NHÀ VĂN
LÊ NGỌC MINH
Có nhà
thơ đã viết: “Cửa Tén Tằn sông Mã dồn quí thủy/Xây đắp miền cốt cách mấy tầng
văn” (thơ Từ Nguyên Trực). Sông Mã, dòng sông lớn nhất miền Trung này đổ vào
địa giới Thanh Hóa ở bản Tén Tằn, huyện Mường Lát tạo nên nền văn minh vật chất
và tinh thần phong phú cho xứ Thanh, một vùng đất Địa Linh Nhân Kiệt.
Dòng sông hồn cốt xứ Thanh
1. Từ tuổi thơ, tôi đã được học bài tập đọc
Sông Mã trong chương trình lớp bốn, hệ giáo
dục phổ thông 10/10 trước đây. Tôi nhớ, và chắc chắn, lũ bạn học lớp bốn của
tôi thời đó vẫn còn nhiều người nhớ, giọng đọc mẫu chậm rãi diễn cảm của thầy
chủ nhiệm Lê Văn Thiêm mở đầu bằng những câu: “Phát nguyên từ Tây Bắc, sông Mã
chảy qua Sơn La, Thanh Hóa rồi đổ ra biển Đông. Sông dài và lớn. Mùa lũ lụt
dòng sông chảy xiết vượt qua những ghềnh đá cao ngất, nước tung lên trắng xóa
như bờm ngựa bạch… Còn từ cuối thu trở đi sông hiền hòa trôi lững lờ một mầu
nước xanh biếc thơ mộng…”.
Đoạn kết
của bài tập đọc Sông Mã là một áng văn
xuôi rất trữ tình: “… Chảy về đến ngã ba Bông, sông Mã gặp sông Chu, xuôi về
Hàm Rồng, len vào những rặng dừa xanh mát rồi đổ ra cửa Lạch Trào gần Sầm Sơn”.
Đúng là
đoạn kết của bài tập đọc đã tả đúng cái thần của sông Mã, nơi dòng sông chảy
giữa bạt ngàn dừa, chỗ nào cũng dừa. Dừa của các xã Hoàng Đại, Hoàng Quang,
Hoàng Châu, Hoàng Trường (Hoằng Hóa), dừa của làng Nam Ngạn (thành phố Thanh
Hóa), của xã Đông Hải (huyện Đông Sơn cũ), của các xã Quảng Hưng, Quảng Phú, Quảng
Thọ, Quảng Châu, Quảng Tiến (huyện Quảng Xương cũ), trong đó có làng Hòa Chúng,
xã Quảng Thọ của chúng tôi…
Kết thúc
buổi học tập đọc, thầy Lê Văn Thiêm căn dặn các học trò của mình phải cố học
thuộc lòng bài này bởi nó có một phần đất đai, công sức mồ hôi, nước mắt bao
đời nay của làng tôi. Vì thế, tôi đã nhớ và luôn cảm thấy rất tự hào, vì đã
được sinh ra bên dòng sông Mã.
2. Nhìn lên bản đồ Việt Nam, ở địa bàn Bắc
miền Trung, sông Mã đúng là một “dòng sông dài và lớn”. Có lẽ vì vậy mà nhiều vùng ở xứ Thanh, sông Mã còn được gọi
là sông Mạ (mẹ) hoặc sông Cái (như ngoài Bắc người ta gọi sông Hồng). Ở quê
tôi, người dân thường ngày gọi sông Mã là sông Cái.
Sách Địa
chí Thanh Hóa chép: “Hệ thống sông Mã lớn nhất Thanh Hóa. Trong phạm vi của
tỉnh, lưu vực của sông Mã chiếm tới bốn phần năm diện tích toàn tỉnh... Sông Mã
gồm tám mươi chín chi nhánh có chiều dài lớn hơn mười kilomet trở lên, cụ
thể: bốn mươi nhánh cấp 1, ba mươi ba
nhánh cấp 2, và mười bảy nhánh cấp 3. Khi chảy vào địa phận Thanh Hóa ở địa
điểm xã Tén Tằn, huyện Mường Lát, sông Mã tạo nên hai vùng lưu vực”.
Cũng theo sách đã dẫn: Vùng lưu vực ở thượng nguồn, hai bên núi đá ép vào sông khiến lòng sông hẹp và sâu, dòng chảy tốc độ lớn, đôi bờ thường có vách đá núi dựng đứng, nên mật độ ghềnh thác nhiều với ba mươi mốt thác lớn nhỏ trong đó có bốn thác mà dân sơn tràng, người đi bè, người chở đò dọc đã bao đời truyền khẩu: “Nhất Suội, nhì Cả, ba Long/ Lòng còn ái ngại Ngốc cùng mà thôi”
(Suội,
Cả, Long, Ngốc là bốn ngọn thác lớn trong đoạn sông Mã chảy từ Điền Lư huyện Bá
Thước đến gần Cửa Hà, huyện Cẩm Thủy).
Qua Cửa
Hà chừng gần hai mươi kilômét, sông Mã chảy vào các huyện Vĩnh Lộc, Yên Định,
Thiệu Hoá, Hoằng Hóa, thành phố Thanh Hóa, thành phố Sầm Sơn là địa hình đồng
bằng, lòng sông rộng hơn, lưu tốc hiền hòa. Sông nhận nước của các sông nhánh
lớn như sông Chu, sông Bưởi, sông Cầu
Chày… bồi đắp nên miền châu thổ rộng lớn của xứ Thanh...
3. Từ Ngã ba Bông xuôi xuống Hàm Rồng, sông Mã
rẽ thành ba nhánh tạo nên bốn cửa biển. Cửa
chính chảy ra Lạch Trào (cửa Hới), ba cửa tiếp theo là cửa Lạch Trường, Cửa
Sung và cửa Thần Phù. Mỗi cửa biển cửa hạ lưu sông Mã đều gắn với một vùng văn
hoá bản địa ôm chứa nhiều sự tích huyền thoại và lời ca thấm đẫm ý nghĩa nhân
văn: “Lênh đênh qua cửa Thần Phù/Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm”; “Bóng trăng em ngỡ bóng đèn/ Bóng nước em ngỡ
bóng thuyền anh xuôi”...
Chảy
trên lãnh thổ Việt Nam 410 km, riêng ở Thanh Hóa dòng chảy của sông Mã là 242
km tạo nên một lưu vực 9.000km2, trong đó đồng bằng tỉnh Thanh được coi là đồng
bằng lớn thứ ba trong cả nước (sau đồng bằng Sông Cửu Long và đồng bằng Sông
Hồng). Sông Mã đúng là sông Mạ (sông Mẹ) và sông Cái của người Thanh Hóa, bởi
dòng sông đã bồi đắp thành một miền đất đai nuôi sống gần bốn triệu người, đồng
thời cũng tạo nên một vùng văn minh rực
rỡ của văn hóa Đại Việt,Việt Nam.
Thanh
Hóa là một trong những cái nôi sinh thành của không chỉ người Việt mà của cả
nhân loại. Có thể kể đến ba cái nôi chính. Đó là Động Người xưa ở huyện Thạch Thành, Núi Đọ ở huyện Thiệu Hóa có
niên đại đến hàng vạn năm, làng cổ Đông
Sơn gắn liền với nền văn minh Đông Sơn có niên đại cách đây hơn 2.000 năm.
Ba nền văn
minh nói trên đều có liên quan đến lịch sử loài người từ buổi hồng hoang đến
lúc biết sử dụng kim khí để chế tác ra công cụ lao động và khí cụ bảo vệ cương
vực, bảo vệ giống nòi bằng đồ sắt, đồ đồng đều nằm trong lưu vực sông Mã.
Chảy vào
Thanh Hóa ở Tén Tần, trên hành trình tạo lưu vực đổ ra biển Đông, sông Mã hình
thành bên đôi bờ của mình một nền văn hóa rực rỡ, và độc đáo.
Đó là
suối Cá Thần ở Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ với đàn cá kết tinh dáng vẻ mầu sắc
của nhiều loài cá, luôn sinh sôi nẩy nở trường tồn, luôn óng ả vân vi ôm chứa
nhiều huyền thoại say đắm tình yêu, thăm thẳm tâm linh;
Là Cửa
Hà sừng sững, vách núi uy nghi bên dòng chảy nước trong như lọc, khiến thi nhân
phải dừng chân và thốt lên: “Một vùng núi dựng nước soi/ Nước non tương thế,
lòng người tương tư”
Là một
vùng Thọ Xuân, Lam Kinh, nơi phát tích rỡ ràng của nhà Tiền Lê, Nhà Hậu Lê đóng
góp, kiến tạo nên hào khí hàng ngàn năm của Đại Việt:
“Từ
Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời dựng nền độc lập
Cùng
Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
(Cáo
bình Ngô - Nguyễn Trãi)
Là thành
đá Nhà Hồ (Vĩnh Lộc) bền gan cùng trời đất hơn 600 năm đã được UNESCO công nhận
là Di sản văn hoá thế giới…
4. Sông Mã chảy về đến Hàm Rồng thì tạo nên
một vực lớn trước núi Ngọc (còn gọi là Núi Nít). Không gian của Hàm Rồng thật hùng vĩ khi 99 ngọn núi dồn về
đây tạo hình thế núi Đầu Rồng, có động Long Quang. Minh quân thi sỹ Lê Thánh
Tông đã từng đến đây vãn cảnh và đề thơ: “Ngao nổi đội non, non có động? Kình
bơi lấp bể, bể thành ao”.
Cách núi
Rồng chỉ hơn 1km là làng Nam Ngạn với ngôi chùa Mật Đa nổi tiếng và đền thờ
tướng quân Chu Văn Lương, người được đánh giá là vị tướng dân quân đầu tiên của
Đại Việt. Trong tấm bia ghi công đức ở đền thờ ngài khắc rõ: “Khi giặc Nguyên
Mông sang xâm lược Đại Việt lần thứ hai, ngài đã tập hợp hơn tám trăm dân đinh
của làng Nam Ngạn và các làng xung quanh kéo ra Bắc tham gia đại quân của Hưng
Đạo vương Trần Quốc Tuấn”.
Chếch
bên kia sông Mã là làng Bột Thượng - Cổ Quăng, quê hương của Trạng Quỳnh mà
người xứ Thanh gọi là Làng Quan Trạng, một vùng đất học rực rỡ công danh, có
đến mười hai vị đại khoa thời phong kiến và hơn một trăm giáo sư, phó giáo sư,
tiến sỹ từ sau Cách mạng tháng Tám thành công đến nay.
Bên bờ
nam sông Mã là thành phố Thanh Hóa, đô thị trị sở ngàn năm của xứ Thanh tính từ
thời thành Tư Phố của Dương Đình Nghệ, vị thủ lĩnh có dưới trướng ba ngàn khách
ở làng Dương Xá và 215 năm tính từ khi vua Gia Long ra sắc chỉ thành lập Hạc
Thành, năm 1804;
Là một thành phố Sầm Sơn với dãy núi Trường Lệ
thơ mộng, ôm chứa bao nhiêu huyền tích về thần Độc Cước và núi Cổ Giải, về thần
Bà Triều và cửa Hới, về chùa Cô Tiên linh nghiệm và về đôi lứa yêu nhau bền lâu
như trời đất tạo nên hòn Trống Mái...
Văn minh
Sông Mã còn sản sinh ra một vùng văn hoá phi vật thể đặc sắc phong phú mang đậm
hồn quê.
Bao con
người đã từ thế hệ này qua thế hệ khác đưa con thuyền mưu sinh nặng nề lựa theo
chiều gió, ngược lên phía nguồn mà cứ phăm phăm rẽ nước để làm nên điệu hò sông Mã khi thao thiết hy
vọng: “Trăng lên khuất núi trăng mờ/ Bạn về mặc bạn, ta chờ trăng lên”; khi đam
mê tinh tế: “Tốt gió thuyền đậu bờ nam/ Làm thơ gửi lại em khoan lấy chồng”;
khi thương người như thể thương thân:
“Thuyền Than mà đậu Bến Than/Thấy anh vất vả cơ hàn em thương”…
Nhưng
câu ca đằm thắm yêu thương nhân nghĩa như trên khó ai có thể thống kê cho hết
được, bởi chúng đều có ở những thôn làng xứ Thanh, ở mỗi khúc sông, bến nước ,
ở mỗi đầu sông, cửa bể khi yên ả thanh bình, khi chớp lạch mưa nguồn.
Có nhà
nghiên cứu đã nhận xét rằng: Đất Thanh Hóa nơi cứ xới lên một tấc là thấy một
tấc trầm tích của văn hoá và lịch sử; đi đến làng quê Thanh Hóa không làng quê
nào là không có một kho tàng thần tích và tục ngữ dân ca. Có lẽ vì thế mà người
Thanh Hóa tự hào nói về tính bách nghệ của dân mình.
Nghệ ở
đây được hiểu như là nét văn hoá nghệ thuật dân gian độc đáo, về phương ngữ ở
mỗi làng quê xứ Thanh. Tuy là bách nghệ nhưng đều có mẫu số chung là sự tương
ái đằm thắm thiết tha. Ca dao của người Mường, Thanh Hóa:
“Vào
vườn hái quả cau xanh
Bổ ra
làm bốn mời anh ăn trầu
Trầu này
trầu nghĩa trầu tình
Trầu
loan, trầu phượng trầu mình trầu ta”.
Ca dao
của người Kinh, Thanh Hóa:
“Muốn
cho gần bến gần thuyền
Gần bác
gần mẹ nhân duyên cũng gần”…
Thật bản
sắc mà cũng thật trang nhã hòa hợp.
Sông Mã
tạo nên một miền văn hoá bản sắc độc đáo, phong phú, giầu có và luôn sinh thành
thêm các yếu tố mới mẻ. Bởi thế, đất văn vật võ công xứ Thanh đã sản sinh cho
đất nước biết bao anh hùng hào kiệt, văn nhân tài tử như: Mai An Tiêm, Triệu
Thị Trinh, Khương Công Phụ, Dương Đình
Nghệ, Lê Hoàn, Lê Văn Hưu, Chu Văn Lương, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Đào Duy
Từ, Lương Đắc Bằng, Trạng Quỳnh - Nguyễn Quỳnh, Trần Xuân Soạn, Tống Duy Tân,
Đinh Công Tráng... Câu thơ của cố thi sĩ Bế Kiến Quốc “Sinh ra ở đâu mà ai cũng
anh hùng/ Tất cả trả lời sinh bên một dòng sông”, dòng sông ở trong câu thơ
trên, không thể vắng thiếu sông Mã, xứ Thanh.
Người
Thanh Hóa hôm nay tự hào với văn hiến với truyền thống của quê hương sông Mã
đang ra sức xây dựng xứ sở theo con đường đổi mới nhằm biến các giá trị hun đúc
từ đất Địa linh nhân kiệt, từ nguồn mạch Đẻ đất đẻ nước... để chinh phục các
tầm cao mới của văn minh phồn thịnh và hiện đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét