Nguyễn Thanh Điệp.
Dù có lúc công danh sự nghiệp rơi vào
bước đường cùng, bằng ý chí, nghị lực, Đào Duy Từ đã phát huy tài năng của mình
để lưu danh sử sách muôn đời.
Đào Duy
Từ (1572-1634) quê ở xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
Dù chỉ phục vụ chúa Nguyễn có 9 năm, với những đóng góp to lớn, về sau, Đào Duy
Từ được vua Gia Long truy phong là bậc khai quốc công thần số 1 của họ Nguyễn.
Theo sách Chín đời chúa, mười ba đời
vua triều Nguyễn, dưới thời chúa Trịnh, ông thi hương đỗ Á nguyên khi mới chỉ
21 tuổi. Nhưng sau đó bị triều đình ra lệnh lột mũ, xóa tên bảng vàng vì tội
“đổi họ đi thi”, buộc ông phải lặn lội vào Nam lập nghiệp.
Kẻ chăn trâu anh hùng
Ngày mới vào Nam, vì chưa có chỗ trú
chân nên Đào Duy Từ phải vào tận Hoài Nhơn (Bình Định) làm nghề chăn trâu cho
phú ông. Chính tại đây, trong một lần giao lưu, ông đã bộc lộ được trí tuệ uyên
bác của mình, khiến nhiều học giả phải nể trọng, tạo tiền đề cho con đường tiến
thân sau này.
Chân dung Đào Duy Từ. Ảnh: Tư liệu.
Sách Việt sử giai thoại kể rằng chép
rằng một hôm, khi nhà phú nông đang vui vẻ đàm luận kinh sử, Đào Duy Từ dắt
trâu về chuồng. Biết đó là đám quan Nho, ông đặt chân lên bậc thềm và nhìn chằm
chằm không chào hỏi gì.
Khi bị
gia chủ mắng là “kẻ chăn trâu không biết gì”, Đào Duy Từ cười vang rồi nói:
“Trong làng Nho cũng có quân tử, cũng có tiểu nhân. Trong bọn chăn trâu cũng có
kẻ chăn trâu anh hùng và kẻ chăn trâu tôi tớ”.
Khách nghe Đào Duy Từ đáp như thế rất
lấy làm ngạc nhiên, bèn hỏi: “Ngươi bảo ai là Nho quân tử, ai là Nho tiểu
nhân?”. Đào Duy Từ cười đáp: “Nho quân tử thì phải thông hiểu tam tài. Ở nhà lo
giữ đạo cha con, anh em và vợ chồng. Khi ra giúp việc cho nước nhà phải biết
tìm mưu lược để giữ yên lòng dân và cứu chỗ hiểm, phò chỗ nguy, bày binh bố
trận, phải lập công danh sự nghiệp, để tiếng thơm lại cho mai sau, đời đời còn
rạng rỡ, ngàn năm không phai mờ”.
Còn như
Nho tiểu nhân, tài học nhiều lắm cũng ở mức tầm chương trích cú, chỉ muốn thong
dong nơi bút mực văn chương để cầu danh lợi, mượn Nho để cười gió giỡn trăng,
coi thường những kẻ hào kiệt ở đời.
Khách
nhà Nho nghe nói thì cả kinh, bèn hỏi tiếp: “Thế nào là kẻ chăn trâu anh hùng,
thế nào là kẻ chăn trâu chỉ đáng phận tôi tớ, ngươi thử nói tiếp cho rõ ràng
xem?”.
Đào Duy
Từ lại mỉm cười rồi nói: “Kẻ chăn trâu anh hùng thì như Ninh Thích phục hưng
được nước Tề, Điền Đan dùng kế hỏa công mà thu phục những thành trì bị người
nước Yên chiếm cứ, Hứa Do dắt trâu ra khe uống nước mà cũng biết được lẽ hưng
vong và thịnh loạn, Bách Lý Hề đi chăn dê vùng miền trung nước Tần mà cũng nắm
vững sự thịnh suy, bĩ thái...
Còn như
kẻ chăn trâu chỉ đáng phận tôi tớ thì chỉ biết đói thì ăn, no thì bỏ, ngày bỏ
mặc trâu để đi ăn trộm quả, đêm ngủ say mà quên cả việc bỏ rơm cho trâu bò ăn
thêm.
Bọn ấy
chỉ biết thân mình, dầm mưa dãi gió, ra không biết kính sợ quỷ thần, vào không
biết làm gì cho mẹ cha nhờ cậy, lêu lổng chơi bời vô độ, khi vui thì mặc sức
reo hò múa hát, khi giận thì chẳng kể ruột thịt thân sơ, làm xấu cả cha anh,
gieo oán hờn cho làng xóm. Bọn ấy chẳng cần hỏi tới làm gì”.
Khách
nghe Đào Duy Từ ứng đối lưu loát, đã bác cổ lại thông kim, nên ai nấy đều ngồi
nhìn và lòng thì lấy làm kinh hãi. Không ai bảo ai, tất cả đứng dậy khoanh tay
thưa rằng: “Ông quả là bậc thầy cao minh”.
Nói rồi,
xuống mời Đào Duy Từ lên ngồi chiếu trên. Từ đó, gia chủ may sắm quần áo mới
cho Đào Duy Từ, mời ngồi giảng sách, không bắt đi chăn trâu nữa.
Vang danh muôn đời
Năm 1627, sau khi đọc bài Ngọa Long
cương vãn của Đào Duy Từ, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên nhận ra đây là người có
chí lớn liền cho gọi ông đến.
Trong
lần gặp gỡ này, Đào Duy Từ cao đàm hùng luận, tỏ ra rất am hiểu việc đời, thời
thế. Chúa mừng lắm, phong cho ông làm Nha úy Nội tán, trông coi việc quân cơ,
tham lý quốc chính. Từ đây, Đào Duy Từ chính thức bước vào con đường quan lộ.
Đền thờ
Đào Duy Từ ở Bình Định. Ảnh: Báo Bình Định.
Khi được chúa Nguyễn tin dùng, Đào
Duy Từ đã từng bước củng cố vững chắc cơ đồ họ Nguyễn, trở thành bậc quân sự
xuất chúng, được chính chúa Nguyễn Phúc Nguyên ca ngợi không khác gì Gia Cát
Lượng phò tá Lưu Bị.
Vào các
năm 1630 và 1631, Đào Duy Từ khởi xướng, tổ chức việc đắp lũy Trường Dục và lũy
Thầy ở Quảng Bình. Nhờ có hai trường lũy trên, chúa Nguyễn đã ngăn chặn được
quân Trịnh trong bảy lần giao tranh.
Sau khi
dò la biết được Đào Duy Từ bày mưu cho chúa Nguyễn, chúa Trịnh tiếc người tài,
tìm cách lôi kéo ông theo về với triều đình Lê - Trịnh, nhưng Đào Duy Từ đã từ
chối.
Ngoài việc giúp chúa Nguyễn đánh lui
quân Trịnh, Đào Duy Từ còn có công mở đất phương Nam, giúp Đàng Trong phồn
thịnh, xây dựng một định chế chính quyền rất được lòng dân, đặt nền móng vững
chắc cho họ Nguyễn.
Nhờ
những kế sách đúng đắn của Đào Duy Từ, chính quyền của chúa Nguyễn bước sang
trang mới, từng bước dứt hẳn khỏi sự lệ thuộc vào chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng
Ngoài, trở thành thế lực phong kiến hùng mạnh, độc lập ở Đàng Trong.
Vốn sinh ra trong gia đình có truyền
thống nghệ thuật nên ngoài tài năng quân sự, Đào Duy Từ còn có những đóng góp
lớn cho hậu thế ở lĩnh vực nghệ thuật. Các tác phẩm như Hổ trướng khu cơ, Nhã
nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu là những kiệt tác và di sản văn hóa
vô giá của dân tộc ta. Với tài năng uyên bác hơn người, Đào Duy Từ đã trở thành
một trong những danh nhân tài năng nhất sử Việt.
Câu chuyện về cuộc đời, công danh của
Đào Duy Từ để lại cho hậu thế những bài học về việc vượt qua khó khăn, nghịch
cảnh của số phận để phát huy tiềm năng, sở trường của mỗi người, cũng như bài
học về việc sử dụng người tài trong những hoàn cảnh khác nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét