HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
皇黎一統志
Hoàng Lê
nhất thống chí (chữ Hán: 皇黎一統志) hay còn gọi là An Nam
nhất thống chí, là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán trong tùng thư của Ngô
gia văn phái, một tùng thư bao gồm nhiều tác phẩm văn, sử, triết có giá trị của
các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Hoàng Lê
nhất thống chí à tác phẩm viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất của triều
đại nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt chúa Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê của
Ngô gia văn phái. Tác phẩm này có thể xem như là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết
theo lối chương hồi. Nó không chỉ dừng ở sự thống nhất của nhà Lê mà còn được
viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến
Việt Nam vào khoảng 30 năm cuối thế kỷ 18 và mấy năm đầu thế kỷ 19.
Cuốn
tiểu thuyết này có tất cả 17 hồi.
Ebook
miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Hồi 1
Đặng Tuyên Phi được yêu dấu, đứng đầu hậu cung
Vương Thế Tử bị truất ngôi, ra ở nhà kín.
Triều Lê Trang tông Dụ hoàng đế (Tức Lê
Trang Tông, tên là Duy Ninh (1533-1548). Các chú thích từ đây trở đi đều của
người dịch) trung hưng cơ nghiệp ở sông Tất Mã (Tức sông Mã ở Thanh Hoá). Bấy
giờ Thế tổ Minh khang thái vương Trịnh Kiểm làm phụ chính, giúp vua dẹp yên
được đảng họ Mạc và trở lại kinh đô cũ. Rồi từ đó, họ Trịnh đời đời kế tiếp
tước vương, nắm giữ hết quyền bính trong tay, hoàng gia mỗi ngày một suy yếu
dần. Truyền đến đời Hiển tông Vĩnh hoàng đế, niên hiệu Cảnh hưng (1740-1786),
thì Thánh tổ Thịnh vương (Tức Trịnh Sâm, mới lên ngôi chúa) chuyên quyền cậy
thế, làm oai làm phúc; vua Lê chỉ còn biết chắp tay rủ áo mà thôi.
Thịnh vương là người cứng rắn, thông
minh, quyết đoán sáng suốt, trí tuệ hơn người, có đủ tài về văn lẫn võ, đã xem
khắp kinh sử, biết làm văn làm thơ. Sau khi Thịnh vương lên nối ngôi chúa, từ
kỷ cương trong triều đến chính trị trong nước, hết thảy đều được sửa đổi; bao
nhiêu tướng giặc, đảng nghịch, đều lần lượt bị dẹp tan, Chúa có cái chí muốn
làm bá chủ, nào diệt giặc Trấn Ninh, nào phá bọn Công Chất [đây là hai cuộc
khởi nghĩa nông dân lớn ở thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật ở vùng
Thanh-Nghệ, lấy Trấn Ninh làm căn cứ, kéo dài 32 năm (1738-1770). Cuộc khởi
nghĩa của Hoàng Công Chất ở vùng Sơn Nam và Tây Bắc, kéo dài 30 năm
(1739-1769)], quân nhà chúa đã đến, không chỗ nào là không thắng. Lúc đó bốn
phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, chúa dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần
thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích.
Một hôm, tiệp dư (Một cấp bực của vợ
vua, dưới bậc phi) Trần Thị Vịnh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến
trước nơi chúa ngồi. ả họ Đặng này, quê ở làng Phù Đổng, mắt phượng mày ngài,
vẻ người mười phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng lòng, bèn tư thông với ả.
Từ đó, Thị Huệ càng ngày càng được nhà
chúa yêu quí, ả nói gì chúa cũng nghe và hễ có việc gì là chúa cũng bàn với ả.
Rồi ả được ở chung một nơi với chúa, y như một cặp vợ chồng nhà thường dân. Xe
kiệu, quần áo của ả cũng đều được sắm sửa hệt như đồ dùng của chúa.
Thị Huệ từ lúc được nhà chúa chiều
chuộng, hơi có vẻ lộng hành. Hễ có chuyện gì không vừa ý, là ả xây xẩm mặt mày,
rồi kêu khóc thảm thiết để làm rối lòng chúa.
Chúa có
một viên ngọc dạ quang, lấy được trong khi đánh dẹp phương Nam, vẫn xâu ở trên
đầu khăn làm đồ trang sức. Một hôm Thị Huệ lấy tay mân mê viên ngọc. Chúa nói:
- Nhè
nhẹ tay chứ, đừng làm ngọc sây sát!
Thị Huệ
bèn ném viên ngọc xuống đất mà khóc rằng:
- Làm gì
cái hạt ngọc này! Chẳng qua vào Quảng Nam kiếm giả chúa hạt khác là cùng. Sao
chúa nỡ trọng của khinh người như vậy?
Rồi ả tự
ý bỏ ra ở cung khác, từ chối không gặp chúa nữa. Chúa phải dùng nhiều cách dỗ
dành cho ả vui lòng, lúc ấy ả mới chịu làm lành với chúa. Kịp đến khi Thị Huệ
có mang, chúa liền sai người đi lễ khắp trăm thần để cầu sinh con thánh. Đến kỳ,
ả sinh được một trai, vào năm Đinh Dậu, niên hiệu Cảnh hưng 38 (1777). Chúa hết
sức yêu mến đứa bé, lúc đầy trăm ngày, chúa lấy tên của mình lúc nhỏ là Cán mà
đặt cho nó, để tỏ ra nó cũng giống mình.
Khoa thi
hương năm ấy, chúa lấy hai câu: "Sơn xuyên anh dục, hà hải tú chung"
(Nghĩa là: "Khí thiêng của sông núi tụ lại, sự tốt đẹp của hồ biển đúc
nên", ý muốn chỉ về Trịnh Cán), để làm đề thi. Các quan văn võ đưa đón ý
chúa, cũng có nhiều kẻ lấy chữ: "Tính huy hải nhuận" (nghĩa là:
"Sao sáng, biển hoà" tức là điềm sinh ra bậc thánh) làm câu chúc
mừng.
Lúc
vương tử Cán đầy tuổi tôi, cốt cách tướng mạo khôi ngô, đẫy đà, khác hẳn người
thường. Đến khi biết nói, vương tử Cán đối đáp gãy gọn, cử chỉ không khác gì
người lớn. Mỗi khi các quan văn võ vào thăm, vương tử tiếp đón với dáng bộ
nghiêm chỉnh. Có người cách hàng năm mới gặp, vương tử cũng vẫn nhớ rõ họ, tên,
kể lại chuyện cũ vanh vách. Chúa sai quan từ hàn làm bài tụng 16 chữ, để viên a
bảo (viên quan trông nom việc nuôi nấng, dạy dỗ con cái của vua chúa) dạy
truyền miệng cho vương tử. Vương tử chỉ nghe qua một lượt là đọc thuộc liền.
Thấy vậy chúa càng quí vương tử Cán bội phần.
Cũng do
đó, Thị Huệ mới ngầm có ý muốn cướp ngôi thế tử.
Lại nói,
lúc ấy chúa đã có thế tử là Trịnh Tông (sau đổi là Trịnh Khải), do thái phi họ
Dương đẻ ra. Thái phi tên là Ngọc Hoan, người ở làng Long Phúc, huyện Thạch Hà.
Chị nàng là cung tần của Ân vương (cha Thịnh vương, tức là Trịnh Doanh), sinh
ra Thuỵ quận công, được Ân vương hết sức yêu quí. Nhờ chị, thái phi được kén vào
làm cung tần của Thịnh vương. Nhưng từ sau khi vào cung, nàng vẫn ngày đêm sống
cô quạnh. Bỗng một đêm, nàng nằm mơ thấy vị thần đem cho tấm đoạn có vẽ đầu
rồng. Nàng không hiểu đó là điềm gì, đem hỏi viên quan hầu là Khê trung hầu.
Khê trung hầu biết chắc là điềm sinh thánh.
Hôm sau,
chúa cho vời cung tần Ngọc Khoan vào hầu. Khê trung hầu cố ý giả làm nghe lầm,
đưa ngay thái phi Ngọc Hoan đến. Thấy nàng, chúa có vẻ không thích, nhưng đã
chót gọi đến, không nỡ đuổi ra. Sau đó chúa đòi Khê trung hầu vào trách mắng.
Khê trung hầu cúi đầu tạ tội, đoạn thuật rõ đầu đuôi chuyện thái phi nằm mơ cho
chúa nghe. Chúa cũng nín lặng không nói sao cả.
Thái phi
trải qua một trận mưa móc, liền có thai ngay. Đến kỳ, nàng sinh ra một trai.
Năm Quí-mùi, Cảnh hưng 24 (1763).
Chúa tự
nghĩ đầu rồng tuy có khí tượng làm vua, nhưng là rồng vẽ không phải rồng thật,
mà lại chỉ có đầu không có đuôi, như vậy chưa hẳn đã là điềm tốt cả. Vả lại ở
triều trước, Trịnh Cối, Trịnh Lệ (Trịnh Cối là con Trịnh Kiểm, Trịnh Lệ là con
Trịnh Doanh. Hai người này đều mưu đồ giành ngôi chúa, nhưng đều thất bại) cũng
do người Long Phúc đẻ ra và đều mưu sự phản nghịch mà không thành.
Do đó,
chúa có ý không vui. Các quan văn võ vào chúc mừng, chúa lấy cớ rằng đứa con ấy
không phải là vợ cả đẻ ra, từ chối không nhận lời mừng. Khi thế tử Tông đã lớn,
dung mạo rất khôi ngô mà chúa cũng chẳng yêu chiều gì mấy.
Tính thế
tử ham võ nghệ, không thích học hành. Năm lên bảy tuổi, chúa sai Nguyễn Khản
(Nguyễn Khản là con Nguyễn Nghiễm, người huyện Nghi Xuân Nghệ Tĩnh có sách chép
là Nguyễn Lệ) tiến sĩ khoa Canh-thìn (1760), làm tả tư giảng, và Trần Thản,
tiến sĩ khoa Kỷ-sửu (1769), làm hữu tư giảng để rèn tập cho thế tử. Nhưng chẳng
bao lâu, Thản chết. Còn Khản thì đang được chúa tin dùng, phải quán xuyến mọi
công việc trong ngoài, nên cũng không mấy khi đến được chốn "màn
giảng", chỉ có năm sáu viên tuỳ giảng bảo ban việc học cho thế tử theo như
nếp cũ mà thôi. Chuyện đó chúa cũng có biết phần nào, nên lại càng không bằng
lòng.
Theo lệ
cũ, người con trai nối ngôi chúa hễ đến mười hai tuổi thì phải ra ở Đông cung.
Bấy giờ các quan cũng có tâu trình việc ấy; song chúa không cho, bắt thế tử
phải đến ở tại nhà riêng của quan a bảo là Hân quận công (Nguyễn Đĩnh). Như
vậy, ngôi đông cung vẫn bỏ trống, như có ý chờ đợi người khác.
Đến năm
thế tử mười lăm tuổi, thì con nhỏ là vương tử Cán ra đời, chúa hết sức yêu dấu
đứa con nhỏ đó. Ba năm sau, thế tử đúng mười tám tuổi. Theo lệ cũ, thế tử đáng
được mở phủ riêng; nhưng bấy giờ các quan chẳng ai dám tâu bày, mà chúa cũng
không hề nhắc tới việc ấy.
Như thế
là người nối ngôi vẫn chưa định, nên lòng người rất phân vân. Hễ ai thuộc về
thế tử Tông thì hùa theo thế tử Tông, ai thuộc đảng Thị Huệ thì vào phe vương
tử Cán. Trong phủ chúa dần dần sinh ra bè nọ cánh kia.
Thị Huệ
cho rằng thế tử Tông đã khôn lớn, lông cánh đã đủ; mà con mình hãy còn trứng
nước, nên càng mưu mô để gây thêm thế lực.
Khi ấy
Huy quận công Hoàng Tố Lý (nguyên trước là Hoàng Đăng Bảo) đang có danh vọng
lớn, thường dựa vào sự giúp đỡ của Thị Huệ; mà Thị Huệ thường cũng lấy quận Huy
làm chỗ nhờ cậy bên ngoài. Quận Huy người làng Phụng Công, là cháu Bình Nam
thượng tướng quân Việp quận công là Hoàng Ngũ Phúc, vẻ người thanh dật, là tay
văn võ toàn tài. Khoa thi hương năm ất-dậu (1765), Huy đi thi được trúng cách; đến
khoa thi võ năm Bính-tuất (1766) Huy lại đỗ luôn tạo sĩ. Hồi ấy Ân vương còn
đang trọng dụng quận Việp, mới gả con gái thứ cho quận Huy.
Uy quyền
quận Việp mỗi ngày một lớn. Có người ngờ sẽ xảy ra điều gì bất trắc, hoặc cũng
có kẻ bảo quận Việp sắp lấy thiên hạ để truyền cho quận Huy. Căn cứ vào lời sấm
hồi ấy có câu: "Nhất thỉ trục quần dương". (Một con lợn đuổi đàn dê);
có kẻ tán rằng: Thỉ tức là quận Huy, bởi vì quận Huy tuổi hợi (thuộc lợn), mà
dương đây chỉ vào chúa và thế tử, vì cả hai đều tuổi mùi (thuộc dê). Rồi những
kẻ hiếu sự lại còn đặt ra câu sấm: "Thảo nhất điền bát" (Cỏ một,
ruộng tám) để chỉ vào chữ Hoàng (thảo nhất điền bát chắp lại thành chữ Hoàng
chỉ Hoàng Ngũ Phúc). Có kẻ lại nói: "Thổ sất vân gian nguyệt, hoàng hoa
ánh nhật hương". (Mảnh đất sánh trăng trong mây; hoa cúc ánh hương mặt
trời). Thổ, sất, nguyệt là chữ tế (chữ tế nghĩa là con rể, chỉ quận Huy).
Hoàng, hoa, nhật là chữ Việp (Chữ Việp gồm chữ hoa và chữ nhất, còn chữ Hoàng
là họ Hoàng), chỉ quận Việp. Thêm nữa, tên cũ của quận Huy là Đăng Bảo (Có
nghĩa là: lên ngôi báu) người ta cũng lấy đó để dị nghị. Vì vậy quận Việp muốn
tránh sự hiềm nghi ấy mới bảo quận Huy đổi tên Đăng Bảo ra Tố Lý.
Sau quận
Việp lấy cớ mắc bệnh đau mắt để xin từ chức, chuyện ấy chẳng nhắc làm gì nữa.
Lại nói
năm Giáp-ngọ (1774), quận Việp phụng mệnh kéo quân vào đánh trong Nam, có đem
quận Huy đi theo. Quận Huy vốn đã học được phép dùng binh gia truyền của quận
Việp, nên được các tướng tá rất sợ phục. Huy lại khéo cắt đặt nhân tài, nên các
tay hào kiệt đều vui lòng chịu sai khiến. Huy có công luôn luôn phá được quân
địch, tiếng tăm mỗi ngày một lẫy lừng. Khi dẹp yên được xứ Thuận Hoá thì quận
Việp qua đời. Chúa bèn giao luôn cho quận Huy quản lĩnh số quân của quận Việp,
và cho làm trấn thủ Nghệ An. Đóng ở trấn Nghệ An. Huy ra sức tiêu diệt trộm
cướp, cấm đổi tiền (đổi tiền đẹp để tích trữ, làm cho tiền khan hiếm), trấn áp
cường hào, ngăn chặn việc kiện cáo, làm cho trong hạt rất thịnh vượng, Huy lại
thu dụng những kẻ anh tài, đặt ra nhiều chức liêu thuộc. Dưới trướng ông ta có
những tên như tả, hữu tham quân chẳng hạn. Thế là thiên hạ lại ồn ào lên, đồn
rằng quận Huy sắp sửa làm phản.
Chúa
nghe tiếng, ngày ngày cùng viên triều thần tin cẩn là Nguyễn Khản và quan thế
tử a bảo Hân quận công Nguyễn Đĩnh bàn cách giết Huy. Trong lúc bàn bạc, ba
người vẫn dùng tiếng lóng "chữ thập" để chỉ quận Huy. Vì chữ thập
cũng na ná chữ nghệ (chữ thập xoay chéo thành chữ nghệ viết tắt) là trấn Nghệ
An, nơi quận Huy đóng quân.
Họ
thường đuổi mọi người đi để bí mật bàn bạc, chỉ có Thị Huệ là biết được. Công
chúa vợ quận Huy, ngày đêm ra vào trong phủ luồn lọt Thị Huệ; Thị Huệ mới đem
việc kín nói cho công chúa nghe. Quận Huy trong dạ không yên, dâng thư xin về
triều. Chúa cho phép ngay.
Huy nghĩ
rằng Thị Huệ tuy được chúa yêu, nhưng con trai của Thị Huệ còn nhỏ, trong khi
đó thế tử đã lớn rồi, hùa theo Thị Huệ e không phải là kế lâu bền. Vì vậy, sau
khi đã vào hầu chúa, Huy liền lấy châu báu đút lót cho những kẻ chân tay của
thế tử, để xin nương tựa vào thế tử. Rồi Huy lại đem một trăm lạng vàng và mười
tấm đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến, để xin vào ra mắt thế tử. Nhưng thế tử không
nhận đồ lễ, cũng không cho vào gặp, nói riêng với bọn hầu cận rằng:
Thằng
giặc ấy sao không ở trấn làm phản, mà lại vội về triều? Rồi đây ta sẽ tịch thu
hết cả gia sản nhà nó, cần gì đồ lễ của nó bây giờ!
Quận Huy
biết thế tử không dung mình, bèn quyết ý hùa theo Thị Huệ và âm thầm có chí phế
lập.
Huy đem
dâng ngôi nhà cũ của quận Việp cho vương tử Cán làm dinh thự. Từ đó, Huy thành
ra người riêng của Thị Huệ. Mà trước mặt chúa, Thị Huệ cũng hết sức bao che cho
Huy. Do đó, quận Huy được vào chính phủ (phủ của chúa Trịnh để phân biệt với
triều đình của vua Lê) mở dinh quân Trung nhuệ, coi việc trong phủ, đồng thời
kiêm lĩnh chức trấn thủ trấn Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê gồm: Hà Đông,
Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình), Quận Huy và Thị Huệ, trong ngoài liên
kết với nhau, thế lực nghiêng cả thiên hạ. Các viên quan võ như chức cai cơ,
trấn thủ, đều do cửa của họ mà ra. Lúc ấy, duy chỉ có Hồng lĩnh hầu Nguyễn
Khản, trấn thủ Sơn Tây hiện đang làm tả tư giảng cho thế tử, và Tuân sinh hầu
Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc tức con nuôi của Hân quận công, hiện đang
làm a bảo cho thế tử, là còn dám có ý kia khác với quận Huy mà thôi. Như vậy là
cái thế bè đảng đã thành rồi.
Lại nói,
từ khi vương tử Cán sinh ra, thế tử Tông có ý rất tức bực, chỉ sợ mình không
được lập làm chúa. Thế tử cùng với bọn gia thần là mấy tên hầu Thế Thọ, Thẩm
Thọ... nho sinh Đàm Xuân Thụ và tên xuất thân tạp lưu (là hạng thư lại không đỗ
đạt gì, không do chính ngạch mà ra) Vĩnh Vũ, ngày đêm bàn mưu, lo lắng không
biết nên làm thế nào.
Vừa lúc
đó, chứng bệnh cũ của chúa lại phát, bệnh tình rất nguy kịch. Một đêm thế tử
bỗng mơ thấy mình mặc áo chầu chàm, đội mũ chữ đinh, đứng ở phủ đường. Sáng mai
thế tử kể lại với bọn gia thần và nói:
- Ta mơ
như vậy là điềm có tang, trong cung nay mai chắc sẽ có biến; ta phải sớm lo
liệu trước mới được.
Bọn tôi
tớ ấy liền khuyên thế tử nên ngấm ngầm sắm sửa binh khí, chiêu mộ dũng sĩ; một
mai trong cung xảy ra chuyện chẳng lành, thì cứ việc đóng chặt cổng thành, giết
quận Huy, và bắt giữ cả hai mẹ con Thị Huệ, khiến vương tử Cán không thể lên
ngôi chúa. Mặt khác báo cho hai trấn Tây, Bắc (Sơn Tây, Kinh Bắc) đem quân vào
kinh, bắt ép các đại thần để dựng thế tử lên ngôi chúa.
Thế tử
nghe theo và phao lên rằng mình sắp được lệnh đem quân vào đánh miền Nam. Rồi
thế tử lại sai người báo ngầm cho Khê trung hầu, giao một ngàn lạng bạc cho nho
sinh Đàm Xuân Thụ để Thụ phân phát cho bọn tay chân đi mua sắm vũ khí. Tiếp đó,
thế tử mật báo cho các viên trấn thủ ở hai trấn Tây, Bắc, chiêu tập dũng sĩ.
Thế tử
cắt đặt xong thì bệnh của chúa cũng vừa khỏi, việc ấy bị tiết lộ. Hồi đó, có
Nguyễn Huy Bá người ở Gia Lâm (làng Phú Thị, huyện Gia Lâm) tính tình nham hiểm,
giảo hoạt, thường vẫn quen thói tố giác kẻ khác để kiếm quan chức. Năm trước,
chính vì Bá đã tố cáo âm mưu nổi loạn của Nguyễn Huy Cơ và Thuỵ quận công (Thuỵ
quận công tức Trịnh Lệ con Trịnh Doanh, định giành ngôi chúa với Trịnh Sâm) mà
y được làm chức tham nghị ở trấn Sơn Nam, dần dà, y ngoi lên chức tiến triều
(những người không đỗ tiến sĩ mà được làm quan ở sáu bộ thì gọi là tiến triều),
rồi lại thăng tới chức đốc đồng ở trấn Thái Nguyên. Lúc này vì có lỗi bị cách
chức, y đang nóng lòng mong lại được ra làm quan. Y bèn sai con dâu cả vào làm
đày tớ cho Thị Huệ; rồi thường nhặt nhạnh những chuyện chơi bời đùa nghịch của
Tông, xui con dâu kể lại cho Thị Huệ để nịnh nọt, lấy lòng. Mặt khác, y lại
ngầm sai người nhà tin cậy tới làm bộ hạ của hai viên trấn quan Tây, Bắc để dò
xét tình hình. Đến lúc ấy, y đã nắm được phần nào sự việc của bọn này, liền vào
báo với Thị Huệ.
Thị Huệ
đem việc đó bàn với quận Huy. Huy bảo Huy Bá viết bức thư kín, rồi Huy tự bỏ
vào trong tay áo, đi đến phủ chúa, đuổi hết những người chung quanh, đem thư ra
trình chúa.
Chúa xem
xong, cả giận, định sai người giao xuống trị tội tức khắc. Quận Huy can rằng:
- Thế tử
quả là có lỗi, nhưng sở dĩ thế tử dám làm chuyện to lớn như thế chính là do hai
viên trấn thủ Tây, Bắc chủ mưu. Nay hai viên ấy hãy còn cầm quyền ở ngoài, nếu
vội vã trừng trị thế tử, e sẽ có biến khác. Chẳng thà trước hết hãy gọi hai
viên ấy về triều, giam cả ở trong phủ, rồi bấy giờ hãy tuyên bố tội trạng và
trừng trị một thể.
Chúa cho
là phải. Hôm sau chúa đòi thế tử vào cung, vờ quở mắng về việc xao nhãng học
hành, rồi bắt thế tử phải đến ở trong một ngôi nhà ba gian trong Trạch các. Lại
sai tiến sĩ khoa Bính-tuất (1766) là Nguyễn Quýnh làm tả tư giảng, và tiến sĩ
khoa Mậu-tuất (1778) là Nguyễn Đích làm hữu tư giảng. Rồi sau đó chúa cho đòi
hai viên trấn thủ Tây, Bắc về triều; bữa ấy nhằm ngày 15 tháng 8 năm Canh tý
niên hiệu Cảnh hưng (1780).
Lại nói,
lúc ấy ở trấn Kinh Bắc (địa bàn Kinh Bắc gồm: Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên) có
viên đốc đồng là Ngô Thì Nhậm (người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh
Hà Đông, con Ngô Thì Sỹ, sau làm quan với Tây Sơn), tiến sĩ khoa ất-mùi (1775)
vốn là gia thần và tuỳ-giảng của thế tử, thường vẫn rất ăn ý với trấn thủ Tuân
sinh hầu (Nguyễn Khắc Tuân). Về phía Tuân, không việc gì là không bàn với Nhậm,
duy chỉ có việc âm mưu của thế tử là Tuân không hề nói đến. Trước đó mấy ngày,
Sơn Thọ (có sách chép Hà Như Sơn) là gia thần của thế tử, lại từng là học trò
của Nhậm, được thế tử sai đến kể rõ mưu mô của thế tử cho Nhậm biết; rồi lại
ngầm ra lệnh cho Nhậm phái người cất lẻn lên vùng Lạng Sơn mua ngựa tốt để dùng
vào việc binh. Thì Nhậm hoảng sợ nói:
- Thế tử
là người sẽ nối ngôi chúa, mà nước là nước của thế tử, lo gì mất ngôi mà phải
lập mưu ấy? Đây ắt lại do bọn tôi tớ xúi giục. Thế tử trẻ người hăng máu, suy
nghĩ chưa chín chắn, nên mới nghe theo họ. Chúa thượng là người xét đoán sáng
suốt, há lại che giấu được ngài ư? E rằng tai hoạ sẽ xảy ra lúc nào không biết,
bọn gia thần của thế tử rồi không còn đất gửi thân đâu. Đoạn Thì Nhậm vội vã
sang kể hết tình đầu cho Khắc Tuân nghe, và khuyên Tuân phải hoả tốc về kinh,
can ngăn thế tử đừng làm việc đó, để tránh tai vạ sau này.
Khắc
Tuân không nghe, nói rằng:
- Tiểu
chức này với quan lớn, chỉ biết việc tuần phòng khám xét; ngoài ra những việc không
dính líu đến ta, thì không nên hé răng.
Thì Nhậm
thở dài mà về.
Mấy ngày
sau, quả nhiên có lệnh đòi Khắc Tuân và Thì Nhậm. Hai người vội vàng cùng đi.
Tới kinh, họ thấy trấn thủ Sơn Tây (Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản) và a bảo Hân
quận công (Nguyễn Đĩnh) đều đã bị triệu về, còn đang ngồi đợi tội ở nhà
Tả-xuyên. Khắc Tuân xin vào điếm Quyển-bồng gặp chúa, nhưng chúa không cho vào,
sai viên quan hầu là Quyến trung hầu ra trách Khắc Tuân rằng:
- Cậu và
thằng Tông đã muốn làm giặc thì cậu cứ việc ra mà sắp sẵn binh mã, đây ta đã có
các tướng mạnh để đối địch với cậu!
Khắc
Tuân quay ra, gặp Thì Nhậm ở điếm Tiểu-bút, Tuân cầm tay Nhậm than:
- Tôi
thờ chúa từ khi lọt lòng đến giờ, nay chúa gọi tôi là giặc. Hôm nọ quan lớn nói
chuyện tôi cứ cho làm thường, nay việc đã như thế, tính sao bây giờ? Thì Nhậm
cũng hoảng hốt chẳng biết trả lời thế nào.
Khắc
Tuân liền làm tờ khải, cung khai hết những việc trước rồi nhờ Quyến trung hầu
đưa vào dâng chúa. Nhưng chúa đang giận, không xem, lại sai Quyến trung hầu đem
tờ khải ra xé trước mặt Khắc Tuân.
Khắc
Tuân lượm lấy tờ khải bị xé ấy mà ra, nhưng sợ hãi luống cuống chẳng biết đi
đường nào.
Viên
trấn thủ Sơn Tây lúc ấy cũng rất lo sợ, có điều muốn nói mà không dám tự bày
tỏ. Ông ta bèn cùng Khắc Tuân nói với Thì Nhậm:
Bọn tôi
ở ngôi trọng yếu mà bị lời gièm pha nặng nề, bây giờ dù có nói gì, chúa cũng
chẳng tin. Ngài nên đem những điều nghe thấy viết một tờ khải, đổ tội cho lũ
tôi tớ, như vậy may ra bọn tôi mới khỏi bị oan, mà thế tử cũng sẽ được an toàn
không việc gì.
Thì Nhậm
bất đắc dĩ phải làm theo ý hai người. Chẳng ngờ chúa nhận được tờ khải, lại
càng giận dữ nói:
- Quả
như lời nói của người ta không sai!
Rồi chúa
sai Thì Nhậm và bọn quan hầu là Ngạn triêu hầu, Đường trung hầu, án trung hầu
cùng tra xét vụ án đó.
Thì Nhậm
cùng bọn quan hầu định tìm cách gỡ tội cho Khắc Tuân và viên trấn thủ Sơn Tây,
nhưng vì nhà có tang Nhậm phải bỏ việc quan mà về [Nhậm về chịu tang cha là Ngô
Thì Sĩ. Theo Việt sử thông giám cương mục (sau đây gọi tắt là Cương mục) thì
chính Nhậm hợp mưu cùng Huy Bá để tố cáo việc của Tông và Khắc Tuân. Ngô Thì Sĩ
đã cố sức can mà nhậm vẫn không nghe. Sau khi nghe tin Nhậm đã phát giác việc
ấy, Sĩ buồn bực, bèn uống thuốc độc tự tử. Nhậm vì có công tố giác, được thăng
hữu thị lang bộ Công. Do đó, người đương thời có câu rằng: "Sát tứ phụ nhi
thị lang" giết 4người cha để làm thị lang). Bốn cha là: Sĩ, thân phụ;
Tông, quân phụ; Khắc Tuân, và Xuân Hán, phụ chấp (bạn của bố). Có thuyết lại
nói tứ phụ là Sỹ và Nguyễn Khản, Phương Định, Khắc Tuân ba người bạn của bố].
Chúa bèn
giao cho viên đồng tham tụng là Nghĩa phái hầu Lê Quí Đôn, bảng nhãn khoa
Nhâm-thân (1752) làm thay việc tra xét. Cuối cùng, nắm được hết tình hình tội
trạng, chúa liền gọi các chính thần vào cung vừa khóc vừa nói:
- Quả
nhân không may gặp phải thằng con bất hiếu, lũ bầy tôi bất trung, chúng ngầm
mưu việc phản nghịch; hình tích cũng giống như vụ Thừa Kiền, nhưng tâm địa thì
tệ hơn nhiều. Việc bỏ con cả lập con thứ là bất đắc dĩ. Các ngươi cũng nên hiểu
rõ bụng ta, cứ theo phép nước mà định tội chúng nó đi! Các quan trong triều bàn
rằng: mấy tên phạm tội đều nên xử tử, còn riêng về thế tử thì không dám bàn.
Lời bàn
đó dâng lên, chúa cầm bút phê rằng:
"Cứ
xét theo nghĩa của kinh Xuân-thu thì phải trị tội tên Tông thật nặng. Nhưng
nghĩ tình cha con ruột thịt không nỡ như thế, vậy nên truất nó xuống làm con
út, trọn đời giữ đạo làm tôi. Còn bọn các quan, thì viên trấn thủ Sơn Tây và
Khê trung hầu, vốn đã theo hầu ta từ lúc chưa lên ngôi, cũng có công lao, đặc
ân cho được tự liệu lấy. Riêng a bảo Hân quận công là người thật thà không tham
dự và mưu đó cũng được tha tội chết, nhưng phải cách chức xuống làm dân
thường".
Mệnh
lệnh ban xuống, Khê trung hầu và Tuân sinh hầu đều uống thuốc độc tự tử.
Dưới
trướng Tuân sinh hầu có viên văn thư là Nguyễn Quốc Trấn cũng bị tội lây với
chủ, phải ghép án tử hình. Lúc sắp bị chém, Quốc Trấn quát lớn:
- Trời
không có mắt, triều đình không có quan, nỡ để Quốc Trấn mắc oan. Rồi Trấn dặn
người thân thuộc để giấy bút vào tay áo mình và nói thêm:
- Sống
đã không bày tỏ nỗi oan được, chết phải kiện ở âm phủ.
Mọi
người nghe câu nói đó, ai cũng thương xót cảm động.
Thế tử
Tông bị truất rồi, chúa bắt cứ phải ở trong ngôi nhà ba gian, cho người giám
sát chặt chẽ; phàm những việc ăn uống Tông đều không được tự do. Bọn gia thần
của Tông cũng không được phép ra vào thăm hỏi. Do đó, phe đảng của thế tử, mỗi
người lẩn trốn đi mỗi nơi.
Còn phe
cánh của Thị Huệ thì mỗi ngày một mạnh. Các quan lớn nhỏ không ai là không nịnh
nọt, hùa theo, mà nhà chúa cũng càng trọng ả hơn trước. Thừa dịp ấy, Thị Huệ
bèn hỏi con gái chúa là công chúa Ngọc Lan cho em trai mình là Đặng Mậu Lân.
Công
chúa này tên chữ là Ngọc Thuyên, là cô con gái yêu quý nhất của chúa. Nguyên
chính phi họ Hoàng sinh được hai nàng công chúa. Cô lớn là công chúa Ngọc Anh,
tên chữ là Ngọc Loan, đã gả cho Đương trung hầu Bùi Thế Toại, con trai cả của
Đoan quận công Bùi Danh Đạt làm trấn thủ Nghệ An trước kia. Còn Ngọc Lan là cô
thứ hai, chưa có chồng, được chúa rất yêu chiều.
Ngọc Lan
vóc người yếu đuối, từ nhỏ vẫn ở trong cung thuỷ tinh, kiêng nắng, kiêng gió.
Nơi Ngọc Lan ở, chúa bắt thị tỳ phải nói năng sẽ sàng để cho nàng khỏi giật
mình. Khi Ngọc Lan đã lớn, mỗi lần vào thăm chúa, chúa đều cho phép cùng ngồi
với mình như lúc nàng còn bé. Phàm những điều Ngọc Lan cầu xin chúa, không có
lời nào là không đắt. Các quan vào hàng công thần, quí tộc, nhiều người đã tới
cầu hôn, nhưng chúa chưa hứa gả cho ai. Đã có lần chúa hạ chiếu chỉ cho các
quan văn võ, cùng con cháu các dòng họ công thần vào phủ để cho công chúa tự
kén chọn. Chúa bảo công chúa hễ chọn được ai vừa ý thì chúa sẽ gả cho người đó.
Nhưng Ngọc Lan vẫn chưa kén được ai vừa lòng.
Đến nay,
Thị Huệ cầu hôn cho em trai, chúa sợ mất lòng ả ta, bất đắc dĩ mà phải gượng
nhận lời.
Lại nói,
Đặng Mậu Lân này vốn là một tên hung bạo; từ khi Thị Huệ được chúa yêu dấu Lân
lại càng ỷ vào thế chị để làm những việc càn rỡ. Hết thảy áo quần, xe kiệu của
y, nhất nhất đều rập kiểu theo đúng như của vua chúa. Thường ngày, Lân vẫn đem
theo vài chục tên tay sai, cầm gươm vác giáo đi nghênh ngang khắp kinh ấp. Hễ
gặp xe kiệu, bất kỳ là của đám quan quân nào, Lân cũng đều cà khịa đánh nhau
làm cho họ nhục nhã, rồi lấy thế làm thích thú. Gặp đàn bà con gái giữa đường,
hễ người nào trông vừa mắt, tức thì Lân sai tay chân quây màn trướng ngay tại chỗ,
rồi lôi người ấy vào hiếp liền. Ai không chịu, Lân xẻo luôn đầu vú. Chồng hoặc
cha kẻ bị nạn, nếu dám hé răng kêu ca, lập tức Lân sai quân vặn gãy răng, hoặc
cũng có người bị đánh đến chết. Người thiên hạ sợ Lân hơn sợ beo sói.
Chúa
cũng biết thế, nên tuy đã trót nhận lời gả công chúa cho Lân mà trong bụng vẫn
còn có ý thương tiếc. Vả lại chúa nghĩ, công chúa người yếu ớt, mảnh khảnh,
không thể chịu nổi một tên đàn ông cường bạo như thế. Nến đến ngày về nhà Lân,
chúa lấy cớ rằng công chúa chưa từng lên đậu lên sởi, để không cho phép Lân hợp
cẩn (Theo lễ xưa, đêm tân hôn vợ chồng uống chung một chén rượu, gọi là hợp
cẩn). Rồi chúa sai quan a bảo cùng nhiều thị nữ đi theo để hộ vệ công chúa.
Tiếp đó, chúa lại phái thêm cả viên nội sai là Sử trung hầu đến làm giám chế,
không cho Lân xâm phạm tới công chúa. Thật là:
ái ân, cô gái không e sợ
Hoan hỉ, chàng trai lại dở dang.
Chưa biết việc tới thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.
Hồi 2
Lập Điện đô, bảy quan nhận di chúc,
Giết Huy quận, ba quân phò Trịnh vương.
Lại nói,
Đặng Mậu Lân tuy đã lấy được công chúa Ngọc Lan, nhưng cứ mỗi lần vào với công
chúa thì lại bị Sử Trung ngăn cản; vì vậy Lân hết sức tức giận, nói với Sử
Trung rằng:
- Chúa
bảo con gái chúa là tiên dưới trần, nhưng ta coi ra, thật không bằng con bé ở
xách giày nhà ta, có quý hoá gì? Đây ta không phải ham gì nhan sắc của nó;
nhưng tốn kém mất bao nhiêu tiền của mới lấy được một con vợ, nếu không ra hồn
thì cũng phải vần một trận cho nẫu nhừ ra như bùn, để đền đắp lại sự phí tổn,
rồi bấy giờ sẽ tống cổ nó đi. Còn mày, mày muốn sống muốn tốt thì hãy tìm đường
kiếm nẻo mà bước đi. Kẻo nữa lại kêu ta không bảo trước.
Sử Trung
đáp:
- Đó là
mật chỉ của chúa thượng, không phải tôi dám như vậy!
- Mày
thử hỏi chúa, xem chúa ở vào địa vị tao liệu chúa có nhịn được không?
Sử Trung
nói:
- Quan
lớn đừng nên quá lời như vậy, nhà chúa không thể so sánh với người thường.
Lân nổi
giận đùng đùng mà rằng:
- à, mày
đem chúa để doạ tao phỏng? Chúa là cái quái gì?
Dứt lời,
Lân tuốt gươm chém Sử Trung. Sử Trung chết ngay.
Giết
xong Sử Trung, lân bèn sai đóng chặt cửa dinh, ra lệnh trong không được ra,
ngoài không được vào, định ngầm thủ tiêu cái thây Sử Trung. Ngọc Lan nghe
chuyện, sợ quá, lập tức bảo một thị nữ chui qua một lỗ hở nhỏ chạy về phủ chúa
báo tin.
Chúa cả
giận, sai viên quan hầu đốc thúc một toán lính đến bắt Lân.
Lân cầm
gươm lăm lăm, đứng trước cửa doạ:
- Đứa
nào muốn chết thì cứ vào đây!
Chúa lại
phải sai quận Huy đem quân vây bắt Lân, giải về phủ, giao cho triều đình xử
tội. Các quan đều nói tội giết sứ giả đáng bêu đầu.
Thị Huệ
nghe tin, khóc lóc xin chết thay em. Chúa bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết
và giảm xuống thành tội đi đày ở châu xa.
Lại nói,
vương tử Cán rất tuấn tú, thông minh, nhưng người vốn yếu đuối. Lúc còn ẵm
ngửa, vương tử đã mắc chứng cam: bụng to, rốn lồi, da nhợt, gân xanh, chân tay
gầy khẳng khiu. Chúa phải sai người đi tìm danh y khắp bốn phương về chữa cho
vương tử (Hải thượng lãn ông Lê Hữu Trác cũng đã từng bị triệu vào kinh để chữa
bệnh cho Cán (xem Thượng kinh ký sự).
Những
người do nghề thuốc mà vào phủ đều được thăng trưởng: Nguyễn Thực từ chức huấn
đạo lên đến chức tiến triều; Chu Nghĩa Long là người khách buôn Trung Quốc,
được phong tước hầu coi việc quân. Thuốc thang tốn kém kể có hàng trăm vạn,
nhưng chạy chữa hết năm này qua năm khác mà bệnh vẫn không khỏi.
Chúa lại
sai người đi lễ bái khắp các đền đài có tiếng linh thiêng; một mặt cho thiết
lập đàn tràng ở ngay trong cung để ngày đêm đèn nhang cầu khẩn. Vậy mà bệnh của
vương tử vẫn đâu hoàn đấy.
Có kẻ tố
cáo với chúa, nói là vì Tiệp dư (Tiệp dư đây không rõ ai, bản chữ Hán không ghi
tên họ người nào; bản dịch của Ngô Tất Tố, cho là Dương Ngọc Hoan có lẽ là
phỏng đoán như vậy) không được yêu, sinh ra ghen ghét, mượn bọn đồng cốt chôn
hình người gỗ ở trong cung để trấn yểm.
Chúa
giận lắm, sai bắt người nhà Tiệp dư để tra hỏi. Nhưng bọn ấy trốn hết, tìm khắp
tứ phía không lùng bắt được người nào cả. Sau, kẻ tố cáo tự dẫn người đến đào
chỗ chôn người gỗ, cũng không thấy gì, việc này mới thôi. Tuy nhiên, bụng chúa
cũng vẫn còn ngờ, nên cứ để mặc cho Thị Huệ làm chay làm bùa, tha hồ cúng lễ.
Do đó, bọn đồng cốt ra vào tấp nập; mà bệnh của vương tử Cán vẫn khi tăng khi
giảm chẳng ra thế nào.
Đến khi
thế tử Tông bị tội, thì gặp lúc bệnh của vương tử Cán đã hơi đỡ. Năm sau vương
tử lên đậu, từ tuần nung mủ đến tuần đậu lặn đều không có gì quản ngại. Chúa
hết sức vui mừng nói:
- Thì ra
trẻ con cam sài cũng là sự thường, chẳng cần phải lo. Mà hễ nó đã lên đậu, lên
sởi thì tức là nên người rồi.
Bấy giờ
các quan trong ngoài đều có lời chúc mừng.
Nhiều
người khuyên chúa giáng chỉ lập vương tử Cán làm thế tử cho yên sự mong mỏi của
thiên hạ. Chúa nghe lời ngay.
Thánh
mẫu thái tôn (tức là mẹ Trịnh Sâm) được tin liền nói với chúa:
- Thế tử
Tông với vương tử Cán đều là cháu cả, già này thực không coi đứa nào hơn đứa
nào. Có điều thế tử đã lớn và khoẻ mạnh, còn vương tử thì nhỏ tuổi lại hay đau
yếu; khuyên chúa hãy nghĩ đến tôn miếu xã tắc, tạm dành ngôi đông cung lại đó,
may ra đứa con út (chỉ Tông vì Tông bị giáng xuống làm con út) kia nó biết hối
lỗi thì hay, bằng không, đợi lúc vương tử khôn lớn hãy lập trưởng cũng chưa
muộn gì.
Chúa
đáp:
- Tên
Tông và tên Cán đối với mẹ là cháu, chưa bằng đối với tôi là con. Người xưa đã
nói: "Biết con chẳng ai bằng cha". Tôi cũng chưa đến nỗi mê lẫn, vả
chăng triều đình bàn bạc chung như thế, chứ cũng chẳng phải vì tôi yêu đứa con
nhỏ mà bày đặt ra việc này. Mẹ há chẳng biết rõ rồi sao? Nay nếu không sớm định
người nối ngôi, bọn tiểu nhân đâm ra dòm nom, mong chờ, tôi e tai hoạ sẽ xảy
đến lúc nào không biết. Huống hồ ngôi báu của thiên hạ cốt phải giao phó vào
tay người xứng đáng. Đã coi tôn xã làm trọng, thì dẫu con đẻ ra cũng không được
tư túi; lẽ nào tôi lại dám tư túi với đứa con nhỏ? Nếu như cuối cùng bệnh của
Cán không khỏi, thì thà lập Côn quận công (có bản chép là Quế quận công, tức
Trịnh Bồng, anh em con chú bác với Sâm, con Trịnh Giang), trả lại dòng chính
cho nhà bác; chứ không thể nào giao cho cái thằng Tông bất hiếu, để nó làm hỏng
cơ nghiệp của tổ tiên. Thánh mẫu không dám nói gì nữa.
Chúa bèn
sai các quan trong triều làm tờ tâu lên vua Lê, xin lập vương tử
Cán làm
thế tử (Bấy giờ có nhiều người không đồng tình việc lập Cán, nên
đã đặt
ra câu ca dao:
Đục cùn thì giữ lấy tông:
Đục long, cán gãy, còn mong nỗi gì?
Dùng chữ
tông và cán theo nghĩa đôi để chỉ vào Trịnh Tông và Trịnh Cán.). Lại nói, từ
mấy năm nay, bệnh cũ của chúa vẫn thường hay phát trở lại, khi thì một tháng,
khi thì nửa tháng. Mỗi lần bệnh phát thường hết sức nguy kịch, nhưng rồi dần
dần cũng lại khỏi. Chúa rất sợ nắng gió, bình thường phải ở luôn trong thâm
cung và nơi đó phải thắp nến suốt đêm ngày. Nếu không phải triều hội lớn, thì
không bao giờ chúa ra gặp các quan. Sập ngự trong phủ chúa có che trướng thuỷ
tinh, kiệu của chúa đi cũng treo rèm thuỷ tinh, để ngăn nắng gió. Các quan muốn
trình báo việc gì, đều do quan hầu đem tờ khải vào. Chúa muốn phán gì cũng do
quan thị truyền chỉ ra. Dẫu đến các bậc thân quí, cũng phải một năm hoặc nửa
năm mới gặp mặt chúa một lần. Còn các hàng văn võ trong triều, thì thường không
hề được thấy mặt rồng. Việc của phủ chúa, bên ngoài người ta đồn đại như là
việc thiên tào. Cứ như thế, sự ngăn cách, che lấp ngày càng thêm tệ.
Đến lúc
này, bện của chúa lại nguy kịch. Thị Huệ ngày đêm hầu hạ. Trong hàng đại thần
chỉ có quận Huy là được ra vào. Mẹ chúa và các con gái chúa cũng ít khi được
tới gặp, hàng ngày thăm hỏi sức khoẻ của chúa, họ chỉ đứng ngoài cửa buồng và
hỏi qua bọn quan hầu mà thôi. Nhân cơ hội ấy, Thị Huệ bèn nói với chúa:
- Thiếp
thờ chúa thượng, nhờ ơn được quá thương yêu, thành ra nhiều kẻ thù ghét; không
biết rồi đây mẹ con thiếp sẽ gửi thân vào đâu?
Chúa yên
ủi rằng:
- Thế tử
đã chính thức lên ngôi đông cung, nước là nước của nó; rồi đây khanh sẽ làm mẹ
cả thiên hạ, kẻ nào còn thay đổi được?
Thị Huệ
lại thưa:
- Sợ
không dự định trước, đến lúc tình thế khẩn cấp sẽ bị người khác cướp mất.
Bấy giờ
quận Huy cũng có ở đó. Chúa nhìn Huy nói:
- Sau
này ngươi cần hết sức giúp đỡ chính cung và thế tử, để cho yên lòng ta. Quận
Huy thưa:
- Tôi
dám đâu chẳng hết lòng về việc này kỳ cho đến chết. Nhưng ngay bây giờ, nhân
lúc chúa còn tỉnh táo, xin hãy kịp thời truyền mệnh lệnh cho thế tử
Cán nối
ngôi và lập chính cung làm vương phi, cùng coi việc nước, để cho
có mệnh
lệnh sẵn sàng.
Chúa
khen:
- Phải
đấy! Khanh cần làm phụ chính cho vương tử. Quận Huy lại thưa:
- Vâng
lời di chúc làm người phụ chính, tôi chẳng dám gánh vác một mình. Hiện nay có
Khanh quận công là bậc chí thân, Hoàn quận công là bậc sư phó đại thần, Châu
quận công và Tứ xuyên hầu đều ở trong chính phủ, vốn có đức vọng, Diễm quận
công là a bảo của đông cung, Thuỳ trung hầu là bảo vệ của đông cung, đều là
những bầy tôi tin cậy. Vậy xin nhà chúa hãy cho phép những viên ấy cùng nhận cố
mệnh (mệnh dặn lại lúc sắp chết) với tôi.
Chúa
bằng lòng.
Quận Huy
liền sai Tứ xuyên hầu thảo tờ cố mệnh, và quan thiêm sai Nhữ Công Điền làm tờ
sách phong Tuyên phi. Giấy tờ lập xong, Huy bỏ vào tay áo đem dâng chúa để xin
điền tên.
Bấy giờ
bệnh chúa đã nguy kịch, nhân có thánh mẫu vào thăm, Thị Huệ phải ôm chúa ngồi
dậy. Thánh mẫu đứng ở đầu sập vừa khóc vừa hỏi han. Chúa cũng khóc mà rằng:
- Con
xin chắp tay cúi đầu lạy mẹ. Nay con chẳng may xấu số, không được thờ mẹ cho
đến cùng. Nghĩ đến đạo hiếu chưa tròn, ruột gan con đau như dao cắt. Xin mẹ hãy
ngự giá về cung, cố ăn ngủ cho thảnh thơi, đừng nghĩ gì đến con mà đau lòng mẹ.
Còn việc sớm hôm thăm hỏi sau này đã có tự vương (chúa nối nghiệp, chỉ Trịnh
Cán) thay con.
Thánh
mẫu nức nở, sụt sịt, ngập ngừng hồi lâu, ý muốn nói đến ngôi thế tử, nhưng vì
có Thị Huệ ở đấy nên cũng khó hé răng, dùng dằng mãi chưa ra. Chúa thấy vậy lại
nói:
- Mẹ quá
thương con, không nỡ dứt tình mà đi. Con trông thấy mẹ cũng đau lòng không thể
nhắm mắt. Vậy cúi xin mẹ hãy ngự giá về cung.
Thánh
mẫu bèn ứa nước mắt trở ra. Chúa quay sang dặn Thị Huệ.
- Bệnh
ta không khỏi, không ở được cùng khanh đến lúc bạc đầu. Nay ta về chầu giời,
khanh ở lại phụng thờ thánh mẫu, nuôi nấng tự vương; còn duyên sắt cầm đành hẹn
đến kiếp khác.
Thị Huệ
nấc lên đến hơn một khắc, rồi ả cắt tóc thề rằng:
- Chúa
thượng chẳng thương thiếp, nỡ bỏ thiếp vò võ một mình! Thiếp xin liều thân mà
chết theo chúa. Thờ phụng thánh mẫu đã có hai công chúa, giúp rập tự vương đã
có các quan đại thần, chúa đừng giao những việc ấy cho thiếp.
Rồi thị
khóc oà lên.
Chúa
ngoảnh sang Thuỳ trung hầu nói:
- Sau
khi ta qua đời, các ngươi phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng
liều mình. Vạn nhất nếu không ngăn cản nổi ý chí của nàng, thì cứ để nàng chung
thuyền với ta mà đưa đi, cho nàng được hầu hạ ta ở nơi lăng tẩm.
Tiếp đó,
chúa cho đòi quận Khanh, quận Hoàn vào chịu cố mệnh.
Hai
người vào, chúa truyền miễn lạy và cho ngồi. Hai người khóc lóc hỏi han sức
khoẻ. Chúa nói:
- Con
xin chắp tay cúi đầu lạy chú, lạy thầy. Chẳng may con bị bệnh nặng, nay đã nguy
cấp, muốn cho thế tử Cán lên nối ngôi chúa. Vậy nhờ chú và thầy chung sức đồng
lòng, giúp cho qua khỏi bước khó khăn này.
Dứt lời,
chúa bảo Thị Huệ đặt mình nằm xuống.
Quận Huy
quì xuống, rút tờ cố mệnh trong tay áo dâng trình, nhưng chúa chỉ lấy tay xua
đi.
Quận Huy
lại thưa rằng:
- Nay
thánh thể không yên, mà chỗ đề tên họ trong tờ cố mệnh thì hãy còn để trống,
vậy xin chúa hãy để cho vương thân Khanh quận công viết thay.
Chúa
không còn nói được nữa, chỉ gật đầu mà thôi.
Quận
Khanh bèn lấy bút phê, rồi ngay trước sập chúa, lần lượt viết tên mấy người vào
chỗ bỏ trắng trong tờ cố mệnh. Viết xong, lại dâng cho chúa xem; nhưng lúc ấy
chúa đã nhắm nghiền hai mắt không biết gì nữa.
Thế là
Trịnh vương qua đời. Bữa ấy nhằm ngày 13 tháng quận Huy năm Nhâm-dần (1782).
Chúa thọ 44 tuổi, làm chúa được 16 năm.
Sau khi
chúa tắt thở, quận Huy một mặt cắt đặt cho các quan lo liệu việc tang lễ, một
mặt sai Thuỳ trung hầu sao lấy mấy bản thư cố mệnh và tờ sách phong Tuyên phi
đưa ra chính phủ, để cho các quan triều tâu lên vua Lê. Ngay hôm ấy, vua Lê hạ
sắc dụ lập thế tử Cán làm Điện đô vương.
Trăm
quan liền đem nghi trượng, binh lính đến cửa Kính-thiên để rước sắc về phủ
chúa.
Đến phủ,
quan a bảo Diễm quận công bế thế tử-đã được mặc áo triều, đội mũ, mang đai màu
hoa quì-đứng đón ở sân, quỳ xuống nhận sắc.
Xong đó,
ngoài phủ đường đã đặt sẵn sập ngự, quận Diễm bồng thế tử Cán lên ngôi chúa.
Các quan theo thứ tự lần lượt vào lễ mừng. Lễ xong, quận Diễm lại bế chúa mới
(Trịnh Cán) vào cung Huỳnh để lạy thánh mẫu. Rồi sau đấy, mọi người đều thay
triều phục, mặc áo trở để làm lễ phát tang. Lúc Thịnh vương còn sống có soạn ra
cuốn Vạn niên thư, phàm việc tang lễ từ lễ "phạm hàm" đến lễ
"đại tường", "nhập miếu" (Phạm hàm: Lễ đặt vàng, ngọc hoặc
các của quí khác vào trong miệng người chết. Đại tường: Lễ giỗ sau khi chết hai
năm. Nhập miếu: Lễ rước linh hồn vào nhà thờ, để thờ chung với các tổ tiên),
nghi tiết như thế nào đều đã chua rõ; cho cả đến mấy chữ miếu hiệu "Thánh
tổ Thịnh vương" cũng được ghi sẵn. Nay cứ theo đó mà làm.
Bảy viên
đại thần ngày đêm túc trực ở trong phủ, chia nhau coi sóc mọi việc.
Lại nói
về bảy viên phụ chính này.
Khanh
quận công tên là Trịnh Kiều, tức là con thứ năm của Hy tổ Nhân vương, và là em
Nhị tổ Ân vương, đối với chúa mới là hàng ông chú. Kiều là bậc tuổi cao, đức
cả, song tính tình chất phác, thật thà, đối với công việc nên hay không nên
cũng mặc, chẳng có ý kiến gì.
Hoàng
quận công tên là Nguyễn Hoàn, người làng Lan Khê huyện Nông Cống, đỗ tiến sĩ
khoa Quí-hợi (1743). Trước Hoàn làm hữu tư giảng cho Thịnh vương, sau lên đến
chức thượng thư bộ Lại, rồi làm Tham tụng. Hoàn đã về trí sĩ nhưng lại bị gọi
ra tham dự triều chính, Hoàn là một vị trọng thần của nhà nước, nhưng tính
người hoà hoãn, chìm nổi theo đời, gặp việc thường dè chừng, không quyết đoán.
Tứ xuyên
hầu tên là Phan Lê Phiên (có sách chép Duy Phiên hoặc Trọng Phiên), người làng
Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Đinh-sửu (1757). Phiên từng làm tả
thị lang bộ Hộ, làm tham tụng; là người có phong độ đoan trang, học vấn rộng
rãi, nhưng tính nết thâm trầm lại hay nương nhờ vào bọn quyền thế.
Châu
quận công, Diễm quận công và Thuỳ trung hầu đều xuất thân từ hàng quan hoạn.
Châu
quận công tên là Lê Đình Châu, người làng Liên Hồ, huyện Ngọc Sơn, hầu hạ các
chúa trải đã mấy triều. Châu có làm chức tri binh phiên cơ mật, là người trung
hậu, lúc đã già vì là bậc kỳ cựu, nên được vào chính phủ, nhưng không giữ việc
gì.
Diễm
quận công tức Trần Xuân Huy, người làng Khoái Lạc, huyện Thiên Bản; nguyên là
gia thần của Thịnh vương, khi vương chưa lên ngôi. Lúc Thịnh vương lên cầm
quyền, Huy được giao cho chức tri hộ phiên. Huy là người thuần thục, cẩn thận.
Thịnh vương rất tin, sai Huy làm a bảo cho thế tử, ngày đêm ở luôn bên cạnh thế
tử, không dự gì đến những việc bên ngoài. Thuỳ trung hầu tên là Tạ Danh Thuỳ,
người làng Khang Thượng, huyện Yên Mô, từng làm chức xuất nạp (một chức quan
hầu cận của vua chúa chuyên giữ việc phát nhận giấy tờ, và truyền đạt mệnh
lệnh) rồi lại làm trấn thủ Thanh Hoa (thời Lê trung hưng, Thanh Hoá gọi là
Thanh Hoa). Thuỳ là người cơ trí, giỏi văn học, biện luận như gió. Thịnh vương
vốn tin trọng, sai Thuỳ làm chức bảo vệ cho thế tử; nhưng vì Thuỳ tuổi trẻ chưa
có danh vọng gì mấy, nên không tránh khỏi phải lép vế và chiều theo ý những kẻ
đồng liêu.
Bởi vậy,
hết thảy mọi việc trong thiên hạ đều do một tay quận Huy quyết định, không có
ai bàn qua nói lại gì hết.
Nguyên
sáu người kia, không phải hết thảy đều một lòng với quận Huy cả. Chẳng qua thấy
họ có địa vị và danh vọng, nên quận Huy mới lôi kéo họ vào cùng cánh với mình
để họ khỏi có ý khác mà thôi.
Chỉ Diễm
quận công vốn là phe đảng của Thị Huệ, xưa nay lại rất ăn ý với Tứ xuyên hầu;
nên hai người này đều một bụng một dạ với quận Huy. Song quận Diễm là người dốt
nát, ít hiểu biết, việc gì cũng phải nhờ Tứ xuyên hầu chỉ vẽ cho; mà Tứ xuyên
hầu thì cũng như quận Huy, đều đang mê mẩn trong tình thế lúc bấy giờ.
Còn Hoàn
quận công là bậc lão nho. Thuỳ trung hầu là hạng khôn vặt. Rút lại không lường
được bụng dạ của họ ra sao.
Trong
đó, thực thà không có ý gì, duy chỉ có Khanh quận công và Châu quận công mà
thôi.
Quận Huy
tự đứng làm chủ cuộc, phàm mọi việc đều tự mình gánh vác, không cần đùn đẩy cho
ai; người khác có đồng ý hay không, Huy cũng chẳng thèm kể đến.
Lúc đó,
chúa mới lên ngôi, vì còn thơ ấu nên người trong nước không khỏi có ý ngờ. ở
phố phường người ta túm năm tụm ba bàn tán. Kẻ nói chúa mới bị bệnh rất nặng,
chưa biết chừng ngày nào đó trong cung sẽ có biến; quận Huy uy quyền lớn quá,
không khéo hắn sẽ cướp nước mất. Người bảo chính cung tư thông với Huy, ả sắp
đem xã tắc giao phó cho quận Huy. Bấy giờ, đầu đường xó chợ có câu ca dao như
sau:
Trăm
quan ít sáng nhiều mờ (có sách chép: "Trăm quan có mắt như mờ"
hoặc
"Sáu ông cố mệnh ngẩn ngơ");
Để cho
Huy quận vào rờ chính cung.
Huy nghe
tin, bèn sai quan đề lĩnh đem móc sắt và kéo treo khắp các chợ, doạ rằng những
ai còn dám tụ họp nói chuyện thì sẽ móc lưỡi cắt đi. Do đó, ở ngoài đường sá
người ta chỉ dám ghé mắt ngó nhau; dân chúng kinh kỳ đều sợ nơm nớp.
Lại nói
về thế tử cũ, từ khi chúa mới lên ngôi, Thị Huệ vẫn muốn ngầm hại thế tử, nhưng
Thuỳ trung hầu thường tìm lời khôn khéo để che chở cho. Thị Huệ bị lời lẽ Thuỳ
trung hầu giằng giữ, nên không dám quả quyết hành động. ả bèn bắt Tông ra ở tại
nhà Tả-xuyên, rồi giao cho bốn đội Nội-khuông, Nội-dực, Nội-nhưng, Nội-kiệu
giám sát. Mỗi ngày chỉ có ba bữa cúng cha, thế tử mới được vào phủ đường, lễ
xong lại về sở giam. Vì vậy, thế tử ngày đêm lo lắng, sợ rằng không giữ được
tính mạng.
Mẹ thế
tử là thái phi họ Dương nhờ người chị là quận phu nhân họ Dương kêu van với
quận Huy rằng:
- Em
thiếp là cung tần Dương thị mỗ và con út chúa là vương tử mỗ xin gửi lời lạy
trình quan lớn xét cho: Đứa con út đó có tội, gạt bỏ là phải, không dám phàn
nàn. Nhưng nay nó ở vào cảnh ngộ hiềm nghi, tình thế cấp bách, khôn xiết nguy
hiểm sợ hãi. Vậy muôn vàn lần mong mỏi quan lớn hãy rủ lòng thương, che chở cho
nó được toàn vẹn; công ơn cứu sống của ngài, mẹ con nó xin ghi xương tạc dạ.
Quận Huy
vừa khóc vừa trả lời:
- Tôi
thờ tiên chúa, được chịu ơn huệ đã nhiều, nghĩa tuy là vua tôi, nhưng tình là
cha con. Thế tử cũ cũng là con của chúa tôi, tôi có lòng nào, thì xin trời đất
tru diệt. Phu nhân trở về, cho tôi gửi lời trình trước màn tang của vương tử và
quý cung tần rằng, xin cứ yên lòng, tôi sẽ hết sức giúp đỡ, không có điều gì
phải lo ngại.
Rồi Huy
bí mật sức cho bốn đội quan quân, ra lệnh phải lỏng lẻo bớt trong việc giam giữ
thế tử. Từ đó các gia thần và các người thân tin cũ của thế tử mới được ra vào
dễ dàng, không ai xét hỏi.
Thế tử
có người đầu bếp tên là Dự Vũ, vốn là người cơ trí, nói năng rành mạch. Một
hôm, thế tử hỏi bên ngoài lòng người ra sao, Dự Vũ đáp:
- Nhà
chúa bỏ con cả lập con út, thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng
bất bình lắm. Hôm nọ trong khi tân chúa lên ngôi, theo lệ có ban tiền bạc cho
các quân sĩ, nhưng trong quân nhao nhao, có kẻ không chịu nhận tiền ấy. Sau,
quận Huy phải ra lệnh nghiêm cấm, họ mới miễn cưỡng nghe theo, mà trong lòng
vẫn còn hậm hực.
Thế tử
mừng thầm, đem chuyện ấy bàn với một viên gia thần tên là Gia Thọ. Thọ người
làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, cũng là kẻ tinh khôn; hắn nói với thế tử:
- Lòng
người như thế, nếu lấy nghĩa khí mà khích động, khiến cho họ một lòng tôn phù,
thì việc lớn ắt thành.
Thế tử
mừng lắm, bèn sai Dự Vũ làm cơm rượu, mời bọn biện lại trong đám thân quân tới
đánh chén, rồi nói với họ rằng:
- Thế tử
chẳng có tội gì, nhưng bị mụ đàn bà ác nghiệt họ Đặng làm mê hoặc tiên chúa, vu
tội hãm hại thế tử để cướp ngôi. Còn quận Huy vốn có chí phản nghịch, lợi dụng
vương tử Cán bé dại dễ kiềm chế, nên hắn mới vào hùa với mụ mà gây ra việc bỏ
người này lập người kia, để hắn làm phụ chính cho tiện cái mưu cướp nước của
mình. Nay tân chúa bị bệnh nặng, sự nguy biến chỉ trong sớm tối. Không biết rồi
đây cơ nghiệp nhà chúa sẽ do ai làm chủ? Ba quân đều là người ở đất "thang
mộc" ("thang mộc" nghĩa là tắm gội. Đất "thang mộc" là
đất thiên tử phong cho các chư hầu, để làm nơi cung đốn việc tắm gội hoặc nơi
ăn ngủ trước khi vào chầu. Do đó, đất "thang mộc" cũng dùng để trỏ
chung đất quê hương của vua chúa. ở đây đất "thang mộc" trỏ vào Thanh
Hoá, đất quê hương của vua Lê.) và là binh lính ứng nghĩa, làm nanh vuốt của
nhà nước, ai cũng sẵn lòng trung nghĩa. Nếu anh em còn nghĩ đến cái ơn của nhà
chúa nuôi nấng trong hai trăm năm, thì hãy nên một lòng giúp đỡ nhà chúa. Mai
đây nếu trời cho xong việc, tất nhiên sẽ có sách son, khoán sắt (văn thư viết
bằng son, khoán ước chế bằng sắt, ban cho bầy tôi có công để tỏ ý cùng được
hưởng phú quí lâu dài với nhà vua) lưu truyền muôn đời.
Mọi
người đều nói:
- Chúng
tôi vẫn có bụng đó, nhưng chưa biết ý vương tử ra sao. Sợ đến lúc ấy nhỡ có
điều gì kinh động, người lại quở trách chúng tôi gây việc. Nay vương tử đã ngỏ
ý cho biết như thế, thì việc này chắc không khó gì.
Sau đó,
họ bèn ngầm đi báo cho nhau, hẹn ngày tụ họp ở chùa Khán Sơn (chùa Khán Sơn xưa
ở trên trái núi đất gần khu vực vườn Bách Thảo Hà Nội, chùa bị phá từ cuối đời
Cảnh-hưng).
Lúc quân
lính đến hội họp, bàn về việc ấy không ai là không hăng hái. Nhưng họ còn sợ
thanh thế quận Huy, nên chưa biết khởi sự như thế nào cho ổn thoả.
Giữa lúc
đang bàn bạc như thế, thì bỗng một người đứng phắt lên nói:
- Chỉ sợ
anh em không cùng một bụng thôi. Chứ nếu ba quân đồng lòng, thì bất quá chỉ
thừa dịp cúng cơm sáng xong (theo tang lễ xưa, người chết khi chưa chôn thì gia
đình mỗi ngày cúng hai lần cơm), đánh một hồi trống trong phủ làm hiệu, rồi kéo
ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi
mà!
Mọi
người đều reo mừng hưởng ứng, và cùng nhìn về phía kẻ mới nói, thì ra đó là
viên biện lại của đội Tiệp-bảo (đội thân binh hầu hạ) tên là Bằng Vũ. Gã Bằng
Vũ này là người huyện Thanh Chương, xứ Nghệ An, ông cha vốn là công thần đời Lê
trung hưng. Về sau tập ấm (đây dịch theo hai chữ ấm tận. Trong chế độ phong
kiến, những kẻ làm quan, tuỳ theo thứ bực, con cháu đều được nối nghiệp làm
quan gọi là tập ấm; đến lúc nào không được hưởng tập ấm nữa thì gọi là ấm tận)
đã hết, con cháu trở nên nghèo nàn. Bằng Vũ được người làng thuê đi lính thay.
Gã người thấp bé, thanh nhã như dáng học trò. Sau khi vào đội Tiệp-bảo, nhờ
biết dăm ba chữ, gã được làm chân biện lại. ở kinh, gã thường làm mướn đơn kiện
cho người ta, vẫn lừng tiếng là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị.
Lúc này
Bằng Vũ thủ xướng ra lời bàn đó, cả bọn liền bầu ngay gã làm chủ mưu, giao cho
gã đánh trống trước để thúc giục ba quân.
Bằng Vũ
mạnh bạo nhận lời. Rồi cả bọn cùng nhau uống máu ăn thề. Nhưng họ không dự định
ngày nào, chỉ hẹn nhau hễ nghe hiệu trống của Bằng Vũ thì cùng kéo đến để khởi
sự.
Mưu toan
bí mật đã bàn định xong. Chợt lại có người nói:
- Việc
này hết sức quan hệ. Nên nhờ quốc cữu tâu với thánh mẫu, xin lĩnh ý chỉ của
thánh mẫu mà làm. Vạn nhất quận Huy có biết, mình còn có mật lệnh làm cớ để mà
nói, tỏ rằng mình vẫn làm việc minh bạch. Như thế mới là kế vạn toàn!
Người ấy
là Bùi Bật Trực, quán làng An Toàn, huyện La Sơn, một tay danh sĩ xứ Nghệ. Bật
Trực trước đã từng làm chức viên ngoại lang, hồi này vì bị mất quan vẫn nương
nhờ ở trong nhà quốc cữu Viêm quận công (Viêm quận công Nguyễn Trọng Viêm là em
mẹ Trịnh Sâm, do đó gọi là quốc cữu). Khi bọn biện lại hẹn quân sĩ đến tụ tập ở
chùa Khán Sơn, Bật Trực cũng đã nghe phong thanh. Gã liền đem mưu mô của bọn
quân sĩ nói nhỏ với Chiếu lĩnh bá (tức Nguyễn Trọng Chiếu), con Viêm quận công,
và khuyên nên nhập bọn để hớt lấy công ấy. Còn bản thân gã thì đứng ra làm
người manh mối giữa Chiếu lĩnh bá và bọn quân sĩ. Vì thế, nên gã mới đến dự
cuộc họp để nói với bọn họ như vậy.
Quân sĩ
vốn không cần chỉ của thánh mẫu, nhưng thấy người nhà quốc cữu cũng có mặt
trong cuộc hội họp, khước từ sẽ lộ chuyện. Vả lại, lời của Bật Trực nghe cũng
có lý, họ bèn cùng đi với Bật Trực đến gặp quận Viêm.
Lúc quân
sĩ chưa đến, Chiếu lĩnh bá đã đem chuyện nói trước với cha. Cha hắn ta vốn là
người tầm thường, nghe thấy chuyện đó thì sợ lắm, bèn nói:
- Lũ
lính tráng này là đồ thô lỗ, khinh suất nên mới làm việc ấy: mình can dự vào
làm gì? "Con vua thì lại làm vua". Ai làm chúa ta cũng vẫn không mất
cái chân là quốc cữu tiền triều. Nay lại muốn cầu công trạng, nếu việc thành,
ta không thể giàu sang hơn thế này nữa; mà ngộ nhỡ công việc vỡ lở, hẳn là chết
không có đất chôn!
Chiếu
lĩnh bá đáp:
- Bọn họ
bàn bạc, ước hẹn với nhau đã đâu vào đấy rồi. Thế nào nay mai họ cũng ra tay,
mà đã ra tay là phải xong việc. Cự tuyệt họ tức là bỏ uổng cơ hội. Vả chăng sự
giàu sang của cha dẫu đã đầy đủ rồi thật, nhưng cha cũng nên để cho chúng con
nhân dịp này mà lập công danh. Hơn nữa con đã trót hứa với họ, bây giờ dù có
muốn thoái thác cũng không thể được.
Một lát
quân sĩ kéo đến. Quận Viêm bất đắc dĩ phải ra tiếp. Sau khi nghe họ nói, quận
Viêm trả lời:
- Các
anh em còn có lòng vì nước, tôi đây há lại dám có bụng dạ nào khác. Có điều anh
em muốn xin ý chỉ của thánh mẫu, thì nên đến nhà cháu tôi là viên phó tri binh
phiên Nguyễn Kiêm mà bảo viên ấy vào bẩm với thánh mẫu. Viên ấy giữ chức tri
lệnh sử, nên ra vào cung Huỳnh người ta sẽ không nghi ngờ. Còn tôi, tôi cũng
xin gửi lời trình thêm với thánh mẫu nữa.
Quân sĩ
nghe lời, lại kéo cả sang nhà Nguyễn Kiêm.
Kiêm vốn
là hạng hèn nhát, nghe quân sĩ nói thì hoảng hốt chối đây đẩy. Nhưng bọn người
vẫn cố nèo:
- Việc
này cũng đã bẩm với quốc cữu và Người đã dạy như thế.
Rồi họ
thúc ép Kiêm phải đến nhà quận Viêm để nhận lời dặn mà vào tâu với thánh mẫu.
Nguyên
việc bỏ con lớn lập con nhỏ, thánh mẫu vốn không hài lòng, vì vậy khi được nghe
mưu toan ấy, thánh mẫu đã thấy hợp ý ngay. Nhưng dẫu sao cũng chưa thoát khỏi
chí khí đàn bà, thánh mẫu sợ nhỡ công việc bại lộ, quốc cữu sẽ bị vạ lây; nên
muốn hãy ngầm dỗ dành quận Huy để hắn đưa thế tử Tông lên quyền ngôi chúa cho
khỏi sinh biến. Lại nghĩ trong bọn bảy tên phụ chính, chỉ có quận Hoàn vừa là
thầy học của chúa trước vừa là bố vợ Kiêm, bụng dạ có thể tin được, mà lại là
bậc lão nho có nhiều mưu trí, có thể cùng bàn mọi việc với ông ta. Thánh mẫu
bèn bảo Nguyễn Kiêm một mặt báo cho bọn quân sĩ hãy chậm khởi sự lại vài ngày,
còn một mặt thì tới bàn mưu với quận Hoàn.
Quận Hoàn
nói:
- Nếu ba
quân làm như thế, tất sẽ gây ra rất nhiều việc lôi thôi. Nay thánh mẫu quyết
đoán sáng suốt như vậy, thực là phúc cho xã tắc. Lão thần đây cũng không thể
nghĩ hơn thế được. Nhưng xin thánh mẫu hãy hạ chỉ dụ quận Huy, còn tôi ở trong
sẽ nói thêm vào.
Kiêm đem
lời ấy tâu với thánh mẫu. Thánh mẫu bèn sai người bảo quận Huy rằng: "Nay
tân chúa bị đau, trong nước đang lo lắng, nghi ngờ. Tướng quân nếu còn coi xã
tắc là trọng thì, hãy nên tạm để cho vương tử Tông lên quyền ngôi chúa để yên
lòng người. Đợi khi nào tân chúa trưởng thành, vương tử Tông sẽ lại trao trả
chính quyền và lui về giữ trọn đạo làm tôi. Tướng quân nên đem ý đó bày tỏ với
Tuyên phi và để vương tử Tông nhận Tuyên phi làm mẹ nuôi, lấy tướng quân làm a
bảo. Mong rằng tướng quân hãy hết sức giúp đỡ cho được chu toàn!".
Quận Huy
đáp lại rằng: "Lý tôi gửi lạy dưới cửa thánh mẫu. Thánh mẫu đã lo đến việc
lớn của xã tắc, tôi đâu dám chẳng vâng mệnh. Nhưng có điều việc này không phải
ý của tiên vương. Tôi được tiên vương trao gửi con bồ côi, ngài đã dặn dò rất
cặn kẽ. Nay tử cung (quan tài của vua chúa) còn quàn tại đây mà đã thay đổi
mệnh ngài, lòng tôi tự thấy không yên. Vậy chuyện này xin hãy để liệu sau. Vả
tiên vương cũng không còn người con nào khác, chỉ có tân chúa và vương tử Tông
mà thôi. Nếu tân chúa không gánh vác nổi công việc, thì sau đó tất là phải đến
vương tử Tông. Lúc đó vương tử Tông cứ việc đường hoàng mà thay thế, há chẳng
tốt đẹp hơn sao, cần gì phải vội vã hấp tấp, làm việc trái với lẽ thường như
vậy? Còn như kẻ lo lắng, thì lâu rồi họ khắc yên lòng; kẻ nghi ngờ, lâu rồi họ
khắc tin tưởng. Dám xin thánh mẫu cứ yên tâm... ".
Sứ giả
ra chưa khỏi cửa, quận Huy đã hằn học:
- Việc
này dẫu có đánh chết ta cũng chẳng nghe!
Sứ giả
về thuật với thánh mẫu. Thánh mẫu biết chí của Huy không thể lay chuyển, bèn
đem lời Huy nói lại với Nguyễn Kiêm. Kiêm sợ việc lộ, vạ lây, lại đến bàn với
quận Hoàn.
Quận
Hoàn nói:
- Bây
giờ sự thế đã như vậy, thôi thì mặc cho ba quân họ muốn làm gì thì làm!
Tình cờ
có một tên lính ở xã Vạn Lộc, huyện Động Sơn, đem các công việc báo với người
cùng làng làm viên thiêm tri binh phiên Trần Hữu Cầu. Cầu vốn tính hiếu sự, lại
giỏi làm văn, tức thì soạn ngay bài hịch Ba quân phò chính, rồi ngầm đem dán ở
khắp các đường phố. Do đó, trong kinh kỳ nôn nao cả lên.
Thấy
chuyện đã vỡ lở như vậy, bọn Bằng Vũ cho là thế không thể đừng được, bèn quyết
định ngay ngày hôm sau khởi sự, không cần phải tâu với thánh mẫu. Hôm ấy là
ngày 24 tháng 10 năm Nhâm dần (1782).
Bấy giờ
quận Huy cũng biết tai hoạ sắp xảy ra, liền nói toạc ra ở trong triều rằng:
- Ngày
mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo.
Các quan
nói:
- Lẽ nào
lại có chuyện ấy?
Quận Huy
bèn đưa ra một tờ khải nói là Huy Bá tố cáo quận Viêm đang âm mưu làm phản và
xin các quan hãy tra xét để trừng trị.
Gặp lúc
trời sắp tối, người nhà quận Huy có kẻ khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn, rồi
gọi quân bên ngoài vào bắt bọn gian; có kẻ khuyên hắn nên đưa nghĩa sỹ vào
trong phủ để tự vệ... Nhưng quận Huy đều gạt đi mà rằng:
- Xưa
nay thói đời vẫn hay phao nhảm, chưa chắc việc đó đã có thật. Mà dù có đi nữa
thì cứ để thong thả rồi cũng tra ra, chúng nó trốn đi đằng nào được. Nếu việc
quá gấp không thể trị nổi bọn chúng, thì ta đây vâng mệnh của đấng tiên vương,
sống thác cũng cam, cần gì mà phải hốt hoảng!
Đêm ấy
quận Huy ngủ ở trong phủ, cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không
hề phòng bị gì hết.
Sáng
mai, lễ cúng cơm bữa sáng vừa xong, các quan đang sắp lui trào, Bằng Vũ vào
trong phủ, đánh luôn ba hồi chín tiếng trống.
Các quan
ngơ ngác nhìn nhau. Quận Huy sai người đóng chặt cửa các, bắt trói Bằng Vũ đem
chém. Khi Bằng Vũ đã bị trói rồi, Thuỳ trung hầu bảo quận Huy rằng:
- Bọn
chúng lập mưu này không phải chỉ có một đứa, nếu chém Bằng Vũ thì đảng gian sẽ
lọt lưới hết. Chi bằng hãy giam nó lại, để tra xét thêm cho tiệt hết mầm loạn.
Quận Huy
cho là phải, thế là Bằng Vũ không bị giết chết.
Lại nói,
quân lính nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng
cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ.
Lúc ấy
cửa các đã đóng, quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo quát
tháo long trời lở đất.
Quận Huy
gọi quận Châu ra bảo:
- Cậu
(Quận Châu là bà con họ ngoại của chúa Trịnh, do đó gọi là cậu) giữ chức binh
phiên, làm sao không biết răn đe chúng nó?
Quận
Châu sợ hãi, vâng dạ mà ra. Quận Huy tự làm tờ khải rằng:
"Lý
tôi kính khải như sau: Tôi được tiên vương giao cho giúp đỡ nhà chúa. Nay đám
ba quân nổi loạn, làm cho kinh khuyết náo động. Tôi xin vâng lĩnh mệnh chúa đem
quân giết chúng. Nếu dẹp được, ấy là nhờ về oai linh của chúa, nhược bằng không
dẹp được, tôi cũng xin liều chết để xuống ra mắt tiên vương ở dưới âm
cung".
Khải làm
xong, quận Huy giao cho quan xuất nạp dâng trình, và xin lấy thanh bảo kiếm của
chúa để ra đánh giặc.
Khi bảo
kiếm đưa tới, quận Huy quỳ gối lĩnh nhận, rồi lập tức truyền lấy voi để ra
trận.
Lúc ấy
quận Châu đang đứng ở phía trái trong cửa các, cách quân lính một bức tường,
lên tiếng dụ họ rằng:
- Làm
lính phải biết lễ phép. Nay tử cung còn quàn ở đây, các người không được làm ồn
ào như vậy. Nếu có điều gì muốn nói, cứ về viết một tờ khải đem lại, ta sẽ
trình bày giúp.
Quân
lính thét lớn:
- Cậu
cũng định theo quận Huy làm phản à? Nếu cậu không mở ngay cửa ra, chúng tôi
trèo tường mà vào, thì xác cậu sẽ nát như cám!
Quận
Châu run sợ, phải mở cửa. Quân lính chen vai xông vào.
Quận Huy
chống kiếm lên voi, cưỡi ra giữa sân phủ, trỏ ba quân quát:
- Bớ ba
quân! các người phải đâu về đấy ngay, không được làm ầm ỹ, ta sẽ chém đầu chúng
mày!
Quân
lính vốn sợ Huy, thấy hắn cưỡi voi, lại càng khiếp đảm, đều ngồi sụp xuống nghe
lệnh, không dám lên tiếng, cũng không dám xông tới.
Nhưng
chỉ được một lát, bao nhiêu người đang ngồi lại nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào
trước đầu voi. Voi vươn đầu ra húc, quân lính chạy quanh chân voi để tránh cặp
ngà. Rồi họ lấy khí giới đâm chém túi bụi, có kẻ cạy gạch ngói ở phủ ném ra tới
tấp, voi co vòi mà gầm không dám húc nữa. Quận Huy giương cung định bắn, chẳng
may cung bị đứt dây; lại vớ lấy súng để nạp đạn, nhưng mồi lửa tịt không cháy.
Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém.
Voi bước lùi trở lại. Quân lính xúm đến vây kín dưới chân voi. Quận Huy lấy mũi
lao phóng xuống, làm bị thương vài người. Quân lính hăng máu kéo đến càng đông.
Lại có một toán ở cửa Tuyên-vũ xông vào, đứng chắn ở đằng sau voi, khiến voi
phải đứng im không thể nhúc nhích. Họ bèn dùng câu liêm móc cổ quận Huy kéo
xuống, rồi đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ.
Sau đó,
họ phanh bụng quận Huy lấy gan ăn sống, còn thây chết thì lôi ra ngoài cửa Tuyên-vũ.
Em ruột
quận Huy là Lý vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến, vội vàng chạy bổ vào phủ
đường. Nhưng mới đi đến cửa chùa Báo Thiên thì bị quân lính quát đứng lại, rồi
họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thuỷ Quân (Hồ
Hoàn Kiếm bây giờ).
Anh em
quận Huy chết rồi, quân lính vui mừng reo hò như sấm. Họ kéo nhau vào nhà Tả
Xuyên phò thế tử Tông lên phủ đường. Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm chung
quanh, gào lên vui sướng:
- Xin
ngồi cao thêm nữa để thiên hạ đều được thấy mặt rồng, cho thoả lòng vui của mọi
người!
Trong
lúc gấp vội không có kỷ sập, họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế,
đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ lại nâng
bổng chiếc mâm lên trên đầu mà đội; đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại
nâng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước
pho tượng phật. Mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lại vỗ tay reo hò
vang lên một chặp. Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau
kéo đến xem chúa, sân phủ đông như họp chợ.
Quận
Châu phải đem ngọn cờ đuôi báo phất ở giữa sân, rồi khua chiêng thu quân, mãi
đến hơn một trống canh mới yên.
Mấy hôm
trước, ngày nào trời cũng u ám. Hôm ấy tự dưng bầu trời lại trong sáng, mọi
người đều cho đó là cái điềm thái bình, thánh chúa. Kẻ qua người lại trên đường
đều hý hửng nói: "Chúa ta lập rồi!". Thế rồi họ truyền miệng nhau mà
reo mừng, kinh kỳ hôm ấy vì thế phải nghỉ phiên chợ.
Quân
lính đặt chiếc sập ngự ở ngoài phủ đường, các quan đều dìu thế tử lên ngôi
chúa. Cuộc lễ mừng xong rồi, các quan mới đem đạo sắc của nhà vua và tờ chỉ của
thánh mẫu dụ ba quân về việc phò lập chúa, tới dán ở cửa các. Những tờ ấy đều
là tạm thời thảo ra, nhưng được gọi là mệnh lệnh định sẵn. Hôm ấy, việc biến
xảy ra, Thị Huệ khiếp sợ vô cùng, phải thay đổi quần áo, nấp ở hậu cung. Các
gia thần của vị chúa nhỏ cũng đều chạy trốn hết cả. Riêng quận Diễm bế chúa
lánh đi ở một nơi khác, từ sớm đến tối không được miếng gì vào mồm, chúa gào
khóc nheo nhéo. Quận Diễm phải doạ: "Không được khóc to, kẻo quân lính
nghe tiếng, chúng nó kéo đến đánh chết!" Chúa nhỏ sợ hãi, mới không khóc
nữa.
Đến đêm,
thánh mẫu sai người đi tìm Thị Huệ cùng chúa nhỏ về cung, cho thay quần áo và
ăn uống. Chúa nhỏ vì quá sợ hãi không ăn uống gì được, bệnh càng thêm nguy
kịch.
Chúa mới
(Trịnh Tông) bèn treo giải hễ người nào chữa khỏi bệnh cho chúa nhỏ, thì thưởng
một trăm lạng vàng và phong cho tước hầu. Nhưng rốt cuộc không có ai nhận chữa.
Hôm sau,
chúa mới ra lệnh cho quan tham tụng Tứ-xuyên hầu, thay chúa nhỏ làm một tờ khải
xin tự lui xuống làm vương đệ. Tờ khải làm xong, chúa mới giao xuống cho các
đình thần bàn bạc. Các quan xin giáng phong chúa nhỏ làm Cung quốc công. Được
ít lâu sau thì Cung quốc công qua đời.
Lại nói,
bọn quân lính tuy đã giết chết anh em quận Huy, nhưng cơn giận vẫn chưa hả. Phò
lập thế tử Tông lên ngôi chúa xong xuôi, họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa
xin phá tất cả dinh cơ của quận Huy. Chúa ưng lời ngay. Ba quân liền reo lớn:
- Quan
cứ lệnh, lính cứ truyền, mau đi phá huỷ dinh quận Huy anh em ơi! Chỉ trong chốc
lát, nhà cửa của quận Huy bị phá tan tành, một mảnh ngói cũng không còn. Rồi
bọn quân lính càng thừa thế hoành hành. Phàm các quan văn võ hễ ai thuộc bè
đảng của Thị Huệ và quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm
Canh-tý (việc Tông mưu cướp ngôi khi trước) những viên quan hầu mọi ngày có
tính nghiệt ngã mà quân lính vẫn ghét, lúc ấy cũng đều bị phá nhà hàng loạt và
bị lùng bắt đem giết chết. Luôn trong mấy ngày, họ làm náo động cả kinh thành.
Tông phải hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi.
Sau,
chúa phải sai người dò xét trong kinh kỳ, lén đến chỗ họ tụ họp, rồi bắt phứa
lấy một người thường dân ở gần đó đem chém để ra oai. Từ đó về sau việc phá
phách nhà cửa mới tạm ngừng, nhưng việc lùng bắt người để giết thì vẫn chưa
dứt.
Lại nói,
trong bọn thủ hạ của quận Huy có một người tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, quê ở làng
Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An.
Cha
Chỉnh nhờ nghề buôn bán, trở nên giàu sang, gia tư kể có hàng vạn, thường vẫn ở
dưới cửa quận Việp.
Chỉnh,
phong tư đẹp đẽ, trí tuệ hơn người. Lúc nhỏ theo học nho, đã đọc khắp các kinh
sử, năm mười sáu tuổi đỗ hương cống; đã từng theo cha nương nhờ dưới cửa nhà
quận Việp.
Chỉnh
giỏi về thơ văn quốc âm. Vì mến công nghiệp của Quách Tử Nghi nhà Đường, Chỉnh
có làm bài Quách lệnh công phú bằng chữ nôm, được nhiều người trong nước truyền
tụng.
Tính
Chỉnh lại hào hiệp, giao du khắp thiên hạ. Trong nhà Chỉnh lúc nào cũng có vài
chục người khách, khi ngâm thơ, khi uống rượu, tuỳ theo sự hứng thú mà thù tạc
với nhau. Nhà Chỉnh nuôi mười mấy ca nhi và vũ nữ; Chỉnh tự tay soạn ra bài
hát, phổ vào đàn sáo, ngày đêm bắt họ ca múa để mua vui.
Vì thế,
Chỉnh được xem là tay phong lưu bậc nhất ở đất Trường An (tức là kinh đô Thăng
Long. Nguyên là tên kinh đô nhà Hán, sau thành danh từ chung chỉ kinh đô) hồi
ấy.
Ngoài
ra, Chỉnh lại còn có tài khôi hài, mỗi khi bông đùa ai cũng phải phục.
ở trong
nhà quận Việp hơn mười năm, Chỉnh mới được cử ra coi đội Thiện-tiểu; có kẻ thấy
vậy chê rằng: "Sao nhỏ thế?". Chỉnh liền đáp lại ngay: "Chớ cho
điều thiện nhỏ mà không làm!" (câu này rút trong bài di chúc của Lưu Bị
đời Tam quốc để lại cho con. Nguyên văn là: "Vật dĩ thiện tiểu nhi bất
vi", ở đây Chỉnh mượn hai chữ Thiện-tiểu của Lưu Bị để chỉ đội Thiện-tiểu
với ý khôi hài). Cả đám đều bật cười. Tài bông đùa của Chỉnh đại để là như vậy.
Khi quận Việp vào đánh phương Nam, Chỉnh được đi theo giúp việc bút nghiên.
Thấy Chỉnh có tài, quận Việp hết sức yêu mến.
Sau khi
quận Việp qua đời, có kẻ tố cáo rằng trong lúc làm việc quan, Chỉnh đã đánh cắp
vàng bạc của công kể đến hàng trăm vạn. Việc ấy liên luỵ đến cả quận Huy. Chỉnh
bị tống giam vào ngục và bị tra tấn đến gần chết, nhưng vẫn nhất định không
xưng. Nhờ vậy Chỉnh mới được vô tội. Còn quận Huy thấy thế thì lại càng trọng
Chỉnh bội phần.
Lúc vào
làm trấn thủ Nghệ An, quận Huy dùng Chỉnh làm hữu tham quân; thường giao cho
Chỉnh luyện tập thuỷ thủ để chống giặc biển. Chẳng bao lâu Chỉnh trở thành vô
địch trong nghề thuỷ chiến. Ngoài biển, mọi người thường gọi Chỉnh là "con
hải ưng".
Đến hồi
quận Huy đổi về trấn Sơn Nam, Chỉnh cũng được đổi sang cai quản đội Tiền-trung,
đem quân đi tuần mặt biển. Rồi ít lâu sau, Chỉnh lại được đổi về trông coi cơ
Tiền-ninh ở trấn Nghệ An.
Ngôi mả
tổ nhà Chỉnh nằm ở trên núi Côn Bằng. Về thế đất ấy, sách địa lý nói rằng:
"Ngàn vạn con rồng đuổi ngàn vạn con hổ; xưng bá xưng vương đều được như
ý". Nhân đó Chỉnh mới tự đặt hiệu là Bằng lĩnh hầu.
Thời kỳ
còn ở dưới trướng quận Việp, Chỉnh có một người quen cùng làng tên là Nguyễn
Viết Tuyển, thi võ đỗ biền sinh. Tuyển vốn có sức lực hơn người, lại là tay can
đảm, mưu lược, nhờ Chỉnh tiến cử lên quận Việp, nên Tuyển được coi trung đội
của đạo Hậu-kiên đóng ở trấn Sơn Nam.
Đến lúc
này nghe tin trong kinh có biến, Tuyển vội vã vượt biển về quê.
Giương
buồm ra đi từ ngày 26 đến ngày 28 thì đến làng Đông Hải. Tuyển
đem hết
mọi việc ở đường ngoài kể lại với Chỉnh. Chỉnh bối rối, hoảng hốt,
không
biết nên làm thế nào.
Thật là:
Sóng nổi đất bằng ai chẳng sợ,
Nắng thiêu núi tuyết khó nương nhờ
Chưa
biết Chỉnh tính liệu như thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.
Sách
Thông giám chép: Đời Đường, có người bảo Trương Thoàn nên tới nhà Dương Quốc
Trung. Thoàn nói: "Các người tựa vào Dương hữu tướng như tựa núi Thái Sơn;
tôi thì cho đó là trái núi băng. Hễ mặt trời lên thì các người hết chỗ
dựa". Câu này lấy ý ở điển ấy.
Hồi 3
Dương nguyên cữu bàn chém kiêu binh,
Nguyễn quốc sư mưu trừ nội loạn.
Lại nói,
Nguyễn Hữu Chỉnh nghe lời Viết Tuyển, bị một phen giật mình sợ hãi, nhưng rồi
lại cố trấn tĩnh ngay và giữ kín chuyện đó không để lộ cho ai biết, chỉ bí mật
dặn vợ mấy điều, rồi đi thẳng đến trấn sở Doanh cầu để bàn với Dao trung hầu
[tức Vũ Tá Dao, người huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh (Nghệ Tĩnh)].
Dao
trung hầu nguyên là em rể quận Việp, hiện làm trấn thủ Nghệ An, nghe lời Chỉnh nói,
sợ lắm, liền hỏi mưu kế nên như thế nào. Chỉnh nói:
- Trấn
này giáp liền trấn Thuận Hoá, hiện nay phó tướng Phú Xuân là Thể quận công, đồn
thủ Động Hải là Khôi thọ hầu (Thể quận công tên là Hoàng Đình Thể. Khôi Thọ hầu
tên là Khôi Thọ), đều là môn đồ của cụ quận Việp; với chúng ta cũng là những
người cùng thuyền. Quan lớn nên viết thư kín bảo quận Thể tìm cách giết viên
đại tướng Phú Xuân, chiếm lấy thành đó, rồi kíp cho người ra dụ Khôi Thọ. Khôi
Thọ thế nào cũng đem cả thành Động Hải mà hưởng ứng với ta. Còn ở đây, quan lớn
cứ việc giữ lấy trấn này để làm cái thế môi răng với hai nơi ấy. Rồi ngài thu
dùng hào kiệt, chiêu mộ thổ binh, chặn đường Hoàng Mai và đóng đồn lớn ở vùng
Quỳnh Lưu để làm kế cố thủ. Còn về việc phòng giữ mặt biển, tôi xin đảm đương.
Trấn này địa lợi có thể nương tựa, nhân tâm có thể trông cậy. Năm trước, quận
Siêu bị tội với đức Dụ tổ (tức Trịnh Giang) cũng giữ trấn này để chống lại nhà
chúa, cuối cùng đã thoát khỏi tai nạn. Huống chi sự thế ngày nay lại còn dễ
dàng hơn hồi quận Siêu, nếu ngài làm được như vậy, ấy là đã lấy được nửa thiên
hạ rồi. Chẳng những triều đình không làm gì nổi, mà ngài còn có thể giữ cõi yên
dân, ung dung ngồi nhìn sự thay đổi của thiên hạ. Như thế, chẳng những trước
mắt khỏi bị tai vạ mà về sau còn có thể lập được kỳ công nữa!
Dao
trung hầu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Kế của
ông quả thực là hay lắm. Nhưng tôi tự liệu tài sức không thể làm được như thế.
Xin ông nghĩ cho cách thứ hai nữa xem sao?
Chỉnh
đáp:
- Ngoài
kế ấy ra, chỉ còn một cách bỏ nước mà đi thôi!
- Nhưng
mà đi đâu? Chỉnh nói:
- Thiên
hạ vạn nước lo gì không có chỗ đi?
Rồi
Chỉnh ghé tai Dao trung hầu nói nhỏ mấy câu. Dao trung hầu nửa muốn nghe theo,
nửa lại mơ hồ chưa quyết, liền nói với Chỉnh: - Đó cũng là việc to lớn lắm, để
tôi nghĩ lại xem đã!
Chỉnh
nói:
- Bây
giờ sự biến chỉ trong chốc lát, đợi khi ngài nghĩ lại thì có lẽ cái lệnh tróc
nã đã tới nơi rồi. Vậy ngài hãy ở lại mà nghĩ, xin để cho tôi được tự tiện! Rồi
Chỉnh cáo từ ra về. Tới nhà, Chỉnh hỏi vợ biết mọi việc đã sửa soạn xong; bèn
nói là có lệnh của quan trấn thủ sai đi tuần tiễu mặt biển, rồi đưa hết người
nhà từ già đến trẻ và tất cả các thứ gia sản xuống thuyền. Mọi người trong nhà
đều không hiểu là chuyện gì.
Khi tất
cả đã ở trên thuyền rồi, Chỉnh mới gọi hơn ba trăm lính cơ do Chỉnh trông coi,
bảo họ đứng ở bờ sông, nói rõ ràng duyên cớ cho họ nghe, để lại cho mỗi tên
lính một quan tiền đen, rồi từ biệt họ. Đến tận lúc ấy, bọn lính mới hiểu công
việc của Chỉnh.
Thuyền
nhổ neo, Chỉnh cho bắn ba phát súng lớn, rồi sai chèo ra giữa dòng sông và kéo
buồm cho thuyền chạy thẳng ra biển.
Lại nói,
ba quân sau khi đã phò lập được thế tử Tông lên ngôi chúa, họ cậy vào công đó
sinh ra kiêu căng. Hàng ngày họ tụ họp để cùng nhau bàn việc triều đình. Thường
khi họ viết giấy đưa vào trong triều, nói việc này nên để, việc kia nên đổi.
Nhiều khi những việc vô lý họ cũng bắt buộc triều đình phải làm. Chẳng những
thế họ còn đòi hỏi những ơn này ơn khác, không biết thế nào là đủ. Triều đình
hễ có ai bàn chuyện phải chăng, thì họ lấy việc phá nhà, đánh giết ra để hăm
doạ. Những lúc các quan xử kiện, họ cũng nhúng tay vào, hoặc nhận bên nguyên là
người họ, hoặc nhận bên bị là người quen, rồi ép các quan phải đổi trắng thay
đen. Còn dân chúng trong vùng họ đóng có kiện cáo gì, thì họ tự ý đòi bắt và xử
đoán lấy, không cần gì đến quan tư. Các quan đều phải nhịn hơi nuốt tiếng,
không dám động chạm đến họ. Trong cung hễ động làm việc gì bất kể lớn nhỏ, họ
cũng dòm nom bàn tán; hoặc bẻ việc này sao làm thế kia, hoặc hỏi việc kia sao
làm thế này. Chúa và Dương thái phi cũng tự thấy bị bó buộc quá, không thể chịu
nổi.
Triều
đình bàn nên xét công ban thưởng, để tỏ rõ sự đền ơn, khiến cho họ đều được mãn
nguyện; rồi sau đó sẽ dùng phép vua mà trừng trị dần dần. Chúa cho là phải, bèn
sai các quan bàn định về công giúp đỡ tôn phò nhà chúa. Phong cho Bằng Vũ là
Suy trung dực vận công thần, tước hầu, coi đội quân chầu chực ở nội cung. Quận
Viêm, quận Hoàn cùng bọn Nguyễn Kiêm, Gia Thọ, Dự Vũ đều được phong làm Tuyên
lực công thần và theo thứ bực khác nhau, đều được thăng chức tất cả. Riêng ba
chục người nhóm họp ở chùa Khán-sơn lại còn được ghi tên vào sổ trung nghĩa và
cho thăng thưởng thêm. Ngoài ra, các quân lính thuỷ, bộ, trong, ngoài đều được
thăng chức một lần, đồng thời được ban tiền thưởng tuỳ theo công trạng nhiều
hay ít. Triều đình lại cấp cho họ những đạo sắc bỏ trống chỗ đề tên người, họ
có thể nhượng lại cho kẻ khác mà lấy tiền để hưởng được ơn huệ thực sự.
Sau khi
quân lý đã nhận thưởng đâu vào đấy, chúa bèn dụ họ ai nấy đều nên tuân theo
pháp luật để cùng vui hưởng thái bình.
Bấy giờ,
quân lính liền răn bảo nhau rằng:
"Cánh
mình đã phò lập ông ấy làm chúa, thì cũng đừng nên quấy nhiễu quá để cho ông ấy
được biết cái thú vui làm chúa. Rồi xem sau này dần dần thuận cảnh ông ấy cư xử
ra sao? Nếu ông ấy càn rỡ quá đáng, thì lúc bấy giờ sẽ liệu cách mà trừng trị.
Chúng mình đằng nào cũng không mất quyền làm lính kia mà!".
Rồi từ
đó, họ cũng bớt làm bậy.
Chúa
được yên ổn đôi chút, liền đưa những người thân tín cũ vào các chỗ trọng yếu.
Lấy tả tư giảng Nguyễn Khản làm tham tụng; cậu cả là Khuông thọ hầu Dương
Khuông làm quyền phủ sự.
Nguyễn
Khản người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, là con Xuân quận công Nguyễn
Nghiễm. Khản sinh ra là một trang phong lưu công tử, thi đỗ rất sớm, theo phò
Thịnh vương từ lúc chưa lên ngôi chúa, được vương rất đỗi yêu mến. Kịp đến khi
vương lên ngôi, Khản lại càng được tin dùng, được ra vào trong cung cấm, y như
các viên nội giám.
Tính
Khản hào hoa, trong lâu đài không mấy khi dứt tiếng sênh ca, hoặc tiếng ngâm
thơ, đánh đàn để mua vui. Người ta thường xem Khản là bậc phong lưu đại thần.
Tại đình Kim-âu nơi Khản ở, có đủ cả nước, non, trúc, đá, cảnh trí hết sức thú
vị. Thịnh vương hay ngự chơi nhà Khản, thường ban thưởng rất nhiều.
Trước
Khản làm tả thị lang sung chức bồi tụng, với Xuân quận công cùng ở trong chính
phủ. Sự yêu quý của chúa đối với Khản hồi ấy, thật là có một không hai trong
hàng các quan văn võ.
Sau đó,
Khản được đổi làm trấn thủ Sơn Tây và kiêm cả trấn thủ Hưng Hoá. Đến khi xảy ra
vụ án năm Canh tý, tội Khản đáng phải chết, nhưng Thịnh vương nghĩ thương tình,
đặc cách cho giảm nhẹ, chỉ bắt giam ở nhà quận Châu. Hồi ấy quận Huy và Thị Huệ
cũng muốn tìm cớ đưa Khản đến chỗ chết. Nhưng Khản biết ý đã làm một bài Tự
tình khúc bằng chữ nôm, kể hết những sự đãi ngộ quý mến ngày xưa, rồi nhờ người
lén đưa giấu cho chúa. Chúa xem bài đó, động lòng thương; nhờ vậy Khản mới
thoát chết.
Kịp đến
khi thế tử Tông lên ngôi, Khản lại được phục chức về ban cũ, rồi thăng chức
thượng thư bộ Lại, tước Tán quận công.
Nguyên
ngày đi đánh dẹp phương Nam, Khản làm tham lĩnh trấn Nghệ An, kiêm trông coi về
lương hướng của quân lính; Khản có dung túng cho người nhà quấy nhiễu xứ ấy.
Nên bây giờ thấy Khản được phục chức, thì bọn lính xứ Nghệ lại lôi cái oán cũ
ấy ra. Họ nhao nhao bảo nhau: "Lão ấy là người xa xỉ, phóng túng, năm xưa
đã từng gieo rắc bao nhiêu tội ác cho trấn ta, ta kiện nhưng không được xử. Nay
lão ấy lại làm quốc sư, rồi nếu để lão ấy lại làm tể tướng nữa thì dân chịu sao
nổi? Chi bằng chúng ta mỗi đứa cho một quả đấm cho xong đời lão ấy đi!
Nhưng
rồi trong bọn lại có kẻ đứng ra khuyên giải, nên Khản mới được vô sự.
Dương
Khuông là em ruột Dương thái phi; người rất dung tục bỉ ổi, không có tài năng
gì hết. Vụ án năm Canh tý, tôi tớ, họ hàng, bè đảng nhà thế tử Tông đều bị tai
vạ, riêng Khuông nhờ ngu si mà được hưởng phúc thái bình. Khi thế tử mới lên
ngôi, Khuông liền được giao cho trông nom cơ Trung uy, cùng với Dương thái phi
nấp bên trong mà định đoạt mọi việc. Quân lính đã từng nhạo báng rằng:
"Cậu ấy thì có tài cán gì? Chẳng qua chỉ nhờ vào cái bóng của người mặc
váy mà được như thế. Nay vừa khỏi vòng cùng khốn, đã muốn vội giàu sang. Cũng
ví như kẻ bị đói đã lâu, lúc gặp cơm thì ăn ngốn ăn ngấu rồi cũng đến nứt ruột
ra mà thôi!".
Đến bây
giờ thấy Khản và Khuông cùng vào chính phủ, lòng họ đều không phục. Tuy vậy,
bọn họ cũng rất giảo quyệt, kẻ này oán nhưng kẻ kia lại ơn, sau lưng họ chê mà
trước mặt họ lại khen, chẳng còn hiểu đầu đuôi ra sao? Vả chăng những nhà có
chức quyền trọng yếu thường thường chỉ nghe lời nói chuyện thái bình mà không
nghe lời nói chuyện nguy biến. Việc gì cũng muốn mạnh bạo tiến tới, nhưng không
biết ngoảnh nhìn mối lo về sau. Họ chỉ muốn nóng vội làm cho chóng được thái
bình. Cho nên mới có những mưu kế sâu sắc, những lời bàn bạc kín đáo, mà việc
cần kíp thứ nhất là đè nén bọn kiêu binh.
Tình cờ
lúc đó, trong đám kiêu binh có bốn người lính giả lấy danh nghĩa đồng đội, ức
hiếp người lái buôn Đông Hà để mượn thuyền. Việc này bị người đội trưởng phát
giác và triều đình đem chém cả bốn. Bọn kiêu binh đều oán là hình phạt quá lạm.
Nhưng vì họ đã trót tự mình phát giác ra, nên cuối cùng cũng đành im.
Khản và
Khuông thấy đám lính im lặng, cho là uy quyền đã được lập lại; hai người mừng
rỡ bảo nhau: "Nhà nước đã sẵn có pháp luật. Nếu ta cứ giữ vững pháp luật như
thế vài lần, thì dù chúng có kiêu cũng chẳng kiêu được!".
Bấy giờ
có viên tri huyện Đông Thành là Mai Doãn Khuê, người làng An Toàn, huyện La
Sơn. Khuê vốn là tay giảo quyệt ghê gớm trong trấn Nghệ An. Việc quân lính
ngông nghênh làm bậy, phần nhiều đều do hắn xui giục. Vì muốn tâng công với
triều đình, Khuê bèn mật báo với Tán quận công Nguyễn Khản rằng:
- Triều
đình cho rằng kiêu binh có thể dẹp được, nhưng không biết rằng hoạ lớn sắp xảy
ra không thể nào ngăn nổi. Tôi nghe bọn lính bàn nhau: Hoàng tự tôn (Hoàng tự
tôn là cháu nối nghiệp của hoàng thượng, chỉ Lê Duy Kỳ, tức Chiêu-thống sau
này) nguyên trước do họ đón về, nay hoàng thượng tuổi già, mà hoàng tự tôn cũng
đã khôn lớn, họ muốn họp nhau tâu xin hoàng thượng nhường ngôi cho cháu. Khiến
cho ngôi vua ngôi chúa đều do tay quân lính dựng lên, để công của họ càng to
thêm. Trong bọn họ lại có một số người cậy mình có công rồi tỏ ý oán vọng, họ
muốn phò cho nhà vua thống nhất thiên hạ, để cướp lại quyền ở nhà chúa. Nếu kế
ấy mà thành được, tôi e các ngài sẽ không còn đất mà gửi thân nữa.
Tán quận
công đem lời ấy tâu lại với chúa. Chúa sai Doãn Khuê phát giác chuyện đó.
Khuê bèn
vu cáo cho viên câu kê Siêu thọ bá, cháu gọi Tứ xuyên hầu bằng cậu, cũng có dự
mưu.
Việc ấy
được giao xuống tra xét thì không thấy bằng chứng gì hết. Nhưng triều đình vẫn
cho là người tố cáo nói đúng, bèn đưa Siêu Thọ về giam ở quê quán.
Còn Doãn
Khuê vì có công phát giác, được phong làm Khuê lĩnh bá, cho cai quản toán lính
chầu hầu ở nội điện. Khuê lại còn được kiêm chức giảng quan cho hoàng tự tôn và
được ở luôn trong nội điện để dò xét công việc của ông hoàng đó.
Lại nói,
hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ (trước tên là Duy Khiêm, hoặc Tư Khiêm), là con thái tử
Lê Duy Vỹ đã mất.
Thái tử
xưa vóc người đẹp đẽ, tư chất thông minh. Thấy nhà vua bị mất quyền, thái tử
căm tức lắm, thường vẫn khảng khái nuôi chí thu phục lại quyền bính. Thái tử
lại từng xem khắp kinh sử, yêu mến các nho sinh; nên hào kiệt trong thiên hạ
không ai là không ngưỡng vọng. Trong lúc Thịnh vương còn là thế tử, chỉ vì tranh
giành trên dưới mà vương có bụng ghét thái tử.
Khi ấy
chính phi của Ân vương không có con trai, chỉ sinh được một con gái tức là công
chúa Tiên Dung. Tiên Dung được vương hết sức yêu chiều. Năm nàng mới mười tuổi,
chính phi xin với vương gả cho thái tử để sau này nàng làm hoàng hậu. Vương
bằng lòng.
Một hôm
thái tử và thế tử cùng vào thăm Ân vương; vương mời ăn cơm và để con rể với con
trai cùng ngồi một mâm. Chính phi thấy vậy liền nói rằng: - Sao chúa lại được
cùng ăn với vua?
Rồi bà
ta bắt ngồi riêng ra mỗi người một nơi. Thế tử giận tái mặt lại, nhưng vẫn cắn
răng không dám nói. Lúc tan tiệc trở ra, thế tử bảo với thái tử:
- Hai
chúng ta sẽ phải một người sống, một người chết. Vua ấy cũng không nên đứng
cùng với chúa này!
Đến khi
Thịnh vương lên ngôi chúa, liền lập mưu với gia thần là viên quan hoạn Thiều
quận công Nguyễn Kim Đĩnh (chính tên là Phạm Huy Đĩnh, người xã Cao Mỗ, nay là
xã Kim Bôi, huyện Tiên Hưng, Thái Bình), vu cho thái tử Vỹ thông dâm với cung
nữ của Ân vương; rồi đem tội đó tâu lên hoàng thượng để bắt thái tử bỏ ngục.
Trước
đó, trong giếng Tam Sơn ở mé sau điện bỗng có tiếng nổ như sấm. Thái tử dùng
thuật số để bói, biết mình sắp gặp nạn, bèn đến nói với hoàng thượng. Hoàng
thượng cũng lấy làm lo, vẫn phải luôn luôn cầu nguyện cho con.
Kịp tới
ngày bị bắt, thái tử biết tai nạn xảy ra đến nơi, liền vào ẩn ở trong điện ngủ
của hoàng thượng.
Quận
Thiều dẫn toán lính trước tiên xông thẳng vào Đông cung, định bắt thái tử đã
rồi mới tâu vua, nhưng tìm khắp cả Đông-cung không thấy. Quận Thiều liền vào
thẳng trong điện, kể tội thái tử cho vua nghe, rồi nói rằng:
- Tôi
nghe nói thái tử náu ở chỗ ngủ của bệ hạ, xin hãy bắt giao cho tôi. Hoàng
thượng ôm mãi lấy thái tử không nỡ rời ra. Quận Thiều cũng cứ quỳ mãi ở giữa
sân điện.
Thái tử
tự biết mình không thể thoát được, liền lạy trước mặt hoàng thượng, rồi ra cho
quân lính trói.
Sau khi
giải về phủ chúa, thái tử bị truất xuống làm dân thường và bị giam vào ngục.
Rồi Thịnh vương ép hoàng thượng lấy người con thứ tư là Lê Duy Cận làm hoàng
thái tử.
Được ít
lâu sau, quận Thiều lại sai tay chân vu cáo cho hai nho sinh thi đỗ ở làng Đan
Luân là Nguyễn Huy Sưởng [chính là Vũ Bá Sưởng người làng Đan Luân, nay thuộc
Bình Giang, Hải Dương (Hải Hưng)] và Lương Giản (người xã Tào Sơn, huyện Ngọc
Sơn, nay là Tĩnh Gia, Thanh Hoá), rằng hai người này âm mưu cướp thái tử ra
khỏi ngục để cùng dấy quân làm loạn. Việc này được đưa xuống các quan bàn bạc,
và bắt Sưởng để tra xét. Giản khi ấy đã kịp bỏ trốn. Còn Sưởng bị đánh đau quá,
không chịu nổi roi vọt, đành phải nhận liều. Thế là thái tử phải ghép vào tội
thắt cổ.
Ngày
hành hình, bầu trời tự nhiên tối tăm, giữa ban ngày mà chỉ cách nhau gang tấc
cũng không trông rõ. Chừng hơn một khắc mới lại sáng sủa. Già, trẻ, trai, gái
trong thiên hạ, không ai là không rơi nước mắt. Họ đều cho rằng đó là việc trái
ngược nhất, bi thảm nhất từ xưa đến nay. Hôm ấy nhằm ngày 20 tháng chạp, năm
Tân-mão, niên hiệu Cảnh-hưng (1771).
Sau khi
giết thái tử, Thịnh vương bắt đầu có chí thống nhất đất nước, định bắt cả ba
con của thái tử giam vào một nơi. Một hôm, chúa tắm gội ăn chay, rồi ngự ra hồ
Tây để cầu thần báo mộng. Đang đi, chợt thấy trước mặt có một cái kiệu, trên
kiệu có một người ngồi chĩnh chện, nhìn kỹ té ra đó là thái tử Vỹ. Chúa truyền
hỏi quân lính có ai trông thấy xe kiệu gì ở trước mặt không. Quân lính đều nói
không thấy. Chúa lo lắm, liền sai quay ngay về cung. Đêm ấy, chúa đang nằm
trong màn, bỗng thấy một người đầu đội khăn hồng, mình vận áo đỏ, tay cầm một
chiếc mái chèo, vạch màn ra rồi đứng ở đầu giường trừng mắt nhìn mình. Chúa vội
hỏi ai thì người ấy đáp rằng:
- Ta là
Duy Vĩ đây!
Chúa cả
sợ, bấy giờ mới biết đó là linh hồn của thái tử Vỹ.
Nguyên
khi thái tử bị bắt thì một người đàn bà trong cung bế các con của thái tử chạy
trốn về phía tây, vào ngủ nhờ nhà một người dân ở làng Dịch Vọng, huyện Từ
Liêm.
Người
dân này đêm trước đã mơ thấy có người bảo rằng: "Mày phải quét rửa nhà
cửa, sân sướng cho sạch sẽ, thiên tử và thái hậu sắp sửa tới nơi?" Tỉnh dậy
hắn ta nghĩ bụng: "Mình là nhà dân, đâu được cái may mắn có các bậc chí
tôn ngự tới?" Rồi suốt ngày hôm đó, hắn ta chắp tay đứng đợi ở ngoài cổng;
nhưng đợi mãi mà vẫn chả thấy một ai. Đến xẩm tối, mới thấy một người đàn bà
bồng con xăm xăm tiến đến trước cổng xin ngủ nhờ; hắn ta liền đón ngay vào
trong nhà và mời ngồi lên chiếc phản cao nhất. Sau khi đã kể qua câu chuyện
chiêm bao cho người đàn bà nghe, hắn ta lại nói:
- Cứ
theo giấc mộng đêm qua của tôi như thế, thì bà và các cậu đây hẳn phải là dòng
dõi quí tộc; nếu không phải thân thích nhà vua, ắt cũng là họ hàng nhà chúa!
Người
đàn bà đó chính là cung phi họ Nguyễn, nghe nói, vội gạt đi mà rằng:
- Câu
chuyện chiêm bao, có gì là bằng cứ. Bác đừng nói nhảm, đó là việc chết người
chứ không phải chuyện chơi đâu!
Ngay sớm
hôm sau, mấy mẹ con lại từ giã chủ nhà mà ra đi. Nhưng chẳng bao lâu, bị người
ta dò theo tung tích bắt được, đưa về an trí ở trấn Sơn Tây, rồi lại bị giải về
kinh đô và giam ở ngục đề lĩnh.
Kịp đến
khi quân lính phò thế tử Tông làm chúa, thì hoàng tôn (Lê Duy Kỳ) đã 17 tuổi.
Nhâ dịp ấy, quân lính bèn mang luôn kiệu tới nhà giam đón hoàng tôn về điện.
Hoàng
tôn mặt rồng mắt phượng, tiếng nói như chuông, quân lính thấy vậy đều khen:
"Thật đúng là bậc thiên tử"
Bà nội
thế tử Tông xưa nay vốn thân với thái tử Lê Duy Cận. Thấy hoàng tôn về, bà ta
sợ thái tử Cận mất ngôi, liền sai người giả vờ mời hoàng tôn vào chầu ở cung
Huỳnh, để lừa bắt hoàng tôn đem dìm xuống sông Nhĩ Hà. Lúc hoàng tôn vào cung,
bà ta cho tay chân bức hoàng tôn phải nằm lên cáng rồi bí mật khiêng đi.
Khi qua
hồ Sen. hoàng tôn nằm trong cáng kêu gào ầm ĩ: lính canh nghe tiếng, quát phải
đứng lại. Phu cáng và tên đi theo bỏ chạy tứ tung, nhân đó hoàng tôn được thoát
nạn (theo Cương mục thì hơi khác; bà nội Tông sai hoạn quan Liêm Tăng ép Kỳ tới
chầu hầu, để bí mật giết chết. Kỳ chối không được, vừa khóc vừa đi. Do đó, quân
lính phát hiện được la hét đòi tra ra kẻ thủ mưu. Họ tìm Liêm Tăng không thấy,
có ý ngờ cho Cận chủ mưu). Bấy giờ ba quân ồn ào nhốn nháo, muốn tra ra kẻ mưu
hại hoàng tôn để bắt mà giết đi.
Thái tử
Cận nghe được chuyện đó, liền vào phủ hầu chúa.
Thấy
kiệu thái tử để ở ngoài cửa phủ, quân lính đều tức giận nói: "Ngôi vua lại
có thể cầu may mà được à? Để chi cái của này để hắn tiện đường chạy chọt làm
những việc bậy bạ!"
Rồi họ
phá tan chiếc kiệu. Thái tử Cận hoảng sợ phải ăn mặc giả làm thường dân mà lẻn
về cung.
Chúa
biết việc đó là do ở nơi bà mình gây ra, bèn dụ quân lính không nên làm ồn ào.
Rồi lập tức sai triều đình bàn định việc dựng hoàng tôn Kỳ lên ngôi đông cung,
cho được yên lòng ba quân.
Chúa ép
thái tử Cận phải nhường ngôi và giáng phong làm Sùng nhượng công.
Thế là
hoàng tôn Lê Duy Kỳ được lên ngôi làm hoàng tự tôn. Hoàng thượng liền sai đặt
ra các giảng quan để trông nom việc học hành. Công phu dạy dỗ ấy, ngày tháng
thêm nhiều mãi. Do đó cái tiếng thánh hiền nhân hiếu của hoàng tôn được đồn
vang khắp cả trong ngoài. Cũng do đó mà quân lính mới có cái mưu tôn phò cho
hoàng tôn lên làm vua.
Đến khi
Doãn Khuê tố cáo, tuy tra xét không thấy có bằng chứng gì, nhưng cuối cùng chúa
cũng vẫn ngờ.
Một hôm,
quân lính họp nhau, đem việc đón rước hoàng tôn ở nhà giam ra tâu lên hoàng
thượng, để kể công và xin được ban ơn. Hoàng thượng cho ba quân vào lạy ở sân
điện Vạn-thọ, tuyên chỉ uý lạo họ. Rồi truyền cho viên tả phiên lại sai người
đánh cá hồ Sen lên, chọn lấy cá trắm làm gỏi thết đãi cả bọn. Sau đó mới từ từ
bàn đến cách thưởng công cho họ.
Lúc quân
lính ngồi dự yến tiệc ở trên điện, có kẻ chạy đi báo tin với chúa. Chúa cho đòi
ngay quốc sư Nguyễn Khản, quốc cữu Dương Khuông vào phủ và bảo:
- Cái
mưu mô tôn phò của bọn kiêu binh thật là giập không thể tắt được! Hiện giờ
chúng nó đang tụ họp trên điện nhà vua. Vậy ta nên làm thế nào? Quốc sư Nguyễn
Khản đáp:
- Xin
cho bắt mà giết đi!
Chúa bèn
sai viên đầu hiệu đội Nhưng-nhất là Triêm vũ hầu (tên là Nguyễn Triêm) đem đội
quân Phong-vân đến vây bắt.
Gã Triêm
vũ hầu này người làng Phú Hoa, huyện Yên Lãng, thi đỗ tạo sĩ, dáng người hùng
vĩ, có can đảm lại có sức khoẻ. Sau khi vâng mệnh chúa, Triêm vũ hầu liền xách
gươm đi thẳng ra ngoài cửa phủ, rồi tuốt gươm ra, lấy tay gại gại vào lưỡi gươm
mà nói: "Gươm sắc lắm! Gươm sắc lắm!
Chém
được đầu kiêu binh đây!". Tiếp đó gã dẫn quân xông thẳng lên trên điện,
vây lấy chỗ bọn kiêu binh đang tụ họp ăn uống.
Ba quân
đang mải mê chè chén, thấy có lính đến vây bắt thì đều hoảng hốt bỏ chạy tán
loạn. Triêm vũ hầu và đội quân Phong-vân đuổi bắt được bảy tên, đem giải về phủ
chúa.
Chúa lập
tức cho với các quan tới để bàn cách xử trí. Các quan tới đông đủ, đem cả bảy
tên ra tra hỏi. Bảy tên cứ thực tình khai hết, không có âm mưu gì khác cả. Các
quan họp bàn đều có ý che chở cho họ. Riêng nguyên cữu Dương Khuông lại quả
quyết mà rằng:
- Không
phải hỏi tội trạng nào cả! Chỉ cái thói hay tụ họp mà không chừa cũng đáng xử
chém rồi, còn phải bàn bạc làm gì nữa? Bọn chúng cứ cậy đông người mà ngông
nghênh, không thể một lúc giết cho hết được. Nhưng hễ đứa nào phạm tội thì
quyết không dung tha. Ví như cả bó đũa thì không thể nào bẻ gãy được, nhưng nếu
cứ rút riêng một hai chiếc ra mà bẻ, thì lâu dần rồi cũng phải gãy hết. Hôm nọ
chém bốn đứa đó, thế là chịu chết bốn đứa, có thấy chúng bắt đền được ai đâu?
Quốc sư Nguyễn Khản cũng nói thêm:
- Lời
bàn của quốc cữu thực là có lý. Các quan cứ nên theo luật mà thi hành. Các quan
bèn chiểu theo điều luật "vào trộm hoàng thành" mà xử cả bảy tên vào
tội bêu đầu.
Tờ khải
dâng lên, chúa sai đem tội phạm ra chém ngay hôm đó. Trong triều ngoài phố, ai
cũng lấy làm hể hả. Bữa ấy nhằm ngày 15 tháng thái tử năm Nhâm thìn, niên hiệu
Cảnh hưng (1772).
Sau vụ
bảy kiêu binh bị giết chết, ba quân thẩy đều đem lòng oán giận. Họ lại họp nhau
bàn bạc.
Một
người trong bọn nói:
- Ngày
nay được có triều đình này, khiến cho chúa tôi ngồi yên mà hưởng phú quí, đều
là do công sức của chúng mình cả. Thế mà, họ chẳng ơn thì chớ, lại còn cho là
kẻ thù, động một tí là bị đè nén. Nếu chúng ta cứ chần chừ nín nhịn mãi, khiến
cho cái mưu "bẻ đũa" của họ thành được, thì rồi bọn mình sẽ không còn
người nào sống sót đâu!
Một
người khác lại nói:
- Chúng
ta không biết bẻ, chỉ biết "đả" thôi! Mau mau mỗi người một đấm, đưa
ngay chúng đi theo quận Huy, xem chúng nó có còn bẻ được nữa hay không?
Rồi họ
hẹn nhau đến hôm sau, vào lúc tan chầu thì sẽ khởi sự.
Có kẻ
đem việc đó mật báo với các quan trong triều. Các quan nửa ngờ, nửa tin. Sớm
hôm sau, quốc cữu Dương Khuông và Triêm vũ hầu đi lén vào trong phủ. Còn quốc
sư Nguyễn Khản thì đóng cửa nằm nhà, không dám vào triều. Tan chầu, quân lính
chia nhau đi bủa vây các dinh thự. Vào nhà Dương Khuông và Triêm vũ hầu, không
thấy hai người, quân lính tức thì hò nhau phá nhà. Chỉ trong chốc lát, cả hai
dinh đó đều bị san thành đất bằng.
Riêng ở
dinh quốc sư Dương Khuông, có một thủ hạ là người khách phương Bắc (chỉ người
Trung Quốc lúc bấy giờ), vốn rất giỏi thuật đánh kiếm. Nghe tin có biến, hắn
vội tuốt gươm ra đứng giữ ở cổng. Quân lính nom bộ dạng người khách phương Bắc
ngờ ở trong còn nhiều tay kiếm khách khác, nên không dám vào. Nhưng lâu lâu, họ
thấy ra ra vào vào vẫn chỉ có một hắn ta; tức thì cả bọn liền sấn ngay vào sát
cổng. Người khách múa gươm ra đánh, chém bị thương vài người, quân lính kéo ùa
vào, vằm hắn ra nát như bùn. Rồi họ xông thẳng vào trong dinh; lúc ấy Khản đã
thay đổi quần áo, theo đường tắt chạy ra cửa ô Trường Bắn mà trốn đi rồi. Quân
lính lập tức phá tan dinh của Khản.
Chúa
nghe tin dinh thự của quốc sư Nguyễn Khản có người canh giữ, cho rằng Khản đã
phòng bị, chắc không việc gì; bèn sai một hiệu quân đến ngay đó để phân giải.
Nhưng lúc quan quân tới nơi thì Khản đã bỏ trốn, dinh thự đã bị phá gần hết.
Sau đó,
đám kiêu binh lại kéo về phủ bảo với chúa rằng:
- Quốc
sư mang quân ra ngoài làm loạn, xin chúa cho người đuổi theo! Chúa bất đắc dĩ
phải sai viên thị thần là thiêm tri binh phiên Thoan trung hầu đem quân đuổi
theo Khản; nhưng lại dặn ngầm là cứ đi từ từ để cho Khản chạy thoát. Thoan
trung hầu đuổi đến ô Cầu Giấy không theo kịp Khản, lại quay trở về.
Quân
lính giận Thoan trung hầu không chịu đem hết sức ra đuổi, liền kéo đến nhà phá
luôn nhà hắn ta.
Thoan
trung hầu cũng phải chạy trốn nốt.
Quân
lính không bắt được ba viên quan ấy, lấy làm căm tức lắm. Sau khi dò biết quốc
cữu Dương Khuông và Triêm vũ hầu lẩn trốn trong phủ chúa, họ bèn chai nhau chắn
kín cửa phủ, rồi cho một toán xông vào bên trong, đòi chúa phải đưa hai viên ấy
ra cho họ.
Chúa nói
dối rằng:
- Không
thấy ai trong này cả!
- Chúng
trốn vào phủ, đã có người trông thấy rõ ràng. Người ta còn nhớ cả giờ chúng đi
vào nữa, thế nhà chúa còn chối à? Xưa nay há lại có chuyện vua chúa chứa giặc ở
trong cung bao giờ?
Dương
thái phi vừa khóc vừa dỗ dành các quân lính rằng:
- Cái
thân goá bụa may nhờ có ba quân phò chúa mới được như thế này! Nay chỉ còn có
một đứa em, xin ba quân hãy tha mạng nó, để cho được trọn vẹn cái ơn xương
thịt.
Đám kiêu
binh thét lên:
- Tha
mạng cậu ấy à! Thế hôm nọ bảy mạng người chết, ai tha? Nếu còn cố giấu, cung
khuyết sẽ ra tro ngay lập tức, cái đó chắc cũng không hay ho gì! Thái phi bèn
ngồi sụp xuống đất, chắp hai tay lại vái lạy, van xin.
Các quân
lính lại nói:
- Không
nói chuyện với đàn bà. Chỉ hỏi nhà chúa thôi!
- Bức
bách nhau thế này, thà đừng lập làm chúa còn hơn! Quân lính nói:
- Tưởng
rằng muốn làm chúa nên mới lập, chớ nếu không muốn thì có ai ép? Một người nữa
hùa theo nói:
- Bẻm
mép thế! Thôi, hãy xuống khỏi bệ đi! Chúng tôi mời Thuỵ quận công đến là khắc
yên chuyện.
Chúa
hoảng sợ, không dám ho he gì nữa.
Lúc bấy
giờ đã sắp tối, bọn quân lính đều tản ra về, và họ còn nói thêm:
- Bắt
chúng nó cũng ví như bắt cá. Nước sâu thì cá còn lặn; đến mai tháo cho
cạn
nước, xem chúng nó có thể bay lên trời được không?
Đêm ấy,
kiêu binh canh giữ cửa phủ rất chặt chẽ.
Chúa bàn
với thái phi rằng:
- Khí
thế của chúng như vậy, không thể dùng lời nói suông mà giảng giải được đâu. Cần
phải mất nhiều của đấm mõm cho chúng nó, may ra mới xong, nếu không, thì phải
xoay kế khác...
Thái phi
đáp:
- Nghe
nói có tên Nhuyến Thọ, biện lại đội Nhưng-nhất là một đứa giảo quyệt, bọn kiêu
binh làm gì cũng phải hỏi mưu nó.
Sáng
mai, chúa bèn cho người ra dụ Thọ, ngỏ ý đút lót, bảo Thọ hễ nhận thu xếp việc
này, sẽ giao một vạn lạng bạc, ba vạn quan tiền, cho y mặc sức muốn làm gì thì
làm, không cần hỏi đến. Lại hứa thêm rằng: "Nếu làm xong việc, sẽ còn có
trọng thưởng nữa".
Nhuyến
Thọ trong bụng đã ưng, nhưng còn làm bộ khó khăn mà rằng:
- Bọn họ
muôn người muôn miệng, khó mà nói năng được với họ. Vả chăng, hễ đã ngỏ ý đút
lót thì thế nào họ cũng sinh ngờ vực. Rồi ngộ nhỡ lúc ấy lại có một vài người
bàn ngang vào nữa, làm cho cơn giận của họ bốc lên, thì lưng tôi phỏng chịu
được mấy đấm?
Người
của chúa sai đến vẫn cố kèo nài. Nhuyến Thọ ngần ngừ đáp:
- Nếu
vậy để tôi lựa chọn lấy mấy chục người hung hăng, táo tợn nhất, đem tình thực
ra bàn với họ, rồi bảo họ phụ hoạ thêm với tôi. Nhưng khi bàn bạc, giả sử mấy
chục người này có đòi thêm điều gì, thì tuỳ nhà chúa thương lượng lấy; tôi chỉ
xin đứng ra làm kẻ dàn xếp mà thôi. Còn như cái khoản tiền bạc công cộng kia,
cũng xin đợi đến lúc quân lính tập hợp đông đủ đã. Bấy giờ nhà chúa sẽ tự ngỏ
lời trước; tôi và mấy chục người này ở bên cạnh hùa thêm vào, như thế việc mới
có thể thành được!
Người ấy
về nói lại với chúa. Chúa bằng lòng, liền sai đưa riêng Nhuyến Thọ một ngàn
lạng bạc để hắn phân phát.
Gần
chiều, quân lính lại tụ họp và tiến sát vào tận trong phủ. Chúa và thái phi lại
phải ra dỗ dành. Bọn lính nói:
- Việc
gì mà phải lắm mồm! Cứ vào trong cửa cấm lùng khắp toà phủ, rồi túm búi tóc lôi
ra, hỏi hắn xem cái nắm đũa ấy còn có thể bẻ được mấy chiếc nữa?
Chúa
nói:
- Ba
quân làm như vậy thì có sướng gì, chẳng qua chỉ thêm bẩn tay mà thôi! Nay quả
nhân có chút quà mọn là một vạn lạng bạc, ba vạn quan tiền, xin đưa để khao
thưởng ba quân, mong ba quân hãy nghĩ lại mà tha thứ cho hai cái mạng nhỏ bé
đó!
Đám kiêu
binh đáp:
- Chúa
còn tiếc hai người đó, rồi sẽ thấy phủ đường cũng không giữ được đâu. Bọn tôi
cần gì số tiền bạc ấy!
Giữa lúc
họ đang nhao nhao, Nhuyến Thọ bỗng vượt lên phía trước và nói:
- Nhà
chúa là bề trên đã phải chịu nhũn như vậy; các anh em không nên ăn nói cạn tàu
ráo máng quá!
Tiếp đó
bọn mấy chục người kia cũng mỗi người một câu phụ hoạ thêm vào. Rút cục lính
tráng ai chẳng hám lợi, họ bèn dịu giọng mà rằng:
- Đã
thế, thì hãy tha cho em ruột thái phi. Còn Triêm vũ hầu là người giữa trời, bọn
tôi phải xin mỗi người một miếng thịt để nhắm rượu, rồi sẽ tan về ngay tức
khắc. Nếu không, thì dẫu có số tiền ấy cũng chẳng làm cho ba quân nguôi giận
được.
Chúa
nói:
- Tha
thì tha cả. Sao còn tách bạch người nọ người kia?
- Nhà
chúa nếu còn quanh co che chở cho Triêm vũ hầu; bọn tôi khi "máu đã nhập
tim" (do câu tục ngữ: "Máu nhập tim, nhà lim cũng nhỏ"), thì
ngay cả quốc cữu cũng không tha nữa!
Nguyên
hôm trước Triêm vũ hầu trốn vào phủ, lẩn ở trên gác Kỳ-lân, vẫn dùng đôi kiếm
để giữ mình. Trong lúc bọn quân lính đòi giết, Triêm vũ hầu bụng bảo dạ:
"Nếu chúng không nghe nhà chúa điều đình, mà cứ xông vào bắt ta, thì phải
đứng trên thang chém lấy dăm ba cái đầu của bọn chúng, chứ ta không chịu chết
một mình!".
Đến lúc
này việc đã gấp quá, chúa bèn sai người đến dỗ Triêm vũ hầu rằng: "Bây giờ
xã tắc nguy nan như treo trên sợi tóc, nhà chúa không thể cố giấu tướng quân
được nữa. Vậy xin tướng quân hãy vì chúa chớ tiếc cái chết, để cho nhà chúa
được yên. Đó là công muôn đời của tướng quân!"
Triêm vũ
hầu bất đắc dĩ phải trèo thang xuống ra mắt chúa mà nói:
- Chết
thì chết, thần xin hai tay hai kiếm tung hoành với chúng nó một trận, giết gọn
lấy vài trăm đứa, cho hả bớt cơn giận của nhà chúa!
Chúa
nói:
- Như
thế chỉ làm cho thái phi kinh sợ, mà quả nhân cũng chẳng được yên nào!
Triêm vũ
hầu quẳng hai thanh gươm xuống đất nói:
- Bó tay
mà chịu như thế, thần đành chết uổng vậy!
Chúa
khóc mà từ biệt Triêm vũ hầu. Rồi lại hứa với Triêm vũ hầu rằng, sau khi y
chết, sẽ cấp cho một ngàn khoảnh ruộng làm của nối đời và phong cho làm phúc
thần, bắt dân mười làng thờ cúng. Triêm vũ hầu đáp:
- Thần
chỉ vì chúa mà chết, đâu phải cầu mong tước lộc? Xin chúa hãy ra sức tăng thêm
uy quyền, xoay loạn làm trị, thì thần dẫu chết, xương vẫn không mục nát!
Chúa bèn
tự tay viết sáu chữ: "Trung nghĩa tráng liệt đại vương" đưa cho Triêm
vũ hầu. Triêm vũ hầu quì xuống nhận mảnh giấy đó, vê tròn, nuốt vào bụng, rồi
lạy tạ chúa mà đi ra. Khi qua điếm Tiểu-bút, Triêm vũ hầu bị đám kiêu binh lôi
kéo và hỏi:
- Gươm
sắc của mày bây giờ như thế nào? Triêm vũ hầu đáp:
- Tao
không thể dùng thanh gươm đó chém đầu chúng bay là theo mệnh chúa và vì xã tắc
đó thôi. Nhưng mà, chẳng lâu gì đâu, tao chết rồi, sẽ có người khác đến chặt
đầu lũ chúng bay. Đến lúc ấy, chúng bay sẽ biết gươm có sắc hay không!
Quân
lính xúm vào toan đánh Triêm vũ hầu, gã cản lại mà rằng:
- Đây là
nơi nghiêm cấm, không được hành hung. Hãy để tao ra khỏi cửa phủ, ngồi yên đâu
đấy, rồi tha hồ cho chúng bay muốn làm gì tao thì làm. Đoạn gã bước khoan thai
đến bên cạnh cầu đá, tìm chỗ, ung dung ngồi xuống và bảo bọn quân lính:
- Nào,
bây giờ chúng bay làm gì tao thì làm đi!
Đám kiêu
binh lấy gạch đá đập mãi vào đầu Triêm vũ hầu khiến máu chảy đầy mặt. Nhưng gã
vẫn ngồi yên không cựa, khẽ lấy tay áo lau mặt, rồi vừa cười vừa nói:
- Bây
giờ tao không thi đấu võ, nhưng vẫn còn thi can đảm! Thế mới lạ chứ! Ngay đó,
một tên lính đứng sau cầm giáo đâm thọc vào lưng gã, gã mới chết. Triêm vũ hầu
chết rồi; quân lính vẫn chưa hết giận, lại vào buộc chúa phải xử lại vụ án vừa
qua.
Chúa bất
đắc dĩ phải giao việc đó xuống cho triều đình bàn định. Quốc sư, quốc cữu đều
bị bãi chức làm dân thường. Bảy tên lình bị chém ngày trước đều được đền mạng.
Từ đó,
kiêu binh lại càng ngông nghênh tợn. Tại các đường phố, họ cứ dăng tay nhau mà
đi. Các vị công hầu gặp họ đều phải quay xe tránh sang lối khác.
Lại nói,
Nguyễn Khản lúc mới phục chức, được làm trấn thủ Sơn Tây; đến khi vào làm tể
tướng thì cho em ruột là Điền nhạc hầu Nguyễn Cương (Cương mục chép là Nguyễn
Điều. Có sách lại chép Nguyễn Điền) ra thay. Hôm ấy, Khản lật đật trốn ra ngoài
thành, dùng võng một đòn bắt hai người khiêng đi, nhằm hướng Sơn Tây mà chạy.
Tới trấn, Cương ra đón vào trong dinh và hỏi duyên cớ. Khản đáp:
- Tục
ngữ nói: "Quân bất trị". Thật là đúng lắm!
Rồi Khản
đem đầu đuôi câu chuyện kể hết cho Cương nghe. Cương nói:
- Bây
giờ việc đã như thế, anh định đối phó ra sao?
Khản vốn
là hạng người xuềnh xoàng, không có cơ mưu, nghe em hỏi liền cười và đáp:
- Trừ ra
có thuật quỷ thần, hễ thấy chúng nó họp nhau, tức thì theo đến mà ám ảnh, làm
cho chúng nó đau bụng nứt ruột, như Tề thiên đại thánh bóp Hoàng My (Điển này
lấy ở truyện Tây du), không biết đằng nào mà lần nữa, hoạ may chúng nó mới sợ.
Chứ còn sức người thì không làm sao được!
Cương là
kẻ có nhiều mưu mẹo khôn ngoan, liền nói với Khản:
- Tôi có
một mẹo, có thể khiến cho chúng nó chết ráo. Khản hỏi:
- Mẹo
như thế nào?
- Ngày
nay dân trong bốn trấn (Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương. Thời Lê, 4trấn ở
chung quanh kinh đô này được gọi là kinh trấn hay kinh lộ, là những nơi che chở
cho kinh đô; ngoài kinh trấn lại có 9 phiên trấn hay phiên lộ như Cao Bằng,
Lạng Sơn, Tuyên Quangv.v... là phên giậu che chở cho các kinh trấn) đang oán
ghét chúng nó đến xương tuỷ; nếu ai lấy danh nghĩa diệt kiêu binh để kêu gọi,
thì chỉ cần hô một tiếng, không người nào là không hưởng ứng. Trấn này ở về
miền thượng du, dân chúng thuần hậu dễ bảo. Trước kia anh làm trấn thủ Hưng
Hoá, các tù trưởng địa phương đều là thuộc hạ của anh, anh bảo chắc họ phải
nghe. Trên vùng Tuyên Quang, phiên mục Diễn quận công (tức Hoàng Văn Đồng giữ
Mỏ đồng Tụ Long, Tuyên Quang) giàu có nhất thiên hạ, năm xưa có tội được anh
cứu giúp, ông ta hẳn còn nhớ ơn; nếu viết thư lên rủ, thế nào ông ấy chả theo.
ở trấn Sơn Nam, quận Thạc (tức Hoàng Phùng Cơ) là tướng đánh trăm trận, vốn nổi
tiếng là bậc vô địch. Rồi ở trấn Kinh Bắc thì Thần trung hầu (tức Trương Tuân),
ở trấn Hải Dương thì Thái đình hầu (tức Trịnh Tự Quyền), đều là những tay có
mưu trí. Bây giờ hãy dùng mật lệnh nhà chúa, sai họ ngầm nuôi nghĩa sĩ, giữ
vững dinh trấn, và nghe theo sự điều khiển của anh. Còn anh, vốn là một vị tể
tướng lại kiêm chức sư phó, thì một lời nói ra khỏi miệng, trấn nào lại dám
không tuân theo. Bên Kinh Bắc còn có hai tên tướng giặc đầu hàng là tú Huy và
cai Hồ, đều là những tay dữ tợn, tinh khôn. Hiện chúng đang ở chỗ viên nội thần
Nhật trung hầu; nếu thả cho chúng và sai đi xui giục hai phủ Lạng Giang, Bắc Hà
(đều thuộc Bắc Giang), chắc cũng giúp cho mình được một tay. Trên Thái Nguyên
lại có tên giặc già là cai Già, thuở xưa đã từng làm môn hạ của anh, hẳn anh
cũng có thể sai khiến được. Cả bấy nhiêu nơi ta hẹn nhau cùng ngày khởi sự.
Phàm ưu binh (thời Lê trung hưng, kén lính ở 3 phủ thuộc Thanh Hoá và 12 huyện
thuộc Nghệ An để chuyên bảo vệ kinh thành. Loại lính này được ưu đãi hơn các
lính nơi khác, vì thế gọi là ưu binh, hoặc cũng gọi là lính tam phủ)
Thanh-Nghệ, hễ đứa nào ở các trấn ngoài đều phải trừ cho hết. Đứa nào trốn
thoát, cho dân sở tại cứ bắt mà giết đi. Rồi thì bốn phương tám mặt cùng ập vào
kinh thành kiêu binh ắt sẽ không còn đường mà chạy nữa. Đó là một kỳ công muôn
đời mới gặp, anh nên tính gấp đi!
Khản
nghe xong, nói:
- Hay
lắm! Nhưng nay chúa còn đang ở trong tay chúng; ném chuột lại có thể không
kiêng đồ vật được ư? (ý muốn nói diệt kiêu binh lại sợ vạ đến Trịnh Tông)
Cương
nói:
- Đó là
việc rất dễ: Trước hãy sai người trình với chúa, bí mật lấy hết vàng bạc, của
cải trong kho, phân tán ra các trấn; thái phi, vương tử và các cung tần cũng
lén đưa cả ra ngoài thành, hễ gặp chỗ nào tiện thì hãy ở tạm. Sau đó ngầm báo
cho quận Thạc đem thuyền chở quân đến bến Thanh Trì, nói phao là đi tuần sông:
rồi giấu kín một chiếc đò ngang, đợi sẵn ở bến Tây Long. Còn chúa thì sẽ mặc
quần áo thường dân, cất lẻn xuống chiếc thuyền ấy đi xuôi đến dinh trấn Sơn Nam
và tạm đóng tại đó. Xong đâu đấy bấy giờ các trấn mới cùng khởi sự. Như vậy,
thì không còn lo ngại gì nữa!
Khản
mừng mà rằng:
- Không
có chú, tôi không nghĩ được đến thế. Dẫu không thành cũng là một việc làm hả
dạ!
Rồi Khản
làm tờ mật khải đưa về cho chúa. Chúa mừng lắm, viết ngay tờ mật chỉ khen ngợi,
đồng thời hẹn sẵn mọi việc. Tiếp đó, chúa mời thái phi cải trang và lẻn ra
ngoài thành, đến tạm trú tại nhà người chồng bà dì thứ bảy của chúa ở làng Văn
Giáp, huyện Thượng Phúc. Vương tử và các cung tần cũng đều theo cả đến đó. Một
mặt, chúa cho mở kho lấy hết vàng bạc châu báu, sai các thị thần thân tín ngầm
đem ra, giao phó cho bốn trấn. Một mặt, chúa cho hẹn với quan trấn thủ trấn Sơn
Nam, đúng ngày 28 tháng ấy thì bí mật đến đón mình; lại hẹn với các trấn đúng ngày
mồng một tháng sau thì các đạo sẽ cùng khởi binh cả một loạt.
Công
việc sắp đặt như thế là xong.
Tới ngày
hẹn, quận Thạc theo lệnh chúa đem thuyền đến đón.
Khi ấy
trong kinh hết sức nhốn nháo: người ta kháo nhau rằng quan trấn thủ Sơn Nam sắp
đem quân vào thành, để giết hết kiêu binh. Đám quân lính nghe tin ấy đều hoảng
hốt, ngầm cho vợ con gói ghém hành lý đem ra ngoài thành và trốn tránh đi các
nơi, còn ở kinh chỉ để lại những người thuộc "quân tịch" mà thôi. Rồi
chúng kéo nhau vào phủ chúa, xin chúa cấp tốc khởi binh đánh dẹp. Chúa bất đắc
dĩ phải ra ngự ở Trạch các để uý lạo ba quân.
Trong
đám kiêu binh có kẻ biết mưu của chúa, liền mắng chúa rằng:
- Chúa
đừng tưởng chúng tôi không biết mà hòng đem đầu lưỡi ra khua múa để che đậy. Từ
đây theo cửa Tuyên Vũ đi ra, rồi đến bến Tây Long (tục gọi là Tây Luông, ở
thẳng phía sau nhà hát thành phố Hà Nội bây giờ); chẳng qua chỉ độ trăm bước đã
có thuyền của quận Thạc chờ đón sẵn sàng ở đó; trông trước trông sau, khi nào
thấy không có người, thì bước lên thuyền cho nhanh rồi tìm đường mà đi chứ gì!
Chúa
biến sắc mặt, nín lặng quay vào.
Từ hôm
ấy, quân lính canh giữ phủ chúa rất ngặt. Những người nào ra vào, hễ hơi có vẻ
khang khác là bị họ khám xét tra hỏi liền.
Vì vậy,
chúa không dám ra khỏi cung. Quận Thạc nghe tin, lại rút quân về trấn của mình.
Chúa sai
người ra báo lại với các trấn hoãn ngày khởi sự, nhưng chưa đến kịp thì các đạo
theo đúng hẹn cũ đã rầm rộ kéo quân lên đường. Thiên hạ cực kỳ náo động. Hào
kiệt các nơi đồng thời nổi dậy, ai ai cũng nói phải tiêu diệt hết kiêu binh.
Ngày hôm
đó, hết thảy kiêu binh hai xứ Thanh-Nghệ đóng ở các trấn đều phải bỏ trốn, lúc
đi qua làng mạc chúng không dám lên tiếng. Hễ kẻ nào buột miệng lòi ra thổ âm
Thanh-Nghệ, tức thì bị dân chúng bắt giết ngay. Bọn chúng phải luôn luôn giả
cách làm người câm, ăn xin ở dọc đường, rồi lần mò về kinh, báo cho đám kiêu
binh ở đây biết cái tin nay mai quân các trấn sẽ về họp ở dưới thành.
Được tin
này, bọn kiêu binh ở kinh tức thì họp nhau bàn cách chống cự. Rồi họ chia nhau
thành các đạo kéo đi. Nhưng đạo phía tây mới kéo ra đến Đại-phùng, đạo phía bắc
mới kéo đến cầu Vịnh thì đã bị ngay các tay thổ hào địa phương đánh thua. Họ
phải bỏ cả khí giới, cố mang vết thương mà chạy về kinh.
Bấy giờ
kinh thành chấn động, dân hàng phố kẻ chợ đều dắt díu bồng bế nhau ra ngoài
thành chạy trốn.
Đám kiêu
binh vừa sợ vừa tức, gọi chúa là giặc. Rồi họ kéo vào trong phủ, lấy hết binh
khí, chia cho cơ đội các dinh nắm giữ. Phủ chúa lúc ấy không còn một tấc sắt
nào để tự vệ.
Đêm hôm
ấy, kiêu binh bắt được bốn tay nghĩa sĩ lẻn vào thành; họ liền bí mật đem đến
hội sở của họ để tra hỏi. Mấy tay nghĩa sĩ đau quá, khai liều rằng đêm nay quân
ở ngoài sẽ vào đánh úp. Đám kiêu binh cả sợ, bèn bảo nhau phòng bị nghiêm nhặt.
Súng nhồi sẵn mồi lửa, gươm tuốt khỏi vỏ, suốt đêm họ hò hét, đi lại rầm rập,
kinh thành hầu như sắp vỡ.
Sớm hôm
sau, họ đem chém cả bốn nghĩa sĩ, rồi xúm quanh phủ chúa mà trách rằng:
- Nhờ có
chúng tôi phò, chúa mới được lên ngôi. Nay chúa lại coi chúng tôi là kẻ thù.
Lính Thanh-Nghệ hai trăm năm nay vẫn là nanh vuốt cật ruột của nhà chúa. Bây
giờ chúa lại nỡ dấy quân bốn trấn về giết hại lính hai xứ chúng tôi. Tin da dẻ
mà ngờ cật ruột, giơ dao cưa để cắt nanh vuốt, kẻ nào bày ra mưu ấy đều là
những kẻ bỏ thuốc độc cho chúa. Nếu chúa không mau dụ bốn trấn bãi binh, thì
đừng có trách chúng tôi là vô lễ!
Chúa một
mực chối là không biết, rồi ngầm sai người bảo các trấn bãi việc ấy đi.
Đám kiêu
binh không biết là chúa đã ngầm ra lệnh đình chỉ, nên vẫn còn nghi ngờ. Họ bèn
tụ họp nhau, bàn làm chuyện đại nghịch. Hẹn đến canh ba đêm ấy, nổ ba tiếng
súng Bảo-long làm hiệu, rồi cùng kéo vào phủ chúa để hành sự; sẽ lấy hết của
cải đồ vật trong phủ chia nhau; sau đó lấy xe kiệu của chúa chở hết các đồ nghi
vệ cùng sổ sách đưa đến nội điện, rồi rước hoàng thượng về Thanh Hoa để mưu
toan công việc sau này.
Thật là:
Áo cá hớ hênh nên chẳng quyết,
Lòng hồ cố chấp hoá ngờ nhau.
Chưa
biết việc này ra sao? Xin xem hồi sau phân giải.
áo cá :
dịch chữ "ngư phục". Sách Thuyết uyển chép: Bạch long ngư phục, khốn
ư Dự Thư, nghĩa là: con rồng trắng cải trang làm con cá, bị người Dự Thư bắn
trúng mắt. ở đây ý nói Trịnh Tông định cải trang làm thường dân để ra khỏi
thành, nhưng mưu cơ bị lộ...).
Hồi 4
Nhờ ngoại viện, Hữu Chỉnh rửa thù thầy
Tỏ lòng trung, Trần Quán chết theo chúa.
Lại nói,
đám kiêu binh sau khi đã bàn định mưu mô xong, liền kéo nhau đến hỏi Trần
Nguyễn Nhưng. Nhưng vốn quen làm giấy tờ cho đám lính; bèn lập ngay một bản
điều ước, cắt đặt rõ người nào làm việc nào, rồi đưa cho họ. Sau đó, Nhưng lại
tức tốc đem mưu ấy vào báo với chúa. Chúa cả sợ nói:
- Hôm
qua ta ngồi ở cung Trung Hoà, có con quạ khoang bay xuống trước sân vừa nhảy
nhót vừa nhìn vào ta đến hai ba lần, như có ý muốn mổ. Ta phải sai thị thần lấy
giáo ra xua mấy cái, nó mới bay đi. Thấy điềm ấy, bụng ta đã biết chắc là có kẻ
dưới đang mưu hại ta. Nay quả nhiên đúng như vậy. Bây giờ ngươi hãy nên vì ta
mà giảng giải với họ, cho nó hợp với cái điềm "xua giáo" của ta.
Rồi chúa
lại hứa cho Nhưng tiền bạc, để Nhưng ngầm phá mưu của quân lính.
Nhưng là
một người nông nổi, được chúa tỏ ý khen thưởng, tin dùng, liền đi khoe ngay với
người khác. Quân lính biết mưu của họ đã bị Nhưng tiết lộ, bèn lùng bắt, Nhưng
phải trốn về vùng Thanh Hoa.
Chúa
thấy Nhưng là kẻ đa tâm lại hay kiếm chuyện, nhân dịp hắn đi trốn, bèn cho làm
chức ký lục ở Thuận Hoá.
Sau khi
Nhưng đi rồi, thì vừa lúc các trấn cũng bãi binh; vì vậy mưu của quân lính cũng
thôi nốt.
Bây giờ
lại nói về việc Nguyễn Hữu Chỉnh giong buồm ra biển vào Tây Sơn trong năm Nhâm
dần (1782), ấp Tây Sơn thuộc địa phận xứ Quảng Nam (Quảng Nam hồi ấy gồm cả ba
tỉnh Nam-Ngãi-Định cũ. ấp Tây Sơn ở vào địa phận tỉnh Bình Định). Xứ này phía
bắc giáp ải Vân, phía nam giáp Gia Định, phía tây giáp Ai Lao, phía đông giáp
biển; bờ cõi rộng hàng ngàn dặm.
Ở ấp Tây
Sơn có người họ Nguyễn tên là Văn Nhạc, tổ tiên nguyên là người Nghệ An. Khoảng
năm Thịnh-đức (Lê Thần Tông 1653-1657), quân nhà Nguyễn ra đánh Nghệ An, chiếm
cứ được bảy huyện phía nam sông Cả, rồi dồn bắt tất cả dân cư đưa về Nam cho
sống ở vùng Tây Sơn. Tổ bốn đời của Văn Nhạc, chuyến ấy cũng bị bắt ở trong số
đó.
Văn Nhạc
trước kia nhà nghèo, nhưng sau nhờ vào việc gá bạc mà gia tư bỗng trở nên giàu
có. Nhạc từng làm biện lại ở Vân Đồn, nên người ta vẫn thường gọi là biện Nhạc.
Biện Nhạc vì tiêu mất tiền công, bèn trốn vào núi, tụ tập tay chân hơn một trăm
người, rồi đi ăn cướp ở các châu ấp. Viên trấn tướng vùng ấy không sao trị nổi.
Từ đó,
biện Nhạc tự xưng là chúa Tây Sơn. Một hôm, biện Nhạc tự ngồi vào trong cũi,
cho bọn tay chân khiêng đi và loan báo ở dọc đường rằng đã bắt được chúa Tây
Sơn tức biện Nhạc, xin đưa đến dinh trấn để trình nộp. Viên trấn tướng mừng
lắm, mở cửa cho vào, rồi đem giam ở trong ngục. Đêm ấy, biện Nhạc phá cũi xông
ra, cướp lấy thanh gươm của tên lính canh ngục, chém chết tên ấy, phóng lửa đốt
luôn dinh trấn, rồi giết nốt viên tướng trấn và chiếm lấy thành (đây là thành
Qui Nhơn, do trấn tướng Nguyễn Khắc Tuyên coi giữ. Theo một số tài liệu khác
thì Nhạc chỉ là người vào làm nội ứng, bên ngoài lúc ấy đã có Nguyễn Thung cầm
đầu một toán quân Tây Sơn ập vào, cùng với Nhạc cướp thành).
Bấy giờ
chúa nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Thuần (tức Định vương) còn bé, quan quốc phó của
triều đình nhà Nguyễn là Đạt quận công (Trương Phúc Loan) nắm hết quyền chính,
làm lắm điều càn bậy, nên lòng người trong xứ đều lìa tan.
Khi Văn
Nhạc nổi loạn, lại mượn một bọn vô lại người phương Bắc (khi Nguyễn Nhạc khởi
nghĩa, có hai thương nhân Trung Quốc là Tập Đình và Lý Tài chiêu tập các dân
nghèo người Hoa-kiều theo giúp. Lý Tài xưng là Hoà nghĩa quân, Tập Đình xưng là
Trung nghĩa quân. Quân của Lý Tài và Tập Đình chiến đấu rất hăng, làm cho bên
địch vô cùng sợ hãi. Nhân đó, Nhạc thường chọn nghĩa quân của mình lấy những
người cao lớn, cho ăn mặc giống như quân của Lý Tài và Tập Đình, lúc ra trận
quân Nguyễn trông thấy bóng đã bỏ chạy. Người phương Bắc nói đây chính là trỏ
vào những người Hoa-kiều đó) giả xưng làm quân cứu viện của Tập đình hầu, để
chống với quân nhà Nguyễn. Mấy trận đánh nhau, quân nhà Nguyễn đều không thắng
nổi, do đó mà thanh thế của Tây Sơn ngày càng to lớn hơn.
Năm Giáp
Ngọ (1774) niên hiệu Cảnh hưng, thánh tổ Thịnh vương nhân cơ hội đó, mới sai
quan đại tư đồ Việp quận công làm Bình Nam thượng tướng, đem quân đóng ở La Hà
và phao lên rằng sẽ vào tiếp viện cho chúa Nguyễn. Nhạc thấy vậy liền sai người
đem cống một con ngựa hay, một thanh gươm báu, và xin theo về triều đình.
Hồi ấy,
xứ Thuận Hoá mới dẹp yên, tướng sĩ đều ngại vất vả, muốn để công việc Tây Sơn
sẽ tính toán sau. Do đó quận Việp mới làm tờ khải về trình với Thịnh vương, xin
nên nhân dịp ấy mà vỗ về Nhạc. Vương cũng nghe lời, bèn cho Nhạc làm trấn thủ
Quảng Nam và phong làm Tuyên uý đại sứ, Cung quốc công. Từ đó, hàng năm Nhạc
vẫn dâng lễ cống đều đặn.
Quận
Việp thường hay sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm sứ giả qua lại với Tây Sơn. Thấy Chỉnh
có tài biện luận, Nhạc rất yêu mến. Được ít lâu, Nhạc thấy có điềm rồng vàng,
liền cho đóng ngai rồng, lên ngôi vua, tự xưng là thiên vương, đặt niên hiệu là
Thái đức. Triều đình biết vậy, nhưng cũng bỏ đó không hỏi gì đến. Bấy giờ Nhạc
đang có ý muốn thôn tính Thuận Hoá, mà vẫn chưa có người để bàn định công việc.
Nên khi được Chỉnh chạy vào với mình, Nhạc mừng lắm. Nhưng thực ra, trong lòng
vẫn chưa tin. Chỉnh cũng nhận thấy điều đó, liền kể với Nhạc tất cả đầu đuôi
câu chuyện của mình, rồi lại tình nguyện gửi vợ con làm con tin, để xin được
nương tựa vào xứ sở của Nhạc, Nhạc bằng lòng.
Nhạc vốn
đã mến tài của Chỉnh, nên đối với Chỉnh càng ngày càng thân mật, tin cậy. Ngược
lại, Chỉnh cũng hết lòng thờ Nhạc, bày kế cho Nhạc đánh chiếm đất đai các nước
Chiêm Thành, Xiêm La, Bồn Man. Rồi Chỉnh lại tự mình cầm quân đi tiên phong,
xông pha vào những nơi tên đạn, khiến mấy nước lân cận ấy lần lượt đều bị đánh
bại. Do đó, ân tình giữa Nhạc với Chỉnh lại càng thêm mặn mà.
Tuy thế,
nhưng trong khi ở với Tây Sơn, Chỉnh vẫn hàng ngày mong về nước cũ.
Lại nói,
triều đình từ khi mất Chỉnh, rất lấy làm lo, thường vẫn chiêu mộ xem ai dụ được
Chỉnh trở về thì sẽ trọng thưởng. Một người em rể của Chỉnh xin nhận việc đó.
Triều đình liền cấp cho một đạo mật chỉ để người ấy lên đường.
Lúc gặp
Chỉnh, người ấy chưa kịp nói gì thì Chỉnh đã hỏi:
- Chú
lận đận trèo đèo lội suối tới đây làm chi? Có phải định làm thuyết khách cho
chúa Trịnh không? Chú coi mặt ta, xem từ khi đẻ ra đến giờ đã từng nghe ai xui
khôn xui dại chưa, mà chú dám cả gan như vậy?
Người em
rể chỉ còn biết cúi đầu nín lặng, không dám nói gì nữa. Chỉnh lại hỏi tiếp:
- Nhưng
thôi được, chú đã ở Bắc vào đây, ắt là biết rõ đầu đuôi sự việc. Vậy chú hãy kể
cho ta nghe xem, từ sau khi Huy quận công bị nạn, thì công chúa (chỉ con gái
Trịnh Doanh, vợ Huy quận công) và các cậu công tử lưu lạc đi đâu?
Người ấy
đáp:
- Khi
ấy, công chúa bị Dương thái phi giam vào hậu cung. Còn hai công tử nghe tin có
biến thì bỏ chạy về huyện Yên Dũng, dấy quân trả thù, làm chấn động cả vùng
Kinh Bắc. Chúa Trịnh sai viên trấn thủ Kinh Bắc là Mãn trung hầu đem quân đi
đánh. Quân Mãn trung hầu bày trận ở núi Ba Tầng (nay ở địa phận huyện Việt Yên,
Hà Bắc). Các công tử sai viên thủ lệnh Hoàng Tú làm tiền bộ đem quân ra đánh.
Hoàng Tú bị chết ngay trước trận. Quân sĩ tan rã. Hai công tử đều bị bắt sống,
đóng cũi giải về kinh.
Chỉnh
nghe xong, than rằng:
- Tuổi
trẻ bồng bột, hèn nào không hỏng việc! Nhưng cũng là một việc làm vì nghĩa, dầu
thất bại mà vẫn vẻ vang...!
Rồi
Chỉnh lại hỏi:
- Thế
đưa về kinh rồi sau ra sao?
- Triều
đình bàn định hai công tử đều đáng tội chết. Chúa nghĩ tình anh em cô cậu, ra
ơn cho được tha tội chết. Nhưng lại bị thái phi ngầm sai người đến bắt uống
thuốc độc. Có kẻ báo với chúa. Chúa vội sai viên trung sứ đến ngăn lại. Nhưng
khi đến nơi thì cậu cả đã bị trúng độc chết rồi. Chỉ còn cậu hai hiện đang bị
giam ở ngục cửa Đoài.
Chỉnh tỏ
vẻ ngậm ngùi mà rằng:
- Thương
thay! Phá tổ đổ trứng (đời Tam-quốc, Khổng Dung bị Tào Tháo bắt, lúc sắp bị
giết chết, có kẻ đến bảo hai con của Dung nên trốn đi; hai người đó trả lời:
"Tổ vỡ thì trứng còn toàn vẹn làm sao được"- Câu này dùng theo ý đó)!
Người ta có tội tình gì?
Lại hỏi:
- Còn
công chúa, từ khi bị giam vào hậu cung thì việc ăn ở ra sao?
Đáp:
- Chúa
cũng nghĩ tình cô ruột, không nỡ hành hạ gì cả. Song vì thái phi vẫn có hiềm
cũ, nên đã làm cho khổ cực đủ đường. Công chúa vừa đau buồn vừa uất giận, nên
đã thành bệnh mà chết rồi!
Chỉnh
thở dài hồi lâu, rồi nói:
- Công
chúa chết cũng là phải, sống mà làm gì nữa...!
- Thế
còn Đặng Tuyên phi thì thế nào? Đáp:
- Khi
chúa nhỏ bị bỏ, thái phi liền sai người bắt Tuyên phi đến trước mặt mình, kể
tội, rồi buộc Tuyên phi phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy. Thái phi bèn sai
hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên phi rập đầu xuống đất. Nhưng Tuyên
phi vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa nhời. Thái phi giận
quá, đánh đập một hồi, nhổ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam vào nhà
Hộ-tăng ở vườn sau. Tại đây, Tuyên phi bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở. Một
bữa, Tuyên phi lấy áo che mặt, trốn ra khỏi cửa Tuyên-vũ, chạy đến bến đò phố
Khách thì bị quân lính đuổi kịp. Từ đó, lại càng bị giam giữ chặt chẽ. Năm sau
trong nhà tẩm miếu trên lăng Thịnh-phúc, tự dưng bao nhiêu đồ thờ bằng gỗ, bằng
vàng hễ động tay vào là nát mủn như bùn. Viên giữ lăng miếu vội vàng gửi thư về
kinh trình rõ việc biến. Thái phi cho đòi cô đồng vào hỏi. Cô đồng phán rằng:
"Chúa thượng đã làm trái ý tiên vương; tội bất hiếu có hai điều: Chúa vừa
lên ngôi, đã ngờ Đặng thị làm bùa yểm trong tử cung, rồi tự ý cạy mở tử cung,
thay đổi quần áo khâm liệm, khiến cho xương ngọc không yên. Đó là một! Đặng thị
là người mà tiên vương yêu dấu, bây giờ bị chúa làm cho tủi nhục đủ đường,
khiến vong linh tiên vương phải áy náy. Đó là hai! Nếu không mau hối lỗi tạ tội,
tai biến sẽ còn nhiều nữa!". Thái phi sợ hãi, lập tức vào nói với chúa.
Chúa bèn sai quan tế lễ tạ tội, rồi cho Tuyên phi được trở lại làm cung tần nội
thị vào thờ phụng tẩm miếu. Tuyên phi được vào hầu hạ lăng tẩm, đêm ngày chỉ
gào khóc xin chết theo tiên vương. Đến ngày giỗ "đại tường" của tiên
vương, Tuyên phi bèn uống thuốc độc mà chết. Chúa sai quan trấn thủ Thanh Hoa,
theo lễ cung nhân táng Tuyên phi ở cách Vọng-lăng của tiên vương một dặm.
Chỉnh
nói:
- Chết
được đấy! Ta tưởng Tuyên phi chỉ có nhan sắc, không ngờ lại có tiết liệt như
vậy. Nhưng không hiểu vì sao ngôi của Tuyên phi lại bị giáng làm cung tần như
thế?
Đáp:
- Bởi vì
khi chúa lên ngôi được một năm, người ta lục tờ cố mệnh của tiên vương, thấy có
chữ son của thánh mẫu ngự phê rằng: "Không phải bút rồng của tiên vương,
không đủ làm bằng". Chúa liền giao tờ đó cho triều đình bàn định, bấy giờ
quan thiêm sai Phạm Nguyễn Du làm tờ luận về "quốc sách", nói rằng:
"Ngôi của chúa Điện đô với sách mệnh của Tuyên phi cùng tờ cố mệnh, đều là
cái mệnh của tiên vương trong lúc mê lẫn. Nó rất trái lẽ thường, sai đạo lý,
không thể cho là phải được. Nay thánh mẫu là mẹ mà đổi lại ý của con thì thật
là một việc hết sức chính đáng. Vậy cần phải truy xét về cái tội của những kẻ
phụ hoạ, để làm cho sáng tỏ và nghiêm chỉnh pháp điển của nhà nước!" Do đó
mà Tuyên phi bị truất làm người thường. Rồi Tứ xuyên hầu vì viết tờ thư cố
mệnh, Khanh quận công vì tự tiện viết thay bút rồng, Thiêm sai Nhữ Công Chấn vì
tự tiện thảo tờ sách mệnh phong Tuyên phi, xuất nạp Thuỳ trung hầu vì sao những
tờ sách mệnh ấy đưa ra chính phủ...đều phải bãi chức về làm dân thường. Đặng
thị sau này lại phải giáng làm cung tần, cũng là vì cớ đó.
Lại hỏi:
- Ngoài
mấy việc ấy, còn chuyện báo ơn báo oán gì khác nữa không?
Đáp:
- Chúa
mới lên ngôi hôm trước, hôm sau liền hạ lệnh rằng, tất cả mọi người đều được
khoan dung, chỉ riêng những kẻ tố giác việc năm Canh tý thì không được tha. Vì
vậy những kẻ này lần lượt đều bị bắt và bị làm tội hết thảy. Duy Ngô Thì Nhậm
không biết trốn đi đâu. Những kẻ phải chết về vụ án Canh tý gồm có Tuân sinh
hầu, Khê trung hầu và chồng dì Sáu, về sau đều được truy tặng tước vương và lập
đàn chay để làm lễ cầu siêu, giải oan cho họ.
Chỉnh
nói:
- Bãi bỏ
mệnh của cha giữa triều đình, phô bày lỗi của cha với cả nước; đó là việc đại
bất hiếu!
Lại hỏi:
- Tham
tụng, bồi tụng bây giờ là những ai?
Đáp:
- Chúa
mới lập nên, Tứ xuyên hầu liền bị bãi chức; quan bồi tụng Bùi Huy Bích lên thay
chân và được phong làm Kế liệt hầu. Nay Kế liệt hầu vẫn một mình giữ ngôi tham
tụng. Còn bọn Trương Đăng Quỹ, Mai Thế Uông, và Trần Công Thước được thay nhau
làm bồi tụng. Đó đều là những bậc tai mắt nắm quyền chính hiện giờ.
Hỏi
tiếp:
- Từ bấy
đến nay, còn có điềm lành, điềm gở gì không? Đáp:
-Điềm
lành không thấy, chỉ có điềm gở thì nhiều: ngày rằm tháng một năm Nhâm dần
(1782), ở trong cung bỗng dội ra một tiếng rất to, rền vang đến hơn một khắc,
làm rung chuyển cả trời đất. Không hiểu là tiếng gì?
Chỉnh
nói:
- Đó là
tiếng trống trời.
- Năm
Quí mão (1783), núi vua Hùng tự nhiên sụt xuống hơn hai chục thước. Tháng sáu
năm ấy, con sông Thiên-đức (tức sông Đuống) cạn hẳn một ngày một đêm. Năm Giáp
thìn (1784), giữa đêm mùng một tháng mười, trong hồ Thuỷ-quân (tức hồ Hoàn
Kiếm) thình lình có tiếng phát ra như sấm, nước hồ sủi lên sùng sục, sớm mai bao
nhiêu tôm cá đều chết sạch. Cũng trong năm ấy, trên các cây cối trong phủ chúa,
thường có hàng vạn con quạ ở đâu kéo đến, bay lượn lao xao, ngày đêm kêu gào
quang quác. Rồi ở quãng bờ thành phía ngoài cửa các của phủ đường, bỗng dưng
cũng sụt xuống hơn mười trượng. Đó là những sự lạ to lớn, ai ai cũng biết. Còn
những chuyện lặt vặt, thì không sao kể hết được.
Chỉnh
chắt lưỡi luôn mấy cái, rồi hỏi đến tình trạng bọn kiêu binh. Người ấy cứ theo
sự thực kể lại hết đầu đuôi. Chỉnh xem chừng câu chuyện đã cạn, bèn sai nhà bếp
làm cơm rượu, thết đãi cho người ấy ăn uống thật no say. Sau đó, Chỉnh mới căn
vặn người ấy rằng vào đây để làm gì?
Người ấy
thưa:
- Đương
trung hầu thấy tôi với quan lớn có tình bà con, nên mới tâu với chúa, xin giáng
chỉ sai tôi đến đây khuyên quan lớn về triều, cho khỏi mất công danh phú quí.
Chỉnh
cười mà rằng:
- Chú là
đứa ngu, ta thực không thèm chấp. Song ta chỉ ghét cái đứa sai chú đến đây dám
khinh nhờn ta. Vậy ta kết quả tính mạng cho chú; nếu có oan ức thì cứ xuống âm
phủ mà kiện cái đứa đã sai chú ấy!
Rồi
Chỉnh hạ lệnh cho tay chân lôi luôn người ấy ra chém chết. Nhạc thấy Chỉnh chém
thuyết khách, lại càng thân cận tin yêu hơn.
Qua năm
Bính ngọ (1786), khoảng cuối mùa xuân, đại tướng Thuận Hoá là Tạo quận công
(tức Phạm Ngô Cầu) sai viên thuộc hiệu đội Dực-hữu là Dương lĩnh bá Nguyễn Phu
Như vào Tây Sơn nói về công việc biên giới của hai xứ.
Phu Như
với Chỉnh vốn là chỗ quen biết, liền nói với Chỉnh những lẽ có thể lấy được
Thuận Hoá. Rồi Như lại cho Chỉnh biết rằng hai xứ Thanh-Nghệ và cả bốn trấn
hiện đang bị đói lớn, dân chúng đều ta oán kêu khổ, dân với lính chẳng ưa gì
nhau, tình thế không thể lâu bền; nếu lấy được Thuận Hoá, thì việc dẹp yên
thiên hạ không khó gì nữa!
Do đó,
Chỉnh mới quyết định mưu kế về nước. Luôn bữa ấy, Chỉnh vào hầu Nhạc, bày cách
thức lấy đất Thuận Hoá, và xin điều động binh tướng đánh chiếm ngay lấy Phú
Xuân.
Nhạc
theo lời, liền sai người em ruột là thượng công Nguyễn Văn Bình (tức Nguyễn
Huệ), đốc xuất các quân thuỷ bộ; lại sai dũng tướng Võ Văn Nhậm (Võ Văn Nhậm
vốn là tiết chế của họ Nguyễn, bị Tây Sơn đánh thua ở trận Gia Định, toan tự
tử, sau nghe Nguyễn Huệ dụ hàng, Nhậm bèn theo Tây Sơn từ đó, rồi được Nhạc gả
con gái cho) làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, cùng
theo hiệu lệnh của Bình, đến ngày 28 tháng tư thì kéo quân lên đường, tiến
thẳng về phía thành Phú Xuân.
Lại nói,
từ năm Giáp-ngọ (1774), Thuận Hoá thuộc về bờ cõi nước ta (đứng về phía
Lê-Trịnh ở Đàng ngoài mà nói. Năm 1774 quân Trịnh hạ được thành Phú Xuân),
thành Phú Xuân trở nên chỗ đầu cùng của miền biên giới và là một thị trấn rất
xung yếu. Bởi thế, triều đình mới để ba ngàn quân đóng đồn và ba vạn quân thay
phiên canh phòng; lại cử một viên đại tướng, một viên phó tướng, cùng với một
viên đốc thị, một viên phó đốc thị trông nom công việc đó. Các nơi trọng yếu từ
đèo ải Vân trở ra đều có lập đồn đóng quân. Rồi lấy dân địa phương để bổ sung
thêm quân lính. Khai khẩn đất hoang để tăng thêm lương thực. Mở mang việc lưu
thông trao đổi hàng hoá. Khai thác các nguồn lợi trên rừng dưới biển. Lấy việc
thi cử để kén chọn người tài. Dùng danh vị, tước lộc để thu phục lòng người...
Cách khống chế, cai trị thật không còn thiếu sót điều gì. Chỉ đáng tiếc là viên
đại tướng Tạo quận công đứng đầu xứ đó lại là một người nhu nhược, chỉ quen lấy
miệng lưỡi chống chế người, còn đến khi gặp việc quan trọng xảy ra thì lại
không có tài năng đối phó kịp thời. Trước kia, viên đốc thị Nguyễn Lệnh Tân cứ
mỗi lần nhắc đến việc phải gấp rút đánh lấy Tây Sơn, thì lại bị quận Tạo gạt
đi. Lệnh Tân bèn tâu về triều rằng: "Quận Tạo là kẻ nhút nhát, ít mưu cơ,
Thuận Hoá chắc chắn sẽ mất ở tay ông ta; xin hãy bãi chức ông ta và nhắc phó
tướng lên làm đại tướng, hoạ may xứ này mới có thể giữ vững được". Chúa
(Trịnh Sâm) nghĩ rằng Thuận Hoá là xứ vừa mới dẹp yên, lại thích tính ôn hoà,
thận trọng của quận Tạo, bèn bãi chức đốc thị của Lệnh Tân và cho người khác
làm thay.
Bấy giờ
bảng nhãn Lê Quí Đôn khảo cứu những sấm ký về đất khởi nghĩa Tây Sơn, nói với
chúa rằng: " Tây Sơn có đất thiên tử, đến mười hai năm nữa thì sức mạnh
của họ sẽ không ai chống nổi. Đại tướng Thuận Hoá e không phải là tay đối địch
được với họ. Xin chúa hãy lưu ý". Nhưng chúa cũng chỉ cho là lời nói quá
đáng, không để ý gì mấy.
Rồi đó,
bờ cõi không có chuyện gì, Nam-Bắc đều yên ổn, Thuận Hoá đang là một miền thái
bình, vui vẻ.
Đến
tháng tư năm Bính-ngọ (1786), bỗng có chiếc thuyền buôn của người
khách
phương Bắc đi tới. Người khách vào ra mắt quận Tạo, rồi giở thuật tướng số ra
nói rằng: "Hậu vận của ngài rất tốt, phúc lộc không thể kể xiết. Có điều
hiện nay ngài đang gặp phải năm xung tháng hạn, cần đề phòng bệnh tật xảy ra.
Mùa hè này ngài nên lập đàn mà cầu cúng thì tốt!". Quận Tạo tin lời, tức
thì sai lập đàn chay rất lớn, cúng luôn bảy ngày bảy đêm. Quân lính phải phục
dịch liên tục hết đêm này sang ngày khác rất là vất vả. Thình lình thấy có tin
báo bộ binh của địch đã lấy mất đồn ải Vân, tướng giữ ải Vân là Quyền Trung hầu
(tức là Hoàng Nghĩa Hồ) bị chết trong khi đánh nhau; hiện nay các đạo thuỷ binh
của địch đang theo đường biển kéo ra, chỉ sớm tối sẽ đến đây. Quận Tạo hốt
hoảng về thành, không biết nên làm thế nào. Các quân lính vì suốt mấy hôm hầu
hạ đàn chay đang mỏi mệt, thốt nghe tin có địch, ai nấy đều không còn hồn vía.
Quận Tạo vội cho người đi tìm người khách, thì đã mất tăm không thấy đâu nữa.
Bấy giờ, quận Tạo mới biết hắn là thám tử của địch, đến bày mưu để đánh lừa
mình.
Nguyễn
Hữu Chỉnh khi ở Tây Sơn vốn đã biết quận Tạo là người nhút nhát mà đa nghi, dụ
hàng chưa chắc Tạo đã tin. Chỉnh bèn viết một bức thư cho phó tướng Thể quận
công (tức Hoàng Đình Thể) đại ý nói rằng: quân Tây Sơn tinh nhuệ lắm, không thể
địch nổi. Quận Thể với Chỉnh xưa đều là thuộc hạ của quận Huy, nếu nay Thể chịu
đem thành Phú Xuân ra hàng thì Chỉnh sẽ bảo đảm cho được giàu sang toàn vẹn. Rồi
Chỉnh lấy sáp bọc kín (xưa các thư từ bí mật đều bọc sáp ong), và mật sai người
cố ý đưa lầm phong thư ấy vào dinh đại tướng Tạo quận công. Quận Tạo nhận được
thư đâm ra nghi ngờ, sợ hãi, ngầm có ý muốn hàng Tây Sơn, bèn dìm luôn bức thư
đi.
Chẳng
bao lâu, đại binh Tây Sơn kéo đến. Đại tướng và phó tướng bèn cùng nhau bàn
cách chống cự.
Nguyên
thành Phú Xuân ở ngay bờ sông, từ mặt nước dưới dòng sông lên chân thành, chiều
cao khoảng độ hơn hai trượng. Lúc ấy thuyền Tây Sơn ở dưới sông bắn ngược lên,
vì vậy không tới mặt thành. Trong thành, người ta đóng chặt các cửa, rồi dốc
tất cả quân sĩ ở trên bắn xuống. Bộ binh của Tây Sơn phải lui cả vào trong
thuyền. Trên thành bắn theo, thuyền của Tây Sơn bị chìm một chiếc. Nhờ vậy,
tinh thần quân lính trong thành đã hăng hái lên được một chút. Chẳng dè, đêm ấy
thuỷ triều lên to, nước sông tràn ngập khắp chân thành. Quân Tây Sơn thừa dịp
thả thuyền tiến sát vào, bắn thẳng lên thành, rồi cho bộ binh vây chặt cửa
thành.
Quận Tạo
tự mình chỉ huy các toán quân giữ cổng thành; rồi sai phó tướng quận Thể cùng
các thuộc tướng là bọn Kiên kim hầu (tức Vũ Tá Kiên) ra ngoài thành đón đánh.
Hai người con trai quận Thể đều làm quan võ, cũng theo cha ra đánh, cả toán dựa
lưng vào bờ thành mà bày trận. Đánh nhau được hơn một canh, tên đạn đều hết,
quận Thể cử người vào thành xin thêm. Quận Tạo ngồi trên lầu thành, sai người
đóng cửa chặn lại mà cự rằng: "Cơ nào đội ấy, ngoài việc cấp lương khẩu
phần, đạn dược cũng đều có cả rồi, giờ lại còn vào đòi hỏi ai?" Quận Thể
giận lắm, liền bảo với các tướng:
- Quận
Tạo phản rồi! Để ta phá cửa thành vào chặt lấy đầu thằng giặc già trước đã, rồi
sau sẽ ra đánh.
Đoạn
ngoảnh lại nói với các con:
- Chúng
bay hãy đứng phía trước cản địch, ta vào một lát sẽ quay ra.
Rồi quận
Thể co đầu voi quay vào. Voi vừa lùi lại, thế trận tức thì rối loạn, quân Tây
Sơn thừa cơ sấn đến. Hai con quận Thể phóng ngựa ra trận, múa đao chém chết
chừng vài trăm người. Quân địch kéo đến càng đông hơn, họ xông vào chém chân
ngựa của hai người. Ngựa quỵ, hai người lại hoa đao đánh bộ, giết thêm vài chục
người nữa, rồi bị thương nặng và cùng đuối sức, bèn gọi cha ra cứu.
Quận Thể
vội quay voi đến cứu, thì hai người đã bị chém chết ở trước trận.
Liền đó,
Kiên kim hầu cũng bị giết chết.
Quận Thể
thu quân, toan bày trận khác, nhưng ngoảnh đầu nom lên thành thì đã thấy kéo cờ
trắng rồi.
Tên quản
tượng của quận Thể hốt hoảng, bỏ voi nhảy xuống đất chạy trốn.
Quân
địch đuổi theo voi mà bắn. Quận Thể chết ngay trên bành voi.
Đại
tướng Tạo quận công truyền mở cổng thành, xe quan tài ra hàng (tỏ ý xin ra chịu
chết). Bình thả quân vào thành, chém giết bừa phứa. Đốc thị Nguyễn Trọng Đương
chết trong trận đó. Còn bao nhiêu lính tráng trong thành chạy trốn ra ngoài,
đều bị thổ dân giết sạch.
Trong
trận đánh này, mấy vạn mạng tướng sĩ đóng ở thành Phú Xuân đều không còn sống
sót lấy một mống.
Chiếm
xong Phú Xuân, Bình nhân đà thắng kéo quân ra lấy luôn đồn Động Hải. Tướng giữ
đồn là Vị phái hầu cùng hiệp trấn là Ninh Tốn mới trông thấy bóng quân Tây Sơn
đã chạy trốn. Thế là mất hết cả đất Thuận Hoá. Bấy giờ là ngày 14 tháng 5 năm
Bính Ngọ niên hiệu Cảnh hưng (1786).
Sau khi
hoàn toàn lấy được Thuận Hoá rồi, Bình bèn họp các tướng bàn việc sửa lại địa
giới La Hà; đồng thời sai làm tờ "lộ bố" (thư báo tin thắng trận) báo
tin thắng trận về cho chúa Tây Sơn. Lúc ấy, Chỉnh nói với Bình rằng:
- Ngài
vâng mệnh ra lấy Thuận Hoá, đánh một trận mà xong, oai danh lừng lẫy khắp thiên
hạ. Phép dùng binh có ba điều cốt yếu, một là "thời", hai là
"thế", ba là "cơ"; ba điều ấy đều có cả thì đánh đâu cũng
thắng. Nay ở Bắc Hà, tướng lười binh kiêu, triều đình không còn kỷ cương gì cả,
ta thừa thế mà đánh lấy, như trong sách đã nói: "Chiếm nước yếu, đánh nước
ngu, lấy nước loạn, lấn nước suy vong". Cơ và thời ấy không nên bỏ lỡ!
Bình
đáp:
- Bắc Hà
là một nước lớn, có nhiều người tài. Lời xưa có nói: "Con ong có
nọc", há có thể khinh thường được ư?
Chỉnh
nói:
- Người
tài ở Bắc Hà chỉ có một Chỉnh này mà thôi. Nay tôi đã đi rồi, ấy là cái nước
rỗng không, xin ngài chớ nghi ngại!
Bình vốn
khéo dùng ngôn ngữ để bẻ người, liền đùa rằng:
- Không
nghi ngại người nào khác, chả hoá ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư?
Chỉnh
tái mặt mà tạ rằng:
- Sở dĩ
tôi tự nêu lên cái ngu hèn của mình như thế, chẳng qua cũng chỉ để nói quá rằng
nước tôi tuyệt nhiên không có người tài đó mà thôi! (ý Chỉnh muốn nói chữa,
ngoài Bắc chỉ có Chỉnh là tài mà Chỉnh cũng chỉ xoàng như vậy thì quả là ngoài
Bắc không còn có người tài nữa)
Bình lại
an ủi mấy câu, rồi tiếp:
Một nước
đã trải bốn trăm năm, nay bỗng chốc mình đến cướp lấy, người ta sẽ gọi đạo quân
ấy là đạo quân gì?
Chỉnh
đáp:
- Nước
tôi có vua lại có chúa, đó là một việc hết sức trái ngược xưa nay. Chúa Trịnh
tiếng rằng phò Lê, thực ra chỉ là ăn hiếp thiên tử. Người trong nước vốn không
phục. Trước đây các bậc anh hùng mỗi khi nổi dậy, chưa từng có ai không lấy
danh nghĩa phò Lê. Nhưng số họ Trịnh chưa hết, nên công việc của những người ấy
đều không thành. Nay xét ở trong "địa ký" của họ Trịnh có câu:
"Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà
dấy vạ". Mà tính từ Thái vương đến Tĩnh vương [địa ký: sách ghi lời dự
đoán trước về thế đất để mả. Thái vương là Trịnh Kiểm; Tĩnh vương là Trịnh Sâm.
Tương truyền Trịnh Kiểm lúc nhỏ nhà nghèo, thường ăn trộm gà hàng xóm để nuôi
mẹ, ai cũng ghét. Họ bèn ném mẹ Kiểm xuống vực sâu ở làng. Qua một đêm, chỗ vực
sâu ấy bỗng biến thành một gò đất. Sau có một thầy địa lý đi qua gò đất, đọc
bốn câu rằng: Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, tộ truyền bát đại, tiêu
tường khởi hoạ (nghĩa như trên). Câu "tộ truyền bát đại" có bản chép
"truyền nhị bách niên" (truyền hai trăm năm)] thì đã đủ số tám đời
rồi. Nếu ngài lấy cớ "diệt Trịnh phò Lê" mà kéo quân ra, thiên hạ
không ai là không hưởng ứng. Đó chính là cái công không mấy đời có vậy!
Bình
nói:
- Đó là
việc rất hay! Nhưng nay ta vâng mệnh đi đánh Thuận Hoá, không phải vâng mệnh đi
đánh nước người. Tự ý thay đổi mệnh lệnh của nhà vua như thế thì ra làm sao?
Chỉnh
đáp:
- Trong
kinh Xuân Thu có nói: "Thay đổi nhỏ mà công lao lớn, ấy là có công!"
Như thế thì thay đổi cũng có ngại gì đâu? Huống hồ, ngài há chẳng nghe nói câu
"tướng ở ngoài, mệnh vua có khi không cần phải theo" đấy ư? Bình là
một người thông minh, quyết đoán, được lời Chỉnh nói trúng với ý mình, tức thì
nghe theo ngay. Bình sai Chỉnh đem đội quân tuyển phong, vượt vào cửa biển Đại
An, đánh lấy kho lương Vị Hoàng (xã Vị Hoàng, sau là tỉnh lỵ Nam Định) trước;
còn tự mình thì dẫn thuỷ binh theo sau, lại hẹn với Chỉnh hễ đến được Vị Hoàng
thì phải đốt lửa lên làm hiệu.
Bố trí
xong rồi, Chỉnh liền cầm quân đi trước. Lúc ngang qua mấy trấn Nghệ Anh, Thanh
Hoa, Chỉnh sai nhiều toán du binh, mỗi toán chừng vài trăm người, chia ngả đi
đánh các đồn để phô trương thanh thế.
Trấn thủ
Nghệ An là Đương trung hầu, trấn thủ Thanh Hoa là Thuỳ trung hầu (tức Bùi Thế
Toại và Tạ Danh Thuỳ) đều bỏ thành mà chạy.
Ngày
mồng sáu tháng sáu năm ấy (1786) Chỉnh tới Vị Hoàng. Quân ở trong đồn mới trông
thấy bóng quân Chỉnh đã bỏ trốn. Hơn một trăm vạn hộc lương ở đây đều bị Chỉnh
chiếm gọn. Sau đó, Chỉnh bèn đốt lửa báo tin. Bình thấy hiệu lửa, lập tức dẫn
hơn một ngàn chiếc thuyền theo đường biển đi ra. Dân chúng Nghệ An lên núi,
trông bóng lâu thuyền (loại chiến thuyền hạng lớn, khoang thuyền có lầu cao)
cùng cờ quạt ngoài biển đều ngậm ngùi than: "Cõng rắn cắn gà nhà, hắn ta
thật có tội. Song cũng là một việc không mấy đời có!"
Chỉnh ở
Vị Hoàng hợp với quân của Bình, thanh thế rất lớn. Bấy giờ trong nước, những kẻ
hai lòng thường hay lui tới dinh quân của Chỉnh, đem hết tình hình nước nhà mà
kể với địch. Còn như tình hình quân địch ra sao, thì triều đình lại không hề
hay biết gì hết.
Khi Phú
Xuân bị vỡ, tin từ biên giới báo về kinh, những người dự bàn đều nói: Thuận Hoá
vốn không phải là bờ cõi của triều đình, tiên triều hao phí bao nhiêu của cải
trong nước mới lấy được xứ ấy, rồi lại phải đem quân đóng giữ, rốt cuộc chẳng
có ích gì. Ngày nay mất đi cũng là một cái may. Bây giờ chỉ nên bàn tính việc
đóng đồn ở trấn Nghệ An và định rõ cương giới cũ mà thôi. Ta lấy sự mất Thuận
Hoá làm may, ắt họ phải lấy sự lấn đất của ta làm điều đáng ngại. Như vậy hẳn
là ta không phải lo gì nữa.
Thế là
kẻ trên người dưới, ai nấy đều yên lòng. Chợt nghe tin Nghệ An bị vỡ, quân địch
sắp sửa đến nơi; triều đình bấy giờ mới hốt hoảng, bèn sai Thái đình hầu (tức
Trịnh Tự Quyền) làm thống lĩnh, đem 27 cơ lính vào Nghệ An chống nhau với quân
địch, Thái đình hầu lĩnh mệnh đã hơn mười ngày, mà sửa soạn vẫn chưa xong. Kịp
đến khi rời thành được nửa ngày, thì quân địch đã tới Vị Hoàng. Bấy giờ triều
đình lại sai luôn Thái đình hầu xuống giữ ở vùng Sơn Nam; và phái thêm Liễn
trung hầu Đinh Tích Nhưỡng đốc lĩnh đường thuỷ, dẫn các đội thuyền Tả-vệ,
Hữu-vệ, Ngũ-hầu, Ngũ-thiện, Ngũ-trung cùng với Thái đình hầu thuỷ bộ đều tiến
Hồi ấy
Nhưỡng đang đánh nhau với bọn thuỷ khấu (bọn cướp trên sông, biển) ở vùng Hải
Dương; đến lúc này, bọn thuỷ khấu đã hợp cả với quân Nam, vì vậy triều đình
liền sai luôn Nhưỡng về đánh giữ mặt Nam.
Nhưỡng
là danh tướng ở vùng Hàm Giang, vốn là con nhà dòng dõi, triều đình đem hết
công việc thuỷ chiến giao phó cả cho Nhưỡng.
Các
thuyền quân của Nhưỡng kéo đến đóng ở cửa Luộc [cửa Luộc, chỗ sông Luộc chảy
vào sông Hồng Hà giáp liền với huyện Tiên Lữ (Hưng Yên) và huyện Hưng Nhân
(Thái Bình)], cầm cự với quân Tây Sơn. Bấy giờ gió đông nam thổi rất dữ, quân
Tây Sơn ở hạ lưu cho năm chiếc thuyền làm tiền bộ tuyển phong, giương buồm
ngược dòng tiến lên, còn đại quân thì từ từ tiến theo sau. Nhưỡng thấy những
thuyền tuyển phong của địch xông đến, tức thì đem chiến thuyền chặn ngang sông,
dàn thành thế trận hình chữ "nhất"; rồi truyền quân lính nạp súng Bảo-lân,
bắn sang thuyền địch. Bắn phát đầu, thuyền địch đứng yên không động. Nhưỡng
truyền bắn phát thứ hai, các buồm của thuyền địch đều cuốn lại. Quân bên Nhưỡng
mừng rỡ, cho là bên địch có ý sợ. Nhưỡng lại sai bắn luôn ba phát nữa. Lúc ấy
bên địch mới bắn trả một phát súng lớn, tiếng nổ như sấm, đạn bay lên cây cổ
thụ bên bờ, làm cho thân cây bị gãy làm hai đoạn.
Bấy giờ
Trướng trung hầu (tức Đỗ Thế Dận) và viên đốc đồng Nguyễn Huy Bình đều một mình
bỏ trốn. Quân của Thái đình hầu đóng ở cửa Kim Động [thuộc Hưng Yên (Hải Hưng)]
cũng tự vỡ mà chạy.
Khi ấy,
thư báo tin thua trận tới tấp đưa về kinh, các quan văn võ trong triều ai nấy
chỉ cuống lên lo thu xếp chỗ nương náu cho vợ con, lo cất giấu của cải, không
một ai dám ra nhận lấy việc đánh nhau với quân Tây Sơn.
Chúa thấy
tham tụng Bùi Huy Bích ở ngôi tể tướng lâu ngày mà chẳng làm được việc gì, đến
lúc này lại không có mưu kế gì để chống địch, trong lòng đã chán ghét. Rồi nhân
những người xung quanh lại công kích Bích rất gay gắt, chúa bèn bãi chức tể
tướng của Bích và cử ra trận đốc chiến.
Tể tướng
đi rồi, lòng người càng nôn nao. Chúa bèn đòi Công Thước (Trần Công Thước, sau
đổi là Công Xán) vào phủ, mật bàn xem nên đánh lui địch hay nên tránh địch.
Công Thước thưa:
- Giặc
kéo quân vào sâu xứ lạ, đó là điều mà trong binh pháp rất kỵ. Nên dử cho chúng
tới gần nữa, rồi đánh một trận mà tiêu diệt hết, đó cũng là cái thuật kỳ diệu
trong phép dùng binh. Vả lại, kinh sư là cái gốc của thiên hạ, rời bỏ thì sẽ đi
đâu? Chẳng những thế, nếu kiệu chúa lật đật ra ngoài thành, tất lòng người sẽ
phải lìa tan, ấy là đem nước mà trao cho giặc vậy. Bây giờ chỉ nên xin thái phi
và cả sáu cung hãy tạm lánh ra ngoài thành mà thôi. Chúa nghe theo lời Thước.
Lại tự nghĩ rằng, trong hàng võ tướng chỉ có Thạc quận công là tay lão tướng có
thể trông cậy được, bèn sai người ra trấn Sơn Tây tức tốc triệu ông ta về
triều.
Được
lệnh, quận Thạc liền đem ngay năm trăm quân nghĩa dũng về cứu kinh thành. Thấy
quận Thạc về, lòng người cũng hơi vững. Khi quận Thạc vào ra mắt, chúa nói:
- Ông bỏ
quả nhân hay sao? Bây giờ thế nước như vậy thì làm thế nào? Quận Thạc khóc mà
rằng:
- Thần
chịu ơn dày của nhà nước, thề không cùng sống với giặc. Cha con thần tất cả còn
có chín người, nếu phải dựa lưng vào thành mà quyết một trận tử chiến, thần xin
cầm roi mà theo dưới chân chúa, chúa không lo gì hết! Chúa bèn bỏ ra năm ngàn
lạng bạc, giao cho quận Thạc để chi về việc binh. Thạc lập tức ra lo liệu việc
quân, một ngày gọi được hơn một ngàn thủ hạ, toàn là những tên quân hết sức
tinh nhuệ. Rồi theo lệnh chúa, quận Thạc tiến quân ra đóng ở hồ Vạn Xuân (tức
đầm Vạn Phúc ở làng Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Đông, nay là ngoại thành Hà
Nội).
Bấy giờ
gió đông nam đang mạnh, đường thuỷ trở nên rất xung yếu. Sau khi các đội thuyền
của Liễn trung hầu đã bị đánh bại, quân địch chiếm được cả một dải đất yên ổn
chạy dài theo ven sông, rồi thuận đường kéo thẳng lên kinh kỳ. Tông sai cả bốn
hiệu lính thuỷ dốc hết quân xuống ngăn địch ở cửa Thuý ái (Cửa Thuý ái nằm ở
địa phận bãi Thuý ái, Thanh Trì, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội).
Thuyền
địch đến bến Nam Dư (cũng thuộc Thanh Trì, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà
Nội), tức thì bỏ thuyền nhảy lên bộ, đánh úp vào đám lính thuỷ ở cửa Thuý ái.
Trước đó, thuỷ binh ở đây nghe tin quân địch còn xa, nên không phòng bị gì hết,
cứ cột thuyền lại rồi lên bờ đi tản mát, linh tinh ở các bãi sông. Khi quân
địch thình lình kéo đến, thuỷ binh không kịp lên thuyền, bao nhiêu thuyền bè
đều bị địch chiếm hết cả. Cả đội duy có viên tiểu tướng họ Ngô (tức Ngô Cảnh
Hoàn, theo Cương mục, Hoàn có người thiếp yêu là Phan Thị Thuấn rất trẻ, đẹp.
Sau khi Hoàn chết, nàng cứ nhởn nhơ may sắm quần áo và trang điểm như không có
chuyện gì, mọi người chê cười cũng mặc. Đến hết giỗ 100 ngày, bấy giờ nàng mới
trang điểm đẹp đẽ, bơi thuyền đến chỗ chồng chết mà tự tử. Nhân dân địa phương
bèn lập đền thờ, khen là người con gái tiết liệt) là dám vác đao đứng ở đầu
thuyền, đánh nhau với địch. Được chừng hơn một khắc, quân Tây Sơn dùng súng lớn
bắn vào đầu thuyền, viên tiểu tướng ấy trúng đạn chết tại chỗ. Quân địch bèn
kéo ùa lên bộ, xông vào trận của quận Thạc. Quân lính của quận Thạc khi ấy đang
ăn cơm, chợt thấy địch ập tới, ai nấy bỏ cả khí giới mà chạy (theo Cương mục,
lúc ấy có Mai Thế Pháp dám một mình vác dao ra chặn đường quân Tây Sơn, nhưng
giết được mươi người thì bị vây chặt, phải nhảy xuống sông tự tử). Quân Tây Sơn
từ hai phía tả hữu cùng đánh dồn lại, chém giết quân của quận Thạc tơi bời,
thây chết nằm ngổn ngang khắp bãi. Những kẻ nhảy xuống hồ Vạn Xuân mà chết,
cũng không biết bao nhiêu mà kể.
Quận Thạc
chỉ còn hơn mười thủ hạ và tám người con. Bọn họ đều xúm quanh chân voi của
quận Thạc, tựa vào voi mà chống cự lại quân Tây Sơn. Sáu người con của quận
Thạc ra sức chiến đấu, chết ở trước voi. Quận Thạc liền sai quản tượng cho voi
quỳ xuống, rồi ông ta nhảy xuống đất cùng hai người con cướp đường mà chạy tháo
thân.
Thuỷ
binh của Tây Sơn tiến thẳng đến bến Tây Long. Chúa thân hành ra ngự trên lầu
Ngũ-long bày trận. Chia thành năm đạo quân: hiệu Tả-bộ giữ mặt
Đông
Long, hiệu Hữu-bộ giữ mặt Tây Hổ, hiệu Tiền-bộ giữ mặt cửa thành Tiền Lâu, hiệu
Hậu-bộ giữ mặt Hậu Lâu, cạnh bờ hồ Thuỷ-quân, còn hai hiệu Nhưng, Kiệu ở trung
quân để hộ giá.
Quân Tây
Sơn từ bãi sông tiến vào, chúa ở trên lầu sai nổi hiệu trống trận, hiệu Tiền-bộ
liền nổ súng bắn ra. Bắn được một hồi lâu, quân địch khom mình vừa tránh đạn
vừa xông vào. Chúa bèn mặc đồ trận, xuống lầu, trèo lên mình voi, cầm cờ đỏ chỉ
ba cái, vẫy ba cái, rồi sai thúc trống làm hiệu cho quân lính tiến về phía
trước. Quân lính nghe trống giục, trông theo lá cờ liều mạng tiến lên. Bên địch
dùng "hoả hổ" (tên một thứ ống phun lửa của Tây Sơn) phun lửa bừa
vào, quân lính nhà chúa đều sợ mất mật, bỏ cả khí giới ở bờ sông mà chạy thục
mạng.
Chúa
thấy quân lính tan tác, ngoảnh nhìn quanh mình, đã không còn một người nào; nhưng
quân Tây Sơn không biết đó là chúa, hối hả tranh nhau xông vào phủ chúa, không
ai lại gần chân voi. Chúa vội cởi bỏ quần áo trận, đội khăn chữ đinh, tụt xuống
ngồi núp trong ngăn hòm da ở mé sau bành voi, rồi co đầu voi quay về phủ. Khi
qua cửa Tuyên Vũ, thì thấy tiền binh của địch chừng vài chục người đã vào lọt
trong phủ và đang kéo cờ ở phía ngoài phủ; chúa liền quay voi men theo bờ hồ
Minh Đường, nhằm phía cửa ô Yên Hoa (tức là ô Yên Phụ, Hà Nội bây giờ) mà chạy.
Bấy giờ
Bình đã vào thành [Nguyễn Huệ vào Thăng Long ngày 26 tháng 6 năm Bính-ngọ
(1786)], hạ lệnh nghiêm cấm quân sĩ không được cướp bóc của dân, rồi Bình vào
phủ chúa nghỉ ngơi.
Mấy viên
cận thần và các thân binh biết chúa chạy về phía tây, bèn lục tục chạy theo.
Tới ngoài cửa thành, hãy còn có chín thớt voi hơn mười con ngựa và hơn ngàn
người. Lúc qua địa phận Từ Liêm, dân quê thấy bóng gươm giáo, ngờ là địch đến,
vội dắt nhau chạy. Quan quân trông đằng xa thấy dân chạy tưởng là địch, quá nửa
số người vứt bỏ cả khí giới mà trốn. Đến huyện Yên Lãng, thì có người con trai
Nguyễn Thưởng là Nguyễn Noãn, quê ở làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, vốn là gia
thần của chúa, đón chúa ở dọc đường quỳ xuống mép đường bên trái mà thưa rằng:
- Ngày
trước tôi vâng mệnh chúa đi mộ quân, hiện đã mộ được năm trăm tên, đang chờ ở
phía bờ bắc sông này. Xin chúa hãy ngự giá sang phía bắc, tới làng tôi đóng tạm
để lo tính công việc về sau.
Chúa bèn
sai gọi đò để sang sông. Bao nhiêu chân sào ở bến đò mỗi người lẩn đi mỗi ngả.
Tìm mãi mới được ba chiếc thuyền nhỏ, mỗi chiếc chỉ chở được khoảng 13, 14
người. Chúa vội lên thuyền, chỉ có năm sáu viên quan hoạn trẻ tuổi và Noãn đi
theo. Còn bao nhiêu quan quân và voi ngựa đều phải ở lại: khi nhìn thấy chúa đã
sang đến bờ bên kia, thì họ cũng bảo nhau trốn chạy tan tác.
Chúa lên
bờ, không thấy một tên quân nào, vội hỏi Noãn thì Noãn đáp:
- Lính
tráng hiện ở làng tôi, xin chúa hãy quá bộ đi dấn lên phía trước, làng tôi cách
đây cũng không xa.
Chúa có
ý hối bị Noãn làm lỡ việc, lại sợ đi nữa chưa chắc giữa đường có được yên lành
hay không. Bấy giờ quanh mình chẳng có ai đáng tin; chúa nghĩ rằng chỉ có những
bậc văn thần tiến sĩ là có thể trông cậy được, bèn hỏi Noãn:
- Những
thôn ấp gần đây có viên tiến sĩ nào không? Noãn thưa:
- ở đây
thì chẳng có ai là tiến sĩ. Chỉ có viên thiêm sai tri lại phiên Lý Trần Quán,
trước kia phụng mệnh đi chiêu dụ nhân dân, vẫn đóng tạm tại làng Hạ Lôi, nhưng
không biết hiện giờ có còn ở đó nữa không?
Chúa
nói:
- Người
hãy thử đi hỏi xem. Nếu còn thì nên bảo kín tình trạng này để cho viên ấy biết mà
lo liệu giúp ta.
Noãn
vâng mệnh, đi tới ra mắt Lý Trần Quán kể rõ đầu đuôi, rồi nói:
- Tôi
trước vâng mệnh về quê mộ quân, hiện nay đã mộ được một số, đang đợi ở địa giới
huyện tôi. Quan lớn hãy liệu cách nào mượn tạm lấy ít binh lính, khí giới hộ vệ
cho chúa tới đó, thế là yên ổn.
Quán có
người quen là viên tuần huyện Trang (tức Nguyễn Trang) ở làng Hạ Lôi. Trang vốn
là một tên tướng cướp, thuở trước đã có học với Quán. Bấy giờ Quán trú ở Hạ Lôi
cũng là nhờ có Trang che chở. Nghe Noãn nói thế, Quán bèn cho gọi Trang vào
bảo:
- Hiện
có quan tham tụng là Kế liệt hầu tránh loạn đến đây, muốn phiền anh hộ tống ra
khỏi địa phận.
Trang
xin vâng.
Quán
liền cùng Trang theo Noãn đến yết kiến chúa.
Nguyên
lúc Quán ở chính phủ chỉ là một viên quan nhỏ, chưa từng được thấy mặt chúa, mà
chúa cũng chưa hề biết Quán bao giờ. Khi ấy, chợt thấy Quán đến, chúa bèn
ngoảnh lại hỏi mấy viên thị thần:
- Đó là
người nào?
Bọn thị
thần đáp:
- Đó là
Lý Trần Quán!
Chúa
đang nhún nhường chưa biết nên nói câu gì. Quán khi được tiếp kiến cũng tỏ ra
hết sức cung kính, điệu bộ rụt rè, khúm núm. Vô tình chúa và tôi đều lộ rõ chân
tướng. Hồi lâu, chúa mới nói tâm sự với Quán. Quán chỉ vào Trang thưa:
- Tôi có
tên này, vốn là học trò cũ của tôi, việc đó hắn rất có thể đảm đương được.
Rồi Quán
quay sang bảo Trang:
- Anh
phải cẩn thận hộ vệ quan lớn ra khỏi địa giới đấy nhé!
Trang
thưa: "Dạ!".
Quán bèn
từ biệt chúa, trở về nhà riêng. Còn Trang thì đem theo năm mươithủ hạ đi hộ vệ
chúa. Lúc đi qua một ngôi nhà mà Quán đã từng ở, Trang giữ chúa lại trong một
căn buồng bỏ không và hỏi:
- Ông có
phải là Đoan nam vương thì cứ nói thực với tôi. Nếu không, rồi xảy ra việc gì,
ông đừng có trách!
Chúa mới
đầu còn định giấu giếm, bèn đáp:
- Sao
anh lại đoán xằng như vậy? Ta chỉ là quan tham tụng Bùi Huy Bích mà thôi!
Trang
nói:
- Ông
chớ nói dối người ta. Cái bộ điệu che đậy của chúa tôi nhà ông lúc nãy tôi đã
thấy cả rồi, còn che mắt ai được nữa? Từ xưa đến nay, hưng phế là việc thường,
ông cũng không thể tránh khỏi, đừng có làm gì nữa cho thêm nhọc mình!
Rồi
Trang đưa chúa về nhà. Chúa giận lắm, đổi sắc mặt mà nói:
- Vua
chúa phải có mệnh trời. Chính thật đại nguyên soái Đoan nam vương là tao đây!
Nếu có chết về tay người trong nước thì cũng là mệnh trời. Tha hồ cho mày làm
gì thì làm!
Trang
bèn sai người đi báo tin cho quân Tây Sơn. Hết thảy những kẻ đi theo chúa đều
bị bắt giữ.
Quán
nghe tin có việc biến, thân hành đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói:
- Làm
lầm chúa đến nông nỗi này, là do tội của tôi cả!
- Người
ta ai có bụng nấy, khanh có can dự gì? Quán lui trở ra, bảo Trang:
- Chúa
là chúa chung của thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh. Vua tôi là nghĩa lớn, sao
anh nỡ làm như thế?
Trang
đáp:
- Quan
lớn không bảo tôi trước, khiến tôi trót lầm đến gặp chúa. Nếu chúa trốn thoát ở
tay tôi, rồi nữa quân Nam đến hỏi tội tôi, liệu quan lớn có thể biện bạch hộ
được không? Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi
không để quan lớn làm cho lầm lỡ đâu!
Tiếp đó,
Trang bức Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ dìu chúa về kinh đô.
Quán tới
lạy chúa, vừa khóc vừa kêu gào rằng:
- ối
trời ơi! Tôi giết chúa tôi rồi, trời có hay chăng?
- Tấm
lòng trung thành của khanh, "cô" (lối khiêm xưng của vua chúa đời
xưa) đã biết rồi đừng nên tự oán mình như thế!
Quán
muốn nèo chúa ở lại chút nữa, nhưng chưa kịp nói thì chúa đã bị Trang đẩy đi
rồi.
Đi đến
giữa đường, Trang dẫn chúa vào tạm nghỉ trong một cái quán. Chúa vớ được con
dao con của nhà hàng, đưa lên đâm ngay vào cổ mình. Trang trông thấy vội giằng
lấy dao. Mũi dao đâm vào hãy còn nông, nên vết thương ở cổ cũng nhỏ. Chúa bèn
dùng ngón tay chọc vào vết thương xé cho rách thêm ra, nhưng cũng bị Trang ngăn
chặn. Một chốc, chúa thấy trong bụng nôn nao, buồn bực, đòi uống nước lạnh.
Trang sai người lấy nước cho chúa. Chúa bưng nước uống xong thì chết liền.
Trang đưa thi hài chúa đến kinh. Quân Tây Sơn mừng lắm, đem phơi xác chúa ra
ngoài cửa Tuyên Vũ để cho thiên hạ cùng biết. Sau đó, sai khâm liệm chúa đúng
theo lễ vua chúa, rồi dùng kiệu rồng đưa ra chôn ở lăng Cung quốc công (nơi
chôn Trịnh Cán). Còn Trang, được phong làm Tráng nghĩa hầu thêm chức trấn thủ
Sơn Tây. Hôm ấy nhằm ngày 27 tháng 6 quận công năm Bính-ngọ (1786) (theo Trịnh
thị thế gia, thì ngoài Trang còn có Nguyễn Noãn tức Ba Đóm cũng tham dự vào
việc bắt Tông. Nhưng lúc Noãn đòi thưởng công thì Nguyễn Huệ cho là kẻ bất
nghĩa và sai đem chém ngay). ở Hạ Lôi, Lý Trần Quán sau lúc từ biệt chúa, liền
quay về nhà trọ, nói với chủ nhà rằng:
- Bề tôi
mà làm lầm vua, tội thật đáng chết! Nếu ta không chết, không lấy gì tỏ được
lòng này với trời đất. Vậy hãy sắm cho ta một cỗ quan tài, mười vuông vải
trắng, để ta làm theo cái chí của ta.
Chủ nhà
hết sức khuyên giải, Quán vẫn không nghe, nói rằng:
- Ta đã
muốn chết, tự khắc còn có những cách khác, nhà ngươi không thể ngăn nổi đâu.
Nếu quả là yêu mến ta, thì cứ để mặc ta làm gì thì làm.
Qua hai
ngày sau, Quán càng phẫn uất, bồn chồn. Chủ nhà ngăn Quán chẳng được, biết lòng
trung của Quán không thể lay chuyển, đành phải sắm sửa đầy đủ các thứ theo như
lời Quán đã bảo.
Quán sai
đào huyệt ở ngay vườn sau nơi nhà mình ở đặt sẵn chiếc quan tài xuống đó. Lại
lấy vải trắng xé ra làm một chiếc khăn đội đầu và một chiếc dây lưng. Sau đó,
đội mũ mặc áo chỉnh tề, hướng về phía nam lạy hai lạy. Lạy xong, lại bỏ mũ, lấy
khăn trắng chít lên đầu, lấy dải lưng trắng thắt ngang lưng; rồi nằm vào trong
quan tài, bảo chủ nhà đậy nắp lại.
Tấm ván
vừa đặt lên, bỗng Quán ở trong áo quan nói vọng ra:
- Hãy
còn thiếu một câu nữa, phải nói hết cái đã. Chủ nhà lại mở nắp ra, Quán liền
đọc hai câu rằng:
Tam niên
chi hiếu dĩ hoàn,
Thập
phần chi trung vị tận (nghĩa là: Đạo hiếu ba năm đã trọn, Chữ trung mười phần
chưa xong).
Rồi Quán
bảo với chủ nhà:
- Phiền
ông đem câu ấy dặn lại con ta, bảo nó sau này dán ở nhà thờ mà thờ ta.
Nói xong
câu ấy, lại tiếp luôn:
- Đa tạ
ông chủ, ta vĩnh biệt ông từ đây nhé!
Chủ nhà
và năm sáu tên đày tớ cùng sụp xuống lạy chào ở trước quan tài, rồi đậy nắp và
lấp đất lên. Hôm ấy là ngày 29 tháng 6, năm Bính ngọ (1786) sau khi chúa chết
hai ngày.
Quán
người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766); tính nết
giản dị, chất phác và rất hiếu thảo. Trong khi chịu tang mẹ, Quán ở nhà mồ luôn
ba năm liền; miệng không ăn thịt cá, thân thể gầy rạc, chỉ còn da bọc xương.
Quán thường tự nói: "Ta nay đã bốn chục tuổi đầu, nhưng những việc đã làm trong
quãng đời vừa qua của ta, chỉ có ba năm chịu tang này là gần với đạo làm
người". Bởi Quán cư xử không có điều gì đáng phàn nàn như vậy, nên khi sắp
chết, Quán mới có lời tự hứa (nghĩa là tự cho rằng mình có điều đáng khen. ở
đây chỉ vào câu "Tam niên chi hiếu dĩ hoàn", ý nói mình đã tận hiếu
với cha mẹ) như thế
Sau khi
Quán mất, thiên hạ ai cũng thương chúa và kính trọng Quán là bậc nghĩa khí. Rồi
nhân đó truy nguyên đến kẻ gây ra tai hoạ, không ai là không oán Chỉnh. Chỉnh
cũng cảm thấy điều ấy.
Chỉnh có
một người quen là Đỗ Thế Long, quê ở làng Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì, vốn là
một kẻ giảo hoạt. Hồi Chỉnh nợ tiền công bị bỏ ngục, Long vì cớ khác phải tội,
cũng cùng ở tù với Chỉnh. Long làm các bài từ khúc bằng chữ nôm rất giỏi, so
với Chỉnh cũng không kém gì. Kịp đến khi Chỉnh ở Tây Sơn ra, Long vẫn còn bị
giam. Chỉnh tới kinh, tức thì sai người thả Long ra, và đãi Long làm bậc khách
quý. Mỗi lần có việc nước, Chỉnh đều hỏi han Long. Long biết điều gì, không bao
giờ không nói. Đã nói, không bao giờ Chỉnh không theo.
Đến lúc
này thấy chúa chết, Chỉnh bèn nói với Long rằng:
- Chúa
không tin bụng ta, nên mới đến nỗi tự huỷ hoại đời mình. Nếu chúa còn sống, hẳn
ta cũng đặt vào một địa vị thanh nhàn không để đến nỗi phải mất danh lộc.
Long
nghe lời lẽ của Chỉnh, thấy Chỉnh đối với chúa cũng có tình, bỗng nhiên Long
nảy ra cái ý muốn lập lại họ Trịnh. Rồi nhân ý của Chỉnh, Long bèn xoay chuyển
thêm để cho đúng với cơ mưu của mình.
Thật là:
Ác độc than người tàn phá trứng,
Ngây thơ cười kẻ giữ gìn con
Chưa biết
việc này ra sao? Xin xem hồi sau phân giải.
phá
trứng: dịch ở chữ huỷ noãn, nghĩa bóng ý nói Nguyễn Hữu Chỉnh diệt họ Trịnh
cũng giống như phá tổ chim đập vỡ trứng chim.
giữ gìn
con: tạm dịch ở chữ "Tồn sô" nghĩa đen là bảo tồn con chim con. Nghĩa
bóng ý nói Đỗ Thế Long muốn lập lại họ Trịnh cũng giống như tổ chim đã bị phá
mà còn muốn bảo tồn con chim con.
Hồi 5
Phò chính thống, thượng công vào điện
Kết duyên lành, công chúa ra xe.
Lại nói,
Đỗ Thế Long nghe lời lẽ Chỉnh có ý hậu với chúa, bèn nhân đó nói với Chỉnh
rằng:
- Việc
ông đã làm, tiếng làm nhân nghĩa, nhưng xét rõ ra thì lại là tàn hại! Ngày nay
ông có cái thế nghiêng non lật biển, quả thật là nhờ vào sự giúp đỡ của quý
quốc (chỉ Tây Sơn). Nhưng khi ông mới xuất thân, nào cầm quân, nào phong hầu,
thử hỏi có cái gì không phải là ơn của nhà chúa? Chuyến này ông lấy tiếng
"phù Lê, diệt Trịnh" để kéo quân ra, thật là quá lắm! Nếu bảo nhà
chúa hiếp chế nhà vua là việc có lỗi, thì sao lại không nghĩ đến cái công tôn
phò hai trăm năm trời? Theo người mới mà phản người cũ là bất nghĩa; bới lỗi
lầm để lấp công lao là bất nhân. Đã bất nghĩa, bất nhân tức là tàn hại. Kẻ đại
trượng phu lập thân, có thể tự mình đứng vào địa vị tàn hại được ư? Chỉnh nghe
nói, sắc mặt tái mét, lặng đi hồi lâu mới đáp:
- Gây dựng
là ơn riêng của một người, cương thường là nghĩa lớn của thiên hạ. Tôi làm cái
việc tôn phò ấy, là cốt để chống đỡ cho nền cương thường. Đó là một việc nhân
nghĩa vô cùng lớn lao, vậy mà ông lại cho là tàn hại, chẳng phải là ông nói
nhau quá tệ ư? Nếu tôi không nghĩ sai, thì chắc là ông nói quá lời đấy!
Long
nói:
- Nhà
vua vốn đã tôn quý sẵn rồi, cần gì đợi ông tôn phò nữa? Chẳng qua ông cũng chỉ
mượn cớ ấy để làm cho trôi cái mưu cướp bóc đó thôi. Nhưng mà, nhà nước đang
như chiếc âu vàng lành lặn, bỗng dưng vô cớ ông đưa người ngoài đến đây, làm
hại chủ suý, làm hại nhân dân; người trong thiên hạ nhất định sẽ còn cho ông là
beo, sói, diều quạ. Bảo là tàn hại cũng chưa phải là quá đáng. Nay ông dựa vào
thế lực nước ngoài, cũng giống như cáo mượn oai hùm. E rằng lòng người còn nhớ
họ Trịnh, chắc sẽ có ngày sinh biến. Vả lại, mai đây người ta bỏ ông mà về; bấy
giờ ông lấy cái thân cỏn con để cõng cái tội tầy trời, làm sao mà đứng vững
được với thiên hạ? Chỉnh giận nghiến răng lại, nhưng vẫn còn làm ra vẻ mặt tươi
cười mà rằng:
- Vậy
thì ông bạn của giống beo, sói, diều, quạ nên làm thế nào bây giờ? Long đáp:
- Ông ra
chuyến này, chẳng qua muốn vì ngài trấn thủ trước (chỉ quận Huy) mà trả thù bọn
kiêu binh. Nay kiêu binh đã diệt, ấy là chí ông đã thoả. Nếu ông có thể nhanh
chóng xoay lại đường lối đã định, khéo điều đình với quý quốc, khiến cho họ mãn
nguyện mà rút quân về rồi ông ở lại, chọn trong tôn thất họ Trịnh lấy một người
khá, lập nên làm chúa, còn ông thì sẽ làm phụ chính. Đó thực là cái công không mấy
đời có vậy!
Chỉnh
nói:
- Đúng!
Nhưng để tôi nghĩ xem đã. Bây giờ ông hãy về nhà, đi tìm người nào đáng nói,
rồi liệu mà sửa lời nói cho khéo, đợi lúc người ta thích nghe, thì ông có thể
dùng lời nói mà làm cho mình được vẻ vang đấy!
Long ra
khỏi, Chỉnh bảo với mọi người chung quanh:
- Rồng
[nghĩa của chữ "long" (tên Đỗ Thế Long)] thì phải đưa xuống nước,
không nên cho ở trên cạn để nó làm mê hoặc thiên hạ.
Rồi
Chỉnh sai người chặn bắt Long ở ngoài cửa, trói lại, đem ra dìm xuống giữa dòng
sông Nhĩ-hà.
Lại nói,
nguyên soái Tây Sơn ngay từ lúc mới đến Vị hoàng, đã làm tờ tâu nói rõ về ý tôn
phò và đã sai người bí mật dâng lên nhà vua. Người ngoài cũng nghe phong thanh
chuyện đó. Nhưng phần đông đều cho rằng lòng giặc khó lường, lời nói suông chưa
thể tin được. Bởi vậy, khi ấy quan, quân, lại, sĩ ở kinh thành ai cũng tranh
nhau mà chạy trốn. Người nào còn bận việc quan hoặc còn đang mắc cớ gì khác,
chưa kịp ra ngoài thành thì đến ngày 26, cũng hốt hoảng đeo bọc mang hòm chuồn
ra nốt.
Nhân lúc
rối ren, dân chúng ở xung quanh kinh thành tha hồ rủ nhau đón đường cướp bóc.
Ngựa xe, của nả của các họ hàng nhà chúa và của các đại thần, đại phu đều bị họ
lấy sạch, không biết bao nhiêu người chỉ còn trơ chiếc mình không mà chạy.
Còn bọn
kiêu binh, sau khi tan vỡ đều phải chạy trốn đi các nơi. Nhưng chúng đến đâu
cũng bị dân quê kể tội kiêu ngạo lộng quyền ngày trước và làm cho nhục nhã đủ
đường, không có ai chứa chấp.
Bữa ấy,
có một người cởi trần trùng trục cũng ở trong thành chạy ra, khi qua cửa ô bị
dân chúng trông thấy, họ liền chỉ mặt mà nói:
- Thằng
bụng phệ kia chẳng phải lính Nhưng, Kiệu (Nhưng và Kiệu là tên của hai cơ lính
trong hàng ngũ kiêu binh hồi bấy giờ) là gì, lôi cổ nó lại mà đánh chết đi!
Người ấy
vội đáp:
- Không
phải, ta là huyện uý huyện Thọ Xương đây!
- Người
ta thường nói "bụng to như bụng ông huyện", thật không sai! Người ấy
cũng cười rồi đi.
Ngày hôm
đó lính Thanh-Nghệ dắt díu nhau về quê, bị đói khát ở dọc đường, lại chết thêm
đến hàng trăm tên.
Riêng có
chi phái nhà vua, các gia thần nội điện, các lính tráng nội điện, cùng dân
chúng ở phố phường quanh điện, thì vẫn yên ổn như cũ.
Đến ngày
kinh đô bị mất, Bình vào thành, việc trước tiên là sai tỳ tướng đem một đội
quân vây giữ cung điện. Lúc ấy hoàng thượng đang ốm, các hoàng tử đều hầu hạ ở
trong điện. Thấy sân điện có quân lính đứng vây kín như bức tường, ngờ là địch
đến bức bách nhà vua, ai nấy vội vàng nâng hoàng thượng dậy, định dìu ra vườn
Tam Sơn ở mé sau điện mà trốn. Chợt thấy có viên tỳ tướng quì giữa sân, hai tay
nâng tờ tâu lên trán để tiến dâng; gia thần nội điện vội chạy ra đón lấy và đem
dâng vua xem. Trong tờ tâu, đại ý trước nói những lời thăm hỏi sức khoẻ nhà
vua, sau xin ngày khác sẽ vào ra mắt. Hoàng thượng xem xong tờ tâu, bấy giờ
trong lòng mới yên.
Tinh mơ
sớm hôm sau, Bình và Chỉnh cùng vào điện Vạn Thọ để ra mắt nhà vua. Quan hầu
vào tâu, hoàng thượng đang ở trong điện, sai người vén màn lên, đưa Bình vào
hầu ở sập ngự. Bình sụp xuống đất lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái. Hoàng
thượng sai hoàng tử nâng Bình dậy, và mời đến ngồi vào một chiếc sập khác ở bên
trái sập ngự. Bình nhún nhường không dám ngồi. Hoàng thượng phải hai ba lần dụ,
Bình mới ngồi ghé vào một góc chiếu cuối sập, một chân bỏ thõng xuống đất.
Hoàng
thượng uý lạo hết sức ôn tồn. Bình nói:
- Thần
vốn là một kẻ hèn mọn ở đất Tây Sơn, gặp thời nổi dậy, chưa từng được mặc áo
của bệ hạ, ăn lộc của bệ hạ. Nhưng vì thánh đức của bệ hạ tràn đi xa rộng, nên
thần tuy ở chốn mọi rợ mà cũng vẫn một lòng kính mến. Ngày nay được thấy mặt
rồng, cũng là bởi tấm lòng chí thành như hoa quì (Bình muốn nói: lòng luôn luôn
hướng về nhà vua như hoa quì luôn luôn hướng về mặt trời) của thần xui khiến ra
vậy. Vả lại, cũng vì họ Trịnh vô lễ, lấn ép nhà vua đã lâu, cho nên hoàng thiên
mới mượn tay thần diệt trừ họ Trịnh, để tỏ oai quyền của bệ hạ. May được thành
công như thế này, thực cũng là nhờ phúc lớn của bệ hạ đưa đến. Nay thần chỉ cầu
mong thánh thể khoẻ mạnh, coi trị thiên hạ, cho thần được hưởng nhờ chút phúc
thừa. Hoàng thượng đáp:
- Đa tạ
ông có lòng quá hậu đối với quả nhân, trèo đèo vượt suối từ xa đến đây, thật là
vất vả cho tôi tớ ngựa xe. Hiềm nỗi quả nhân ở ngôi thanh bạch giản dị, không
có gì để biếu tặng.
Bình
nói:
- Thần
vì nghĩa tôn phò mà đến đây, đâu dám kể công lao. Vả chăng, chuyến này thần ra
cũng là bởi ý trời, không phải sức người làm được. Nếu bảo là thần có hậu tình
riêng với bệ hạ mà kéo quân ra, thì đành rằng quân lính, thuyền bè, thần có thể
điều khiển được, nhưng đến chuyện nước lụt rút xuống, gió nồm mạnh lên, há phải
sức thần làm nổi? Đó thực là mệnh trời muốn bệ hạ thống nhất bờ cõi, để lưu lại
nền móng cho ức vạn năm sau. Từ nay thần xin bệ hạ sắp đặt giường mối, yên kẻ
trong, nuôi kẻ ngoài, để đưa cõi đời này lên cảnh thái bình. ấy là thần được
ban tặng nhiều lắm vậy!
Rồi Bình
ngoảnh về phía Chỉnh nói:
- Kia là
bề tôi cũ của bệ hạ đấy!
Chỉnh
liền ra trước sập ngự lạy chào.
Hoàng
thượng phán cho Chỉnh ngồi.
Bình lại
nói:
- Ông
này đội ơn tước lộc của bệ hạ tưởng chưa nhiều lắm. Vậy mà tấm lòng trung thành
của ông ấy đối với bệ hạ, thật là có một không hai trong nước Nam. Thần được
đến đây cũng chính là nhờ vào công sức giúp đỡ của ông
ấy một
phần lớn.
Hoàng
thượng nói:
- Chỉnh
biết trung nghĩa như vậy cũng là do ông gây dựng cho. Chỉnh rập đầu rằng:
- Thật
đúng như lời dạy của thánh thượng.
Hoàng
thượng vỗ về, an ủi hồi lâu nữa, rồi Bình cáo từ mà rằng:
- Hiện
giờ thánh thể không được khoẻ lắm, ứng tiếp mãi e rằng sẽ mỏi mệt. Thần xin tạm
lui về nơi đóng quân. Từ nay về sau, thỉnh thoảng thần lại xin vào chầu. Nếu bệ
hạ còn muốn hỏi han điều gì, thần xin cung kính đợi chờ thánh chỉ.
Hoàng
thượng nói:
- Quả
nhân có nước mà không được tham dự, khoanh tay rủ áo đã hơn bốn mươi năm. Nay
lại già lẫn, việc nước việc quân đều không quen thạo. Ông đã có lòng tôn phò,
thì hãy nên ở lại tệ quốc để giúp quả nhân, xin đừng ruồng bỏ!
Bình
đáp:
- Thần
chỉ vâng mệnh vua anh đi lấy Thuận Hoá; nay đã trót ra đây cũng là việc nhân
tiện mà làm, thần không dám ở lâu. Tuy nhiên, vì bốn phương còn rối loạn, nên
thần cũng phải đánh dẹp một phen cho yên đã rồi mới xin về. Hoàng thượng sai
trà đồng pha chè thết Bình. Bình ung dung uống chè, rồi lui ra. Chỉnh cũng ra
theo.
Trong
lúc ngồi chầu, Chỉnh nhận thấy các quan tản mát chẳng ra sao: Gia thần của
hoàng thượng thì không có người nào ứng đối nên lời. Còn về hoàng thân, chỉ có
Thanh nguyên hầu Lê Duy Thiều, áng sơn hầu Lê Duy Phục, mà cũng đều là những kẻ
tầm thường. Xem chừng không còn ra triều đình nữa. Về hàng quan văn, chỉ còn
hai người là Lê Duy Tân và Lê Duy Chiểu thì lại đều là những kẻ lêu lổng ở
Trường An, vì cùng khốn quá không cần phải trốn, mới vào nương nhờ trong nội
điện, rồi nhân có Thanh nguyên hầu tiến dẫn, nên được hoàng thượng dùng để coi
về việc giấy má. Đối với hai người này, bụng Chỉnh cũng đều không ưa. Chỉnh tự
nghĩ: "Gần đây, những triều thần có tham dự chính sự và hàng ngày mình
cũng đã biết, thì chỉ có Tứ xuyên hầu Phan Lê Phiên, Kiến xuyên hầu Trương Đăng
Quĩ, Thao đường hầu Uông Sĩ Lãng (còn có tên là Uông Sĩ Điển), Luyện đường hầu
Trần Công Thước, Thiêm sai Nhữ Công Điền, Hoàn quận công Nguyễn Hoàn, cả thảy
sáu người". Chỉnh bèn tâu xin hoàng thượng ban sắc gọi đến. Hoàng thượng
lập tức cho đi vời ngay mấy người ấy vào triều.
Phan Lê
Phiên và Nhữ Công Điền bị cách chức, ở nhà đã lâu. Nguyễn Hoàn, Trương Đăng
Quĩ, Uông Sĩ Lãng và Trần Công Thước đều ra lánh nạn binh đao ở ngoài thành.
Khi có chỉ nhà vua đòi, các viên ấy đều vâng mệnh tới kinh, riêng Nhữ Công Điền
lấy cớ mắc bệnh điên để từ chối.
Uông Sĩ
Lãng thấy chiếu vua đòi, ngỡ có sự quở trách gì, trước khi vào chầu, vội đem
chiếc ấn bộ Binh mà Lãng vẫn giữ, nộp cho Chỉnh để xin hàng. Nhưng Chỉnh trả
lại ấn và bảo cứ ra. Thế là từ đó, các viên ấy ngày ngày lui tới triều đình để
bàn việc nước. Những viên quan khác nghe tin, cũng đều lục tục đến kinh. Hoàng
thượng liền truyền cho tất cả các viên quan trong triều đều phải tuỳ công việc
mà giao thiệp với Bình.
Bình tự
nghĩ rằng mình ở nước ngoài xa xôi mới đến, chưa am hiểu phong tục tập quán của
xứ này; cho nên công việc giao thiệp với các quan trong triều, Bình đều nhất
nhất nghe theo Chỉnh. Một hôm Chỉnh nói với Bình rằng:
- Ngài
lấy danh nghĩa tôn phò nhất thống mà ra đây thiên hạ ai cũng mong ngóng. Nhưng
danh phải đi đôi với thực. Muốn cho nhất thống, thì những việc quân việc nước
đều phải do hoàng thượng quyết định, đó mới là cái thực của sự phò tôn. Ngài
nên làm cái gì cho rõ sự thực ấy đi. Hôm nọ, ngài vào ra mắt hoàng thượng ở
điện Vạn Thọ, mới chỉ là việc gặp gỡ riêng, chưa được tỏ rõ với thiên hạ. Nay
ngài nên chọn ngày lành, cử hành lễ chầu yết cho thiên hạ đều biết. Như thế mới
là việc quang minh chính đại.
Bình lấy
làm phải, bèn chọn ngày mùng 7 tháng bảy.
Đến
ngày, Bình xin hoàng thượng mở cuộc đại triều ở điện Kính Thiên, các quan đều
theo thứ tự đứng hầu. Bình tự dẫn các tướng sĩ theo cửa Đoan-môn đi vào. Sau
khi đã lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái, Bình dâng lên tờ tâu nói về công diệt
họ Trịnh, cùng các sổ sách quân, dân để hoàng thượng sai quan coi giữ.
Hoàng
thượng nhận lễ triều yết xong, truyền đưa tiễn Bình ra khỏi cửa điện, rồi bãi
triều.
Hôm sau,
hoàng thượng sai quan đem tờ chiếu đến tận chỗ đóng quân của Bình, phong cho
Bình làm nguyên soái phù chính dực vũ, Uy quốc công. Bình làm lễ bái mạng nhận
phong xong, liền sai sứ vào triều tạ ơn, rất là chu đáo.
Nhưng
sau đó, Bình bảo riêng với Chỉnh rằng:
- Ta đem
mấy vạn quân ra đây, chỉ đánh một trận mà dẹp yên được cả thiên hạ. Một thước
đất, một người dân của nước Nam, không có cái gì không thuộc quyền sở hữu của
ta. Ví phỏng ta muốn xưng đế, xưng vương, gì mà chẳng được. Sở dĩ ta nhường
nhịn không ở những ngôi ấy, là hậu đãi nhà Lê đó thôi! Cái chức nguyên soái,
quốc công, với ta có thêm được gì đâu? Phải chăng là nước Nam dùng cái danh hão
ấy để lung lạc ta? Nếu ta không nhận thì e hoàng thượng bảo ta là kiêu căng.
Song nhận mà không nói gì, thì người trong nước lại bảo ta là mọi rợ. Nên nhân
tiện nói chuyện, thì ta cũng nói cho rõ mà thôi!
Chỉnh
biết ý Bình không bằng lòng, bèn bịa ra lời riêng của hoàng thượng rồi vờ tiết
lộ với Bình rằng:
- Hoàng
thượng đã có ý bảo riêng với tôi rằng: nhà vua đơn bạc, không có vật gì đáng
tặng. Vẫn biết những cái danh tước nhỏ mọn, không đủ làm cho ngài sang thêm.
Song vì tục lệ trong nước vốn chuộng lễ nghĩa, nên cũng gọi là tỏ chút lòng
thành của hoàng thượng kính ngài mà thôi. Bản ý của hoàng thượng vẫn cho rằng
mình đã cao tuổi, sợ sau khi ngài về, không thể nương tựa vào ai, nên người
muốn nối liền tình thân hai họ, để cho hai nước đời đời kết tình thông gia giao
hảo với nhau. Nhưng vì chưa hiểu ý ngài thế nào, nên hoàng thượng vẫn còn trù
trừ chưa dám nói rõ.
Bình
đáp:
- Xưa
nay những kẻ chinh phu xa nhà, tình khuê phòng rất là cần thiết. Hoàng thượng
cũng xét đến chỗ ấy kia à? ừ! Em vua nước Tây, làm rể hoàng đế nước Nam,
"môn đương hộ đối" như thế, tưởng cũng không mấy người đã có được.
Mọi
người ngồi quanh Bình đều cười. Bình lại tiếp:
- Nhưng
nói đùa đó thôi! ý nghĩ ấy của hoàng thượng thật là mưu kế già giặn. Người muốn
cho hai nước hoà hiếu với nhau đấy mà.
Chỉnh
biết là Bình bằng lòng, bèn vào tâu với hoàng thượng, kể hết đầu đuôi như vậy,
rồi lại hỏi xem con cái hoàng thượng hiện còn mấy công chúa chưa gả chồng.
Nguyên
trong số những người con gái đẻ sau của hoàng thượng, còn có đến năm, sáu nàng
công chúa chưa chồng. Nhưng chỉ riêng có một nàng tên chữ gọi Ngọc Hân, là
người có sắc đẹp và nết na hơn cả. Hoàng thượng rất yêu quí Ngọc Hân, thường ngày
vẫn nói: "Con bé này ngày sau nên gả làm vương phi, không nên gả cho hạng
phò mã tầm thường!"
Lúc ấy
nghe lời Chỉnh nói, hoàng thượng trong bụng cũng ưng, bèn bảo Chỉnh:
- Con
gái chưa chồng của trẫm còn nhiều, nhưng chỉ có mình Ngọc Hân là có chút nhan
sắc. Tuy vậy, thói thường yêu con vẫn hay thiên lệch, chưa biết ở mắt người
ngoài thì ra sao. Ngươi hãy ở đây, để trẫm đòi cả ra cho mà coi qua, rồi tuỳ
người lựa xem người nào xứng đáng thì giúp cho thành việc đi! Rồi hoàng thượng
sai viên quan đứng hầu đi gọi các công chúa. Một lát, tất cả các cô con gái
chưa chồng của hoàng thượng đều ra hầu ở trước ngự toạ. Chỉnh liếc nhìn một
lượt, rồi nói:
- Được
rồi! Mối nhân duyên tốt lành này, thần xin làm mối, mười phần chắc xong cả
mười.
Rồi
Chỉnh về nói với Bình:
- Câu
chuyện riêng hôm qua tôi nói với ngài, nay tôi đã vào tâu với hoàng thượng,
Người vui mừng mà bảo tôi rằng: Nếu đã được ngài bằng lòng cho như thế, âu cũng
là duyên trời run rủi. Hiện hoàng thượng có nàng công chúa thứ chín, tuổi vừa
đôi tám, xin cho nương bóng nhà sau, hầu hạ khăn lược, để cho hai nước thành
thông gia, đời đời hoà hiếu với nhau. Bình nói đùa rằng:
- Vì dẹp
loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới
chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem
có tốt không?
Những
người cùng ngồi với Bình đều cười ầm. Chỉnh ra về, Bình lại nói thêm:
- Tôi
xin kính lạy dưới bệ hoàng thượng vạn tuế! ở nơi khe núi hẻo lánh xa xôi tới
đây, há dám đường đột như vậy? Bây giờ may sao được bám vào cành vàng lá ngọc,
thật là một mối duyên kỳ ngộ ngàn năm mới có. Kẻ ở khe núi này xiết bao mừng
rỡ.
Chỉnh
vào điện tâu lại với hoàng thượng. Hoàng thượng bèn gả công chúa Ngọc Hân cho
Bình.
Bình
chọn ngày mồng mười tháng ấy, sắp sẵn hai trăm lạng vàng, hai ngàn lạng bạc,
hai chục tấm đoạn màu, bày biện gươm giáo cờ quạt; rồi sai viên thị lang bộ
Hình đem các thứ lễ vật đó cùng một tờ tâu vào điện Vạn Thọ. Hoàng thượng cho
hoàng tử là Sùng nhượng công ra đó nhận lễ vật, làm lễ cáo ở nhà Thái Miếu,
định ngày hôm sau thì đưa dâu. Rồi hoàng thượng lại truyền cho các hoàng thân,
hoàng phi, công chúa và các quan văn võ, ai nấy đều phải sửa soạn ngựa xe, sớm
hôm đó đợi ở cửa điện, để đưa công chúa về phủ của Bình.
Sáng sớm
hôm sau, Bình lại sai quan đem một tờ tâu vào triều, xin cho làm lễ nghênh hôn.
Một mặt, Bình khiến quân lính đứng sắp hàng ở hai bên đường, từ cửa điện đến
cửa phủ. Trai gái trong kinh nghe tin, rủ nhau đi xem đông như ngày hội. Ai
cũng cho là việc hiếm có xưa nay. Khi xe của công chúa tới cửa phủ, Bình ngồi
kiệu rồng vàng ra đón, hết thảy mọi thứ lễ nghi đều theo đúng như lệ thường ở
các nhà. Sau khi công chúa vào cung, Bình sai đặt tiệc ở bên ngoài để thết các
vị hoàng thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn võ đi đưa dâu. Trong tiệc,
mọi người đều theo thứ bậc mà ngồi. Tiệc tan, Bình sắp riêng hai trăm lạng bạc,
sai quan ngỏ lời kính tặng các vị nhà gái, và đưa tiễn ra tận cửa phủ. Các quan
ra về, lại họp ở nhà công đường bộ Lễ, ai nấy đều khen nhà vua kén được rể tốt,
và bảo nhau: "Thế là từ nay nước An-nam ta đã có một nước dâu gia".
Công
chúa lúc mới về còn có vẻ bẽn lẽn e thẹn, nhưng sau rồi cũng quen. Hôm vào làm
lễ yết các vị tiên hoàng đế ở nhà Thái Miếu, Bình và công chúa gióng kiệu cùng
đi, lúc lễ xong lại gióng kiệu cùng về.
Bình vốn
có tính kiêu căng, chợt hỏi công chúa:
- Con
trai con gái nhà vua, đã có mấy người được vẻ vang như nàng?
Công
chúa đáp:
- Nhà
vua ít lộc, các con trai con gái ai cũng thanh bạch nghèo khó. Chỉ riêng thiếp
có duyên, lấy được lệnh công (tiếng gọi tôn trọng, chỉ Nguyễn Bình), ví như hạt
mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời được sa vào chốn lâu đài như thế này, là sự may
mắn của thiếp mà thôi! Bình nghe câu ấy, thích thú lắm.
Đến ngày
14, bệnh của hoàng thượng đã nguy kịch. Bình muốn nhân lúc nhà vua đang còn
sống, xin nhà vua nhận lễ chúc mừng về cuộc nhất thống để trong ngoài đều biết,
cho trọn vẹn cái công tôn phò của mình. Bình bèn chọn ngày rằm để đặt lễ đại
triều rồi dâng tờ tâu lên xin với hoàng thượng. Đúng ngày, triều đình bày cuộc
đại nhạc ở mé đông và mé tây đan trì (thềm sơn đỏ nơi cung điện nhà vua) Các lễ
quan sắp đặt đồ nghi vệ cực kỳ trang trọng, rồi xin hoàng thượng ra ngự chầu.
Sau khi các hoàng tử đã dìu hoàng thượng lên ngự toạ, ngoài điện nổ ba phát
súng làm hiệu lệnh, trăm quan đều lần lượt làm lễ mừng. Lễ xong, hoàng thượng
ban tờ chiếu nói về việc nhất thống sai đem dán ở ngoài cửa Đại hưng. Thần dân
thiên hạ thấy vậy đều khen "phúc, lộc, thọ khảo" (Phúc là điều tốt
lành, lộc là của cải, thọ khảo là sống lâu) của hoàng thượng thế là hoàn toàn
tốt đẹp.
Sau ngày
lễ ấy, bệnh của hoàng thượng càng nguy hơn, đã gần hấp hối. Công chúa mời Bình
vào thăm, Bình nói:
- Nay
tôi với hoàng thượng, nghĩa như cha con. Tôi thành thật muốn kịp thời vào thăm
khi hoàng thượng còn sống, để chiêm ngưỡng mặt rồng, cho tỏ tấm lòng lưu luyến.
Song, tôi mới từ xa tới đây, người trong nước chưa chắc đã tin hết cả. Hôm qua
hoàng thượng ra ngự chầu, ai biết thánh thể mang bệnh? Nếu như tôi vào thăm lại
chẳng may đúng lúc Người về chầu giời, há chẳng khiến cho tôi mang tiếng muôn
đời với thiên hạ ư? Chi bằng, nàng cứ về thăm hoàng thượng và nói rõ với các
anh em như thế, để ai nấy đều hiểu lòng tôi.
Công
chúa Ngọc Hân bèn từ biệt Bình về cung thăm vua cha.
Đêm đó,
hoàng thượng tinh thần tỉnh táo, bèn cho đòi hoàng tự tôn vào, dặn dò các công
việc lớn lao của nhà nước, lại cho đòi công chúa Ngọc Hân vào để dạy bảo về đạo
làm vợ. Trối trăng với con gái xong đâu vào đấy, đúng giờ mão ngày 17, hoàng
thượng băng ở điện chính tẩm. Bấy giờ hoàng thượng thọ 70 tuổi, ở ngôi vua được
47 năm.
Nhà vua
râu rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phượng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non;
tính nết hiền từ, giản dị. Khi còn làm hoàng tử, vì việc ông hoàng Lê Duy Mật
chống lại họ Trịnh, nên nhà vua bị chúa Trịnh nghi ngờ, đem giam vào nhà viên
nội thị Hồng quận công. Đến năm Canh thân (1740) Nghị tổ (tức Trịnh Doanh) lên
làm chúa, quận Hồng ra trấn Sơn Nam, chúa liền chuyển nhà vua đến giam ở nhà
cậu mình là Bính quận công (Vũ Tất Thận, cậu ruột Trịnh Doanh, em thái phi Vũ
thị). Khi chưa có lệnh ấy của chúa, một đêm quận Bính bỗng mơ thấy thiên tử tới
nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình.
Sớm hôm sau liền thấy quận Hồng cho giải hoàng tử đến giam ở nhà mình, quận
Bính hết sức ngạc nhiên, nghĩ rằng giấc mộng lúc ban đêm không phải là chuyện
tình cờ, bèn vào kể lại với chúa. Bấy giờ bốn phương đang loạn lạc, thế nước
ngả nghiêng, chúa thấy điềm lành ấy, muốn nhờ vào phúc đức của nhà vua để dẹp
cho yên thiên hạ, liền cho đón về, lập nên ngôi và đặt niên hiệu là Cảnh-hưng.
Sau khi
nhà vua lên ngôi, bốn phương dần dần dẹp xong, thiên hạ lại bình yên. Chúa biết
phúc của nhà vua rất lớn, nên càng hết sức tôn kính. Nhà vua cũng nhã nhặn,
khiêm tốn, tin cậy vào chúa. Thỉnh thoảng chúa lại dâng tiến thức nọ thức kia,
vì thế sự chi dùng của nhà vua cũng được thừa thãi.
Lúc nhà
vua ở ngôi, chẳng qua chỉ rủ áo khoanh tay, tìm trò mua vui chứ không có việc
gì phải lo. Nhà vua lại giỏi về các kỹ nghệ lặt vặt. Bao nhiêu cung điệu Nhạc
phủ, nhà vua đều chế ra bài mới, âm thanh cực kỳ du dương, trong sáng. Thường
khi nhà vua lại còn theo tranh Tam quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo
mác, chia thế trận ba nước Nguỵ, Ngô, Thục, rồi dạy họ các cách ngồi, đứng,
đâm, đỡ, để mua vui trong lúc thư nhàn.
Những
năm tuổi già, nhà vua bị Thánh tổ Trịnh Sâm đè nén đủ đường, người khác hẳn
phải tức giận không thể chịu nổi, nhưng nhà vua vẫn vui đùa như thường. Những
người gần gũi nhà vua thấy vậy đều can ngăn. Nhà vua liền đáp rằng:
- Các
ngươi mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà vua đối với nhà chúa, hiện nay
đang ở vào cái thế bị ngờ vực; nếu trẫm lấy việc mất quyền làm tức giận, thì
nhà chúa ắt phải ngấm ngầm tính việc chẳng hay. Vì vậy, trẫm phải mượn hứng vui
chơi như thường để tránh tai vạ đó thôi!
Có lần,
nhà vua lại nói với các cung nữ rằng:
- Trong
đời ta, thế nào cũng có phen được trông thấy cuộc nhất thống, nhưng đó chẳng
phải là điều mà ta vui mừng.
Các cung
nữ hỏi lại:
- Nhà
chúa chèn ép như vậy, nếu chúa bại là may cho nhà vua, cớ sao bệ hạ lại không
vui mừng?
Nhà vua
đáp:
- Trời
sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa, tức là cái
lo lại về ta, ta còn vui gì?
Khi Đoan
nam vương Trịnh Tông mới lên làm chúa, bọn kiêu binh có lần đã nghĩ đến cái mưu
tôn phò nhất thống và lén đến xin ý kiến nhà vua. Những người xung quanh cũng
đã khuyên nhà vua nên nghe theo mưu ấy. Nhưng nhà vua nói:
- Ta vì
thành thật nghe theo trời nên mới được như thế này. Những chuyện do ở mưu người
xếp đặt, ta quyết không làm. Nếu kẻ nào còn dám nói đến chuyện đó, trẫm sẽ lôi
sang cho chúa, để theo phép mà làm tội.
Vì thế,
mưu ấy mới thôi.
Đến hồi
này, thấy Bình làm việc tôn phò, nhà vua bề ngoài tuy mừng nhưng bề trong thì
lại lo. Những việc giao thiệp, tiếp đãi đều là bất đắc dĩ. Kịp đến khi bệnh
nặng, nhà vua bảo với hoàng tự tôn rằng:
- Ta chỉ
sớm tối là được trút hết gánh nặng, cái lo sẽ dồn cả vào thân mày, mày phải
nghĩ tới điều đó!
Lúc sắp
băng, nhà vua lại trối thêm:
- Sau
khi ta nhắm mắt, việc nối ngôi là việc trọng đại, chuyện gì cũng phải bẩm qua
với ông ấy, không được khinh suất.
Nói
xong, nhà vua băng. Hoàng tự tôn bèn lên nối ngôi vua.
Trước
đó, lúc công chúa Ngọc Hân mới về với Bình, Bình đã hỏi công chúa về đức tính
của các vị hoàng tử. Người nào thế nào, công chúa cũng đều kể thật với Bình.
Khi Bình hỏi đến nhân phẩm của hoàng tự tôn như thế nào, công chúa chưa thoát
khỏi thói thường của người đàn bà, nghĩ bụng anh thân hơn cháu, lại sợ hoàng tự
tôn sẽ cướp mất ngôi của Sùng nhượng công, bèn đáp:
- Nhân
phẩm của hoàng tự tôn cũng tầm thường thôi!
Do đó,
Bình có ý không thích hoàng tự tôn.
Đến khi
bệnh của hoàng thượng đã tới lúc hấp hối, triều đình bàn nhau lập hoàng tự tôn,
và sai người ra nói với Bình. Bình không nghe. Sứ giả quay về nói lại ý Bình,
cả triều bàn bạc phân vân, chưa biết quyết định ra sao. Thình lình trong bọn có
một người lớn tiếng nói rằng:
- Tự tôn
không được làm vua, thiên hạ ắt loạn. Họ Lê sẽ mất, ấy là lỗi tại công chúa
Ngọc Hân. Công chúa thực đã làm hại đến việc lớn của xã tắc, hãy xoá tên trong
sổ họ đi, để cho công chúa về nước Tây Sơn mà yên hưởng giàu sang, họ ta chẳng
thiếu gì một con người ấy!
Triều
đình nhìn xem ai, thì té ra là hoàng thân Vượng quận công.
Công
chúa sợ hãi, bèn về phủ xin với Bình. Bấy giờ Bình mới bằng lòng. Sau khi hoàng
thượng băng, trăm quan bèn phò tự tôn lên ngôi.
Hôm ấy,
Bình ở trong phủ, nghe tin hoàng thượng băng, liền sai lính thị vệ sắp sửa đồ
nghi vệ, xe kiệu, để chờ khi hoàng tự tôn được lập rồi, nếu có ai bên họ nhà
vua lại trình và mời sang lo việc tang, thì Bình sẽ sàng đi ngay.
Nhưng
hoàng tự tôn không hiểu ý đó, nên sợ phiền chẳng dám mời, mãi đến lúc khâm liệm
xong xuôi và cho vào quan tài rồi, mới bẩm với Bình.
Bình
giận vì không được mời trước, cho là hoàng tự tôn coi mình như người ngoài, bèn
sai ngay người vào triều bắt phải hoãn lễ đăng cực (lễ lên ngôi vua), có ý muốn
lập người khác. Sứ giả đến nơi thì lễ đăng cực đã xong, triều đình đem cái việc
đã rồi ấy báo lại với Bình. Bình càng tức liền đòi công chúa về phủ, rồi mắng
rằng:
- Tiên
đế là vua chung của thiên hạ, không phải là vua riêng của hoàng tộc. Ta thương
mến tiên đế, hôm qua vì tránh sự hiềm nghi không dám vào thăm; hôm nay muốn kịp
lúc chưa khâm liệm, tới nơi để được thấy mặt ngọc, cho trọn cái tình bố vợ con
rể; song tự dưng ta đến, e rằng không phải phép. Sao hoàng tộc lại gạt ta ra ngoài,
không thèm mời? Nếu không có ta, thử hỏi: Triều đình sẽ thành cái gì? Chính sự
sẽ ra cái gì? Cớ sao lại dám sơ suất như vậy? Ta thử bỏ đây mà đi, xem hoàng
tộc làm ăn ra sao?
Rồi Bình
lập tức truyền lệnh cho các quân thuỷ, bộ sửa soạn hành trang, để sớm hôm sau
rút quân về nước.
Công
chúa khóc lóc xin Bình ở lại, một mặt ngầm sai người tỏ bày ý kiến với tự
hoàng. Tự hoàng vội cho người ra phủ tạ lỗi và xin Bình ở lại. Bấy giờ, Bình
mới thôi việc rút quân.
Đến ngày
làm lễ thành phục, tự hoàng sai quan mời Bình vào tế.
Bình mặc
đồ tang, đứng ở trên điện tế, coi xét lễ nghi hết sức chu đáo. Lúc đang tế, có
viên tả phiên lại hơi có vẻ cười, Bình sai lôi ngay ra chém. Đại khái đối với
việc tang lễ, Bình hết sức kính cẩn như vậy.
Bấy giờ,
Bình đã ngấm ngầm có ý định muốn về, bèn nói với các quan trong triều rằng:
- Tôi
vâng mệnh vua anh đem quân ra ngoài cõi, đi hay ở không có kỳ hạn nhất định.
Tôi vì nghĩa tôn phù mà tới đây, may mắn đã làm xong việc. Nay tôi là chàng rể,
muốn ở cho hết đạo hiếu với bố vợ. Làm cho xong sớm việc tang tế kịp khi tôi
chưa rút về, để cho trung hiếu vẹn cả hai bề, đó là ước muốn của tôi vậy.
Các quan
đều nói:
- Chúng
tôi xin vâng mệnh!
Rồi họ
liền chọn ngày để đưa tử cung xuống thuyền.
Còn Bình
thì suốt ngày đêm sắm sửa cho lễ táng, các đồ tế lễ tuy đơn sơ, giản dị, nhưng
lễ nghi thì đều đầy đủ không thiếu sót gì.
Đến ngày
đưa đám, Bình tự cưỡi voi, đem ba ngàn quân, hộ tống tử cung đến bến đò, rồi
chờ cho lễ rước tử cung xuống thuyền xong xuôi đâu đấy, mới quay trở lại.
Lúc công
chúa Ngọc Hân về phủ, Bình nhơn nhơn ra vẻ tự đắc mà rằng:
- Tiên
đế có hơn ba mươi người con trai, ngày nay báo hiếu lại chỉ ở một người con
gái, nào có ai giúp đỡ cho được mảy may? Người xưa thường bảo "Con gái làm
rạng rỡ cho nhà cửa", quả cũng đúng thật!
Công
chúa cảm tạ và nói:
- Nhờ
công đức của thượng công, thiếp được báo hiếu với hoàng khảo, mở mặt với anh
chị em. Tục ngữ vẫn nói: "Trai không ăn mày vợ, gái phải ăn mày
chồng", chính là như thế đó!
Bình
nghe nói, thích lắm. Chợt có tin báo vua Tây Sơn sắp ra. Bình vội sai Chỉnh cho
dán yết thị khắp kinh thành, nói là: "Thiên vương tuần du ra Bắc để xem
xét phong tục, khoảng mười ngày nữa sẽ tới. Vậy bố cáo cho cả trong ngoài đều
biết". Một mặt, Bình sai người tâu với tự hoàng, xin cho văn võ trăm quan
ra ngoài cửa ô đón tiếp.
Ngày
mồng năm tháng Tám, vua Tây Sơn đến kinh thành (ở một bản khác, thấy có thêm
một đoạn như sau: "Hoàng thượng thân hành ra đón ở cửa Nam-giao và sai
quan khâm mạng đứng ở bên đường, sau đó ngỏ lời chào mừng, rồi đi về. Chúa Tây
Sơn sai người đáp lại, rồi truyền đánh xe vào thành").
Vua Tây
Sơn chẳng quản muôn dặm đường xa tới đây, mà coi bộ lại hết sức hối hả, vội vã;
mọi người đều không hiểu duyên cớ làm sao?
Thật là:
Cá kình vượt biển giương vây nhảy,
Cọp dữ lìa rừng mượn cánh bay.
Chưa
biết vua Tây Sơn đến về việc gì? Xin xem hồi sau phân giải.
Hồi 6
Chúa Tây Sơn lẻn rút quân về nước
Quân Đông Giang mưu khởi nghĩa phò vương
Lại nói,
khi Thuận Hoá mới vỡ, vua Tây Sơn nhận được thư báo tin thắng trận của Bình.
Đại ý bức thư viết như sau: "Lũ thần vâng theo mưu mô của miếu đường, lại
kính nhờ về oai trời thiêng liêng, Thuận Hoá, đã dẹp yên, thiên hạ đều rung
động. Nay ở Bắc Hà quân kiêu tướng lười, thế có thể lấy được. Thần cúi xin mạn
phép tuỳ tiện, đã uỷ cho hữu quân Nguyễn Chỉnh đem tiền bộ thuỷ binh đi trước,
thẳng tới Sơn Nam. Riêng thần hiện đang chiêu mộ nhân dân các vùng ven biển,
chọn lấy đinh tráng để tăng thêm thế lực cho quân ta. Hẹn trong ít ngày sẽ dẹp
yên xứ Bắc Hà. Còn quan ải, thành quách xứ Thuận Hoá, hiện đã giao cho Đông
định công (tức Nguyễn Lữ, em thứ ba của Nguyễn Nhạc) coi giữ. Vậy xin bề trên
ban cho chiếu chỉ để thần tuân theo".
Vua Tây
Sơn xem thư, mừng rằng việc đã thành công, nhưng lại ghét cái chỗ tự chuyện của
Bình. Vả lại, vua Tây Sơn vốn đã biết Bình là người khôn ngoan, giảo quyệt, sợ
Bình lấy được Bắc Hà, lúc trở về ắt sinh ra kiêu căng, khó kiềm chế. Vua Tây
Sơn lại còn nghĩ rằng: "Nhà mình đời đời vẫn ở Nam Hà, được xứ Thuận Hoá
là nơi bờ cõi cũ, đủ rồi; không cần lấy thêm một nước lớn nữa làm gì. Ví dụ có
lấy được, chưa chắc đã giữ được, vạn nhất vấp ngã một cái, thì sự tai hại không
phải là nhỏ". Do đó, vua Tây Sơn liền sai người hoả tốc mang thư ra ngăn
Bình. Nhưng khi người đưa thư tới nơi, thì Bình đã thân hành đem đại quân,
thuận theo gió nồm trẩy ra Bắc rồi. Tiếp được tin này, vua Tây Sơn càng không
hài lòng.
Qua ngày
hai mươi sáu tháng sáu khi kinh sư bị vỡ, Bình lại gửi thư báo tin thắng trận
về Tây Sơn. Trong thư đại khái nói rằng: "Trước đây thần vâng mệnh cho
phép tuỳ tiện đem quân ra dẹp Bắc Hà, trông nhờ vào oai danh của vương huynh,
chỉ đánh một trận mà thắng. Nay nhà Trịnh đã diệt, thiên hạ thu về một mối,
thần thể theo lòng ước muốn của người trong nước, phò lập nhà Lê, cho họ yên
lòng. Bây giờ trong nước mới tạm yên, thần xin để cho quân lính được nghỉ ngơi,
tạm đóng tại kinh đô nước họ, để vỗ yên dân chúng và cắt đặt mọi việc cho đâu
vào đấy. Chờ đến dịp thu đông thuận gió, thần lại xin kính cẩn đem quân về
nước".
Bức thư
đến Tây Sơn vào ngày mười bốn tháng bảy. Vua Tây Sơn tiếp được thư, hết sức lo
ngại, nghĩ bụng: "Bình luôn luôn lập được chiến công, đã làm cho hắn thêm
kiêu ngạo. Huống hồ trong tay hắn lại nắm giữ đạo quân lớn, chuyên chế ở ngoài
muôn dặm. Rồi Võ Văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh, những viên tướng dũng mãnh, mưu
trí lại đều thuộc quyền sai khiến của hắn. Nếu cứ buông lỏng cho hắn bay nhảy ở
ngoài, lâu dần ắt phải sinh ra những việc không hay. Nhưng khí thế của hắn như
thế, không thể dùng một lá thư mà gọi về được. Nếu mình không thân hành ra Bắc,
bắt hắn phải về, ấy là thả hùm ra khỏi cũi, không bao giờ còn có thể nuôi dạy
được nữa vậy. Thế rồi, luôn trong bữa đó, vua Tây Sơn tự đem năm trăm tên lính
thị vệ ra thẳng Phú Xuân. Tới nơi, lại lấy thêm hơn hai ngàn quân Phú Xuân đi
gấp ra kinh sư. Đoàn quân tất tưởi kéo đi, dáng dấp tiều tuỵ, người ta không
còn nhận ra đó là đám quan quân nào nữa.
Lúc vua
Tây Sơn tới cửa biển Hội Thống ở trấn Nghệ An, có người dân quê đem ít đồ biển
xin ra mắt, nói rằng:
- Chúng
tôi thấy quan lớn đi qua, nhân có chút quà mọn, gọi là tỏ tấc lòng thành kính.
Vua Tây
Sơn tính vốn thật thà, không quen ăn nói văn hoa, thấy vậy, liền đáp:
- Tôi
không phải là quan lớn, tôi là họ ngoại của chúa Nam Hà (Chúa Nam Hà chỉ vào họ
Nguyễn, vì Nhạc gả con gái cho thế tử Dương của chúa Nguyễn, nên tự xưng là họ
ngoại), vẫn quen gọi là biện Nhạc ấy mà! Các người hậu tình, thấy tôi đi xa,
lương khô, ăn nhạt, mà đem cho những món ngon lành thế này, cám ơn lắm, cám ơn
lắm!
Rồi lại
hối hả đi luôn.
Thình
lình thấy một bọn chừng vài chục người, kẻ nào cũng lưng đóng khố, tay cầm đòn
ống, mình trần trùng trục đứng ở ven đường. Chờ cho vua Tây Sơn đi qua, bọn đó
liền kêu lớn lên rằng:
- Chúng
tôi về Nam, bị Chưởng Tiến (một lục lâm hảo hán ở Nghệ An hồi ấy) đòi tiền mãi
lộ, lấy hết của cải rồi.
Vua Tây
Sơn hỏi:
- Nó đâu?
Bọn đó
đáp:
- Nó lấy
được của xong, vội vàng chạy vào trong dãy núi kia!
Vua Tây
Sơn liền sai một tốp lính đuổi bắt. Vừa đến một chỗ núi hiểm, mấy chục người đó
đều rút dao kiếm trong đòn ống ra và reo lên:
- Chúng
bay đã biết bọn tao hay chưa; bọn tao đều là các bậc đàn anh trong đám thủ hạ
của Chưởng Tiến. Hôm nay đến để chặt cái đầu của lũ "lông đỏ" (không
hiểu sao lại gọi Tây Sơn là "lông đỏ" (hồng mao), chưa tra cứu ra.
Trong Đại nam quốc sử diễn ca thấy có câu tả cách ăn mặc của quân Tây Sơn như
sau: "Quân dung đâu mới lạ nhường; Mão mao áo đỏ chật đường kéo ra".
Có lẽ tác giả đã căn cứ vào cách ăn mặc đó (mũ lông áo đỏ) mà gọi Tây Sơn là
"hồng mao" chăng?) chúng bay đây.
Vừa reo
họ vừa xông vào đâm chém, dao kiếm vung lên tua tủa, quân Nam bị đánh bất ngờ,
thua chạy liểng xiểng.
Vua Tây
Sơn cả sợ, từ đó, trên đường hành quân không dám vào ngủ trong nhà dân nữa; tối
đâu giăng màn ra giữa đồng ruộng ở đó mà ngủ, còn các quân sĩ thì đều ngủ ngoài
trời.
Bởi lẽ
đó, khi tới kinh sư, cả đoàn quân chỉ còn là một lũ nửa người nửa ngợm, mặt mũi
hốc hác, coi không ra bộ quân của vua chúa nữa.
Thấy
vậy, thiên hạ đều đồn đại lung tung. Kẻ thì bảo thành Tây Sơn đã bị nhà Nguyễn
phá vỡ, vua Tây Sơn vì không giữ được nữa nên phải chuồn ra đây. Người thì nói
Bình dùng mưu chước gian dối, mượn một kẻ khác giả làm vua anh để thêm thanh
thế cho mình. Hào kiệt thiên hạ và những kẻ coi giữ châu quận ngầm nuôi binh
mã, đều muốn dò xem thực hư thế nào, để tìm cách bắt lấy; nhưng rốt cuộc cũng
không ai biết rõ tình hình.
Lúc vua
Tây Sơn mới đến kinh, Bình ra tận ngoài ô đón tiếp và tạ cái tội tự chuyên của
mình. Vua Tây Sơn nói:
- Tướng
ở bên ngoài, nếu gặp việc có ích lợi cho nước nhà thì cứ tự ý mà làm cũng được.
Bắc Hà có thể lấy, mà ông lấy ngay được, đó là chỗ thần diệu trong phép dùng
binh. Vả lại, ông trèo đèo lội suối đi hàng muôn dặm để mở mang bờ cõi cho đất
nước rộng thêm; thủ đoạn anh hùng như vậy, anh thực không thể nào sánh kịp.
Nhưng mà, mình đi đánh nước khác, kéo quân vào sâu trong xứ sở của người ta,
một chốc làm thay đổi hết nền nếp cũ của họ như thế; tránh sao khỏi sự thù oán
của muôn họ. Anh luôn luôn lo ngại đến những việc bất ngờ có thể xảy ra, vì vậy
phải lật đật ra ngay đây để nghĩ kế đỡ ông.
Rồi hai
anh em cùng gióng ngựa đi vào thành.
Tới phủ,
Bình dắt công chúa Ngọc Hân ra chào và nói hết cả sự thật với anh. Vua Tây Sơn
khen:
- Chà,
em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam, "môn đương hộ đối" mối nhân duyên
đẹp thật!
Rồi lại
bảo công chúa rằng:
- Người
quí giá như thế này, thực không hổ là cô em dâu của nhà ta.
Hai
người ôn tồn trò chuyện thân mật như anh em nhà thường dân vậy. Hồi lâu, công
chúa cáo từ lui ra. Bình sai quây màn ở cung chính tẩm, mời anh vào nghỉ; còn
tự mình thì chuyển ra ngủ ở gác Kỳ-lân.
Quân
lính của Bình đem đi trước đây, các đội ngũ đều đã thay đổi một lượt. Đến lúc
này, Bình đem binh phù nộp cả cho anh. Vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong
tay rồi, bèn bố trí lại đội ngũ y như cũ, còn sự thay đổi mới đây của Bình thì
vờ như không hay biết gì cả. Thế là từ đó, bao nhiêu tướng sĩ lại đều chỉ nghe
theo mệnh lệnh của "ông vua lớn".
Được ít
bữa, vua Tây Sơn liền bí mật cùng với Bình bàn chuyện rút về. Bình đành phải
vâng theo. Các tướng tá chỉ riêng có Võ Văn Nhậm được biết việc kín này, còn
Chỉnh thì không được dự nghe.
Lại nói,
lúc mới tới kinh, Chỉnh và Nhậm đều đóng ở lầu Ngũ-long. Nhậm đóng trước lầu,
Chỉnh đóng sau lầu.
Chỉnh
vốn là người bản quốc, nhiều kẻ quen thuộc, nên người trong nước chỉ biết có
Chỉnh. Quan lại, dân chúng, ai đến ra mắt đều vào cửa Chỉnh. Sau lầu
thường
đông như chợ; mà trước lầu nơi Nhậm ở thì chẳng có lấy một ma nào lui tới. Việc
ấy làm cho Nhậm có vẻ không thích. Thấy vậy, Chỉnh phải sai một tên thư lại mới
vào làm việc, ngày ngày ngồi chực ở cửa Nhậm để mời khách đến chỗ Nhậm, nhưng
khách vẫn không đến, Chỉnh bất đắc dĩ lại phải xoay cách khác. Hễ khách nào tới
thăm Chỉnh, sau khi đã thù tiếp xong. Chỉnh lại sai đưa người khách kèm theo đồ
lễ đến cửa Nhậm. Nhưng rốt cuộc Nhậm vẫn không bằng lòng. Chỉnh bèn dời chỗ ở
sang chùa Tiên Tích (ở xóm Nam Ngư, huyện Thọ Xương. Nay là đường Nam Bộ, Hà
Nội).
Sau
chuyện này, Nhậm bèn đem những lời gièm pha Chỉnh mà nói với Bình rằng:
- Hắn là
một kẻ bầy tôi đi trốn, chạy về với mình, muốn mượn sức của mình trả thù cho
thầy, để hả cái lòng căm tức với nước cũ. Nay mình rong ruổi hàng muôn dặm, đưa
hắn về nước, vẽ mày vẽ mặt cho hắn. Thế mà khi hắn đã đạt được chí nguyện,
những người trong nước vào hùa với hắn, có kẻ lại đem hai câu đối: "Hổ tự
Tây Sơn xuất, Long tòng Đông-hải lai" (hổ từ non Tây ra; rồng ở biển Đông
lại) ở tháp chùa Thiên Mụ của nhà Nguyễn, để bảo ông là hổ, hắn là rồng. ý nói:
"Hổ lìa khỏi núi thì thất thế, rồng ra khỏi biển vẫn vẫy vùng". Thế
là chẳng những hắn không chịu để mình dùng, mà lại còn có chí ngang tàng nữa.
Bây giờ mình giam mấy vạn người ngồi ăn không ở đây, để giúp cho hắn gây nên
thế lực, nghĩ cũng khờ dại quá! Tôi nghe người trong nước này oán hắn rất sâu
sắc, sở dĩ họ chưa nổi dậy là vì còn sợ mình đó thôi. Nếu mình bỏ hắn mà về,
người nước này hẳn sẽ tranh nhau nhai thịt hắn. Và hắn thường nói: "Nhân
tài Bắc Hà chỉ có mình hắn". Để cho hắn chết, mình lấy Bắc Hà sẽ càng yên
ổn.
Bình tin
lời Nhậm, nên từ đó đối với Chỉnh tuy ngoài mặt vẫn như thường, nhưng trong
lòng thì rất ngờ vực.
Quân Nam
vì đi xa cũng rất oán Chỉnh, ngày đêm mong cho Bình giết Chỉnh. Rồi họ biết thế
nào Bình cũng đưa Chỉnh đến chỗ chết, nên họ khinh Chỉnh ra miệng. Một hôm, bọn
người trong nước vào hùa với Chỉnh, có kẻ mang binh phù của Chỉnh cấp băng qua
khu đất cấm; khi bị quân Nam gạn hỏi, người ấy đáp:
- Tôi có
binh phù của quan hữu quân cấp cho đây!
- Hữu
quân là ai? Có phải Hữu Chỉnh không? Được, cứ đợi đấy nửa tháng nữa mà xem hữu
quân của các anh!
Chỉnh
nghe được chuyện đó, bèn sinh ra hai lòng với Bình. Vả Chỉnh cũng đã tính toán,
biết rằng sớm muộn thế nào rồi Bình cũng phải đi, mình sẽ không thể ở lại kinh
sư một mình được. Vì vậy, Chỉnh ngầm có ý muốn chiếm cứ Nghệ An, bèn mật tâu
với hoàng thượng rằng:
Thần đem
hắn ra, chỉ vì việc tôn phù. Bây giờ việc đã xong, thần quyết không theo hắn
nữa. Chắc thế nào hắn cũng rút về, mà khi hắn đã về rồi, thì trấn Nghệ An tức
là một bức phên giậu ở bên cạnh giống sài lang. Vậy xin bệ hạ cho thần vào đấy
trấn thủ, một mặt Nam Hà thần xin đương cả!
Kịp đến
khi nghe tin vua Tây Sơn ra. Chỉnh lại đoán là vua Tây Sơn sẽ cướp ngôi của
hoàng thượng và chiếm cứ đất nước. Rồi muốn dựa vào vua Tây Sơn để tránh tai
vạ, Chỉnh bèn khuyên hoàng thượng nên sắp sẵn ngọc tỷ mà ra hàng, lại giục các
quan trong triều thảo gấp một tờ biểu xin hàng. Triều đình bàn bạc mấy ngày
liền chưa quyết không ai dám hạ bút trước. Lúc vua Tây Sơn tới nơi hoàng thượng
thân hành ra đón ở cửa ô phía Nam. Ngài đứng ở trong cửa ô, sai hoàng thân là
Thanh nguyên hầu quỳ ở mé bên trái đường đi, để chào và nói thay hoàng thượng.
Vua Tây Sơn khi qua cửa ô không đáp lễ, cứ giục ngựa đi thẳng và cho một người
quay lại nói rằng:
- Quả
quân thấy nhà vua lễ độ quá, sợ rằng nếu xa giá ở lại chậm trễ, hoặc giả làm
phiền cho quý thể phải quỳ lạy mệt nhọc, rồi quả quân lại mang tiếng là thất
lễ. Bởi thế, quả quân phải vội vã đi ngay. Xin ngự giá hãy cứ về cung, ngày
khác thong thả sẽ cùng gặp nhau.
Hoàng
thượng thấy vậy, biết vua Tây Sơn còn ưu đãi mình, nên khi về cung không bàn
đến việc đầu hàng nữa.
Hôm sau
vua Tây Sơn sai bày ở phủ đường ba chỗ ngồi. Chiếc sập của vau Tây Sơn kê ở
chính giữa, bên trái là ghế của hoàng thượng, bên phải là ghế của Bình. Hai bên
có hai hàng giáp sĩ đứng hầu cực kỳ nghiêm chỉnh.
Cuộc hội
kiến này dùng lễ "hai vua gặp nhau", không ai phải lạy ai. Khi hoàng
thượng ngự giá đến cửa phủ, vua Tây Sơn sai viên quan hầu ra đón. Hoàng thượng
đi bộ vào trước thềm; vua Tây Sơn đang ngồi vội bước xuống đất và đứng sang bên
cạnh sập để tỏ ý kính lễ; rồi sai Bình xuống dưới thềm đón tiếp và mời hoàng
thượng vào ghế. Mọi người đã ngồi yên chỗ, vua Tây Sơn liền hỏi:
- Hoàng
thượng năm nay xuân thu độ bao nhiêu?
Viên
quan đi theo đáp thay hoàng thượng, rồi nhân đó nói tiếp rằng:
- Quốc
quân họ Lê chúng tôi gặp phải họ Trịnh lấn quyền lộng thế, mũ dép đảo lộn đã
lâu. May nhờ thánh thượng là bậc chí nhân đại nghĩa, sai tướng ra quân, vì quốc
quân chúng tôi mà chỉnh đốn lại cơ đồ. Hiện nay đất đai cùng dân chúng nước Nam
đều là do thánh thượng gây dựng lại. Nếu như thánh thượng muốn thu nhận một vài
quận ấp của nước tôi để làm quà khao thưởng quân sĩ, thì quốc quân chúng tôi
xin nhất nhất vâng mệnh.
Vua Tây
Sơn đáp:
- Tôi
nghe ngày xưa đức Thái tổ mở mang ra nước Nam Việt, công đức như trời. Tôi tuy
ở xa khuất tại miền biển phương Nam, song cũng là đất của đức Thái tổ khai
thác. Tôi vì giận kẻ cường thần hiếp chế nhà vua, nên phải làm việc tôn phò.
Nếu là đất của họ Trịnh, một tấc tôi cũng không để; còn đất của nhà Lê, thì một
tấc tôi cũng không dám lấy. Tôi nghĩ rằng nước ta đây mới dẹp yên, còn có nhiều
việc cần phải sửa sang, vì vậy tôi phải ra để giúp đỡ nhà vua. Sau khi bốn
phương đã phẳng lặng, anh em tôi lại xin rút về nước. Bây giờ chỉ mong nhà vua
chấn chỉnh giường mối triều đình, giữ yên bờ cõi, cùng nước tôi đời đời kết
nghĩa láng giềng, như thế là phúc cho cả hai nước vậy.
Viên
quan theo hầu hoàng thượng lại thay lời mà rằng:
- Thánh
thượng nghĩ đến công đức của tiên hoàng đế, ra ơn nối lại dòng dõi, khiến cho
cơ đồ của tiên hoàng đế không đến nỗi tuyệt diệt; ơn ấy của thánh thượng thật
là vô cùng. Quốc quân chúng tôi và các bề tôi xin đời đời giữ tình láng giềng
hoà hiếu, không dám sai trái.
Vua Tây
Sơn sai trà đồng pha trà đệ lên các ghế. Hoàng thượng uống trà xong, ung dung
cáo từ ra về.
Vua Tây
Sơn đứng dậy từ biệt. Bình tiễn hoàng thượng xuống thềm, vua Tây Sơn đi theo
một quãng, rồi né mình bước giật lùi về chỗ, sai viên quan hầu đi hộ vệ hoàng
thượng ra khỏi cửa phủ.
Hoàng
thượng lên kiệu về cung, rồi sai các quan trong triều tới ra mắt vua Tây Sơn.
Vua Tây Sơn lần lượt hỏi hết quan chức, họ tên từng người. Các quan trả lời
xong, vua Tây Sơn liền nói rằng:
- Tôi
nghe nói ở nước An Nam, tiến sĩ là quí nhất. Thế các ông có phải là tiến sĩ
không? Tôi sẽ nói với nhà vua cho xin may ông đem về để dạy dỗ người trong
nước. Vậy các ông có chịu đi theo tôi không?
Các viên
quan trong triều đều thưa:
- Quốc
quân chúng tôi bảo sao chúng tôi phải nghe làm vậy. Dẫu rằng sang đông, sang
tây, sang nam, sang bắc, đi đâu chúng tôi cũng không dám chối. Vua Tây Sơn lại
hỏi:
- Các
ông lúc mới thấy tôi đột ngột ra đây như thế, có ngờ tôi không?
- Thánh
thượng đã sai thượng công ra phò lập nhà Lê, việc ấy rõ ràng lắm rồi, lũ chúng
tôi đâu còn dám ngờ.
Vua Tây
Sơn nói:
- Ai ngờ
tôi, kẻ ấy là người ngu! Chúa Trịnh bắt quân đi hàng muôn dặm, cố chiếm lấy đất
Thuận Hoá, lấy nước lớn làm hại nước nhỏ, nên mới dẫn đến cái vạ ngày nay. Gương
ấy há có xa đâu? Tôi nếu tham đất nước Nam, như vậy là lấy nước nhỏ mà hại nước
lớn, còn mong lâu bền sao được? Giả sử đời tôi giữ được đi nữa, thì đến đời con
cháu tôi cũng không thể nào giữ nổi. Tôi có ngu gì mà lại nuôi cái mầm vạ ấy?
Chẳng bao lâu nữa anh em tôi sẽ về, các ông nên giúp rập nhà vua cho yên thiên
hạ. Hai nước chúng ta sẽ kết nghĩa láng giềng, giữ vững tình hoà hiếu, để cùng
hưởng phúc thái bình! Các quan đều ca ngợi:
- Sách
có nói rằng: "Bậc thánh nhân không chăm lo đến việc lập công ở phương
xa". Thánh thượng nghĩ tới chỗ đó, thật là vượt quá người thường đến muôn
vạn lần. Nhưng quốc quân chúng tôi hiện còn trẻ tuổi, nhiều việc chưa quen
thạo, lũ chúng tôi lại đều là những kẻ tài hèn; thánh thượng nếu đã giúp cho
nước tôi được còn, xin hãy tạm lưu lại đây, để vua tôi nước chúng tôi nhờ cậy
vào oai linh của thánh thượng. Bao giờ bốn phương đều yên, giường mối đã dựng
lại, bấy giờ ngự giá hãy về cũng chưa muộn. Vua Tây Sơn nói:
- Có về
cũng còn hàng năm hàng tháng, há phải đâu là chuyện ngày một ngày hai? Các ông
chớ vội lo!
Các quan
lạy tạ lui ra, rồi cùng bàn riêng với nhau: kẻ thì cho lời vua Tây Sơn nói là
thật, người thì bảo lời vua Tây Sơn nói là giả; đại để cũng chỉ đoán có hai
việc là ông ta đi hay ở lại, mà cứ hư hư thực thực, chẳng ai biết đích xác như
thế nào cả.
Nhưng
người trong nước biết rõ hay không biết rõ, vua Tây Sơn cũng chẳng cần. Chỉ
riêng có Nguyễn Hữu Chỉnh là người trong bọn, lại là tay quỷ quyệt, nên vua Tây
Sơn mới phải tìm đủ mọi cách để kiềm chế mà thôi.
Lúc này,
trong bụng vua Tây Sơn rất nôn nóng muốn về, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra vẻ ung
dung, thư thái. Sau lễ tiếp kiến, vua Tây Sơn sai Chỉnh chọn ngày tốt, để vào
làm lễ ra mắt ở nhà Thái-miếu. Chỉnh xin chờ đến sau tết Trung thu, vua Tây Sơn
cũng bằng lòng. Rồi nhân nói đến chuyện hôn nhân của Bình, vua Tây Sơn bảo
Chỉnh:
- Chú
hai ra đây, được ngươi làm mối cho cô vợ đẹp; riêng ta lại không ư? Chỉnh thưa:
- Chỉ sợ
thánh thượng chê gái Bắc Hà quê mùa mà thôi. Nếu như thánh thượng rộng lượng
bao dong, thì sự đó cũng chẳng phải là khó!
Vua Tây
Sơn cười mà rằng:
- Thế
thì ngươi còn nợ ta đấy, phải trả mau đi nhé!
Chỉnh
thấy lời lẽ của vua Tây Sơn có vẻ ung dung thong thả, do đó cũng yên lòng, bèn
xin lui về.
Ngày 17
tháng ấy, vua Tây Sơn bí mật hạ lệnh cho tất cả các quân thuỷ, bộ đều phải sửa
soạn hành trang nai nịt gọn gàng. Rồi sợ Chỉnh ở ngoài thấy rõ tình hình sinh
nghi, vua Tây Sơn bèn cho đòi Chỉnh vào hầu, giữ chân Chỉnh từ sáng đến tối,
người ngoài không được vào, tin ngoài không cho tới. Vì thế nên mọi việc xảy ra
ở bên ngoài, Chỉnh đều không biết gì hết. Đến khuya, vua Tây Sơn mới thả cho
Chỉnh ra. Kịp đến khi Chỉnh về nhà, người nhà có kẻ báo cho Chỉnh biết việc vua
Tây Sơn sắp về, thì Chỉnh còn nửa tin nửa ngờ nói:
- Ta
suốt ngày ngồi hầu, chuyện trò rất thư thái, làm sao lại có sự lật đật như vậy
được?
Đến canh
hai đêm ấy, vua Tây Sơn cho người vào gõ cửa điện, ngỏ lời từ biệt hoàng
thượng, nói là sớm mai rút quân về Nam. Vậy mà Chỉnh cũng vẫn không biết gì cả.
Trước đó
hơn mười ngày, đêm nào ở trại quân Nam cũng nổi chiêng trống vang trời, nhưng
sang đến đầu canh hai thì chỉ còn thưa thớt vài tiếng, rồi từ canh ba trở đi
thì lặng như tờ, không còn tiếng nào nữa. Vì thế, mỗi hôm cứ vào quãng nửa đêm,
người trong kinh lại tưởng là quân Tây Sơn ngầm rút đi rồi; nhưng đến sáng ngày
mai thì lại thấy doanh trại vẫn y nguyên. Từ đó về sau ai cũng cho là thường,
không hề để ý. Mà tiếng trống canh cũng không còn lấy gì làm chuẩn xác nữa.
Phép
quân Tây Sơn, lệnh cấm ban đêm rất ngặt. Thám tử của Chỉnh mọi đêm đều không
được ra ngoài. Đêm ấy, khoảng đầu canh năm, bọn thám tử của Chỉnh liều mạng
xông ra đường không kể gì lệnh cấm; khi vượt qua mấy điếm canh, vừa đi vừa nghe
ngóng thì thấy tất cả đều vắng lặng không có tiếng người. Chúng đi vòng đến cửa
phủ, ngó khắp bốn phía cũng không thấy có người nào, mà chỉ thấy gáo mẻ nồi vỡ
vứt bừa bãi trên đường. Chúng vội vàng đi ra bến sông, thì ở đó chỉ có trời
nước mênh mông, hàng trăm vạn lâu thuyền trước đấy, không biết đi đâu hết cả.
Lập tức chúng chạy về báo với Chỉnh.
Chỉnh
được tin ấy, trong bụng cực kỳ hoang mang, tự biết mình đã thất thế,
ở lại
thì không dám, mà bỏ đi thì cũng dở: đường thuỷ không có thuyền, đường bộ không
có quân, muốn trốn không có chỗ trốn, không biết nên đi đường nào.
Người
nhà Chỉnh khi ấy cũng rất sợ hãi. Nhưng Chỉnh trong lúc sống chết nguy cấp như
vậy, vẫn còn dở giọng bông đùa mà rằng:
- Ta đã
đi khắp bốn biển chín châu, chẳng lẽ khi trở về xó bếp, lại bị chuột chù gặm
chân ư? Không sợ! Không sợ! Ta cứ ở đây xem sao?
Bấy giờ
bọn người nhà mới hơi vững dạ. Chỉnh bèn bí mật sai người chạy gấp ra bến Cơ Xá
tìm thuyền. Tảng sáng, kiếm được một chiếc thuyền buôn. Chỉnh cùng bọn tay chân
độ vài chục người đi đến cửa ô Tây Long thì bị dân chúng ở kinh kỳ từ tứ phía
kéo ra đuổi bắt. Chỉnh một mình một đao quay lại đón đánh, mọi người phải chạy
tán loạn. Thừa cơ, Chỉnh liền cướp đường chạy xuống bến sông, nhổ neo buông
thuyền, thuận dòng xuôi thẳng ra cửa biển để theo quân Nam. Còn ngựa xe, khí
giới, đồ đạc, của cải của Chỉnh đều bỏ lại ở chùa Tiên-tích, không biết bao
nhiêu mà kể.
Khi trời
sáng rõ, có người đem chuyện đó tâu vơí hoàng thượng, hoàng thượng vẫn không
tin. Sau cho người đi tra xét, mới biết là thật, hoàng thượng hết sức kinh
ngạc, vội cho đòi các quan vào triều hỏi rằng:
- Anh em
hắn cướp hết của nước ta mà đi, để cái nước rỗng không lại đây cho ta, nếu như
có việc nguy cấp thì lấy gì mà chống chế?
Các quan
ngơ ngác nhìn nhau, chưa biết nên nói thế nào. Chợt viên quan hầu cận tâu rằng:
- Hôm
qua vâng chỉ truyền sớm nay thiết triều. Bây giờ ngự giá đã cột ngựa rồi, dám
xin tâu lại.
Hoàng
thượng bèn hỏi các quan:
- Phiên
chầu này hãy thôi chăng? Các quan đều nói:
Hoàng
thượng ra triều để ban chiếu chỉ đổi niên hiệu, đó là việc lớn, sao lại thôi?
Hoàng
thượng bèn ra ngự triều, rồi ban tờ sắc công bố việc đổi niên hiệu, lấy năm sau
tức năm Đinh mùi (1787) làm năm đầu niên hiệu Chiêu-thống. Trong tờ sắc đó, chỗ
nào cũng một rằng nhờ đức vua của quý quốc, hai rằng nhờ thượng công của quý
quốc, giọng văn đại để đều là những câu viết trong lúc vua Tây Sơn còn ở kinh
sư; vả lại, những chỗ kể tội của họ Trịnh cũng hơi nhiều. Vì thế có người bàn
rằng: Nay họ đã về rồi, nên đổi lại hết cả đi! Song trong khi vội vàng không
làm kịp, nên lại cứ để như cũ không sửa đổi gì.
Tan
chầu, hoàng thượng bảo các quan ở lại triều đường họp thêm để bàn việc.
Nguyên
hoàng thượng là người anh minh, quả quyết, từ lâu vẫn căm tức về việc bị nhà
Trịnh chèn ép. Vả hoàng thượng với Thịnh vương lại có mối thù không đội trời
chung (đây chỉ vào việc Trịnh Sâm giết Lê Duy Vỹ, tức là cha Lê Duy Kỳ), nên
khi được Tây Sơn ra diệt Trịnh, hoàng thượng rất mừng. Lúc Đoan nam vương chết,
hoàng thượng đang còn là hoàng tự tôn; tiên đế sai hoàng thượng đem các hoàng
tử đến chỗ Bình ở tỏ lời chúc mừng, hoàng thượng đã nói với Bình rằng:
- Tôi có
thù cha chưa trả, nay ông trả thù thay cho tôi, đời tôi không còn mong gì hơn
thế. Nếu thân này có phải chết ở quý quốc, tôi cũng không hề phàn nàn. Huống
chi ông còn phò dựng họ Lê, khiến cho được thờ phụng tôn xã lâu dài, công đức
ấy thật không nói sao cho xiết.
Bình
đáp:
- Đạo
trời vẫn hay đền bù. Đấng thái tử xưa bị hại, thì nay hoàng tự tôn cố nhiên là
phải được hưởng phúc thái bình, thống nhất.
Kịp đến
khi tiên đế băng, hoàng thượng lên nối ngôi, liền hăng hái tự gánh lấy việc
nhất thống. Lại muốn nhân dịp quân Nam tôn phò, tự mình gây lấy uy thế, cho nên
trong khi quân Nam chưa về, hoàng thượng đã nuôi ngầm vây cánh. Ngoài việc sai
các hoàng thân ai về quê ngoại của nấy, để chiêu tập binh mã phòng khi dùng
đến, hoàng thượng còn cho người tìm kiếm các nho sĩ, mời vào giúp việc cho
mình. Về mặt quan văn, lúc ấy đã thu dùng được bọn Ngô Vi Quý, Vũ Trinh, Nguyễn
Nễ. Hoàng thượng ngày đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những mưu kế
phải dùng đến trong lúc bối rối bất ngờ, cũng được lo toan chu đáo.
Bấy giờ,
danh tướng trong thiên hạ thì có Thạc quận công Hoàng Phùng Cơ, Liễn quận công
Đinh Tích Nhưỡng. Còn văn thần mà có binh lực mạnh mẽ thì có Dương Trọng Tế
(còn có tên là Trọng Khiêm, người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, đỗ tiến sĩ).
Hoàng
Phùng Cơ từ khi thua trận ở Thuý ái, phải chạy về Sơn Tây, vẫn còn nấp náu chưa
dám ra.
Nhưỡng
từ khi bị tan đạo quân ở Sơn Nam, liền về Cẩm Giàng, đem hết cả họ hàng ra
chiếm luôn lấy trấn Hải Dương. Trấn này lúc trước chưa bị binh đao, trong thành
còn có năm vựa thóc công, Nhưỡng bèn đem số thóc ấy ra nuôi quân. Nhờ đó Nhưỡng
chiêu mộ được hơn một ngàn dũng sĩ, thanh thế lẫy lừng. Lúc ấy lại có một tên
cướp biển là Thiêm Liên, nghe tiếng Nhưỡng cũng đem đồ đảng xin theo, thành ra
Nhưỡng có trong tay cả thảy tới vài vạn quân.
Hồi
Chỉnh mới về kinh sư, đã có viết thư gọi Nhưỡng. Nguyên Nhưỡng với Chỉnh đều là
môn hạ của quận Việp, hai người vốn ăn ý với nhau. Nhưng khi viết thư trả lời
Chỉnh, thì Nhưỡng lại kiếm cớ từ chối không đến, Chỉnh cũng chưa có thì giờ hỏi
đến việc ấy. Do đó, Nhưỡng được chuyên giữ một lộ, ngày đêm ra sức luyện tập
quân lính.
Còn viên
văn thần Dương Trọng Tế thì vốn không biết việc binh. Nhưng Tế có Dương Vân là
con trai người anh ruột, tính rất hung tợn, vẫn thường tụ tập những phường vô
loại, hoành hành ở các làng xóm, ai cũng phải khiếp sợ. Lúc quân Nam ra, Vân
ngầm cho gọi thợ rèn đến rèn đúc khí giới. Bình sai người tìm thợ rèn, nhân
biết việc đó, bèn cho tróc nã bọn Vân. Vân đóng cổng làng, bắt hết những người
của Bình đem giết đi. Trọng Tế cả sợ, bất đắc dĩ mới phải khởi binh, kéo cờ,
chiếm cứ huyện Gia Lâm. Chỉ trong mười ngày, quân của Tế đã lên trên một vạn.
Quân tuần tiễn của Tây Sơn sang đánh không hạ nổi.
Lúc quân
Tây Sơn còn ở kinh thành, người trong kinh đồn rằng: hai đạo đông tây đã hợp
quân làm một chẳng bao lâu sẽ tới dưới thành. Đến lúc quân Nam lén rút đi,
trong thành trống rỗng, các quan bàn nên gọi các hào kiệt vào giữ hoàng thành.
Bấy giờ ai có người nào quen biết, đều xin nhà vua ban chỉ đi vời. Trong một
ngày, chỉ dụ đưa đi đến hơn mười đạo. Nhưỡng và Tế cũng đều ở trong số những
người bị gọi.
Hoàng
thượng cho rằng Tế là quan văn, nghe mệnh nhà vua tất phải đến ngay; còn Nhưỡng
là quan võ, lại có chút tiếng tăm, nếu mời mọc không trịnh trọng, chưa chắc
Nhưỡng đã chịu đến. Bởi vậy, hoàng thượng mới sai thảo một tờ sắc, lời lẽ cực
kỳ ôn tồn, và trong sắc lại có các lời hứa như "nguyên huân"
"đồng hưu", v.v... ("Nguyên huân" là người có công lao cao
cả trên hết, "Đồng hưu" là hưởng chung mọi sự tốt lành) Rồi sai người
đem sắc đưa cho Nhưỡng.
Nhưỡng
đọc tờ sắc vừa khóc vừa nói:
- Nhà
tôi mười tám đời quận công, ơn nước thật cao dày, đội trời đạp đất há dám quên
ơn? Nay tôi còn có dăm ba người theo, cũng là nhờ về oai đức của nhà vua. Bây
giờ đã có chiếu mệnh ra đòi, đáng lý tôi phải lập tức đến ngay trước cửa
khuyết. Nhưng vì tôi còn đang bận kiểm điểm binh mã, sắm sửa hành trang chưa
thể đi được; vậy xin hãy hoãn cho tôi chừng năm ba ngày nữa, tôi sẽ vào triều
sau.
Đoạn
Nhưỡng thảo tờ tâu và sai người theo sứ giả về kinh dâng vua.
Lúc
Nhưỡng chưa đến kinh, người ở đây đồn rầm lên rằng Nhưỡng đem thuỷ binh đánh úp
quân Nam, bắt được không biết bao nhiêu mà kể. Lại có tin nói rằng Nhưỡng đã
tóm được Chỉnh, chặt hết chân tay làm hình "lợn người", chỉ trong sớm
tối sẽ đưa tới kinh. Chợt lại có tin rằng con "lợn người" ấy đã được
đưa đến kinh rồi. Thế là người ta tranh nhau đi xem. Một ngày có đến bốn năm
lần háo hức, ồn ào lên, và cứ như vậy luôn trong mấy ngày liền. Bởi lẽ đó, hễ
ai nghe tên Nhưỡng cũng đều khiếp phục và trông ngóng. Hoàng thượng nhận được
tờ tâu của Nhưỡng, thấy lời lẽ chan chứa lòng trung vua yêu nước, thì rất mừng,
cho rằng Nhưỡng tất là người có thể tin cậy được, nên trong bụng cũng đỡ lo.
Lại nói,
sau khi họ Trịnh bị diệt, quân Tây Sơn giết chết Đoan nam vương rồi kéo về Nam,
những gia đình quan lại cũ và những bầy tôi còn sống sót ai nấy đều tiếc cho
vương không khéo lẩn núp để đến nỗi bị nạn. Lòng họ vẫn còn chưa tuyệt vọng đối
với họ Trịnh.
Bấy giờ
con đầu lòng của Đoan nam vương hãy còn nhỏ, vương thân Khanh quận công Trịnh
Kiều thì đã già nua; chỉ còn có Côn quận công Trịnh Bồng và Thuỵ quận công
Trịnh Lệ khi ấy đều khoảng bốn mươi tuổi, là có thể đảm đương được công việc.
Côn quận
công là con trai Dụ tổ (tức Trịnh Giang), tính nết hiền từ khoan hậu, được nhiều
người yêu mến. Cuối đời Thịnh vương, vì việc con thứ lôi thôi chúa đã muốn cho
Thị Huệ nuôi Côn quận công Trịnh Bồng làm con, để nếu bệnh của vương tử Cán
không khỏi, thì sẽ lập Côn quận công làm chúa. Nhưng rốt cuộc ý định ấy vẫn
chưa thực hiện được. Đến lúc thế tử Tông lên ngôi, kiêu binh mấy lần muốn phò
dựng Côn quận công, họ vào tận nhà để thúc ép và đón rước ông ta, khiến ông ta
phải lẩn vào phủ chúa kể rõ đầu đuôi với Đoan nam vương, rồi mới dám về nhà.
Còn Thuỵ
quận công là con trai Nghị tổ (Trịnh Doanh) là em ruột Thánh tổ (Trịnh Sâm),
vốn là người khôn ngoan và thông minh. Lúc Nghị tổ còn sống, quận Thuỵ thường
vẫn có ý muốn cướp quyền con cả. Đến khi Nghị tổ mất, Thánh tổ lên làm chúa,
quận Thuỵ bèn cùng với một người gia thần là Phạm Huy Cơ, tiến sĩ khoa Đinh sửu
(1757) mưu toan việc cướp ngôi. Chẳng may bị Dương Trọng Tế phát giác, Thánh tổ
lấy tình anh em ruột thịt tha tội chết cho quận Thuỵ, và bắt giam vào một nơi.
Kịp khi Đoan nam vương lên ngôi, vương nghĩ nể mẹ quận Thuỵ là bà dì mẫu của mình,
liền thả quận Thuỵ ra khỏi ngục. ít lâu sau, gặp lúc bọn kiêu binh oán giận
vương, quận Thuỵ lại thừa cơ cùng với bọn này mưu cướp ngôi của vương. Nhưng
việc cũng bị lộ. Mẹ Đoan nam vương vì lẽ quận Thuỵ là con trai của chị ruột
mình, nên phải đứng ra cố xin với vương, vương nể lời mẹ, lại tha cho quận
Thuỵ.
Lúc quân
Tây Sơn kéo ra, quận Côn chỉ đem theo một con đòi, một tên đày tớ, lánh vào
huyện Chương Đức, lẩn lút trong đám dân gian làm kế ở ẩn lâu dài. Còn quận Thuỵ
thì trốn về huyện Văn Giang, cùng với Thần trung hầu (tức Trương Tuân, người xã
Như Quỳnh, huyện Văn Giang) ngầm chiêu tập binh mã, hòng có dịp là sẽ nổi lên.
Thần
trung hầu là con trai của công chúa Quỳnh Anh, đối với quận Thuỵ và chỗ con cô
con cậu. Thần trung hầu đỗ tạo sĩ, đã từng coi cấm quân, lại từng làm trấn thủ
trấn Kinh Bắc. Khi nghe tin quân Tây Sơn đã rút, Thần trung hầu bèn dựng cờ
viết hai chữ "cần vương", rước quận Thuỵ qua sông, rồi theo bến Thanh
Trì đi thẳng lên cung Tây-long. Lúc này, quân của Dương Trọng Tế vâng chỉ hoàng
thượng từ Gia Lâm vượt sông sang, tình cờ chạm trán với quân của quận Thuỵ.
Nguyên
trước kia, Tế mới đỗ tiến sĩ và ra làm quan được ít lâu, thì đã phải bãi chức
quan hơn mười năm vì tội ăn của đút; mãi sau nhờ công phát giác việc quận Thuỵ
mưu phản, mới được phục chức. Bấy giờ gặp quận Thuỵ, Tế vô cùng sợ hãi, bèn đem
quân xin hàng để chuộc lỗi xưa. Quận Thuỵ tức thì sai luôn Tế và Thần trung hầu
đóng quân ở ngoài thành, khua chiêng đánh trống, thanh thế rất là lừng lẫy.
Khi ấy,
hoàng thượng nghe tin Thần trung hầu đang lảng vảng ở bên ngoài, bèn sai người
ra gọi vào. Thần trung hầu vào yết kiến, hoàng thượng liền bảo rằng:
- Ngươi
là danh tướng con nhà dòng, nay dấy quân gìn giữ kinh thành, tấm lòng trung
nghĩa ấy trẫm rất ngợi khen. Vậy ngươi cứ mang quân vào, trẫm sẽ tuỳ việc mà
dùng.
Thần
trung hầu quỳ tâu:
- ở
trong bốn biển, ai chẳng là tôi nhà vua. Bệ hạ khoanh tay rủ áo không làm việc
gì, thì còn cần chi binh lính bảo vệ? Duy có nhà chúa chẳng may bị lũ lính mọi
làm hại, thì mới cần kíp phải dùng đến binh lính mà thôi!
Nói
đoạn, Thần trung hầu lạy tạ đi ra.
Hoàng
thượng giận, sai quan trấn điện đem quân đuổi chém. Mọi người phải cố sức can
ngăn, hoàng thượng mới thôi.
Thần
trung hầu về nói với Trọng Tế rằng:
- Xưa
nay nhà chúa truyền ngôi, nối ngôi, có bao giờ phải xin mệnh lệnh nhà vua đâu?
Thường thường khi công việc đã làm xong rồi, bấy giờ mới đệ tờ tâu vào triều.
Ngay cả những tờ sắc dụ, sách phong, cũng đều do nhà chúa thảo sẵn trước, sau
đó đệ lên hoàng thượng ngự lãm qua, rồi đưa trả về phủ chúa để tuyên bố thi
hành, thế là thành mệnh (mệnh lệnh của vua làm thành từ trước), cần gì phải xin
phép nhà vua cho thêm rắc rối?
Rồi hai
người bèn tức tốc chỉnh đốn hàng ngũ binh lính, rước quận Thuỵ vào thành. Bấy
giờ trời đã xẩm tối, chừng đến canh hai mới vào tới phủ. Họ bèn thắp đèn sáng
trưng khắp cả phủ, đánh ba hồi chín tiếng trống, rồi phò quận Thuỵ lên ngôi.
Thần trung hầu và Trọng Tế tự chia làm hai ban đứng ra lạy mừng. Lạy xong, họ
lại bảo các quân sĩ cùng hò reo cho thêm rầm rộ.
Sau đó,
hai người chia quân đi đóng giữ các cửa thành cùng các điếm canh trong kinh
đúng như lệ cũ. Đến sớm mai, họ mới cho người đi gọi các quan văn võ.
Các quan
văn là Hoàng quận công, Tứ xuyên hầu, Thao đường hầu, Kiến xuyên hầu, Luyện
đường hầu, cùng vài ba viên tiến sĩ, khi ấy đang ở trong triều, thấy có giấy
đòi, liền bảo nhau rằng:
"Quận
Thuỵ từ trước đến giờ, đã từng ba lần gây việc mà đều không thành. Con người mà
tâm địa như vậy, hẳn không phải là "của quý". Thần trung hầu là hạng
công tử ăn chơi, bình sinh chỉ biết ban đêm uống rượu say mềm, rồi lăn ra ngủ
đến khi mặt trời sắp xuống núi mới dậy. Như thế, trong một ngày còn được mấy
giờ để lo việc nước mà còn muốn làm đại thần? Trọng Tế hồi trước phản quận
Thuỵ, nay lại theo quận Thuỵ, há cũng là "đồ vật ở chốn miếu đường"
được ư? (câu này ý nói Trọng Tế không phải là người xứng đáng làm một vị đại
thần ở triều đình) Huống chi, một việc lớn lao như vậy, mà trên không xin mệnh
lệnh của nhà vua, dưới không thu góp ý kiến của mọi người, chỉ cắm đầu nhắm mắt
để tự làm với nhau, lẽ nào lại thành việc được? Hoàng thượng vốn anh minh, quả
quyết, chắc chắn bọn ấy không thể lấn ép được. Chúng ta chớ nên hấp tấp, nhẹ dạ
mà đến với họ, kẻo sau này có hối lại cũng không kịp!".
Thế rồi,
mấy người sai viên thư lại trả lời cho bọn Thần trung hầu và Trọng Tế, đại để
như sau: "Các quan trong triều vì chưa vâng mệnh của hoàng thượng, cho nên
không dám tự tiện tới phủ chúa. Xin hai quan lớn trình chúa hãy thảo giấy tâu
xin mệnh lệnh của hoàng thượng, thì các quan sẽ xin vâng mệnh hoàng thượng sang
phủ lạy mừng".
Trọng Tế
bèn tự ý làm một tờ tâu rằng: "Thần là Trịnh Lệ kính tâu: Nhà thần đời đời
nối nghiệp chúa, tôn phò nhà vua. Vừa rồi nhân vì quân mọi vào cướp, tôn miếu
nghiêng đổ. Mây nhờ trung thần nghĩa sĩ một lòng giúp rập, giặc mọi nghe tin,
đang đêm phải hốt hoảng chạy trốn. Hôm mồng mười tháng này, thần đã vào ở trong
phủ. Vậy cúi xin ban cho sắc dụ, khiến thần được nối ngôi chúa, đời đời tôn
phò, để giữ vững lấy cái cơ nghiệp vua, chúa trong ngàn vạn năm".
Hoàng
thượng coi tờ tâu, cả giận nói:
- Nhà
Trịnh là kẻ dưới mà dám lấn người trên, nên mới chuốc lấy cái nạn bại vong. Thế
mà nay nó lại vẫn đi theo cái vết xe đổ ấy. Nó định khinh trẫm ít tuổi hay sao?
Khi ấy,
quân của hoàng thượng chiêu mộ, đã có tới vài ngàn người, hiện đã đến ở trước
cửa khuyết. Các quan tả hữu bèn khuyên hoàng thượng rằng:
- Chẳng
qua hắn cũng giương to thanh thế đấy thôi! Ta cứ doạ cho hắn sợ, ắt là có thể
nhân đó mà đè bẹp được hắn. Hắn có một vạn thủ hạ, quân ta cũng hàng mấy ngàn;
nếu như hai bên đánh nhau, hắn muốn nuốt ta cũng chưa dễ đã nuốt trôi. Vả chăng
nhân dân trong nước tuy nơi nào theo sự kêu gọi của hào kiệt nơi ấy mà nổi lên,
và cố nhiên lại có chia ra đám nọ đám kia khác nhau, nhưng cái lòng tôn vua thì
đều như nhau cả. Nếu lấy việc chống lại nhà vua để nổi dậy, thì quyết không một
người nào dám theo. Nay quận Thuỵ không chịu vào triều để bái yết, lại nghênh
ngang ngồi trong phủ, chưa được mệnh vua mà đã xin sắc dụ, nếu ta dễ dãi cho
hắn ngay, sau này khí thế của hắn mạnh thêm, sẽ có nhiều điều khiến ta không
thể chịu nổi. Vậy xin cứ bắt hắn phải vào lạy trước đã rồi mới được lập, chắc
chắn là hắn sẽ không dám tới. Hắn không tới, thì việc sách lập sẽ chậm, mà thế
lực của hắn tất nhiên sẽ tan vỡ. Thần trung hầu, Dương Trọng Tế hai người ngồi
suông trong phủ mà đóng vai quan võ, quan văn phường chèo, thì rốt cuộc cũng
chẳng được mấy lúc.
Hoàng
thượng theo lời, sai thảo một tờ chỉ, truyền dụ cho Trọng Tế, nói rõ lệ cũ mỗi
khi lập ngôi chúa, thì chúa mới phải thân hành vào triều vâng mệnh nhà vua; rồi
nhà vua mới hậu đãi bằng cái lệ "vào triều không lạy, tờ tâu không xưng
tên". Thảo xong, hoàng thượng sai viên nội hàn là Lê Hữu Cáo đem tới phủ
đường.
Trọng Tế
xem rồi, tức thì xé tan tờ chỉ dụ ngay trước mặt sứ giả mà nói:
- Lạ
thay, ta chưa từng thấy triều nào, đời nào lập ngôi chúa mà vua lại dám ngăn
trở như vậy! Chắc là mấy thằng rồ dại đã lạy quân mọi hôm nọ, sợ rằng sau khi
lập chúa, chúa sẽ hỏi tội chúng nó, cho nên chúng nó mới xúi bẩy nhà vua đấy
thôi. Ta cần gì phải xin xỏ, cứ việc đem quân đến bắt hết mấy thằng xúi bẩy ấy
đi, cho trơ cái ngai gỗ ra. Xem vua có cho lập hay không cho lập?
Đoạn,
Trọng Tế lại bảo sứ giả:
- Ông về
tâu với hoàng thượng, chúa vẫn làm chúa, nhà vua có thiệt hại gì đâu? Xin hãy
cứ lập đã, rồi sẽ vào lạy sau:
Sứ giả
về triều tâu hết đầu đuôi, hoàng thượng càng tức giận mà rằng:
- Nó
khinh ta quá lắm! Như thế nó còn phải xin mệnh của ta làm gì? Thôi mặc cho nó
tự làm lấy, ta cũng không khiến nó lạy nữa!
Các quan
trong triều thấy vậy, thảy đều run sợ. Giữa lúc ấy, bỗng có tờ tâu của quận Côn
đệ vào, đại ý nói rằng: "Tổ tiên nhà thần giúp đức tiên đế gây nghiệp
trung hưng, đội ơn thiên tử xét công ban thưởng rất hậu, phong cho ngôi chúa.
Đến đời gần đây, vì chuyên quyền lâu ngày, đâm ra kiêu lộng, làm những việc
trái với lẽ thường, đến nỗi sụp đổ mất cơ nghiệp của tổ tông. Nay thánh thiên
tử thống nhất thiên hạ, đùm bọc che chở, tấm lòng rộng mở bao la như trời đất,
chẳng nỡ làm tuyệt diệt tôn miếu nhà thần. Thần may được là dòng trưởng họ
Trịnh, lánh nạn nấp ở dân gian, cái bụng mến nhớ tông miếu, bâng khuâng suốt cả
đêm ngày, chỉ vì chưa được chiếu chỉ, cho nên thần vẫn chưa dám tự tiện vào
thành. Vậy dám đánh bạo tâu lên hoàng thượng xem xét".
Hoàng
thượng coi hết tờ biểu, rất hài lòng, khen:
- Trẫm
nghe nói quận Côn là người hết sức lễ độ, khiên tốn, quả nhiên không sai!
Rồi ngài
sai giao tờ biểu đó xuống cho triều đình bàn bạc. Các viên quan triều nghe tin
quận Côn ở vùng Chương Đức, hiện có cái thế nổi lên được, ai nấy đều ngầm có
bụng ngả theo, nên đều khuyên hoàng thượng xuống chỉ vời vào.
Quận Côn
tiếp được chiếu chỉ, lập tức phân chia hàng ngũ người ngựa, luôn trong bữa ấy
lên đường về kinh. Quan quân lại sĩ nghe tin, tranh nhau đi đón. Thần trung hầu
và Trọng Tế thấy vậy đều sợ hết hồn hết vía, đám người đi theo cũng hơi ngã
lòng. Cả hai bấy giờ mới chịu lép vế cúi mình, sai người vào triều tâu xin cho
quận Thuỵ tới lạy. Hoàng thượng ưng lời.
Khi sứ
giả ra khỏi, hoàng thượng bèn sai lính phục sẵn ở bên cầu Cận-thiềm, chờ quận
Thuỵ và bọn Thần trung hầu, Trọng Tế tới nơi sẽ bắt lại để hỏi tội. Nhưng quận
Thuỵ rốt cuộc cũng không dám vào. Trọng Tế biết việc không xong, bèn nói với
quận Thuỵ, xin để mình và Thần trung hầu chia quân chống chọi với quận Côn.
Quân của Trọng Tế ra đóng ở cửa ô Trường-bắn (ở vào khoảng Giảng Võ, Voi phục
trên đường Đại La, Hà Nội bây giờ), còn quân của Thần trung hầu thì đóng ở cửa
ô Xã Đàn [nay ở vào khoảng làng Xã Đàn và Nam Đồng (Hà Nội)].
Rồi thừa
cơ, Trọng Tế bèn bí mật sai Nguyễn Mậu Nễ đem một cánh quân lẻn đi xin hàng.
Nễ tới
làng Nhân Mục, vừa gặp tiền quân của quận Côn. Nễ liền sai quân lính cắm ngược
gươm giáo xuống đất, hai tay chắp lên trán, đứng ở bên trái đường. Khi kiệu của
quận Côn đến nơi, Nễ quỳ xuống, thuật rõ ý của Trọng Tế. Quận Côn bằng lòng,
sai ngay Nễ làm tiền bộ tuyển phong. Đi đến dưới lầu Trường Thi, gặp quân của
Thần trung hầu chĩa súng bắn thẳng vào, quân của Nễ liền ngồi thụp cả xuống đất
để tránh đạn. Quân của Thần trung hầu kéo ùa tới. Quân của Nễ bấy giờ mới nhất
tề đứng dậy, xông bừa vào đám quân của Thần trung hầu. Quân Thần trung hầu thấy
quân Trọng Tế đã đầu hàng như thế, liền vất bỏ cả gươm giáo mà chạy. Quân Nễ và
quân của quận Côn thừa thế đuổi thẳng đến trại Nam Đồng, chém được chừng vài
trăm người, quân của Thần trung hầu thua to phải chạy vào thành. Thế là tất cả
đều tan vỡ. Quận Thuỵ, Thần trung hầu, Trọng Tế không còn dịp nhìn nhau, nhắm
thẳng phía cửa ô Ông Mạc, mạnh ai nấy chạy lấy thân mình.
Quận Côn
kéo quân vào thành. Khi ấy đám tàn quân của Trọng Tế ở cửa ô Trường Bắn, phía
ngoài bị quân của quận Côn chẹn ngang, phía trong bị lính thị vệ của nội điện
chặn giữ, thành ra chúng không còn đường nào mà chạy, phải liều chết cố đánh.
Chúng
đâm một hoàng thân ngã ngựa chết. Hoàng thượng cả giận, liền sai quân bổ vây,
bắt hết cả bọn đem chém, máu chảy lênh láng, ngập đến mắt cá chân. Hôm ấy là
ngày 14 tháng chín.
Lại nói,
bấy giờ thanh thế của quận Côn rất là ghê gớm. Nhưng vì thấy y có vẻ cung kính,
hoà thuận, nên hoàng thượng định hãy cứ vỗ về y, rồi sẽ ngấm ngầm uốn nắn dần.
Đến lúc
quận Côn đã vào trong thành, hoàng thượng liền sai dẫn y tới ra mắt
ở điện
Vạn Thọ. Quận Côn lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái. Lễ xong hoàng thượng cho
ngồi và bảo:
Nhà chúa
trải hai trăm năm tôn phò, công lao đối với nhà vua không phải là nhỏ. Trẫm
muốn đền ơn thật hậu. Xét trong họ hàng nhà chúa, không ai được hiền như ông,
vả ông lại là ngành trưởng, nên việc nối dòng tế tự trẫm vẫn để dành cho ông.
Quận Côn
tâu rằng:
- Thần
vốn là kẻ hèn mọn, tính lại ưa sự điềm tĩnh. Gặp lúc vận nhà suy bĩ, thần đành
cam phận bỏ đi, những toan khoác áo cà sa mà sống cho trọn quãng đời thừa. May
sao, nhờ hoàng thượng sẵn có mưu mô thần thánh, xoay lại vận hội trời đất, nên
nạn nước lại yên, thần lại được trông thấy mặt trời. Bây giờ, hoàng thượng lại
nghĩ đến tiên tổ nhà thần, mà không nỡ dứt bỏ thần, thần kính xin được về triều
để đợi mệnh. Gây dựng cho thần kiếp này, đều là ơn của hoàng thượng vậy!
Hoàng
thượng khen phải, rồi hỏi luôn:
- Thế đã
chọn nơi nào để đóng quân hay chưa? Quận Côn đáp:
- Toà
lượng phủ (phủ cũ của thế tử họ Trịnh) còn có thể che mưa che gió, thần xin ở
đấy. ý hoàng thượng không muốn cho quận Côn ở trong phủ, bèn nói: - Nhà cũ của
ông không việc gì chứ?
Quận Côn
thưa:
- Nhà
thần ở chỗ hẻo lánh, lửa binh không lan tới, nhưng cũng bị người kẻ chợ cướp
bóc, tàn phá, không còn chỗ nào nguyên lành.
Hoàng
thượng lại hỏi:
- Thái
phi và các vương tử của Đoan nam vương bây giờ ở đâu? Quận Côn đáp:
- Trong
lúc hoảng hốt vội vàng, mỗi người chạy đi mỗi ngả, đến khi tạm yên mới kịp dò
hỏi. Nay vừa được biết, họ đều ở nhà Ngạn lĩnh hầu trên trấn Sơn Tây. Nghe đâu
ba vị vương tử đã chết mất hai, giờ chỉ còn vị con cả mà thôi! Hoàng thượng
nói:
- Đoan
nam vương xưa cũng có hậu tình với trẫm, trẫm rất thương xót, thường vẫn cho
người thăm viếng phần mộ, sửa lễ cúng vái, để an uỷ hương hồn. Trẫm cũng thường
hay hỏi thăm tin tức thái phi và các vương tử, đến nay mới biết đích xác. Vậy
hãy cho người đón về đây, trẫm sẽ hậu đãi!
Quận Côn
đáp:
- Dạ!
Hồi lâu,
quận Côn lạy tạ xin lui. Khi qua cửa phủ, vào thăm cung miếu, quận Côn gào khóc
một chặp, rồi lại sai xe đưa về lượng phủ. Nhưng bọn tay chân nói:
- Thần
dân thiên hạ rước ngài đến đây, chỉ muốn ngài ở phủ làm chúa, để họ lập chút
công danh. Nay ngài lại nhường phủ không ở, chắc họ sẽ bảo ngài là "vương
tử lại hoàn vương tử". Rồi đó lòng người chán nản, đại binh sẽ tan, khó mà
thu thập lại được. Nếu về ở lượng phủ, thà rằng cứ ở Chương Đức làm một người
thanh nhàn, còn phải lôi kéo bao nhiêu người tới đây làm gì cho nhọc?
Quận Côn
nghe lời, bèn lưu lại trong phủ, vào ở tại Trạch Các, rồi làm tờ tâu lên hoàng
thượng, đại ý nói rằng: "Thần vào thăm gia miếu, trông thấy lửa hương
nguội lạnh, quang cảnh tiêu điều, lòng bồi hồi không nỡ bỏ mà đi. Vậy xin tạm
chọn một ngôi nhà cạnh miếu để ở, cho tiện sớm hôm quét dọn thăm nom, để cho
linh hồn tiên tổ được yên". Hoàng thượng xem tờ tâu, hiểu ý ngay, nhưng
thế chưa ngăn cấm được, liền bảo với các quan tả hữu rằng:
- Nếu
muốn ở phủ, tức là lại muốn được làm chúa rồi. Như thế thì cái nạn quận Thuỵ
cũng vẫn chưa trừ được vậy. Cái ổ đã vỡ đó, hết kẻ kia đi, lại đến kẻ này lại,
ồn ào bụi bậm làm dơ bẩn con người. Trẫm giận mình, lúc Tây Sơn mới đi, đã
không kịp cho ngay nó một mồi lửa cho rảnh!
Hôm sau,
hoàng thượng sai các quan trong triều bàn việc sách phong cho quận Côn. ý hoàng
thượng chỉ muốn phong làm quốc công rồi cho hưởng lộc hậu hơn mà thôi. Nhưng
các quan triều thấy quận Côn giữ binh ở phủ, chắc y không chịu ngồi suông; vả
lại, coi cái thế thiên hạ hùa theo y bây giờ, thì có đè nén cho y khỏi to lớn
cũng chẳng được nào. Bởi vậy, không có người nào dám bàn trước. Chợt có kẻ xin
với vua rằng:
- Nhà
chúa từ khi Văn tổ (tức Trịnh Tráng) bắt đầu được phong là chức tiết chế thuỷ
bộ chư doanh, bình chương quân quốc trọng sự và tước quốc công. Bây giờ, xin
theo như lệ cũ ấy mới là có căn cứ.
Hoàng
thượng bèn sai lấy quốc sử xuống để tra xét cho rõ, rồi bắt bớt đi hai chữ
"tiết chế". Các quan triều đều phân vân chưa dám quyết định.
Giữa lúc
ấy, chợt có tin báo Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng vâng sắc hoàng thượng đã
tới. Nhưỡng có ba ngàn bộ binh đóng ở Bát Tràng, nói thặng lên là ba vạn, và ba
trăm chiến thuyền đóng ở bến Thuý ái, nói thặng lên là ba ngàn; lại lấy hiệu
quân là Đông-giang. Người trong nước bấy giờ, nghe thanh thế của Nhưỡng, đua
nhau đi theo rất đông.
Nhưỡng
đem vài trăm khinh kỵ vào thành, dương dương tự đắc có vẻ coi khinh cả thiên
hạ.
Hoàng
thượng thấy Nhưỡng đến vừa lúc quận Côn cũng đến, e cuộc gặp gỡ ấy làm cho
Nhưỡng bất bình, mới sai người dẫn Nhưỡng vào ra mắt, vỗ về an ủi cực kỳ ôn
tồn. Nhưỡng cũng giãi tỏ hết tấm lòng trung ái của mình. Hoàng thượng bảo
Nhưỡng:
-Nhà
ngươi nay đã đến đây, nên đem hết quân vào thành để bảo vệ kinh sư. Nhưỡng lạy
tạ rồi lui ra.
Hoàng
thượng lại bảo Nhưỡng ra triều đình để cùng các quan bàn việc. Các quan đem lệ
cũ ở quốc sử ra nói với Nhưỡng. Nhưỡng nói:
- Tôi là
kẻ võ biền không biết văn học; chẳng hay hoàng thượng đãi nhà chúa như thế là
hậu hay bạc?
Các quan
ngập ngừng chưa dám trả lời ngay. Chợt có Nguyễn Hàn đáp rằng:
- Nhà
chúa không thể giữ nổi tôn miếu, hoàng thượng bảo tồn cho, như thế kể cũng đã
là hậu.
Nhưỡng
nhìn Hàn chòng chọc và hỏi:
- Ông là
tiến sĩ phải không?
- Phải!
Nhưỡng lại hỏi:
- Đỗ
khoa nào? Hàn trả lời:
- Khoa
Kỷ hợi (1779). Nhưỡng nín lặng đi ra. Các quan cũng đều lui về.
Hôm ấy,
thủ bạ của quận Côn vì muốn dựa vào uy thế của Nhưỡng cho chóng thành việc, mới
khuyên quận Côn mời Nhưỡng đến để phó thác công việc.
Nhưỡng
từ chối mà rằng:
- Tôi là
bề tôi nhà Lê nhà Trịnh, chỉ biết có nhà Lê nhà Trịnh, há lại có bụng dạ kia
khác nào? Nay ông đến đây, việc phong tước còn chưa xong, tôi lại vừa mới đem
quân tới, nếu tôi vào ra mắt ông, e khi ông được làm chúa, rồi nay mai hội bàn
ở triều đình, tôi có điều gì không đồng ý kiến với họ, người ta sẽ ngờ cho tôi
là tư túi với ông. Vậy xin hãy cứ chờ đến khi nào có mệnh lệnh nhất định của
hoàng thượng, bấy giờ tôi sẽ đến lạy chào cũng chưa muộn gì.
Hôm sau,
hoàng thượng xuống chỉ phong Nhưỡng tước quận công, rồi sai nội hàn Lê Hữu Cáo
khuyên Nhưỡng một lòng giúp rập nhà vua cho thành công cuộc nhất thống.
Nhưỡng
nói:
- Tôi
vâng chiếu đến đây, chỉ mong thánh thiên tử ở trên cầm quyền, nhất thống bốn
biển, ấy là phúc của thiên hạ. Tôi đâu dám chẳng ra sức để làm cho tỏ hết lòng
ngu của mình? Nhưng trước kia tôi trót phạm quân luật, làm tan vỡ cả một đạo
quân, để cho việc nước đến nông nỗi này; mà nay hoàng thượng lại tha tội cho,
như thế cũng đã là may mắn lắm rồi. Còn bây giờ, trong lúc ngôi chúa vẫn chưa
định, mà tôi lại đi nhận phong tước trước, thì dư luận của mọi người sẽ bảo tôi
ra sao? Tôi thờ bệ hạ còn về lâu về dài, vậy nay hãy xin trả lại mệnh phong
tước.
Tiện
thể, Cáo đem việc hoàng thượng muốn phong cho quận Côn tước quốc công để dò ý
Nhưỡng. Nhưỡng bèn đáp rằng:
- Thánh
thiên thử chẳng thiếu gì trí tuệ, cứ đãi ngộ thế nào cho xứng với công đức của
nhà chúa là được.
Cáo về
triều, thuật lại ý Nhưỡng, và xin theo đúng như lệ phong Văn tổ khi trước.
Hoàng thượng lại sai các quan triều bàn bạc rồi phong quận Côn làm tiết chế
thuỷ bộ chư doanh, bình chương quân quốc trọng sự, tước Côn quốc công, cấp ba
ngàn tên lính, năm ngàn mẫu ruộng, hai trăm xã dân để cung phụng về việc tế tự
nhà chúa. Sau đó, các quan lại đem ý của hoàng thượng nói với Nhưỡng. Nhưỡng
chẳng có ý kiến gì khác. Các quan bèn đem lời bàn của triều đình tâu lên hoàng
thượng. Hoàng thượng nghĩ rằng: Văn tổ ngày xưa lúc mới phong thì thế, mà rồi
về sau, lại tiến lên đến ngôi chúa. Bây giờ nếu không nói trước rõ ràng, e rằng
lâu dần sẽ lại sinh ra những chuyện khác. Bởi vậy, khi đã quyết định việc phong
tước quốc công cho quận Côn, hoàng thượng bèn bắt các quan triều làm tờ sắc dụ,
nói rõ từ nay về sau cứ đời đời nối tiếp tước công mà thôi. Các quan triều vâng
mệnh hoàng thượng làm đúng như vậy. Mấy chữ ấy ghi trong sắc dụ. Nhưỡng không
được biết gì hết. Hôm sau, hoàng thượng, sai quan đem sắc đến phủ ban cho quận
Côn, rồi lại sai đem dán bản sao ra ngoài cửa Đại hưng cho thiên hạ đều biết.
Nhưỡng
xem tờ yết thị, thấy có chữ "đời đời nối tiếp tước công" liền hằm hằm
mà rằng:
- Lấy
tước công làm cái mệnh lúc đầu, còn có lý. Nay lại nhất quyết hạn định ở tước
công, bắt con cháu nhà chúa đời đời kiếp kiếp cứ phải noi theo như thế mãi thì
còn có lý nào nữa? Vừa rồi giặc đến, nhà vua được tôn phò, các quan văn võ
không một người nào phải mất tước vị; riêng nhà chúa thì có tội tình gì mà lại
bị thụt chức? Thử coi những kẻ tai mắt ngồi ở trong triều, ai không chịu ơn sâu
của nhà chúa? Thế mà bây giờ người ta lại dùng những câu văn khéo léo để chiều
ý nhà vua như vậy, thật là khinh bạc quá lắm! Được! Họ đã nổi tiếng vì câu văn
khéo léo, thì ta cũng lại lấy câu văn khéo léo mà chọi lại, thử xem ai thắng
ai?
Rồi
Nhưỡng làm luôn một tờ yết thị như sau: "Hàm-giang, Đinh mỗ kính đạt các
quan văn võ quý đài:
Nay vâng
sắc chỉ lập quốc công để nối dòng dõi nhà chúa. Nếu như lòng người đều đã thoả
thuận, thì nên đến phủ lạy mừng. Nhược bằng ai còn nghĩ đến công đức nhà chúa,
riêng có ý tâu xin thế nào, thì hãy đến cùng họp ở cung Tây-long, bàn với mỗ về
việc thảo biểu dâng lên hoàng thượng, để cúi chờ thánh thượng xét định, cho
thoả lòng mong mỏi của thiên hạ".
Khi mệnh
ban tước quốc công mới ban xuống, ai nấy đều nghĩ rằng việc đó hẳn chưa hết
miệng tiếng. Đến lúc này Nhưỡng đã đi trước mọi người, lập ra cuộc họp để tranh
công đầu. Tuy nhiên, để phòng ngừa vì lỗ mãng thô bạo mà hỏng việc như bọn Thần
trung hầu, Dương Trọng Tế, nên Nhưỡng cũng không dám dùng uy thế mà ăn hiếp các
viên triều thần hiện đang theo nhà vua. Ngược lại, các viên triều thần khi mới
gặp Nhưỡng, cũng chỉ ngồi im để xem Nhưỡng ngả về bên nào mà cân nhắc nặng nhẹ.
Lúc thấy Nhưỡng kêu gọi hội họp, mọi người tuy không dám theo Nhưỡng, nhưng
trong bụng lại sợ Nhưỡng, vì thế việc theo phò nhà vua cũng có phần chểnh mảng.
Còn nhà vua, tuy vẫn quyết tâm giữ mệnh cũ, không chịu thêm bớt nửa chữ, xong
cũng chỉ xoay xở một mình, không ai là người giúp đỡ.
Bấy giờ,
trong hàng quan văn đến họp với Nhưỡng có Ngô Trọng Khuê, Nguyễn Gia Lịch (có
bản chép Nguyễn Văn Lịch), Nguyễn Tông Điển, Nguyễn Huy Chiểu, Nguyễn Đình
Thiều, Phan Huy ích... cả thảy sáu, bảy người.
Các quan
đến dự cuộc họp, được Nhưỡng đặt tiệc rất to để thết đãi. Tiệc xong, Nhưỡng hỏi
mọi người rằng:
- Cái
mệnh "quốc công" các ông cho là thế nào? Ngô Trọng Khuê đáp:
- Hai
trăm năm nay có vua có chúa, công đức nhà chúa không thể vì một lần thất bại mà
hết sạch. Nhà vua còn ít tuổi, nghĩ ngợi chưa chu đáo. Phụ hoạ với ý nhà vua để
làm việc vô lý này, đó là lỗi của bọn chúng tôi. Phen này chỉnh đốn lại, phi
ông thì không xong.
Nhưỡng
nói:
- Tôi
họp các ông cũng chính vì việc đó. Bây giờ tôi muốn làm tờ tâu để xin với nhà
vua, vậy các ông có hiệp ý không?
Mọi
người đều đáp:
- Không
hiệp ý thì đã chẳng đến đây; đã đến đây tức là không ai không hiệp ý.
Nhưỡng
nói:
- Nếu
các ông đã hiệp ý, thì nên thảo ngay tờ tâu để tôi đem dâng hoàng thượng. Hoàng
thượng dẫu muốn chẳng cho, tôi cũng cứ cố xin, đến bao giờ được mệnh lệnh nhất
định thì mới thôi.
Một viên
quan võ là Nguyễn Gia Quán nói rằng:
- Thần
trung hầu, Dương Trọng Tế cũng có tờ tâu hẳn hoi, vậy mà chỉ đợi xin mệnh, cho
nên rốt cuộc mới hỏng việc. Nay có đủ cả quan văn, quan võ cùng hội họp như thế
này, cứ kéo tuột vào trong phủ là tự khắc thành triều đình. Triều đình đã
thành, thế lớn ắt phải trở về với nhà chúa. Kìa hãy thử nhìn hai điếm tả hữu
(trước kia Trịnh Cương đặt tả điếm và hữu điếm ở ngoài cửa phủ đường, để làm
chỗ trăm quan tra xét kiện tụng), không lại vẫn hoàn không. Đã đến nước ấy, cần
gì còn phải đợi xin mệnh nữa?
Nhưỡng
đáp:
- Tôi
muốn làm thế, kể cũng không khó. Nhưng thiết nghĩ chúa không chịu mệnh của nhà
vua, bảo là thuận thì chưa lấy gì làm thuận. Vả lại tục ngữ đã nói: "Chẳng
ai mặc áo qua đầu". Vì vậy, tôi muốn cứ theo con đường ngay thẳng cho phải
lẽ. Tôi không phải là quân ô hợp như bọn Thần trung hầu và Trọng Tế, để đến nỗi
bị người ta bỏ rơi. Nếu tôi đã tâu xin, hẳn là mấy ông thầy già ngồi trong
triều có muốn làm rầy tôi cũng không thể được.
Sau đó,
mọi người bèn thảo tờ tâu, đại ý nói rằng:
"Nay
kính vâng hoàng đế bệ hạ đoái nghĩ đến nhà chúa, muốn cho được bảo tồn dòng
dõi, phong làm tước công, đời đời giữ việc cúng tế. Thần dân thấy vậy, chẳng ai
không cảm kích. Nhưng nhà chúa từ đức Thái vương về sau vẫn được thiên tử ban
cho tước vương. Mới rồi gặp cơn quốc biến, tiên chúa Đoan nam vương đã phải đem
thân chết theo nước. Bây giờ nạn nước đã qua, vâng được thánh thượng bao dong,
các bề tôi đều không ai bị mất quan tước, riêng có nhà chúa lại phải giáng phong.
Như thế, thần dân nghĩ không đành lòng. Vậy dám cúi xin cho Côn quốc công được
phong lên tước vương, cho thoả lòng mong mỏi của thần dân".
Hoàng
thượng xem xong tờ tâu liền nói:
- Cứ
nằng nặc đòi phong vương để ăn hiếp ta mới sướng hay sao? Nếu yên phận làm tôi,
thì công với vương phỏng có khác gì? Vả lại, mệnh vừa mới ban xuống mà đã muốn
đổi, mệnh thiên tử đâu phải là trò trẻ con?
Các viên
quan triều thấy vậy, tự nghĩ phò chúa đã không dự, giúp vua lại không xong, ai
nấy đều muốn tháo thân mà đi. Tứ xuyên hầu vào tâu với vua:
- Lấy
chúa hiếp vua, đó là cái gốc sinh loạn. Loạn đã đến thế, họ vẫn còn noi theo
vết cũ mà làm, chẳng qua cũng là lòng trời xui khiến ra như vậy. Nhưỡng là kẻ
vũ phu, không thể lấy nghĩa lý mà nói cho hiểu. Thần xin vâng chỉ đến nói thẳng
với quận Côn, khuyên y hãy từ bỏ chuyện xin phong vương, may ra việc nước còn
có thể làm được. Nếu không, phen này mà loạn thì lũ thần không sao xoay chuyển
nổi. Dám xin hoàng thượng hãy tha tội cho thần!
Hoàng
thượng bằng lòng, Tứ xuyên hầu bèn đến phủ nói với Côn quốc công rằng:
- Tôi
chịu ơn sâu của nhà chúa, không phải là không muốn hậu với ông. Nhưng mà biến
cố của nước nhà lần này, chính là một cơ khép mở rất lớn của trời đất; do đó,
mọi việc đều không câu nệ vào nếp cũ. Nay nếu theo lệ nối ngôi ngày trước mà
lập, để ép thiên tử phải làm cái việc không muốn làm, thì thật là quá ư vô đạo.
Lũ chúng tôi, nghĩa không thể nín, cho nên phải nói với ông. Ông nếu bỏ qua lời
nói của tôi, thì loạn lạc sau này, sẽ không thể cứu được nữa. Trong sách đã
nói: "Nước có đạo thì làm quan, nước vô đạo thì ở ẩn." Lũ chúng tôi
đành xin đi từ nay.
Côn quốc
công đáp:
- Tôi
vẫn tự biết là kẻ hèn mọn, đâu dám mong những điều quá đáng? Việc này là do
Liễn trung hầu gây ra, tôi thật không dự, xử trí thế nào tuỳ lượng bề trên. Xin
ông hãy vì tôi tâu lên hoàng thượng, soi xét cho tấm lòng ấy của tôi.
Tứ xuyên
hầu thấy lời lẽ Côn quốc công có ý thoái thác, bèn về tâu với vua rằng:
- Việc
này thần không thể nào xoay chuyển được nữa. Hoàng thượng dùng thần cũng là vô
ích!
Rồi Tứ
xuyên hầu từ biệt mà đi. Nhưỡng nghe tin ấy, nói với mọi người:
- Lão
rậm râu sâu mắt bỏ đi rồi, thế là bớt được một tên cáo già!
Lúc ấy,
hai điếm tả hữu đều bỏ không. Những kẻ hội họp trước kia nay về ngồi trong
triều, đều là bè đảng của Nhưỡng. Hoàng thượng thấy vậy, than thở với bọn gia
thần rằng:
- Ta nay
không còn ai giúp rập nữa rồi! Tuy vậy, nó cũng không thể cậy đông người mà ăn
hiếp ta được. Ta cứ không nghe, thử xem nó làm thế nào? Thế rồi, sau khi Tứ
xuyên hầu đã đi khỏi, hoàng thượng vẫn cứ giữ nguyên mệnh cũ, ngay cả số quân
dân, cũng đều không cấp thêm cho Côn quốc công một người nào cả.
Các quan
văn trong toà nội hàn ở luôn bên cạnh vua sợ bị Nhưỡng quở trách, nhiều người
khuyên vua nên ưng cho lời xin của hắn. Nhưng vua đều không nghe.
Nhưỡng
thấy nhà vua cương quyết, cũng có ý chờn, bèn làm một tờ tâu kín, xin vua cứ
cho Côn quốc công mang danh hiệu tước vương, còn các quyền bính thì vẫn thuộc
về nhà vua. Trong tờ tâu ấy, lời lẽ của Nhưỡng cực kỳ mềm mỏng. Rồi Nhưỡng lại
thân vào chầu để xin với vua. Vì thế, nhà vua mới nguôi lòng mà nghe theo,
phong cho Côn quốc công làm nguyên soái phụ quốc chính, tước án đô vương. Rồi
vua sai viên quan trong triều là Nguyễn Du (Nguyễn Du quê ở xã Văn Xá, huyện
Thanh Oai, Hà Đông, đỗ tiến sĩ khoa ất tỵ (1785) năm Cảnh hưng) đem sắc chỉ đến
ban cho Côn quốc công.
Côn quốc
công vâng mệnh, thân hành vào triều lạy tạ; đoạn về phủ sai người đánh ba hồi
chín tiếng trống, làm lễ lên ngôi chúa. Hôm ấy là ngày mười chín tháng chín.
Sau khi
án đô vương được lập, các quan tả hữu khuyên vương nên theo lệ cũ, đặt ra các
viên tham tụng, bồi tụng, chưởng phủ, thự phủ, để dựng riêng một triều đình.
Rồi họ lại trông mặt mấy viên đến họp ở cung Tây-long hôm nọ mà chỉ định người
này làm chức này, người kia làm chức kia, sắp đặt rõ đâu vào đấy. Nhưng Nhưỡng
tự nghĩ hôm trước mình tâu với hoàng thượng như thế, mà nay đã vội tự ý tráo
trở, lật lọng, e rằng như vậy là lừa gạt bề trên quá chừng. Vì vậy, Nhưỡng vẫn
còn trù trừ, chưa dám xin vương ra mệnh. Còn hoàng thượng, thì cứ giữ theo mệnh
cũ, đổi chức tham tụng làm bình chương, bồi tụng làm tham tri, thiêm sai làm
thiêm thư, hai điếm tả hữu làm hai nhà nghị sự. Rồi bắt Nhưỡng phải kíp chọn
lựa các quan, xin chỉ hoàng thượng, rồi định ngày họp ở nhà nghị sự để chia đặt
mọi việc. Nhưng ý Nhưỡng chưa quả quyết, thành ra công việc cứ dùng dằng, lẩn
quẩn luôn trong mấy hôm.
Đang khi
ấy, chợt có tin báo Thạc quận công ở trấn Sơn Tây đã thu thập hết
binh
lính các huyện, đông đến vài vạn người, lại đem cả thổ binh của bọn
phiên
mục đất Phù Sùng ở vùng Hưng Hoá là Đinh Công Hồ và Đinh Công
Trinh đi
theo, nay mai sẽ tới kinh sư.
Thật là:
Đã mạnh lại còn tay mạnh nữa,
Bất ngờ phòng chuyện bất ngờ hơn.
Chưa
biết quận Thạc đến kinh sư làm gì? Hãy xem hồi sau phân giải.
Hồi 7
Phò Lê đế, đạo Vũ thành lại ra quân
Đốt Trịnh cung, chúa án đô phải bỏ nước.
Lại nói,
Thạc quận công (Hoàng Phùng Cơ) sau khi thua trận ở cửa Thuý ái, liền chạy về
vùng Hưng Hoá, nương nhờ ở nhà một phiên mục là Đinh Công Hồ. Kịp khi nghe tin
quân Tây Sơn đã rút về Nam, quận Thạc bèn tới trấn Sơn Tây, thu nhặt binh lính
để về bảo vệ kinh thành. Khi ấy hoàng thượng vẫn thường cho người qua lại chỗ
quận Thạc, vua tôi rất là ăn ý với nhau. Đến lúc này được tin quận Thạc đã tới,
nhà vua liền sai ông ta đem quân vào đóng ở cửa ô Trường Bắn để bảo vệ hoàng
thành. Lúc vào thành, quận Thạc đến lạy chào nhà vua, rồi sau mới ra chào án đô
vương.
Bấy giờ,
người trong kinh nhao nhao đồn rằng: "Thạc vào bè với vua; Nhưỡng vào bè
với chúa. Hai người sẽ có ngày dàn quân đánh nhau. Cả hai đều là tướng mạnh
chưa biết ai thua ai được?". Hoặc có người lại nói rằng: "Vua với
chúa thế lực cũng ngang nhau, nhưng vua có phần mạnh hơn một chút". án đô
vương thường sai người đến uý lạo quận Thạc, khuyên Thạc nên giúp đỡ nhà chúa.
Nhưỡng cũng hay cho người đi lại biếu xén để liên kết với quận Thạc.
Thủ hạ
của quận Thạc có người tên là Nguyễn Liên, thấy thế lớn trong thiên hạ đang có
chiều ngả về phía chúa, nên cho rằng việc Nhưỡng phò chúa khó mà có thể xoay
chuyển được. Rồi nhân đó, muốn cho quận Thạc hợp vào với Nhưỡng, Liên bèn cố
khuyên quận Thạc bỏ vua mà theo chúa. Quận Thạc trả lời:
- Người
ta khó nhọc mới làm được mâm cỗ ngon, mình bỗng xông đến, chọc ngay đũa vào mà
ăn, còn ra cái mặt mũi gì nữa?
Liên
nói:
- Hiện
nay ngôi chúa tuy đã lập, nhưng quyền chúa chưa định xong. Ông Nhưỡng vì đã
trót hứa với hoàng thượng là quyền bính thuộc về nhà vua, nên bây giờ không dám
hé răng nói lại. Chúa ngồi chồm chỗm ở trong phủ, mà hoá ra chính phủ chẳng có
người nào, dân không biết theo ai. Việc ấy không có ông thì không xong. Người
xưa có câu: "Làm việc thì dễ; làm cho nên việc mới khó". Bây giờ nếu
ông gánh lấy cái khó ấy, thì công nghiệp chẳng kém gì ông Nhưỡng đâu!
Quận
Thạc hỏi:
- Thế
thì nên làm ra sao?
- Người
ta có thể họp được các quan, sao ông lại không chịu họp? Nay ông hãy định ngày
hội họp các quan để bàn về việc đặt tên các quan chức rồi sau đem những lời bàn
ấy mà tâu xin với nhà vua, hẳn là nhà vua phải nghe theo.
Quận
Thạc khen phải, rồi sai thảo tờ hiểu thị các quan văn võ, đại ý nói rằng:
"Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đưa giặc vào cướp nước, mỗ vâng mệnh dẹp giặc, chẳng
may đã sai phạm quân luật và làm tan vỡ quân đội, đến nỗi kinh thành không giữ
được, thật là đáng chịu tội muôn lần. May nhờ lòng trời hối hoạ (một quan niệm
cũ cho rằng, mọi tai hoạ ở trên đời đều là do trời gieo rắc, khi tai hoạ hết,
ấy là lúc trời đã hối lại), quân giặc phải lẻn trốn về. Nay non sông lại y
nguyên, vua chúa vẫn như cũ. Nhưng giường mối đã đổ, triều chính lại càng rối
bời. Tướng võ, quan văn, há nên một mực im lặng? Vậy xin định đến ngày này
tháng này, hội họp ở bộ Lễ, cùng nhau bàn định, rồi sẽ tâu lên hoàng thượng và
trình lên vương thượng biết; sau đó xin giao xuống cho thi hành, để chỉnh đốn
lại thể thống của triều đình".
Mọi
người thấy tờ hiểu thị đó, đều cho rằng quận Thạc vì nhà vua mà mở ra cuộc họp
ấy, để báo thù lại cuộc họp của Nhưỡng ở Tây-long trước đây. Đến ngày đã định,
quận Thạc kéo quân từ hoàng thành ra, Nhưỡng dẫn quân từ phủ chúa lại, người ta
chắc là hai tướng sắp sửa đánh nhau, có kẻ sợ vạ lây đã phải lánh đi nơi khác.
Nhưng đến khi thấy hai tướng đã gặp nhau mà không xảy ra chuyện gì, thì người
ta lại đồ rằng quận Thạc lừa cho Nhưỡng ngồi vào họp rồi mới bắt, tướng trẻ tất
phải mắc mưu tướng già. Rút lại, chẳng ai hiểu được ý định của quận Thạc như
thế nào?
Kịp đến
lúc các quan văn võ đến họp, chào hỏi nhau xong, quận Thạc nói:
- Chúa
lên ngôi đã hơn một tuần, mà chính sự vẫn chưa ra đầu ra mối gì cả, các ông có
ý kiến gì xin cứ bày tỏ, rồi cùng lựa chọn những điều đáng làm để đem tâu xin
với bề trên.
Mọi
người còn chưa biết nói thế nào. Trong đám có Ninh Tốn là tay lắm mưu mẹo giảo
quyệt, định dùng lối nói lập lờ nước đôi để dò ý quận Thạc, bèn lên tiếng mà
rằng:
- Từ khi
sáng nghiệp về sau, quyền ở nhà vua. Từ ngày trung hưng lại đây, quyền ở phủ
chúa...
Tốn vừa
mở miệng đến đấy, đã bị Nhưỡng hỏi vặn ngay:
- Bây
giờ là sau đời sáng ngiệp hay là sau đời trung hưng? Làm sao lại còn nói đèo
thêm đời sáng nghiệp vào nữa? Xem viên ấy là quan chức gì mà nói dốt đến vậy?
Tốn vốn
có tài đối đáp nhanh nhẹn, liền nói luôn:
- ấy là
tôi cũng chỉ viện dẫn ra để tỏ rằng, từ sau đời trung hưng thì như thế đó mà
thôi!
Nhưỡng
nói:
- Nếu
vậy thì mời ông ra thảo bản nghị sự.
Tốn bèn
thảo một bản nháp, đại ý như sau:
"Nhà
vua, nhà chúa, vẫn là một thể. Nay tên gọi các chức quan ở phủ chúa phải theo
như chỉ ý của nhà vua vừa mới định, nhưng cũng nên giữ cả tên gọi cũ. Vậy xin
để chức bình chương kiêm chức tham tụng, tham tri kiêm bồi tụng, thiêm thư kiêm
thiêm sai, đô cấp sự kiêm lục phiên tri phiên. Về hàng quan võ thì những chức
chưởng phủ, thự phủ, sẽ thêm vào những chữ ngũ quân đô đốc phủ, tả hữu đô đốc.
Còn nhà nghị sự ở ngoài cửa phủ đã quen tai mắt thiên hạ, xin cứ để nguyên như
tên cũ. Các việc chính sự sau khi bàn xong, trước hết phải trình cho chúa biết,
rồi sau mới tâu vua để xin nhà vua quyết định".
Nhưỡng
coi bản nháp của tờ nghị sự, thấy lời văn chứa đựng những ý từ khôn khéo, tiếng
rằng theo vua mà kỳ thực là xem trọng ở chúa, bèn đổi ra giọng vui mừng mà
rằng:
- Người
ta khen ông là tay lão luyện về nghề từ hàn, quả thật là không sai! Vừa nãy tôi
nói lỡ lời, xin ông đừng giận.
Rồi
Nhưỡng bảo Tốn chép thành bản tâu để dâng lên nhà vua. Lúc bản tâu đã chép
xong, Nhưỡng tự thấy rằng việc làm ấy và lời hứa của mình với nhà vua trước đây
là trái ngược nhau, nên không dám giáp mặt vua, bèn cáo từ các quan mà về dinh.
Các viên quan võ cùng đều theo Nhưỡng ra về hết. Chỉ còn lại quận Thạc và mấy
viên quan văn vào điện để xin mệnh của nhà vua. Hoàng thượng lúc đầu tưởng quận
Thạc hẳn phải thuận theo ý mình, nên rất mừng, cho người dẫn ông ta vào ra mắt.
Đến khi coi hết tờ tâu, hoàng thượng nổi giận mà rằng:
- Tham
tụng, bồi tụng cứ việc tham tụng, bồi tụng, hà tất phải đèo thêm bình chương,
tham tri? Chưởng thự cứ việc chưởng thự, can gì phải đèo thêm ngũ quân đô đốc?
Bọn các ngươi lấy hư văn mà đánh lừa ta; bịp bợm, xảo trá như vậy, há phải là
lễ thờ vua?
Quận
Thạc nghĩ xưa nay mình với nhà vua vốn có ân tình sâu xa, bỗng dưng vô cớ thay
đổi thì thật là xấu hổ, vì vậy, không dám hé răng, chỉ cúi rập đầu tạ tội mà
thôi.
Ninh Tốn
quỳ tâu:
- Nay ở
ngoài thành đều là bãi chiến trường, thiên hạ đang loạn lớn, mà chính sự trong
triều đình thì vẫn còn rối bời. Lũ thần trót phạm oai trời, thật là sợ hãi khôn
xiết. Dám xin hoàng thượng soi xét.
Hoàng
thượng nói:
- Ngoài
thành đều là bãi chiến trường, vạ ấy hỏi tại nhà ai gây ra? Đâu phải là lỗi ở
trẫm? Thôi đừng nói lắm, lũ ngươi tưởng rằng bè đảng đông, có thể ăn hiếp được
trẫm, thì cứ việc làm đi! Cần gì mà phải xin mãi?
Bọn quận
Thạc đều sợ hãi, bồ hôi toát ra khắp lưng, không dám nài xin gì nữa; bèn cùng
nhau phủ phục ở sân rồng, mãi đến đầu canh một chưa dậy. Hoàng thượng thấy họ
cứ nằm lỳ ở sân, nghĩ rằng người ta đã có bụng khác với mình, không thể trông
cậy được nữa, dầu có cố giữ ý mình cũng là vô ích, bèn ưng cho lời tâu của họ.
Bọn quận
Thạc xin được mệnh lệnh rồi, liền lạy tạ mà ra.
Hôm sau,
họ cùng vào phủ để lựa chọn các quan. Mọi người bàn bạc cho rằng, chúa mới được
lên ngôi, những người mà hoàng thượng tin dùng như loại Tứ xuyên hầu, chưa nên
gạt bỏ vội. Rồi họ bèn lấy Tứ xuyên hầu (tức Phan Lê Phiên) làm chức bình
chương kiêm tham tụng; Kế liệt hầu (tức Bùi Huy Bích) và Khuê phong hầu (tức
Phan Cận) cùng làm chức đồng bình chương sự kiêm hành tham tụng; quận Thạc làm
trung quân đô đốc phủ, tả đô đốc chưởng phủ sự, tước Thạc vũ công; Nhưỡng làm
đông quân đô đốc phủ, hữu đô đốc thự phủ sự, tước Liễn quận công; Ngô Trọng
Khuê, Ninh Tốn đều làm tham tri chính sự kiêm bồi tụng; Nguyễn Huy Chiểu, Phan
Huy ích, cả bọn gồm sáu người đều làm chức đô cấp sự trung, kiêm thiêm sai tri
phiên trong sáu khoa.
Mệnh đó
được ban xuống. Tứ xuyên hầu từ chối không nhận. Kế liệt hầu thì tự thẹn mình
không làm được công trạng gì, nói:
- Ta làm
tể tướng không được tốt lành (trỏ việc Bùi Huy Bích trước kia làm tham tụng
(tướng quốc) nhưng bất lực, để Tây Sơn lấy được Bắc Hà). Việc trước hãy còn tấm
gương sờ sờ ra đấy. Một đời lại định mấy lần làm hại nước người ta nữa? (người
ta đây chỉ vào nhà vua; quan niệm phong kiến cho nước là của vua).
Rồi Kế
liệt hầu cũng không chịu nhận chức. Chỉ có Khuê phong hầu một mình gánh vác
công việc. Nhưng bấy giờ quyền bính trong nước đều ở tay Nhưỡng. Còn quận Thạc
thì già nua dốt nát, chẳng biết gì đến chính sự, chỉ giữ một chức quan cho đủ
số mà thôi:
Quan
liêu trong chính phủ đã đầy đủ, họ bèn ngày ngày bàn mưu tìm kế để đè nén nhà
vua, muốn cho tất cả quyền hành về việc binh, việc dân đều thuộc về phủ chúa.
Riêng có bổng lộc của nhà vua, thì họ bàn nhau đãi hậu hơn các triều trước một
chút. Nhưng hoàng thượng cũng không chịu lép vế, cứ mỗi việc mỗi giằng giữ co
kéo, thành ra các việc binh, dân, chính đều rối tung chẳng đâu vào đâu. Rồi đó
hoàng thượng lại ra sức mộ thêm binh mã để tự vệ, và ngấm ngầm lập mưu chế ngự
nhà chúa.
Lệ cũ,
nội điện nhà vua có một viên quan phụ tá. án đô vương bèn sai một hoàng thân
tin cẩn của mình đến sung vào chức đó. Hoàng thượng bảo với vị hoàng thân ấy
rằng:
- Ta vừa
cho lên làm chúa, sập ngồi còn rung rinh, thế mà đã vội sai người đến dòm dỏ,
làm như nền nếp lúc thái bình ấy. Ông về bảo chúa án đô rằng, chúa đã sai ông
đến làm phụ tá cho trẫm, thì trẫm cũng khiến ông trở lại làm phụ tá cho chúa.
Vị hoàng
thân ấy lui ra, hoàng thượng bèn dặn mấy người tả hữu:
- Các
ngươi hãy nhớ lấy, hễ mà người này còn lại đây nữa, thì cứ chặt chân hắn đi cho
ta!
Thế là
từ đó, vua chúa đâm ra thù nhau.
Hồi án
đô vương mới vào kinh thành, Trọng Tế trốn về huyện Gia Lâm. Vương vốn mến tư
cách của Trọng Tế, lúc này bèn cho sứ giả đi mời. Khi Tế đến nơi, vương nói:
Trong
lúc giặc mọi vào cướp kinh kỳ, các quan văn võ hoặc chạy trốn hoặc đầu hàng,
riêng ngươi là nho thần lại dám lập đồn bên cạnh kinh thành để chống nhau với
giặc; cái tiếng nghĩa khí của ngươi đã làm rung động cả nước, bọn giặc càn rỡ
sở dĩ phải trốn đi, cũng chính là sợ về oai phong của ngươi. Điều đó, quận Thạc
quận Liễn không thể sánh kịp. Vả lại, ngươi mới thoạt vào thành đã lấy ngay
việc lập chúa làm điều trước nhất. Tuy việc quận Thuỵ không thành, nhưng thanh
thế nhà chúa lại nhen nhúm lên được cũng là từ đấy. Nay ta mới được lên ngôi,
nhà vua với ta lại chưa hoà thuận, mà thiên hạ thì đang còn rối ren, vậy ngươi
hãy cố ở lại giúp ta.
Sau đó
án đô vương bèn cho Tế trông nom về việc tài phú. Nguyễn Mậu Nễ, học trò của
Tế, cũng được cất nhắc lên làm chức tiến triều. Tế vốn có bụng oán giận nhà
vua, liền nói với án đô vương:
- Cái
thuyết nhất thống (tập trung quyền bính vào tay nhà vua) do ở giặc Chỉnh xướng
ra, thật không nghĩa lý gì hết. Xưa nay nhà vua vẫn uỷ quyền cho nhà chúa, mà
nhà chúa thì phò giúp mối giường của nhà vua; có hề "nhị thống"
(quyền lực thuộc vào cả vua và chúa) bao giờ? Nhà vua đã chẳng chịu chung tai
nạn với nhà chúa, trái lại còn lấy sự thất bại của nhà chúa để làm lợi cho
mình. Bọn Tứ xuyên hầu đã cúi mình theo giặc, giờ lại hùa theo nhà vua mà không
biết chi đến chúa. Đó đều là những việc mà lẽ trời, tình người đều không thể
dung tha. Dạo nọ vì chúa đến chậm, thần bất đắc dĩ mà phải phò Thuỵ quận công.
Nếu chúa đến sớm, thì thần há lại để cho bọn đầu hàng giặc tới nay vẫn còn trốn
khỏi hình pháp? Tôn thất nhà vua hãy còn nhiều, tìm một vị khác làm người
khoanh tay rủ áo, tưởng cũng không thiếu gì. Chúa mà đến sớm hơn nữa, ông vua
"lông đỏ" hẳn đã phải đi theo bọn giặc "lông đỏ" từ lâu
rồi!
Đoạn, Tế
xui án đô vương cho quân vây điện vua ở, bắt hết bọn gia thần của vua giết đi,
rồi bỏ vua này mà lập vua khác.
Mưu mô
đã định xong, Tế bèn sai Nguyễn Mậu Nễ đem quân chẹn ở phía trước điện, đồng
thời ngầm cho Nhuận trạch hầu (Bùi Nhuận) lẻn vào cửa Đông Hoa để đánh úp mé
sau.
Hoàng
thượng nghe tin có biến, liền sai các hoàng thân đem hết binh lính đã mộ ra chống
giữ. Nễ cưỡi voi đến ngoài cửa Đại Hưng, khí thế rất mạnh, khiến cho trong điện
ai nấy đều run sợ, cơ hồ muốn tan vỡ. Thình lình thấy quận Thạc ngồi trên đầu
voi từ phía sau điện xông tới cửa Đông Hoa, ngăn Nễ không được vào nữa và quát:
- Mày
muốn sống thì mau mau thu quân về, bằng không, tao sẽ chặt đầu mày trước để bêu
ra cho thiên hạ coi, rồi sau sẽ bắt nốt những tên trong đảng nghịch.
Nguyên
quận Thạc vốn ghen với danh vọng của Tế, vả lại trong bụng cũng không ưng cái
việc đại nghịch ấy; mặt khác, lúc bấy giờ, quận Thạc đang làm chức đề lãnh
chính hiệu, phải gìn giữ hoàng thành, e rằng trong điện có biến thì mình cũng
mang tội, vì vậy quận Thạc phải kíp ngăn cản.
Nghe
Thạc quát, Nễ sợ hãi lùi ngay, Nhuận trạch hầu cũng không dám vào nữa. Thế là
trong điện được vô sự.
Hoàng
thượng giận lắm, bảo các quan tả hữu rằng:
- Đảng
ác đã đông, gốc hoạ khó mà nhổ nổi. Nếu không có hữu quân (chỉ vào Nguyễn Hữu
Chỉnh) trở lại, thì việc tất không xong.
Rồi đó,
hoàng thượng bèn bàn tính việc vời Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân ra bảo vệ kinh sư.
Lại nói,
sau khi quân Nam lén lút về, Chỉnh cướp được chiếc thuyền hối hả đuổi theo, ra
đến biển lại bị gió cản lại luôn mấy ngày, chừng hơn một tuần mới vào đến cửa
biển Hội Thống. Lúc thuyền của Chỉnh đậu ở dưới bến Động Hải (tức xã Đông Hải,
quê Chỉnh. Nay thuộc Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh), thì cũng vừa gặp lúc anh em Tây Sơn
đi đường bộ đã vào tới Vĩnh Doanh (tức vùng thị xã Vinh-Bến Thuỷ bây giờ) Bình
nghe tin Chỉnh đã trốn thoát và theo về đến đó thì cả kinh mà rằng:
- Thằng
chết tiệt này khéo tìm đường sống, thật chẳng khác gì mười lăm giống quỉ dạ xoa
luân hồi làm hại, cắt cũng không đứt đi cho.
Tuy vậy,
lúc Chỉnh vào ra mắt, Bình vẫn vỗ về yên ủi. Chỉnh xin theo Bình cùng về, Bình
nói:
- Nay
quận Thạc quận Liễn chưa trừ xong, nước An Nam phi ông không ai trị nổi; ông
hãy tạm ở đây đã!
Rồi Bình
sai người san sẻ các thứ súng đồng, súng sắt, cùng những khí giới, đồ lề thu
được ở Bắc Hà, đem đến Đông Hải cho Chỉnh.
Chỉnh từ
chối không nhận.
Bình lại
cho Chỉnh hai mươi lạng vàng, hai trăm lạng bạc, và để lại một trăm tên lính để
hộ vệ cho Chỉnh, Chỉnh nghĩ để số lính ấy cũng chẳng dùng được bèn nhận vàng
bạc, trả lại lính và nói:
- Tôi
xin được tự mộ lấy quân địa phương mà dùng. Nếu như sức tôi không đủ, phải đưa
thư cáo cấp, thì bấy giờ mong ông hãy chú ý sai tướng sĩ giúp đỡ tôi.
Bình ưng
lời, rồi về Phú Xuân, lưu Chiêu viễn hầu đóng lại ở Kỳ Hoa để hưởng ứng với
Chỉnh. Nhưng Bình về rồi thì Chiêu viễn hầu cứ đóng lỳ ở Kỳ Hoa không hề liên
lạc gì với Chỉnh.
Chỉnh ở
dưới thuyền, thủ hạ chỉ có hơn ba chục người, thành thử không dám bỏ thuyền lên
cạn.
Người xứ
Nghệ biết Chỉnh đang lúc thân cô thế cùng liền bàn nhau định ngày khởi binh bắt
Chỉnh.
Chỉnh
được tin, vội gọi người anh rể là Nguyễn Kim Khuê xuống thuyền để bàn cách đối
phó. Chỉnh bảo Khuê:
- Nay
trong nước rối loạn, tôi muốn chiếm cứ lấy trấn này để tính việc lấy thiên hạ.
ý anh thấy thế nào? Mưu mẹo của anh sắp đặt ra sao?
Kim Khuê
người làng Đặng Điền, huyện Chân Phúc, từng làm chức tri huyện, là bậc túc học
và có mưu trí. Thấy Chỉnh hỏi vậy, Khuê liền bày mưu rằng:
- Tên
tuổi ông, thiên hạ không ai là không sợ! Sức ông lấy Nghệ An, chẳng qua chỉ như
trở bàn tay. Nay người trong trấn này tuy biết ông thân cô thế cùng, song họ
vẫn chưa biết rõ hư thực thế nào. Tờ hịch của họ mới truyền đi, chỉ là những
lời đưa đẩy lẫn nhau, chưa kẻ nào dám thò đầu ra trước. Nếu ông làm trước để
chặn họ, hẳn họ sẽ trở tay không kịp. Hiện nay ông mà có được một ngàn thủ hạ,
thì ông có thể dọc ngang khắp thiên hạ vậy!
Chỉnh
nói:
- Anh
nói rất hợp ý tôi.
Rồi đó,
Chỉnh bèn làm tờ hịch lông gà (dịch chữ "vũ hịch". Thời xưa, trên tờ
Hịch văn mộ quân người ta thường cắm chiếc lông gà, để tỏ ý phải thi hành thật
mau, phải làm gấp như bay) để điều động quân lính. Hịch phát bắt đầu từ làng
Chỉnh ở. Ra lệnh hễ chậm một khắc sẽ chém liền. ở làng bên cạnh có hai tên lính
già, nguyên là lính ở các đội Nhưng, Kiệu mãn về, thường vẫn hống hách với dân
làng, thấy hịch của Chỉnh đến, chúng liền ra ngăn dân làng và bảo họ đừng nhận.
Chỉnh
được tin, tức thì đêm sai bọn thủ hạ sang cướp phá làng đó, đâm chết hai tên
lính già, chém lấy đầu, rồi truyền hai cái đầu ấy đi khắp các thôn ấp, rao cho
nhân dân biết.
Thế là
cả huyện Chân Phúc, không ai dám trái mệnh của Chỉnh. Chỉ trong mười ngày,
Chỉnh đã mộ được hơn một ngàn quân.
Các hào
mục ở huyện bên cạnh, thấy Chỉnh dấy binh vội vàng tính việc đánh Chỉnh. Họ tôn
viên trấn thủ cũ là Đương trung hầu (Bùi Thế Toại) lên làm thủ lĩnh, rồi ai nấy
đều kéo quân đi theo.
Chỉnh
lúc đó bị vây hãm tứ phía, tình thế hết sức nguy ngập.
Bấy giờ,
ở kinh đô có Khuê phong hầu là người Nghệ An, thường được người làng cho biết
Chỉnh hiện đang ở vào tình thế rất dễ bắt. Khuê phong hầu liền đem việc đó tâu
trình với án đô vương; rồi xin cho Đương trung hầu ra làm trấn thủ như cũ, lại
xin cử con là Phan Huy ích làm chức đốc thị, và viên trấn thủ Thanh Hoa là Mãn
trung hầu (tức Lê Trung Nghĩa, người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá)
sung chức tham lĩnh, thu nhặt các tàn binh ở Thanh Hoa đem vào Nghệ An, rồi lại
triệu tập binh xứ Nghệ và các hào mục, thổ dân sở tại để đánh Chỉnh. án đô
vương bằng lòng.
Lúc lĩnh
mệnh lên đường, ích hung hăn nói với mọi người rằng:
- Các
ông hãy chờ đó, để tôi vào xứ Nghệ lấy đầu Hữu Chỉnh về cướp ấn quận công cho
mà coi! ích lại còn sai bọn thủ hạ làm chiếc trống trận và dặn:
- Phải
làm cho rõ lớn, có thể chứa được người vào trong, để khi ta thúc đội tiền quân
xông vào bắt được Chỉnh rồi, thì sẽ chọc thủng mặt trống, nhét hắn vào đó mà
khiêng về dưới cửa khuyết.
Ngày ích
xuất quân, ai cũng cho rằng sự thành công có thể đứng mà chờ đợi. Hồi Chỉnh ở
Nghệ An, lúc nghe tin án đô vương mới lên ngôi, bèn đặt câu nói lái mà đùa
rằng: "yến đô là đố yên" (âm Hán đọc án đô hay yến đô đều được). ý
Chỉnh muốn bảo: nhà chúa có muốn yên cũng không thể yên được. Kịp đến lúc nghe
tin ở kinh thành các tàn quân đã họp thành cơ ngũ như cũ, lại nghe tin án đô
vương đã sai người vào đánh mình; Chỉnh bèn viết thư báo gấp vào Phú Xuân, nói
là Thạc, Nhưỡng lại lập họ Trịnh, định chiếm cứ đất nước để báo thù xưa, xin
cho quân cứu viện ra để chống nhau với chúng. Bình được thư ấy, tức thì sai
viên tả quân đem binh ra ngay.
Cùng lúc
ấy, Chỉnh lại viết thư cho Đinh Tích Nhưỡng. Trước hết Chỉnh nhắc lại tình xưa
nghĩa cũ; rồi nói rằng mình hiện đã đoạn tuyệt với Tây Sơn, xứ Nghệ An tiếp
giáp xứ Thuận Hoá, chưa biết quân Nam sẽ ra đánh lúc nào. Tiếp theo, Chỉnh xin
hãy cho ở đó để đương lấy một mặt: sau khi bình yên rồi, nếu Nhưỡng có thể bảo
toàn cho Chỉnh, thì chẳng bao lâu, Chỉnh cũng sẽ về triều.
Nhưỡng
coi thư xong, liền gọi con rể của Chỉnh là Siêu Vũ vào dinh mà bảo rằng:
- Ông
anh với chú trước đây cùng ở trong cửa cụ Huy, cụ lớn đều coi như con đẻ. Chẳng
may cụ lớn bị nạn, ông anh đã trả thù được cho ngài; riêng chú chẳng có công
trạng gì, chú thẹn với ông anh nhiều lắm. Song ông anh ta, nói về nghĩa thời đã
đủ rồi, mà nói về trung thời hãy còn chưa trọn. Nay chú phò nhà chúa, dựng lại
cơ đồ; ông anh đã ngỏ ý muốn đóng giữ trấn Nghệ An lẽ đâu chú dám chẳng chiều
ý? Nhưng ông anh chớ có lừa ta, rồi mà bất thình lình nổi dậy kéo quân về...
Tuy nhiên, chú cũng nói thế thôi, chứ chú còn ở đây, thì dù ông anh có muốn về
chú cũng chẳng nghe đâu. Anh về phải thưa lại ý chú như thế nhé!
Từ đó,
Nhưỡng không để ý gì đến việc Chỉnh nữa.
Bấy giờ
án đô vương đang ngày ngày mưu sự chuyên quyền, không nghĩ gì đến các việc
khác.
Có người
thấy vậy, nói với Nhưỡng rằng:
- Hiện
nay giặc dữ mới đi, bờ cõi còn chưa yên ổn, mà giặc Chỉnh ở Nghệ An thế lực
càng ngày càng lớn mạnh. Nhân trong lúc này lòng người đang phấn chấn, hãy xin
chúa ngự giá thân chinh để diệt hữu quân, đuổi Chiêu Viễn, lấy lại bờ cõi cũ
của đất Nghệ An; thì như vậy cũng chẳng kém gì cái công dựng nghiệp trung hưng
của các bậc tiên vương. Khi đã lập công mà về, quyền lớn tự nhiên sẽ vào tay.
Cần gì chúa cứ phải quẩn quanh tranh giành những chuyện cũ rích, mà bỏ quân
giặc không lo nghĩ đến? Vạn nhất Chỉnh lại đem binh ra, thì lúc ấy lấy gì mà
chống chọi?
Nhưng
Nhưỡng chỉ làm thinh.
Giữa khi
ấy Chỉnh lại sai anh ruột là giám sinh Nguyễn Ban lẻn ra kinh đô yết kiến hoàng
thượng, để xin mệnh làm trấn thủ Nghệ An. Hoàng thượng liền hỏi kín Ban về tình
hình quân lính của Chỉnh. Ban được thể, nói thêm lên để phô trương thanh thế
cho Chỉnh. Hoàng thượng mừng lắm, bèn nói rằng:
Việc ấy,
trước mặt trẫm hữu quân đã từng tâu xin, mà trẫm cũng đã hứa cho rồi. Nay lại
xin nữa thì sẽ làm cho tờ sắc ban xuống. Vậy ngươi hãy ở đó mà đợi mệnh!
Các quan
tả hữu thấy thế, khuyên nhà vua rằng:
- Hữu
quân ở xa mà chúa thì gần. Chưa biết sau này hai bên thua được ra sao? Nếu như
mệnh này ban ra, mà việc của hữu quân không thành, thì chúa sẽ có cớ mà nói.
Hoàng
thượng nghe theo, bèn thôi không dám hạ mệnh cho Chỉnh.
Ban lật
đật ra về, nói dối là đã có sắc của vua cho Chỉnh làm trấn thủ Nghệ An, được mở
dinh quân Trung-hùng, thăng tước Bằng lĩnh hầu, đồng thời khiến Chỉnh phải đem
quân về bảo vệ kinh sư.
Chỉnh
cũng vờ làm lễ bái mệnh, rồi truyền hịch đi kêu gọi các hào mục và thu thập các
quân lính tản mát trong vùng.
Do đó,
các tay hào mục đều bảo nhau:
- Hắn
dẫu đáng ghét thật, nhưng nay đã chịu mệnh vua, nếu chống lại hắn tức là chống
mệnh triều đình, hắn sẽ vin vào cớ đó mà nói, thì mình khó tránh khỏi tội.
Rồi họ
bỏ Đương trung hầu mà theo Chỉnh chỉ trong khoảng mươi ngày, Chỉnh đã thu nhặt
được hàng vạn quân. Chỉnh bèn cho người bà con là Nguyễn Kim Khuê làm chức thị
sư, đặt ra những hiệu quân Tứ đột, Tứ thành, lấy danh nghĩa là vâng sắc tôn phò
nhà vua mà hẹn ngày xuất quân. Quân của Chỉnh tuy mới mộ, song đội ngũ chỉnh
tề, hiệu lệnh nghiêm túc. Bấy giờ ở kinh sư hoàng thượng đang tức vì bị bọn
Nhưỡng ăn hiếp, nên ngày đêm chỉ mong Chỉnh kéo quân ra. Hoàng thượng bèn ngầm
ban xuống một tờ chiếu giục Chỉnh tức khắc lên đường.
Chỉnh
nhận được mệnh, vội hội họp đông đủ quân sĩ, rồi tuyên cáo với mọi người rằng:
- Bọn
Đinh Tích Nhưỡng và Dương Trọng Tế cầm quân ở kinh sư, ngầm mưu làm việc phản
nghịch. Ta nay vâng mật chỉ đem quân về triều, để quét cho sạch lũ giặc bên
cạnh nhà vua. Vậy các ngươi phải nên chung lòng gắng sức để cùng giúp nhà vua
trong lúc khó khăn.
Khi quân
Chỉnh qua bến Hoàng Mai ở huyện Quỳnh Lưu, thì gặp tham lĩnh Mãn trung hầu và
đốc thị Phan Huy ích, hai người vâng mệnh chúa án đô vào mộ lính Thanh Hoa đánh
Chỉnh. Chỉnh lập tức sai đội thiết kỵ bất thình lình đón đánh. Hai bên giao
chiến ở địa phận Ngọc Sơn (một huyện giáp liền với Quỳnh Lưu. Nay là huyện Tĩnh
Gia, Thanh Hoá). Kết quả, Mãn trung hầu bị thua, chết tại trận, còn Phan Huy
ích thì bị bắt sống.
Chỉnh
mắng ích về những tội vào bè với Nhưỡng làm phản nhà vua, rồi hỏi:
- Nghe
nói nhà ngươi làm cái trống lớn lắm, chọc thủng mặt trống có thể chứa được người
phải không? ích run sợ mà xin lỗi.
Nguyễn
Kim Khuê vì chỗ quen biết nên hết sức cứu gỡ cho ích. Chỉnh cười khẩy mà rằng:
- Hừ!
Cái bộ thầy đồ nói khoác, giết cũng vô ích.
Đoạn
Chỉnh tha cho ích và bắt phải đi theo mình.
Sau khi
Chỉnh thắng được trận ấy, thanh thế càng lừng lẫy. Tin báo đến tai án đô vương,
vương liền cho đòi Nhưỡng vào phủ để bàn cách chống cự. Lúc này, hoàng thượng
đã hạ mật chỉ sai các hào kiệt vùng Hải Dương đánh phá đất Hàm Giang để diệt
trừ họ Đinh. Nhưỡng bất đắc dĩ phải cố xin được lĩnh chức trấn thủ hai trấn Hải
Dương và Yên Quảng. Rồi Nhưỡng tự đem bộ hạ kéo về miền đông.
Dân
chúng các hạt Thượng Hồng, Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách vốn ghét Nhưỡng là kẻ
tàn bạo, nên khi được mật chỉ của nhà vua, họ rất mừng. Lập tức họ họp nhau thành
từng đoàn, đưa hịch kể tội ác của Nhưỡng, rồi bốn mặt ào ào kéo đến, vây kín
thành trấn.
Nhưỡng
liệu sức mình không ngăn nổi, bèn lừa lúc ban đêm, phá vỡ vòng vây, chạy về giữ
Hàm Giang.
Khi ấy,
ở kinh kỳ người ta đồn rằng Nhưỡng đã bị dân xứ đông giết chết, chỉ trong sớm
tối hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh sẽ đến nơi, kinh sư ắt thành bãi chiến trường.
Trong một ngày, người ta nhốn nháo bỏ chạy đến ba bốn lần. Lòng người nơm nớp
lo sợ. Dân chúng trong thành khuân chuyển đồ đạc, dắt già bế trẻ, tranh nhau chạy
trốn về các vùng thôn quê; quan quân ngăn cấm cũng không được.
Quận
Thạc biết sự thế không thể làm gì được nữa, liền bàn riêng với bộ hạ rằng:
- Vua
chúa thù ghét nhau, việc nước không có chủ. Quận Liễn đã đi mất rồi mà giặc
Chỉnh lại sắp đến, ta đóng mãi ở đây, thật là thất sách. Chi bằng rút về Sơn
Tây, chiếm cứ miền thượng du, giữ vững thế căn bản, bảo tồn lấy lực lượng, ung
dung xem việc thiên hạ, chờ cơ hội mà nổi dậy, sau này ắt phải ký công. Các
ngươi đều ở dưới cờ của ta, roi cung giong ruổi, phải nên gắng sức. Trong lúc
trẩy quân, cần phải đánh dẹp trộm cướp, làm cho dân chúng ăn ở yên ổn, chứ đừng
có bắt chước quận Liễn, đi đâu làm việc tàn bạo ở đó, khiến cho dân chúng xứ
đông đều phản lại mình.
Bọn thủ
hạ đều nói:
Chúng
tôi đâu dám chẳng nghe theo tướng lệnh? Quận Thạc liền thu quân trở về xứ Đoài
(tức Sơn Tây).
Thế là
quận Liễn đi, quận Thạc lại đi nốt, kinh sư khi ấy thành ra một nơi trống rỗng.
Hoàng thượng truyền cho các hoàng thân đốc thúc những lính đã mộ được đêm ngày
tuần phòng, canh giữ cung điện. Còn ở bên phủ chúa thì chỉ có viên quyền phủ sự
Bùi Nhuận, viên hành tham tụng Mai Thế Uông và viên bồi tụng Dương Trọng Tế,
hàng ngày ngồi trong phủ đường thảo giấy bắt lính, thu lương. Nhưng các phủ
huyện không một ai chịu làm theo. Người của phủ chúa sai đi, qua các thôn ấp
đều bị dân quê đánh đập, lột quần áo, chỉ còn cái mình trần chạy về. Chúa án đô
thấy vậy rất lo, nói với Trọng Tế:
- Việc
lớn hỏng mất rồi! Nếu không phải người có tài như Thiếu Khang, Thần My (Thiếu
Khang là chắt vua Hạ Vũ; Thần My là bề tôi của Thiếu Khang. Lúc nhà Hạ bị bọn
Hậu Nghệ, Hàn Sác cướp mất nước, Thiếu Khang và Thần My đã khôi phục được) thì
không thể cứu vãn được tình thế. Ta không tự lượng sức mình, trót đã làm chúa.
Nhà ngươi quá đỗi trung thành, trót đã giúp ta. Nay giặc Chỉnh sắp kéo ra, thế
lực cực kỳ mạnh mẽ.
Tục ngữ
có nói: "ở vào thế cưỡi hổ không thể xuống được". Muốn cho xong việc
này, phi nhà ngươi không còn ai.
Rồi chúa
bèn sai Tế làm chức trấn thủ Thanh Hoa, đem quân chống nhau với Chỉnh. Tế bất đắc
dĩ phải xin vâng mệnh. Nhưng khi nghe người ta nói đến tên Chỉnh thì Tế đã mất
cả hồn vía. Kéo quân ra đến ô Cầu Dền, Tế còn trùng trình đóng ở đó hai ngày,
chưa chịu lên đường. Sau chúa phải cho người đến giục, Tế mới chịu đi. Quân Tế
vừa mới đến làng Bình Vọng (tức làng Bằng, Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn Bình)),
thì có tin báo Chỉnh đã vượt sông Thanh Quyết, Tế giật mình mà rằng:
Trừ phi
có Phù Đổng thiên vương sống lại, còn ai có thể địch nổi với hắn? Quận Liễn,
quận Thạc thật là biết thời cơ. Tiếc thay ta là kẻ đọc sách biết chữ mà lại
không bằng mưu trí của bọn võ biền! Bây giờ nghĩ lại thì đã muộn mất rồi!
Liền đó,
Tế thu quân qua bến Thanh Trì, không kịp vào gặp án đô vương nữa. Chạy một mạch
thẳng sang vùng Kinh Bắc, rồi Tế mới sai người về dâng tờ khải, xin án đô vương
cho lĩnh chức trấn thủ Kinh Bắc, để chiêu mộ hào mục ở đó mà mưu đồ cuộc nổi
dậy khác.
Chúa án
đô thấy tờ khải của Tế, sợ hãi luống cuống như mất cả hai cánh tay, lập tức cho
gọi Bùi Nhuận. Nhưng Bùi Nhuận đã đem cả gia quyến trốn đi từ ban đêm rồi. Chúa
lại cho đòi Sỹ Uông. Uông cũng thác bệnh xin về nhà riêng. Chúa khóc mếu nói:
- Ta
chẳng may đẻ ra ở nhà chúa, lại bị một lũ tiểu nhân làm cho lầm lỡ. Nếu sớm
biết thế này, thà cứ ở Chương Đức làm ông sư già, chống cây thiền trượng (gậy
của nhà sư) ở dưới cửa chiền mà lại hoá hay!
Rồi chúa
ngoảnh lại hỏi bọn tả hữu:
- Bây
giờ nên đi đâu?
Có người
trong họ quê ở huyện Quế Dương tâu rằng:
- Xin
chúa cứ trấn tĩnh, hãy vào nhà Thái-miếu làm lễ cáo biến, thu xếp thân chủ của
tiền vương, để tôi ra sông tìm thuyền, chờ đến đêm khuya, tôi xin phò chúa qua
sông sang bắc, đi về làng tôi. Nhà tôi đã trải mấy đời làm tướng cầm quân, hào
mục vùng Từ Sơn đều ở trong cửa mà ra, nếu tôi lấy điều trung nghĩa mà kêu gọi,
chắc hẳn không ai là không theo. Đinh Tích Nhưỡng ở Cẩm Giàng làm cánh tay
trái; Dương Trọng Tế ở Gia Lâm làm cánh tay phải; Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây làm
ngoại ứng; còn chúa cứ việc đóng tại huyện Quế Dương mà hiệu triệu quân cần
vương, đồng thời dựa vào thế hiểm của sông Nhị Hà để cố thủ. Chỉnh tuy hung
tợn, há dám sang sông đánh nhau cùng ta? Xin chúa đừng lo!
Chúa
mừng rỡ mà rằng:
- Có lẽ
trời chưa nỡ làm mất họ Trịnh, nên mới đem ngươi mà ban cho ta. Nếu quả như lời
ngươi nói, thật là phúc lớn cho xã tắc vậy!
Đồng hồ
(đây là đồng hồ ngày xưa: người ta dùng một cái bình đựng nước có khắc từng độ,
và có lỗ cho nước nhỏ giọt dần dần, rồi cứ xem mực nước mà biết giờ giấc) nhỏ
giọt xuống đến trống canh ba. án đô vương bèn lẻn sang bắc, quan quân theo hầu
chỉ chừng vài chục người. Tàn binh Thanh-Nghệ ở trong bốn đội quân thị vệ không
một tên nào đi theo.
Sớm hôm
sau, hoàng thượng mới biết là án đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm
sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời,
hơn mười ngày chưa tắt.
Thế là
hai trăm năm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành ra bãi đất cháy
đen! Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm quá đáng.
Hôm ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính-ngọ (1786). Lại nói, khi qua khỏi
sông Thanh Quyết, Chỉnh trước hết cho ngay bộ hạ là Lê Giốc đem biểu tới dâng
nhà vua.
Trong
biểu đại ý nói rằng: "Thần vâng chỉ kéo quân vào bảo vệ kinh sư, đã kính
cẩn xuất quân từ tháng trước. Khi tới huyện Ngọc Sơn, Lê Trung Nghĩa (tức Mãn
trung hầu) và Phan Huy ích dám ra chống cự, thần vẫy toán thiết kỵ tiến đánh,
chém chết Trung Nghĩa, bắt sống Huy ích. Nhờ về oai trời, lòng hăng hái của
quân sĩ tăng lên gấp trăm lần. Từ Thanh Hoá trở ra Bắc, thần đi tới đâu dân
chúng vui mừng đón rước tới đó. Đến chỗ nào thần cùng đều kính cẩn tuyên bố oai
đức của nhà vua, khiến cho đâu đấy đều yên nghiệp làm ăn. Thần nay thân mang
giáp trụ, hồn mơ tưởng quân thiều (khúc nhạc của vua Thuấn. ở đây mượn để chỉ
vào nhà vua), tấc lòng khôn xiết nhớ mong cửa khuyết.
Hoàng
thượng xem xong tờ biểu, mừng lắm, liền hỏi thăm về tình trạng khi ở trấn Nghệ
An, Giốc cứ thực mà tâu. Hoàng thượng khen Chỉnh đã khéo quyền biến; rồi phong
cho Giốc làm chức nội hàn viện cung phụng sứ thiêm thư khu mật viện sự, trông
coi cơ Tả oai.
Khi
Chỉnh tới làng Thịnh Liệt, hoàng thượng sai các quan triều ra ngoài cửa ô đón
tiếp. Lúc Chỉnh vào triều hoàng thượng cho ra mắt ở điện Trung Hoà và ân cần an
uỷ. Chỉnh tâu rằng:
- Gần
đây, kiêu binh làm loạn, đại thần (chỉ quận Huy) gặp nạn, thần bấy giờ đang cầm
quân ở ngoài, vì chúa Trịnh không dong, nên phải bỏ nước trốn đi. Thần đã nghĩ
kỹ, nguồn gốc của sự rối loạn ấy, là do cương thường sai trái, mũ dép đảo lộn
mà ra. Khoảng năm Canh thân (1740), Tân-dậu (1741), những kẻ trung nghĩa trong
nước đều căm tức về chuyện ấy, người thì phò hoàng thân mà nổi dậy, người thì
giữ quận ấp mà mộ binh. Công việc của họ tuy không thành, nhưng cái tiếng nghĩa
khí cũng đã lan rộng. Coi đó đủ biết, người ta ai cũng chung một bụng ấy, không
phải thần vì mưu riêng của thân mình mà gây ra hiềm khích. Vả chăng thần lấy
điều nghĩa mà cảm động lòng người, là cốt để chỉnh đốn lại cơ đồ nhà vua, làm
sáng tỏ đạo quân thần cho hợp với lẽ trời đất. Chớ còn đối với chúa Trịnh, thần
có thù oán gì đâu? Nay nếu lòng trời đã hối việc gieo hoạ, mọi người đều biết
sửa lỗi lầm; đó há chẳng phải là phúc lớn của nước nhà sao? Tiên đế thương tấm
lòng ấy của thần, đã dùng những lời lẽ ôn tồn để dụ thần, thần thật cảm kích
khôn xiết. Vậy mà người trong nước, những kẻ không hiểu thần, lại cho thần là
có tội. Họ muốn mưu đồ bước theo vết xe đã đổ, rắp tâm giết chết thần để quấy
rối chính sự buổi đầu của bệ hạ. Cúi xin bệ hạ xét kỹ lo xa, không có điều gì
là không soi đến. Thần chẳng dám đổ vạ cho người để che lỗi của mình. Người xưa
đã nói: "Biết tôi là vua". Mong ở lượng trên soi xét.
Hoàng
thượng nói:
- Trẫm
đã biết rồi! Ngày nay giúp trẫm dẹp yên loạn lạc, làm cho nước được thái bình,
chỉ nhờ nhà người mà thôi!
Rồi đó,
hoàng thượng thăng cho Chỉnh làm chức bình chương quân quốc trọng sự, tước Bằng
trung công. Một người thân cận với Chỉnh là Nguyễn Kim Khuê và con trai Chỉnh
là Nguyễn Hữu Du đều được phong tước hầu, được cầm quân và cùng thuộc vào trong
tướng phủ. Ngoài ra, bao nhiêu bộ hạ, tướng sĩ của Chỉnh, cũng đều được theo
thứ bậc mà thăng chức tất cả. Khi Chỉnh mới chạy về Nghệ An, trong triều có
viên quan văn là Nguyễn Đình Giản, thường vẫn nói mãi về tội Chỉnh dắt quân
nước ngoài về phá nước nhà; lại xin gánh vác việc đánh Chỉnh để giết tên giặc
của nước, và thề không cùng sống với Chỉnh. Bấy giờ triều đình cũng cho là
người hăng hái, nhưng không dám chuẩn y lời xin của Giản.
Viên
quan Nguyễn Đình Giản ấy, người làng Vĩnh Trị, huyện Hoằng Hoá, đỗ tiến sĩ khoa
Kỷ-sửu (1769), là người chất phác, cương trực, hay công kích lỗi lầm của người
khác. Kẻ có lỗi dẫu là bậc quyền quý, là bạn bè gần gũi hay là bà con thân
thuộc, Giản cũng đều vạch lỗi ngay trước mặt, không hề kiêng nể. Bởi vậy mọi
người đều khen Giản là thẳng thắn.
Đến lúc
Chỉnh vào kinh, thì Giản đang vâng mệnh đi chiêu dụ ở trấn Sơn Tây chưa về. Các
quan bàn riêng với nhau: Giản chắc không về, mà có về chắc cũng không chịu
khuất phục, nhất định Giản sẽ lập mưu với Hoàng Phùng Cơ để diệt Chỉnh. Nếu
Giản về triều, chắc Chỉnh sẽ không dung, thế nào Chỉnh cũng ngầm kiếm cớ để
giết Giản. Hai sự việc ấy không biết rồi sẽ ra sao?
Kim Khuê
nghe được những lời bàn ấy, bèn hỏi Chỉnh:
- Ông
cho Nguyễn Đình Giản là hạng người như thế nào? Chỉnh đáp:
- Cuồng
trực! (thẳng thắn đến mức cuồng dại)
- Có thể
dùng được không? Chỉnh trả lời:
- Chẳng
những dùng được mà thôi, con người ấy còn đáng trọng nữa là khác! Khuê lại hỏi
tiếp:
- Ông
không giận Giản, có phải là thật tình chăng?
- Ông
chẳng thấy quận Hoàn là bố vợ hắn, vậy mà hắn còn ngồi tại giữa triều kể tội
ông ta rằng quỳ gối theo giặc, huống chi là người khác? Nếu mình có lỗi, hắn
nói đúng. Còn như mình không có lỗi mà hắn nói, thì cũng không hại gì cho mình.
Con người như hắn thực không nên giận. Mà có giận cũng không làm gì hắn tốt.
Chẳng qua chỉ tổ để cho người ta nhòm thấy chỗ nông sâu của mình thôi!
Khuê
nhân đó bèn khuyên Chỉnh nên vời Giản về dùng, để thu phục lòng người trong
nước. Chỉnh nghe theo, liền sai người đưa thư cho Giản, trong thư lời lẽ hết
sức ôn tồn, mềm mỏng.
Giản trở
về, vừa gặp lúc triều đình đang bàn việc sắp đặt quan chức. Phan Lê Phiên được cử
làm bình chương sự; Trương Đăng Quỹ, Trần Công Xán làm đồng bình chương sự;
Nguyễn Huy Trạc, Phạm Đình Dư làm tham tri chính sự; Nguyễn Đình Giản làm phó
đô ngự sử.
Khi mọi
việc đã tạm yên, Chỉnh liền sửa sang dinh thự ở toà Lượng phủ để ở.
Năm ngày
Chỉnh mới vào chầu một lần, tan buổi chầu, lại ra ngồi ở chính sự đường để bàn
bạc công việc. Còn những ngày khác, bất kỳ việc quan, việc dân, các quan đều
phải tới dinh thự riêng của Chỉnh, để xin Chỉnh quyết định.
Từ đó,
quyền Chỉnh thật ngang với nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước.
Bấy giờ,
tiền tệ trong nước phần nhiều bị các nhà giàu giấu cất, nhân dân đều khốn khổ
về nạn khan tiền, hàng hoá không lưu thông, vật giá cao vọt. Chỉnh bèn xin với
triều đình, ra lệnh thu vét hết tượng đồng, chuông đồng ở các chùa, miếu, đem
về kinh sư, mở lò đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi về khắp nơi, cướp bóc
chuông tượng của các thôn ấp. Người nào mà dám giấu giếm, tức thì bị chúng tra
khảo, trừng trị. Chỉ riêng có pho tượng thần bằng đồng đen ở quán Trấn Vũ phía
bắc kinh thành, là chúng không dám lấy mà thôi.
Thấy
Chỉnh làm như vậy, trăm họ ai cũng ta thán. Một đêm, có người dán ở ngoài cửa
Đại Hưng hai câu đối như sau:
Thiên hạ
thất tự chung, chung thất nhi đỉnh an tại?
Hoàng
thượng phần vương phủ, phủ phần tức điện diệc không! (thiên hạ mất chuông chùa,
chuông mất, vạc còn đâu nữa? Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu, điện cũng
trơ thôi! Chữ "đỉnh" (vạc) ở vế trên, là tượng trưng cho cơ nghiệp
của nhà vua)
Chỉnh
nghe hai câu đó, lấy làm căm ghét lắm. Vả chăng, Chỉnh cũng tự đoán biết rằng,
những việc mình làm đều không được dư luận đồng tình. Bởi vậy, Chỉnh càng mượn
thế ra oai, để hòng khoá miệng mọi người.
Hồi
Chỉnh trốn theo quân Nam, có viên quan võ là Hoàng Đình Xước vâng chỉ đốc lính
coi giữ kinh thành. Khi đó, Xước gặp người nhà Chỉnh đeo gươm chạy ở trên
đường, liền bắt lại hỏi. Người ấy xin nộp thanh gươm, Xước thu lấy rồi thả cho
đi. Đến khi Chỉnh tới kinh sư, Xước đang đóng quân ở trấn Kinh Bắc, liền về ra
mắt Chỉnh để trả lại thanh gươm. Chỉnh lập tức sai bắt Xước bỏ ngục. Nghe nói
nhà Xước có nhiều đồ quý lạ, Chỉnh bèn đòi lấy kỳ hết, rồi mới tha.
Những
việc làm của Chỉnh đại loại đều như thế thực là tàn bạo và không còn kiêng sợ
gì cả.
Muốn
thêm oai thế, Chỉnh lại tự đặt tên quân đội của mình là đạo Vũ Thành. Trong đạo
chia ra năm doanh; nội quân gồm có hai vệ gọi là Thiết kỵ, Thiết đột; mỗi vệ
chia làm năm đội; khí giới, màu sắc quần áo đều trang bị theo hình thức của
triều nhà Thanh, để cho phân biệt với các toán quân khác. Tại Lượng-phủ, nơi ở
của Chỉnh, nhà cửa, lâu đài, kiệu xe, quần áo hết thảy đều chế theo kiểu mới,
có ý muốn sánh ngang với nhà vua. Trong thì nắm giữ quân cơ, ngoài thì chiếm
quyền trấn thủ các trấn, phàm những chỗ cơ mật, trọng yếu, đều do vây cánh của
Chỉnh chia nhau lĩnh chức. Tất cả mọi việc, Chỉnh đều chuyên quyền, làm trước
rồi sau mới tâu vua. Thậm chí có việc đã bàn định tại triều mà vua cũng không
được biết.
Uy quyền
của Chỉnh ngày càng to lớn như vậy, nên hình tích của hắn cũng lộ ra hết. Người
ta bàn tán sôi nổi, ai cũng bảo rằng Chỉnh sẽ làm chúa, và rồi đây Chỉnh hiếp
chế nhà vua sẽ còn tệ hơn chúa Trịnh ngày xưa.
Hoàng
thượng thấy thế cũng hơi ngờ Chỉnh. Một hôm, hoàng thượng đuổi hết tả hữu, rồi
nói kín với hai viên nội hàn là Ngô Vi Quý và Lê Xuân Hợp rằng:
- Chỉnh
tuy có công bảo vệ, nhưng dần dà đã thấy hắn có vẻ muốn lấn bức. Giá có thể
chặn ngay lúc đầu, khiến hắn không thể càn rỡ được nữa, thì mới đúng với thuật
nuôi chim ưng (đời Tam quốc, Trần Đăng nói với Lã Bố rằng: "Tào công nói
nuôi Lã Bố như nuôi chim ưng, cáo thỏ chưa hết thì không dám cho ăn no, nếu ăn
no ưng sẽ bay đi mấtv.v...". ở đây dùng ý ấy). Nếu để khi thế lực của hắn
đã thành, thì hắn sẽ khó trị, e cũng giống như nuôi cọp để lo về sau. Vậy các
ngươi hãy nên tính hộ trẫm! Bọn Quý, Hợp tâu:
- Như lũ
thần đã xem xét, thì Chỉnh là hạng người ý nghĩ cực kỳ hiểm độc, bụng dạ quá ư
tàn nhẫn, mưu mô hết sức sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan, mà ứng biến thì
mau lẹ tuyệt vời. Con người ấy thực là một kẻ gian hùng ở đời loạn, chưa chắc
là một kẻ bầy tôi hiền tài ở đời trị. Cũng ví như loài chồn sói, không phải là
vật có thể dạy dỗ; giống yêu ma, không phải là vật có thể kiềm chế. Chỉ còn có
một cách là giết đi mà thôi. Nhưng giết hắn cũng phải có mẹo. Bệ hạ hãy nên coi
hắn như người tâm phúc, đãi hắn với vẻ lễ mạo, cho hắn ra vào nơi cung cấm,
không tỏ vẻ gì nghi kỵ này khác. Rồi đó, thỉnh thoảng lại mời hắn vào điện bàn
việc, luôn thể đặt tiệc cho hắn uống rượu thật say. Vài lần như thế để hắn quen
đi mà coi là thường, bấy giờ mới dùng thuốc độc mà giết. Như vậy, việc làm mới
khỏi lộ, biến loạn cũng không thể do đâu mà xảy ra được. Theo ý ngu của lũ
thần, chỉ có mẹo ấy là hay hơn cả! Hoàng thượng nói:
- Chuyện
này ra ở miệng các ngươi, vào trong tai trẫm, đừng để cho người nào biết. Kinh
Dịch có câu rằng: "Làm vua không kín chuyện thời mất bề tôi, làm bề tôi
không kín chuyện thời mất thân mình". Các ngươi phải lấy đó làm răn. Bao
giờ gặp cơ hội có thể làm được, trẫm sẽ bảo với các ngươi. Thực là:
Âu quen
trên biển chừng không lạ Thỏ mắc trong vòng hẳn khó ra.
Chưa
biết việc này như thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.
Theo
sách Liệt sử: xưa trên biển có người chơi với chim âu đã quen thuộc. Một hôm
anh ta theo ý người cha định bắt chim âu về cho cha chơi, chim âu bèn không
chịu đậu xuống nữa. Câu này ý nói việc vua Lê định lừa Nguyễn Hữu Chỉnh uống
rượu cho quen để đánh thuốc độc cũng giống như thế. Kinh Thi có bài thơ
"Thỏ ta" ý nói đời Văn vương đến những người làm nghề bẫy thỏ cũng có
thể dùng làm quan. "Thỏ ta" là cái bẫy đánh thỏ. ở đây tác giả chỉ
mượn hai chữ ấy để nói một khi Nguyễn Hữu Chỉnh đã mắc vào cạm bẫy thì khó mà
trốn khỏi.
Hồi 8
Dương Trọng Tế bị dâng tù trước nhà Thái học
Hoàng Phùng Cơ phải tự tử ở ngoài Tây thành.
Lại nói,
sau khi vua đã lập mưu giết Chỉnh, một hôm viên nội hàn là Vũ Trinh có việc
riêng vào yết kiến, vua bèn đem việc ấy bảo kín với Trinh, Trinh giật mình,
nói:
- Người
nào bày cho bệ hạ cái mưu ấy, thần trộm lấy làm nguy hiểm. Hiện nay ở ngoài có
giặc mạnh, tin tức ngoài biên ải đang báo về khẩn cấp, ở trong triều đình thì
mọi người còn nghi ngờ nhau. Bệ hạ đã dựa vào Chỉnh làm nanh vuốt, thì nên đối
đãi bằng cách thành thực, để cho y được vui lòng thần phục. Hễ mà biết cách giá
ngự, thì kẻ loạn thần có thể thành kẻ lương thần. Sao lại đón trước sự dối trá
của người ta để đoán chừng một việc chưa chắc đã có? Hình tích chưa lộ mà nghi
kỵ đã sinh. Họ hàng bè đảng của Chỉnh đều cầm nhiều quân và ở nơi trọng yếu, la
liệt trong ngoài, một khi xảy ra biến cố, bọn ở kinh thành sẽ làm việc có hại
cho xã tắc, bọn ở các ngoại trấn sẽ chạy theo quân giặc. ấy là mình tự cắt vây
cánh của mình để giúp cho kẻ thù vậy.
Vua liền
đổi sắc mặt mà rằng:
- Nếu
nhà ngươi không nói, thì có lẽ trẫm bị lầm rồi.
Tức thì
vua đòi Vi Quý, Xuân Hợp vào quở trách và bảo mau mau thôi ngay việc ấy đi.
Về sau
Chỉnh biết chuyện ấy, rất oán vua bạc bẽo và muốn hại ngầm những người bày ra
mưu đó.
Chỉnh
bảo với viên tướng bộ hạ là Nguyễn Như Thái rằng:
- Ta đi
khắp bốn biển, không kẻ nào dám ngó thẳng vào mặt ta. Mấy thằng học trò chưa
thông hiểu việc đời ấy là cái thá gì mà dám cả gan như vậy? Chờ khi nào ta xuất
quân đánh giặc, sẽ đem chúng để thử gươm xem có sắc không, rồi tống cổ chúng
xuống âm ty cho chúng gây chuyện với Diêm Vương.
Thái hỏi
người nào, Chỉnh trả lời:
- Chính
là Ngô Vi Quý và Lê Xuân Hợp, bọn bề tôi thân cận của nhà vua đấy!
Từ đó,
Chỉnh cứ ở luôn trong dinh thự riêng, không vào triều yết. Mọi việc quân, việc
nước, đều sai người vào tâu. Vua có ý kiến nên chăng thì lại sai các đại thần
như bọn Phan Lê Phiên, Trần công Xán, Vũ Trinh đến dinh của Chỉnh để biện bạch
cho rõ.
Một hôm,
trời rất rét, bọn Phiên ở trong triều, cử Trinh tới nhà Chỉnh. Trinh người làng
Xuân Liên, huyện Lang Tài, nổi tiếng là người có tài và nhanh nhẹn, Chỉnh cũng
có ý kính mến. Vua thường dặn Trinh nếu có dịp thuận tiện thì nên biện bạch với
Chỉnh về chuyện hiềm nghi trước đó.
Hôm ấy,
Trinh đến nhà Chỉnh là để phúc tư về việc quân, ngồi chờ trên linh các mãi
không được vào. Một viên công sai nói với Trinh.
- Thượng
công đang ở nhà trong uống rượu không phải là giờ tiếp khách, quan lớn hãy về
đã.
Trinh
nói to lên rằng:
- Việc
quân khẩn cấp, không thể báo chậm. Thượng công ngồi chơi, chỉ cách hai tấm cánh
cửa, mà tắc tịt không thông; trên nhà dưới nhà mà xa nhau hơn hai ngàn dặm, thế
là cớ làm sao? Tôi có việc công đến đây không phải là để gặp riêng, về cũng
không được!
Chỉnh
nghe tiếng, vội sai người dẫn Trinh vào. Sau khi nói xong. Trinh xin lui, Chỉnh
nói:
- Việc
ấy đã có bọn tỳ tướng của quận Thái trông nom, sẽ phát binh phù ngay, không
phải phiền đến sứ thần nhà vua phục mệnh. Ông hãy ở đây cùng uống chén rượu đã.
Rồi Chỉnh rót một chén rượu lớn đưa cho Trinh.
Trinh cố
từ không nhận, Chỉnh nói:
- Quan
nội hàn nghi tôi chăng?
Trinh
đứng dậy tạ lỗi, xin uống, và nói:
Tôi là
kẻ bất tài, được thu dùng đã là quá lắm. Việc gây dựng cho tôi đều là nhờ ở nhà
vua và quan tể tướng, dám đâu có bụng nghi ngờ như chuyện "cung treo rơi
bóng" đời xưa (theo Tân thư: xưa Nhạc Quảng mời bạn uống rượu, cái cung
treo ở trên tường soi bóng vào trong chén, người bạn tưởng là con rắn, uống xong
về nhà thành bệnh. Sau Quảng phải mời bạn đến uống rượu một lần nữa ở chỗ ngồi
trước kia và chỉ cho bạn biết rõ là bóng cái cung, soi vào trong chén rượu bấy
giờ người bạn mới khỏi bệnh. - Đây mượn ý để chỉ sự nghi ngờ).
Chỉnh im
lặng không nói gì. Tan tiệc. Trinh ra bảo với viên thị sư của Chỉnh là Nguyễn
Khuê rằng:
- Gần
đây lắm kẻ bịa đặt tin nhảm, trăm điều không có một điều thật. Bọn gian đó thêu
dệt ra những việc không có căn cứ, để gây sự nghi hoặc cho cả trong và ngoài.
óc suy xét của người tầm thường có khi không khám phá nổi. Nhưng người cao minh
như ông lớn nhà ta, chắc là không để những câu nói ấy vào tai. Tuy vậy, về phần
hình tích, có lẽ ngài cũng chưa khỏi lầm lẫn; tôi sợ rằng vì thế mà họ lại bịa
ra nhiều chuyện. "Cọp ở chợ" (theo Chiến quốc sách: Bàng Thống nói
với vua nhà Nguỵ rằng: một người nói ở chợ có cọp thì vua không tin, nhưng hai
ba người nói ở chợ có cọp thì vua sẽ phải tin, - ý nói tuy lời gièm pha không
thật, nhưng nhiều người nói thì người nghe cũng phải tin) là việc không thể có,
nhưng đến ba người nói thì người nghe cũng không rõ là có hay không. Huống chi
những kẻ bịa chuyện, lại không phải chỉ có ba người mà thôi. Vì thế, tôi muốn
nói rõ sự tình ấy, để dứt mối hiềm nghi từ lúc còn nhỏ bé, khiến cho giữa vua
và tôi, tình ý thông suốt, trên dưới yên ổn với nhau, há chẳng hơn hay sao?
Khuê trả
lời:
- Vâng!
Ông hãy cứ về.
Sáng
mai, nhân lúc rảnh, Khuê đem lời Trinh thuật lại với Chỉnh. Chỉnh nói:
- Lời
người ta nói cố nhiên không thể tin cả, nhưng cũng không thể hoàn toàn không
tin. Ta đã xem kỹ, nhà vua là người nhẫn tâm và đa nghi, việc ấy chắc có. Tuy
vậy, dù có dù không, cũng chẳng làm gì được ta. Vả chăng, trong lúc bốn cõi còn
nhiều giặc giã, hãy gác chuyện đó lại, khoan nói đến. Lại nói, Dương Trọng Tế
từ khi ở làng Bình Vọng rút quân chạy sang Kinh Bắc, liền cùng cháu là Dương
Vân, học trò là Nguyễn Mậu Nễ, đắp đồn luỹ ở huyện Gia Lâm để chống giữ và lo
tính việc khởi bính. Vừa lúc ấy, chúa Trịnh chạy đến làng Quế ổ (nay thuộc
huyện Quế Võ, Hà Bắc), cho người đến gọi Tế, Tế nói:
- Vừa
rồi, việc đi Thanh Hoá, trong phủ có Bùi Nhuận là võ tướng, Mai Thế Uông là thổ
quan, chúa không sai hai người ấy mà lại dùng ta trước để thử quân giặc. Đó là
chúa muốn đem ta mà cho giặc vậy. Bởi chúa đãi người không thật cho nên mới đến
thế này. Bây giờ cùng chúa mưu tính việc lớn, đã có một lũ võ biền ở làng Quế
ổ, vời ta làm gì?
Rồi Tế
chối là việc quân khẩn cấp, không thể đến được. Tế tự mộ lấy vài ngàn người
tráng đinh, đắp luỹ từ làng Như Kinh đến làng Phú Thị (Như Kinh nay thuộc Văn Giang,
Hưng Yên. Phú Thị thuộc Gia Lâm, Hà Nội), dựng lên ba đồn, chia quân đóng giữ.
Tế cho Vân làm chức bình địch tướng quân, Nễ làm chức tham tán quân vụ. Lại đưa
hịch đến các quận bên cạnh, kể cái tội nhà vua dựa vào Chỉnh mà đuổi chúa. Lời
hịch đại lược như sau: "Trong hồi nguỵ Mạc, nhà Lê đã không còn nước. Nhờ
có Thái vương họ Trịnh giúp cuộc trung hưng, công nghiệp thấu đến trời đất,
phúc khánh để cho con cháu. Hai trăm năm nay, vua Lê chỉ việc khoanh tay rủ áo,
chúa Trịnh coi hết mọi việc chính sự; thần dân trong ngoài cùng tôn phò và kính
mến, không ai có lòng nào khác. Tên Nguyễn Hữu Chỉnh vốn là một kẻ vong mạng,
thoát chết, mưu đồ làm việc càn rỡ, đem giặc ngoài vào phá phách nước nhà, giết
chủ cũ mà làm hại nhân dân, xướng ra câu "diệt Trịnh", mượn cái tiếng
"phò Lê". Vua Chiêu thống là người do quân Nam và Chỉnh lập lên. Nể
giặc lập mình, quên ân nghĩa tám đời chủ suý; đốt phủ đuổi chúa, tựa vào sức
một lũ loạn thần. Đã không xứng đáng làm vua, lấy gì tiêu biểu cho nước. Tôi là
viên đài thần (chức ngự sử) của tiên triều, nghĩa không thể nín. Nay sắp dấy
quân giết Chỉnh, tìm lấy người hiền trong họ vua cháu chúa mà lập lên để nối cơ
nghiệp vua, chúa thuở trước. Hẹn đến ngày mồng một tháng nọ sẽ kéo quân qua
sông Nhĩ Hà. Các vị hào kiệt bốn phương người nào đồng chí với tôi, đều nên
đúng hẹn họp quân, hợp sức tiến đánh, công khôi phục kíp sớm hoàn thành, nghĩa
đồng hưu cùng ghi vĩnh viễn... "
Các thổ
hào ở vùng Từ Sơn, Thuận Thành thấy lời hịch chỉ trích nhà vua, giọng nói ngược
ngạo, họ bèn nói với nhau rằng: "Danh đã không chính thì lời nói cũng
không thuận, mà việc sẽ không thành. Chúng mình đều là bề tôi của nhà vua,
không nên theo y để chuốc lấy vạ". Bởi vậy, chẳng một người nào hưởng ứng
với Tế; mà những người đã nhóm họp với Tế rồi cũng rút về dần dần, thành ra
người giúp Tế càng ngày càng ít đi. Vả chăng bọn Tế, Vân sẵn có tính tàn bạo,
hay cướp bóc của nhân dân, Nễ lại là tên ty bỉ dung tục, không hiểu biết gì,
nên ai cũng chán ghét.
Lúc bấy
giờ có người giám sinh ở huyện Văn Giang, bắt được tờ hịch của Tế, chạy lên báo
với vua. Vua xem hịch giận lắm, vội vàng cho gọi Chỉnh mà bảo rằng:
- Trọng
Tế xuất thân ở hàng tiến sĩ, sao lại được khinh vua. Trước đây y đã gọi trẫm là
vua "lông đỏ" (ý nói Chiêu Thống theo Tây Sơn) và xé tờ chỉ dụ của
trẫm trước mặt sứ giả. Nay y lại viết ra tờ hịch, không kiêng sợ gì cả.
Thằng
giặc ấy mà không giết thì lấy gì để răn kẻ khác. Vậy phải cho quân đi đánh
ngay.
Chỉnh
lạy hai lạy, vâng mệnh lui ra, rồi sai Nguyễn Như Thái và Hoàng Viết Tuyển đem
quân đi đánh Tế.
Lúc sắp
đi, Chỉnh dặn họ rằng:
- Trọng
Tế chiếm giữ vụng trộm mấy thôn ấp ở quê mình, chẳng khác con cáo nương nơi gò
cũ. Thứ quân nhà quê của y cũng như bầy dê chăn ở ngoài đồng, cầm roi mà đuổi
là chạy, có cần gì phải đánh! Các ông cứ gióng trống mở cờ, đến thẳng dưới luỹ.
Chắc hắn chỉ có hai cách: không hàng thì chạy. Hắn hàng thì điệu ngay về, không
được cướp bóc làng xóm. Hắn chạy thì không cần đuổi tới cùng, sợ sinh ra việc
rắc rối khác. Ta nghe nói người vùng Kinh Bắc oán hắn đến tận xương, hắn chạy
đến đâu chắc không có ai chứa chấp, sớm muộn thế nào họ cũng bắt hắn đến cửa
quân cho hắn nộp đầu mà thôi.
Thái,
Tuyển vâng mệnh dẫn quân qua sông.
Tế nghe
tin báo, liền gọi bọn Vân và Nễ bàn việc chống cự. Vân nói:
- Giả sử
Chỉnh tự đến đây, cũng không phải là kẻ đối thủ của cháu, huống chi mấy thằng
thiên tỳ (những quan võ giúp việc cho chủ tướng) kia thì làm được trò trống gì?
Cứ cho chúng nó đến để chịu chết. Chém đầu hai đứa ấy trước, rồi kéo tràn qua
sông, bắt Chỉnh và dựng nước đều ở cả một chuyến này. Quan chú không phải lo
lắng làm gì!
Tế mừng
lắm, cho là phải, rồi cười nói:
- Cửa
chùa đã có thiên thần hộ pháp, khắp ba ngàn thế giới, mười lăm loài quỷ, tự
nhiên đều phải lui bước nghe theo. Đức Phật Thế tôn chỉ việc chắp tay ngồi trên
toà sen nhận lễ dâng cúng mà thôi.
Mậu Nễ
cũng nói:
- Tôi
xin sắp sẵn trâu rượu, chờ khi tới kinh mở tiệc uống cho thật say. Lần này quan
thầy sẽ là đức Phật sống của nước Nam Việt, trăm nghìn Phật La-hán chắc đều
phải hiện chân thân để nghe ta chỉ vẽ.
Chú
cháu, thầy trò tâng bốc, khoe khoang lẫn nhau, không còn để ý gì đến việc binh
nữa. Chợt có tin báo quân của Thái, Tuyển đã đến. Tế bèn lấy thanh gươm trao
cho Vân và nói:
- Kinh
thư nói rằng: "Nãi ngôn để khả tích" (nghĩa là: Lời ngươi đưa đến
thành công). Phải nhớ lấy nhé!
Vân lạy
hai lạy, nhận gươm lui ra, rồi dẫn quân lên mặt luỹ, phấp phỏng dòm ngó. Thấy
thế quân của Thái, Tuyển rất mạnh, Vân bắt đầu tỏ vẻ lo sợ. Vả chăng, quân của
Vân mới mộ, đều là hạng người ô hợp chưa qua trận mạc bao giờ, tai mắt chưa
quen thuộc với chiêng trống cờ xí, họ tưởng đó cũng như những đám rước thần,
cúng Phật ở thôn quê mà thôi.
Vân tựa
vào luỹ mà dàn trận. Thái, Tuyển chia quân làm hai đường cùng đánh ập lại. Súng
và hoả hổ cùng nổ ran một lúc, xa gần rung động, khói lửa ngút trời. Quân của
Vân kinh hãi, tan vỡ, không sao ngăn được. Vân hoảng hốt, cuống quít, không
biết làm thế nào, bèn cởi bỏ áo trận, rồi chạy trốn. Trọng Tế ở trong đồn Lạc
Đạo (tên xã, thuộc Gia Lâm, Hà Nội) cho người đến dò, thì Vân đã bỏ đi đâu mất,
chỉ thấy hai đạo quân của Thái, Tuyển đang trèo lên luỹ, chém giết tứ tung.
Người do
thám sợ hãi chạy về báo tin, Tế nghe nói, vội vàng đứng dậy, ruột gan rối bời,
chưa biết tính liệu ra sao? Lại thấy quân lính tan tác, mỗi người chạy mỗi ngả,
Tế trông trước, nhìn sau, chẳng biết làm thế nào, bèn ngửa mặt lên trời, mà kêu
rằng:
"Trời
ơi, chỉ tại trời không phù hộ nhà chúa cho nên mới đến thế này đây!". Rồi
Tế dẫn vài tên tay chân vượt luỹ chạy trốn. Chập tối, Tế chạy đến làng Ngọc Xá
(sau đổi là Yên Xá, thuộc huyện Cẩm Giàng, Hải Dương (Hải Hưng)) thì Vân theo
kịp. Đêm ấy chú cháu bàn với nhau vào ngủ nhờ ở nhà một người dân trong làng.
Vân nói với Tế:
- Xin
chú trước hết hãy vào Quế ổ ra mắt chúa, chúa vốn tin và trọng chú, thấy chú
chắc là mừng. Hơn nữa, ở đó đều là những người võ biền, được chú là văn thần
bày mưu lập kế, chỉ huy mọi việc cho, thế nào chúa cũng nghe theo. Nhân cơ hội
ấy, mình sẽ thu thập tàn quân để tính việc về sau. Chẳng qua chỉ trong mươi
ngày, thanh thế nổi lên là lại có thể làm nên việc.
Tế nói:
- Không
được! Trước đây chúa cho gọi ta, ta chối không đến. Bây giờ thua trận mà đến,
thì lấy cớ gì mà nói! Vả chăng như thế thì còn mặt mũi nào? Mà rồi những người
ở Quế ổ còn coi ta ra gì? Trước đây ta đã cộng sự với quận Nhưỡng, rất là tương
đắc. Nay nghe ông ta chiếm giữ vùng Hàm Giang, và hiệu triệu nhân dân vùng Hải
An, thủ hạ có tới vài vạn, thuyền bè đầy sông. Ông ta là tay tướng giỏi, ta nên
đến ngay Hàm Giang, mưu tính với ông ta, rồi xin chúa dời xa giá về đó, bọn
người ở Quế ổ không thể không theo chúa tới họp. Nhân đó ta bảo họ nổi lên ở xứ
bắc, cháu đem một cánh quân đi cùng họ; quận Nhưỡng thì nổi lên ở xứ đông; ta
thì phò chúa đốc chiến. Các đạo hẹn nhau cùng cất quân trong một ngày, việc lớn
chắc có thể thành. Không như trước đây, chỉ một toán quân chơ vơ, đến nỗi bị
giặc uy hiếp. Vân nói:
- Phải
lắm! Nhưng từ Ngọc Xá đến Hàm Giang, đường sá xa xôi, mà mình chỉ có năm sáu
người lủi thủi đi đường, bộ dạng tiều tuỵ, trông chẳng ra sao. Vả lại, vạn nhất
xảy ra biến cố gì, giữa đường tay không, lấy chi mà chống đỡ. Vậy cháu xin mộ
lấy dăm sáu chục tên lính, khí giới sắc bén, mở cờ gióng trống mà đi; sớm lên
đường chiều tới nơi, quận Nhưỡng thấy thế cũng không đến nỗi khinh mình.
Tế nói:
- ý kiến
của cháu cũng đúng. Cháu nên gấp rút đi mộ quân lính, hẹn chiều tối hôm nay
phải đến đây ngay.
Không
ngờ chú cháu y bàn luận cả đêm như thế, đều bị người trong nhà nghe thấy hết và
biết rõ chuyện. Nửa đêm, họ liền đi báo với viên ấp trưởng. Sáng dậy, khi Vân
đã đi rồi, viên ấp trưởng liền đem vài chục bộ hạ cầm khí giới và khiêng một
cái cũi đến, bảo với Tế rằng:
- Mời
quan lớn vào trong này! Đã có quân của quận Tuyển chờ ở gần đây, xin sẵn sàng
hộ tống ngài về kinh yết kiến cụ Bằng trung công.
Tế vờ
thất kinh mà rằng:
- Các
ông lầm rồi! Tôi là học trò xứ Hải Dương, tới Như Kinh kiếm nơi dạy học, thình
lình gặp việc binh đao, nên lại trở về xứ đông, có việc gì mà phải yết kiến bậc
quý nhân trong triều?
Người ấp
trưởng cười mà nói:
- Quan
lớn đừng có dùng miệng lưỡi nói dối người ta! Trước kia ngài đã bay lượn ở vùng
Thăng Long, gầm hét ở hạt Kinh Bắc, tự cho là người tài giỏi độc nhất trong
nước Nam. Học trò Hải Dương đâu có khí thế ấy? Bây giờ xin mau mau vào cũi để
họ khiêng đi cho sớm. Đừng nhiều lời làm gì, mệt sức vô ích!
Rồi họ
đẩy Tế vào cũi, giải đến dinh quân của Tuyển. Những nơi cũi Tế đi qua, nhân dân
đều đổ xô ra hai bên vệ đường để xem. Có người gọi Tế mà bảo:
Ông nghè
sao lại đến thế; tức thay thằng kẻ cướp vô loại kia sao lại lọt lưới? (chỉ
Dương Vân)
Trước
đó, khi bọn Tuyển cầm quân ra đi, Chỉnh đã có lời răn bảo. Đến lúc bắt sống
được Tế rồi, Tuyển liền đem quân thắng trận trở về, hết thảy đúng như lời Chỉnh
đã dặn.
Các quan
trong triều đến dinh Chỉnh. Mừng việc thắng trận, ai cũng tấm tắc khen ngợi và
khâm phục. Riêng Trần Công Xán lại nói:
- Không
phải ông có tài tính liệu tình hình địch mà chỉ vì Tế vô mưu "Giống vật
thương tình đồng loại" (dịch câu: "Vật thương kỳ loại", câu này
do ở thành ngữ Thố từ hồ bi, vật thương kỳ loại, nguyên nghĩa là: "Con thỏ
chết
con cáo
buồn, giống vật thương tình đồng loại". ý nói người ta thấy kẻ đồng loại
gặp nạn thì cũng buồn thương. Đây chỉ vào ý Xán mượn câu này để ngầm tỏ ý nói
Tế cũng là kẻ đáng thương) thật là đáng buồn!
Chữ
"vô mưu" ở đây là Trần Công Xán ám chỉ việc Trọng Tế viết tờ hịch chỉ
trích vua Lê trước kia.
Vua nghe
tin đã bắt được Tế, liền sai thảo bản kể tội của Tế, để làm cho nghiêm chỉnh
pháp điển. Chỉnh tâu:
- Xin
kéo hắn ra cửa Bắc mà chém đi là xong, chẳng cần phải làm bẩn bút mực!
Phan Lê
Phiên nói:
- Với
tên giặc khác, cố nhiên nên như vậy. Nhưng Tế là người học hành thi đỗ, xuất
thân trong hàng tiến sĩ mà dám làm việc phản nghịch như thế, thật là kẻ tội
nhân trong danh giáo. Sao được chết một cách im lặng như vậy? Bởi thế, cần vâng
theo chỉ ý của hoàng thượng, nêu rõ tội ác của y, để cho người khác thấy y mà
biết răn mình, thì bọn ngang ngược kia mới dẹp đi được.
Rồi
Phiên cầm bút thảo lời "Luận tội" dâng lên rằng:
"Làm
tôi phản vua, trời đất không còn chỗ chứa; mang tên là giặc, người nước cùng
được giết đi. Vậy phải đục bỏ tên trong bia tiến sĩ, dâng tù trước nhà
Thái-học, để tỏ rõ rằng y đã bị đuổi ra ngoài hàng kẻ sĩ, khiến cho không làm
nhơ danh của nhà nho".
Vua
truyền "được", rồi lập tức sai bọn Tuyển mặc quần áo trận, bắt Tế đưa
đến nhà Thái-học phủ phục chịu tội, rồi điệu đến Trường thi võ mà chém. Sau đó,
vua lại thăng thưởng quân công cho bọn Tuyển, Thái, và theo thứ bậc mà ban cấp
tiền bạc cho các tướng sĩ.
Nhân
việc này, triều thần lại kiến nghị tâu với vua thăng cho Chỉnh lên tước công
một chữ (theo quan chế đời xưa, tước "một chữ" (nhất tự) là cao quý
hơn tước có nhiều chữ. Ví dụ; Bằng công to hơn Bằng trung công), cho phép mở ra
phủ quân Vũ thành, đúc con dấu Vũ thành và để Viện xu mật thống thuộc vào đấy.
Chỉnh nhân dịp, liền tâu xin cho con trai là Hữu Du làm chức doanh tướng, coi
lĩnh toán quân ấy.
Vua ưng
cho.
Từ đó,
những việc thuộc về quân sự, Chỉnh đều để cho Du điều khiển lấy. Chỉnh lại xây
dựng một toà phủ ở phía đông chỗ ở của mình, nhà cửa rất mực lộng lẫy để cho Du
ở, theo như lệ "thế tử ra ở phủ riêng" của chúa Trịnh ngày xưa. Bộ hạ
của Chỉnh nhân đó cậy thế làm nhiều điều phi pháp. Bất cứ là nha môn nào hay
việc gì, hễ đã thấy những giấy tờ đưa đến, có đóng dấu quân Vũ thành, là không
ai dám trái lệnh. Vì thế, triều đình không còn kỷ cương gì cả, mà lòng người
cũng sinh ra chia lìa. Người hiểu biết đều cho là thế nào cũng có loạn. Có
người cáo bệnh bỏ quan, tìm chốn nhàn tĩnh ở nơi xó rừng, góc biển để tránh tai
vạ.
Chỉnh
cũng biết dư luận không ưa gì mình, muốn mượn con đường khoa mục, thu nhặt nhân
tài, để mua chuộc lòng người làm chước yên lành về sau. Chỉnh bèn bàn với Lê
Phiên tâu xin theo phép "kén học trò theo mười khoa" của Tư Mã Quang
nhà Tống, đặc cách mở một chế khoa (Chế khoa là khoa thi do nhà vua tự ra đầu
bài và tự chấm lấy văn. Nhưng đời sau, những khoa thi mở bất thường cũng đều
gọi là chế khoa. - Đời Tống Triết-tông, Tư Mã Quang xin vua cho đặt mười khoa
(10 điều) để làm tiêu chuẩn kén nho sĩ. Mười khoa đó đại để như sau: Có nết; có
tiết tháo; có mưu trí và sức khoẻ; thông minh; ngay thẳng; thông kinh sử; học
rộng biết nhiều, v.v...). Các quan văn từ tam phẩm trở lên đều phải tiến cử
những người mình biết, rồi cho phép họ vào trong sân điện, đối đáp những câu
văn sách của nhà vua hỏi. Khi ấy, các danh sĩ trong nước ai cũng trau dồi chữ
nghĩa và đức hạnh để chờ đợi ơn trên. Cả những người làm quan rồi cũng đều hăng
hái ứng cử. Bấy giờ là tháng giêng mùa xuân, năm đầu niên hiệu Chiêu-thống
(1787). Lúc đó có viên hiến phó là Ngô Tưởng Đào được cử vào khoa "hiền
lương phương chính", dâng biểu cố từ như sau:
"Hiện
nay, nhân sau khi sụp đổ, những việc đáng cảm đáng than trong nước, kể không
thể xiết. Không phải chỉ có "một đau, hai khóc, ba thở dài" (nói theo
lời của Giả Nghị trong bài nói về tình hình trị an đời Hán Văn-đế) mà thôi. Nếu
không có tài hơn đời thì sao có thể xoay chuyển được thời thế. Nhưng những bậc
kỳ tài, kỳ ngộ, phải đâu hết thảy đều do khoa cử mà ra. Đời nếu có người tài,
bệ hạ nên dùng lễ mà mời ra như vua Thang mời Y Doãn ở đất Sằn, vua Văn vương
thăm Lã Thượng ở sông Vị (Y Doãn là công thần đời nhà Thương, từng cày ruộng ở
đất Sằn, vua Thang ba lần đến mời ông mới chịu ra giúp. - Lã Thượng tức Lã
Vọng, công thần đời nhà Chu, từng câu cá ở bờ sông Vị, vua Văn vương đi săn bắt
gặp, hết sức kính trọng, đón lên xe mời về triều làm quân sư), ngõ hầu mới mời
được họ đến. Còn như thần đây lạm giữ một chức còn sợ chưa nổi, dám đâu làm nhơ
đến việc long trọng này, để thương tổn đến sự sáng suốt trong việc cất nhắc
nhân tài của thánh triều".
Lê Phiên
nghe bài biểu ấy nói với Công Xán rằng:
- Ông ta
bảo cần phải có người có tài lạ, là muốn nói nước giặc đang nhòm ngó ở bên
ngoài, chẳng bao lâu sẽ có nạn binh đao. Mình bỏ việc ấy không lo, mà lại đi mở
khoa thi kén học trò, để vờ làm ra vẻ thái bình. Sợ khi quân Nam trở lại, không
biết dùng chước gì mà chống đỡ? Đó thật là cái lo trước mắt!
Năm ấy,
những kẻ vào điện thi để đối đáp văn sách, có đến hai trăm người. Chỉnh muốn
kén chọn cả loạt để thu nhặt danh sĩ trong nước. Nhưng đến khi xướng tên, thì
hạng đúng tư cách thì đỗ chỉ có hai người là Trần Bá Lãm và Nguyễn Gia Cát mà
thôi. Chỉnh có ý không bằng lòng, cho nên mùa đông năm ấy, Chỉnh lại xin thi
hội ở lầu Ngũ phượng, lấy bọn Bùi Dương Lịch vào hạng tiến sĩ, tất cả mười lăm
người. Nguyễn Khuê là người bà con của Chỉnh, đỗ vào thứ tư, dự luận trong ngoài
có ý chê là tư vị.
Nhắc
lại, khi Chỉnh ở Nghệ An về triều, được vua trọng dụng, các thân thần, cựu thần
của nhà vua chẳng ai được ở trên Chỉnh. Vì vậy, Chỉnh làm việc gì cũng trôi
chảy, không còn lúc nào nghĩ đến tình hình nước địch và công việc ở ngoài biên
cương nữa.
Lúc ấy,
những người ở ngoài đối địch với Chỉnh, thì phía tây có quận Thạc, phía đông có
quận Nhưỡng, Chỉnh đều xem khinh. Mỗi khi chuyện trò với ai, Chỉnh vẫn thường
nói:
- Nhưỡng
tuy là dòng nhà tướng, nhưng là người thô lỗ, không thạo mưu cơ làm tướng. Xưa
kia ở dưới cửa tiên công (chỉ quận Huy), y vẫn coi ta là bậc anh. Về sau vì sự
gặp gỡ khác nhau, thành ra mỗi người một ngả. Chắc Nhưỡng không dám tranh giành
với ta, mà ta cũng không nỡ đánh nhau với Nhưỡng, hãy để y ra ngoài đã. Đến như
quận Thạc thì chỉ là người dũng mãnh, mà lúc gặp việc cần ứng biến thì lại
không phải là giỏi. Vả nay y đã tuổi già sức yếu, nên cũng không đáng sợ nữa.
Vừa lúc
ấy, có người thân của Chỉnh là Lệ Vũ ở Sơn Tây về, nói với Chỉnh rằng:
- Quận
Thạc trước đi Hưng Hoá, chiêu dụ mấy viên quan Mường, mở lò đúc khí giới. Hiện
nay đồ đảng ở bốn trấn có đến vài vạn, ông ta đang truyền hịch cho các thổ hào
trấn Sơn Tây, hẹn ngày đem thủ hạ vào kinh. Nghe đâu ông ta có sai người đem tờ
biểu bí mật dâng lên nhà vua, ông có biết không? Chỉnh nói:
- Ta
biết rồi. Trong tờ biểu, quận Thạc trình bày rằng: "Trước đã trái luật làm
tan mất quân đội, sau vào bảo vệ kinh thành lại không nên công trạng gì, nhờ
hoàng thượng có lòng bao dong, lại cho làm chức trấn thủ để cho bù lại tội xưa.
Ngày nay có lòng luyến nhớ cửa khuyết, lại sợ ý ấy chưa được rõ ràng, kẻ không
ưa sẽ được thế chỉ trích, đổ cho tiếng xấu, nên còn dùng dằng chưa dám tới
ngay...". Hoàng thượng có đưa tờ biểu cho ta xem. Ta đã đoán ngầm được ý
của Thạc, chắc y không dám dùng quân sự chống cự lại ta, mà chỉ muốn giảng hoà.
Y ở ngoài lâu ngày, tình thế cách trở, đâm ra nghi hoặc, sợ hoàng thượng không
tin dùng. Mà đột ngột về kinh, thì lại sợ có ta ở trong triều, chưa biết hoạ
phúc thế nào, nên mới dâng trước tờ biểu ấy để dò xem ý tứ của triều đình đó
thôi. Ta cũng muốn tâu xin hoàng thượng giáng chỉ triệu y, nhân tiện ta gửi cho
y một lá thư, nhưng khó kiếm được người xứng đáng để sai đi. Người đã biết rõ
tình hình thì nên theo sứ giả của nhà vua mang thư cùng đi.
Lệ Vũ
xin vâng lời. Chỉnh bèn viết thư gửi cho quận Thạc, đại lược như sau:
"Trước đây tướng quân lên miền thượng du, xếp đặt công việc ngoài bờ cõi,
trèo đèo vượt suối, thật là vất vả. Nếu tướng quân có ý chuyên giữ một phương
để che chở cho miền tây, thì tôi xin đề đạt ý ấy lên nhà vua, cho phép tướng
quân tuỳ ý mà làm. Nếu tướng quân cho rằng ở trong quân ngũ đã lâu, sức lực suy
yếu, muốn nghỉ việc quân cơ, thì tôi dám đâu không giúp đỡ tướng quân chọn một
địa vị tốt đẹp để cho tướng quân giữ trọn công danh, làm bậc túc tướng (vị
tướng cũ đời trước còn lại) của tiên triều? Kẻ đại trượng phu ở đời chỉ có hai
con đường là "hành" và "chỉ", cần phải sơm sớm chọn lấy
một. Mong tướng quân tính liệu lấy".
Lúc mới
nghe có mệnh lệnh nhà vua đòi, quận Thạc liền ra ngoài sân để bái nhận và hạ
lệnh cho tướng tá kiểm điểm binh mã chờ ngày lên đường. Đến khi mở thư Chỉnh
ra, quận Thạc bỗng nổi giận bảo Lệ Vũ:
- Mày là
người riêng của Chỉnh phải không? Sứ giả đỡ lời:
- Thư
này Bằng công đã trình lên hoàng thượng xem; như vậy, người đưa thư tức là do
hoàng thượng sai đi, không phải là người riêng.
Thạc
nói:
- Tục
ngữ có câu: "Bò con mới đẻ không biết sợ cọp". Chính là bảo hạng
người như Nguyễn Hữu Chỉnh đây! Ta là con nhà võ biền, không biết văn hoa che
đậy, việc gì cũng cứ thẳng băng mà làm. Điều gì không bằng lòng, chỉ biết có
lưỡi gươm mà thôi. Này ta nói cho các ngươi nghe: Nguyễn Hữu Chỉnh trước thì
phản bội nước nhà mà giúp Tây Sơn, sau lại ở hai lòng với Tây Sơn mà chiếm giữ
đất Nghệ An. Đến khi Tây Sơn không nhìn nhận, người Nghệ An không dong, mới
quay về với hoàng thượng. Các vị văn quan lại bị hắn lừa dối, để cho hắn có thể
mượn mệnh lệnh của nhà vua, sai khiến người trong nước. Riêng có Dương Trọng Tế
chống cự với hắn, nhưng vì không rõ nghĩa lớn, cho nên hắn có cớ mà nói. Quận
Nhưỡng lại là bạn quen của hắn, thành ra chỉ bay lượn ở vùng Hàm Giang, không
dám vượt lên một bước, tiến về kinh đô mà hỏi tội hắn. Hiện nay, riêng ta thề
lấy việc đánh Chỉnh làm trách nhiệm của mình. Các ông hãy về bảo với Chỉnh
rằng: hắn quen dùng thói gian trá, giảo quyệt để lừa dối người trong nước,
nhưng lừa dối thế nào được ta đây. Ta nay vâng chỉ về triều hỏi tội hắn. Nếu
hắn có thể đánh với ta, thì nên ra ngoài thành vài dặm để chọi nhau cho tiện,
đừng để kinh động đến cung khuyết. Bằng không thì hắn nên ra chịu tội ở ngoài
cửa Đại Hưng, đã có triều đình xử trí.
Rồi đó,
quận Thạc tiễn sứ giả về kinh, lại viết tờ biểu "xuất sư" dâng lên
nhà vua, đại lược nói:
"Trước
đây, thần vâng mệnh ra trấn Sơn Tây, vừa lúc ấy Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An vào
chầu. Bệ hạ cho là Chỉnh có công tôn phò, nên giao việc chính trị trong nước
cho hắn. Đứa tiểu nhân đắc chí, dần dà mưu đồ làm việc không hay. Cứ như ý ngu
của thần, thì Chỉnh không phải là người bề tôi thuần thục, mà là một đứa tự mưu
lợi riêng. Xem việc hắn làm, giống như ma quỷ; xét bụng hắn nghĩ, độc hơn hùm
beo. Cúi xin bệ hạ xét rõ, cho phép thần được trị hắn ngay từ lúc đầu, để hắn
không thể rông rỡ làm ác về sau, thì thật là phúc cho xã tắc...".
Tiếp đó,
quận Thạc đưa tờ hịch đến các lộ Quốc Oai, Quảng Oai, kể rõ tội ác của Chỉnh,
gọi Chỉnh là tên giặc ở cạnh nhà vua, nguyền thế nào cũng giết Chỉnh để triều
đình được trong sạch.
Chỉnh
nghe tin quận Thạc đem quân đến nổi giận nói:
- Tên
giặc già này thật đáng giết! Không muốn làm người công danh ở thế gian, lại
muốn theo gót thằng Trọng Tế làm con ma phản nghịch ư?
Rồi
Chỉnh vào tâu với vua, xin sai bộ tướng là Lê Duật đem quân đi đánh quận Thạc:
còn tự mình đốc suất đội quân lớn theo sau tiếp ứng.
Duật đến
làng Đại Phùng (thuộc huyện Đan Phượng, Hà Đông, nay thuộc Hà Nội) thì quân
quận Thạc cũng vừa tới đó. Hai bên mới giao chiến được một trận thì quân Duật
chống không nổi đã vứt bỏ khí giới mà chạy.
Con trai
quận Thạc là Gia Vũ xin thừa thắng đuổi tràn, khiến hậu quân của Chỉnh kinh sợ,
để có thể giữ được toàn thắng.
Quận
Thạc không nghe và nói:
- Quân
lệnh sớm nay đã truyền là đúng trưa họp ăn ở làng Đại Phùng. Các quân lính đang
đói mệt, chờ đợi nghỉ ngơi ăn uống, thì quân giặc thình lình kéo đến; ta mới
vẫy quân một cái mà đã đánh lui được chúng, bây giờ nên nhân đấy mà truyền cho
quân lính ăn cơm là phải. Nếu lại khua cho họ tiến lên, chiều tối đến kinh
thành, giặc tất nhiên dốc hết quân ra liều chết mà đánh, lúc đó quân ta vừa mệt
vừa đói, lấy sức đâu mà chống? Binh pháp có nói: "Quân đi hàng trăm dặm để
kiếm lợi, sẽ què thượng tướng"; đó là con đường nguy hiểm. Hãy cứ nghỉ
quân mà ăn uống, ăn rồi thúc trống tiến lên, gặp giặc là đánh. Ăn no khí mạnh,
lo gì không thắng địch? Vả lại, ta bắt Chỉnh như bắt trẻ con, có cần gì mà phải
gấp vội để cho thất tín với quân lệnh.
Quận
Thạc bèn truyền lệnh khua chiêng cho quân tạm nghỉ. Duật chạy đến nửa đường,
ngoảnh lại trông biết là quận Thạc không đuổi; lại sợ Chỉnh đến sẽ bị quở phạt,
liền thu quân, dàn thành trận, quay trở lại đánh quận Thạc. Quân của quận Thạc
đang ngồi lên khí giới mà ăn, hàng ngũ lộn xộn chẳng đâu vào đâu. Thấy quân
Duật ào đến, quân quận Thạc không kịp đánh lại, sợ hãi, tan vỡ, chạy tứ tung.
Lúc ấy quận Thạc đang ngồi trên đình Đại Phùng, vội vàng trèo lên mình voi, thủ
hạ chỉ còn vài chục người, xúm quanh thân voi, ra sức mà đánh. Quận Thạc ngồi
trên bành voi, ném lao giết chết quân Duật chừng vài trăm người. Duật không dám
lại gần. Chốc lát thấy Chỉnh đem đại quân kéo đến tiếp ứng, Duật liền vẫy quân
vây quanh voi của quận Thạc, lấy giáo dài mà đâm. Quận Thạc co voi vào bãi cát,
rồi xuống voi nhảy phốc lên ngựa, múa đao chém vung tàn tán, người ngựa qua lại
như bay. Gia Vũ ở phía sau trận phi ngựa hô tới, xông lên phía trước, lăn xả vào
đánh giết, làm bị thương quân địch rất nhiều. Một viên tỳ tướng của quận Thạc
là Hoàng Đăng, tập hợp được vài trăm tên lính tản mát, cũng quay trở lại hợp
sức mà đánh, Chỉnh trông thấy thế, sợ quận Thạc thoát thân được thì sẽ phi ngựa
trốn mất, bèn vẫy quân Thiết đột vây kín bốn mặt, nhắm vào ngựa quận Thạc mà
bắn. Ngựa què, quận Thạc bị Duật bắt sống. Gia Vũ, Hoàng Đăng liệu chừng không
thể chống nổi, đều theo lối Thượng Hiệp (tên xã, thuộc Sơn Tây. (Cũng ở gần
vùng Đan Phượng)) mà tháo lui.
Trận
này, quận Thạc tự mình đốc suất các phiên thần Hưng Hoá, thổ mục Sơn Tây, lại
hợp với quân của cả hai trấn, khí giới rất là sắc bén. Sau khi thua một trận,
hết thảy đều bị thu bắt, không còn sót một tý gì. Do đó, oai danh của Chỉnh
rung động khắp thiên hạ.
Tin thắng
trận về đến kinh thành, các quan vào mừng. Vua Lê miễn cưỡng ra ngự triều, rồi
nói riêng với Ngô Vi Quý rằng:
- Quận
Thạc không phải là bề tôi bạo nghịch của trẫm. Quận Thạc còn sống thì tên gian
hùng kia (chỉ Nguyễn Hữu Chỉnh) còn e sợ, nay chẳng may mà chết, trẫm rất
thương xót, còn mừng nỗi gì?
Tiếp đó,
Chỉnh rút quân về và giải quận Thạc vào kinh thành tâu xin đem chém.
Vua
khuyên Chỉnh rằng:
- Quận
Thạc trọng về phần nghĩa nhiều, mà ít hiểu về phần lý, cho nên danh với thực
không xứng với nhau, hình tích khó mà rõ rệt. Nay thua trận bị bắt, phép vẫn
nên chém. Nhưng nghĩ lại lúc Trọng Tế thả quân vây bức kinh thành, trẫm đứng
chơ vơ một mình trong điện suýt nữa mắc phải tai biến bất trắc; nếu không có
quận Thạc, làm gì có ngày nay? Theo như phép "Bát nghị" (theo sách
Chu lễ, hình phạt có "Bát nghị" (tám phép bàn), chia ra tám loại
người thân của vua, người có công, người có tài, người quý hiển v.v... để xét
xử phân biệt khác nhau mà định cách giảm tội) Lòng trẫm thật không nỡ, nên bài
lại để cho tỏ rõ cái ơn nghĩ đến công trạng hồi xưa.
Chỉnh
đối với quận Thạc từ trước vốn không có hiềm thù gì, nay đánh một trận mà
thắng, khí tức cũng đã hả, lại nghe lời vua khuyên dụ, bèn xin giao cho triều
đình bàn lại.
Ngự sử
là Ngô Trọng Khuê thảo lời nghị tội khác, trong có câu:
"Làm
quan chống lại mệnh lệnh của triều đình, tội vẫn đáng chém; nhưng đem công mà
bù với tội, thì sự chết cũng nên có lễ...".
Vua bèn
sai đưa quận Thạc ra ngoài cửa Tây, cho uống thuốc độc. Quận Thạc lạy hai lạy,
rồi uống thuốc độc mà chết.
Lúc quận
Thạc mới bị giải vào thành, nhân dân kinh đô xúm lại xem. Quận Thạc nói:
- Ta là
tên tướng già Hoàng Phùng Cơ đây. Cha con một nhà đã có sáu người chết vì việc
nước. Phải, trái đã có công luận. Thành, bại là bởi lòng trời. Ta không giết
được Nguyễn Hữu Chỉnh, thế nào Tây Sơn cũng sẽ giết hắn. Đạo trời báo ứng không
bao giờ sai; chỉ tiếc rằng ta không kịp trông thấy mà thôi. Sau khi quận Thạc
chết, thi hài được đem về chôn ở Sơn Tây, quân và dân ai cũng chảy nước mắt.
Lại nói,
Nguyễn Hữu Chỉnh nắm hết quyền bính trong nước, việc gì cũng tự tay của y mà
ra. Càng ngày y càng lộng hành, lòng người lìa tan, quan văn quan võ, ai cũng
chán nản. Người nào theo lẽ công, giữ phép nước, đều bị bọn tướng sĩ cơ Vũ
thành của Chỉnh quấy nhiễu. Người nào khảng khái dám nói thì nhiều khi bị chúng
làm hại, tai hoạ xảy ra bất ngờ không sao mà lường được. Bởi thế, thường thường
ai cũng kiêng nói. Cũng có người đã cáo bệnh, trả lại ấn tín, bỏ về nơi làng
xóm.
Bọn hào
mục gian ác ở đâu thì tụ họp ở đấy, rồi đi cướp bóc lẫn nhau. Ngoài thành vài
dặm, đều là hang ổ của bọn trộm cướp.
Vua Lê
lấy thế làm lo, bèn vời viên tham tụng cũ là Bùi Huy Bích vào triều để hỏi về
việc thiên hạ. Bích sợ Chỉnh không dám nói gì, chỉ từ tạ mà rằng:
- Thần
may được thi đỗ, nhưng không có tài giúp đời trị nước. Chúa Trịnh xưa cất nhắc
thần làm việc trong chính phủ; lính kiêu dân oán, quân giặc lấn cướp, thần
không có một chước gì để cứu vãn. Kinh thành bị hãm, chúa soái mắc nạn, cái tội
làm lầm lỡ việc nước ấy, thần thật khó lòng mà trốn tránh. Nay nước nhà đã nhất
thống, chính sự ban đầu đang sáng suốt, bệ hạ hãy nên tìm lấy những người tài
giỏi khác. Còn như thần đây, thì dám đâu lại làm nhơ đến triều đình, để lỡ việc
thiên hạ? Cúi xin bệ hạ cho thần được lui về nơi ruộng đồng, làng xóm.
Lúc lui
ra, Bích bảo riêng với người thân tín rằng:
- Thiên
hạ sắp loạn mất rồi! Từ đây ta cũng bỏ mà đi thôi.
Rồi đó,
ông ta đem cả gia quyến dời sang xứ đông.
Viên đốc
đồng trấn Nghệ An là Phạm Huy Khiêm cũng bỏ quan đi lên vùng thượng du huyện
Thanh Chương mưu đồ việc khởi quân cần vương. Khiêm có đưa tờ hịch kể tội của
Chỉnh, nhưng việc chưa thành thì đã chết (Huy Khiêm (có người đọc là Vĩ Khiêm,
tức Phạm Nguyễn Du)).
Bấy giờ,
trong bọn sĩ phu tại chức, lại có hạng người khác, nặng lòng công danh, lấy việc
dẹp loạn, phò nguy làm trách nhiệm của mình. Họ tụ tập các người đồng chí,
chiêu mộ quân lính nghĩa dũng. Hào kiệt bốn phương, khi nhận được chỉ thư, cũng
theo lời hiệu triệu mà đến với họ. Những đám như vậy, khắp nơi đều có.
Viên đốc
trấn Cao Bằng là Lưu Tiệp (có bản chép là Lưu Côn, Lưu Tiệp quê ở làng Nguyệt
áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội) nhận tờ mật chỉ của chúa Trịnh. Còn viên đốc đồng
là Nguyễn Hàn (Nguyễn Hàn quê ở xã Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, Tiệp và Hàn đều đỗ
tiến sĩ) lại nhận tờ mật chỉ của vua Lê. Cả hai đều khuyên dỗ bọn phiên mục ở
trấn ấy giúp sức, rồi lại cấp phát phù tín, sắm sửa khí giới cho họ, và dặn họ
sẵn sàng chờ lệnh đòi gọi. Lúc bấy giờ một trấn Cao Bằng, chia làm hai đảng. Kẻ
theo tiết chế của viên đốc trấn, thì không biết có viên đốc đồng. Người theo
ước thúc của viên đốc đồng, thì lại không biết có viên đốc trấn. Hai người ai ở
dinh nấy, không chịu họp chung với nhau. Tiếng là đồng liêu với nhau, thật ra
chỉ là thù địch.
Tiệp
ngầm sai viên phiên thuộc của mình đem thủ hạ về trá hàng Nguyễn Hàn, rồi lại
cho người tới cầu hoà để đòi lại viên phiên thuộc cùng bọn đầu hàng ấy. Hàn
không biết là mẹo lừa, cứ nhận bọn đầu hàng mà cự lời xin của Tiệp. Tiệp liền
đem quân vây đánh Hàn. Bọn trá hàng bấy giờ mới nổi lên làm nội ứng cho Tiệp, quân
của Hàn tức thì rối loạn tan vỡ. Hàn hoảng sợ vội vàng bỏ chạy, bị giết chết
liền. Vợ con của Hàn ở trong dinh cũng đều bị giết tất cả. Do đó, trấn Cao Bằng
rối loạn lung tung. Bọn hào mục kẻ nào giữ ấp trại của kẻ nấy, rồi đem quân
đánh giết lẫn nhau. Tiệp cũng không thể ngăn nổi.
Cùng lúc
đó, Hà Quốc Ký ở Lạng Sơn, Triệu Văn Khương ở Thái Nguyên, Hoàng Văn Đồng ở
Tuyên Quang, Đinh Văn Hồ ở Hưng Hoá và các tù trưởng ở vùng Phù Sương, Tây Lĩnh
cũng đua theo, đâu đó đều chống lại mệnh lệnh của triều đình, quan lại ở trấn
có người cũng bị chúng đuổi. Khắp trong bốn cõi không còn có chỗ nào yên tĩnh.
Thật là:
Quạ cáo tranh nhau, không đáng ngại.
Cọp, rồng đánh lộn, mới ghê thay!
Chưa
biết đại thể ra sao? Hãy chờ hồi sau phân giải.
Hồi 9
Tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm đem quân lấn ngoài
bờ cõi
Quan bình chương Trần Công Xán vâng mệnh bàn
việc biên cương.
Lại nói, khi ở Cao Bằng bắt đầu nhóm lên việc
binh đao, Lưu Tiệp, Nguyễn Hàn đều có sai trạm đưa thư về kinh cáo biến. Tiệp
bảo Hàn là phản nghịch, Hàn bảo Tiệp là phản nghịch, và cả hai đều nói
"hiện đã điều quân vây đánh, chỉ khoảng mươi ngày sẽ bắt được kẻ có
tội".
Quan
Bình chương là Phan Lê Phiên thấy thư ấy, rất kinh hãi mà rằng:
- Hai
người đều là bậc thanh cao trong hàng triều sĩ, ra ngoài gánh việc phiên trấn,
đáng lẽ phải vì việc công mà quên việc riêng. Sao họ không chịu nén lòng theo
nhau, lại đi cầm đầu cho cuộc quấy rối? Đồng loại làm hại nhau, đó cũng là một
biến cố lớn! Đáng ghê! Đáng sợ!
Vừa lúc
ấy, các viên trấn thủ ở bốn lộ Lạng, Thái, Tuyên, Hưng cũng đều lần lượt gửi
thư hoả tốc về cáo biến.
Vua Lê
bèn bàn với Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh thưa:
Các trấn
đem quân đánh nhau, cũng là thói thường của bọn tù trưởng ở ngoài bờ cõi, chỉ
cần hạ một bức thư, báo cho họ biết đường hoạ phúc, chắc họ sẽ nghe theo; dẹp
yên việc ấy, không có gì khó. Riêng việc biến cố ở Cao Bằng thì lại do các viên
quan trấn gây ra, bọn tù trưởng trên ấy đều không đáng trách. Cái tội tự tiện
đánh nhau, giết nhau, triều đình sẽ phải có phân xử, vậy xin giao xuống cho các
quan họp bàn.
Quan
đồng bình chương Trương Đăng Quỹ và quan tham tri Nguyễn Diệu đều xin gấp rút
chọn hai viên đốc trấn, đốc đồng khác có tài cán lên coi thay việc trấn và luôn
thể hạ chiếu chỉ triệu bọn Tiệp, Hàn về triều, may ra mới dẹp được cuộc rối loạn.
Phan Lê
Phiên nói:
- Phải
đấy! Rễ chùm, mấu cứng, phải dùng đồ sắc! Viên quan cử lên coi trấn ấy, không
thể dễ dàng muốn sai ai cũng được.
Quan
đồng bình chương Trần Công Xán nói tiếp:
- Việc
loạn ở Cao Bằng hồi xưa, viên đại thần đã qua đời là Nghĩa thành vương (tức
Nguyễn Đình Bá) vâng mệnh lên vỗ về, ở luôn trên trấn ấy bảy năm, nhân dân các
bản đều mến phục. Sau ông mất tại đó, dân địa phương vì thương tiếc mà nghỉ mấy
phiên chợ liền, lại dựng đền mà thờ. Quan xu mật hiện nay là Nguyễn Đình Tố (người
ở Khoái Châu, Hưng Yên (Hải Hưng)), chính là con của Nghĩa thành vương. Ông ta
là người rộng rãi có độ lượng, tài xử sự cũng nhanh, vậy xin gấp rút sai đi
ngay.
Vua Lê
bèn dùng Nguyễn Đình Tố làm đốc trấn Cao Bằng, lại sai Nguyễn Huy Túc làm phó
đốc trấn. Rồi hạ lệnh giục hai người lên đường đi nhậm chức. Tố nói:
- Cha
thần sinh ở Cao Bằng, mất ở Cao Bằng, thần cũng sinh ở Cao Bằng, nay lại lên
đó, việc sau này có thể biết rồi. Vậy xin cho phép mười ngày để thần xếp đặt
việc nhà.
Khi hai
người lên đến giáp giới tỉnh Lạng Sơn thì nghe tin Hàn đã bị hại, Tố giật mình
nói:
- Thương
thay! Chết cũng bởi số, nhưng cũng lỗi tại ta đi chậm quá.
Rồi Tố
lập tức giục trạm đi dấn lên. Khi trạm đầu báo tin quan đốc trấn mới là Nguyễn
Đình Tố đến, thì tù trưởng các nơi đều vui mừng chờ đón. Lúc Tố đến Cao Bằng
thì Lưu Tiệp còn đang đóng cửa thành, đánh nhau với dư đảng của Hàn. Tố vâng
lệnh tuyên bố uy đức của nhà vua, bảo hai bên phải giải tán quân lính, rồi
thong dong xếp đặt mọi việc, trong cõi lại yên ổn như thường.
Một hôm,
vừa gặp lúc đến yết kiến đền thờ Nghĩa thành vương, Tố bảo
Nguyễn
Huy Túc:
- Tôi
nay có lẽ sắp đi với tiền nhân, trách nhiệm ở bờ cõi rất nặng, rồi đây sẽ có
những việc khó khăn, lớn lao. Trấn này thông với đất Trung Quốc, trước đây tôi
đã đi sứ, cũng hơi thuộc đường lối, chỉ giận rằng không ở đây nữa.
Ông còn
ở đây, hãy nên cố gắng mà đương lấy mọi việc. Tố lại ngoảnh sang các phiên
trưởng mà dặn rằng:
- Sau
khi tôi đi rồi, các ông chỉ nên nghe lệnh quan phó đốc trấn, chớ như vừa rồi,
gây ra nhiều việc, thì thế nào cũng có vạ lớn.
Mọi
người đều lấy làm lạ mà hỏi, thì Tố nói:
- Điều
đó rất khó nói.
Chiều
hôm ấy, Tố về doanh rồi chết.
Huy Túc
một mặt lo liệu việc ma chay, một mặt viết thư báo tin cho triều đình, rồi vâng
chỉ của vua lĩnh chức đốc trấn Cao Bằng.
Lại nói
vua Tây Sơn từ lúc rút quân về Nam, đến Nghệ An ở lại mười ngày, giao cho phó
tướng Nguyễn Duệ giữ đất này, cùng đô đốc là Chiêu Viễn đóng quân ở doanh Hà
Trung (thuộc Hà Tĩnh).
Sau đó,
vua Tây Sơn lại đổi Chiêu Viễn vào đóng ở châu Bố Chánh, Nguyễn Duệ coi doanh
Kỳ Hoa, tả quân Võ Văn Nhậm đóng một đạo binh quan trọng ở Động Hải (Bố Chánh
thuộc Quảng Bình. Kỳ Hoa thuộc Hà Tĩnh. Động Hải tức Đồng Hới Quảng Bình (Bình
Trị Thiên)) để làm thanh viện và nương tựa lẫn nhau.
Lúc
Nguyễn Hữu Chỉnh theo kịp, thượng công (tức Nguyễn Huệ) ngỏ lời yên uỷ dỗ dành,
và bảo ở lại Nghệ An làm việc với Duệ. Bề ngoài tuy thượng công hứa hẹn với
Chỉnh bằng những lời ngon ngọt, nhưng lại dặn riêng Duệ rằng:
- Chỉnh
vốn người Bắc, trốn về với ta. Xem bộ hắn ta là kẻ phản phúc gian dối, không
thể tin cậy. Vả chăng người Bắc oán hắn rất sâu. Ta định bỏ hắn, để cho hắn
chết. Không ngờ hắn lại trốn chết cố theo. Nghệ An là quê hương của hắn. Nay để
nhà ngươi ở lại đây, ngươi nên xem xét kỹ lòng người xứ này, xem theo ai chống
ai và tình hình động tĩnh của hắn ra sao. Chiêu Viễn ở gần đấy, gọi một tiếng
là đến. Tả quân cũng không xa đây lắm, có việc nên chăng, ngươi phải viết thư
báo tin cho mau, và cùng bàn định với ông ta. Sống ở nước ngoài đất khách,
ngươi phải để ý đề phòng cẩn thận, chớ có dễ dàng tin theo Chỉnh mà mắc mưu của
hắn. Ngươi phải cẩn thận lắm mới được!
Sau khi
thượng công về Nam, Chỉnh liền được chiếu chỉ nhà vua vời đưa quân ra Bắc. Lúc
đi, Chỉnh để đồ đảng của mình là Nguyễn Duật ở lại làm việc với Duệ. Ngày chia
tay lên đường, Chỉnh hai ba lần dặn dò và mong mỏi Duệ đối xử tử tế với mình;
Duệ cũng tiễn đưa Chỉnh rất ân cần, tử tế. Sau khi Chỉnh nắm được chính quyền,
thường thường gửi thư qua lại với Duệ và biếu tặng rất hậu. Rồi Chỉnh lại ngầm sai
người gọi Duật về kinh thành, để hỏi tình hình Tây Sơn và dò ý tứ của Duệ. Khi
đã biết vua Tây Sơn và thượng công gây ra việc binh đao, anh em đánh lẫn nhau,
tiếp đó lại được thư của Duệ hẹn cùng chung sức đánh vào phương Nam, thì Chỉnh
rất mừng, cho là có thể mưu đồ lấy lại Nghệ An. Chỉnh bèn thu xếp mười lạng
vàng và mười tấm đoạn, sai Duật đem vào biếu Duệ, nhân tiện lấy việc lợi hại
hoạ phúc mà doạ hắn ta, lại dỗ dành hắn ta giữ lấy Nghệ An, ngăn chặn Chiêu
Viễn, đắp lại luỹ cũ Hoành Sơn, và vạch sông Gianh làm nơi biên giới như việc
cũ trước đây (chỉ vào cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn (1627-1672), sau lấy sông
Gianh làm giới hạn để phân chia Đàng trong (Nam) và Đàng ngoài (Bắc)).
Lúc đó,
người do thám của Võ Văn Nhậm ở Nghệ An biết rõ việc ấy, vội vàng về báo với
Nhậm. Nhậm lập tức đưa binh phù triệu Duệ về. Duệ chống lại và nói:
- Tướng
ở ngoài, mệnh lệnh của vua cũng có khi không cần phải theo. Lúc thượng công về,
giao cho tôi đóng giữ đất này, nay tôi không dám tự tiện rời khỏi trấn này.
Nhậm
được thư ấy, liền nói:
- Quả
nhiên Duệ làm phản rồi!
Tiếp đó,
Nhậm lập tức gửi thư cáo biến với thượng công; trong thư có đoạn viết:
"Ngày trước dùng Chỉnh tức là nhốt hổ gầm giường; ngày nay để Duệ, ấy là
nuôi ong tay áo. Xin kíp phát quân ra Bắc, trước hết giết Duệ ở Nghệ An, rồi
sau bắt Chỉnh ở Thăng Long. Dẹp loạn và bình định đất nước ở một chuyến này, cơ
hội không nên bỏ lỡ..."
Trong
lúc ấy, thượng công và vua Tây Sơn đang có việc xích mích, cuộc binh đao giữa
hai anh em chưa dàn xếp xong, việc nội chiến ở miền Nam so với mối lo ở miền
Bắc còn cần kíp hơn nhiều. Bởi vậy thượng công không quả quyết thi hành, bèn
sai người báo cho Nhậm biết, và giục Nhậm tiến quân ra Nghệ An bắt Duệ; rồi sau
đó sẽ kiểm điểm quân lính, thu góp lương thực, chia đi đóng đồn ở các nơi hiểm
yếu và viết thư hỏi Chỉnh về tội thông
mưu với
Duệ, xem Chỉnh trả lời ra sao. Nếu Chỉnh còn biết sợ hãi, cố tình chối cãi, thì
nên để đó sau này sẽ liệu, chưa nên đánh vội. Bằng Chỉnh ra mặt chống lại, thì
như thế là đã có cớ, lúc ấy cứ việc tiến quân ra đánh cũng không muộn gì.
Nhậm
vâng lệnh, tự mình đem đại quân đi gấp. Chỉ trong một ngày một đêm.
Nhậm đã
đến doanh Kỳ-hoa nhưng Duệ không còn ở đó nữa.
Số là
mùa đông năm trước, thượng công nghe tin Chỉnh đem quân ra bảo vệ vua Lê, sợ có
biến cố gì khác xảy ra, liền sai Nguyễn Văn Đức đem quân giữ phủ Diễn Châu cùng
làm chức trấn thủ với Duệ, để nương tựa lẫn nhau. Kịp đến khi nghe miền Nam
đánh nhau, Duệ và Đức đều gửi thư cho Chỉnh, mưu đồ hợp lực kéo quân về Nam, để
thừa cơ làm loạn. Hai người hẹn rằng, sau khi đắc thắng, sẽ trả các đất từ
Hoành Sơn ra Bắc, nhưng Chỉnh còn chần chừ chưa quyết định. Đến khi bị Nhậm
phát giác, hai người bèn bỏ xứ Nghệ đem quân theo mạn ngược trở về Nam. Duệ về
với vua Tây Sơn. Còn Đức vốn là một đại thần của chúa Nguyễn, bị quân Tây Sơn
bắt, phải miễn cưỡng theo, chứ thực ra cũng không thích làm việc cho họ. Lúc
đó, Đức bèn theo đường núi tây nam, trốn thẳng sang nước Tiêm La. Đức đi đã
lâu, thượng công mới nhận được thư hoả tốc của Nhậm, vội sai quân đón bắt, nhưng
cũng không kịp.
Nhậm đến
Nghệ An, kiểm điểm binh lính, trưng thu lương thực, sửa soạn khí giới, rồi đưa
thư ra Thăng Long, trách móc Chỉnh gay gắt.
Chỉnh
được thư, giấu giếm không cho vua Lê biết, đoạn viết thư tạ tội, đại ý nói:
"Trước
kia tôi bỏ nước cũ về với chúa công, nhờ ơn cho vào nơi mạc phủ, hầu hạ túi
cung roi ngựa đến bốn năm năm. Mùa thu năm ngoái, đại quân về Nam không cho tôi
biết, tôi cũng hiểu là thượng công muốn dùng cách đó thử tôi, để xem tôi lui
tới ra sao. Lúc bấy giờ người Bắc cố lưu lại, nhưng tôi quả quyết bỏ họ mà đi.
Nghĩ rằng lòng này không có đổi thay như thế, bậc cao minh hẳn đã soi xét đến.
Lúc vào yết kiến thượng công ở Vĩnh Dinh, tôi xin đi theo quân đội về Nam, ngài
bảo tôi rằng: "Quận Thạc, quận Nhưỡng còn làm ngang trở không thể không
trừ khử, nhà ngươi hãy ở lại đây, lo liệu một phen". Tôi dám đâu không
theo mệnh lệnh? Tôi đã đem thân mình mà ruổi rong theo chúa (chỉ vua Tây Sơn)
thì còn dám tiếc gì? Vì thế, tôi tự mình xông pha tên đạn, quyết chiến với bọn
Thạc, Nhưỡng. Chỉ mong trừ được hai tên ngang ngược ấy, thì sẽ lập tức quay
ngựa về Nam. Nhưng, tháng trước đây đánh ở Sơn Tây, mới bắt được có quận Thạc.
Riêng Nhưỡng thì vẫn đang vùng vẫy ở miền Hải Dương, còn cần phải đánh dẹp vất
vả. Bởi vậy cho nên tôi chưa về triều được. Những kẻ ghét tôi, thấy tôi ở lại
đất Bắc, liền đặt lời gièm pha. Sao họ không xét rằng, sau khi thượng công về
Nam, tôi chỉ ở lại Nghệ An hơn mười ngày, rồi lại ra Bắc ngay, thì còn thời giờ
đâu mà mưu toan với Duệ? Từ đó kẻ Nam người Bắc, ai làm việc nấy, tôi có
hề đi
lại gì với Duệ đâu? Nếu xét rõ tình cảnh ấy, hẳn không cần phải chờ tôi biện
bạch gì thêm. Vả chăng, cái ngày mà tôi làm việc chung với tướng quân, không
phải không lâu. Nếu quả là tôi có lòng gì khác, hồ dễ đã giấu được cho khỏi lộ?
Tướng quân nên chuyển đạt lời tôi đến trước chúa công, thì tôi đội ơn nhiều
lắm!".
Nhận
được thư ấy, biết Chỉnh còn có ý sợ, Nhậm bèn viết bức thư khác, dùng lời nói
khéo, vỗ về khuyên giải làm cho Chỉnh yên lòng, để mình còn có thì giờ sắp đặt
công việc ở trấn Nghệ An. Tiện thể Nhậm cũng không quên buộc Chỉnh phải mau
chóng dẹp yên quận Nhưỡng, rồi rút quân về Nam, để khỏi trái với ý định.
Chỉnh
tiếp thư, không hiểu rõ ý của Nhậm, cho rằng Nhậm có thể dễ lừa phỉnh, chắc
không phải lo gì về mặt Nam.
Lúc bấy
giờ, trong ngoài đều đồn đại rằng tướng của Tây Sơn là tả quân Nhậm, kéo quân
ra Nghệ An, kén chọn lính tráng, định kỳ xuất phát, chẳng bao lâu quân Tây Sơn
lại tới, Thăng Long sẽ thành nơi chiến trường. Vì thế, trong kinh nhốn nháo,
người chuyển vận đồ đạc, người bồng bế con cái, tranh nhau đi lánh nạn, lính
Kim Ngô (tên một đội lính bảo vệ trật tự ở kinh đô) ngăn cấm không nổi. Nhiều
viên đình thần đem việc đó tâu với vua Lê. Vua Lê liền triệu Chỉnh vào hỏi.
Chỉnh tâu:
Người ta
đồn nhảm, không cần phải tin. Thần đã cho người đi xem xét biết hết sự thật
rồi. Vua Tây Sơn từ khi ở đất Bắc về Nam, liền vào thẳng chỗ quốc thành (tức
Qui Nhơn). Còn thượng công thì đóng ở Phú Xuân, nghỉ quân để vui chơi, ban bố
hiệu lệnh, sửa sang thành luỹ. Bao nhiêu vật liệu, khí giới và các báu vật lấy
được ở Bắc về, thượng công đều thu chứa lấy. Vua Tây Sơn sai sứ thần tuyên
triệu, thượng công không chịu về triều. Mọi việc phong quan, ban tước và xử trí
này khác, thượng công đều tự tiện quyết định. Vua Tây Sơn sai người đưa ấn
phong thượng công làm Bắc bình vương và hỏi những thứ của báu lấy được ở phủ
chúa Trịnh. Thượng công cũng chống lại không chịu dâng lên. Vua Tây Sơn giận
lắm. Vì thế, anh em mới gây ra cuộc binh đao, ở trong một nhà mà đối với nhau
còn dữ dội hơn là đối với nước thù địch. Ngay trong bọn họ với nhau cũng không
đủ thì giờ để cứu vãn được tình thế cấp bách, đâu còn dám ra khỏi Hoành Sơn một
bước để tranh quyền với ta? Ta cần làm sao cho việc nội trị có quy mô yên ổn,
thế là sẽ được thái bình. Đến như trấn Nghệ An, thì chỉ cần sai một sứ giả đem
bức quốc thư sang, bàn bạc với họ, một lời nói là xong. Ta cùng họ đã thành
thông gia, ta cũng không cần lo xa làm gì. Quan ngự sử là Nguyễn Đình Giản nói:
- Xưa
nay tình hoà hảo thông gia, nói chung đều không thể tin cậy. Chỉ có bằng vào
chước tự cường của mình, làm sao cho bờ cõi được vững chắc, ngăn chặn sự dòm dỏ
của kẻ địch, thì như vậy mới có thể tin cậy được. Bắc bình vương cũng là một
bậc anh hùng, xem thường ông ta không được đâu!
Chỉnh
nói:
- Tôi đã
từng cộng sự với ông ta, há lại không biết? Ông ta quả thật là bậc anh hùng,
nhưng nhân tài xứ Bắc ta đây cũng không thua lắm. Vạn nhất xảy ra việc binh
đao, tôi xin chọi với ông ta, còn như bọn Võ Văn Nhậm đã chiếm giữ đất Nghệ An,
nhưng cứ mặc y. Quân nước ngoài ở trọ, chẳng qua cũng như bọn Chiêu võ, Thuận
nghĩa hồi xưa chiếm đóng bảy huyện phía nam Nghệ An, không bao lâu rồi cũng lại
về ta (chỉ việc các tướng của họ Nguyễn là Thuận nghĩa hầu, Nguyễn Hữu Tiến và
Chiêu võ hầu Nguyễn Hữu Dật, đánh chiếm được bảy huyện ở nam sông Lam hồi xưa
(1655-1660), trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Về sau, các miền ấy, lại bị
họ Trịnh giành lại).
Vua Lê
nói:
- Nhân
tình lo sợ, nghi ngờ, họ đang coi việc động tĩnh ở phương Nam để định sự thể
khinh trọng của nước nhà. Ngươi nên tính kỹ liệu trước cho lòng trẫm được thư
thái.
Chỉnh
tâu:
- Đó là
việc trong chức phận của thần, dám đâu không hết lòng hết sức? Ngoài mặt, Chỉnh
tuy nói năng khuếch khoác để trấn áp mọi người, nhưng kỳ thực, từ khi được thư
của Nhậm, trong lòng Chỉnh rất đỗi lo sợ.
Một hôm
vào chầu, Chỉnh đuổi người chung quanh ra mà nói kín với nhà vua rằng:
- Võ Văn
Nhậm tuy là tả tướng trong soái phủ của Bắc bình vương, nhưng vốn là rể vua Tây
Sơn. Lâu nay chỉ huy việc quân, y vẫn đóng vai con rể của nước. Nay thấy anh em
Tây Sơn xích mích nhau, Nhậm là kẻ đứng giữa, cố nhiên là phải tuân theo tướng
lệnh, nhưng trong lòng lẽ nào lại hoàn toàn không nghĩ gì đến bố vợ? Vừa rồi có
tên do thám nói rằng: "Nhậm ở Động Hải nghe việc biến cố ấy, bèn xin về
hầu. Nhưng Bắc bình vương không cho mà bảo ra thẳng Nghệ An. Nay Nhậm đang ở
vào địa vị nguy ngập và bị ngờ vực, nên không thể không có ý trông về bên
trong. Thần xin nhân cơ hội này để thương lượng về việc bờ cõi Nghệ An. Hết sức
nhắm nhe vào ân tình của họ, lại lễ nhiều, lời ngọt, ngoài có Văn Nhậm tâng
bốc, trong có công chúa đỡ lời; Bắc bình vương dù có lòng nào chăng nữa cũng
không thể không gượng theo mình.
Vua Lê
khen phải.
Sáng hôm
sau, nhân buổi chầu sớm, vua nói với các quan rằng:
- Nghệ
An liền kề với Thanh Hoa, là một quận phụ vào đất "thang mộc". Con em
đất ấy vẫn được lựa chọn vào quân túc vệ, làm nanh vuốt cho nước nhà. Đất ấy
không thể để cho người khác chiếm giữ mãi. Trẫm sắp sai người đi Phú Xuân để
bàn với Bắc bình vương một phen. Vậy các ngươi hãy chọn xem người nào có thể
sung vào sứ bộ?
Trương
Đăng Quỹ thưa:
- Nguyễn
Đình Giản và Phạm Đình Dư là người ngay thẳng có thể làm được việc ấy.
Phan Lê
Phiên nói:
- Giản
cương trực có thừa mà mềm mỏng ôn hoà thì không đủ. Dư tuy nghị luận vững vàng,
nhưng xét việc hơi chậm. Bắc bình vương là người rất quỷ quyệt, hay dùng mưu
khôn lung lạc người ta. Trong lúc bàn bạc, khi nén xuống, khi nâng lên, không
biết đường nào mà dò. Thần sợ rằng hai người ấy tranh biện với ông ta, thế nào
rồi cũng làm hỏng việc nước.
Đình
thần bàn mãi việc cử người, luôn mấy ngày vẫn chưa ngã ngũ. Chỉnh bèn tâu để
Trần Công Xán đi.
Vua Lê
nói:
- Được
đấy!
- Người
là người trung trinh vì nước, lòng trẫm đã biết. Ngày xưa Phú Bật sang sứ Khiết
Đan, làm cho nước địch phải kính trọng, công việc xong xuôi (Khiết Đan là một
nước ở phía đông bắc Trung Quốc, thường hay xâm phạm bờ cõi. Đời vua Tống Nhân
tông, quân Khiết Đan đến đóng sát biên giới và bắt nhà Tống phải cắt đất. Phú
Bật được đi sứ, đã hết sức biện bạch, kết quả làm cho quân Khiết Đan phải lui
và từ đó hai nước hoà bình được đến vài chục năm). Chuyến đi này, cũng giống
như thế. Ngươi cố vì trẫm vâng mệnh ra đi, cũng là Phú Bật của nước Nam đó. Một
vị hoàng thân cùng đi, trẫm đã sai Duy án (Cương mục chép là Duy Hiên), còn một
viên phó sứ nữa thì tuỳ ngươi chọn lấy.
Xán hăng
hái xin đi, và nói:
- Vua
phải lo thì bề tôi mang nhục; thần đâu dám sợ khó khăn? Trong những người từng
làm việc chung với thần mà thần đã biết, thì có Ngô Nho là có thể dùng được.
Vua ưng
lời, rồi ban mệnh lệnh xuống. Cả triều đình đều khen là chọn được người xứng
đáng.
Duy án
là con thứ sáu của vua ý tông, và là ông chú họ nhà vua. án tính người cẩn
thận, nho nhã và trung thực. Công chúa Ngọc Hân khi chưa lấy chồng, vẫn thường
tôn kính án, mọi việc nên chăng đều hỏi ý kiến của án. Kịp đến khi công chúa về
với Bắc bình vương, án thường nhân có việc tới gặp, Bắc bình vương cũng khen án
nói năng lui tới có lễ độ. Lúc đó vì muốn luôn tiện hỏi thăm công chúa, cần
chọn người hoàng thân xứng đáng, nên mới sai án đi.
Trần
Công Xán, người làng Yên Vỹ, huyện Đông An, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm thìn (1772)
đời Cảnh Hưng. Hồi Đoan nam vương còn coi giữ việc nước, Xán đang ở chức tả thị
lang bộ công, được sung chức hành tham tụng. Trong cuộc biến loạn năm Bính ngọ
(1786), quân Tây Sơn tiến sát kinh kỳ, quân quận Thạc tan vỡ, các quan văn vỡ
đang đêm đua nhau bỏ trốn, riêng có mình Xán xin với chúa quyết liều một trận
sống chết. Xán bận quần áo trận, tay cầm gươm, hộ vệ chúa Trịnh ở lầu Ngũ Long.
Lúc Bắc
bình vương vào kinh đô, vua Lê trước sai các quan lần lượt tới yết kiến. Thấy
thần sắc của Bắc bình vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng,
riêng có Xán là tiến thoái như thường, không mất phong thể của bậc đại thần.
Bắc bình vương lấy làm lạ, đã mấy lần mời Xán đến, hỏi việc Bắc Hà. Hỏi đâu Xán
đáp luôn đấy, nói như suối chảy, không có chỗ nào ngập ngừng, ấp úng.
Có lúc
Bắc bình vương cố ý hỏi vặn, nhưng Xán vẫn lật qua lật lại, tranh cãi nhiều
lần, không mảy may chịu khuất phục. Bắc bình vương bảo với tả hữu rằng:
"Ta
nghe Bắc Hà rất nhiều nhân tài, nay đến tận nơi thì chỉ thấy Trần Công Xán là
có khí sắc con người mà thôi!".
Công Xán
vốn được Bắc bình vương kính trọng là như vậy.
Xán đã
từng làm thượng thư bộ Hình, được vào chầu ở toà Kinh-diên, rồi lĩnh chức đồng
bình chương quân quốc trọng sự. Trong triều đình, Xán là người cương trực, gặp
việc có tài ứng biến, lại thêm có học thuật, vì vậy ai cũng tôn trọng. Xán lại
là thầy học của Chỉnh. Mỗi khi Chỉnh có tâm sự gì, không thể nói với người
ngoài thì không khi nào không hỏi Xán để quyết định. Vì thế, chuyến này Chỉnh
mới xin vua để sai Xán đi.
Ngô Nho
người làng Tri Chỉ, huyện Phú Xuyên. Trước kia Xán làm đài quan (tức là chức
ngự sử) coi việc chấm thi, đã lấy Nho đậu tiến sĩ khoa ất-tỵ (1785), nên Nho
vẫn theo lễ thầy học mà đối đãi với Xán, thường tới nhà Xán luôn. Nho thấy Xán
là người khảng khái, có khí tiết lớn lao, không thèm xu phụ quyền thế, nên hai
bên thanh khí hợp nhau. Xán cũng yêu và trọng Nho, vì thế bảo Nho đi với mình.
Khi Nho
mới nghe lệnh ấy, liền vào gặp Xán. Xán bảo Nho rằng:
- Nước
địch đè lấn, tin báo ngoài bờ cõi đang gấp. Nay chỉ biết ra đi chưa biết ngày
về. Tôi là đại thần của nước nhà, nghĩa phải ra đi, sống thác không cần tính
đến. Ông mới làm quan, ngôi thứ còn thấp, ở nhà lại có mẹ già. Trung hiếu không
thể vẹn cả đôi đường, hãy thử nghĩ cho kỹ, tôi không dám ép ông đâu.
Nho trả
lời:
- Tướng
công chịu ơn dày của nước, tôi thì chịu ơn trí ngộ cao cả của tướng công. Đại
thần gánh việc cho nước nhà, kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, đều là nghĩa phải như
thế, ngoài ra không biết đến việc gì khác.
Xán mừng
mà rằng:
- Mạnh
mẽ thay! Kẻ sĩ như thế đáng gọi là "đạt" vậy.
Rồi đem
Nho vào yết kiến vua. Vua cho Nho lạy ở nội điện và hỏi:
- Nhà
ngươi đã ôm ấp kinh luân, từng trải việc đời thử liệu xem chuyến đi này ra sao?
Nho tâu:
- Ngửa
trông phúc lớn của nhà nước và mưu sâu của miếu đường, công việc xong xuôi
tưởng cũng không khó. Vả lại lúc ấy đã có vị lương thần chuyên việc ứng đối,
chắc sẽ không để nhục đến mệnh vua. Thần làm người giúp việc chỉ biết làm hết
chức phận mà thôi.
Nhà vua
gật đầu, rồi sai quan bình chương Phan Lê Phiên cùng với Bằng công Nguyễn Hữu
Chỉnh họp nhau bàn việc thảo quốc thư. Trong thư đại lược nói rằng:
"
Nghệ An là đất nền móng trong cuộc trung hưng của bản triều, cùng với Thanh
Hoa, đều là quận chân tay của nhà nước, quan văn tướng võ phần nhiều ở đó mà
ra. Quân lính túc vệ cũng đều kén chọn đinh tráng ở xứ ấy sung vào. Nếu như
dùng người mà bỏ đất, để họ cách trở quê hương, xa lìa thân thích, xét về nhân
tình, rất là trái ngược. Đức vua quý quốc trọng điều tín nghĩa, hoà với láng
giềng, "suy bụng ta ra bụng người", chắc rằng không việc nhỏ mọn nào
mà không soi thấu, huống chi là việc rõ ràng như thế. Nghĩ lại đức vua quý quốc
lúc mới ra Bắc, vốn lấy việc tôn phò làm nghĩa thứ nhất. Tiên đế lúc sinh thời,
từng mời ngồi trên giường, cầm tay cùng trò chuyện. Tiếng ngọc còn văng vẳng
bên tai, vội quên sao được? Kịp đến khi tiên đế tựa ghế trối trăng mọi việc, ân
cần lo cho kẻ tiểu tử này tuổi còn trẻ nhỏ, muốn nhờ vào phúc ấm của quý quốc,
để làm nơi nương tựa. Gần đây nghe tin quý quốc sai tướng ra đóng ở Nghệ An,
lòng người ngờ vực, có kẻ cho rằng đó là do bọn bề tôi ở biên giới gây việc,
không phải bản ý của quý quốc vương. Đến lúc tiếp được bức thư tư ra, mới biết
thật là vâng mệnh lệnh của quý quốc vương. Trong thư vin vào cớ mùa thu năm
ngoái bản quốc đã hứa cắt đất khao quân. Kẻ tiểu tử này mới lên ngôi, chưa được
rõ nguyên nhân việc trước, đã sai đình thần tra cứu lại cái ước cắt đất, thì là
hai châu Bố Chánh, Minh Linh (Bố Chánh nay gồm các huyện Bố Trạch, Quảng Trạch,
Tuyên Hoá thuộc Quảng Bình. Minh Linh nay là Vĩnh Linh, Do Linh thuộc Quảng Trị
(Bình Trị Thiên)), chứ không liên can gì tới bờ cõi xứ Nghệ An. Vả lại, hồi đó
đã vâng lời quý quốc vương dụ rằng: "Quả là đất đai của nhà Lê, một tấc
cũng không lấy". Nay nếu khao quân bằng đất thì không bằng khao quân bằng
của. Vậy xin tính số thu nhập hàng năm của đất ấy, dùng làm chi phí khao quân;
rồi cứ hàng năm đưa đến biên giới, làm thành định lệ lâu dài. Xa trông quý quốc
vương xét cho, để trọn tình hoà hảo của hai nước. Cả nước chúng tôi đều lấy làm
may lắm!".
Thư thảo
xong, đệ lên vua xem. Vua sai lấy ở kho nội phủ một số vàng, đoạn màu, và lụa
vải thổ sản làm đồ biếu tặng. Rồi vời Trần Công Xán vào trước mặt để dặn dò và
giao cho mang đi. Ngay hôm đó, bọn Xán lên đường. Trăm quan đều tiễn chân đến
ngoài kinh thành. Riêng Nguyễn Hữu Chỉnh thì cùng Xán ngủ đêm ở chùa Thịnh
Liệt. Xán bảo Chỉnh rằng:
- Bắc
bình vương là người hiểm sâu khó lường, chuyến đi này vị tất ông ta đã nghe
theo. Nhưng tôi đã vâng mệnh nhà vua thì cứ liệu chiều biện luận, liều chết mà
cãi. Còn công việc phòng bị thì sau khi tôi đi, ông phải chú ý thêm, chớ có sơ
suất. Dọc theo địa phận miền núi Thanh Hoa, phải gấp rút chia đồn đóng giữ các
nơi hiểm yếu đề phòng quân bộ. Cửa biển trong trấn Sơn Nam cũng nên đóng cọc
ngang dòng sông, để chặn quân thuỷ. Nếu họ trái lời hẹn, mà tới đánh, thì ta đã
có phòng bị trước, không đến nỗi để việc tới nơi mới hấp tấp.
Chỉnh
nói:
- Xin
thầy cứ đi, không cần phải quá lo. Lời nói của thầy ai chẳng nghe theo? Nếu
không thì việc điều khiển quân lính của trò đây cũng chẳng kém ai. Vạn nhất có
biến, há lại không làm nổi một trận sấm vang chớp giật, nghiêng biển, lật núi
cho sướng bụng hay sao? Họ dù kiệt hiệt, cũng chẳng làm được gì.
Xán
không cho lời nói của Chỉnh là phải.
Khi sứ
thần đến đầu huyện Quỳnh Lưu thì có viên tướng của Võ Văn Nhậm sai ra đóng đồn
ở đấy đón vào trong đồn. Xem xét đồ vật xong rồi, y chỉ cho ba viên sứ thần và
mười tám người tôi tớ cùng đi, còn bao nhiêu đều bảo về. Đến doanh trấn Nghệ
An, Nhậm sai thết tiệc khoản đãi, rồi thong thả hỏi Xán rằng:
- Quan
văn quan võ ở Bắc Hà như cụ phỏng được mấy người? Vua Lê giao nước cho tên giặc
Chỉnh, ý ngài tự nghĩ ra sao? Tôi nay đã lĩnh binh phù, sớm tối sẽ kéo thẳng ra
Thăng Long, trước chém đầu giặc Chỉnh sau hỏi tội vua Lê sao lại bội ơn dong
nạp đứa làm phản? Rồi báo cáo rõ ràng với sĩ dân Bắc Hà, cho họ biết tại sao
chúng tôi phải dùng quân? Vua Lê đã không giữ nổi nước nhà thì các trấn từ
Thanh Hoa trở ra, chúng tôi không lấy, người khác cũng sẽ lấy. Nghệ An là một
mảnh đất cỏn con, cắt hay không cắt có quan hệ gì đến việc mất còn của nước nhà
mà phải đi xa xin xỏ cho mất công trèo non lội suối. Tôi chỉ e rằng con chim đã
lìa tổ, đến lúc bay về lại không có cành để đậu nữa mà thôi!
Xán im
lặng, mọi người nghe nói đều sợ hãi. Đến lúc trở ra, Xán bảo Nho rằng:
- Người
Tây Sơn hành binh như bay, tiến quân rất gấp. Xem họ đi lại vùn vụt mau chóng
như thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp, xưa nay chưa hề nghe có
giặc nào như thế. ý tôi đã lo xa, phải đề phòng trước, lúc đi đã dặn ông Bằng
phải như thế, như thế, không biết ông ấy có nhớ không? Nếu hơi chậm trễ, việc
sẽ không kịp.
Nói
xong, than thở hồi lâu rồi đi. Nho bèn nói với Xán rằng:
- Xem
mưu kín của chủ tướng họ, thì việc thôn tính nước mình họ đã sắp đặt sẵn sàng.
Việc tôn phù năm trước chẳng qua chỉ là mượn cớ mà thôi. Bọn lang sói vốn sẵn
bụng ác, quyết không thể nói bằng nhân nghĩa. Bây giờ xe sứ thần đã ra khỏi bờ
cõi, kinh thành sắp bị nạn đinh đao, sự thế quá gấp, phải tính đường quyền biến
để làm cho được việc, không nên câu nệ. Vả xem ông Bằng từ khi đắc chí đến nay,
đai vàng ngang lưng, bộ dạng nhơn nhơn tự đắc, không còn như hồi trước
"nhá rễ cây mà làm nên việc". Tôi e rằng ông ta lính quýnh ra trận,
thế nào cũng bị Võ Văn Nhậm bắt mất. Lúc đó vua ta đi hay ở lại, cũng chưa dám
chắc. Chúng ta phải trù tính thế nào để ngấm ngầm xoay lại then máy, may ra mới
có thể cứu vãn được. Chỉ cần cho nước được yên, dầu có tự tiện cũng không hề
gì. Nếu cứ vâng chỉ cũ, cố tranh cãi về việc Nghệ An, thì đúng như người ta vẫn
nói: "Cướp đã vào nhà
còn sửa
phên dậu". Như thế thật là thất sách. Vậy xin chữa lại quốc thư để
mang đi.
Xán nói:
- Chữa!
Chữa như thế nào? Nho nói:
- Chữa
rằng: "Họ Trịnh chuyên quyền, vua Lê đã không còn nước. May nhờ quý quốc
vương tôn phò. Nếu trời còn phù hộ nhà Lê, tiên đế đâu đến nỗi qua đời. Tôi là
cháu kế tự còn nhỏ tuổi, nghĩ rằng gánh vác không nổi, để nhục cho xã tắc. Kinh
thư có chữ "làm khách", Kinh thi nói rằng "có khách" (hai
câu này đều có nghĩa là muốn nhường nước cho người khác. ở đây, tỏ ý nhường cả
nước cho Tây Sơn, và chỉ xin cắt lại cho một mảnh để vua Lê lấy chỗ thờ cúng tổ
tiên mà thôi), đều là việc cũ đời xưa. Kính xin cắt cho một phần đất để được
nối đời thờ phụng tổ tiên. Thật là thuận mệnh trời để mà sống còn, cầu lòng
thương của trời về dài lâu vậy!". Nếu họ chỉ muốn giữ nước, không có bụng
làm hại mình, thấy nói như thế chắc hẳn phải mừng rỡ, thế nào họ cũng thả sứ
thần về nước và chia đất cho ta. Nhân thế ta có thể khuyên vua ta hãy tạm ở đất
ấy. Họ không có lòng ngờ ta, thì sẽ không đến dòm giỏ nữa. Bấy giờ ta sẽ lo
tính dần dần như vua Thiếu Khang ở Luân ấp, vua Câu Tiễn ở Cối Kê, tự nhiên sẽ
có ngày trung hưng. Nếu không thế, họ đã tức giận mà ra tay hung tàn, thì bọn mình
chỉ làm ma biển khơi. Điều đó tuy chẳng đáng kể nhưng vua ta sau khi phiêu bạt,
long đong, không còn tấc đất để nương tựa, thì dẫu đến tài như Khổng Minh cũng
khó lòng mà trở tay. Xán nói:
- Không
được! Ông Bằng theo việc quân từ lúc đầu còn để chỏm, là tay lão luyện trong
chốn trận mạc, nếu như đô thành mắc nạn binh đao, tưởng cũng không đến nỗi khốn
đốn lắm. Hai nước đánh nhau, chưa biết ai thua ai được. Chúng ta vâng mệnh đi
sứ, mới ra khỏi cõi mà đã chữa quốc thư, mạo lời chúa, chẳng những bị tội với nước
mình, mà nếu bên địch khám phá ra chỗ lừa dối đó, họ cũng không dong mình; tai
vạ càng lớn, tiếng cười không biết bao giờ mới hết. Chi bằng cứ minh bạch mà
làm, việc thành hay bại là tại ông trời, ta có lo gì.
Từ đó
Nho không dám nói nữa.
Khi đến
Phú Xuân, các sứ thần bày lễ vật vào yết kiến Bắc bình vương. Xán trình quốc
thư lên. Bắc bình vương xem qua một lượt, rồi vứt xuống đất mà nói to:
- Thư
này ai làm? Nói ra toàn điều vô nghĩa lý. Người Bắc quen dùng lời lẽ để dử
người. Ta không phải trẻ con mà lừa dối được đâu!
Xán vẫn
không đổi nét mặt, ung dung trả lời:
- Xin
đại vương hãy bớt giận, để tôi nói rõ. Nếu muốn giết tôi, tôi cũng xin nói một
lời rồi chết.
Bắc bình
vương vốn trọng Xán, liền đổi nét mặt mà rằng:
- Ngày
xưa ta vượt biển ra Bắc, phá Thăng Long, diệt họ Trịnh, cả nước khiếp sợ, trong
triều ngoài nội đều chịu bó tay, không ai dám làm gì. Lúc bấy giờ nếu ta chiếm
giữ đất nước, xưng đế, xưng vương, gì mà chả được? Nhưng vì ta xa mến đức của
tiên đến, nên đem cả cõi đất nguyên vẹn trả lại ngài. Cơ đồ thống nhất đều do
tay ta gây dựng lại. Bắc triều lại dùng chế sách "thượng công" để đền
đáp ta. Chẳng biết "thượng công"? là danh hiệu gì? Đối với ta có thêm
được cái gì không? Kịp đến khi tiên đế chầu trời, lễ cả sơn lăng, ta giúp đỡ
cho: tự vương nối ngôi, lễ lớn sách lập, ta chủ trương cho. Nay không cảm ơn
những việc của ta làm, lại chứa chấp kẻ phản ta, chống cự với ta, mưu đồ dành
lại đất Nghệ An. Xử sự như thế, nhân tình có ai nín nhịn được không? Ta đã phái
ra hai vạn binh mã, sai tả quân Võ Văn Nhậm thống lĩnh, thẳng tới Thăng Long,
chặt đầu cha con giặc Chỉnh về dâng. Chắc rằng khi Chỉnh nghe tin quân ta kéo
ra, thế nào cũng kèm tự tôn bỏ chạy. Bấy giờ ở dưới gươm đao, ngọc đá lẫn lộn,
không biết tự tôn có giữ được yên lành hay không? Nếu có làm sao, người trong
nước lại qui oán về ta thì thật phiền.
Xán
thưa:
- Xưa
đức Lê Thái tổ dẹp yên quân Ngô, mở mang nước nhà, công đức như trời. Vua Thánh
tông tự mình làm nên thái bình, rạng danh đời trước, mở rộng về sau. Từ núi
Thạch Bi ra bắc, từ dẫy Đại Lĩnh (Thạch Bi ở Quảng Nam (Quảng Nam-Đà Nẵng) Đại
Lĩnh ở Khánh Hoà (Phú Khánh)) vào nam, đều làm tôi làm dân, ai ai cũng phải tôn
kính, trải qua hàng trăm năm. Họ Mạc tiếm ngôi, cả nước đều giận. Đấng tiên
vương hội họp những người đồng chí, dựng lại họ Lê. Họ Trịnh nối theo cũng vì
có công phò Lê, cho nên mới sai bảo được bốn phương, và được mọi người hưởng
ứng. Từ mấy đời nay, chúa Trịnh tuy là hiếp chế vua Lê, nhưng chính sóc không
đổi thay, chuông khánh vẫn ở đấy (Chính sóc là ngày mùng 1 tháng giêng; xưa các
vua sáng nghiệp khi lên ngôi thường đổi chính sóc, đây mượn ý đó để nói đến
quyền vua. Chuông khánh (nguyên văn là chuông và giá khánh) là những đồ thờ của
nhà vua; đây ý nói miếu đường của nhà vua vẫn tồn tại), thiên hạ vẫn là thiên
hạ của nhà Lê. Đại vương ruổi xe một mạch, thẳng đến kinh thành, tuy rằng oai
danh đã vang dậy khắp nơi, nhưng cũng do lấy nghĩa cả tôn phò, khiến người ta
tin phục, mới được như vậy. Nếu không, việc vào nước người ta, đâu có dễ dàng
như thế. Tiên đế thoạt thấy đại vương, tiếp đãi rất là long trọng. Trước ban
sách mệnh làm tước công, rồi sau sẽ phong vương, đó là điển cũ của bản triều,
không phải trả ơn không hậu, chớ nên thấy như thế mà cho là bạc. Một nước đã
trải hơn ba trăm năm, trời cao chứng giám, lòng người tôn sùng. Đại vương đem
cả cõi đất trả lại nguyên vẹn, là thể thuận ý trời, chiều lòng dân, chưa có thể
lấy đấy làm ơn. Tiên đế mất đi, hoàng thượng nối ngôi, mọi việc đều bẩm trước
với đại vương. Đại vương không làm chủ thì ai làm chủ nữa. Lý đã đến thế, đừng
cũng chẳng được. Tôi không dám khen ngợi để dâng lời ton hót. Đại quân về Nam,
Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi theo, đại vương để hắn ở lại Nghệ An, sao lại bảo hắn làm
phản? Nghệ An vốn là đất cũ của bản triều, bản triều phải giữ lấy bờ cõi, sao
lại nói là tranh giành? Đại vương phái binh mã ra, nếu là để thăm hỏi, bản
triều đã có lễ nghênh tiếp. Bằng không, thì như người xưa đã nói: "Nước
lớn có quân đánh dẹp, nước nhỏ có cách chống giữ". Tôi nay đã ra khỏi cõi,
việc ấy không còn dám biết đến. Tự hoàng của nước tôi, trời đã sai làm vua, đế
vương có chân mệnh, gươm đao cũng phải lựa chọn, đại vương chớ có lo. Nếu như
đại vương cứ thuận lẽ trời mà làm, gây lại nước đã suy, nối lại họ đã dứt, để
cho nước của nhà họ Lê được yên ổn, thì những người làm tôi làm dân trong cả
nước ai chẳng cảm đội công đức, còn có oán gì? Nhược bằng làm trái lại, thì sự
thế thay đổi khác thường, tôi đây ngu dại, không thể nào mà thấy trước được.
Xán cứ
cãi đi cãi lại mãi, không chịu khuất phục một lời nào. Đến lúc trời sắp tối,
Bắc bình vương bảo:
- Hãy ra
nhà trọ mà nghĩ đi nghĩ lại cho kỹ! Xán nói:
- Nghĩ
lắm luẩn quẩn lại dễ lầm lẫn, một chết là xong!
Bắc bình
vương nổi giận, sai đem giam Xán vào ngục. Bọn án và Nho cũng đều bị chia ra
giam ở các nơi khác.
Xán vào
ngục, cười nói như thường, Bắc bình vương sai người đến dò, thấy
Xán viết
ở chỗ giam đôi câu đối như sau:
Đạt đức
hữu tam, túng vị năng chi, nguyện học.
Tiểu tâm
vô nhị, hành kỳ tố dã, hà vưu? (nghĩa là: Đạt đức có ba, dù chẳng làm nên xin
học. Giữ lòng như một, noi theo chí cũ, oán gì?)
Tư mã
Ngô Văn Sở xin giết chết bọn Xán. Bắc bình vương còn tiếc tài của
Xán, bèn
bảo trung thư Lê Văn Kỷ và viên quan bộ Lễ là Vũ Văn Trụ rằng:
- Nhân
vật Bắc Hà, Xán cũng vào bậc giỏi đấy! Ta muốn thu phục hắn để dùng, nhưng mà
chắc hắn không chịu. Các ngươi thử hiểu dụ hắn một phen nữa xem sao?
Hai
người bèn đến chỗ giam Xán, thấy Xán mang gông nằm sấp, liền nói:
- Ông
già sao lại tự mình làm khổ mình như vậy?
Xán trả
lời:
- Cũng
là số mệnh đấy thôi! Kỷ nói:
- Quân
tử có khi không cần theo số mệnh, chế ngự được số mệnh là cốt ở mình. Ví như
đánh bạc, đồng tiền một sấp một ngửa; ta theo kẻ được mà đánh, thiên hạ sẽ khen
ta là người đánh bạc giỏi.
Xán nói:
- Bởi
thế cho nên đó chỉ là phường cờ bạc, chứ không phải đạo của người quân tử. Tôi
nghe nói: "Kẻ làm bề tôi phải chết vì chữ trung". Đấy là lời dạy của
người xưa!
Hai
người biết là không thể làm lung lay được ý chí của Xán, liền đi ra và nói với
nhau:
- Nhà
Hán có Tô Tử Khanh (tức Tô Vũ đời Hán Võ đế. Khi đi sứ Hung Nô, Tô Vũ bị Hung
Nô giữ lại, bắt nuôi dê ở Bắc Hải 19 năm ròng, mà Tô Vũ vẫn giữ khí tiết không
chịu khuất phục) nhà Lê có Trần Công Xán. Đáng thương, nhưng cũng đáng ghét
thay!
Vừa gặp
lúc đó, vua Tây Sơn gửi thư ra kể tội lỗi của Bắc bình vương và sắp phái quân
tới đánh. Tướng sĩ dưới cờ của Bắc bình vương có kẻ trốn đi, Bắc bình vương
liền bảo Trần Văn Kỷ rằng:
- Nay
nước ta có việc lôi thôi, lòng người còn phân vân. Việc biến trong nhà không
nên để nước láng giềng nghe biết. Sứ Bắc ở đây, tai vách mạch rừng. Họ ở xa đến
để dò xét ta, giữ họ ở lại thì họ biết rõ tình hình trong nước, hoặc giả nhân
đó họ xúi giục, gây ra việc không hay. Thả họ về thì lại bị họ rêu rao làm lộ
việc, người Bắc Hà mà biết, thì lại sinh lòng khinh rẻ ta. Bởi thế, ta định ném
bọn họ xuống biển, để cho hết tiếng tăm dấu vết, vậy cứ theo chước đó mà làm.
Rồi Bắc
bình vương sai đô đốc là Võ Văn Nguyệt sắp sẵn vài chiếc thuyền biển, nói phao
là đưa sứ thần về Bắc.
Lúc bọn
Xán vào từ giã, Bắc bình vương nói:
- Các
ông hãy về trước, chờ lúc tôi ra ngoài ấy vời vào gặp mặt, sẽ có cách xử trí
việc Nghệ An.
Rồi Bắc
bình vương lại đem tặng họ một trăm nén bạc và bảo:
- Đây là
của công chúa gửi tặng, các ông đừng chối từ.
Tiếng
gọi là đưa họ về, nhưng thật ra Bắc bình vương đã ngầm bày mưu cho Nguyệt,
người ngoài không ai được biết.
Tháng
ba, mùa xuân năm Đinh vị (1787) thuyền từ cửa Tư Dung (thuộc Thuận Hoá, nay là
cửa Tư Hiền) giương buồm ra đi, không mấy ngày đã đến cửa biển Đan Nhai thuộc
thị trấn Nghệ An. Nguyệt cùng bọn sứ thần ghé thuyền vào bờ, rồi cùng lên bộ.
Lúc ấy
có người học trò của Xán là giám sinh Nguyễn Hiên, người huyện Chân Lộc, nghe
tin thầy học được về, vội mừng rỡ đến chào. Chợt thấy nét mặt Nguyệt có vẻ khác
thường, Hiên ngầm đoán được ý của hắn, bèn nói kín với Xán hãy xin đổi đi đường
bộ.
Nhưng
Nguyệt nói:
- Tôi
vâng mệnh đưa sứ giả đi đường biển, thuận tiện mà ổn thoả, không nên đi đường
bộ, trèo non vượt suối vất vả.
Rồi đó,
cả bọn lại lên thuyền ra biển.
Vừa ra
đến ngoài khơi, Nguyệt liền bảo bọn lái thuyền đục thuyền cho nước vào, dìm cả
bọn sứ thần xuống biển. Hiên đứng trong bờ trông ra xa gào khóc hồi lâu mà về.
Hôm ấy nhằm ngày 11 tháng 4, mùa hè năm Đinh vị (1787).
Xong
việc, Nguyệt lại ghé thuyền vào bờ, nói phao cho trong ngoài biết rằng, thuyền
gặp sóng gió bị đắm, để tránh cái tiếng giết hại sứ giả. Lúc bấy giờ, có người
làm hai câu thơ rằng:
Tên lưu vũ trụ bia ngàn thuở,
Nghĩa nặng cương thường biển vạn năm.
Từ lúc
bọn Xán đi Nam, Chỉnh cho rằng việc thế nào cũng xong, nên đã nói toạc ra ở
trong triều rằng:
- Tình
hình Tây Sơn như ở trong tầm con mắt của ta. Họ sẽ mừng là ta đã không gây sự,
để họ có thể chuyên tâm vào việc nước họ. Hiện nay cuộc nội chiến của họ đang
rối ren, thì giờ đâu mà lo đến việc bên ngoài. Còn Võ Văn Nhậm thì chơ vơ ở
Nghệ An ngoảnh về bên trong không có quân cứu viện, có làm được gì? Bắc bình
vương thấy thư của ta đưa đến, thế nào cũng mừng mà nghe theo, xin đừng lo gì
việc miền Nam!
Vì thế,
những lời Xán dặn lúc ra đi, Chỉnh đều không để ý tới, chỉ tâu xin cho Nguyễn
Duật làm trấn thủ Thanh Hoa mà thôi.
Lúc Duật
sắp đi, Chỉnh dặn rằng:
- Chỉ
nên giữ gìn bờ cõi cẩn thận, chớ có sinh sự để bên địch nghi ngờ. Đợi khi Trần
bình chương trở về, sẽ dời vào làm trấn thủ Nghệ An, sửa lại luỹ cũ ở Hoành
Sơn, giữ vững bờ cõi để làm chước lâu dài.
Quan
bình chương Phan Lê Phiên nghe được chuyện ấy, liền đến nhà Chỉnh mà nói:
- Ông
Trần đã già giặn việc đời, xét đoán công việc rất nhanh. Ngày thường ông ấy bàn
bạc tính liệu như thần, đến lúc sự việc xảy ra, không việc gì là không đúng.
Ông chớ nên xem thường!
Chỉnh cũng
không cho là phải. Phiên ra ngoài nói với người bạn đồng liêu là Trương Đăng
Quỹ rằng:
- Ông
Bằng vốn có tiếng là biết việc binh, thế mà không nghe lời can, coi thường quân
giặc, sợ rằng quốc đô mới qua một cuộc tàn phá, không thể chịu nổi một trận
giày đạp nữa. Chúng ta gánh chức phụ bạt đã lâu, nếu "đổ mà không giữ,
nguy mà không phò" thì còn dùng hạng tướng quốc như chúng ta làm gì?
Hai
người than thở cùng nhau hồi lâu, rồi Phiên nói:
- Nghĩ
lại công đức của tiên đế rất lớn, mà nay ngài chưa có miếu hiệu, không bàn định
cho kịp lúc này, rốt cuộc điển lễ vẫn thiếu.
Hai
người bèn cùng bàn với các quan, dùng sách vàng tôn xưng tiên đế làm Vĩnh hoàng
đế, miếu hiệu Hiển tông. Rồi tâu với vua xin làm lễ cáo miếu. Chỉnh nói:
-Theo
lễ, việc tôn xưng miếu hiệu phải chờ sau ngày đại tường, khi đã rước linh vị
vào miếu rồi mới cử hành, làm gì mà gấp thế?
Phiên
nói:
- Việc
đời chưa biết thế nào, bây giờ chính là lúc cần phải tôn mỹ hiệu của tiên đế
cho xong ngay đi!
Chỉnh
nghe nói cũng im lặng.
Lại nói,
lúc Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An vào kinh. án đô vương Trịnh Bồng chạy qua sông,
sang trấn Kinh Bắc, vào tạm lánh ở làng Quế ổ. ở đấy có viên võ biền tên là
Nguyễn Đình Toại (Cương mục chép là Nguyễn Trọng Mại) vâng mật chỉ của chúa kêu
gọi các thổ hào vùng Thuận Thành, Từ Sơn mộ quân nghĩa dũng, mưu đồ đánh Chỉnh
để dẹp yên nạn nước và khôi phục nghiệp cũ. Rồi đó, Toại lại đưa hịch cho các
phiên thần ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, bảo họ họp quân lại, làm việc cần vương.
Chỉnh
thấy vậy, luôn luôn tỏ ý muốn đánh, nhưng vì có Dương Trọng Tế chiếm giữ huyện
Gia Lâm, đắp luỹ chống nhau với Chỉnh, đường đi còn bị ngáng trở một lối, nên
Chỉnh đành phải tạm gác việc ấy lại chưa làm vội. Kịp đến khi Trọng Tế đã bị
giết, Chỉnh bèn hối hả cho việc đánh chúa Trịnh là điều cần thứ nhất, liền tâu
xin tự mình đem quân bản bộ tiến đánh.
Vua Lê
nghĩ chúa Trịnh vốn có lòng kính thuận không nỡ đánh, vả trong bụng đang hết
sức ghét Chỉnh, không muốn cho hắn đắc chí, sợ sẽ thành cái thế lấn át vua, nên
muốn ngăn việc ấy lại. Nhưng rồi khó nói ra lời, nhà vua bèn sai viên nội hàn
là Vũ Trinh tuyên rõ chỉ ý của vua và truyền cho Chỉnh biết rằng:
- Gia
đinh họ Trịnh trải qua nhiều đời, thực có công lớn, nếu để người như Tử Văn mà
phải tuyệt tự thì lấy gì mà khuyến khích điều thiện? (Tử Văn tên thực là Đấu
Cốc Ô Đồ, người đời Xuân thu, làm quan nước Sở, có công lớn trong việc trị
nước. Sau người em họ là Đấu Việt Thục làm loạn, đáng lẽ phải tru di cả họ,
nhưng Sở Trang Vương tha tội cho người cháu của Tử Văn, và nói: "Người như
Tử Văn mà bị tuyệt tự thì lấy gì mà khuyến khích điều thiện"). Chỉ bằng
trước hãy làm bài cáo văn hiểu dụ rõ đường phúc hoạ cho y. Nếu y cứ u mê không
tỉnh, sau đó ta hãy đem quân đánh. Ta cứ giữ niềm trung hậu, để cho người ngoài
không nói vào đâu được, há không hơn hay sao?
Chỉnh
không nghe, nói:
- Nếu
tôi không đem quân ra, để cho việc Trọng Tế giúp chúa được thành, xem y có xử
hậu với hoàng thượng không? Anh hùng làm việc, há lại theo lòng nhân đức của
đàn bà?
Rồi
Chỉnh cố xin ra quân, vua Lê bất đắc dĩ phải cho Chỉnh đốc suất các quân qua
sông, thuyền bè chật cả mặt nước, khí thế rất là lẫm liệt đáng sợ. Chúa Trịnh
nghe tin, vội vàng sai Toại đốc suất người trong họ ở Quế ổ làm quân tiền
phong, thổ hào Yên Dũng là Nguyễn Trọng Linh làm tướng chống bên tả, thổ hào
Gia Bình là Trần Quan Châu làm tướng chống bên hữu, bày trận chờ sẵn.
Quân
Chỉnh tới nơi, hai bên đánh nhau từ sáng đến trưa, chưa phân được thua; sau đều
rút quân để nghỉ ngơi.
Chỉnh
sai người đưa tờ chiếu của vua tới dụ chúa, khuyên nên qui thuận, không nên
chống cự. Chúa cười mà nói:
- Hữu
Chỉnh đến đây lần này, ý muốn bắt sống ta, nếu nuốt trôi được, chắc không chịu
nhả ra. Nay lại lấy lời ngon ngọt dỗ ta, thằng nghịch tặc này quỉ quyệt đáng
ghét thật. Tuy vậy, hắn đã mượn mệnh lệnh hoàng thượng đưa ra, ta không thể im
lặng không trả lời.
Chúa bèn
tự thảo một tờ biểu trần tình, kể tội ác của Chỉnh và nói nhân dân ai cũng
nghiến răng tức giận, xin hãy giết Chỉnh đã, rồi sẽ về triều, lời lẽ có nhiều
câu gay gắt.
Thật là:
Sống mái ngoài đồng còn chửa quyết,
Trai cò trong ruộng vẫn giằng co
Chưa
biết thua được ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
Hồi 10
Lân dương hầu phò chúa vượt biển đến Yên Quảng
Bằng công Chỉnh mời vua qua sông đi Lạng Sơn
Lại nói,
Chỉnh thấy lời lẽ trong tờ biểu, gọi mình là thằng giặc, thì nổi giận đùng
đùng, vung gươm quát to:
- Cái
quân mất nước kia mà chưa biết sợ, còn dám múa bút khua lưỡi để lừa người trong
nước! Hôm nay ta thề với hắn một sống một thác. Tướng sĩ các ngươi đều phải
trông cờ nghe trống, ra sức xông vào trận mạc, chỉ có tiến không có lùi. Kẻ nào
không nghe mệnh lệnh đã có thanh gươm này!
Rồi
Chỉnh vận đồ trận, lên mình voi, cầm lá cờ đỏ vẫy các quân sĩ tiến về phía
trước.
Nguyễn
Như Thái tế ngựa vào trận hò reo "giết giặc". Súng nổ, cung bắn, tên
đạn bay tới tấp như mưa rào.
Quân bên
tả của chúa chống không nổi cơ hồ sắp vỡ. Chúa bèn sai đội tiền phong hợp với
hai đội tả hữu vừa đánh vừa lui vào trong luỹ, rồi chia quân để cố thủ.
Chỉnh
dàn quân giáp liền với luỹ, bốn mặt đánh vào, suốt nửa ngày không lấy được luỹ.
Đến tối, mưa dầm rả rích, gió thổi ào ào, trời đất đen ngòm, cách gang tấc
không trông thấy gì. Chỉnh hạ lệnh cho quân lính vây sát luỹ của chúa. Chúa bèn
chia quân làm ba toán. Những người dũng cảm thì làm hai cánh quân trước và sau,
do Toại và Châu đốc suất. Những người già yếu thì cho làm cánh giữa, chúa tự
dẫn đi.
Đêm đã
yên lặng, chiêng trống im bặt, đèn lửa tắt hết. Ngoài luỹ súng bắn liên thanh
không ngớt, mà trong luỹ im lặng như tờ. Chỉnh sai quân do thám ngầm đến dưới
luỹ nghe ngóng, hình như trong luỹ không có người, nhưng cũng không lường được
hư thực ra sao.
Đến canh
tư, mưa và sấm sét lại nổi lên dữ dội.
Chúa sai
mở rộng cửa luỹ, bảo Toại, Châu ra trước, mỗi người đem năm mươi tên dũng sĩ,
đánh thẳng vào doanh của Chỉnh; Toại đánh mặt tả, Châu đánh mặt hữu, mở một
đường ở giữa. Tiếp đó chúa dồn quân ra, nhằm phía đông mà chạy, để Toại và Châu
làm đội chặn hậu.
Đêm ấy,
quân của Chỉnh không phân biệt ai với ai, bắn nhau đâm nhau lộn bậy. Sáng ra
mới biết rõ sự thật, thì đuổi theo không kịp nữa rồi. Chỉnh dồn quân vào luỹ,
chỉ thấy nhà cửa rỗng không, sai quân tìm kiếm khí giới lương thực, chẳng được
gì hết. Chỉnh rầu rầu không vui, liền rút quân về kinh. Chúa Trịnh chạy đến Hàm
Giang, nương tựa vào Đinh Tích Nhưỡng. Bao nhiêu quân lính già yếu, chúa đều
cho về, chỉ để hai tướng Châu, Toại và hơn một trăm thủ hạ ở lại với mình.
Nhưỡng sai dọn riêng một trại để cho chúa ở.
Tính
Nhưỡng nóng nảy, lại không thông thạo nghề làm tướng, và cũng
không
phải thật thà có lòng trung nghĩa. Lời nói, việc làm thường ngày của Nhưỡng
cũng đều là giả dối, cốt lấy tiếng mà thôi. Từ khi xuất thân tới nay, Nhưỡng
chỉ quen thuỷ chiến, chứ chưa từng đốc suất lính bộ. Sau trận thua ở huyện Kim
Động, Nhưỡng bỏ hết thuyền bè, thất thểu chạy về miền đông, giữ trấn thành Hải
Dương. May nhờ ở đấy sẵn có quân lương, nhưng Nhưỡng không khéo vỗ về trăm họ,
lại thả lỏng cho bộ hạ cướp bóc xóm làng, nên dân chúng hai phủ Thượng Hồng, Hạ
Hồng đều căm giận. Hào mục các nơi hùa nhau nổi lên đánh lại, Nhưỡng phải bỏ
chạy về Hàm Giang. Khi nghe tin Tây Sơn đã về Nam, Nhưỡng lại kéo quân vào
kinh, định mưu lập quận Thuỵ để chống vua Lê. Đến khi quận Thuỵ thua chạy.
Nhưỡng bất đắc dĩ lại phải bám vào chúa Trịnh Bồng. Lúc nghe tin Chỉnh lại ra
Bắc, sợ Chỉnh không dong mình, Nhưỡng bèn dẫn quân về đông, xin lĩnh hai trấn
Hải Dương, Yên Quảng để tránh tai vạ. Khi chúa chạy về Quế ổ, Nhưỡng vẫn vẫy
vùng ở phía đông, chưa hề lần nào đến thăm chúa. Đến lúc này, chúa đến Hàm
Giang, Nhưỡng luôn luôn tỏ vẻ nhạt nhẽo, lễ ý xem chừng cũng đơn bạc. Toại và
Châu đêm ngày ở bên cạnh chúa. Đối với Toại thì Nhưỡng ghen ghét là con nhà
tướng; đối với Châu thì Nhưỡng khinh rẻ là kẻ bạch đinh. Hai người dò biết ý
Nhưỡng, sợ có điều gì bất trắc, nên đều từ giã chúa và ra đi cùng một ngày.
Chúa
khóc lóc tiễn đưa hai người và nói:
- Tục
ngữ có câu "chết đuối vớ phải bọt", bám cũng không được, chẳng bao
lâu nữa ta cũng đi thôi, giữ các ngươi lại làm gì cho nhục!
Chúa ở
lại hơn 10 ngày. Nhưỡng không hề nói đến việc quân, việc nước. Chợt một đêm,
Nhưỡng tới chỗ chúa ở mà nói:
- Trời
thanh trăng sáng, vẻ thu rất đẹp, thần đã đem rượu lên thuyền chờ đợi, xin chúa
đi chơi một lúc, ngắm xem phong cảnh, cho khuây nỗi buồn.
Chúa tỏ
vẻ sầu não mà rằng:
- Phong
cảnh vẫn như thường mà ngước mắt thấy non sông khác lạ. Ta chưa giết được quân
thù, không nên quên ngồi trên áo giáp. Bơi thuyền uống rượu không phải là việc
của ta ngày nay. Tướng quân hãy đi mà chơi!
Sau khi
Nhưỡng đi, chúa rầu rầu tựa ghế, bảo bọn người hầu:
- Quan
võ đều không thể trông cậy, hoặc giả bọn quan văn có khá hơn chăng? Chúa bèn
viết bức thư, sai người ngấm ngầm đưa cho quan bình chương là Trương Đăng Quỹ.
Thư nói rằng:
"Kiếp
này sinh ra lỗi thời, gặp lúc nhà nước lắm nạn; lạm dự vào dòng đích nhà chúa,
rất lo cho việc tôn miếu xã tắc. Dâng biểu trần tình, may được hoàng thượng cho
về triều kiến. Lúc mới về, chỉ muốn giữ lấy việc thờ phụng tổ tiên cho tròn đạo
hiếu, thực không có bụng chuyên quyền giữ nước. Sự thế đổi thay, lại bị chư
tướng ép buộc, thành ra trái ý hoàng thượng. Lúc Chỉnh vào kinh, cung khuyết
liền bị tiêu huỷ. Con chim bị cháy tổ, bay quanh không biết nương nhờ vào đâu.
Vì thế phải phiêu bạt giang hồ, không dám về nơi kinh khuyết. Nay Quế ổ, mai
Hàm Giang, chỉ vì lo tìm nơi trú ngụ, bèn vướng lấy hình tích chống chế triều
đình, khiến kẻ ghét mình có cớ mà nói. Mảnh lòng kính thuận, không có cách nào
thấu đến bề trên. Ông hãy dùng lời lẽ khéo léo, tâu bày giúp cho. Lần này, dù
tiến dù lui, tuỳ theo mệnh lệnh của hoàng thượng".
Quỹ tiếp
thư ấy, liền đem tâu vua. Vua ngậm ngùi mà rằng:
- Tấm
lòng thật thà của chúa, trẫm đã lường biết. Chỉ vì không khéo xử sự trong lúc
gặp biến cố nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã nghĩ lại và biết hối lỗi, trẫm sẽ
có cách đỗi đãi, chẳng những giữ được dòng dõi, mà cũng không mất địa vị giàu
sang.
Luôn
dịp, vua Lê bèn sai Quỹ làm sứ thần đi nghênh tiếp, đón chúa về triều. Lúc đó,
chúa ở Hàm Giang, nghe nói Nhưỡng và Chỉnh ngấm ngầm thông tin tức với nhau,
ngỡ rằng bọn chúng có mưu đồ gì khác, liền than rằng:
- Đây
không phải là chỗ yên lành có thể ở được. Ta thà vượt biển vào núi còn hơn là
ngồi lại mà chịu nhục.
Rồi chúa
sai người hầu bí mật mượn mấy chiếc thuyền buôn, đang đêm đem cả đồ đảng, thuận
gió giương buồm chạy thẳng tới Sơn Nam. Sáng ngày Nhưỡng mới biết, rất lấy làm
kinh sợ mà nói:
- Chúa
đi sang nam mà không bảo cho ta biết trước, phải chăng là có ý ngờ ta? Nếu
không theo chúa, lòng này không sao bộc bạch ra được, thiên hạ sẽ cho ta là
người thế nào?
Tức thì,
Nhưỡng cũng cưỡi chiếc thuyền binh chạy theo chúa.
Chúa đến
huyện Chân Định thì có Phạm Tôn Lân (Cương mục chép là Phạm Đình Thiện) lên
thuyền yết kiến.
Lân quê
ở làng Bác Trạch, huyện Chân Định (nay là huyện Kiến Xương, thuộc Thái Bình),
vốn dòng dõi thế phiệt; ông tổ đời trước là Phạm Tôn Nhậm, một danh tướng của
Trịnh Doanh, khoảng đầu niên hiệu Cảnh hưng từng lập được nhiều chiến công,
trong quận ấp ai cũng kính phục. Tính Lân hào hiệp, khách ăn trong nhà thường
có hàng trăm, khí giới cất giấu đầy đủ. Trong đám thổ hào của trấn Sơn Nam hạ,
Lân là bậc nhất.
Lúc ấy
gặp chúa, Lân bàn việc binh cùng chúa, và vạch chước tiến thủ. Chúa rất mừng và
nói:
- Tiếc
rằng ta gặp ngươi muộn quá! Ngươi hãy gắng giúp ta để nối công đức của tổ tiên
ngày xưa.
Lân nói:
- Tuần
vốn không có tài gì. May được nhờ oai linh của chúa, dám đâu không hết lòng hết
sức.
Rồi đó,
Lân mời chúa về nhà, nhóm họp đồ đảng, hộ vệ cho chúa.
Hôm sau,
Nhưỡng cũng đã theo đến nơi. Trước hết. Nhưỡng sai người đưa một tờ khải cho
chúa, trong nói:
"Nhà
thần bao đời được đội ơn dày, một lòng với nhà chúa. Nay thần với Chỉnh, nói về
tình tuy có quen thuộc, nhưng nói về thế thì không thể nào đứng đôi. Cả nước ai
cũng biết điều đó, thần dám có lòng nào để nhục đến tổ tiên đời trước, xin chúa
soi xét cho, khiến thần có thể lập được chút công, bù lại lỗi trước...".
Chúa xem
khải rồi hỏi ý Lân, Lân vốn nghe tiếng tăm của Nhưỡng, thường coi là tay cự
phách xứ đông, nay may được chung sức làm việc thì rất lấy làm mừng, nên cố
khuyên chúa đem lòng thành thực mà dùng Nhưỡng để thêm thế lực. Chúa nghe lời,
Lân lập tức tự mình ra đón Nhưỡng cùng vào gặp chúa. Do đó, hai người rất là
tương đắc. Họ liền đưa hịch đi các phủ Thái Bình, Kiến Xương, Thiên Trường
(Thái Bình, Kiến Xương sau đều thuộc tỉnh Thái Bình. Thiên Trường sau là Xuân
Trường thuộc Nam Định (Hà Nam Ninh)), hẹn cùng dấy quân đánh Chỉnh. Trong
khoảng mười ngày, người theo về có đến vài vạn. Họ định ngày cùng tiến quân,
thuyền bè đầy sông, thanh thế lừng lẫy xa gần đều hưởng ứng. Nhiều người cho
rằng, nghiệp chúa có thể tính ngày mà khôi phục. Con em nhà quan lúc trước, như
bọn Đoàn Nguyễn Tuấn, Phạm Giáp, Nhữ Công Liêu, Đào Nhữ Toản cũng đều chiêu mộ
người làng đến họp. Các xứ đông tây cùng nổi dậy trong một lúc.
Bấy giờ
Trương Đăng Quỹ vâng mệnh đi đón chúa, đến huyện Tiên Hưng, đường bị nghẽn,
phải trở lại.
Vừa lúc
ấy có người từ kinh thành tới yết kiến chúa, nói rõ việc Chỉnh chuyên quyền
kiêu ngạo, lòng người không phục, vua cũng nghi kỵ, và khuyên chúa nên kíp tiến
binh đánh Chỉnh. Chúa nói:
- Ta có
viên tướng cũ là Bùi Nhuận, hiện ở kinh thành, coi quân Kim-ngô, lĩnh chức tứ
thành đề lĩnh, có thể bảo y làm nội ứng. Chức trách của Nhuận là việc tuần
phòng, chắc không ai nghi ngờ.
Rồi chúa
bèn sai người đưa tờ chỉ bí mật cho Nhuận, nói về việc ấy.
Tiếp
chỉ, Nhuận liền bàn với người thân tín. Đổi hết các quân canh giữ cửa ô. Con
Hữu Chỉnh là Bái xuyên hầu dò biết việc đó, lập tức sai quân bắt Nhuận; rồi sai
tướng của Chỉnh là Nguyễn Viết Tuyển hiện làm chức trấn thủ Sơn Nam đem quân
đánh chúa.
Lúc lính
thuỷ của Tuyển tới sông Ngô Đồng (thuộc huyện Giao Thuỷ, Nam Định (Hà Nam
Ninh)), mà lính bộ chưa đến cửa Đại Hoàng (thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình (Hà
Nam Ninh)), có người dò biết về báo với chúa. Nhưỡng đem hai chục thuyền biển
lớn nhất, dàn ngang sông thành trận chữ "nhất", trên đầu thuyền bày
đặt các thứ súng, trông như bức thành. Quân Tuyển đến đánh, vì thuyền nhỏ không
thể chống cự, nhiều chiếc bị súng Bảo-long bắn chìm xuống sông, Tuyển sợ, định
lui giữ Hoàng-giang (tên sông, thuộc phủ Lý Nhân, Hà Nam (Hà Nam Ninh)) để cùng
bộ binh nương tựa lẫn nhau.
Thình
lình có gió đông nam nổi lên, Nhưỡng liền sai các hải thuyền tản ra, ghé sát
vào hai bờ, rồi buộc thuyền lại mà lên bộ. Tiếp đó Nhưỡng chỉ huy quân lính từ
trên bờ theo chiều gió bắn xuống thuyền quân của Tuyển. Nhưng quân của Nhưỡng
toàn là quân ô hợp, đứng, ngồi, tiến, lui chưa quen hiệu lệnh, lại hờ hững
không có chí chiến đấu; nên sau khi lên bộ, hàng ngũ lộn xộn, chẳng ra sao.
Tuyển ở dưới sông trông thấy vậy, liền hô to: - Quân Nhưỡng thua rồi!
Thế là
quân lính của Nhưỡng đâm nghi hoặc, rồi hoảng sợ, tan vỡ, đua nhau cướp đường
mà chạy, giày xéo lẫn nhau, không sao ngăn cấm được nữa. Thuyền bè bỏ bừa ven
sông, đều bị quân Tuyển bắt được.
Quân Lân
ở sau, trông thấy quân của Nhưỡng thua chạy tan tác, lại nghe nói Nhưỡng đã bị
giặc giết rồi, nên đều kinh ngạc run sợ. Riêng Lân cũng không thể kiềm thúc
được nữa, thế là cùng lúc ấy, đám quân tan vỡ luôn. Lân bèn hộ vệ chúa, cưỡi
một chiếc thuyền, xuôi dòng chạy sang phủ Thái Bình. Chừng nửa đêm, đến huyện
Đông Quan, chợt nghe tiếng súng đùng đùng, giống như hiệu lệnh hành quân. Có
người bảo quân Tuyển đuổi theo. Có người ngờ là bọn kẻ cướp. Sau Lân sai người
đi dò, mới biết đó là quân của Trần Mạnh Khuông.
Trần
Mạnh Khuông là một người hào mục ở huyện Đông Quan, gia tư giàu có, lại có
nghĩa khí. Khi mới tiếp được tờ hịch, lập tức tụ tập quân lính trong huyện để
hưởng ứng việc nghĩa, hẹn ngày hôm ấy xuất quân ra đi. Lúc này quân Khuông đóng
ở Bái Hạ, cách đấy không xa.
Nghe
nói, chúa bèn vội vàng sai người đến gọi Khuông. Khuông theo sứ giả tới yết
kiến, chúa nói:
- Quả
nhân tài hèn, đức kém, không biết tự lượng sức mình, hễ hành động gì liền bị
vấp ngã. Bây giờ nên làm thế nào?
Khuông
nói:
- Thua
được là sự thường của nhà binh, dù là đạo quân thắng trận luôn, cũng phải có
một lúc thua trận. Cho nên tướng giỏi đời xưa trước hết phải xem hình thế, đắp
doanh luỹ, chứa lương thực, phòng bị sẵn những khi xảy ra việc cần kíp, làm cho
khi tiến có thể đánh, khi lui có thể giữ. Đó chính là cái chước vạn toàn, không
làm gì đến nỗi thua một trận mà đã phải bẹp hẳn. ở huyện tôi có làng Bái Hạ,
bốn mặt đều là đồng lầy, phía trước có sông lớn chặn ngang, chỉ có một lối ra
vào, lại có khe nhỏ quanh co thông với con sông, có thể dùng để chuyển vận quân
lương. Cuộc loạn lạc năm trước, địa phương đây ở vào chỗ xung yếu của hai vùng
đông và nam, nên tôi đã cho sửa sang lại, nay hào rãnh đều đã bền vững. Chỉ
hiềm luôn mấy năm mất mùa, thóc lúa tích trữ chưa được đầy đủ mà thôi. Xin chúa
hãy tạm dời xa giá về đó, rồi thong thả sẽ tính chuyện sau.
Chúa
Trịnh nghe theo, bèn phong cho Lân làm quân phủ trưởng sử. Khuông làm chức hành
doanh sứ, dẫn quân vào đóng ở ấp Bái Hạ. ở đó mới được vài đêm, Khuông sai
người đi trưng thu lương thực chưa về, thì Chỉnh đã lại sai Nguyễn Như Thái đem
lính bộ đến, hợp với quân của Tuyển, hai đường thuỷ bộ tiếp nhau, hai mặt trước
sau đánh dồn lại. Trong đồn dựa vào tình thế hiểm yếu mà giữ, quân Chỉnh đánh
luôn mười ngày không hạ được. Tuyển bèn đắp luỹ dài để tuyệt đường lương thực
của quân chúa. Quân chúa hết lương đến nỗi phải đào cả củ chuối mà ăn, tình thế
rất là khốn quẫn.
Lân và
Khuông vội gọi các thủ hạ mà bảo rằng:
- Ngồi
đây để làm con ma chết đói của làng Bái Hạ, sao bằng quyết một trận tử chiến,
giết lấy vài trăm tên giặc cho sướng tay? Các ngươi ai là người có thể chung
lòng góp sức với ta, để ta khỏi mang tiếng phụ chúa mà các ngươi cũng không
mang tiếng phụ ta. Dẫu có chết còn được làm con ma trung nghĩa. May mà không
chết, rồi đây công lao sự nghiệp sẽ không biết đến đâu mà lường!
Mọi
người nghe nói đều cảm động, có hơn trăm người xin theo. Đêm đến, bốn bề đã
vắng lặng, họ bèn cưỡi thuyền nan, theo đường khe mà đi ra. Nhân lúc Tuyển và
Thái sơ ý, họ liền phóng hoả đốt doanh trại. Hai người hoang mang không kịp
chống cự. Lân và Khuông tức thì phá vỡ vòng vây, đem chúa ra, cướp mấy chiếc
thuyền, rồi theo cửa biển chạy thẳng về phía đông. Tuyển đem quân đuổi theo,
nhưng không kịp. Thái thả quân vào làng Bái Hạ, chém giết lung tung, trai, gái,
già, trẻ, không sót lại một người. Từ khi dấy cuộc binh đao tới lúc này, không
chỗ nào không có nạn chém giết, nhưng chưa có đâu bị chém giết thảm hại như ở
đây.
Lại nói,
sau trận thua ở sông Ngô Đồng, Nhưỡng một mình chạy về phía đông, thuyền bè và
đồ quân dụng bỏ mất gần hết.
Đến khi
đồn Bái Hạ bị vỡ, chúa chạy về Hải Dương, lại cùng bọn Lân vượt biển tới đất
Quảng Yên, giả làm khách buôn, chia nhau ở trọ trong các nhà dân ở châu Vạn
Ninh (nay là đất Móng Cái (Quảng Ninh)). Chẳng bao lâu, Lân vì có việc nhà, cáo
từ xin về, người theo hầu chúa chỉ còn lại Mạnh Khuông mà thôi. Sau đó hơn một
tháng, Khuông lại mắc bệnh, rồi chết. Lúc bấy giờ, bên cạnh chúa không còn có ai,
chúa một mình sống lẩn lút ở vùng ven biển, tình cảnh rất là điêu đứng.
Chúa
nghĩ bụng: "Giầu sang ở kiếp phù sinh, đều là cảnh mộng. Bởi vậy, ngày xưa
đã có người xin thề đời đời đừng sinh vào nhà đế vương... Phật thương hết thảy
chúng sinh bị chìm đắm trong biển khổ. óc Người thông suốt, ý kiến Người thông
suốt, thật như gương sáng muôn đời. Từ lúc ta ở trọ đất Chương Đức đã có ý nghĩ
như thế. Bây giờ nên quay đầu lại là hơn". Thế rồi chúa Trịnh gột sạch ma
chướng ở đời, tự xưng là Hải đạt thiền sư, dạo khắp các chùa ở vùng Lạng Sơn,
Cao Bằng.
Bấy giờ
có người học trò đất Kinh Bắc tên là Vũ Kiền, chạy loạn lên ở Lạng Sơn. Một hôm
Kiền gặp Hải đạt thiền sư ở chùa Tam Giáo, nhân trong lúc đàm kinh thuyết pháp,
Kiền ngầm biết đó là chúa, bèn báo với bọn phiên thần ở đó là Hà Quốc Ký, và
Nguyễn Khắc Trần (có bản chép là Nguyễn Khắc Lâm).
Hai
người bèn vờ nói là có việc làm chay, đón Hải đạt thiền sư về nhà, rồi đuổi hết
người nhà ra mà bảo với nhà sư rằng:
- Chúng
tôi nối đời làm bề tôi ở chốn biên cương. ở xa vẫn mến oai đức của triều đình,
thường chỉ nghe người ta nói vua Lê chúa Trịnh như ở trên trời. Nếu như thiên
hạ vô sự, bọn chúng tôi làm gì được trông thấy chúa. Chẳng may nhà nước có nạn,
xe chúa phải tới nơi biên ải, thần dân ai chẳng đau lòng. Lúc này chính là dịp
cho kẻ trung thần nghĩa sĩ ra tài linh luân. Vậy chúng tôi xin rước chúa về ở
Đoàn Thành (tức thành trấn Lạng Sơn), xướng nghĩa cả, để lo việc hưng phục.
Trông nhờ vào phúc hồng của chúa, thành được công lớn thì may chăng lũ tù
trưởng nhỏ mọn ở xứ mọi rợ này được dự vào hàng cuối ở vân đài (Vân Đài: Đài
cao chạm mây, nơi vua Minh-đế nhà Hán sai vẽ hình 28 người công thần), ấy là ý
nguyện của chúng tôi.
Nhà sư
nhắm mắt chắp tay, khoan thai trả lời:
- Sư già
này xuất gia theo Phật, không can dự gì đến việc đời. Các ông chớ có nhận lầm,
khiến cho đương lúc yên lặng, lại sinh ra bao nhiêu nỗi phiền não. Trong thiên
hạ, ai là vua, ai là chúa, đã có mệnh trời; sư già này chỉ biết một lọ một bát,
tu hành ở cửa thiền, làm môn đồ đức Phật Như lai mà thôi. Vũ Kiền lúc ấy cũng
thưa rằng:
- Thần
tuy chưa được vào chầu phủ chúa, nhưng khi du học ở kinh sư cũng đã từng trông
trộm dung nhan của chúa. Người trong nước còn có lòng ấy, chúa cũng không nên
từ chối. Thần nghe nói, nghiệp vương phải khó nhọc, không thể ngồi yên mà làm
nên được. Bởi vậy, Quang Võ đã phải bạc cả tóc đầu, Tiên chúa (Quang Võ là vua
đầu nhà Đông-Hán. Tiên chúa tức Lưu Bị, là vua nhà Thục đời Tam-quốc) thì phải
mòn hết thịt vế. Những cơn nguy hiểm ở Quế ổ và Bái Hạ gần đây, cũng giống việc
Tuy Thuỷ, Hô Đà đời Hán (theo Hán thư, sau khi Hán vương là Lưu Bang vào chiếm
Bành Thành, Sở vương là Hạng Võ đem quân trở về, phá tan quân Hán trên sông Tuy
Thuỷ và vây Hán vương ba vòng, may gặp có gió lớn nổi lên, thổi tan quân Sở,
Hán vương mới chạy thoát.
Cũng
theo Hán thư: Khi vua Quang Võ đi đến trạm Khúc-Dương, phía sau có quân Lương
Vang theo đuổi, mọi người đều kinh sợ, Quang Võ cho người đi dò đường thì họ
nói, trước mặt có sông Hô Đà nước chảy mạnh lắm, không thể qua được. Quang Võ
lại bảo Vương Bá đi xem lại. Vương Bá e quân lính hoảng sợ, bèn nói dối là ở
sông băng giá đóng rất chắc, có thể đi qua được. Quang Võ bèn bảo Bá hộ vệ mình
qua sông, nhưng mới qua được mấy người thì băng đã tan. ở đây, mượn hai điển
này để nói làm nên nghiệp lớn thế nào cũng phải trải qua nhiều gian nan, nguy
hiểm thì mới đi tới thành công), chỉ vì không nản chí, không ngã lòng, rốt cuộc
họ đã làm nên nghiệp lớn. Thần chưa từng bao giờ thấy ai đường đường là một vị
vương giả mà lại lui về làm nhà sư nhàn hạ. Xin chúa hãy nghĩ lại!
Nhà sư
khóc và nói:
- Cái
cảnh "Thử ly" "Mạch tú" ("Thử ly" là một bài thơ
trong Kinh Thi nói về cảnh cung điện nhà Chu bị tan hoang thành ra ruộng lúa.
"Mạch Tú" là bài hát của Cơ tử nói về việc nhà Thương mất nước, cung
điện thành ruộng cấy lúa mạch. - ở đây chỉ cảnh tang thương của họ Trịnh) ở đâu
cũng đều cảm động. Ta không phải là loài gỗ đá, sao không căm hờn. Nhưng đã
biết sức của ta, mà vẫn không thể dành được với trời, nên đành phải nín nhịn để
giữ lấy mình, đâu còn dám làm càn để lại lầm lẫn lần nữa?
Chúa đã
nói lộ bản tướng, liền bị mọi người vin lấy mà bắt buộc phải truyền sắc lệnh ra
để điểm quân, thu lương.
Bọn Ký
và Trần đều là kẻ tầm thường, không nghiêm cấm nổi thủ hạ, để chúng làm bừa
những việc phi pháp. Nhân dân không thể chịu đựng được, họ bèn nổi lên làm
loạn, giết bọn Ký và Trần, rồi đuổi chúa đi. Chúa chạy về đất Hữu Lũng (nay
thuộc Lạng Sơn) rồi từ đó nấp náu trong chốn núi rừng, cả nước không còn thấy
mặt chúa ở đâu nữa.
Họ Trịnh
từ Thái vương là Trịnh Kiểm thụ phong, truyền đến Thịnh vương là Trịnh Sâm, vừa
được tám đời thì xảy ra biến loạn. Rồi đến Đoan nam vương là Trịnh Khải, án đô
vương là Trịnh Bồng thì nghiệp chúa hết. Tất cả trước sau gồm 243 năm (theo
Lịch triều hiến chương lại chí thì tất cả là 248 năm, gồm 11 đời chúa, kể từ
Trịnh Kiểm năm Kỷ hợi (1539) đến Trịnh Bồng năm Bính ngọ (1786)).
Xét
trong địa ký chép về đất phát tích của tổ tiên họ Trịnh có lời đoán rằng:
"Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà
dấy vạ".
Xem thế
đủ biết, cái lý hưng vong tuy là việc của người, mà cũng tự có số mệnh vậy.
Lại nói
sau khi Chỉnh đưa Tây Sơn vào nước, dân chúng oán Chỉnh thấu đến xương tuỷ. Lúc
Chỉnh tất tả chạy về Nghệ An, người cả một xứ ai cũng muốn giết Chỉnh cho hả
dạ. May được vua Lê có chỉ vời, Chỉnh bèn lấy việc dấy quân ra bảo vệ nhà vua
mà thoát khỏi tai nạn. Rồi Chỉnh lại được nhà vua mở lòng tin dùng, cho nên mọi
người trong ngoài chỉ dám oán mà không dám nói. Các quan văn võ trước kia chạy
trốn ra ngoài, đều dấy quân và lên tiếng giết Chỉnh. Chỉnh mượn nhà vua để sai
khiến cả nước, tự tiện làm oai làm phúc, luôn luôn đem quân đi trừ khử những
người muốn làm hại mình. Thế rồi, bắt Trọng Tế, giết Phùng Cơ, đem quân đánh
mãi án đô vương, làm cho vương phải chạy trốn lang thang không dám về kinh.
Việc
Chỉnh làm phần nhiều là càn bậy, nhưng đụng đâu là thắng đấy, nên chẳng ai biết
làm thế nào. Vì thế, Chỉnh càng ngày càng làm lắm điều bạo ngược, Chỉnh tự cho
rằng người đời chẳng ai bằng mình. Thậm chí Chỉnh coi nhà vua như đứa trẻ con,
khi bảo làm thế này, khi bảo làm thế kia, không còn kiêng sợ gì cả. Bụng Chỉnh
còn e dè, chỉ một Bắc bình vương mà thôi.
Chỉnh
thường nói riêng với người thân tín rằng:
- Bắc
bình vương là người anh hùng hào kiệt ở miền Nam ta cũng không thua. Hắn quỷ
quyệt hơn ta, nhưng ta khôn ngoan hơn hắn. Năm trước ta từng cộng sự với hắn,
nên ngày nay hãy nhường hắn một nước cờ, đợi khi trong nước tạm yên, ta sẽ
chuyên tâm lo việc phương Nam. Lúc đó ta có thể tập hợp binh mã, cùng hắn giao
phong trong một trận lớn lao. Đã trừ khử được vật ngăn trở rồi, thì từ dải đèo
Ngang trở về Nam, lại là bờ cõi của nước nhà. Nay Trần bình chương vào Nam bàn
việc bờ cõi, dù bất đắc dĩ mà phải nhường đất Nghệ An cho họ, thì cũng như cái
mưu khôn xưa nước Tấn đem ngọc bích và ngựa tốt đút cho nước Ngu, Hán Cao tổ
đem đất Quan Trung nhường cho Hạng Vũ đấy thôi (thời Xuân thu, nước Tấn lấy
ngựa hay và ngọc quý đút lót cho nước Ngu để mượn đường sang đánh nước Quắc;
đến khi diệt được nước Quắc rồi, Tấn liền quay lại diệt luôn cả nước Ngu, thu
lại ngựa và ngọc đã biếu-việc Hán Cao-tổ cũng tương tự, tạm nhường đất Quan
Trung cho Hạng Vũ rồi sau lại lấy lại). Đúng như lời sách xưa đã nói:
"Định lấy của nó hãy tạm cho nó" (câu này nguyên văn chữ Hán là
"Tương dục thủ chi tất cô dữ chi" Trong Đạo đức kinh của Lão Tử cũng
có câu tương tự là: "Tương dục đoạt chi, tất cô dữ chi" (muốn chiếm
đoạt của nó, hãy tạm cho nó). Có thể tác giả dẫn câu này là thoát thai từ câu
của Lão Tử). Điều đó người thường không thể biết được!
Vì thế,
đối với việc Nghệ An, Chỉnh mới dùng lễ vật nhiều, lời nói ngọt, mong sao cho
được vô sự; lại đem hết những điều uỷ khúc trong lòng mà dặn dò Trần Công Xán.
Chỉnh cho rằng chuyến đi ấy thế nào cũng dẹp yên được việc binh đao, nên không
còn để ý đến việc quân lữ và việc bờ cõi nữa. Không ngờ rằng Bắc bình vương lập
tâm bắt Chỉnh đã lâu, nhưng cơ mưu giấu kín quá nên Chỉnh không biết. Hoặc có
người nhắc đến việc biên cương thì Chỉnh cũng xem thường, cho là kẻ hiếu sự
đoán mò hay cho là tin đồn nhảm ngoài đường sá mà thôi. Tới lúc sứ bộ chết đắm
ở biển, nhiều người trong triều bảo đó là do Bắc bình vương sợ lộ việc tranh
chấp ở miền Nam mà giết ngầm đi, khi nội biến đã yên, thế nào họ cũng sẽ mưu đồ
đánh ta; Chỉnh cũng vẫn không cho là phải...
Sau khi
Bắc bình vương đã hoà với vua Tây Sơn (theo các tài liệu lịch sử, thì hai anh
em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ giảng hoà với nhau ở thành Qui Nhơn (Nghĩa Bình)
liền trở về Phú Xuân mở đại hội các tướng mà bảo họ rằng: "Nguyễn Chỉnh là
người đã chết, ta lại vẽ mặt vẽ mày cho. Nay hắn bay nhảy ở Bắc Hà, phò vua Lê
để sai khiến cả nước. Đã không lo đền đáp ơn ta mà còn định cắn lại, mưu đồ
giành đất Nghệ An, đặt làm một trấn quan trọng, để bắt chước việc chúa Trịnh
xâm lấn phương Nam ngày xưa. Thằng giặc ấy thật đáng giết. Không biết hắn đã
sắp sẵn được bao nhiêu binh mã, có thể đánh nhau với ta được một trận hay
không?"
Tức thì,
Bắc bình vương sai bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, kéo quân ra Nghệ An, họp cùng
Võ Văn Nhậm tính việc đánh dẹp phương Bắc. Tiếp đó lại cho Võ Văn Nhậm lĩnh ấn
tiết chế, các tướng đều phải ở dưới quyền. Khi sắp đặt đã xong, Bắc bình vương
hạ lệnh giục họ tiến quân. Bấy giờ đúng vào tháng mười một mùa đông năm Đinh vị
(1787).
Khi Văn
Nhậm kéo quân qua Thổ Sơn, trấn thủ Thanh Hoa là Lê Duật không dám chống cự,
rút quân lui giữ Trinh Giang (sông Trinh Giang thuộc xã Trinh Sơn, huyện Hoằng
Hoá, Thanh Hoá), rồi cho người phi ngựa về kinh cáo cấp. Tin cáo cấp một ngày
đến chín lần, làm cho kinh thành nhao lên, nhân tình tan rã, vội vàng mang
xách, bồng bế nhau ra ngoài thành để trốn tránh: phố phường đều đóng cửa thôi
buôn bán đường sá cũng ít người đi lại, trong chốn đài sảnh chỉ còn người có
chức vụ ở lại mà thôi.
Vua Lê
sai các quan cùng họp ở dinh của Chỉnh để bàn cách đánh giữ. Chỉnh nói:
- Đời
nhà Tấn, khi quân nhà Tần ập đến bờ cõi, Tạ An vẫn cười nói như thường; đời
Tống, khi quân Khiết Đan vào sâu trong nước, Khấu Chuẩn vẫn điềm nhiên như
không. Các vị đại thần, cần phải trấn tĩnh, không nên tự mình bối rối trước,
chỉ tổ làm cho lung lay lòng người. Chức trách của Lê Duật là giữ đất đai, thấy
giặc đến không thể không báo cáo, nhưng y cũng là một tay tướng giỏi. Võ Văn
Nhậm vị tất đã dễ dàng nuốt sống được y. Vả chăng, sông Trinh Giang, sông Thanh
Quyết (sông Thanh Quyết tức khúc sông Đáy thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình (Hà
Nam Ninh)), sông sâu nước lạnh, dù có thiên binh vạn mã chưa dễ đã vượt qua
được một cách yên ổn. Công việc đánh hay giữ, đã có định cục, làm gì mà phải
luống cuống.
Quan phó
đô ngự sử là Nguyễn Đình Giản nói:
- Thanh
Hoa là đất "thang mộc", lăng tẩm mấy triều đều ở đấy. Nay người Tây
Sơn tới đánh, cả vùng Tĩnh Gia đã bị chiếm mất, còn các vùng Thiệu Thiên, Hà
Trung đều thành chiến trường, xã tắc nguy như treo trên sợi tóc. Ông làm vị
quan đầu triều, binh quyền ở trong tay, định cục thế nào, thử nói ra cho rõ
ràng, để chúng tôi đều đem hết ý kiến nông cạn, cùng ông lo liệu. Việc thiên hạ
không phải là chuyện riêng một nhà, sao không nói cho mọi người đều biết? Ngày
xưa người Nguyên cười người Tống rằng: "Đợi khi chúng bay bàn bạc ổn thoả
thì ta đã qua sông rồi". Nay không lo liệu cho sớm, chờ khi quân giặc đã
đến ô Cầu Dền thì giả sử Tạ An, Khấu Chuẩn (Tạ An, người đời Tấn, làm Đại đô
đốc, có tài chỉ huy, đã cứu nguy cho kinh đô trong lúc đang bị hàng trăm vạn
quân Bồ Kiên uy hiếp. - Khấu Chuẩn, người đời Tống, khi quân Khiết Đan xâm phạm
bờ cõi, được vua Chân Tông giao cho chỉ huy quân sự, ông đã dùng kế buộc địch
phải rút về nước) có sống lại, họ cũng không thể trấn tĩnh được!
Ninh Tốn
và Nguyễn Bá Lan (có bản chép Nguyễn Nhuận) cũng đều nói:
- Quan ngự
sử nói rất đúng.
Ngày
thường Chỉnh quen dùng miệng lưỡi để lấn át người ta, người ta cũng sợ khí thế
của y, nên không dám tranh cãi lại. Nhưng lúc ấy, tin tức về quân địch gấp rút
đưa đến, trong bụng rối beng, lại bị Giản bẻ, nên Chỉnh chưa biết trả lời ra
sao. Quan bình chương Phan Lê Phiên nói:
- Không
cần nói nhiều, quân giặc đến chỉ có đánh mà thôi. Bộ hạ của ông, người nào có
thể làm tướng, xin tâu với hoàng thượng cho làm tướng; toà Xu mật sẽ cấp binh
bài, toà Độ chi sẽ cấp lương thực, ngày nay vào bái mạng, ngày mai tức tốc lên
đường, không thể chậm trễ!
Chỉnh
nói:
- ý tôi
cũng vậy, nói trấn tĩnh là nghĩa như thế!
Chỉnh
liền tâu vua cho Nguyễn Như Thái làm thống lĩnh, Ninh Tốn làm tham tán quân vụ,
đem quân cùng họp với Duật, chống địch ở trấn Thanh Hoa.
Lại nói,
Duật đóng quân ở Trinh Giang, Nhậm bèn sai người đến báo rằng:
- Ngày
mai đại quân qua sông, ngươi dám đánh nhau thì bày trận chờ đợi. Nếu không có
thể đánh nhau thì mau mau tới đầu hàng.
Lúc đó
Nhậm đóng quân ở phía nam Trinh Giang, trước tiên sai Ngô Văn Sở đem quân men
theo chân núi đi về phía tây, cất lẻn qua sông Tất Mã, đánh úp phía sau quân
Duật. Duật không hề biết, tối hôm ấy rút quân chạy cả đêm; hôm sau tới Cao
Lũng, đã thấy quân Sở ở đấy, quân Duật sợ hãi, chạy tan tác ra tứ phía. Duật bị
quân Sở giết chết. Khí giới, lương thực, hết thảy đều bị địch thu lượm.
Quân
Nguyễn Như Thái đi đến Châu Cầu (nay là thị xã Phủ Lý, Hà Nam (Hà Nam Ninh)),
nghe tin Duật đã thua và chết, vội gọi Ninh Tốn cùng bàn, Tốn nói:
- Binh
pháp dạy rằng: "Tranh được núi thì thắng, giữ chỗ hiểm thì vững".
Giữa Thanh Hoa nội và Thanh Hoa ngoại có núi Tam Điệp (tục gọi là núi Ba Dội, ở
chỗ giáp giới giữa Thanh Hoá và Ninh Bình ngày nay) ngăn cách, ấy là chỗ trời
đất xây dựng, rất là hiểm yếu. Ta nên tiến quân gấp để giữ lấy, chớ để quân
giặc chiếm trước. Được như vậy thì từ Trường Yên (tên phủ, sau đổi là
Yên-Khánh, thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)) về bắc còn là của mình. Nếu núi Tam
Điệp mà mất, thì lộ Nam Sơn thênh thang với những cánh đồng bằng phẳng rộng rãi,
e khó tranh nhau với giặc, việc nước sẽ không thể làm thế nào được nữa.
Thái cho
là phải, lập tức chỉnh đốn đội ngũ, đang đêm gấp rút tiến quân. Mờ sáng, quân
Thái qua sông Giản Khẩu (tức sông Gián, cũng thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)) thì
nghe tin quân Nhậm đã vượt qua núi Tam Điệp, Phan Văn Lân đã đem quân tuyển
phong đóng ở Hàm Mai (có sách chép là Đa Mai), cách đấy chỉ có vài dặm. Thái vỗ
ngực kêu to mấy tiếng, rồi đem quân bày trận trên bờ sông Giản để chờ địch.
Quân Tây
Sơn đến, chia hai ngả đánh kẹp vào. Quân Thái lẻ loi không có
quân cứu
viện, cố sức đánh nhau từ sáng đến trưa, tên đạn đều hết sạch. Bọn lính ở đằng
trước trở giáo hàng địch. Thái biết thế không thể chống nổi, bèn cùng vài chục
người bộ thuộc, phi ngựa chạy về phía bắc. Quân địch đuổi theo, bắn chết hết.
Ninh Tốn chạy trốn vào nhà dân, được thoát nạn. Văn Nhậm đã thắng trận, tức thì
dẫn quân tiến lên.
Chỉnh
đang ăn thì tin báo đến nơi, luống cuống vứt đũa, chạy vội vào nhà, gọi Hữu Du
và bảo:
- Chiến
tướng của ta chỉ có bốn người. Thái và Duật chẳng may chết rồi. Tuyển ở Sơn
Nam, Thước ở Kinh Bắc, gọi về không kịp. Tình thế gấp rút ta phải tự ra cầm
quân. Con nên sắp đủ binh lính, lương thực, cùng đi với ta. Quân cha, con cùng
dốc một lòng mới có thể nên việc được.
Du nói:
- Sách
có câu: "Thờ cha phải hết sức, thờ vua phải liều mình". Con xin đi
trước, đánh với giặc một trận lớn, không dám để cho vua và cha phải lo vì giặc.
Cha cứ đi thong thả mà đốc thúc việc chiến trận, con sẽ lấy đầu thằng Võ Văn
Nhậm đem về cho cha xem.
Lúc
Chỉnh sắp ra đi, người hầu yêu nắm vạt áo của y mà nói:
- Thiếp
nghe đâu các quan trong triều đều đã đem vợ con đi trốn trước rồi, đài sảnh
hiện bỏ không tất cả. Bây giờ quan lớn lại ra đánh giặc, tướng sĩ cũng đều theo
đi hết, riêng thiếp ở đây một mình, chịu làm sao được? Vậy xin cho thiếp một
chiếc kiệu nhỏ để thiếp đi theo quan lớn.
Chỉnh
nói:
- Trong
vòng tên đạn, không phải nơi đàn bà nên đi, đừng làm cho người ta thêm rối ruột
nữa!
Rồi
Chỉnh tự mình vào cung điện tâu xin xuất quân.
Vua bèn
ngự ra điện Cần-chánh, truyền chỉ ban tiết việt (tức "phù tiết" và
"phủ việt". Phù tiết: vật làm tin, thường làm bằng thanh tre viết chữ
vào đó, rồi chẻ đôi mỗi người giữ một nửa, sau kháp lại để làm tin. Cũng có khi
làm bằng vàng, ngọc hoặc gỗ... Phủ việt: lưỡi búa. Đời xưa khi đại tướng ra
trận được vua ban tiết việt để trao quyền hạn và làm tin) cho Chỉnh và dụ rằng:
- Trẫm
dựa vào ông như dựa bức trường thành. Chuyến đi này quan hệ đến sự an nguy của
nhà nước. Nhất thiết chớ có khinh giặc đánh tràn, phải tuỳ cơ mà làm, mau đưa
tin thắng trận về để yên lòng trẫm!
Chỉnh
tâu:
- Thần
đã biết rõ tình hình của giặc. Võ Văn Nhậm mạnh mà không có mưu khôn, làm tỳ
tướng thì dư sức, mà làm chủ tướng thì không đủ tài. Ngày thường hắn vẫn sợ
thần, nay thấy thần, nay thấy thần đến, chắc là không dám chống chọi. Thần chỉ
lấy khí thế mà đè nén, không cần phải đánh cũng thắng. Chuyến đi này, không quá
năm ngày, sẽ có thư trạm tâu tin thắng trận, xin bệ hạ chớ lo!
Tâu
xong, Chỉnh bái từ mà ra. Vua Lê thân hành tiễn đến ngoài cửa Đoan môn, rồi sai
các hoàng thân và trăm quan tiễn đưa ra ngoài kinh thành. Chỉnh đem quân đến
trạm Hoàng Mai (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), sai Hữu Du lĩnh các đội quân của
cơ Ngũ-nhuệ đi trước.
Du đi
đến sông Thanh Quyết, liền đắp luỹ đất chạy theo bờ sông, chia đồn mà cố thủ.
Lúc bấy
giờ, khí trời rét buốt, quân lính của Du đêm ngủ giữa trời, túm năm tụm ba đốt
củi để sưởi. Quân đi tuần của địch trông vào ánh lửa, thấy rõ tất cả, bèn về
báo với Văn Nhậm.
Nhậm cho
quân cưỡi bè, sang thẳng bãi sông, ngầm bắn xuyên qua các khe hở trên bờ luỹ,
nhắm chỗ có lửa làm đích, bắn phát nào trúng phát ấy. Quân ở trong luỹ hoảng sợ, bối rối, tự nhiên tan vỡ,
Du rút quân về giữ Châu Cầu. Quân sĩ mười phần chỉ còn hai ba, không dám đón
đánh, cũng không dám chạy về, phải vừa lui vừa dừng để đợi hậu quân (sự kiện
này, Cương mục chép hơi khác; thuyền súng đạn của Du đậu ở bờ bắc sông, không
phòng bị gì: nửa đêm quân Tây Sơn ngầm bơi sang, buộc thừng vào các thuyền của
Du, rồi kéo về phía bờ nam, tước đoạt hết súng đạn do đó Du thua...).
Lại nói,
Chỉnh đem quân đến trạm Bình Vọng (tục gọi làng Bằng, thuộc Thường Tín, Hà Đông
(Hà Sơn Bình)), tạm dừng lại nghỉ. Chợt thấy gió nam thổi vù vù, có đám mây đen
chạy suốt từ tây nam đến. Chỉnh ngồi trong kiệu, giở sách bói ra xem, vừa gặp
một quẻ, có lời đoán rằng: "Nước có giặc lớn, nguyên nhung thua
trận", Chỉnh tỏ ý buồn rầu, đang lúc trầm ngâm nghĩ ngợi, thình lình lại
có đàn ong rừng vo vo bay đến, đua nhau đốt vào cổ Chỉnh. Chỉnh giật mình ngã
xuống, sực nghĩ toàn là điềm gở, chần chừ không muốn tiến quân.
Chốc
lát, thấy quân bại trận của Du tan tác chạy về nói: - Quân ta đã vỡ, quân giặc
đuổi theo sắp sửa đến nơi!
Chỉnh
nghe nói, mặt mày thất sắc, tiến lui hai đường đều khó khăn. Tướng sĩ, bộ hạ
cũng đều mất vía, đua nhau nói: "Thế giặc rất mạnh, chưa thể giao tranh
với chúng được. Kinh thành ít quân, khó mà giữ nổi. Chi bằng dẫn quân về, lui
giữ đất Kinh Bắc, chặn ngang sông Nhĩ Hà cho vững; rồi sau sẽ từ từ tính chước
công thủ, thế là tiện hơn". Chỉnh nghe theo
Sau một
lúc, Hữu Du đến, Chỉnh kéo quân tức tốc về kinh. Xẩm tối, vừa về tới thành,
Chỉnh liền bảo quan tham tri chính sự là Nguyễn Khuê vào tâu với vua, xin đến
ngày mai, xa giá đi sang Kinh Bắc (theo Cương mục thì vua Lê cho gọi mấy lần
nhưng Chỉnh không đến, cuối cùng mới cho Nguyễn Khuê đến thay...). Rồi Chỉnh
vào thẳng lượng phủ là chỗ mình ở, sắp xếp hành trang, sai người hộ vệ vợ con
gia thuộc sang sông trước.
Lính Kim
ngô biết chuyện, vội vàng vào điện tâu với vua rằng: "Gia quyến ông Bằng
đi rồi!"
Vua Lê
lật đật chạy đến dinh của Chỉnh. Lúc bấy giờ Chỉnh đang chạy đi chạy lại trước
sân, dặn dò những người ra đi. Vua cầm lấy tay Chỉnh mà hỏi:
- Sự thể
đã đến thế này thì làm thến nào?
Chỉnh
thấy vua, thẹn thùng, run sợ, bèn lạy mà thưa rằng:
- Bệ hạ
giao nước cho thần, thần không xứng đáng với chức vị, làm lầm lỡ việc nước, tội
ấy không dám chối cãi: hai mặt tây nam kinh sư, không còn có gì để nương tựa,
thành trì cũng chưa đào đắp, chỉ có cửa ô mà thôi. Quân giặc thừa thắng ruổi
dài, không có thành luỹ nào ngăn cản; đánh thì không được, giữ cũng không xong,
lấy gì để bảo đảm cho được toàn vẹn? Nay bệ hạ hãy nên đi sang phương bắc, để
lo tính công việc sau này. Quân giặc từ xa đến đã mệt nhọc, lại bị sông lớn
ngăn trở, thế nào cũng không dám đuổi ta. Trong khoảng mười ngày, ta được thư
thả, rồi sẽ lo sâu tính xa, há lại không có cơ hội tốt để khôi phục? Bệ hạ hãy
về cung, tâu với hoàng thái hậu, xin đưa từ giá (xe của mẹ vua) đi trước, thần
sẽ thân đem lính và voi đợi ở bến sông.
Dứt lời,
Chỉnh nhớn nhác đảo mắt ngó quanh một lượt, rồi đi. Vua cũng lập tức đi bộ về
cung. Trên đường, đã thấy dân chúng dắt díu nhau cùng chạy. Bọn vô loại thừa cơ
cướp giật, tiếng kêu khóc oai oái. Có kẻ giữ lấy vua, sờ nắn trong lưng không
có gì, mới tha cho đi. Vua vội vàng đi về phía cửa Chu Tước, rồi vào cửa Tả
Khúc. Vừa tới nơi đã nghe thái hậu và các phi tần tìm nhà vua không thấy, đang
gọi luôn miệng: "Thừa dư (chỉ nhà vua) ở đâu?". Vua vội trả lời:
"ở đây! ở đây!". Rồi nhà vua lập tức gọi lính thị vệ, nhưng chỉ được
mười bảy, mười tám người, còn thì đều lẩn trốn không đến. Vua vội vàng sai lấy
võng đòn tre cáng thái hậu và nguyên tử (con đầu của vua mà chưa lập làm thái
tử thì gọi là nguyên tử) đi. Các tôn thất và phi tần đều phải đi bộ. Những đồ
ngự dụng chỉ khênh đi được bốn hòm, còn bao nhiêu đều bỏ lại trong điện. Những
đồ riêng tây cùng quần áo quí báu của bọn thị vệ, cũng đều bỏ rơi dần ở dọc
đường.
Đến bến
sông, phải giành giật lấy đò mà qua, bất cứ kẻ sang người hèn, ai mạnh thì được
qua sông trước. ở trong bãi cát, mọi người giẫm đạp lẫn nhau, có người bị ngã
rồi bị xéo đến chết. Các tay lái đò chèo không kịp, hoặc có thuyền vì chở nặng
quá mà bị đắm. Tiếng kêu khóc vang trời động đất. Kinh thành rối loạn lung
tung. Bọn vô loại ùa vào trong cung, phủ, cướp bóc bừa phứa. Nhưng những vật
lấy được, chúng cũng không dám chuyên chở ra ngoài thành, mà phải giấu ở các
phố.
Gần tối,
Võ Văn Nhậm đến nơi đem quân vào thành thì thấy cung điện, kho tàng chỉ còn trơ
lại xác nhà không mà thôi. Nhậm nói:
- Vào
chợ còn được cái kim, huống chi là vào một nước. Ta nghe đất Bắc Hà giàu có,
sao lại sạch trơn thế này? Ta ở xa đến mà lại không kiếm được một đồng tiền nào
đưa về thì nói ra con nít cũng không nghe được.
Ngày hôm
sau Nhậm bèn thả lính lùng khắp các nhà dân ở phường phố, lấy được của báu rất
nhiều, đến cả của tư cũng đều lấy hết.
Có người
dân đến cửa quân kêu rằng:
- Đời
xưa hành quân, không hề chạm đến một mảy may của dân. Có người lấy lấy cái nón
của dân để che áo giáp của quan, cũng không dung thứ. Sao nay dân gian lại bị
hại đến như thế?
Nhậm
quát to:
- Những
vật quân ta lùng được đều là tài sản trong cung phủ nhà Lê, phải đâu là của nhà
dân? Chẳng qua chúng bay nhân lúc rối loạn, tranh nhau ăn trộm, đại quân ập
đến, không kịp cất giấu đấy thôi. Thằng này chính là bè đảng của bọn côn đồ,
không thể tha thứ được!
Lập tức,
Nhậm sai điệu người ấy ra chém. Do đó, dân chúng rất sợ, không còn ai dám kêu
ca gì nữa.
Lại nói,
cha con Chỉnh cùng các quan theo vua chạy sang phương bắc. Vì sợ quân địch đuổi
kịp, ai nấy chạy sấp chạy ngửa, người nọ níu áo người kia, chẳng còn ra thể
thống gì cả. Chập tối thì vua tôi nhà Lê đến trấn Kinh Bắc. Gặp lúc trấn thủ là
Nguyễn Cảnh Thước mưu đồ làm phản, mượn cớ ốm không chầu vua. Chỉnh tới, quở
trách gắt gao, Thước mới miễn cưỡng ra yết kiến.
Lúc ấy,
dọc đường quân lính đã bỏ trốn quá nửa. Chỉnh rất lo, liền kiểm điểm số lính
còn lại, ưu binh và nhất binh (lính tuyển ở bốn trấn) chỉ còn hơn bốn trăm ba
mươi người, ngựa hơn sáu chục con, Chỉnh đem quân đi trước, qua sông Như Nguyệt
(tức sông Cầu (Hà Bắc)), đóng đồn ở núi Tam Tằng (nay thuộc Hà Bắc), tự mình
đốc suất quân lính đắp luỹ, cắm rào, rồi sai Thước hộ vệ nhà vua đến sau.
Chỉnh đi
rồi, vua và thái hậu chờ đợi bên sông, lâu mãi chẳng thấy thuyền, liền cho gọi
Thước đến hỏi.
Thước
tâu:
- Các
thuyền đều không ở đây, bệ hạ muốn sang sông gấp thì xin cho thần ít nhiều vàng
lụa, mới có thể thuê được. Nếu không, dẫu đến sáng mai cũng vẫn ở đây. Giả sử
quân giặc đuổi đến, thần xin dùng thùng gỗ để đưa bệ hạ qua sông. Nhưng chỉ e
những đồ ngự dụng không thể giữ được mà thôi. Vua nói:
- Trẫm
có cả thiên hạ còn không giữ được, bây giờ lại còn tiếc cái gì nữa. Tức thì nhà
vua sai mở hòm cho Thước xem. Trong hòm chỉ có con dấu truyền quốc và bốn mươi
lạng vàng mà thôi.
Vua nói:
- Tuỳ
nhà ngươi muốn lấy gì thì lấy.
Thước
nói:
- Đội ơn
bệ hạ ban cho, thần xin chia một nửa.
Vua cho
Thước tất cả. Thước liền gọi lái đò đưa thuyền đến bến, chở nhà vua và đám
người cùng đi qua sông. Khi vua đã lên bờ, Thước lại cho người đuổi theo, lột
chiếc ngự bào vua đang mặc. Vua ứa nước mắt, cởi ngự bào trao cho chúng, rồi
chạy về núi Như Thiết.
Vua xin
với thái hậu rằng:
- Con
tài đức kém cỏi, không đủ làm chủ thần khí (trỏ ngôi vua), lại không sành sỏi
trong việc xét người, bị Nguyễn Hữu Chỉnh làm lầm lỡ, đến nỗi kinh thành thất
thủ, phiêu bạt ra ngoài, để gây mối lo cho thánh mẫu. Bây giờ trèo leo ở chốn
núi rừng, nay đây mai đó, tình thế này không chắc đã sum họp một nhà được. Đã
thế lại còn dắt díu nhiều người đi theo, sợ giặc dò biết, sẽ sinh ra tai biến
bất ngờ. Con đã nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có viên đốc đồng trấn Cao Bằng Nguyễn Huy
Túc là người trung hậu có thể nương nhờ được. Vậy xin thánh mẫu hãy tạm lên Cao
Bằng, nơi đó đường đất xa xôi, quân giặc không thể phút chốc đi tới được. ở đó,
công việc nên chăng thế nào, con xin viết bức thủ thư giao cho Túc. Đến như
việc sớm khuya hầu hạ, em con có thể thay con. Dám xin thánh mẫu tạm yên lòng,
để con ở đây ngầm lo việc khôi phục, ngõ hầu có thể chuộc được tội lỗi.
Thái hậu
nói:
- Trời
đã không giúp xã tắc, già này sống chẳng bằng chết, nguyện lấy mảnh đất ở núi
này làm nơi chôn cất hài cốt, chớ còn phải trèo non vượt suối làm chi nữa cho
khổ?
Vua rập
đầu chảy máu, mãi không dậy. Các quan cũng có nhiều người khuyên giải. Thái hậu
mới ưng ý.
Rồi đó,
em vua là Quang, thị thần là Quýnh cùng bọn tôn thất hơn ba chục người đều theo
thái hậu đi lên Cao Bằng.
Hôm sau,
vua sang huyện Yên Dũng (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), văn thần đi theo chỉ có năm
sáu người là bọn Nguyễn Đình Giản, Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, Vũ Trinh, Trương
Đăng Quỹ mà thôi.
Vừa lúc
ấy, Võ Văn Nhậm sai bộ tướng là Nguyễn Văn Hoà đuổi kịp Nguyễn Hữu Chỉnh. Hai
bên đánh nhau ở núi Tam Tằng. Hữu Du múa đao đánh mạnh, giết vài chục quân
địch. Hoà chia một đội kỳ binh vòng ra sau núi đánh úp. Quân Chỉnh rối loạn, tự
nhiên tan vỡ. Hữu Du chống cự không nổi, chết ở trước trận. Tham tri chính sự
là Nguyễn Khuê cũng bị địch giết. Chỉnh lên ngựa nhằm hướng bắc mà chạy, ngựa
ngã, bị quân địch đuổi kịp, chúng tranh nhau chĩa giáo chực đâm. Chỉnh vội kêu
to:
- Xin cứ
bắt sống mà đem dâng!
Quân
địch bèn trói Chỉnh lại, bỏ cũi đưa về kinh.
Chỉnh
xin gặp Văn Nhậm để nói một lời. Nhậm không cho, sai người kể tội
Chỉnh
rằng:
Mày vốn
là tôi chúa Trịnh, phản chủ mà về với chúng tao để mưu đồ diệt họ Trịnh; rồi
lại phản chúng tao về Bắc, lừa dối vua Lê, chiếm lấy ngôi cả, tự tiện làm oai
làm phúc, ngầm ngầm lo mưu lấn cướp để tranh giành với chủ tao. Xét cuộc đời
của mày, toàn học thói cũ của quân giặc loạn, phải phanh gan ruột mày ra, bỏ
hết những cái dơ bẩn, để người Bắc lấy mày làm răn! Rồi Nhậm bảo phanh thây
Chỉnh, thả cho chó ăn thịt.
Trong
trận ấy, Hoà tuy bắt được Chỉnh, nhưng chưa bắt được vua Lê, Hoà thả quân lùng
mãi không được, bèn ngấm ngầm sai người dò tìm tung tích. Vua Lê nghe tin sợ
quá, liền chạy trốn vào vùng núi Bảo Lộc (nay thuộc huyện Lạng Giang, Hà Bắc).
Lại nói,
trước kia Lân dương hầu tà Phạm Tôn Lân theo án đô vương chạy ra Yên Quảng, rồi
vì có việc phải cáo từ về nhà; nhân đó Lân mưu đồ chiêu dụ quân lính để giúp
chúa Trịnh, nhưng về sau không biết chúa ở đâu, bèn nương nhờ vào người hào mục
huyện Yên Dũng, là Nguyễn Trọng Linh (Cương mục chép là Dương Đình Tuấn, người
huyện Yên Thế, Bắc Giang (Hà Bắc)).
Lúc ấy,
nghe tin vua ở vùng Bảo Lộc, Lân bèn nói với Linh cùng nhau đi đón vua về. Rồi
họ đốc suất nhân dân bảy tổng thuộc huyện Yên Dũng, đắp luỹ ở phía bắc sông
Nguyệt Đức (tức sông Cầu (Hà Bắc)), chống nhau với Hoà. Hoà đánh không được.
Nhậm phải tự mình dẫn đại quân đến, đêm ngày đánh rất dữ. Quân Linh thua trận.
Linh dắt vua Lê chạy trốn. Em Linh là Lung bị Nhậm bắt sống. Nhậm không giết mà
sai đem thư dụ Linh, bảo phải nộp vua Lê, đại lược nói rằng:
"Tôi
vâng mệnh ra Bắc, chỉ giết giặc Chỉnh, không can gì đến tự hoàng nhà Lê. Tự
hoàng là người của chúa thượng lập nên, bị giặc kèm đi, cùng chạy với chúng.
Loài cáo vốn hay ngờ vực, vẫn mê không chịu quay về; bọ ngựa dám chống bánh xe,
nên phải đem quân tới đánh. Nay nếu biết hối mà về ngay, còn có thể chuộc được
lỗi trước. Nếu không, thì sẽ tìm người khác để coi việc nước. Ngôi chủ tể đã có
người, thì tự hoàng không còn ngày trở về nữa, mà lũ các ngươi rồi cũng bị vạ
lây".
Linh
nhận được thư, dùng dằng chưa quyết, lại sai Lung về báo với Nhậm rằng:
"Sau khi bị thua, mỗi người bỏ chạy một ngả, thật không rõ vua Lê ở đâu.
Xin cho phép mươi ngày để đi tìm kiếm, rồi sẽ tự đến". Đình Giản biết
chuyện ấy, bèn tâu riêng với vua Lê rằng:
- Anh em
Linh không thể tin cậy được. Các ông Đinh Dư, Doãn Lệ, Vũ Trinh đều là người
Kinh Bắc, nên kíp sai đi chiêu dụ lấy quân để tự vệ, rồi dời xa giá đến phủ
Thuận An (nay là huyện Thuận Thành, Hà Bắc). Còn các ông Đăng Quỹ, Văn Lân đều
là người Sơn Nam, cũng nên sai về bản quán mộ quân, chờ lệnh trưng phát.
Vua Lê
nghe lời, sai mọi người chia ngả mà đi làm việc, chỉ để Đình Giản ở lại hộ giá.
Vua Lê
ngấm ngầm tới huyện Gia Bình (nay là huyện Gia Lương, Hà Bắc), vời tiến sĩ là
Trần Danh án, đến hỏi về tình hình vùng đó. án tâu:
- Thổ
hào phương bắc đây có Trần Quang Châu, nguyên là xã trưởng xã Kênh Than, là
người dũng cảm mà lại có sức mạnh. Trước đây nhân khi loạn, Châu tụ tập đinh
tráng, để giữ xóm làng. Trong huyện nơi nào có kẻ cướp thì Châu liền đem quân
đến cứu. Trộm cướp không dám đụng chạm đến, cả huyện yên ổn, họ bèn bầu Châu
làm chức huyện trưởng. Có lúc, Châu vác cày bừa, giả dạng làm người nông phu,
hễ gặp lính Tây Sơn là đánh chết liền. Quân Tây Sơn luôn luôn bị Châu giết hại,
răn nhau không dám xâm phạm đến bờ cõi huyện này. Văn Nhậm nghe tin giận lắm,
định đem quân đến bắt Châu. Châu bèn trốn vào vùng Chí Linh, Phượng Nhãn (Chí
Linh thuộc Hải Dương (Hải Hưng). Phượng Nhãn nay sáp nhập vào huyện Yên Dũng,
Hà Bắc), chiêu mộ dũng sĩ, chống nhau với địch. Người ở hai vùng đông bắc, theo
về với Châu mỗi ngày một nhiều. Châu thường cho người dò la nơi ở của quân Tây
Sơn, rồi đêm đến đem quân đi gấp tới nơi, đánh úp giết chết. Quân của Châu khi
ẩn, khi hiện như thần, đánh đâu là thắng đấy. Quân Tây Sơn chẳng làm gì được.
Châu vẫn muốn khởi nghĩa, nhưng chưa có ai làm chủ. Vậy xin đưa lá thư của bệ
hạ đi để chiêu dụ Châu, chắc là Châu sẽ đến ngay.
Vua nói:
- Vậy
nhà ngươi hãy sai người đi đi!
Châu
nghe tin, mừng lắm, nói với mọi người:
- Quân
ta nay đã có danh nghĩa rồi!
Châu bèn
đem quân đến đón vua Lê, vua tôi gặp nhau rất là vui mừng.
Vua nói:
- Nghe
đồn nhà ngươi dùng binh rất hùng dũng, nay quân giặc tụ tập ở vùng Bảo Khảm
chừng hai trăm tên, nếu ngươi có thể đánh phá được chúng, ta sẽ cho ngươi làm
chức trấn thủ xứ Kinh Bắc.
Châu
nói:
- Việc
đó rất dễ, song chỉ e khi chúng kéo hết quân đến, thần ít quân, lại không có
quân cứu viện, thì không đủ sức đánh nhau với chúng, mà rồi lại không thể tránh
đi nơi khác để giấu kín tung tích. Lâu nay những việc thần đã làm, chỉ có thể
hả bớt tức giận mà chưa thể tự lập được cũng là vì cớ ấy. May nhờ oai linh của
bệ hạ, lại được các tướng góp sức, thần xin tự mình chống đỡ một mặt, gặp giặc
là đánh, có chết thì thôi chứ không chạy.
Vua nói:
- Mạnh
mẽ thay! Thật đáng là bậc đại tướng.
Rồi đó
vua bèn phong cho Châu làm quyền trấn thủ, tước Dao quận công.
Châu
liền mở cuộc diễu võ ở núi Vạn Kiếp (thuộc huyện Chí Linh, Hải
Dương
(Hải Hưng)), dựng cờ và trống đại tướng ở trên núi, rồi sai người tâu
mời nhà
vua tới xem.
Thật là:
Thành lữ long đong lo việc nước,
Trạch bào hăng hái giết quân thù
Chưa
biết việc này ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
Thành
lữ: mượn ở câu: Hữu điền nhất thành, hữu chúng nhất lữ (Đất đai có mười dặm,
quân lính có trăm người) trong Bắc sử, trỏ vào việc vua Thiếu
Khang
nhà Hạ bị mất nước, chỉ còn có một thành một lữ mà khôi phục được cơ nghiệp.
Trạch bào mượn chữ ở bài "Vô y" trong Kinh thi, bài thơ nói về tinh
thần hữu ái và khảng khái của quân lính. "Trạch" là áo lót,
"bào" là áo khoác. Nguyên văn là Khởi viết vô y, Dữ tử đồng bào..
Khởi viết vô y, Dữ tử đồng trạch (Há rằng không có áo? Ta sẽ chung áo khoác
cùng anh... " cả hai câu thơ trên đều nói về việc Chiêu-thống cùng đám
quân cần vương đang hăng hái mưu khôi phục lại cơ nghiệp.
Hồi 11
Tây Sơn lại kéo vào thành chiếm giữ đất nước
Chiêu thống ba phen tính chước khôi phục kinh
đô
Lại nói,
vua Lê thân hành tới xem diễu võ ở núi Vạn Kiếp. Nhà vua ngự ở đền Trần Hưng
Đạo, gọi Châu đến và hỏi:
- Có
được mấy trăm quân? Châu đáp:
- Trừ số
người mới theo về, thủ hạ tinh luyện của thần chỉ có trăm người mà thôi!
Vua nói:
- Tiếc
rằng ít quá!
- Quân
cần tinh nhuệ không cần nhiều. Có trăm quân cảm tử, cũng đã đủ để hoành hành
trong thiên hạ. Thần đã từng thử, quân giặc có lúc kéo tới đầy cả đồng, thần
chỉ sai vài chục người xông đến trước trận, múa dao chém bừa, không lần nào
giặc không tan vỡ.
Vua bảo:
- Đúng
như lời ngươi nói, nhưng đánh bất thình lình thì được, chứ đối trận mà đánh thì
không được. Nay đang khi trốn chạy tan tác, nhân tình dễ loạn, làm gì cũng phải
cho chu đáo mới có thể đứng vững để lo việc khôi phục. Vạn nhất bị vấp ngã thì
không thể nào nhóm họp lại được nữa. Vì thế, thời xưa có người chịu nương náu ở
núi Cối Kê, có người chịu nép mình ở đất Ba Thục (ở đây Chiêu-thống muốn nói
đến chí phục thù của các vua đời xưa ở Trung Quốc, như Việt vương Câu Tiễn thời
Xuân-Thu và Hán Cao Tổ cuối đời Tần. Câu Tiễn bị Ngô Phù Sai đánh bại và cho ở
đất Cốt Kê, nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng mọi cay đắng, ngầm nuôi chí lớn, sau
quả nhiên trở lại diệt được nước Ngô. Hán Cao Tổ bị Sở Bá vương biếm phong vào
đất Ba Thục. Cao Tổ tạm thời chịu lép vế, rồi về sau đã thắng Sở), người ta vẫn
phải ẩn nhẫn mà giữ lấy lực lượng, không dám làm liều để rước lấy sự thất bại.
Ngày nay, việc nước nhà cũng giống như vậy, nên trước tiên phải kêu gọi quân
cần vương để thêm thanh thế, không nên lộ mặt ra vội. Trẫm đã sai các quan chia
đường đi chiêu mộ binh lính, ở Kinh Bắc có Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, ở Sơn Nam
có Trương Đăng Quỹ, Phạm Văn Lân, ít lâu nữa họ sẽ trở về phục mệnh. Nhà ngươi
nên đợi họ, bây giờ hãy đóng quân ở trong núi, luyện tập số người mới theo, cho
tất cả đều tinh nhuệ, để chờ sai khiến.
Vua lại
sai Đình Giản qua miền thượng du trấn Sơn Tây, kêu gọi nghĩa binh các trấn Tuyên
Quang, Hưng Hoá, hẹn ngày cùng đến. Còn tự mình thì đi tới vùng Hải Dương,
truyền hịch chiêu dụ.
Lúc vua
đến huyện Chí Linh, quan văn đi theo chỉ có ba người là Trần Danh án, Vũ Trinh
và Ngô Thì Chí mà thôi.
Ngô Thì
Chí có dâng vua bài "Sách lược trung hưng" như sau:
"Thần
trộm nghĩ, dẹp loạn phải xem cơ, dùng võ phải có đất. Vua Thiếu Khang giữ Luân
ấp mà sau mới dấy được nghiệp trung hưng; Vua Chiêu Liệt chiếm ích Châu mà sau
mới chống được kẻ ngoại địch. Địa thế nước ta, Cao Bằng, Lạng Sơn nằm ở phía
đông bắc, giáp với đất Trung Hoa. Núi sông hiểm trở, đủ để giữ vững, binh mã
hùng cường, đủ để tiến đánh. Nay bệ hạ hãy ngự giá đến đó, sai một sứ thần sang
báo với nhà Thanh, xin họ đem quân đóng áp bờ cõi, để làm thanh viện cho ta;
đồng thời đưa mật chỉ cho hào kiệt bốn trấn, bảo họ hưởng ứng. Lòng người đã
được khích lệ, ai dám không theo? Trăm quan kẻ nào chưa theo kịp, ai dám không
tới? Ngoài tựa vào thế thượng quốc, trong nhóm họp quân cần vương, khiến cho
thế giặc mỗi ngày mỗi trơ trọi, thế ta mỗi ngày một lớn mạnh. Rồi đó, ta sắp
đặt phương lược, tiến lên khôi phục kinh thành, công nghiệp trung hưng hẳn có
thể hẹn ngày mà làm nên được!".
Vua vời
Chí tới và bảo:
- Ngươi
nói rất hợp ý ta. Mùa đông năm ngoái, ta sai hoàng đệ và các hoàng thân hầu
thái hậu lên Cao Bằng, có đưa mật chỉ cho viên đốc đồng Nguyễn Huy Túc, dặn y
dùng lời nghĩa khí khích động lòng người, liên kết bọn phiên tướng, tụ tập quân
biên cương, cũng là sắp sẵn cho việc ấy. Nhưng còn Lạng Sơn thì ta chưa sai ai
đi.
Chí tâu:
- Trước
kia, khoảng năm Đinh Dậu (1777), niên hiệu Cảnh Hưng, cha thần đã vâng chiếu
lên làm trấn thủ xứ Lạng Sơn, để tuyên bố uy đức của triều đình và chiêu tập
những kẻ lưu vong. Nhân dân bảy châu, đến nay vẫn còn mến yêu. Thần xin lên đó,
vâng chỉ chiêu dụ, nhân dịp báo tin cho Túc, tâu với thái hậu, hẹn ngày ra quân
để đón xa giá. Thế là một chuyến đi mà được cả hai việc.
Vua Lê
khen là phải rồi cho Chí đi. Chí mới đến huyện Phượng Nhãn thì phát bệnh, không
thể đi tiếp, liền gửi tờ biểu về xin nghỉ ít hôm để điều trị. Vua bèn cho mười
nén bạc để chi về việc thuốc thang.
Trong
lời biểu của Chí gửi về tạ ơn vua, có đoạn viết:
"Gặp
cơn nguy biến, chí hợp mà tâm đồng; nghĩa vua tôi ngàn năm mới gặp; trong đạo
luân thường, phận ưa mà tình nặng; tình cha con một nhà khác chi? Nay gặp buổi
quốc gia còn lắm nạn; chính là khi thần tử phải quên mình. Dám đâu vì việc
riêng mà tiếc thân; nguyện sẽ đeo bệnh tật để dấn bước".
Vua xem
tờ biểu lấy làm cảm động.
Vừa lúc
đó, bọn Đình Dư, Doãn Lệ sai người đưa tờ mật biểu tới nói rằng: "Các vùng
Đông Ngàn, Kim Hoa, Võ Giàng, Quế Dương (nay đều thuộc Hà Bắc; riêng Kim Hoa
sau đổi là Kim Anh nay thuộc Vĩnh Phú và một phần nhập vào huyện Sóc Sơn thuộc
Hà Nội), lòng người đâu đâu cũng căm tức. Bọn thần đã tuyên lời chiếu dụ, các
hào mục đều xin dấy quân cần vương. Cúi xin xa giá trở về Kinh Bắc, để cho bọn
họ được vào yết kiến. Rồi nhân đó, bệ hạ ban lời dụ trước mặt họ cho họ về nói
lại với nhau, như vậy ai mà không theo? Khi đã phò giá về đóng ở đấy, thì người
trong thiên hạ đều được trông thấy mặt trời. Đình Giản trước đây đi Sơn Tây,
Tôn Lân trước đây đi Sơn Nam, cũng được xa nhờ tiếng tăm, uy linh của nhà vua
mà đem quân về họp. Hà tất phải lên Lạng Sơn, là nơi bờ cõi xa xôi cách trở?
Bọn thần e rằng cứ nấn ná ngày tháng sẽ làm lỡ mất cơ hội, rồi lại bỏ chỗ gần
mà lo chỗ xa, thì thật là thất sách!".
Vua Lê
cho lời ấy là phải.
Vũ Trinh
mời nhà vua về làng Xuân Liên, huyện Lang Tài (nay sáp nhập với huyện Gia Bình
thành huyện Gia Lương). Cha Vũ Trinh là Vũ Chiêu làm tờ biểu xin dâng hai trăm
lạng bạc để tiêu vào việc quân. Vua nhận số bạc ấy, bèn dùng nhà Chiêu làm nơi
hành tại.
Lại nói,
khi Bắc bình vương sai Võ Văn Nhậm ra đánh đất Bắc, vốn do mệnh lệnh đã định từ
trước, nhưng trong bụng cũng hơi nghi ngờ Nhậm, bèn sai bọn Ngô Văn Sở, Phan
Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt quyền của Nhậm. Bắc bình vương lại bảo
riêng với Sở rằng:
"Nhậm
là con rể vua anh. Nay ta với vua anh có sự xích mích, lòng y chắc cũng không
yên. Chuyến này y cầm trọng binh vào nước người, sự biến không thể liệu trước
được. Nay ta không lo Bắc Hà mà chỉ lo về Nhậm mà thôi. Ngươi nên xem xét từng
ly từng tý, hễ có gì thì phải gấp rút báo cho ta biết. Ví như lửa cháy, dập tắt
từ khi mới bén thì dễ dàng hơn".
Lúc Nhậm
thừa thắng kéo xe ra Bắc, như vào làng bỏ trống, không một người nào dám chống
cự. Nhậm có vẻ dương dương tự đắc. Kịp khi bắt sống được Nguyễn Hữu Chỉnh, Nhậm
tự cho là uy vũ của mình đủ khiến người ta phải phục, khu xử việc Bắc Hà không
có gì khó.
Khi nghe
vua Lê chạy sang phía bắc, nương tựa vào Nguyễn Trọng Linh, Nhậm liền tức tốc
gửi thư bắt buộc LInh phải đem vua Lê ra nộp. Nhậm lại cho đòi các người trong
tôn thất và các quan văn võ phải đến cửa quân chờ hầu; thường dùng cách hất
hàm, đưa mắt, dùng bộ điệu, khí sắc để sai khiến mọi người mà chẳng ai dám làm
gì.
Thế
nhưng, rốt cuộc Nguyễn Trọng Linh vẫn không đến, các viên quan có thế lực cũng
chẳng có ai tới. Trần Quang Châu ở Kinh Bắc. Nguyễn Viết Tuyển ở Sơn Nam, Đinh
Tích Nhưỡng ở Hải Dương, ai nấy cầm quân giữ đất và nói phao lên rằng, chẳng bao
lâu, bốn phía sẽ nhòm về kinh đô, cùng Nhậm quyết chiến. Rồi đó, hễ quân Tây
Sơn có tên nào ra khỏi thành là bị bọn thổ hào giết chết. Giặc cướp cũng nhân
dịp nổi lên khắp nơi, khói lửa liên tiếp. Lúc bấy giờ Nhậm mới có ý sợ, liền
bắt hết nhân dân quanh vùng kinh kỳ đắp lại thành Đại La. Ngày đêm đốc thúc,
không cho nghỉ ngơi chút nào, đến nỗi có người đang đội đất mà ngã sấp xuống.
Làm lụng mệt nhọc, đói khát, ai cũng ta oán. Khi ấy, có người đồn rằng: Trần
Quang Châu đã lẻn vào trong thành làm nội ứng, hẹn Nguyễn Viết Tuyển đem binh
thuyền ngược dòng sông Nhĩ Hà đi lên để làm ngoại ứng. Nhậm bèn hạ lệnh lùng
khắp kinh sư, những người ở trọ trong các phố phường đều đem chém chết. Ngô Văn
Sở nói:
- Mình
cứ vững dạ, có lo gì họ? Nếu mình tự bối rối trước, thì còn trấn áp được ai?
Chi bằng tha họ cho yên lòng dân.
Nhưng
Nhậm không nghe. Vừa lúc ấy có người ở làng Cơ Xá, huyện Gia Lâm, tự xưng là
Trần Đình Khôi làm chức thiêm sự của nhà Lê, xin vào yết kiến. Nhậm cho mời vào
và hỏi:
- Nguyễn
Hữu Chỉnh là kẻ vong mạng, lấy trộm ngôi cao, tàn hại nhân dân, thiên hạ ai
cũng căm giận. Người Bắc Hà mưu đồ đánh hắn mà không được, trở lại bị hắn làm
hại. Nay ta trừ hắn đi cho, đáng lẽ ơn ta mới phải, sao ta vời mà không ai đến?
Khôi
đáp:
- Ông có
tài quyết thắng ở ngoài ngàn dặm, lẽ nào lại không xét rõ tình người? Người Bắc
Hà dù oán Chỉnh rất sâu, mà lòng nhớ nhà Lê chưa nguôi. Họ thấy ông giết Chỉnh,
xa gần cũng đã mừng rỡ, nhưng vì ông chưa bàn gì đến việc phò Lê, nên người ta
bàng hoàng trông ngóng, chưa dám đến vội. Nay tự quân đã bỏ nước mà đi, không
có lẽ còn quay trở lại. Có Sùng nhượng công Lê Duy Cận, lúc tiên đế còn sống,
đã chính vị làm đông cung, sau gặp việc biến cố năm Nhâm dần (1782), mới bị
kiêu binh truất bỏ. Nếu ông khôi phục ngôi đó cho Sùng nhượng công để tạm coi
việc nước, rồi đem việc ấy bá cáo khắp trong ngoài, yết một mảnh giấy ở cửa Đại
Hưng, thì chẳng bao lâu các quan văn võ sẽ đến họp cả. Lúc bấy giờ việc thiên
hạ ai cũng phải nghe ông, ông xoay vần dễ như trở bàn tay, lo gì mà không xong xuôi?
Nhậm gật
đầu nói:
- Ông
nói rất có lý. Ví như mổ trâu, cắt đúng đường gân khớp xương thì các thớ thịt
sẽ đứt cả, không khó nhọc gì.
Rồi đó,
Nhậm bèn sai mời Sùng nhượng công vào phủ, lấy lễ thượng khách mà tiếp đãi và
bảo rằng:
- Thiên
hạ vốn là thiên hạ của nhà Lê. Tự hoàng bỏ nước mà đi, trong nước không có ai
làm chủ. Ông là thái tử cũ, đã có mệnh vua từ trước. Bây giờ ở ngôi ấy, ngoài
ông ra thì còn ai nữa?
Sùng
nhượng công nói:
- Nước
mọn này mất cả giường mối, nhờ ơn thượng công (chỉ Nguyễn Huệ) đã gây dựng lại
cho. Nhưng trời chưa thôi vạ, tự hoàng thơ ấu, bị tên loạn thần làm lầm lỡ,
phải chuốc lấy sự bại vong. Nay chúa công (chỉ Võ Văn Nhậm) không nỡ bỏ, lại lo
nối lại cái dòng đã đứt, đó là điều may lớn cho nước mọn này. Chỉ hiềm tôi là
người không có đức, nếu được lạm giữ ngôi ấy, thì công việc chỉnh đốn phen này,
cũng xin nhờ chúa công giúp đỡ cho, may ra mới có thể tự lập được.
Nhậm
cười mà rằng:
- Ông
hãy cứ làm, không cần lo xa. Có tôi ở đây, bọn gian hùng dù muốn hại ông, cũng
quyết phải sợ mà không dám hành động. Đợi khi thượng công ra đây, tôi xin nói
giúp ông, ông sẽ được lên ngôi vua thật sự.
Sùng
nhượng công nghe nói, mừng lắm, bèn sắm sửa lễ vật tới yết nhà Thái-miếu, rồi
vào ở trong gian nhà phía tả điện Cần-chính, và cho Khôi đi tìm tất cả các quan
đến để bàn việc.
Trước
hết, Khôi tới nhà Lê Phiên. Phiên mắng rằng:
- Vua
phải chạy đã không đi theo, lại theo người ta mà lập vua khác. Lời nói ấy sao
còn đến tai ta làm gì?
Rồi
Phiên bỏ trốn lập tức.
Khôi lại
tới nhà viên tham tụng là Huy Bích. Bích từ chối không chịu gặp. Sùng nhượng
công bèn thảo tờ dụ các quan đại ý nói rằng:
"Năm
xưa đã nhường ngôi, quả không có lòng tham thiên hạ. Ngày nay tạm nắm quyền,
chỉ mong giữ việc tế tự. Những ai hiểu cho ý đó, thì nên tới họp tại
triều".
Nhưng
các quan văn, rốt cuộc chẳng một ai tới. Khôi liệu công việc chắc là không
thành, bèn bàn tính với một người bạn. Người ấy trả lời:
- Anh
nộp tiền để mua chút bằng sắc, triều không ngồi, tiệc không dự, mất nước không
phải tội lỗi của anh, được nước không phải trách nhiệm của anh, chẳng qua anh
muốn nhân lúc loạn lạc mưu đồ phú quí mà thôi. Nhưng Sùng nhượng công không
phải món hàng lạ có thể buôn bán được, Văn Nhậm lại là kẻ dã tâm khó lòng tin
cậy. Một mai Bắc bình vương đến, tai vạ thật là khó lường; mà sau này vua Chiêu
thống trở về, anh cũng không có chỗ nào để dung thân nữa. Tục ngữ có câu:
"ở yên chẳng muốn, muốn chui đầu vào chum để mua vạ". Chính là nói
hạng người như anh đó! Khôi sợ, bèn bỏ trốn.
Sùng
nhượng công ngồi trơ trong điện, chỉ có một vài hoàng thân và ba bốn tên võ
biền, sớm tối ở chung với nhau; còn mọi công việc đều không đến tay. Hàng ngày
hắn ta đi bộ đến phủ đường, chầu chực Văn Nhậm và hỏi cách xử trí, song Nhậm
cũng chẳng biết xử trí ra sao. Người kinh thành thấy vậy, đều gọi hắn ta là
"giám quốc lại mục" (viên thơ lại coi việc nước).
Lại nói,
Ngô Văn Sở từ khi nhận mật chỉ của Bắc bình vương và cùng Nhậm ra Bắc, lúc ở
trong quân thường vẫn dùng lời nói ngọt nhử Nhậm, để ngầm dò ý. Đến lúc này, Sở
bèn bảo Nhậm rằng:
- Chúng
tôi vâng mệnh theo ông đánh dẹp, giặc Chỉnh đã bị giết, nhưng dư đảng của y ở
vùng đông nam vẫn chưa dẹp yên, vua Lê vẫn còn chạy trốn ở ngoài, mà các quan
cũng đều lẩn tránh. Nay ông cho Sùng nhượng công làm giám quốc, nhưng tôi xem
lão ấy chỉ là phường a dua không được tích sự gì, rốt cuộc chỉ là một cục thịt
trong cái túi da, làm sao mà sai khiến được kẻ khác? Từ khi có nước Nam tới
nay, triều đại thay đổi không biết là mấy lần rồi. Thiên hạ nào phải là của
riêng ai. Liệu có thể lấy được thì cứ lấy đi, rồi đặt quan, chia chức để xây
dựng phên giậu, làm cho tai mắt của mọi người đều được một phen đổi mới. Nếu có
kẻ nào lấy trộm danh nghĩa (ý nói những kẻ mượn tiếng phò Lê) thì cứ bảo là
giặc, rồi đem quân tới đánh, ai dám chống lại? Việc gì mà phải mượn đứa tôi đòi
ngoài chợ trông coi việc nước, để hắn sắm vai ông chủ "tượng đất"
trong vườn; còn mình thì cứ đóng mãi trong thành, làm tụi lính khách ở trọ nước
ngoài? Nhậm nói:
- Bọn
Nhưỡng, Tuyển chẳng qua hơi tàn thoi thóp; nắm lấy cánh tay tự nhiên phải đến.
Vả ta xem bọn bề tôi nhà Lê chẳng có mặt nào như Điền Đan nước Tề, Vân Trường
nhà Hán (Điền Đan là người họ vua Tề đời Chiến quốc; Vân Trường tức tên tự của
Quan Vũ, là bạn kết nghĩa của Lưu Bị thời Tam Quốc. Hai người đều có tài trong
việc đánh dẹp và giúp nhà vua khôi phục đất nước); chẳng qua họ sợ binh oai của
ta, nên sớm chiều dùng dắng đó thôi. Nếu ta hạ một cái bảng, hẹn ngày phải tới
cửa quân, không tới thì chém, chắc là chúng sẽ cởi áo mang roi đến xin chịu
tội. Điều đó không phải là việc đáng lo. Chỉ vì lòng người đất Bắc còn nhớ họ
Lê, không thể không chiều theo lòng mong mỏi của mọi người. Mượn hắn ra làm pho
tượng gỗ, là cốt để chia rẽ đồ đảng của Chiêu thống, và ràng buộc lòng dân Bắc
Hà đó mà thôi. Chỗ đó không phải chỗ lũ các ông có thể biết được! Các ông khoẻ
sức đánh trận, ta sẽ giao cho các ông chia đường tiến đánh, rồi giữ lấy đất,
làm bức trường thành cho ta, há chẳng tốt ư? Đến lúc đó, cuộc thế xoay vần, tự
nhiên có nhiều việc hay, đường đường làm chủ không phải ta thì còn ai? Cần gì
mà phải làm khách?
Sở im
lặng ra về, rồi bảo với Lân rằng:
- Lão
tiết chế thật khinh người quá. Hắn có tài đức, trí lược gì mà dám coi bọn ta là
tụi lính tráng? Xem hắn từ khi vào thành đến nay, đã làm được việc gì? Thúc ép
dân phải gấp rút đắp luỹ và phò Lê Duy Cận làm giám quốc, đều là sắp sẵn cái
mưu làm phản, để hòng tranh giành với chủ ta. Đã không biết lấy giặc Chỉnh làm
răn, trở lại muốn bắt chước nó. Không muốn sống lại muốn chết, thì cứ cho hắn
đi theo Chỉnh, để răn những kẻ khác!
Sở bèn
lượm lặt các việc làm của Nhậm, cho là tội trạng làm phản, lấy Lân làm chứng,
rồi ngầm sai người về Nam báo với Bắc bình vương (theo Cương mục thì Nhậm có
làm những việc trái phép, như tự đúc ấn chương, chuyên quyền trong việc cất
nhắc, xếp đặt quan chức, v.v... Nhưng bên cạnh đó, Sở vốn có hiềm khích với
Nhậm, nên đã dâng mật thư vu oan cho Nhậm làm phản). Bắc bình vương nói:
- Thằng
Võ Văn Nhậm đáng chết thật! Ta vẫn biết hắn thế nào rồi cũng làm phản, quả
nhiên không sai.
Tức thì
Bắc bình vương hạ lệnh tiến ra Bắc, đốc thúc các quân bộ và quân kỵ mã ngày đêm
đi gấp. Chừng hơn mười ngày, đến thành Thăng Long. Bấy giờ đồng hồ vừa nhỏ giọt
xuống đến trống canh tư, Nhậm đang ngủ say trong phủ. Sở được tin, liền dặn
người do Bắc bình vương sai đến phải giấu kín việc ấy, không được báo cho Nhậm
biết; rồi sai người ngấm ngầm ra ngoài thành đón Bắc bình vương. Người nhà và
người xung quanh Nhậm cũng đều không ai biết gì. Chốc lát, Bắc bình vương vào
thành, đến thẳng chỗ Nhậm nằm, Nhậm cũng vẫn chưa biết. Bắc bình vương liền sai
võ sĩ là Hoàng Văn Lợi đâm chết Nhậm rồi khênh xác ra sau phủ đường (cũng theo
Cương mục, lúc Nguyễn Huệ đến, Nhậm ra ngoài thành đón, Nguyễn Huệ liền nhường
ngựa đang cưỡi và lọng che cho Nhậm vào thành, lại an ủi vỗ về ôn tồn. Sau đó,
Nguyễn Huệ mới bắt Nhậm đem tra khảo và giết chết).
Mờ sáng,
Bắc bình vương truyền lệnh cho Sở làm chức đại tư mã, thống lĩnh quân đội thay
Nhậm, lúc đó quân lính mới biết.
Hôm ấy,
Bắc bình vương cắt đặt lại quan chức: Đô đốc nghĩa hoà hầu làm trấn thủ trấn
Sơn Nam; Lôi quang hầu (có bản chép Tuyết quang hầu) làm trấn thủ trấn Sơn Tây;
Nguyệt quang hầu làm trấn thủ trấn Kinh Bắc; Hám hổ hầu (có bản chép Hô hổ hầu)
làm trấn thủ trấn Hải Dương. Còn Giác hoà hầu coi giữ bộ Hình, chánh ngôn hầu
coi bộ Hộ, Ước thiện hầu coi bộ Lễ, Lộc tài hầu coi bộ Lại, và đều kiêm nhiệm
chức hiệp trấn. Bắc bình vương lại bảo họ tiến cử những người mà họ hiểu biết,
chia ra cho làm quan ở các huyện. Võ thì chia ra chức suất, chức nội; văn thì
chia ra chức tri, chức ngoại. Cả sáu trấn (theo Dụ am văn tập, dưới triều Tây
Sơn, các trấn ở Bắc Hà được chia lại thành 7 nội trấn và 6 ngoại trấn. Đây là 6
ngoại trấn: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Yên Quảng)
đều do Sở tuỳ theo tài năng mà cắt đặt người, sau đó bẩm lên xin cấp văn bằng,
rồi cho ai nấy lĩnh quân bản bộ về trấn của mình. Bắc bình vương lại hạ chỉ vẫn
để con thứ tư của tiên hoàng nhà Lê là Lê Duy Cận làm giám quốc, coi việc tế
tự, và cho đòi hết thảy các quan văn võ phải tới cửa khuyết, chực sẵn ở nhà bộ
Lễ, rồi theo viên lễ quan là Võ Văn Ước vào yết kiến.
Bấy giờ
viên quan văn là Ngô Thì Nhậm vào yết kiến trước, Ước tưởng lầm là hoàng tử nhà
Lê, liền mời cùng ngồi với mình. Tiếp đó, bọn Lê Phiên đến, đều lạy ở dưới sân,
Ngô Thì Nhậm trong bụng rất áy náy, vội đứng dậy đi ra. Ước lấy làm lạ không
biết là ai, bèn hỏi:
- Người
vừa ngồi đây là ai thế? Có người trả lời:
- Văn
ban Ngô Thì Nhậm đấy! Ước giận mà rằng:
- Ta
vâng mệnh cai quản tất cả, sao lại được vô lễ như vậy? Rồi Ước tức tốc sai
người theo bắt.
Ngô Thì
Nhậm đã biết trước chuyện đó, nên lúc ra, vội vàng trốn tránh ngay. Đến tối,
Nhậm vào yết kiến viên trung thư lệnh Kỷ lễ hầu là Trần Văn Kỷ. Kỷ người Thuận
Hoá, vốn có văn học, là bậc danh sĩ ở Nam Hà. Năm Đinh dậu (1777) niên hiệu
Cảnh hưng, Kỷ thi ở trấn đậu giải nguyên. Năm Mậu tuất (1778), Kỷ tới kinh thi
hội, sĩ phu ở Bắc Hà, Kỷ có giao thiệp quen biết ít nhiều. Năm Bính ngọ (1786),
Bắc bình vương đánh lấy thành Phú Xuân, sai người tìm Kỷ hỏi việc Nam, Bắc. Kỷ
đối đáp rất nhanh và rất hợp ý, nên Bắc bình vương rất trọng, cho ở vào chỗ
"màn trướng" (nơi ở của bậc tướng soái), việc gì cũng bàn với Kỷ, lúc
nào cũng gần bên Kỷ, không mấy khi xa rời.
Lúc ấy
Ngô Thì Nhậm tới gặp Kỷ, nói rõ tình trạng mình xúc phạm tới Ước, sợ bị hãm hại
nên không dám đến, chứ không phải dám trốn tránh, rồi nhờ Kỷ giải cứu cho. Kỷ
nói:
- Nghe
ông là bậc kỳ tài, không may bị tiếng gièm pha, trốn tránh hơn năm sáu năm, sự
tích luỹ càng thêm tinh tuý. Nay ra ứng dụng với đời, chính là hợp thời. Tôi đã
đem tên ông trình với chúa thượng khen tài ông có thể dùng làm việc lớn. May
mắn nay được chúa thượng rủ lòng yêu mến, đã sai tôi tìm ông, vậy không phải
cần gì đến ông Ước!
Tức thì
Kỷ đưa Nhậm vào yết kiến Bắc bình vương. Bắc bình vương nói: Ngày trước, ngươi
vì chúa Trịnh không dung, một mình bỏ nước mà đi. Nếu ta không đến đây, ngươi
làm sao được thấy bóng mặt trời? Có nhẽ đó là ý trời muốn để dành người tài cho
ta dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp, thế là được.
Ngô Thì
Nhậm rập đầu tạ ơn. Bắc bình vương ngoảnh lại bảo Kỷ:
- Đây là
người do ta gây dựng lại, nên thảo ngay tờ chế phong làm chức tả thị lang bộ
Lại, tước Tình phái hầu, cùng với Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà
Lê.
Hôm sau
các quan lục tục kéo đến, lễ quan đưa vào lạy ở điện Chính trung. Bắc bình
vương đòi hết lên sảnh đường mà bảo:
- Vua Lê
do ta lập lên, nhưng là người tối tăm nhu nhược, không thể gánh nổi công việc.
Sau khi ta về Nam, liền bị Nguyễn Hữu Chỉnh sai khiến tự rước lấy bại vong, đất
nước này dù ta không lấy thì cũng bị người khác lấy mất. Nay ta để Sùng nhượng
công làm giám quốc, các ngươi hãy cố gắng ở lại giúp đỡ ông ta. Ta thật không
muốn lấy Bắc Hà để kiếm lợi, nay mai lại sắp về Nam. Nhưng vì sợ tự hoàng tranh
giành cùng giám quốc, thành ra ta làm ơn mà lại hoá ra gây loạn cho họ, nên ta
phải để viên đại tư mã là Ngô Văn Sở ở lại trông nom việc binh, chờ khi bốn cõi
tạm yên, ta sẽ gọi về. Trăm quan từ giã lui ra, rồi nói riêng với nhau:
- Bắc
bình vương tạm dùng lời nói ngọt để giá ngự chúng ta, chứ không phải thật bụng.
Văn Sở cầm quân ở đây, thì Sùng nhượng công làm gì mà có nước? Hễ cử động gì
liền bị họ nắm lấy cánh tay, ông ấy còn làm được chi?
Ví như
cây tầm gửi, bám vào cành cây khác, rễ không bén đất, sống lâu dài làm sao
được? Chúng ta, người nào có thể đi theo vua lo việc khôi phục thì đi đi, nếu
không thì nên ẩn xa cho sạch mình, chớ để cho người ta lừa phỉnh mà rước lấy
vạ.
Sùng
nhượng công cũng biết như thế, nên đã phải than rằng:
- Ta nay
tiếng là làm giám quốc, thật ra chỉ là một ông từ giữ đền. Nhưng vì miếu xã ở
cả đây, bỏ đi thì đi đâu? Thôi thì cũng đành cam lòng như thế, không hối hận gì
nữa vậy!
Qua vài
ngày, Bắc bình vương dẫn quân về Nam. Trước khi lên đường, vương chọn năm sáu
viên văn thần là bọn Phan Huy ích, Nguyễn Thế Lịch, Ninh Tốn, Nguyễn Bá Lan...,
phong cho quan tước: ích làm chức tả thị lang bộ Hộ, tước Thuỵ nham hầu, được
đưa về Nam (bản chữ Hán chép cả Ngô Thì Nhậm cũng được đưa về Nam; đó là chép
lầm). Còn bọn Lịch, Tốn, Lan..., thì đều được phong chức hàn lâm trực học sĩ,
theo đại tư mã Sở ở lại đất Bắc. Nguyễn Hoàn và Phan Lê Phiên đều xin về dưỡng
nhàn, nhưng vẫn được Bắc bình vương cho giữ nguyên chức tước, và sai bộ Lễ cấp
phát giấy tờ cho họ trở về làng xóm. Tham tụng là Bùi Huy Bích, thiêm đô là
Nguyễn Huy Trạc đều có đến kinh, nhưng không chịu cho dẫn vào lạy chào. Rồi
đang đêm Bích trốn, còn Trạc thì tự tử ở đài Ngự-sử.
Những
người trốn tránh không chịu ra thì có phó đô ngự sử Nguyễn Đình Giản, tham tri
chính sự Lê Duy Đản, Phạm Đình Dư, đồng xu mật viện Nguyễn Duy Hạp, Phạm Trọng
Huyến, thiêm sai công phiên Phạm Quí Thích, đô cấp sự trung Nguyễn Đình Tứ, tất
cả chỉ có bảy người mà thôi (theo Cương mục, thì số người này gồm tám viên, mà
có một số tên khác hẳn đây).
Lại nói,
bấy giờ vua Lê đang ở huyện Lang Tài, lại dời đến huyện Chí Linh. Các quan biết
chỗ vua ở, nhiều người đến theo. Lê Ban ở Giáp Sơn (cũng gọi Hiệp Sơn, nay là
đất huyện Kinh Môn, Hải Dương (Hải Hưng)) đem một trăm người nghĩa dũng đến yết
kiến. Vua mừng lắm, phong cho làm chức ngự doanh sứ, tước trung nhạc hầu.
Ban nói
kín với vua rằng:
- Trước
đây, thần về Nghệ An, thấy nhân tình rất là căm phẫn, ghét Tây Sơn như cừu thù,
nhiều người đã nhóm họp ở rừng núi để cùng lo việc khởi nghĩa. Các bậc phụ lão
nghe tin thần ở Bắc vào, đều lần lượt đến hỏi nhà vua ở đâu, muốn cho con em đi
theo. Nhân thể, thần mới cùng đi với họ. Dọc đường qua cửa biển, thần lấy điều
nghĩa khuyên dụ, nhiều người xin đem thuyền qua biển, hẹn nhau họp ở ngoài khơi
phủ Kinh Môn (địa bàn phủ Kinh Môn (Hải Dương) đời Lê rất rộng, gồm cả một số
huyện của Quảng Yên và Kiến An hiện nay). Gần đây, thần được tin báo rằng: hiện
có chừng hơn bảy chục chiếc thuyền và hơn ba trăm thuỷ thủ, khí giới lương thực
đầy đủ, ít hôm nữa sẽ đến. Vậy xin xa giá ngự ra Giáp Sơn, hạ chiếu cho Trần Quang
Châu đem quân bản bộ hộ vệ. Quân bộ do Châu thống lĩnh; mặt thuỷ thần xin đảm
đương. Hai cánh quân nương tựa lẫn nhau. Trước hãy khôi phục trấn Hải Dương để
làm nơi xa giá tạm nghỉ. Trấn ấy phía bắc có thể khống chế các huyện Từ Sơn,
Thuận Thành; phía nam thông với các phủ Thái Bình, Kiến Xương, theo đường Yên
Quảng có thể đến thẳng Cao Bằng, và kéo luôn sang vùng Lạng Sơn. Cơ trung hưng
không còn cách nào khác nữa.
Vua Lê
nghe theo, bèn hạ chiếu cho Châu làm chức đốc chiến ở đạo Kinh Bắc
Quân
chưa kịp tiến, thì vừa gặp lúc Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương dâng tờ biểu xin
theo đi đánh trận. Mọi người nghe tin, nói nhao lên rằng: "Nhưỡng là một
thằng chẳng ra làm sao. Bảo là có nghĩa ư? Trước đây hắn đã toan giúp nhà chúa
để chống lại mệnh lệnh nhà vua, lúc đầu phò quận Thuỵ, sau lại theo chúa án đô.
Đến khi quận Thuỵ làm không nên việc và án đô bị thất bại, hắn đều bỏ đi không
nhìn. Bất nghĩa đến thế là cùng! Bảo là có tài ư? Chính hắn đã hai lần cầm quân
chống giặc, thì một lần thua ở Kim Động, một lần thua ở Ngô Đồng, chỉ chạy
thoát được cái thân, không chết là may đấy thôi! Xem một đời hắn, toàn không có
nghĩa khí, lại không có tài chiến đấu, chỉ cậy thế con nhà tướng, quen dùng khí
thế đè nén người ta. Khi hắn mới về Hải Dương, thả bộ hạ cướp bóc trong xứ.
Người ta coi hắn là giống diều quạ gian giảo và gọi là giặc Nhưỡng. Hào mục các
huyện đã viết thư cho nhau kể tội các của hắn. Họ đã họp nhau trong làng Lai
Cách, huyện Cẩm Giàng, hẹn nhau đến đánh phá Hàm Giang. Nhưỡng phải lui quân về
huyện Bình Giang. Rồi nhân lúc ban đêm, kéo đến làng Lai Cách, giết hại không
biết bao nhiêu người mà kể, đến nỗi thây nằm ngổn ngang đầy đồng. Sự tàn nhẫn
của hắn như vậy, nên người Hải Dương ai cũng coi hắn là kẻ thù. Nay dung nạp
hắn, chẳng những vô ích mà còn mất lòng nhân dân Hải Dương; thật là thất sách!".
Vua Lê
cũng từng nghe tin: Nhưỡng bị mọi người không dùng đã ngấm ngầm đưa thư xin
hàng Tây Sơn, nên lúc này cũng nghi ngờ không cho Nhưỡng theo đi đánh.
Các hào
mục ở trấn Hải Dương nghe tin vua sang xứ đông, đều dâng tờ biểu, quyết xin
đánh Nhưỡng.
Vì thế,
Nhưỡng bối rối quá, tính không còn chỗ nào để dung thân liền phát cáu mà nói
rằng:
- Vua đã
không thương ta, ta còn cần gì vị nể vua?
Rồi
Nhưỡng sai tên đồ đảng của y là Trần Liên đến Thăng Long ngấm ngầm tố cáo chỗ
vua ở, và xin Văn Sở sai quân đi bắt. Ban đầu, Liên nghe tin vua lén lút ở
trong nhà dân, chỉ có sáu bảy người theo, bèn báo cho Sở biết. Sở hỏi cặn kẽ,
Liên vẽ rõ đường đi cùng chỗ ở của vua, rồi nói:
- Ví như
vào chùa trói một lão trọc lôi đi mà thôi!
Sở cười
mà rằng:
- Nếu
quả như lời ngươi nói, sao ngươi không lôi cổ đến đây cho ta, còn xin quân làm
gì?
Liên
đáp:
- Lôi
ông ta đi chẳng qua chỉ một tên lính cũng đủ, nhưng chúng tôi còn sợ danh
nghĩa, nên không dám làm. Việc ấy cố nhiên là việc dễ, nhưng lại khó đối với
người trong nước, xin ngài xét cho chỗ đó!
Sở tin
là thật, liền sai một trăm tên lính cùng đi với Liên. Không ngờ lúc ấy, Trần
Quang Châu và Lê Ban đã đến chỗ vua ở, và quân lính bảo vệ cũng không ít. Đêm
ấy nghe báo quân Tây Sơn vượt núi mà đến, hai người bèn chia hai đường đánh dồn
lại, và giết chết sạch. Liên chạy trốn vào hang núi được thoát, rồi chạy về
Thăng Long báo tin. Văn Sở lập tức cho một đạo quân lớn đi đuổi vua Lê (theo
Cương mục, thì Đinh Tích Nhưỡng đã đến vây đánh vua Lê hơn một tháng. Sau có
hai người ở Hải Dương là Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú đến cứu vua, chém giết hai
người em của Nhưỡng. Nhưỡng mới phải bỏ chạy). Vua mới đến Giáp Sơn, các đạo
quân cần vương còn chưa nhóm họp được hết. Chợt nghe tin quân địch sắp đến,
Nhưỡng làm hướng đạo. Mọi người đều run sợ nói nhao nhao lên rằng: "Nhưỡng
mà thông đồng với giặc thì Hải Dương không thể ở được". Châu xin vua lại
về huyện Chí Linh. Ban thì xin vua đi Yên Quảng. Mọi người đang bàn bạc phân
vân chưa quyết, thì vừa lúc Trương Đăng Quĩ và người con là Trương Đăng Thụ cưỡi
chiếc thuyền biển từ phủ Kiến Xương đến yết kiến vua. Thấy thế, Quĩ bèn nói:
- Chí
Linh là nơi đồi núi gập ghềnh, tắt ngang sang Gia Bình thì lại là đồng ruộng
mênh mông. Ta quân ít sức hèn, đánh hay giữ đều không tiện. Còn Yên Quảng thì
lại giáp với Hải Dương, đường sông, vũng biển, đều là cửa ngõ ra vào của
Nhưỡng. Hắn đã ăn ở hai lòng, thì đó cũng không phải chỗ yên lành có thể trú
ngụ. Trấn Sơn Nam đất tốt dân đông, đinh tráng có thể luyện làm quân lính, thóc
gạo có thể trưng làm lương thực, sông ngòi chằng chịt như mạng nhện, cưỡi một
chiếc thuyền, bỏ chỗ nọ đến chỗ kia, chẳng ai còn biết lối nào mà tìm. Bệ hạ
đang lúc như con rồng ẩn bóng, không đâu yên ổn bằng đấy.
Vua theo
lời Quĩ, bèn quyết ý dời về phía nam. Còn lời bàn của Châu và Ban thì vua đều
không nghe. Rồi đó, vua yên uỷ hai người, sai Châu dẫn quân về Bắc, Ban thì đem
thuyền biển lui về Biện Sơn (núi Biện Sơn ở vùng biển huyện Tĩnh Gia, Thanh
Hoá), chờ lệnh trưng phát. Thế là quân cần vương tan tác đi ra bốn phía, còn
vua thì đi về phía nam.
Lúc tới
nơi, vua đóng ở huyện Chân Định, dùng nhà Đăng Quĩ làm nơi hành tại. Quĩ đưa
con em và người trong họ tới lạy chào, vua đều ban cho quan tước, sai họ chia
nhau đi các làng, các huyện chiêu mộ quân nghĩa dũng. Xa gần nô nức hưởng ứng,
đều xin họp quân cần vương, hẹn ngày cùng đến, thuyền bè kể có hàng nghìn, quân
lính có tới vài vạn. Các tay hào mục đều đến, vua tự mình ra yên uỷ họ. Rồi sai
Đăng Quĩ chia quân làm năm đạo, trong từng đạo lại đặt ra các chức thống lệnh,
đốc chiến, tham quân, đốc hướng mỗi chức một viên, lập thành cơ đội, chờ ngày
xuất phát. Viên nội hàn là Lê Xuân Hạp bảo Đăng Thụ rằng:
- Quân
lữ là việc lớn, không thể khinh suất. Trước hết nên điểm số quân, kén lấy người
cường tráng sung làm chiến sĩ, cứ năm chục người làm một đội, năm đội làm một
cơ, năm cơ làm một đạo, do viên thống đạo đốc suất. Những người còn lại thì để
dùng vào việc chuyên chở và sai khiến, chớ để quân lính không tinh nhuệ lẫn lộn
vào, tiếng là có số mà vô dụng. Nay nên kê rõ danh sách, dẫn vào bái mạng, để nhà
vua ban cho binh phù, trao cho quân luật. Viên thống đạo vâng mệnh lệnh triều
đình; các cơ đội thì chịu sự tiết chế của viên thống đạo. Người nào tuân theo
mệnh lệnh thì có trọng thưởng; người nào không nghe mệnh lệnh thì bị tội chém.
Sao cho quân lính đều hăng hái và biết khuôn phép, sau đó mới có thể đưa ra
trận mạc. Binh là việc dữ, chiến là việc nguy, không phải là trò trẻ con.
Thụ nói:
- Ngày
nay chính là lúc đang cần gấp rút thu phục lòng người, mọi việc hãy tạm giản
dị, chưa thể buộc ngay họ vào khuôn phép được!
Hạp nói:
- Thu
nạp được nhiều người mà dùng không được chỉ sợ họ thấy giặc là chạy, rồi lại
còn giày xéo lẫn nhau nữa, thì dù nhiều cũng chẳng làm gì. Sao không nghĩ đến
việc cụ lớn đại thần nhà ta đã cố sức khuyên nhà vua qua sứ Sơn Nam, ông là con
ngài, vâng mệnh cầm quân, vạn nhất mà bị vấp ngã, tội ấy tại ai?
Thụ
không nghe, chỉ gọi các hào mục đến mà phân phái bằng miệng, tuyệt nhiên không
có sổ sách gì để có thể tra cứu. Bởi vậy, đến khi có việc cần sai khiến, Thụ
đều lờ mờ không biết đâu mà lần, đến nỗi phải chạy đi hỏi lăng xăng khắp nơi,
trong quân ngũ chẳng còn có kỷ luật gì nữa. Quĩ cũng không biết, gọi Thụ hỏi về
việc quân thì Thụ thưa:
- Các
đạo nay đã tề tựu, quân số rất nhiều, ai cũng hăng hái đánh giặc. Xin đánh một
trận để lập công!
Quĩ cho
là phải, tâu xin chọn ngày xuất quân. Vua có ý ngần ngại mà rằng:
- Ta
nghe những người giỏi về chiến trận, trước hết phải lo đến việc thua, rồi sau
mới thắng được người. Nay ta xem thuyền bè thì đều là thuyền câu, thuyền chài,
quân lính thì đều là những kẻ chợ búa ô hợp, dùng quân ấy mà đánh, có chắc là
không bị thua chăng? Nghĩ đến cái cảnh sau lúc trốn chạy, cùng một và người bề
tôi lo việc dựng lại cơ nghiệp, thì trẫm dù không thể khôi phục được xă tắc
cũng quyết chết với xã tắc, thề đánh nhau với giặc đến cùng, chớ có sợ gì xuất
quân? Nhưng trẫm muốn làm việc gì cũng phải tính kế vạn toàn, ngõ hầu khỏi mang
tiếng là vì khinh suất, vội vàng mà chuốc lấy vạ bại vong.
Quĩ
ngoảnh lại bảo Thụ:
- Thánh
thượng bảo như vậy, con nghĩ thế nào? Thụ nói:
- Ngày
nay, điều mà mình trông cậy, ấy là lòng người. Mọi người ai cũng kính mến ơn
đức của thánh thượng, căm thù với giặc, nguyện xin đánh một trận lớn, giết cho
hết giặc. Lòng người như thế, đánh đâu không tan? Đẽo cây gậy có thể quật ngã
được nước Sở, dựng ngọn tre có thể làm mất nhà Tần (trong sách Mạnh tử, lời
Mạnh tử nói với Lương Huệ vương có câu: Chế đình khả dĩ thát Tần, Sở chi kiên
giáp lợi binh, nghĩa là đẽo cây gậy có thể đánh bạt giáp bền gươm sắc của quân
Tần, Sở. Theo Bắc sử, cuối đời Tần, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi binh, chỉ dùng
cây cối làm gươm dáo, dựng ngọn tre lên làm cờ mà đánh bại quân Tần); huống chi
số quân này và số thuyền này, há không đủ giết chết quân giặc hay sao? Nếu cứ
muốn quân lính quen thạo trận mạc, thuyền bè phải đủ lầu gác, thì trước đây
quận Thạc, quận Nhưỡng đều là những viên tướng trải qua trăm trận, lính thuỷ bộ
các doanh mà họ thống lĩnh đều là quân tinh nhuệ, hùng dũng, sao cũng không thể
thành công mà lại phải tan vỡ? Vậy thần xin thả thuyền ngược dòng mà lên, quyết
chiến với giặc. Xe nhà vua tới sông, quân sĩ hăng lên gấp trăm, chẳng qua năm
ngày, có thể lấy lại kinh thành. Cơ hội này không nên bỏ lỡ! Vừa lúc ấy Nguyễn
Viết Tuyển đưa binh thuyền đến đón vua. Nhân thế, Đăng Quĩ khuyên nhà vua cho
xuất quân.
Nguyên
trước, Tuyển là người cùng huyện với Hữu Chỉnh, làm bộ tướng của Chỉnh, cùng
với Chỉnh vượt biển vào với Tây Sơn, xông pha những nơi nguy hiểm, không hề rời
bên cạnh Chỉnh. Đến lúc Chỉnh về nước và đắc chí, liền tiến Tuyển với vua, nói
là tài Tuyển có thể đương nổi một mặt. Vua bèn hạ chiếu cho Tuyển làm trấn thủ
trấn Sơn Nam, thống lĩnh năm ngàn lính bộ và bảy chục chiến thuyền.
Tuyển
giỏi về thuỷ chiến, nên khi Chỉnh có hiềm khích với Tây Sơn, sợ Văn Nhậm lợi
dụng lúc sơ hở mà đi đường biển đến, Chỉnh bèn sai Tuyển đóng đồn ở cửa biển
Đại Hoàng, đem quân đi tuần ngoài biển để dò la tin địch. Đến lúc kinh sư tan
vỡ, Chỉnh đưa vua chạy sang Kinh Bắc, Tuyển không được biết. Sau đó tin báo đến
nơi, Tuyển mới lật đật ở biển rút về trấn, mưu đóng giữ đất ấy để chống với
địch. Văn Nhậm đã có lần đánh Tuyển, nhưng không hạ được. Đến khi Văn Sở lên
thay Nhậm, muốn dỗ Tuyển về hàng, bèn sai người vào Nghệ An, bắt cha và vợ
Tuyển ra Thăng Long. Rồi sai vợ Tuyển cầm thư cha Tuyển viết để dụ Tuyển, đồng
thời lại đưa tin rằng: "Nếu Tuyển không mau mau đầu hàng, thì sẽ giết
cha!".
Tuyển
lấy thư của cha, khóc và nói:
- Đời
người có ba đấng bề trên thì hoàng thượng là vua ta, Bằng công là thầy ta; mệnh
cha không dám không theo, nhưng thù của vua và thầy không thể không trả. Giả sử
đầu hàng mà được trọn đạo nuôi cha, trở về quê hương họ hàng làm người nông dân
huyện Chân Phúc cho hết đời, thì dù được đằng nọ mất đằng kia, ta cũng cam
lòng. Song chỉ sợ bị lừa dối, rơi vào tay quân độc ác, cả mình ta cũng bị nó
giết hại, thì trung hiếu đều hỏng, để tiếng cười cho ngàn đời, làm kẻ ngu dại
trong thiên hạ, như thế rất là không nên.
Rồi đó,
Tuyển dặn vợ trở về từ tạ với cha. Cha Tuyển được tin, biết Tuyển không có ý
cứu mình, bèn ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Đã
không có thể cầu sống với con thì còn xin sống với người khác làm gì? Giả sử nó
làm được như Vương Lăng (đời Hán, Vương Lăng là một tướng giỏi của Hán Cao-tổ;
khi Sở Hạng Vũ đánh nhau với Hán, bắt mẹ Vương Lăng, rồi buộc phải viết thư dụ
con về hàng, nhưng bà không chịu, tự ấn cổ vào mũi gươm mà chết để cho con một
lòng phò Hán), thì dù có chết như bà mẹ Lăng, ta cũng không hối tiếc. Nhưng ta
xem nó chỉ như con lợn, con chó, khó lòng mà làm được như thế. Chết khi chính
mắt trông thấy nó thất bại, thà rằng chết trước còn hơn!
Sở biết
ý ông ta, liền sai người canh giữ rất nghiêm ngặt, và nói:
- Tuyển
đã không có ý hàng, thì ta cũng không thể nuôi giặc.
Rồi Sở
tự đem quân đi đánh Tuyển, đưa cả cha và vợ Tuyển đi theo. Sở sai đại đô đốc
Nguyễn Văn Tuyết thống lĩnh thuỷ quân, còn mình thì thân hành đem bộ binh cùng
Phan Văn Lân chia làm hai cánh tả hữu, men theo hai bờ sông cái, cùng tiến lên.
Đến bến
Thanh Trì, Sở bắt được một tên do thám của Tuyển, tra hỏi thì y nói:
- Tuyển
chỉ có tám chục chiếc chiến thuyền, đóng ở cửa ải Hàm Tử, mà không có quân bộ.
Lương thực toàn lấy của dân, năm ngày một kỳ, nhưng cũng không được đều đặn.
Quân của Tuyển có khi buộc thuyền ở ven bờ sông, rồi vào nhà dân cướp bóc, mọi
người ai cũng chán ghét, thế không thể nào đóng lâu ở đấy được. Gần đây, Tuyển
lại sai đắp luỹ đất ở sông Hoàng Giang, đốc thúc công dịch rất gấp. Nghe đâu
ông ta sắp lui về đấy để làm chước cố thủ.
Nhờ vậy,
Sở biết rõ tình hình hư thực của Tuyển, liền bảo với Lân rằng:
- Quân
ta chuyến này bắt Tuyển như bắt đứa trẻ con, không khó gì cả!
Sở bèn
họp quân bộ, chia làm hai đạo, nhân đêm tối tiến về phía nam, vòng ra sau quân
Tuyển, phục kích ở hai bên bờ sông, đợi khi thuỷ quân giao chiến với quân Tuyển
và nghe thấy tiếng súng nổ, thì lập tức giục trống, hò reo xông lên, hai cánh
cùng nhắm thuyền quân của Tuyển mà bắn.
Rồi đó,
hai bên giao chiến ở vùng huyện Kim Động, quân Tuyển bất lợi, phải theo nước
xuôi chèo gấp về nam. Sở thừa thế vẫy quân đuổi theo. Đến sông Hoàng Giang,
quân Tuyển dựa vào luỹ đất để giữ thế thủ, hai mặt thuỷ bộ nương tựa lẫn nhau
để chống với quân Sở.
Lúc
Tuyển thua ở Kim Động, sĩ dân mạn xuôi đều chưa ai biết. Trông thấy thuyền bè
đầy sông, cờ quạt rợp trời, họ cho là quân Tuyển thế nào cũng thắng trận. Lại
nghe vua Lê ở Chân Định, Tuyển đã cho thuyền đi đón, xe vua sắp đến, nên ai
cũng nô nức mừng rỡ, tranh nhau đem đinh tráng, mở cờ gióng trống để đón quân
vua. Tuyển thấy dân tình như thế, nên mới dâng biểu tâu xin nhà vua ngự ra coi
quân. Đăng Quĩ cũng hết sức chủ trương việc nhà vua thân chinh. Vua Lê bất đắc
dĩ phải gắng gỏi nghe theo. Nhân dân vùng ven sông trông thấy tàn lọng nhà vua,
đều xúm xít trên bờ, chen chúc đứng xem chật như nêm cối. Ai nấy đều nói:
"Vua ta đến đấy!" Rồi bảo nhau vái lia lịa và tung hô "vạn
tuế".
Xe vua
đi sang hướng bắc, đến sông Ngô Đồng, chợt thấy một người hớt hơ hớt hải chạy
về phía nam. Quân lính liền bắt lại, hỏi cớ sao mà chạy. Người ấy miệng run cầm
cập, không thể nói được, chỉ giơ ngón tay trỏ về một làng ở đằng xa, hồi lâu
mới đáp: - Giặc... đến... nơi... rồi!
Mọi người
cùng lên trên cao mà nhìn thì thấy thấp thoáng ở trong đám cây cối um tùm, có
một toán quân đang từ phía tây đi tới, cờ quạt khi mờ khi tỏ. Ai nấy đều nói:
"Đúng là bộ dạng quân Tây Sơn". Họ vội vàng xuống thuyền, tâu rõ với
vua. Vua nói:
- Quân
Tuyển đóng ở phía trước, quân giặc sao lại vượt qua mà đến đây được?
Rồi nhà
vua sai Xuân Hạp lên bờ, dùng ống viễn kính để xem. Hạp xem đúng là quân Tây
Sơn, nhưng sợ quân sĩ kinh sợ, bèn trở lại tâu rằng:
- Bộ
dạng toán quân ấy chưa được rõ ràng, nhưng quân Tây Sơn xuất quỷ nhập thần, rất
là khó lường. Đề phòng việc bất trắc, đó là phép đời xưa. Vậy xin tạm dời
thuyền ngự sang bờ bên đông xem sao?
Vua cho
là phải.
Thì ra
lúc bắt đầu đi đánh Tuyển, Sở đã dùng thuỷ quân thẳng theo dòng sông xuôi xuống
làm chính binh; lại ngầm sai đô đốc Nguyễn Văn Hoà lĩnh đạo khinh binh do đường
Bình Lục, Thiên Thuỷ vòng lại làm kỳ binh, để đánh úp phía sau. Nhưng Tuyển
không hề biết.
Quân hai
bên đánh nhau mới được vài hiệp, Tuyển sai tướng sĩ đặt súng bảo long ở trên bờ
sông, để bắn quân địch. Chợt thấy quân địch trói cha và vợ Tuyển ở đầu thuyền,
rồi chèo thuyền vun vút xông lên phía trước. Tuyển trông thấy, khóc và nói:
- Con
bắn cha là trái với đạo trời!
Đoạn
Tuyển vội vã thét quân sĩ thôi bắn, và lui vào trong luỹ để cố thủ. Bỗng nghe
tiếng súng ầm ầm như sấm, khói lửa ngút trời, quân lính hoảng sợ, đều nói nhao
lên rằng: "Giặc đã chặn mất đường về rồi".
Họ bèn
bỏ chạy tan tác. Tuyển ngăn không nổi, liền cùng bộ hạ hơn trăm người nhằm phía
nam sông Hoàng Giang mà chạy.
Thuyền
vua Lê đóng ở bờ phía đông hồi lâu, sau nghe tin quân Tuyển thua trận, quân Tây
Sơn xông ra bốn phía, chém giết rất giữ dội, thì mọi người đều mất hết hồn vía,
bỏ cả thuyền bước vội lên bờ, cướp đường mà chạy. Nhà vua thấy vậy, liền thuận
theo dòng sông buông thuyền chạy về phía nam. Khi tới một ngã ba sông, không
biết đi về ngả nào, vua bèn sai gọi gấp Đăng Quĩ để hỏi, nhưng đã không thấy
Quĩ ở trên thuyền nữa.
Lúc ấy
gió bắc đang mạnh, vua sai giương buồm thẳng ra biển mà đi. Bốn bề mênh mang,
mù mịt, trời nước một màu, theo gió cưỡi sóng, lênh đênh trong biển khơi, việc
sống chết lúc ấy thật không biết đâu mà lường. Vua Lê ngước mắt lên trời mà
khấn rằng:
"Nếu
trời không muốn bảo tồn dòng dõi họ Lê, thì xin nguyện đi theo hải mã đến chỗ
Quảng lợi vương ở biển Nam Hải, không cần sống làm gì nữa".
Nói chưa
dứt lời, chợt thấy có một chòm núi, đột ngột hiện ra giữa những lớp sóng, sau
núi có chừng vài chục chiếc thuyền. Vua vội vàng hỏi người cầm lái, thì ra đã
đến hải phận Biện Sơn. Dần dần lại gần, thấy một người bận quần áo trận đứng ở
đầu thuyền, nhìn kỹ chính là Lê Ban.
Vua vừa
mừng vừa thẹn, chưa biết nói sao. Ban biết là thuyền vua, vội vàng đến bái yết.
Vua ứa nước mắt mà nói:
- Ta hối
không dùng kế của nhà ngươi, bị Trương Đăng Quĩ làm lỡ. Biết trước thế này, thà
ở Giáp Sơn mà thua, còn hơn là đến Chân Định mà thua, thêm một phen lặn lội,
chỉ tổ cho người ta chê cười. Nhưng thôi, cũng là việc đã rồi. Còn bây giờ thì
nên làm như thế nào?
Ban tâu:
- Thần
nghe nói: "Có lắm nạn mới dấy được nước, sự lo phiền mở rộng thánh
đức". Xin bệ hạ chớ vì thế mà nhụt chí. Thua được là việc thường của nhà
binh. Ví như đánh cờ, thua ván này bày ván khác, cố làm sao cho có nước cờ lạ
hơn người, quy mô sắp sẵn rồi, mới có thể ra mặt. Hiện nay thế giặc quá mạnh, ta
chưa chiếm được một mảnh đất nào, không thể đánh nhau với chúng. Thần xin bệ hạ
lên đường vào Lam Sơn là đất hưng vương của Thái tổ ngày xưa, lấy đó làm nơi
bảo vệ xa giá, rồi sai người truyền dụ các tù trưởng của dân mường mán. Họ đều
là dòng dõi phiên thần, ai mà chẳng hăng hái? Thêm vào đó, lại thu nhặt quân
hai xứ Thanh, Nghệ, họ đều là lính túc vệ thân cận xưa kia, ai là chẳng vui
lòng đi theo? Thế rồi theo đường ven núi, qua lại liên lạc với nhau. Quân ở ba
trấn Sơn Nam, Sơn Tây, Hưng Hoá xuôi dòng sông mà xuống, đột ngột từ trong núi
kéo ra. Một ngày kia cả ba đạo đồng thời nổi dậy, tiến thẳng đến đô thành. Cuộc
trung hưng của triều ta xưa kia, chính là dùng cách ấy.
Vua nghe
lời, liền theo đường bộ đi về vùng Lam Sơn, trấn Thanh Hoa. Rồi sai Ban qua đất
Thiên Quan (tên phủ, gồm đất các huyện Nho Quan, một phần huyện Gia Viễn (Ninh
Bình) và một phần huyện Lạc Sơn (Hoà Bình) ngày nay) dụ quận Thái; sai tôn thất
Duy Lan tới đất Phù Sùng dụ hai viên tù trưởng ở Tây Lĩnh.
Hai viên
tù trưởng này vừa mới qua lại hoà hảo với Tây Sơn, không dám trở mặt ngay, họ
đều nói:
- Chúng
tôi mấy đời nhờ ơn nặng của nhà nước, há dám không hết lòng? Nhưng mà kinh
doanh nghiệp lớn, ắt phải tích luỹ lâu năm mới thành, không thể làm xong ngay
trong khoảng mươi hôm. Đời xưa Hán Cao-tổ, Đường Thái-tông còn phải khó nhọc
đến năm sáu năm. Vậy xin lượng thánh xét kỹ, hãy cứ lấy Lam Sơn làm nơi ẩn náu,
thư thả để cho chúng tôi luyện tập quân mã, sắm sửa khí giới, thu góp lương
thực, sửa sang đường sá, rồi mới có thể vâng mệnh nhà vua được. Nếu muốn làm
gấp, e không phải sức của chúng tôi có thể làm nổi.
Lan về
nói với vua rằng:
- Chúng
nó thật không có lòng mộ nghĩa, nên tạm dùng lời thoái thác để cự tuyệt ta. Chỗ
này sơn lam chướng khí không thể ở lâu. Vậy xin bệ hạ sơm sớm lo liệu, đừng để
mất thì giờ vô ích.
Vua cho
là phải, bèn lập mưu thay quần áo như người thường, trở về Kinh Bắc, tạm trọ ở
phủ Lạng Giang, sau lại dời ra phủ Từ Sơn, ở nhà viên tham tri là Đình Dư. Do
đó, bọn Lê Đản, Doãn Lệ, Danh án, Vũ Chiêu, Vũ Trinh, Xuân Hạp lại lần lượt lui
tới chỗ vua ở. Vua cùng họ bàn mưu tính kế; Đình Dư nói:
- Nay bề
tôi nanh vuốt của nhà vua chỉ có ba người là Ban, Tuyển và Châu. Tuyển từ sau
khi thua ở Hoàng Giang, chạy về Nghệ An, nay không biết ở đâu? (theo Cương mục,
thì sau đó Tuyển ra Thăng Long xin hàng Ngô Văn Sở, bị Sở giết chết) Châu bị
Tây Sơn lùng bắt, lẩn trốn vào hang núi, không còn thì giờ lo toan công việc.
Ban vâng chỉ đi chiêu dụ, còn ở Thanh Hoa, cũng chưa có tin tức gì. Hiện nay bệ
hạ nương náu ở nơi thôn ổ, lũ thần đi lại luôn, sợ lâu dần có người biết, sẽ
xảy ra tai biến bất trắc. Chi bằng bệ hạ hãy đi lên Cao Bằng, Huy Túc hiện còn
hầu thái hậu ở đó. Trong thì dùng các phiên thần hộ vệ, ngoài thì dựa vào sự
cứu viện của thiên triều, ngõ hầu mới có thể làm được việc.
Vua nói:
- Trước
kia, ta đã sai Ngô Thì Chí lên Cao Bằng (ở trên nói đi Lạng Sơn, đây lại nói đi
Cao Bằng, có lẽ là chép lầm) để sắp đặt sẵn mọi việc. Nghe đâu Chí bị ốm giữa
đường, nay không biết ra sao?
Danh án
thưa:
- Chí bị
bệnh nặng, không đi được, phải cáng về huyện Gia Bình, rồi mất. Chúng thần nghe
tin, nhưng chưa kịp tâu.
Vua ứa
nước mắt, nói:
- Mất
một người bề tôi giỏi rồi đấy! Tiếc thay!
Rồi vua
bèn tự tay viết tờ chiếu, truy tặng Chí làm chức hàn lâm thị chế, tước Dụ trạch
bá, trao cho án và nói:
- Nhà
ngươi cầm tờ chiếu này đưa cho vợ con của ông ta, cho họ biết ý của trẫm.
Đản tiến
lên nói:
- Hiện
nay những kẻ thần dân theo giặc, đem hết tình hình nước nhà nói với chúng, cho
nên mình sắp mưu toan việc gì, thế nào chúng cũng biết trước. Thậm chí có kẻ
còn đưa giặc đến để bức bách nhà vua. Biến tự trong sinh ra, không chỉ có giặc
ngoài mà thôi. Vì thế mà việc ở Chí Linh và Giáp Sơn, cả hai lần đều không làm
nên chuyện; liền đó, việc ở Sơn Nam cũng vậy. Ngày nay chỉ còn có cách là sai
sứ sang cáo cấp với nhà Thanh, xin họ dàn quân sát biên giới nước ta, để hỏi
cái tội của quân Tây Sơn gây việc binh đao và bọn người trong nước theo giặc;
làm cho bọn giặc không thể ở yên, mà lũ phản nghịch cũng có phần sợ. Như vậy,
thì lòng mộ nghĩa của người ta mới được bền vững mà mưu cơ khôi phục mới khỏi
bị tiết lộ và khỏi bị phá rối. Vua cho là phải, bèn sai thảo bức thư, đưa trước
cho viên tổng đốc lưỡng Quảng (tức hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (Trung
Quốc)), đại lược nói rằng:
"Ba
trăm năm nay, nước chúng tôi nhờ đội oai đức của thiên triều, đời đời giữ chức
phiên phong, trong nước yên lặng. Chẳng may vận nước giữa chừng gặp buổi suy
vi, vua trước qua đời. Nguyễn Huệ Tây Sơn là rể nước tôi, quên ơn bội nghĩa,
nhân khi nguy biến, đánh người trong lúc có tang; lại chiếm cứ đất nước, để đến
nỗi người cháu nhà vua phải trốn chạy ra ngoài, chưa kịp sai sứ báo tang và xin
phong, thể lệ nhiều điều thiếu thốn. Nếu không tới cửa ải mà bày tỏ, e lại vì
thế mà mang tội. Vì vậy, nay xin bẩm rõ nguyên do, mong rằng quan lớn thương
tình kẻ ở xa, đề đạt giúp cho. Tôi đã có biểu trần tình, xin giao cho một người
đem đi, lại có chép một bản phụ, xin trình lên ngài xem. Vời trông thiên triều,
ví như trời che đất chở, xa gần không sót chỗ nào. Xét đến tấm lòng kính thuận
của các đời trước nhà tôi, và thương đến nỗi khổ yếu ớt, lang thang của tôi;
xin hãy truyền cho đem quân tới sát bờ cõi, đánh kẻ có tội, dẹp yên loạn lạc,
để gây dựng lại nước tôi. Muôn vàn lần nhờ ơn thiên triều, ơn đức của đại hoàng
đế không sao kể xiết, mà công giúp đỡ của quan lớn cũng sẽ cùng bền vũng với
núi sông của nước tôi vậy".
Thư thảo
xong, vua sai Đản và án sung chức chánh, phó sứ. Hai người đem vài kẻ thân tín
cùng đi, chỉ đội nón cũ, bận áo rách như người thường dân đi đường. Vua Lê tiễn
hai người đến vùng núi Bảo Lộc và dặn rằng:
- Đối
đáp ở đất nước người là chức trách của sứ thần. Chuyến đi này quan hệ đến sự
mất, còn của nước nhà và sự thành, bại của công việc. Các ngươi nên tuỳ cơ ứng
biến, đem cái tài học chất chứa lúc bình sinh mà thi thố ra việc làm. Tài kinh
luân ở ba tấc lưỡi, việc từ lệnh ấy không thể thiếu được. Các ngươi nên cố
gắng, cho xứng đáng với tấm lòng trông chờ của trẫm.
Hai
người lạy tạ rồi đi. Đản nói riêng với án rằng:
- Bọn ta
tiếng là bồi thần, thật ra chẳng khác gì kẻ vong mạng, ra đi lúi xùi chẳng có
ai đưa đón, trên đường thì nhiều sự cách trở, lại phải trèo leo vất vả trong
chốn núi rừng. Nếu chưa đến đất Trung Hoa mà đã bị quân giặc đuổi bắt, thì đó
chính là sự dở dang rất đáng lo ngại. Còn như đã tới được gần doanh của đốc bộ
lưỡng Quảng thì ta không còn lo gì nữa. án nói:
- Nếu
như lòng trời còn giúp xã tắc, chắc sẽ không có việc ấy, cần gì mà phải lo xa?
Có điều, từ khi nước ta có nước đến nay, trong việc đi lại với Trung Hoa tuy
rằng các đời sáng nghiệp và trung hưng cũng đã từng gặp cảnh gieo neo không
biết là bao nhiêu phen, nhưng mà kẻ bồi thần đi sứ, chưa có ai lại như chúng ta
ngày nay.
Nhân
thế, án làm bài thơ, trong có hai câu rằng: "Ngàn thuở còn truyền câu
chuyện lạ:
Sứ thần
áo rách, nón mê tàn
Rồi hai
người theo con đường tắt trong núi, qua cửa ải Lạng Sơn mà đi. Thật là:
Rời nước
một thân qua ải Hán Đau lòng hai mắt khóc sân Tần *
Chưa
biết hai người đi chuyến này ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
* Dịch ở
hai câu chữ Hán như sau: Thiên cổ do truyền kỳ tuyệt sự, Tệ soa tàn lạp sứ thần
trang)!
Đời Xuân
thu, nước Sở bị nước Ngô chiếm đóng, quan đại phu nước Sở là Thân Bao Tư sang
cầu cứu với nước Tần. Vua Tần không nghe, Bao Tư cứ đứng khóc ở sân luôn bảy
ngày đêm: sau đó vua Tần phải cho quân sang cứu Sở-Đây mượn ý đó để nói việc
bọn án sang cầu cứu nhà Thanh cũng khó khăn như vậy.
Hồi 12
Lê sứ thần qua đất Bắc xin quân
Tôn đốc bộ tới ải Nam truyền hịch.
Lại nói,
viên tham tri chính sự Lê Duy Đản và viên phó đô ngự sử Trần Danh án theo đường
tắt trong núi đi đến vùng Hoà Lạc (thuộc huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn), gặp lúc
quân do thám của viên đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Diệm đi tuần, xét hỏi rất ngặt,
người nào không có giấy tờ đều bị ngăn trở. Hai người bèn cải trang làm người
lái buôn, nhập theo bọn khách trú (tiếng đương thời, dùng để chỉ những người
Hoa kiều ngụ cư ở Việt Nam), men núi đi tắt sang Trung Hoa, rồi nhờ quân của
viên quan giữ cửa ải đưa đến doanh phủ Thái Bình (thuộc Quảng Tây). Bọn Đản lạy
rập dưới sân mà nói:
- Kinh
thành của nước chúng tôi từ năm Bính-ngọ (1786), bị giặc Tây Sơn là Nguyễn Huệ
đánh phá, quốc vương qua đời, cháu nối nghiệp do dòng chính thống lên làm chủ
việc tế tự. Mùa đông năm Đinh-vị (1787), Huệ lại sai tướng ra đánh. Tự quân
phải chạy trốn ra ngoài, các bề tôi lớn nhỏ đều phiêu bạt nơi sườn non góc
biển. Người ở lại bị chúng bắt bớ, người đi ra bị chúng ngăn chặn, hễ chúng bắt
được là giết chết liền. Trước đây, tự quân của chúng tôi chạy vào Sơn Nam cùng
một vài người bề tôi tập hợp quân dân, tính việc khôi phục, lại bị chúng đánh phá,
phải chạy vào trấn Thanh Hoa. Nay nhân khi dân mộ nghĩa còn mến chủ cũ, đều
muốn tự quân của chúng tôi lẻn về phía bắc sông Nhĩ Hà, đem tình hình báo với
thiên triều, ngước mong thương đến nước chúng tôi, đem quân cứu viện để cho tự
quân của chúng tôi có thể khởi sự ngay ở trong nước, rồi dựa vào uy thế của
thiên triều mà sai khiến các nghĩa sĩ. Như vậy thì việc khôi phục đất nước mới
mong có cơ hội. Hiện nay tự quân của chúng tôi đóng ở huyện Phượng Nhãn, sai chúng
tôi lẻn lút sang đây. Đường đi đến cửa ải, tính ra chỉ có bốn ngày nhưng vì
chúng tôi sợ giặc bắt, phải vượt suối trèo non, đi vòng theo đường quanh co,
nên hơn một tháng mới tới nơi. Cúi xin nghĩ lại: Nước nhỏ mọn chúng tôi làm bề
tôi của thiên triều đã hơn ba trăm năm, lo giữ chức phận và việc tiến cống
không bao giờ ngớt. Nay bỗng chốc bị giặc chiếm đoạt, xã tắc tàn hoang.
"Người ta đến lúc cùng thì quay về gốc", không thể không gọi ông trời
mà kêu. Đức đại hoàng đế cũng tức là vua nước nhỏ mọn chúng tôi, mà các vị quan
lớn lại là bậc quan lại giúp việc nhà trời. Muôn trông thương đến kẻ ở nơi biên
ải xa xôi, dựng lại nước đã mất, nối lại dòng đã dứt, để cho họ Lê là người bề
tôi tiến cống, được đội phúc lớn của trời.
Bọn Đản
nói rất thảm thiết và đem các tờ biểu, tờ bẩm trình lên. Viên phân phủ họ Vương
ngờ rằng quân Tây Sơn giảo quyệt, giả làm sứ thần của họ Lê để dò la tình hình
Trung Quốc, bèn vờ hỏi vặn rằng:
- Vua
trước của nước Nam mất đi đã hai năm nay. Nếu như trong nước có
biến, tự
tôn đáng lập mà không được lập, sao lại không tới cửa ải bày tỏ sự tình ngay từ
năm ấy? Vả chăng, trước đây có tiếp được công văn đệ sang, chẳng qua chỉ nói về
việc làm mất quốc ấn, xin cấp cho chiếc khác mà thôi. Còn như duyên cớ tại sao
không được lập, nguyên do tại sao bị đuổi đi thì không hề nói tới một lời. Nay
việc đã trải qua hai năm, tự tôn nương náu ở đâu, quân giặc động tĩnh ra sao,
người trong nước theo ai phản ai như thế nào, tình hình đều chưa rõ rệt. Lại
nữa, trong tờ biểu này đứng tên tự tôn họ Lê, mà chưa có tờ biểu báo tang và
cầu phong, chưa được cấp lại quốc ấn thì sao được khinh suất dâng tờ biểu lên,
và vội vã sai sứ thần đến? Xét ra, những việc ấy đều là việc chưa hợp thể lệ.
Cần phải có tự tôn họ Lê tự mình đến đây khai báo, để ta giáp mặt mà hỏi rõ
tình do. Nếu chỉ bằng vào lời nói của người khác thì không được. Ta là bề tôi
giữ đất, việc ở ngoài bờ cõi là việc lớn, quyết không thể nhẹ dạ mà tin các
ngươi. Nhưng thôi được, các ngươi đã vì việc cáo cấp mà đến đây, nghĩ tình ta
cũng không nỡ đuổi đi. Hãy cho ở lại đây, để ta bẩm rõ với quan đốc bộ, phái
người ra ngoài bờ cõi, dò xét một phen cho đích xác, rồi mới có thể làm tờ biểu
tâu lên nhà vua mà chờ chỉ ý quyết định.
Đản và
án nghe vậy, không biết nói sao, đành phủ phục dưới sân mà gào khóc. Viên phân
phủ họ Vương xét thấy thật tình, bèn dỗ dành rằng:
- Xem ra
lũ các ngươi trung thực đáng khen, mà tình cảnh thật đáng thương! Thiên triều
sẽ có cách phân xử, không nên kêu mãi cho nhàm, cứ ra nhà trọ để chờ mệnh lệnh.
Hai
người mừng rỡ, bái từ lui ra. Bấy giờ là năm 53 niên hiệu Càn-long, tức là
tháng chín mùa thu năm Mậu-thân (1788).
Đản và
án ở đó được ít lâu, viên phân phủ họ Vương gọi vào mà bảo rằng:
- Việc
bên ấy xin cứu viện, đã được thấu đến triều đình. Hoàng đế thương đến các vua
đời trước của nhà Lê làm bề tôi tiến cống nhiều đời, đã hạ chỉ cho quan tổng
đốc lưỡng Quảng là Tôn đại nhân, hiệp đồng cùng quan tổng đốc Vân, Quý (Vân
Nam, Quí Châu (Trung Quốc)) là Phú đại nhân, điều động năm chục vạn lính dõng ở
Điền Châu ra ngoài biên thuỳ tìm kiếm tự tôn họ Lê, hộ tống về nơi kinh thành
nước An Nam. Những tình hình đó, từ cuối mùa đông năm Đinh-vị (1787), quốc mẫu
bên ấy và viên trấn mục ở Cao Bằng là Nguyễn Huy Túc đã qua cửa ải Đẩu áo sang
bày tỏ rồi. Nhưng chưa rõ hai anh em tự tôn thất lạc ở đâu. Còn tự tôn thì sau
khi chạy trốn, mẹ con cách trở, cũng không rõ tình trạng bên này nên lại sai
các người trèo đèo vượt suối sang đây (theo Cương mục, thì việc mẹ Chiêu thống
sang cầu cứu nhà Thanh như thế nào, Chiêu Thống đã được Lê Quýnh về báo cáo rõ
cả rồi, lúc này cử Đản và án sang chỉ là để đón quân Thanh mà thôi). Các ngươi
đã là người do tự tôn sai đi, mà tự tôn đang ở đất Phượng Nhãn, thế thì tình
hình ra sao, các ngươi hãy làm tờ cung khai, bẩm lên quan đốc bộ, chờ khi đại
quân xuất phát, ta sẽ dẫn các ngươi tới lạy chào và cung khai.
Bọn Đản,
án được tin ấy, mừng lắm, bèn xin để một người ở lại chờ hầu, một người về
trước phí báo cho tự tôn rõ, để nhóm họp những kẻ đồng chí, kêu gọi người trong
nước, khiến cho xa gần đều biết, và các nơi đều nổi dậy, chờ thời cơ hưởng ứng
với thiên binh. Lại dựa vào oai linh của thiên triều, các nơi sẽ nhắm những chỗ
hiểm yếu mà đóng đồn trại để ngăn chặn quân địch. Đó thật là một cơ hội rất
tốt.
Viên
phân phủ họ Vương bằng lòng cho. Thế là án ở lại phủ Thái Bình, còn Đản thì
theo đường cũ về nước.
Lại nói,
từ khi kinh thành thất thủ, vua Lê chạy sang phương bắc. Còn hoàng thái hậu
cùng mấy người tôn thất chạy trước lên Cao Bằng; viên đốc đồng Cao Bằng là
Nguyễn Huy Túc đem phiên binh đón rước mời về ở tạm tại một nhà dân bên cửa ải
Đẩu áo, để mưu đồ sang cầu cứu nhà Thanh. Nguyên lúc Huy Túc mới đến Cao Bằng,
có người khách trú tự hiệu là Ngô-sơn tiều ẩn, vốn quen với Nguyễn Đình Tố,
thường vẫn hay đi lại nơi dinh trấn. Túc lần đầu được gặp và nói chuyện với hắn
ta, lấy làm lạ lắm. Đến lúc Tố mất, người khách đến viếng, Túc lấy lễ thượng
khách mà đối đãi, mời ở lại hơn mười ngày. Việc tang của Đình Tố đã xong xuôi,
người khách mới cáo từ ra về. Lúc sắp chia tay, người khách bảo riêng với Túc
rằng:
- Quí
quốc từ nay sẽ có nhiều việc, quan đốc thần trước cũng đã biết, không hiểu lúc
gần mất ngài có nói lại với các vị đồng liêu không?
Túc nói:
- Nước
tôi, bên ngoài có giặc mạnh, sau này chắc là không thể yên ổn, đó là việc mà
người trong nước ai cũng biết. Nhưng kết cục ra sao, không phải là điều Túc này
có thể biết trước. Quan đốc thần trước với Túc này đều lấy làm lo. Nay tôi làm
quan ở ngoài, đã không được dự vào nơi trọng yếu, thì dù có ý kiến nông cạn
cũng không làm được gì?
Người
khách nói:
- Chính
vì làm quan ở ngoài nên mới không thể không đương lấy việc nước. Cứ như tài của
ông, há chẳng có thể làm được một phen kinh trời động đất, khiến người cả nước
vội vàng chạy vạy ư? Nhưng chẳng qua chỉ là một giấc chiêm bao mà thôi. Đó thật
là khí số với nhân sự có quan hệ với nhau; đáng cười mà cũng đáng tiếc vậy!
Túc nằn
nì hỏi mãi, nhưng cuối cùng người khách vẫn không chịu nói rõ, cáo từ mà đi.
Đến lúc
Túc đưa thái hậu qua đất Trung Hoa, tới Long Châu lại gặp người khách ấy giữa
đường. Túc đem tình hình trong nước nói với hắn ta không hề giấu giếm, và nói
thêm:
- Việc
gấp lắm rồi! Ông có cách gì dạy cho tôi không?
- Khi
ông ở trấn Cao Bằng, bắt đầu nghe có tai biến nếu có thể cùng viên đốc đồng
trấn Lạng Sơn, đồng một lòng hợp sức giữ lấy đất hai trấn ấy, tụ tập
phiên
tướng phiên binh, chống nhau với giặc, làm hùng bá ở một phương; rồi đưa thư
sang các phủ Long Châu, Bằng Tường (đều thuộc Quảng Tây, giáp liền với Cao
Bằng, Lạng Sơn), hẹn khi có việc nguy cấp thì họ cứu giúp, để nhờ cái tiếng
viện trợ của họ. Ngày xưa họ Mạc đã dùng kế ấy mà duy trì được 56 năm (theo
Lịch triều hiến chương loại chí thì sau khi vương triều nhà Mạc đổ, dư đảng họ
Mạc chiếm giữ Cao Bằng còn kéo dài được 96 năm nữa, kể từ Mạc Kính Cung (1592)
đến Mạc Kính Vũ (1688)). Nếu quả ông mà làm được như thế, há chẳng giữ được
trọn đời của ông hay sao? Sao lại bỏ chỗ ấy cho người ta? Đã bỏ lỡ mất cơ hội
đó không làm, thì nay chỉ có cách liên lạc với các xứ Long Châu, Bằng Tường,
thiết tha xin với quan tổng đốc, đem việc tâu lên nhà vua, trông vào điều may
trời cho, để cầu xin cứu viện mà thôi. Sau khi lấy lại được nước nhà, ông nên
cố gắng "đào giếng đắp núi", tự mình phải hết sức, đừng để làm cái
trò cười cho đời sau. Túc nói:
- Đó là
cái ý quan trọng xa xôi, tôi xin kính vâng lời dạy, không dám lãng quên. Nay
Túc tôi đưa quốc mẫu chạy sang đây, cũng chính là ý như thế, song chỉ sợ tình
của kẻ dưới, không thể thấu lên đến bề trên. Nếu được nhờ ơn ngài chỉ đường
vạch lối, đem việc này thưa trước lên trên cho chúng tôi, thì xin đội ơn vạn
lần, vạn lần!
Người
khách nói:
- Đất lạ
quen nhau, tôi dám đâu không hết sức?
Người
khách bèn cùng đi với Túc. Viên đô ty Long Bằng (Long Châu, Bằng Tường) tên gọi
Trần Hồng Thuận là bạn quen của người khách. Khách bèn dẫn Túc đến đấy, nói là
mẹ, vợ và thân thuộc của tự tôn nước An Nam bị quân giặc Quảng Nam (chỉ quân
Tây Sơn) đuổi giết, trốn đến cửa ải, cúi đầu đợi mệnh...
Hồng
Thuận lập tức hội đồng với viên phó quan ở Long Châu là Trần Thốt đi tới nơi
tra xét. Tất cả đàn ông đàn bà gồm 64 người, Hồng Thuận tuỳ tiện cho ở bên cửa
ải, rồi đem việc ấy nói rõ với viên quản đạo Giang Tả thuộc tỉnh Quảng Tây là
Thanh Hùng Nghiệp, để bẩm lên quan tổng đốc lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị. Tiếp
đó, Hồng Thuận lại cho sao đơn khiếu nại của nước Nam đại ý nói rằng:
"Quốc thành bị giặc đánh phá, cướp bóc, không biết kêu xin với ai? Ai cũng
căm thù giặc, thề không cùng sống với chúng, nhiều người lẻn lút nấp ở trong
núi, kết thành đồ đảng, chỉ vì chưa có người đứng ra làm chủ, cho nên họ còn
rời rạc khó bề hợp nhất. Nếu được thiên binh sang cứu thì các nơi sẽ cùng hưởng
ứng ngay, và có thể hẹn ngày mà lấy lại quốc thành".
Sĩ Nghị
thấy giấy báo tin ấy, liền bảo bọn liêu thuộc rằng:
- Nước
An Nam từ đời Hán, Đường, là đất phụ thuộc vào nước ta; đến đời nhà Tống, họ
Đinh quật cường, mới trở thành nước tiến cống. Trải mấy đời nối theo nhau cho
đến ngày nay, lại không thể giữ được nước. Hoặc giả trời
khiến
nước ấy lại làm quận huyện của Trung Quốc chăng?
Lập tức,
Sĩ Nghị ruổi ngựa tới vùng Long Bằng, dò xét tình hình biên giới, rồi họp bàn
với viên tuần phủ là Vĩnh Thanh. Vĩnh Thanh nói:
- Mở
mang bờ cõi là một việc lớn, lợi hại không phải nhỏ. Quả như lời họ nói, thì
nước ấy kể cũng đáng thương. Nhưng thế lực của giặc, đoán chắc là không phải
như vậy. Chúng ở ven biển nổi lên, theo việc binh nhung từ khi đầu còn để chỏm,
một lần khởi quân mà lấy được cái nước đã ba trăm năm, nhất định không phải là
yếu, và cũng nhất định không đời nào chịu để cho người ta doạ dẫm, mới nghe
tiếng đã phải đêm hôm lẻn trốn đi. Trừ phi chúng có bị đánh cho giập gẫy một
vài phen thì chúng mới chịu rút lui và nghe theo. Trung Quốc ta thái bình đã
hai trăm năm nay, dân chúng không biết đến việc binh. Nay bỗng dồn họ tới chỗ
nóng nực lam chướng, dù thắng được cũng không phải là mạnh. Huống chi chưa chắc
đã thắng, mà vạn nhất vấp ngã thì tổn thất thật không nhỏ. Cụ lớn là vị đại
thần của nước, nắm quyền ở chốn biên thuỳ, cần phải giữ vững bờ cõi; há nên vừa
mới nghe kêu nài một tý đã vội gây hấn ở nơi biên ải? Cái gương của bọn Hoàng
Phúc, Trương Phụ ở đời Vĩnh-lạc, Tuyên-đức (Hoàng Phúc và Trương Phụ là tên các
tướng nhà Minh. Vĩnh-lạc là niên hiệu Minh Thành tổ, Tuyên-đức là niên hiệu
Minh Tuyên tông. Đây chỉ việc quân Minh sang xâm lược Việt Nam hồi đầu thế kỷ
XV, sau bị Lê Lợi đánh bại), cũng chưa phải xa xôi, xin nghĩ kỹ cho!
Nghị
nói:
- Nước
An Nam được phong, đời đời lo giữ chức phận tiến cống. Tây Sơn là bọn giặc nhỏ,
dám diệt nước họ. Nạn của cống thần không thể không cứu, tội của cuồng tặc
không thể không trị. Vì nghĩa mà hành quân ai dám không theo? Nếu lấy cớ là mọi
rợ mà bỏ ra ngoài, ngồi nhìn bọn họ giết hại nhau mà không cứu thì tám xứ
"man", chín xứ "di" làm bề tôi Trung Quốc, còn trông cậy gì
nữa?
Rồi Nghị
gọi sáu người là bọn Nguyễn Huy Túc, Lê Quýnh, Hoàng ích HIểu, Nguyễn Đình
Quán, Nguyễn Quốc Đống và Nguyễn Đình Mai đến cửa quan, để hỏi tình trạng.
Trước
hết, Nghị hỏi tự tôn có mấy anh em, sau khi chạy trốn, hiện nay ở đâu?
Bọn Túc
khai là: Tự tôn có ba anh em, rất yêu mến nhau. Anh trưởng là Lê Duy Kỳ, tức là
người đáng được nối ngôi, thứ hai là Tụ quận công Duy Tụ, thứ ba là Lan quận
công Duy Chỉ. Hiện nay, Duy Kỳ chạy xuống lộ Sơn Nam hạ (năm Lê Cảnh hưng thứ
Qui Nhơn (1741), chia xứ Sơn Nam làm 2 lộ: lộ Sơn Nam thượng (Vùng Hà Nam, Hưng
Yên, Hà Đông sau này) và lộ Sơn Nam hạ (vùng Nam Định, Thái Bình sau này)), để
chiêu tập nghĩa binh. Duy Tụ ở vùng Tuyên Quang, Hưng Hoá cũng đang nhóm họp
các người đồng chí, xa xa làm thanh viện cho nhau. Nghe nói họ nương tựa lẫn
nhau, thần dân thuận theo, quyết không đến nỗi tan tác. Nhưng không biết từ đấy
về sau có thể hăng hái làm nên việc hay không? Tới đây đã hơn bảy tám tháng, sự
thế đổi thay, họ có còn giữ được chỗ ấy nữa không, điều đó chúng tôi không được
biết.
Nghị lại
hỏi tin tức của mẹ con tự tôn nay ra sao?
Túc nói:
- Chúng
tôi trước ở Cao Bằng, rồi rước quốc mẫu sang nội địa (chỉ đất Trung Hoa). Tự
tôn thì vẫn ở trong nước. Quan san cách trở, tin tức không thông. Nay nếu được
phép thì xin lẻn về báo cho tự tôn biết tin của mẹ và gia quyến. Xin cho ba
người chia đi hai ngả. Đình Mai xin đi đường cửa ải núi Mông Tự. Quýnh và Đống
xin theo đường Long Môn mà vượt biển. Ngửa trông cụ lớn cho người dẫn đến biên
giới, để chúng tôi gấp đường chạy về; chừng trong một tháng, dò xem tin tức ra
sao, sẽ xin bẩm rõ.
Nghị lại
hỏi lâu nay ở bên ấy mùa màng ra sao? Túc thưa:
- Nước
chúng tôi luôn mấy năm bị mất mùa, giá gạo rất đắt, một thưng gạo giá đến sáu
trăm đồng tiền. Lộ Sơn Nam hạ vốn được gọi là nơi giàu có, bây giờ dân gian
cũng không có thóc lúa để dành, các nhà đều trống rỗng như chiếc chuông treo.
Tự tôn trước kia đóng ở xứ ấy, vì lương thực không đủ, cho nên hễ làm việc gì
cũng bị thất bại. Chúng tôi khi ở nước nhà, chỉ nghe như thế, đó là việc thực.
Nghị
quay sang hỏi Lê Quýnh, Quýnh liền đáp:
- Họ Lê
giữ nước hơn ba trăm năm, dùng ân huệ buộc chặt lòng người, dùng lễ nghĩa vun
trồng sĩ khí. Cho nên, dù bọn phản nghịch tiếm quyền mà lòng người mến chúa cũ
vẫn như xưa. Chỉ vì họ Trịnh hiếp chế, lòng dân căm giận. Tây Sơn nhân lúc sơ
hở ấy, mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh, nên người trong nước không ai chống cự.
Chúng nhân thế đắc chí, lại càng hung hăng, tự đặt niên hiệu, chiếm giữ kinh
thành, đến nỗi tự tôn họ Lê phải phiêu bạt ra ngoài. Do đó, dân cày và những kẻ
lục lâm nổi lên khắp nơi, không ai hẹn ai mà người nào cũng xưng là quân họ Lê.
Nếu như thượng quốc rủ lòng bao dung kẻ nhỏ mọn, giúp đỡ kẻ khốn cùng, sai một
đạo quân tới sát bờ cõi để làm thanh viện, thì người trong nước nghe tin, ai
không trỗi dậy, thề cùng phục thù? Mà như vậy, chắc cũng không hao tổn đến binh
lực của thiên triều nhiều lắm.
Nghị
nghe được lời khai rõ ràng, bèn đem một bức địa đồ nước Nam, bảo bọn Quýnh
duyệt lại, và hỏi:
- Có
đúng không? Không sai chứ?
- Vị trí
và phương hướng nhiều chỗ sai lầm, ước chừng mười phần sai đến bốn năm.
Nghị
nói:
- Cho
phép các ngươi cứ thật mà sửa lại.
Rồi Nghị
sai gọi một người thợ vẽ đến, theo chỗ Quýnh sửa đổi mà vẽ lại. Lại bảo Quýnh
lưu ý xem những vùng nào đã theo giặc, vùng nào chưa theo giặc, anh em vua Lê
hiện đóng ở đâu, nhất nhất đều ghi chú thật rõ ràng vào địa đồ.
Rồi nhân
đó, Nghị gọi bọn Túc và bảo:
- Chờ ta
tâu lên triều đình, khi nào được chỉ của nhà vua, tức khắc sẽ chiểu theo những
điều kêu xin của bọn ngươi mà làm cho thật tốt tất cả mọi việc. Chuyến này các
ngươi về nước, phải tìm cho được đích xác chỗ ở của tự tôn. Lại phải dò xem
quân giặc động tĩnh ra sao? Người trong nước có thể trỗi dậy được không? Hễ có
dịp thuận tiện lập tức phải phi báo cho ta biết, ta sẽ phúc tấu về triều, xin
cho kéo quân ra ải, thì công việc mới có thể mau xong. Bọn Túc mừng lắm, cùng
nhau ngoảnh mặt về hướng bắc, trông vời cửa khuyết mà lạy và hô "vạn tuế"
luôn mấy lần.
Sau đó,
Nghị sai viên quản đạo Tả Giang, tỉnh Quảng Tây là Thanh Hùng Nghiệp hộ vệ quốc
mẫu An Nam và các quyến thuộc đến đất Nam Đôn, tuỳ nghi cấp cho các thứ lương
thực, chăn áo, để ai nấy đều được yên ổn.
Luôn
thể, Nghị thảo tờ biểu tâu rằng: "Cứ lời người trấn mục của nước An
Nam là
Nguyễn Huy Túc, chạy sang nội địa cung khai: tháng sáu mùa hè năm thứ năm mươi
mốt, niên hiệu Càn long, em giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc là Nguyễn Văn Huệ đem
quân xâm phạm kinh thành nước ấy. Tiếp đến tháng tám, Văn Nhạc theo ra. Vừa gặp
lúc các trấn đều chỉnh đốn binh lính, voi ngựa đến cứu. Anh em Văn Nhạc sợ
không dám ở, ngay trong tháng ấy, đang đêm phải đem quân lẻn trốn. Quốc vương
là Lê Duy Đoan (tức Lê Hiển Tông) làm mất quốc ấn, liền đó bị bệnh mà mất. Vì
con trưởng chết sớm cháu đích tôn là Duy Kỳ, theo lệ được nối ngôi, có thảo văn
thư đệ sang, xin cấp cho quả ấn khác. Kế đó, tiếp được hịch của quan đốc bộ đưa
sang, nói rằng như thế không hợp thể lệ, mà phải sai bồi thần dâng biểu báo
tang rồi xin phong mới đúng. Không ngờ mùa đông năm sau, Văn Huệ lại sai bộ
tướng là Võ Văn Nhậm nhân khi nguy biến, đánh người giữa lúc có tang, đến nỗi
tự quân phải chạy trốn, chưa kịp sai sứ thần qua xin. Bọn Túc đưa quốc mẫu của
nước Nam chạy ra vùng Bắc Sơn thuộc huyện Võ Nhai, vua Lê thì chạy trốn sang
phủ Thiên Trường. Tướng giặc chiếm cứ quốc thành, sai người đi khắp nơi lùng
bắt. Lại có tên thổ dán trấn Lạng Sơn là Quyển Trâm, tên phiên mục Cao Bằng là
Bế Nguyễn Trù đầu hàng giặc, đem quân định cướp quốc mẫu để làm con tin. Bọn
Túc liền đưa quốc mẫu lên Cao Bằng. Tháng năm năm nay, đi tới đầu xứ Bác Nậm
(thuộc huyện Quảng Yên và Phú Hoà, tỉnh Cao Bằng), bị quân giặc theo kịp, không
còn kế gì để thoát thân, bọn Túc phải đứng cách sông kêu xin thiên triều cứu giúp.
Rồi họ liều mạng đưa được quốc mẫu và bọn quyến thuộc lội nước sang bờ bên này,
người nào không kịp sang sông đều bị giặc giết chết. Nay bọn Túc rập đầu kêu
van, xin được ở lại chịu tội với thiên triều, không chịu mắc vào tay nhơ nhớp
của giặc... Lại cứ lời bọn Túc nói thì hiện nay quốc thành bị giặc chiếm đóng
các nơi khác cũng đều nghe tiếng mà tan rã tơi bời. Các địa phương tiếp liền
với nội địa như Mục Mã (thuộc Cao Bằng), Lạng Sơn, đều đã theo giặc. Riêng có
vùng Diễn Châu ở Nghệ An, các hạt Kinh Môn, Nam Sách ở Hải Dương... là còn có
bọn thổ hào ứng nghĩa, ra vào các nơi hang núi, lừa dịp đánh giết quân giặc,
nên giặc cũng chưa thể đánh chiếm được hết cả. Vả chăng tuy quân giặc từ khi
chiếm được đất Tây Sơn, một mực hung tợn, chỉ biết có việc tàn sát, nhưng cũng
vẫn có những nơi không chịu hàng giặc. Tự tôn lẩn trốn, chắc cũng ở những nơi
ấy. Mẹ và vợ của tự tôn đã chạy sang đất thiên triều, muôn lần trông được sự
bao dung. Còn trong bọn bề tôi chạy trốn cũng có được một vài kẻ có chút tài
cán, họ tự xin về nước, tìm kiếm tự tôn, để lại gắng sức lo toan một phen nữa.
Nếu như sức chẳng chiều lòng, thì họ xin làm cái chước bảo tồn lấy người con
côi, tha thiết xin được thiên triều thương xót... Các khoản tình do trên này,
đều do tay tri phủ Nguyễn Hữu Nhân (có bản chép Đào Hữu Nhân) viết thành câu
hỏi, đầu mục nước ấy lần lượt trả lời. Xét ra, họ cũng thật tình, lại có phần
hăng hái, biết được nghĩa lớn. Thần trộm nghĩ, cống thần họ Lê, theo lệ thì tự
tôn của họ được nối ngôi, chẳng may nước ấy bị diệt, mẹ và vợ đã tới cửa ải kêu
van, thực cũng nên thể tình mà chu cấp, để họ được yên chỗ, rồi chờ để xét rõ
tin tức của nước họ, sẽ quyết định việc cho đi hay cho ở lại. Chỉ nghĩ bọn họ
khi chạy đến ven sông, tức là đã thuộc về địa đầu bờ cõi của thiên triều; vậy
mà tụi giặc trông thấy quân lính thiên triều đóng đồn ở đấy, lại vẫn còn dám
hung hãn giết người, lòng giặc hiểm độc, không phải là không có ý dòm dỏ. Thần
đã mật thư cho viên đề đốc là Tam Đức sắp đủ chiến binh, chi đi đóng giữ ở các
cửa ải trong sáu xứ chung quanh Long Châu. Nếu chúng qua sông, tức thì bốn mặt
chặn đánh, không để cho chúng chạy thoát; luôn dịp cũng tỏ cho chúng được biết
binh uy của thiên triều, cho chúng hoảng sợ. Thần lại xin viết thư mật cho các
viên quan coi giữ miền Triều Châu và Long Châu, bảo phải gấp rút đi tuần tra và
dò xét kỹ càng ở các miền biên giới..., Nếu có tình hình gì khác, thần xin tiếp
tục viết biểu tâu lên, chờ vâng chỉ cho thi hành". Vua Thanh xem tờ tâu
ấy, liền bảo viên đại học sĩ là Bá Hoà rằng:
- Lê Duy
Kỳ ở An Nam, tuy chưa được phong, nhưng y là người đáng được nối ngôi, cũng
không khác gì quốc vương. Nay mẹ và vợ cùng các quyến thuộc của y đều chạy sang
đây, thế là toàn cõi nước ấy đều đã mất cả. Việc dựng lại nước đã bị diệt, nối
lại dòng đã bị tuyệt, cần phải trù liệu sắp đặt mà rốt cuộc cũng phải hao phí
rất nhiều binh lực. Nay xét ra, Duy Kỳ còn ở lại trong nước để tự lo lấy việc
khôi phục, dân nước ấy theo giặc chẳng qua mới chỉ mấy xứ Mục Mã, Lạng Sơn, còn
ở các vùng đông bắc, tây nam thì lòng người mến chủ cũ vẫn có thể tin cậy. Nếu
dựa vào đó để lo nối lại ngôi vua ắt là có thể xong việc. Vậy truyền dụ cho Tôn
Sĩ Nghị biết rằng: "Họ Lê thờ phụng thiên triều rất là kính thuận. Duy Kỳ
theo lệ đáng được nối ngôi. Việc mất quốc ấn, ngày trước đã có dâng thư xin cấp
ấn khác, song vì chưa cho sứ sang báo tang, không hợp thể chế, cho nên việc cấp
ấn phải hoãn, đã có hịch dụ. Nay họ lại sai sứ thần tha thiết sang kêu xin, vậy
chuẩn y việc sắc phong và cấp ấn cho họ. Xét cho kỹ. Duy Kỳ sở dĩ bị giặc đánh
đuổi cũng chỉ là vì y không lo gắng sức trỗi dậy mà ra. Hiện giờ đất nước của y
còn nhiều chỗ chưa bị giặc chiếm, thần dân cũng còn biết kính mến; Duy Kỳ nên
nhân dịp ấy nhóm họp nghĩa quân, thu phục quốc thành, để cho nghiệp cũ không
đến nỗi bị sụp đổ. Mẹ và vợ y chạy sang nội địa, đã được sắp đặt chỗ ở yên ổn,
ăn mặc không thiếu, đất nước đã quen, y cũng không cần phải lo nghĩ, có thể
chuyên ý lo việc trong nước, chờ khi khôi phục được kinh thành thì sẽ cho quân
đưa mẹ và vợ y trở về. Lúc y sai sứ thần, thì lại nên sai người đã thông tin
lần này sang, để làm chứng cứ, ngõ hầu mới khỏi bị kẻ gian lừa dối mưu hại. Đến
như Nguyễn Huệ cậy mạnh cướp nước, phép không thể tha, đã giáng chỉ điều động
đại quân ở Quảng Tây, để chờ khi gọi đến. Nếu giặc cứ hung hăng như trước, mà
tự tôn họ Lê không thể phấn chấn để làm nên việc, thần dân nước họ lại cam lòng
theo giặc thì sẽ cho đem đại quân bốn mặt họp lại mà đánh, cho sáng tỏ tội
trạng của chúng. Như thế, trước tiên phải đưa hịch phi báo cho thần dân nước
ấy, khiến họ đều biết, để làm mạnh thêm thế của họ Lê và làm cho bọn Tây Sơn
mất vía kinh hồn, mà đối với việc giúp đỡ cho sự thanh viện cũng là có ích.
Những người đi theo như bọn Nguyễn Huy Túc, tình nguyện về nước, tìm kiếm chỗ ở
của tự tôn, để cùng giúp việc khôi phục, chí ấy rất đáng khen, lẽ nên cho họ về
sớm; sớm một ngày là tự tôn của họ đỡ lo một ngày, và sau này trẫm cũng được
nghe tin nước ấy mau hơn một ngày. Tôn Sĩ Nghị vốn có tiếng nhanh nhẹn, sáng
suốt, sao không liệu trước điều đó, mà còn lo trẫm không ưng cho làm, để phải
tâu đi tâu lại, không khỏi phạm sai lầm về sự câu nệ. Nay Nghị cần phải sớm tới
Long Châu, giáp mặt mà hiểu dụ bọn sứ thần, giục họ lập tức lên đường; đem ý
của trẫm truyền bảo cho họ biết, để họ về nước báo tin với anh em Duy Kỳ; đồng
thời phải sao các tờ hịch thành nhiều bản, bảo họ đem về trong nước, ngõ hầu có
thể truyền bá rộng rãi. Ngoài ra, bọn họ lặn lội khó nhọc, hành lý sơ sài, vậy
ở đường thuỷ và đường bộ đều phải cấp phu trạm, hộ tống cho họ gấp đường mà đi;
lại cấp cho mỗi người mười lạng bạc để tiêu pha về việc ăn uống. Nói tóm lại,
việc này, nếu như cả nước An Nam bị mất, Duy Kỳ lại bị giết hại, thì nghĩ tình
cống thần, không thể bỏ qua mà không hỏi tới. Vả chăng bờ cõi nước Nam chưa đến
nỗi hoàn toàn mất hết, tự tôn tuy phải chạy trốn, nhưng thần dân vẫn còn mến
phục. Như vậy, ta chỉ cần làm thanh viện cho họ, để họ tự lo lấy công việc, bất
tất phải dấy quân làm to chuyện đem binh lực trong nước hao phí ở ngoài cõi
nóng nực, xa xôi. Đó mới là kế tuyệt hay. Tôn Sĩ Nghị phải theo chỉ dụ trước,
tới nơi biên thuỳ, trù tính cho kỹ, đốc thần (chỉ Tôn Sĩ Nghị) là người thạo
việc, chắc có thể hiểu được ý của trẫm. Việc kinh lý biên thuỳ ở đấy, cho phép
đốc thần được cùng viên phủ thần là Tôn Vĩnh Thanh họp bàn thoả đáng, tuỳ tiện
thi hành. Hãy kính theo chỉ dụ này!".
Lại nói,
quan lại hai hạt Triều Châu, Long Châu từ khi tiếp được thư mật của Nghị, lập
tức đi tuần tra dò xét miền biên giới và cho người đưa hịch sang bá cáo ở trấn
Thái Nguyên.
Bấy giờ
có hai họ Trương và Cát quê ở hạt Triều Châu, chuyên sống về nghề khai mỏ lấy
bạc, sang cư trú tại làng Tống Tinh trong trấn Thái Nguyên. Họ vỗ về mọi người,
làm kẻ tù trưởng địa phương, đồ đảng có đến hơn vạn người, đều là các gia đình
người Trung Hoa. Hai họ ấy nghe được tờ hịch, liền tìm đến chỗ trọ của người
đưa hịch mà trình rằng:
- Chúng
tôi chuyên sống về nghề mở xưởng khai mỏ, đời đời ở nước Nam. Trước đây nghe
tin kinh thành của nước An Nam bị mất, trong nước loạn to, sợ rằng cháy thành
vạ lây, nên đã cùng người địa phương luyện tập súng, nỏ, làm chước giữ mình. Có
lần, mấy trăm quân giặc đến cướp, chúng tôi mới thử đánh một trận mà đã giết
hết được tất cả. Nghĩ rằng chúng tức giận, ắt lại đến nữa, chúng tôi bèn chia
ra làm mười đoàn, mỗi đoàn một nghìn người thề cùng liều chết chống giặc. Nay
tiếp được hịch văn, ai cũng nô nức nhảy nhót, xin làm tiên phong. Vả lại chúng
tôi vốn là nhân dân Triều Châu, nay cũng muốn xin được cùng ra sức một phen với
quân nghĩa dũng ở Điền Châu.
Người
đưa hịch nghe họ nói như vậy, liền lấy tờ khai và đem tình hình duyên do về
bẩm.
Lại nói,
vua Lê trước kia đã sai bọn bồi thần sang trần tình và cầu cứu với nhà Thanh.
Đến bây giờ, Lê Duy Đản ở Thái Bình về, báo tin viên đốc bộ tỉnh Quảng Tây đem
việc tâu lên, đã được vua Thanh chuẩn y, chẳng bao lâu đại binh sẽ sang.
Rồi tiếp
đó. Lê Quýnh lại từ Long Châu về báo, nói là thái hậu và quyền thuộc hiện ở
thành Nam Ninh, ăn ở yên ổn. Vua mừng lắm bèn chắp tay lên trán mà rằng:
"Kẻ
tiểu tử này, gặp lúc vận nhà lắm nạn, nhờ được chín miếu thiêng liêng, đức đại
hoàng đế rủ lòng thương, bao bọc cho kẻ nhỏ mọn, trong nước lại được thấy bóng
mặt trời, cơ hội trung hưng phải chăng là ở lúc này?".
Rồi nhà
vua sai thảo tờ biểu tạ ơn và các thư từ trình bẩm, để cùng đưa sang một thể.
Trong đó nói rõ: "Giặc Tây Sơn tàn ngược, dân không chịu nổi. Hiện nay
thần tuy chạy trốn ở ngoài, nhưng may nhờ lòng người vẫn còn nhớ đến chủ cũ.
Nhân đó thần cũng đã cử sự được một vài phen, song đều bị thất bại. Gần đây
tiếp được văn thư, thần đã ngấm ngầm khuyến dụ hào kiệt trong nước, ai cũng
hăng hái, thề giết quân giặc, hằng ngày trông mong ở sự viện trợ của thượng
quốc. Nhờ cậy oai trời, việc chắc phải thành. Khi tiếp được hịch văn do viên
sai quan mang về, thần đã đem tuyên cáo với mọi người trong nước, ai nấy đều
mừng rỡ, hớn hở hơn là chết đi được sống lại; quân giặc cũng vì thế mà mất hết
nhuệ khí. Hiện nay, các nơi đều đã nhóm họp quân nghĩa dũng, chờ thiên binh qua
cửa ải, thì sẽ đến cửa quân lạy chào, và xin chịu kỷ luật làm quân đi tiên
phong. Đảng giặc chắc sẽ bị bắt và quốc đô chắc sẽ được khôi phục. Ơn tái tạo
của đức đại hoàng đế, cùng với đức gây dựng của cụ lớn, thật đáng ghi tạc dài
lâu mãi mãi như sông Lô non Tản vậy!".
Tôn Sĩ
Nghị vừa tiếp được tờ bẩm của Triều Châu lại được luôn tin ấy, liền hội đồng
với viên tuần phủ, tâu xin xuất quân. Trong tờ biểu đại khái nói rằng:
"Vâng lời thượng dụ: Chỉ nên làm thanh viện cho họ, để họ tự lo lấy không
cần phải dấy quân làm to chuyện. Kính tuân theo thánh chỉ ấy, thần đã tra xét
kỹ càng các nơi đường sá qua lại. Từ đài Chiêu-đức đến đô thành nước họ, quân
đi chẳng qua chỉ mất sáu ngày. ở Lạng Sơn hơi có lam chướng. Qua khỏi đó, thuỷ
thổ đều tốt lành. Đại quân tiến lên đóng ở La Thành (người Trung Quốc bấy giờ
cũng thường gọi Thăng Long là La Thành (một thành do Cao Biền đắp ở vùng Hà Nội
từ thời thuộc Đường)) vừa không nóng nực lại không có lam chướng. Vả lại cũng
cần diễu võ giương oai, phô trương thanh thế quân ta ở đấy, để cho giặc biết là
không thể địch nổi. Rồi sau mới sai phái các quân ứng nghĩa của nước họ tự đi
đánh dẹp lấy. Quân ta sẽ không đến nỗi phải vấy máu mũi gươm, mà quân giặc đều
bị bắt giết. Như vậy, công trạng hẳn chóng thành. Trộm nghĩ lần đi này thực
đúng như lời thánh thượng đã dạy. Lần trước cứ tâu đi tâu lại thần tự biết là
đã phạm cái sai lầm câu nệ, chậm trễ. Việc binh cần mau chóng, nếu gặp được cơ
hội, thần dám đâu không hết sức tính việc biên thuỳ để xứng đáng với sự giao
phó của bề trên? Đến như sau khi dẹp yên, các công việc cần phải xử trí ra sao,
thần sẽ xin kính cẩn viết tờ biểu tiếp tục tâu lên".
Rồi đó,
Nghị hoả tốc tư cho bọn đốc thần ở các tỉnh Vân Nam, Quí Châu,
tuân
theo như chỉ vua đã gửi trước từ hai tỉnh ấy kéo quân theo đường Tuyên
Quang mà
đi, còn đại binh thì qua ải Nam Quan, do đường Lạng Sơn tiến
sang.
Thật là:
Vâng lệnh, nguyên nhung* coi hống hách,
Ra quân, đại tướng vẻ vênh vang.
Chưa rõ
lần ấy thua được ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
* cũng
như nguyên soái.
Hồi 13
Khiếp thanh thế, giặc mạnh rút lui
Nhờ viện binh, vua xưa trở lại
Lại nói,
lúc sắp xuất quân, Tôn Sĩ Nghị lại dâng tiếp một tờ sớ, đại ý nói: "Thần
nghe họ Lê ở nước An Nam hèn yếu, sau này không chắc đã giữ được nước. Nay họ
sang cầu cứu, bản triều theo nghĩa phải cứu giúp. Vả chăng, An Nam vốn là đất
cũ của Trung Quốc (chỉ nước ta ở thời kỳ Bắc thuộc), nếu sau khi khôi phục họ
Lê rồi, nhân đó lại cho quân đóng giữ, thì như thế là bảo tồn họ Lê mà đồng
thời lại chiếm giữ được nước An Nam, một công mà hai việc vậy".
Tuần phủ
là Tôn Vĩnh Thanh dâng sớ chống lại lời bàn ấy của Nghị, đại để nói:
"Triều đình mượn tiếng khôi phục họ Lê, khi thấy họ Lê không thể giữ được
nước, lại định sai quan chiếm nước họ; ban đầu thì làm việc nghĩa, cuối cùng
lại theo việc lợi, thần trộm cho là không nên. Hiện nay họ Lê họ Nguyễn (họ
Nguyễn đây là chỉ Tây Sơn) đang đánh nhau, họ Lê thế nào cũng bị họ Nguyễn thôn
tính. Chi bằng cứ đóng quân yên lặng, rồi sau đó, nhân lúc cả hai bên đều kiệt
quệ, bấy giờ ta sẽ đánh lấy cũng chưa muộn gì". Rốt cuộc, vua Thanh nghe
theo lời Nghị. Vì không hợp ý với Nghị, Vĩnh Thanh bèn cáo ốm không đi.
Nghị một
mình vâng chiếu đem quân bốn lộ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, ra
khỏi cửa ải, rồi chia làm hai đạo: một đạo đi đường Lạng Sơn, do Nghị đốc suất;
một đạo đi đường Tuyên Quang, do viên tổng binh đốc suất. Cả hai đạo đều chịu
dưới quyền tiết chế của Nghị (theo Cương mục thì quân Thanh kéo sang gồm ba
đạo: một do tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy,
theo đường ải Nam Quan qua Lạng Sơn kéo xuống; một do đề tổng Vân Quí là Ô Đại
Kinh chỉ huy, do đường Mông Tự qua Tuyên Quang tràn sang; một do tri phủ Điền
Châu Sầm Nghi Đống điều khiển, từ Khâm Châu qua Cao Bằng đổ xuống). Nghị họp
các tướng sĩ, ban bố quân luật gồm 8 điều như sau:
Điều thứ 1.
- Đại binh ra ải, vốn để dẹp giặc an dân. Hễ qua các nơi đều phải nghiêm chỉnh
đội ngũ mà đi, không được quấy nhiễu nhân dân, cướp bóc chợ búa.
Điều thứ 2.
- Ngoài ải, non cao rừng hiểm, miền ấy rất dễ mai phục, trước hết phải san bằng
đá tảng, phát hết bụi rậm, để cho trước mắt quang đãng, có thể vững lòng mà
tiến lên. Nếu gặp chỗ nào đất mới xốp bở, càng nên để ý xem xét, để đề phòng
mưu gian của giặc.
Điều thứ 3.
- Hễ nơi nào đại binh địch đóng thì trước hết phải xem xét địa phương, chọn lấy
hình thế, tìm nơi dễ lấy nước, lấy cỏ, chớ có đóng gần rừng rậm, bốn mặt phải
đào hào đắp luỹ và đốc suất binh lính đêm ngày tuần phòng, ngày đêm phải chia
quân đi dò xét ở ngoài mười dặm, không được ồn ào, dễ gây ra kinh sợ rối loạn.
Điều thứ 4.
- Người Nam đánh trận, hay dùng sức voi. Voi không phải là vật nội địa từng tập
quen, nên hễ gặp phải, trước tiên quân ta thế nào cũng tránh chạy. Không biết
rằng, sức voi tuy khoẻ, chung quy cũng là thân máu thịt, không thể đương được
với súng ống của ta. Nếu thấy voi ra trận, xa thì bắn súng, gần thì dùng cung
và lao, làm cho nó bị đau mà chạy trở lại, giày xéo lẫn nhau, quân ta nhân cơ
hội ấy mà tiến lên chém giết, thế nào cũng thắng trận, không còn nghi ngờ gì
nữa. Cần phải chỉ bảo cho nhau cùng được biết.
Điều thứ 5.
- Quân Nam không có sở trường gì khác, toàn dùng thứ ống phun lửa làm lợi khí,
gọi là "hoả hổ". Khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng thứ đó đốt
cháy quần áo người ta, buộc người ta phải lui. Nhưng tài nghệ của họ cũng chỉ có
thế mà thôi, so với súng ống của ta thì còn kém rất xa. Hiện nay ta đã chế sẵn
vài trăm lá chắn bằng da trâu sống. Nếu gặp "hoả hổ" của người Nam
phun lửa, thì quân ta một tay cầm lá chắn đỡ lửa, một tay cầm dao chém bừa,
chắc rằng chúng sẽ phải bỏ chạy tan tác.
Điều thứ 6.
- Đại binh đi đường, nếu gặp khe suối dòng sông, chỗ nào nước sâu thì phải chặt
lấy tre gỗ bắc làm cầu phao, để binh mã vượt qua cho tiện, chỗ nào sông hẹp
nước nông, thì viên quan coi quân phải dò thử đích xác, rồi cho quân lính nối
tiếp nhau như xâu cá mà kéo đi. Lúc xuống nước, không được đem bùi nhùi, thuốc
súng bạ đâu vứt đấy để bị ẩm ướt.
Điều thứ 7. - Rau củi của đại binh dùng hàng ngày, đã có tiền công cấp phát; chỉ được
đổi chác với người Nam bằng cách thuận tình, không được tự tiện chặt cây cối ở
các làng xóm, để sinh ra tranh giành. Nếu ở chỗ nào cách rừng núi độ một hai
dặm, cần sai quân lính bảo vệ cho kẻ đi kiếm củi, không được tự ý đi xa, để xảy
ra biến cố khác. Đến như việc lấy nước nấu cơm, cũng phải do viên quan coi quân
xét nghiệm rõ ràng, quả thật trong sạch không có độc mới cho múc uống.
Điều thứ 8.
- Những quân lính bị thương hoặc bị ốm, viên quan coi quân phải tra xét tường
tận, làm giấy bẩm rõ, rồi cho đưa về doanh điều trị, để tỏ sự giúp đỡ, thương
xót. Nếu có bọn quân lính không tốt, giả làm bị thương hay đau ốm, hòng được về
nhà, một khi tra ra sẽ trị tội ngay tức khắc. Vả lại, lần này hành quân xa xôi
qua miền biên ải, triều đình thương đến binh lính, đã chu cấp rộng ra ngoài thể
lệ, mỗi người lính được cấp một tên phu. Các viên coi quân cần hiểu dụ trước
cho mọi người biết. Lính và phu cũng cần phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau,
không được tuỳ tiện sai khiến một cách tàn ngược. Đến như lúc hành quân, lính
đều phải lấy khí giới, không được tự mình buông tay đi không, vật gì cũng giao
cho phu dịch mang đội, để đến nỗi họ không thể chịu nổi, phải giữa đường bỏ
trốn. Ngoài ra, số phu quá nhiều, tra cứu rất khó, thậm chí có người ở doanh
trước lẫn vào doanh sau, người này người kia không quen biết nhau, dễ sinh ra
lộn xộn. Do đó, phải cấp cho mỗi tên phu một mảnh thẻ bài đeo ở lưng, kê rõ tên
họ, doanh hiệu, để tiện nhận xét phân biệt.
Các điều
quân luật trên đây, quân lính đều phải tuân theo một cách nghiêm túc. Kẻ nào
làm trái, nhất thiết xử theo quân pháp, không tha.
Rồi đó,
trước tiên Nghị sai truyền hịch sang dụ nước Nam, đại lược nói: "Dấy nước
đã diệt, nối dòng đã tuyệt, việc đáng làm nào kể nơi man rợ, xa xôi; vớt người
bị chìm, cứu kẻ bị thiêu, đừng chẳng được phải dùng đến cung tên, binh lính.
Nghĩ lại họ Lê ở An Nam vốn là cống thần của thiên triều. Ba trăm năm vật sản
tiến dâng, kính theo chức phận; mười lăm lộ đất phong chia cắt, gồm có nước
nhà. Thế mà khoảng năm Càn-long, tù trưởng trong nước là bọn Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, dấy quân làm loạn, đánh phá La Thành: vua Lê trước vì lo sợ mà phải
qua đời, tự tôn là Duy Kỳ phiêu bạt ra ngoài. Bề tôi cũ là Nguyễn Huy Túc đem mẹ
và vợ tự tôn chạy sang nội địa, tha thiết xin quân cứu viện. Sau khi hỏi rõ bọn
Túc, thì tự tôn hiện nương náu ở vùng Kinh Bắc, Lạng Sơn, thần dân còn nhớ chủ
cũ. Nguyễn Nhạc là quân mọi rợ như giống trâu dê, quen thói hung tợn của loài
lang sói, đến đâu cướp bóc đó, trăm họ oán đến xương tuỷ. Từ một tên dân ở nơi
biên thuỳ nổi dậy, can phạm luân thường, làm trái nghĩa lý, đạo trời không thể
dung tha; lại dám hoành hành ở nơi nội địa, bạo ngược quần chúng, tàn hại nhân
dân, phép vua cũng cần phải đánh. Hiện đã đem việc này tâu lên, vâng được đức
đại hoàng đế thương xót đến họ Lê tan nát, không nỡ để Giao Châu lầm than; đặc
cách sai quan đốc phủ đeo ấn chinh Man (xưa bọn thống trị Trung Quốc gọi các
dân tộc ở phương nam là Man (man rợ chưa khai hoá); "chinh Man" đây
nghĩa là: đi đánh Việt Nam) đại tướng quân, điều động năm mươi vạn quân, thẳng
tới La Thành, trị tội bọn Nguyễn Văn Nhạc, không để chúng trốn thoát hình phạt
của trời. Dân nước Nam đời đời tôn đội vua Lê, nhờ ơn nuôi dưỡng đã lâu, tri
năng chưa mất, tình cảm đang còn, không thể để mất lương tâm trời cho, bỏ vua
theo giặc. Kẻ nào có thể xướng trước tiếng nghĩa, dựa vào thiên triều làm nơi
cứu viện, nhóm họp các người đồng chí, ra sức trừ diệt quân thù, cửa ải hát
khúc khải ca, mạc phủ (chỗ làm việc ở nơi đóng quân của các tướng soái đời xưa)
dâng lên công trạng, sẽ được cắt đất chia phong, hưởng chung phúc lộc với họ
Lê, như ông tổ họ Trịnh ngày trước. Hịch văn đưa tới, quân lính đều nên hăng
hái, mài giũa giáo mác của các người mà chống lại quân thù của nhà vua. Đồng
lòng chung sức, ắt có công lao. Rồi sẽ ngửa trông ban thưởng ở cửa công, giữ
mãi phúc chung ở trong nước. Hãy cố gắng lên!".
Lúc đó,
tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Diễm và Phan Khải Đức đang đóng giữ Lạng Sơn, thấy
tờ hịch đến đều run sợ. Trong khoảng một ngày, thổ binh do họ chiêu tập được,
bỏ trốn mất quá nửa. Khải Đức trước hết bí mật sai lính đem thư sáp đến cửa ải
xin hàng. Văn Diễm tự liệu quân mình lẻ loi, thế không chống nổi; vả mình lại
là người Quảng Nam, nếu có hàng, chưa chắc đã được bao dung, bèn đang đêm rút
quân bỏ trốn về Kinh Bắc, cùng với viên lưu thủ ở đó là Nguyễn Văn Hoà hợp sức
giữ lấy trấn thành, rồi sai lính cưỡi ngựa đưa thư về Thăng Long cáo cấp.
Lại nói,
Bắc bình vương Nguyễn Huệ từ mùa hè năm ngoái ra Thăng Long giết viên chủ tướng
tiết chế là Võ Văn Nhậm, rồi thay đổi quan quân, chỉnh đốn công việc, chuyển
giao cho các viên đại tư mã Ngô Văn Sở, nội hầu Phan Văn Lân, chưởng phủ Nguyễn
Văn Dụng, đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, thị lang bộ Hộ Trần Thuận Ngôn, thị lang bộ
Lại Ngô Thì Nhậm cùng giữ thành Thăng Long. Lúc sắp lên đường về Nam, Huệ mở
tiệc họp đông đủ mọi người, rồi nói:
Sở và
Lân là nanh vuốt của ta; Dụng và Ngôn là tâm phúc của ta; Tuyết là cháu của ta;
còn Nhậm thì vừa là bề tôi vừa là khách của ta, lại là dòng văn học Bắc Hà,
thông thạo việc đời. Nay ta giao cho các ngươi cả mười một trấn trong toàn hạt
(thời Lê, Bắc Hà gồm 11 trấn. Về sau, Quang Trung có chia lại). Những việc quan
trọng trong nước, đều cho tuỳ tiện mà làm. Mọi việc cùng nhau họp bàn ổn thoả,
chớ vì kẻ cũ người mới xa cách nhau. Ai nấy phải đồng lòng hiệp sức, lo chung
công việc để xứng đáng với sự trông mong của ta. Các ngươi hãy cố gắng nữa lên!
Mọi người đều đứng dậy lạy tạ và xin vâng mệnh.
Sau đó,
Bắc bình vương chọn ngày lên đường về Nam.
Từ khi
ấy, trên rừng dưới biển hễ có ai dám ngang ngạnh, Sở chỉ cần sai một viên tỳ
tướng đi đánh là dẹp tan được ngay. Các phủ huyện có đệ án kiện, giấy tờ lên
thì Sở cứ theo việc mà xử, không để ứ đọng. Trong những ngày rỗi, Sở thường
cưỡi ngựa qua các đường phố để mua vui, tự cho rằng ở Bắc Hà không còn việc gì
khó.
Một hôm,
mọi người cùng họp nhau ăn uống ở nhà hiệp nghị, Sở bảo Lân và
Tuyết
rằng:
- Chúa
công đem cả thành lớn giao phó cho ta, cũng ví như sai người cắt áo gấm mà chưa
thể tin là có biết cách cầm kéo hay không. Các ông thấy việc đó ra sao? Giả sử
có Tề thiên đại thánh từ trên trời rơi xuống hay Diêm vương từ dưới đất lên, ta
cũng chỉ quét một lưới là hết. Huống chi cái lũ tẹp nhẹp, chẳng qua chỉ để
người ta thử xem gươm có sắc hay không, chứ làm được trò trống gì?
Rồi Sở
ngoảnh lại bảo Ngô Thì Nhậm rằng:
- Quan
thị lang thật giỏi về nghề văn học, còn việc cung kiếm có thông thạo gì không?
Nhậm
nói:
- Có văn
tất phải có võ, văn võ không phải chia làm hai đường. Nhưng người xưa dùng
binh, gặp việc thì lo sao ngài lại lấy việc binh làm trò chơi mà coi thường như
thế? Tôi trộm nghe bọn người nước ta chạy sang bên Trung Hoa, trong đó có nhiều
người định xúi họ, mở mang bờ cõi, gây ra binh biến. Ngài chịu sự ký thác ở cõi
ngoài, e rằng không khỏi một phen bạc đầu vì lo lắng, đến lúc ấy ngài nên nhớ
đến lời nói của tôi.
Sở cười
và nói:
- Lúc ấy
sẽ phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc. Nếu không làm được như thế, thì
túi dao bao kiếm chính là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo?
Chẳng
bao lâu, nghe tin báo ở ngoài biên ải đưa về. Sở rất kinh sợ, tức thì hội họp
các quan văn võ cũ của nhà Lê, mượn tiếng Sùng nhượng công Duy Cận coi việc
nước, làm một bức thư đứng tên Duy Cận; lại giả danh các hào mục lập một tờ
trạng suy tôn Duy Cận làm giám quốc; rồi sai bọn quan văn là Nguyễn Quí Nha,
Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn, bọn quan võ là Nguyễn Đình Khoan, Lê Duy Chử, Nguyễn
Đăng Đàn đem bức thư và tờ bẩm tới cửa ải để xin hoãn binh. Một mặt, Sở họp với
bọn Văn Lân bàn việc đánh giữ. Chưởng phủ là Nguyễn Văn Dụng nói:
- Trộm
nghe hồi cuối đời Trần, người Minh sang lấn nước ta, có bọn Hoàng Phúc, Trương
Phụ, Mộc Thạnh, Liễu Thăng đều là những tướng Kiệt hiệt của Trung Quốc. Bấy giờ
vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở vùng Lam Sơn, thế lực không địch nổi họ. Nhưng hành
binh theo cách quỷ quyệt, lại hay dùng mưu mẹo khôn ngoan; rồi nhờ khéo dùng
cách mai phục, nhân lúc quân giặc không phòng bị mà đánh úp; cho nên có thể lấy
ít quân mà đánh được kẻ nhiều quân, vây Vương Thông ở bến Đông Bộ, giết Liễu
Thăng ở núi Mã Yên (Bến Đông Bộ tức bến Đông Tân ở khúc sông Nhĩ Hà, Hà Nội.
Núi Mã Yên ở xã Mai sao thuộc huyện Ôn Châu, Lạng Sơn) võ công tuyệt lạ, ngàn
thủa ngợi khen. Nay người Thanh ở xa đến đây, phải trèo đèo vượt suối, ta lấy
quân nghỉ ngơi mà đón đánh quân nhọc mệt, nhắm trước các nơi xung yếu, cho quân
nấp sẵn để chờ; cứ làm theo kế ấy, lo gì mà không thắng?
Thì Nhậm
nói:
- Không
phải thế! Ông chỉ biết một mà chưa biết hai. Việc thiên hạ, tình tuy giống nhau
mà thế có khác nhau, sự đắc thất do đó cũng khác hẳn. Xưa kia, nước ta bị phụ
thuộc vào Trung Quốc, quân Minh buông tuồng làm điều tàn bạo. Người cả nước ai
cũng muốn đuổi chúng đi. Cho nên vua Lê Thái Tổ chỉ gọi một tiếng là xa gần
hưởng ứng, hào kiệt trong nước kéo đến như mây tụ. Mỗi lúc đánh nhau với giặc, người
trong nước chỉ lo quân mình bất lợi. Mỗi khi có tin thắng trận, ai nấy đều hết
sức vui mừng. Lòng người như thế, nên hễ chỗ nào có quân mình mai phục, thì
người ta đều giấu kín cho, khiến giặc không hề biết. Sở dĩ thắng được giặc, đều
bởi cớ ấy. Ngày nay, những người bề tôi trốn tránh của nhà Lê, đâu đâu cũng có
nghe tin quân Thanh sang cứu, họ đều nghển cổ mà trông. Sĩ dân cả nước, giành
nhau mà đón chúng. Quân ta mai phục ở đâu, địa thế hiểm hay không, số quân
nhiều hay ít, quân giặc chưa biết thì họ đã báo trước với chúng. Chúng sẽ nhân
kế của ta mà lập kế của chúng, rồi bốn mặt kéo đến vây bắt. Quân cơ đã bị tiết
lộ, tự nhiên mất hết điều tiện lợi. ấy là mình tự hãm mình vào chỗ chết. Còn
hòng đánh úp được ai?
Binh
pháp có nói: "Khéo che đậy không khi nào không thắng, vụng che đậy
không
khi nào không thua". Được thua khác nhau là do ở chỗ xưa với nay
khác
nhau vậy!
Sở hỏi:
- Vậy
thì nên làm thế nào? Nhậm trả lời:
- Phép
dụng binh chỉ có một đánh một giữ mà thôi. Nay quân Thanh sang đây, tiếng tăm
rất lớn. Những kẻ trong nước làm nội ứng cho chúng, phần nhiều là phao tin đồn
nhảm, làm cho thanh thế của chúng to thêm, để cho lòng người sợ hãi lay động.
Quân ta có ai được sai phái đi đâu, vừa ra khỏi thành là đã bị bắt giết. Số
người Bắc Hà thuộc vào sổ quân của ta, hễ gặp dịp sơ hở là bỏ trốn liền. Đem
đội quân ấy mà đánh, không khác gì xua bầy dê đi chọi cọp dữ, không thua sao
được? Đến như việc đóng cửa thành mà cố thủ, thì lòng người đã không vững, ắt
thế nào cũng sinh ra mối lo ở bên trong. Dầu cho Tôn, Ngô (tức Tôn Võ, người
nước Tề đời Xuân Thu, và Ngô Khởi người nước Vệ đời Chiến quốc; hai nhà quân sự
nổi tiếng của Trung Quốc thời xưa) sống lại, cũng phải bó tay, không thể làm
được gì. Thật chẳng khác gì đem một con chạch bỏ giỏ cua. Xin nghĩ kỹ mà xem!
Đánh đã chẳng được, giữ cũng không vững. Vậy thì cả hai chước đánh và giữ đều
không phải là kế hay. Nghĩ cho cùng thì chỉ còn một cách này: sơm sớm truyền
cho thuỷ quân chở đầy các thuyền lương, thuận gió giương buồm, ra thẳng cửa
biển, đến vùng Biên Sơn mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới, gióng trống lên
đường, lui về giữ núi Tam Điệp. Hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ
hiểm yếu, rồi cho người chạy giấy về bẩm với chúa công. Thử xem quân Thanh đến
thành, khu xử việc nhà Lê ra sao? Vua Chiêu thống sau khi phục quốc, xếp đặt
việc quân việc nước thế nào? Chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một phen
cũng chưa muộn gì.
Sở nói:
- Chúa
công về Nam, đem thành này giao phó cho ta. Giặc đến thì phải sống chết với
giặc, còn mất với thành, trên không thẹn là kẻ bề tôi giữ đất, dưới không phụ
chức trách cầm quân. Nếu mới thấy bóng giặc đã trốn, bỏ thành cho giặc, chẳng
những mang tội với chúa công mà người Bắc còn coi ta ra cái gì?
Nhậm
nói:
- Tướng
giỏi thời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động,
tuỳ theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ. Giống như đánh cờ, trước thì
chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước; đừng có đem nước sau
làm nước trước, đó mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút
lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng
như ngọc bích của nước Tấn đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì. Nếu có vì
thế mà mắc lỗi, tôi sẽ xin bộc bạch với chúa công, thế nào cũng được chúa công
lượng xét, xin ông chớ nghi ngại. Sở bèn nghe theo, rồi mật truyền cho các viên
trấn thủ ở Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn một mặt nói phao là đem quân đắp luỹ
ở sông Như Nguyệt, một mặt cất lẻn rút quân về. Lại tư cho các viên trấn thủ ở
Hải Dương, Sơn Tây, hẹn ngày họp quân ở thành Thăng Long. Còn trấn Sơn Nam thì
sắp sửa thuyền bè, chờ thuỷ quân đến sẽ cùng xuất phát.
Qua năm
ngày, các đạo quân đều kéo đến đầy đủ, cùng dự cuộc duyệt lớn ở bãi sông. Rồi
đó, Sở hạ lệnh cho quân bộ sắp sẵn lương khô để chờ sai phái. Trước hết, Sở cho
thuộc tướng là Đặng Văn Chân đốc suất lính thuỷ đi xuống phía đông. Cắt đặt vừa
xong, thì trời sập tối, chợt thấy bọn Nguyễn Quí Nha, Nguyễn Đình Khoan từ trên
ải Nam Quan chạy về nói rằng: khi họ đến Nam Quan, bị bọn lính canh cửa ải của
nhà Thanh ngăn chặn không cho sang; hiện nay quân Thanh đã qua Nam Quan, quân
bộ và quân kỵ của đội tiền phong đã tiến đến địa phận huyện Phượng Nhãn và đóng
tại đó. Sở liền họp các tướng, định rút lui. Phan Văn Lân nói:
- Quân
không cứ nhiều, nước không cứ lớn. Nay ta làm tướng cầm quân ở ngoài, giặc đến
chưa từng đón đánh, chỉ mới nghe tiếng doạ hão đã vội rút lui, thì còn làm
tướng làm gì nữa? Tôi xin đem một ngàn quân tinh nhuệ, đến thẳng sông Như
Nguyệt, đánh nhau với chúng một trận, xem khí thế của chúng ra sao và người Nam
với người Thanh ai khoẻ hơn ai, để cho chúng biết rằng bọn ta cũng không phải
là hèn nhát. Đó cũng là sự tính toán tất thắng trước dùng thanh thế của mình để
đè bẹp bên địch vậy!
Sở cũng
cho là phải.
Lân bèn
đem quân qua sông đi sang phía bắc. Canh ba tới bờ phía nam sông Như Nguyệt,
nghe tin quân của Tôn Sĩ Nghị đã đóng ở núi Tam Tằng. Lúc ấy tiết trời giá rét,
lân kéo quân qua sông thách đánh. Tướng sĩ vốn sợ oai của Lân, phải liều với
khí lạnh mà lội bừa xuống nước. Ra đến giữa sông, những kẻ cóng quá không thể
qua được, đều bị chết đuối. Còn những kẻ vào tới được bờ cũng đều bị quân Thanh
giết chết. Lân liệu chừng không thể giao chiến được nữa, liền vẫy quân chạy
lui. Đám quân tan vỡ trốn vào các làng, đều bị dân chúng bắt nộp cho quân
Thanh. Lân chỉ trơ một mình một ngựa mà chạy về.
Sở sợ
quá, giấu kín việc bại trận không cho ai biết, rồi truyền lệnh cho các đạo quân
nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đúng giữa trưa, đi qua Phú Xuyên (thuộc Hà Đông (Hà
Sơn Bình)), người ta mới biết là Sở rút quân. Hôm sau tới huyện Yên Mô (thuộc
Ninh Bình (Hà Nam Ninh)), Sở sai chia quân đóng đồn dọc theo ven núi Tam Điệp,
thẳng đến bờ biển, hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau để cố thủ.
Trước
đó, vua Lê đang lẩn lút ở vùng Kinh Bắc, Lạng Sơn, nghe tin Tôn Sĩ Nghị đưa
hịch sang nước Nam và hẹn ngày đến cửa ải, nhà vua bèn bí mật sai người đi gọi
nghĩa sĩ bốn phương. Các quan văn võ nghe tin, cũng đều khuyên bảo hào mục các
địa phương, nhóm họp hương binh để chờ đợi.
Rồi đó,
vua sai Lê Duy Đản đem thư lên cửa ải để yết kiến Tôn Sĩ Nghị, bẩm rõ tình hình
trong nước với Nghị và nói rằng: Tự quân vừa bị cảm hàn, không thể đi đường,
xin chờ đón ở trấn thành Lạng Sơn.
Đến khi
nghe tin quân Tây Sơn rút lui, vua mới truyền cho các đạo quân cần vương đều
tới nơi hành tại; rồi kén lấy hạng khoẻ mạnh một ngàn người sung làm quân túc
vệ ở doanh vua; còn bao nhiêu thì giao cho các tướng lập thành đội ngũ, ai đem
bộ thuộc của người nấy chia giữ các trấn. Trần Quang Châu lĩnh trấn Kinh Bắc.
Nguyễn Đạo lĩnh trấn Hải Dương. Hoàng Tố Nghĩa lĩnh trấn Sơn Nam. Hoàng Phùng
Tứ lĩnh trấn Sơn Tây. Mọi người đều vâng mệnh đi tới lỵ sở. Riêng Trần Quang
Châu thì ở lại hành doanh bảo vệ xa giá.
Châu xin
dời xe vua về trấn Kinh Bắc, sửa sang thành luỹ, xây dựng nhà cửa để chờ quân
Thanh. Vua nghe lời.
Đoạn nhà
vua lại sai bọn binh chương Phạm Đình Dữ, tham tri Vũ Trinh đem thiếp thỉnh an
lên đất Hoà Lạc gặp Sĩ Nghị, nói rõ: Hiện nay đã phái quân chia đi kinh lược
bốn trấn ở ngoài đô thành, lùng bắt bọn giặc lẻn trốn ở các nơi. Xin đưa một số
thổ sản nhỏ mọn là mười con trâu, một trăm vò rượu, làm lễ khao quân, ngước
trông thu nhận cho.
Vua lại
truyền phải sức cho các kỳ lão và các xã dân mấy huyện ven đường, sửa soạn đón
rước quân Thanh.
Đại quân
của Sĩ Nghị đi sang phương Nam, dọc đường đều thuận lợi thông suốt. Kịp khi tới
núi Tam Tằng đóng quân lại, đến đêm, tuy Phan Văn Lân định quấy rối, nhưng bị
giá rét làm cho thương tổn, nên Nghị chưa đánh mà quân Lân đã tan. Ngô Văn Sở
nghe tin cũng thu quân bỏ chạy cả đêm từ lâu rồi. Thế là trên đường tiến quân
không còn ai dám ngăn trở Nghị. Do đó, Nghị không hề lo sợ mà lại có vẻ kiêu
căng. Mới thấy Vũ Trinh, y liền hỏi: - Lúc đại binh ra cửa ải, trước hết đã có
đưa hịch sang bá cáo, quân giặc sợ hãi đã ôm đầu chạy trốn. Nghĩ rằng thần dân
bên ấy, ai lại không phấn chấn nổi dậy? Dựa vào oai trời mà lo giết giặc nước,
chẳng mấy chốc sẽ có thể thành công, sao cứ một mực nhu nhược, để chúng được
chạy trốn một cách rảnh rang? Bây giờ đại binh đã đến địa giới nước mình mà các
người vẫn tuyệt nhiên không làm nên công trạng gì. Như thế, còn gọi là nước có
người được chăng?
Trinh
nói:
- Nước
nhỏ này tự mình không thể làm được việc, mới đến nỗi phải gõ cửa ải cầu cứu.
Nếu sức của chúng tôi có thể chế ngự được chúng thì đâu dám phiền đến đại binh?
Nay cụ lớn lấy điều đó quở trách, tôi còn biết nói làm sao? Xin thưa về tình
hình của giặc. Nguyễn Nhạc sinh trưởng ở vùng Tây Sơn, có sào huyệt hiểm yếu để
nương tựa. Nguyễn Huệ là tay lão luyện về trận mạc, lại nắm giữ đội quân hùng
mạnh. Từ khi kéo quân về Nam, anh em chúng đánh lẫn nhau. Nhạc ở Tây Sơn, Huệ
chiếm Thuận Hoá, ai nấy tự xưng hùng, kẻ đế, người vương. Còn ở quốc thành của
nước tôi, chỉ có đồ đảng của chúng là bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân mà thôi.
Được tin thiên binh đến, bọn chúng chưa biết hư thực thế nào, nên hãy thu quân
tạm lánh.
Nhưng
nghe đâu bọn chúng đóng quân chặn ở núi Tam Điệp, ngăn hẳn từ đất Trường Yên
(tên phủ, thuộc Ninh Bình, giáp liền với Thanh Hoá) về Nam, mưu đồ lại tiến ra
đất Bắc lần nữa. Một tên tỳ tướng, còn kiệt hiệt như thế, huống chi tên đại tù
trưởng của chúng? Nếu không dùng đạo binh thật lớn mà đánh, làm sao có thể bắt
sống được chúng? Nước tôi sau khi loạn lạc tan tác, tướng ít quân hèn, sợ rằng
khó lòng làm xong việc. Nhờ oai linh lừng lẫy của cụ lớn, tên tù trưởng mọi rợ
sợ oai phải đến hàng, đó là điều mong mỏi của nước nhỏ này.
Nghị
cười mà rằng:
- Nước
ngươi vì bị tàn ngược đã lâu, mất cả tinh thần khí khái, nên động một tý là đem
hùm sói doạ nhau. Theo ta xem xét thì chúng chỉ như hạng trâu dê, sai một người
đem thừng buộc lấy cổ mà lôi về, hẳn cũng không khó gì. Đợi khi quân ta đến La
Thành, nhổ bãi nước bọt xoa tay là làm xong việc. Ngươi hãy chờ mà xem!
Lúc Nghị
tới trấn Kinh Bắc, vua Lê tự đem các quan đến chào, Nghị yên uỷ rằng:
- Quý tự
("Quý tự" là người nối nghiệp tôn quý, đây trỏ Chiêu Thống) mắc phải
nạn lớn đã nhiều năm, nhờ đức đại hoàng đế thương xót, sai bản chức đem quân hộ
tống mẹ và vợ ngài về nước. Chuyến này sang đây, giúp việc kinh lý, trước hết
cần bắt cho hết đảng giặc, rồi sau chỉnh đốn quy mô, làm kế lâu dài. Bao giờ
mọi việc đều muôn ngàn lần ổn thoả rồi, bấy giờ mới rút quân, xin chớ lo gì về
việc nước nữa.
Vua Lê
nói:
- Đội ơn
đại hoàng đế, đức cả như trời, không sao hình dung được cho hết. Lại nhờ cụ lớn
hạ mình tới đây, khiến cho nước chúng tôi được thấy ánh sáng của áo cừu, đai
ngọc, được thoả lòng ngửa trông sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn. Mối tình vui mừng,
kính mến, không sao kể xiết!
Rồi nhà
vua mời Nghị vào dinh nghỉ tạm. Nghị nói:
- Đây
cách quốc thành không xa, cần đi ngay, không nên dùng dằng.
Nghị
liền sai bắn chín phát súng và nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi.
Chập
tối, đến bờ bắc sông Nhĩ Hà, vua Lê xin qua sông vào kinh thành trước, rồi sai
sắm sửa giường màn ở điện Kính Thiên, mời Nghị vào ở, Nghị không ưng, nói:
- Chỗ ấy
không phải là hành doanh của đại tướng, đối với việc quân có nhiều điều bất
tiện.
Đoạn
Nghị truyền lệnh chia quân đóng ở nơi quang đãng trong hai bãi cát
phía bờ
nam và bờ bắc sông Nhĩ Hà; lại sai bắc cầu phao trên mặt sông để tiện đi lại.
Hôm ấy nhằm ngày 11 tháng 11 năm Mậu thân (1788). Hôm sau, vua thân hành đến
chờ đón ở doanh của Nghị.
Nghị sai
người bày biện nghi trượng rất long trọng ở điện Kính Thiên, rồi truyền cho
trăm quan tới hầu. Vua Lê đội mũ miện, mặc áo cổn quỳ ở giữa sân. Nghị dẫn bọn
liêu thuộc đến, rồi tuyên đọc tờ sắc của hoàng đế nhà Thanh phong cho vua Lê
làm An Nam quốc vương. Trong tờ chế phong vương, đại lược nói rằng:
"Chia
ra cõi bờ mười ba đạo, không phải tham gì đất đai này; đã lo chức cống ba trăm
năm, há chẳng nghĩ đến tổ tông trước?...".
Xong lễ
thụ phong, vua bèn theo lệ thảo tờ biểu tạ ơn, xa trông cửa khuyết mà lạy tạ,
rồi nhờ Nghị cho đệ tờ biểu đi. Nghị nhận lời.
Tuy vua
Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu
Càn-long. Vì có Nghị ở đấy nên không dám dùng niên hiệu Chiêu thống. Ngày ngày
sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc
nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ
vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết,
thì họ nói riêng với nhau rằng:
"Nước
Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê
hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn-long, việc gì
cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?". Nghị cũng
ngông nghênh tự cho mình là tôn quý; có lúc vua tới yết kiến, y không buồn
tiếp, chỉ cho người đứng ở dưới linh các truyền bảo: "Hôm nay không có
việc quân, việc nước gì. Hãy về cung yên nghỉ!".
Lễ ý và
sự thù tiếp của y đối với nhà vua hết sức sơ sài như vậy. Còn đối với quân
lính, thì y lại hay dung túng cho chúng mặc sức làm điều phi pháp. Trước kia,
người Trung Hoa ngụ cư ở các nơi như phường Hà Khẩu (khu vực phố Hàng Buồm, Hà
Nội bây giờ) ở đô thành, phố Cơ Xá ở trấn Kinh Bắc và phố Hiến Doanh (nay là
Hưng Yên (Hải Hưng)) ở trấn Sơn Nam có tới hơn vạn người. Đến lúc ấy, bọn họ
đều đến bám theo các đồn quân của Nghị, hoặc lập riêng ra điếm Liễu để. Bọn họ
thông thạo tiếng nước Nam, am hiểu phong tục tập quán nước Nam; do đó, họ liền
nhân cơ hội kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức cướp bóc những
nhà giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn
bà, không còn kiêng sợ gì cả. Nhân dân ở quanh kinh kỳ luôn luôn bị khổ sở với
bọn họ.
Vua Lê
tuy biết sự tệ hại ấy, nhưng đã trót mời quân Thanh sang, chỉ sợ vì việc đó mà
làm mếch lòng chúng, nên cũng khó ăn khó nói.
Nghị
cũng không phải không biết tình trạng như vậy, song cũng mặc cho bọn ấy tha hồ
làm bậy, không hề ngăn cấm gì hết.
Lại nói,
từ khi vua Lê trở về kinh thành, các quan văn võ trước kia phiêu bạt đều lục
tục kéo đến lạy mừng. Vua bèn ban thưởng cho những người đã từng theo đi trốn,
hoặc những người có công giúp đỡ. Phong cho Phạm Đình Dữ làm thượng thư bộ Lại,
kiêm bình chương sự, Nguyễn Huy Túc làm đồng bình chương sự, Lê Duy Đản, Vũ
Trinh đều làm tham trí chính sự, Nguyễn Đình Giản làm thượng thư bộ binh, kiêm
tri xu mật viện sự, Nguyễn Duy Hiệp, Chu Doãn Lệ làm đồng tri xu mật viện sự,
Trần Danh án làm phó đô ngự sử, Lê Huy Tấn, Phạm Quí Thích làm độ chi bộ Hộ, Lê
Xuân Hạp, Ngô Vi Quí làm đồng tri binh chính, Lê Quýnh làm quân trung uý đốc,
tước quận công, lĩnh quân cần vương theo Tôn Sĩ Nghị lo liệu và xử trí việc
quân. Ngoài ra, các quan liêu trong ngoài đều về các dinh thự làm việc như cũ.
Viên phó hiến ở trấn Kinh Bắc là Ngô Tưởng Đào lấy cớ già ốm, từ chối không
nhận chức, và dâng sớ nói rằng:
"Vận
trời đang lúc gian truân, không ngờ lại được thấy bóng mặt trời, thật là cái
phúc vô cùng của xã tắc. Thần trộm nghĩ rằng: Việc binh cốt phải mau chóng. Nếu
cơ hội có thể làm được, hà tất việc gì cũng cứ giao phó cho quân nước ngoài để
đến nỗi dềnh dàng ngày tháng. Hiện nay quân cần vương các lộ, ai không muốn hết
lòng hết sức lập công ít nhiều? Nhân khi quân giặc vừa rút lui, ta nên lập tức
đem đại binh đuổi sát gót, như tiếng sét chớp nhoáng không kịp bịt tai, bọn
ngông cuồng giảo quyệt kia ắt chẳng còn thì giờ để mưu tính. Hai xứ Thanh, Nghệ
nghe tin, chắc cũng sẽ hưởng ứng. Nguyễn Huệ bị ngăn cách ở phía nam Hoành Sơn.
Sở và Lân chơ vơ ở đấy, hình thế cách trở, không liên lạc được với nhau; không
ngoài mười ngày ta có thể bắt được bọn chúng. Vây cánh của chúng đã bị cắt đứt
thì sào huyệt của chúng cũng có thể lần lượt bị san bằng. Thần ngu dại cho rằng
cái cơ trung hưng chính là ở lúc này, không thể bỏ qua".
Tờ sớ ấy
đưa tới, vua trao cho bọn Nguyễn Đình Giản xem, ai cũng cho là phải. Riêng Lê
Quýnh chống lại mà rằng:
- Sức
mình không địch nổi, mới phải cầu cứu. Hành doanh quan đốc bộ còn ở đây, việc
quân mình không bẩm trước, lại tự tiện mà làm, việc xong thì thôi, vạn nhất bị
vấp ngã, họ sẽ đổ cho ta làm lỡ quân cơ, rồi rút quân về cửa ải, ngồi xem mình
làm; như vậy việc lớn sẽ hỏng mất. Chi bằng để thần đến trình bày trước, xin họ
chỉ bảo phương lược và hợp sức với mình, như thế là được cả hai việc.
Vua cho
là phải. Quýnh bèn đến dinh Nghị, nói về việc đó. Nghị trả lời:
- Việc
gì mà phải vội vã như vậy? Ví như thò tay lấy đồ vật ở trong túi, đến sớm lấy
sớm, đến muộn lấy muộn đó mà thôi. Bây giờ đã sắp hết năm, đại quân xa xôi tới
đây, cần phải nghỉ ngơi, không nên đánh vội. Giặc gầy mà ta đang béo, hãy để
chúng tự đến nộp thịt. Nhưng, nếu nước ngươi đã có lời xin như thế, thì hãy nên
tính tự đô thành về nam chứng sáu chục dặm, chia làm ba nơi mà đóng quân; đó
chính cũng là cách canh gác từ xa để đề phòng bất trắc vậy. Còn đối với bọn
giặc, thì các ngươi cứ chờ đến đầu năm mới ta sẽ cho trẩy quân tiến đánh cũng
chưa muộn!
Sau đó,
Nghị sai đắp luỹ đất, một ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết, huyện Thanh Liêm, một ở
làng Nhật Tảo huyện Duy Tiên, một ở làng Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì rồi chia
quân ra mà đóng giữ.
Từ bấy
giờ trở đi, vua Lê chỉ lấy Nghị làm chỗ dựa vững chắc nhất. Còn các quan thì
cũng không ai nói năng gì đến chuyện xuất quân phục thù nữa.
Lê Quýnh
suốt ngày say mê tửu sắc; ân oán riêng dù bằng cái tơ, sợi tóc cũng đều đền báo
không hề sót. Quýnh lại còn xui vua rằng:
- Trước
đây lúc nhà vua gặp nạn, hoàng thân và bọn quan trong triều, nhiều kẻ lấy tai
hoạ làm điều may mắn, vui mừng, khai hết tình hình với giặc, cam tâm làm chó
săn, chim mồi cho chúng để mưu đồ giàu sang, ngược đạo lý, trái nhân nghĩa,
không gì hơn thế. Thần xin được trị tội bọn đó, để thiên hạ biết rằng danh phận
cương thường không thể rối loạn. Đó cũng là việc cần kíp, không nên dung túng
bỏ qua, khiến cho kẻ ác, người thiện không có gì phân biệt.
Vua cho
là phải, bèn giao cho các quan đình thần họp bàn.
Mọi
người đều tâu, năm ngoái thượng thư bộ Hình kiêm bình chương Trần Côn Xán đi xứ
Tây Sơn, vì không chịu khuất phục, bị địch giết hại, thật là đáng thương; xin
cho quan về tế tại nhà và thăm viếng các người con. Vua nghe lời, bèn tự tay
thảo bài văn tế, trong có câu: "Tiết lớn nghiêng non lật biển, cùng sương
thu nắng lửa tranh hơn; lòng son yêu nước trung vua, gặp đốt rắn rễ chùm càng
tỏ". Lại bàn sang đến tội của bọn phản nước theo Tây Sơn: Lúc vua đi trốn,
trấn thủ Tuyên Quang là Phạm Như toại bắt em vua là Duy Tụ đem nộp cho địch;
phò mã uý Nguyễn Bành dẫn quân địch đuổi tìm chỗ vua ở; theo luật phải tội chém
ngang lưng; Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích đem thân theo địch, lại nhận chức tước
của chúng, đều truất làm dân, về làng gánh vác sai dịch; Nguyễn Hoàn, Phan Lê
Phiên quì gối ở sân địch; Trương Đăng Quĩ đi theo xe vua, giữa đường bỏ dở, đều
bị giáng làm chức tư huấn; Nguyễn Quí Nha, Trần Bá Lãm, Vũ Huy Tấn, viết thư mạo
xưng là giám quốc Sùng nhượng công, để mong xin hoãn binh cho địch, đều bị hạ
ngục; Nguyễn Bá Khoan vì là kẻ võ biền, lại già nua, dốt nát không biết gì, nên
được miễn tội.
Bấy giờ
Quýnh nghe nói Nha mới ở Cao Bằng về, vàng bạc đầy xe, bèn sai người đòi lấy
hai chục lạng vàng, rồi nói rõ cho vua biết. Vua cười mà bảo rằng:
- Bớt
chỗ nhiều để bù chỗ ít, mặc ngươi làm chi thì làm, không hề gì!
Ngoài
ra, có ba người chú vua liên lạc với Tây Sơn, lại gả con gái cho họ, đều bị vua
ngầm sai người bắt đem chặt chân, rồi vất xuống cái giếng ở trong cung (theo
Cương mục thì Chiêu Thống còn sai mổ bụng cả một tôn nữ đang có mang, vì người
con gái này đã lấy viên tướng Tây Sơn. Do đó, lòng người dần dần ngờ vực, không
nhất trí).
Kịp khi
ấy, thái hậu ở Cao Bằng về, vừa tới kinh, thấy vua chỉ thích làm những việc báo
ân báo oán trái với phép thường như vậy, bèn nổi giận nói:
- Ta
phải trèo đèo lội suối khó nhọc vất vả, mới xin được quân sang đây...
Phỏng
chừng nhà nước chịu được mấy phen ơn, thù phá hoại như thế? Nếu cứ cách ấy mà
làm thì trị sao được thiên hạ? Gái già này lại đến làm đứa lưu vong mất thôi!
Rồi thái
hậu gào khóc, không chịu vào cung.
Vua bèn
ngầm sai Nguyễn Huy Túc khuyên giải thái hậu. Túc vào thưa với thái hậu rằng:
- Ngước
trông đức hiếu sinh của thái hậu như là trời đất, cố nhiên phải lấy thế làm lạ.
Nhưng hình phạt là phép lớn của nước, cho nên Chu công phải giết Quản, Thái;
nước Lỗ phải đánh thuốc độc giết chết Thúc Nha (Quản Thúc, Thái Thúc là em Chu
công, định giúp Võ Canh là con vua Trụ nổi loạn. Chu công liền đem giết Quản
Thúc và đày Thái Thúc. Thúc Nha là bà con của vua nước Lỗ, có tội phải chạy ra
nước ngoài, sau định xin tha tội để trở về nước, nhưng người nước Lỗ không
nghe, bắt uống thuốc độc chết). Người xưa cũng không vì chỗ họ hàng hay quen
biết mà bỏ pháp luật. Mong rằng lượng trên khoan hồng, để cho hoàng thượng được
làm việc nước thì thật là vạn phúc!
Thái hậu
nể Túc có công lớn theo hầu khi mình đi trốn, không nỡ trái lời Túc, đành gắng
gượng nghe theo, song thật ra trong bụng vẫn không cho là phải. Thái hậu bèn
vào cung.
Lúc bấy
giờ là tháng mười hai, sắp đến ngày tết Nguyên đán. Quan coi lễ tâu xin đến
ngày 25 thì phong ấn cất đi (cuối năm làm lễ cất ấn (hạp ấn) để nghỉ việc ăn
tết). Các lễ trong miếu xã, triều đình đều chiếu theo lệ thường mà làm. Riêng
quan đại soái của thiên triều ở xa xôi tới, thì về phần vật phẩm cung đốn, xin
theo như lệ thết đãi sứ thần sang phong vương mà thêm gấp lên một lần nữa. Các
quan và quân lính cũng đều cho phép nghỉ mười ngày, để cùng vui đón tiết xuân.
Thật là:
Én sẻ trên nhà còn hớn hở
Đà đồng trong bụi chẳng lo âu
Chưa
biết việc tới ra sao? Chờ xem hồi sau phân giải.
Sách
Khổng tùng tử chép: Chim én chim sẻ ở trên nóc nhà, mẹ mớm cho con ăn mà không
biết rằng nhà sắp cháy. Đời Tấn, có Sách Tĩnh thấy con lạc đà bằng đồng để ở
cửa cung điện, liền đe rằng: "Mày sắp phải vứt vào bụi gai". ý nói
đời sắp loạn lạc. Đây ám chỉ bọn Sĩ Nghị, Chiêu Thống như đang ngồi trên đống
lửa, tai hoạ sắp đến mà vẫn nhởn nhơ không biết gì cả.
Hồi 14
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài
Lại nói,
Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi, như giẫm đất bằng;
ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng
Long, không mất một mũi tên, như vào chỗ không người. Từ xưa, các nhà cầm quân
chưa có khi nào được dễ dàng như thế. Cho nên y xem thường, cho là vô sự, không
cần phải đề phòng. Rồi đó, y lại càng thêm kiêu căng, buông tuồng, mặc cho quân
lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì
cả. Có kẻ đi ra khỏi thành đến hơn mười dặm, để kiếm củi đun, có kẻ đi tới các
chợ búa dân gian để buôn bán, hàng ngày sớm đi tối về xem như việc bình thường.
Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân.
Hễ ai nhắc đến tình hình giặc giã thì bọn họ đáp rằng: "Chúng nó như cá
chậu chim lồng, còn chút hơi thừa thoi thóp, không đáng nói đến. Vâng lệnh của
quan lớn đốc bộ, định đến ngày mùng 6 tháng giêng, nhân dịp đầu xuân sẽ xuất
quân kéo thẳng đến sào huyệt của quân Tây Sơn. Bọn giặc ấy nhất định sẽ lần
lượt bị bắt sống không một tên nào lọt lưới. Người Nam Hà sẽ đến mà xem!".
Thế là
người trong nước, kể cả các viên quan đã từng trốn tránh hồi xưa mà bấy giờ đã
được thấy lại bóng mặt trời, ai nấy mới đều yên tâm vui mừng về cuộc sum họp
trước mắt. Rồi họ dựa vào tổng đốc họ Tôn làm bức trường thành, không còn nghĩ
gì đến việc cung khuyết bị tàn hoang, không còn lo gì đến việc kẻ địch đang ở
nơi cửa ngõ; võ lặng, văn im, thảy đều bệ trễ.
Vừa lúc
ấy, có người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tới, nói với thái hậu rằng:
- Xe vua
trở về kinh thành, đã gần một tháng. Hiệu lệnh ban ra, chẳng qua mới đến các
vùng ứng Hoà, Thường Tín, Từ Sơn, Thuận Thành, Quảng Oai, năm lộ mà thôi. Còn
như từ Trường Yên về nam, Thanh Hoa là đất căn bản, lăng tẩm tiền triều ở đó,
Nghệ An cũng là quận chân tay, quân cấm và quân túc trực đều lấy người ở đấy,
thì nay vẫn bị mất về tay giặc, tin tức không thông, đó thật là điều đáng lo
rất lớn. Hiện nay, việc nước hư thực thế nào, thế giặc mạnh yếu ra sao, những
người đứng ngoài mà xem, không ai không biết. Trước đây, hoàng thượng gặp nạn
phải chạy, các quan trèo đèo vượt suối, khó nhọc vất vả đã hơn một năm, bao
nhiêu nhân tình chắc đã từng trải hết rồi, sao vẫn điềm nhiên không lo nghĩ gì
cả? Tổng đốc họ Tôn từ thượng quốc tới đây, thế nước và tình hình của giặc chỉ
biết đại khái. Đến như các miền, cũng có nơi xung yếu, noi bình thường, chia
đồn và mai phục, cần phải trù tính kỹ càng. Việc binh có lúc nên đánh, lúc nên
giữ, phải tuỳ cơ ứng biến trong chốc lát. Tất cả những điều ấy, họ làm sao mà
hiểu được rõ ràng, đích xác? Vả chăng, khi trước Lê Quýnh khai báo ở bên ấy,
nói rằng:
"Nhiều
nơi trong nước ta không chịu theo giặc, người chuộng nghĩa còn nhiều, lòng
người cũng có thể trông cậy, nếu được đại binh sang làm thanh viện thì công
việc khôi phục có thể thành...". Đó chỉ là một cách nói, để tổng đốc họ
Tôn không cho việc ấy là khó. Quýnh vì muốn chóng được quân sang cứu, cho nên
mới bịa ra lời nói hão để lừa dối họ. Họ cũng tưởng là thật, hăng hái tiến lên,
không còn lo nghĩ gì về sau. Cứ xem lời lẽ trong bài hịch, thì những điều họ
bắt buộc mình phải đương lấy, rất là nặng nề; còn họ thì chỉ lảng vảng ở bên bờ
sông, lấy thanh thế suông để doạ dẫm mà thôi. Không biết rằng, Nguyễn Huệ là
một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào
Nam, ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như
bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng
vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn
sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ
quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi? Họ chẳng qua chỉ là người
khách, chuyến này sang cũng cốt xem sự thế khó hay dễ để liệu bề tiến lui mà
thôi. Nhưng còn nhà nước của ta thì sao? Thái hậu có thể chạy sang đất Trung
Hoa một chuyến nữa chăng?
Thái hậu
giật mình nói:
- Đó
chính là tâm sự của gái già này, vẫn ngày đêm lo lắng mà chưa biết làm thế nào?
Rồi nhân
tiện, thái hậu đem việc đó nói lại với vua. Bấy giờ nhà vua mới hoảng sợ, liền
cùng bọn Quýnh đến doanh quân của Nghị tha thiết xin xuất quân. Nghị gọi Quýnh
đến mà căn vặn rằng:
- Người
nước mày nay quả thật không thể trông cậy được, thế thì lời cung khai của mày
trước đây ra sao? Dám lừa dối ta chăng?
Rồi Nghị
ngoảnh sang bảo vua:
- Tự
vương trẻ tuổi, chưa từng trải công việc, trước đây tới đón chào ta ở Lạng Sơn,
sao không nói cho rõ? Bấy giờ, nhân khi ta thắng, đè bẹp ngay lúc chúng đang
khốn đốn, há chẳng dễ dàng hơn hay sao? Nay đã bỏ lỡ cơ hội ấy, để chúng có thì
giờ thong thả mà bày mưu đặt chước, cách trị chúng cần phải tính toán cho chu
đáo, không thể hấp tấp. Vả lại, đã định đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ
xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa. Nếu muốn đi gấp thì cho phép vua
tôi nhà ngươi đem một đạo quân đi trước cũng được.
Vua lui
ra bảo với Quýnh rằng:
- Ngươi
từng dốc lòng với ta, việc nước cũng đã được quá nửa rồi. Vậy nay hãy cố gắng
làm cho tròn công trạng trước, đừng để người trong nước có thể bàn tán về ta,
và thiên triều có chỗ quở trách được ta.
Lại nói,
Lê Quýnh là người làng Đại Mão, huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành, Hà
Bắc) vốn là một tay phong lưu công tử, con trai của tiến sĩ triều Lê là Lê Doãn
Giản. Khi tuổi trẻ, Quýnh chỉ biết uống rượu, đánh bạc, việc văn việc võ đều
chưa hề luyện tập qua. Trước kia vì là con nhà quí tộc thân cận, nên được vào
làm gia thần nhà vua. Đến khi quân Tây Sơn tới xâm lấn, kinh thành thất thủ.
Quýnh vâng mệnh vua theo hầu thái hậu lên Cao Bằng, rồi bị quân giặc đuổi bắt,
phải chạy sang Trung Quốc. Vì Quýnh hơi biết chữ nghĩa, cho nên khi chuyện trò
với người Thanh, thường bịa ra nhiều câu khoác lác. Tôn Sĩ Nghị cũng không xét
đến chỗ đó, đem lời tâu lên, vua Thanh ưng thuận. Thế rồi may được khôi phục
lại nước nhà. Quýnh tự cho là công lao của mình. Sau khi về thành Thăng Long,
Quýnh chỉ lo đền ơn trả oán và công nhiên ăn của đút lót. Những tay hào kiệt
trong nước đều không ưa Quýnh. Vua cho là Quýnh có công, giao cho cầm quân.
Nhưng Quýnh, mắt còn choáng lộn bóng tinh kỳ, tai chưa nghe quen tiếng chiêng
trống, nói gì đến chuyện sắp đặt việc binh bị? Quýnh bèn mượn cớ không muốn xa
rời cạnh vua, xin vua truyền cho viên trấn thủ Sơn Tây đem quân bản bộ đóng
trước ở Giản Khẩu, để chặn đường ra của quân Tây Sơn. Đó là Quýnh cốt cho mình
khỏi phải ra trận; còn việc chinh chiến được hay thua, nước nhà còn hay mất,
Quýnh chẳng cần biết đến làm gì.
Nhắc
lại, Ngô Văn Sở sau khi đem các đạo quân rút lui, tức tốc sai Nguyễn Văn Tuyết
chạy trạm vào Nam cáo cấp. Một mặt chặn ngang đất Trường Yên làm giới hạn, đóng
thuỷ quân ở hải phận Biện Sơn, quân bộ thì chia giữ vùng núi Tam Điệp, hai mặt
thuỷ bộ liên lạc với nhau, ngăn hẳn miền Nam với miền Bắc. Vì thế, việc ở bốn
trấn đường ngoài không hề thấu đến hai xứ Thanh, Nghệ. Vì vậy việc quân Thanh
đến Thăng Long và việc vua Lê thụ phong ngày 22 tháng 11, từ Thanh Hoa trở vào,
không một người nào được biết. Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp, thì ngày
24 Tuyết đã vào đến thành Phú Xuân. Bắc bình vương tiếp được tin báo, giận lắm,
liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến
họp đều nói:
- Chúa
công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn phò của
mọi người chưa thật vững bền, nay nghe quân Thanh sang đánh, càng dễ sinh ra
ngờ vực hai lòng. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp
trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người rồi sau sẽ cất quân ra
đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa là muộn.
Bắc bình
vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân (ở địa phận xã An Cựu, huyện
Hương Trà, Thừa Thiên (Bình Trị Thiên)), tế cáo trời đất cùng các thần sông,
thần núi; chế ra áo cổn mũ miện, lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu
Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ
xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu thân
(1788).
Vua
Quang Trung tự mình đốc suất đại binh, cả thuỷ lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến
Nghệ An, vua Quang Trung cho vời người cống sĩ ở huyện La Sơn là
Nguyễn
Thiếp vào dinh và hỏi:
- Quân
Thanh sang đánh, tôi sắp đem binh ra chống cự. Mưu đánh và giữ, cơ được hay
thua, tiên sinh nghĩ như thế nào?
Thiếp
nói:
- Bây
giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không
biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh nên giữ ra sao.
Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan.
Vua
Quang Trung mừng lắm, liền sai đại tướng là Hám hổ hầu kén lính ở Nghệ An, cứ
ba suất đinh thì lấy một người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh
nhuệ. Rồi nhà vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn, đem số thân quân ở
Thuận Hoá, Quảng Nam chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới
tuyển ở Nghệ An thì làm trung quân.
Vua
Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên uỷ quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà
nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quân
Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong
khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương Bắc
(chỉ đất Trung Quốc) chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi
giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp
bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi,
ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng nữ vương, đời Tống có Đinh Tiên
Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các
ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy
nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. ở
các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài.
Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia.
Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại
trước. Nay người người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận
huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta
phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương
năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo
thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức
khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!
Các quân
lính đều nói: "Xin vâng lệnh, không dám hai lòng!".
Hôm sau,
vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi
đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón, đều mang gươm trên lưng mà xin chịu tội.
Vua
Quang Trung nói:
- Các
ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11
thừa tuyên (từ thời Lê Hồng Đức, các trấn ở Bắc Hà đều gọi là "thừa
tuyên"), lại cho tuỳ tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một
trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: "Quân thua chém
tướng". Tội của các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các
ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tuỳ cơ ứng
biến thì không có tài. Cho nên, ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các
ngươi, chính là lo về điều đó. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long
lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra
đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cớ rõ ràng.
Các ngươi đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kỳ
làm nội ứng cho chúng, thì các người làm sao mà cử động được? Các ngươi đã biết
nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên
trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy là
rất đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi Văn
Tuyết thì quả đúng như vậy... Thì Nhậm bèn lạy hai lạy để tạ ơn. Vua Quang
Trung lại nói:
Lần này
ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi
ngày, có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước
mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì
việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như
vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải
Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà
nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng? Bọn
Sở, Lân đều lạy tạ và nói:
- Chúa
thượng thật là lo xa, chúng tôi ngu dại không thể nghĩ tới chỗ đó. Hiện nay
phương lược tiến đánh ra sao, xin chúa thượng nhất nhất chỉ rõ để chúng tôi
tuân theo mà làm.
Vua
Quang Trung bèn sai mở tiệc khao quân, chia quân sĩ ra làm năm đạo, hôm đó là
ngày 30 tháng chạp. Rồi nhà vua bảo kín với các tướng rằng:
- Ta với
các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 Tết lập tức lên đường,
hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi
nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!
Sau đó
nhà vua truyền lệnh: Các viên tướng ở trung quân thuộc về doanh vua sai phái là
đại tư mã Sở; nội hầu Lân đốc suất tiền quân làm tiên phong; Hám hổ hầu đốc
suất hậu quân làm đốc chiến; đại đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết đốc suất tả quân,
trong đó gồm có thuỷ quân vượt biển vào sông Lục Đầu; rồi Tuyết vẫn kinh lý
vùng Hải Dương để tiếp ứng với mặt đông; còn Lộc thì đi gấp lên các hạt Lạng
Sơn, Phượng Nhãn, Yên Thế để chặn đường về của quân Thanh; đại đô đốc Bảo, đô
đốc Long đốc suất hữu quân, trong đó gồm quân voi và quân kỵ mã; Long xuyên qua
huyện Chương Đức, theo đường đến thẳng làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì để đánh
ngang vào đồn quân Điền Châu; Bảo thì thống đốc quân voi ngựa do đường Sơn Minh
ra làng Đại áng huyện Thanh Trì để tiếp ứng cho cánh hữu.
Cả năm
đạo quân đều lạy vâng mệnh lệnh, đúng ngày, gióng trống lên đường ra Bắc (theo
Cương mục thì trước khi tiến quân ra Bắc, vua Quang Trung có viết thư cho Sĩ
Nghị vờ xin đầu hàng để khiêu gợi lòng kiêu căng, khinh địch của Nghị. Theo Lê
triều dã sử, khi tiến quân ra Thăng Long vua Quang Trung bày cho quân lính cứ
ba người một tốp thay phiên võng nhau đi, thành ra quân trẩy đi liên miên không
phải dừng mà ai nấy đều lần lượt được nghỉ. Do đó, quân Tây Sơn đã hành binh
cực kỳ thần tốc).
Khi quân
ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước. Lúc đến sông
Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy
nốt. Vua Quang Trung liền thúc quân đuổi theo, tới huyện Phú Xuyên thì bắt sống
được hết, không để tên nào trốn thoát. Bởi vậy, không hề có ai chạy về báo tin,
nên những đạo quân Thanh đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi (thuộc Thường Tín (nay thuộc
tỉnh Hà Sơn Bình) và Thanh Trì (nay thuộc thành phố Hà Nội)) đều không biết gì
cả.
Nửa đêm
ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung tới làng Hà Hồi,
huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy, rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân
lính luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong
đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí
giới đều bị quân Nam lấy hết.
Vua
Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức,
bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính
khoẻ mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn; hai mươi người khác
đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ "nhất"; vua Quang Trung
cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi (theo Dã sử,
thì lúc này vua Quang Trung sai đốt hết lương thực và tự mình quấn khăn vàng
vào cổ để tỏ ý quyết chiến quyết thắng, không chịu lùi). Quân Thanh nổ súng bắn
ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun
khói lửa ra, khói toả mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân
Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân
Thanh lại tự làm hại mình.
Vua
Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước.
Khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao
ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh.
Quân
Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái
thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết (Cương mục ghi Sầm Nghi Đống
thắt cổ chết ở Loa Sơn (tục gọi gò Đống Đa). Theo Bang giao lục, trong chiến
dịch mùa xuân Kỷ Dậu, số quân Thanh bị chết là 27 vạn). Quân Tây Sơn thừa thế
chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại
bại.
Trước
đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ
gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc ấy, quân Thanh chạy về trông
thấy, càng thêm hoảng sợ, bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều mà trốn. Chợt
lại thấy quân voi từ Đại áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn
xuống đầm mực, làng Quỳnh Đô (thuộc Thanh Trì, Hà Nội), quân Tây Sơn lùa voi
giày đạp, chết đến hàng vạn người.
Giữa
trưa hôm ấy vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành (có
sách chép khi Quang Trung vào Thăng Long, chiếc chiến bào màu đỏ đã bị nhuộm đen
vì khói thuốc súng).
Nguyên
trước đó, đô đốc Long đốc suất hữu quân đã đem binh đến đóng ở làng Nhân Mục
huyện Thanh Trì. Lúc vua Quang Trung đang đánh với quân Thanh ở Ngọc Hồi, thì
sáng hôm ấy Long đã đánh tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng thuộc
huyện Quảng Đức (trại Khương Thượng tức làng Khương Thượng nay thuộc thành phố
Hà Nội). Quân Thanh tan vỡ bỏ chạy, Long liền tiến trước vào thành.
Lại nói,
Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở thành Thăng Long, tuyệt nhiên không nghe tin cấp báo gì
cả cho nên trong ngày Tết mọi người chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng,
không hề lo chi đến việc bất trắc. Nào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi.
Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cáo cấp. Thật là: "Tướng
ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên". Bọn ấy lại nói:
- Quan
quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. ở đây cách đồn Ngọc
Hồi không xa, sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới.
Tôn Sĩ
Nghị hoảng hốt sợ hãi, lập tức sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp dẫn
viên hàng tướng Tây Sơn là Phan Khải Đức đem nghĩa binh tới cứu; lại sai hai
mươi lính kỵ mã ở dưới trướng của mình cùng đi với Nghiệp, và dặn họ rằng:
- Trong
khoảng chốc lát, phải tiếp tục báo tin về ngay. Ý của Nghị chỉ lo có một mặt
đó, không ngờ lại có mặt khác ập tới. Canh tư đêm ấy, chợt nghe ở phía tây bắc
thành tiếng súng nổ đùng đùng không ngớt. Nghị vội sai người cưỡi ngựa ra xem,
thì nghe báo tin đồn quân Điền Châu tan vỡ, quân Tây Sơn đã vào cửa ô, đốt giết
lung tung, khói lửa bốc lên đầy trời rồi.
Tôn Sĩ
Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn
lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân
sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang
sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân
lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhĩ Hà vì thế mà tắc nghẽn không
chảy được nữa (có sách chép, đạo quân Vân-Qui lúc này mới kéo sang đến Sơn Tây,
nghe tin Nghị thua chạy, nên cũng vội vàng tìm đường tháo lui về).
Vua Lê ở
trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa
thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè
cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm thình lình gặp được chiếc thuyền đánh
cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc. Trưa ngày mồng 6 vua Lê và những người
tuỳ tòng chạy đến núi Tam Tằng, nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi đó. Bấy giờ
quân Thanh chạy về nước, trên đường đông nghịt như chợ, đêm ngày đi gấp, không
dám nghỉ ngơi. Vua đưa thái hậu cùng đi với họ đến đồn Hoà Lạc thì gặp một
người thổ hào. Hồi trước vua Lê chạy ra ngoài, người ấy đã được biết mặt; lúc
đó thấy vua, người ấy bất giác lệ rơi, nhân tiện mời vua vào trại trong núi tạm
nghỉ. Bấy giờ, vua Lê và những người tuỳ tòng luôn mấy ngày không ăn, ai nấy
đều đã mệt lử. Người thổ hào kia liền giết gà làm cơm thết đãi. Vua sai bưng
một mâm lên mời thái hậu; còn mình thì cùng ăn với bọn Quýnh, Hiến ở mâm dưới.
Ăn vừa
xong, chợt nghe tin quân Tây Sơn đã đuổi theo đến nơi. Vua cuống quít bảo người
thổ hào rằng:
- Muôn
đội hậu tình, không có gì để báo đáp, chỉ có trời cao đất dày chứng dám tấc
lòng thành của ông mà ban phúc cho thôi. Bây giờ quân giặc gần tới, trước mắt
đây có con đường sống nào có thể chạy gấp lên cửa ải, xin tính kế ngay cho.
Người
thổ hào vội vã sai con đưa đường, theo lối tắt trong núi mà đi. Trời nhá nhem
tối thì nhà vua đến cửa ải, theo kịp chỗ nghỉ của Tôn Sĩ Nghị. Một lát các viên
quan khác cũng lục tục theo đến, cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước
mắt. Tôn Sĩ Nghị cũng lấy làm xấu hổ.
Nhân
tiện, vua từ giã Sĩ Nghị và nói:
- Cô
(lối xưng nhún mình của các vua chúa đời xưa) không có tài, chẳng giữ nổi xã
tắc. Đội ơn tướng quân vâng chỉ của hoàng đế sang cứu viện; nào ngờ lòng trời
không giúp nước nhỏ, nay ngài lại bỏ mà đi. Kính chúc tướng quân về triều được
hai chữ "vạn phúc", Cô xin ở lại đất nước, thu nhặt dân binh, để tính
việc nổi lên chuyến khác. Xa nhờ oai linh, may được nên việc, đều là ơn của
tướng quân ban cho. Nếu như sự thế không xong, lại xin sang hầu tướng quân, như
thế cho tiện.
Nghị
nói:
- Nguyễn
Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi. Nay hãy dâng biểu tâu lên xin
quân, không đầy một tháng, đại binh sẽ lại tới. Chỗ này gần kề đảng giặc, ở lại
không tiện, hãy tạm vào Nam Ninh nghỉ ngơi để chờ thánh chỉ cũng được.
Vua Lê
nghe lời. Nghị bèn cùng bọn tướng tá thu nhặt tàn quân kéo về.
Vua lại
sai bọn Quýnh, Hiến ở lại để ngầm chiêu dụ những người trung nghĩa ở trong
nước. Còn vua thì cùng viên phụ đạo (tên gọi chức tù trưởng ở ngoại phiên) Cao
Bằng là Địch quận công Hoàng ích Hiểu, viên trấn thủ Kinh Bắc người làng Nộn
Liễu huyện Nam Đường là Lê Hân, viên đề lĩnh bốn thành người huyện Thư Trì,
trấn Sơn Nam là Phạm Như Tùng viên phó đề lĩnh người làng Thanh Tuyền, huyện
Nam Đường là Nguyễn Viết Triệu, viên thư tri công lượng chính người làng Nghĩa
Động, huyện Nam Đường là Lê Văn Trương, viên hiệp lý quân vụ, người làng Quỳnh
Côi, huyện Nam Đường là Phạm Trần Thiệu, người bà con bên vợ ở làng Tỳ Bà,
huyện Lang Tài là Nguyễn Quốc Đống, viên chưởng tứ bảo người làng Đồng Bảng
trấn Thanh Hoa là Lê Quý Thích, cùng đưa thái hậu theo Nghị sang Trung Quốc.
Thực là:
Bờ cõi chưa xong bề tính liệu,
Nước non buồn nỗi lúc chia ly.
Chưa
biết việc ấy ra sao! Hãy chờ hồi sau phân giải.
Hồi 15
Dẹp yên cõi Bắc,
Nguyễn Huệ được phong
Đánh phá Cao Bằng,
Duy Chỉ bị hại
Lại nói,
khi Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về nước, trong lúc vội vàng, không kịp thu nhặt đồ
đạc. Đến khi tới huyện Phượng Nhãn lại nghe nói tướng Tây Sơn là Đắc lộc hầu
đem quân từ mặt đông kéo lên chặn đường, đã gần tới nơi, Nghị lại bị một phen
khủng khiếp, các vật cần thiết mang theo, đều phải vứt bừa ra giữa đường để
mong chạy thoát lấy thân mình. Cho nên những vật của vua Thanh ban cho như sắc
thư, kỳ bài, quân ấn đều bị quân Tây Sơn bắt được đem về.
Nguyên
mùa đông năm ngoái, theo lời xin của Nghị, vua Thanh đã truyền lệnh cho Nghị
đem quân ra ngoài cửa ải Nam Quan. Sau đó, vua Thanh lại có chỉ dụ bảo Nghị đi
từ từ, chớ có vội; hãy làm tờ hịch đưa sang trước làm thanh viện cho nhà Lê, rồi
thả bọn bề tôi nhà Lê về nước, tập hợp nghĩa binh, tìm tự tôn họ Lê, để cho ra
mặt đối địch với Nguyễn Quang Trung, thử xem sự thế ra sao? Nếu như lòng người
An Nam còn mến nhà Lê, lại được thiên binh kéo sang, thì ai chẳng hăng hái nổi
lên, và như vậy, Quang Trung ắt phải lui tránh. Bấy giờ sẽ bảo tự tôn họ Lê đi
tiên phong đuổi đánh còn Nghị thì đem đại binh tiếp theo, chắc là không khó
nhọc gì mà sẽ thành công. Đó là chước hay thứ nhất. Nếu như người trong nước,
nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Quang Trung nhất định sẽ không chịu
lui. Khi ấy, cần phải viết thư nói rõ hoạ phúc, xem hắn đối phó ra sao? Rồi chờ
cho thuỷ quân các tỉnh Mân, Quảng (Phúc Kiến và Quảng Đông, Quảng Tây) của ta
vượt biển đánh trước vào Thuận Quảng (Thuận Hoá và Quảng Nam), bấy giờ sẽ thúc
quân tiến lên. Quang Trung mặt trước mặt sau đều bị đánh, tất phải hàng phục.
Ta nhân đó mà bảo tồn cho cả hai. Thuận, Quảng về nam cho Quang Trung ở; Hoan,
ái (Nghệ An, Thanh Hoá) về bắc, phong cho tự tôn họ Lê. Rồi đó, đóng đại binh ở
nước ấy, xa xa kiềm chế họ, sau này sẽ có cách xử trí khác.
Đến khi
đại quân của Nghị ra khỏi cửa ải Nam Quan nghe tin quân Tây Sơn đã lui chạy,
tức thì Nghị sai chỉnh đốn đội ngũ, kéo thẳng đến đóng ở thành Thăng Long,
không còn lo lắng gì cả, vì thế mới thua một trận tan tành.
Bấy giờ
dân Thanh thái bình đã lâu, không biết gì đến việc binh, thấy Nghị tất tả chạy
về, nhân tình đều nhốn nháo sợ hãi. Tiếp đó lại nghe tin quân Tây Sơn đuổi đến
Lạng Sơn, nói phao lên rằng: "Sẽ giết hết rợ Hung Nô". Do đó, ở đất Trung Quốc, dân chúng lại càng nhốn
nháo. Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc, trai gái già trẻ, bồng bế dắt díu nhau
chạy trốn, suốt vài trăm dặm, lặng ngắt không còn bóng người.
Vua
Thanh được tin, giận lắm, lập tức hạ chỉ, sai viên quan ở nội các là Phúc Khang
An làm tổng đốc lưỡng Quảng, đem binh mã chín tỉnh sang kinh lý việc An Nam và
đòi Sĩ Nghị về kinh chịu tội.
Lại nói,
Nghị ở Thăng Long chạy đi, nhằm đêm mồng 5 tháng giêng. Đến trưa hôm ấy, vua
Quang Trung tiến quân vào thành.
Sau khi
đã hoàn toàn quét sạch quân Thanh, vua Quang Trung bèn đóng quân tại thành
Thăng Long, rồi hạ lệnh chiêu an. Phàm những người Thanh trốn ở các nơi, đều
bảo phải tới đầu thú, dân gian không được chứa chấp. Trong khoảng mươi ngày,
quân Thanh ra thú có đến hơn vài vạn, đều được cấp phát lương ăn áo mặc.
Nhân bắt
được chiếu thư và quân ấn do Sĩ Nghị bỏ rơi, vua Quang Trung bèn đưa cho Ngô
Thì Nhậm xem và bảo:
- Ta xem
tờ chiếu của vua Thanh, thì chẳng qua họ cũng chỉ cốt xem tình hình ta mạnh yếu
ra sao để mà định bề tiến lui, chớ còn việc nghĩa cử để dựng lại nhà Lê, không
phải là bản tâm của họ. Họ chỉ mượn tiếng để mưu đồ lợi riêng mà thôi. Nay họ
đã bị ta đánh thua, nhịn đi thì thẹn, báo thù thì khó. Vậy những tàn quân ta
bắt được, đều nên cấp lương và đưa hết lên cửa ải. Ngươi vốn giỏi về nghề văn
từ đối đáp, nên thảo ngay bức thư đưa sang cho họ, đại khái nói:
"Ta
là nước nhỏ, một lòng kính thuận, sợ mệnh trời, thờ nước lớn, sao dám có ý gì
khác. Trước đã có biển văn đệ sang, bị ngài tổng đốc họ Tôn dìm đi, không thấu
đến bề trên được. Gần đây, ta từ miền Nam tới, vốn là muốn biện bạch lòng thật
thà với ngài tổng đốc họ Tôn. Không ngờ đường sá đồn nhảm, làm to thanh thế của
ta, khiến cho mọi người nghi ngờ sợ hãi, bỏ đội ngũ mà chạy trước, để đến nỗi
cầu phao bị đứt, quân lính thiên triều phải chết đuối, những kẻ tranh đường
chạy trốn lại giày xéo lẫn nhau nhiều người bị thương bị chết. Đó thật là do
ngài tổng đốc họ Tôn gây nên, không phải là tội của nước nhỏ dám giao chiến.
Hiện nay đã thu góp được số tàn quân hơn một vạn người, lại đã tra rõ họ tên,
quê quán, cấp lương đầy đủ và đưa lên cửa ải; vậy xin kê sổ dâng nộp...".
Thì Nhậm
vâng lệnh, lập tức theo ý đó thảo một bức thư, rồi sai người phi ngựa giao cho
viên đầu mục ở Lạng Sơn đưa tới ải Nam Quan, nhờ chuyển đệ sang Trung Quốc.
Lại nói,
viên tổng đốc lưỡng Quảng mới là Phúc Khang An vốn là người Mãn, thuộc đội Cờ
viền vàng (hộ khẩu của dân Mãn chia theo binh chế, gồm có tám đội Cờ (bát kỳ):
Cờ vàng, Cờ trắng, Cờ đỏ, Cờ xanh, Cờ viền vàng, Cờ viền trắng, Cờ viền đỏ, Cờ
viền xanh. Các đội Cờ này lúc thường thì làm dân, lúc động thì làm lính. Về
sau, khi người Mông, người Hán qui phục nhà Thanh, vua Thanh Thái tông cũng tổ
chức ra bát kỳ người Mông và bát kỳ người Hán như vậy, để làm lực lượng nòng
cốt trong việc thống nhất Trung Quốc) do chân ấm sinh làm đến chức quan trong
Nội các, vua Thanh vốn rất tin dùng, nên mới giao cho kinh lý việc nước Nam.
Vừa mới
thay Nghị làm chức tổng đốc, Khang An đi trạm đến mạc phủ
Quảng
Tây, đã chính mắt thấy Nghị trơ trọi một thân chạy về, rồi đó, tai lại được
nghe thanh thế của vua Quang Trung, nên trong bụng không khỏi rụt rè lo sợ. Đến
khi tiếp được bức thư từ biên cương đưa tới, Khang An quyết liền tự mình gánh
vác lấy việc phương Nam, bèn nói kín với viên phân phủ họ Vương ở phủ Thái Bình
rằng:
- Nam
Bắc thôi việc binh đao, đó là phúc của sinh dân, mà thực là điều may lớn cho
các quan ở ngoài bờ cõi. Ta nghe nói có viên quan coi việc giấy tờ của nước Nam
tên là Ngô Thì Nhậm, bao nhiêu thư từ từ trước đến giờ đều do tay y mà ra. Vậy
ông nên viết thư trả lời, bảo y chuyên tâm chủ trương việc giảng hoà, gấp rút
viết tờ biểu tạ tội đưa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho, việc ấy thế nào cũng
xong.
Phân phủ
họ Vương lui ra, tức thì viết thư cho Ngô Thì Nhậm. Nhậm đem việc ấy tâu với
vua Quang Trung.
Bấy giờ,
vua Quang Trung tuy đã dẹp yên Bắc Hà, nhưng ở miền Nam, vẫn có cái lo bên
trong, nên muốn gấp rút về Nam, bèn họp các tướng sĩ lại mà bảo:
- Việc
binh ở Bắc Hà, ta giao cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Việc giao thiệp với
Trung Quốc ta giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích. Mọi việc đều cho phép các
ngươi tuỳ tiện xử trí. Ta hãy về Nam, nếu việc gì không quan hệ lắm thì bất tất
phải qua lại bẩm báo cho thêm phiền phức.
Rồi đó,
vua Quang Trung dẫn quân về Nam, để Văn Sở ở lại, coi giữ hết thảy việc quân,
việc nước. Còn Ngô Thì Nhậm thì làm chủ về việc giao thiệp với Trung Quốc, cùng
với viên quan giữ biên ải của nhà Thanh là phân phủ họ Vương hai bên liên lạc
với nhau; ngoài thì có Phúc Khang An đề đạt ý kiến, trong thì có Các thần Hoà
Khôn chủ trương mọi việc.
Hoà Khôn
người Mãn Châu, thuộc đội Cờ vàng, cũng do chân ấm sinh vào làm ở Nội các, cùng
với Khang An quản lý việc hộ.
Khang An
gửi thư cho Thì Nhậm, bảo Nhậm đưa vàng bạc đút lót Khôn. Khôn kiền tâu với vua
Thanh xin bãi việc binh, phong vương cho Quang Trung, và không nên gây hấn với
nước ngoài, làm hao phí cho Trung Quốc. Khôn lại nói: "Từ xưa đến nay,
chưa có đời nào làm nên công trạng ở cõi Nam. Nhà Tống rồi nhà Nguyên, nhà
Minh, rốt cuộc đều bị thua trận, gương ấy hãy còn rành rành".
Vua
Thanh cho là phải, bèn quyết ý giảng hoà. Bọn Hoà Khôn đón ý vua Thanh làm cho
mọi việc đều ăn khớp, nên không việc gì là không vừa lòng nhà vua. Bởi vậy, vua
Thanh rất thích, thường viết thư khen ngợi họ.
Khi ấy,
Khang An liền báo tin cho Thì Nhậm biết, giục Nhậm viết tờ biểu tạ ơn. Nhậm
thảo một tờ biểu, trong đó nói kèm thêm rằng: "Nước chúng tôi đã đến kỳ
tiến cống, theo lệ phải kính sai bồi thần đệ dâng lễ vật. Nhưng tiểu phiên
(nước phiên thuộc nhỏ mọn, ở đây là một cách nói nhún để chỉ vua Quang Trung)
còn là tạm quyền việc nước, không dám tự ý làm việc ấy, vì sợ chưa hợp lệ. Mà
nếu điềm nhiên bỏ đi lòng cũng không yên. Nay các vật phẩm tiến cống và các
người bồi thần đều đã kính cẩn đợi sẵn trên cửa ải. Vậy xin cúi mong bề trên
quyết định, chúng tôi khôn xiết run sợ chờ lệnh... ".
Khang An
tiếp được tờ biểu tạ ơn ấy, lập tức sai ngựa trạm đệ về Yên Kinh. Hoà Khôn liền
đem biểu dâng lên. Vua Thanh xem xong, thích lắm, bèn truyền cho các bồi thần
nước Nam là bọn Võ Huy Tấn, Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử được phép qua cửa ải,
vào chờ ở thành Quế Lâm; lại sai sứ thần sang phong cho vua Quang Trung làm An
Nam quốc vương và ban thưởng cho rất hậu. Còn các phẩm vật tiến cống đều chiếu
lệ cũ mà thu nhận. Liền đó, vua Thanh lại giáng chỉ vời vua An Nam sang chầu.
Ngô Thì
Nhậm bèn kén viên quan võ người làng Mạc Điền, huyện Nam Đường ở trấn Nghệ An,
tên là Nguyễn Quang Thực (Đại nam chính biên liệt truyện sơ tập lại chép là
Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu), dung mạo đoan trang, giả làm quốc
vương; lấy Văn Sở làm trọng thần hàng võ, Huy ích làm trọng thần hàng văn, đô
đốc Nguyễn Duật làm hộ vệ, Võ Huy Tấn làm bề tôi coi giấy tờ, cùng hầu
"quốc vương" sang yết kiến vua Thanh. Ngoài lễ dâng thường của địa
phương lại dâng thêm hai thớt voi đực. Dọc đường, người Thanh phải phục dịch
chuyển vận rất khó nhọc. Trong ngoài ai cũng biết là giả dối, mà không ai dám
nói.
Khi
"quốc vương" tới Yên Kinh, vua Thanh mừng lắm, không hề biết đó là
vua Quang Trung giả. Lúc "quốc vương" vào yết kiến, vua Thanh cho
cùng ăn yến với các vị thân vương, lại ban ơn đặc biệt cho làm lễ ôm gối hệt
như tình cha con trong nhà. Lúc "quốc vương" lạy tạ về nước, vua
Thanh sai thợ vẽ truyền thần bức chân dung mà ban cho, ân lễ rất trọng hậu,
thực là một cách đối đãi khác thường từ ngàn xưa hiếm có.
Lại nói,
vua Lê khi ở cửa ải Nam Quan theo Sĩ Nghị vào đất Trung Quốc, trú ngụ ở thành
Nam Ninh, thì vừa gặp lúc Phúc Khang An đến thay Sĩ Nghị, và mưu đồ giảng hoà
với Tây Sơn. Khang An bèn đón vua Lê vào nghỉ ở thành phủ Quế Lâm. Hồi ấy những
người nước Nam lần lượt sang Trung Quốc theo vua Lê gồm có: Chú vua là Trung
quận công Duy án, đi đường Du Quan (ở hồi 9 đã chép Duy án đi cùng với phái bộ
Trần Công Xán vào Tây Sơn đòi đất Nghệ An, sau phái bộ bị dìm chết ở ngoài
biển. Đây lại thấy Duy án xuất hiện, không hiểu là chép lầm hay án còn sống sót
mà người viết không ghi rõ chăng?); Đinh Nhạ Hành và Đinh Lệnh Dận quê ở Hàm
Giang, đi đường Long Môn; nội hàn Trần Duy Lâm, quê ở Nam Chân; xuất nạp Lê
Doãn, quản cơ Hậu Kính Lê Dĩnh người ở Đồng Trạch và bọn Phan Khải Đức người
Nghệ An đều đi đường ải Nam Quan; bọn Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn là phụ đạo
ở Cao Bằng đi đường Cao Bằng. Lúc họ vào ra mắt, Khang An tuỳ tiện sắp đặt chỗ
ở và cấp cho lương ăn áo mặc, rồi dùng Phan Khải Đức làm chức đô ty ở Liễu
Châu, Đinh Nhạ Hành làm chức thủ bị ở Toàn Châu, Bế Nguyễn Doãn làm chức bả
tổng. Còn Trung quận công cùng các người khác thì đều đưa vào ở chỗ vua Lê
trong phủ Quế Lâm. Sau hơn một tháng, Khang An cũng từ Nam Ninh về Quế Lâm,
liền hạ lệnh bãi hết binh mã các tỉnh, rồi bày ra yến tiệc và âm nhạc linh
đình, rộn rã. Vua Lê lấy làm lạ hỏi, thì Khang An nói:
- Mùa hè
nắng nực, không lợi cho việc sang đánh miền Nam, cần chờ đến mùa thu mát mẻ, sẽ
điều động một thể.
Tiếp đó,
Khang An lại mời vua Lê yến tiệc say sưa, rồi ung dung nói:
- Ngày
xuất quân không còn xa, vương nên tự mình đem tả hữu liêu thuộc làm quân dẫn
đường đi trước. Nhưng bây giờ nên gọt đầu gióc tóc (kiểu đầu của người Mãn
Thanh: gọt tròn xung quanh như cái nồi đất, rồi tết đuôi xam ở đằng sau), thay
đổi quần áo giống như người Trung Quốc, để khi về Nam quân giặc không thể phân
biệt được, thì công lớn mới có thể thành. Sau khi khôi phục nước nhà, bấy giờ
sẽ lại theo như tục cũ. "Việc binh không ngại dùng cách xảo trá"
Vương nên nghĩ tới chỗ đó.
Vua Lê
cho là phải và đáp:
- Chúng
tôi không giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn
mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?
Rồi vua
Lê cùng các bề tôi đều gióc tóc, thay đổi đồ mặc. Khang An thấy vậy, mừng lắm,
liền cho một số tiền bạc và tiếp đãi tử tế. Vua tôi nhà Lê đều không biết sự
lừa dối của Khang An. Nhân đó, Khang An bèn làm một tờ biểu kín tâu với vua
Thanh, trong đó đại ý nói: "Vua An Nam là Lê Duy Kỳ, không còn có ý xin
cứu viện, vua tôi đều đã gióc tóc đổi đồ mặc, xin ở lại yên ổn trong đất Trung
Quốc. Vậy xin bãi bỏ các đạo quân định đưa sang đánh dẹp phương Nam". Còn
Hoà Khôn cũng luôn dịp tâu xin phong vương cho vua Quang Trung. Thế là các lời
xin ấy đều được vua Thanh chuẩn y. Một hôm, Khang An lại mời vua Lê vào dinh.
Giáo mác trang hoàng la liệt, quân hầu đứng khắp chung quanh, cung mã, nghi
trượng rất là nghiêm chỉnh, chính giữa dựng cây cờ lớn, có thêu sáu chữ:
"Đề đốc cửu tỉnh binh mã" (đề đốc binh mã chín tỉnh).
Sau khi
uống trà và ăn hoa quả xong, An im lặng không nói câu gì, vua Lê cũng không
hiểu ý của An ra sao. Lúc từ giã đi ra, thì thấy sứ giả Tây Sơn đã ở ngoài cửa.
Vua Lê tức tối hồi lâu, rồi đành phải về quán trọ yên nghỉ. Trước kia Trường
phái hầu là Lê Quýnh vâng mệnh ở lại trong nước, chiêu dụ hào kiệt các địa
phương để lo việc khôi phục. Lúc này, Quýnh và bọn Trịnh Hiến, Lý Tạo, Lê Hợp
(có bản chép là Lý Nhu Đạo, Lê Doãn Thực) tất cả gồm vài chục người đều kéo
sang đất Trung Quốc. Khang An cho trát đòi bọn Quýnh đến bàn việc nước. Lúc họ
tới nơi, An chẳng hỏi han gì, chỉ bàn về việc gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc mà
thôi.
Quýnh
biết An dối trá, giận lắm, nói:
- Đòi ta
đến ngỡ là để giáp mặt mà bàn bạc, nay té ra lại chẳng bàn bạc gì, mà chỉ toàn
bảo gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc. Chúng ta đây, đầu có thể chặt, tóc không
thể cắt, da có thể lột, đồ mặc không thể đổi!
Khang An
biết là không thể ép buộc được, bèn sai đem bọn họ an tri ở tỉnh Quảng Tây.
Hồi cuối
mùa đông năm ấy là năm Kỷ Dậu (1789), vua Thanh sau khi đã sai sứ phong cho vua
Quang Trung làm An Nam quốc vương và nhận các vật phẩm tiến cống, liền giáng
chỉ đòi vua cũ của nước An Nam phải đến Yên Kinh.
Nguyên
lúc kinh thành Thăng Long tan vỡ, vua Lê chạy sang bắc, em thứ ba của vua Lê là
Lan quận công Duy Chi đưa hoàng phi chạy ra, đến bến sông Nhĩ Hà thì gặp lúc
cầu phao đã gãy, liền theo bờ sông chạy về phía tây. Đến Tuyên Quang, Duy Chi
bèn lén lút ở đấy, rồi nhân dịp chiêu dụ các tay hào mục địa phương, để cùng
nhau gắng sức lo việc khôi phục. Về sau, Duy Chi dấy quân ở đất Bảo Lạc (nay
thuộc Cao Bằng), đắp đồn luỹ, trưng thu lương thực, chống nhau với quân Tây
Sơn. Được vài tháng, quân và lương không đủ, bị quân Tây Sơn đánh thua, Duy Chi
và các tướng tá đều bị bắt, đóng cũi đưa về Nam, rồi đều bị hại (theo Đại nam
chính biên liệt truyện và Bang giao lục thì Duy Chi đánh phá cả các vùng Cao
Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên; sau lại liên kết với Lào để định đánh úp Nghệ
An. Vì thế, quân Tây Sơn phải đánh dẹp rất gay go, kéo dài hàng năm (1789-1790)
mới bắt được Chi). Quân dân cả nước, ai cũng thương xót. Có người viếng bài
thơ, trong có câu rằng:
Phú Xuân có đất chôn hờn mới.
Bảo Lạc không trời báo oán xưa.
Duy Chi
đã chết, hoàng phi bèn trốn về vùng Kinh Bắc, lẻn lút trong dân gian, quân Tây
Sơn tìm bắt nhưng không được.
Lúc bấy
giờ, vua Lê ở Yên Kinh, tin tức không thông, các hoàng thân đều bị quân Tây Sơn
giết hại. Các bề tôi trung nghĩa ngày xưa như bình chương Nguyễn Huy Túc, tham
tri Phạm Đình Dữ, thượng thư bộ Binh Nguyễn Đình Giản, thiêm thư xu mật viện sự
Lê Ban, phó đô ngự sử Trần Danh án, trấn thủ Kinh Bắc Trần Quang Châu đều phải
trốn nấp ở các nơi thôn ổ, quân Tây Sơn lùng bắt không được. Còn con cháu dòng
dõi của các nhà quyền quý phần nhiều cũng vẫn có cảm tình với chủ cũ. Nên chi,
trong chốn làng quê, tiếng trống thường nổi lên luôn luôn.
Nguyễn
Đình Giản, từ khi vua Lê chạy sang Trung Quốc, không kịp chạy theo, bèn ẩn ở
huyện Lập Thạch thuộc trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Phú). Vua Quang Trung cho
người đến trấn Thanh Hoa, bắt con gái yêu của Giản đưa vào hậu cung muốn để vời
Giản ra làm quan. Nhưng Giản nói:
- Con bé
ấy không chết, làm nhục nhà ta, ta không vì tình nhi nữ mà bỏ nghĩa vua tôi.
Quân Tây
Sơn biết không thể đoạt nổi chí hướng của Giản, bèn lập mưu bắt sống Giản về.
Giản không chịu khuất, rồi chết. Giản có làm bài thơ tự thuật như sau:
Vị thân
hay vị nước nhà,
Thân còn
nước mất biết là làm sao?
Đội non
khôn hoá thân ngao (sách Liệt sử chép: ở biển Đông có năm hòn núi nổi lênh đênh
trên mặt nước, trời sai 15 con ngao đỡ cho núi đứng vững. Đây mượn ý để nói
việc chống đỡ quốc gia),
Dễ đem
mình cuốc khóc gào núi sông (xưa vua Thục là Đỗ Vũ mất nước, sau khi chết hoá
thành con cuốc, tiếng kêu ai oán).
Giận
không Vương Xúc gươm trung (Vương Xúc làm quan nước Tề đời Chiến Quốc, sau Tề
vị nước Yên chiếm, Vương Xúc dùng gươm tự tử), Đọc ca chính khí dãi lòng sắt
đanh (Chính khí ca của Văn Thiên Tường, một trung thần đời Tống, làm khi bị
giam ở yên kinh). Ngoảnh nhìn cung khuyết Long thành,
Thân này
với nước nhục vinh nỡ rời!
Lê Ban
khôi ngô, hùng dũng, sức khoẻ hơn người; mỗi bữa ăn gấp mấy chục người. Sau khi
vua Lê bị nạn, Ban thường quanh quẩn bên cạnh, không từ hiểm nghèo. Đến khi vua
Lê chạy sang Trung Quốc. Ban theo không kịp, bèn đi đường tắt về quê ở Nghệ An,
cùng các hào mục địa phương họp quân đánh nhau với Tây Sơn, bị thua mấy trận
rồi bị bắt. Ban giữ vững chí cũ, không chịu khuất phục. Quân Tây Sơn bèn thả
cho về. Sau Ban chết ở Thăng Long.
Trần
Danh án lưu lạc ở miền rừng núi, thôn quê trong xứ Bắc Giang. Vua Quang Trung
sai Ngô Thì Nhậm viết thư vời án. án cố từ, thề chết không chịu ra, lời lẽ phần
nhiều gay gắt. Nhân dịp, án lại làm bài thơ trả lời Nhậm như sau:
Gặp bác đời nay dễ mấy lần,
Dung nhan phảng phất mộng luôn gần.
Về ai nước ấy thôi đành kệ,
Nương trọ, đời nay chỉ biết thân.
Song bắc
giấu mình còn nhớ Tấn (điển Song bắc trỏ Đào Tiềm người đời Tấn, vì khi Đào
Tiềm cáo quan về nhà, trong một lá thư gửi cho bạn, ông có viết câu "Bắc
song cao ngoạ..." (Nằm hóng mát dưới cửa sổ phía bắc) để nói về cái thú ở
ẩn. Đào Tiềm là tôi cũ của nhà Tấn, khi Tống cướp nước Tấn, Đào Tiềm viết lách
gì cũng vẫn đề niên hiệu của nhà Tấn để tỏ lòng trung nghĩa)
Biển
Đông thà chết chẳng theo Tần (điển Biển Đông trỏ Lỗ Trọng Liên người nước Tề
đời Chiến-quốc. Khi Lỗ Trọng Liên sang chơi nước Triệu, gặp lúc nước Tần vây
Triệu rất gấp; bấy giờ có sứ nước Nguỵ sang Triệu bàn nên tôn Tần làm hoàng đế
thì sẽ khỏi bị vây; Trọng Liên nghe nói, không bằng lòng, gặp sứ Nguỵ bàn lẽ
phải trái và nói; nếu Tần xưng đế thì Liên này thà nhảy xuống biển Đông mà chết
chứ không chịu làm tôi tớ cho Tần... Lời nói khảng khái ấy của Trọng Liên, quả
nhiên đã làm cho quân Tần phải rút lui, không vây Triệu nữa).
Người
sau bên mộ giơ tay trỏ:
Tiến sĩ
đời Lê cũ, họ Trần.
Nhậm
biết không thể khuất phục được án, bèn ngầm sai người đem quân đến hăm doạ.
Nhưng án vẫn ngồi làm thơ, thần sắc như thường, trong có câu rằng:
Kiếp này dẫu béo mồm hùm sói,
Thà chết không làm bụng chó heo!
Quân Tây
Sơn lại dỗ cho làm quan to, cuối cùng án vẫn không theo, họ bèn thôi.
Trần
Quang Châu cùng bọn bộ tướng, nhóm quân đánh lại Tây Sơn, ngang dọc trong hai
trấn Đông Bắc (Hải Dương và Kinh Bắc). Khoảng trong bốn năm năm liền, luôn luôn
phá vỡ đồn luỹ và giết được rất nhiều tướng tá của Tây Sơn, khiến cho quân Tây
Sơn cũng phải khiếp sợ Châu. Sau mắc mưu gian, Châu bị quân Tây Sơn bắt sống.
Châu cũng không chịu khuất phục, rồi chết (theo các tài liệu lịch sử, thì những
cuộc chống đối của đám cựu thần nhà Lê bấy giờ còn có: Dương Đình Tuấn (Bắc
Giang). Nguyễn Phủ (Bắc Ninh), Phạm Đình Đạt (Bắc Ninh)... Nhưng cuối cùng cũng
đều bị Tây Sơn dẹp tan).
Từ đó
trở đi, các trấn yên lặng, không phải lo sợ về nạn binh hoả nữa. Sau khi nhận
sắc phong của vua Thanh, vua Quang Trung bèn tự coi mình như hoàng đế, lập con
cả là Quang Toản làm thái tử, con thứ hai là Quang Thuỳ là Khang công, lĩnh
chức tiết chế các quân thuỷ bộ miền Bắc, con thứ ba là Quang Bàn làm Tuyên công
lĩnh chức đốc trấn Thanh Hoa, Tổng lý mọi việc quân, dân. Các trấn đều đặt một
viên trấn thủ, một viên hiệp trấn. Mỗi huyện đặt một viên phân tri và hai viên
tả hữu quản lý để trưng thu binh lương và xử lý việc kiện cáo. Lại lập ra binh
chế, chia ra các cấp quan võ; lấy đạo thống lĩnh làm cơ, lấy cơ thống lĩnh các
đội, để quản thúc và luyện tập cho quân lính.
Các trấn
từ sông Gianh ra Bắc đều phải kê khai sổ đinh, chiếu theo lệ cũ kén lính và thu
các thứ thuế dung (tức thuế thân, do Trịnh Cương đặt ra), thuế cước. Lập sổ
ruộng, định lệ thóc thuế. Chia ruộng công, ruộng tư ra làm ba bậc để thu thuế.
Vua Quang Trung cho rằng Nghệ An ở vào chính giữa nước, đường sá từ Nam ra từ
Bắc vào đều vừa bằng nhau, quê tổ tiên mình cũng ở đấy, bèn sai trưng dụng rất
nhiều thợ thuyền, chuyên chở gỗ, đá, gạch ngói, để xây dựng cung phủ, lâu đài.
Đắp thành đất chung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây
thành trong. Dựng toà lầu Rồng ba tầng cùng điện Thái-hoà hai dãy hành lang, để
phòng dùng đến trong những khi có lễ triều hạ (các quan vào chầu và chúc mừng
nhà vua). Thành này được gọi là Phượng Hoàng trung đô hoặc Trung kinh Phượng
Hoàng thành (thành này Quang Trung định lập làm nơi đóng đô nên mới gọi là
"trung đô" hoặc "trung kinh"; còn tên "Phượng
Hoàng" là gọi theo tên ngọn núi ở chỗ xây dựng thành, "tức rú Quyết
cạnh đường Bến Thuỷ bây giờ". Khi xây dựng "Phượng Hoàng trung
đô", Quang Trung có viết chiếu mời Nguyễn Thiếp ra xem đất. Trong tờ
chiếu, có đoạn viết như sau: "Nay kinh Phú Xuân thì hình thế cách trở. ở
xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghị rằng, chỉ đóng đô ở
Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc, và
sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về" - Xem thêm chi
tiết trong La Sơn phu tử của Hoàng Xuân Hãn).
Năm Canh
tuất (1790), nước Ai-lao chưa chịu tiến cống. Vua Quang Trung bèn sai viên đốc
trấn Nghệ An là Nguyễn Quang Diệu (có sách chép Trần Quang Diệu. Việc Quang
Trung đánh Lào, thực ra không phải nhằm mục đích chiếm đất, mà chỉ cốt phá tan
âm mưu cấu kết giữa Duy Chi và vua Lào) làm chức đại tổng quản, viên đô đốc
lĩnh tượng chính là Lê Văn Trung làm chức đại tư lệ xuất quân tiến đánh.
Quân Tây
Sơn tiến đến đô thành nước Ai Lao, vua Ai Lao chống cự không nổi, đem quân chạy
trốn. Bọn Diệu vào thành, thu hết vàng bạc, châu báu, voi ngựa đem về.
Sau khi
được vua Thanh phong vương, vua Quang Trung càng thêm kiêu căng, có ý xem khinh
Trung Quốc. Vừa lúc ấy, có giặc Tàu ô (tên gọi chung bọn giặc biển người Trung
Hoa bấy giờ, thường đi tàu thuyền ở ven biển Việt Nam để ăn cướp) ở lưỡng Quảng
cướp bóc miền ven biển, quân Thanh đuổi đánh, bọn giặc liền chạy xuống vùng Nam
Hải và xin quy phục nước Nam. Vua Quang Trung bèn cho bọn đầu mục của chúng đều
làm chức thống binh, đồng thời lại sai chúng trở lại cướp bóc quấy nhiễu miền
duyên hải của Trung Quốc. Từ đấy các thuyền buôn bán không thể qua lại giá cả
hàng hoá cao vòn vọt. Vua Quang Trung lại dung nạp cả bọn giặc Tàu ô ở Tứ Xuyên
gọi là "Thiên địa hội" ("Thiên địa hội" không phải là giặc
Tàu ô, mà là một tổ chức bí mật của nhân dân Trung Quốc, nhằm lật đổ triều đình
Mãn Thanh, thành lập năm 1674, lúc đầu trung tâm ở vùng Phúc Kiến, sau phát
triển khắp nơi trong nước, thâm nhập cả vào các tầng lớp Hoa kiều ở ngoài
nước). Tổng đốc nhà Thanh bấy giờ sợ sức mạnh của nước Nam, nên cũng không dám
hỏi chi đến.
Qua
những việc đó, vua Quang Trung càng cho người Thanh là dễ đánh, bèn
tính
việc kén chọn quân lính, dành dụm lương thực, đóng tàu biển thật lớn,
có thể
chở nổi voi, rồi cùng các quan văn võ ngấm ngầm để ý dòm ngó
Trung
Quốc.
Thật là:
Cõi Bắc vừa xong trường chiến đấu,
ải Nam lại nẩy dạ anh hùng.
Chưa
biết việc ấy ra sao? Chờ xem hồi sau phân giải.
Hồi 16
Tế Linh đường, sứ Thanh bị lừa
Chết Yên Kinh, vua Lê nuốt hận
Lại nói,
vua Quang Trung toan lập mưu đánh Trung Quốc, đêm ngày bàn bạc với các tướng
tá, họ đều nói:
- Nên kê
sổ dân cho đúng để kén quân lính, đó là việc cần kíp ngày nay. Vua Quang Trung
lấy làm phải, bèn hạ lệnh cho các trấn phải đốc thúc các xã sửa lại sổ đinh,
phát "tín bài" (thẻ làm tin) để thống kê dân chúng vào sổ, rồi cử
người coi sóc xét hỏi. Tổng trưởng các huyện có nhiều người vì cố tình giấu
giếm mà bị chém. Việc đi lại trên đường, nhân dân đều lấy làm khổ. Viên phân
tri ở các huyện nhóm họp số dân đã ghi trong sổ lại, chiếu sổ cấp cho mỗi người
một cái thẻ; giữa thẻ in bốn chữ triện "Thiên hạ đại tín" (niềm tin
lớn của thiên hạ), bốn mép chung quanh thì viết họ tên quê quán của những người
có thẻ và in dấu ngón tay trỏ bên trái để làm bằng cứ. Mọi người đều phải đeo
thẻ ấy, gặp khi xét hỏi thì đưa ra trình; đó gọi là "tín bài". Ai
không có thẻ, tức là dân lậu, sẽ bị bắt đem sung quân (bị đày đi các nơi biên
giới xa xôi để làm lính thú) và bắt tội các người tổng trưởng, xã trưởng của
họ.
Sổ đinh
thành rồi, vẫn theo lệ ba đinh bắt một người lính. Lại sai các viên phân quản
đem quân đến các xã vây bắt, tra xét. Vì thế, dân gian nhốn nháo, nhiều người
lẩn trốn vào các khe núi.
Có người
ở làng Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, tên là Trần Phương Bính (nhiều
sách chép là Trần Danh Bính), nguyên là con viên tiến sĩ đời Lê xưa là Trần
Danh Tố, không chịu đeo thẻ. Trấn thủ Nguyễn Diệu khen và tha cho không bắt
tội.
Bính là
một người bản tính thông minh nhanh nhẹn, lại sẵn có khí tiết, thường làm thơ
để tỏ chí của mình, có hai câu rằng:
Tim gan chất chứa hờn trời đất,
Mặt mũi đành trơ với tháng ngày.
Về sau,
các cống sĩ và các hào mục địa phương họp quân ở làng Nga Khê, huyện Thiên Lộc,
định đánh úp thành Nghệ An. Họ bèn suy tôn Bính làm quân sư. Bọn Bính kéo quân
đến xã Bình Lãng, ven núi Hồng Lĩnh để đánh nhau cùng quân Tây Sơn. Bị thua
trận, Bính liền trèo lên đỉnh núi cao nhất của núi Hồng Lĩnh, tự tay đề một bài
thơ vào vách chùa ở đó như sau:
Đền nước không còn chước,
Bên mình có mũi dao.
Ngoái cổ nhìn Hồng Lĩnh.
Chín mươi chín đỉnh cao.
Rồi Bính
lấy dao đâm thọc vào bụng mà chết; quân dân nghe tin, ai cũng thương xót.
Lại nói,
vua Quang Trung, sau khi quyết định việc đánh Trung Quốc, bèn sai bề tôi là
Chiêu viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh, dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai
tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. Điều đó không phải là bản tâm của vua Quang Trung,
chẳng qua chỉ muốn thử xem ý nhà Thanh ra sao mà thôi. Nhưng vừa lúc ấy thì vua
Quang Trung bị bệnh rồi mất. Hôm đó nhằm ngày mùa thu, tháng tám năm Nhâm Tý
(về tháng vua Quang Trung mất, có một vài tài liệu chép là tháng 9. Nhưng theo
sự chứng minh rất xác đáng của ông Hoàng Xuân Hãn (La Sơn phu tử, tr. 158-160),
dựa vào sách Đại Nam thực lục và tài liệu của các giáo sĩ phương Tây đã chép
lúc đương thời, thì vua Quang Trung đã mất vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý
(1792). Cũng theo ông Hoàng Xuân Hãn, thì việc Hoàng Lê nhất thống chí chép mất
vào tháng 8 như ở đây cũng không hẳn là sai; vì theo sách lịch Tây Sơn đương
thời, tháng 7 năm Nhâm tý là tháng thiếu, ngày 29 lại là ngày cuối tháng, mà
vua Quang Trung lại mất vào khoảng nửa đêm, như thế thì chép tháng 7 hay tháng
8 cũng chỉ chênh nhau chừng nửa giờ mà thôi), sau khi lên ngôi hoàng đế được 5
năm. Trước đó, khi sứ nhà Thanh sang phong, vua Thanh có ban cho vua Quang
Trung chiếc áo màu, trong thêu bảy chữ bằng kim tuyến: Xa tâm chiết trục đa
điền thử (câu này nghĩa đen là: "Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng".
Theo Hán văn, chữ xa với chữ tâm hợp lại thành chữ Huệ tên vua Quang Trung.
Chuột thuộc về tý. ý nói năm tý vua Quang Trung chết). Bấy giờ không ai hiểu ra
sao, thì ra đến lúc này mới nghiệm.
Sau khi
vua Quang Trung mất, việc cầu hôn và việc đòi đất không thấu đến triều đình
Trung Quốc, nên vua Thanh cũng không biết (theo gia phả họ Vũ (Vũ Văn Dũng) thì
tờ biểu đã đệ lên vua Thanh, và đã được vua Thanh nhận lời gả công chúa cùng
trả lại đất Quảng Đông. Sau nghe tin vua Quang Trung chết nên việc đó mới đình
chỉ).
Tháng ấy
con trưởng vua Quang Trung là Quang Toản theo di mệnh của vua cha, lên nối
ngôi, đổi năm sau tức là năm Quí Sửu (1793) làm năm đầu niên hiệu Cảnh thịnh,
và truy tôn vua Quang Trung làm Thái tổ Vũ hoàng đế. Rồi đó, Quang Toản sai sứ
thần sang Trung Quốc báo tang, đem dâng các sản vật địa phương và hai thớt voi
đực; lại sắp xếp lễ cống hàng năm và làm tờ biểu xin phong vương, để hai sứ bộ
cùng đi một lúc. Trong tờ biểu có nói: "Vâng lời dặn lại của vua cha, sau
khi chết, không đưa di hài về quê hương, mà chôn cất ở làng Linh Đường (thuộc
huyện Thanh Trì (Hà Nội)) phía ngoài kinh thành để tỏ lòng mến nhớ cửa
khuyết...".
Vua
Thanh khen ngợi, tức thì sai sứ thần sang làm lễ tế. Quang Toản bèn làm ngôi mộ
giả ở làng Linh Đường để nhận lễ thăm viếng của nhà Thanh. Trong bài văn tế của
nhà Thanh có câu: "Chúc ngôi Nam cực, lòng trung đà tỏ trước sân triều;
yên giấc Tây Hồ, trọn đời vẫn không quên cửa khuết". Vua Thanh lại ban cho
thuỵ hiệu là "Trung thuần" và ban tặng một bài thơ, bảo khắc vào đá,
dựng bên trái mồ vua Quang Trung để làm nổi rõ sự vinh hiển.
Rồi đó,
vua Thanh phong cho Quang Toản làm An Nam quốc vương. Sau khi được phong, Quang
Toản bãi lệnh đeo "tín bài", triệt hồi các đạo quân đi bắt dân lậu,
nghiêm cấm việc quấy nhiễu nhân dân, dùng cậu ruột là Bùi Đắc Tuyên làm chức
thái sư, coi tất cả mọi việc chính sự của triều đình. Vì thấy Quang Toản còn
nhỏ, Đắc Tuyên ra mặt chuyên quyền, tha hồ làm oai làm phúc, các quan văn võ
đều nem nép kiêng sợ, mầm mống tai hoạ bắt đầu từ đấy.
Lại nói,
vua Lê từ mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) chạy sang đất Trung Hoa, trọ ở thành Quế
Lâm.
Mùa đông
năm ấy, vua Thanh nghe lời bàn của bọn Khang An, Hoà Khôn, phong vương cho
Nguyễn Huệ, lại giáng chỉ đòi vua Lê vào Yên Kinh. Mùa xuân năm Canh Tuất
(1790), vua Lê bắt đầu lên đường, tháng năm mùa hè năm ấy thì đến Yên Kinh. Các
quan văn võ của nước ta trước sau sang đất Trung Quốc đều được lần lượt đi
theo.
Vừa khi
ấy, vua Thanh đi tuần du, gặp bọn Lê Quýnh ở tỉnh Sơn Đông, bèn sai người gọi
vào ra mắt và dụ rằng:
- Chủ
các ngươi đã xin yên ổn ở lại Trung Quốc, lũ các ngươi giốc lòng cùng theo, thì
nên lập tức gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc để chờ mệnh lệnh.
Bọn
Quýnh tâu rằng:
- Lũ
tiểu thần từ xa xôi muôn dặm theo trốn sang đây, xin cho được dùng phong tục
bản xứ để ra mắt quốc vương, rồi sau sẽ xin vâng chỉ.
Vua
Thanh khen ngượi hồi lâu, rồi bảo họ đi thong thả lên Yên Kinh. Lúc bấy giờ,
vua Lê cùng thái hậu và con đầu của vua trọ ở cửa Tây Định trong thành Yên
Kinh, cạnh nhà Quốc tử giám, trước cửa có biển đề: "Tây An Nam doanh"
(Dinh An Nam phía tây). Còn các bề tôi thì ở trong cửa Đông Trực, cạnh nhà
Dương phố, ngoài cửa có biển đề: "Đông An Nam doanh" (Dinh An Nam
phía đông). Tất cả bọn đều được nhà Thanh chiểu theo số người mà cấp phát cho
lương ăn, và cho phép tự do qua lại.
Một hôm,
nghe tin vua Thanh sắp ra Nhiệt Hà tránh nắng, mờ sáng ngày mai thì lên đường.
Nhân dịp đó vua Lê liền cùng các bề tôi thảo ra tờ biểu xin quân cứu viện, rồi
nhờ vào viên đô thống đội Cờ viền vàng tên là Kim Giản, để xin yết kiến vua
Thanh.
Đến khi
xe vua Thanh đi qua, vua Lê cùng các bề tôi đều quỳ xuống yết kiến ở mép đường
bên trái. Xe vua Thanh dừng lại một chút, có viên thông ngôn báo rằng:
"Hoàng đế có chỉ khen thưởng". Rồi viên đó giục họ lạy tạ và trở về
doanh. Lát sau, đã thấy Kim Giản vâng chỉ vua Thanh phong cho vua Lê chức tá
lãnh, đời đời nối chức và được lĩnh áo mũ tam phẩm.
Vua Lê
bất đắc dĩ phải nhận vậy. Cách mấy hôm sau, lại thấy có viên quan ở nội phủ
vâng chỉ vua Thanh đòi vua Lê vào sân điện, ban cho bốn trăm lạng bạc và sai
người sắp sẵn cho các thứ đồ vật. Còn những bề tôi đi theo, đều được cấp mỗi
người năm trăm đồng tiền. Các lễ mừng, lễ điếu ở trong nước, đều chiểu theo như
thể lệ đã định cho những người thuộc tám hiệu cờ.
Năm ấy,
vua Lê thấy người Thanh không thể tin cậy được, bèn cùng bọn Phạm Như Tùng,
Hoàng ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Văn Trưởng, Lê
Quí Thích và Nguyễn Đình Cẩm, người làng Hương Ngạnh, huyện Từ Liêm, Lê Tùng
người làng Tây Đàm, Lê Thức người làng Đáp Cầu, huyện Hoằng Hoá cùng nhau uống
máu ăn thề, rồi cùng thảo tờ biểu, xin quân cứu viện. Lại bàn nếu xin quân
không được, thì sẽ xin đất cũ là hai châu Tuyên Quang, Hưng Hoá để thờ tổ tiên,
hoặc lẻn vào Gia Định để mưu đồ việc khôi phục, nhỡ có gặp sự bất trắc thì sống
chết cũng liều.
Thảo
xong tờ biểu, bọn họ đến báo trước cho Kim Giản biết, Kim Giản không tiếp. Vua
tôi nhà Lê cùng nhau rập đầu xuống đất mà kêu thật to. Kim Giản bất đắc dĩ phải
mời vào nhà, pha trà thết đãi, rồi bảo: - Vương hãy cứ về quán trọ mà chờ, sẽ
bàn bạc sau.
Được hơn
một tháng, thấy có viên quan nhà Thanh tên là Khoa Lan tới báo
với vua
Lê rằng: "Đã có chỉ truyền tạm cho vương vùng đất Khâm Châu
(thuộc
Quảng Đông). Chờ đến năm sau vào dịp mùa xuân hoa nở sẽ trở về
nước
cũng không muộn gì".
Vua tôi
nhà Lê đều không tin.
Tháng
ba, mùa xuân năm Tân hợi (1791). Hoà Khôn lập mưu chia đám vua tôi nhà Lê ra
mỗi người một nơi để họ khỏi kêu ca, bèn sai Khoa Lan cưỡi ngựa tới nói dối
rằng:
- Đã có
chỉ truyền cho vương về ở đất Tuyên Quang, vậy các bề tôi cần phải chỉnh đốn mũ
áo để cho vương vào triều tạ ơn.
Các bề
tôi nhà Lê ở doanh Đông đều tin là thật, bèn theo đến ấn phòng. Khôn sai người
lấy khoá sắt khoá luôn lại, rồi dùng xe trâu đưa họ đi ra ngoài ba trăm dặm, an
trí Hoàng ích Hiểu ở Y Lê, Lê Hân ở Phụng Thiên, Như Tùng ở Hắc Long Giang,
Quốc Đống ở Cát Lâm, Viết Triệu ở Trương Gia Khẩu thuộc Nhiệt Hà, chỉ để một
mình Trần Thiện ở lại hầu hạ quốc vương.
Vua Lê
nghe tin ấy, lo giận bồn chồn, đến sáng sớm cưỡi ngựa vào nhà Kim Giản, định kêu
cho các bề tôi. Vừa lúc ấy, Kim Giản đã vào chầu vua Thanh ở vườn Viên Minh.
Vua Lê lập tức ruổi ngựa đi thẳng tới cửa vườn, nhưng đến nơi thì bị lính canh
cửa ngăn lại. Người dắt ngựa của vua Lê là Nguyễn Văn Quyên, quê ở Bố Vệ, phục
xuống đất kêu ầm lên. Bọn người Thanh sợ tiếng kêu gào vang đến chỗ vua Thanh,
bèn giật lấy con ngựa của vua Lê, rồi vực luôn cả nhà vua lên xe bắt đến toà
Thận Hình giữ lại.
Văn
Quyên bèn cất tiếng mắng to:
- Bọn
chó Ngô vô lễ, dám làm nhục vua ta!
Sau đó,
Văn Quyên lập tức lấy gạch ở sân ném bừa vào bọn chúng. Đám
quân
lính giữ vườn nổi giận, xúm lại đánh Văn Quyên gần chết, đoạn cũng bắt đến giam
ở toà Thận Hình đúng một tháng mới tha cho về. Văn Quyên nhân thế bị bệnh mà
chết.
Lúc bấy
giờ, Nguyễn Huy Túc đang lánh ở vùng núi Tản Viên (tức núi Ba Vì ở Sơn Tây (Hà
Nội)), nghe thấy việc ấy, cho Văn Quyên là có nghĩa, bèn làm bài
"Tán" như sau:
"Trung
thay mã đồng! Giỏi thay mã đồng! (người hầu ngựa)
Mến chúa
lòng trung nghĩa, theo đuổi việc binh nhung.
Tấc dạ
như voi, khỉ (Đường Huyền-tông thường tập cho voi quỳ lạy, lúc An Lộc Sơn cướp
ngôi, cũng bắt voi quỳ nhưng voi không nghe. Đường Chiêu Tông có con khỉ biết
quỳ lạy; lúc Chu Toàn Trung cướp ngôi, cũng bắt khỉ lạy, khỉ không chịu); một
đức như kiến, ong.
Mạnh mẽ
như loài gấu; thẳng thắn như chim hồng
Cắt đâm
chẳng lánh, hổ doạ cũng xông.
Ngựa
trời vung cẳng; hùm sói tranh phong.
Phì
nguyền da ngựa (theo ý câu nói của Mã Viện nhà Hán: "Làm trai nên lấy da
ngựa bọc thây". Chỉ việc hăng hái hy sinh nơi chiến trận); để tiếng vô
cùng.
Kìa ai
đó?
Xiêm bào
ngoài mặt; sâu mọt trong lòng.
Ruồi
xanh xu nịnh, hươu ngựa gian hùng (thơ "Thương dăng" Kinh Thi ví bọn
tiểu nhân như đàn ruồi xanh. Triệu Cao, gian thần nhà Tần, chỉ con hươu mà nói
với vua là con ngựa).
Sao
chẳng bảo chúng:
Sung làm
hẩu ngựa; bắt muỗi giết trùng.
Vậy dám
đặt tên cho anh là Trung tráng công!"
Trong
lúc vua Lê ở toà Thận Hình, một hôm Hoà Khôn sai người đến doanh Tây, ép thái
hậu bảo phải thảo tờ biểu nói rằng: quốc vương tình nguyện ở lại đất Trung
Quốc, việc xông vào cửa khuyết và làm huyên náo là tại các người bề tôi gây
ra...
Biểu
đang thảo thì viên giám thần là Nguyễn Trọng Đắc trông thấy, liền giật lấy bản
nháp xé đi và nói:
- Bị
người ta lừa dối mà đưa các bề tôi đến chỗ chết thì làm thế nào?
Người
Thanh lại bắt ép Trọng Đắc về ở doanh Tây, rồi cấm hai doanh không được tự tiện
đi lại với nhau.
Một hôm,
con vua Thanh, tước vương thứ sáu, nhân lúc lui triều thư thả, tới nhà Hoà Khôn
nói chuyện, có bàn đến việc nước An Nam. Vương nói:
- Vua
tôi họ Lê gặp nạn chạy sang nước ta, mà cầu cứu không được, cũng nên thương
xót, giúp đỡ họ. Chắc các bề tôi của họ cũng đều là người trung nghĩa. Nay họ
không có tội gì mà bắt giam ở đất xa, nước ngoài nghe thấy, họ sẽ bảo Trung
Quốc ra sao?
Khôn
nói:
- Hoàng
thượng đã có chỉ truyền như vậy, việc ấy đức vương không cần phải biết đến!
Vương
nói:
- Hoàng
thượng tuổi đã già, việc nước đều đo quốc lão đây xử trí; mọi việc đúng hay
sai, quan hệ không phải nhỏ. Ta đây sao lại không cần biết!
Khôn vốn
cậy thế vua Thanh yêu mến, lại ăn nói vô lễ, khiến cho vương giận lắm, lập tức
cầm chiếc bàn cờ đánh Khôn. Cả bọn người ngồi đấy đều đứng dậy khuyên giải, can
ngăn, Khôn mới thoát nạn.
Hôm sau,
Khôn hậm hực vào kêu với vua Thanh. Vua Thanh tức thì nổi giận lôi đình, sai
người đòi vương vào, định tự tay đánh đòn. Viên quan nội các là A Lâm rập đầu
xuống đất cố sức can, vua Thanh mới chịu thôi, liền sai người đánh vương ở
trước sân điện mười gậy.
Vương
lui ra, tức quá thành bệnh. Cách vài ngày, bệnh thêm nặng, vương bèn gọi các
vương thứ tám, thứ mười một và thứ mười bảy tới dặn rằng:
- Trong
ba em, chưa biết sau này hoàng thượng lập ai? Hễ ai nối ngôi thì phải trừ khử
tên gian tướng ấy đi, đừng có để mối lo lại cho xã tắc!
Ba người
nghe lời, đều lạy hai lạy xin vâng và lui ra. Sau đó, vương mất. Từ đấy, vua Lê
không còn dám nói đến việc xin quân cứu viện nữa, nhưng trong lòng uất ức không
bao giờ nguôi.
Tới mùa
hè, năm Nhâm Tý (1792), con đầu của vua Lê lên đậu rồi mất. Nhân thế, vua Lê lo
buồn sinh bệnh, thoi thóp nằm liệt không dậy được. Năm sau, bệnh nhà vua càng
nguy kịch, các bề tôi bị an trí ở những nơi khác đều dâng biểu về hỏi thăm.
Lúc đó,
có người gia đồng của Lê Như Tùng tên là Lê Huy Vượng, vì có công hầu hạ khó
nhọc, vua Lê cho làm con nuôi, đặt tên là Duy Khang, bảo giữ việc thờ tự hoàng
khảo và hầu hạ thái hậu.
Lúc hấp
hối, vua Lê gọi các thị thần tới nhận lời trăng trối, nhà vua nói:
- Trẫm
gặp phải lúc vận nhà suy kém, không thể giữ được xã tắc; phiêu bạt ở đất nước
người để hòng tính việc khôi phục, lại bị đứa quyền gian lường gạt; uất ức đến
mãi bây giờ, phải ôm hận mà chết, thật do lòng trời gây nên. Sau này nếu các
ngươi được về nước, thì nên đèo nắm xương tàn của trẫm cùng về, chôn ở cạnh
lăng tẩm của các vị thánh hoàng đời trước, để tỏ rõ chí hướng của trẫm. Các
người nên ghi nhớ lấy và nói cho mọi người đều biết. Các bề tôi đều khóc lạy,
xin vâng lời.
Rồi đó
vua Lê tắt thở, thọ 28 tuổi. Bấy giờ là ngày 16 tháng mười, mùa đông năm thứ 58
niên hiệu Càn-long nhà Thanh (1792).
Vua
Thanh sai dùng lễ quốc công an táng vua Lê ở khu Quảng Lăng, ngoài cửa Tây
Trực, đất rộng chừng ba mẫu, xung quanh có giậu ngăn; lại bảo các bề tôi đi
theo đều theo lễ mà chế đồ tang trở. Sau đấy, vua Thanh bèn cho Duy Khang nối
chức tá lãnh.
Nguyễn
Viết Triệu ở Nhiệt Hà, tiếp được tin buồn, liền đặt linh vị làm lễ thành phục,
khóc lóc thảm thương, hôn mê luôn mấy ngày, rồi phát bệnh mà chết.
Đến năm
đầu niên hiệu Gia-khánh nhà Thanh, tức là năm Bính Thìn (1796), hết trở vua Lê,
Thái hậu thấy các bề tôi đi theo, ở nơi đất khách cô đơn khổ sở, mà chưa biết
đến ngày nào mới trở về, bèn dâng tờ biểu xin cho các người theo trốn sang
Trung Quốc đều được lấy vợ.
Vua
Thanh cho phép và ban cho mỗi người tám lạng bạc, 35 đồng tiền lớn để làm lễ
cưới, bảo họ ai ở chỗ nào, cứ tuỳ tiện yên phận mà sinh cơ lập nghiệp ở chỗ ấy.
Lại nói,
vua Tây Sơn (từ đây, trong bản chữ Hán đều theo quan điểm của
triều
Nguyễn dùng chữ "Tây nguỵ" để trỏ nhà Tây Sơn) là Quang Toản, tuổi
trẻ nối
ngôi, Đắc Tuyên chuyên chính đã lâu, hình ngục phiền hà, trong
ngoài
chia lìa, Bắc, Nam nhốn nháo, lòng người lung lay. Mặt khác, quân
của
triều Nguyễn (trong bản chữ Hán, từ đây về sau đều dùng hai chữ
"hoàng
triều" để chỉ triều Nguyễn (Gia-long)) từ năm Mậu thân (1788) đã
lấy lại
thành Gia Định; năm Canh tuất (1790) lấy lại được hai phủ Bình
Thuận và
Duyên Khánh. Từ đó trở đi, quân triều Nguyễn luôn luôn tiến đánh
mặt bắc,
thanh thế rất mạnh. Mười ba thừa tuyên ở Bắc Hà cũng đều nghển
cổ để
chờ sự trung hưng của triều nhà Nguyễn. Sự bại vong của nhà Tây
Sơn,
những kẻ am hiểu tình thế đều nhìn thấy rõ ràng, nhưng riêng vua tôi
nhà Tây
Sơn thì vẫn không biết.
Thật là:
Gặp nước thuồng luồng đà hoạt bát,
ở nhà én sẻ vẫn im lìm
Chưa
biết sự thể ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
Theo
điển trong sách Khổng tùng tử, én sẻ ở trên mái hiên, không biết rằng người nhà
đã có lửa cháy... ở đây ý nói nhà Nguyễn đã gặp thời cơ như thuồng luồng gặp
nước; Quang Toản sắp bị diệt mà vẫn không biết gì cả.
Hồi 17
Mất thành Thăng Long, vua Cảnh Thịnh bị bắt
Táng lăng Bàn Thạch, Nguyễn Hoàng Phi chết
theo
Lại nói,
vào năm đầu khi vua Tây Sơn Quang Toản mới lên nối ngôi tức là năm Quí sửu
(1793), đại quân của nhà Nguyễn (Nguyễn ánh) cả thuỷ lẫn bộ, từ Gia Định kéo ra
đánh vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc ở thành Qui Nhơn. Tướng sĩ của Nhạc đánh mãi đã
mệt nhọc, thế lực dần dần cùng quẫn, Nhạc bèn sai người đến chỗ Quang Toản xin
quân cứu viện. Quang Toản hợp các tướng mà bảo rằng:
- Ta
nghe nói "môi hở răng lạnh, môi còn răng ấm", nay vua bác có nạn mà
sức chống giữ kém cỏi, không thể không cứu.
Rồi Toản
cho đô đốc Nguyễn Diệu làm chức đại tổng quản, dẫn quân vào Nam cứu Nhạc. Quân
chúa Nguyễn lại rút về.
Tháng 8
năm ấy, Nhạc mất, con cả là Quang Thiệu lên nối ngôi. Nhân thế, Diệu chia quân
giữ lấy thành. Tiếng là cứu viện, nhưng thực ra là thôn tính ngấm ngầm.
Năm sau,
tức là năm Giáp Dần (1794), Quang Toản lại sai Đắc Trụ (có sách chép Đắc Thân,
là con Đắc Tuyên) làm chức tán nghị, đi vào Qui Nhơn cùng với Quang Thiệu trấn
giữ thành ấy và lấy Nguyễn Diệu làm thống suất, lĩnh đại quân tiến đánh thành
Nha Trang. Từ Lê Văn Trung trở xuống, tất cả bảy tướng đều được gia phong làm
tước quận công quản binh và nghe theo lệnh chỉ huy của Diệu. Diệu tiến sát
thành Nha Trang, mà quân tuần tiễu thì đã đến tận địa phận tỉnh Bình Thuận.
Quân nhà Nguyễn hết sức chống giữ khiến Diệu không thể thắng nổi. Hồi đó, quân
Tây Sơn luôn luôn đến xâm lấn miền Nam, hai bên chống chọi với nhau đến hàng
năm.
Thình
lình Diệu nghe tin cha con Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở đều bị bọn tư đồ Dũng và
thái bảo Hoá giết chết, bèn vội vàng kéo quân về, họp bàn cùng bọn tướng tá,
định dùng quân lực bắt hiếp bọn Dũng.
Nguyên
từ năm Quang Toản mới lên ngôi tới khi ấy, Đắc Tuyên thì chuyên quyền, còn Văn
Sở thì trấn giữ thành Thăng Long, coi hết việc quân, dân, rồi được thăng chức
đại tổng lý, tước quận công. Năm ấy Quang Toản lại sai đại tư đồ Dũng ra coi
binh mã bốn trấn ở miền Bắc. Dũng đến nhà trạm Hoàng Giang, gặp trung thư lệnh
là Trần Văn Kỷ phạm tội bị đày ở đó. Dũng cùng ngủ đêm với Kỷ, Kỷ bèn nói với
Dũng rằng:
- Quan
thái sư (chỉ Đắc Tuyên) chức vị đã cao tột bực, trong tay nắm quyền làm oai làm
phúc, lại đẩy ông ra ngoài, nếu có sự chẳng lợi cho nhà nước, các ông phỏng còn
giữ được đầu chăng? Bây giờ chẳng sớm liệu đi, sau này ăn năn sao kịp?
Dũng vốn
tin và trọng Văn Kỷ, bèn cho lời Kỷ là phải. Hôm sau, Dũng đem quân bản bộ gấp
đường quay về, hợp mưu với thái bảo Hoá, bắt phe đảng
Đắc
Tuyên bỏ ngục; lại sai người vào Qui Nhơn bắt Đắc Trụ và sai đô đốc Hài ra
thành Thăng Long lập mẹo bắt Ngô Văn Sở đưa về, rồi thêu dệt thành tội trạng
làm phản mà đem dìm xuống nước cho chết hết.
Quang
Toản không thể ngăn chặn nổi, đành chỉ khóc lóc mà thôi. Sau đó, Dũng lại sai
Hoá vào giữ thành Qui Nhơn.
Chẳng
mấy chốc, Diệu ở Nha Trang nghe tin, đêm ngày lo nghĩ, chỉ sợ vạ lây đến mình,
bèn bảo các tướng rằng:
- Chúa
thượng không cương quyết, đại thần giết lẫn nhau, tai biến không gì lớn hơn thế
nữa. Nay hãy kéo về để dẹp yên cuộc phiến loạn ở bên trong, rồi sau lại vào
đánh giặc cũng được.
Các
tướng đều nói:
- Xin
theo mệnh lệnh!
Ngay hôm
ấy Diệu giải vây cho thành Nha Trang rồi kéo quân về thành Qui Nhơn. Hoá nghe
tin, đến tạ tội trước. Diệu lờ đi không hỏi. Về tới làng Yên Cựu (ở phía nam
thành phố Huế, trên bờ sông Hương (Bình Trị Thiên)), Diệu đóng quân ở bờ nam
sông. Dũng cùng bọn nội hầu Tứ thì đem bản bộ đóng ở bờ bắc sông, mượn mệnh
lệnh của nhà vua để chống lại với Diệu. Quang Toản sợ lắm, phải sai bọn trung
sứ qua lại vỗ về, hoà giải, Diệu mới chịu đem bọn tả hữu vào yết kiến Quang
Toản và giảng hoà với bọn Dũng; kế đó Diệu lại xin gọi Hoá về và xin cho Lê Văn
Trung thay chân Hoá, trấn giữ thành Qui Nhơn.
Lúc đó,
bọn người ở bên cạnh Quang Toản ngày đêm gièm pha rằng, oai quyền của Diệu lớn
quá, đang toan có mưu khác. Toản tin là thật, liền rút hết binh quyền của Diệu,
chỉ cho giữ một chức quan vào hàng thị thần mà thôi. Bình sinh Diệu vốn tương
đắc với Lê Văn Trung, bèn gửi thư mật vào Qui Nhơn, hẹn Trung cất quân lập
Quang Thiệu làm vua mà bỏ Quang Toản. Trung theo lời, bèn kéo quân về, đồng
thời xin Quang Thiệu thân đem quân tiếp ứng phía sau.
Quân
Trung về đến Quảng Nam, trong ngoài nhốn nháo sợ hãi. Quang Toản họp các quan
lại bàn bạc, mọi người đều nói:
- Bảo
Văn Trung lui quân, phi Diệu không ai làm được!
Quang
Toản liền sai Diệu đi. Văn Trung không báo trước với Quang Thiệu mà một mình
một ngựa theo Diệu về yết kiến Quang Toản. Quang Thiệu nghi ngờ, sợ hãi, lập
tức rút quân và voi về thành Qui Nhơn, đóng chặt cửa thành để cố thủ.
Quang
Toản sai tướng đến đánh liên tiếp mấy tuần không hạ được, bèn tự mình làm tướng
đem quân đi. Đến Lê Giang, có viên thái phủ tên là Mân nói với Toản rằng:
- Cuộc
biến loạn Quang Thiệu thực do Văn Trung gây nên, tội không thể tha, xin giết
ngay để răn kẻ khác.
Quang
Toản cũng cho là phải, bèn sai vời Trung vào dinh, bảo võ sĩ trói lại đem chém.
Sau đó, Toản vỗ về tướng sĩ, hạ lệnh tiến đánh Qui Nhơn, mười ngày hạ được
thành, bắt sống được Quang Thiệu. Toản bèn để Mân ở lại giữ thành Qui Nhơn, rồi
cùm Quang Thiệu đưa về, dùng thuốc độc giết chết. Nhà Tây Sơn kể từ khi Văn
Nhạc, chiếm giữ Qui Nhơn vào năm Mậu Tuất (1778), tức là năm thứ 39 niên hiệu
Cảnh Hưng, thì tự xưng là thiên vương, đặt niên hiệu là Thái Đức; năm Canh Tý
(1780) lại xưng hoàng đế, lập Quang Thiệu làm thái tử. Năm Quý sửu (1793), Nhạc
mất, Thiệu lên nối ngôi, được năm năm, đến năm Mậu Ngọ (1798) thì mất nước, tất
cả là 21 năm.
Lại nói,
sau khi Văn Trung bị Quang Toản giết, con rể Trung là Chất nghi ngờ, sợ hãi,
bèn phản Tây Sơn, vào Nam đầu hàng chúa Nguyễn ở Gia Định. Chúa Nguyễn cho coi
quân ngự lâm.
Nguyên
lúc đầu, Chất thờ Quang Toản, giỏi về tài đánh dẹp, làm đến chức đại đô đốc.
Đến khi Văn Trung chết, Chất bỏ quân lính chạy trốn. Thái phủ Mân sợ Chất làm
loạn, liền lùng bắt rất gấp. Chất có người đày tớ nghĩa hiệp hoá trang như hình
dáng của Chất, rồi tự tử ở khe núi, để cho Mân thôi, không lùng bắt Chất nữa.
Chẳng bao lâu, Mân biết là giả dối, bèn treo giải thưởng truy lùng Chất hết sức
ráo riết. Chất bất đắc dĩ phải ra thú ở cửa quan của Mân. Mân liền sai Chất coi
toán quân tiền phong, để chờ sai phái, và định bụng dùng quân luật mà giết
chết. Chất biết ý ấy, bèn dỗ bọn tướng tá của y, gồm sáu mươi người, đem quân
và voi vào Nam, dâng biểu xin hàng. Sau Chất vâng mệnh chúa Nguyễn đem quân
đánh nhau với Mân. Quân Mân thua to, Mân phải chạy vào núi rừng mà trốn; quân,
voi, khí giới đều bị Chất thu sạch.
Quang
Toản nghe tin, lại sai đại tư đồ Vũ Tuấn dẫn binh tới trấn, chiêu tập tàn quân
để đóng giữ.
Đến năm
Canh Thân (1800), quân chúa Nguyễn vượt biển ra đánh, sức Tuấn chống không nổi,
dâng thành xin hàng. Chúa Nguyễn bèn đổi thành Qui Nhơn làm trấn Bình Định, sai
quan coi hậu quân là Tính quận công Võ Đình Tính (cũng thường gọi là Võ Tính)
đem quân đóng giữ, còn thượng thư bộ Lễ là Ngô Tòng Chu thì làm chức hiệp trấn.
Được vài
tháng, Quang Toản sai thống suất Diệu và tư đồ Dũng đốc suất các đạo quân thuỷ
bộ vào đánh Qui Nhơn. Diệu coi quân bộ, Dũng coi quân thuỷ, hai đạo hợp sức mà
đánh. Quân Nguyễn hết sức chống giữ bọn Diệu không thể đánh thắng. Dũng bèn
dùng ba chiếc tàu chiến lớn, chặn ngang cửa biển Qui Nhơn, trên tàu lập chòi
gác, đặt súng lớn; phía trong lại dàn quanh vài trăm chiếc chiến thuyền, đốc
thúc quân thuỷ canh giữ đề phòng quân cứu viện ở ngoài đến.
Năm sau,
bị quân Nguyễn đánh tan, tàu lớn và chiến thuyền đều bị thiêu huỷ.
Dũng lên
bộ, dẫn tàn quân mà chạy, rồi hợp quân với Diệu.
Quân Tây
Sơn đã mất đường thuỷ, bèn đắp luỹ đất, ụ đất ở xung quanh thành Qui Nhơn, để
đứng trên đó mà bắn vào thành; lại lập nhiều đồn trại kiên cố, chứa chất quân
lương, làm kế ở lâu. Nhưng quân Nguyễn canh giữ rất cẩn mật, bọn Diệu không sao
hạ được thành. Quang Toản rất lấy làm lo.
Lúc ấy
lại có bọn cha cố của đạo Gia-tô tây dương (tiếng dùng để gọi các nước phương
Tây nói chung) ở trong nước Nam, đi khắp nơi dụ các đạo đồ làm loạn. Các nơi
nổi lên như ong, Quang Toản liền sai bắt bọn trùm trưởng của họ đem giết chết,
rồi triệt hạ các nhà giảng, phá huỷ các ảnh tượng và đốt các sách tây của họ.
Hễ bắt được đồ đảng của họ, lại bắt phải giẫm chân lên ảnh thì mới tha, ai
không chịu thì bắt sung quân nuôi voi, cắt cỏ cho voi ăn. Bởi thế, giáo dân tức
giận, càng xui giục lẫn nhau, đâu đâu cũng đều náo động.
Còn quân
nhà Nguyễn thì hàng năm ra đánh, thanh thế lừng lẫy. Mỗi khi gió nam nổi lên,
thì nhân dân các trấn lại nói với nhau: "Chúa cũ ra đấy!" (bấy giờ
hàng năm cứ đến khoảng tháng 4, tháng 5 khi gió nam thổi mạnh thì Nguyễn ánh
đốc quân thuỷ bộ ra đánh, đến lúc có gió mùa đông bắc thổi thì lại rút quân về.
Người đương thời thường gọi những đợt tấn công như vậy là những trận "giặc
mùa". Bọn sĩ phu phản động chống Tây Sơn và ngả theo Nguyễn ánh mới nhân
đó, đặt ra câu ca dao: Lạy trời cho chóng gió nồm, Cho thuyền chúa Nguyễn thuận
buồm trẩy ra).
Lúc đó,
nhà Nguyễn cho rằng tướng mạnh và quân tinh nhuệ của Tây Sơn đều tụ họp cả ở
Qui Nhơn mà Quang Toản ở thành Phú Xuân thì quân lính phòng giữ rất yếu ớt, bèn
đốc suất hết thuỷ quân và trên một ngàn chiến thuyền, hẹn ngày thuận theo gió
nam vượt biển ra phía bắc. Cờ quạt chói nắng, chiêng trống vang trời, xông
thẳng vào đánh cửa Thuận An. Tướng Tây Sơn là phò mã Trị đem hết quân lính
chống giữ, địch không nổi, phải tan vỡ. Quang Toản nghe tin, lại đốc hết tướng
sĩ, tự mình cầm quân tới đánh nhau với quân Nguyễn. Gần trưa, quân Toản đại
bại, vỡ chạy tan tác. Quân chúa Nguyễn bèn tiến lên, chiếm lại đô thành. Hôm đó
nhằm vào ngày mùng 3 tháng năm, mùa hè năm Tân dậu (1801), tức là năm thứ 24,
kể từ khi chúa Nguyễn ánh quyền giữ việc nước.
Sau khi
thua trận, Quang Toản rụng rời hoảng hốt, liền thay đổi đồ mặc, cùng vài người
quan hầu, cưỡi ngựa chạy trạm, chạy ra miền Bắc. Đến Nghệ An ở lại vài ngày,
rồi lại ra Thăng Long hộ họp tướng sĩ, lo việc chống giữ. Tháng sáu mùa hè năm
ấy, thình lình viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Thận sai người báo tin lầu Rồng
ba tầng ở đấy tự dưng đổ sụp. Những người nghe tin đều cho là điềm chẳng lành.
Sang đầu
mùa thu, quan nhà Nguyễn là Tường quang hầu cùng Thuỵ ngọc hầu vâng chỉ đem
quân theo hai đường Hương Sơn và Trấn Ninh ra đánh, để quấy rối trấn Nghệ An.
Nguyễn Thận sai tướng đón đánh, quân của Thận luôn bị thua. Sau vài ngày, Tường
quang hầu vì lũ lụt không thể ở lâu, bèn đem thuyền cũ cắm ở cửa sông vùng
Hương Sơn, đầu và đuôi thuyền bện cỏ làm hình quân lính, cho mặc áo giáp cầm
kích, trong thuyền đắp vài đĩa đèn để cho quân Tây Sơn nghi ngờ, rồi nhân lúc
đêm tối đem quân bản bộ cưỡi thuyền nhẹ xuôi dòng xuống phía đông, ra cửa Nam
Giới, vượt biển mà về Nam. Đến khi quân Tây Sơn biết thì quân của Tường quang
hầu đã đi được hai ngày rồi. Thuỵ ngọc hầu cũng từ Trấn Ninh rút quân theo
đường mạn ngược mà về kinh sư.
Ngày
tháng tám năm ấy (1801), Quang Toản ở Thăng Long, xuống tờ dụ vỗ về quân dân
các trấn, và đổi niên hiệu Cảnh Thịnh làm năm đầu niên hiệu Bảo Hưng. Tháng
mười một mùa đông năm ấy, Quang Toản thân hành đem quân và voi của bốn trấn Hải
Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc và hai trấn Thanh Hoa, Nghệ An vào đánh,
nhưng bị quân nhà Nguyễn đánh thua, lại phải rút về.
Mùa xuân
năm Nhâm Tuất (1802), quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh hạ được đồn Tâm
Hiệu thuộc châu Bố Chánh. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt
Kỳ Anh. Tháng năm mùa hè năm ấy (1802), chúa Nguyễn hạ chiếu đổi niên hiệu làm
năm đầu niên hiệu Gia Long, ban tờ dụ ra cho quân dân Nam Hà, Bắc Hà đều biết.
Nguyên
từ năm 49 niên hiệu Cảnh hưng, tức là từ năm Bính ngọ (1786) trở về sau, nhà
Nguyễn vẫn dùng niên hiệu cũ của nhà Lê.
Năm Nhâm
Tuất (1802) này, lúc đầu cũng vẫn còn gọi là năm Cảnh-hưng, đến bây giờ mới đổi
ra niên hiệu mới.
Bấy giờ,
trong thành Qui Nhơn hết ăn, quan quân đều đói mệt. Viên tham tán là Ngô Tòng
Chu uống thuốc độc chết trước. Tính quận công cũng tự đốt mà chết. Tướng sĩ hơn
vài vạn người đều ra thành xin đầu hàng. Diệu bằng lòng nhận cho hàng.
Sau khi
vào thành, Diệu lập tức bàn với bọn tướng tá đem quân về đánh kinh thành (Phú
Xuân (Huế-Bình Trị Thiên)). Qua vài ngày, Diệu đem quân ra khỏi địa giới trấn
Qui Nhơn thì bị viên phó tướng của nhà Nguyễn là Đắc lộc hầu chặn lại. Nguyên
từ năm ngoái, sau khi nhà Nguyễn lấy lại kinh thành, liền sai Đắc lộc hầu tới
đó lập đồn cắm trại để ngăn chặn sự tiến công của quân Tây Sơn. Lúc ấy, Diệu
đem quân về qua đó, đánh phá hàng nửa ngày mà không thể hạ được. Quân Diệu bị
quân nhà Nguyễn bắn sang, người chết và người bị thương gối nhau mà nằm. Diệu
chẳng biết làm thế nào, bèn đem quân và voi dọn núi mở đường đi vào địa giới
nước Ai Lao, định ra Nghệ An. Chúa Nguyễn nghe tin, lập tức cắt đặt các tướng,
thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc.
Ngày 28
tháng năm, quân thuỷ của nhà Nguyễn đi tới cửa biển Đan Nhai thuộc trấn Nghệ
An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông
Thanh Long, nổ ba tiếng súng rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều
tiến công, quân Tây Sơn kinh sợ, bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên
cướp kho thóc Kỳ Lân, rồi kéo cờ phấp phới. Viên trấn thủ của Tây Sơn là Nguyễn
Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Đại, thiếu uý Đằng bỏ thành
chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Triêm tự thắt cổ; còn Thận chạy ra trấn
Thanh Hoa. Thế là quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An.
Diệu ở
Qui Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã tan vỡ, bèn đến
Thanh Chương, qua sông Thanh Long, do đường phía trên huyện Nam đường chạy ra
trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân
nhà Nguyễn đuổi theo, bắt sống được Diệu.
Ngày
tháng sáu, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em Quang Toản là đốc trấn
Bàn cùng bọn Thận, Đằng đều đầu hàng.
Ngày 18,
vua Gia Long tiến ra Thăng Long, truyền lệnh cho các quân đánh thành, quân Tây
Sơn hoàn toàn tan vỡ. Quang Toản bỏ thành cùng với em là Quang Thuỳ và bọn đô
đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau, Thuỳ và vợ chồng Tú đều tự thắt
cổ. Còn Quang Toản cùng các bề tôi thì đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng
cũi đưa đến trước cửa quân. Bọn quan lại ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không
một ai dám chống lại. Quân Tây Sơn đến đấy là hoàn toàn bị dẹp tan.
Vua Gia
Long ở lại thành Thăng Long, hạ chiếu kêu gọi nhân dân yên ổn làm ăn, chia đặt
quan văn, quan võ ở các trấn: lại vời các quan văn, võ nhà Lê và các bậc kỳ
lão, hỏi về công việc ở Bắc Hà; tha bớt thuế khoá, phu phen, bãi bỏ mọi sự
phiền hà, chiếu theo sổ đinh cũ của nhà Tây Sơn cứ bảy suất đinh kén một người
lính, rồi lập ra các quân năm doanh và mười cơ. Vài tháng sau, vua Gia Long về
kinh đô Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem bọn vua tôi Quang Toản ra dùng
cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết (theo Đại nam thực lục
chính biên, thì Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nhạc, Huệ đều
bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác để giết chết. Còn Huệ, Nhạc cũng bị
trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của
Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại,
sau lại đưa vào cấm vố vĩnh viễn trong ngục thất). Từ đấy Nam, Bắc yên vui, cõi
bờ chung hiệp, cơ đồ sẽ thống nhất muôn đời vậy.
Lại nói,
từ khi thái hậu nhà Lê chạy sang Yên Kinh, ở tại "Tây An Nam doanh"
được bốn năm thì cháu đầu (tức con trai cả của Chiêu Thống) mất, năm năm thì
vua Lê mất. Những người đi theo đều bị Hoà Khôn đưa đi các nơi khác, chỉ còn
thái hậu và Duy Khang ở lại Yên Kinh mà thôi. Tấc lòng cố quốc tha hương, tơ
sầu muôn mối; mưa xuân sương thu, mấy độ thở than. Thái hậu với các thị thần
thường muốn dâng biểu xin về nước, nhưng vì đất nước đang bị Tây Sơn chiếm cứ,
lại đành phải ngậm sầu mà thôi.
Ngày 11
tháng mười, mùa đông năm thứ tư, niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, tức là năm Kỷ
vị (1799), thái hậu lo buồn thành bệnh, mất ở "Tây An Nam doanh". Vua
Thanh giáng chỉ sai quan bộ Lễ trông coi việc tang, và đem di hài quàn tạm ở
cạnh lăng vua Chiêu Thống.
Trước
đó, từ năm ất Mão (1795), tức năm thứ 60 niên hiệu Càn-long, vua Thanh đã
truyền ngôi cho con thứ 11, tức là vua Gia Khánh. Sau khi lên ngôi, vua Gia
Khánh bèn tôn vua Càn Long làm thái thượng hoàng. Bấy giờ vua Gia Khánh nghĩ
lại lời dặn của anh, tức là vương thứ sáu, định giết Hoà Khôn, nhưng vì Hoà
Khôn là người được thượng hoàng yêu mến, nên vẫn chưa dám hạ lệnh giết.
Đến mùa
xuân năm ấy, thượng hoàng mất, vua Gia Khánh liền sai bắt Hoà Khôn, ép buộc hắn
phải tự tử, đồng thời tịch thu hết thảy gia tài của hắn. Sau khi giết Hoà Khôn,
nhân tiện bàn đến việc vua cũ của nước Nam, vua Thanh cũng tỏ vẻ thương hại,
bèn vời các bề tôi của nhà Lê bị an trí trước kia, cho vào ở trong xưởng Lam
thần, ban ơn rất hậu, đầu tóc, quần áo đều cho được tuỳ tiện.
Năm Quý
Hợi (1803), năm thứ tám niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, tức là năm thứ hai niên
hiệu Gia Long ở nước ta; lúc đó đã dẹp yên xong quân Tây Sơn, nhà Nguyễn bèn
sai sứ thần sang nhà Thanh, dâng biểu trần tình và xin phong vương. Các bề tôi
cũ của nhà Lê nghe tin, liền làm tờ bẩm trình với quan nội các, xin đem linh
cữu của vua cũ và thái mẫu về nước an táng. Viên quan nội các đem việc ấy tâu
lên.
Năm Giáp
Tý (1804), vua Thanh giáng chỉ cho đưa di hài của vua Chiêu Thống về táng ở quê
nhà và cho các người bề tôi trốn theo đều được về nước; lại truyền xuất tiền
công cấp cho viên tá lãnh mười lạng bạc, viên kiêu kỵ tám láng, còn từ lãnh
viên trở xuống thì kể cả đàn ông đàn bà, mỗi người lớn được năm lạng, mỗi người
nhỏ được ba lạng; đồng thời bảo các tỉnh dọc đường phải giúp đỡ và tiễn đưa họ
ra cửa ải.
Tháng
giêng năm ấy, các bề tôi mở quan tài vua Lê Chiêu Thống thì thấy da thịt đã nát
hết, chỉ có trái tim không nát, mà sắc máu hầu như vẫn còn đỏ tươi. Tính từ khi
quàn đến bây giờ đã mười hai năm. Ai trông thấy cũng đều lấy làm lạ và than
thở. Rồi đó, họ lại lượm di hài của thái hậu và con đầu của vua. Cả di hài của
Viết Triệu và Văn Quyên cũng được đưa về theo.
Ngày 13
tháng 8 mùa thu năm ấy, di hài vua Lê đưa về đến cửa ải. Hoàng phi là Nguyễn
Thị Kim nghe tin, liền từ Kinh Bắc lên cửa ải để đón linh cữu. Ngay từ hôm ấy,
hoàng phi tuyệt thực, mỗi ngày chỉ uống một chén hồ, vật vã bên linh cữu mà
khóc lóc. Ngày 23 tháng 8 di hài đưa về đến Thăng Long, các quan dựng rạp tế ở
nhà Diên tự công. Hằng ngày hoàng phi chỉ nhấm vài đốt mía mà thôi.
Ngày 12
tháng 10, các quan thay hài cốt vua Lê sang một chiếc tiểu khác, thấy trái tim
vẫn còn y nguyên.
Tế xong,
hoàng phi đến trước hương án khóc lóc thảm thiết và nói với Diên tự công rằng:
- Ta
nhẫn nhục vất vả đã mười lăm mười sáu năm trời nay, trong những ngày ấy không
phải là không dám chết, chỉ vì thái hậu, vua ta, con ta vẫn ở bên Trung Quốc,
âm tín không thông, còn mất không rõ, nên ta còn chờ đợi một chút. Nay thái hậu
cùng vua ta đều mất, con ta cũng chết, linh cữu đã về đến nước nhà thế là việc
của ta xong rồi, ta phải chết theo để hầu bên lăng tẩm mới phải.
Rồi đó,
hoàng phi liền uống thuốc độc tự tử. Ai nghe tin ấy cũng đều thương xót. Sứ
thần Trung Hoa bấy giờ đang ở đấy cũng than thở, ngợi khen mãi. Ngày 13, các
quan lại sắm quan khách khâm liệm cho haòng phi, rồi ngày 28 cùng rước xuống
thuyền đưa về trấn Thanh Hoa.
Ngày 24
tháng 11, các quan làm lễ an táng vua Lê, thái hậu, hoàng phi, con vua ở cạnh
lăng vua Hiển-tông, trên núi Bàn Thạch (thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá). Hai
quan tài của Nguyễn Viết Triệu, Nguyễn Văn Quyên cũng táng theo ở gần đó.
Trước
đây, khi di hài vua Lê đưa về đến ải Nam Quan, Duy Khang bái biệt trước linh
cữu rồi đi về nẻo Lạng Sơn. Còn viên trấn thủ cũ của xứ Kinh Bắc là Lê Hân về
đến Thanh Hoá thì bị bệnh chết. Vợ Hân là người Trung Quốc đưa quan tài chồng
về tại quê chồng ở làng Nộn Hồ (tục gọi là làng Non Hồ), huyện Nam Đường, trấn
Nghệ An, tìm họ hàng nhà chồng để làm lễ an táng. Rồi nàng ở lại, không về
Trung Quốc; lấy người cháu trong họ chồng làm con kế tự giữ tiết trọn đời, đến
80 tuổi mới mất.
Các bề
tôi theo vua Lê lúc đó đều về quê quán. Chỉ có Trịnh Hiến lại ra làm quan với
nhà Nguyễn; rồi sau về làng, vì việc tài sắc bị kẻ thù giết chết. Sau khi hoàng
phi đã chết theo vua Lê, người khắp cả nước ta và người Trung Quốc đều khen là
bậc tiết nghĩa.
Có người làm bài "Tiêu cung tuẫn tiết
hành" (bài trường ca về người cung phi chết theo vua) để lưu truyền đời
sau, lời rằng:
"Đất
Thuận An cạnh sông Thiên Đức, (tức sông Đuống) Người đời xưa gọi ấp Tỳ Bà.
Khúc tỳ
mượn ý đặt ra,
Trời sinh
người đẹp sánh hoa Đại-đề (tên một khúc
ca trong Cổ nhạc phủ, ca ngợi người con gái đẹp như hoa. ở đây mượn tên đó để
chỉ người con gái đẹp)
Khí tươi
tốt nhóm về khuê tú, Năm Cảnh hưng ất-dậu mừng sao, Nhà sang sinh bậc nữ hào,
Công,
dung, ngôn, hạnh vẻ nào kém đâu. Tuổi mười bảy kén vào cung khuyết,
Bính ngọ
liền sớm biết điềm hùng (điềm con gấu;
thơ "Tư can" Kinh Thi nói nằm mộng thấy con bi con hùng (gấu) là điềm
sinh con trai)
Ơn trên
cao cả muôn trùng,
Đượm
nhuần mưa móc phúc hồng chứa chan, Năm đinh vị Tây Sơn khởi biến.
Cảnh
phong trần chợt đến khôn lường.
Ngoài
thành giong ruổi xe hương,
Quân hầu
tan tác, bàng hoàng bên sông.
Vó ngựa
lạc Văn phong mấy độ,
Theo từ
vi (trỏ mẹ vua) đến Võ Nhai sơn.
Quần
Hồng lận đận núi ngàn
Liễu bồ
phải chịu muôn vàn long đong,
Xa trông
đợi tin rồng vắng bặt,
Chốn
nhàn đình nước mắt chứa chan.
Bỗng đâu
tiếng trống nổi ran,
Tướng
Cao Bằng rước xe loan lên đường.
Tới Mục
Mã vội vàng nghỉ lại,
Thuyền
vua giong lên ải Phất Mê.
Địch
nghe tin, kíp đuổi kề,
Tên bay
đạn lạc bốn bề rối ren.
Bè một
mảng qua phen kinh hãi,
Bao hiểm
nghèo rồi lại bình yên.
Vin cây
giẫm đá trèo lên,
Mưa mù
lam chướng đầy trên một trời.
Dân sở
tại chào mời, đưa dắt,
Gập
ghềnh theo lối tắt đường ngang.
Hết
đường, tới núi, vào hang,
Giếng
thơm trong suốt, nước đang dạt dào.
Biết
động ấy thuở nào đào đục?
Mà hôm
nay hưởng phúc thần tiên!
Nước
ngàn rau núi cũng yên,
Chim
kêu, hoa rụng, nỗi buồn tạm khuây.
Trong
nội địa (chỉ Trung Quốc) tin đâu bay đến,
Quan
trên liền sai khiến người sang.
Trước
sau căn vặn tỏ tường,
Long
Châu tạm đón dọc đường nghỉ chân.
Cấp phẩm
vật mọi phần tươm tất,
Lính đưa
đường cẩn mật, tận tình.
Rồi cho
đến ở Nam Ninh,
Cửa nhà
rộng rãi quán đình nghiêm trang.
Dù Nam,
Bắc, đôi đường chua xót,
Lễ nghi
thường chưa chút đơn sai,
Một niềm
từ huấn vâng lời,
Tiêu
phòng (phòng ở của cung phi có trát hồ tiêu vào vách cho ấm; đây chỉ vợ vua)
giữ lễ trong ngoài phân minh.
Nhờ
thượng quốc đề binh cứu viện,
Muôn dặm
xa đưa đến tin vui,
Về Nam
cờ quạt rợp trời,
Vườn xưa
điện cũ sáng ngời vẻ xuân.
Tiếng
đàn, trống muôn phần rộn rã,
Cảnh cỏ
hoa thoả dạ lâu nay.
Nào ngờ
vạ gió tai bay,
Buồn vui
chốc lát đổi thay khôn lường
Trên ngự
giá vội vàng ra ải,
Từ vi và
cháu dại cùng đi.
Não lòng
thay lúc biệt ly,
Bỗng
dưng kẻ ở người đi rã rời.
Sang
phía tây tìm nơi lẩn tránh,
Cảnh chơ
vơ, cô quạnh, đau thương.
My, Ngu
xưa cũng một phường (Mỵ Châu, vợ Trọng
Thuỷ; Ngu Cơ, vợ Hạng Võ; cả hai người con gái đều chết trong cảnh loạn lạc,
rồi Mỵ Châu hoá thành viên ngọc, Ngu Cơ hoá thành cỏ thơm),
Ai làm
nên nỗi dặm đường gian truân.
Xưa nhà
Hạ có lần suy bại,
Một lữ,
thành dấy lại cơ đồ.
Giáo
gươm thượng quốc giùm cho,
Nằm gai
nếm mật vua lo đủ điều.
Ví xã
tắc có nhiều người giỏi,
Phận
thuyền quyên đâu phải gian nan.
Khoảng
năm quí sửu đồn sang,
"Chầu
trời" tin ấy bàng hoàng một phen (chỉ vào tin Chiêu Thống chết).
Nghĩ vì
lẽ dân đen mong mỏi,
Nên Tây
Sơn kia nói sai ngoa,
Đến khi
vận mở nước nhà,
Sứ thần
sang, mới biết là không sai.
Ví ngọc
nát, về nơi chín suối,
Hương
hồn khôn bạn với tiên quân (hai câu này ý
nói, nếu hoàng phi chết trước di thì hương hồn không được làm bạn với vua Lê,
lúc đó thi hài còn ở Trung Quốc).
Mười sáu
năm, biết mấy lần,
Rắp theo
Tôn muội làm thân chết chìm (Tôn muội tức
em gái Tôn Quyền và là vợ Lưu Bị đời Tam quốc. Tôn muội bị anh bắt về ở bên
Giang Đông; lúc Lưu Bị đánh Giang Đông bị hại, có tin đồn Lưu Bị đã chết, Tôn
muội bèn nhảy xuống sông tự tử. - ở đây ý nói hoàn cảnh chưa cho phép Lê Hoàng
phi chết được như Tôn muội).
Khiến
gia thuộc dò tìm mấy độ,
Lên ải
quan hỏi rõ nguyên nhân.
Thề sang
tới mộ cố quân,
Quyết
liều tính mệnh với khăn lụa là.
Sống là
khó, xưa đà có biết,
Nào hay
đâu muốn chết cũng gay.
Cơ trời
sao khéo vần xoay,
Quan
trên đã lấy việc này tâu lên.
Cho về
nước, vua liền có chỉ,
Tiết
Trung thu, Giáp Tý vừa qua.
Vội vàng
lên đón linh xa,
Cháo cơm
biếng nuốt, mặt hoa võ vàng.
Thuyền
đủng đỉnh Lô Giang qua bến,
Kiệu
toàn che, rước đến từ đường.
Thần
liêu dâng chén quỳnh tương,
Trông
lên, trăm họ đôi hàng lệ sa.
Tình
khuê phụ thật là khó vẽ,
Rửa nước
thơm làm lễ gọi là.
Mở quan,
cúi mặt nhìn qua,
Chắp tay
vái lạy lệ nhoà hai mi.
Cầm
thuốc độc thầm thì từ tạ
Lui vào
màn uống cả một hơi,
Trẻ già
ai nấy rụng rời,
Triều
đình nghe tiếng bồi hồi tiếc thương.
Ban gấm
vóc bạc vàng phúng viếng,
Bao vần
thơ lên tiếng ngợi khen.
Khen
thay! một chết phỉ nguyền,
Thơm tho
muôn thuở con thuyền thanh danh, Kìa khuê các ngọc lành hiếm có,
Sá chi
luống mộ vũ triêu vân (mộ vũ triêu vân:
Chiều mưa sớm mây. Nguyên ở tích Sở Tương Vương đi chơi Vân-mộng, nằm mơ thấy
một thần nữ chung chăn gối với mình, khi từ biệt có nói rằng: Nhà thiếp ở phía
nam non Vu, sớm làm mây chiều làm mưa... Sau người ta thường dùng chữ "mây
mưa" để chỉ việc trai gái giao hoan. - ở đây ý nói không thiết gì đến
chuyện ái ân nữa).
Đai vàng
nọ đứa nịnh thần,
Một đời
ton hót làm thân gian tà.
Kịp đến
lúc sơn hà biến đổi,
Trước
quân thù quỳ gối, chắp tay.
Lạnh
lòng khi đọc thơ này,
Khác nào
roi quất, mặt dày mày ê.
Thân
khuê các giúp bề Tiết giáo,
Mặt phấn
son phụ đạo Cao hình (tiết giáo, cao hình
là việc giáo dục của ông Tiết và việc hình án của ông Cao Dao; hai ông này đều
là những danh thần mẫu mực đời vua Thuấn).
So thơ
Cù, Cát đã đành (thơ "Cù mộc"
và thơ "Cát đàm" trong Kinh Thi, nội dung đều ca ngợi các bà hậu phi
nhà Chu),
Trúc
Tương vằn đẹp lưu danh muôn đời (tương
truyền vua Thuấn chết ở núi Thương Ngô, hai vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đến
viếng, khóc lóc thê thảm, nước mắt thấm vào các khóm trúc ở xung quanh, thành
ra các cây trúc có vằn rất đẹp. Tục gọi là "trúc Tương phi" hoặc
"trúc Tương". Sau hai bà nhảy xuống sông Tương để chết theo chồng).
Người xưa làm việc dễ rồi.
Nay làm
việc khó không người đó sao? (hai câu này
ý nói, chết ngay theo chồng như hai bà vợ vua Thuấn xưa đã làm, là một việc dễ;
còn chịu đựng đau khổ trong một thời gian dài rồi mới chết theo chồng như bà Lê
hoàng phi, là việc khó)
Bài này do bề tôi cũ nhà Lê là đồng bình
chương sự Tô phái hầu Nguyễn Huy Túc làm.
Tổng
trấn Bắc Thành là Thành quận công (tức Nguyễn Văn Thành) đem việc ấy đề đạt
lên. Vua Gia Long bèn hạ chỉ ban khen, sai lập đền ở quê hoàng phi, là xã Tỳ Bà
thuộc huyện Lang Tài để thờ; cấp ruộng tế và tha thuế khoá cho dân làng ấy để
dùng vào việc đèn nhang thờ cúng: lại sai dựng bia khắc chữ để nêu gương tiết
hạnh.
Còn các
bề tôi đi trốn theo vua Lê thì đến mùa hè, năm Tự Đức thứ 14 (1860), các quan ở
Bộ theo lời bàn kê rõ lý lịch, vâng chỉ dụ của nhà vua cho lập đền thờ ở phía
tây thành Thăng Long, tại phường Thuỵ Chương, thuộc huyện Vĩnh Thuận. Thứ tự
các bài vị đều sắp đặt theo như lời bàn của Bộ. Chính giữa là linh vị của
Trường phái hầu Lê Quýnh đặt thuỵ hiệu là "Trung Nghị". Bên tả bày
linh vị của mười một người, gồm có đề lĩnh Nguyễn Viết Triệu, thượng thư Bút
phong Đình Giản, Đinh võ hầu Trần Quang Châu, Trần Danh Kệ, hữu thị lang Nguyễn
Huy Diệu, trấn thủ Lê Hân, chỉ huy Lê Doãn Trị, chưởng tứ bảo Lê Quí Thích,
Nguyễn Hùng Trung, Lê Tùng, tả tham chính Kinh Bắc, Bình vọng Lê Trọng Trường.
Bên hữu bày linh vị của mười một người, gồm có tĩnh nạn công thần Trần Danh án,
thanh hình hiến phó sứ Tuyên Quang Nguyễn Đình Viện, nội thị Nguyễn Quyên, Trần
Đĩnh, đốc đồng Nguyễn Quốc Đống, Địch quận công Hoàng ích Hiểu; Nguyễn Đình
Miên, Đoàn Thận Xưởng võ uý Nguyễn Trọng Du, Lê Thức, Cận quang hầu Phạm Như
Tùng. Tất cả hai mươi hai người ấy đều được đặt thuỵ hiệu là "Trung
mẫn".
Ngoài
ra, ở phía đông thờ năm người là Nguyễn Ngọc Liễn, Vương Triệu, Vương Chấn
Thiều, Tôn Hạp, Lê Diên Định. ở nhà phía tây thờ năm người là Trần Lương, Trần
Đăng, Vũ Trọng Dật, Trần Dần, Trần Hạc.
Từ Lê
Quýnh trở xuống cộng ba mươi ba người, trên đầu đều đề là "Cố Lê tiết
nghĩa thần" (các bầy tôi tiết nghĩa đời Lê) và ngôi đền cũng đề là
"Cố Lê tiết nghĩa từ" (đền thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê). Việc ấy
nêu lên ý nghĩa giáo huấn của triều đình, là muốn gạn đục khơi trong và bồi đắp
phong tục, khiến cho người sau xem đấy cũng biết rằng: Vì nước, người ta dù có
phải chịu khốn khổ trong một lúc mà vinh quang sẽ lưu truyền muôn thuở vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét