Đi bộ thì khiếp Hải Vân
Đi thuyền thì sợ sóng thần hang Dơi
Hải Vân quan được xây dựng vào năm
Minh Mạng thứ 7 (1826), tọa lạc trên đỉnh đèo Hải Vân (Ải Vân, Ngãi Lãnh, Ải
Vân Sơn, Ải Lĩnh…), phía Tây núi Hải Vân, chỗ giáp vai giữa hai ngọn Hải Vân
Sơn (phía Đông) và Bà Sơn (phía Tây), ở độ cao 496m so với mặt nước biển, thuộc
dãy núi Bạch Mã - Hải Vân nằm trên địa phận thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc
(Thừa Thiên Huế) và phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu (Tp. Đà Nẵng), cách
trung tâm Tp. Huế khoảng 90km về phía Nam, trung tâm Tp. Đà Nẵng khoảng 28km về
phía Bắc.
Nhiều thư tịch cổ đã ghi lại vị trí
và tầm quan trọng của núi Hải Vân và Hải Vân quan: trong “Dư địa chí” do Nguyễn
Trãi biên soạn vào năm 1435, đã nói đến địa danh “Ải Vân”, Dương Văn An đời Mạc
trong “Ô châu cận lục” (1555), Hòa thượng Thích Đại Sán trong “Hải ngoại ký sự”
(cuối thế kỷ XVII), Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục” (cuối thế kỷ XVIII) đều
cho biết sự bao la hiểm trở của núi và ải Hải Vân, là một nơi xung yếu trên con
đường từ Thuận Hóa đi vào Quảng Nam và đều có cửa ải, đặt binh canh giữ. Cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn
và nhiều bản đồ xuất bản dưới thời Nguyễn như Thừa Thiên toàn đồ (1832), Đồng
Khánh ngự lãm địa dư chí đồ (1886 - 1888), Đại Nam nhất thống chí (Duy Tân năm
thứ 3 - 1909) đều ghi rõ, chi tiết vị trí của núi Hải Vân và Hải Vân quan.
Trong lịch sử, trước năm 1306, vùng
đất có đèo Hải Vân thuộc hai châu Ô, châu Lý của Vương quốc Champa. Sau sự kiện
Huyền Trân công chúa nhà Trần lấy vua Chế Mân, đèo Hải Vân trở thành biên giới
giữa hai nước Đại Việt và Champa. Năm 1402, nhà Hồ chia vùng đất Chiêm Động và
Cổ Lũy thành bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đèo Hải Vân trở thành ranh giới
giữa châu Hóa và lộ Thăng Hoa. Từ năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông thân
chinh Champa, đèo Hải Vân được lấy làm ranh giới giữa hai xứ Thuận Hóa và Quảng
Nam, trở thành một vị trí xung yếu, hết sức quan trọng trên con đường Thiên lý
Bắc Nam, là mối quan tâm đặc biệt đối với nhiều triều đại.
Kể từ khi các chúa Nguyễn làm chủ
Đàng Trong, đèo Hải Vân đã được coi là vị trí hiểm yếu, có tầm chiến lược hết
sức quan trọng. Chúa Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) nhận định đây là “đất yết hầu
của vùng Thuận Quảng”. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 - 1725), khi đi qua
đèo Hải Vân đã cảm tác “Việt Nam hiểm ải thử sơn điên/Hình thế hỗn như Thục đạo
thiên…” miêu tả khung cảnh hùng vĩ, hiểm trở…của nơi này. Năm 1774, tướng Hoàng
Ngũ Phúc của chúa Trịnh đánh chiếm Phú Xuân đã cho đắp một bờ lũy cao chắn ngay
đỉnh đèo Hải Vân gọi là Đỉnh Lũy. Vua Quang Trung (1788 - 1792) lấy núi Hải Vân
làm nơi hội tụ quân sĩ để tiến đánh quân Trịnh ở Phú Xuân. Đến khi Nguyễn Ánh
tiến quân ra Phú Xuân đã sai các tướng lĩnh “đến cửa ải Hải Vân theo chỗ hiểm
mà đóng giữ”.
Triều Nguyễn thiết lập, Huế trở thành
Kinh đô, đèo Hải Vân và núi Hải Vân ngày càng được coi trọng trong việc bảo vệ
phía nam Kinh đô, đây là đài quan sát bao quát toàn bộ khu vực cả ở trên biển
và trên đất liền và là yết hầu của đường bộ gần như duy nhất từ phía nam ra
Huế, đồng thời khống chế được cả con đường biển đi qua dưới chân núi. Nhận thức
được tầm quan trọng của ải Hải Vân, ngay từ thời Gia Long (1802 - 1820), triều
đình đã cho đặt 4 dịch trạm tại huyện Phú Lộc và sửa đường lên đèo Hải Vân. Đến
thời Minh Mạng (1820 - 1840), để khuyến khích người dân sinh sống ở vùng núi
non hiểm trở này, nhà vua đã ban thưởng cho mỗi nhà dân ở đây một lạng bạc và
xây đá thành bậc ở những đoạn đường dốc cho dễ đi lại.
Trước khi xây dựng Hải Vân quan, đèo
Hải Vân đã được coi là vị trí xung yếu của Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế về quân
sự cũng như giao thông bằng đường bộ, đó là cửa ngõ phía Nam của vùng đất này,
nhưng chưa có công trình kiến trúc nào có tầm quan trọng và qui mô to lớn, vững
chắc... được thực hiện tại nơi được đánh giá là một vị trí chiến lược hết sức
quan trọng trong hệ thống phòng thủ của Kinh đô Huế. Các đồn binh, trạm gác
được bố trí trước thời điểm 1826 có qui mô nhỏ bé, đơn lẻ… không quá chú trọng
về mặt quân sự như phòng thủ, bảo vệ đèo và đường trạm. Cho đến đầu thế kỉ XIX,
Phú Xuân - Huế trở thành Kinh đô, đèo Hải Vân càng trở nên quan trọng, là cửa
ngõ đi vào vùng kinh kỳ, cần phải tăng cường phòng ngự. Vì thế, tháng Hai năm
Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng xuống chỉ cho xây một cửa quan ở đỉnh đèo Hải
Vân, cửa trước viết ba chữ Hải Vân Quan, cửa sau viết sáu chữ Thiên Hạ Đệ Nhất
Hùng Quan, hai bên tả hữu xếp đá làm tường, trước sau liền nhau. Từ đó, muốn
vượt qua ải Hải Vân đều phải qua hai lần cửa xây bằng gạch vồ theo lối vòm
cuốn, giống cửa ở kinh thành Huế, nhưng không có vọng lâu, bên trên cửa là sân
thượng dùng để quan sát bốn phía, có xây bậc thang lên xuống. Công trình xây
dựng trong vài tháng, do phủ Thừa Thiên và tỉnh Quảng Nam cùng thuê dân làm,sau
đó triều đình phái biền binh chở súng ống theo viên tấn thủ đóng giữ. Về mặt
quản lí và canh phòng Hải Vân quan do chính viên Đề đốc Kinh thành quản lí,
dưới quyền quan Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Sau khi xây dựng xong cửa ải, triều
đình chuẩn định từ cửa quan trở về Bắc thuộc quản hạt phủ Thừa Thiên, ngoài cửa
quan trở về Nam thuộc quản hạt tỉnh Quảng Nam và ban hành các chính sách khuyến
khích dân cư đến sinh sống từ chân núi đến đỉnh đèo, đồng thời dựng đền thờ
thần núi Hải Vân.
Năm 1876, trước khi người Pháp lập
nền Bảo hộ thì cửa ải có 50 lính canh phòng. Năm 1885, sau khi ký Hòa ước Giáp
Thân (1884), số lính chỉ còn khoảng 5 người. Sang đầu thế kỷ XX, năm 1918, khi
H.Cosserat tới Hải Vân quan khảo cứu cửa ải đã bị bỏ hoang không còn ai canh
gác. Cuối năm 1946, khi Pháp trở lại xâm lược nước ta đã cải tạo Hải Vân quan
thành một cứ điểm với nhiều công sự vững chắc án ngữ trên đỉnh đèo hiểm trở do
hai trung đội lính Âu - Phi chiếm giữ. Sau năm 1954, hệ thống nhà ở, đồn bốt,
công sự... được quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục sử dụng.
Hiện nay, di tích Hải Vân quan đã có
sự biến đổi rất nhiều so với các tư liệu chính sử triều Nguyễn, các tư liệu của
người Pháp đầu thế kỷ XX và các nguồn tư liệu khác trong khoảng thời gian 1946
- 1975: Năm 1918, khi H.Cosserat khảo cứu Hải Vân quan (Lũy phòng thủ trên đèo
Hải Vân - BAVH, số 2/1921) cho thấy Hải Vân quan tuy bị hoang phế nhưng diện
mạo các công trình xây dựng còn tương đối rõ nét về vị trí, quy mô, cấu trúc...
nhưng trong giai đoạn 1946 - 1975, Hải Vân quan và Thiên hạ đệ nhất hùng quan
đã bị xây thêm phía trên để tăng thêm độ cao của các cổng nhằm mở rộng tầm kiểm
soát. Một vài đoạn tường lũy, hệ thống bậc cấp, đường đi nội bộ… đã bị triệt
giải, hạ thấp độ cao hoặc xây mới lệch khỏi vị trí nguyên gốc. Các ụ súng thần
công, Trú sở và Vũ khố đều bị các dãy nhà binh, nhà trại, kho ngầm, ụ súng...
được xây dựng trong thời kỳ quân đội Pháp, Mỹ đồn trú thay thế. Cửa ra vào
Thiên hạ đệ nhất hùng quan bị xây bít lại bằng gạch hiện đại và bị đất
cát...bồi lấp dày gần 2m. Đường Thiên lý từ phía Nam dẫn lên Hải Vân quan và từ
Thiên hạ đệ nhất hùng quan đi Huế cũng bị san ủi, bồi lấp. Bên cạnh đó, xung
quanh Hải Vân quan, các đơn vị quân đội Pháp, Mỹ đã xây thêm 5 lô cốt tại các
vị trí xung yếu để bảo vệ cứ điểm này.
Sau năm 1975, một số công trình như
trạm Viba, đường điện cao thế, đài kỷ niệm Chiến thắng Đồn Nhất...được xây dựng
trong khu vực di tích cùng với những công trình do quân đội Pháp, Mỹ xây dựng
trước đây đã làm thay đổi hoàn toàn bố cục mặt bằng nguyên gốc của di tích Hải
Vân quan.
Nhìn chung, đèo Hải Vân không chỉ là
một danh thắng hùng vĩ vào bậc nhất nước ta - “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” - mà
còn là nơi chứng kiến bao nhiêu chiến tích oai hùng trong công cuộc dựng nước
và giữ nước của dân tộc trong suốt nhiều thế kỷ qua và đặc biệt là những chiến
công ở nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1946 - 1975).
Di tích Hải vân quan đã được công
nhận là Di tích Quốc gia, việc bảo tồn, phục hồi, tôn tạo và phát huy giá trị
của di tích là hết sức cần thiết nhằm trả lại những giá trị vốn có của nó, góp
phần gìn giữ di sản văn hóa của dân tộc, phát triển kinh tế, phục vụ công tác
xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.
Cùng với Lăng Cô - Bạch Mã - Cảnh
Dương, Hải Vân Quan là một điểm đang thu hút du khách trong và ngoài nước đến
tham quan thưởng ngoạn cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng và biển.
(Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét