Francis Galton Francis Galton, chi tiết bức tranh sơn dầu của G. Graef, 1882; tại Phòng trưng bày chân dung quốc gia, London.
Thụy Miên
Kho tư
liệu về thời kỳ lây lan của thuyết ưu sinh được công bố sau một thế kỷ bị che
giấu, bóc trần giai đoạn đen tối mà thế giới muốn quên lãng.
Có một
thời thuyết ưu sinh được thế giới phương Tây hết sức ưa chuộng và nhanh chóng
lây lan tại Anh trước khi truyền ra châu Âu, châu Mỹ, châu Úc và cả châu Á. Nói
một cách đơn giản, đây là phong trào xã hội phổ biến vào đầu thế kỷ 20, dựa
trên cơ sở “cải thiện chất lượng gien di truyền của con người”. Cụ thể, học thuyết
phi nhân này kêu gọi đánh giá các nét tiêu biểu của con người, theo đuổi các
đặc điểm mong muốn và loại bỏ những nhóm bị liệt vào dạng xấu và thấp kém.
Nguồn gốc của thuyết ưu sinh
Vào thế
kỷ 19, nhà bác học người Anh Charles Darwin đã gây rúng động cả thế giới với
những tác phẩm về tự nhiên học, nổi tiếng nhất là quyển Nguồn gốc các loài được
xuất bản vào năm 1859. Khoảng 25 năm sau, tức vào năm 1883, em họ của Darwin là
nhà nhân chủng học Francis Galton đã
đưa ra thuật ngữ thuyết ưu sinh, sau thời gian bị ám ảnh bởi những công trình
nghiên cứu của người anh. Ông cho rằng ưu sinh là một môn khoa học xử lý mọi
tác động theo hướng cải thiện chất lượng giống loài ở khía cạnh bẩm sinh; cũng
như nghiên cứu cách thức giúp hoàn thiện chủng tộc thông qua các lựa chọn về di
truyền. Từ đó, nhà nhân chủng học này tin tưởng rằng cần phải lựa chọn những
đặc điểm tốt đẹp nhất về mặt thể chất lẫn tâm lý để tạo ra những con người hoàn
hảo nhất, cải thiện cả xã hội theo hướng ưu việt hơn, theo báo Daily Mail.
Ông Galton đã được phong hiệp sĩ vì những đóng góp khoa học. Những báo cáo và giải thích về
thuyết ưu sinh của ông cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khởi động phong
trào ưu sinh ở Anh và Mỹ. Bắt đầu từ Anh, phong trào triệt sản hoặc sát hại
những người có khiếm khuyết, thuộc nhóm “bị thoái hóa” được nhiều nước áp dụng
trên khắp thế giới. Tuy nhiên, nhân vật ủng hộ và áp dụng tinh thần thuyết ưu
sinh một cách triệt để và cực đoan nhất chính là nhà độc tài Đức Quốc xã Adolf
Hitler. Bản thân ông này đã khuếch đại tinh thần học thuyết theo hướng xây dựng
giống loài thượng đẳng và giết sạch cái gọi là nhóm hạ đẳng.
Sau Thế chiến 2, Argentina chiêu mộ
những bộ óc xuất chúng về vũ khí của Đức Quốc xã để phục vụ tham vọng quân sự
của mình.
Với
những hành động quá khích và ý đồ diệt chủng điên rồ của Đức Quốc xã, thế giới
ngày nay luôn muốn chối bỏ thực tế rằng đã có lúc con người tìm cách loại bỏ
những cá thể mang gien không mong muốn để “cải tạo giống nòi”. Thế nhưng, những
hình ảnh vừa được Thư viện Quốc hội Mỹ công bố đã vạch trần vết sẹo xấu xí,
chứng tỏ phe ủng hộ thuyết ưu sinh thực sự đã đạt được những bước tiến đầy quan
ngại vào đầu thế kỷ 20.
Những chứng cứ đầy ám ảnh
Trong
một bức ảnh vào năm 1912, những đứa trẻ của một gia đình người Anh bị còi cọc
đã được Tổ chức Eugenics Society ghi hình nhằm chứng tỏ rằng căn nguyên của
tình trạng này là di truyền và có thể được kiểm soát thông qua sinh sản chọn
lọc. Ở một tấm ảnh khác, các gia đình ngụ tại bang Kansas (Mỹ) cùng nhau so tài
trong cuộc thi “Gia đình khỏe nhất” vào năm 1925, với mục tiêu tìm kiếm gia
đình hoàn hảo nhất về mặt ưu sinh ở Mỹ. Còn trong một bức ảnh chụp năm 1912,
một đứa trẻ bị hở hàm ếch lọt vào ống kính ở London, để chứng tỏ những trường
hợp tương tự không nên được phép sản sinh hậu duệ.
Trang
web của Thư viện Quốc hội Mỹ cho hay vào năm 1907, Tổ chức Giáo dục ưu sinh đã
được thành lập tại xứ sở sương mù, bắt đầu quảng bá các biện pháp triệt sản và
cấm kết hôn ở những người “yếu” và có nhược điểm gien thể hiện bên ngoài, với
mục tiêu ngăn chặn sự thoái hóa của dân số Anh. Để thuyết phục giới chức cầm
quyền và lập pháp, những người ủng hộ thuyết ưu sinh lập luận rằng những đặc
điểm di truyền “không mong muốn” như lùn, còi cọc, điếc hoặc thậm chí những dị
tật nhỏ như hở hàm ếch cũng cần bị xóa sổ khỏi kho gien chung của mỗi nước. Các
nhà khoa học tiến hành đo đạc hộp sọ của tội phạm trong nỗ lực loại bỏ tội ác
khỏi xã hội, và thậm chí có những đề xuất loại bỏ cả gia đình, dòng tộc chỉ vì
màu da của họ.
Một năm
sau, nhà thần kinh học James Crichton-Browne đã đệ trình “chứng cứ” trước Ủy
ban Hoàng gia về chăm sóc và kiểm soát sức khỏe tâm thần của Anh và đề xuất
triệt sản cưỡng bức đối với mọi cá nhân có vấn đề về đầu óc và thiểu năng trí
tuệ. Nghị sĩ Winston Churchill, sau này là thủ tướng thời chiến lừng lẫy của
Anh, đã ủng hộ quyết định trên. Kế đến, vào năm 1931, nghị sĩ Công đảng
Archibald Church đã giới thiệu dự luật áp dụng biện pháp triệt sản bắt buộc đối
với một số dạng “bệnh nhân tâm thần” tại quốc hội. Dù dự luật bị bác, nhưng
điều này cũng không ngăn được nhiều trường hợp triệt sản thông qua nhiều hình
thức cưỡng bách, theo trang tin Quartz.
Trong
khi đó, từ năm 1907, Mỹ đã buộc triệt sản đối với đàn ông, đàn bà, trẻ con bị
liệt vào dạng “điên, ngu si, khờ khạo, ngốc hoặc bị động kinh”, và đa số nạn
nhân bị phẫu thuật mà không được thông báo hoặc giải thích chuyện gì đang chờ
đón họ. Đến năm 1938, tổng cộng có đến 33 tiểu bang cho phép triệt sản bắt buộc
đối với phụ nữ có khả năng nhận thức hạn chế. Cùng thời gian này, 29 tiểu bang
thông qua luật tương tự đối với những người có vấn đề về gien di truyền. Luật
tại Mỹ cũng hạn chế quyền lập gia đình ở những người khuyết tật. Thế nhưng, đôi
khi mọi chuyện còn đi xa hơn thế. Một viện tâm thần ở bang Illinois đã ban “cái
chết êm ái”, hay còn gọi là an tử, cho các bệnh nhân bằng cách khiến họ nhiễm
lao, với mục tiêu chặt đứt mối liên kết yếu ớt trong nòi giống nhân loại.
Nhiều
nước khác đã thông qua luật triệt sản như Mỹ vào thập niên 1920 và 1930, bao
gồm Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy và Phần Lan. Tuy nhiên, khi những ý tưởng này
bắt đầu bám rễ và lây lan mạnh mẽ ở Đức thời Hitler, thế giới kinh hoàng chứng
kiến thảm cảnh diệt chủng đối với dân Do Thái, và kể từ đó, thuyết ưu sinh trở
thành một từ ngữ đồng nghĩa với sự xấu xa. Khi mà mặt xấu xa nhất của nó đã bị
phơi bày, giới hữu trách các nước đột nhiên phát hiện khó có thể thanh minh về
hành động triệt sản bắt buộc đối với những người “có vấn đề”. Thế là mọi luật
liên quan dần dần bị hủy bỏ vào thập niên 1940, và kế đến lịch sử đã được viết
lại, với thuyết ưu sinh gắn liền với Đức Quốc xã, còn mọi nước liên quan đều
phủi tay sạch sẽ.
Tuy
nhiên, sau gần 100 năm, sự xuất hiện của những tấm hình đầy ám ảnh một lần nữa
đã khơi gợi hồi ức tối tăm, cho thấy triệt sản hoặc giết người không dừng lại ở
ý tưởng của người Đức, mà kẻ đồng lõa chính là cả thế giới.
Nguồn:https://thanhnien.vn/thoi-ky-den-toi-cua-thuyet-uu-sinh-185688885.htm
+ Học thuyết Malthus: (cân bằng dân số và vật
chất của loài người với thế giới) hay còn
gọi là lý thuyết dân số (tiếng Anh: Malthusian Theory of Population) có nội
dung cơ bản như sau:
Dân số
thế giới cứ 25 năm lại tăng gấp đôi và tăng lên như vậy từ thời kì này sang
thời kì khác, theo cấp số nhân: 1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128, 256. Trong khi đó,
dựa vào qui luật "độ màu mỡ của đất đai giảm dần" ông cho rằng của
cải vật chất chỉ tăng theo cấp số cộng: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9…
Lý
thuyết dân số của Malthus được ra đời bởi Thomas Robert Malthus (13/02/1766 –
23/12/1834), hội viên FRS, là một nhà nhân khẩu học, nhà kinh tế học người Anh.
Ông là một trong những đại biểu của kinh tế học cổ điển.
+ Học thuyết Darwin: (Nguồn gốc và sự tiến hoá
của các loài thông qua chọn lọc tự nhiên)
Charles
Darwin (1809-1882) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học.
Ông là người đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời
gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Nếu như sự tiến
hóa được cộng đồng các nhà khoa học và công chúng chấp nhận ở thời đại Darwin,
thì lý thuyết chọn lọc của ông trong những năm 1930 được xem như lời giải thích
chính yếu cho quá trình này, và ngày nay đã trở thành nền tảng cho lý thuyết
tiến hóa hiện đại. Khám phá này là lý thuyết thống nhất cho các ngành khoa học
sinh vật, có thể đưa ra lời giải thích duy lý cho sự đa dạng loài.
Vào
ngày này năm 1859, cuốn Nguồn Gốc Các Loài (tên đầy đủ: On Origin of
Species by Means of Natural Selection – Về Nguồn gốc các loài qua Chọn lọc Tự nhiên), một công trình khoa
học mang tính đột phá của nhà tự nhiên học Charles Darwin đã được xuất bản ở
Anh. Lý thuyết của Darwin cho rằng sinh vật tiến hóa dần dần thông qua một
quá trình mà ông gọi là “chọn lọc tự
nhiên.” Trong quá trình này, những sinh vật có biến dị di truyền để
phù hợp với môi trường sống thường có xu hướng sinh sôi nhiều hơn những
sinh vật cùng loài nhưng không có sự thay đổi, từ đó làm ảnh hưởng đến
tổng thể di truyền của các loài.
+ Học thuyết Ưu sinh của nhà nhân chủng học
Francis Galton: (Nguồn gốc và sự tiến hoá
của các loài thông qua chọn lọc nhân tạo) hiểu nghĩa đen là con người trực tiếp
tham gia loại bỏ nguồn gen di truyền và các cá thể xấu (từ trực tiếp thực thi
bắng luật cho đến gián tiếp làm cho các cá thế xâu mất đi nhằm nâng cao chất
lượng các loài). Tuy nhiên thuyết này mặc dù có lý nhưng ít được thực hiện công
khai vì nó phi nhân tính không được các tộc người và các nước ủng hộ. Phản đối
thuyết ưu sinh đồng nghĩa với phản đối vũ khí sinh học đang nhem nhúm phát
triển và chiếm ưu thế trong thế kỷ 21.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét