Nguyễn Hoàng Sơn:
Bài đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội số 551 (6/2002).
Ai nói
ra cái câu “động trời” này nhỉ? Xin thưa, đó không phải là một người vô danh
tiểu tốt nào mà là một tên tuổi chói sáng trong ngành ngôn ngữ học, Việt ngữ
học: Giáo sư Cao Xuân Hạo. Chính cái tên được nhiều người yêu mến và tin tưởng
này khiến tôi phải đắn đo rất nhiều khi viết bài báo này. Tôi đã từng say mê
những trang văn xuôi của Puskin, Tônxtôi do ông dịch, từng khoái chá đọc những
bài ông viết về tiếng Việt, về tính hiếu học của người Việt đăng trên báo Văn
Nghệ...Tôi tự hỏi: một người trung thực như thế, thông thái như thế, mới mẻ như
thế tại sao lại có thể có những ý kiến...lạ lùng như thế khi bàn về thứ chữ
viết riêng của dân tộc ta là chữ Quốc ngữ?
Trong
cuốn sách “Tiếng Việt, văn Việt, người Việt” ( NXB Trẻ, 2001) GS Cao Xuân Hạo
hơn một lần đã bày tỏ sự tiếc nuối vì dân ta đã bỏ mất thứ Quốc tuý, Quốc hồn
là chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là thứ chữ “khó lòng thích hợp với tiếng Việt
và cách tri giác của người Việt đối với tiếng mẹ đẻ của họ” (tr105). GS Cao
Xuân Hạo cho biết ông đã bỏ công ra viết một cuốn sách tiếng Pháp để chứng minh
điều ấy (chắc là cho các ông Tây), cuốn “Âm vị học tuyến tính”, Paris, 1985.
Dân ta chắc ít người được đọc công trình ấy nên GS phải nhắc đi nhắc lại những
luận điểm của mình trong nhiều bài viết liên tiếp. Trong bài “Chữ Tây và chữ
Hán, thứ chữ nào hơn?” (đăng lần đầu trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 141,
năm 1994), trước tiên ông làm thao tác “nói ngược” để gây ấn tượng: “Có khá
nhiều người Việt nghĩ đến những ai đã đem chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán, chữ
Nôm với một lòng biết ơn sâu xa, cho rằng việc đó đã đưa nước ta tiến vào hiện
đại. Nghĩ như như thế tôi e có phần vội vàng” (tr 102). Xin lưu ý từ “những
ai”, rất đúng: để có chữ Quốc ngữ được dùng phổ biến như hiện nay, công lao
không chỉ thuộc về ông Tây A-ếch-xăng đờ Rốt (mà động cơ còn nhiều nghi vấn),
công ấy còn thuộc về hàng triệu hàng triệu người, có tên và không tên đã bền bỉ
truyền bá, phổ biến, hoàn thiện nó, trước hết phải kể đến các nhà trí thức
trong Ðông kinh nghĩa thục (1907), trong phong trào Truyền bá chữ Quốc ngữ
những năm 40, những chiến sĩ diệt dốt và Bình dân học vụ sau Cách mạng Tháng
Tám...
Tại sao
GS Cao Xuân Hạo khuyên chúng ta không cần biết ơn những bậc tiền bối trên? Lí
do rất đơn giản: vì chữ Quốc ngữ ABC là thứ chữ...chả ra gì, kém xa chữ Hán, và
việc dùng nó để thay thế chữ Hán là một sự nhầm lẫn lịch sử, “một trong những
biến cố có hại, nhưng không thể hoán cải, đã trót xảy ra rồi”, “một trận hồng
thuỷ”, “một tai hoạ”...Tóm lại, rất nhiều từ ngữ được GS huy động để “tổng xỉ
vả” thứ chữ cả nước và chính ông đang dùng hàng ngày. Muốn hạ thấp vị thế chữ
Quốc ngữ thì phải đề cao chữ Hán. GS Cao Xuân Hạo rất hứng thú với cái thí
nghiệm của một nhóm ngữ học người Mỹ năm 1978: một nhóm trẻ em mắc chứng alexia
(không đọc được chữ) được người ta dạy đọc tiếng Anh nhưng viết bằng chữ Hán,
“chẳng hạn câu He came to a high mountain được viết bằng sáu chữ Hán là “Tha
đáo cập nhất cao sơn”. Sau năm đầu, các em đọc và viết được 1600 từ đơn, và về
khả năng hấp thụ tri thức, chúng tỏ ra không “đần độn” chút nào, mà kết quả học
tập của chúng lại có phần trội hơn các em học tiểu học bằng chữ ABC” (tr 101).
Từ thí nghiệm duy nhất này (mà chắc GS cũng chỉ đọc trên báo, chưa được kiểm
nghiệm- câu ví dụ trên cũng rất đáng ngờ vì thiếu một chữ “toà” trước chữ “cao
sơn”), ông say sưa thuyết giảng về những ưu việt tuyệt đối của chữ Hán so với
mọi thứ chữ trên thế giới, trước hết là so với hệ thống chữ viết có nguồn gốc
latin. Nào là “chữ Hán hơn hẳn chữ Tây” (về phương diện Gestalt, tức “diện mạo
tổng quát”); “sách Tây rất khó đọc theo cách “nhất mục thập hàng” như sách chữ
Hán”; “từ cổ đại, loài người đã có một hệ thống chữ viết gần đạt tới mức lí
tưởng ấy: chữ Hán”; “bằng chứng sáng rực của tính ưu việt của chữ Hán là hiệu
quả tuyệt vời của việc sử dụng nó cho một ngôn ngữ thuộc một loại hình hoàn
toàn khác tiếng Hán: tiếng Nhật”; “Một nhà ngữ học Pháp gọi chữ Hán là “một thứ
esperanto cho đôi mắt của các thần dân Trung Hoa”. Thứ esperanto này còn có tầm
tác dụng vượt xa bờ cõi Trung quốc: nó còn là phương tiện giao tiếp đắc lực
giữa người Hán và các sứ giả “man tộc” (!) như người Hàn, người Nhật, người
Giao Chỉ, người Hồ, và các thứ “rợ” (!)khác, vốn thường bút đàm với người Hán
(và với nhau) nhiều hơn là ngôn đàm” ( tr111)...Nhiệt liệt nhất là mấy câu này
“Ngày nay nhiều người, trong đó có cả những nhà ngữ học phương Tây, đã thấy rõ
những ưu điểm lớn lao của chữ Hán. Có người còn tiên đoán rằng chỉ vài ba mươi
năm nữa, cả thế giới sẽ nhất loạt dùng chữ Hán để viết tiếng mẹ đẻ của từng dân
tộc (theo họ, đến lúc ấy các hàng rào ngôn ngữ-barrières linguistiques- xưa nay
vẫn ngăn cách các dân tộc, sẽ bị vô hiệu hoá)” (tr 106) Rồi còn câu này nữa
“Dựa vào những thành quả ngoạn mục của việc dạy tiếng Anh bằng chữ Hán cho các
học sinh Mỹ mắc chứng dislexia (không học được cách đánh vần- vẫn chỉ một thí
dụ ấy! NHS), một số nhà ngữ học Mỹ đã thấy rõ tính ưu việt của một hệ thống văn
tự phi ngữ âm và đã đi đến chỗ tin rằng đó chính là thứ chữ tương lai của nhân
loại” (tr111) Chà chà, thế này thì có cơ Việt Nam ta sẽ đứng hàng đầu trong
phong trào Hán hoá toàn thế giới, vì chúng ta đã có căn bản nho học, người biết
chữ Hán còn nhan nhản kia. Một GS có tiếng là uyên bác về Tây học, giỏi cả
tiếng Nga, tiếng Pháp , tiếng Anh mà nói thế, còn nghi ngờ gì nữa, mau mau cắp
sách đi học tiếng Hán thôi. GS còn dẫn một cuốn sách nổi tiếng (của một ông
Tây, tất nhiên), để nói rằng sở dĩ nước ta chưa thành “rồng” như Trung Quốc
(?), Nhật Bản, Ðài Loan, Hương Cảng (!), Ðại Hàn, Singapore là vì đã ...trót
dại “bỏ mất chữ Hán mà trước kia nó từng dùng”. GS cũng đủ khôn khéo để chỉ dẫn
ý kiến người khác, nhưng ta có quyền nghĩ rằng đây cũng là quan điểm của chính
ông vì ông hoàn toàn không nghi ngờ gì về sự đúng đắn của ông Tây ấy.
Xin tạm
dừng việc trình bày nhiều luận điểm còn li kì hơn nữa của GS để bàn qua mấy lời
về cái chuyện “hoá rồng” này. Trong lịch sử tư tưởng đã có nhiều tác giả tìm
cách lý giải tại sao một dân tộc, một đất nước lại có trình độ phát triển cao
hơn hoặc thấp hơn những nước khác. Thuyết địa lý thì cho là tại khí hậu: người
ở vùng lạnh chịu suy nghĩ hơn người xứ nóng, vì thế nên châu Âu công nghiệp hoá
sớm hơn... châu Phi chẳng hạn. Chủ nghĩa Mác thì tìm sự tương thích giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến
trúc... Nay phải chăng GS Cao Xuân Hạo và ông Léon Vandermeersch nào đó muốn
đưa ra “thuyết Hán tự” để soi sáng con đường đi cho các dân tộc? Trong xu thế
“Hành trình về phương Ðông”, nếu một số học giả phương Tây có đề cao quá đáng
văn hoá Trung Quốc (trong đó có chữ Hán) thì cũng là điều dễ hiểu và có thể
thông cảm được. Nhưng nâng chữ Hán lên hàng “đấng cứu thế” cho dân tộc ta thì
thật là điều kì quặc, phi lịch sử và dễ gây nên những ngộ nhận cho thế hệ trẻ.
Nếu chữ Hán mà là “phương thuốc vạn năng” như thế thì nước Việt Nam thời vua Tự
Ðức đã hoá rồng từ bấy giờ rồi, khỏi đợi chúng ta ngày nay phải loay hoay tìm
trăm phương ngàn kế. Ông Nhật, ông Hàn, ông Sinh, ông Ðài Loan phất lên, phần
lớn là nhờ chớp được thời cơ Mỹ đương sa lầy ở Việt Nam, cộng với một chính
sách phát triển đúng đắn chứ đâu phải vì biết bảo tồn ba cái chữ khối vuông?
Trung Quốc trước năm 1980 vẫn dùng chữ khối vuông đấy chứ, nhưng kinh tế thì
“đứng bên bờ vực”, xã hội thì rối loạn, chỉ từ khi ông Ðặng Tiểu Bình trở lại
nắm quyền, thực hiện chính sách cải cách, mở cửa, hướng về phương tây, hướng
sang Mỹ thì họ mới phát triển, thanh niên kéo đến các trung tâm học tiếng Anh
như nước chảy. Mới đây CCTV đưa tin TQ đã đưa tiếng Anh (nghĩa là đưa cái chữ
ABC... không ưu việt) vào bậc tiểu học rồi. Năm lần bảy lượt, người TQ đã định
La tinh hoá chữ viết của họ mà chưa làm được, hẳn GS phải biết rõ hơn chúng tôi
điều ấy. Trong những nước và lãnh thổ “hoá rồng” mà GS nêu để làm gương cho
nước Việt ta thì ít ra cũng có một nước không duy trì chữ Hán là nước Hàn (nam
Triều Tiên). Với họ chữ Hán tượng hình chỉ là “quốc tuý” được các viện nghiên
cứu và một tầng lớp trí thức bảo tồn thôi (như ở nước ta), còn đại đa số dân
chúng đều dùng chữ ghi âm cả. Tôi có một tài liệu của sứ quán Hàn Quốc về tiếng
Hàn và chữ Hàn. Xin thưa với GS là thứ chữ mà toàn thể người dân Hàn dùng từ
thế kỷ thứ XV đến nay không phải là chữ Hán mà là chữ Hàn 100% ghi âm. Ðó là
thứ chữ có tên gọi “Han-gil được tạo ra dưới thời vua Sejong, triều đại Choson
(1392-1910). Năm 1446, hệ thống chữ cái đầu tiên của Hàn Quốc được công bố dưới
cái tên là Hunmin Chong-um, nghĩa đen là “Những âm thanh chính xác dùng để dạy
học” (trích từ trang web của sứ quán Hàn Quốc). Cũng tài liệu này viết “Trong
thời gian trị vì đất nước, vua Sejong luôn cảm thấy xót xa vì người dân thường
không biết đọc và biết viết chữ Trung Quốc vốn là một hệ thống chữ phức tạp
được các học giả thời đó sử dụng; ông thông cảm khi thấy họ thất vọng vì không
thể đọc, không thể giao tiếp hay biểu lộ tình cảm bằng văn bản...” “Cảm thông
với những nỗi khó khăn của họ, ta đã tìm ra một tập hợp 28 kí tự rất dễ học.
Mong mỏi thiết tha nhất của ta là chúng có thể cải thiện được chất lượng cuộc
sống của tất cả moị người”. Lời tuyên bố đó thể hiện quyết tâm của vua Sejong
và những cống hiến của ông cho nền văn hoá độc lập và khát khao mong mỏi của
ông làm cho nhân dân thịnh vượng” ( nt). Người Hàn Quốc rất tự hào về thứ chữ
ghi âm khác hẳn với chữ Hán của họ “Ðây được coi là một hệ thống chữ cái hiệu
quả nhất trên thế giới và được các chuyên gia đánh giá là rất khoa học và rất
tuyệt vời” (nt). Một dẫn chứng trên có đủ để chỉ ra sự vô lí của học giả Cao
Xuân Hạo khi ông thần thánh hoá chữ Hán? Có cần nói thêm rằng tuy cùng dùng
chung một thứ văn tự (và chắc là cùng bảo tồn một phần Hán tự) nhưng Bắc Hàn và
Nam Hàn ở hai trình độ phát triển rất khác nhau?
Khó hiểu
vì sao GS Cao Xuân Hạo lại quá nhiệt thành với chữ Hán đến thế. Vì sự nhiệt
thành này, ông có cái nhìn sai lệch với lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ. Ông
cho rằng “chữ Quốc ngữ đắc dụng trong thời Pháp thuộc, khi mà người ta cần
thanh toán việc học đọc học chữ Pháp và tiếng Pháp. Nó cũng đắc dụng trong thời
kháng chiến, khi cần thanh toán mù chữ cho thật nhanh để còn lo đánh giặc” (tr
103). Có thực là mọi người Việt Nam trước năm 1945 đều chỉ học tiếng Việt “cho
nhanh để chuyển sang học chữ Pháp và tiếng Pháp” không? GS đánh giá quá thấp
tình yêu tiếng mẹ đẻ của người Việt Nam ta rồi. Nhà thơ Tản Ðà, nhà văn Ngô Tất
Tố, rồi Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công
Hoan...tất cả những nhà văn lớn ấy, những chuyên gia Việt ngữ không có học hàm
học vị ấy đều học chữ Quốc ngữ để sáng tạo văn chương, làm giàu cho tiếng mẹ
đẻ, cho tâm hồn dân tộc, không phải học “cho nhanh” cho xong lần rồi mải mốt đi
học tiếng Pháp, đi viết văn Pháp đâu. Trong kháng chiến chống Pháp (và chống
Mỹ) cũng vậy, đánh giặc cứ đánh giặc, học cứ học, học để đánh giặc cũng là để
làm văn hoá, làm kinh tế, chứ có phải “thanh toán mù chữ cho thật nhanh để còn
lo đánh giặc đâu”, nếu chỉ như thế thì thanh toán mù chữ để làm gì? GS càng nói
càng lạc. Dường như cay cú vì sự “đắc dụng” của chữ Quốc ngữ ông quay sang “đổ
tội” cho chữ Nôm “Trong hoàn cảnh lịch sử của nước ta còn có một điều làm cho
“quốc ngữ”đâm ra có vẻ ưu việt đặc biệt: đó là sự tồn tại của chữ Nôm hồi bấy
giờ. Trước khi có chữ “quốc ngữ”, ông cha ta dùng chữ Nôm để viết tiếng mẹ đẻ.
Mà chữ Nôm thì khó hơn chữ Hán rất nhiều (theo một chuyên gia Hán Nôm, nó khó
gấp 5 lần). Chính nhờ sự tương phản với thứ chữ phức tạp, khó học ấy mà chữ
“quốc ngữ” có vẻ như “tiện” hơn hẳn” (tr103, xin lưu ý đến những dấu ngoặc kép
hàm ý mỉa mai). Theo lôgic của GS thì có thể hiểu: giá như đừng có “cái anh chữ
Nôm” rắc rối làm mất mặt “Ngài” chữ Hán cao quý thì chắc “thằng cha” chữ Quốc
ngữ “loằng ngoằng giun bò” khó mà chiếm được địa vị độc tôn như ngày nay! Nghĩ
như thế e vô ơn với chữ Nôm và những người sáng tạo ra nó quá. Chính nhờ “thứ
chữ phức tạp” ấy và những người không ngại mang tiếng “nôm na mách qué” chúng
ta ngày nay mới có “Quốc âm thi tập” (Nguyễn Trãi), Bạch vân quốc ngữ thi
(Nguyễn Bỉnh Khiêm), Chinh phụ ngâm (Ðoàn Thị Ðiểm), Cung oán ngâm (Nguyễn Gia
Thiều), Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Xuân Hương, thơ Bà Huyện ...để mà ngâm
ngợi, tự hào và giới thiệu với bạn bè thế giới đấy. Trách chữ Nôm chưa đã, GS
lại oán sang ông cha mình “Giá hồi ấy, ông cha ta không sáng tạo ra chữ Nôm, mà
cứ dùng chữ Hán để viết cả văn Hán lẫn quốc văn như người Nhật Bản đã làm (và
hiện nay vẫn làm) nghĩa là mỗi chữ có hai cách đọc, Hán âm (Kan-on) và Quốc âm
(Go-on) thì tình hình có lẽ đã khác” (tr 104).
Quả thực
là tấm lòng “thương hoa tiếc ngọc” đáng làm cảm động cả trời đất, các cụ ta
dưới chín suối cũng phải ngậm ngùi mà than rằng “Hậu sinh khả uý, tiếc thay hồi
ấy chúng ta không thông minh được như con cháu bây giờ!”. Nhưng chắc chắn sẽ có
một cụ cãi lại rằng: hồi ấy tôi đã thử làm rồi đấy nhưng không ăn thua! Ðấy là
cụ Nguyễn Trường Tộ (1830-1871). Trong bản điều trần nổi tiếng có tên là “Tế
cấp bát điều” (Tám việc cần làm gấp) gửi lên vua, đề ngày 20/10 năm Tự Ðức thứ
20 (tức ngày 15/11/1867), Nguyễn Trường Tộ dành hẳn mục 5 trong điều thứ tư để
kiến nghị “Dùng quốc âm”, cụ thể và thiết thực hơn CXH nhiều. Xin được trích ra
đây, tuy có hơi dài: “Chả lẽ ở nước ta không có ai giỏi có thể lập ra một thứ
chữ để viết tiếng ta hay sao? Vì ta dùng chữ nho đã lâu nên không cần thay đổi
tất cả, sợ làm cho người ta lạ tai lạ mắt. Vậy xin dùng chữ Hán làm mẫu, lựa âm
của chữ nào hợp với âm tiếng ta, nhất định không thay đổi thì đọc như tiếng ta
không cần giải nghĩa. Chữ nào có âm gần giống tiếng ta thì thêm nét phụ vào rồi
đọc ra tiếng ta. Ngoài ra gộp hết tiếng ta lại chia thành môn loại, làm từ
điển, trước tiên ban hành trong các cơ quan chính quyền và trường học cho người
học dễ dàng sử dụng. Khi nào chữ Hán đã được đọc thành âm tiếng ta rồi thì bất
cứ ai biên chép việc công việc tư đều phải dùng thứ chữ đã ban hành, không được
thay đổi. Còn các nhà văn ai muốn dùng chữ Hán theo âm nho tuỳ ý nhưng trong
công việc làm thì phải dùng thứ chữ Triều đình đã ban hành” (“Nguyễn Trường Tộ-
Con người và di thảo”, NXB Tp HCM, 2002, tr 297). Có thể thấy thực chất đề nghị
của Nguyễn Trường Tộ là hoàn thiện, quy chế hoá, chính thức hoá chữ Nôm theo
một nguyên tắc thống nhất. Nguyễn Trường Tộ viết những lời này gần 50 năm sau
ngày Nguyễn Du qua đời (1820), là khi Truyện Kiều, cũng tức là chữ Nôm đã phổ
biến rất rộng rãi. Chữ Quốc ngữ ABC cũng đã được một bộ phận dân chúng sử dụng,
nhất là ở Nam Bộ và trong cộng đồng Thiên chúa giáo mà cụ Tộ là một thành viên.
Theo Bằng Giang (“Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930”, NXB Trẻ, 1998), Trương
Vĩnh Ký đã có sách in bằng Quốc ngữ ở Sài Gòn từ năm 1866, nhan đề “Chuyện đời
xưa lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích”.Gia Ðịnh báo ra đời từ 1865, đến
năm 1869 thì do Trương làm chủ bút. Cũng chính Trương là người phiên âm chú
giải, xuất bản Kim Vân Kiều truyện bằng Quốc ngữ năm 1875...Có thể ức đoán mà
không sợ sai rằng Nguyễn Trường Tộ cũng biết chữ Quốc ngữ, vì ông vốn là một
người thông minh, giỏi tiếng Pháp, tiếng Latin và có vị trí trong giới trí thức
Thiên chúa giáo, đi nhiều, biết rộng. Vậy tại sao ông vẫn kiến nghị một phương
án thống nhất văn tự từa tựa như...phương án của Cao Xuân Hạo 127 năm sau
(1994)? Thì chính ông đã giải thích rồi “vì ta dùng chữ nho đã lâu nên không
cần thay đổi tất cả, sợ làm người ta lạ tai lạ mắt”. Nghĩa là ông tính đến yếu
tố sức ì của tâm lý, chứ ông quá biết về những nhược điểm của thứ chữ khối
vuông mà ông khổ sở cả đời vì nó, thứ chữ “học cho đến chết cũng chưa nhớ nổi
một phần ba”; “người có tài trí phải mất đi tinh lực nửa đời người dùi mài vào
cái học ấy, không còn thì giờ tâm trí để học những cái khác”...Ðề án của Nguyễn
Trường Tộ, mặc dù khá tiến bộ và đã tính đến yếu tố tâm lý nhưng vẫn phải chịu
thất bại trước sức “bành trướng” của chữ Quốc ngữ, một thứ chữ rõ ràng là “ngoại
lai”, ít “tính dân tộc” (!) hơn chữ Hán tượng hình, biểu nghĩa! Thất bại ấy nói
lên điều gì? Nó nói lên sức sống của chữ Quốc ngữ, nói lên tính ưu việt của nó
và nhờ nhưng ưu điểm vượt trội ấy mà cả cộng đồng Việt thông minh và mềm dẻo đã
vui vẻ chấp nhận, coi đó là chữ “của ta”. Thật ra ban đầu các cụ nhà ta vì ghét
người Pháp mà ghét lây, ghét oan cái chữ “loằng ngoằng, giun dế” ấy. Cũng phải
kể thêm đến cái sức ì tâm lí, ngại và sợ thay đổi, một trong những điểm yếu kém
rõ nhất của người Việt. Cho nên Tú Xương mới nguây nguẩy “Thôi thôi lạy mợ
xanh- căng lạy/ Mả tổ tôi không táng bút chì”, còn Nguyễn Bính thì thở dài,vẫn
chưa dứt được giấc mơ lều chõng “Mực tàu giấy bản là thôi/ Nước non đi hết
những người áo xanh? Lỡ duyên búi tóc củ hành/ Trường thi Nam Ðịnh hoá thành
trường bay”...Nhưng rồi chính lòng yêu nước, thương nòi đã khiến ông cha ta
nhanh chóng nhận ra thứ chữ mới là một lợi khí để chấn hưng dân khí, mở mang
dân trí, bồi dưỡng nhân tài, vãn hồi lại độc lập. Và các cụ quay ra ủng hộ “chữ
Tây” trong cuộc “cạnh tranh lành mạnh” của nó với chữ khối vuông. Hãy nghe
chính các cụ nhà nho cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, những ông con dòng, con
thừa tự của nền văn hoá chữ vuông trì trệ, phát biểu chống chữ Hán, ca ngợi chữ
Quốc ngữ. Họ quả là những người dũng cảm, dám “học Phật trở lại mắng Phật”,
nghĩa là làm một việc vạn bất đắc dĩ, không thể không làm, như Nguyễn Trường Tộ
tự nhận. Vũ Bội Liêu, một nhân vật trong Ðông Kinh nghĩa thục viết trên Ðăng cổ
tùng báo 28/3/1907 “Chữ Hán quả là một cái hàng rào hiểm chắn ngang đường văn
minh, làm cho kẻ đi học mỏi lưng, tốn biết bao nhiêu cơm gạo mới dùng được chữ.
Khi dùng được chữ thì trán đã nhăn, lưng đã còng vì nỗi dùi mài một đời học các
điều cao xa quá. Chữ thảm chữ hại làm cho ai mó đến cũng phải quên cả việc
thường đời nay, để học việc thời xưa, đời xưa thực chết rồi, thực xa rồi” (theo
Chương Thâu “Ðông kinh nghĩa thục”, NXB Hà Nội 1982, tr43). (Cụ Vũ Bội Liêu
chắc đã từ “kinh nghiệm bản thân” của mình mà nói ra những lời cay đắng ấy, còn
GS Cao Xuân Hạo của thế kỉ 21 thì lại xuýt xoa, tiếc cho con em ta không “được”
“dành vài ba năm tiểu học cho việc học chữ”, mà lại “phải” học...chỉ có vài ba
tháng đã đọc thông viết thạo như hiện nay!). Cụ Phan Châu Trinh, một nhà khoa
bảng cũng kết án chữ Hán bằng bài viết nổi tiếng “Bất phế Hán tự, bất túc dĩ
cứu Nam quốc!” (Không bỏ chữ Hán, không cứu được nước Nam). Hãy nghe cụ Tiến sĩ
Trần Quý Cáp (1870-1908) “Khuyên người nước học chữ Quốc ngữ”: “Chữ Quốc ngữ là
hồn trong nước/ Phải đem ra tính trước dân ta/ Sách Âu Mỹ, sách Chi-na/ Chữ kia
nghĩa nọ dịch ra tỏ tường...Một người học muôn người đều biết/ Trí đã khôn trăm
việc phải hay/Lợi quyền đã nắm vào tay/Có ngày tấn hoá có ngày văn minh...” Còn
đây là thơ của cụ Nguyễn Phan Lãng, cũng là một giáo sư ÐKNT: “Trước hết phải
học ngay Quốc ngữ/ Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau/ Chữ ta ta đã thuộc
làu/Nói ra nên tiếng viết câu nên bài” ...Các nhà nghiên cứu có uy tín đã khẳng
định rằng với chữ Quốc ngữ, từ 1907, các cụ nhà ta đã làm một cuộc cách mạng
văn học, cả về chữ viết, đề tài, thể văn, hình tượng..., sớm hơn phong trào
dùng bạch thoại của Trung Quốc do Hồ Thích, Trần Ðộc Tú đề xuất đúng một thập
kỉ. Chữ Quốc ngữ là một hạnh ngộ của dân tộc ta, một động lực to lớn trên con
đường canh tân đất nước, cả hôm qua và hôm nay. Không hiểu sao GS Cao Xuân Hạo
bỗng nhiên trở nên hoài cổ một cách quá đáng đến như thế nhỉ? Chỉ để chứng minh
cho tính đúng đắn của cái lý thuyết “âm vị học tuyến tính” của ông ư? Theo
“mốt”, trở về phương Ðông ư? Lập ngôn ư? Hay là ông chỉ lập dị, muốn nói ngược
chơi chơi vậy thôi? Nhưng cái chơi của GS, nếu đúng như vậy, lại không có lợi,
làm người đi học phân tâm, làm giảm lòng yêu và lòng tự hào về chữ viết, rộng
ra là văn hoá của dân tộc, lòng kính trọng với các bậc tiền bối. Ông còn công kích
rất vô lối vào phong trào “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, hạn chế sử
dụng từ Hán Việt, một phong trào lúc nào cũng giữ nguyên tính thời sự. Những ví
dụ ông đưa ra để diễu cợt những ai cố gắng thay thế những từ Hán Việt bằng
những từ được cho là thuần Việt hơn chẳng mấy thuyết phục. Chẳng hạn để chỉ
những chiếc máy bay cất cánh không cần chạy khởi động trên đường băng, đâu cần
phải “vội vàng dùng lại hai chữ trực thăng” mà chỉ cần viết là “máy bay cất
cánh thẳng đứng” cũng được chứ sao? “Giáo cụ trực quan” thay bằng “đồ dùng dạy
học” là phải quá rồi còn gì? Chẳng ai thay “vùng biển” bằng “lãnh hải” như giáo
sư nói đâu, “vùng biển” rộng hơn “lãnh hải” nhiều chứ, nó bao gồm “thềm lục
địa” , rồi “vùng đặc quyền kinh tế” (rộng hơn khái niệm lãnh hải xưa thường
không vượt quá 12 hải lí) cơ mà? “Tên lửa” dùng để dịch từ tiếng Anh missile là
đúng chứ, nó không giống y như mũi tên ngày xưa nhưng vẫn hao hao đấy, kể cả
tên lửa vượt đại châu, không cần níu kéo cái chữ “hoả tiễn” làm gì. Còn hoả hổ,
theo tôi hiểu, là một loại súng phun lửa thời Tây Sơn, không phải “thứ tên có
châm lửa để bắn vào những mục tiêu có thể bốc cháy được” như giáo sư nói đâu.
Chẳng ai “đề nghị thay “Ðại hội Phụ nữ toàn quốc bằng Buổi sum họp lớn của đàn
bà cả nước” như giáo sư bịa ra để diễu cợt. Ðể giữ vẻ trang trọng hoặc tế nhị,
người ta biết giữ lại những từ Hán Việt cần thiết đấy, không cá mè một lứa đâu.
Sách giải phẫu và sinh lí người gọi chỗ ấy là âm nọ, dương kia, không “dịch”
búa xua ra cái nọ con kia đâu. Ðể bảo vệ luận điểm của mình, bênh vực việc dùng
từ Hán Việt, giáo sư viết “Về ngữ pháp, các từ tổ Hán Việt tuy đã chứa đựng
những mối quan hệ cú pháp (đẳng lập hay chính phụ) rõ rệt không kém các từ tổ
“thuần Việt”, nhưng mối quan hệ này chặt hơn nhiều, một phần là nhờ cái “trật
tự ngược” (phụ trước chính sau) so với các từ tổ thuần Việt. Chẳng hạn, quan hệ
cú pháp chính phụ trong xạ thủ hay phi công chặt hơn nhiều so với mối quan hệ
tương đương trong người bắn hay người lái: trong khi xạ thủ Nam chỉ có thể hiểu
một cách thì người bắn Nam không cho biết đó là kẻ đã bắn anh Nam hay là người
lính tên Nam (chắc hẳn cách hiểu thứ nhất tự nhiên hơn cách hiểu thứ hai)
(Tiếng Việt,văn Việt, người Việt, tr 85). Ðúng là “đã yêu yêu cả đường đi/đã
ghét ghét cả tông ti họ hàng”, tiếng Hán, chữ Hán đã hay thì cú pháp cũng hay
hơn, “chặt hơn nhiều”. Tôi thì chẳng thấy từ “phi công” hay hơn, “chặt hơn” từ
“người lái” chút nào, tôi cho rằng cái từ tiếng Việt còn có lượng thông tin cao
hơn, nó chỉ ra rằng cái người mà ta nói đến không “phi”, không bay từ ...nóc
nhà 10 tầng xuống chẳng hạn, mà anh ta “lái” một cỗ máy bay trên trời. CXH tán
tụng chữ “phi công” là hay là đẹp, vậy ông có định đổi chữ “lái xe” tầm thường
thành chữ “tư cơ” cho sang, cho chặt, cho đúng ...ngữ pháp tiếng Hán không? Lại
còn cái chữ “xạ thủ” với “ người bắn” nữa. Ðể xưng tụng chữ Hán, tiếng Hán, CXH
đã vô tình(?) xuyên tạc tiếng Việt. Có ai lại ngớ ngẩn dịch “xạ thủ” ra “người
bắn” bao giờ, người ta dịch là “tay súng” chứ. (Cũng như “cung thủ” dịch là
“tay cung”, không ai dịch là “người nỏ” cả!) Xem tin thể thao trên tivi, người
ta nói “tay súng số 1 Ðặng Thị Ðông đã vào bệ bắn”, ai cũng hiểu cả. CXH dịch
và ghép là “người bắn Nam” ngọng ngiụ cốt để chứng minh cú pháp tiếng Việt
không hay, không chặt bằng tiếng Hán, vậy thôi. Lí do CXH phản đối “từ thuần
Việt” là vì nó...dễ hiểu quá, ông nói “Từ thuần Việt dễ hiểu thật, nhưng đó
chính là nhược điểm lớn nhất của nó”! Trời đất ơi, cứ cái đà này chắc ông sẽ là
người ủng hộ cho việc nói những câu thật cầu kì như các ông đồ gàn ngày xưa,
mỗi câu là một điển cố, người nghe phải nát óc mới hiểu được thì mới là thông
minh sâu sắc ư? Nói đã như vậy thì viết cũng phải thật rắc rối, thật khó khăn
thì mới hay. CXH viết “Nhược điểm của chữ quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa
thật là một hệ thống phiên âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có tính chất thuần
tuý ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó
phải đảm đương...những chỗ bị người ta coi là bất hợp lý chính là những chỗ làm
cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như gia và da, lý và lí
(trong lí nhí) vv Ðáng tiếc là những chỗ như thế không lấy gì làm nhiều”
(tr113). Có thể diễn đạt lại những lập luận của CXH: nói càng trừu tượng càng
hay, viết càng rắc rối càng tốt, giá mà trở lại dùng chữ Hán được thì tuyệt!
(Với các nước A- rập thì trở lại với những chữ tượng hình kì bí trên kim tự
tháp chứ nhỉ?) Ðể làm gì nhỉ: “Ðể bảo tồn một truyền thống quý giá đi đôi với
những nghệ thuật cao cả như thư pháp, vốn là tài sản chung của các dân tộc Viễn
Ðông và có thể làm thành một mối dây liên lạc giữa các dân tộc rất gần gũi nhau
về văn hoá này” (tr106). Tóm lại là để bảo tồn, để viết cho đẹp, xem cho vui
mắt và có cái để đi khoe với mấy ông bạn cũ châu Á. Nhiệm vụ của chữ viết dân
tộc chỉ để làm bấy nhiêu việc thôi ư, thưa giáo sư?
Tôi ủng
hộ ý kiến của GS Cao Xuân Hạo về việc dạy một số tiết chữ Hán nhất định cho học
sinh phổ thông trung học. Ðiều quan trọng hơn là phải có một đội ngũ chuyên gia
Hán Nôm đủ giỏi và được bổ sung thường xuyên để bảo tồn vốn văn hoá quá khứ.
Tôi cũng phản đối việc vày vò, “cải tiến” chữ quốc ngữ mà thực chất là “cải
lùi”, phá hỏng vẻ đẹp của chữ viết truyền thống, gây nhiễu loạn cho việc tiếp
thu cái vốn sách báo quốc ngữ khổng lồ chúng ta đã có từ 1865 đến nay.
Hiện nay
người ta còn tiếp tục phá hoại chữ viết của dân tộc một cách công khai và trên
quy mô lớn bằng cách nhùng nhằng không chịu thống nhất bộ gõ tiếng Việt trên
máy tính, theo kiểu “anh hùng nhất khoảnh”, khiến người vùng này không đọc được
người vùng khác. Cần phải có một bộ luật mang tính pháp lệnh hẳn hoi về việc
viết và dùng chữ Quốc ngữ theo chuẩn mực thống nhất, tiên tiến .Ðấy là một việc
làm cấp bách để bảo vệ tiếng Việt, chữ Việt, cũng có nghĩa là bảo vệ sự thống
nhất quốc gia, thống nhất dân tộc. Bây giờ mà ngồi than tiếc “giá như chúng ta
đừng thay chữ Hán bằng chữ Quốc ngữ” thì vừa lạc lõng, vừa tức cười, một kiểu
“nhiễu sự khoa học” mang màu sắc giật gân! Ðể kết thúc bài viết thật khó nhọc
này, xin được kể hầu GS và các đệ tử một chuyện mà rất có thể các vị cũng biết
rồi: khi vua Sejong của triều đại Choson (Triều Tiên) ban hành thứ chữ ghi âm
Han- gil rất dễ học, ngay cả với trẻ con và người ngoại quốc, thì trớ trêu
thay, nó lại bị các học giả chỉ trích chính vì sự đơn giản của nó! “Họ phê phán
kịch liệt, gọi hệ thống chữ cái mới là “các chữ cái của phụ nữ”. Họ cho rằng
chữ này quá dễ, phụ nữ không có trình độ học vấn gì cũng học được nên nó không
đáng học vì ở thời đó, việc học hành, đọc sách và viết lách được cho là lĩnh
vực đặc ân của một số độc giả. Chính quan niệm sai lầm này đã làm họ nhầm lẫn
giữa việc học một thứ chữ đơn giản với sự học hành uyên bác” (trích từ trang
web của sứ quán Hàn Quốc). Thì ra tâm lí muốn độc quyền tri thức thời nào cũng
có!
* Bài viết vừa được tặng thưởng năm 2002 của
tạp chí VNQĐ
Nguồn:
Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội số 551, tháng 6.2002
Nguyễn
Hoàng Sơn: Dùng chữ Quốc ngữ là “một tai hoạ” ư? Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội số
551 (6/2002).
240305NHHFB 9:28am
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét