khu rừng
Sherwood.
Thưa đức
vua, tên của thần, đức vua không lạ.
Xin đức
vua tha cho tội chết vì những lỗi lầm thần mắc phải khi ngài đi vắng.
– A! A!
– Nhà vua kêu lên. – Ra anh là Robin Hood đấy hả! Ta đã nghe thấy tên tuổi anh;
anh không những là vua của dân outlaws, mà còn là.hoàng tử của những người hay
đùa. Tiếng tăm của anh đồn đến tận Palestine .
Thôi, Robin, hãy đứng dậy. Việc anh và các bạn anh giúp tôi trị tội bọn ăn cướp
ở lâu đài Front-de-Boeuf đã đủ để anh được tha thứ rồi. Với lại, anh đã không
từng nâng đỡ kẻ yếu và đánh phá tất cả bọn hiệp sĩ phản nghịch áp bức dân tộc
Anh đó sao?
– Hoan
hô! – Wamba kêu lên.
– à,
Wamba, – Ric-hard nói tiếp, – ta cám ơn ngươi về sự giúp đỡ quý báu của ngươi.
Không có ngươi, ta đã bị Hiệp sĩ áo xanh đóng đinh bằng mũi giáo vào cái cây
kia rồi. Ta khen ngươi nhanh nhẹn đúng như một anh rồ và… khen ngươi về sự sáng
suốt và óc phán đoán chỉ riêng một nhà hiền triết mới có. Ngươi thổi tù-và rất
tài và sau này ngươi sẽ vào đội quân đi săn của ta. Nhưng chớ có thổi Wa-sa-ha
nữa nhé, nếu không tất cả bọn bắn cung sẽ bắn hết thú rừng, chim muông của ta,
trước mặt ta mà chẳng nể nang gì đâu. Ta có một tay săn bắn trộm như cái ông ẩn
sĩ đáng kính của nhà ngươi đã đủ lắm rồi! à mà ông ta đâu rồi nhỉ? ông ta không
phải là frère Tuck nổi tiếng, tên tuổi đã bay sang tận đất Palestine cùng với tên tuổi của Robin đó sao?
–
Confiteor! Confiteor! – Frère quỳ xuống lạy; ông cố nặn cho nét mặt mình có một
vẻ hối cải sâu sắc. – Tôi đã được xức dầu của Đức Chúa mà lại làm ô danh Chúa.
ôi, Ric-hard, hãy đem chặt cái tay phản Chúa nghịch đạo của tôi đi.
Nghe nói
thế, Ric-hard quay sang nhìn nhà ẩn sĩ, ông này, một tay cầm chuỗi tràng hạt,
một tay cầm cây gậy lớn – cây gậy đã múa may rất tích cực trong trận đánh – lo
lắng nhìn Ric-hard, không biết rồi mình sẽ bị phạt như thế nào.
– Mong
Chúa thứ cho ta không phải làm cái việc đó! – Ric-hard nói. – Thánh Dustan sẽ
nói thế nào nếu ta đi chặt tay một giáo sĩ của thánh?
Chúng ta
hòa, không nợ nần nhau gì nữa nhé!
Ta đã
không trả đòn ngươi rồi sao, cả vốn lẫn lãi? Còn bây giờ nếu nhà ngươi cảm thấy
còn chưa được trả đầy đủ thì cứ nói với ta một câu…
Thôi,
hãy đứng dậy đi nào, ta rất muốn cử ngươi đứng đầu những người lính đi săn của
ta. Ta vẫn nhớ cái món patê thịt hoẵng nào đấy, thịt hoẵng ngươi bắn trong rừng
của ta ấy mà…
– Xin
ngài tha tội cho… tôi muốn cứ ở vậy làm ẩn sĩ. Vẫn biết ngài sẽ là chủ nhân rất
tốt với tôi, nhưng ngài vẫn không thể so sánh được với thánh Dustan rất kiên
nhẫn. Thánh bao giờ cũng giữ yên lặng còn ngài thì sớm hay muộn cũng kiếm cớ vì
một cái lỗi nhỏ nào đó tôi có thể mắc phải… như bắn lầm một con chim chẳng hạn…
Thôi, thôi tôi xin cứ để cho tôi làm ẩn sĩ.
– Được…
và để cho nhà ngươi yên tâm, hàng tháng ta cho phép ngươi được bắn ba con
hoẵng.
Vào lúc
đó, hai nhân vật mới xuất hiện, làm cắt ngang câu chuyện. Đó là Ivanhoé và
Gurth.
Chương 11
Nhà thờ
Templestowe, nơi mà Brian de Bois-Guilbert cùng người đẹp Rebecca bị bắt đến là
một lâu đài kiên cố ở giữa những đồng cỏ đẹp đẽ. Đó là nơi ông dòng templier ẩn
náu, nơi ông cho là kín đáo để thực hiện ý đồ của mình. Dòng đạo ấy khi mới
thành lập có những luật lệ rất chặt chẽ, nhưng sau nhiều năm tháng, những luật
lệ ấy lơi lỏng mạnh khiến những người templier làm nhiều điều tai tiếng. Lúc
đầu họ là những chiến sĩ ngoan cường, sau họ sống buông thả, nhiều người trong
bọn họ phơi bày những hành động rất hèn hạ, xấu xa: sự keo kiệt, lòng tham giàu
hám của, đầu óc báo thù gắn liền với những thú vui ăn cướp và rượu chè ăn uống
bê tha.
Sự hỗn
loạn đó đã gây nên một nỗi bất bình lớn; vào thời kỳ đó, người đứng đầu dòng
đạo, ông Thầy Cao cả tức Lucas de Beaumanoir đã vượt biển để chính mình đến trị
tội những kẻ trong dòng đạo đã không thực hiện đúng những lời hứa. ông đề cao
quá mức tinh thần kỷ luật và tỏ ra không khoan nhượng đối với những kẻ phản đạo
và những người Do Thái. Khốn nạn thay cho ai bị ông xét xử! Lời tuyên án của
ông bao giờ cũng khắc nghiệt.
Vậy là
Lucas de Beaumanoir đến Tem-plestowe.
Sự kiện
đó gây hoang mang lớn cho những người templier trong lâu đài; họ buộc phải bỏ
những thói quen xa hoa và cuộc sống buông thả. Trước mặt Thầy Cao cả, họ đóng
vẻ mặt ngoan đạo, thực ra trong lòng họ chẳng có lòng tin gì. Những luật lệ
trong sáng buổi ban đầu được đem ứng dụng chặt chẽ trở lại; nhiều thành viên
trong dòng bị lôi ra khiển trách công khai trước công chúng.
Ông gia
sư ở lâu đài là Albert de Malvoisin, anh em nhà Philippe de Malvoisin, cái tên
chúng tôi đã nhắc ở đầu câu chuyện, là bạn thân của Brian và đến tận lúc này
anh vẫn giấu không cho Beaumanoir biết được chuyện bắt người của Brian de
Bois-Guilbert. Cô tù nhân bị giam ở một chái lâu đài và như vậy mọi người hy
vọng Thầy cao cả sẽ rời khỏi Templestowe mà chẳng biết tí gì về tội ác
kia..Isaac đến làm sụp đổ tất cả những hy vọng đó. Lão tới, tha thiết xin gặp
Brian. Như đối với tất cả những người Do Thái khác, Isaac có thể bị từ chối
thẳng thừng nhưng có Beaumanoir ở gần đấy chú ý, nghe thấy những than vãn của
người cha khốn khổ.
– Có các
thánh thần Israel
chứng giám, hãy trả con gái tôi đây, trả Rebecca con gái của tôi, nó là anh
sáng trong đời tàn của tôi!
Beaumanoir
cho gọi ông lão lại gần; lúc đầu Beaumanoir không thể tin được làm sao Brian
lại hèn hạ đến thế. Vì xưa nay ông đánh giá rất cao Brian về mặt đạo đức; chính
ông muốn chỉ định Brian thay thế ông trông coi dòng đạo. Lương tâm ông trong
sạch, nguyên tắc ông cứng rắn: ông cho mở một cuộc điều tra; Brian được hỏi mà
không cần phải trả lời gì khác ngoài việc có thật là hắn có dẫn một cô gái Do
Thái tên là Rebecca về lâu đài của những người dòng đạo templier không. Thật là
một lỗi tày đình: không một người đàn bà con gái nào được phép bước chân vào
nơi ở của những thành viên dòng đạo này.
Albert
de Malvoisin muốn cứu vãn danh dự của bạn, nói dối là cô gái bị giam giữ là một
mụ phù thủy; Brian mang về mục đích chỉ để xét xử và đem thiêu.
Beaumanoir
muốn lấy chuyện đó nêu gương cho mọi người, quyết định lập tòa án xét xử ngay
Rebecca. Lệnh tức khắc được thực hiện. Mặc dầu cô gái xinh xắn một mực kêu oan,
cô vẫn bị kết án thiêu sống. Cô gái khốn khổ sực nhớ mình có quyền của Chúa
cho, đó là theo phong tục thời đó cô được quyền tự bảo vệ mình bằng vũ khí.
Nhưng vì cô là phụ nữ nên Beaumanoir hoãn cho cô ba ngày để tìm người bảo vệ
cho mình.
– Chẳng
ai muốn đứng ra làm cái việc bảo vệ một cô gái Do Thái bị khép tội làm phù
thủy, -ông nghĩ. – Chẳng ai dám đương đầu với Brian, một tay thương cừ khôi
nhất của những người tem-plier.
Thật
vậy, Thầy Cao cả chỉ định Brian làm bên nguyên, bảo vệ cái lý ngay của dòng đạo
mình.
Isaac
được con gái tuồn cho một mẩu giấy nhắn tin. Lão cũng tin như Beaumanoir là
không ai thèm hay không ai dám đứng ra bảo vệ cô con gái khốn khổ của mình nên
lão tin cô phải chết mất thôi..Tuy nhiên, vào ngày hôm đó, những người đốn củi
gặp một con người. Người đó phi ngựa nước đại qua mặt họ, một ánh lửa kỳ lạ rực
trong đôi mắt anh. Họ tưởng là một chàng điên…
Trên
kia, chúng ta tạm chia tay với Ric-hard vào lúc ông gặp lại Ivanhoé, anh bạn kỳ
cựu và thân thiết của mình trong những cuộc phiêu lưu của chiến tranh.
Sau khi
trách mắng anh không biết giữ gìn trước khi vết thương lành hẳn, Ric-hard cùng
anh đi về phía Coningsburgh. Wamba và Gurth, theo hầu sau.
Họ nhằm
đến nhà Athelstane trước khi mặt trời lặn. Một lá cờ đen to rộng bay trên ngọn
tháp trung tâm báo nhà có tang. Đó là việc hiếu đối với gia đình và những người
thân nhưng vào thời kỳ đó, việc tiếp đón vốn rộng rãi nên ngay những người qua
đường cũng có thể vào dự lễ tang được. Đối với những người này, đó là dịp may
hiếm có để được ăn uống no nê. Đối với người chết họ chẳng quan tâm, xác cứ nằm
đấy trong áo quan còn gia đình nhà đám thì tha hồ chịu cảnh nhốn nháo. Trong
khi Cedric và các vị kỳ mục đứng trực buồn bã quanh linh cữu trong căn buồng
trang hoàng lộng lẫy thì ở ngoài, trên các sân và cả bên ngoài Coningsburgh nữa
rộn lên những tiếng nói, tiếng cười do rượu vào gây nên, cái thứ rượu bia ngọt
ngào mà dễ bốc của nước Anh.
Đó là
cái cảnh diễn ra trước mắt Ric-hard và Ivanhoé. Hai người khó khăn rẽ một lối
đi giữa đám đông gồm những kẻ ăn mày, những binh lính từ Palestine về, những
người hát rong, những phu khuân vác, những người làm trò tung hứng và tất cả
những người sống nghèo khổ khác,.
Ông quan
viên, người có trách nhiệm đón các khách quan trọng, tiến ra gặp hai hiệp sĩ và
dẫn họ vào gian phòng đặt quan tài. Nhà vua đi trước, Ivanhoé đi sau, lấy vạt
áo khoác che mặt để cho cha mình không nhận thấy trước khi Ric-hard cho phép.
Mười hai
bô lão, đại diện cho những gia đình quý tộc Saxon đứng xung quanh linh cữu. Do
một sự thỏa thuận ngầm. Cedric được chỉ định làm trưởng nhóm mặc dầu ông không
phải là người nhiều tuổi nhất. ông có quan hệ mật thiết hơn với người quá cố
nên việc đó không phải không ảnh hưởng đến quyết định của những người ngang
hàng phải lứa với ông trong hàng.ngũ quý tộc. Vậy ông là người đứng ra tiếp đón
người mà ông vẫn coi chỉ là một hiệp sĩ bình thường; ông dẫn hiệp sĩ và ông bạn
cùng đi đến trước linh cữu được đặt trên một bàn thờ mới dựng không được chau
chuốt lắm; những tu sĩ quỳ trên những bậc của ban thờ đang cầu kinh.
Hai hiệp
sĩ nghiêng mình trước vong linh người quá cố, sau Cedric dẫn họ vào một phòng
riêng dành cho những ai muốn đưa tang tuy không phải là người trong gia đình.
– Thưa
ngài, – Ric-hard nói, – tôi xin phép được nhắc lại với ngài lời hứa của ngài
nói với chúng tôi khi giải thoát cho ngài.
– ông cứ
yêu cầu, tôi đã nói trước là được thỏa mãn mà, ông nói đi.
– Thưa
ngài, người đứng trước mặt ngài đây là Ric-hard, vua nước Anh.
Cedric
tối sầm mặt.
– Thưa
ngài, – ông nói, – tôi biết ngài có quyền lên ngôi vua nước Anh vì ngài là
người dòng dõi của công chúa Saxon, Mathilde. Người duy nhất có quyền cao hơn
quyền của ngài là Athelstane nay đã mất nên tôi công nhận ngài là đức vua của
tôi. Xin ngài hãy cai trị, mang lại hòa bình và hòa hợp dân tộc ở nước Anh. Tôi
tin tưởng và kính trọng ngài.
– Tôi
xin cám ơn ngài đã tin tưởng ở tôi và tôi quý trọng sự trung thực của ngài; xin
ngài tin chắc rằng những nguyện vọng của ngài cũng là những nguyện vọng của tôi
và hạnh phúc của dân, của nước là sự quan tâm duy nhất và bất diệt của chúng
ta. Bây giờ xin chứng tỏ sự hòa hợp dân tộc bằng cách ngài thứ lỗi cho người
cùng đi, người bạn thân, người đã theo tôi…
– ạ, con
trai tôi! – Cedric kêu lên và tiến lại gần Ivanhoé lúc này đã bỏ vạt áo che mặt
xuống và quỳ gối trước cha mình. – Ta tha lỗi cho con.
Ta giữ
lời hứa, ngay là lời hứa với một người Normanrd. Con vẫn còn chỗ đứng trong gia
đình.
Ta biết
con sẽ nói với ta về Rowena; nhưng xin con hãy nhớ rằng nàng còn phải để tang
anh Athelstane, người ta muốn gả cho nàng làm chồng trước khi nàng có thể chọn
được một người khác.
Nói
xong, ông đỡ con trai đứng dậy và ông lui về phòng để che giấu xúc động.
Sáng hôm
sau, khi ông ra ngoài phòng, những người hầu phòng Ric-hard và Ivanhoé nói cho
ông.hay đêm qua có một ông già Do Thái đến xin gặp Ivanhoé. Sau khi trao đổi
với nhau một lúc, Ivanhoé rời khỏi ngay Coningsburgh cùng với ông già và Gurth.
Một lúc sau Ric-hard cũng ra đi; không ai biết gì hơn về sự ra đi bất thình
lình đó.
– Chỉ có
những lý do cần thiết lắm mới phải vội vàng đi như vậy! – Cedric nghĩ vậy và
ông trở vào chăm nom những khâu chuẩn bị cuối cùng cho tang lễ.
Cùng vào
giờ đó, hàng ngàn người tò mò chen lấn nhau xung quanh nhà thờ Templestowe.
Cảnh
diễn ra phải hiếm lắm mới kéo dân làng xung quanh đến xem đông như vậy. Đấy là
nơi có sự phán xét của Chúa, là cuộc đấu tranh về mặt công lý nó quyết định cho
Rebecca phải chết hay được giải phóng.
Nơi xét
xử lập trên một khu đất có hàng rào bao quanh. Những nhà sạp rộng rãi dựng lên
cho mọi người đến xem các thầy templier múa võ.
Phía
đông, đặt một chiếc ngai cho ông Thầy Cao cả và kê các ghế ngồi cho các thầy có
chức vị và các hiệp sĩ. Cờ hiệu của dòng đạo Temple
phấp phới bay trước gió.
Phía
tây, chất sẵn một đống củi có một cái cọc lớn để trói người bị xét xử.
Trong
khi những người tò mò đến xem trao đổi với nhau về vụ án thì chuông nhà thờ
Saint Michel bên cạnh lâu đài rung lên báo hiệu buổi lễ khủng khiếp sắp bắt
đầu. Cầu treo được hạ xuống, cánh cửa lớn được mở rộng và đám rước đi ra, đằng
trước có sáu kèn tơ-rông-pét thổi.
Sau đến
một hiệp sĩ mang cờ xí, các thầy dòng chức sắc và các hiệp sĩ. Cuối cùng là
Thầy Cao cả cưỡi con ngựa rất đẹp và Brian de Bois-Guil-bert mặc áo chiến cùng
với hai giám mã.
Mọi
người đổ xô về xem mặt Thầy Cao cả, người reo rắc kinh hoàng trên đường mình đi
và nhìn Brian de Bois-Guilbert, người bảo vệ, nhà biện hộ số một của dòng đạo
và là tay thương giỏi nhất của những người templier. Trông mặt Brian rất xanh
xao. Dáng anh đi trông hùng dũng và cương quyết nhưng những người đi xem thấy
anh, họ có cảm giác sợ hãi và ghê tởm.
Đám rước
còn có hai cha đỡ đầu Brian, không đeo vũ khí và mặc áo trắng. Rebecca, người
bị đem ra xét xử có lính đi kèm thì bước chậm rãi. Tư thế cô trông rất đàng
hoàng; tuy.nhiên trong mắt cô có một ánh thảng thốt. Có người nào đứng ra bảo
vệ chính nghĩa cho cô không? Nhìn thấy đống củi, người cô run lên.
Đi sau
rốt là các frère làm các tạp vụ.
Khi
người nào về chỗ người nấy và cô gái bị buộc tội được dẫn đến ngồi trước đống
củi, trên một chiếc ghế sơn đen, thì kèn tờ-rông-pét thổi báo hiệu cuộc xét xử
bắt đầu. Sau khi bản án được đọc, Brian đồ chiến gọn gàng bước lên sàn đấu.
Beaumanoir
hỏi to cô gái:
– Ai là
người bảo vệ cho cô?
– Theo
quy định trong phán xét của Chúa thì tôi được lui lại mấy tiếng chờ người biện
hộ.
– Cô gái
Do Thái trả lời. – Vậy ông cho tôi hạn định ấy, sau không có ai đến nữa, tôi
xin chịu hình phạt của Chúa. Có điều tôi là người vô tội, xin ông đừng đổ oan
cho tôi.
Khi
người ta lên trình lời đáp của Rebecca với Thầy Cao cả thì ông gia hạn cho sáu
giờ theo quy định của việc xét xử.
Hai
tiếng đã qua mà không thấy ai xuất hiện.
ý kiến
chung của mọi người là cô gái sẽ chẳng tìm đâu ra chàng hiệp sĩ chịu đứng ra
biện hộ cho cái nghĩa của một mụ phù thủy. Tuy nhiên, nói chung, thiên hạ rất
ghét các hiệp sĩ templier; mặt khác cô gái bị khép tội lại rất đẹp và cô trả
lời rất duyên dáng nên ai cũng mong cô thắng cuộc và Thầy Cao cả phải bẽ bàng.
Giờ thứ
ba sắp điểm thì nghe thấy những tiếng reo: "Đã có người, đã có
người!"…
Thật
vậy, một hiệp sĩ vũ trang từ đầu đến chân lao vút tới như một cơn lốc; chắc anh
phải chạy trên một khoảng đường dài vì ngựa của anh sùi đầy bọt mép. Một quan
tuyên cáo chạy ra hỏi tên, chức vị và lý do đến, được anh dõng dạc trả lời:
– Ta là
Ivanhoé, con trai nhà quý tộc Cedric; ta đến bảo vệ bằng giáo, bằng gươm cho
chính nghĩa của Rebecca, con gái ông Isaac, bị khép tội oan uổng. Ta lên án
Brian de Bois-Guilbert về tội cướp bóc, dối trá và bắt cóc; ta thách Brian ra
đọ sức với ta. ông Thầy Cao cả có dám cho ra không?
Beaumanoir
quay ra hỏi Rebecca:
– Bị
cáo, cô sẽ trả lời. Cô có nhận hiệp sĩ này bảo vệ cho mình không?
– Tôi
đồng ý, – cô gái trả lời, cảm kích vì nghĩa cử của Ivanhoé nhiều hơn là lo sợ
mình bị cực hình. – à mà không, tôi không thể nhận.được vì hiệp sĩ đây bị
thương, vết thương chưa lành hẳn… chàng sẽ thua mất, chàng sẽ phải chết vì tên
templier bần tiện kia… Lạy Chúa! Lạy Chúa!… Chúa đến cứu con.
– Hiệp
sĩ Ivanhoé, – Beaumanoir nói tiếp, -bị cáo nhận anh làm người biện hộ. Có điều
tôi mạn phép nói rằng thể trạng anh kém lắm. Vì lương tâm bắt buộc, tôi phải
cảnh báo anh không đủ sức ngồi vững trên lưng ngựa… thế mà anh lại muốn đánh
nhau!
– Chúa
sẽ giúp tôi, – con trai ông Cedric trả lời. – Chúa là sức mạnh của tôi, Chúa sẽ
giúp tôi chiến thắng.
Bạn đọc
đã biết Isaac chạy đến nhờ vả Ivan-hoé hay cứu vớt con gái mình; mặc dầu anh có
thành kiến dân tộc và không ưa gì những người Do Thái, nhưng anh có món nợ phải
trả với người con gái đã có lòng cao thượng săn sóc giúp đỡ anh sau trận đấu ở
Ashby. Mặc dầu vết thương của anh chưa lành hẳn, anh vẫn nhảy lên ngựa, chạy
đến cứu cô gái gặp nạn. Vả lại, nhiệm vụ của anh không phải là trừng phạt Brian
hay sao?
Sau khi
Thầy Cao cả chấp nhận cho Ivanhoé lên đấu, hai địch thủ bước lên sàn đấu. Các
khán giả yên lặng, nín hơi vì lo sợ. Giây phút thật khủng khiếp vì sắp đến sẽ
có người phải chết.
Brian,
mắt nảy lửa, thét lên:
– Hỡi
thằng chó Saxon kia, mi sẽ phải chết.
– Tên
templier kiêu căng kia, – Ivanhoé trả lời, – mi đã quên hai lần bị ngọn giáo
của ta quật ngã sao? Mi hãy nhớ trận đấu ở Acre
và ở Ashby! Mi hãy nhớ lời mi thách ta ở lâu đài Rotherwood! Rồi mi sẽ biết mi
có lấy lại được danh dự đã mất không.
Rebecca
quỳ xuống, chắp tay cầu trời, khấn Chúa, nếu không bảo toàn được mạng sống cho
nàng thì ít ra cũng che chở cho chàng hiệp sĩ dũng cảm kia được sống, chàng mất
sức làm vậy mà vẫn đến cứu nguy cho nàng như thế đấy.
Kèn
tơ-rông-pét thổi, báo hiệu cuộc đấu bắt đầu; hai địch thủ lao vào nhau. Ngọn
giáo của thầy dòng Brian dễ dàng chế ngự được đối phương chưa bình phục hẳn.
Ngựa của Ivanhoé mệt vì đã phải chạy một đoạn đường trường, ngã lăn xuống đất,
kéo theo kỵ sĩ. Thế là hết, chàng hiệp sĩ bảo vệ cho Rebecca sắp thất bại.
Tuy.nhiên anh đứng dậy được ngay, rút gươm lăm lăm trong tay, chờ Brian… nhưng
tên này, mới bị cái va chạm đầu tiên của đối thủ, vẫn đứng yên…
Một lúc
sau, người hắn chúi dần xuống cổ ngựa rồi lăn bịch xuống đất.
Các quan
tuyên cáo vội chạy ra đỡ; họ tháo mũ của Brian ra… Mặt thầy dòng xanh như tàu
lá; mắt mở trừng trừng nhưng hồn đã mất. Hiệp sĩ Brian de Bois-Guilbert chết vì
chứng ngập máu.
Ivanhoé
thắng cuộc và trong khi người ta trả lại tự do cho Rebecca, quần chúng hô vang:
–
Hosanna! Ivanhoé vẻ vang… Đó là phán xét của Chúa.
Lúc đó,
một toán đông người tiến vào đấu trường, đi đầu là một kỵ sĩ thân hình cao lớn,
mặc áo giáp màu đen.
Ivanhoé
nhận ra đó là vua Ric-hard, ông bạn chiến đấu của mình.
– Chậm
rồi, – nhà vua kêu lên, – chậm quá mất rồi! Ta đến thì công lý đã lập xong. Tên
hiệp sĩ phản nghịch này đáng lẽ phải do tay ta trị tội chứ không phải tay
ngươi.
– Chính
Chúa trời đã phạt hắn. – Ivanhoé một tay giơ lên trời nói.
Đến tận
lúc ấy, ông Thầy Cao cả rất ngạc nhiên và tức giận thấy những kỵ sĩ nọ tiến vào
đấu trường. Sau cùng, ông thét:
– Các
hiệp sĩ! Sao dám cả gan tiến vào đây?
Táo tợn
thế, ai cho phép?
– Phép
nhà vua trị vì đất nước của Người, chứ còn ai. – Ric-hard hất vành mũ lên trả
lời.
– Nhà
vua không có quyền đối với dòng đạo của Beaumanoir.
– Ta,
nhân danh Ric-hard Plantagenêt buộc ngươi phải rời khỏi đất nước ta cùng với
các hiệp sĩ ngoại bang thuộc dòng đạo nhà ngươi. Người Anh có quyền tự do trên
đất nước họ, không ai được can thiệp. Còn Malvoisin, ngươi hãy chuẩn bị chịu
chết cùng với em ngươi là Philippe Malvoisin.
Beaumanoir
có thể chống đối lại nhưng hắn nghĩ rằng hậu thế sẽ lên án hắn và đổ lỗi cho
hắn chống lại nhà vua.
– Tôi sẽ
kiện lên tòa thánh ở Rome ,
– hắn kiêu hãnh trả lời. – Giáo hoàng sẽ xét trong hai chúng ta ai là người
lộng quyền.
– Được,
nhưng nhà ngươi phải nhớ rằng ta chỉ bảo vệ sự thống nhất của nước Anh
chống.lại cái bất hòa và chia rẽ. Lỗi lầm nào là to lớn nhất? Thu quyền lại của
một dòng đạo hay thực hiện thống nhất tổ quốc của những người Anh đích thực và
đuổi ra khỏi đất nước những tên bạo loạn hay những tên hiệp sĩ ăn cướp chuyên
đi tống tiền các thần dân của ta.
Các tín
đồ dòng templier lầm bầm tức giận; tay họ đã sờ vào chuôi kiếm sẵn sàng chiến
đấu và trả thù vì bị xúc phạm. Nhưng Thầy Cao cả nhận ra Ric-hard nói những lời
cứng rắn nhưng đúng và có cơ sở. ông thầy bộc trực đó không muốn bênh vực một
cái nghĩa mà những sai lầm của các thành viên đã làm cho hoen ố. ông ra hiệu
cương quyết không cho những người hăng hái nhất được nói nữa và hạ lệnh rút
lui.
Trong
lúc nhốn nháo đó, Rebecca nằm trong vòng tay bố đang khóc vì sung sướng.
Cô gái
rất xúc động không thể nói nổi một lời. Cô khóc nức nở còn ông bố, tràn ngập
vui sướng, cố nói vài lời cho con hoàn hồn.
–
Rebecca, kho báu của bố, ánh sáng của bố!
Con gái
yêu, bố đang đứng cạnh con đây… con đã được trả lại cho bố già này. ôi! Xin
trời gia ân cho chàng hiệp sĩ dũng cảm đã cứu con. Đi, con đi, cha, con cùng
chạy đến cám ơn chàng, quỳ xuống lạy chàng đi. Sự che chở của Chúa đối với
chàng là vĩnh cửu!
– Cha
ơi! Con không thể làm được. Con lạy cha, cha con ta phải chạy khỏi ngay chốn
này đi.
–
Rebecca khẩn khoản nói.
Người
cha nghe theo lời con gái chạy khỏi chốn đau thương đó. Nhưng ông không hiểu
làm sao cô gái sợ. Tại sao không cám ơn người cứu mình?
Chao ôi!
Bởi vì Rebecca yêu Ivanhoé. Hoàn cảnh của cô lúc này, cô sợ không thể giấu nổi
tình cảm đó mà sẽ bộc lộ cho chàng.
Một lát
sau, ông già Do Thái hể hả vì đã nghe theo con gái. Đúng như đặc tính của giống
nòi, ông thường để lẫn những tình cảm biết ơn với những ham muốn kiếm lời và
nỗi sợ mất của.
Ông già
cho vay lãi này nghĩ rằng Ivanhoé là người thân cận của vua Ric-hard và Người
đã biết được chuyện ông giúp đỡ tài chính cho hoàng tử Jean, thì nhà vua không
căm giận hành động này sao? Thế nào thì thế, đi vẫn là hơn; ông sẽ không phải
xuất vốn cho vay là một đòi hỏi khó mà từ chối được với ông vua hợp pháp của
nước Anh này. Đi vẫn là hơn, từ giã cái xứ sở ít mến.khách với dân tộc ông đây
và đến ngụ cư ở một đất nước khác khoan dung hơn.
– Quốc
vương Ric-hard muôn năm! – Dân chúng hô vang. – Ric-hard Coeur de Lion muôn
năm!
Trong
khi các tín đồ dòng Temple
khoác áo ngoài màu trắng rộng có chữ thập đỏ chói xa dần thì những người khác
xếp thành hàng ngũ chặt chẽ tiến vào; họ mặc đồ xanh và người nào cũng đeo một
cây cung. Đi đầu là Robin Hood và frère Tuck.
– Quốc
vương Ric-hard muôn năm! Hãy tiêu diệt bọn templies! Tiêu diệt quân thù cướp
nước!
Chúng
tôi thấy cần phải nói thêm vài lời trước khi đánh dấu chấm hết cho câu chuyện
này.
Ric-hard
tiến về York
không gặp bất cứ một cuộc kháng cự nào. Khắp nơi, ông được dân chúng hoan hô
như một vị cứu tinh. ông tha tội cho ông em và cho ông quay về nước Pháp để
trước nhất làm dịu sự phẫn nộ và tức giận của các hiệp sĩ Anh muốn đưa Jean ra
tòa xử ông về tội phản bội và phản nghịch.
Maurice
de Bracy được đưa qua biển về phục vụ các ông hoàng Pháp: Philippe và Albert de
Malvoisin bị xử về tội phản quốc. Fitzurse bị đi đày và chết ở đấy.
Vài tuần
lễ sau khi Ric-hard lập lại ngai vàng, Cedric được vời vào triều. ông không còn
thành kiến với nhà vua nữa và nhận hợp tác với Ric-hard Coeur de Lion thực hiện
thống nhất đất nước.
Đám cưới
Ivanhoé và Rowena được tổ chức linh đình ở nhà thờ York . Nhà vua và triều đình đều có mặt. Lãnh
chúa Saxons và Normanrd đứng sát bên nhau. Những người này đã đoán một kỷ
nguyên công bằng đã được mở vì có Ric-hard trở về. Những người kia thì hiểu
rằng dưới triều đại hiện nay, uy thế của nước Anh sẽ phải đặt trên những tham
vọng cá nhân.
Từ đó,
hai dân tộc đoàn kết với nhau như một.
Vài ngày
sau ngày hội đua ở Templestowe, lady Rowena tiếp Rebecca đến thăm; cô đến để
cám ơn Ivanhoé đã giải thoát cho cô và chào từ biệt anh. Cô và cha cô sắp rời
nước Anh sang sinh sống ở vương quốc Grenade. Cô gái Do Thái nói thêm cô sẽ dồn
sức giúp đỡ những người nghèo khổ.
Có cần
phải nói thêm rằng Gurth và Wamba sống gắn bó với gia đình trẻ Ivanhoé nữa
không nhỉ.
Cuộc
sống của vợ chồng Rowena được yên bình và hạnh phúc. Ivanhoé nhận được thêm
nhiều ân huệ của Ric-hard và lập được nhiều công trạng hiển hách.
Đến đây
kết thúc câu chuyện vì như dân gian thường nói những người sung sướng thì không
có chuyện phải nói.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét