Nhà Tây Sơn
Nguồn: http://vnthuquan.ne
LỜI ÐẦU SÁCH
... Kỷ niệm lần thứ 200 chiến thắng Ngọc Hồi Ðống Ða lịch sử, dân tộc ta nhớ lại chiến công oanh liệt của nghĩa quân Tây Sơn với Quang Trung bách chiến bách thắng, quét sạch 29 vạn quân Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi, giữ vững độc lập và thống nhất Tổ quốc vừa được lập lại với sự nổi dậy bão táp của phong trào Tây Sơn. Kỷ niệm lần thứ 200 chiến thắng Ngọc Hồi Ðống Ða, không chỉ ôn lại cuộc tiến công thần tốc và chiến tích bình Thanh, mà còn làm sống dậy hùng khí Tây Sơn gắn liền với tên tuổi các lãnh tụ kiệt xuất Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và tên tuổi các tướng lĩnh anh hùng đã xây dựng phong trào từ trứng nước, cũng như các tướng lĩnh quy tụ với phong trào sau khi nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa
Trên
tinh thần đó, tác phẩm Nhà Tây Sơn của nhà văn lão thành Quách Tấn và con trai
là anh Quách Giao do Sở VHTT Bình Ðịnh xuất bản ra mắt bản đọc trong dịp này
góp phần kỷ niệm 200 năm chiến thắng Ngọc Hồi Ðống Ða lịch sử. Tác phẩm này là
kết quả của một tâm huyết lớn khao khát thể hiện lại sự thật lịch sử trên chính
mảnh đất chôn nhau cắt rốn của tác giả: Những gì tôi được nghe, được thấy, được
biết trong đời mà còn nhớ lại trong tuổi già, nếu không viết ra cho quê hương,
con cháu, e rằng sẽ vĩnh viễn mang theo xuống ba tấc đất. Với nguyện vọng và
niềm ưu tư đó, trong những năm cuối đời, tuy hay đau yếu, bị mất một mắt và mắt
còn lại rất mờ, nhà văn lão thành Quách Tấn đã trên 80 tuổi vẫn làm việc mê say
và nghiêm túc với sự giúp đỡ đắc lực của con trai để thực hiện tác phẩm Nhà Tây
Sơn và tự mình mò mẫm viết nhiều tác phẩm giàu tính tư liệu khác về quê hương
Bình Ðịnh.
Lịch sử nhà Tây Sơn là vấn đề lớn được giới nghiên cứu sử học và toàn thể nhân dân ta quan tâm tìm hiểu. Nhiều tác phẩm đã viết về thời đại Tây Sơn, viết về những anh hùng dân tộc thời Tây Sơn, tuy chưa thật đầy đủ, nhưng những gì đã được công bố và tổng kết trong các bộ sách là rất công phu và chính xác. Nhưng khi đọc Nhà Tây Sơn, bên cạnh những chi tiết mới và tỉ mỉ chỉ có ở tác phẩm này, còn có những chi tiết khác hẳn so với các tài liệu và sách báo đã có, về tên cha mẹ của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, hay việc xác định quê quán của đô đốc Trần Quang Diệu, mối liên quan giữa các tướng lĩnh Tây Sơn như Bùi Thị Xuân và Ngô Văn Sở, đô đốc Ðặng Văn Long và đô đốc Ðặng Tiến Ðông..
Chúng
tôi đã trực tiếp làm việc và trao đổi với tác giả trước khi in Nhà Tây Sơn. Nhà
văn Quách Tấn cho biết rằng tác phẩm này đã được viết với phương châm ghi chép
lại các sự kiện lịch sử chính xác theo sự phản ánh của nhân dân địa phương, cụ
thể là theo lời truyền của các bậc trưởng thượng từng sống thời Tây Sơn ở đất
Tây Sơn, và chính xác theo các tư liệu lịch sử đáng tin cậy gồm 12 bộ sử ký về
Tây Sơn được nhân dân bảo tồn qua sự trả thù ghê gớm của triều đình nhà Nguyễn.
Cùng với các tài liệu lịch sử trong và ngoài nước có liên quan tới phong trào
Tây Sơn (xem bảng kê sách tham khảo). Nói như vậy, không có nghĩa Nhà Tây Sơn
là một quyển sử ký. Ðây chỉ là, như ý kiến khiêm tốn của tác giả, một tập ghi
chép chuyện đã xảy ra trong lịch sử về một thời đại vẻ vang của dân tộc với sự
đầy đủ nhất định các chi tiết thật, con người thật cùng những huyền thoại mà ba
anh em Tây Sơn dựng nên để thu phục nhân tâm buổi đầu dấy nghĩa. Ở đó, chi tiết
thật và chuyện hoang đường không bị nhòa lẫn vào nhau, các sự việc được ngòi
bút tác giả đảm bảo ở tính cụ thể và công bằng.
Chúng
tôi xin trân trọng giới thiệu Nhà Tây Sơn với bạn đọc. Nhân đây, chúng tôi xin
tỏ lòng chân thành biết ơn đối với tác giả và kính mong bạn đọc gần xa có ý
kiến đóng góp về tác phẩm này.
HỒNG
NHÂN
Nguyên
Giám đốc sở VHTT Nghĩa Bình
LỜI
NGƯỜI BIÊN SOẠN
Tập Nhà
Tây Sơn này, tôi viết theo những tài liệu của cha tôi là Quách Tấn đã sưu tầm,
tập hợp và ghi chép lại.
Trước
khi viết, trong khi viết và sau khi viết xong, tôi đã được cha tôi hướng dẫn và
uốn nắn sửa chữa những chỗ chưa phản ánh đúng, đầy đủ sự việc và tinh thần.Gia
tộc tôi sinh cư lâu đời tại xứ Tây Sơn.
Từ nhỏ
chúng tôi đã được nghe cha tôi và các thân sĩ kỳ cựu trong vùng trao đổi với
nhau những chuyện về Tây Sơn. Và trong gia đình, cha tôi cũng thường kể cho con
cháu nghe những chiến công oanh liệt của nhà Tây Sơn, gây lòng tự hào, kính
phục.
Thời
trung học, tôi cũng đã học sử Tây Sơn, cũng đã đọc nhiều sách về Tây Sơn. Nhưng
tài liệu thì nghèo nàn và sự việc có nhiều điểm không giống những điều tôi đã
được nghe truyền. Cha tôi đã nhiều lần giải thích sự sai biệt ấy, cho biết
rằng:
A. Do
ngòi bút kẻ viết sử thời ấy xuyên tạc, giấu bớt sự thật cho vừa lòng nhà Nguyễn
Gia Miêu đang thống trị.
Do các
sử gia thời ấy ở xa (miền Bắc nên không sát).
Do sự
đàn áp của chính quyền rất khốc liệt, nhân dân địa phương có liên quan trực
tiếp với Tây Sơn ngậm miệng không dám nói lại rõ sự thật.
B. Mà sự
thật về Tây Sơn từ khi nhen nhóm cuộc đại nghĩa đến lúc bại vong rất phong phú,
nhiều gia phả còn ghi, nhiều cháu con các danh tướng, danh thần còn nhớ biết và
truyền lại. Các sách ghi chép của các nhà Nho yêu nước sống gần thời ấy về sau
có ghi chép lại.
Cha tôi
đã có ý muốn viết lại lịch sử Tây Sơn cho đủ hơn, đúng hơn, để lưu lại những
điều hay, đẹp, cao cả của ông cha cho con cháu về sau biết mà tự hào, tự cường.
Vì vậy, từ năm 1930 đến 1945, suốt 15 năm, cha tôi đã sưu tập, ghi lại, tiếp
xúc và đi đến cả một số nơi xảy ra các sự kiện lịch sử ấy để quan sát để thông
cảm với cổ nhân.
Số tài
liệu khá phong phú. Nhưng đến năm 1945, gia đình về Bình Ðịnh, tài sản sách vở
để lại nhà ở Nha Trang, bị giặc Pháp chiếm. Mãi đến năm 1954, hòa bình lập lại,
trở về Nha Trang thì chỉ còn một cái nhà trống trơn, tài sản, sách vở, tài liệu
đều mất cả!
Từ năm
1955 đến nay, cha tôi làm lại cuộc sưu tập, tiếp xúc, ghi chép... nhưng một số
tài liệu chính thức nay không tìm lại được, nhiều người hiểu rõ sự việc (truyền
lại trong gia đình) đã chết hoặc đi biệt tích...
Tuy
nhiên số tài liệu mới thu thập trong thời gian này cũng khá phong phú. Lại một
lần nữa bị mất mát trong cuộc tháo chạy tháng tư năm 1975. Tài liệu gom góp,
sách vở ghi chép trong 20 năm trường, mười phần không còn được một.
Cha tôi
nay đã già yếu - 76 tuổi rồi - tự thấy khó mà sưu tập được nữa, và sợ cũng
không đủ sức ngồi viết lại những điều đã tìm, đã nghe, đã ghi chép suốt 50 năm
nay, nên bảo tôi nghiên cứu các tài liệu còn sót lại theo sự bổ sung, hướng
dẫn, giải thích của cha tôi, cố gắng viết kỹ lại cho con cháu biết được rõ hơn
về nhà Tây Sơn.
Tôi ra
công viết từ đầu 1983 và viết xong vào cuối xuân 1984.
Theo ý
kiến của cha tôi, tập này không thể gọi là một cuốn lịch sử, vì tài liệu, một
số chưa được phối kiểm chặt chẽ.
Ðây chỉ
là một số tư liệu được chọn lọc, sắp xếp có hệ thống, những điều mà chúng tôi
thấy nên chép, đáng chép. Nghe sao chép vậy, có nhiều sự việc chính xác, cũng
có sự việc chỉ cắm một hoa tiêu để làm dấu cho những người sau tiếp tục khai
tầm. Lại có cả những chuyện hoang đường theo kiểu Hán Cao Tổ chém rắn, kiểu sâu
đục lá cây thành Lê Lợi vi vương Nguyễn Trãi vi thần trong sử sách cổ. Cha tôi
bảo cần ghi lại, vì đó chỉ là những biện pháp tuyên truyền cổ động ngày xưa dựa
vào thần quyền, dị đoan, và sự thực là nó cũng có ít nhiều tác dụng.
Các bộ
sử trước viết về Tây Sơn thường chỉ chú trọng đến Vua Quang Trung. Ðúng. Vì
chính Vua Quang Trung mới thật là người có công với dân tộc. Nhưng xét kỹ nếu
không có Vua Thái Ðức đổ nền đắp móng, thì chắc gì một mình Vua Quang Trung đã
có thể hoàn thành ngôi nhà Tây Sơn? Các sách cũng ít nói đến các tướng võ các
quan văn đã giúp nhà Tây Sơn xây dựng sự nghiệp. Trong tập tư liệu này, chúng
tôi mong lấp được phần nào những chỗ khuyết ấy.
Chúng
tôi lại đưa ra một đôi chi tiết làm sáng tỏ nghĩa chữ Trung mà phần đông người
Bình Ðịnh đã theo từ xưa đến nay: không phải trung với Vua, mà trung với Tổ
Quốc, với Dân tộc, không phải trung với một người hay một nhà, mà trung với
nghĩa vụ tận ngã nghĩa vụ, tức là TẬN KỶ theo Ðạo đức cổ truyền. Và thái độ
không tranh quyền vị của các quan văn võ thời Thái Ðức, Quang Trung, thái độ
không noi gương phần đông di thần của Vua Chiêu Thống khi nhà Lê mất, của các
danh tướng danh thần của Tây Sơn còn sống sót sau khi Vua Cảnh Thịnh bị Gia
Long giết, chứng tỏ rằng phần đông người Bình Ðịnh không bị cái học Trung Quân
của Hán Nho nhồi sọ.
Ðó là
mục đích viết tập Nhà Tây Sơn này.
Viết
xong, vâng lời cha tôi, tôi trình lên cho hai bác là bác Lộc Ðình, bác Giản
Chi, cùng hai chú là chú Nguyễn Ðồng, chú Quách Tạo nhã chính. Hai bác đã chỉ
cho những chỗ sai lầm, hai chú đã thêm cho những điều thiếu sót, và ban cho
những lời khuyến lệ. Tôi hết sức vui mừng. Ðể cho Nhà Tây Sơn được hoàn hảo,
cúi mong thêm sự chỉ giáo của các bậc cao minh.
QUÁCH
GIAO
ẤP TÂY
SƠN
Ấp Tây
Sơn là nơi phát tích của Bình Ðịnh tam hùng: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ.
Ấp gồm
phần đất An Khê và phần đất Bình Khê, tỉnh Bình Ðịnh.
Và chia
làm ba phần: Tây Sơn thượng là vùng An Khê.
Tây Sơn
Trung, từ chân đèo An Khê đến Hữu Giang, Tả Giang.
Tây Sơn
Hạ, từ Trinh Tường, Phú Lạc đến Thọ Lộc, Lai Nghi, Thú Thiện, An Chánh, Văn
Tường, Kỳ Sơn, Thuận Truyền, Thuận Hạnh...
Cụm tháp
Bình Nghi (Phú Thiện) ở phía nam sông Côn và cụm tháp Dương Long ở phía bắc
sông Côn là hai
trụ ranh
giới phía đông của ấp.
Phía
đông là đồng bằng phì nhiêu.
Phía tây
và phía nam, núi non hiểm trở, điệp điệp trùng trùng.
Phía
bắc, nửa trên là núi dính liền với dãy núi phía tây, nửa dưới là đồng bằng dính
liền với đồng bằng phía
đông.
Dòng
sông Côn phát nguyên trên dãy Trường sơn chạy xuống biển Thị Nại, chia ấp Tây
Sơn ra làm hai, nửa phía nam nửa phía bắc, chạy dọc theo dòng sông, tứ mùa lúa
dâu bắp đỗ thay nhau làm tăng vẻ giàu sang cho núi non hùng hiểm.
Núi có
nhiều ngọn cao lớn, trông đồ sộ hiên ngang; được nhiều người chú ý là những
ngọn có di tích lịch sử, như:
Ở vùng
An Khê có núi Hiển Hách, tục gọi là Hảnh Hót, sử chép là Hinh Hốt. Ðó là một
danh sơn có nhiều cây quý và chung quanh có nhiều ngọn núi quy triều. Núi vùng
An Khê liên tiếp với vùng cao nguyên ở phía Tây, và phía đông đèo An Khê nối
liền Tây Sơn Thượng với Tây Sơn Trung.
Ðèo An
Khê, xưa gọi là đèo Vĩnh Viễn, cao 740 thước và dài trên 10 cây số, chạy từ Tây
xuống Ðông đường đi rất hiểm trở. Trước kia, lúc Quốc lộ 19 chưa mở, hành khách
qua lại phải chịu nhiều gay go. Dọc đèo có nhiều nơi dốc ngược, đá mọc lởm
chởm, có khúc phải dãng hai chân mà leo mới khỏi té. Nơi này tục gọi là dốc
Chàng Hảng. Dưới dốc Chàng Hảng về phía đông có một cái nghẹo, nơi nghẹo có một
cây khế rất sai quả. Khách qua đèo thường dừng chân nơi gốc khế để nghỉ ngơi và
giải khát. Nghẹo ấy gọi là Nghẹo cây khế. Cách nghẹo cây khế chừng vài trăm
bước có hai cây cổ thụ, thân cao tàn cả. Một cây ké, một cây cầy. Ðó cũng là
hai trạm nghỉ chân của hành khách.
Dưới chân
đèo, thuộc Tây Sơn Trung, núi cũng cao chớm chở như vùng Tây Sơn Thượng. Ngọn
núi có danh nhất là hòn Ông Bình. Núi tuy không cao lắm chỉ có 793 thước, song
trông rất kỳ vĩ và có vẻ bí hiểm. Cây cối sầm uất, ngó mịt mờ thăm thẳm như
không có đường lưu thông. Nhưng kỳ thật thì có nhiều nẻo vào ra, thông thương
với các ngọn núi chung quanh cùng các con đường hẻo lánh trong vùng.
Ðối trĩ
[1] cùng hòn Ông Bình, có hòn Ông Nhạc, khí thế cũng rất hùng hiểm.
Từ hòn
Ông Nhạc núi chạy từng lớp, từng lớp, lớp chạy thẳng vào Nam, lớp chạy xiên
xiên xuống hướng Ðông - Nam. Danh sơn đều nằm trong dãy Ðông Nam. Trước hết là
hòn Tâm Phúc hình như chiếc nón lá, nhiều cổ thụ và heo rừng.
Ðồn rằng
núi rất linh thiêng vì bà Thiên-Y-A-Na thường tới lui hào quang sáng chói.
Trong núi, hễ lúc mặt trời gần lặn, người ta thường nghe tiếng ụt heo inh ỏi.
Người địa phương bảo đó là tiếng của bộ hạ của bà Thiên-Y. Núi Tâm Phúc có tên
nữa là núi Bà Phù.
Ðối trĩ
cùng núi Bà Phù có núi Màn Lăng. Thầy địa lý gọi Màn Lăng là hòn Nhật, hòn Bà
Phù là hòn Nguyệt.
Giữa Màn
Lăng và Bà Phù có một thung lũng bằng phẳng và kín đáo, tục gọi là Hóc Yến.
Qua khỏi
Hóc Yến đền núi Ðồng Phong tục gọi là hòn Lãnh Lương.
Ði xuống
nữa, đến địa đầu Tây Sơn Hạ, thôn Trinh Tường, đến dãy Hoành Sơn tục gọi là núi
Ngang.
Những
ngọn núi từ hòn ông Nhạc chạy xuống đều chạy theo hàng dọc. Hòn Hoành Sơn lại
chạy ngang.
Hoành
Sơn chỉ cao 364 thước, nhưng dài và rộng. Phía tây và phía nam, dòng suối Ðộng
Tre và chí lưu ôm sát bên chân. Sông Côn chạy dài ở phía bắc. Trước mặt đồng
Trinh Tường tiếp đồng Phú Phong, mênh mông bát ngát.
Bút là
hòn Trưng Sơn ở thôn Phú Lạc bên kia sông Côn, xa trông như ngòi bút chép mây.
Nghiên
là hòn núi Hợi Sơn tục gọi Hòn Dũng, trong địa phận Trinh Tường về phía Nam,
đứng đối trĩ cùng hòn Trưng Sơn ở phía bắc. Trên đầu núi có một vũng nước vừa
rộng vừa sâu, quanh năm không bao giờ cạn. Dân hàn mặc [2] coi vũng nước là
nghiên mực của trời nên gọi hòn Dũng là Nghiên Sơn tức hòn Nghiên.
Hòn
Nghiêng và hòn Bút nằm bên tả bên hữu hòn núi ngang, trông rất cân đối. Ðứng xa
mà ngắm thì hòn
núi
Ngang là bức bình phong còn hòn Nghiên hòn Bút là hai trụ ba biểu [3].
- Sát
bên chân và trước mặt núi Ngang, có hai hòn núi nhỏ là hòn Một và hòn Giải. Hòn
Một giống hình cái chuông, nên cổ nhân gọi là Chung Sơn. Hòn Giải giống như cái
trống chầu nên có tên gọi là Cổ Sơn. Nhìn chung, thật giống chuông và mõ đặt
trước án thờ.
- Hòn
Giải, đứng phía bắc trông vào thì giống cái trống. Nhưng đứng phía đông mà nhìn
lại phảng phất một quả ấn. Vì vậy hòn Giải còn có tên nữa là Ấn Sơn.
Ðặt cho
hòn Giải tên Ấn chẳng phải chỉ vì hình dáng, mà còn vì phía đông cách Hoành Sơn
không xa có hòn núi thấp mà dài mệnh danh là Kiếm Sơn tức hòn Kiếm. Ðã có kiếm
thì phải có Ấn mới đủ đôi.
- Phía
trên hòn Kiếm cũng trong phần đất Trinh Tường có hòn ông Ðốc, hình thù giống
như một con hổ phục, đầu ngó lên Hoành Sơn. Ðó là Hổ cứ như trên đã nói.
- Còn
dòng sông Côn đến cuối Trinh Tường, đầu Phú Phong thì nhận nước con sông Ðá
Hàng, một chi lưu từ Ðồng Le ở phía nam chảy ra. Hai ngả sông này tạo thế long
bàn ôm choàng lấy cuộc đất núi Ngang.
Từ núi
Ngang (Hoành Sơn) trở vô, càng vô trong, núi càng cao. Nhiều ngọn cao trên dưới
nghìn thước, trừ các thợ rừng tuổi tác, người đồng bằng ít ai biết tên. Người
ta gọi chung cả dãy là Núi Xanh vì đứng ngoài nhìn vào sắc núi xanh như nhuộm.
Từ núi Ngang trở xuống Tây Sơn Hạ, càng xuống, núi càng chạy xiên vào nam,
nhượng chỗ cho đồng bằng.
Ðó là
núi non nằm phía nam sông Côn.
Phía bắc
sông Côn, núi vùng Tây Sơn Trung cũng có nhiều ngọn cao lớn. Như hòn Ngăn, hòn
Bong Bóng ở Vĩnh Thạnh, trông có vẻ ngang ngược như muốn ngăn lối chặn đường
thiên hạ đi rừng. Bốn mặt lại có suối khe bao bọc. Thế rất hiểm. Phía đông hòn
Ngăn, cách một dòng suối, có hai ngọn nút cao ngất, đứng song song như hai răng
nanh. Ðó là hòn Vỏ Cá và hòn Da Két.
Núi càng
đi xuống đông thì càng thấp dần.
Sau hòn
Vỏ Cá, hòn Da Két, còn hòn Bạc Má và hòn Nước Ðỏ. Hai hòn này có thể coi là
một, nếu không có đèo Bồ Bồ chạy ở giữa. Ðèo mở đường giao thông cho khách ở
phía đông lên phía tây, ở phía tây xuống phía đông. Núi đèo đều có hình thù và
sắc thái đặc biệt, không thể tả nổi.
Xuống
đến Tây Sơn Hạ thì núi không còn liền dây. Hòn Trưng Sơn ở Phú Lạc là hòn núi
cao nhất vùng.
Hòn
Trưng chỉ cao 422 thước, nhưng trông rất khôi hùng. Trông gần thì mập mạp hung
hăng như con bò đực sung sức lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu. Nên người địa
phương gọi là hòn Sung. Ở xa thì giống như ngọn bút, cùng với hòn Nghiên bên
kia sông Côn làm bạn văn chương như trên kia đã nói. Lưng núi thì nổi từng vồng
u như bị đánh sưng. Nên nhiều người gọi là hòn Sưng thay Sung. Theo các phụ lão
địa phương thì núi có tất cả chín cục u, gọi là Cửu diệu tinh. Hai u lớn nhất,
một trông giống răng bò nghé, gọi là Ðốc Xỉ, một giống u bò nghé, gọi là độc
nhũ. Trong các sách địa phương chí xưa, nhiều sách lấy tên hai cục này để gọi
hòn Trưng Sơn: Ðộc Xỉ Sơn, Ðộc Nhũ Sơn.
Trưng
Sơn là Tổ sơn trong vùng núi ở bắc ngạn sông Côn. Mặt hướng về đông nam và lấy
dãy Sơn Triều Sơn ở Cầu Gành thuộc An Nhơn, làm tiền án. Còn sơn mạch thì lại
chạy thẳng xuống hướng đông, đến hòn Mạ Thiên Sơn, tục gọi là hòn Mò O
- ở giữa
An Nhơn và Phù Cát - thì hồi cố. Phía trước mặt và hai bên tả hữu, gò đống nổi
đầy, cuồn cuộn nhấp nhô như sóng biển. Và những ngọn núi ở xung quanh đều xây
mặt về triều, cũng như các vị đại thần đứng chầu một đấng anh quân. Còn những
gò đống kia là những quân lính dàn hầu.
Từ hòn
Trưng Sơn trở xuống là đồng bằng. Nếu không có con sông Côn, thì cánh đồng này
liền với cánh đồng phía nam.
Giữa
cánh đồng, rải rác nổi lên những hòn núi đất, như hòn Hương Sơn, hòn Trà Sơn,
hòn Khánh Long, hòn Chà Rang. Hòn Hương Sơn giống như con chó nằm ngủ. Hòn Trà
Sơn và hòn Khánh Long thì giống như hai con cừu.
Ba hòn
núi này là ba hòn núi trọc. Hòn Chà Rang không có hình dáng đặc biệt như ba hòn
núi kia, nhưng có nhiều cây chà là, đến mùa trái chín thì người ta rủ nhau lên
hái rất đông đảo, cho nên có tiếng.
Núi non
vùng đất Tây Sơn đại khái là thế.
Nói tóm
lại về hình thế và vùng đất Tây Sơn như sau:
Tây Sơn
Thượng gồm trọn vùng An Khê, núi non trùng điệp, đất bằng ít. Tây Sơn Trung gồm
phần đất từ chân đèo An Khê chạy xuống đến cuối Bình Giang. Hòn Núi Ngang làm
mốc ranh giới cho hai vùng Trung, Hạ. Vùng Trung cũng như vùng Thượng, núi
nhiều hơn đồng.
Tây Sơn
Hạ bắt đầu từ Trinh Tường trở vô, Phú Lạc trở ra, và chạy xuống đến Thú Thiện.
Thọ Lộc trở vô, An Chánh, Vân Tường trở ra. Ðồng bằng chiếm gần trọn vùng.
Dòng
sông Côn làm sợi tim đèn cho hai vùng Trung Hạ.
Núi non
thì hùng hiểm. Ðồng ruộng thì phì nhiêu. Rõ có thế dụng binh. Cho nên cuộc khởi
nghĩa của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, trước kia và cuộc khởi
nghĩa của Mai Xuân Thưởng thời Pháp sang Việt nam, đều phát xuất tại vùng Tây
Sơn [4].
-----------------------------------------
Chú thích:
[1] Trĩ:
có nghĩa là núi. Ðối trĩ: chỉ hai ngọn núi đối nhau.
[2] Hàn
mặc: văn chương. 2 Trụ ba biểu: trụ vôi, có hình hoa sen trên đầu.
[3]
Trong Nước non Bình Ðịnh đã nói kỹ càng về núi sông vùng Tây Sơn. Ở đây chỉ rút
những nét đại cương
và chỉ đề
cập đến những ngọn núi có để dấu hoặc nhiều hoặc ít của cuộc khởi nghĩa của nhà
Tây Sơn.
Ấp Tây
Sơn là nơi phát tích của ba anh em nhà anh hùng dân tộc Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ, Nguyễn Lữ, cho nên sử gọi ba anh em là Nhà Tây Sơn.
Tổ tiên
nhà Tây Sơn vốn họ Hồ, ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Tổ
quán ở dưới chân hòn Thái Sơn, một hòn núi nhỏ đứng bên cạnh hòn Ðại Hải, một
danh sơn tỉnh Nghệ.
Họ Hồ
vào lập nghiệp ở Quy Nhơn [5], tức Bình Ðịnh thời Thịnh Ðức nhà Lê (1653-1657),
ứng với đời Lê Thần Tông (1649-1662) ở Ðường Ngoài, đời Nguyễn Phúc Tần
(1648-1687) ở Ðường Trong. Bắt đầu từ đời ông cố, đến Nguyễn Huệ là đời thứ
bốn.
Ông cố
tên là Hồ Phi Long, vào ở giúp việc nông trang cho nhà họ Ðinh thôn Bằng Châu,
huyện Tuy Viễn (tức An Nhơn). Thấy họ Hồ là người trung hậu cần mẫn, họ Ðinh
cưới vợ cho (có thuyết bảo là gả con gái) và nuôi cả vợ chồng, coi như người
thân quyến.
Họ Hồ
sinh được một trai, đặt tên là Hồ Phi Tiễn. Lớn lên Hồ Phi Tiễn tỏ ra khôn
ngoan lanh lợi, song sức yếu không thể làm nông. Họ Ðinh bèn giúp vốn để đi
buôn.
Thời bấy
giờ trầu nguồn rất có giá, song người đồng ruộng ít người chịu khó vượt suối
đèo để đi kiếm lợi. Hồ lang bèn mang tiền lên ấp Tây Sơn buôn trầu. Ði buôn gặp
người vừa ý mới kết nghĩa vợ chồng, và để tiện việc làm ăn Hồ lang cất nhà nơi
quê vợ.
Bà vợ
tên là Nguyễn Thị Ðồng ở thôn Phú Lạc thuộc Tây Sơn Hạ. Bà Ðồng là con duy nhất
của một phú thương (buôn trầu) đất Phú Lạc. Ðể con mình hưởng trọn gia tài và
đời đời giữ hương hỏa bên ngoại, bà Ðồng thương lượng cùng chồng cho con mang
họ Nguyễn. Việc đổi họ đối với ông Hồ Phi Tiễn không có gì trở ngại vì chẳng
những hợp tình mà cũng hợp lý do việc tiền nhân là Hồ Quý Ly đã từng mang họ Lê
là họ của cha nuôi từ nhỏ cho đến khi lênngôi thay nhà Trần trị thiên hạ. Vì
vậy con ông Hồ Phi Tiễn mang họ Nguyễn từ lúc sơ sanh: Nguyễn Phi Phúc.
Lớn lên
ông Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và lập trường buôn trầu tại chợ Kiên Mỹ gần
sông Côn [6]. Trầu trên nguồn chở xuống người ở miền dưới lên mua trầu đều đi
đường thủy, theo dòng sông Côn. Chợ Kiên Mỹ mỗi tháng có sáu phiên, phiên nào
cũng đông người mua bán. Ðến khi trường trầu của ông Phúc mở, chợ càng ngày
càng thịnh vượng thêm. Trên bộ thì người chen chúc nhau, dưới sông thì thuyền
lớp đậu lớp xuống lên chật cả bến. Kiên Mỹ trở thành một thị trấn và ông Phúc
trở thành một phú thương có uy tín nhất trong vùng. Ông kết duyên cùng bà Mai
Thị Hạnh [7]. Bà hạnh là cao cao tổ cô của anh hùng Mai Xuân Thưởng. Vì vậy nên
trong bản án của Mai anh hùng do triều đình Huế buộc tội có câu: Dương vị Hàm
Nghi khởi nghĩa, âm vị ngụy Nhạc phục thù.
Ông Phúc
sanh ba người con trai:
Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ tức Nguyễn Bình, Nguyễn Lữ.
Ngoài
đời cũng như trong sách sử không nói rõ ba ông sinh năm nào.
Chỉ nghe
các cụ phụ lão truyền rằng ông Nhạc lớn hơn ông Huệ đến 10 tuổi, và ông Huệ hơn
ông Lữ 1 tuổi.
Nếu dựa
năm băng hà của Vua Quang Trung mà tính thì chúng ta cũng có thể đoán được năm
sinh của ba ông.
Vua
Quang Trung Nguyễn Huệ, theo các sử Việt, băng năm Nhâm Tý (1792) hưởng dương
40 tuổi. Như vậy ông Huệ sanh năm Quý Dậu (1753) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 14.
Ông Nhạc lớn hơn 10 tuổi thì sanh năm 1743, tức năm Quý Hợi. Ông Lữ thua ông
Huệ 1 tuổi, tức sanh năm Giáp Tuất (1754).
Ba anh
em lớn lên đều thọ giáo ông Trương Văn Hiến tục gọi là Giáo Hiến ở An Thái (An
Nhơn).
Trương
Văn Hiến, người Hoan châu (Hà Tĩnh) anh em thúc bá cùng Trương Văn Hạnh.
Trương
Văn Hạnh là một đại thần đời Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, Vũ Vương mất năm Ất
Dậu (1765), thế tử cũng đã mất từ lâu, con thế tử còn nhỏ, nên tờ di chiếu để
lại lập con thứ nhì của Vũ Vương, tức Nguyễn Phúc Luân (cha Nguyễn Phúc Ánh)
lên nối ngôi, Quốc phó Trương Phúc Loan muốn chuyên quyền, thông đồng với tên
hoạn quan Chừ Ðức và chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống mạo tờ di chiếu giả, lập người
con thứ 16 của Vũ Vương là Nguyễn Phúc Thuần, lúc ấy mới 12 tuổi, lên làm Chúa.
Trương Văn Hạnh phản đối, bị Trương Phúc Loan giết chết. Trương Văn Hiến sợ vạ
lây bèn trốn vào An Thái mở trường dạy học.
Ông
Trương Văn Hiến dạy cả văn lẫn võ. Người đến xin học văn thì bắt buộc phải học
thêm võ. Những người đến xin học võ thì bắt buộc phải học thêm văn. Bởi có văn
không võ thì thường nhu nhược. Có võ không văn thì thường hay cường bạo. Văn võ
phải nương nhau thì đạo làm người mới giữ được vững.
Cũng như
mọi người, ba anh em họ Nguyễn Tây Sơn đều học cả văn lẫn võ, nhưng nặng bên võ
hơn bên văn. Ông Nhạc chuyên học kiếm, ông Huệ chuyên học đao, ông Lữ chỉ học
quyền, và vì sức yếu nên được truyền môn Miên quyền (quyền mềm dẻo như bông,
đối lập với Ngạnh quyền là quyền cứng mạnh), là môn sở trường của Trương Công.
Ông Phúc
qua đời, ông Nhạc nối nghiệp nhà. Ông Lữ xuất gia theo Minh giáo tục gọi là Ðạo
Ma Ní, dùng phù phép để chữa bệnh, trừ tà như đạo phù thủy. Ðạo này thịnh hành
ở Tây Sơn Thượng và các miền cao nguyên Trung phần. Chỉ có ông Huệ tiếp tục
theo học thầy giáo Hiến.
Ðể tiện
việc buôn bán, ông Nhạc dời nhà xuống Kiên Mỹ cạnh trường trầu. Nhà rộng để
chứa bạn hàng.
Trước
nhà lại mở sân rộng để luyện võ nghệ.
Nhà
giàu, võ giỏi, ông Nhạc lại nổi tiếng phong nhã hào hoa nên những tay anh chị,
những kẻ khá giả ở các vùng lân cận đều rất thích giao du. Uy thế của ông Nhạc
ở địa phương còn hơn ông Phúc gấp bội. Ðể tỏ lòng kính mến, người đương thời
gọi ông Nhạc là ông Hai Trầu. Ông Huệ là chú Ba Bình hay Ba Thơm. Ông
Lữ là
thầy Tư Lữ.
Vì ông
Nhạc kết duyên với bà Trần Thị Huệ nên để tránh trùng tên với chị dâu, gia đình
mới gọi ông Huệ là Bình. Do đó người địa phương mới gọi thân mật là chú Ba
Bình. Tên Bình là tên gọi ông Huệ lúc còn nhỏ. Còn tên Thơm là do nhân hoa huệ
có hương thơm nên gọi thay cho tên kiêng cữ.
Nhà ông
Nhạc từ khi dời xuống Kiên Mỹ, khách khứa mỗi ngày mỗi đông. Chẳng những khách
người Việt mà cả khách người Hoa.
Có một
người Hoa tới ở nhà ông Nhạc hàng tháng và ngày ngày cứ đi thơ thẩn nơi các
vùng núi đồi Tây Sơn Hạ. Thường được người Hoa đó lui tới nhất là hòn núi Thơm
ở Kiên Thạnh và dãy núi Ngang ở Trinh Tường. Ông Nhạc đoán biết là thầy địa đi
tìm huyệt mả, mới cho người tâm phúc theo rình. Một hôm thầy địa đến núi Ngang,
lấy hai cây trúc để nguyên cành lá đem cắm nơi triền phía đông, một cây bên nam
một cây bên bắc cách nhau chừng vài chục thước, rồi bỏ đi thẳng. Ông Nhạc ngày
ngày đến xem chừng. Mấy hôm sau, cây trúc phía bắc rụng hết lá và khô dần. Còn
cây phía Nam, đến ba tháng rồi mà vẫn tươi xanh như lúc mới trồng. Biết đó là
ứng chứng cho biết rằng long mạch nằm nơi cây trúc phía nam, ông Nhạc mừng lắm,
bèn nhổ cây sống trồng vào ngay chỗ cây chết, và cây chết trồng vào chỗ cây
sống. Sau ba tháng mười ngày kể từ ngày trồng hai cây trúc, thầy địa Tàu trở
lại. Thấy hai cây trúc đều khô héo hết, thầy địa cho là giả cuộc, bỏ đi không
thèm trở lại nữa. Ông Nhạc bèn bốc mộ ông thân đem táng nơi chân trúc phía nam.
Lại có
thuyết: Ði lang thang trên vùng núi đồi Tây Sơn hạ ít lâu, thầy địa Tàu bỏ đi
mất. Một năm sau mới trở lại. Lần này thầy mang một chiếc địa bàn và một chiếc
tráp nhỏ. Ông Nhạc đoán biết rằng thầy Tàu đã tìm được huyệt mả đại phát ở vùng
Tây Sơn, và chiếc tráp kia đựng hài cốt tiền nhân của thầy địa, bèn tìm cách
đánh đổi. Ông đóng một chiếc tráp in hệt chiếc tráp của thầy địa và hốt cốt ông
thân sinh đựng vào, rồi đợi... Coi được ngày lành, thầy địa mang địa bàn và
tráp đi đến nơi huyệt mả ở núi ngang. Thầy vừa đến chân núi thì một con cọp to
lớn ở trong bụi gầm một tiếng, nhảy ra vồ. Thầy địa hết hồn, quăng tráp và địa
bàn mà chạy. Hồi lâu thấy cọp không đuổi theo liền quay lại chỗ cũ. Thấy chiếc
tráp và địa bàn còn nằm lăn lóc đó, thầy mừng như chết đi sống lại, vội đi
thẳng đến nơi long huyệt mà chỉ một mình thầy biết. Chôn cất xong, thầy hớn hở
quay về Trung Hoa, tuyệt nhiên không ngờ rằng chiếc tráp thầy chôn đựng di cốt
ông Nguyễn Phi Phúc chớ không phải di cốt của tổ tiên thầy và con cọp kia là
con cọp giả do ông Nhạc đẻ ra.
Từ ngày
ông Nhạc được huyệt mả, thì gia đình thường gặp nhiều việc may.
Một hôm
ông Nhạc mua được một thanh cổ kiếm dài và rất bén. Nhớ ơn thầy cũ, bèn xuống
An Thái dâng cho Trương công.
Trông
thấy Nhạc, Trương công giật mình. Vì trước kia, phong cách và tài năng của Nhạc
đã làm cho Công thầm khen là người có thể làm được việc lớn. Lúc này thần thái
lại tươi sáng hơn xưa thập phần. Nâng niu xem xét thanh kiếm, Công nói:
- Ðây là
một thanh bảo kiếm, có đại phước mới vào tay. Tôi giữ hộ cho anh, ngày sau sẽ
giao lại. Ðoạn bảo Nhạc:
- Lúc
này là lúc kẻ anh hùng có thể dựng nên nghiệp cả. Anh không nên để lỡ thời cơ.
Ý quật cường vốn đã nhen nhúm trong người, nhưng Nhạc từ tốn thưa:
- Con tự
xét không đủ tài sức.
Công ôn
tồn nói:
- Hán
Cao Tổ, Lê Thái Tổ đâu có phải từ trên trời sa xuống. Người có chí hễ nắm được
thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì đại sự thành công không mấy khó khăn. Hiện
giờ Trương Phúc Loan chuyên quyền làm những việc gian ác, triều đình đảo điên,
nhân tâm ly tán. Nếu có người phất cờ khởi nghĩa thì bốn phương thiên hạ đều
hưởng ứng ngay. Ðất Tây Sơn núi non hiểm trở có cái thế bách nh�
Nguyên
để thu thuế vùng Tây Sơn, viên tuần phủ Quy Nhơn cho lập một đồn chính ở Trinh
Tường và một đồn phó ở Hữu Giang, do một biện lại và một phó biện lại chỉ huy.
Từ ngày Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi chúa (1765), Trương Phúc Loan lộng hành,
trong nước giặc cướp nổi dậy khắp nơi, người ấp Tây Sơn không chịu nạp thuế.
Biện lại, phó biện lại luôn luôn bị cách chức vì bất lực. Không còn ai dám nhận
chức biện lại. Ông Nhạc tình nguyện đảm đương. Ðồng bào trong vùng đã sẵn lòng
mến mộ ông Nhạc, nên chỉ những người nghèo khổ không đủ khả năng mới trốn thuế.
Những phần thuế bị thiếu, ông Nhạc xuất tiền nhà bù vào. Quan trên thấy ông
Nhạc đắc lực bèn đem lòng tín nhiệm. Nhân dân thấy ông Nhạc biết thương kẻ
nghèo, đã phục càng thêm phục. Trên được quan tin dưới được dân mến ông Nhạc
được ung dung lo việc của mình, không còn sợ ai dòm ngó.
Tài
chánh mỗi ngày mỗi thêm dồi dào, những tay văn hay, võ giỏi mỗi ngày tụ hội mỗi
thêm đông, những tráng niên, thanh niên có gan có sức, đến với các tráng sĩ để
học võ và khai khẩn đất hoang, mỗi ngày mỗi thêm tấp nập. Nguyễn Nhạc bèn xuống
An Thái trình bày mọi việc cho thầy rõ. Trương công rất mừng, lấy
thanh
kiếm cổ đem giao lại cho ông Nhạc:
- Ðã đến
lúc dùng đến rồi. Cần phải lo củng cố nhân tâm và biểu dương thanh thế.
Nguyễn
Nhạc lĩnh ý ra về.
Một hôm,
người thôn Phú Lạc nghe trên hòn Trưng Sơn có tiếng chiêng trống và thấp thoáng
có ánh lửa lập lòe. Ai nấy đều thất kinh! Hòn Trưng Sơn tuy ở gần thôn xóm,
nhưng không mấy ai dám vào, vì trên hòn có mả mẹ chàng Lía rất linh thiêng và
có nhiều cọp. Nghe tiếng chiêng tiếng trống và thấy ánh lửa, người thì bảo rằng
hồn chàng Lía về thăm mẹ, người thì cho là quỷ thần mở hội vui. Kẻ bàn người
tán, không mấy chốc đồn vang khắp vùng, khắp huyện, rồi khắp cả hai huyện
ngoài. Một đồn mười, mười đồn trăm. Các thầy tướng số bảo rằng đó là tú khí của
non sông xuất hiện, là điềm cho biết trước rằng trong vùng sẽ có chân chúa ra
cứu đời.
Tin đồn
khắp nơi. Nhân dân chịu đã không nổi ách chuyên chế của Vua chúa nhà Nguyễn, ai
nấy đều hy vọng sớm có cuộc đổi thay và mọi người đều hướng tâm về nẻo Trưng
Sơn.
Cách đó
không lâu nhà Nguyễn Nhạc có kỵ. Khách khứa đông đúc. Cỗ bàn ăn xong thì trời
đã khuya. Người ở gần thì lục tục ra về, khách ở xa đều phải nghỉ lại. Bỗng
cảnh tượng hôm trước tái hiện nơi Trưng Sơn. Lần này tiếng chiêng tiếng trống
lại rền trời, và ánh lửa lại sáng ngời cả núi. Tuy đã trông thấy cảnh tượng đó
lần thứ hai, người trong vùng vẫn kinh sợ, và các tay võ sĩ tuy xem thường gươm
giáo, nhưng lắm người cảm thấy ớn lạnh châu thân.
Nguyễn
Nhạc rủ mọi người lên xem quỷ thần làm trò gì. Phần đông đều e ngại. Chỉ có
chừng mười người xin theo.
Nai nịt
gọn gàng, chân vũ hài, tay trường kiếm, trường côn, đoàn người mạnh dạn lên
núi. Tiếng trống chiêng dứt, ánh lửa tắt dần. Khi lên gần tới đỉnh, thì trong
ánh sáng chập chờn, thấy hiện ra một lão trượng mặc triều phục, râu tóc bạc
phơ. Lão trượng phất tay áo, ra dấu bảo đoàn người dừng lại. Ai nấy đều ớn
lạnh, đứng lại như cái máy. Lão trượng cất tiếng lanh lảnh hỏi:
- Trong
anh em có ai là Nguyễn Nhạc chăng. Nếu có thì hãy đến gần đây nghe lệnh. Còn
các người khác thì đứng yên.
Nguyễn
Nhạc run sợ bước đến quỳ trước mặt lão trượng. Lão trượng lấy trong tay áo rộng
một tờ chiếu rồi đọc lớn:
- Ngọc
Hoàng sắc mạng Nguyễn Nhạc vi Quốc Vương .
Ðoạn
trao tờ chiếu cho Nguyễn Nhạc rồi quay bước vào trong bóng tối.
Từ ấy
muôn người như một, trừ cụ giáo Hiến và những người tâm huyết trong tổ chức, ai
cũng tin rằng trời
đã cho
Nguyễn Nhạc làm vua. Lòng mê tín không cho phép được nghi ngờ.
Ðã có
chiếu Trời rồi, còn phải có ấn kiếm nữa mới lên ngôi được.
Một hôm
Nguyễn Nhạc cùng bộ hạ ở An Khê về, đến Hoành Sơn thì ngựa Nguyễn Nhạc lồng
lên, rồi thẳng cổ chạy nước đại. Nhưng không chạy tẽ ra hướng bắc để về Kiên
Mỹ, lại chạy về hướng đông nam. Ðến chân núi phía trong Gò Sặt, cương ngựa bị
đứt. Nguyễn Nhạc té nhào xuống ngựa, trặc chân không đứng dậy được. Ðám tùy
tùng chạy đến xoa bóp hồi lâu mới bớt. Khi đứng dậy để ngựa trở về thì Nguyễn
Nhạc chợt thấy chuôi kiếm ló ra nơi vách đá trên sườn núi. Sai người lên xem
thì là một thanh kiếm xưa lưỡi sáng như nước. Ai nấy đều mừng là của Trời
ban[10].
Về nhà
Nguyễn Nhạc nói cùng hai em và các đồng chí:
- Ngọc
Hoàng đã sắc phong ta làm Quốc Vương, lẽ tất nhiên là phải ban ấn kiếm. Nay
kiếm đã có rồi, ta phải đi tìm ấn.
Ðoạn tổ
chức lễ cầu đảo tại chân núi Hoành Sơn.
Cầu đảo
ba ngày đêm. Ðêm làm lễ, ngày cho người đi tìm khắp vùng trên núi và dưới núi.
Ðã hai ngày đêm rồi mà không thấy chi cả. Ðêm thứ ba, lúc nửa đêm, chiêng trống
hành lễ vừa dứt, thì một vòi lửa như một làn pháo thăng thiên, bay từ hòn Một
xẹt đến hòn Giải thì rơi xuống. Tiếp đó một tiếng nổ nhỏ như tiếng pháo tre,
rồi một tiếng nổ lớn có phần dữ dội như tiếng sét làm chấn động cả vùng. Ai nấy
đều thất kinh. Sáng hôm sau, Nguyễn Nhạc dẫn người đến hòn Giải xem, thì thấy
sườn núi phía nam có một vùng lở và nám đen như bị sét đánh. Trèo lên xem thì
thấy một quả ấn vàng nằm trong kẻ đá nơi bị lở. Quả ấn vuông vức, mỗi cạnh dài
độ ba lóng tay, nơi mặt khắc bốn chữ triện Sơn hà Xã tắc[11].
Ai nấy
tin rằng Nguyễn Nhạc quả có chơn mạng.
Nguyễn
Nhạc được các người cùng hợp tác và các nhân sĩ đồng bào địa phương tôn làm Tây
Sơn Vương.
Ðó là
vào năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32, Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần thứ
6, tức năm 1771.
Nguyễn
Nhạc tổ chức lại cơ sở:
- Quân
sự giao cho Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Ðình Tú.
- Kinh
tế tài chánh giao cho Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân và Nguyễn Lữ.
- Dân sự
(hành chánh, ngoại giao, tuyên truyền...) giao cho Võ Xuân Hoài và Trương Mỹ
Ngọc.
Ðất Tây
Sơn trở thành một nước nhỏ.
Mọi tổ
chức được thực hiện trong im lặng.
Lòng dân
địa phương lại hướng hoàn toàn về Nguyễn Nhạc. Viên tri huyện Tuy Viễn không
hay biết chi cả. Nhưng vì biện lại đồn Tây Sơn (có tên là Vân Ðồn) không chịu
nạp thuế trong hai năm liền, viên tri huyện sai Ðốc Trung Ðằng đem quân lên vấn
tội. Quân của Ðằng bị quân Tây Sơn đánh bại [12].
Nhưng
Nguyễn Nhạc và bộ tham mưu nhận thấy địa thế Tây Sơn Hạ không được an toàn, bèn
dời tổng hành dinh và các cơ quan trọng yếu lên Tây Sơn Trung. Lấy dãy núi ở
dưới đèo An Khê làm mật khu. Nguyễn Nhạc cùng bộ tham mưu đóng ở hòn núi cao
nhất nằm phía nam chân đèo, Nguyễn Huệ cùng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đóng
tại hòn núi phía bắc. Do đó mà hai ngọn núi này mang tên là núi Ông Bình và núi
Ông Nhạc.
Khu kinh
tế tài chính vẫn đóng ở Tây Sơn Hạ. Và những nơi đã được khai khẩn tiếp tục
tăng gia sản xuất. Trường trầu vẫn phát triển đều đặn. Các phú gia ở khắp Tuy
Viễn nhiệt liệt ủng hộ. Kho lẫm được canh coi
chu đáo.
Tiền, lúa nhiều nhưng không hề bị thâm lạm.
Thanh
thế của Tây Sơn Vương mỗi ngày mỗi thêm vững vàng vang dội. Kẻ sĩ gần xa được
mời tham gia liền hưởng ứng. Bên văn có Triệu Ðình Tiệp người An Nhơn. Cao Tắc
Tựu người Phù Mỹ, La Xuân Kiều người Phù Cát... bên võ thì có Nguyễn Văn Tuyết,
người An Nhơn,
Nguyễn
Văn Lộc người làng Kỳ Sơn (Tuy Phước), Lý Văn Bưu người Phù Cát, Lê Văn Hưng
người Tuy Viễn... đều là những người có tài có chí.
Quân
lính mộ thêm nhiều. Những người trước kia lo việc sản xuất, nếu tình nguyện,
đều được đưa sang làm lính. Và tất cả quân sĩ, cứ sáu tháng ở trong quân đội,
sáu tháng về các nông trại để vừa nghỉ ngơi vừa cày cuốc. Trong đám quân sĩ có
một người, khi tập đã làm cho cấp chỉ huy thán phục là Lê Văn Hưng ở Kiên Dõng
(Bình Khê). Ông này côn quyền đã tinh luyện, sức mạnh có thể nâng đá nhẹ nhàng
như xách gàu nước, bưng nồi cơm. Nhập ngũ không bao lâu được làm đội trưởng.
Nghe tin
Nguyễn Nhạc bị truy nã gắt gao vì thâm lạm công quỹ, chạy vào núi chiêu tập bọn
vong mạng định làm giặc, viên tuần phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên cho quân
lính đi lùng bắt. Nhưng nhiều lần quan quân đến Tây Sơn Hạ thấy nhân dân làm ăn
yên ổn, không thấy dấu vết của giặc đâu cả, Tuyên cho là tin đồn nhảm, nên thôi
đem quân càn quét vùng Tây Sơn.
Ðỡ tốn
công đối phó với kẻ thù, Tây Sơn Vương lo phát triển lực lượng.
Nhận
thấy người Thượng bắn ná giỏi, lại có sức mạnh và có đức tính chịu đựng bền bỉ,
Nguyễn Nhạc quyết định dùng chính sách Thượng vận để lôi kéo các sắc tộc Xà
Ðàng (Sédang), Rađê (Rhade), Giarai (Djarais) về với mình.
Vương đã
được người miền núi biết đến qua chuyện được kiếm thần.
Trong
dân gian Thượng cũng có chuyện được gươm thần như sau:
Truyền
rằng xưa kia Vua Chiêm bắt được một thanh gươm thần. Vua Chân Lạp bắt được vỏ
gươm. Vua Chiêm xây một tháp cao để tàng trữ gươm thần. Ðêm đêm gươm tỏa sáng
xa hàng vạn trượng. Vua Chân Lạp phải đem vỏ gươm đến dâng và hàng năm triều
cống. Ánh hào quang của gươm tượng trưng cho thần lửa.
Thần lửa
là vị thần mà người Thượng miền núi từ Quảng Nghĩa vào Phú Yên tôn thờ do ảnh
hưởng văn hóa Chiêm Thành. Ðạo Minh Giáo (đạo Ma Ní) mà ông Lữ theo cũng thờ
thần lửa. Do đó, ông Lữ có khả năng thuyết phục người Thượng dễ dàng.
Chính vì
nắm được những lợi thế đó mà Nguyễn Nhạc giao quyền điều khiển cho ông Huệ và
ông Diệu, rút ông Lữ về và thân hành cùng ông Lữ lên An Khê để vận động người
Thượng.
Ðã được
kính mộ từ trước, lại thêm có thầy hỏa giáo đi theo. Tây Sơn Vương đến đâu được
người Thượng hoan nghênh đến đó. Người Giarai (Djarais) coi Vương như thần và
gọi là Vua Trời[13]. Chỉ có người Xà Ðàng (Sédang) mà chúa đoàn là Bok Kiơm
không phục. Bok Kiơm nói:
- Ông
Nhạc không phải người trời vì không có gì khác thường.
Ðể tỏ ra
mình khác thường, Nguyễn Nhạc dùng giỏ bội gánh nước đi ngang qua buôn Xà Ðàng
mỗi buổi sáng sớm[14].
Bok Kiơm
cho rằng có phù phép, chớ không phải có tài trời sanh, bảo:
- Nếu
ông bắt được con ngựa thần thì tôi mới phục.
Nguyên
trên núi Hiển Hách, tục gọi là Hánh Hót ở vùng An Khê có một bầy ngựa rừng hễ
thấy bóng người
là chạy
tránh. Con ngựa cầm đầu sắc trắng tinh, lông gáy và lông đuôi dài và óng như
tơ, tiếng hí vang cả
rừng và
nghe xa hàng chín mười dặm thẳng. Người Thượng gọi là Ngựa Thần.
Phải bắt
cho được con ngựa thần ấy mới thu phục được người Xà Ðàng, mà có thu phục được
người Xà Ðàng thì vùng Tây Nguyên mới thật là đất Tây Sơn, vì An Khê người Xà
Ðàng ở đông đảo nhất. Nguyễn Nhạc để Nguyễn Lữ ở lại tuyên truyền, một mình về
Kiên Mỹ cho người đi mua một số ngựa cái lớn tốt, đem về dạy cho khôn, hễ nghe
tiếng hú là chạy đến. Bầy ngựa đã thành thục, Nguyễn Nhạc đem lên thả trên núi
Hiển Hách cho theo bầy ngựa rừng. Ít hôm ngựa rừng và ngựa đồng quen nhau. Hễ
nghe tiếng hú thì ngựa đồng chạy về, ngựa rừng cũng chạy theo, nhưng vừa thấy
bóng người thì quay đầu trở lại, nhưng chạy một đỗi xa xa thì quay đầu ngó lui.
Nguyễn Nhạc lấy cỏ bỏ cho ngựa ăn, rồi trở về. Ngựa rừng liền quay trở lại ăn
cỏ cùng ngựa đồng. Lần này ngựa rừng thấy bóng người không còn có vẻ hoảng sợ
nữa, nhưng không dám lại gần. Nguyễn Nhạc không bỏ đi, đứng vuốt ve bầy ngựa,
hết con này đến con khác.
Mấy hôm
sau bầy ngựa rừng nhận thấy người không có ý làm hại giống nòi, bèn kéo đến ăn
cỏ. Khi bầy ngựa rừng đã dạn, Nguyễn Nhạc đem cỏ bỏ gần cho ăn, rồi từ từ tiến
đến vuốt mõm vuốt lưng hết con này đến con khác. Con ngựa bạch cầm đầu, ban sơ
còn tỏ ý không thuận, nhưng dần dần, đứng yên cho người vuốt ve.
Chinh
phục được bầy ngựa rừng rồi, Nguyễn Nhạc hẹn cùng Bok Kiơm nơi chốn và ngày giờ
đến chứng kiến. Ðể cho bầy ngựa khỏi sợ vì đông người. Nguyễn Nhạc bảo Bok Kiơm
cùng đám tùy tùng núp sau đá rồi cất tiếng hú. Bầy ngựa rừng theo bầy ngựa đồng
chạy đến. Nguyễn Nhạc lấy cỏ cho ăn và vuốt ve như thường lệ
Rừng Mộ
Ðiểu ở tại làng Cổ Yêm cách Tú Thủy chừng mười, mười hai cây số.
Rừng
rộng mênh mông. Giữa rừng nổi lên một ngọn đồi trông giống một hòn cù lao ở
giữa biển cả. Mỗi buổi chiều, chim về nghỉ từng bầy, từng đám, tiếng kêu vang
dậy cả rừng xanh. Do đó rừng mang tên là Mộ Ðiểu.
Tuy ít
giao thiệp với bên ngoài, vị đầu mục Ba Na cũng đã có nghe tiếng Vua Trời. Vì
vậy không mấy chốc hai bên đã trở nên thân thiện. Ðể mối tình Kinh Thượng thêm
nồng nàn khăng khít, viên đầu mục gả con gái cho Vua Trời, bà vợ Thượng của
Vương, tục gọi là Cô Hầu.
Nhận
thấy đất đai trong rừng rất màu mỡ, Nguyễn Nhạc liền nghỉ đến việc khai khẩn.
Vương mộ người Thượng làm nhân công và rút một số người chỉ huy kinh tế ở Tây
Sơn Hạ lên điều khiển. Rừng Mộ Ðiểu nhờ sức lao động của người Thượng - nhờ tài
hướng dẫn của người Kinh, trở thành một cánh đồng phì nhiêu rộng hàng nghìn
mẫu. Việc khai khẩn, việc canh tác, việc thu hoạch do Cô Hầu đảm đương với một
số người Kinh, người Thượng tâm phúc trợ lực[16].
Nguyễn
Nhạc dùng phần lớn thì giờ để cùng Nguyễn Lữ đi chiêu dụ các sắc dân miền Kon
Tum, Pleiku. Hai anh em đi đến đâu thì người Thượng hoan nghênh đến đó. Cho nên
tất cả người Thượng vùng cao nguyên đều quy thuận Tây Sơn Vương.
Vương
chọn trong những người khẩn hoang một số tráng niên có sức, có gan và mộ thêm
người trong các vùng lân cận, tổ chức thành một đạo quân Thượng. Võ Ðình Tú,
Nguyễn Văn Tuyết và Lê Văn Hưng được đưa lên phụ trách việc huấn luyện và việc
tổ chức. Dinh trại đóng trên ngọn đồi. Những binh sĩ người Thượng đã được huấn
luyện thuần phục đều đưa xuống giao cho Nguyễn Huệ và Trần Quang Diệu rèn luyện
thêm và khép vào đội ngũ. Nguyễn Nhạc khi ở Mộ Ðiểu khi về trung nguyên, thái
độ nghiêm nhưng hòa, xử sự có tình nhưng không bỏ lý. Cho nên mọi người vừa
kính sợ vừa yêu mến. Các anh hùng chí sĩ đến cùng Nguyễn Nhạc đều coi nhau như
tay chân và hết lòng giúp Tây Sơn Vương dựng nghiệp cả.
Nhờ vậy
mà chỉ trong một thời gian ngắn, từ ngày rời chiến khu lên Tây Sơn Thượng
(1771), nhà Tây Sơn đã có cơ sở vững chắc.
Lúc bấy
giờ vùng Tây Sơn còn thuộc về khu vực hẻo lánh, nhân dân trong vùng lại một dạ
trung thành với nhà Tây Sơn, nên quan quân của chúa Nguyễn không hề hay biết.
Tên biện lại thâm lạm tiền công quỹ cũng không còn ai nhắc nhở đến. Tri huyện,
tuần phủ chỉ lo vơ vét cho đầy túi, không lo gì đến biến chuyển của thế cuộc.
-----------------------
[5] Quy
Nhơn là tên phủ thuộc dinh Quảng Nam, phủ Quy Nhơn chia làm ba huyện: Bồng Sơn,
Phù Ly, Tuy Viễn. Sau này Quy Nhơn đổi ra Bình Ðịnh và các huyện. Tuy Viễn, Phù
Ly, Bồng Sơn bị cắt chia làm bảy huyện:
- Tuy
Viễn chia ba: Bình Khê, An Nhơn, Tuy Phước.
- Phù Ly
chia hai: Phù Cát và Phù Mỹ.
- Bồng
Sơn chia hai: Hoài Nhơn, Hoài Ân.
[6] Kiên
Mỹ ở dưới Phú Lạc, Phú Lạc không có chợ. Bến sông đò đậu để buôn trầu gọi là
bến Trường Trầu,
gọi tắt
là bến Trầu, hiện vẫn còn.
[7] Theo
Tây Sơn nhân vật chí của Ðinh Sĩ An, thời Cảnh Thịnh.
[8] Bách
nhị: lấy từ chữ bách nhị sơn hà chuyện hai người dựa vào thế núi hiểm trở chống
lại một trăm
người mà
không bị đánh bại.
[9] Xem
tiểu sử bà Nhạc ở đoạn sau (đoạn nói về ông Nguyễn Văn Tuyết).
[10] Núi
này mang tên Kiếm Sơn là do tích được kiếm của Nguyễn Nhạc. Sử sách chép rằng
ông Nhạc lượm được gươm tại núi An Dương. Sự thật đó là thanh cổ kiếm cụ giáo
Hiến giữ giùm cho ông Nhạc.
[11] Hòn
Giải có tên là hòn Trống (cổ sơn) lại thêm tên hòn Ấn, (Ấn Sơn).
[12] Sử
nhà Nguyễn chép rằng Nguyễn Nhạc thua bạc hết tiền thuế, bị truy nã, do đó chạy
vào rừng làm giặc.
[13]
Người Gia Rai coi bộ lạc mình là con cháu chính thống của thần Lửa cho nên đã
mang tên của thần Lửa là Giarai (Djarais).
[14]
Không có gì lạ: Lấy giấy trắng tốt nhúng dầu trong phơi khô rồi phất trong lòng
giỏ bội. (Giấy nhúng dầu xong để khô trông giống tờ ny-lông). Ðổ nước vào giỏ,
nước không chảy, giấy không bị ướt.
[15] Con
bạch mã sau này trở thành một chiến mã. Khi ông Nhạc qua đời, ngựa trở về núi.
[16]
Rừng Mộ Ðiểu sau trở thành cánh đồng gọi là cánh đồng Cô Hầu và ngọn núi ở giữa
đồng bào đặt tên là núi Hoàng Ðế.
TÂY SƠN KHỞI NGHĨA
Cơ sở đã
vững vàng, quân sĩ, vũ khí, lương thực tạm đầy đủ, Nguyễn Nhạc xuống An Thái
thỉnh giáo thầy, Trương Văn Hiến đáp:
- Khởi
sự được rồi. Nguyễn Nhạc xin thầy lên nắm quyền chỉ đạo, Trương công nói:
- Ông là
người trí dũng có thừa. Huống nữa văn nhân võ sĩ về với ông đều là những anh
hùng hào kiệt. Tôi tuổi già sức yếu, chỉ mong được hưởng chữ nhàn. Nhưng khi có
việc cần, tôi sẵn sàng góp sức.
Công lại
dặn:
- Ba yếu
tố cần thiết để thành công, ông đã có đủ. Nhưng luôn luôn phải giữ vững nhân
tâm. Ðược đất không bằng được thành, được thành không bằng được lòng người.
Nguyễn
Nhạc bái tạ về, lo chỉnh đốn quân ngũ, sắm kỳ hiệu, đặt quan chức.
Quân
chia làm ba đạo:
- Một
đạo lo canh phòng chiến khu, tiếp tục tuyển mộ và huấn luyện binh sĩ, đô đốc
việc sản xuất và giữ
an ninh
trật tự ở vùng Tây Sơn.
- Một
đạo xuống đánh chiếm huyện lỵ Tuy Viễn.
- Một
đạo ra chiếm giữ vùng núi hai huyện Phù Ly, Bồng Sơn sau khi huyện lỵ Tuy Viễn
bị hạ.
Ðạo thứ
nhất giao cho Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Võ Ðình Tú, Võ Xuân Hoài.
Ðạo thứ
nhì do Nguyễn Nhạc thống lãnh, có Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc bên võ,
Trương Mỹ Ngọc,
Triệu
Ðình Tiệp bên văn phò tá.
Ðạo thứ
ba do Trần Quang Diệu chỉ huy, có Võ Văn Dũng, Lê Văn Hưng bên võ, La Xuân
Kiều, Cao Tắc Tựu bên văn cộng tác.
Kỳ hiệu
hình vuông, nền đỏ, chữ vàng, viền ngoài và tua xanh.
Ðại kỳ
thêu kim tuyến ba chữ Tây Sơn Vương.
Quân kỳ
nhỏ thua đại kỳ một mười một tám, thêu chỉ vàng họ và chức vị cấp chỉ huy.
Quan
chức, đại loại gồm có: Bên võ: Ðại Tổng Quản, Ðại Ðô Ðốc, Ðô Ðốc, Ðề Ðốc. Bên
văn: Ðại Học Sĩ, Hiệp Biện Ðại Học Sĩ.
Nguyễn
Huệ được phong Ðại Tổng Quản.
Bùi Thị
Xuân, Võ Ðình Tú được phong Ðại Tổng lý.
Võ Xuân
Hoài được phong Ðại Học Sĩ.
Phong
Trần Quang Diệu làm Ðô Ðốc, Võ Văn Dũng là Phó Ðô Ðốc, Lê Văn Hưng làm đề đốc.
Nguyễn
Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc làm Tả Hữu Ðô Ðốc.
Các quan
văn đều được phong Hiệp Biện Ðại Học Sĩ.
Việc vận
tải lương thực giao cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Thung với chức tán tương quân vụ.
Nguyễn Thung lo mặt Bắc, Nguyễn Lữ lo mặt Nam.
Việc sơn
phòng giao trọn cho chúa Xà Ðàng Bok Kiơm. Các sắc tộc vùng An Khê, Pleiku, Kon
Tum đều
thuộc
quyền quản lý của Bok Kiơm, Nguyễn Nhạc tặng Bok Kiơm một nón lông đen chớp bạc
quai tua điều, một con chiến mã và một cây mác bạc.
Còn bà
họ Trần và Cô Hầu vẫn tiếp tục việc buôn trầu, làm ruộng, với sự trợ lực của
Bùi Thị Xuân.
Mọi việc
an bài, Nguyễn Nhạc lập đàn cáo Trời Ðất, hợp thức hóa danh vị chức chưởng của
chúa tôi và tế cờ xuất quân.
Ðàn lập
trên đèo An Khê, nơi nghẹo Cây Khế, dưới bóng hai cây đại thọ: Cây ké, cây cầy.
Binh tướng của ba đạo quân tập trung về phía đông đèo An Khê từ chân đèo đến
đỉnh đèo.
Khi đại
quân đến gần tế đàn thì từ trên cây ké một con rắn bò xuống. Con rắn này thân
lớn bằng cột nhà.
Sắc đen
nhánh như hạt huyền, người đương thời gọi là Ô Long, nằm chận ngang đường đi.
Quân không dám tiến, Nguyễn Nhạc liền tuốt gươm chém chết. Nhớ chuyện Hán Cao
Tổ chém rắn khởi nghĩa, tướng sĩ tin là
điềm
lành, ai nấy đều nức lòng phấn chí.
Lễ tổ
chức đơn giản nhưng long trọng.
Bóng cờ
đào chen bóng cây xanh, tiếng chuông trống lẫn tiếng hô của tướng sĩ, tràn
ngập, vang dội cả suối rừng. Hùng khí ngút ngàn.
Lễ tất,
Tây Sơn Vương ban bố quân luật, gồm ba điều:
* Không
được xâm phạm tánh mạng và tài sản của đồng bào.
* Không
được tiết lộ bí mật quân sự.
* Không
được gây xáo trộn, chia rẽ trong hàng ngũ.
Ai phạm
phải một trong ba điều, sẽ bị chém tức khắc.Tiếng hoan hô vang rừng.
Rồi lệnh
truyền xuất phát.Ðạo quân Nguyễn Huệ kéo về chiến khu.
Ðạo quân
Trần Quang Diệu theo đường núi ra hướng bắc.
Ðạo quân
Tây Sơn Vương kéo thẳng xuống hướng đông.
Ðó là
ngày rằm tháng tám năm Quý Tỵ (1773).
Ðạo quân
của Tây Sơn Vương xuống đến núi Bà Phù thì trời xẩm tối. Vương truyền quân dừng
lại nghỉ. Ðêm
đến mở
yến tiệc đãi tướng sĩ tại thung lũng dưới chân núi Bà Phù. Sáng hôm sau mới
tiếp tiến phát.
Nhân đồn
binh được yên ổn và yến ẩm được vui vầy. Vương đặt tên hòn Bà Phù là Tâm Phúc,
và người địa phương gọi thung lũng Bà Phù là Hóc Yến.
Sáng
ngày 16, gà vừa cất tiếng gáy, đạo quân của Tây Sơn Vương đã thức dậy lên
đường.
Nguyễn
Lữ đã chuẩn bị sẵn sàng tại chân núi Ðồng Phong để đón tiếp.
Ðến Ðồng
Phong tướng sĩ dừng lại ăn uống và lãnh lương thực, rồi đi thẳng một mạch đến
huyện lỵ Tuy
Viễn.
Binh đi như gió. Mặt trời vừa mọc thì huyện lỵ đã bị bao vây. Tiếng quân hò hét
dậy đất. Viên tri
huyện
hết hồn bỏ trốn. Nhân viên trong huyện và tất cả lính huyện đều xin đầu hàng.
Tây Sơn
Vương ban lời phủ dụ. Trong công phủ ngoài nhân dân, mọi người đều hoan hỉ.
Những nhà khá giả đem bò heo gạo trái đến đãi nghĩa quân.
Nghe Tây
Sơn Vương chiếm đóng Tuy Viễn, một phú thương ở Cửa Giã [17] là Huyền Khê đem
gia nhân trên mười người đến xin gia nhập nghĩa quân và cúng tất cả tài sản để
làm lương thực. Tiếp theo đó, hai thủ lãnh lục lâm ở nguồn An Tượng [18] là
Nhưng Huy và Tứ Linh đem lâu la đến xin quy thuận.
Tây Sơn
Vương thu nạp và trọng dụng.
Vương
giao Tuy Viễn cho Nguyễn Văn Tuyết và Huyền Khê đóng giữ, rồi kéo đại binh ra
đánh thành Quy Nhơn.
Ðược tin
Tuy Viễn đã vào tay nghĩa quân rồi. Trần Quang Diệu liền chia đại binh mình chỉ
huy ra làm ba đội. Một đội giao cho Lê Văn Hưng ở lại hậu phương. Một giao cho
Võ Văn Dũng cùng Cao Tắc Tựu đi đánh Bồng Sơn, còn mình lãnh một đạo đi đánh
Phù Ly cùng La Xuân Kiều.
Bồng Sơn
và Phù Ly, nghĩa quân kéo đến, chưa đánh đã lấy được.
Quân
cũng như dân của hai huyện đều hân hoan đón tiếp nghĩa binh.
Trần
Quang Diệu để Võ Văn Dũng cùng hai học sĩ Cao, La ở lại giữ huyện lỵ hai nơi,
còn mình thì đem quân vào hợp với Tây Sơn Vương đánh thành Quy Nhơn.
Thành
Quy Nhơn là thành cũ Ðồ Bàn của Chiêm Thành.
Sau khi
đất Ðồ Bàn thuộc về Việt Nam thì đặt thành phủ và chia làm ba huyện. Phủ gọi là
Quy Nhơn thuộc
dinh
Quảng Nam, huyện là Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Phủ lỵ, đóng tại thành Ðồ Bàn
gọi là thành Quy Nhơn, huyện lỵ Bồng Sơn đóng trên bắc ngạn sông Lại Giang, đối
diện với hòn Bích Kê ở nam ngạn. Huyện lỵ Phù Ly đóng tại Phù Mỹ gần sông La
Tinh. Huyện lỵ Tuy Viễn đóng ở nam ngạn sông Côn cách An Thái chừng 1 cây số.
Ðịa phận của ba huyện chạy dọc theo ba con sông Cái: Lại Giang, La Tinh Giang,
Côn giang[19].
Thành
Quy Nhơn ở giữa Tuy Viễn và Phù Ly.
Tường
xây bằng đá ong, trên một giải gò cao, chung quanh có hào sâu bao bọc, thế rất
vững.
Vì vậy
nên quân Tây Sơn vây đánh đã ba ngày mà không lấy được. Tuần phủ Nguyễn Khắc
Tuyên đóng cửa thành cố thủ.
Không
dùng sức được, Tây Sơn Vương bèn dùng mưu.
Vương
truyền lui quân rồi cho đi đóng rải rác trong những nơi khuất tịch, nằm im chờ
lệnh. Tuần Tuyên tưởng quân Tây Sơn đã kéo về núi, thông cáo cho nhân dân ai
bắt sống Nguyễn Nhạc đem nạp hoặc giết chết lấy đầu đem nạp, sẽ được trọng
thưởng. Tây Sơn Vương bèn cho đóng một chiếc cũi thật kiên cố, bên trong có máy
mở đóng, rồi tự mình vào ngồi trong cũi, bảo khiêng đem nạp cho tuần Tuyên.
Trước
khi đi, Vương ra lệnh và sắp xếp:
- Tướng
sĩ phải chuẩn bị sẵn sàng, hễ nghe trong thành có tiếng pháo nổ thì kéo vào
chiếm thành.
- Lựa
tám quân nhân giỏi côn quyền, ăn mặc theo thường dân, để khiêng cũi. Khi vào
được cửa thành thì dùng đòn khiêng cũi làm côn tháo thanh cũi làm gậy đánh quân
giữ thành.
Cho một
toán quân vài mươi người ăn mặc theo thường dân, mượn cách nghiêm giải, mang vũ
khí đi theo hai bên cũi. Tổ chức một số thường dân cho chạy trước và chạy sau
đoàn khiêng cũi, la Ðã bắt được giặc rồi đồng bào ra coi....
Nhưng
Huy và Tứ Linh lẩn theo đám đông người đem quân mai phục ở hai bên cửa thành,
hễ nghe pháo lệnh thì xông ngay vào thành.
Sắp đặt
xong xuôi, Vương truyền quân khiêng cũi đi.
Ðồng bào
hai bên đường kéo ra xem đông đảo.
Tuần
Tuyên nghe tin, cho người lên thành xem thử rồi truyền mở cửa thành, nhưng chỉ
cho hai người
khiêng
cũi vào thành. Những người khiêng lấy cớ cũi quá nặng, hai người không khiêng
nổi. Xin cho cả tám
người
vào khỏi cửa rồi ra ngay. Tuần Tuyên y cho. Cũi khiêng vào thành, đồng bào lần
lần giải tán.
Cũi vừa
qua khỏi cửa thành, cánh cửa chưa kịp đóng Tây Sơn Vương liền mở cũi nhảy ra,
rút kiếm dấu sẵn trong người, chém chết viên đội trưởng giữ cửa, tám nghĩa quân
khiêng cũi, lớp côn lớp quyền, đánh tan toán giữ cửa, mở rộng cửa thành và đốt
pháo hiệu truyền lệnh... Nghĩa quân do Nhưng Huy và Tứ Linh điều khiển và những
người cầm vũ khí khi bị tuần Tuyên cản không cho vào còn đứng đợi trước thành
ngheo pháo lệnh, liền kéo ùa vào thành một cách thần tốc, vừa chạy vừa reo hò.
Tuần Tuyên khiếp đảm, dắt gia đình lẻn ra cửa sau chạy trốn. Quân lính và quan
lại trong thành như rắn không đầu, đều quy hàng Tây Sơn Vương.
Kế đó
quân Trần Quang Diệu và chư tướng lần lượt kéo tới, lớp vào thành, lớp đóng giữ
bên ngoài phòng việc bất trắc[20].
Tây Sơn
Vương giao thành cho Trần Quang Diệu và các tướng đóng giữ, tự mình đem hai
quân đoàn xuống Càng Rang, Nước Ngọt, đánh lấy hai kho lương thực. Hai viên
quan giữ kho là Ðốc Trưng Ðằng và Khâm Sai Lượng chống cự. Lượng bị giết, Ðằng
tẩu thoát. Vương cho chở hết lương thực về thành Quy Nhơn.
Thành
Quy Nhơn hạ xong, địa phận phủ Quy Nhơn từ nguồn chí bể thuộc về nhà Tây Sơn.
Tháo được ách tham quan Nguyễn Khắc Tuyên, người người đều hoan hỷ và đều
nguyện một lòng trung thành cùng Tây Sơn Vương.
Tây Sơn
Vương dùng thành Quy Nhơn làm căn bản. Ngọn cờ đào thêu kim tuyến bay phất phới
trên kỳ đài, hiên ngang rực rỡ.
Mọi việc
về quân sự dân sự đều được sắp xếp lại. Quân chia làm năm đồn Trung, Tiền, Hậu,
Tả, Hữu do các Ðô Ðốc chỉ huy. Lính cũ của chúa Nguyễn xin ở lại đều được sắp
xếp vào hàng ngũ theo cấp bậc đã có trước. Người nào muốn xin về thì cho về
không điều kiện.
Các quan
lại đầu hàng đều được giữ nguyên chức vụ, nhưng thuộc quyền điều khiển của các
Ðại Học Sĩ Tây Sơn.
Các
huyện lỵ Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn, mỗi huyện có một Ðề Ðốc và một học sĩ quản
lý.
Mặc dù
thành Quy Nhơn đã trở thành căn cứ chiến đấu, chiến khu Tây Sơn vẫn giữ y
nguyên và vẫn tiếp tục phát triển kinh tế và quân sự.
An ninh
và trật tự trong toàn phủ được giữ gìn chu đáo. Không một vụ lộn xộn xảy ra
trong lúc giao thừa. Sắp xếp xong mọi việc trọng yếu, Tây Sơn Vương chuẩn bị mở
rộng phạm vi Quy Nhơn về mặt Nam, mặt Bắc.
----------------
[17]Cửa
Giã là Quy Nhơn hiện thời, Huyền Khê là hiệu. Tên thật không rõ.
[18]
Nguồn An Tượng nằm trong dãy núi phía Nam của huyện Tuy Viễn. Nhưng Huy, Tứ
Linh là 2 kép hát, hát hay võ giỏi.
[19]Sau
này Bồng Sơn chia làm hai là Hoài Nhơn và Hoài Ân. Phù Ly chia làm hai là Phù
Cát ở trong Phù Mỹ ở ngoài. Tuy Viễn chia làm ba là Bình Khê ở trên và nằm trọn
trong ấp Tây Sơn cũ. An Nhơn ở giữa, Tuy Phước ở cuối và chạy xuống tới biển
Thị Nại.
[20] Ðại
Nam Chánh biên Liệt truyện và Khâm Ðịnh Việt sử Thông Giám Cương Mục có chép rõ
việc Nguyễn Nhạc dùng mưu vào thành làm nội ứng. Nhưng lại chép người từ ngoài
đánh vào là Nguyễn Thung, vào hạ thành lúc ban đêm. Nhưng theo bức thư của Linh
mục Jumilla de Diego đăng ở Bulletin de la Socíeté des Etudes indochinoises,
Nouvelle série, Tome XV, nos 3 et 4 - 1940 thì thành hạ lúc ban ngày và do đoàn
quân của Nguyễn Thung và Nhưng Huy điều khiển. Nhưng theo các phụ lão Bình Ðịnh
thì Nguyễn Thung là một nhà giàu không biết võ, lúc hạ thành Quy Nhơn đang lo
vận tải lương thực.
ANH HÙNG
NGHĨA SĨ
Vừa dựng
cờ khởi nghĩa, nhà Tây Sơn đã được nhiều anh hùng nghĩa sĩ xa gần phò tá. Bên
võ có:
- Võ Văn
Dũng, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu được anh em Tây Sơn Vương coi như cật ruột.
- Nguyễn
Văn Tuyết, Võ Ðình Tú, Nguyễn Văn Lộc, Lê Văn Hưng được coi như tay chân.
- Nhưng
Huy và Tứ Linh là hai tay lục lâm mới quy thuận, lòng dạ chưa lường được, nhưng
võ nghệ cao cường, nên vẫn được trọng dụng.
Tất cả
đều là tướng tài. Mỗi người có một môn sở trường vô địch.
* Võ Văn
Dũng người thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn (Bình Khê). Nhà giàu. Rước thầy về
học văn học võ, từ nhỏ đến lớn. Học văn thì tối. Còn học võ thì dạy đâu nhớ đó,
mỗi năm phải rước một thầy mới để thay.
Ðến 20
tuổi theo người buôn ngựa vào Phú Yên. Duyên may gặp được lão trượng họ Lương
giòng dõi Lương Văn Chánh ở Tuy Hòa, dạy cho môn trường kiếm và môn đoản đao,
dạy cách đánh trên đất, cách đánh ngựa, lúc dùng một món, lúc dùng cả đôi. Về
nhà Võ Văn Dũng tập luyện ngót năm năm trời mới thành thục. Nhớ lời thầy dặn
Học võ là để phòng thân và dẹp nỗi bất bình khi gặp, chớ không phải để đấu sức
khoe tài. Võ giấu kín nghề riêng. Cho nên ngoài Nguyễn Nhạc là bạn cố giao,
khách võ lâm không mấy ai biết Võ thuộc hàng cao thủ.
* Bùi
Thị Xuân con của Bùi Ðắc Chí gọi Bùi Ðắc Tuyên bằng chú, người thôn Xuân Hòa,
một thôn nằm về phía đông Phú Phong [21], vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp. Nữ
công khéo, chữ viết đẹp. Nhưng thích làm con trai, thích múa kiếm đi quyền.
Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn
được theo gương bà Triệu bà Trưng. Còn những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng
xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang cử án tề mi thì Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí.
Lúc nhỏ đi học, thường mặc áo con trai. Lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ
trong sách mà mặc. Cha mẹ chiều con, không nỡ lời trách cứ. Còn tiếng chê khen
của người ngoài thì Bùi Thị Xuân không bận tâm.
Năm 12
tuổi, Bùi Thị Xuân đến trường học chữ. Một hôm anh em giễu cợt ra cho nhau câu
đối:
Ngoài
trai trong gái, dưa cải dưa môn.
Có người
đối:
Ðứng
xuân ngồi thung, lá vông lá chóc
Rồi vỗ
tay cười ầm!
Bùi Thị
Xuân cả thẹn, vùng quyền đánh vào mặt hai người sanh sự, rồi trở về nhà. Từ ấy
bỏ học chữ. Ở
nhà
chuyên học võ.
Trước
kia không biết Bùi Thị Xuân học võ với ai và học vào lúc nào. Nhưng từ khi bỏ
học văn thì đêm đêm có một lão bà đến dạy. Dạy từ đầu hôm đến gà gáy lần thứ
nhất thì bà lão lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao. Suốt ba năm trời, trừ
những khi mưa gió, đêm nào bà lão cũng đến cũng đi đúng giờ giấc. Dạy quyền,
dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao thì cột hai bao cát nơi
chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ, rồi đổi bao to dần, cuối cùng mới nhảy chân
không. Còn nhảy xa thì ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi ngoài bụi, níu đọt
uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy. Ðêm học ngày
tập. Ðến
15 tuổi thì tài nghệ đã điêu luyện.
Một hôm
bà lão đến, cầm tay Bùi Thị Xuân khóc và nói:
- Ta có
duyên cùng con chỉ bấy nhiêu. Ðêm nay ta đến từ biệt con. Bùi Thị Xuân khóc
theo và nài nỉ xin cho biết tánh danh và quê quán. Bà lão đáp:
- Ta ở
gần đây. Trong ba hôm nữa con sẽ biết tin tức. Nhưng con phải giữ bí mật. Nói
rồi, vụt một cái biến mất.
Ba hôm
sau, ở thôn An Vinh [22] có một đám ma của một bà lão.
Bà lão
nhà nghèo, góa bụa, sống với vợ chồng người con gái làm nghề nông. Khi Bùi Thị
Xuân được tin, tìm
đến thì
việc chôn cất đã xong. Biết bà lão đây chính là thầy mình, nhưng nhớ lời thầy
dặn, chỉ điếu tang như một người thường. Về nhà mới đợi lúc khuya vắng, thiết
hương án nơi vườn dạy võ mà thành phục.
Nhưng
chỉ để tâm tang.
Từ ấy
một mình tự tập luyện.
Một hôm
Bùi Thị Xuân ở ngoài về, tình cờ thấy đứa ở gái dùng hai chiếc đũa bếp làm kiếm
múa. Múa đúng bài bản phép tắc. Bùi Thị Xuân giật mình! Té ra cô ả ngày ngày
thấy tiểu chủ múa kiếm, bắt chước múa theo, lâu thành quen tay. Ðợi cô ả múa
hết bài, Bùi Thị Xuân chạy đến ôm chầm, và khen Em giỏi, em giỏi lắm.
Từ ấy
cho cô ả dùng gươm thiệt mà tập. Lại rủ chị em trong xóm ai muốn học võ học
kiếm thì ban đêm rảnh việc đến nhà, Bùi Thị Xuân dạy cho. Không mấy lúc nhà họ
Bùi trở thành trường dạy võ. Ðệ tử từ năm ba người trong xóm vụt nhảy lên hàng
chục hàng vài ba chục... Một số người người tuy đã có con tay dắt tay bồng, mà
cũng đến xin học. Tài nghệ đã tinh mà cách đối xử cách dạy dỗ lại đứng đắn, nên
Bùi Thị Xuân được chị em kính yêu, quý trọng. Trong số đệ tử xuất sắc có bà Bùi
Thị Nhạn.
Một phú
ông họ Ðinh ở Lai Nghi, để đền ơn dạy con gái, tặng Bùi Thị Xuân một con ngựa
trắng toàn sắc mới tập kiều, vóc to, sức mạnh, chạy hay. Bùi Thị Xuân tập ngựa
trở thành một chiến mã, chạy suốt buổi không đổ mồ hôi[23].
Lại một
hôm, lên chợ Phú Phong, Bùi Thị Xuân thấy hai thớt voi đứng ăn chuối cây. Chung
quanh, người vây đông đúc, Bùi Thị Xuân chen đến gần. Voi lấy vòi cạ lên lưng,
lên vai, có vẻ trìu mến. Bùi Thị Xuân xin cỡi thử. Voi co một chân trước cho
Bùi Thị Xuân leo lên cổ, rồi đi tới đi lui theo sự điều khiển của Bùi. Hết thớt
này đến thớt kia, Bùi Thị Xuân nhận thấy điều khiển voi còn có phần dễ hơn điều
khiển ngựa. Từ ấy cái chí muốn làm bà Trưng bà Triệu lúc nhỏ trở lại nung nấu
tâm hồn. Bùi Thị Xuân lo tập luyện cho mình, cho chị em trong xóm, trong làng.
Tiếng đồn đi xa, chị em các làng khác các huyện khác cũng tìm đến xin thụ giáo.
Bùi Thị Xuân ước có tiền mua ngựa, voi cho chị em tập. Gia đình chỉ vào hàng
khá giả, nên dù thương chiều con, cũng không sao có thể làm vui lòng con.
Bùi Thị
Xuân càng lớn lên càng xinh đẹp. Khách rắp ranh bắn sẻ, ngấp nghé trông sao ở
gần có ở xa có, ngày nào cũng có người đến sân. Nhưng phần đông hễ thấy mặt Bùi
Thị Xuân thì run như run thần tử thấy long nhan, vì trong vẻ đẹp kiều diễm của
Bùi Thị Xuân lại có vẻ uy nghiêm. Ðôi mắt ngước lên nhìn như đôi lằn điện chiếu[24].
Những chàng trai nhát gan thì vừa đến sân đã lùi ra khỏi ngõ. Còn những chàng
trai có nhiều ít đởm lực thì bước vào thềm. Nhưng mới bị hỏi sơ vài câu về võ
về văn thì lưỡi tự nhiên cứng lại. Vì vậy cho đến hai mươi tuổi mà Bùi Thị Xuân
tay không chân rồi. Thời xưa, con gái mười bảy, mười tám tuổi mà chưa có chồng
thì cha mẹ rất lấy làm lo. Nhà họ Bùi cũng thế. Một hôm bà mẹ tỏ ý lo ngại cùng
con. Bùi Thị Xuân cười:
- Bà
Trưng có chồng, bà Triệu đâu có chồng. Nhưng ai dám cười chê ?
Ðể giúp
gia đình mà cũng để thết đãi chị em học trò, Bùi Thị Xuân thường đi săn heo săn
nai.
Một hôm
cùng vài cô học trò đi săn ở vùng núi Thuận Ninh[25], xảy gặp một tráng sĩ
đương đánh cùng một
mãnh hổ.
Tráng sĩ mình đầy máu me, sức đã sắp đuối. Hổ hung hăng chụp vấu. Bùi Thị Xuân
hét lên một tiếng, rút song kiếm xáp vào cứu tráng sĩ. Hổ bỏ tráng sĩ, đánh
cùng Bùi Thị Xuân. Hổ đã lanh, tránh khỏi những nhát kiếm hiểm độc, Bùi Thị
Xuân lại càng lanh hơn, tránh khỏi những cái vồ như bão như chớp, khiến mấy
phen hổ chụp hụt bị té nhào. Hổ cự địch với tráng sĩ đã lâu, sức đã mỏi, nên
động tác chậm dần. Cuối cùng bị một nhát kiếm nơi vai, gầm lên một tiếng bỏ
chạy.
Bùi Thị
Xuân trở lại băng bó cho tráng sĩ.
Hỏi tên.
Ðáp:
- Trần
Quang Diệu.
* Trần
Quang Diệu quê quán ở Ân Tín, huyện Hoài Ân[26]. Nhà giàu nhưng mồ côi sớm,
thân tự lập thân.
Lúc nhỏ,
Trần học văn học võ nhiều thầy. Lớn lên, một hôm vào dãy núi Kim Sơn[27] kiếm
thịt, tình cờ
thấy một
ông lão nằm giỡn cùng một con cọp tàu cau to lớn. Hổ trông thấy Trần thì nhảy đến
vồ. Trần tránh khỏi. Hổ vồ tiếp. Ông lão liền hét: Hổ dại nhé. Hổ liền ngoan
ngoãn trở lại cùng ông lão. Ông lão gọi Trần đến gần, hỏi:
- Người
là ai, chẳng biết nơi này có ổ cọp sao mà dám đưa thân tới?
Trần
thật thà kể hết gia cảnh và thân phận. Ðoạn lạy ông lão xin cho mình làm học
trò.
Ông lão
đáp:
- Âu
cũng là duyên.
Rồi bảo
Trần về thu xếp việc nhà rồi trở lên.
Trần về
giao nhà cửa ruộng nương cho người em thúc bá, và dặn:
- Ta đi
chuyến này, mau thì năm năm, lâu thì mười năm mới về. Ở nhà lo làm ăn tử tế.
Ðừng tìm hiểu ta đi
đâu và
đi có việc gì.
Lên Kim
Sơn, Trần được lão nhân đưa về nhà nuôi dạy.
Lão nhân
là ai ? Lão họ Diệp, tên là Ðình Tòng, người thôn Vĩnh Thạnh, huyện Tuy Viễn
(Bình Khê). Lúc
tráng
niên đã xuống tay giết chết tên tri huyện tham ô thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765).
Bị truy nã, cụ đem vợ con theo đường núi ra Kim Sơn lánh nạn. Trên hai mươi năm
trời, không ai biết tung tích. Vợ con không chịu nổi sơn lam chướng khí, lần
lượt qua đời hết, chỉ còn mình cụ sống với hùm beo. Gặp được họ Trần, cụ vô
cùng hoan hỷ.
Hai thầy
trò sống trong ba gian nhà tranh rộng rãi sạch sẽ. Có đủ đồ cần dùng cho một
gia đình nho nhỏ.
Lại có
đủ năm món vũ khí: đao, kiếm, côn, thương, cung, mỗi thứ mỗi cặp. Thứ nào cũng
được lau chùi bóng nhoáng. Nhưng Trần chỉ học môn đại đao.
Thầy hết
lòng dạy. Trò cố sức học. Khi luyện tập một mình, khi cùng thầy thao diễn, khi
nơi đất bằng, khi trên đá núi. Học tập cách đánh trên ngựa, cách đánh dưới
thuyền. Không có ngựa, phải lấy đá làm ngựa. Không có thuyền thì lấy những khúc
gỗ tròn làm thuyền.
Những
lúc không tập luyện thì lo trồng trỉa săn bắn để sống. Thầy trò sống một cách
thích thú, ung dung. Nhưng có một điều làm cho Trần áy náy, là con hổ của thầy
hễ thấy bóng Trần là bỏ chạy nơi khác. Biết ý nên khi thấy hổ ở bên cạnh thầy
thì Trần cũng khéo léo tránh mặt. Ban đầu còn thắc mắc, lâu ngày thành thói
quen.
Thấm
thoát đã năm năm qua!
Một hôm,
lão nhân trao đại đao mình thường dùng cho Trần và bảo:
- Ðây là
thanh Huỳnh Long bảo đao sản xuất từ đời Trần. Ta tặng con làm kỷ niệm.
Ðoạn sai
Trần thu tất cả các món vũ khí đem chôn nơi một cái hố phía sau nhà. Rồi bảo:
- Thầy
đã gần trăm tuổi rồi. Bấy lâu còn phải sống là vì đao pháp của thầy chưa có
người kế tập. Nay thầy
đã
truyền thụ cho con rồi, thì thầy chết được vui vẻ. Sau khi chôn cất thầy xong
con không nên quyến
luyến
nơi này. Con nên kíp xuống núi, đem sở học làm sở hành, để khỏi phí cuộc đời
anh tuấn. Và nếu có dịp đi ngang qua Vĩnh Thạnh thì hỏi thăm xem họ Diệp có còn
ai không. Nếu còn thì con sẽ cho biết qua tin tức của thầy. Nhưng đó không phải
là điều cần thiết.
Nói
xong, nằm xuống, lấy tay đánh nhẹ lên đỉnh đầu mà tắt nghỉ. Buồn thương khôn
tả! Trần về nhà, cửa nhà yên vui, hai hôm sau cắp đao băng núi đến Vĩnh Thạnh.
Nghe tin
Nguyễn Nhạc mở sòng bạc lớn ở Kiên Mỹ, Trần nghĩ bụng:
- Anh
hùng lúc chưa gặp thời cũng như khi lỡ vận, thường gởi mình vào những nơi yên
hoa, tửu bác, và kẻ có chí lớn thường dùng sòng bạc làm nơi kén bạn hiền.
Liền tìm
đến gặp Nhạc. Nhất kiến như cựu. Từ ấy hai bên thường qua lại với nhau.
Hôm Trần
gặp cọp ở Thuận Ninh là một trong những hôm Trần ở Hoài Ân vào Kiên Mỹ để gặp
gỡ Nguyễn Nhạc.
Hôm ấy
Trần không mang đao theo. Ðánh tay không với cọp từ sáng đến trưa, Trần bị đuối
sức nên mới bị thương. Nếu không gặp Bùi Thị Xuân thì e khó giữ toàn mạng [28].
Thoát
chết, Trần yêu cầu đưa về Kiên Mỹ, nhà Nguyễn Nhạc.
Nguyễn
Nhạc và Bùi Thị Xuân vốn đã từng nghe tiếng nhau, nhưng chưa có dịp làm quen.
Nhờ cọp theo
gió, gió
đưa duyên mà nên nghĩa vườn đào Bùi, Trần, Nguyễn.
Rồi để
cho nghĩa thêm nặng tình thêm thâm, Nguyễn Nhạc đứng làm mai và làm luôn chủ
hôn để Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân nên đôi nên lứa.
* Nguyễn
Văn Tuyết, người xã Nhơn Ân, huyện An Nhơn. Lúc nhỏ có sức mạnh, đánh lộn giỏi,
tụ tập kẻ vô lại ở chợ Gò Chàm và được tôn làm đầu nậu. Những kẻ mãi võ đến
chợ, phải đến ra mắt Tuyết rồi mới được hành nghề.
Một hôm,
một ông già, đầu râu như bông vải vừa bắn xong, cùng hai cô gái mặt mày đẹp đẽ,
đến chợ mãi võ. Ông già không theo lệ cũ, vừa đến liền khua chiêng khai diễn.
Cô gái nhỏ múa kiếm vun vút, khí lạnh rợn người. Người đến xem đông như kiến và
tiếng hoan hô dậy trời. Nguyễn Văn Tuyết hay tin đùng đùng nổi giận, liền kéo
mười tên thủ hạ, đến vấn tội ông già. Ông già, hỏi không thèm đáp, đánh không
thèm đỡ, đứng trơ trơ đó như một pho tượng trời trồng. Tuyết thất kinh bỏ về
nhà, tìm cách rửa hận. Do biết ông già và hai người con gái trọ nơi miếu thổ
địa ở sau chợ. Tuyết đợi đêm khuya, giắt kiếm, nhảy tường vào miếu. Bốn bề im
phăng phắc. Hai cô gái ngủ say. Ông già nằm ngáy như sấm. Tuyết khẽ lén đến
gần, rút kiếm đâm vào cổ. Kiếm gãy kêu rắc. Tuyết hết hồn bỏ chạy. Ông già níu
lại. Tuyết run sợ quỳ xuống chịu tội, ông già ngồi dậy nói:
- Nhà
ngươi tư chất thông minh lại có sức mạnh xuất chúng. Sao không lo rèn võ luyện
văn, để chờ cơ hội ra giúp nước, mà lại đắm mình trong vũng bùn nhơ ?
Tuyết
lạy, thề quyết tâm hối quá, và van xin theo làm môn đồ.
Ông già
họ Trần tên Kim Hùng là một võ sư người thôn Trường Ðịnh huyện Tuy Viễn. Võ
nghệ tuyệt luân, nhưng người con trai bị mất sớm, cụ buồn dắt hai người cháu
gái đi tìm người xứng đáng để làm người thừa kế. Gặp được Nguyễn Văn Tuyết,
Trần lão rất hài lòng. Tuyết theo Trần lão ra đi. Sau năm năm trở về, bọn đồ
đãng cũ đến mừng. Tuyết khuyên nên bỏ nghề cướp bóc cũ.
Một hôm
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát nam tuần đến Quy Nhơn. Nghe đồn chúa Nguyễn có con
tuấn mã tên Xích Kỳ, Tuyết đợi đêm khuya lẻn vào hành cung bắt ngựa rồi lên yên
chạy thẳng lên vùng An Khê. Trời vừa hửng sáng thì ngựa đã qua khỏi đèo Vĩnh
Viễn. Con Xích Kỳ là cống vật của Cao Miên[29], chúa rất yêu quý, ngựa bị mất
trộm, Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bị tội chết. Nhờ Trương Phúc Loan ra sức cứu
mới được miễn. Tuyên cho người đi tìm khắp Quy Nhơn, Phú Yên, Quảng Nghĩa,
nhưng không tìm ra bóng dáng. Khi xa giá chúa Nguyễn trở về Phú Xuân, thì trong
dinh Tuần phủ Quy Nhơn bỗng thấy trên vách mấy chữ lớn: Kẻ trộm ngựa Chúa là
Nguyễn Văn Tuyết ở Tuy Viễn. Tuyên xem thấy, hết hồn, dặn tả hữu đừng tiết lộ.
Việc được im.
Tuyết,
sau khi theo thầy học thành tài, trở về Tuy Viễn, những mong cứu đồng bào ra
khỏi ách chuyên chế của chúa Nguyễn, song không biết làm cách nào đành ôm ấp
mộng mà chờ người đồng khí đồng phương. Kịp nghe tin Tây Sơn Vương chiêu mộ hào
kiệt, Tuyết liền lên sơn trại đầu quân. Tại đây Tuyết gặp lại và kết hôn với
cùng cô cháu gái của Trần sư phụ là Trần Thị Lan[30].
* Nguyễn
Văn Lộc, lúc nhỏ, nhà nghèo ở chăn trâu cho một phú nông làng Kỳ Sơn. Học võ
lúc nào và với ai, thật không ai biết.
Một hôm
đi chơi về khuya, bị quân canh bắt trói vào cột đình. Lộc nhặt miếng sành cắt
dây trói trốn thoát. Quân canh hơn mười người đuổi theo đều bị đánh ngã không
đứng dậy nổi. Trời tối, Lộc chạy lạc vào cánh đồng lúa chín. Người giữ ruộng
ngờ là ăn trộm, hô hoán... Người chung quanh chạy đến vây bắt. Người mỗi lúc
mỗi đông, kẻ gậy người gộc... Lộc đánh ngã lớp này thì lớp khác xông đến...
Liệu không thể dùng quyền để giải vây được, Lộc bèn giựt cây gậy, đánh một đòn
chí tử mở đường máu thoát thân.
Từ ấy
người địa phương mới biết Nguyễn Văn Lộc là người võ nghệ siêu phàm.
Khi nghe
tin Tây Sơn Vương tụ tập quần anh, Lộc đến xin gia nhập, và được tiếp đãi vào
hàng thượng tân.
* Võ
Ðình Tú, hợp tác cùng Tây Sơn Vương từ buổi ban sơ. Tú con nhà giàu đất Phú
Phong, tính can đảm và hào phóng từ lúc bé. Ðược một nhà sư dạy võ nghệ và binh
pháp.
Nhà sư,
pháp danh là gì và ở đâu không ai biết thường đến ngồi trước ngõ họ Võ. Nhà sư
mặt mày xấu xí, ăn mặc rách rưới. Lũ nhỏ trong xóm hễ trông thấy nhà sư thì kéo
nhau đến chọc ghẹo. Tú lúc bấy giờ mới mười bốn tuổi, đối với nhà sư lại hết
sức lễ phép và thường bưng cơm nước hoặc bánh trái đến cúng dường. Nhà sư hoan
hỷ mà nhận.
Một hôm
trời nổi mưa gió lớn, mọi người không dám ra đường. Mưa suốt ngày, đêm đến mưa
tạnh gió ngừng, nhưng trong nhà không thấy Tú đâu cả. Cho người đi khắp nơi,
hết ngày này qua ngày khác, vẫn không tìm thấy tung tích, mà nhà sư từ hôm mưa
gió cũng không còn thấy tới lui trong thôn. Người nhà quyết đoán rằng Tú bị nhà
sư bắt, đành thắp nhang cầu Phật gia hộ cho Tú mà thôi.
Mười năm
sau Tú trở về; một thanh niên vạm vỡ, sức mạnh như hùm, nhưng tánh tình chất
phác, mới trông qua không ai biết rằng võ nghệ cao cường.
Về nhà,
đóng cửa xem sách, trừ Võ Văn Dũng, không giao du với ai, cũng không lấy vợ.
Võ Văn
Dũng giới thiệu cùng Tây Sơn Vương. Vương thân hành đến rước.
Sau khi
về cùng nhà Tây Sơn. Tú mới trổ tài. Chẳng những côn quyền xuất chúng, binh
pháp tinh thông mà còn có tài bắn cung, nhảy cao, cỡi ngựa. Thường ưa sử dụng
thiết côn, trăm người không địch. Bùi Thị Xuân tặng một lá cờ đào thêu bốn chữ
vàng Thiết côn vô địch. Nguyễn Huệ yêu thương như ruột thịt,
những
lúc rảnh rang thường cùng Tú bàn luận về võ nghệ và binh pháp.
* Lê Văn
Hưng, vốn là một tay cướp nức tiếng ở Kiên Dõng[31], ngọn roi[32] tuyệt diệu,
quất ra một đòn, đánh ngã trăm người. Tuy làm nghề ăn cướp, nhưng lấy của người
giàu chia cho người nghèo nên được dân địa phương rất yêu mến.
Hưng có
đến vài chục thủ hạ. Ông cấm thủ hạ không được quấy nhiễu đồng bào. Và Hưng
không bao giờ phạm đến tài sản người trong huyện. Những vụ đánh cướp do Hưng
cầm đầu chỉ xảy ra ở các nơi xa và vụ nào Hưng cũng cầm roi cản hậu. Ðánh người
chỉ đánh ngã chớ không đánh chết hoặc gây trọng thương. Nhưng có một lần - đó
là lần chót - cướp được một vố to ở Phú Yên. Khổ chủ là một tay giỏi võ, gia
nhân lại toàn là lực điền có đôi miếng trong mình. Ỷ thị cứ lăn xả vào đánh
Hưng. Hưng nương tay đã nhiều lần, nhưng đối phương không sợ cứ bám sát. Trời
đã gần sáng mà đối phương vẫn chưa chịu lui, Hưng đành phải dùng tận lực: khổ chủ
bị đánh hộc máu, chết tươi.
Các vụ
bị cướp suông nhà cầm quyền không để ý. Nhưng vụ cướp này gây án mạng, chánh
quyền không thể bỏ qua. Biết thủ phạm là Hưng, Tuần phủ Phú yên hợp lực cùng
Tuần phủ Quy Nhơn cho truy nã gắt... Hưng đành phải bỏ nhà vào rừng. Rồi nhân
Tây Sơn Vương mộ binh. Hưng bèn nhập ngũ. Nhờ tài nghệ, không bao lâu, từ cấp
lính lên cấp Ðội rồi lên lần đến cấp Tướng.
* Lý Văn
Bưu, còn có tên là Mưu, người làng Ðại Khoang huyện Phù Cát tỉnh Bình Ðịnh. Nổi
danh từ thời niên thiếu có biệt hiệu là Phi Vân Báo (con beo bay trong mây) có
tài vừa cưỡi ngựa phi nước đại vừa múa kiếm, phóng lao, bắn cung trăm phát trăm
trúng. Ngoài ra, ông còn có tài nuôi ngựa chiến. Nhờ địa thế vùng từ Ðại
Khoang, Thuận Truyền qua Thuận Ninh đất xấu, toàn gò đống, cây dại cùng chà là,
sim, ổi mọc chen chúc lẫn với cỏ dại rất thích hợp cho việc chăn nuôi, săn bắn,
nên gia đình ông chuyên nghề nuôi bò ngựa và săn bắn. Ðồng thời chuyên tập
luyện võ nghệ, nghiên cứu chiến trận.
Bà Bùi
Thị Xuân thường đến khu vực này săn bắn nên quen thân với ông Bưu và học ông
cách thức luyện tập ngựa chiến.
Tây Sơn
khởi nghĩa, ông Bưu được bà Xuân tiến cử, phụ trách chăn nuôi sản xuất tại nông
trại Tây Sơn
Hạ, kết
hợp tổ chức tập luyện đoàn chiến mã và rèn luyện nghĩa binh.
Nhờ tài
thao lược, ông được phong chức Ðô Ðốc cầm binh tham gia các trận đánh ở trong
Nam và giải phóng thành Thăng Long.
* Nhưng
Huy và Tứ Linh tên thật là gì và quê quán nơi đâu, không rõ. Làm nghề lục lâm,
sào huyệt tại nguồn An Tượng thuộc Tây Sơn Hạ, nhưng chỉ làm ăn từ Phú Yên trở
vô. Cả hai đều là tráng lực sĩ, võ thuật cao, song tánh hung bạo. Tây Sơn Vương
dùng với sự dè dặt [33].
Ðó là
bên võ. Còn bên văn thì có:
* Nguyễn
Thung, tuy là một phú nông song sử kinh đều thông thuộc. Tánh tình hào phóng, nhân
hậu, nên rất được lòng mọi người.
* Võ
Xuân Hoài, Trương Mỹ Ngọc, đức cao học rộng, hai ngôi sao về văn học đương thời
ở Bình Khê và An Nhơn.
* Cao
Tắc Tựu, người đẹp, học rộng lại tinh thông binh pháp. Ngày thường ít nói,
nhưng khi bàn việc lớn thì lời như nước chảy. Mọi người đều kính phục.
* La
Xuân Kiều, một văn sĩ có tiếng ở Phù Cát, giỏi Nôm, lại cưỡi ngựa giỏi, bắn
cung hay. Thông minh hoạt bát.
* Triệu
Ðình Tiệp, học rộng ưa thực tế, ghét phù hoa. Tánh thanh khiết nghiêm nghị. Rất
trọng chữ tín. Giỏi việc cai trị.
Ðây là
những nhân vật rường cột, ngoài ra còn rất nhiều người tài.
Nhưng
Tây Sơn Vương nhận thấy chưa đủ, nên trải lòng cầu hiền.
Hai viên
tướng Tàu là Tập Ðình ở Hội An (Quảng Nam), Lý Tài ở cửa bể Phù Ly (Quy Nhơn)
đem quân ứng theo Tây Sơn Vương.
Quân của
Tập đình gọi là Trung nghĩa quân.
Quân của
Lý Tài gọi là Hoa nghĩa quân.
Quân
trong hai đội hầu hết đều là người Tàu to lớn, mạnh bạo. Khi ra trận uống rượu
say, cởi trần, lấy giấy vàng bạc dán cùng mình, cất tiếng hét vang, sấn vào tấn
công kẻ địch. Tây Sơn Vương đón tiếp nồng hậu và cho vào đóng trong thành, chờ
dịp tấn công.
Kế đó là
một tráng sĩ xin vào yết kiến. Tây Sơn Vương cho mời vào thì là Phan Văn Lân,
người bạn học cũ.
Họ Phan
người ở miền ngoài, nhưng không rõ phủ, huyện nào. Võ giỏi, tự bảo rằng võ mình
được truyền từ Phạm Ngũ Lão đời Trần, thiên hạ vô địch. Nhưng khi vào An Thái
yết kiến Trương Văn Hiến, thì liền lạy xin làm đệ tử. Trước kia họ Phan tự thị
tự đắc bao nhiêu thì sau khi thọ giáo cùng Trương công lại khiêm tốn bấy nhiêu.
Gặp được
bạn cũ, Tây Sơn Vương hết sức vui mừng, mời họ Phan ở ngay trong cung, Phan
không chịu xin ra nơi các dinh thự cùng chư tướng.
Một hôm
có một nhà sư, hình thù cổ quái, nghe tiếng tăm của Phan Văn Lân, bèn đến xin
gặp, Phan tránh mặt. Nhưng quân sĩ thúc giục, Phan giả lính theo thuộc hạ ra
xem. Nhưng nhà sư nhìn biết, thách Phan đấu võ. Nhận thấy nhà sư không phải hâm
mộ nghệ thuật muốn làm bạn bốn phương, mà là một khách giang hồ, bụng đầy ác ý.
Phan quyết định trừ khử để tránh mối họa về sau.
Lúc ấy
nhà sư đương ngồi uống rượu nơi tầng hai một tửu lâu ở trước thành. Phan xủ tay
áo ngồi, thách nhà sư ra tay trước. Bị chạm lòng tự ái, nhà sư nổi giận thình
lình đá Phan một ngón tối độc. Phan chỉ nghiêng mình, lấy tay hất nhà sư rớt
xuống lầu vỡ sọ.
Khi Phan
mới đến, ngoài Tây Sơn Vương, các tướng thấy Phan hiền lành, ai cũng tưởng là
kẻ tầm thường.
Khi Phan
đánh chết nhà sư, mọi người mới biết có tài siêu việt. Tướng sĩ yêu cầu Phan
cho xem tài nghệ. Phan nhất định từ chối. Nài nỉ quá, Phan bảo rinh ba tảng đá
dày chồng lên nhau, rồi đưa sống bàn tay phải chém xuống. Ba tảng đá đều vỡ làm
đôi như bị lưỡi gươm thần chém đứt. Ai nấy đều gọi là người thần.
Nhà sư
bị Phan Văn Lân hất rớt xuống tửu lâu là một người Trung Quốc, thuộc phái Thiếu
Lâm.
Ở chợ Gò
Chàm, phía bắc thành Quy Nhơn, còn có một nhà sư nữa cũng người Tàu thường đến
biểu dương võ nghệ, thường cởi áo ngồi ngay ngắn, cho người dùng gươm đao chém
vào đầu mình tay chân. Chém mạnh mấy cũng không hề gì. Tây Sơn Vương được tin,
sợ nhà sư gây biến, muốn trừ, nhưng không thể giết được. Võ Văn Dũng lãnh trách
nhiệm trừ nhà sư.
Võ đến
chợ Gò Chàm gặp nhà sư, dùng lễ khoản đãi. Khi đã nên thân, Võ hỏi:
- Hòa
thượng là người đã đạt đạo, không biết có khi nào bị lạc thú của trần gian cám
dỗ chăng? Nhà sư đáp:
- Lòng
ta như tro lạnh không có gì có thể cám dỗ.
Võ cười:
- Lời
nói không đáng tin. Có thể cho phép được thí nghiệm? Nhà sư bằng lòng. Võ thuê
mươi tên thanh niên
vô lại
và mươi gái thanh lâu xinh đẹp trải chiếu làm việc dâm dục trước mặt nhà sư.
Ban đầu nhà sư cười
nói như
thường. Nhưng hồi lâu, bỗng nhắm mắt không muốn nhìn nữa. Xuất kỳ bất ý, Võ rút
kiếm chém một nhát, đầu nhà sư rơi liền tay. Võ nói:
- Nhà sư
không có thuật gì lạ. Dày công luyện khí làm cho thân thể cứng rắn. Tâm định
thì khí tụ, tâm động thì khí tan. Lúc ban đầu tâm nhà sư không động nên nhà sư
dám nhìn tự do. Ðến khi nhà sư nhắm mắt thì biết tâm nhà sư đã động rồi. Cho
nên chém xuống, không thể kháng cự được.
Ai nấy
đều phục Võ là cao kiến. Tây Sơn Vương rất hài lòng.
Ít lâu
sau, Trần Quang Diệu đưa một tráng sĩ về tiến cử cùng Tây Sơn Vương.
Tráng sĩ
đó là Võ Văn Nhậm.Võ Văn Nhậm người Quảng Nam, sức mạnh hơn người, đánh giặc
giỏi, tánh phóng khoáng không chịu sự ràng buộc. Vốn là tướng của quan trấn thủ
Quảng Nam, vì không chịu tuân theo luật pháp, bị tội, phải trốn vào Quy Nhơn.
Nhậm đến
Phù Ly, nghe người đi đường cho biết có tên cường hào cưỡng đoạt con gái chưa
chồng. Nhậm giận, tuốt gươm giết tên thổ hào, rồi định đến cửa quan chịu tội.
Bỗng một tráng sĩ đến vỗ vai:
- Tôi
xem anh chí khí tài lực đủ định loạn thiên hạ dễ dàng. Giết một con sâu dân thì
có chi gọi là tội mà toan bỏ cái thiên tài hữu dụng? Sao không đến Tây Sơn
Vương để chung lo việc lớn. Tôi, Trần Quang Diệu, xin tiến cử anh lên nhà vua.
Võ Văn Nhậm hớn hở theo Trần Quang Diệu.
Tây Sơn
Vương trọng dụng và sau này gả con gái là Thọ Hương công chúa cho[34].
Tiếng
chiêu hiền đãi sĩ của Tây Sơn Vương mỗi ngày mỗi bay xa. Các anh hùng chí sĩ
lần lượt đến giúp mỗi ngày mỗi đông.
Ngày kia
có người tới xin được góp sức góp tài, xưng danh là Ngô Văn Sở. Ngô Văn Sở
người làng Bình Thạnh (Tuy Phước) có sức mạnh, giỏi võ nghệ, thông binh pháp.
Cùng với Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng kết bạn thân [35].
Ðó là
những bậc kỳ tài. Còn nhiều tay võ giỏi khác ứng mộ tòng quân sau lập nhiều
công lớn.
Các bậc
văn nhân đến phò tá Tây Sơn Vương cũng đông:
* Mã
Vĩnh Thắng ở An Nhơn, nổi tiếng về thơ và từ.
* Lưu
quốc Hưng ở Phú Yên, có tiếng là cương chính.
* Huỳnh
Văn Thuận, người Quảng Nghĩa, học rộng, nổi tiếng hay chữ từ lúc nhỏ, có tài
thuyết phục nhân
tâm.
* Võ Văn
Cao, người ở dưới chân núi Cù Mông thuộc Phú Yên. Học rộng, giỏi kinh dịch,
ghét đạo Phật đạo Lão, không ưa thơ văn phù phiếm. Chuộng thực tế. Tánh nghiêm
nghị, cương trực.
* Anh em
Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn Danh người gốc huyện Hùng Nguyên tỉnh Nghệ An, tổ
tiên bị chúa Nguyễn bắt vào khai phá khu vực phía đông chân Hòn Lớn thuộc xã
Ðại Phong, huyện Mộ Ðức, tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhà nghèo nhưng thông minh hiếu
học, vào An Thái thọ giáo Trương Văn Hiến, bạn đồng môn cùng anh em Nhạc, Huệ.
Ngoài ra
dưới cờ nữ tướng Bùi Thị Xuân có bốn phó nữ tướng trẻ đẹp tài cao: Bùi Thị
Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung, Huỳnh Thị Cúc.
* Bùi
Thị Nhạn là con gái út Bùi Ðắc Lương, một cự phú thôn Xuân Hòa huyện Tuy Viễn.
Ông Lương sanh ba trai là Bùi Ðắc Chí, Bùi Ðắc Trung, Bùi Ðắc Tuyên và hai gái
là Bùi Thị Loan, Bùi Thị Nhạn. Bùi Thị Xuân là con Bùi Ðắc Chí gọi Bùi Thị Nhạn
bằng cô, nhưng Bùi nữ tướng lớn tuổi hơn và đào tạo Bùi Thị Nhạn thành một nữ
kiếm khách.
* Trần
Thị Lan là em ruột Trần Thị Huệ phu nhân Nguyễn Nhạc, con Trần Kim Báu, cháu võ
sư Trần Kim Hùng người thôn trường Ðịnh huyện Tuy Viễn. Khi Lan lên ba thì bà
Báu qua đời, ông buồn gởi hai con cho ông bà nội Trần Kim Hùng, một thân dấn
bước giang hồ. Lớn lên, Thị Huệ theo bà nội học nữ công, Thị Lan theo ông nội
học võ nghệ, có tài về kiếm thuật và luyện thân lanh lẹ như chim én nên tự hiệu
là Ngọc Yến. Võ sư rất yêu quý, đi đâu cũng đem theo. Trần Kim Báu vào đến Bình
Khương (tức Khánh Hòa sau này) mở trường dạy võ tại huyện Quảng Phước (tức Vạn
Ninh) cưới vợ địa phương sanh được một trai tên là Trần Kim Sư. Khi lên hai thì
cha mất. Kim Sư sống cùng với mẹ. Võ sư Kim Hùng được tin con mất đem hai cháu
vào thọ tang. Lúc ấy Thị Huệ đã mười bảy, Thị Lan lên mười hai. Tang lễ xong
lão sư đem hai cháu gái về xứ. Lúc về cũng như lúc đi, lão sư bày việc mãi võ
để vừa nghỉ chân vừa kiếm tiền lệ phí.
Về đến
Gò Chàm lão sư gặp Nguyễn Văn Tuyết. Biết Tuyết là người có tài, lão sư về nhà
giao hai cháu cho vợ rồi cùng Tuyết đi vân du.
Sau đó
Trần Thị Huệ kết duyên cùng Nguyễn Nhạc. Nghe tiếng Bùi Thị Xuân võ nghệ cao
cường, Thị Lan theo chị lên kết bạn cùng Bùi nữ tướng.
* Nguyễn
Thị Dung và Bùi Thị Cúc là người Quảng Ngãi.
Bà Dung
là em của Nguyễn Văn Xuân người làng Lạc Phổ huyện Mộ Ðức. Bà Cúc là em Huỳnh
Văn Thuận người làng Ðông Quang huyện Sơn Tịnh. Hai họ là chỗ quen thân. Ông
Xuân và ông Thuận có tài về văn học. Bà Dung và bà Cúc có tài về kiếm thuật.
Nghe tiếng Trương Văn Hiến, bốn anh em rủ nhau vào xin thọ giáo. Trương công
không thu nạp nữ đồ đệ. Ông Xuân và ông Thuận ở lại An Thái học văn. Hai cô gái
được Trương công giới thiệu lên Xuân Hòa thụ nghiệp cùng Bùi Thị Xuân.
Bà Dung
và bà Cúc tuổi tác cùng tài nghệ tương đương với bà Nhạn bà Lan. Cả bốn đều tôn
Bùi nữ tướng làm thầy và coi nhau như ruột thịt. Người đương thời gọi là Tây
Sơn Ngũ Phụng thư.
Ngũ
phụng đã cùng nhau tổ chức, huấn luyện và điều khiển một đoàn tượng binh gồm
một trăm thớt voi và một đoàn nữ binh trên hai ngàn người cho nhà Tây Sơn.
Trong
Ngũ Phụng thư, chỉ Bùi Thị Xuân đã có chồng là Trần Quang Diệu, trước khi kết
bạn cùng các nữ anh hùng. Còn các người khác, kẻ trước người sau lần lượt theo
chồng sau khi đã lập nên danh nghiệp.
Bùi Thị
Nhạn kết duyên cùng Nguyễn Huệ sau khi Phạm Thị Liên qua đời.
Trần Thị
Lan kết duyên cùng Nguyễn Văn Tuyết khi Tuyết đến cùng Nguyễn Nhạc.
Nguyễn
Thị Dung kết duyên cùng Trương Ðăng Ðồ là người Mỹ Khê huyện Sơn Tịnh tỉnh
Quảng Ngãi, một danh tướng của Tây Sơn.
Riêng
chỉ có Huỳnh Thị Cúc không chịu xuất giá, suốt đời theo phò tá Bùi Thị Xuân.
Những
trang tài tuấn văn võ cùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ gây dựng Nhà Tây Sơn ngoài
những người đã liệt kê trên kia còn nhiều người nữa song có công đắp móng xây
nên khi chưa dựng cờ khởi nghĩa thì có:
- Bên võ
có bảy người là: Võ Văn Dũng, Võ Ðình Tú, Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Tuyết, Lý
Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc, danh truyền Tây Sơn Thất Hổ tướng.
- Bên
văn có sáu người là Võ Xuân Hoài, Nguyễn Thung, Trương Mỹ Ngọc, La Xuân Kiều,
Triệu Ðình Thiệp, Cao Tắc Tựu, người đương thời gọi là Lục Kỳ sĩ. Thất hổ
tướng, Lục kỳ sĩ và Ngũ phụng thư hợp thành Tây Sơn thập bát cơ thạch, nghĩa là
mười tám tảng đá làm nền móng của Nhà Tây Sơn.
--------
[21] Hai
thôn Phú Phong, Xuân Hòa, sau này ghép thành xã Bình Phú. Phú Phong Xuân Hòa ở
phía Nam, Kiên Mỹ, Thuận Nghĩa, Dõng Hòa ở phía Bắc, cách nhau con sông Côn.
[22]
Theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hòa thì đó là bà cao tổ của ông Hương mục Ngạc, một
võ sư trứ danh ở An Vinh, thời Pháp thuộc.
[23] Con
ngựa này lúc bà ra phò Vua Quang Trung ở Phú Xuân vẫn còn, và bà thường cỡi ra
mặt trận. Cho nên cụ Nghè Trì tặng bà câu: Bạch mã trì khu cổ chiến trường,
Tướng quan bách chiến thanh uy dương.
[24]
Vịnh Bùi Thị Xuân cụ Nghè Trì có câu: Hoàng hôn thành dốc bi già động, Hữu nhân
diệu tỉ phù dung kiều.
[25]
Thuận Ninh ở trong vùng Tây Sơn ở phía bắc sông Côn, thuộc Bình Khê.
[26] Họ
Trần Quang ở Nghĩa Bình có hai nhánh, một nhánh ở Ân Tín, Hoài Ân, một nhánh ở
Tư Sơn, Ðức phổ. Hai nhánh trước đây thường gặp nhau trong dịp chạp mả tổ ở Ân
Tín. Trần Quang Diệu thuộc nhánh Ân Tín, hiện còn mả tổ và từ đường. Mả tổ có
bia đề: Trần gia tổ sơn.
[27] Kim
Sơn ở Hoài Ân. Ở Kim Sơn có đường núi đi vào Bình Khê. Quê hương nhà anh hùng
Tăng Bạt Hổ.
[28]
Chuyện ông cụ họ Diệp ở Kim Sơn do ông bạn Diệp Ðình Chi kể lại. Ông cụ là ông
tổ cao đời của họ Diệp.
Ông Diệp
Ðình Chi, thời Pháp thuộc làm trợ giáo ở Ðà Lạt, thời kháng chiến chống Pháp về
ở Vĩnh Thạnh. Sau Hiệp định Giơnevơ, trở lại Ðà Lạt, qua đời trước ngày thống
nhất. Ở Hoài Ân vào Bình Khê có đường núi, qua lại rất gần nhưng khó đi. Kim
Sơn là một dãy núi nằm trong địa hạt Hoài Ân. Thế rất hiểm, khí rất hùng. Có
hai ngọn cao nhất là hòn Tổng Dinh và hòn Trà Vinh. Núi không cao lắm (dưới 500
thước) nhưng chung quanh có núi khe làm trì. Lại có nhiều thú dữ nên ít ai dám
đến.
[29] Cao
Miên là Cao Man, tên do Minh Mạng gọi, trước kia gọi là Cam Bộc Trì nay gọi là
Campuchia.
[30] Bà
này sau làm tỳ tướng bà Bùi Thị Xuân.
[31]
Kiên Dõng thuộc huyện Tuy Viễn ở vùng Tây Sơn Hạ tức Bình Khê. Ở cách Kiên Mỹ
một thôn phía đông là thôn Thuận Nghĩa.
[32] Roi
tức trường côn. Thuật đánh roi của ông Hưng truyền đến Hồ Ngạnh ở Thuận Truyền
(thôn ở phía tây bắc Kiên Dõng) là tám đời.
[33] Có
người bảo Nhưng Huy và Tứ Linh là hai kép hát hát hay võ giỏi. Thủ hạ gồm có
vài ba người. Xét nơi nào có thể làm ăn được thì tổ chức một vài đêm hát bội để
ai nấy lo coi hát bỏ việc tuần phòng, rồi mới ra tay hốt của. (Nhưng là tiếng
gọi người dầm đầu gánh hát về mặt nghệ thuật. Tư hay tứ là thứ Bốn).
[34] Hoa
Bằng trong Quang Trung, chép rằng Nhậm là tướng nhà Nguyễn bị bắt năm Bính Ngọ
1786 trong trận Nguyễn Huệ đánh Gia Ðịnh. Nhưng không có trận đánh Gia Ðịnh nào
vào năm Bính Ngọ. Trên đây, chép theo truyền thuyết và theo Tây Sơn lương tướng
của Nguyễn Trọng Trì;
[35] Ngô
Văn Sở gốc ở Thanh Hóa vào lập nghiệp ở Bình Thạnh đã lâu đời. Hiện nay còn con
cháu là Ngô Xuân Liêm.
TÂY SƠN ĐÁNH NHÀ NGUYỄN Ở MẶT BẮC
Trong
khi Tây Sơn Vương lo củng cố nội bộ, chiêu mộ hào kiệt, đồn lương tích thảo,
thì trấn thủ Quảng nam sai quân vào đánh.
Ðất nhà
Nguyễn lúc bấy giờ chạy từ Hoành Sơn đến Hà Tiên, Quy Nhơn nằm khoảng giữa,
phía nam giáp Phú Yên, có dãy núi Cù Mông làm ranh giới, phía bắc giáp Quảng
Nghĩa, có dãy Bình Ðê làm ranh giới. Nam cũng như Bắc đều có đèo mở lối ra vào,
nhưng địa thế rất hiểm trở. Ðược tin quân nhà Nguyễn kéo vào
Quy
Nhơn, Tây Sơn Vương giao thành và mặt nam Quy Nhơn cho Trần Quang Diệu và các
tướng tâm phúc.
Còn mình
và Tập Ðình, Lý Tài cử đại binh ra chống cự quân nhà Nguyễn. Trần Quang Diệu
tiến cử tỳ tướng Nguyễn văn Xuân theo phò tá.
Quân nhà
Nguyễn do phò mã Nhất thống lãnh. Phò mã chia quân làm hai đạo, theo hai đường
thủy, bộ. Ðạo bộ binh do chưởng cơ Vệ chỉ huy, chưa qua khỏi Bình Ðê đã bị quân
Tập Ðình và Lý Tài chận đánh. Trông thấy quân Trung Nghĩa và Hoài Nghĩa cao lớn
dữ tợn, quân chưởng cơ Vệ khiếp sợ, chưa đánh đã thua chạy, bị truy kích giết
sạch. Chưởng cơ Vệ không chống nổi Lý, Tập, bị tử trận. Còn đạo thủy quân đi
đường bể làm sách ứng, thuyền bị dạt vào doi cát tại cửa sông Trà Khúc, không
tiến được.
Vừa lúc
ấy gặp quân Tây Sơn Vương kéo ra đánh tan hết chiến thuyền, bắt sống được 50
thủy binh và lấy được 10 khẩu đại bác. Phò mã Nhất đại bại rút tàn quân chạy về
Quảng Nam bị quân Tây Sơn chặn đánh, bỏ lại bốn thớt voi và nhiều xe lương cùng
vũ khí.
Tây Sơn
Vương toàn thắng, đắp một lũy cát tại Bến Ván (Bình Sơn, Quảng Ngãi) giao cho
Nguyễn Văn Xuân đóng giữ, rồi đem chiến lợi phẩm trở về Quy Nhơn.
Ðó là
vào trung tuần tháng 11 năm Quý Tỵ (1773).
Qua
tháng chạp, nhà Nguyễn lại cử hai đạo binh vào đánh Tây Sơn Vương.
- Một
đạo do Tiết chế Tôn Thất Hương điều khiển kéo thẳng vào Bồng Sơn.
- Một
đạo do Tổng nhung Thành và Tán lý Ðản chỉ huy, kéo đánh lũy Bến Ván. Quân số
của binh nhà
Nguyễn
quá đông, Nguyễn Văn Xuân không chống nổi, phải bỏ bến Ván rút lên núi, theo
thượng đạo về
Quy
Nhơn. Thành và Ðản thừa thắng kéo quân vào Bồng Sơn hiệp cùng quân Tôn Thất
Hương chiếm núi Bích Kê.
Tây Sơn
Vương hay tin sai Tập Ðình và Lý Tài theo đường rừng, đến Trà Câu ở Quảng
Nghĩa, để chận đường về của quân Nguyễn, và Nguyễn Văn Xuân đem quân yếm phục
phía nam núi Mồng Gà để làm sách ứng. Còn mình đem quân ra thẳng Bích Kê.
Tại Bích
Kê, quân Tây Sơn và quân nhà Nguyễn kịch chiến. Tôn Thất Hương bị tử trận. Quân
nhà Nguyễn bị giết gần hết. Thành và Ðản rút tàn binh chạy lui, đến Trà Câu bị
phục binh Tây Sơn giết chết.
Quân Tây
Sơn cướp thu được rất nhiều voi ngựa và quân lương quân dụng.
Tây Sơn
Vương kéo quân chiếm phủ lỵ Quảng Nghĩa, lưu Nguyễn Văn Xuân lại giữ thành,
cùng Tập Ðình, Lý Tài kéo đại binh đánh thẳng vào Quảng Nam.
Quân của
Vương đóng tại sông Cối Giang, quân Lý Tài đóng tại sông Thế Giang huyện Duy
Xuyên. Quân Tập Ðình đóng tại bãi cát gần Kim Sơn thuộc Hà Ðông để ứng
viện[36].
Ðầu năm
Giáp Ngọ (1774), quân nhà Nguyễn do Thống binh Huy và Hiến quận công Nguyễn Cửu
Dật chỉ huy, kéo vào đánh. Trận đầu bị quân Tây Sơn Vương đánh thua, quân nhà
Nguyễn dồn nơi phố Mỹ Thị thuộc Hòa Vang. Hai bên thường ngày kéo quân giáp
trận kịch liệt, không phân thắng bại[37].
Ðể làm
kế cửu trì, Tây Sơn Vương rút quân về Thế Giang, đóng nơi Thiên Lộc thuộc Duy
Xuyên, trước sông sau sông cứ hiểm làm đồn lũy.
Thiên
Lộc là một gò cát lớn dài hơn 30 dặm, thuộc xã Văn Ly. Hai nguồn sông phát xuất
từ Kim Sơn và Ngọc Sơn hiệp lưu tại phường An Lâm huyện Hòa Nam, Hòa Vang thành
sông Trừng. Sông Trừng bị gò cát Thiên Lộc chia làm hai nhánh Bắc Nam. Nhánh
phía nam chạy đến xã Thi Lai huyện Duy Xuyên tách ra làm hai nhánh. Một chảy
xuống đông làm dòng sông Dưỡng Châu, qua xã Mỹ Xuyên tục gọi là sông Kẻ thế,
tức là Thế Giang, một nhánh phía bắc chảy qua xã Châu Nghê huyện Duyên Phước
làm sông Câu Nghê. Sông Câu Nghê chảy xuống Ðông An gọi là sông Chợ Cối, tức là
Cối Giang. Cối Giang và Thế Giang đều chảy vào cửa biển Ðại Chiêm.
Thiên
Lộc nằm giữa nhiều nhánh sông sâu, thế rất hiểm. Quân nhà Nguyễn không đánh
nổi. Nguyễn Cửu Dật bàn mưu cùng Thống binh Huy án binh bất động. Rồi cho đóng
chiến thuyền, đặt đại bác, lén theo đường sông, lấy ván chận nước để đưa thuyền
xuống, xuất kỳ bất ý, đánh úp đồn Thiên Lộc. Ðồn Thiên Lộc bị vỡ. Binh của Lý
Tài ở Thế Giang cũng bị đánh úp, binh của Tập Ðình đến cứu không kịp. Quân Tây
Sơn Vương bị đại bại rút về án cứ Bến Ván và Châu Ổ (Quảng Ngãi).
Tây Sơn
Vương chỉnh đốn lại đội ngũ, rồi theo thượng đạo đi tắt ra Ginh Giang cùng Tập
Ðình và Lý Tài.
Quân nhà
Nguyễn đóng tại Phú Hòa thuộc huyện Hòa Vang, nương thế sông làm hiểm cứ. Tây
Sơn Vương dùng chiến thuyền từ Ginh Giang đánh xuống. Nguyễn Cửu Dật dùng kế sa
nang, lấy bao đựng cát ngăn nước sông, rồi giả thua chạy, đợi quân Tây Sơn qua
khỏi, vớt bao cát lên, nước ào xuống, thuyền Tây Sơn bị đắm khá nhiều. Bị thua
quân Cửu Dật, Tây Sơn Vương kéo binh đến Mỹ Thị đánh Thống binh Huy. Huy bị
thua kéo tàn binh chạy thoát. Tây Sơn Vương đóng binh tại Mỹ Thị, sai Tập Ðình
đóng ở Cối Giang, và Lý Tài đóng ở Thế Giang để làm thế ỷ giốc.
Qua mùa
thu (Giáp Ngọ 1774), Hoàng Ngũ Phúc vâng lệnh chúa Trịnh ở Ðàng ngoài đem quân
vào đánh lấy Phú Xuân. Chúa Nguyễn là Ðịnh vương Nguyễn Phúc Thuần cùng đình
thần chạy vào Quảng Nam, đóng ở Câu Ðể thuộc Hòa Vang.
Quân Tây
Sơn Vương kéo đến đánh. Chúa Nguyễn chống không nổi, chạy lên đóng ở Trà Tế Sơn
thuộc huyện Quế Sơn, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm Ðông Cung Thái Tử,
để ở lại giữ Quảng Nam, rồi cùng Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Gia
Ðịnh. Ðông Cung bị quân Tây Sơn đánh, chạy đến Hà Dục bị Tập Ðình và Lý Tài bắt
được đem về Hội An.
Tiếp đó
quân Hoàng Ngũ Phúc vượt Hải Vân vào chiếm đồn Trung Sơn và Câu Ðể. Tây Sơn
Vương cùng Tập Ðình, Lý Tài kéo đại binh ra đánh. Tập Ðình đi tiên phong, bị
quân Ngũ Phúc đánh thua, sợ tội bỏ chạy về Trung Quốc.
Tây Sơn
Vương nhận thấy quân Hoàng Ngũ Phúc đã đông lại mạnh, mình chưa đủ sức chống
cự, bèn cùng Lý Tài rút hết quân về Quy Nhơn, đem hoàng tử Dương theo. Và làm
kế hoãn binh, cho người mang thư và vàng lụa ra dâng cho Hoàng Ngũ Phúc, xin
nạp đất Quy Nhơn và Quảng Nghĩa, cùng xin làm tiền khu đi đánh họ Nguyễn. Hoàng
Ngũ Phúc muốn lợi dụng Nguyễn Nhạc để đánh đất Gia Ðịnh, bèn làm biểu xin chúa
Trịnh cho
Vương là
Tiên phong Tướng quân Tây Sơn Hiệu Trưởng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn
kiếm vào Quy Nhơn ban cho Tây Sơn Vương.
Hoàng
Ngũ Phúc đóng binh ở Châu Ổ, cuối năm Ất Mùi (1775) rút về Thuận Hóa. Tây Sơn
Vương không lo mặt Bắc nữa, chuẩn bị đánh lấy mặt Nam.
------------------
[36] Ba
nơi sông Cối, sông Thế, bãi Kim Sơn ở cách nhau không xa.
[37] Mỹ
Thị tức Mỹ Khê ở trong phạm vi Ðà Nẵng hiện tại.
ÐÁNH VỚI
NHÀ NGUYỄN Ở MẶT NAM
Ði đánh
mặt Bắc, Tây Sơn Vương không quên mặt Nam. Vương cử Nguyễn Lữ, Nguyễn Văn Lộc
và Võ Văn Cao đi vào Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận để xem xét tình hình, liên
lạc cùng Vua Thủy Xá (Pơtau Ea),
Hóa Xá
(Pơtau Apui), và vận động thân hào nhân sĩ địa phương hưởng ứng cuộc nam chinh.
Phái
đoàn ra đi mùa thu năm Quý Tỵ (1773).
Thủy Xá
và Hỏa Xá là con cháu của Vua Chiêm Thành, chiếm cứ sơn phần Phú Yên Diên Khánh
và vùng Ðăk Lăk, Ban Mê Thuột, không thần phục chúa Nguyễn, thường kéo người
Thượng xuống quấy phá xóm làng Việt Nam. Ðược nhà Nguyễn phong cho chức Chưởng
Cơ, không nhận. Tây Sơn Vương hứa phục hồi danh vị Phiên Vương khi bình định
xong miền Nam, hai Vua hoan nghênh phái đoàn và hứa sẽ giúp đỡ quân Nam tiến.
Mọi tầng
lớp nhân dân Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận đều chán ghét quan quân nhà
Nguyễn, ai nấy đều mong có cuộc đổi thay.
Còn quan
quân nhà Nguyễn thì chỉ lo bóc lột nhân dân, không nghĩ gì đến việc an nguy của
quốc gia, cho nên việc phòng thủ rất lỏng lẻo. Phái đoàn về trình tâu rõ tình
hình, Vương liền cử Ngô Văn Sở làm Chinh Nam Ðại Tướng Quân, cùng Nguyễn Văn
Lộc, Lê Văn Hưng vào đánh chiếm ba phủ Phú, Diên, Bình.
Xuất
quân mùa đông năm Quý Tỵ (1773).
Mặt tây
được hai Vua Thủy, Hỏa yểm hộ, binh Tây Sơn cứ thẳng tiến vào Nam. Ði tới đâu
được hoanh nghênh tới đó, và lấy ba thành dễ dàng như trở bàn tay. Tướng nhà
Nguyễn là Nguyễn Văn Hiền bị giết, và Nguyễn Khoa Kiên bị bắt sống.
Ðại
thắng, Ngô Văn Sở kéo binh về, để Nguyễn Văn Lộc và Lê Văn Hưng ở lại trấn giữ.
Trong
khi Ngô, Nguyễn, Lê đi chinh Nam thì ở Quy Nhơn, Nhưng Huy và Tứ Linh làm phản.
Nguyên
Nhưng Huy và Tứ Linh nghe Tây Sơn Vương chuẩn bị Nam chinh, liền đến xin xung
phong. Nghĩ rằng Huy, Linh trước kia đã từng quấy rối những vùng miền trong, để
cho họ đem quân vào, sợ đồng bào sanh biến, nên Vương không chấp nhận lời thỉnh
cầu. Hai người bất mãn, nhân dịp đem quân đi tuần phòng ban đêm, bỏ trốn về
nguồn An Tượng, tập hợp đám côn đồ, kéo xuống đánh phá vùng Trường Úc. Trần
Quang Diệu đem quân đánh dẹp. Huy, Linh bị bắt. Tây Sơn Vương muốn tha vì có
công lấy thành Quy Nhơn.
Nhưng
chư tướng đồng xin giết đi bởi Công nhỏ không bù được họa lớn, giữ lại trong
quân là nuôi ong tay áo, cho về An Tượng là thả cọp về rừng. Vương phải theo ý
chư tướng. Huy, Linh thản nhiên ra pháp trường, cười bảo nhau:
- Ðược
thì vểnh râu, thua thì đứt cổ.
Ở Phú
Yên, đầu xuân năm Giáp Ngọ (1774), Châu Văn Tiếp nổi dậy.
Châu Văn
Tiếp là người Phù Ly, làm nghề buôn nhưng sức mạnh võ giỏi. Khi Tây Sơn đánh
chiếm thành Quy Nhơn, Châu không theo, đem gia đình vào Phú Yên, cất nhà ở dưới
chân núi Trà Lương thuộc Tuy An, nuôi chí diệt Tây Sơn phò Nguyễn chúa. Kịp lúc
binh Tây Sơn đánh chiếm Phú Yên, Châu chiêu mộ hơn nghìn người, dựng cờ khởi
nghĩa. Cờ thêu bốn chữ lớn Lương Sơn Tá Quốc.
Trấn thủ
Phú Yên là đô đốc Nguyễn Văn Lộc hay tin, đem quân đến vây đánh. Quân Châu Văn
Tiếp chưa được huấn luyện kỹ càng, vừa xáp chiến đã rã tan, Tiếp tẩu thoát,
chạy lên núi theo thượng đạo vào Gia Ðịnh cung thuận Ðịnh Vương.
Mùa thu
năm ấy, viên lưu thủ đất Long Hồ trong Nam là Tống Phước Hiệp cử đại binh cùng
Nguyễn Khoa Toàn ra đánh Tây Sơn.
Quân
Nguyễn đánh chiếm Bình Thuận. Tống Phước Hiệp để Nguyễn Khoa Toàn ở lại, còn
mình kéo binh ra đánh Diên Khánh. Trấn thủ Lê Văn Hưng chận đánh. Nhưng nhận
thấy quân địch đã đông lại có trọng pháo yểm hộ, liệu không thắng nổi, bèn bỏ
thành trống, rút toàn quân về Phú Yên cùng Nguyễn Văn Lộc chống địch.
Chiếm
được Diên Khánh rồi, Tống Phước Hiệp chia binh làm hai đạo kéo ra Phú Yên. Quân
bộ thì đóng tại núi Xuân Ðài thuộc Ðồng Xuân, quân thủy thì đóng ở đầm Lãnh Úc
nằm phía đông nam Ðồng Xuân. Rồi đưa thư ra Quy Nhơn đòi Tây Sơn Vương trả Ðông
Cung Nguyễn Phúc Dương.
Tây Sơn
Vương muốn giữ kỹ Nguyễn Phúc Dương để làm con bài phòng khi dùng đến, bèn đưa
lên chiến khu. Lại truyền Nguyễn Huệ xuống Quy Nhơn để lo việc Nam chinh. Nguyễn
Huệ liền giao Tây Sơn cho Bùi Thị Xuân và Võ Ðình Tú quản đốc, kéo đạo binh
người Thượng mới tuyển mộ xuống Quy Nhơn. Rồi vâng lệnh anh, vượt Cù Mông vào
Phú Yên.
Nguyễn
Huệ phóng tin cho Nguyễn Văn Lộc và Lê Văn Hưng biết để hợp lực công địch. Quân
Tây Sơn cắt đứt liên lạc giữa thủy binh và bộ binh của địch, rồi chia quân làm
hai cùng lúc đánh Xuân Ðài và Lãnh Úc.
Tống
Phước Hiệp không thấy Vua Tây Sơn đáp ứng lời yêu sách của mình, cũng không
thấy quân Tây Sơn khởi động, đương nghi nghi ngờ ngờ, thì bị đánh úp. Không kịp
trở tay, binh của Tống cả thủy lẫn bộ đều bị tiêu diệt. Tống tẩu thoát về Nam.
Quân Tây Sơn tiến đánh, lấy lại Diên Khánh và Bình Thuận. Nguyễn Huệ giao việc
phòng thủ cho Nguyễn Văn Hưng và Lê Văn Lộc rồi kéo đạo binh người Thượng trở
về Quy Nhơn[38].
Ðể giữ
yên mặt Bắc, Tây Sơn Vương đưa tin thắng trận cho Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Phúc
liền xin chúa Trịnh phong cho Vương làm Tây Sơn Hiệu Trưởng Tráng Tiết Tướng
quân và phong Nguyễn Huệ làm Tây Sơn Hiệu Tiên Phong tướng quân.
Vương
lại sai Lý Tài vào trấn Bình Thuận, hiệp lực cùng Lê Văn Hưng ở Diên Khánh để
phòng thủ mặt Nam. Trần Quang Diệu can:
- Lý Tài
là người Tàu, bụng dạ khó lường, không nên cho đi xa. Cọp sẩy chuồng khó bắt
lại. Vương cười:
- Ðã
biết vậy. Song Lý Tài đánh giặc có công mà lòng phản bội chưa có hình tích. Trừ
đi không khỏi mang tiếng bẻ ná quên nôm. Hống nữa cũng như Tập Ðình, Lý Tài
mạnh là nhờ nanh vuốt. Nay đám thủ hạ đã tử trận gần hết, thì con cọp già không
nanh vuốt dù hung hãn đến đâu cũng không đáng sợ. Hiện còn dùng được cứ dùng.
Ðó là
cuối đông năm Giáp Ngọ (1774).
Mùa xuân
năm Ất Mùi (1775), Tây Sơn Vương sai Nguyễn Lữ và Phan Văn Lân đem thủy quân
vào đánh Gia Ðịnh.
Quân Tây
Sơn vây đánh Sài Côn (tức Sài Gòn). Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần khiếp sợ, chạy
về Trấn Biên (tức Biên Hòa). Tướng sĩ mở thành đầu hàng. Quân Tây Sơn kéo vào
thành. Nguyễn Lữ cho khuân hết lương thực vũ khí xuống thuyền rồi sai Phan Văn
Lân tải về Quy Nhơn, một mình giữ Gia Ðịnh.
Sang năm
Bính Thân (1776), Ðỗ Thành Nhân ở Ðông Sơn (Tam Phụ, Mỹ Tho) dấy binh giúp nhà
Nguyễn, kéo đánh Sài Côn. Nguyễn Lữ không chống cự, bỏ thành rút quân về Quy
Nhơn, Ðỗ Thành Nhân rước Ðịnh Vương về Sài Côn lo việc phòng thủ.
Tháng 10
năm ấy, Tây Sơn Vương sanh đặng con trai đặt tên là Bảo và mở yến tiệc ăn mừng.
Ðông Cung Nguyễn Phúc Dương lúc bấy giờ ở tại chùa Thập Tháp, thừa dịp quân
canh ham vui lơ là canh gác, lẻn trốn xuống thuyền chạy về Gia Ðịnh.
Lý Tài ở
Bình Thuận biết rằng Vua tôi Tây Sơn Vương có ý nghi mình, bèn bỏ vào đầu hàng
chúa Nguyễn. Nhưng rồi lại bỏ chúa Nguyễn, kéo quân đến chiếm cứ núi Chiêu Thái
ở Biên Hòa. Nghe tin Ðông Cung Dương vào Gia Ðịnh, Tài đón về tôn làm Tân Chính
Vương, rồi đưa vào Sài Côn, tôn Ðịnh Vương làm Thái
Thượng
Vương. Ðỗ Thành Nhân không phục bỏ về Ðông Sơn.
Ðược tin
lủng củng giữa bầy tôi nhà Nguyễn, tháng 3 năm Ðinh Dậu (1777), Tây Sơn Vương
sai Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem thủy binh vào đánh Gia Ðịnh.
Lý Tài
không chống nổi, cầu viện quân Ðông Sơn, Ðỗ Thành Nhân làm ngơ. Thành Sài Côn
thất thủ, Lý Tài chạy trốn ở núi Chiêu Thái, Thái Thượng Vương Thuần chạy qua
Long Xuyên. Tân Chánh Vương Dương chạy đến Vĩnh Long. Cả hai đều bị quân Tây
Sơn bắt giết. Các quan võ nhà Nguyễn đều quy hàng.
Hạ xong
thành Sài Côn, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ kéo binh về Quy Nhơn, giao cho đám hàng
thần là Tổng Ðốc Chu, Hổ Tướng Hãn, Tư Khấu Uy, Hộ Giá Phạm Ngạn trấn thủ đất
Gia Ðịnh.
-----------
[38]
Trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim chép: Nguyễn Nhạc không lo mặt Bắc
nữa, bèn lập mưu để đánh lấy đất Nam, đem con gái mình là Thọ Hương dâng cho
Ðông Cung và khoản đãi một cách rất tôn kính, rồi sai người đến giả nói với
Tống Phước Hiệp xin về hàng để lo khôi phục đất Phú Xuân, Hiệp tưởng thật,
không phòng bị... Nguyễn Huệ đem quân đánh, Phúc Hiệp ... thua chạy...
TÂY SƠN
VƯƠNG SỬA THÀNH ÐỒ BÀN VÀ XƯNG ÐẾ HIỆU
Thanh
toán xong Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần và Ðông Cung Nguyễn Phúc Dương thì mặt
Nam gọi là tạm yên.
Còn mặt
Bắc. Tháng chạp năm Ất Mùi (1775) Hoàng Ngũ Phúc đóng tại Châu Ổ (Quảng Nam),
được chúa Trịnh cho rút về Thuận Hóa. Ðến Phú Xuân thì chết, Chúa Trịnh sai Bùi
Thế Ðạt vào thay và cho Lê Quý Ðôn làm Tham Thị vào cùng giữ Thuận Hóa.
Từ ấy
Quảng Nam thuộc về Tây Sơn.
Hai cựu
thần của nhà Nguyễn là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân nổi dậy chống Tây Sơn,
đánh lấy phủ Thăng Bình và phủ Ðiện Bàn .
Tây Sơn
Vương liền sai Ðặng Xuân Phong đi đánh dẹp. Ðặng Xuân Phong nguyên là người
Dõng Hòa thuộc Tây Sơn Hạ (Bình Khê), sức mạnh võ giỏi lại có tài cưỡi ngựa bắn
cung, nhưng tánh ưa nhàn tản, nên
không
hưởng ứng lời chiêu mộ của Tây Sơn Vương.
Một hôm
nữ tướng Bùi Thị Xuân đứng ở trường trầu Kiên Mỹ, chợt thấy một tráng sĩ trẻ
tuổi cầm côn đồng, mang cung sắt, cỡi ngựa ô, từ Thuận Nghĩa chạy lên Phú
Lạc[39], thái độ hiên ngang nhưng tướng mạo trung hậu. Nữ tướng lấy làm lạ,
theo dò xem. Ðến Trưng Sơn, tráng sĩ cho ngựa lên núi. Ðường núi gập ghềnh mà
ngựa chạy như nơi bình địa. Ngựa chạy quanh quất hồi lâu rồi mới dừng lại nơi
khoanh đất bằng và rộng nằm ở lưng chừng núi. Chợt một bầy quạ bay ngang, tráng
sĩ liền trương cung bắn liên tiếp hai phát: hai con quạ rơi xuống như hai quả
chín cây. Rồi tráng sĩ xuống tháo cương cho ngựa đi ăn. Ðoạn xăn tay múa côn.
Tiếng gió vun vút. Khí lạnh ớn người. Diễn liên tiếp mấy bài mà khí sắc không
đổi. Tráng sĩ lên núi lúc mới tảng sáng. Mặt trời lên quá sào thì thắng ngựa
trở về.
Nữ tướng
khen thầm:
Thật là
một dũng sĩ !
Và tự
trách:
Anh tài
ở trước mặt mà bấy lâu mình có mắt cũng như không!
Dò biết
được lai lịch của tráng sĩ Ðặng Xuân Phong và Trưng Sơn là nơi tráng sĩ thường
đến tập luyện, nữ
tướng
liền về chiến khu, rồi cùng Ðại Tổng Lý Vũ Ðình Tú xuống Dõng Hòa mời họ Ðặng
tham gia đại sự. Lạ gì thanh khí lẽ hằng. Không đợi thuyết phục, họ Ðặng hưởng
ứng ngay lời mời của họ Võ họ Bùi.
Ðặng
Xuân Phong liền được tiến cử lên Vua Tây Sơn, và được đi đánh dẹp Quảng Nam để
lập công.
Không
phải dùng nhiều công sức, Ðặng Xuân Phong mới xáp chiến trận đầu là lấy ngay
được Thăng Bình rồi
Ðiện
Bàn. Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân đều tử trận.
Quảng
Nam được dẹp yên, Tây Sơn Vương gọi Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nghĩa về Qui Nhơn
cử Ðặng Xuân Phong thay thế, và cử nguyễn Văn Tuyết[40] ra trấn thủ Quảng Nam,
cùng họ Ðặng làm răng môi giữ gìn mặt Bắc.
Bắc Nam
được yên ổn, Tây Sơn Vương đổi thành Minh Ðức Vương và cho sửa lại thành Qui
Nhơn[41].
Thành
Qui Nhơn tức là thành Ðồ Bàn cũ của Chiêm Thành.
Thành
nằm trên dãy gò sỏi thuộc hai thôn Nam An và Bắc Thuận thuộc huyện Tuy Viễn
(tức An Nhơn ngày nay). Ðịa thế rất lợi về mặt chiến thủ.
Thành do
Vua Chiêm Thành là Xá Lợi Ðà Bàn Ngô Nhật Hoan (Indravarman IV) xây vào thế kỷ
thứ X. Tường bằng gạch và đá ong. Mặt hướng vào Nam, chu vi hơn 10 dặm, có bốn
cửa. Bên ngoài có dãy Kim Sơn che phía tây, có núi Long Cốt làm tiền án và gò
Thâïp Tháp yểm hậu. Bốn nhánh sông Côn hội nước ở Lý Nhơn, tạo thành cái thế
nước chảy bao quanh, nhờ thế mà hào thành không bao giờ khô cạn. Ngoài xa nữa,
khắp bốn mặt lại có núi non trùng điệp, biển nước mênh mông, triều ủng. Như
phía Bắc có các núi Sa Lung, Cung Quăng, Thạch Ðê... làm bình phong ngăn từ xa,
và núi Phú Cũ, Hải Lương (tức Ðèo Nhông), Ô Phi làm bình phong thứ hai ở mặt
Bắc. Phía Nam có trấn sơn Phước An và An Tượng cùng nhiều núi nối tiếp rất hiểm
trở. Phía Tây có núi Hương Sơn với ba ngọn tháp nơi gò Dương Long rất tráng lệ.
Phía đông có đầm Hải hạc chu vi trên 9.000 trượng, với núi Tháp Thầy, Bãi Nhạn,
Gành Hổ, rừng Hoàng Giản có thể đồn binh ngăn giặc. Và đầm Thị Nại với dãy núi
Triều Châu, một dãy cát trắng vun cao chất ngất, thỉnh thoảng nhô lên những
ngọn núi đá, chạy từ Cách Thử đến Phương Mai là mũi đá làm cánh cửa của biển
Thị Nại.
Nhờ địa
thế của thành Ðồ Bàn mà Chiêm Thành đã ngăn chặn được ngoại bang vào xâm nhập
bờ cõi. Mãi đến thế kỷ thứ XV, năm Canh Thìn (1470) Vua Chiêm là Trà Toàn gây
sự, Vua Lê Thánh Tông mới cử binh vào đánh. Ðịa thế tuy hiểm, thành trì tuy
kiên cố, song nhuệ khí của quân Chiêm lúc bấy giờ đã nhụt, nên
Vua Lê
chỉ mấy hôm công phá đã hạ được thành và bắt sống được Trà Toàn.
Vua Lê
Thánh Tông đổi tên Ðồ Bàn thành Hoài Nhân.
Chúa
Nguyễn Hoàng đổi tên Hoài Nhân thành Quy Nhơn (1605).
Chúa
Nguyễn Phúc Tần đổi Quy Nhơn làm Quy Ninh (1651).
Chúa
Nguyễn Phúc Khoát lại lấy lại tên Quy Nhơn (1741).
Từ 1741
cho đến năm 1776 là năm tu bổ lại, tên thành không thay đổi.
Nhà Tây
Sơn cho mở rộng quy mô. Trước kia chu vi thành chỉ có 10 dặm. Nay mở thêm mặt
đông, chu vi
nới rộng
ra thành 15 dặm. Xây toàn đá ong, cao 1 trượng 4 thước và dày 2 trượng. Trước
chỉ có 4 cửa. Nay mở thêm một cửa nơi mặt thành phía nam, khoảng mới xây thêm,
và gọi là Tân Môn. Còn cửa Nam Môn cũ gọi là Vệ Môn. Trong thành đắp nhiều thổ
môn đặt giàn súng, dùng làm đài quan sát và tự vệ khi bị địch vây thành. Phía
tây thành đắp để Ðỉnh Nhĩ để ngăn nước lụt. Phía tây nam đắp đàn Nam Giao để tế
Trời Ðất. Phía trong thành lại xây một lớp thành nữa gọi là Càn Thành, chính
giữa dựng điện bát giác là nơi Vua ngự. Phía sau dựng điện Chánh Tẩm để Hoàng
Hậu và cung nhân ở, phía trước dựng lầu Bát Giác, bên tả bên hữu dựng hai tự
đường, một thờ cha mẹ, một thờ cha mẹ vợ nhà vua. Trước lầu bát giác có cung
Quyển Bồng và liền với mặt nam Càn Thành, có cửa tam quan gọi là Quyển Bồng Môn
xây cổ lầu nên cũng gọi là Nam Môn Lâu. Trong thành, ngoài thành, bài trí la
liệt những voi đá, ngựa đá, nghé đá, tượng nhạc công, vũ nữ... di tích của
người Chiêm Thành xưa kia.
Thành
sửa từ 1776 đến 1778 mới hoàn tất. Tráng lệ nguy nga. Thành Quy Nhơn sửa xong,
nhà vua xưng đế hiệu Minh Ðức Hoàng Ðế, niên hiệu Thái Ðức.
Thành
Quy Nhơn đổi tên là Hoàng Ðế Thành. Nhà vua rước thầy học Trương Văn Hiến về
làm quân sư. Và phong:
- Nguyễn
Huệ làm Long Nhương Tướng quân.
- Nguyễn
Lữ là Tiết Chế.
- Phan
Văn Lân làm Nội Hầu.
- Trần
Quang Diệu làm Thiếu Phó.- Võ Văn Dũng làm Ðại Tư Khấu.
- Võ
Ðình Tú làm Thái Uùy.
- Ngô
Văn Sở làm Ðại Tư Mã.
Các
tướng khác đều phong Ðô Ðốc và Ðại Ðô Ðốc.
Còn bên
văn thì phong Võ Xuân Hoài làm Trung Thư Lệnh. Các quan khác đều sắp xếp từ Thị
Lang, Thượng
Thư đến
Ðại Học Sĩ.
Bà họ
Trần được rước về Hoàng Ðế Thành phong Chánh Cung Hoàng Hậu. Bà người Thượng
được rước về phong Thứ Phi. Nhưng không chịu nổi cảnh phồn hoa náo nhiệt và
nghi lễ nơi cung cấm, bà xin trở về vui với ruộng lúa.
Bà Bùi
Thị Xuân được phong làm Ðại Tướng Quân, tự hiệu là Tây Sơn nữ tướng, quản đốc
mọi việc quân dân trong Hoàng Thành và tuần sát vùng Tây Sơn.
Bok Kiơm
không nhận chức tước cũng không nhận tiền của, chỉ xin mỗi năm được nhà vua cấp
muối và cá khô để nuôi lòng trung thành của đồng bào Thượng.
Hai Vua
Thủy Xá và Hỏa Xá được phong Vương tước, sai sứ đưa ra những trầm hương, kỳ
nam, hổ phách và voi ngựa làm cống vật và nguyện giữ một lòng trung thành với
Tây Sơn.
Nhà vua
cũng không quên họ Ðinh ở Bằng Châu.
Truyền
rằng:
Họ Ðinh
lúc bấy giờ chỉ còn một ông lão trên bảy mươi, tánh khí ngang tàng bướng bỉnh.
Vua vời ông lão đến, ông lão nói:
- Ông
làm vua là làm vua với thiên hạ, chớ với tôi ông vẫn là con cháu. Con cháu mà
ban chức tước cho cha ông, tôi thấy hơi nghịch. Chi bằng để tôi phê rồi ông lục
thì hơn.
Nhà vua
chuẩn y. Ông lão viết:
- Bùng
binh chi tướng.
- Uýnh
ướng chi quan.
- Bộn
bàng chi chức.
- Chảng
chảng ngang thiên.
Rồi mỗi
lần ông lão đi thăm Vua Thái Ðức, thì ngồi trên một cái ghế có bốn người
khiêng, hai bên có vài
chục
người cầm cào cỏ, cuốc chĩa, xuổng, cuốc... thay thế cho cờ biển hèo tua... và
hai cây dù tát nước che thế lọng. Phía sau phía trước lại có hai đoàn người
thổi kèn đánh trống bằng miệng. Tưng bừng rộn rịp. Thiên hạ kéo ra xem đông và
vui như hội.
Thăng
thưởng cho mọi người xong, nhớ đến Nhưng Huy và Tứ Linh, nhà vua bùi ngùi nói:
- Huy,
Linh công chưa được thưởng, tội đã bị trừng, đối với ta thật chẳng khác tự mình
cầm lấy đao xẻo miếng thịt hư nơi vai vế!
Ai nấy
đều cảm động. Long Nhương Tướng quân nói:
Làm việc
lớn không nên bận đến điều nhân nghĩa nhỏ. Thà chịu cắn răng trong chốc lát,
còn hơn phải nhăn mặt suốt đời.
Rồi cuộc
vui mở khắp nơi.
Ðồng bào
vô cùng hoan hỷ.
Sau mười
ngày yến tiệc, Vua Thái Ðức lo chỉnh đốn việc dân việc quân.
Thời
chúa Nguyễn, từ Hoành Sơn đến Cà Mau, đất chia làm 12 dinh:
Chính
dinh, Cựu dinh, Quảng Bình dinh, Vũ Xá dinh, Bố Chính dinh, Quảng Nam dinh, Phú
Yên dinh, Bình
Khang
dinh, Bình Thuận dinh, Trấn Biên dinh, Phiên Trấn dinh, Long Hồ dinh.
Dinh
chia ra phủ, phủ chia ra huyện.
Quy
Nhơn, Quảng Nghĩa thuộc Quảng Nam dinh.
Gia Ðịnh
gồm các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ.
Gia Ðịnh
ở xa, nhà vua giao quyền cai trị cho cựu thần nhà Nguyễn đã quy thuận, để lo
cho được chu đáo
phần đất
từ Quảng Nam đến Bình Thuận.
Nhà vua
bỏ dinh, chỉ để phủ, huyện.Từ Bắc đến Nam có sáu phủ: Quảng Nam, Quảng Nghĩa,
Quy Nhơn, Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận.
Huyện ở
dưới quyền phủ. Trừ phủ Quy Nhơn, ba huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn trực
thuộc trung ương.
Danh
hiệu Tuần Phủ đổi là An Phủ Sứ, Phòng Ngự Sứ, An Phủ cầm đầu phủ lớn. Phòng ngự
coi giữ phủ nh
Ban đầu
phải tập từng thớt một.
Sau mới
tập từng đoàn.
Khi tập
từng đoàn, thì nữ quản tượng nào đi kèm theo voi nấy. Hàng ngũ sắp chỉnh tề
rồi. Nữ tướng phất cờ hiệu, tất cả nữ quản tượng nhảy lên voi một lượt, gọn và
nhanh như người kỵ mã có tài nhảy lên lưng ngựa. Rồi theo hiệu cờ mà tập...
Thân vóc voi ngó nặng nề, mà bước chân voi trông lẹ làng lanh lẹ. Khí thế hùng
dũng như gió cuốn sóng dồn, nhưng diễn trường im phăng phắc, khách bàng quan
không nghe tiếng, chỉ thấy hình, những hình sống động vừa mạnh mẽ vừa đẹp đẽ,
nửa cổ kính nửa tân kỳ... Tập xong, theo hiệu cờ, đoàn nữ quản tượng nhảy xuống
voi cũng lẹ làng nhịp nhàng, với những nụ cười đắc ý.
Voi được
luyện kỹ càng rồi mới đưa xuống Hoàng Ðế Thành. Ai điều khiển cũng được.
Quân số
cần phải gia tăng mới đánh Nam dẹp Bắc.
Nhưng
lính phải mộ chớ không bắt.
Và những
lính cũ bị đau yếu được cho về nhà hoặc đưa lên các trại sản xuất để điều dưỡng
nghỉ ngơi cho
đến khi
mạnh. Những nông dân ở các trại đã được huấn luyện quân sự rồi thì nhập ngũ để
thay những người đi nghỉ, hoặc để thêm vào số quân đương cần.
Vì chế
độ rộng rãi nên quân số gia tăng một cách mau chóng.
Nhà vua
còn cho mở nhiều xưởng đóng chiến thuyền và xây nhiều lò đúc vũ khí. Có hai
xưởng đóng thuyền
lớn
nhất, một ở Phương Mai thuộc Quy Nhơn, một ở Nha Trang thuộc Diên Khánh[45]. Và
lò đúc lớn nhất ở Quang Hiển thuộc Tuy Phước, dưới chân hòn Bà. Ở các cửa sông
lớn và nơi núi non hiểm trở đều có đồn kiên cố. Ở Phương Mai lại có xây pháo
đài để canh giữ cửa bể Thị Nại [46].
Việc
chiêu mộ hào kiệt vẫn tiếp tục.
Kẻ sĩ
bốn phương lần lượt đến phò tá. Văn thì có một nhân vật xuất sắc:
Lê Văn
Nhân, tự Nghĩa Tiên, người An Nhơn, học rộng, thơ hay lại sở trường về văn tứ
lục. Ở nhà, hễ ai
cầu thơ
văn thì đem giống hoa thơm và cây ăn trái đến làm nhuận bút. Do đó người đương
thời gọi vườn
của ông
là Chủng tự lâm tức là Rừng trồng chữ. Vì là người địa phương nên được bổ ngay
làm Tri huyện Tuy Viễn. Làm quan thanh liêm, chuộng phong tiết, giàu phong lực,
đầy phong nh[39] Phú Lạc, Kiên Mỹ, Thuận Nghĩa, Dõng Hòa, từ tây xuống đông,
thôn này giáp thôn nọ, thuộc về Tây Sơn Hạ (trước là huyện Tuy Viễn chia ba -
Bình Khê - An Nhơn, Tuy Phước - thì Tây Sơn Hạ thuộc về Bình Khê).
[40]
Trong sách của cụ Bùi Văn Lang chép là Nguyễn Văn Duệ.
[41]
Việt Nam lược sử của Trần Trọng Kim chép là Tây Sơn Vương. Sách Tây Sơn của Bùi
Văn Lang chép là
Minh Ðức
chúa công
[42] Vua
Thái Ðức dựa theo quan chế nhà Trần. Nhưng đời Trần, An Phủ Sứ thuộc văn giai
ngoại chức. Phòng Ngự Sứ thuộc về võ giai ngoại chức. Ðời Tây Sơn không phân
biệt văn võ, mà phân biệt phủ lớn phủ nhỏ.
[43]
Miếu được luôn luôn tu bổ nên mãi trước năm 1945 vẫn còn. Hành khách đến miếu
thường xuống xe đốt hương.
[44] Gò
đó vẫn còn, tục gọi là gò Tập voi.
[45] Tại
núi Phương Mai còn di tích. Ở Diên Khánh, xưởng cất ở dưới chân núi địa đầu
thành phố Nha
Trang.
Núi ấy có xưởng đóng thuyền ở dưới chân nên gọi là Núi Xưởng. Sau đó Trần Quang
Diệu cất trại thủy binh trên núi để chặn binh Nguyễn Phúc Ánh nên núi lại mang
tên là núi Trại thủy.
[46] Lò
đúc Quang Hiển hiện nay vẫn còn di tích. Nông dân địa phương thường đào được
gang, quặng sắt, đồng vụn... để đúc súng đánh Pháp.
[47]
Thượng phong tiết, đa phong lực, nhiêu phong nhã. Ông là tác giả bộ Trần Triều
Thông Sử Cương Mục soạn năm Quang Trung thứ tư.
NGUYỄN
PHÚC ÁNH XƯNG VƯƠNG
TÂY SƠN
BÌNH GIA ÐỊNH
Trong
khi Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn thì ở Gia Ðịnh Nguyễn Phúc Ánh quật khởi.
Năm Giáp
Tý chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng Vương hiệu (1744) và chia đất Gia Ðịnh ra làm ba
dinh: Trấn Biên dinh (Biên Hòa hiện nay), Phiên Trấn dinh (Vũng Sài Gòn, Gia
Ðịnh hiện nay), Long Hồ dinh (vùng Long Xuyên, Vĩnh Long hiện nay).
Nguyễn
Phúc Ánh là cháu nội Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, kêu Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Tần
bằng chú, đối với Ðông Cung Nguyễn Phúc Dương là vai anh con ông bác.
Nguyễn
Phúc Ánh theo Ðịnh Vương vào Gia Ðịnh năm Giáp Ngọ (1774). Năm Tân Dậu, Tây Sơn
đánh chiếm
Gia Ðịnh
(1777), Ðịnh Vương và Ðông Cung bị giết. Phúc Ánh chạy thoát. Sau khi binh Tây
Sơn rút về Quy Nhơn, giao thành Sài Côn cho Tổng đốc Chu trấn thủ, thì Nguyễn
Phúc Ánh tụ tập đám thủ hạ cũ của chúa Nguyễn tại Long Xuyên, tấn cứ đất Tam
Thụ (tục gọi là Ba Giồng thuộc Ðịnh Tường). Tháng giêng năm Mậu Tuất (1778),
được quân của Ðỗ Thành Nhân ở Ðông Sơn đến giúp, Nguyễn Phúc Ánh bèn kéo binh
đánh Phiên An. Không phòng bị thành Sài Côn bị thất thủ. Ðất Gia Ðịnh lọt vào
tay Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh được Ðỗ Thành Nhân và tướng sĩ tôn làm Ðại Nguyên
Súy Nhiếp Quốc Chánh. Phúc Ánh lúc bấy giờ mới mười bảy tuổi.
Bị mất
Gia Ðịnh, Tổng Ðốc Chu cùng thủ hạ chạy về Quy Nhơn. Ðược ít lâu, Vua Thái Ðức
sai đem thủy binh vào đánh Gia Ðịnh. Tổng đốc Chu bị Ðỗ Thành Nhân đánh thua.
Quân Tây Sơn tan rã. Thừa thắng Nguyễn Phúc Ánh sai Lê Văn Quân kéo quân ra
đánh Bình Thuận.
Bình
Thuận, từ khi Lý Tài làm phản, thì giao cho Trấn thủ Diên Khánh là Lê Văn Hưng
kiêm nhiệm. Do đó mà thành bị Lê Văn Quân đánh lấy được dễ dàng. Nhưng khi quân
Nguyễn thừa thắng kéo ra Diên Khánh thì bị Lê Văn Hưng chận đánh phải thối lui
vào Bình Thuận. Binh Tây Sơn truy kích, đánh cho một trận tơi bời, Lê Văn Quân
vội rút tàn quân chạy về Gia Ðịnh. Từ ấy quân Nguyễn rất sợ Lê Văn Hưng và
Nguyễn Phúc Ánh gọi Hưng là Lê Vô Ðịch.
Từ ấy
Bình Thuận trở ra thuộc về Tây Sơn, từ Bình Thuận trở vô thuộc về Nguyễn Phúc
Ánh.
Nguyễn
Phúc Ánh sau khi chiếm được Gia Ðịnh một mặt lo sửa sang mọi việc về quân sự và
nhân sự, một mặt sai sứ sang giao hiếu cùng Xiêm La.
Chỉ
trong vòng hai năm, Nguyễn Phúc Ánh đã có ba vạn quân thủy bộ, tám mươi thuyền
chiến hạng vừa, ba thuyền chiến lớn, hai chiếc tàu kiểu Châu Âu. Ngoài ra còn
có thêm ba chiếc tàu đồng do các sĩ quan và thủy thủ Bồ Ðào Nha điều khiển. Ba
tàu này đều đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp là Manuel tục gọi là
Mạn Hòe.
Tự thấy
mình đủ sức đối đầu cùng Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh bèn xưng Vương hiệu. Lễ tấn
phong cử hành vào cuối năm Canh Tý (1780). Ðỗ Thành Nhân được phong chức Ngoại
Hữu Phụ Chánh Thượng Tướng Công. Tất cả tướng sĩ đều được thăng thưởng. Binh
quyền do Ðỗ Thành Nhân nắm trọn, chống giữ Tây Sơn ở mặt Bắc, đánh phạt Chân
Lạp ở mặt Tây. Thành Nhân lập được nhiều công lớn, nha tướng mỗi ngày mỗi thêm
đông. Sợ Thành Nhân tiếm vị, Phúc Ánh bèn tìm cách giết chết năm Tân Sửu
(1781).
Ðỗ Thành
Nhân chết rồi, Phúc Ánh không còn lo họa bên trong, liền cử binh đánh Tây Sơn
tại Bình Khang (tức Khánh Hòa hiện thời).
Ba đạo
quân được điều động. Hai đạo bộ binh do Chu Văn Tiếp ở Phú Yên đánh vào, và do
Tôn Thất Dụ ở Bình Thuận đánh ra. Một đạo thủy quân do Tống Phước Thiêm, Nguyễn
Hữu Thụy, Dương Công Trừng chỉ huy, xuất phát từ Gia Ðịnh kéo ra chận quân Quy
Nhơn ở mặt biển.
Bình
Khang là dinh nằm giữa dinh Bình Thuận ở phía Nam và dinh Phú Yên ở phía Bắc,
dinh Bình Khang chia làm hai phủ: phủ Bình Khang ở phía Phú Yên, phủ Diên Khánh
ở phía Bình Thuận. Trấn thủ dinh Bình Khang lúc bấy giờ là Lê Văn Hưng có một
đội tượng binh thiện chiến. Phần lớn quân lực đóng ở Diên Khánh.
Bình
Thuận thuộc quyền chiếm đóng của Nguyễn Phúc Ánh.
Phú Yên
do tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc trấn thủ. Chu Văn Tiếp chỉ chiếm cứ một vùng
ở Trà Lương (Tuy An).
Quân Tôn
Thất Dụ kéo ra đến Diên Khánh chưa kịp đóng quân thì bị Lê Văn Hưng cho đoàn
chiến tượng xung trận. Quân nhà Nguyễn vốn đã sợ uy thế Lê Văn Hưng, lại còn
sức hùng mãnh của chiến tượng, đều khiếp đảm, rùng rùng bỏ chạy. Quân Nguyễn
chưa đánh đã tan! Còn Chu Văn Tiếp kéo quân ra chưa khỏi Phú Yên đã bị Nguyễn
Văn Lộc chặn đánh tơi bời. Binh bị giết gần hết, một mình Tiếp tẩu thoát, chạy
về trốn ở Trà Lương. Trong tình hình nguy ngập của bộ binh, thì thủy binh của
Tống Phước Thiêm lại không rời khỏi Gia Ðịnh được. Bởi bộ hạ của Ðỗ Thành Nhân
ở Ba Giồng nổi loạn.
Không
thể để yên cho Phúc Ánh phát triển lực lượng và chiếm giữ lâu dài đất gia Ðịnh,
Vua Thái Ðức lo việc chinh Nam.
Tháng 3
năm Nhâm Dần (1782), nhà vua cùng Nguyễn Huệ, Phạm Ngạn đem 200 chiến thuyền
vào Gia Ðịnh. Binh đi thẳng vào cửa biển Cần Giờ.
Ðược tin
Nguyễn Phúc Ánh hạ lệnh cho Tống Phước Thiêm đem thủy quân ra chận đánh. Ðạo
thủy quân của nhà Nguyễn gồm trên 400 chiếc thuyền, lại có một số tàu đồng của
Pháp và Bồ Ðào Nha tham dự.
Tống
Phước Thiêm dàn thuyền chiến thành hàng tại sông Thất Kỳ tức ngã Bảy, quyết
tiêu diệt binh Tây Sơn. Hai bên kịch chiến. Bên ngoài có súng trường và đại bác
bắn rền trời. Thuyền Tây Sơn anh dũng xông vào bám sát thuyền địch, dùng pháo
lửa (fusée)[48] ném sang vùn vụt. Thuyền địch bị đốt cháy dữ dội. Tàu của Pháp
do Mạn Hòe chỉ huy, có 10 khẩu đại bác, bị hãm không sao ra khỏi vòng vây, cố
sức chống cự cuối cùng bị đốt cháy và đánh chìm, Mạn Hòe tử trận. Thuyền của
nhà Nguyễn không thoát được một chiếc. Tướng sĩ bị chết gần hết!
Một đội
thuyền do Nguyễn Phúc Ánh trực tiếp chỉ huy đến cứu cũng bị hỏa lực đánh tan,
Phúc Ánh vội rút tàn quân chạy về Bến Nghé. Binh Tây Sơn lớp đuổi theo Phúc
Ánh, lớp kéo lên đánh chiếm Thị Nghè, Gia Ðịnh. Phúc Ánh phải chạy trốn về Ba
Giồng, theo phò vừa tướng vừa quân chỉ trên dưới 300 người; nhưng chưa ở yên
thì bị binh Tây Sơn kéo đến đánh, phải chạy hết từ chỗ này đến chỗ khác từ Gia
Ðịnh đến Hậu Giang.
Quân
Nguyễn ở Bình Thuận nghe tin Gia Ðịnh thất thủ liền tiến về cứu viện. Nhưng vừa
đến Biên Hòa thì Tôn Thất Dụ bị tướng Tây Sơn là Phạm Ngạn chận đánh, quân
Nguyễn phải thối lui. Vừa lúc đó Châu Văn Tiếp kéo quân ở Phú Yên vào tiếp ứng.
Phạm Ngạn đương đuổi theo quân Nguyễn, giết được một viên tướng Nguyễn là Hồ
Công Siêu, thì bị Châu Văn Tiếp tiếp chiến thình lình trở tay không kịp liền bị
giết. Quân Tây Sơn không dám đuổi tiếp. Tôn Thất Dụ cùng Châu Văn Tiếp rút ra
Bình Thuận.
Nguyễn
Phúc Ánh ở Hậu Giang nghe tin quân mình thất bại khắp mọi nơi, liệu không đủ
sức đối phó với Tây Sơn, bèn sai Nguyễn Hữu Thụy cùng 150 người tùy tùng sang
Xiêm cầu viện, còn mình thì chạy đến Hà Tiên cùng Lê Văn Duyệt và một số quan
tòng vong chạy ra Phú Quốc.
Thế là
đất Gia Ðịnh được bình định. Bộ tướng của Ðỗ Thành Nhân kéo binh từ Ðông Sơn
đến hàng. Vua Thái Ðức thu nạp và trọng dụng.
Tháng 5
năm Nhâm Dần (1782) tình hình Gia Ðịnh đã tương đối ổn định, Vua Thái Ðức cùng
Nguyễn Huệ kéo quân về Quy Nhơn. Ðất Gia Ðịnh giao cho Ðỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá
trấn thủ.
Vua Thái
Ðức cùng Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn chưa được bao lâu thì ở Gia Ðịnh một
cựu tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Hồ Văn Lân tập hợp một số tàn quân của nhà
Nguyễn còn lẩn lút ở miền Hậu Giang, nổi lên đánh chiếm dinh Long Hồ. Một số
tướng khác như Dương Công Trừng, Nguyễn Văn Quý cũng đem tàn quân hợp với Hồ
Văn Lân đánh úp thủy quân Tây Sơn ở Lật Giang. Trong khi bọn Hồ Văn Lân hoạt
động ở Gia Ðịnh thì ở Phú Yên Châu Văn Tiếp cũng mộ quân kéo vào giúp rập.
Ðỗ Nhàn
Trập và Hộ Bộ Bá chỉ có 3.000 quân trong tay, phải chia ra chống đỡ các mặt.
Thành Gia Ðịnh bị yếu thế không trì thủ được lâu. Ðỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá phải
bỏ chạy về Quy Nhơn.
Lấy lại
được Gia Ðịnh, Châu Văn Tiếp và các tướng sai người ra Phú Quốc rước Nguyễn
Phúc Ánh trở về.
Ðầu năm
Quý Mão (1783) Vua Thái Ðức sai Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ, Lê Văn Hưng, Trương
Văn Ða cử đại binh vào đánh Nguyễn Phúc Ánh.
Biết
trước thế nào Vua Tây Sơn cũng đem quân vào đánh, Nguyễn Phúc Ánh lo phòng bị
cẩn mật. Một mặt sai Lê Phúc Diễn, Lê Phúc Bình đem vàng bạc sang Xiêm La, cầu
xin Vua Xiêm cứu viện khi Gia Ðịnh bị Tây Sơn tấn công. Một mặt lo tăng cường
phòng thủ thành Gia Ðịnh: đồn Bến Nghé ở phía nam thành và đồn Thị Nghè ở phía
bắc thành là hai đồn lớn nhất và đã xây đắp từ lâu. Ðồn Bến Nghé là bình phong
của thành. Ðồn Thị Nghè nằm trên ngã ba sông Thị Nghè, có thể khống chế mấy ngã
sông Thị Nghè và sông Gia Ðịnh, do đó đủ sức che chở cho thành một cách vững
vàng kín đáo. Hai đồn này được tu bổ nghiêm túc. Hai đồn mới được xây đắp: đồn
Thảo Câu ở phía nam thành, trên sông Vàm Cỏ Ðông; đồn Dác Ngư ở phía bắc thành,
trên sông Gia Ðịnh. Ðồn nào cũng có tướng sĩ canh giữ nghiêm ngặt. Ðồng thời
Nguyễn Phúc Ánh cho khôi phục thủy quân, đóng chiến thuyền. Trên khúc sông rộng
ở hạ lưu Gia Ðịnh giang có đóng nọc ngầm và hai bên sông có hàng nghìn bè tre
chất đầy củi khô và thuốc súng sẵn sàng đánh hỏa công. Một toán chiến thuyền
trên 100 chiếc trang bị đầy đủ dàn sẵn trên sông Gia Ðịnh.
Việc
phòng bị lần này nghiêm chỉnh hơn lần trước thập bội.
Thủy
binh Tây Sơn đến cửa Cần Giờ ngày 24 tháng 2 năm Quý Mão (1783).
Nắm vững
tình hình của địch. Nguyễn Huệ đợi lúc thủy triều dâng, gió từ cửa biển thổi
mạnh vào đất mới đốc suất chiến thuyền vào cửa sông.
Châu Văn
Tiếp chỉ huy chiến thuyền Nguyễn kéo binh ra chống cự. Tiếp đã bố trí chiến
trường, quyết dùng hỏa công tiêu diệt thuyền địch, ít ra cũng đẩy lui địch
không cho tiến vào nội địa. Cho nên mới vừa giáp chiến đã vội rút lui. Biết
rằng có mưu gian, song Nguyễn Huệ vẫn hô quân tiến đánh.
Khi
chiến thuyền Nguyễn đã qua khỏi khúc sông bố trí đánh hỏa công và thuyền Tây
Sơn đã lâm vào khu vực bố trí, thì các bè cũi khô nổi lửa và cắt dây neo để cho
trôi xuống thuyền địch. Nhưng vì thủy triều đương lên mạnh và gió biển theo
nước triều thổi mạnh, bè lửa trôi ngược trở lên và lửa đốt cháy thuyền Nguyễn.
Triều càng lên cao, gió càng thổi to, thuyền Tây Sơn đuổi theo càng gấp, Châu
Văn Tiếp liệu không chống cự nổi liền bỏ trốn, rồi theo đường núi chạy sang
Xiêm. Thủy binh của Phúc Ánh hoàn toàn bị tiêu diệt. Nguyễn Huệ chia quân đến
đánh hai đồn Thảo Châu và Dác Ngư. Tướng giữ đồn Dác Ngư là Tôn Thất Mãn bị Lê
Văn Hưng giết chết. Tướng giữ đồn Thảo Châu là Dương Công Trừng bị Trương Văn
Ða bắt sống. Nguyễn Huệ kéo quân đánh thành Gia Ðịnh. Nguyễn Phúc Ánh hốt
hoảng, bỏ thành đem gia đình chạy đến Ba Giồng, chỉ có năm, sáu viên tướng và
chừng trăm quân chạy theo. Tướng sĩ ở Bến Nghé và Thị Nghè cũng bỏ đồn chạy.
Nguyễn
Huệ kéo quân vào thành, phủ dụ nhân dân và tướng sĩ còn ở lại.
Chạy về
Ba Giồng, Nguyễn Phúc Ánh tổ chức lại quân đội.
Ðầu
tháng 4 năm Quý Mão (1783) cất quân đánh Tây Sơn.
Quân hai
bên gặp nhau ở Ðồng Tuyên (Kiến An, Ðịnh Tường). Quân nhà Nguyễn vừa thấy quân
Tây Sơn
hùng hổ
kéo đến thì đã muốn bỏ chạy. Do đó mới vừa giáp chiến thì binh liền tan rã,
tướng phần nhiều bị giết. Nguyễn Văn Quý bị Trương Văn Ða chém trên mình ngựa.
Nguyễn Huỳnh Ðức bị Lê Văn Hưng bắt sống. Quân sĩ bị bắt sống trên nghìn người.
Quân Nguyễn bị tiêu diệt toàn bộ.
Nguyễn
Phúc Ánh tẩu thoát, chạy đến Lật Giang, chạy sang Mỹ Tho, rồi chạy đến Ba Thắc,
cuối cùng chạy đến Hà Tiên để xuống thuyền ra Phú Quốc.
Về việc
chạy trốn của Nguyễn Phúc Ánh, sử nhà Nguyễn chép:
Vương
chạy đến Lật Giang thì trên sông tuyệt không có đò sang ngang. Ngài bỗng thấy
một con trâu nằm
ngay nơi
mé tả, Ngài bèn cỡi lên lưng trâu để qua sông. Nhưng khi đến giữa dòng thì nước
rút quá mạnh, trâu không bơi được. May một con cá voi nổi lên há miệng ngậm lấy
Ngài đưa sang bờ bên kia. Nhờ vậy mà ngụy quân không nhận được vết tích để truy
tìm. Tới xứ Vịnh Cù, Ngài gặp Thái giám Duyệt đem theo ấn nhỏ bằng vàng cùng
các quan tòng vong. Mọi người xuống thuyền tới cửa Kinh Hào (Long Xuyên) rồi
sang thuyền đi Phú Quốc... (Nguyễn Triều Long Hưng sự tích).
Ðược tin
Nguyễn Phúc Ánh chạy ra Phú Quốc, Nguyễn Huệ sai Phan Tiến Thận đi đánh bắt.
Một số tướng lãnh bị bắt sống. Nguyễn Phúc Ánh thoát chết chạy ra đảo Cổ Long
(KohRong). Trương Văn Ða đem một lực lượng thủy quân lớn đến vây đánh. Nhưng
rủi gặp ngày mưa gió lớn thuyền không thể dàn ra để bao vây mà phải dồn lại ghì
chặt vào nhau để chống lại sóng gió. Nhờ vậy Nguyễn Phúc
Ánh có
cơ hội đem tàn quân chạy thoát, trốn sang đảo Cổ Cốt (Koh Kut) rồi chạy về Phú
Quốc.
Ðất Gia
Ðịnh đã được hoàn toàn giải phóng, việc phòng thủ đã được tổ chức nghiêm mật,
tình hình trong cõi đã tương đối ổn định. Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ và Lê Văn
Hưng rút quân về Quy Nhơn để Trương Văn Ða cùng một số tướng sĩ ở lại giữ thành
Gia Ðịnh. Nguyên trước khi Nguyễn Huệ xuất binh, Trương Văn Hiến tâu cùng Vua
Thái Ðức:
- Gia
Ðịnh ở xa Phú Xuân, nhân dân chưa bị khổ sở về nạn Trương Phúc Loan, nên không
căm thù nhà
Nguyễn
như người miền Trung. Quân ta vào đánh quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi
là cuộc tranh giành quyền vị với nhau, chớ không phải để giải phóng họ. Bởi vậy
hễ bên nào mạnh, được thì họ theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được ai thua,
họ bàng quan tọa thị. Do đó quân ta cứ lấy được Gia Ðịnh rồi lại mất... Muốn
giữ đất được lâu bền, thì phải làm thế nào chiếm cho được lòng dân, nhất là
lòng của kẻ sĩ.
Do đó
Nguyễn Huệ mới để Trương Văn Ða, một người văn võ toàn tài, ở lại trấn thủ Gia
Ðịnh. Và khi quân thắng trận về đến Quy Nhơn, Vua Thái Ðức sai thêm hai văn
thần là Cao Tắc Tựu và Triệu Ðình Tiệp vào trợ lực.
Họ Cao
họ Triệu vào đến nơi lo tìm hiểu dân tình dân ý. Hai ông giả làm thầy địa lý và
thầy tướng số để được gần gũi nhân dân. Hai ông nhận thấy miền Nam hầu hết đều
chất phác nhân hậu. Sĩ phu giữ khư khư lời dạy của thánh hiền, chữ Trung của
Hán Nho, Tống Nho đã in sâu vào tâm phủ. Lòng họ đối với nhà Nguyễn tuy không
sâu đậm bằng lòng người miền Bắc đối với nhà Lê, song có tài chinh phục đến đâu
cũng khó thu về cho nhà Tây Sơn trong hôm sớm. Muốn thu phục nhân tâm miền Nam,
thì phải làm sao cho họ thấy nhà Tây Sơn hơn nhà Nguyễn về mọi mặt.
Trước
hết phải có một chính sách tốt.
Chính
sách đã có sẵn từ nghìn xưa. Chẳng qua tám chữ Thân Dân, Ái Dân, An Dân, Lợi
Dân. Khó nhất là làm sao thực thi cho được tám chữ ấy.
Trong
khi ở Gia Ðịnh nhà Tây Sơn lo việc an dân thì ở Phú Quốc Nguyễn Phúc Ánh lo cầu
cạnh nước ngoài cứu viện để đánh cướp đất.
Nguyên
Nguyễn Phúc Ánh có quen cùng hai giáo sĩ Cơ Ðốc Tây Phương là Linh mục Ly-ô
(Liot), người Bồ Ðào Nha, và Giám mục Bá Ða Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine
Evêque dAdran), người Pháp, trước kia truyền giáo ở Gia Ðịnh, sau chạy sang Săn
Ta Buôn (Chantabuon) ở Xiêm La lập giáo sở. Phúc Ánh bắt liên lạc cùng hai nhà
truyền giáo ấy, nhờ Linh mục Bồ Ðào Nha mua lương thực và Giám mục Bá Ða Lộc
sang cầu viện nước Pháp. Phúc Ánh hứa bằng giấy tờ, sẽ cắt đất nhượng cho nước
Pháp, và để cho người Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở Việt Nam sau khi chiến
thắng. Con trai đầu của Phúc Ánh là Hoàng Tử
Cảnh
theo Bá Ða Lộc làm con tin.
Giám mục
chưa kịp xuống tàu sang Pháp thì Phúc Ánh được mật thư của Châu Văn Tiếp mời
sang Vọng Các (Bangkok) hội kiến cùng Vua Xiêm.
Nguyễn
Phúc Ánh sang Xiêm vào khoảng tháng giêng năm Giáp Thìn (1784).
Vua Xiêm
tiếp đãi nồng hậu.
Nước
Xiêm lúc bấy giờ ở dưới triều Vua Chất Trị (Chakkri) đương lúc thịnh vượng và
đang nuôi tham vọng nuốt Chân Lạpvà Gia Ðịnh để mở rộng cõi bờ. Ðược Nguyễn
Phúc Ánh xin cứu viện, Vua Xiêm chụp ngay cơ hội tốt.
Ðể chuẩn
bị cuộc xâm lăng, Vua Xiêm giúp Phúc Ánh tổ chức một đạo binh gồm đám tàn quân
và bọn người Việt lưu vong trên dưới nghìn người do Châu Văn Tiếp làm Ðại Ðô
Ðốc và Mạc Tử Sinh làm Tham Tướng.
Mùa hạ
năm Giáp Thìn (1784), Vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu
Sương làm tiên
phong,
thống lĩnh hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền, hợp cùng đạo quân của Phúc
Ánh từ Vọng Các vượt biển sang Gia Ðịnh. Ðồng thời nhà vua lại phái hai tướng
là Lục Côn và Sa Uyển cùng với Chiêu Thùy Biện, một cựu thần Chân Lạp thân
Xiêm, đem hai đạo binh trên 3 vạn người, tiến sang Chân Lạp rồi từ đó kéo xuống
Gia Ðịnh phối hợp cùng thủy binh của Chiêu Tăng và Chiêu Sương.
Châu Văn
Tiếp đã thuộc được lối và biết rõ các nơi hiểm yếu ở Gia Ðịnh, nên dẫn quân đi
trước.
Thủy
quân Xiêm đổ bộ lên Rạch Giá.
Bộ binh
Xiêm đánh xuống Châu Ðốc.
Ðể phòng
ngự mặt biển và mặt sông, thời chúa Nguyễn, Nguyễn Cư Trinh đã lập ra 5 đạo là
Tân Châu Ðạo
ở Cù Lao
Giêng thuộc Tiền Giang, Châu Ðốc Ðạo ở Hậu Giang sát biên giới Chân Lạp, Ðông
Khấu Ðạo ở Sa Ðéc, Kiên Giang Ðạo ở Rạch Giá và An Xuyên Ðạo ở Cà Mau.
Quân
Xiêm kéo vào Gia Ðịnh một cách rầm rộ.
Trấn thủ
Gia Ðịnh là Trương Văn Ða thấy sức giặc quá mạnh, ra lệnh cho các nơi vừa chận
đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng.
Quân Tây
Sơn giữ đạo Kiên Giang ở Rạch Giá và đạo Châu Ðốc ở biên cương rút về Cần Thơ.
Quân giặc đuổi theo. Quân Tây Sơn theo bờ sông Hậu Giang lui dần xuống Ba Thắc.
Ba Thắc
(Srok Pra-sak) là một vùng rộng lớn bao trùm Sóc Trăng, Bạc Liêu... Dân cư phần
đông là người Cao Miên. Ðất đai phần lớn là rừng và bưng biền nước ngập.
Quân
Xiêm đuổi đến Ba Thắc bị quân Tây Sơn phục kích đánh cho một trận tơi bời phải
thối lui. Quân Tây Sơn thừa thế vượt sông Hậu Giang sang Trà Ôn để rồi lui về
Ðông Khấu Ðạo ở Sa Ðéc. Quân đóng ở An Xuyên Ðạo (Cà Mau) bị cô thế cũng rút về
Trà Ôn. Giặc lại đuổi theo... Nhưng đến Man Thiếc (Mânthít) thuộc Vĩnh Long thì
gặp đạo quân của Trương Văn Ða từ Sa Ðéc kéo xuống đánh kịch liệt. Châu Văn
Tiếp bị Trương Văn Ða chém chết. Quân giặc rút lui xuống Trà Cú. Nhưng Trương
Văn Ða liệu thế không thắng nổi giặc bèn bỏ vùng đất miền Tây về phía hữu ngạn
sông Tiền Giang, kéo đại binh về đóng ở Mỹ Tho.
Vì mất
người hướng đạo là Châu Văn Tiếp, giặc không dám sang sông, lấy Ðông Khấu Ðạo ở
Sa Ðéc làm Tổng Hành dinh .
Sau trận
kịch chiến ở Man Thiếc vào khoảng trung tuần tháng 10 năm Giáp Thìn (tháng
11/1784) có vài trận nhỏ kế tiếp, đáng kể là trận tháng 11 năm Giáp Thìn (tháng
12 năm 1784) tại đồn Ba Lai ở giữa Ðịnh Tường và Vĩnh Long. Chỉ huy trận này là
Ðặng Văn Lương, người Ðịnh Tường, theo Phúc Ánh làm tới chức Chưởng Cơ và Lê
Văn Quân cũng người Ðịnh Tường, theo Phúc Ánh làm đến chức Ðô Ðốc. Ðô Ðốc lên
thay Châu Văn Tiếp làm Tổng Nhung. Họ Ðặng và họ Lê cậy mình là người địa
phương thông thạo đường lối, đương tính đem quân đánh úp quân Tây Sơn. Chẳng
ngờ bên Tây Sơn đã phòng bị trước, cho phục binh ở ngoài, đợi quân Nguyễn vào
đồn rồi trong đánh ra ngoài đánh vô. Khí thế quân Tây Sơn rất mạnh, quân Nguyễn
không chống nổi bị giết gần hết. Ðặng Văn Lương bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn
Kim chém chết. Lê Văn Quân bị Lê Văn Kế đánh trọng thương, chạy thóat nhưng
phẫn uất mà tự sát.
Từ đó
quân Xiêm - Nguyễn đóng yên một chỗ.
Trương
Văn Ða với số quân không quá 10 nghìn, phải tận lực giữ vững nửa phần đất còn
lại ở phía Ðông từ Tiền Giang trở ra. Vùng đất phía Tây từ Tiền Giang, Hậu
giang trở vô đều thuộc quyền kiểm soát của quân Xiêm - Nguyễn.
Chiếm
được nửa phần đất Gia Ðịnh, tướng sĩ Xiêm sanh ra kiêu căng. Chúng xem thường quân
Tây Sơn, khinh mạn Phúc Ánh, không lo chiến đấu mà chỉ lo tìm cách cướp bóc của
cải, hãm hiếp phụ nữ, sát hại những người Việt Nam tỏ thái độ hay có hành động
chống đối. Chúng đã dùng chiến thuyền chở về Xiêm không biết bao nhiêu con gái,
vàng bạc của cải đã cướp được. Nhân dân ta thán. Hành động bạo ngược của quân
giặc đào sâu lòng căm thù của toàn dân miền Tây và cả miền Ðông Gia Ðịnh, căm
thù cả Xiêm lẫn Nguyễn kẻ rước giặc về phá quê hương, và hết lòng ủng hộ tướng
sĩ Tây Sơn.
Nhờ lòng
dân ủng hộ mà Trương Văn Ða với một số quân ít ỏi có thể chặn đứng được bước
tiến của giặc. Nhưng liệu thế không thể kéo dài được mãi. Cuối năm 1784 Trương
Văn Ða sai Ðô Uùy Ðặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ tình hình ở Gia Ðịnh.
Nghe qua
lời tấu của Ðô úy Ðặng Văn Trấn, triều đình Tây Sơn biết rằng lực lượng của
giặc mạnh hơn mấy lần trước thập bội, Vua Thái Ðức liền sai Nguyễn Huệ, Võ Văn
Dũng, Trần Quang Diệu cùng bộ tướng đem đại binh vào tảo trừ. Bùi Thị Xuân xin
tòng chinh.
Binh Tây
Sơn xuống thuyền vào Nam khoảng hạ tuần tháng 11 năm Giáp Thìn (tức khoảng đầu
năm 1785). Quân thiện chiến chừng 2 vạn, danh tướng, ngoài Võ, Trần, Bùi, còn
có Ðô úy Ðặng Văn Trấn và một số thuộc tướng.
Thủy
binh Tây Sơn vào cửa Cần Giờ, nhưng không vào Vũng Tàu để lên Gia Ðịnh như mấy
lần trước, mà đi thẳng vào Nam theo cửa sông Tiền Giang kéo đến Mỹ Tho. Chủ lực
của Tây Sơn do Trương Văn Ða chỉ huy đóng tại Mỹ Tho.
Nguyễn
Huệ sai Trương Văn Ða ra giữ thành Gia Ðịnh, còn mình thì đóng quân tại Mỹ Tho
quyết một trận tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Trước
hết Nguyễn Huệ thân hành đi xem xét địa hình địa thế, và cho người do thám tình
hình của địch.
Mỹ Tho
lúc bấy giờ gọi là Trường Ðồn, đất đai phì nhiêu, rừng núi hiểm trở, sông ngòi
lưu thôn. Có thành bằng đất, chu vi độ bốn dặm, có hai cửa tả hữu, hào rộng 4
trượng, ngoài cửa có cầu ván vững chắc để qua hào, ngoài hào còn có lũy che
chở. Trước mặt đồn có sông Ðại Giang gọi là sông Mỹ Tho, một chi lưu của sông
Tiền Giang. Mặt sau có sông Vàm Cỏ Tây. Nước sông theo thủy triều mà lên xuống,
rất tiện cho việc giao thông. Ở phía tây đồn lại có một cánh rừng rộng làm hào
thành. Rừng ngập sình lầy và mọc toàn dừa nước, nên tục gọi là Rừng Dừa.
Ðịa thế
khá hiểm trở.
Trên
sông Ðại Giang tức sông Mỹ Tho lại có một khúc vừa sâu vừa rộng vừa dài. Ðó là
nhờ nước sông Sầm
Giang
tục gọi là Rạch Gầm và sông Hiệp Ðức tục gọi là Rạch Cái La hay Rạch Xoài Mút
chảy vào tăng lưu lượng cho nước sông Tiền Giang. Từ Rạch Gầm đến Xoài Mút dông
dài 5 dặm (khoảng 6 cây số), và rộng gần cả dặm (1 cây số). Thủy triều lên thì
tràn đầy, khi xuống vẫn không cạn. Giữa sông có một gò đất bồi chu vi khoảng 5
dặm, gọi là Cù lao Thới Sơn và một cù lao nhỏ gọi là cù lao Hộ hay bãi Tôn. Hai
bên bờ sông và trên cù lao lau lách và cây bần mọc um tùm và không có vết chân
người qua lại.
Nguyễn
Huệ dùng khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút và Rừng Dừa làm trận địa để diệt quân
thù. Vì quân Xiêm
- Nguyễn
tập trung toàn bộ lực lượng, cả thủy quân tại đạo Ðông Khấu ở Sa Ðéc, lực lượng
quá lớn (300 chiến thuyền và 5 vạn thủy lục quân), không thể nào đánh thẳng vào
đại doanh của địch với số quân không đầy một nửa. Nguyễn Huệ phải dụ địch ra
ngoài nơi có lợi thế cho mình. Nguyễn Huệ cho thủy binh mai phục trong các
nhánh sông Rạch Gầm, Xoài Mút và trong các con sông nhỏ chảy quanh các cù lao.
Còn bộ binh thì một đạo mai phục ở hai bên bờ sông và trên cù lao Thới, trên
bãi Tôn, một đội mai phục nơi Rừng Dừa. Thủy binh do Nguyễn Huệ và Võ Văn Dũng
chỉ huy. Bộ binh do vợ chồng Trần Quang Diệu điều khiển.
Vạn sự
cụ bị Nguyễn Huệ cho Võ Văn Dũng kéo binh đến khiêu chiến. Ðó là chiều ngày
mùng 9 tháng chạp năm Giáp Thìn, tức 19 tháng 11 năm 1785.
Quân
Xiêm - Nguyễn khi được tin binh Tây Sơn kéo đến Mỹ Tho thì liền chuẩn bị sẵn
sàng để đối phó.
Nhưng do
chưa biết được rõ lực lượng của địch mạnh yếu thế nào nên chưa tấn công. Bị
khiêu chiến, Chiêu Tăng liền cắt Sạ Uyển cùng một vạn bộ binh ở lại giữ đại bản
doanh và các nơi hiểm yếu, còn mình thống lãnh đạo thủy lục quân đi đánh Tây
Sơn.
Bộ binh
do Lục Côn chỉ huy theo tả ngạn sông Tiền Giang đi xuống.
Thủy
binh do Chiêu Sương làm tiên phong kéo thẳng xuống sông Mỹ Tho.
Hai đạo
thủy bộ đều có tướng sĩ của Nguyễn Phúc Ánh dẫn đường, hẹn nhau sau khi chiến
thắng Mỹ Tho
thì đồng
kéo nhau ra đánh thành Gia Ðịnh.
Trời
tháng chạp quang đãng. Trăng thượng huyền treo cao.
Quân
giặc kéo đi rầm rộ. Nhưng không thể tiến nhanh, vì trên bờ lau lách, dưới sông
thì nước triều đương dâng.
Võ Văn
Dũng vừa đánh vừa lui.
Ðến
giang đầu sông Mỹ Tho thì trời bắt đầu tối. Ðèn được treo trên thuyền đôi bên
thắp sáng rực trời.
Thuyền
Tây Sơn núp trong Rạch Gầm kéo ra hợp lực cùng thuyền Võ Văn Dũng chặn không
cho thuyền giặc tiến. Ðợi khi trăng sắp lặn, thủy triều sắp rút thì Võ Văn Dũng
trá bại. Thuyền giặc ra sức đuổi theo. Ðến Rạch Gầm, một phần lớn thuyền Tây
Sơn tắt hết đèn đuốc, trẽ vào rạch, còn phần nhỏ thì chạy thẳng theo dòng sông
Mỹ Tho. Thuyền giặc cứ trông theo ánh sáng mà đuổi. Khi thuyền giặc đã lọt trọn
vào trận địa, thì một tiếng pháo lệnh nổ vang. Thuyền của Tây Sơn do Nguyễn Huệ
chỉ huy từ rạch Xoài Mút và các sông nhỏ kéo ra chặn đánh. Ðồng thời súng đại
bác trên cù lao Thới Sơn và hai bên bờ sông nã liên thanh vào thuyền giặc. Bị
đánh thình lình, Chiêu Sương hoảng hốt cho dừng thuyền lại. Thuyền trước dừng
lại một cách đột ngột, những đoàn thuyền đi sau đương đà tiến nhanh theo nước
triều rút, không sao hãm kịp, bị va vào nhau, hết lớp này đến lớp khác. Ðoàn
thuyền đi sau rốt vừa quay trở lại thì bị thuyền ở Rạch Gầm kéo ra đánh thối
lui vào trận địa.
Phần bị
trước chặn đánh, sau đuổi đánh, phần bị hai bên hông và trên đầu đại bác nã,
phần thuyền va vào nhau, hàng ngũ rối loạn, hết phương day trở, hết phương
chống đỡ, thuyền địch lớp bị tan vỡ, lớp bị bắn chìm không còn một chiếc. Quân
sĩ lớp nhảy xuống nước bị chết chìm, lớp bị giết chết, trăm phần không còn được
một, hai. Thế là 300 chiến thuyền và 2 vạn thủy binh của Xiêm và một số quân
của Phúc Ánh bị hoàn toàn tiêu diệt.
Còn đạo
bộ binh của giặc đương đi bỗng nghe tiếng đại bác nổ, liền dừng bước. Thình
lình trong lau lách phục binh của Tây Sơn vừa hét vừa xông ra. Lục Côn trở tay
không kịp, bị Bùi Thị Xuân chém một nhát bay đầu [49]. Binh lính hết hồn, đều
bỏ chạy tán loạn. Nhưng sau lưng có quân đánh, hai bên tả hữu cũng có quân
đánh, chúng ùa nhau chạy về phía trước, nhảy ào vào rừng dừa. Hai vạn binh Xiêm
và số quân nhà Nguyễn, lớp bị đao kiếm, lớp bị sình lầy, chết không còn một
mống !
Trời vừa
rạng đông thì chiến cuộc cũng vừa dứt. Quân Tây Sơn toàn thắng, Chiêu Tăng và
Chiêu Sương tẩu thoát. Nguyễn Phúc Ánh được một bộ tướng là Nguyễn Văn trị cứu
khỏi và cõng chạy đến trốn nơi Mỹ Ðức ở Thi Giang, rồi chạy lần ra náu ở Cồn
Khơi thuộc Hà Tiên.
Tướng
Xiêm Chiêu Tăng và Chiêu Sương[50] trốn thoát chạy về Sa Ðéc, bị quân Tây Sơn
truy kích, hối hả cùng Sạ Uyển kéo tàn quân chạy bộ về Xiêm. Kiểm điểm quân số
thì khi xuất quân, thủy bộ cả thảy 5 vạn, lúc trở về chỉ còn mươi ngàn lục quân
và không đầy vài ngàn thủy quân! Như vậy chỉ trong một trận Tây Sơn tiêu diệt
gần 4 vạn quân Xiêm và 300 thuyền chiến.
Còn
Nguyễn Phúc Ánh hết trốn nơi này đến nơi khác, liệu không thoát khỏi tay đối
phương luôn luôn cho lùng bắt, bèn cùng một số tướng sĩ chạy qua Xiêm xin tị
nạn[51].
Quét
sạch quân xâm lăng, đuổi được Nguyễn Phúc Ánh ra khỏi nước, Nguyễn Huệ lo sắp
đặt tề chỉnh việc quân việc dân, rồi giao Gia Ðịnh cho Trương Văn Ða và Ðặng
Văn Chấn trấn thủ, còn mình cùng Võ Văn Dũng và vợ chồng Bùi Thị Xuân kéo đại
binh về Quy Nhơn.
Cao Tắc
Tựu và Triệu Ðình Tiếp bàn cùng nhau:
+ Cuộc
chiến thắng này đã làm sáng tỏ chính nghĩa của nhà Tây Sơn. Cái tội rước voi
của Nguyễn Phúc Ánh đã sờ sờ ra đó, và có công giải thoát ách ngoại xâm của
Long Nhương Tướng quân đã đủ trang bị cho chúng ta để chinh phục nhân tâm của
sĩ phu và lê thứ đất Gia Ðịnh.
+ Phần
đông sĩ phu Gia Ðịnh hiểu nghĩa chữ trung một cách lệch lạc. Họ chỉ nghĩ đến
Vua, cho rằng trung quân tức ái quốc. Cho nên cứ khư khư ôm chữ trung quân vào
lòng, mặc dù Vua kia, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của mình mà dẫm đạp lên trên
quyền lợi chung của Tổ quốc và Dân tộc. Họ nghĩ rằng đất này là của nhà Nguyễn
bị nhà Tây Sơn chiếm đoạt, thì Nguyễn Phúc Ánh có quyền nhờ ngoại bang giúp
mình đánh lấy lại. Phá nước hại dân là tội của quân Xiêm, chớ không phải tội
của Phúc Ánh. Cho nên họ không oán giận họ Nguyễn mà chỉ căm thù quân Xiêm.
Phải đả phá cho được tư tưởng sai lầm đó, thì lời nói phải của chúng ta mới lọt
được vào tai.
+ Ðất
Gia Ðịnh rộng mênh mông mà chỉ có hai chúng ta thì không thể nào dẫy hết cỏ dại
đã ăn sâu vào trí não, để cấy lúa trồng dâu.
Hai ông
liền bàn cùng Trương Văn Ða và Ðặng Văn Chấn rồi một mặt làm sớ gởi về Quy Nhơn
xin thêm người, một mặt chiêu nạp nhân tài ở địa phương làm phụ tá.
Vua Thái
Ðức liền sai Huỳnh Văn Thuận và Lưu Quốc Hưng vào tăng cường.
Từ ấy
đồng bào Gia Ðịnh được an cư lạc nghiệp.
Việc học
hành được tổ chức khắp nơi. Ruộng đất mỗi ngày mỗi thêm mở rộng. Quân sĩ thay
phiên nhau làm
việc
canh tác với đồng bào. Gia Ðịnh trở thành nơi trù phú.
----------
[48]Ðích
danh là Hỏa hổ lớn bằng cổ tay, làm bằng đèn khối, rất nhạy lửa, nước tưới
không tắt, chỉ đất bùn mới dập tắt.
[49]
Nghe truyền rằng viên tướng Xiêm thấy Bùi nữ tướng đường kiếm tuyệt luân, sắc
đẹp lại tuyệt mỹ, đứng ngó sững sờ nên bị nữ tướng chém không đỡ kịp. Ðầu giặc
bay xa đến mấy dặm và bị rơi dính trên cây cao.
[50] Các
sách Quốc ngữ đều chép là Chiêu Sương và giải thích rằng Chiêu là một chức
quan. Nhưng sách Nguyễn triều long hưng sự tích lại chép là Triệu Tăng và gọi
là Thế Tử.
[51] Các
sách Quốc ngữ đều chép rằng trong số tướng tá chạy theo Nguyễn Phúc Ánh có Lê
Văn Quân. Song nghe truyền Quân bị thua trận Ba hai xấu hổ tự sát. Lời truyền
phù hợp với lời ghi trong Ðại Nam Nhất Thống chí nơi mục sông ngòi và mục nhân
vật.
TÂY SƠN
PHÒ LÊ DIỆT TRỊNH
Bình
xong mặt phía Nam, nhà Tây Sơn lo đến mặt phía Bắc.
Thành
Thuận Hóa, sau Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Ðạt vào trấn thủ. Nhưng không bao lâu
chúa Trịnh lại sai Phạm Ngô Cầu vào thay thế. Phạm Ngô Cầu là người vô mưu lại
tham lam, chỉ lo việc làm giàu, còn việc dân việc quan phó mặc cho kẻ thuộc hạ.
Vua Thái
Ðức biết Thuận Hóa không phòng bị, bèn sai Nguyễn Huệ làm Tiết Chế, Võ Văn Nhậm
làm Tả Quân Ðô Ðốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu Quân Ðô Ðốc đem bộ binh đi trước.
Nguyễn Văn Lộc làm Thủy Quân Ðô Ðốc cùng Nguyễn Lữ đem thủy binh theo sau.
Võ Văn
Nhậm, Nguyễn Văn Lộc là người cũ Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh vừa mới quy thuận.
Nguyễn
Hữu Chỉnh là người huyện Chân Lộc, tỉnh Nghệ An, đỗ hương cống từ lúc 16 tuổi.
Có tài ngôn luận lại lắm cơ trí và thông binh pháp. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc
thường đi đánh giặc bể, giặc sợ gọi là Chim Bằng. Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Chỉnh
theo Hoàng Ðình Bảo. Hoàng Ðình Bảo bị kiêu binh nổi dậy ở Thăng Long giết
chết. Chỉnh chạy vào Quy Nhơn phò Tây Sơn.
Nguyễn
Hữu Chỉnh, năm trên vâng lệnh Hoàng Ngũ Phúc, mang ấn kiếm vào Quy Nhơn, nên
đối với Vua Thái Ðức không phải chỗ xa lạ, do đó mà được nhà vua tin dùng, sai
cùng Nguyễn Huệ đem binh ra đánh Thuận Hóa.
Ðại binh
xuất phát ngày 18 tháng 5 năm Bính Ngọ (1786).
Ngày 24
lấy được An Tông, Nguyễn Huệ theo lời Nguyễn Hữu Chỉnh làm một phong thư để gởi
cho phó
tướng
giữ thành Phú Xuân là Hoàng Ðình Thể, khuyên về hàng Tây Sơn, rồi giả tảng bắn
lầm thư vào trại Phạm Ngô Cầu. Ngô Cầu sanh nghi... Khi binh Tây Sơn vây đánh
thành Phú Xuân, Ngô Cầu sai Hoàng Ðình Thể ra đánh. Ðình Thể cùng hai con và tỳ
tướng là Vũ Văn Kiên đem quân bản bộ ra trận. Bắn hết súng đạn, Ðình Thể kêu
cứu. Ngô Cầu đóng chặt cửa thành không tiếp ứng, Vũ Văn Kiên và hai con Ðình
Thể đều bị Võ Văn Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh giết chết.
Ðình
Thể, sức cùng lực kiệt, tự vận trên mình voi. Nguyễn Huệ ra lệnh phá thành.
Nguyễn Văn Lộc xông vào bắt sống được Phạm Ngô Cầu đương cùng gia đình khuân
của cải chạy trốn.
Thành
Phú Xuân hạ xong, Nguyễn Huệ sai Nguyễn Lữ, Võ Văn Nhậm, Nguyễn Văn Lộc tiến
quân đánh lấy các doanh trại thuộc Quảng Trị, Quảng Bình.
Chỉ
trong mấy hôm, đất Thuận Hóa đã nằm trọn trong tay nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ bèn
treo bảng phủ dụ nhân dân.
Nguyễn
Hữu Chỉnh đem tình hình Bắc Hà ra kể tỉ mỉ cho Nguyễn Huệ nghe, nào là Vua Lê
chỉ có hư vị, bị chúa Trịnh hà hiếp mà không dám phản ứng, chỉ ôm bụng xót
thầm; nào chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ trong phủ Liêu [52] chia bè phái sát hại
lẫn nhau: nào kiêu binh nổi dậy đánh phá kinh thành, giết triều thần, cướp bóc
dân chúng... quan quân không kiềm chế nổi... Ðại loạn! Nên có thơ:
Lửa hồng
từ dậy mái thành đô
Ðoài
chốn lầm than chuyện được thua
Xanh
biếc thú quê người ẩn dật
Bạc đen
đường thế khách bôn xu
Suy
tường mỗi mỗi đau lòng trí
Tính
quẩn trần trần nát dạ ngu
Muốn đến
Vị Xuyên mà hỏi Lữ
Rằng
Thương xưa cũng thế này ru ?
Rồi
khuyên Nguyễn Huệ ra đánh lấy Bắc Hà.
Nguyễn
Huệ sau khi dẹp yên Gia Ðịnh đã có ý muốn bành trướng ra mặt Bắc. Nay nghe lời
Chỉnh, rất lấy làm vừa lòng, nhưng giả ý do dự;
- Bắc Hà
có nhiều nhân tài, không nên coi thường.
Chỉnh
nói:
- Nhân
tài Bắc Hà chỉ một mình Chỉnh. Nay Chỉnh đã bỏ đi, thì nước không còn ai nữa.
Xin ông đừng ngại.
Nguyễn
Huệ cười:
- Người
khác thì không ngại. Chỉ ngại có ông thôi.
Chỉnh
toát mồ hôi:
- Tôi tự
biết tài hèn. Tôi nói lớn lối thế để ông tin rằng Bắc Hà không có người địch
nổi ông đó thôi.
Nguyễn
Huệ kiếm lời an ủi rồi nói:
- Nhà Lê
làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ đánh đổ, thì chưa chắc lòng người đã theo
mình. Chỉnh đáp:
- Bắc Hà
có Vua lại có Chúa. Một việc chưa từng có xưa nay. Thêm nưa họ Trịnh tiếng là
phò Lê nhưng sự thực là hiếp chế. Ðiều đó ai ai cũng biết. Hầu hết đám sĩ phu
Bắc Hà đều bất mãn, nhưng vì thế yếu không làm gì được để giúp nhà Lê. Nay ông
mà lấy danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai mà chẳng theo.
Nguyễn
Huệ nói:
- Ông
bàn phải lắm. Nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh Thuận Hóa mà thôi. Nếu ra Bắc Hà
nữa thì sao cho khỏi mang tội kiểu mệnh [53].
Nguyễn
Huệ bèn làm tờ tấu lên Vua Thái Ðức về việc lấy được Thuận Hóa và xin xá tội vì
việc tự tiện đem quân đi đánh Bắc Hà, lại cho giải Phạm Ngô Cầu về Quy Nhơn để
triều đình xét xử.
Ðoạn sai
Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi trước, để Nguyễn Lữ và Nguyễn Văn Lộc ở lại
giữ thành Phú Xuân, còn mình và Võ Văn Nhậm kéo bộ binh theo sau, hẹn cùng
Chỉnh sẽ gặp nhau ở Vị Hoàng.
Ngày
mồng 6 tháng 6 năm Bính Ngọ (1-7-1786) Nguyễn Hữu Chỉnh đến Vị Hoàng. Quan quân
bỏ chạy.
Chỉnh
lấy được trăm vạn hộc lương, rồi đốt lửa làm hiệu. Binh Nguyễn Huệ kéo đến Vị
Hoàng hợp với Chỉnh rồi kéo ra Thăng Long.
Chúa
Trịnh là Trịnh Khải cho Trịnh Tự Quyền đem quân ra nghinh chiến. Tự Quyền đến
giữ ở mặt Kim Ðộng. Viên trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dân đem bộ binh đến đóng ở
xã Phù Sa, thuộc huyện Ðông An, Ðinh Tích Nhưỡng đem thủy quân ra giữ cửa Luộc.
Chiến
thuyền Tây Sơn vào sông Vị Hoàng. Gặp gió đông thổi mạnh, đêm đến Nguyễn Huệ
sai lấy tượng gỗ để trên mấy chiến thuyền, rồi cho đánh trống kéo cờ, thả
thuyền cho trôi đi. Ðinh Tích Nhưỡng tưởng địch tới đánh, dàn thuyền thành trận
chữ nhất, rồi truyền lấy súng mà bắn. Khi biết rằng người trên thuyền là tượng
gỗ, thì đạn dược đã cạn. Binh Nguyễn Huệ ùa tới đánh, Ðinh Tích Nhưỡng không
chống cự nổi, phải bỏ thuyền mà chạy. Quân của Tự Quyền và Thế Dân cũng bị đánh
tan, thành Sơn Nam bị hạ.
Nguyễn
Huệ một mặt truyền hịch đi khắp nơi, nói là lấy nghĩa phò Lê diệt Trịnh, một
mặt kéo quân lên lấy Thăng Long.
Thuyền
Tây Sơn vào đến sông Thúy Ái, Ngô Cảnh Hoàn chận đánh. Một trận thủy chiến kịch
liệt. Ngô Cảnh Hoàn tử thương, bao nhiêu thuyền đều bị đánh đắm, quân sĩ chết
đuối gần hết!
Ngô Cảnh
Hoàn, người làng Trảo Nha, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, là một trung thần của
nhà Lê. Ngô có người vợ thứ tên Phan Thị Thuấn sắc đẹp, đức cao. Ðược tin Ngô
tử trận, người nhà ai nấy thương khóc, riêng bà vẫn cười nói như thường. Có
người hỏi, bà đáp:
- Ðược
chết vì nước, còn chi hơn nữa mà buồn.
Người
chung quanh cạn nghĩ, chê bà không thương chồng. Bà không chút quan tâm. Ðến
tuần bá nhật, cúng tế xong, bà trang điểm lịch sự, sai bơi thuyền ra tại chỗ
Ngô Cảnh Hoàn bị giết, kêu lên một tiếng chàng ơi rồi tự trầm. Nhân dân địa
phương thương người tiết nghĩa, lập đền thờ và dựng bia kỷ niệm ở bên sông.
Người
sau có thơ:
Chàng đi
theo nước, thiếp theo chồng
Thiếp
chết trinh mà chàng chết trung
Ðến thế
ân tình thôi trọn vẹn
Việc chi
cười nói vẫn thung dung
Ma chay
đã đủ trên trần thế
Ðào đỏ
thôi về với thủy cung
Giã họ
giã hàng giã thôn xóm
Cương
thường để lại với non sông.
(DƯƠNG
BÁ TRẠC)
Chàng
trung cho thiếp mới nên trinh
Nửa vị
giang san nửa vị tình
Má phấn
môi son làn nước biếc
Gan vàng
dạ ngọc đá bia xanh
Sô gai
thiên hạ âu thừa nhĩ
Gió bụi
nhân gian chẳng bợn mình
Qua lại
thuyền ai sông Thúy Ái
Còn
chăng gợn sóng với hương thanh.
(TẢN ÐÀ)
Thắng
Ngô Cảnh Hoàn quân Tây Sơn tiến đánh Hoàng Phùng Cơ ở hồ Vạn Xuân. Quân Trịnh
tan rã, Phùng Cơ tẩu thoát. Trịnh Khải vội lên voi thúc quân tiến đánh, bị Nguyễn
Huệ đánh tơi bời, phải bỏ chạy lên Sơn Tây. Ðến làng Hạ Lôi bị người địa phương
bắt đem nạp cho Tây Sơn. Ði nửa đường lấy gươm tự vẫn.
Nguyễn
Huệ dùng vương lễ tống táng cho họ Trịnh.
Ngày 26
tháng 6 năm Bính Ngọ (21-7-1786), Nguyễn Huệ vào Thăng Long mở kho Hữu Viên
phát chẩn cho người nghèo. Ngày hôm sau, vào cung Vạn Thọ yết kiến Vua Lê.
Bấy giờ
Vua Lê Hiển Tông đương bệnh, không ngồi dậy được, bèn mời Nguyễn Huệ vào ngồi
bên sập ngự, lấy lời ôn tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu rằng đem binh ra Bắc Hà
không còn mục đích nào khác hơn là để diệt Trịnh, phò Lê. Hiển Tông mừng rỡ, tạ
ơn.
Khi binh
Tây Sơn vào thăng long thì các quan triều đều chạy trốn hết. Vua Hiển Tông
xuống chiếu triệu về, rồi định ngày 7 tháng 7, lập đại trào ở điện Kính Thiên,
Nguyễn Huệ đem các tướng vào bái yết và dâng sổ quân sĩ dân đinh, để tỏ nghĩa
tôn phù nhất thống. Vua phong cho Nguyễn Huệ là Nguyên Soái Uy Quốc Công và gả
người con gái thứ 21 là Ngọc Hân Công Chúa, tục gọi là Chúa Tiên, con bà Chiêu
Nghi Hoàng Hậu.
Mười hôm
sau - 17 tháng 7 (10-8-1786)
- Vua
Hiển Tông băng hà. Hoàng Tôn là Lê Duy Kỳ lên nối ngôi đặt niên hiệu là Chiêu
Thống. Vua Thái Ðức được tin Nguyễn Huệ kéo quân đi đánh Bắc Hà, cho người ra
ngăn cản nhưng không kịp. Lại được tiếp tin Huệ lấy xong Thăng Long và còn ở
lại giúp Vua Lê sửa sang việc nước, Vua Thái Ðức sợ em ở ngoài lâu sanh biến
muốn gọi về, song liệu giấy mực không chế ngự nổi, nên phải thân hành ra Bắc.
Nhà vua đem theo 500 nhuệ binh ra Thuận Hóa lấy thêm 2.000 nữa, rồi ngày đêm đi
thẳng ra Thăng Long.
Ðến Nghệ
An, nhà vua gặp một toán người trần truồng tay cầm ống tre đứng hai bên đường,
xưng là người đi buôn bị tướng cướp là Chưởng Tấn đoạt hết của cải và quần áo,
cầu xin nhà vua bắt kẻ hung đồ đặng lấy lại vật bị cướp. Ðoạn chỉ đường cho nhà
vua đi. Ðến nơi quanh co khúc khuỷu, toán người trần truồng hè to một tiếng,
rút kiếm giấu trong ống tre ra chém nhà vua. Liền đó một số người đông đảo từ
trong bụi rậm nhảy ra đâm chém quân tùy tùng. Lanh như chớp, nhà vua rút trường
kiếm, quay một vòng, bao nhiêu lưỡi kiếm chém vào nhà vua đều lớp bị gãy lớp
văng ra, và quay tiếp một vòng nữa, mươi mươi lăm chiếc đầu rụng xuống như
sung. Còn số người từ trong bụi nhảy ra bị quân Tây Sơn đánh giết, lớp chết lớp
quăng vũ khí chạy thoát thân. Hỏi ra thì đó là toán ăn cướp do Chưởng Tấn cầm
đầu. Chưởng Tấn là bộ hạ của viên trấn thủ Nghệ An bị tướng Tây Sơn giết.
Chưởng Tấn thoát chết, tụ tập bọn bất lương chờ dịp báo thù cho chủ. Bọn chúng
có trên vài trăm người, ngày ngày chận đường cướp giựt hành khách và vào xóm
làng phá phách nhân dân. Nay nhà vua tiêu diệt được bọn chúng, đồng bào địa
phương rất hàm ơn .
Ðến
Thanh Hóa, thuyền nhà vua vừa ra đến giữa sông thì thình lình bị người lặn dưới
nước đâm thủng đáy. Nước chảy ấp vào thuyền. Quân cận vệ không kịp trở tay bị
chết đuối. Nhà vua lanh chân nhảy qua thuyền khác được an toàn.
Từ ấy
biết rằng có kẻ địch theo bên mình, nhà vua đề phòng ráo riết. Ban đêm nghỉ dọc
đường, chớ không ghé vào nhà ai hết.
Ði đến
Thăng Long thì người mệt ngựa mỏi.
Ðược tin
Vua Thái Ðức đến Thăng Long, Nguyễn Huệ loan báo cho dân chúng biết để khỏi
kinh động nhân
tâm, rồi
cùng tướng sĩ ra ngoài thành nghinh đón. Vua Chiêu Thống đem quần thần ra chực
nơi cửa Nam Giao. Nhưng Vua Thái Ðức theo em đi thẳng đến phủ chúa Trịnh mà Nguyễn
Huệ và tướng sĩ đương đóng, cho người đến hẹn cùng Vua Chiêu Thống sẽ hội kiến
ngày hôm sau [54].
Lễ tương
kiến của hai Vua tổ chức tại phủ chúa Trịnh. Vua Thái Ðức ngồi giữa, Vua Chiêu
Thống ngồi bên tả, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, các quan văn võ đứng chầu hai bên.
Sau khi làm lễ, Vua Chiêu Thống nói:
- Nhà Lê
tôi bị họ Trịnh tiếm lộng đã hai trăm năm dư. Nay nhờ quý quốc trượng nghĩa
hành nhân, vì tệ quốc gia mà chỉnh đốn lại, thì cái công đức kiền khôn tái tạo
đó không biết lấy chi báo đáp cho xứng. Kính xin cắt đất vài quận làm quà để
khao thưởng tướng sĩ.
Vua Thái
Ðức đáp:
- Anh em
chúng tôi ra đây để phò Lê diệt Trịnh. Nếu đất của họ Trịnh thì một tấc cũng
không để lại, nhưng
mà của
nhà Lê thì một tấc cũng không dám lấy. Mong nhà vua giữ yên bờ cõi, đời đời
giao hiếu với nhau.
Ðó là
cái phúc của hai nước.
Rồi Vua
Chiêu Thống lui về cung.
Một tuần
nhật sau Vua tôi nhà Tây Sơn rút quân về nước.
Nguyễn
Huệ xét thấy Nguyễn Hữu Chỉnh là con người giảo quyệt, định bỏ lại Bắc Hà, nên
mật truyền cho các tướng thu xếp quân thủy bộ, rồi nửa đêm ngày 17 tháng 7
nhuận (9-9-1786) kéo quân về Nam, lặng lẽ êm đềm, người trong thành không một
ai hay biết .
Ðến Nghệ
An, Vua Thái Ðức để Nguyễn Duệ ở lại giữ Nghệ An và cắt Võ Văn Nhậm đóng ở Ðông
Hải để trông chừng mặt Bắc. Liền đó thì Nguyễn Hữu Chỉnh theo kịp. Vua Thái Ðức
cho Chỉnh ở lại giúp Nguyễn
Duệ,
Nguyễn Huỳnh Ðức cũng xin ở lại Nghệ An[55].
Nguyễn
Duệ là người tâm phúc của Vua Thái Ðức. Theo phò nhà vua lúc nào và người ở
đâu, không rõ.
Còn
Nguyễn Huỳnh Ðức là tướng nhà Nguyễn bị Tây Sơn bắt trong trận thủy chiến ở Gia
Ðịnh năm Quý Mão (1783).
Quân
giải Nguyễn Huỳnh Ðức về đại bản doanh, Nguyễn Huệ trông thấy tướng mạo khôi
ngô kỳ vỹ, lòng sanh ái mộ, bèn tự tay cởi trói cho Nguyễn Huỳnh Ðức và ôn tồn
khuyến dụ. Huỳnh Ðức đứng chống nạnh, trừng mắt, mắng rằng:
- Tôi
trung không thờ hai chúa. Nay rủi bị bắt thì tôi chỉ đợi chết chớ không bao giờ
đầu hàng.
Các
tướng phẫn nộ, xin đem chém đi, Nguyễn Huệ cười:
- Thái
độ của Nguyễn Huỳnh Ðức có gì là quái. Ðó là bản sắc của người anh hùng và lòng
trung nghĩa của
kẻ
trượng phu. Trước cái chết mà không khuất đó là trung can nghĩa đảm, đó là
chánh khí đường hoàng. Há chẳng khiến chư tướng khâm phục sao?
Chư
tướng ngấm ngầm bất bình nhưng không dám thân biện. Nguyễn Huệ truyền đem Huỳnh
Ðức để ở sau bản doanh và sai Ngô Văn Sở đến thuyết phục. Nhưng suốt ba ngày
không có kết quả. Nguyễn Huệ có ý
buồn.
Nguyễn
Huệ có người ái cơ tên Trần Mỹ Tuyết, người có sắc lại có tài văn chương,
Nguyễn Huệ rất yêu quý và thường đem theo trong quân. Thấy chồng buồn, Mỹ Tuyết
xin đến gặp Huỳnh Ðức một lần xem sao.
Khi Mỹ
Tuyết đến thì Huỳnh Ðức đã tuyệt thực ba ngày đêm, một mình ngồi nhắm mắt trước
ngọn đèn hiu hắt. Bỗng nghe tiếng động, Ðức liền mở mắt nhìn, Mỹ Tuyết ung dung
tự giới thiệu:
- Tôi là
thuyết khách của Long Nhương tướng quân.
Huỳnh
Ðức nhắm mắt lại, ngồi lặng thinh.
Mỹ Tuyết
nói tiếp:
- Từ xưa
có câu: Thiên cổ gian nan duy bất tử. Nhưng người trượng phu đương lâm nạn, thì
sống chẳng dễ
gì mà
chết cũng rất khó. Kìa người sanh trong trời đất chỉ quý ở điểm là hoàn thành
được trách nhiệm bản thân. Trách nhiệm chưa liễu, có thể gọi là bậc hoàn nhân
chăng? Tức như Văn Tín Quốc chịu nhẫn nhục trong ba năm, đến lúc biết rằng nhà
Ðại Tống đã tuyệt vọng rồi, mới khẳng khái chịu chết ở Ðông Thị. Và Hán Thọ
Ðình Hầu, sau khi thất thủ Hạ Bì, vì nghĩ đến Lưu Hoàng Thúc lưu lạc tha
phương, mà đành phải giao ước ba điều cùng Tào Mạnh Ðức. Nhân chí nghĩa tâm,
nghìn thu truyền làm mỹ đàm. Tướng quân đọc sử, không từng biết đến sự tích ấy
hay sao?
Huỳnh
Ðức hét:
- Ta
biết rõ lắm, đừng có nhiều lời.
Mỹ Tuyết
thản nhiên nói tiếp:
- Nay
Nguyễn chúa thất bại phải chịu cảnh lưu ly, chính đương cần kẻ bầy tôi tương
trợ. Thế mà tướng
quân lại
đi cầu cái chết! Chết rồi, trách nhiệm cũng tiêu ư?
Huỳnh
Ðức dịu giọng:
- Ta
chết vì thế bức.
Mỹ Tuyết
nói:
- Lúc
này là lúc trục lộc Trung Nguyên. Nhưng chỉ có Long Nhương và Nguyễn Vương là
đối thủ. Thiên cơ huyền ảo. Cuộc đối lũy còn đương ở thế giằng co chưa có thể
biết chắc chắn được bề đắc thất. Vì tướng quân, tôi xin đưa ra một kế là hãy
tạm giữ thân hữu dụng để xem thời chọn thủ. Ðến lúc khứ lưu lưỡng tiện, thì tùy
ý sở cầu. Long Nhương tướng quân là người mục thông thiên cổ, khổ nghễ đương
thể. Thế mà đối với tướng quân lại không giết. Rõ là vì thiên hạ mà thương tiếc
anh hùng. Thấy vậy nên tôi mới tới đây. Chớ như tướng quân cũng thuộc hàng kiến
ong, thì tôi đâu phải nhọc đến miệng lưỡi.
Nguyễn
Huỳnh Ðức ngồi cúi đầu trầm ngâm.
Trần Mỹ
Tuyết cáo biệt về phục mệnh.
Nguyễn
Huệ cho Ngô Văn Sở đến ủy dụ, hứa sau này hễ lập được chiến công thì khứ lưu
tùy ý.
Nguyễn
Huỳnh Ðức theo lời Mỹ Tuyết.Nguyễn Huệ về Quy Nhơn đem Huỳnh Ðức theo.
Ra Thuận
Hóa, ra Thăng Long, Nguyễn Huệ vẫn đem Huỳnh Ðức theo bên trướng.
Và những
trận đánh Thăng Long cũng như những trận đánh Thuận Hóa, Huỳnh Ðức lập được
nhiều công.
Nhớ đến
lời hứa năm xưa, đến Nghệ An, Nguyễn Huệ bảo Huỳnh Ðức chọn đường lưu khứ.
Huỳnh Ðức xin ở lại giúp Nguyễn Duệ trấn Nghệ An, Nguyễn Huệ chấp nhận.
Dẹp yên
chúa Trịnh ở Thăng Long, đánh đuổi chúa Nguyễn ra khỏi Gia Ðịnh. Vua Thái Ðức
phong cho
Nguyễn
Huệ làm Bắc Bình Vương thống trị đất Thuận Hóa từ Hải Vân Sơn đến Hoành Sơn,
phong cho Nguyễn Lữ là Ðông Ðịnh Vương quản lý đất Gia Ðịnh từ Bình Thuận đến
Hà Tiên. Còn mình thì xưng Trung Ương Hoàng Ðế chăm lo phần đất từ Quảng Nam
đến Bình Thuận.
Quan văn
tướng võ có công cùng nhà Tây Sơn đều được tặng thưởng, và đều được Vua Thái
Ðức phân phối cho Bắc Nam, tùy nhu cầu công vụ mà cũng tùy sở nguyện cá nhân.
Cành tuy
chia nhưng cội chẳng chẽ, Bắc Nam luôn luôn liên lạc mật thiết với nhau. Và nhà
Tây Sơn cùng nhà Lê phần bên nào lo bên nấy, không xâm phạm cũng không dòm ngó
nội bộ của nhau.
Nhân dân
an cư lạc nghiệp và mong hưởng thái bình được lâu dài.
--------------
[52] Từ
khi họ Trịnh cầm quyền, thì bên nhà vua gọi là Triều Ðình bên phủ chúa gọi là
Phủ Liêu. Mọi việc về chính trị, quân sự... đều do bên phủ Liêu định đoạt cả.
[53]
Kiểu mệnh là trái mệnh. Kiểu chiến là không có mệnh Vua mà cứ xuất quân.
[54] Vua
Thái Ðức ra đi ngày nào và đến Thăng Long ngày nào không được biết. Theo Hoàng
Lê Nhất Thống chí thì nhà vua được tin Nguyễn Huệ chiếm Thăng Long ngày 14
tháng 7 năm Bính Ngọ. Năm Bính Ngọ nhuần hai tháng 7. Có thể đoán là nhà vua từ
Quy Nhơn ra đi vào hạ tuần tháng 7 trước và đến Thăng Long vào thượng tuần
tháng 7 sau. Ở Thăng Long chừng tuần nhật để ra về ngày 14 tháng 7 nhuần.
[55]
Sáng hôm sau, Chỉnh được tin Vua tôi Tây Sơn về Nam thất kinh bỏ hết tài sản,
xuống chiếc thuyền buôn chạy theo. Trong thuyền Chỉnh có làm bài văn tứ lục Tần
cung nữ oán Bái Công để trách Nguyễn Huệ (rất tiếc hiện không còn giữ. Sau Ðặng
Trần Thường dựa theo đó soạn một bài khác hay hơn).
CẢNH NỨT RẠN TRONG NHÀ TÂY SƠN
Ba anh
em nhà Tây Sơn, từ nhỏ đến lớn, đối với nhau trọn niềm thương yêu.
Từ ngày
ông Nguyễn Phi Phúc tạ thế, ông Nhạc lo vẹn đạo làm anh. Ðối với hai em, chẳng
những yêu thương vì ruột thịt mà còn quý trọng đức tài. Còn ông Huệ cũng như
ông Lữ thì yêu kính anh như cha, nhất nhất đều tuân theo mệnh lệnh.
Tình như
thế, nhưng tánh lại có khác.
Ông Lữ
lấy việc sửa mình thương người làm gốc, còn giàu sang, thua được là chuyện
ngoài thân.
Ông Nhạc
tuy thiệp thế đa mưu, song có phần bảo thủ, có phần cầu an. Khi chưa có thì
xông Nam đột Bắc, đến khi có rồi, thì có bao nhiêu bo bo giữ bấy nhiêu, và chấp
vào những gì mình đã có.
Ông Huệ
tài trí vượt hẳn anh. Nhưng khi còn ở dưới quyền anh thì triệt để phục tùng.
Khi con chim bằng đã nuôi đủ sức gió để quạt cánh lên chín tầng mây thì không
còn ai có thể kiềm chế. Và con chim bằng khi đã bay thì hướng về tương lai chớ
đâu mấy khi quay về dĩ vãng.
Nghĩa là
tánh ông Nhạc tĩnh, tánh ông Huệ động.
Ðó là
nguyên nhân gây ra xích mích giữa hai anh em làm cho nhà Tây Sơn bị nứt rạn.
Cảnh nứt
rạn ấy bắt nguồn từ ngày Tây Sơn chiếm được Phú Xuân rồi đánh ra Thăng Long.
Nguyên
sau khi dẹp yên Gia Ðịnh, ông Huệ đề nghị đem quân đánh Phú Xuân. Vì không rõ
quân chúa Trịnh mạnh yếu thế nào, nên ông Nhạc không ứng thuận. Sau ông Chỉnh
cho biết rõ tình hình, ông Nhạc mới cho xuất chinh. Lấy được Phú Xuân, ông Huệ
tự tiện đem quân ra đánh Bắc Hà. Ông Nhạc không bằng lòng song không lấy cớ gì
để bắt tội em được, nên chỉ gọi em về thôi. Về Phú Xuân ông Huệ cho chở tất cả
chiến lợi phẩm thu được ở Bắc Hà về Quy Nhơn, còn mình thì lấy cớ Thuận Hóa mới
lấy được cần phải củng cố nhân tâm và sửa sang chính sự, nên xin ở lại Phú
Xuân. Ông Nhạc đành phải chấp nhận, tuy không lấy làm vừa lòng. Ðến khi Nguyễn
Huệ được phong Bắc Bình Vương, nắm quyền quản thủ đất Thuận Hóa, thì tự ý sửa
sang thành quách, phong thưởng võ tướng văn quan chớ không tấu trình theo pháp.
Nhiều lần ông Nhạc vời ông Huệ vào Quy Nhơn, ông Huệ luôn luôn tìm cớ thoái
thác.
Nhận
thấy quyền làm anh đối với em, quyền làm vua đối với bề tôi đã bị xem khinh,
ông Nhạc cử binh ra Phú Xuân hỏi tội.
Nghe
tin, ông Huệ vỗ án nói:
- Tội gì
mà hỏi? Ðánh Nam dẹp Bắc để giữ vững ngôi báu cho anh, đó là tội à? Còn đất
Thuận Hóa này là
của ta
lấy nơi tay Chúa Trịnh. Ta thọ phong chẳng qua vì tình anh em đó thôi. Chớ đâu
phải anh ta cắt đất
của mình
phong cho ta mà bắt ta nhất nhất phải tuân theo mệnh lệnh? Công có lại quên,
tội không có lại buộc! Sao lại bất công thế. Ta không chịu nổi.
Rồi thân
hành đem quân ra chống cự.
Ông Nhạc
thấy em ra mặt bất phục tùng, càng nổi giận thêm. Không một lời phân trần, hai
bên giáp chiến.
Ðánh
nhau kịch liệt. Lần lần ông Nhạc đuối sức phải rút lui. Ông Huệ truy kích. Ông
Nhạc rút quân vào thành Quy Nhơn, cố thủ. Ông Huệ công vi cả tháng mà không hạ
nổi thành, bèn đánh chiếm núi Long Cốt, rồi kê súng đại bác trên núi bắn vào
thành. Những nơi hiểm yếu trong thành bị phá. Ông Nhạc liệu không giữ mãi được,
bèn lên mặt thành kêu ông Huệ mà khóc:
- Bì oa
chử nhục, đệ tâm hà nhẫn[56]
- Nghe
tiếng gọi của anh, ông Huệ òa lên khóc.
Rồi bãi
binh.
Từ ấy
anh em hòa thuận như cũ. Em Bắc anh Nam, lấy Hải Vân làm ranh giới.
Nguyên
nhân xích mích giữa hai anh em nhà Tây Sơn không có chi khác hơn là lòng tự ái.
Anh cậy quyền
làm lớn,
em cậy có công to. Vì chấp sanh sân hận. Một đóm lửa giận không dập tắt kịp
thời, cháy bùng lên đốt cháy cả rừng tình nghĩa! Nhưng rồi một cơn mưa nước
thân tình rưới xuống, bao nhiêu lửa giận đương cháy ngùn ngụt liền tắt ngay.
Không có
gì bí ẩn.
Nhưng để
giải thích sự bất hòa kia, nhiều nhà làm sử đặt ra chuyện. Kẻ thì nói rằng: ông
Nhạc thông gian với vợ ông Huệ, và giữ hết những của cải lấy được ở Thăng Long,
nên ông Huệ giận...
Ông Huệ
có ba bà vợ chính thức: bà họ Phạm ở Phú Phong, mẹ ông Nguyễn Quang Thùy, bà họ
Bùi ở Xuân Hòa, mẹ ông Nguyễn Quang Toản và bà Ngọc Hân công chúa con gái Vua
Lê. Lúc ông Huệ trấn thủ Thuận Hóa thì bà họ Phạm qua đời đã lâu, bà họ Bùi
theo chồng ra Phú Xuân, còn bà Ngọc Hân thì còn ở Thăng Long. Như vậy ông Nhạc
thông gian với bà nào?
Còn về
của cải lấy được ở Thăng Long, thì có thấm vào đâu so với đất đai từ Phú Yên
đến Hà Tiên Phú Quốc. Ðất kia còn để cho anh cho em không chút tiếc, tiếc gì
chút chiến lợi phẩm mà tranh? Có người lại bảo rằng: Nguyễn Phúc Ánh muốn chia
rẽ hai anh em nhà Tây Sơn, bèn lập kế ly gián. Nguyễn Phúc Ánh dùng kế mỹ nhân,
tìm một thiếu nữ Âu Châu tuyệt đẹp đem dâng cho Nguyễn Huệ và tin cho Huệ biết
trước. Nhưng lại đem dâng cho Nguyễn Nhạc, rồi báo cho Huệ biết rằng đi ngang
qua Quy Nhơn, bị Nhạc chận cướp, mặc dù biết là của em. Huệ giận kéo quân vào
đánh.
Kế mỹ
nhân, xưa nay thường được dùng đến. Nhưng xét việc bất hòa của anh em nhà Tây
Sơn xảy ra vào năm Ðinh Mùi (1787). Lúc ấy Nguyễn Phúc Ánh còn ở Xiêm La, đất
Gia định còn nằm trong tay nhà Tây Sơn, do ông Lữ trấn thủ. Nguyễn Ánh về nước
mùa thu năm Ðinh Mùi, bị tướng sĩ Nguyễn Lữ đánh liên tiếp mãi đến năm Kỷ Dậu
(1789) mới lấy được Gia Ðịnh. Như vậy Nguyễn Phúc Ánh lo chống cự với Nguyễn Lữ
chưa rồi, còn rảnh đâu lo việc ly gián ông Nhạc và ông Huệ. Huống nữa lúc
Nguyễn Phúc Ánh ở Xiêm về thì việc xích mích đã xảy ra rồi (Ánh về nước vào
tháng 7 năm Ðinh Mùi. Chuyện xích mích của anh em nhà Tây Sơn xảy ra vào khoảng
thượng bán niên năm Ðinh Mùi). Cho nên thuyết này cũng không đứng vững.
Hai giả
thuyết trên, không thấy quyển sách chữ Nho nào chép. Các bộ sử soạn dưới triều
Nguyễn không có bộ nào chép rõ nguyên nhân.
Nguyên
nhân, theo truyền thuyết ở vùng Tây Sơn chỉ là lòng cố chấp.
Và anh
em hết dạ thương yêu nhau thì giận nhau dễ mà thuận lại nhau cũng không khó
khăn.
Vì sự
xích mích kia do nguyên nhân gì không tốt thì ngòi bút của các sử gia nhà
Nguyễn dễ gì lại chịu bỏ
qua, dễ
gì không đồ đi đồ lại cho thêm đậm nét.
--------------
[56] Nồi
da xáo thịt, lòng em sao nỡ?Bà nội tôi đã diễn ra Quốc âm
BẮC BÌNH
VƯƠNG ÐỐI PHÓ MẶT BẮC
Nguyễn
Hữu Chỉnh ở Nghệ An tụ dũng sĩ, mưu đồ chiếm cứ Nghệ An. Ðồng thời ở Hà Bắc,
Trịnh Bồng được tôn lên làm chúa. Vua Lê Chiêu Thống bị nhà chúa ức hiếp bèn
gọi Nguyễn Hữu Chỉnh về. Nguyễn Hữu Chỉnh về đuổi được Trịnh Bồng. Vua Chiêu
Thống phong Chỉnh làm Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Ðại Tư Ðồ, lại gia tăng
tước Bằng Quận Công. Nắm trọn quyền bính trong tay, Chỉnh tự ý hoành hành. Muốn
mở rộng ảnh hưởng vào Nam, Chỉnh lại thông đồng với Nguyễn Duệ chiếm đất nghệ
An, sửa lũy Hoành Sơn,
lấy Linh
Giang làm giới hạn với Thuận Hóa, y như tiên triều.
Nguyễn
Duệ bằng lòng. Chẳng ngờ bị lậu sự. Võ Văn Nhậm hay được, gởi thư cáo biến với
Bắc Bình Vương. Vương sai Nhậm ra bắt Duệ. Duệ biết trước cùng Nguyễn Huỳnh Ðức
bỏ trốn. Duệ về Quy Nhơn, Ðức vào Gia Ðịnh. Vương không cho đuổi theo, chỉ sai
Nhậm trấn thủ Nghệ An để coi chừng mặt Bắc.
Sẩy kế
này bày kế khác, Nguyễn Hữu Chỉnh bày Vua Chiêu Thống đòi lại đất Nghệ An.
Tháng tư
năm Ðinh Mùi (1787), Lê Chiêu Thống khiến hoàng thân Lê Duy Anh cùng Trần Công
Sán và Ngô Nho mang phẩm vật và quốc thư vào Phú Xuân, Bắc Bình Vương biết là
mưu mô Nguyễn Hữu Chỉnh, bảo cho Trần Công Sán biết rằng sẽ cho tướng đem binh
ra Thăng Long lấy đầu kẻ sinh sự.
Biết
Trần Công Sán là người hiền tài, muốn trọng dụng, nhưg không thuyết phục được,
Vương bèn sai đưa phái đoàn theo đường biển về Thăng Long. Giữa vời, ngầm đục
thuyền. Sán cùng phái đoàn đều bị chết đuối. Có người hỏi bà Trần Mỹ Tuyết:
- Sao
không dùng tài năng để thuyết phục Trần Công Sán như đã thuyết phục Nguyễn
Huỳnh Ðức? Bà đáp:
- Huỳnh
Ðức là một võ tướng chỉ có lòng trung nghĩa. Còn Công Sán là kẻ sĩ học rộng
hiểu sâu. Một lưỡi dao con là ta, làm sao đốn nổi cây tùng trăm tuổi thọ? Lại
hỏi:
- Cũng
thì nhân tài mà sao đối với Nguyễn Huỳnh Ðức nhà vua lại khoan hồng hơn đối với
Trần Công Sán.
Ðáp:
- Tài
của Huỳnh Ðức chỉ có thể lấy được thành. Tài của Trần Công Sán có thể chiếm
trọn cả nước, nếu biết thiện dụng, tận dụng. Chữ Nhân phải đi song song với chữ
Trí mới tránh khỏi chữ Ngu. Kẻ đại trượng phu không thích mang tiếng ngu với
đời.
Không
thể để yên Nguyễn Hữu Chỉnh lộng hành ở Bắc Hà, tháng 12 năm Ðinh Mùi, Bắc Bình
Vương sai Võ
Văn
Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân kéo binh ra Thăng Long đánh Chỉnh.
Binh Võ
Văn Nhậm kéo ra Bắc Hà, đánh đâu thắng đó. Nguyễn Hữu Chỉnh nghe cáo cấp, sai
con là Hữu Du đem quân đi trước. Ðến sông Thanh Quyết, Du đắp lũy cố thủ. Lúc
bấy giờ khí trời quá lạnh, quân sĩ không chịu nổi phải nhúm lửa, nhóm nhau ngồi
sưởi. Nhậm sai lính xoi lũy, kê súng nhằm những chỗ có lửa bắn vào. Quân của Du
kinh hãi vỡ chạy. Chỉnh ở Bình Vọng được tin quân của Du bị tan vỡ, đương đêm
dẫn quân trở về thành Thăng Long, đem vợ con chạy về Kinh Bắc.
Lê Chiêu
Thống sảng sốt, không biết làm thế nào, cùng dắt cung quyến chạy theo. Ðến Kinh
Bắc Vua sai Lê Quýnh cùng hơn 30 người tôn thất đưa Hoàng Thái Hậu, Hoàng Phi
và Hoàng Tử lên Cao Bằng. Còn mình
cùng
Nguyễn Hữu Chỉnh về đóng ở núi Mục Sơn, đất Yên Thế.
Binh Tây
Sơn đuổi đánh, Hữu Du bị tử trận. Hữu Chỉnh bị bắt giải về Thăng Long, còn Lê
Chiêu Thống trốn thoát, chạy vào núi Bảo Lộc ẩn núp.
Võ Văn Nhậm
kéo quân vào Thăng Long, kể tội Chỉnh rồi đem giết. Nhậm cho tìm Vua Chiêu
Thống không được. Các triều thần chỉ còn lưa thưa mấy người. Còn ở Kinh Bắc thì
có Trần Quang Châu, Sơn Nam thì có Nguyễn Việt Tân, Hải Dương thì có Ðinh Tích
Nhưỡng... đều ứng binh hùng cứ. Nhậm có ý sợ, nhưng chưa biết tính sao thì có
người ở Gia Lâm, tên là Trần Ðình Khôi, tự xưng là quan thiệm sự của nhà Lê,
tới nói rằng:
Bắc Hà
oán Chỉnh tuy thâm mà lòng nhớ Lê chưa nhạt. Tự quân chạy trốn, không biết lúc
nào về. Nay có Sùng Nhượng công là Lê Duy Cẩn, trong lúc Tiên Ðế hãy còn đã
phong làm Ðông Cung, từ gặp biến năm Nhâm Dần, bị kiêu binh phế truất. Nếu
tướng công rước Duy Cẩn về lập lại, chỉ dán một tờ giấy tại cửa Ðại Hưng, thì
nội trong một ngày, văn võ bá quan nhóm lại, đại sự của tướng công thành tựu dễ
như trở bàn tay.
Nhậm
theo lời, tôn Duy Cẩn làm Giám Quốc để ở phía tả điện Cần Chánh.
Cựu thần
nhà Lê không người nào theo. Duy Cẩn ở trong điện với vài người hoàng thân và
vài viên võ tướng, suốt ngày không thấy ai tâu hỏi việc gì.
Ngô Văn
Sở bảo cùng Nhậm:
- Tôi
xem tướng Sùng Nhượng công không sao khu sách được người. Vả chăng từ xưa đến
nay, thiên hạ không phải tư vật của ai. Như nên lấy thì lấy hẳn đi, sao lại để
người như thế làm Giám Quốc? Chúng ta đã lâu ngày chịu khổ với thành này, bây
giờ trở lại làm người khách ngụ của pho tượng gỗ này hay sao?
Nhậm
khinh khỉnh nói:
- Lòng
người Bắc Hà còn nhớ Lê lắm, không thể không theo chúng vọng được. Bọn ngươi
chỉ biết mạnh đánh mà thôi. Việc an dân đã có ta làm chủ.
Ngô Văn
Sở làm thinh, trở ra nói cùng Phan Văn Lân:
- Tiết
Chế khinh người thái thậm! Tài đức gì mà dám đãi chúng ta như đám sĩ tốt, việc
lớn đều tự chuyên?
Bèn làm
sớ mật tấu cùng Bắc Bình Vương.
Ðược
tin, Bắc Bình Vương cười:
- Bạn
tâm đã có từ lâu, bạn trạng mãi nay mới hình hiện.
Lập tức
truyền lệnh xuất sư. Ði suốt ngày đêm. Hơn 10 hôm đến Thăng Long. Nhậm không
kịp trở tay, bị bắt. Hỏi:
- Tội
gì?
Ðáp:
- Ông tự
biết lấy.
Ðoạn
truyền đem ra giết.
Rồi hiệu
triệu các cựu thần nhà Lê về chung lo việc nước. Vương vẫn để Sùng Nhượng công
Lê Duy Cẩn
làm Giám
Quốc lo việc tế tự. Còn thực quyền thì giao cho Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở, có Nội
Hầu Phan Văn Lân, Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết, Chương Phủ Nguyễn Văn Dụng. Hộ bộ
Thị Lang Trần Thuật Ngôn và Lại bộ Tả Thị Lang Ngô Thời Nhậm... phụ tá. Vương
lại cắt Ðô Ðốc Hòa Nghĩa hầu trấn thủ Kinh Bắc, Hô Hổ hầu trấn thủ Hải Dương,
Giác Hầu hòa giữ bộ lại. Ước Lê hầu giữ bộ Lễ, Lộc Tài hầu giữ bộ Hình.
Sắp đặt
xong xuôi, vào khoảng cuối tháng 5 năm Mậu Thân (1788), Vương trở về Phú Xuân,
đem theo Phan Huy Ích.
Trừ Ngô
Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết[57] là người cũ của Tây Sơn, tất cả
những người tham gia quốc sự đều là cựu thần nhà Lê.
Trong số
văn thần, Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích là hai danh sĩ Bắc Hà.
+ Ngô
Thời Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu là Ðạt Hiên, con trai của Ngô Thời Sĩ, sinh năm
Bính Dần (1746) tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, cách Thăng Long hơn
mười cây số. Ðậu Tấn Sĩ năm Ất Mùi (1775). Làm quan nhà Lê đến chức Công bộ Hữu
Thị Lang. Năm 1782, kiêu binh nổi loạn, chạy trốn về quê vợ ở Sơn Nam.
Năm
1788, theo lời hiệu triệu của Bắc Bình Vương, Ngô Thời Nhậm là người đầu tiên
hưởng ứng. Ngô đến chờ ở bộ Lễ. Viên lễ quan Võ Văn Ước tưởng lầm Ngô là Sùng
Nhượng công, nên mời cùng ngồi với mình. Kế đó các quan lại cũ nhà Lê lục tục
đến làm lễ dưới sân. Ngô áy náy vội đứng dậy đi ra. Lúc ấy Ước mới biết mình
lầm, cho Ngô là vô lễ, cả giận, sai người đi bắt. Tối hôm đó, Ngô đến dinh Trần
Văn Kỷ, một danh sĩ đất Thuận Hóa đang được Nguyễn Huệ trọng dụng, và có quen
với Ngô khi Kỷ ra Thăng Long thi Hội năm Mậu Tuất (1778). Ngô nói rõ việc ban
sáng. Trần rất mừng nói[58]:
- Cố
nhân đến đúng lúc. Bắc Bình Vương mến mộ tài cố nhân, sai tôi đi tìm. Bỗng
không hẹn mà gặp.
Sáng hôm
sau liền đưa Ngô vào yết kiến Bắc Bình Vương. Vương nói:
- Ngày
trước, vì chúa Trịnh không dùng, người phải bỏ nước ra đi. Nếu ta không đến
đây, người làm sao được thấy bóng mặt trời? Có lẽ đó là ý trời muốn để dành
người tài cho dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp.
Ðoạn
truyền Trần Văn Kỷ thảo ngay tờ chế phong Ngô làm Tả Thị Lang bộ Lại, tước Tình
Phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả các quan văn võ nhà [57] Nguyễn Văn
Tuyết ở Phú Xuân ra Thăng Long với Bắc Bình Vương.
[58]
Trần Văn Kỷ quy thuận nhà Tây Sơn lúc Bắc Bình Vương ra Phú Xuân và theo Vương
ra Thăng Long để trừ Võ Văn Nhậm.
[59] Có
nhiều tác phẩm bằng chữ Hán truyền thế.
[60] Có
nhiều tác phẩm bằng chữ Hán truyền thế.
CHIÊU
THỐNG RƯỚC TÀU
VỀ ÐÁNH
TÂY SƠN
Quân
Nguyễn Hữu Chỉnh bị quân Tây Sơn đánh thua. Vua Chiêu Thống hoảng hốt sai Lê
Quýnh cùng hơn 30 người tôn thất đem Hoàng Thái Hậu và Hoàng Hậu chạy sang Kinh
Bắc, còn mình thì bỏ Thăng Long chạy theo Nguyễn Hữu Chỉnh đến đóng ở Mục Sơn
thuộc Yên Thế, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt, nhà vua chạy đến Chí Linh định nhờ Trần
Quang Châu và Lê Ban dấy binh lấy Hải Dương làm cơ sở, nhưng bị quân Tây Sơn
đuổi đánh, nhà vua chạy vào Sơn Nam, định nhờ tỳ tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh là
Nguyễn Việt Tuyển, nhưng Tuyển đã bị quân Tây Sơn đánh bại ở Hoàng Giang, nên nhà
vua cùng Lê Ban chạy vào Thanh hóa. Sau nghe lời Lê Duy Ðoan trở về Kinh Bắc
cho người qua cầu viện Thanh triều.
Về Kinh
Bắc, Chiêu Thống sai hai người bề tôi tin cẩn là Tham tri Chánh sự Lê Duy Ðán
và Phó Ðô Ngự Sử Trần Danh Án sang Trung Hoa.
Duy Ðán
và Danh Án theo đường núi trốn qua biên thùy, đến ra mắt tri phủ Thái Bình. Tri
phủ Thái Bình làm tờ đạt lời cầu viện lên Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh và Tổng đốc
Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị.
Trong
khi chờ đợi kết quả, Trần Danh Án có thơ cảm hoài:
Giá cô
tại Giang Nam
Ðỗ quyên
tại Kinh Bắc
Giá cô
minh gia gia
Ðỗ Quyên
minh quốc quốc
Vi cầm
do hữu quốc gia thanh
Cô thần
đối thử tình vô cực.
Nghĩa
là:
Giang
Nam thì chim đa
Kinh Bắc
thì chim quốc
Chim đa
kêu gia gia
Chim
cuốc kêu quốc quốc
Nghe
chim kêu tiếng quốc gia
Lòng cô
thần những xót xa trăm chiều.
Trong
lúc đó, Lê Quýnh, Nguyễn Huy Túc đã đưa Thái Hậu qua Tàu, nhờ viên Ðô Ty Long
Bằng Trần Hồng
Thuận
trình Quảng Tây Giang tả Dương Hùng Nghiệp bẩm lên Tôn Sĩ Nghị.
Nhận
được hai lời thỉnh cầu cùng lúc. Nghị bèn làm sớ dâng về triều.
Vua Càn
Long chuẩn y lời Tôn Sĩ Nghị và sai Nghị cầm 20 vạn binh sang Việt Nam, mượn cớ
giúp Vua Lê đánh Tây Sơn để đặt nền đô hộ lên đất Việt.
Tôn Sĩ
Nghị chia quân ra làm ba đạo: Một đạo do Tổng binh tỉnh Vân Nam và Quý Châu kéo
sang mạn
Tuyên
Quang.
Một đạo
do Sầm Nghi Ðống kéo sang mạn Cao Bằng.
Một đạo
do Nghị cùng Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh kéo sang mạn Lạng Sơn.
Khí thế
rất mạnh.
Ba đạo
quân Thanh tiến vào nước ta vào khoảng giữa tháng 10 năm Mậu Thân (1788). Sĩ Nghị
truyền hịch kể tội nhà Tây Sơn và kêu gọi thần dân nhà Lê ra hợp tác.
Viên
trấn thủ Lạng Sơn Phạm Khải Ðức khiếp sợ, kéo cờ hàng. Phó tướng Nguyễn Văn
Diễm chạy về Kinh Bắc cùng Nguyễn Văn Hòa cố thủ, rồi sai người về Thăng Long
cáo cấp.
Ðược
tin, Ngô Văn Sở dùng kế hoãn binh, khiến Nguyễn Quý Nha và Trần Bá Lãm mang ba
tờ bẩm văn ký tên Sùng Nhượng công và bá quan văn võ, đến quân thự Tôn Sĩ Nghị
cầu hòa. Sĩ Nghị bác khước Ngô Văn Sở bèn nhóm văn võ lại thương nghị. Nguyễn
Văn Dụng đề nghị dùng phục binh đánh địch. Ngô Thời Nhậm nói:
- Quân
địch mới tới, sức còn mạnh khí đương hăng, lại khoa trương thanh thế làm kinh
động nhân dân. Nếu ta đem quân ra khỏi thành sẽ bị chúng sát hại. Cựu binh sĩ
của Bắc Hà nhuệ khí vốn đã nhụt, thừa cơ trốn hết. Chừng ấy ta muốn đánh thì
không hơn, mà muốn giữ cũng không đặng. Chẳng phải là thiện sách. Chi bằng rút
hết quân thủy bộ vào đóng giữ từ Tam Ðiệp ra đến biển, để bảo toàn lực lượng
rồi cho cáo cấp về Phú Xuân. Lúc đó ta sẽ quyết chiến cũng không muộn.
Ngô Văn Sở
nói:
- Giặc
đến chưa đánh đã chạy, tôi e đắc tội với Bắc Bình Vương.
Ngô Thời
Nhậm đáp:
- Lương
tướng thời xưa, lường sức giặc trước rồi mới định việc công hay thủ. Nay ta đem
toàn quân lui về, chẳng qua là cho chúng ngủ nhờ một đêm, sáng ngày đuổi đi, có
gì quan trọng. Nếu Bắc Bình Vương hỏi tội tôi sẽ bẩm biện. Ông cứ yên tâm.
Ngô Văn
Sở liền cho gọi binh các trấn Kinh Bắc, Thái Nguyên, Hải Dương, Sơn Tây đến tập
hợp tại Bắc Thành trấn Sơn Nam, rồi đồng tiến vào Tam Ðiệp.
Chợt có
tin quân Thanh đã qua khỏi ải Nam Quan, Phan Văn Lân nổi nóng:
- Nước
không cần phải lớn, binh không cần phải nhiều, hễ quyết chiến thì thắng. Nay
làm tướng nắm binh quyền ở cõi ngoài mà giặc đến không đánh thì làm tướng để
làm gì ?
Rồi thừa
đêm tối đem quân ra đi. Ðến bờ phía nam sông Nguyệt Ðức thì nghe quân Thanh đã
tới núi Tam Tằng, Lân đốc binh sĩ liều lạnh lội càn qua sông. Quân chết đuối
quá nửa. Còn một nửa vừa đến bờ bên kia thì quân địch đánh giết hết. Lân một
người một ngựa sống sót chạy trở về. Ngô Văn Sở cả kinh, giấu kín việc Lân,
khiến chư tướng chỉnh tế đội ngũ, trực tiến đến Tam Ðiệp.
Ðến Tam
Ðiệp vào ngày 20 tháng 11 năm Mậu Thân (17-12-1788). Một mặt chia đồn cố thủ,
một mặt cho Nguyễn Văn Tuyết về cáo cấp Phú Xuân.
Không
gặp sức cản trở đáng kể, Tôn Sĩ Nghị tiến quân dễ dàng. Ðến Kinh Bắc được Vua
Chiêu Thống đón tiếp trọng thể. Nghị cùng nhà vua trực chỉ đến Thăng Long cho
đại quân hạ trại ở Yên Phụ còn tướng doanh thì đặt tại Tây Long Cung. Ðể tiện
việc qua lại, một dãy cầu phao bắc ngang qua sông Nhị. Ngày hôm sau (21 tháng
11 năm Mậu Thân), Nghị phong Vua Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương tại điện
Kính Thiên và quyết định sau tết Nguyên Ðán mới xuất quân đánh Nguyễn Huệ.
Vào
thành Thăng Long như vào chỗ không người, Nghị nghĩ rằng đánh dẹp Tây Sơn sẽ dễ
dàng như lấy đồ trong túi, nên lơ đãng việc binh, ngày ngày lo hưởng lạc thú.
Vua
Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng phải theo niên hiệu Càn Long, và việc gì
cũng phải bẩm lên Tôn Sĩ Nghị. Mỗi ngày sau buổi chầu, Chiêu Thống phải đến
dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật. Nhiều khi Nghị không cho vào, chỉ sai
một người ra bảo: Không có việc gì quan trọng, Vua hãy về cung nghĩ. Thế mà
không biết nhục, ngày ngày chỉ lo việc báo ân báo oán giết hại những người đã
theo Tây Sơn. Một người tôn nữ kết duyên cùng một tướng Tây Sơn, đã có mang.
Chiêu Thống sai mổ bụng, lấy thai nhi giết chết! Ba người hoàng phái hàng vai
chú nhà vua, bị chặt chân quăng ra giữa chợ. Việc chém giết vì tư thù không
ngày nào không có. Lương dân khủng khiếp!
Một số
nhân sĩ, trước hành vi tàn bạo của Chiêu Thống vẫn ôm mối cô trung như Bùi Huy
Bích, Phạm Quý Thích, Phạm Ðan Phụng... Có người nói Trung là trung với nhà Lê
chớ đâu phải trung với Vua Chiêu Thống. Lại có người nói Quân bất kính thần bất
khả bất trung[61].
Những
quan lại cũ đã bỏ trốn trong lúc Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết, nghe tin Vua Chiêu
Thống trở về, lục tục kéo nhau tới thành đô bái yết và đến xin Tôn Sĩ Nghị ra
quân đánh Tây Sơn. Nghị đáp:
Năm đã
gần hết. Ði đâu mà vội vàng? Giặc còn gầy, mình dung túng cho nó ít lâu là nuôi
cho nó béo, để rồi nó đem thịt đến nạp cho mình xơi, chẳng hay lắm sao?
Rồi
truyền ba quân đóng trại nghỉ ngơi để ra giêng chiến đấu.
Quân
lính của Sĩ Nghị thấy chủ tướng tham tàn dâm dật, tướng lệnh lại không nghiêm
minh, nên tha hồ ngang dọc. Những vụ cướp bóc, hãm hiếp, tàn sát... xảy ra hàng
ngày. Nhân dân không mấy lúc được ăn ngon, ngủ yên. Nơi nơi đồ thán!
Cảnh
nước loạn dân khổ đến thế là cùng cực.
Người
người đều trông mong cuộc đời đổi thay.
-----------------
[61]
Người xưa dạy: Phụ từ tử hiếu, quân kính thần trung nghĩa là cha có hiền lành
con mới có hiếu Vua có kính vì tôi mới trung tức là người trên có lo tròn bổn
phận mình thì mới có quyền buộc kẻ dưới lo tròn bổn phận. Nhưng người sau lại
nói: Phụ bất từ, tử bất khả bất hiếu, quân bất kính, thần bất khả bất trung.
Nghĩa là Cha không lành, con không thể không hiếu. Vua không kính, tôi không
thể không trung. Tức là buộc kẻ dưới phải giữ hết phận mình đối với người trên,
dù người trên không giữ tròn bổn phận. Phần đông các nhà Nho theo lời sau.
VUA
QUANG TRUNG ÐẠI PHÁ QUÂN THANH
Ðược tin
quân Thanh sang chiếm đóng Thăng Long, Bắc Bình Vương lập tức hội các tướng đến
bàn việc dẹp giặc. Các tướng xin Vương trước nên chính vị hiệu để ràng buộc
lòng người Nam Bắc rồi sau sẽ khởi binh.
Theo
lời, Vương sai đắp đàn ở Bàn Sơn (gần núi Ngự Bình).
Ngày 25
tháng 11 năm Mậu Thân (1788), làm lễ cáo Trời Ðất, lên ngôi Hoàng Ðế, đặt niên
hiệu là Quang Trung. Ngay hôm đăng quang, Vua Quang Trung tự thống lĩnh thủy bộ
đại binh, đốc suất tướng sĩ ở tế đàn, kéo rốc ra Bắc. Ði đầu là một lá cờ vuông
to lớn, nền đỏ thắm giữa thêu mặt trời vàng rực rỡ, tượng trưng cho hiệu Quang
Trung. Ðể quân sĩ đi cho chóng và khỏi mệt, nhà vua cấp cho ba người một cáng
tre, hai người khiêng một, luân phiên nhau đi gấp ngày đêm ra Nghệ An. Ðến nơi
là ngày 29 tháng 11.
Nhà vua
mời La Sơn Phu Tử đến vấn kế.
La Sơn
Phu Tử tên là Nguyễn Thiếp, người làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn,
trấn Nghệ An. Sinh năm Quý Mão (1723). Ðậu Giải Nguyên năm Quý Hợi (1743). Vâng
lời mẹ và thầy là Nguyễn Nghiêm, Phu Tử ra làm huấn đạo ở Anh Ðô. Ðược ít lâu
từ chức, về ở ẩn tại núi Thiên Nhậm, tự hiệu là Lạp Phong xử sĩ.
Phu Tử
là người học rộng, đạo cao, lừng danh khắp Nam Bắc.
Kỳ ra
Bắc lần đầu tiên để diệt Trịnh, đến Nghệ An, Nguyễn Huệ viết thư mời ba lần,
lời lẽ khiêm tốn xin cụ làm quân sư. Cụ một mực từ chối.
Kỳ thứ
hai khi ra dẹp Võ Văn Nhậm. Nguyễn Huệ lại cho mời cụ đến hội kiến. Bị sứ giả
thôi thúc, bất đắc dĩ cụ ra gặp Nguyễn Huệ ở núi Nghĩa Liệt. Huệ có ý bất bình
nói:
- Nghe
tiếng Tiên Sinh, mong được gặp mặt. Sao Tiên Sinh lại có ý thoái thác? Hay là
tiên sinh coi Huệ này không phải là anh hùng?
Cụ đáp:
- Trịnh
thị tiếm lộng đã 200 năm, Tướng quân nhất cử mà bài diệt được, thổ địa đều giao
lại cho Vua Lê.
Công đức
như thế, ai lại không cho Tướng quân là anh hùng. Nhưng nếu Tướng quân nhân tai
nạn của người mà làm lợi cho mình, ấy là dối lấy nghĩa trước, thâu lấy lợi sau,
thì đó là gian hùng.
Huệ cung
kính nói:
- Người
đời gọi Tiên Sinh là Thiên Hạ Sĩ thật không sai.
Huệ nài
nỉ xin cụ ra giúp. Cụ lấy cớ tuổi già sức yếu xin được ở yên nơi sơn lâm. Kỳ
này được giấy mời, cụ đến ngay và nói:
- Quân
Thanh ở xa mới tới không biết tình hình quân ta mạnh yếu thế nào, địa thế nước
ta hiểm trở ra sao, không biết nên đánh hay nên giữ. Chúa công ra đây nên đánh
gấp thì không quá mười ngày nhất định tiêu diệt được địch.
Vua
Quang Trung mừng rỡ:
- Thật
hợp ý ta!
Nhà vua
đóng quân ở Nghệ An để tuyển mộ thêm binh, trữ thêm lương thực. Sau mươi hôm
quân mới cũ tính hơn 10 vạn, trên 200 thớt voi và 5.000 con ngựa. Quân sĩ đều
mặc áo cặp nẹp đỏ, đội mũ ngù kết tua đ�
Nơi quê
hương không có đối thủ. Ðặng đi khắp đó đây để tiêu dao ngày tháng. Nghe tin
Vua Quang Trung đi đánh quân Thanh, Ðặng bèn đến nhập ngũ. Và để được dễ dàng,
Ðặng bèn bày ra trò mặc áo trắng diễn võ trong khi tất cả quân sĩ đều mặc áo
đỏ.
Gặp được
bạn cũ, Vua Quang Trung hết sức mừng, liền phong cho Ðặng chức Ðại Ðô Ðốc cùng
mình đi định Bắc.
Sau khi
chuẩn bị đầy đủ, nhà vua hạ lệnh trẩy quân.
Ngày 20
tháng chạp (15-1-1789), đại binh tới Tam Ðiệp[64]. Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm,
Phan Văn Lân ra chịu tội. Nhà vua cười:
- Ta biết đây là kế của Ngô Thị Lang. Lui quân
để tránh thế giặc, trong khuyến khích sĩ khí, ngoài phấn khích lòng kiêu ngạo
của giặc. Kế dụ địch vào chỗ hiểm yếu của ta, như thế là phải. Các khanh không
có tội chi cả.
Lại nói:
- Chúng
nó sang chuyến này là mua lấy cái chết đó thôi. Ta đã định mẹo cả rồi. Dẹp yên
giặc chỉ trong
mươi
ngày là xong. Nhưng giữ yên bờ cõi sau này ta phải nhờ Ngô Thị Lang.
Ðoạn lo
chỉnh đốn quân ngũ, cắt xếp tướng tá, hoạch định đường hướng.
Hai bận
ra Thăng Long, Vua Quang Trung đã nhìn thấy rõ địa hình địa thế của Bắc Hà và
khi dừng binh ở Nghệ An, nhà vua đã mật sai quân đi do thám để nắm vững tình
hình của địch. Nhà vua chia thân binh Thuận Quảng làm bốn dinh Tiền, Hậu, Tả,
Hữu, còn Tân binh Nghệ An thì làm Trung quân.
Trung
quân do nhà vua trực tiếp điều khiển.
Tiền
quân do Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở và Nội Hầu Phan Văn Lân cai quản.
Hậu quân
do Hô Hổ Hầu đốc chiến.
Tả quân
do Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Lộc và Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy, kiêm cả bộ
binh và thủy binh. Tuyết giữ nhiệm vụ Kinh Lược Hải Dương, ứng tiếp mặt đông.
Lộc tiến đến Lạng Sơn, Phượng Nhã, giữ vùng Yên Thế chận đường rút lui của
địch.
Hữu quân
gồm mã quân và tượng quân, do Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Bảo và Ðại Ðô Ðốc Ðặng Văn
Long[65] thống lãnh. Long đem mã quân qua huyện Chương Ðức (Hà Ðông) để tiến
đến làng Nhân Mục huyện Thanh Trì (Hà Ðông). Bảo đem tượng binh qua vùng Sơn
Minh (Ứng Hòa, Hà Ðông) để làm quân tiếp ứng.
Ðể
trưởng dưỡng thêm lòng kiêu căng của địch, nhà vua sai Trần Danh Bình cầm đầu
sứ bộ tám người mang lễ vật và văn thư ra tha thiết xin quan Ðại Nguyên Soái
của Thiên Triều dừng quân để tra xét cho rõ vì sao Tây Sơn phải thay quyền nhà
Lê. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn Sĩ Nghị 40 người Trung Hoa do tướng cướp Ðắc
Thiện Tống cầm đầu đã bị quân Tây Sơn bắt được. Tôn Sĩ Nghị chém Trần Danh
Bình, chém luôn cả Ðắc Thiện Tống và cầm tù phái đoàn sứ giả.
Mọi việc
cụ bị, nhà vua cho mở tiệc linh đình vào ngày 29 tháng Chạp để thiết đãi tướng
sĩ. trong bữa tiệc nhà vua nói:
- Bữa
nay ta hãy ăn tết Nguyên Ðán trước. Sang xuân ngày mồng 7, vào Thăng Long, sẽ
mở tiệc ăn tết Khai Hạ.
Lại nói:
- Xuân
sang, một là ăn tết, hai là chịu chết. Tướng sĩ phải hết lòng cùng ta.
Ai nấy
đều hớn hở vui mừng.
Vui mừng
hơn là Phan Văn Lân, vui mừng vì được gặp lại bạn học ngày xưa: Ðặng Văn Long.
Sau chuyện hàn huyên, Long hỏi thăm tin tức thầy học Trương Văn Hiến. Lân nói:
Thầy ra giúp Vua Thái Ðức một thời gian, rồi lui về An Thái dưỡng lão. Từ ấy
việc binh bận rộn, tôi không đi thăm được mà cũng không được tin tức của thầy.
Không biết có còn khỏe mạnh. Ơn xưa nghĩ lại lắm lúc thật buồn.
Long
nói:
- Hơn
mười năm nay tôi mải miết giang hồ, cũng không lo tròn nghĩa sư đệ. Nhưng
chuyến này nếu đánh
đuổi
được giặc xâm lăng, thì chắc thầy cũng mừng rằng công dạy dỗ không đến nỗi
uổng.
Sáng hôm
sau, 30 tháng chạp, nhà vua truyền lệnh xuất quân. Vua nói:
- Ta đến
mà địch không biết, là địch ngủ ta thức. Ta đánh mà địch không đề phòng, là ta
chém kẻ tay không. Ta nhất định thắng.
Tiếng
hoan hô vang trời, khí thế mạnh chuyển núi.
Quân Tây
Sơn đến đâu cũng được dân địa phương hoan nghênh đến đó. Nơi mổ heo bò thết
đãi, nơi đem
bánh
chưng bánh tét ra dâng. Hết bị kiêu binh của chúa Trịnh lộng hành gieo tai họa
lên đầu, đến bị Lê Chiêu Thống rước ngoại bang về dày xéo đất nước, nhân dân
Bắc Hà coi quân Phú Xuân như những đoàn hiệp sĩ cứu khốn phò nguy [66] nên
nhiệt tình ủng hộ.
Chưa hết
ngày 30, nghĩa quân đã qua khỏi sông Giản Thủy ở Ninh Bình. Hoàng Phùng Nghĩa,
cựu thần nhà Lê do Tôn Sĩ Nghị sai đóng quân giữ Sơn Nam, nghe đại binh kéo
tới, chưa giáp trận đã bỏ chạy về Hà Nam. Vua Quang Trung cho quân đuổi theo
đến Phú Xuyên (Hà Ðông) thì bắt trọn cả tướng lẫn quân. Bọn quân xích hầu của
giặc cũng bị giết không còn một mống. Nhờ vậy mà mối liên lạc giữa quân địch bị
cắt đứt hẳn. Các đồn đóng ở phía ngoài không hay biết chi cả. Nghĩa quân lặng
lẽ kéo ra.
Mồng 3
tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) lúc nửa đêm nghĩa quân vây đồn Hà Hồi. Quân Thanh
đang ngủ, nghe tiếng reo hò, tiếng trống trận vang rền như sấm ngoài chiến lũy,
khiếp sợ, không còn gan chống cự, vội vã kéo cờ hàng.
Nghĩa
binh lấy trọn quân lương và khí giới.
Qua đêm
mồng 5, vừa cuối canh tư, nhà vua sai dồn tất cả lương thực vào một chỗ rồi cho
đốt sạch, và bảo tướng sĩ:
- Hễ
thắng giặc thì được no, thua giặc thì chết đói. Lại lấy mấy thước khăn vàng
quấn vào cổ và thề:
- Nếu
không thắng được giặc thì chết với khăn này chớ nhất định không lui.
Ðoạn xắn
tay áo, xách Ô Long đao nhảy lên mình voi, thúc quân tiến đánh đồn Ngọc Hồi.
Voi trận đi trước, quân lính theo sau đi như gió cuốn.
Tướng
Mãn Thanh hay tin, kéo kỵ binh ra chận đánh. Nhưng vừa trông thấy voi, ngựa sợ
cuống, hí lên những tiếng kinh hoàng, rồi chạy tán loạn. Quân Thanh bị rối hàng
ngũ, không dám giao chiến, phải rút lui vào giữ đồn.
Ðồn quá
kiên cố. Mặt ngoài lũy đều cắm chông sắt và đặt phục lôi. Trong đồn lại bắn
súng ra như mưa xối.
Vua
Quang Trung truyền lấy 60 tấm ván dày, cứ ba tấm ghép vào thành một phên ván,
ngoài phủ rơm trộn với đất ướt. Rồi cứ mười người, lưng đeo đoản đao, khiêng
một tấm phên ván đi trước, tiếp theo hai mươi người cầm vũ khí, tiến theo thế
trận chữ nhất. Nhà vua cỡi voi theo sau đốc suất.
Ðạn bắn
rào rào. Quân ta không hề lui một bước, vượt chông sắt, phá tan cửa lũy, tràn
vào đồn. Quân địch không còn dùng súng được nữa. Quân ta quăng ván, đánh xáp lá
cà, nhanh như chớp, mạnh như bão, giết quân địch như thái rau. Quân địch không
cự nổi, bỏ chạy, lớp dày đạp lên nhau, lớp chạm phải địa lôi, lớp chết lớp bị
thương, còn bao nhiêu bị bắt sống. Tướng Thanh là Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh, Tiên
phong Trương Triều Long và Tả Dực Thượng Duy Thăng đều tử trận.
Ðồn Ngọc
Hồi giữ vị trí quan trọng nhất trong hệ thống phòng ngự của địch. Lực lượng có
trên 3 vạn quân tinh nhuệ. Ðồn bị tiêu diệt, quân tử trận và bị bắt hơn hai
phần. Còn chừng một phần sống sót kéo nhau chạy ra ngã Thăng Long, chẳng ngờ
đến gần Văn Ðiển thì bị quân Tây Sơn bố trí sẵn, chận đánh. Quân địch phải thối
lui, chạy qua cầu Vinh sang vùng Ðầm Mực. Ðầm Mực là một vùng đầm lầy rộng lớn
thuộc huyện Thanh Trì.
Ðại Ðô
Ðốc Nguyễn Văn Bảo từ Sơn Minh đem tượng binh đến Ðại Áng. Khi có tin quân địch
từ Ngọc Hồi chạy lên thì đem voi ra bao vây. Quân địch lớp chôn thây trong bùn
lầy, lớp bị voi chà, không còn một tên sống sót.
Lực
lượng Ngọc Hồi bị tiêu diệt toàn bộ.
Trong
khi Ngọc Hồi bị tiêu diệt thì đồn Khương Thượng cũng bị tiêu diệt luôn.
Khương
Thượng nằm phía tây nam thành Thăng Long. Ðồn bị quân Ðại Ðô Ðốc Long tiêu
diệt. Ðại Ðô Ðốc
Ðặng Văn
Ðông có viên phó tướng là Ðặng Tiến Ðông, trí dũng hơn người, trước kia làm
quan cùng chúa Trịnh, sau quy thuận nhà Tây Sơn, Ðặng Tiến Long quê ở Lương Xá
gần Thăng Long, am hiểu địa hình và đường lối trong khắp vùng Thăng Long và lân
cận, hướng dẫn quân đi đường tắt.
Ðại Ðô
Ðốc Ðặng Văn Long từ huyện Chương Ðức đến Thanh Trì, trước hết chiếm đồn Yên
Quyết và Nhân Mục, nằm phía tây bắc đồn Khương Thượng. Hai đồn này là hai đồn
nhỏ làm tiền đồn cho Khương Thượng. Hai đồn bị hạ một cách nhanh chóng và im
lặng. Quân Ðô Ðốc Long kéo vây đồn Khương Thượng từ lúc chưa tinh sương. Trong
đồn không hay biết. Quân Ðô Ðốc Long được nhân dân ủng hộ, dùng rơm khô bện
thành con cúi, tẩm dầu, chực lửa. Rồi một tiếng hô, muôn nghìn tiếng ứng, đồng
thời lửa bật cháy. Bốn mặt đều có ánh lửa hừng hực và tiếng hô hét vang trời.
Quân trong đồn khủng khiếp, không còn sức chống cự. Tướng chỉ huy là Ðề Ðốc Sầm
Nghi Ðống chưa kịp đối phó thì quân của Ðô Ðốc Long đã phá đồn tràn vào như
nước vỡ đê.
Ðống
khiếp sợ, trốn ra Hoa Sơn tức gò Ðống Ða thắt cổ tự tử. Binh sĩ trong đồn bị
giết quá nửa.
Một nửa
còn sống sót lớp chạy ra hướng Bắc, lớp theo sông Tô Lịch chạy vào Nam. Chạy
đến Ðầm Mực bị quân Ðô Ðốc Bảo tiêu diệt hết.
Tại bản
doanh, Tôn Sĩ Nghị đương theo dõi mặt trận phía Nam, bỗng được tin đồn Ngọc Hồi
rồi đồn Khương
Thượng
bị tiêu diệt, và binh Vua Quang Trung đương kéo đến kinh thành. Còn đương lúng
túng chưa biết liệu thế nào, thì binh Ðô Ðốc Long từ Khương Thượng đã kéo vào
Thăng Long, sát khí ngùn ngụt.
Nghị sợ
quá không kịp mặc áo giáp, không kịp thắng yên ngựa, hớt hải cùng toán kỵ binh
hầu cận bỏ cung Tây Long, vượt cầu phao chạy qua sông Nhị. Tướng sĩ thấy chủ
tướng bỏ chạy, rùng rùng chạy theo, lấn nhau qua cầu phao. Cầu không chịu nổi
sức nặng bị đứt, ném tung hàng vạn quân địch xuống sông.
Tôn Sĩ
Nghị cùng đám tàn quân nhắm ải Nam Quan mà chạy. Nhưng chạy đến đâu thì cũng bị
quân của Ðô Ðốc Lộc đánh giết. Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ tất cả sắc thư, ấn tín
để lo chạy thoát thân. Chạy bảy ngày đêm mới đến trấn Nam Quan, đói cơm khát
nước.
Vua
Chiêu Thống cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị.
Ðạo quân
Thanh đóng ở Hải Dương cũng bị Ðô Ðốc Tuyết đánh bại.
Riêng
đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây, tuy không bị tấn công, nhưng cũng hoảng sợ, rút
chạy về nước.
Quân Mãn
Thanh bị quét sạch.
Bắc Hà
hoàn toàn được giải phóng.
Chiều
mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (30-1-1789), Vua Quang Trung kéo quân vào thành
Thăng Long trong không khí tưng bừng. Chiếc chiến bào của nhà vua đỏ thắm đã bị
thuốc súng nhuộm thành màu đen.
Nhà vua
vào thành Thăng Long trước kỳ hẹn hai ngày.
Trăm họ
chật đường nghênh tiếp.
Tiếng
reo hò của nhân dân và của binh sĩ vang dội một góc trời.
Theo
đúng lời hẹn, Vua Quang Trung cho tướng sĩ ăn tết một lần nữa.
Nhân dân
trong thành và ngoài thành cũng đua nhau mở tiệc vui, tưng bừng nhộn nhịp.
Và trên
kỳ đài thành Thăng Long, ngọn cờ đỏ mặt trời vàng bay phấp phới.
------------------
[62] Ðại
Nam Quốc Sử diễn ca có câu nói về binh Tây Sơn: Quân dung đâu mới lạ thường Mũ
mao áo đỏ chật đường kéo ra.
[63]
Ngạnh công: Cương quyền. Nhuyễn công: Nhu quyền.
[64] Tam
Ðiệp tục gọi là núi Ba Dội ở giữa Thanh Hóa và Ninh Bình.
[65] Các
sách chép là Ðô Ðốc Mưu.
[66]
Theo lời của giáo sĩ Jumilla de Diego, trong Bulletin de la Socíeté des Etudes
Indo Chinoises.
VUA QUANG TRUNG ÐỐI NGOẠI
Lúc dồn
binh ở Tam Ðiệp, Vua Quang Trung đã nói cùng chư tướng:
- Trung
Quốc lớn gấp mười nước ta, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm nhục mà báo
thù. Ðến lúc ấy chỉ
có người
khéo đường từ lệnh mới dập tắt được lửa chiến tranh. Ngoài Ngô Thời Nhậm không
ai làm nổi.
Ðến khi
thắng được quân Mãn Thanh rồi, xem trong giấy tờ Tôn Sĩ Nghị bỏ lại có tờ mật
dụ của Vua Càn Long đại khái nói rằng: Việc quân nên từ từ mà lo liệu chớ nên
hấp tấp. Hãy đưa hịch truyền thanh thế đi trước. Cho cựu thần nhà Lê về nước
tập hợp nghĩa binh và tìm Tự Quân nhà Lê đem ra cầm đầu để đối địch cùng Nguyễn
Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê mà có quân
ta kéo đến, thì ai mà chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui. Ta sai Tự
Quân đuổi theo trước đại binh ta kéo theo sau. Như thế không khó nhọc mấy mà
thành công to. Ðó là thượng sách. Ví bằng người trong nước, nửa theo bên nọ nửa
theo bên kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui quân. Ta sẽ đưa thư vạch rõ
đường họa phước xem Huệ đáp ứng thế nào. Ðợi thủy quân ở Mãn, Quảng đi đường bể
vào đánh dẹp Thuận Hóa, Quảng Nam xong, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ hai
đầu thọ địch, tất phải quy phục. Chừng đó ta làm ơn cho cả hai bên: từ Thuận
Hóa trở vào Nam thì cho Nguyễn Huệ. Từ Châu Hoan Châu Ái trở ra thì phong cho
Tự Quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai bên, sau xử trí.
Vua
Quang Trung bảo Ngô Thời Nhậm:
- Mưu đồ
của Vua Càn Long, ta đã biết trước rồi. Nay bị thua chắc không nhịn nhục. Hai
nước đánh nhau chỉ làm khổ dân. Nếu dùng lời nói khéo để tránh việc binh đao
việc ấy nhờ khanh chủ trương cho mới được.
Ngô Thời
Nhậm vâng mệnh thảo thư, đại khái nói rằng: Nước Nam vốn không dám chống cự với
đại quốc. Chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm lỡ việc nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và
xin giảng hòa. Vua Quang Trung sai sứ mang thư sang Tàu, và truyền đem những
quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về
nước. Xong xuôi mọi việc, tháng 2 năm Kỷ Dậu, nhà vua đem quân về Phú Xuân, lưu
Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở lại Thăng Long thống lĩnh việc quân quốc. Còn việc
giao thiệp với Trung Hoa thì ủy thác cho Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích. Cho tất
cả tùy nghi xử sự, hễ không có việc quan trọng thì không phải tâu.
Vua nhà
Thanh hay tin Tôn Sĩ Nghị bại binh, đùng đùng nổi giận, lập tức giáng chỉ sai
quan nội các là Phúc Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị là Tổng Ðốc Lưỡng Quảng, đem
binh mã 9 tỉnh sang chinh phạt Việt Nam.
Nhưng
nhờ Ngô Thời Nhậm có chính sách xã giao khôn khéo đối với Phúc Khang An ở bên
ngoài và các cận thần là Hòa Thân ở bên trong, và lời trần tấu mềm dẻo dịu dàng
đối với Vua Mãn Thanh, cho nên Vua Mãn Thanh là Càn Long thuận cho giảng hòa và
sai sứ sang phong Vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương.
Vua Càn
Long lại tặng cho Vua Quang Trung một chuỗi trân châu và truyền sang năm Canh
Tuất (1790) sang chầu.
Còn Lê
Chiêu Thống và các quan tòng vong đều bị Vua nhà Thanh truyền đem an trí mỗi
người mỗi ngả.
Thế là
Vua Quang Trung được chính thức công nhận là Vua nước Việt Nam. Vua Quang Trung
làm biểu tạ ơn, trong có câu:
- Thần
hữu mẫu hữu thân, báo đáp ngưỡng bằng ư đại tạo;
Quân vi
sư vi phụ, sanh thành thượng kỷ ư long ân Nghĩa là:
- Tôi có
cha có mẹ, báo đáp ngửa nhờ đức cả; Vua vừa nuôi vừa dạy, sanh thành mãi nhớ ơn
sâu Vua Càn Long khen:
- Lời
nói có hậu, trẫm phải coi Huệ như con.
Xuân năm
Canh Tuất (1790), Phúc Khang An giục Vua Quang Trung sang chầu Vua Càn Long.
Nhà vua bèn chọn người dung mạo phảng phất mình, trá làm quốc vương. Phạm Văn
Tr70]
Cửu kinh
nhu viễn kỳ trùng dịch
Gia hội
ư kim miễn thể nhân
Võ yển
văn tu thuận thiên đạo
Ðại
Thanh vĩnh tộ vạn niên xuân.
Cụ Bùi
Văn Lang dịch:
Dâng lời
chúc tụng gặp thời tuần
Mới thấy
mà in trước đã thân
Lễ cống
khá khen lòng tượng quốc
Triều
xưa nghĩ thẹn chuyện kim nhân
Phương
xa từng gội ơn nhu viễn
Hội tốt
càng khuyên nghĩa thể nhân
Dẹp võ
dồi văn là thuận đạo
Nghiệp
Thanh bền vững ức muôn xuân
Trong
lúc sứ bộ đang ở Yên Kinh thì bọn giặc biển đánh phá miền duyên hải Trung Quốc
giáp giới nước ta. Tuớng Trung Hoa là Trần Diệu Cầu nhờ viên biên tướng Việt
Nam là Phạm Quang Chương giúp sức, tiêu diệt được bọn giặc biển. Vua Càn Long
ban thưởng cho Quang Chương rất hậu và ngỏ lời tin tưởng lòng thành thật của
Vua Quang Trung.
Ngày 20
tháng 8 (28-9-1790) Vua Thanh hạ chỉ cho sứ bộ về nước. Lúc bấy giờ là mùa thu,
gió sương lạnh lẽo, Càn Long ban cho Quang Trung một tấm áo cầu để mặc ấm và
một đồng tiền vàng chạm chữ Phúc to lớn để làm của truyền thế. Lại đòi lại gần
long tháp, vỗ vai, ôn tồn ủy dụ, rồi cho người vẽ chân dung Quang Trung làm kỷ
niệm.
Sứ bộ
được tướng Trung Hoa là Trần Dụng Phu hộ tống suốt dọc đường. Và ngày 29 thágn
11 (3-1-1791) thì đến ải Nam Quan.
Qua năm
Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung sai Võ Kỉnh Thành, Trần Ngọc Thụy sang triều
đình nhà Thanh hiến thiệp, xin mở cửa ải Bình Thủy ở Cao Bằng và cửa ải Du Thôn
ở Lạng Sơn để cho Bắc Nam qua lại buôn bán với nhau được miễn thuế. Lại xin lập
nha hàng [71] ở phủ Nam Ninh tỉnh Quảng Tây để người Nam qua đó sinh sống, Vua
Càn Long đều chấp thuận.
Lại
trước kia 6 châu thuộc Hưng Hóa và 3 động thuộc Tuyên Quang, bị bọn thổ ty nhà
Thanh xâm chiếm đem sáp nhập vào lãnh thổ Lưỡng Quảng. Vua Quang Trung viết
biểu nhờ Phúc Khang An chuyển lên Thanh triều, thỉnh cầu phân định lại cương
giới. Khang An lấy cớ cương giới đã định mà bác khước. Nhà vua có ý bất bình,
nên lo dưỡng uy sức nhuệ để rồi đòi lại đất đai của tổ tiên.
Ðối với
Trung Hoa như thế là tạm yên.
Và Quang
Trung còn phải đối phó với Xiêm La, Ai Lao và Miến Ðiện.
Khi Lê
Chiêu Thống chạy sang Tàu, Lê Duy Chỉ ở lại Tuyên Quang, nương nhờ thổ tù Nùng
Phúc Tân và Huỳnh Văn Ðồng. Chỉ liên kết với thổ dân ở Vạn Tượng, Trấn Ninh,
Trịnh Cao, Quy Hợp, Xiêm La chuẩn bị đánh lấy thành Nghệ An.
Vua
Quang Trung hay tin, sai Trần Quang Diệu làm Ðại Tổng Trấn, Lê Trung làm Ðại Tư
Lệ, phát binh đi tảo trận[67] Phạm Văn Trị là anh bà họ
Phạm mẹ Nguyễn Quang Thùy.
[68]
Mười bài từ đó là: Mãn đình phương, Pháp giá dẫn, Thiên thu tuế, Lâm giáng
tiên, Thu ba tế, Bốc dưỡng tử, Yết kim môn, Hạ thánh triều, Lạc xuân phong,
Phượng hoàng các.
[69] Bảo
tất là ôm gối: con ôm gối cha để đón niềm vui vẻ (tất hạ thừa hoan). Ðó là Vua
Càn Long muốn cụ thể hóa lời nói của Vua Quang Trung trong bài chiếu tạ ơn, và
lời của chính mình khi xem xong tờ chiếu.
[70] Câu
này chép theo cụ Bùi Văn Lang. Có người đọc là: Tiền triều kham tiếu đại kim
nhân. Lại có người đọc: Thắng triều vãng sự đại kim nhân. Chuyện Người vàng:
Trong trận Chi Lăng, Lê Lợi bắt giết tướng Minh là Liễu Thăng. Sau Vua Minh
buộc Vua Lê phải cống người vàng để thường mạng. Các triều Lê, Mạc đều nộp hàng
năm. Ðến đời Lê Trung Hưng, triều Lê Dụ Tông Nguyễn Hãn dùng tài ngoại giao xin
bãi bỏ. Ðến đời Quang Trung, Tổng Ðốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An viết thư nhắc
lại lệ ấy. Vua Quang Trung phản đối. Vì nể kẻ chiến thắng Vua Thanh làm ngơ.
[71] Nha
hàng: Cơ quan giới thiệu về việc mua bán.
[72] Lê
Trung, người Phù Mỹ phủ Quy Nhơn, văn võ gồm tài. Ði lính ở Phù Ly, theo Vua
Quang Trung ra Thuận Hóa, lập nhiều chiến công làm lên đến chức Ðô Ðốc. Tính
trung nghĩa thường ngâm câu thơ của Văn Thiên Tường: Nhân sanh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
VUA QUANG TRUNG VÀ VẤN ÐỀ NỘI TRỊ
Phần đất
thuộc Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung đã được minh định ngay sau khi có sự bất
hòa giữa hai anh em: từ Hải Vân Quan trở vô là của Vua Thái Ðức. Từ Hải Vân
Quan trở ra là của Vua Quang Trung.
Nước nhà
tuy hai trên thực tế nhưng vẫn là một trên danh nghĩa: hai miền Nam Bắc vẫn lấy
niên hiệu Thái Ðức.
Khi Vua
Quang Trung lên ngôi Hoàng Ðế, nhất là sau khi chiến thắng quân Thanh, Bắc Nam
mới trở thành hai nước riêng biệt, không xâm lấn lãnh thổ nhau cũng không can
thiệp nội bộ nhau.
Tháng 2
năm Kỷ Dậu (1789), giao phó việc cai trị Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhậm,
Vua Quang Trung trở về Phú Xuân, lo sửa sang việc nước.
1. HÀNH
CHÍNH
Chọn
kinh đô.
Vua
Quang Trung đã có ý đóng đô tại Nghệ An từ lúc còn làm Bắc Bình Vương. Nhà vua
đã nhờ La Sơn Phu
Tử chọn
đất để lập đô. Ban đầu nhà vua định chọn Phù Thạch trên sông Lam, gần núi Nghĩa
Liệt, sau đổi ra Yên Trường (Vinh), cuối cùng chọn Dũng Quyết tức vùng núi
Phượng Hoàng.
Ðịa thế
hùng hiểm.
Phía Nam
có sông Cồn Mộc và Sông Lam, phía đông bắc có núi Phượng Hoàng.
Ðều là
hào và thành thiên nhiên che chở cho kinh thành.
Thành
không rộng mấy. Bắc Nam chỉ dài chừng 300 mét. Ðông Tây dài chừng 450 mét. Ðó
là nội thành.
Ngoại
thành chưa xây.
Thành
Nghệ An gọi là Phượng Hoàng Trung Ðô.
Cải
thành Thăng Long là Bắc Thành.
Vì
Phượng Hoàng thành chưa xây xong, nên Vua Quang Trung về ngự tại núi Phú Xuân
suốt thời gian trị vì.
Tổ chức
chánh quyền trung ương.
Vua
Quang Trung có ba bà vợ chính thức:
- Bà họ
Phạm[73] ở thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn (Bình Khê), phủ Quy Nhơn, mất sớm,
sanh hạ được hai trai là Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn.
Bà họ
Phạm mất rồi, nhà vua kết duyên cùng bà họ Bùi ở thôn Xuân Hòa (Bình Khê). Bà
họ Bùi là mẹ của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Quang Khanh và
hai người con gái.
- Ngọc
Hân công chúa mới có một con.
Quang
Thùy và Quang Bàn lúc bấy giờ đã 17, 18 tuổi.
Quang
Toản mới 9, 10 tuổi.
Con Ngọc
Hân mới 2 tuổi.
Vua
Quang Trung phong bà họ Bùi làm Chánh Cung Hoàng Hậu, bà Ngọc Hân làm Bắc Cung
Hoàng Hậu và
lập
Nguyễn Quang Toản làm Thái tử.
Bà họ
Phạm được truy phong là Nhân Cung Ðoan Tĩnh Trinh Thục Như Thuần Vũ Hoàng Chánh
Hậu, phong cho Quang Thùy làm Khanh Công Lĩnh Bắc Thành, Tiết Chế Thủ Bộ Chư
Quân, phong cho Nguyễn Quang Bàn làm Tuyên Công Lĩnh Thanh Hóa Ðốc Trấn, Tổng
Lý Quân Dân Sự Vụ.
Nguyễn
Quang Thùy đã được Vua Càn Long phong là An Nam Quốc Vương Thế Tử. Vua Quang
Trung sai sứ đem biểu sang tâu rằng Thùy là con dòng thứ.Càn Long nghe theo,
phong Toản làm An Nam Quốc Vương
Thế Tử
thay Thùy. Có người bất bình, ngỏ ý cùng Nguyễn Quang Thùy, Thùy nói:
- Em tôi
hay tôi làm Thái tử cũng thế thôi. Ðiều cốt yếu là làm thế nào cho nước Ðại Nam
được mỗi ngày mỗi thêm giàu mạnh, nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi thêm vững bền, là
tốt.
Hàng trí
thức đương thời khen là đại nhân.
Quan chế
vẫn tương tợ như cũ. Ðại khái trên thì có Tam công là Thái Sư, Thái phó, Thái
bảo; Tam cô là Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Ðại chủng tể, Ðại tư đồ, Ðại tư
mã, Ðại tư không; Ðại đô đốc, Ðại đô hộ. Lại có Trung thư sảnh, Trung thư lệnh,
Lục bộ Thượng thư... Thị lang, Tư vụ...
Tổ chức
hành chính địa phương.
Ðời nhà
Lê nước chia làm 13 trấn: Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng
Nam.
Ðời
Quang Trung, trấn Quảng Nam thuộc về Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung chia Sơn Nam
ra làm hai thành Sơn Nam Hạ và Sơn Nam Thượng.
Trấn
chia làm nhiều phủ; Phủ chia làm nhiều huyện; Huyện chia làm nhiều tổng; Tổng
chia làm nhiều xã; Xã chia làm nhiều thôn.
Trấn thì
có Trấn Thủ (võ) và Hiệp Trấn (Văn) điều khiển. Phủ, Huyện thì có Tri phủ, Tri
huyện cùng chức Phân tri coi việc kiện cáo, chức Phân xuất coi việc binh lương.
Tổng thì có Chánh tổng, Phó tổng. Xã thôn thì có Xã trưởng, Thôn trưởng.
2. QUÂN
SỰ
Tổ chức
quân đội.
Theo các
triều đại trước, quân đội gồm có 5 quân. Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu. Vua Quang
Trung tổ chức thêm những đội quân đặc biệt, gọi Tả Bật, Hữu Bật, Ngũ Chế, Càn
Thanh, Thiên Cán, Thiên Trường, Hổ Ðôn, Hổ Hầu, Thị Lân, Thị Loan.
Mỗi quân
gồm 5 bậc là Sư, Lữ, Tốt, Lượng, Ngũ như xưa.
Ở các
phủ, huyện, quân đội lại chia ra từng đạo, cơ và đội.
Ðạo thống
cơ, cơ thống đội.
Tất cả
đều ở dưới quyền viên võ Phân xuất.
Triều
Vua Thái Ðức thì lính mộ chớ không bắt.
Vua
Quang Trung dùng chính sách cưỡng bách.
Ðể tiện
việc kiểm soát trong khi bắt lính, nhà vua đặt ra tín bài.
Tín bài
là một chiếc thẻ, một phía thì ghi tánh danh, quản chỉ và dấu lăn tay hay chữ
ký của chủ nhân
chiếc
thẻ, một phía có đóng dấu ấn có bốn chữ Quốc gia đại tín. Người nào không có
tín bài thì bị bắt sung vào phòng dịch.
Nhà vua
còn đặt ra hộ tịch, chia dân ra làm bốn hạng: từ 9 đến 17 tuổi gọi là Vị Cập
cách hạng; từ 18 đến 55 tuổi gọi là Tráng hạng; từ 56 đến 60 tuổi gọi là Lão
hạng; từ 61 tuổi trở lên gọi là Lão nhiêu. Bốn hạng người đó phải ghi tên vào
hộ tịch. Những người từ 18 đến 55 tuổi phải đi lính. Nhưng không phải tất cả những
người trong tuổi ấy đều phải đi lính. Những gia đình độc đinh thì được miễn.
Trong gia đình đông con thì cứ ba tráng đin phải đi nhập ngũ một người. Những
khi cần thiết lắm mới phải nhập ngũ hai người. Nhờ có ghi rõ tên tuổi trong hộ
tịch nên tránh bớt sự bất công.
3. KINH
TẾ TÀI CHÍNH
Ðúc tiền
Từ trước
nhân dân Thuận Hóa cũng như Bắc Hà dùng tiền nhà Lê. Sau khi lên ngôi Hoàng Ðế,
Vua Quang Trung cho đúc tiền mang danh hiệu Quang Trung thay thế cho tiền Cảnh
Hưng, Chiêu Thống.
Dinh
điền.
Nền kinh
tế vẫn đặt trên cơ sở nông nghiệp.
Sau
những cuộc chiến tranh kéo dài giữa Trịnh - Nguyễn, Tây Sơn - Trịnh, giữa Hoa -
Việt, số dân giảm
xuống
rất nhiều. Do đó có một số ruộng đất bỏ hoang. Nhà vua đưa những người nghèo
khổ ở những nơi đông đúc tới đó để cày cấy làm ăn. Chính quyền địa phương phải
giúp đỡ mọi phương tiện.
Ðể có
thể nắm vững tình hình, nhà vua buộc các Tổng lý phải làm sổ điền kê khai đầy
đủ những ruộng đất canh tác và ruộng đất bỏ hoang. Những ruộng đất bỏ hoang
trong thời gian một năm mà không được khai thác trở lại thì các nhà chức trách
địa phương phải bị tội.
Nhờ vậy
mà tránh được sự chênh lệch về mặt kinh tế cũng như về mặt mật độ dân cư từng
địa phương.
Thuế
khóa.
Dưới
thời Trịnh Nguyễn, nhân dân phải nộp thứ thuế gọi là Tiền điệu tức là tiền nạp
thuế cho việc sưu dịch. Vua Quang Trung bãi bỏ thứ thuế ấy. Những lúc trong
nước hay địa phương cần dùng nhân công thì mọi người đều phải góp phần, giàu
cũng như nghèo, trừ những bậc lão nhiêu, lão hạng, không ai được miễn. Những
người nào không tự mình thi hành nhiệm vụ được thì bỏ tiền ra thuê người thay
thế chớ không được đem nạp cho các nhà chức trách.
Thuế
ruộng đất công tư đều phải xét lại rồi mới phân hạng theo mức sản xuất hàng
năm, và chia làm ba hạng. Thuế nạp bằng lúa. Cũng có thể nạp bằng tiền tính
theo thời giá. Ngoài số lúa là Thập vật tiền là tiền công trả cho người đứng
thâu thuế, và Khoán khố tiền tức là tiền tồn kho. Mức thuế đã quy định rõ ràng.
Thu lên bị tội tham nhũng.
4. VĂN
HÓA
Việc
học.
Việc học
được tổ chức khắp mọi nơi, từ xã đến phủ huyện. Ban Giảng dụ ở xã giao cho
những người học hạnh kiêm toàn ở địa phương hoặc mời ở các địa phương khác. Xã
học do chính quyền địa phương tổ chức. Tư nhân vẫn có quyền rước thầy về dạy
con em trong nhà trong làng, vô điều kiện. Học sinh ở các trường tư vẫn được
coi như học sinh trường công. Các trường phủ trường huyện thì có Ðốc học, Huấn
đạo điều khiển. Những vị thầy trung ương bổ nhiệm và lựa trong làng khoa bảng
triều Lê, lương hướng và phẩm trật ngang với tri phủ, tri huyện.
Hằng năm
vào mùa thu, mở khoa thi Tuấn Sĩ, chọn những phẩn tử ưu tú thăng vào Quốc học,
hạng thứ vào Phủ học.
Học và
thi đều dùng hai thứ là chữ Hán và chữ Nôm.
Chữ Nôm.
Chữ Hán
là chữ Trung Hoa, nước ta dùng làm Quốc tự đã trên dưới 2.000 năm, tục gọi Chữ
Ta. Chữ Nôm
do chữ
Hán biến chế ra (chữ của nước nhà).
Chữ Nôm
có từ khi nào chưa được rõ. Ðời nhà Trần khoảng 1279-1293, các sĩ phu trong
nước dùng chữ Nôm làm thơ Ðường luật, gọi là thơ Hàn luật. Chữ Nôm từ đó được
thịnh hành. Nhưng chỉ trong dân gian dùng mà thôi. Các giấy tờ nơi cửa công đều
dùng chữ Hán. Mãi đến đời nhà Hồ (1400-1407) mới được các cơ quan chính quyền
dùng vào việc từ hàn. Nhà Hồ mất, chữ Nôm cũng mất địa vị theo. Vua Quang Trung
phục hồi chân giá trị.
Có nhiều
người có học không hiểu ý nghĩa sâu xa trong việc dùng chữ Nôm thay chữ Hán, đã
buông nhiều lời bất tồn như Nôm na là cha mách khóe, Nôm na là cha bá láp. Lại
có chuyện rằng:
Trong
một khoa thi Tuấn Sĩ, đề thi ra Con cóc, một thí sinh có bài:
Da thời
ghẻ chốc mọc tàm ngoam
Vóc lại
u nu giống trái chàm
Nòng nọc
đứt đuôi ra khỏi nước
Gặp nhằm
tổ mối miệng chàm bàm.
Ban giám
khảo đánh hỏng.Duyệt lại các quyển hỏng, thấy bài này, Vua Quang Trung khen là
ý mới lời ta, lấy đậu ưu hạng và cho vào Quốc học. Lại quở ban giám khảo hữu
nhãn vô châu, cấm không được đi chấm thi nữa.
Chưa có
thể hoàn toàn dùng chữ Nôm thay chữ Hán cho nên trong việc học hành, việc thi
cử và việc thư trác chốn công môn, chiếu biểu nơi triều đình, đều dùng cả hai
thứ chữ, không có ý trọng khinh.
Nhà vua
lập Sùng Chính viện, thỉnh La Sơn Phu Tử làm Viện trưởng.
Công
việc chính của Viện là dịch những tác phẩm có giá trị về đạo đức và văn chương
ra chữ Nôm để phổ biến trong toàn quốc.
Cộng tác
cùng Phu Tử có nhiều nhà khoa bảng triều Lê như Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan
Tố Ðịnh, Bùi Dương Lịch rất sành văn Nôm.
Vào đầu
năm Quang Trung thứ năm (1792), Viện đã dịch xong bộ Tứ Thư và Tiểu Học. Nhà
vua xuống chiếu sai dịch tiếp các bộ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch... không rõ
bộ này đã dịch xong chưa. Hiện chỉ tìm được bản Kinh Thi Giải Âm khắc mộc bản
năm Quang Trung thứ 5[74].
Nhờ sự
khuyến khích của Vua Quang Trung mà văn chương chữ Nôm thời Tây Sơn được thịnh
vượng. Nhiều tác phẩm có giá trị ra đời như Hoa Tiên truyện, Mai Ðình Mộng ký,
Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm, Thơ Hồ Xuân Hương, Thơ La Xuân Kiều v.v... được truyền
thế.
5. TÔN
GIÁO
Vua
Quang Trung muốn lấy đạo Nho làm quốc giáo, nên khuyến khích việc phát triển
Nho học.
Ðối với
đạo Phật nhà vua vẫn ngưỡng mộ, song rất ghét những người lợi dụng chùa để trốn
xâu lậu thuế, để không làm mà có ăn. Nhận thấy làng nào cũng có chùa, mà phần
nhiều thầy chùa ít học, không mấy người hiểu thấu đạo lý cao sâu của đức Thích
Ca, chỉ mượn tiếng tu hành để ký sinh vào xã hội, nên nhà vua xuống chiếu bắt
bỏ những chùa nhỏ ở các làng. Mỗi huyện hoặc mỗi phủ được cấp gỗ gạch để xây
một ngôi chùa đồ sộ khang trang, rồi chọn những tăng ni có học thức, đạo đức
đến trụ trì. Còn những nhà sư đội lốt tu hành, tục gọi là những Huề mầm đều bắt
phải hoàn tục, lo bổn phận người dân[75].
Các đạo
khác như Lão giáo, Ma Ní giáo... được tự do truyền bá.
Thiên
Chúa giáo cũng không bị ngăn cấm[76]. Nói tóm lại dưới triều Tây Sơn, nhân dân
được tự do tín ngưỡng.
6. CHỌN
NHÂN TÀI
Vua Thái
Ðức dùng phương Chiêu hiền để có người anh tài ra giúp nước. Những kẻ sĩ tự
mình đến tham kiến
hoặc
người có uy danh đề cử, nếu xét quả có tài đức, đều được trọng dụng.
Vua
Quang Trung theo các đời trước cho mở các khoa thi Võ và Văn ở tại kinh đô Phú
Xuân, tương tự như những khoa thi Hội đời Lê.
Tất cả
mọi người đều được ứng thí.
Ba năm
mở một khoa. Khoa đầu tiên mở vào năm Quang Trung thứ nhì (1789).
Khoa thi
văn, gọi là khoa Minh Kinh, có nhiều người ở miền Trong ra ứng thí. Trúng tuyển
vào hạng ưu có:
- Phan
Văn Biên ở Phú Yên đã giỏi về Kinh Sử, thông cả bách gia chư tử lại còn thạo âm
nhạc, rành toán pháp. Ðậu xong được bổ ngay làm Huấn Ðạo.
- Ðinh
Sĩ An người Bình Khê. Thơ văn thanh khoáng, Cùng Ngô Diên Hiệu, Phan Ðình Văn,
Huỳnh Chiếu nổi danh về văn học. Ðời đời xưng tụng là Tây Sơn tứ tài tử. Ðậu
xong được bổ làm việc ở Nội Các với hàm Hàn Lâm.
- Phạm
Văn Tung, người Phù Mỹ, có tiếng hay chữ từ lúc nhỏ, lại có tài cưỡi ngựa bắn
cung. Sơ bổ làm tư vụ ở Các, sau làm Hiệp trấn Phú Yên.
- Trần
Trọng Vỹ, người Hoài Ân, thơ hay. Theo nhà Tây Sơn làm một chức quan nhỏ. Sau
khi đỗ khoa Minh Kinh liền được bổ làm Thị lang bộ Lễ.
- Ðặng
Sĩ Nguyên, người Quảng Nghĩa, tánh phương nghiêm chính trực, sơ bổ làm Biên tu.
- Ðặng
Mộng Kỳ người Quảng Nam, tài kiêm văn võ. Tuy đậu khoa văn, nhưng lại thường
lập được nhiều võ công, làm cho quân Nguyễn Phúc Ánh sợ gọi là Ðặng Gia Gia.
- Lý
Xuân Tá người Quảng Nam, tánh nghiêm trực rất ghét dị đoan. Lúc làm quan thường
cứu được nhiều người bị kết án oan uổng và thường phá hủy những đền miếu thờ
những dâm thần ác quỷ. Làm quan đến chức An Phủ ở Phú Yên.
Ðó là
những người ở trên phần đất của Vua Thái Ðức, nhưng vẫn thi đỗ làm quan cùng
Vua Quang Trung
mà không
bị kỳ thị.
Còn
người ở Thuận Hóa và Bắc Hà thi đậu cũng nhiều. Nổi tiếng nhất là Ðặng Cao
Phong. Ðặng thi đậu liền được bổ vào Nội Các với chức Hàn Lâm Học sĩ, rồi thăng
Trung Thư Thị lang. Những chuyện cơ mật trong triều ngoài quận đều được tham
dự. Vua Quang Trung rất ái tín.
Khoa thi
võ người miền trong ra thi cũng nhiều. Có hai người xuất sắc:
- Phạm
Cần Chính, người Phù Cát, học chữ Hán rất giỏi, nhưng ghét thói văn chương phù
phiếm, chỉ chuyên nghiên cứu binh pháp. Lúc nhỏ nhà nghèo, không tiền mua dầu
thắp, nhặt củi làm đèn, đọc sách, tập văn đến gà gáy mới ngủ. Lớn lên học võ.
Sức mạnh như Hạng Vương có thể kéo cung sắt nặng 300 cân, cắp hai nách hai tảng
đá nặng hàng tạ nhảy qua rào cao quá với. Thiện dụng cây thiết sóc[77].
Người
đời gọi là Phạm Thiết sóc. Ðược Vua Quang Trung cho đổi sang họ Nguyễn.
- Lê Sĩ
Hoàng, người Quảng Nam. Võ nghệ siêu quần. Lúc nhỏ nghèo chăn trâu cho một phú
nông trong ấp. Trâu bị cọp bắt, Hoàng sợ tội chạy vào núi trốn, gặp được dị
nhân truyền võ nghệ. Lê có tài sử dụng đại đao.
Trong
lúc thi, Vua Quang Trung sai Trần Quang Diệu ra tỉ thí. Tài sức ngang nhau. Nhà
vua cao hứng đòi đấu thử. Lê Sĩ Hoàng cung kính tạ từ.
- Với
Trần Tướng Quân, hạ thần còn không địch nổi huống chi với Bệ Hạ.
Vua
Quang Trung đắc ý, vỗ vai nói:
- Ðây là
Hứa Chử của ta.
Rồi cởi
chiếc cẩm bào đương mặc ban cho Lê Sĩ Hoàng. Sĩ Hoàng cùng Quang Diệu được đời
tôn xưng là
Tây Sơn
Song đao.
Hai
người đều được triều đình trọng dụng và lập được nhiều chiến công, cùng với các
võ sĩ phò tá Tây Sơn từ trước, được liệt vào hàng lương tướng.
7. DẸP
PHIẾN LOẠN
Dư đảng
của Vua Lê, ngoài Lê Duy Chỉ dựa vào lực lượng các thổ dân ở các miền núi ngoài
biên giới để chống lại nhà Tây Sơn[78] và đã bị Trần Quang Diệu dẹp yên, còn
các cuộc bạo loạn rải rác ở miền Bắc.
Thứ nhất
là cuộc bạo loạn của Trần Quang Châu người huyện Gia Bình thuộc Bắc Ninh, đã
từng giúp Lê Chiêu Thống trốn tránh.Lúc Tôn Sĩ Nghị kéo quân xâm lấn nước ta
Châu theo hộ giá Chiêu Thống và được phong làm Tiên Phong Ðại Tướng. Quân Thanh
thua, Vua Lê bỏ chạy. Châu chạy về huyện nhà, mộ binh đánh phá các vùng lân
cận. Võ Văn Dũng được cử đi đánh dẹp. Nhờ địa thế hiểm trở binh của Châu cầm cự
với quân Dũng từ thu Tân Hợi (1791) đến xuân Nhâm Tý (1792).
Châu bị
bắt, dụ hàng không được nên Dũng đem giết đi. Thứ hai phải kể đến cuộc dấy loạn
của Dương Ðình Tuấn người huyện Yên Thế (Bắc Giang), phò Lê Chiêu Thống trong
lúc ẩn náu để chờ đợi viện binh. Khi Chiêu Thống chạy theo Tôn Sĩ Nghị, Tuấn ở
lại tiếp tục hoạt động chống Tây Sơn, Ðặng Văn Long phụng mệnh đi tảo trừ. Tuấn
đánh không lại, trốn vào rừng rồi biệt tích.
Ngoài ra
còn có Phạm Ðình Ðạt người Vũ Giang (Bắc Ninh), cùng các em là Tạo sĩ Phạm Ðình
Phan, Tiến sĩ Phạm Ðình Dữ và các con là Phạm Ðình Hân, Phạm Ðình Cù, Phạm Ðình
Ninh, Phạm Ðình Duật quật khởi ở núi Huyền Ðinh tục gọi là núi Treo Ðanh.
Thường hoạt động mạnh ở vùng Lạng Giang. Quân Tây Sơn do Ðặng Văn Long chỉ huy
phải đánh dẹp mãi mới tiêu diệt được.
Những
đám phiến loạn dẹp yên, trong nước dồn công sức vào công việc kiến thiết xã
hội.
------------------------
[73]
Theo cụ Bùi Văn Lang thì bà họ Phạm là người Duy Xuyên (Quảng Nam), cùng mẹ
khác cha với Bùi Văn Nhật, Bùi Ðắc Tuyên; năm 30 tuổi được phong làm Hoàng Hậu
và sanh hạ được ba trai hai gái, Quang Toản là trưởng nam. Cụ Bùi đã lầm, vì bà
họ Phạm và bà họ Bùi còn miêu duệ ở Phú Phong, Xuân Hòa.
[74]
Theo sách La Sơn Phu Tử của Hoàng Xuân Hãn.
[75] Có
nhiều nhà sư hiện đại cho việc làm vua Quang Trung là chống lại Phật giáo và
gọi Tây Sơn là Ngụy triều.
[76]
Trong lá thư đề ngày 18-7-1793 của Linh mục Le Roy gởi cho Plandin, có câu Từ
khi nhà Tây Sơn lên làm chủ. Tôn giáo được tiến bộ, đăng trong Nouvelles des
missions etrangères cuea M. de la Bissachère năm 1902.
[77] Một
loại giáo
[78] Xem
mục Vua Quang Trung đối ngoại.
VUA
QUANG TRUNG BĂNG HÀ
NGUYỄN
QUANG TOẢN KẾ VỊ
Công
việc xây dựng quốc gia đang tiến hành trôi chảy, thình lình Vua Quang Trung
băng hà.
Vua băng
ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý [79](15-9-1792). Nguyên nhân gây ra cái chết của
Vua Quang Trung đã trở thành một nghi án lịch sử. Ðại Nam Chính Biên Liệt
truyện ghi rằng:
Huệ
trong lúc lấy kinh đô Phú Xuân có mạo phạm lăng tẩm của Liệt Thánh.
Một ngày
kia, đương ngồi, thình lình bắt đầu xây xẩm rồi ngã ra hôn mê. Mơ màng thấy một
lão trượng đầu bạc áo trắng, cầm gậy sắt, từ không trung đi đến, mắng rằng: Ông
cha mày đều sanh ở đất Vua, mày sao dám mạo phạm đến lăng tẩm?. Nói dứt lời
liền lấy gậy sắt đánh nơi trán Huệ. Huệ ngã xuống bất tỉnh, hồi lâu mới tỉnh
lại. Từ ấy bịnh càng ngày càng nặng, mới triệu viên Trấn thủ Nghệ An là Trần
Quang Diệu về thương nghị việc dời đô ra Nghệ An.
Ðó là
lời của sử gia Nguyễn Gia Miêu[80] bịa ra để bôi nhọ Vua Quang Trung. Bịa không
được khéo, bởi ai kể lại câu chuyện hoang đường ấy cho viết sử chép? Chẳng lẽ
Vua Quang Trung kể lại giấc mộng không mấy đẹp của mình?
Có người
bảo nhà vua bị thượng mã phong. Ðó chỉ là chuyện hài hước.
Lại có
người độc miệng bảo rằng nhà vua bị Ngọc Hân Công Chúa ám hại bằng cách bỏ
thuốc độc vào rượu[81]. Rõ là vu cáo giữa trời!
Thiết
tưởng Vua Quang Trung chết vì bệnh huyết áp cao, làm việc nhiều, suy nghĩ
nhiều, bị đứt mạch máu. Cái chết đột ngột do bệnh huyết áp cao gây nên thường
xảy ra và dân gian thường gọi là trúng gió. Chớ nếu quả có điều ám muội thì dễ
gì triều đình Tây Sơn đã để yên.
Truyền
rằng:
Mùa xuân
năm Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung hay tin Nguyễn Phúc Ánh đã chiếm được Gia
Ðịnh và kéo quân ra đánh Quy Nhơn, bèn nổi giận:
- Giống
cỏ gấu không diệt tận gốc, cứ nảy ra hoài!
Liền
chuẩn bị kéo đại binh vào đánh. Lục quân từ trên đánh xuống, Thủy quân từ dưới
đánh lên. Bao vây mặt biển, cắt đứt đường núi, không cho quân Nguyễn chạy
thoát.
Mọi việc
đã sắp đặt chu đáo thì thình lình nhà vua bị cảm. Bệnh mỗi ngày một nặng. Bèn
triệu Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu thương nghị về việc dời đô ra Nghệ An
và việc đi đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng rồi biết mình không còn sống lâu được
nữa, liền trối:
- Ta mở
mang bờ cõi gồm cả miền Nam. Nay bênh tình của ta không thể khá được, mà Thái
Tử thì còn nhỏ. Phía trong thì bọn quốc cừu hoành hành ở Gia Ðịnh. Còn anh ta
thì tuổi già, cầu an, không lo hậu hoạn. Ta chết rồi, trong vòng một tháng phải
lo việc tống táng cho xong. Các khanh phải đồng lòng phò Thái tử và sớm lo việc
thiên đô để khấu chế thiên hạ. Nếu không vậy, binh Gia Ðịnh kéo đến, các khanh
không có đất chôn thây.
Nói rồi
băng tại điện Trung Hòa, ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý.
Thọ 40
tuổi.
Ở ngôi 5
năm.
Thái Tử
Nguyễn Quang Toản nối ngôi.
Qua
tháng 8, triều đình mai táng Vua Quang Trung tại phía Nam sông Hương.
Thụy là
Thái Tổ Vũ Hoàng Ðế ;
Một mặt
vào Quy Nhơn, một mặt sang Trung Quốc cáo tang.
Vua Thái
Ðức được tin, kêu lên một tiếng Em ơi rồi khóc ngất! Ðoạn lo sắm sửa đi điếu
tang. Nhưng đình
thần can
gián. Nhà vua bèn sai La Xuân Kiều soạn một bài văn tế, rồi cử Võ Xuân Hoài và
Ðặng Xuân Phong thay mình mang tế vật ra Phú Xuân.
Bài văn
tế viết bằng chữ Nôm, có những câu:
Công
điếu phạt, Nam rồi lại Bắc, tiếng anh hùng vang dội sấm mười phương
Tình
tích linh, ruột nối liền gan, đường u hiển rã rời tơ chín khúc.
Trời Quy
Nhơn ảm đạm màu thu
Ðất
Thuận Hóa não nùng tiếng cuốc.
Phái
đoàn sang Trung Hoa nói dối rằng:
- Vua
Quang Trung có di chỉ sau khi chết chôn tại Hồ Tây ở Thăng Long để đặng gần
chầu Thiên Khuyết.
Vua
Thanh tưởng thật, tứ thụy là Trung thần, ngự chế một bài thi Ai Thuật:
Ngoại
bang lễ dĩ hiến bồi thần
Cẩn
triển tùng vô ( ) kỷ thân [82]
Nạp
khoản tối gia lai ngọc khuyết
Hoài
nghi kham tiếu đại kim nhân
Thu
trung thượng ức y quan túc
Tấc hạ
hồ như phụ tử thần
Thất
xích bất năng tận ai thuật
Lân kỳ
trung khốn xuất trung chân.
Cụ Bùi
Văn Lang dịch:
Sai
khiến bồi thần lễ ngoại bang
Ít ai
khứng chịu nhọc mình sang
Nào khi
nạp khoản qua đầm ngọc
Không dạ
hồ nghi thế tượng vàng
Dưới gối
như in tình phụ tử
Giữa thu
còn nhớ bộ y quang
Hồng la
bảy thước không cùng chuyện
Ngay
thật riêng thương tấc dạ chàng.
Càn Long
lại còn soạn một bài điếu văn, cấp một tượng Phật bằng ngọc, 3.000 lượng bạc,
sai Hộ Bộ Quảng Tây là Thành Lâm sang Thăng Long phúng điếu.
Sứ giả
làm lễ trước mộ giả của Quang Trung tại linh đường huyện Thanh Trì. Trong điếu
văn có câu:
Chúc ly
Nam cực, hiệu trung đặc trưởng kỳ xu triều; An phách Tây Hồ, một thế vô vong ư
luyến khuyết
Nghĩa
là:
Cõi Nam
phục thay quyền, tưởng lúc xu triều công đáng nể;
Chốn Tây
Hồ an phách, tấm lòng luyến khuyết chết không phai.
Còn bài
thi thì chạm đá dựng nơi mộ.
Nguyễn
Quang Toản lên ngôi sau khi Vua Quang Trung băng, năm Nhâm Tý. Qua năm Quý
Sửu
(1793) cải nguyên là Cảnh Thịnh nguyên niên.
Vua Cảnh
Thịnh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. mọi việc trong triều đều do thái sư Bùi Ðắc
Tuyên quyết đoán.
Bùi Ðắc
Tuyên là người làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (Bình Khê), phủ Quy Nhơn, cậu ruột
Vua Cảnh Thịnh. Dưới triều Vua Quang Trung, Tuyên nhờ thế em gái làm hoàng
hậu[83] mà được làm quan trong triều. Vì ít học nên chỉ làm Thị Lang bộ Lễ,
nhưng lại được phép vào ra nơi cung cấm. Tuyên thường bày nhiều trò chơi để mua
lòng Thái Tử. Vốn biết Võ Ðình Tú có sức khỏe và có tài nhảy cao nhảy xa[84].
Tuyên xúi Quang Toản yêu cầu Tú biểu diễn xem.
Võ Ðình
Tú là một vị khai quốc công thần, theo nhà Tây Sơn từ lúc còn áo vải, chớ đâu
phải là hàng tiểu tốt mà đi làm trò mua vui cho trẻ con. Nhưng Thái Tử là đấng
Vua tương lai của mình. Võ công đâu dám không tuân lệnh.
Công
rước Thái Tử ra đứng giữa sân một tòa dinh thự hình chữ môn, mặt hướng về dãy
nhà phía tả. Công dậm chân nhảy vút qua khỏi nóc nhà phía tả trong chớp mắt.
Liền đó Thái Tử lại nghe có tiếng động sau lưng, quay lại thì đã thấy Công đứng
trước mặt. Công lại dậm chân nhảy vút qua khỏi nóc nhà phía hữu, lanh như chớp.
Liền đó Thái Tử lại nghe có tiếng động sau lưng khi nãy, vội quay lại thì lại
thấy Công đứng ở trước mặt. Diễn đi diễn lại, sáu bận như thế mới thôi. Thái Tử
rất lấy làm thích thú.
Một hôm
Võ Ðình Tú cùng Ðặng Xuân Phong vào cung bệ kiến. Biết rằng đó là hai nhà có
tuyệt kỹ về côn, Bùi Ðắc Tuyên bèn tìm cách mua vui cho Thái Tử. Tuyên lấy tư
cách người đồng châu mời Võ, Ðặng đến nhà riêng dự tiệc. Thái Tử cũng được rước
đến. Tiệc đã vào buổi chiều. Tiệc xong, Thái tử đòi xem hai vị đại thần đấu
côn.
Ðuốc
thắp sáng rực cả sân. Ðặng sử dụng côn đồng, Võ sử dụng côn sắt. Ðường côn qua
lại nhanh như chớp, mạnh như bão, đẹp như rồng bay phượng múa. Người đến xem
chật cả trong cả ngoài. Tiếng hoan hô vỗ tay vang dậy cả một góc thành!
Sau cuộc
đấu côn này, dư luận xôn xao. Lớp thì khen hai vị võ thần tài nghệ thật tuyệt
luân. Lớp thì chê hai vị công thần không biết tự trọng. Lời thị phi bay đến tai
Vua Quang Trung. Nhà vua liền quở trách Thái Tử và Võ, Ðặng và cấm Bùi Ðắc
Tuyên không được bày những trò vui làm mất thể thống đại thần như thế nữa.
Không
bày được trò vui này, tìm những trò vui khác. Trong nơi quyền quý thiếu gì trò
vui. Lòng ham thích của Thái Tử Toản luôn luôn được Tuyên làm thỏa mãn.
Vì vậy
nên khi lên ngôi báu, Nguyễn Quang Toản liền nhớ đến Tuyên, và Tuyên nhảy lên
ngôi Thái Sư dễ dàng như Võ Ðình Tú nhảy qua nóc nhà, bất chấp cả quan chế đã
đặt sẵn. Trong cung đã có Bùi Thái Hậu. Nơi triều lại có lắm đại thần nghiêng
theo chiều gió, như Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng... nên thế lực của Tuyên rất
vững. Tuyên mỗi ngày mỗi thêm lộng hành. Những quan nào theo Tuyên thì được ưu
đãi, những quan nào ra mặt chống thì bị hại, những người nào có ý chống thì bị
đẩy ra làm quan xa. Do đó mà nơi triều đình sinh ra bè phái chống báng lẫn
nhau, làm cho gốc nước bị lung lay.
Các đại
thần trung chính đều bất mãn. Một số quan văn, kẻ thì tìm kế xin về vườn, kẻ
thì bị Tuyên tìm cớ giáng chức hay cách chức. Như:
- Võ Văn
Cao, người Phú Yên, làm Quốc Tử Giám trực giảng, được thăng Thái Tử Trung Doãn
đời Quang Trung, tánh cương trực, không chịu nổi thái độ và hành vi của Tuyên,
nhân về cư tang cha mẹ, ở nhà cày ruộng. Có nhiều bài thơ chê Tuyên là gian
thần. Tuyên rất giận. Khi Võ công chết, Tuyên bảo là giả chết bắt phá quan tài
ra xem, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng phải can thiệp mới được miễn.
Lại như
Trần Long Vỹ, người Hoài Ân, làm Thị Lang Bộ Lễ, cùng Tuyên là bạn đồng sự
triều Quang Trung. Nhân lúc cao hứng làm một bài thơ Nôm Huề Mầm Thăng Huề
Thượng, ngụ ý châm biếm Bùi Ðắc Tuyên, câu kết ngụ ý tự trào:
Tương
chao xưa vẫn cùng chua mặn
Mình mãi
lui cui quét lá đa.
Tuyên
biết được bèn tìm cớ cách chức.
- Ðinh
Sĩ An, người Bình Khê, thi đậu khoa Minh Kinh, được bổ vào Nội Các với Hàn lâm
viện Ðãi Chiếu.Vì
thường
qua lại cùng Trần Long Vỹ nên cũng bị Tuyên ghét đuổi về nhà.
Trần,
Ðinh về Quy Nhơn thành lập một thi xã mệnh danh là Lưỡng Hoài, các danh sĩ ở ba
huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn, hầu hết đều là xã viên. Trong số xã viên có
Ngô Diên Diệu, Phan Bình Vân, Huỳnh Chiếu cùng với Ðinh Sĩ An được đời xưng là
Tây Sơn tứ tài tử.
Về võ
thần thì được trọng dụng nhất là Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng và Lê Văn Hưng.
Họ Ngô
họ Phạm được ưu đãi vì nghiêng về phe Tuyên. Còn Lê Văn Hưng được Tuyên cho làm
người thân cận chỉ vì là người đồng châu, tánh lại thật thà bảo sao làm vậy. Lê
Văn Hưng là một quan võ giỏi đánh giặc chớ chữ nghĩa ít. Song hiệu lệnh của ba
quân đều do họ Lê ban bố, quyền thế rất mạnh[85].
Tuy bảo
sao làm vậy nhưng tánh Hưng lại trung trực, nên khi nhận thấy rõ Tuyên là một
kẻ đại gian, thì phản ứng mạnh. Do đó bị Tuyên xúi Vua Cảnh Thịnh giết chết.
Các Võ
thần đã cùng nhau ra sức dựng nghiệp cho nhà Tây Sơn đều đi trấn thủ ở các nơi
hiểm yếu xa xôi. Ở trong triều một mình Bùi Ðắc Tuyên tác uy tác phúc.
-----------------
[79]
Trong Ðại Nam Chánh Biên Liệt truyện chép là ngày 29 tháng 9 Nhâm Tý. Nhiều
sách cũ nói về nhà Tây Sơn cũng chép theo Liệt truyện. Nhưng trong sách La Sơn
Phu Tử, học giả Hoàng Xuân Hãn, đưa ra hai chứng nhân người Âu Châu là Gúerard
và Labousse đều nói rằng Vua Quang Trung chết vào tháng September 1792. Tính
theo Âm lịch thì September năm 1792 kéo dài từ 15 tháng 7 đến 15 tháng 8 năm
Nhâm Tý. Còn ngày 29 tháng 9 năm Nhâm Tý thì nhằm ngày 13 November 1792. Chúng
tôi nhận thấy rằng lời hai chứng nhân Âu Châu hợp lý hơn là nhà viết sử hậu
sinh của nhà Nguyễn. Vậy Vua Quang Trung băng vào tháng 7 năm Nhâm Tý.
[80] Sử gọi
dòng Nguyễn Huệ là Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh là Nguyễn Gia Miêu.
[81] Bài
đăng trên Phổ Thông của Nguyễn Vỹ.
[82] Bản
truyền thiếu một chữ.
[83]
Tuyên là anh ruột bà hoàng hậu họ Bùi, là anh con bác ruột của Bùi Thị Xuân.
[84]
Tuyên ở Xuân Hòa, Tú ở Phú Phong, hai làng giáp giới nhau (nay nhập thành một
xã) cho nên hai bên
quen
biết nhau từ lúc nhỏ.
[85] Về
Lê Văn Hưng có một giai thoại rằng: Lúc còn trẻ ở nhờ nhà họ Dương, giao tình
cùng với người tớ gái của chủ nhà tên là Ngọc Bích, Hưng tặng cho Ngọc Bích một
chiếc nhẫn vàng hẹn 5 năm sau sẽ đến cưới. Quá hẹn không thấy Hưng đến, Ngọc
Bích nhịn ăn mà chết
NGUYỄN
PHÚC ÁNH NỔI DẬY ÐÁNH TÂY SƠN
Vua Thái
Ðức về già không có ý chí chiến đấu, những văn quan võ tướng có tài số qua đời,
số về vườn, số theo Vua Quang Trung, số còn lại tuổi cũng đã cao, tài cũng đã
tận. Lớp người mới không có người đủ tài kinh bang tế thế. Vì vậy thế nước vừa
nổi lên cao lần lần xuống thấp, để rồi tàn.
Ðông
Ðịnh Vương chỉ là một người có đức độ, không có tài trị nước yên dân. Những
nhân tài ở Quy Nhơn vào phò tá chết lần, về hưu gần hết... Mà Gia Ðịnh lại đất
rộng dân thưa, Vương không thể nào nắm vững được vây cánh. Nhà Nguyễn nhân đó
chiếm đóng nhiều nơi hiểm yếu và thỉnh thoảng kéo binh đánh phá quân Tây Sơn. Trong
xứ mất an ninh, lòng người ly tán. Nguyễn Phúc Ánh ở Xiêm La dò biết được tình
hình, tháng 7 năm Ðinh Mùi (1787) đem cung quyến xuống thuyền về nước.
Nguyễn
Phúc Ánh được vây cánh cũ kéo quân ra giúp. Quân thế khá vững. Tướng Tây Sơn là
Phạm Văn Tham chống không lại, bỏ thành Sài Côn sang đóng ở Ba Thắc. Ðông Ðịnh
Vương chạy về Quy Nhơn chịu tội cùng anh, rồi trở lên Kiên Mỹ thăm cố hương. Từ
ấy biệt tích.
Nguyễn
Phúc Ánh chiếm được Sài Côn tháng 8 năm Mậu Thân (1788).
Phạm Văn
Tham cầm cự cùng quân Nguyễn Phúc Ánh cho đến mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Ðã
đuối sức mà không thấy binh Quy Nhơn vào cứu. Phạm đem binh xuống thuyền, định
ra bể về Quy Nhơn. Nhưng bị quân Nguyễn Phúc Ánh chận lại, phải trở lui Ba
Thắc. Lâu ngày hết cả lương thực, Phạm đầu hàng và bị giết.
Từ ấy
Gia Ðịnh thuộc về Nguyễn Phúc Ánh.
Làm chủ
đất Gia Ðịnh rồi, Nguyễn Phúc Ánh một mặt lo sửa sang việc nước, một mặt nhờ
Giám mục Bá Ða
Lộc
(Evêque dAdran) đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp xin cầu viện để đánh Tây Sơn. Ðược
quân Pháp do Giám mục Bá Ða Lộc và Hoàng tử Cảnh rước về với hai chiếc tàu đồng
do Chaigneau tục gọi là Nguyễn Văn Thắng, chỉ huy, và tàu Phụng do Vannier, tục
gọi là Nguyễn Văn Chấn, điều khiển cùng một số tướng tá như Dayot (Dat-do),
Olliver (Ô-ly-vi-ê), De Forcant (Ðờ Phot-xăng)... phò tá, quân lực của Nguyễn
Phúc Ánh mỗi ngày mỗi thêm sung thiệm hùng cường.
Sau một
năm chuẩn bị, tháng tư năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Phúc Ánh sai Võ Tánh, Nguyễn
Văn Thành, Lê Văn Câu... đem thủy lục quân ra đánh Tây Sơn ở Bình Thuận. Binh
Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn chống cự kịch liệt, không tiến quân nổi, sau ba
tháng giao tranh, phải rút về Gia Ðịnh.
Nguyễn
Phúc Ánh nhận thấy mỗi năm bắt đầu từ tháng 3 có gió mùa thổi từ Nam ra Bắc,
nên quyết định lợi dụng chiều gió để tấn công Quy Nhơn. Cho nên người đương
thời gọi những trận Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đánh Tây Sơn là giặc mùa.
Năm Nhâm
Tý (1792 gió Nam vửa bắt đầu thổi, Nguyễn Phúc Ánh liền sai Nguyễn Văn Trương,
Nguyễn Văn Thành cùng hai người Pháp là Nguyễn Văn Phấn (Dayot), Nguyễn Văn
Chấn (Vannier) đem chiến thuyền ra đánh Quy Nhơn. Quân nhà Nguyễn kéo vào cửa
biển Thị Nại.
Cửa biển
Thị Nại tức là cửa biển Quy Nhơn. Phía đông có dãy núi Phương Mai, phía tây có
dãy núi Nhạn Châu tục gọi là Gành Ráng, làm cánh che. Từ thời Chiêm Thành đến
đời Tây Sơn, cửa Thị Nại luôn luôn có quân phòng ngự. Vua Thái Ðức lại cho xây
pháo đài ở hai dãy núi, và đặt đại bác ở trên núi bắn xuống mỗi khi bị giặc tấn
công.
Nhưng
lúc bấy giờ gió nam thổi mạnh, Binh Nguyễn dùng hỏa công đốt phá thủy trại Tây
Sơn. Bị đánh thình lình lại có sức gió lửa quá mạnh, binh Tây Sơn không chống
nổi phải bỏ Thị Nại chạy về Quy Nhơn. Quân Nguyễn đổ bộ, nhưng liền bị quân Tây
Sơn từ Quy Nhơn kéo xuống đánh, phải rút lui.
Ở Phú
Xuân, Vua Quang Trung (lúc bấy giờ còn sống) được tin quân Nguyễn kéo đánh Quy
Nhơn, nổi giận liền chuẩn bị đại binh vào tận diệt nhà Nguyễn. Trần Quang Diệu
đi đường Lào xuống đông Miên có tướng Miên O Nha Long hưởng ứng, còn nhà vua
thì đem thủy binh vào cửa Cần Giờ. Trên đánh xuống, dưới đánh lên, mặt núi mặt
biển đều bị bao vây. Nguyễn Phúc Ánh không còn lối thoát. Một mặt Vua Quang
Trung tin cho Vua Thái Ðức biết dự định của mình để hai bên cùng tiến vào bao
vây tiêu diệt toàn bộ lực lượng Nguyễn Phúc Ánh, một mặt gởi cho nhân dân Quảng
Nam, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn bài hịch kêu gọi mọi người hăng hái tham gia cuộc
tấn công sắp tới.
Bài hịch
đại khái nói rằng:
Quân Tây
Sơn đã lập được không biết bao nhiêu chiến công oanh liệt. Diệt quân Xiêm La,
thắng quân Mãn
Thanh.
Bao phen đánh quân nhà Nguyễn không còn mảnh giáp phải chạy ra cầu viện nước
ngoài. Nay Nguyễn Phúc Ánh rước quân Pháp về phá rối nước nhà, vâng mệnh đức
Hoàng Huynh, ta chuẩn bị một đạo thủy bộ hùng binh, sẽ thân hành kéo vào Nam
diệt giặc. Giặc nhà Nguyễn chỉ là bè củi mục. Quân Tây Sơn sẽ thu hồi đất Gia
Ðịnh trong nháy mắt.
Lại
khuyên nhân dân không nên sợ bọn người Tây Dương. Chúng chỉ là nhứng xác chết.
Những chiếc tàu đồng, những khinh khí cầu của chúng không có gì đáng sợ...
Tin Vua
Quang Trung sẽ tấn công vào Gia Ðịnh làm cho nhân dân miền Nam phấn khởi, làm
cho Vua tôi nhà Nguyễn và bọn Pháp vô cùng lo sợ. Nhưng cuộc hành binh không
thực hiện được, vì đương mùa gió nam, thuyền đi vào bất lợi, nhất là tại khúc
đường đi ngang qua bán đảo Triều Châu tại Quy Nhơn. Nơi đây tại Eo Vược gió
thổi mạnh gấp ba gấp bốn gió ngoài khơi, gọi là nam lò. Ghe thuyền gặp lúc nam
lò thổi thì khó tránh khỏi tai nạn. Cho nên khách hàng hải có câu:
Cha chết
không lo
Hỏi thăm
nam lò thổi dịu hay săng
Giáo sĩ
Le Labouse gởi thư cho bạn, có đoạn rằng:
Tháng 2
năm 1792, chúng tôi phải rời bỏ con chiên để tránh quân địch Tây Sơn. Họ sẽ kéo
đến vài chục
ngàn
người, do đường Lào tiến vào Cao Miên. Người Cao Miên cũng dự tính theo họ nữa.
Nguyễn Huệ sẽ đem hải quân ngăn chặn các cửa biển Nam Kỳ. Nếu dự định này được
thi hành thì nhà vua và chúng tôi chỉ còn chờ chết. Nhưng nhờ ơn trên, dự định
này không thấy thi hành. Chắc quân Tây Sơn e ngại các chiến hạm của người Âu
Châu đóng đầy sông Sài Gòn do việc buôn bán....
Vua
Quang Trung đợi sang thu, gió đông bắc thổi sẽ xuất chinh nhưng rủi bị cảm rồi
băng. Vua Quang Trung băng, các nhà truyền giáo Kitô mừng. Nguyễn Phúc Ánh càng
mừng.
Tháng 3
năm Quý Sửu. Nguyễn Phúc Ánh để Hoàng tử Cảnh ở lại giữ Gia Ðịnh với Giám mục
Bá Ða Lộc, sai Tôn Thất Hội cùng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Ðức đem bộ
binh ra đánh Bình Thuận, còn mình cùng Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương đem thủy
binh đi đánh mặt bể.
Binh của
Tôn Thất Hội đến Bình Thuận bị binh của Nguyễn Quang Huy chận đánh, không tiến
nổi.
Thủy
binh của Nguyễn Phúc Ánh vào cửa bể Nha Trang, đi ngược dòng sông Cù, kéo lên
đánh Diên Khánh.
Quân Tây
Sơn chận đánh tại bến Trường Cá làng Phương Sài. Hai bên kịch chiến. Thuyền
chìm người chết đầy cả khúc sông. Cuối cùng quân Tây Sơn không chịu nổi sức
súng của Pháp phải tan rã. Nguyễn Phúc
Ánh kéo
lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn bỏ thành về Quy Nhơn.
Thừa
thắng Nguyễn Phúc Ánh đánh thẳng ra Phú Yên. Thành Phú Yên cũng bị thất thủ sau
mấy ngày chiến đấu anh dũng.
Diên
Khánh bị thất thủ, quân Bình Thuận mất hậu thuẫn, Nguyễn Quang Huy bị quân Tôn
Thất Hội đánh thua, kéo quân chạy về Quy Nhơn chận quân Nguyễn.
Tôn Thất
Hội chiếm được Bình Thuận thì liền được thư của Nguyễn Phúc Ánh bảo tiến binh
ra hội với Thủy Sư ở Phú Yên để hai mặt cùng ra đánh Quy Nhơn.
Thủy
binh Nguyễn Phúc Ánh vào cửa Thị Nại. Vua Thái Ðức sai Thái tử Nguyễn Bảo đem
binh chống cự. Nguyễn Phúc Ánh mật sai Võ Tánh đem binh lẻn đi hội với toán
quân Tôn Thất Hội. Nguyễn Văn Thành đánh tập hậu. Nguyễn Bảo bị đánh hai mặt,
không chống nổi phải rút quân về thành Quy Nhơn. Quân Nguyễn Phúc Ánh kéo lên
đánh thành Quy Nhơn.
Liệu thế
không chống cự nổi, Vua Thái Ðức sai sứ ra Phú Xuân cầu viện.
Vua Cảnh
Thịnh sai Thái Úy Phạm Công Hưng, Hộ Giá Nguyễn Văn Huấn, Ðại Tư Lộ Lê Trung và
Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh và 80 thớt voi đi đường bộ, lại sai Ðại
Thống lĩnh Ðặng Văn Chân đem 30 chiến thuyền đi đường bể, cả hai đạo vào cứu
Quy Nhơn.
Nguyễn
Phúc Ánh nhận thấy viện binh hùng hậu, không thể chống nổi, liền rút đại binh
về Diên Khánh.
Quân nhà
Nguyễn rút ra khỏi Quy Nhơn, Vua Thái Ðức mở cổng thành đón binh Phú Xuân. Phạm
Công Hưng vào thành truyền giải giáp quân Thái Ðức và sai quân chiếm giữ các
kho tàng, Ngô Văn Sở can không được.
Vua Thái
Ðức uất ức thổ huyết mà chết. Vua Thái Ðức ở ngôi được 16 năm (1778-1793) thọ
52 tuổi. Ngự cốt được đưa về an táng trong vùng núi Tây Sơn .
Vua Cảnh
Thịnh phong cho Thái tử Nguyễn Bảo là Hiến Công, cho ăn lộc một huyện, gọi là
Tiểu Triều, dinh đóng tại lỵ sở Tuy Viễn, bà chánh cung họ Trần đem hai người
con nhỏ là Văn Ðức và Văn Lương về sống nơi quê hương Kiên Mỹ để được gần gũi
lăng Vua, cho tiện việc hương khói.
Các đại
thần của Vua Thái Ðức, nhờ Ngô Văn Sở can thiệp, khỏi bị hại. Phần nhiều lấy cớ
tuổi già sức yếu xin về sống cùng vườn ruộng, một số ở lại làm việc, vì bảo
rằng Vua Thái Ðức hay Vua Cảnh Thịnh cũng đều là người của đất Tây Sơn.
Vua Cảnh
Thịnh để Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại trấn thủ Quy Nhơn. còn Phạm Văn
Hưng, Ngô Văn Sở, Ðặng Văn Chân cùng các tướng phò Vua Thái Ðức đều rút về Phú
Xuân. Sau đó những quan văn quán Quy Nhơn cũng bị đưa đi phục vụ ở các nơi khác
và đưa những người ở nơi khác, nhất là người Phú Xuân vào giữ những chức vụ
quan trọng ở phủ huyện Quy Nhơn.
TÌNH
HÌNH DIÊN KHÁNH VÀ PHÚ XUÂN
Nguyễn
Phúc Ánh rút quân từ Quy Nhơn về Diên Khánh mùa thu năm Quý Sửu (1793). Nhận
thấy địa thế Diên Khánh hiểm trở, Nguyễn Phúc Ánh cho xây thành đào hào ở phủ
lỵ để làm Tổng hành dinh và cất trại lập xưởng ở dãy núi gần Trường Cá gần cửa
bể Nha Trang để đóng tàu bè và giữ mặt bể.
Thành
nằm trên địa phận hai thôn Phú Mỹ và Trường Thạnh. Chung quanh đắp đất, chu vi
366 trượng 4 thước, cao 8 thước 5 tấc. Trổ 6 cửa ra vào, xây gạch kiên cố, trên
có vọng lâu tứ diện thông phong. Trên thành có đặt súng đại bác ở bốn mặt.
Trên dãy
núi có trại xưởng ở Nha Trang cũng đặt súng đại bác và có thủy quân đóng. Do đó
núi mang tên là núi Xưởng hay núi Trại Thủy[86].
Công
việc phòng thủ lo xong, Nguyễn Phúc Ánh giao Diên Khánh cho Nguyễn Văn Thành
trấn, còn mình thì kéo tướng sĩ về Gia Ðịnh. Sau đó cho Hoàng tử Cảnh và Giám
mục Bá Ða Lộc ra tăng cường.
Năm Giáp
Dần (1794), Vua Cảnh Thịnh sai Lê Văn Hưng vào đánh Phú Yên và Trần Quang Diệu
vào đánh Diên Khánh.
Lê Văn
Hưng kéo quân đến Cù Mông thì gặp Nguyễn Quang Huy.
Nguyễn
Quang Huy sau khi bại binh ở Bình Thuận, không dám về Quy Nhơn, về quê hương ở
Phú Yên, chiếm cứ một nơi hiểm yếu trong dãy Cù Mông đợi dịp lập công chuộc
tội. Khi nghe binh Lê Văn Hưng kéo đánh Phú Yên thì liền đem quân ra hưởng ứng.
Lê Văn Hưng vốn đã quen biết Nguyễn Quang Huy từ trước, nên vui mừng hợp tác
với nhau.
Phú Yên
được chiếm đóng dễ dàng, Lê Văn Hưng để Nguyễn Quang Huy ở lại trấn thủ, kéo
binh về Phú Xuân.
Còn Trần
Quang Diệu vào Diên Khánh, quân trong thành không dám ra đánh, đóng chặt cửa
thành cố thủ.
Thành
kiên cố, Trần Quang Diệu không hạ nổi đành bao vây chờ quân trong thành cạn
lương thực.
Nguyễn
Văn Thành cho người lẻn về Gia Ðịnh cáo cấp. Nguyễn Phúc Ánh bèn đem đại binh
giải vây. Trần Quang Diệu rút quân về.
Nguyễn
Phúc Ánh thấy quân Tây Sơn còn mạnh và lại đương mùa gió bấc, tiến binh không
thuận tiện, đem Hoàng tử Cảnh và Giám mục Bá Ða Lộc về Gia Ðịnh, để Võ Tánh ở
lại trấn thủ Diên Khánh thay Nguyễn Văn Thành.
Tháng
giêng năm Ất Mão (1795), Trần Quang Diệu lại đem thủy binh và bộ binh vào đánh
Diên Khánh. Võ Tánh giao chiến vài bận, liệu không đánh lại, đóng chặt cửa
thành cố thủ, đợi Gia Ðịnh cấp viện binh. Ðến tháng 2, Nguyễn Phúc Ánh đem thủy
sư ra cứu Diên Khánh.
Thủy
quân Nguyễn Phúc Ánh không lên được Diên Khánh vì bị thủy binh Trần Quang Diệu
chận đánh ở Trường Cá Phương Sài, phải đóng ngoài biển Nha Trang và các nơi
hiểm yếu trên đất. Ngày ngày hai bên
đều có
đánh nhau. Người trong xứ không làm ăn được yên ổn.
Thành
Diên Khánh vẫn bị vây chặt. Ðoàn quân nào kéo ra cũng đều bị quân Tây Sơn tiêu
diệt hoặc đánh lui, thủy quân nhà Nguyễn cũng không làm sao qua lại Trường Cá.
Ưu thế nằm hẳn trong tay Trần Quang Diệu.
Chợt
Trần Quang Diệu được tin Phú Xuân có biến!
Ở Phú
Xuân, Bùi Ðắc Tuyên mỗi ngày mỗi thêm lộng quyền. Những người trước kia theo
Tuyên như Ngô Văn Sở, Lê Văn Hưng... cũng không chịu nổi hành vi gian ác của
Tuyên, nhiều khi tỏ thái độ bất bình. Tuyên muốn trừ khử nhưng chưa có dịp.
Nhân Lê Văn Hưng, sau khi thắng trận ở Phú Yên, giao thành cho Nguyễn Quang Huy
giữ, đem quân về Phú Xuân. Tuyên bắt tội là không thỉnh mệnh trước, tỏ ý muốn
làm phản, tâu Vua chém đầu răn chúng. Vua Cảnh Thịnh nghe lời. Ngô Văn Sở can,
nhưng không được. Quan Phụ Chánh Trần Văn Kỷ can thiệp, Tuyên nổi giận giáng
chức, đày ra coi trạm Hoàng Giang. Sau đó Tuyên lại sai Ngô Văn Sở ra Bắc Hà
thay cho Võ Văn Dũng và gọi Dũng về Phú Xuân. Dũng về đến Hoàng Giang[87] thì
gặp Trần Văn Kỷ. Kỷ nói:
- Thái
sư ngôi trùm cả nhân thần, cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết, nếu
không sớm trừ đi, e bất lợi cho xã tắc. Ông nên lo liệu trước đi kẻo nữa ăn năn
không kịp.
Võ Văn
Dũng vốn tin trọng Văn Kỷ, liền nghe theo. Về Phú Xuân không vào triều, lén cho
mời Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn đến bàn mưu giết Bùi Ðắc Tuyên. Nhận thấy
rõ lòng tàn nhẫn và tính phản phúc của Tuyên, Hưng và Huấn cùng lo ngại đến
thân phận của mình, bèn hưởng ứng ngay lời Dũng. Ðêm đến kéo quân vây dinh Thái
Sư. Chẳng ngờ đêm ấy Tuyên có việc ngủ trong cung. Bọn Dũng vây luôn cả cung và
đòi Cảnh Thịnh giao Tuyên. Không dừng được, nhà vua phải bắt Tuyên đem giao,
Dũng hạ ngục Tuyên rồi một mặt cho Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn bắt con Tuyên
là Bùi Ðắc Trụ, một mặt giả chiếu ra Bắc Hà bắt Ngô Văn Sở,
Giải về
Phú Xuân. Dũng phao cho Tuyên, Sở, Trụ mưu phản, đóng cũi nhốt đem dìm xuống
sông Hương! Vua Cảnh Thịnh biết là oan, nhưng không sao ngăn cản được, đành gạt
nước mắt khóc thầm!
Trần
Quang Diệu nghe tin, thất kinh, nói cùng các tướng:
- Chúa
thượng là người thiếu cương quyết để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong
không yên thì đánh ngoài thế nào được.
Bèn ra
lệnh rút quân về. Ði đường núi đã lâu lại không tiện, Trần Quang Diệu phải mở
đường biển theo gió nam mà đi cho nhanh. Nguyễn Phúc Ánh không dám cản đường.
Trần
Quang Diệu đến Phú Xuân, đóng quân tại An Cựu bên bờ phía nam sông Hương.
Võ Văn
Dũng cùng Nội hầu Nguyễn Thế Tứ cũng đem quân bản bộ đóng ở phía bắc sông
Hương, ỷ mệnh Vua cự nhau với Trần Quang Diệu.
Võ Ðình
Tú lấy tình quen thân cả đôi bên, xin Vua Cảnh Thịnh cho phép đứng ra hòa giải.
Nhờ vậy mà Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng nối lại tình xưa, đem binh vào thành,
bệ kiến Vua Cảnh Thịnh.
Vua Cảnh
Thịnh phong cho: Trần Quang Diệu làm Thái Phó, Nguyễn Văn Huấn làm Thái Bảo, Võ
Văn Dũng làm Ðại Tư Ðồ, Nguyễn Văn Danh làm Ðại Tư Mã, gọi là Tứ Trụ đại thần,
chung nắm quyền về dân sự và quân sự. Nhưng rồi có người dèm cùng Cảnh Thịnh
rằng Diệu nắm uy quyền trọng quá, e có ý khác. Cảnh Thịnh bèn thu hết binh
quyền, chỉ để Diệu giữ hư vị trong triều mà thôi. Diệu sinh nghi kỵ, thường cáo
bệnh không đi chầu, và ngày đêm cắt kẻ thủ hạ 200 người mang vũ khí bên mình để
phòng vệ.
Cảnh
Thịnh lại sợ Võ Ðình Tú, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng là bạn cố giao, ở gần
nhau bất lợi cho mình, bèn phong cho Tú chức Binh Bộ Tham tri vào coi quân ở
Quy Nhơn và Phú Yên.
Kế đó
Phạm Công Hưng bị bệnh mất. Nguyễn Thế tử bị thất sủng lén đem gia quyến đi
khỏi Phú Xuân.
Nguyễn
Văn Huấn đương trấn thủ Quy Nhơn bị Cảnh Thịnh triệu về kinh. Tư Ðồ Nghĩa được
cử vào thay Huấn làm trấn thủ và Lại bộ Thị Lang Kính làm Hiệp Trấn giúp Nghĩa.
Huấn về
đến Phú Xuân, Thượng thư Hồ Công Diệu tâu cùng Cảnh Thịnh rằng Huấn ở Quy Nhơn
mưu kết thông cùng giặc, bị gọi về kinh tỏ ý bất bình. Cảnh Thịnh nghe lời, đợi
lúc Huấn vào chầu ra lệnh bắt giết.
Nguyễn
Văn Bảo nổi dậy đánh thành Quy Nhơn, nhưng quân lực quá yếu, nên liền bị đánh
tan. Bảo bị bắt nhận chìm xuống sông đến chết.
Nghe tin
dữ, bà họ Trần ở Kiên Mỹ liền đem hai con là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội con
Nguyễn Bảo là Văn Ðẩu, chạy lên An Khê nương tựa cùng Cô Hầu ở Mộ Ðiểu. Tướng
Cảnh Thịnh biết rõ, nhưng sợ tên
thuốc
của người Thượng nên không dám đuổi theo.
Viên
Thái Phó Lê Văn Ứng tâu cùng Cảnh Thịnh rằng nội biến của Tiểu Triều là do Lê
Trung là người Quy Nhơn, trước có phò Vua Thái Ðức, Cảnh Thịnh tin lời, triệu
Lê Trung vào triều, thét đao phủ quân bắt giết.
Con của
Lê Trung là Lê Chất đương làm thủy quân Ðô Ðốc trấn giữ cửa Thị Nại, nghe tin
nổi giận, chạy vào Gia Ðịnh quy hàng Nguyễn Phúc Ánh. Quyết trả thù, Lê Chất
nói cho Nguyễn Phúc Ánh biết hết tất cả những cơ quan bí mật và những yếu điểm
ở Thị Nại[88].
Dưới
triều Thái Ðức, Quang Trung, Vua tôi tin cậy nhau, bạn bằng yêu kính nhau. Từ
trên xuống dưới, từ trong đến ngoài, đều lấy nghĩa mà đối đãi nhau. Quan văn
cũng như tướng võ, ai nấy đều lo tròn nghĩa vụ, quyền không ham, lợi không ham.
Nhờ vậy mà nước được mạnh, dân được yên. Sang triều Cảnh Thịnh, Vua tôi nghi kỵ
nhau, đình thần hãm hại nhau. Ai nấy đều lo quyền lợi riêng của mình, không
nghĩ đến quyền lợi chung của dân của nước. Khiến thế nước càng ngày càng đảo
khuynh, lòng người càng ngày càng ly tán. Do đó mà Nguyễn Phúc Ánh không tốn
bao nhiêu công phu mà lập nên sự nghiệp lớn trong một thời gian ngắn.
-----------
[86] Dãy
núi nằm ở địa đầu thành phố Nha Trang, hiện có chùa Hải Ðức và Kim thân Phật
Tổ.
[87] Có
sách gọi lá Hán Xuyên, hoặc Mỹ Xuyên.
[88] Có
sách chép Lê Chất là rể Lê Trung.
CUỘC ÐẠI
CHIẾN Ở QUY NHƠN GIỮA HAI NHÀ NGUYỄN
Năm Ất
Mão (1795), sau ki quân Trần Quang Diệu rút về Phú Xuân thì Nguyễn Phúc Ánh
cũng rút quân về Gia Ðịnh lo tích trữ thêm lương thực, chiêu mộ thêm binh sĩ,
quyết chí diệt Tây Sơn.
Tháng 3
năm Ðinh Tỵ (1797), mùa gió nam bắt đầu, Nguyễn Phúc Ánh để Tôn Thất Hội ở lại
giữ Gia Ðịnh, cùng Hoàng tử Cảnh đem binh thuyền ra đánh Quy Nhơn. Bị thủy quân
Quy Nhơn đánh lui, Nguyễn Phúc Ánh theo chiều gió ra đánh Quảng Nam.
Trấn thủ
Quảng Nam là Phạm Văn Thọ, người Bồng Sơn, đi coi việc lương ở ngoài. Thành bị
vây đánh. Người vợ là Lâm Thị Bạch, người An Nhơn, đóng cửa thành cố thủ. Ðịch
đánh hăng quá, phu nhân liệu không giữ lâu nổi, bèn cắt tay lấy máu viết thư
xin cứu viện với Tổng binh trấn Quảng Nghĩa là Nguyễn Văn Lộc. Binh Quảng Nghĩa
ra cứu, quân Nguyễn Phúc Ánh phải lui. Phạm Văn Thọ trở về giữ thành. Nguyễn
Văn Lộc
trở về giữ Quảng Nghĩa.
Nguyễn
Phúc Ánh đánh Quảng Nam ngót hai tháng, quân lương hết phải rút trở về Gia
Ðịnh.
Nguyễn
Phúc Ánh về Gia Ðịnh, một mặt sai Nguyễn Văn Thụy sang Xiêm La xin Vua Xiêm đem
quân theo đường Vạn Tường sang đánh lấy Thuận Hóa hoặc Nghệ An, một mặt sai Ngô
Nhân Tịnh sang sứ nhà Thanh để cầu phong làm Quốc vương thay Nguyễn Quang Toản.
Tháng 3 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh cử đại binh ra đánh Quy Nhơn.
Quy Nhơn
trước kia, quan văn cũng như võ tướng phần nhiều đều là người địa phương. Tình
nghĩa giữa quân và dân rất mặn nồng khăng khít. Từ ngày cháu cướp quyền bác,
đưa người Quy Nhơn đi phục vụ ở nơi khác và đưa người nơi khác vào cai trị
người Quy Nhơn, thì quân và dân trở thành dầu và nước. Kẻ có quyền không có đức
lại gặp được hôn quân, liền hùa gió bẻ bắp, nhân dân phải chịu nhiều nỗi cay
đắng, những mong có cuộc thay đổi. Do đó địa phương có câu:
Lạy trời
cho chóng gió nồm
Cho
thuyền chúa Nguyễn thuận buồm thẳng ra.
Vì vậy
khi Nguyễn Phúc Ánh ra Quy Nhơn thì nhân dân ngấm ngầm ủng hộ.
Nguyễn
Phúc Ánh vào cửa Thị Nại, tháng 4 năm Kỷ Mùi sai Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Ðức
đem quân lên bộ đóng ở Hàm Long thuộc Tuy Phước, và Tống Viết Phước ra đóng ở
núi Cung Quăng thuộc Bồng Sơn .
Hàm Long
là một độc sơn không cao không lớn, nằm trong địa phận thôn Thuận Nghi. Hình
giống như đầu rồng, miệng há rộng. Con sông Hà Thanh chạy từ Nam ra Bắc, qua
khỏi núi thì quành xuống đông để ra đầm Thị Nại, tạo thành cánh tay ôm lấy chân
núi ở mặt bắc và mặt tây. Núi còn một tên nữa là Cần Úc sơn. Núi tuy thấp bé,
song có thế dụng binh.
Cung
Quăng ở phía đông bắc Bồng Sơn. Mặt bắc của núi thuộc về Ðức Phổ, Quảng Nghĩa.
Thế núi trập trùng, cây cỏ sầm uất. Dính liền với núi Sa Lung ở phía tây và núi
Thạch Tân ở phía đông. Ba ngọn núi này hợp nhau thành một bức tường thành thiên
nhiên che chở cho thành Quy Nhơn ở mặt bắc.
Những
nơi hiểm yếu này cũng như các nơi khác trong vùng đất Quy Nhơn đều do Lê Chất
và một số người chán ghét Cảnh Thịnh chỉ dẫn cho Nguyễn Phúc Ánh.
Chiếm cứ
Hàm Long và Cung Quăng rồi, Võ Tánh và Tống Viết Phước lo việc bố phòng. Tống
lo chận binh cứu viện ở Phú Xuân. Võ chờ thủy binh của Nguyễn Phúc Ánh kéo đánh
mặt trước thành Quy Nhơn, sẽ kéo quân đánh bọc hậu.
Võ Ðình
Tú đi kinh lý Phú Yên được tin quân Nguyễn Phúc Ánh đổ bộ Quy Nhơn, vội kéo
quân về, đi thẳng lên Cần Úc đánh quân Võ Tánh.
Hai bên
kịch chiến suốt hai ngày đêm, Võ Tánh trá bại, Nguyễn Huỳnh Ðức phục binh trên
núi với cung tên và súng đạn. Võ Ðình Tú bị mắc mưu giục quân đuổi theo. Tên
trên núi bắn xuống như mưa, chen vào những tiếng súng nổ. Quân Tây Sơn bị trúng
tên lớp chết lớp bỏ chạy. Ðình Tú tả xung hữu đột, cây thiết côn gạt phăng bao
nhiều mũi tên bắn vun vút vào người và ngựa. Nhưng không thể tránh khỏi đạn
đồng. Bị thương nặng, máu chảy dầm mình, đuối sức ngã gục trên lưng ngựa. Ngựa
hí một tiếng dài, nhảy ra khỏi trận tuyến, chạy một mạch về Phú Phong[89]. Ðến
nhà thì ngựa ngã lăn ra chết. Võ Ðình Tú cũng đã lạnh hết chân tay.
Ðó là
vào cuối tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799).
Ðầu
tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh kéo quân lên vây thành Quy Nhơn, trấn thủ Quy Nhơn lúc
bấy giờ là Lê Văn Thanh[90] đem quân ra chống cự.
Ở Hàm
Long, Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Ðức kéo binh đánh đồn Trấp Xá ở Quán Chẹt. Tướng
giữ đồn là Trương Tấn Túy chống cự không nổi, bỏ đồn chạy về Quy Nhơn. Quân nhà
Nguyễn kéo đánh tiếp đồn Tháp Thi Thiện tục gọi là tháp Bánh Ít. Tướng giữ đồn
là Lê Văn Thiệt bị trúng đạn chết trên bành voi. Quân sĩ đều tan rã. Quân Võ
Tánh thừa thắng kéo ra Ngạc Ðầm tục gọi là Bàu Sấu ở thôn Thiết Trụ thuộc An
Nhơn.
Bàu Sấu
không rộng lắm nhưng rất sâu, nắng mấy cũng không cạn. Phía tây là thôn Ðại
Bình, phía đông là thôn Thiết Tràng. Bốn mùa người ở phía tây, phía đông qua
lại với nhau phải đi đò. Bên mé bàu phía đông có một dãy núi đất chạy dài ra
phía bắc, tiếp nối với những gò đống, giống hình rồng uốn khúc, gọi là Kim
Ðồng. Trên núi có bảy đồn lính đóng để canh giữ mặt sau thành Quy Nhơn.
Bảy đồn
này có thế núi và nước, lại rất kiên cố. Quân Võ Tánh trào lên lớp nào bị quân
trên đồn bắn chết lớp nấy, không sao tiến nổi, đành phải đóng lại dưới chân
núi, phía tây bàu. Nguyễn Phúc Ánh đánh thành mấy ngày liền, nhưng không hạ
nổi, Lê Văn Thành chống cự đã đuối sức, phải đóng cửa thành cố thủ để đợi quân
cứu viện Phú Xuân. Nguyễn Phúc Ánh bao vây thành, và truyền Võ Tánh giữ vững
mặt phía tây, Tống Viết Phước giữ vững mặt phía bắc, đề phòng binh Phú Xuân.
Binh Phú
Xuân do Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chỉ huy, kéo vào đến Quảng Nghĩa thì bị
binh Tống Viết Phước chận lại, phải dừng lại Thạch Tân. Thừa lúc trời tối, Võ
Văn Dũng lén đem quân theo đường Chung Xá, mưu đánh úp quân Tống Viết Phước.
Chẳng ngờ khắp nơi đều có quân đóng giữ và canh phòng cẩn mật, binh Võ Văn Dũng
bị thua to. May nhờ Trần Quang Diệu cứu ứng kịp, Võ Văn Dũng mới thoát nạn.
Nhưng quân Trần Quang Diệu không sao đánh thủng quân Tống Viết Phước, nên không
cứu được thành Quy Nhơn.
Lê Văn
Thanh đợi không thấy viện binh mà trong thành lương thực lại hết, bất đắc dĩ
phải mở thành cùng Thượng thư Nguyễn Văn Phác, thiếu úy Trương Tấn Túy ra hàng.
Nguyễn Phúc Ánh vào thành Quy Nhơn, chém chết tướng tá Tây Sơn, và đổi tên là
thành Bình Ðịnh.
Nguyễn
Quang Huy ở Phú Yên nghe tin Quy Nhơn thất thủ, kinh hãi nói:
- Quy
Nhơn mất rồi, nếu ở Diên Khánh đánh ra ở ngoài đánh vào Phú Yên lưỡng đầu thọ
địch, không tài nào chống nổi.
Bèn bỏ
Phú Yên kéo quân ra cứu Quy Nhơn.
Nguyễn
Quang Huy đánh rất hăng. Một ngày đánh bại 25 viên tướng của Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Phúc Ánh lấy làm lạ, lên thành đứng xem. Quang Huy trông thấy dùng cung
Thiết Thai[91] bắn trúng cánh tay trái. Nguyễn Phúc Ánh té nhào bất tỉnh. Tướng
sĩ đưa vào dinh cứu chữa. Tỉnh dậy, sai rút hết quân vào thành tạm nghỉ.
Quang
Huy đóng quân trước thành.
Nguyễn
Văn Thành ở Diên Khánh được tin Phú Yên bỏ trống liền đem quân ra chiếm đóng,
rồi sẵn đường kéo thẳng ra Quy Nhơn.
Quân
Nguyễn Văn Thành và quân Nguyễn Quang Huy giao chiến. Nguyễn Phúc Ánh sai Nguyễn
Huỳnh Ðức mở cửa thành kéo quân ra tiếp ứng. Quân Quang Huy bị đánh hai mặt,
hết sức chống đỡ nhưng quân nhà Nguyễn quá đông, giết lớp này lớp khác tràn
tới. Sức đuối dần, quân Quang Huy bị ta rã. Quang Huy một người một ngựa chạy
vào núi Dương An.
Núi
Dương An cũng gọi là Phước An, nằm phía nam thành Quy Nhơn trong vùng Vân Canh,
hình dáng kỳ đặc kiêu hùng, chu vi hơn trăm dặm, đỉnh cao chất ngất, lúc nào
cũng có mây vần. Cây cối rậm rạp, phần nhiều là danh mộc sống lâu trên trăm năm
và lớn từ một ôm trở lên. Sườn núi dốc và đá xanh chập chồng. Dù leo núi giỏi
đến đâu cũng khó leo thấu đỉnh.
Chung
quanh Dương An có nhiều núi cao nối liền nhau thành dãy Nam Sơn chạy dài từ dãy
Tây Sơn vùng An Khê xuống đến biển Thị Nại.
Ðịa thế
rất hùng hiểm.
Nguyễn
Quang Huy vào Dương An chiêu mộ hào kiệt chờ dịp phục thù.
Còn
Nguyễn Phúc Ánh bị vết tên quá nặng, phải đem tướng sĩ trở vào Gia Ðịnh, giao
thành Quy Nhơn vừa
đổi tên
Bình Ðịnh cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ. Tống Viết Phước vẫn canh giữ
Cung Quăng để phòng ngự mặt bắc.
-----------
[89] Phú
Phong là quê hương của Võ Ðình Tú - đã nói rõ trước kia.
[90] Mới
vừa đến thay Tư đồ Nghĩa được mấy tháng.
[91]
Cung lớn có nòng sắt, có sức mạnh mới kéo nổi dây cung. Bắn rất xa.
TRẦN
QUANG DIỆU CHIẾM BÌNH ÐỊNH
NGUYỄN
PHÚC ÁNH CHIẾM PHÚ XUÂN
Ðược tin
Quy Nhơn thất thủ, Cảnh Thịnh định thân chinh. Nhưng gặp tang Ngọc Hân, nên tạm
hoãn, truyền Nguyễn Văn Giáp vào giữ sông Trà Khúc ở Quảng Nghĩa và gọi Trần
Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng ra giữ Quảng Nam (Kỷ mùi 1799).
Ngọc Hân
Công Chúa vào Phú Xuân năm bính Ngọ (1786) và được phong Bắc Cung Hoàng Hậu năm
Kỷ Dậu (1789). Năm Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung băng, Hoàng Hậu có một bài
văn Tế và một bài Vãn, lời tha thiết não nùng.
Hoàng
Hậu sống cùng Vua Quang Trung được bảy năm (1786-1792), sanh hạ được hai con,
một trai một gái.
Vua Cảnh
Thịnh ban tên thụy là Như Ý Trang Thân Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Phan Huy Ích
phụng soạn năm bài văn tế bằng chữ Nôm:
- Một
bài cho Vua Cảnh Thịnh đứng tế.
- Một
bài cho các công chúa con Bùi Thái Hậu đứng tế.
- Một
bài cho bà Phù Ninh Từ Cung, thân sinh Vũ Hoàng Hậu, đứng tế.
- Một
bài cho các tôn thất nhà Lê đứng tế.
- Một
bài cho bà con bên Ngoại Vũ Hoàng Hậu đứng tế.
Có nhiều
câu, nghe qua là biết ngay được người được tế. Như:
* Giọt
ngân phái câu nên vẻ quý, duyên hảo cầu thêm giúp mối tu tề.
Khóc thư
châu thổi sánh tiếng hòa, khuôn nội tắc đã gây nền nhân nhượng.
* Hồ
Ðỉnh ngậm ngùi cung nọ, đã sắp chìm châu lấp ngọc bởi từng nguyền.
Cung
Khôn bận bịu gối nao, ép vì vun quế quến lan nên hãy gượng.
Trong
các bài công chúa đứng tế:
* Thuở
doành Hoàng tô vẻ, trau vàng chuốt ngọc vẹn mười phân.
* Trãi
phen bến Vỵ đưa duyên, phiếm sắc xoang cầm vầy một thể.
* Dù gót
ngọc vui miền Tây Thổ, nỡ nào quên hai chồi lan quế còn thơ.
* Dù
xiêm nghê mến cảnh Thanh Ðô, nỡ nào lãng một bóng tang du sắp xế.
Trong
các bài tôn thất nhà Lê:
Hẳn non
Lam khí vượng đã tàn rồi
Nên vườn
Lãng hoa tươi mà vội thoát
Tang lễ
cử hành rất long trọng. Người người đều tỏ lòng thương tiếc.
Đương
lúc trong triều ngoài nội, biến cố xảy
ra dồn dập, mà đình thần cứ lo khuynh loát lẫn nhau, vua không nghĩ đến nỗi mất
còn của quốc gia, cứ lo ăn chơi và nghe lời nịnh nọt sát hại công thần, khiến
mỗi nước càng ngày càng thêm rối rắm, lòng người càng ngày càng thêm ly tán.
Bọn Trần
Viết Kiết, Hồ Công Diệu, Trần Văn Kỷ vốn ghét Trần Quang Diệu, nhân thành Quy
Nhơn thất thủ, bắt tội Diệu là dồn binh không chịu tiếp ứng, tâu cùng Cảnh
Thịnh, xin sai người đưa mật thư vào Quảng Nam báo Võ Văn Dũng bắt Diệu giết
đi. Dũng được thư, tự nghĩ:
- Tội là
tội của mình, Trần huynh đã có lòng tốt không cáo giác, sao nay mình nỡ hại ân
nhân. Thà đắc tội cùng vùa còn hơn phạm tôi vong ân phụ nghĩa.
Bèn đưa
thư cho Diệu Xem.
Diệu nổi
giận:
- Chúng
ta đem hết lòng hết sức ra phò Vua. Vua đã không nghĩ đến công lao thì chớ, còn
nghe lời siểm nịnh hết phen này đến phen khác, sẵn tay giết chết chúng ta! Tình
thế không thể để kéo dài mãi. Tôn huynh hãy ở lại đây ngừa giặc, tôi về kinh.
Trần
Quang Diệu về đóng binh tại bờ phía nam sông Hương, Cảnh Thịnh cho ra vời, Diệu
không phụng mệnh. Nhà vua sợ hãi, phải nhờ đến nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Nữ tướng
Bùi Thị Xuân là chị em thúc bá ruột với Bùi Thái Hậu. Võ nghệ đã tuyệt luân lại
còn cùng chồng là Trần Quang Diệu góp một phần lớn trong việc dựng nghiệp cho
nhà Tây Sơn. Nhưng vì là phận nữ lưu không được tham dự quốc sự, trải ba triều
Thái Ðức, Quang Trung, Cảnh Thịnh, bà chỉ lo việc bảo vệ hoàng thành và nội
cung với 5.000 nữ binh và 200 thớt voi do bà tập luyện[93]. Thỉnh thoảng bà
theo chồng ra trận, như trận đánh Ai Lao năm Quang Trung thứ hai (1785). Năm ấy
vì quốc vương Ai Lao không nạp cống lễ, Vua Quang Trung sai Trần Quang Diệu đem
một vạn quân đi vấn tội. Bà lãnh đi tiên phong. Ðến Vạn Tượng, chỉ xáp chiến
một trận là hạ ngay được thành. Chiến thắng này vang dội tới Gia Ðịnh. Nguyễn
Phúc Ánh rất sợ uy vợ chồng bà. Vua Quang Trung băng hà, bà thọ mệnh phò tá ấu
chúa. Nhưng Cảnh Thịnh bị bọn gian thần do Bùi Ðắc Tuyên cấu kết, làm bức thành
giữa bà và nhà vua. Mãi đến lúc có việc, Cảnh Thịnh mới nhớ đến bà.
Bùi nữ
tướng đến gặp chồng, vợ chồng bàn với nhau .
Mối họa
trong triều chỉ do bọn gian thần gây nên. Tận diệt bọn ấy thì mối giềng lập lại
không đến nỗi khó.
Trần
Quang Diệu xin Vua bắt bọn gian thần trị tội.
Trần Văn
Kỷ đổ tội cho Trần Viết Kiết và Hồ Công Diệu rồi trốn mất. Nhà vua sai bắt Công
Diệu và Kiết đem nộp cho Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu vào triều làm lễ cẩn,
rồi lãnh đại binh trở vào Nam.
Tháng
giêng năm Canh Thân (1800) Trần Quang Diệu vào Quảng Nam hợp cùng Võ Văn Dũng
để vào Quy Nhơn. Nhưng tới Bình Ðê cũng bị quân Tống Viết Phước cản lại. Diệu
bèn sai người ra Trà Khúc lấy binh của Nguyễn Văn Giáp, và hợp sức với trấn thủ
Quảng Nghĩa là Nguyễn Văn Lộc, tìm mưu phá đường vào Quy Nhơn.
Nguyễn
Văn Lộc biết rõ địa thế nơi ranh giới Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, đề nghị chia quân
là ba đạo: một đạo đi ngõ đèo Bến Ðá, một đạo theo đường hẻm phía tây núi Sa
Lung, một đạo theo nẻo tắt xuyên qua núi Cung Quăng. Ba đạo đồng một lượt nổi
trống chiêng và la ó, làm cho địch khiếp sợ, hoang mang không biết ngả nào mà
chống đỡ. Rồi ba mặt sáp lại đánh địch tất phải thua.
Trần
Quang Diệu y kế qua khỏi đèo Bến Ðá, thẳng vào thành Quy Nhơn.
Võ Tánh
đem quân ra đánh. Nhưng đánh không lại, kéo quân vào thành cố thủ. Trần Quang
Diệu một mặt cho bao vây công kích, một mặt phân công cho Võ Văn Dũng cầm thủy
binh giữ cửa biển Thị Nại.
Quân nhà
Nguyễn đã có tên lại có đạn, ở trên thành bắn xuống, quân Tây Sơn không thể đến
gần chân thành. Trần Quang Diệu cho đắp trường lũy chung quanh thành vây khốn.
Còn Võ Văn Dũng thì đem chiến thuyền Ðịnh Quốc và trăm dư chiến thuyển nhỏ, ra
đóng giặng ngang cửa biển. Hai pháo đài ở Gành Ráng và Phương Mai bấy lâu bỏ
hoang, được dùng sửa sang lại, và đặt súng đại bác để canh phòng.
Nguyễn
Phúc Ánh nghe tin Quy Nhơn bị khốn, tháng 3 năm Canh Thân (1800), cử đại binh
ra cứu viện.
Nguyễn
Văn Thành cùng Lê Chất, Nguyễn Ðình Bắc, Trương Tấn Bửu đem bộ binh ra đánh Phú
Yên rồi kéo
đóng ở
núi Thị Dã, đợi thủy binh[94].
Thủy
binh do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy, kéo ra đóng ở Cù Lao Xanh ngoài cửa Thị
Nại[95]
Thủy
binh cũng như bộ binh đều bị quân Tây Sơn ngăn cản không liên lạc được với
nhau, mà cũng không tiến được. Ðành phải án binh bất động.
Võ Tánh
đóng chặt cửa thành chờ viện binh.
Trần Quang
Diệu cũng vây chặt chờ trong thành hết lương thực.
Lúc bấy
giờ Ðiều quân Thượng đạo là Lưu Phúc Tường liên kết với người Vạn Tượng, Trấn
Ninh công nhiễu các trấn Thanh Hóa, Nghệ An. Các thổ dân đều dấy binh sách ứng.
Tín đồ Thiên Chúa giáo do các nhà truyền giáo Pháp cổ động, cũng nổi lên đánh
phá lung tung.
Ngày 13
tháng 4 năm ấy, lúc giờ Thìn, bỗng hiện ba mặt trời giữa không, chà xát lẫn
nhau. Qua giờ thân ngày sau, biến đi một mặt, còn hai mặt cũng cứ chà xát với
nhau cho đến tối. Nước sông hồ cạn dần.
Ðến
tháng 10, núi Lôi Sơn bỗng lở. Suốt năm không một giọt mưa. Mùa mất, dân đói.
Dân tình cực kỳ khốn khổ.
Liệu
không cứu được Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Ánh cho rút quân thủy bộ về Gia Ðịnh vào
tháng 11 năm Canh Thân (1800) để củng cố lực lượng, rồi tháng giêng năm sau,
tức năm Tân Dậu (1801), trở ra đánh mạnh.
Theo kế
hoạch của Lê Chất, Nguyễn Phúc Ánh chia quân đánh gọng kềm:
- Nguyễn
Văn Thành, Tống Viết Phước, Trương Tấn Bửu đem bộ binh từ Phú Yên theo đường
núi Dương An, An Tượng đánh ra.
- Nguyễn
Văn Trương, Tống Phúc Lương đem thuyền nhỏ vượt ra phía bắc Thị Nại, vào cửa
Cách Thử lẻn vào đầm Thị Nại, dùng hỏa công đốt thủy trại Tây Sơn[96].
- Lê Văn
Duyệt, Võ Di Nguy ở ngoài cửa Thị Nại, khi thấy lửa cháy thì kéo chiến thuyền
đánh ụp vào. Bộ binh của Nguyễn Phúc Ánh kéo vào trước. Ðến Dương An, bị binh
của Nguyễn Quang Huy chận đánh. Nguyễn Văn Thành và Tống Viết Phước cầm cự cùng
quân Nguyễn Quang Huy, Trương Tấn Bửu kéo lên ngả An Tượng[97]. Ở đây Nguyễn
Quang Huy đã bố trí sẵn mấy đội binh người Thượng. Quân Trương Tấn Bửu bị người
Thượng núp ở trong bụi rậm bắn ra, lớp bị chết lớp chạy tán loạn, Bửu phải trở
lui. Nguyễn Văn Thành và Tống Viết Phước cũng không sao qua nổi Dương An, phải
cùng Trương Tấn Bửu rút vào Phú Yên đóng giữ.
Ở Thị Nại,
Võ Văn Dũng canh phòng nghiêm ngặt. Súng đại bác đã sẵn sàng tiêu diệt địch.
Nhưng đang đêm, thình lình thấy thủy trại cháy vội cho quân đi chữa lửa. Võ Di
Nguy trông thấy ánh lửa liền hô quân tiến vào. Súng trên hai pháo đài bắn xuống
đánh chìm hết đoàn thuyền tiên phong. Võ Di Nguy bị trúng đạn chết. Lê Văn
Duyệt đốc binh tiếp theo, liều chết vượt khỏi tầm súng. Lê Văn Duyệt dùng hỏa
công, lửa cháy rật rật và theo gió tạt vào thuyền Tây Sơn. Gió thổi càng mạnh,
lửa cất càng cao. Ánh sáng rực cả mặt biển, ngất cả nghìn dặm mây. Và tiếng
súng nổ, tiếng quân la hét rầm trời dậy đất. Quân nhà Nguyễn bị chết vô số.
Thuyền Tây Sơn bị đốt không còn một chiếc con. Võ Văn Dũng đại bại, kéo tàn
quân lên hợp đồng cùng Trần Quang Diệu giữ những nơi hiểm yếu khác.
Lấy được
Thị Nại nhưng không sao cứu nổi thành Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh đóng giữ Thị
Nại, sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân ra đánh Quảng Nam và Quảng Nghĩa.
Lúc bấy
giờ Lê Sĩ Hoàng đã vào thế Nguyễn Văn lộc để Lộc vào Quy Nhơn tăng cường cho
Trần Quang
Diệu.
Còn Quảng Nam thì do Phạm Cần Chánh trấn thủ.
Binh của
Nguyễn Văn Chương bị binh của Phạm Cần Chánh và Lê Sĩ Hoàng đánh bại, phải bỏ
hết chiến
thuyền,
chạy bộ trốn vào Quy Nhơn.
Ở Quy
Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh vẫn không giải cứu Võ Tánh được, bèn để Nguyễn Văn Thành
giữ cửa Thị Nại, Nguyễn Huỳnh Ðức đồn tại đèo Cù Mông để chống cùng Trần Quang
Diệu và Võ Văn Dũng, còn mình thì kéo đại quân ra đánh Phú Xuân do biết rằng
lực lượng của Tây Sơn một phần lớn dồn ở Quy Nhơn, thế công thủ ở Phú Xuân đều
yếu ớt.
Nguyễn
Phúc Ánh đi rồi, Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Ðức họp sức nhau đánh Trần
Quang Diệu, dưới Thị Nại đánh lên, trong Cù Mông đánh ra. Nhưng mặt núi có
Nguyễn Quang Huy, mặt bể có Võ Văn Dũng, quân nhà Nguyễn bị đánh bật ra khỏi
đất Quy Nhơn.
Trần
Quang Diệu đốc quân đánh thành thêm kịch liệt.
Quân mệt
mỏi, tên đạn cạn, lương thực cạn, Võ Tánh liệu không trì thủ được nữa, bèn viết
thư ra cho Trần Quang Diệu yêu cầu lúc vào thành đừng sát hại quân dân vô tội.
Ðoạn mời Ngô Tùng Châu đến nói:
- Thành
thế nào cũng mất. Tôi là tướng võ phải chết theo thành, nhưng không muốn cho
địch thấy mặt. Còn ngài là quan văn, xin hãy cố mà bảo trọng.
Ngô Tùng
Châu đáp:
- Võ có
trung can, lẽ đâu văn lại không nghĩa khí? Tôi xin phép đi trước ngài. Ðoạn về
dinh, uống thuốc độc.
Võ Tánh
sai chất củi khô nơi lầu Bát Giác và rải thuốc súng chung quanh lầu. Nghe tin
Võ công sắp tuẫn tiết, người ái thiếp và người lão bộc xin được chết theo.
Công
không cho. Hai người đợi Công lên lầu rồi, lấy dây tự trói mình vào cột lầu
chung với củi. Công thay áo mão, ung dung bước lên lầu, hướng về Bắc lạy năm
lạy, rồi truyền châm hỏa. Không ai nỡ ra tay. Công đòi hút thuốc. Một điếu
thuốc ngon dâng lên. Công hít một hơi dài rồi quăng điếu thuốc vào nơi có thuốc
súng. Lửa bốc cháy. Không mấy chốc cả trong lẫn ngoài. Lầu Bát Giác hóa thành
một khối lửa cháy hừng hực! Tiếng khóc vang thành! Quản binh Nguyễn Thận hay
tin, hối hả chạy về, cảm khích, nhảy vào lửa theo chủ tướng.
Rồi cửa
thành mở. Quân Trần Quang Diệu, đội ngũ chỉnh tề, lặng lẽ kéo vào. Tướng sĩ
trong thành, bỏ khí giới, đội nào đứng theo đội nấy, không sợ hãi cũng không
vênh vang. Quang Diệu ban lời khuyến dụ, rồi cho thu hài cốt hai vị trung thần
của nhà Nguyễn chôn cất theo lễ. Viên quản binh, người lão bộc và người ái
thiếp của Võ công cũng được an táng trong thành bên cạnh mồ Ngô Tùng Châu và Võ
Tánh.
Quang
cảnh thành Quy Nhơn lúc bấy giờ vừa bi vừa hùng.
Ðó là
ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).
Trước
khi thành Quy Nhơn bị Trần Quang Diệu hạ thì thành Phú Xuân đã bị Nguyễn Phúc
Ánh hạ rồi.
Nguyễn
Phúc Ánh kéo thủy quân ra đến Phú Xuân vào cuối tháng 4 năm Tân Dậu (1801).
Quân nhà Nguyễn vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn là Phò Mã Nguyễn Văn Tr�[92] Có
ghi rõ trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích.
[93] Lúc
ở Quy Nhơn bà chỉ có 2.000 nữ binh, ra Phú Xuân mới tổ chức thêm. Số voi này là
voi mới. Voi bà đã luyện tập ở Quy Nhơn, đều phân phát cho các trấn. Bà chỉ đem
ra Phú Xuân thớt voi đầu đàn bà thường cưỡi
[94] Núi
Thị Dã thuộc về Tuy Phước, phía tây nam có núi Bà Thanh, có đường đi đến suối
Nam Thủy ở Phú Yên. Người Thượng dùng đường này để qua lại Phú Yên và Quy Nhơn.
[95] Cù
Lao Xanh, Chàm gọi là Poulo Gambia, nằm giữa hải phận Phú Yên và Quy Nhơn;
[96] Lúc
bấy giờ Cách Thử chưa bị lấp, đường nước thông thương với đường Thị Nại ở phía
nam thuộc về Tuy Phước;
[97] Núi
Hương An ở phía đông, núi An Tượng ở phía tây , có đường liên lạc xuyên qua các
ngọn núi liền dây.
[98] Em
rể Vua Cảnh Thịnh chồng công chúa là con gái Bùi Thái Hậu.
CẢNH
THỊNH RA BẮC THÀNH
NGUYỄN
PHÚC ÁNH XƯNG ÐẾ HIỆU
Nhờ Bùi
nữ tướng hộ giá, Vua Cảnh Thịnh cùng cung quyến qua khỏi Linh Giang, ngày 5
tháng 5 năm Tân Dậu (1801). Ðến Thanh Hóa phi báo cho Nguyễn Quang Thùy vào
rước.
Tới Bắc
Thành Cảnh Thịnh ngự nơi cung Vua Lê. Lúc bấy giờ mưa luôn cả tuần. Trong thành
nước ngập lênh láng. Nước giựt rồi lại bị địa chấn. Ðất trước hoàng cung bị sụt
hàng mẫu, sâu đến ba bốn thước. Ở Nghệ An, lầu Tam Tằng nơi Phụng Hoàng thành
khi không mà ngã. Thiên hạ đều cho là triệu bất tường.
Vào hạ
tuần tháng 5 năm Tân Dậu, nhà vua đổi niên hiệu là Bửu Hưng, xuống chiếu nhận
lỗi cùng nhân dân và vỗ về tướng sĩ các trấn. Lại cử Thi trung Ðại Học Sĩ Ngô
Thời Nhậm làm Binh Bộ Thượng Thư, Hiệp biện Ðại Học Sĩ Nguyễn Thế Lịch làm Lại
bộ Thượng Thư, Thị trung Ngự Sử Phan Huy Ích là Lễ bộ Thượng Thư. Các quan văn
võ khác thảy đều được thăng thưởng.
Nhà vua
còn sai đắp đền Phương Trạch tại Tây Hồ, lấy ngày Hạ chí và Ðông chí làm ngày
lễ Trời Ðất, cho mở khoa thi để tuyển nhân tài.
Ðến
tháng 8, nhà vua truyền hịch đi các trấn để lấy thêm binh, rồi sai Nguyễn Quang
Thùy đem quân vào trấn Nghệ An.
Qua
tháng 11, nhà vua giao Bắc Thành cho hai em là Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Quang
Khanh, tự mình đem quân 4 trấn xứ Bắc và quân Thanh Hóa, Nghệ An non 3 vạn
người, kéo binh đến Linh Giang, nữ tướng Bùi Thị Xuân đem 5.000 thủ hạ theo hộ
giá.
Tướng
nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương, Ðặng Trần Thường thấy binh
thế của Tây Sơn quá mạnh, bỏ Linh Giang rút về Ðồng Hới. Nguyễn Phúc Ánh được
tin, liền thân chinh, đem đại binh ra tiếp ứng. Ðóng đại binh tại Ðồng Hới. Sai
Phạm Văn Nhân và Ðặng Trần Thường đem quân ra giữ mặt bộ,
sai
Nguyễn Văn Trương ra giữ mặt bể.
Tháng
giêng năm Nhâm Tuất (1802), Vua Bửu Hưng sai Nguyễn Quang Thùy và Tổng Quân
Siêu tiến quân lên đánh Trấn Ninh, Ðô Ðốc Nguyễn Văn Kiên và Tư Lệ Tiết thì
đánh lũy Ðâu Mâu, Thiếu úy Ðặng Văn Tất và Ðô Ðốc Lực thì đem 100 thuyền chiến
chặn ngang cửa Nhật Lệ.
Trấn
Ninh, Ðâu Mâu, Nhật Lệ đều thuộc Quảng Bình.
Ðó là ba
căn cứ quân sự rất trọng yếu ở địa đầu trấn Thuận Hóa.
Trấn
Ninh ở địa phận xã Phú Ninh, huyện Phong Lộc. Năm Nhâm Dần (1662) Nguyễn Hữu
Dật tôi nhà Nguyễn đắp lũy Trấn Ninh để ngăn giặc biển, lại đắp lũy Sa Phụ để
nương tựa nhau. Họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa, đánh mấy tháng không qua
khỏi lũy này, phải rút quân trở về Bắc.
Phá Nhật
Lệ ở đông bắc huyện Phong Lộc, cũng thuộc xã Phú Ninh. Chu vi ước 5 dặm. Phía
đông có gò cát bao la, đồi cao xanh rậm, biển cả chạy quanh ở đông bắc, các núi
triều cũng ở tây nam sông Nhật Lệ, tức sông Ðồng Hới, chạy ra Phá.
Núi Ðâu
Mâu ở phía tây huyện Phong Lộc, tọa lạc xã Lệ Kỳ. Núi gò trùng điệp, cây cối
sầm uất. Ðỉnh cao nhọn hình như mão đâu mâu, khí thế hùng vĩ. Chân núi gối sông
Nhật Lệ, lũy do chúa Nguyễn đắp để ngăn quân Trịnh, chạy dài dưới chân núi.
Lũy Trấn
Ninh và Ðâu Mâu đã kiên cố lại phòng vệ nghiêm túc, đánh mãi mà không hạ nổi.
Vua Bửu Hưng liền đem tất cả binh mã tới đánh Ðâu Mâu. Quân trên thành dùng
súng đại bác bắn xuống và lấy đá lớn quăng xuống. Quân Tây Sơn lớp bị thương
lớp chết rất nhiều. Vua Bửu Hưng sợ muốn rút lui. Bùi nữ tướng không chịu, xin
cho ra đốc chiến. Nhận thấy trong những khoảng có súng bắn thì không có đá
quăng, mà súng thì bắn xa, dưới chân thành không bị đạn, súng lại không bắn
liên tục được, nữ tướng bèn lanh lẹ nhảy vào chân thành. Nữ binh theo gương
nhảy theo từng loạt. Vào tới chân thành, chuyền lên vai nhau, trèo vào thành.
Lính canh súng và quăng đá không đề phòng. Ở ngoài binh Tây Sơn cứ những nơi
không có đạn bắn đá quăng, tiến vào chân thành, và theo phương pháp chuyền vai
mà lên. Hai bên đánh xáp lá cà. Ðánh từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm
áo giáp.
Trong
bài Bùi phu nhân ca của cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì có đoạn rằng:
Xuân hàn
lãnh khí như tiễn đao
Xuân
phong xuy huyết nhiễm chinh bào
Hoàng
hôn thành dốc bi già động
Hữu nhân
diện tỷ phù dung kiều
Phu cổ
trợ chiến Lương Hồng Ngọc
Mộc Lan
tòng quân Hoàng Hà Khúc
Thùy
ngôn cân quắc bất như nhân
Dĩ cổ
phương kim tam đinh túc
Nghĩa
là:
Khí xuân
lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra.
Gió xuân
thổi máu bay thẩm đẩm tấm chinh bào
Nơi góc
thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn
Có người
dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung
Thật
chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân.
Và nàng
Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà Ai bảo khăn yếm không bằng người ?
Từ xưa
đến nay vững vàng thế ba chân vạc
Ðây là
tác giả tả Bùi nữ tướng lúc đánh thành Ðâu Mâu.
Thành
sắp hạ được thì có tin thủy quân Nhật Lệ bị quân nhà Nguyễn đánh tan. Nguyễn
Quang Toản hoảng
hốt ra
lệnh lui binh. Không sao cản được, Bùi nữ tướng phải mở đường máu để tháo quân.
Ðô Ðốc Kiên và Tư Lệ Tiết không theo kịp, phải đầu hàng.
Bửu Hưng
Nguyễn Quang Toản chạy đến Linh Giang thì bị tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Trương
chận lại.
Quân Tây
Sơn không còn sức chống cự, Bùi nữ tướng lại một phen nữa phải xông tên đạn để
đưa Quang Toản sang sông.
Về đến
Nghệ An, kẻ tùng giả còn không quá vài trăm! Bùi nữ tướng, mình đầy thương
tích, nhìn thấy đoàn nữ binh sống sót, máu me đẫm áo, thì lệ anh hùng khôn
ngăn.
Trong
trận Ðâu Mâu này, nữ tướng Huỳnh Thị Cúc đã sát cánh cùng Bùi nữ tướng hợp lực
chiến đấu công thành, liên kết tiếp sức nhau khi mở đường máu rút quân khỏi
thành và dốc hết khí lực, tài năng mới đưa được Vua Cảnh Thịnh qua sông.
Huỳnh nữ
tướng cùng một số nữ binh còn sống ở lại chặn quân nhà Nguyễn.
Sáng hôm
sau Huỳnh Thị Cúc cùng mười nữ binh áo ướt đẫm máu, về đến thành. Vừa trông
thấy Bùi nữ tướng, Huỳnh Thị Cúc vội vã chạy đến ngã vào lòng. Bùi nữ tướng ôm
lấy em, Huỳnh nữ kiệt nhìn chị lần cuối rồi tắt thở.
Ở Trấn
Ninh, Nguyễn Quang Thùy nghe tin đại binh rút lui, liền cũng rút lui. Nhưng
không qua nổi Linh Giang, phải chạy lên đường núi mà đi, hơn tuần nhật mới về
đến Nghệ An.
Anh em
gặp nhau, Bửu Hưng cùng Quang Thùy ra Bắc, để Nguyễn Văn Thân ở lại giữ Nghệ
An. Bùi nữ tướng, thương tích chưa lành, nên xin ở lại Nghệ An điều dưỡng.
Nguyễn Phúc Ánh thắng quân Tây Sơn ở Trấn Ninh, Nhật lệ rồi, bèn đem quân về
Phú Xuân, để Nguyễn Văn Trương giữ Ðồng Hới, Tống Phúc Lương và Ðặng Trần
Thường giữ Linh Giang.
Trong
lúc Nguyễn Phúc Ánh đem quân ra Ðồng Hới thì ở Quảng Nghĩa, Lê Văn Duyệt và Lê
Chất đem quân đi lọt được vào Quy Nhơn, Lê Chất đi đường biển vào cửa An Dũ, Lê
Văn Duyệt theo đường hẻm Chung Xá vượt qua núi La Sung, hợp nhau ở Bồng Sơn,
rồi kéo vào Quy Nhơn. Nghe tin Lê Văn Duyệt và Lê Chất đã vào được Quy Nhơn,
Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Ðức ở Phú Yên kéo quân ra tiếp ứng.
Quân Tây
Sơn do Võ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Văn Lộc điều khiển, chia nhau ra
chặn đánh.
Trận
đánh lớn nhất là trận đánh ở Kỳ Sơn, giữa Nguyễn Văn Lộc và Lê Văn Duyệt và
Nguyễn Văn Thành.
Kỳ Sơn ở
phía đông nam thành Quy Nhơn.
Ðó là
một hòn thổ sơn chạy dài theo hướng bắc nam, bao quanh đến vài mươi dặm. Hình
núi không đều, hai đầu mở rộng và cao, chính giữa hơi eo và thấp. Ở đầu phía
bắc nổi lên hai đỉnh đứng song song, một gọi là Phụng Sơn, một gọi là Xuân Sơn.
Ðầu phía Nam, một ngọn nửa cao suýt soát hai ngọn kia, gọi là Mai Sơn. Trên núi
có nhiều hòn đá to lớn và có một cái hầm rộng lớn ăn sâu vào núi, gọi là Quy
Khanh tức Hầm Rùa, vì trước miệng hầm có hòn đá lớn hình giống con linh quy.
Thế núi rất hiểm trở.
Nguyễn
Văn Lộc là người Kỳ Sơn, biết rõ những nơi hiểm yếu. Với 8.000 quân, phục hơn
20 chỗ, đại phá được 3 vạn quân của Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành.
Nhờ vậy
mà quân nhà Nguyễn không đến gần được thành Quy Nhơn. Quân trong ngoài ra vào
không trở ngại. Quân nhà Nguyễn đóng giữ mặt bắc ở Thạch Tân và mặt bể ở Cách
Thử, Thị Nại. Quân Tây Sơn cũng đóng yên trong và ngoài thành, gờm nhau với
quân nhà Nguyễn.
Chợt
Trần Quang Diệu được tin quân Tây Sơn bị thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh, Nguyễn Phúc
Ánh đã hoàn toàn làm chủ đất Thuận Hóa thì thất kinh, bàn cùng các tướng.
- Binh
mã đã bị hao ở Trấn Ninh và Nhật Lệ quá nhiều, lực lượng ở Bắc Thành không còn
mấy. Nếu Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đến đánh thì Bắc Thành không thể trì thủ được
lâu. Ta phải đem quân về cứu, kẻo Bắc Thành thất thủ nữa thì Quy Nhơn có giữ
vững cũng không ích gì. Vậy nên bỏ thành Quy Nhơn. Võ tướng quân cùng tôi đem
đại binh ra Bắc. Nguyễn Quang tướng quân đem binh đóng ở Dương An, Nguyễn Văn
tướng quân về đóng ở Kỳ Sơn, để chia bớt lực lượng của quân Nguyễn. Không nên
đóng quân trong thành mà bị địch bao vây.
Sắp đặt
xong, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng cùng các bộ tướng đem 3.000 quân, 80 thớt
voi, theo đường thượng đạo sang Lào để ra Nghệ An, vào thượng tuần tháng 3 năm
Nhâm Tuất (1802).
Sau khi
quân Tây Sơn bị đại bại ở Nhật Lệ và Trấn Ninh, thì đất Thuận Hóa từ Hải Vân
Sơn đến Linh Giang hoàn toàn thuộc về nhà Nguyễn.
Ngày 2
tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh xưng đế, đặt niên hiệu là Gia
Long.
Lên Ngôi
vua rồi, Gia Long sai Trịnh Hoài Ðức, Ngô Nhân Tĩnh đem phẩm vật và những ấn
sách của nhà Thanh đã phong cho Tây Sơn, sang nạp cho Thiên Triều và xin cho
mình làm An Nam Quốc Vương thay thế Tây Sơn.
Liền đó
Nguyễn Phúc Ánh kéo đại binh đi đánh Bắc Hà, sai Nguyễn Văn Trương lãnh thủy
binh, Lê Văn Duyệt và Lê Chất lãnh bộ binh, đi trước.
Tháng 6,
quân bộ qua sông Linh Giang, tiến lên đóng ở Hà Trung, quân thủy vào cửa Hội
Thống, rồi cùng đánh phá các đồn lũy của Tây Sơn. Viên trấn thủ Nghệ An là
Nguyễn Văn Thuận bỏ thành chạy ra giữ đồn Tiền Lý ở Diễn Châu.
Lúc bấy
giờ Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đã đến Quy Hợp. Ðường đi khó khăn, hết đèo
lại dốc, phần lam sơn chướng khí, phần rắn độc thú dữ, phần bị bọn thổ ty theo
nhà Nguyễn như Hà Công Thái, Nguyễn Ðình Ba... đột kích, đoàn tùy tùng Trần
Quang Diệu bị hao hụt dần dần. Khi đến Nghệ An thì mười phần chỉ còn ba bốn.
Ðoàn tượng binh chỉ còn mươi thớt! Tướng sĩ hầu hết đều bị sốt rét rừng. Trần
Quang Diệu bị phù thủng, đi đứng khó khăn.
Trần
Quang Diệu kéo quân xuống Hương Sơn. Tướng nhà Nguyễn là Võ Doãn Văn, Lê Ðức
Ðịnh dẫn Man binh đến đánh bất thình lình. Trở tay không kịp, quân sĩ bị giết
sạch! Trần Quang Diệu cùng các bộ tướng
Từ Văn
Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Ðiềm, Nguyễn Văn Miên, Võ Văn Dũng đều bị bắt.
Ở Diễn
Châu, Bùi nữ tướng hay tin, liền đem nữ binh đi giải cứu.
Ðến Giáp
sơn thì giải cứu được. Chạy đến sông Thành Chương thì bị quân nhà Nguyễn chận
đánh. Quân Tây Sơn liều chết lăn xả vào chém giết quân Nguyễn. Bùi nữ tướng và
đoàn nữ binh xông vào đâu thì binh Nguyễn rã đến đó. Nhưng quân Nguyễn quá
đông, quân Tây Sơn dần dần bị yếu thế. Các tùy tướng lớp bị chết, lớp bị bắt
trở lại. Chỉ có Bùi nữ tướng, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng thoát khỏi. Song
Trần Quang Diệu kiệt sức đi không nỗi nữa. Nữ tướng phải lo bảo vệ chồng, không
rảnh tay chống cự cùng binh tướng nhà Nguyễn, nên cả hai vợ chồng đều bị sa cơ.
Một mình Võ Văn Dũng thoát được. Nhưng chạy ra đến Nông Cống (Thanh Hóa), bị
bọn Lê Văn Pháp, Phạm Ngọc Thụy kéo dân địa phương ra bao vây. Một mình không
chống nổi đám đông. Võ bị bắt trở lại.
Trần
Quang Diệu, Bùi nữ tướng, Võ Văn Dũng đều bị đóng cũi giải về Nghệ An nạp cho
Nguyễn Phúc Ánh. Dọc đường Võ Văn Dũng phá cũi thoát thân, Bùi nữ tướng không
nỡ bỏ chồng, đành ở lại để cùng chết.
Dẹp yên
Nghệ An, Nguyễn Phúc Ánh xua quân ra đánh Thanh Hóa. Ðốc trấn là Nguyễn Quang
Bàn khiếp sợ mở thành đầu hàng. Ðô Ðốc Ðặng Xuân Bảo cương quyết:
- Làm
tướng chỉ biết đánh chớ không biết đầu.
Rồi hô
lớn:
- Quân
sĩ, ai muốn theo tôi?
Vài ngàn
quân sĩ dạ to một tiếng rồi cùng chủ tướng xông ra thành.
Quân
Nguyễn đông như kiến. Nhưng quân Tây Sơn không chút e dè. Tướng lướt đi trước,
quân đi sau giáo gươm đâm chém, như mưa xối bão táp, không ai chống đỡ nổi.
Nhưng rồi quân Nguyễn chạy ra xa dùng tên đạn bắn. Xông qua mũi tên làn đạn,
hết lớp này đến lớp khác, quân Tây Sơn bị chết lần lần. Ðặng Xuân Bảo bị trúng
đạn té quỵ. Quân Nguyễn ùa ra bắt sống.
Quân
Nguyễn Phúc Ánh kéo vào thành, Nguyễn Phúc Ánh dụ hàng. Bảo nhất định không
hàng, nhịn ăn năm ngày không chết, bèn đập đầu vào vách tuẫn tiết.
Lấy được
Thanh Hóa rồi quân Nguyễn Phúc Ánh rầm rộ kéo ra Bắc Thành.
Lực
lượng Bắc Thành lúc bấy giờ đã quá yếu. Bao nhiêu tinh binh, nhà vua đã đem đi
đánh Trấn Ninh và Nhật Lệ, tân quân ở các trấn về, chưa tập luyện được thành
thục, nên vừa giáp trận đã rã rời.
Quân
Nguyễn Phúc Ánh rầm rộ kéo đến Thăng Long. Quân Tây Sơn nghe tin khiếp đảm, bỏ
thành trốn gần hết. Liệu không thể chống giữ nổi, Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết
và phu nhân là bà Trần Thị Lan đưa Vua Bửu Hưng cùng cung quyến sang sông Nhị
Hà chạy lên vùng núi phía Bắc. Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tứ, Tư Mã Nguyễn Văn Dụng theo
hộ giá.
Ðể ngăn
giặc đuổi theo, Nguyễn Quang Thùy cùng Ðô Ðốc Trương Ðăng Ðồ tức Tú Ðức Hầu và
phu nhân ở lại giữ thành[99]. Thế giặc mạnh như bão táp, không sao địch được,
hai ông bà Tú Ðức Hầu phò Nguyễn Quang Thùy chạy về ngả Sơn Tây, để cho giặc
đuổi theo mình chớ không đuổi theo Vua và cung quyến.
Ðoàn Ngự
giá đến Xương giang, đêm nghỉ ngơi nhà dân địa phương, bị kẻ bất lương đi cáo
giác. Quân nhà Nguyễn kéo đến vây đánh, Nguyễn Văn Tứ và Nguyễn Văn Dụng bị tử
trận. Hai ông bà Ðô Ðốc Tuyết phá được vòng vây, phò xa giá chạy được mươi dặm
nữa thì quân nhà Nguyễn do Lê Chất chỉ huy đuổi kịp. Giáp mặt Lê Chất, Ðô Ðốc
Tuyết hỏi:
- Nhà
ngươi quên ơn chúa cũ?
Chất
đáp:
- Ngũ Tử
Tư chỉ nhớ đến thù cha.
Ðô Ðốc
truyền phu nhân phò Ngự giá chạy trước, còn mình thì kịch chiến cùng lê Chất.
Một mình tả xông hữu đột, quân Nguyễn núng thế toan thối lui, thì một phát súng
bắn trúng Ðô Ðốc té nhào. Quân Nguyễn liền đuổi theo Ngự giá. Trần phu nhân hết
sức chống cự, nhưng ít không thắng nổi đông, cả đoàn đều bị bắt. Không thể để
địch làm nhục, phu nhân liền tự sát cùng với Thái Hậu Bùi Thị Nhạn.
Vua Bửu
Hưng cùng cung quyến đều bị giải về Thăng Long.
Ðó là
ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802).
Mấy hôm
sau Nguyễn Quang Thùy và vợ chồng Tú Ðức Hầu cũng bị bắt ở Sơn Tây, Nguyễn
Quang Thùy đập đầu tuẫn tiết. Tú Ðức Hầu cùng phu nhân rút gươm tự sát.
Nhà Tây
Sơn mất!
------------------------
[99]
Trương Ðăng Ðồ người làng Mỹ Khê, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Nghĩa (chú ruột
Trương Ðăng Quế). Văn võ toàn tài. Bà phu nhân sắc đẹp, võ giỏi, cùng nữ tướng
Bùi Thị Xuân và bà họ Trần vợ Ðô Ðốc Tuyết là chỗ thâm giao.
SỰ TRẢ
THÙ CỦA NHÀ NGUYỄN ÐỐI VỚI NHÀ TÂY SƠN
Tháng 7
năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh trở về Phú Xuân, đem Vua tôi nhà Tây Sơn
ra báo thù.
Tất cả
các võ tướng đều bị tử hình, Trần Quang Diệu bị lột da, các tướng khác bị voi
chà, người trảm quyết.
Từ vị
đại tướng đến viên tùy tướng, thảy thảy đều giữ bản sắc anh hùng, không một nét
sợ hãi, không một lời cầu nhiêu, hiên ngang, khẳng khái.
Riêng
đối với Bùi Thị Xuân, Nguyễn Phúc Ánh dùng hình phạt khốc liệt nhất quán cổ
kim!
Vốn nghe
danh nữ kiệt, Nguyễn Phúc Ánh truyền đem đến xem mặt, Nguyễn Phúc Ánh tự đắc
hỏi:
- Ta và
Nguyễn Huệ, ai hơn?
Nữ kiệt
ung dung đáp:
- Nói về
tài ba thì Tiên Ðế ta bách chiến bách thắng, hai bàn tay trắng dựng nên cơ
đồ.Còn nhà ngươi bị đánh phải trốn chui trốn nhủi, phải cầu viện ngoại bang,
hết Xiêm đến Pháp. Chỗ hơn kém rõ ràng như ao trời nước vũng. Còn nói về đức
độ, thì Tiên Ðế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã
đối với Nguyễn Huỳnh Ðức, tôi nhà ngươi. Còn nhà ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu
nhân mà đối với những bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai
có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người tức là khuyến khích tôi mình trung
với mình. Chỗ hơn kém cũng rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên Ðế ta đừng
thừa long sớm, thì dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước này.
Nguyễn
Phúc Ánh hỏi gằn:
- Nhà
ngươi có tài sao không giữ ngai vàng cho Cảnh Thịnh ?
Nữ kiệt
đáp:
- Nếu có
thêm một nhi nữ như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không dễ gì mà lạnh. Cửa Nhật Lệ
không để lạnh, thì
nhà
ngươi cũng khó mà đặt chân lên đất Bắc Hà.
Nguyễn
Phúc Ánh hỏi có muốn xin ân xá không?
Nữ kiệt
đáp:
- Ta đâu
có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ mình trước một kẻ tiểu nhân đắc thế?
Nguyễn
Phúc Ánh căm gan, dằn từng tiếng.
- Không
chịu nhục? Ta sẽ làm cho mi biết nhục.
Liền
truyền lệnh: Ðem Bùi Thị Xuân về Bình Ðịnh, cởi bỏ hết quần áo, cột đứng trên
tù xa đẩy đi khắp các nơi thị tứ.
Nhân dân
Bình Ðịnh nghe tin, không ai bảo ai, mà mỗi lần xe nữ kiệt đi qua, thì nhà hai
bên đường đều đóng kín cửa, người đi đường, người nhóm chợ, đều ngoảnh mặt bỏ
tránh xa.
Xe đến
vùng Ðập Ðá là nơi dệt lụa, thì những tấm lụa tinh khôi bay tung vào xe. Lớp bị
bọn tướng sĩ hộ tống vung gươm chém đứt, theo gió bay lên không trung, lớp rơi
vào xe phủ kín châu thân nữ kiệt.
Nữ kiệt
lại bị giải về Phú Xuân, Nguyễn Phúc Ánh hỏi:
- Ðã
biết nhục chưa?
- Nhục
nào có vương vào thân ta, mà chính đổ lên đầu nhà ngươi, con người tánh độc hơn
sài lang, lòng
nhớp hơn
cẩu trệ.
Nguyễn
Phúc Ánh tức giận, truyền bắt mấy người con của nữ kiệt đem ra giết trước mặt
nữ kiệt: Mấy người con nhỏ thì sai lực sĩ bỏ vào bao vải, đánh nát thây. Còn
người con gái lớn thì cho voi xé xác. Thấy voi đến, người con gái hoảng sợ kêu
lên:
- Mẹ ơi!
Cứu con với!
Nữ kiệt
hét lớn:
- Con
nhà tướng không được khiếp nhược.
Người
con gái liền nhắm mắt thọ hình, không một tiếng rên rĩ. Ðến lượt nữ kiệt.
Chúng
trói nữ kiệt để nằm ngửa trên cỏ. Ba hồi trống dứt, một con voi to lớn hung
hăng chạy đến, giơ chân toan chà. Nữ kiệt trợn mắt hét một tiếng như sấm nổ.
Con voi thất kinh thối lui. Bị nài giục, voi bước tới một lần nữa, nhưng vừa
bước tới liền dừng bước ngay, thúc mấy cũng không dám tiến. Lính lấy giáo đâm,
voi thét lên một tiếng rồi bỏ chạy.
Nguyễn
Phúc Ánh tức mình, sai dùng hình phạt điểm thiên đăng.
Chúng
lấy vải nhúng sáp nóng đem quấn khắp mình nữ kiệt, rồi đem cột nữ kiệt nơi trụ
sắt dựng giữa trời. Ðoạn châm lửa đốt. Nữ kiệt bình tĩnh, nét mặt không chút
thay đổi. Lửa cháy phừng phực từ dưới lên trên, sáng chói thấu mây. Ai nấy đều
xúc động.
Riêng
Nguyễn Phúc Ánh tỏ vẻ hân hoan!
Lửa cháy
hồi lâu. Bốn bề im phăng phắc. Bỗng một tiếng nổ.
Sọ nữ
kiệt vỡ. Một lằn thanh quang bay vút lên tầng xanh!
Xử tướng
võ xong, xử đến các quan văn.
Phần
nhiều đều được tha về cho làm ăn.
Riêng
Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích thì bị giải về Thăng Long và đánh đòn tại Văn
Miếu.
Phan Huy
Ích còn sống trở về nhà.
Ngô Thời
Nhậm bị Ðặng Trần Thường đánh chết.
Ðặng
Trần Thường là một danh sĩ Bắc Hà. Lúc Ngô Thời Nhậm được Vua Quang Trung trọng
dụng, thì Ðặng
Trần
Thường đến xin Ngô tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ,
Ngô thét bảo Thường:
- Ở đây
cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh giúp Vua cai trị nước. còn muốn vào lòn
ra cúi thì đi nơi khác.
Ðặng
Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi mang khăn gói vào Nam, phụng sự Nguyễn Phúc Ánh.
Nay đắc
thế liền trả thù xưa.
Ðó là
đối với bề tôi nhà Tây Sơn. Còn đối với nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém
tất cả dòng họ, từ
Vua Bửu
Hưng, cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua
Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi
ngục thất trong hoàng cung để làm lọ đi tiểu.
Ðể nhổ
cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của
họ Nguyễn Tây Sơn, và những tướng tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã.
Hai
người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là
Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An Khê. Vua tôi nhà Nguyễn biết nhưng sợ
người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy tình
thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi
mật báo. Quân nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết.
Các danh
tướng giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp, phần lớn đã qua đời, như:
- Nguyễn
Văn Tuyết đã cùng vợ con tuẫn nghĩa sau khi thất thủ Bắc Thành.
- Võ Văn
Nhậm bị Nguyễn Huệ giết chết.
Ðặng
Xuân Bảo hy sinh trong trận Nguyễn Phúc Ánh đánh lấy Thanh Hóa.
- Ngô
Văn Sở bị dìm xuống sông vì nạn Bùi Ðắc Tuyên.
- Lê Văn
Hưng bị Cảnh Thịnh nghe lời Bùi Ðắc Tuyên giết chết.
- Võ
Ðình Tú bị trúng tên chết lúc Nguyễn Phúc Ánh đem đại binh đánh Quy Nhơn.
- Lê Văn
Trung bị Cảnh Thịnh giết.
Còn sống
ở ngoài tầm nanh vuốt của Gia Long chỉ được ít người: Võ Văn Dũng, Ðặng Văn
Long, Ðặng Xuân Phong, Phan Văn Lân, Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng, Nguyễn Văn
Huy, Nguyễn Văn Lộc.
Sau khi
thoát nạn, Võ trở về Phú Phong, rồi lên An Khê, chiêu mộ được một số người
Thượng, chuẩn bị việc phục thù. Lấy hòn Hợi Sơn ở Trinh Tường (Bình Khê) làm
căn cứ quân sự. Do đó mà Hợi Sơn còn có tên là hòn Ông Dũng.
Nghe tin
Ðặng Văn Long ẩn náu ở Vân Hội (Tuy Viễn) bèn tìm đến bàn đại sự.
Ðặng Văn
Long, sau trận Ðống Ða thì đã có ý lui gót. Nhưng vì mấy kẻ bề tôi của Lê Chiêu
Thống không
nghĩ đến
tội cõng rắn của mình, cứ nổi lên chống lại nhà Tây Sơn, nên Ðặng phải nán lại
để đánh dẹp. Ðến khi thấy Cảnh Thịnh để cho quần thần lộng hành, mối nước sanh
rối, Ðặng bèn từ chức, trở về An Nhơn mở trường dạy võ. Nhưng rồi thấy kẻ học
võ lúc này không có chí lớn, ai nấy cũng chỉ nghĩ đến lợi riêng, Ðặng liền đóng
cửa trường, lên núi làm rẫy.
Võ Văn
Dũng đến, Ðặng mừng được gặp lại cố tri. Nhưng khi nghe Võ bàn đến chuyện phục
hưng thì lắc đầu, đáp:
- Tôi ra
giúp nhà Tây Sơn đâu phải vì nhà Tây Sơn mà chính vì Tổ quốc. Nếu giặc Thanh
không mang quân sang xâm lấn nước ta, thì tôi mãi làm con hạc nội, máu đâu dính
đến tay. Còn về nhà Tây Sơn, chính Cảnh Thịnh đã làm mất. Song nếu Vũ Hoàng
không bỏ đích lập thứ thì đâu đến nỗi nước này?! Nay đất đã mất mà lòng người
cũng mất, hỏi còn mong làm được việc gì nữa? Mà dù có làm được nữa thì làm để
làm gì, nếu không phải để tranh chiếm ngôi báu? Tranh cho ai? Cho nhà Tây Sơn
hay cho chính mình? Thôi, trên ba mươi năm trời đánh nhau, nhân dân đã điêu
đứng rồi, không nên gieo rắc thêm tang tóc.
Võ ra
về, Ðặng lên ở luôn trên núi. Trong nơi mây khói, không ai biết Ðặng ở ngọn núi
nào trong dãy Nam Sơn.
Ý kiến
của Ðặng Văn Long không lay chuyển ý chí của Võ Văn Dũng nổi.
Về Bình
Khê, Võ Văn Dũng tiếp tục xây dựng lực lượng chiến đấu. Toàn vùng An Khê và
những vùng ở hai bên bờ sông Côn, như Tiên Thuận, Vĩnh Thạnh, Ðồng Phó, Hà
Nhung, Trinh Tường, Phú Lạc, Phú Phong, Kiên Mỹ... đều nằm trong phạm vi hoạt
động của Võ công. Nhưng được ít lâu, người Thượng Xà Ðàng bị nhà Nguyễn mua
chuộc, rục rịch làm phản. Công phải bỏ hết cơ sở, đem ba chú cháu Văn Ðức, Văn
Lương,
Văn Ðẩu
lên ẩn náu tận trên Núi Xanh.
Ca dao
địa phương có câu:
Củ lang
đồng Phó, đỗ phộng Hà Nhung
Chàng
bòn thiếp mót để chung một gùi
Chẳng
qua duyên nợ sụt sùi
Chàng
giận chàng đá cái gùi chàng đi...
Chim kêu
dưới suối Từ Bi
Nghĩa
nhân còn bỏ huống chi cái gùi
Ðó là
mượn thể tỷ để nói về việc bất hòa giữa Võ công và người Thượng.
Võ công
lên Núi Xanh ở cùng ba chú cháu Văn Ðức cho đến khi ba chú cháu bị sa vào lưới
Vua Minh Mạng.
Còn trơ
trọi một mình, công vẫn sống một cách tự tại ngót mười năm nữa. Công mất dưới
triều Thiệu Trị, không rõ năm nào, sống trên chín mươi tuổi. Mãi đến khoảng
Ðồng Khánh, Thành Thái (1885-1907), con cháu mới lấy cốt đem về chôn ở Phú
Phong.
Cụ Vân
Sơn Nguyễn Trọng Trì có bài Vịnh Võ Ðô Ðốc:
Tạo vật
khốn hào kiệt
Y tương
sử hữu vi
Công
danh vị túc ngôn
Hoặc tác
xuất thể ty (tư)
Võ công
dũng quán quân
Bách
chiến khởi Tây thùy
Thiên
phương yểu trung nguyên
Ðãi phi
nhất mộc chi
Thoát
thân tứ thập niên
Thế nhân
thức công thùy
Ðản kinh
sơn thạch gian
Hữu thử
hùng báo ty (tư)
Ngã diệc
chí phương ngoại
Bạch đầu
vị phùng sư
Niên
niên hạnh thế phóng
Thảng
toại dữ thế từ
Tùng
công du Ngũ Nhạc
Khể thủ
thôn linh chi
Kim cốt
hoán lục tủy
Khiêm
nhiên tùng sao phi
Nghĩa
là:
Tạo hóa
làm khốn đốn kẻ hào kiệt
Ý muốn
cho họ làm một việc gì.
Công
danh không đủ nói,
Hoặc giả
bày ra cơ hội để họ thoát đời.
Cái dũng
của Võ công thật quán quân,
Từ biên
giới phía Tây nổi lên, trăm trận trăm thắng
Nhưng
trời muốn dứt nửa chừng
Thì một
cây không chống nổi.
Thoát
mình khỏi nạn ngót bốn mươi năm
Người
đời ai biết ông?
Sống lâu
ngày trong nơi núi vây đá chất
Ông có
tư thế mạnh như gấu như hùm
Tôi cũng
có ý muốn xuất thế,
Nhưng đã
bạc đầu mà chưa gặp được thầy.
Làm quan
may được đuổi về
Năm năm
rảnh rang
Muốn
thoát khỏi cuộc đời
Theo ông
đi dạo chơi khắp năm ngọn núi Tiên
Cúi đầu
ăn cỏ linh chi,
Xương
vàng đổi tủy xanh
Nhẹ
nhàng bay theo sóng tùng.
Ngoài Võ
Văn Dũng, còn một số lương tướng nữa thoát luật ác nghiệt của Gia Long, như:
+ Ðặng
Xuân Phong năm Cảnh Thịnh thứ ba, được thăng chức Thái Phó, ban tước Huyện Công
Tuy Viễn. Ðến khi Nguyễn Bảo bị giết, bà họ Trần đem con cháu lên An Khê lánh
nạn, thì Ðặng công từ quan lui về Dõng Hòa dưỡng lão. Ðược năm năm, nghe tin
Phú Xuân thất thủ, Vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc Thành, Công mở tiệc mời thân bằng
cố hữu đến, nói:
- Kẻ hào
kiệt ra phò nhà Tây Sơn, phần nhiều đều là bậc trung nghĩa. Nhưng hầu hết đều
dày công dày sức trong lúc xây dựng, mà không một ai đủ khả năng chống đỡ trong
lúc ngã nghiêng! Nay mai mà Nguyễn Phúc Ánh thu trọn cả Bắc Nam, thì đất bằng
nổi sóng, đám cựu thần nhà Tây Sơn, không còn chỗ đặt tay chân. Nếu đợi nước
đến trôn, thì không còn nhảy kịp nữa.
Mấy hôm
sau, có người đến thăm, thì thấy nhà không vườn trống. Ðặng công đưa gia quyến
đi lúc nào và đi về đâu, không một ai hay biết.
+ Phan
Văn Lân, lo việc biên phòng, nghe tin Cảnh Thịnh đoạt sự nghiệp của Thái Ðức,
than dài một tiếng:
- Luân
thường đã đứt, sự nghiệp không thể nào vững được lâu! Rồi giao công việc trong
quân cho vị phó tướng, về An Thái thăm thầy. Thầy đã mất rồi, phò mã Trương Văn
Ða cũng đã mất. Nơi xưa không còn ai là người cũ. Công bèn hỏi thăm phần mộ, ra
thắp hương lạy thầy, ra đi... Như đám mây trôi trên ngàn thẳm.
+ Phạm
Công Chánh trấn thủ Quảng Nam, Lê Sĩ Hoàng trấn thủ Quảng Nghĩa, nghe tin Bắc
Thành thất thủ, liền mở kho phân phát hết quân lương quân trang cho binh sĩ,
cho mọi người về quê quán làm ăn, còn mình thì một thương một ngựa ra đi. Phạm
Công Chánh về ẩn núi Phương Phi tại Phù Cát, sau ra Cao Bằng. Lê Sĩ Hoàng về
Quảng Nam, lên ẩn nơi Ngũ Hành Sơn.
+ Nguyễn
Quang Huy, Nguyễn Văn Lộc ở Quy Nhơn, cũng như Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng ở
Quảng Nam, Quảng Nghĩa, sau khi được tin Vua Cảnh Thịnh bị bắt, thì giải tán
quân đội. Ông Lộc về Kỳ Sơn, dùng Hầm Rùa làm nơi trú ẩn. Ông Huy lên Dương An
nương náu, thỉnh thoảng về Phú Yên thăm quê hương, và ra Kỳ Sơn thăm ông Lộc.
Trừ Võ
Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy cũng như Nguyễn Văn Lộc và hầu hết các tướng còn
sống sót, không một ai nuôi chí phục thù.
Một hôm
ông Lộc hỏi ông Huy:
- Cựu
thần nhà Tây Sơn, văn cũng như võ, còn khá nhiều tay tài tuấn, sao không hợp
sức lại để lo việc phục hưng? Như thế chẳng ra là không tận trung với cựu chúa
hay sao ?
Ông Huy
đáp:
- Những
anh hùng nghĩa sĩ, ra giúp nhà Tây Sơn từ ngày mới khởi nghĩa cho đến nay,
không ai phụ nhà Tây Sơn. Tất cả đều lo tròn bổn phận cho đến giờ chót, như thế
là tận trung. Nay nhà Tây Sơn đã không còn nữa thì chúng ta còn trung với ai?
Bầy tôi của Vua Lê Chiêu Thống bo bo giữ lòng trung với cố chủ, nổi dậy đánh ở
miền Bắc, hết lớp này đến lớp khác, đã chẳng lợi gì cho nhà Lê mà còn làm khổ
dân hại nước. Phải nghĩ đến dân đến nước trước. Không có thể làm lợi cho dân cho
nước thì nằm yên chớ không nên gây thêm rối. Trung với một người, một nhà mà
làm hại cho dân cho nước, thì trung ấy, kẻ chân chính không nên nghĩ đến. Trung
ấy không phải là trung.
Nguyễn
Phúc Ánh dò biết tung tích của một số cựu tướng nhà Tây Sơn, tìm đủ cách để tận
diệt. Nhưng núi non đã hiểm trở lại thêm người địa phương che chở, nên mọi
người đều sống yên. Không bắt giết được, Nguyễn Phúc Ánh bèn dụ hàng, nhưng
không người nào đáp ứng.
Báo quốc
nhất thân đô thị đảm
Giao
tình thiên tải chỉ luân tâm[100]
Nhà
Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang
Trung, chém giết
dòng họ,
tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ
mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn
và đã chết trước khi non sông đổi
chủ.
Quan
quân nhà Nguyễn chú ý nhất là những mồ mả ở trong vùng đất Tây Sơn.
Trước
hết là mộ ông Nguyễn Phi Phúc.
Truyền
rằng mộ nằm trên dãy Hoành Sơn, thôn Trinh Tường.
Tìm khắp
nơi, thì thấy sát chân núi phía đông, khoảng giữa, nổi lên một trảng đất lum
lum, trong khoảng
này dáng
núi hơi cong cong. Ðứng phía trước trông vào thì phảng phất giống một chiếc ghế
bành vĩ đại, mà lưng và tay tựa vào núi, còn mặt ghế là trảng đất. Trên trảng
đất, nằm song song hai tảng đá xanh to lớn, hình chữ nhật. Người ta bảo đó là
mộ của vợ chồng Nguyễn Phi Phúc. Bọn đào mồ mừng rỡ, ra sức cạy hai tảng đá
lên. Hài cốt không thấy đâu mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đã lưng, trong mỗi
chum có một ngọn đèn chong đương cháy[101].
Ai cũng
biết bốn chum dầu đó là của nhà Tây Sơn chôn, song mục đích để làm gì, thật
không ai biết. Biết rằng không phải mộ ông Phúc, quân nhà Nguyễn tìm khắp nơi,
song không thấy dấu tích.
Những mả
vôi to lớn ở trong vùng Bình Khê đều bị quật.
Có ba
khóm lớn nhất, một ở bờ sông Côn phía Trinh Tường, một ở thôn Phú Lạc, một ở
thôn Kiên Mỹ, trên bờ sông Côn. Xương cốt đều ném xuống sông!
Những
ngôi mộ này là mộ của các vị đại thần phò Vua Thái Ðức.
Ở thôn
Trường Ðịnh cũng có ba ngôi mộ rộng lớn và rất kiên cố của đại thần nhà Tây
Sơn. Nhưng khi nghe tin Quy Nhơn bị Phúc Ánh chiếm thì gia đình người khuất
liền đục bỏ bia cũ, thay vào tấm bia mới mang tên đàn bà. Nhờ vậy mà khỏi bị
quật[102].
Nhà Tây
Sơn dẫy cỏ không sạch nên nhà Nguyễn mọc trở lại. Ðể nhà Tây Sơn khỏi mọc lại,
Nguyễn Phúc Ánh cho dẫy tận gốc. Nhưng than ôi, đến cả gốc cỏ đã khô gần mục mà
cũng bị dẫy! Quả là độc thủ!
Ðể tránh
nạn tru di, con cháu những người có liên hệ ít nhiều đến nhà Tây Sơn, phần
nhiều đều phải thay tên đổi họ, đi ẩn náu ngoài xứ lạ nơi xa.
Chính
sách dẫy cỏ thật sạch gốc của Gia Long làm lụy chẳng những người mà còn đến cả
vật, nhất là vùng Tây Sơn.
Sách vở,
giấy tờ đều bị tiêu hủy. Ðiển hình là những tập gia phả của họ Võ ở Phú Phong,
họ Bùi ở Xuân Hòa, họ Ðặng ở Dõng Hòa, họ Trần ở Trường Ðịnh... Cho đến những
bộ sử, những tập thơ văn... sản xuất đời Tây Sơn cũng cấm không được lưu hành,
tàng trữ, như bộ Trần Triều Thông Sử Cương Mục của Lê Văn Nhân ở An Nhơn, phụng
chiếu soạn năm Quang Trung thứ tư (1791), bộ Lê Triều Thực Lực do Võ Xuân Hoài
tổng tu dưới triều Cảnh Thịnh... Những tập thơ Hán có Nôm có của nhóm Tứ Tài Tử
ở Tuy Viễn và Song Hoài Thi Xã ở Bồng Sơn, tập thơ ca văn tế bằng chữ Nôm của
La Xuân Kiều ở Phù Cát v.v...
Những
môn võ thời Tây Sơn thường dùng, một số bị cấm. Thời Tây Sơn võ nghệ rất thịnh.
Có bốn môn nổi tiếng là Côn, Quyền, Kiếm, Cổ. Nhưng khi đem áp dụng vào việc
binh thì quyền thay thế bằng kỳ.
Côn,
quyền, kiếm thời nào cũng có nơi nào cũng có. Chỉ có môn kỳ và cổ e chỉ Bình
Ðịnh mới có và chỉ đời Tây Sơn mới dùng.
Kỳ là cờ
- lá cờ vuông mỗi bề rộng chừng hai sải dệt bằng thao càn rất dày rất chắc, trừ
phía kết vào cán cờ, ba phía kia đều móc sắt thay tua. Lá cờ vừa dùng để chỉ
huy vừa dùng để giết giặc.
Phải là
người có sức mạnh và có võ giỏi, mới sử dụng được.
Cổ là
trống. Trống lớn như trống chầu. Khi tập luyện thì đứng trên hai khối gỗ tròn
lớn gấp đôi quả bưởi. Ðôi chân phải điều khiển hai khối tròn đó một cách lanh
lẹ. Còn cùi chỏ, bàn tay, vai, đầu đều phải dùng để đánh và đỡ mấy cái trống,
theo từng bài luyện võ. Khi thì dùng hai trống, khi thì dùng bốn, khi thì dùng
tám, khi thì dùng mười ai, tùy trình độ và sức vóc của võ sĩ. Trống treo ở
trước mặt. Biểu diễn một lần từ một đến sáu người. Mỗi người hai trống. Không
phải người nào đứng chỗ nấy, mà luôn luôn đổi chỗ lẫn nhau.
Khi ra
trận thì dùng hai trống, đặt trên xe đẩy, và dùng dùi trống thay tay. Dùi trống
không phải chỉ dùng để đánh trống thúc quân mà còn dùng làm khí giới giết địch.
Gia Long
cấm kỳ, kiếm, cổ.
Kỳ không
bị cấm cũng không ai dùng nổi và cũng không ai học làm gì trong lúc không chiến
tranh.
Kiếm
chẳng những cấm dạy cấm học, mà trong nhà có kiếm cũng bị tội.
Cấm kiếm
lẽ tất nhiên cũng cấm luôn đao.
Cho nên
nghề kiếm và đao ở Bình Ðịnh bị mất hẳn.
Còn cổ
thì cũng thất truyền. Và môn võ biến thành môn nhạc. Võ thì đánh trống chầu và
đánh trống treo.
Nhạc thì
đánh trống chiến và trống để đứng. Nhưng những bài luyện võ vẫn được đem dùng
vào việc đánh nhạc.
Nói tóm
lại là tất cả những tinh ba của đất nước sản xuất thời Tây Sơn, đều bị Gia Long
tìm đủ cách để tận diệt. Tận diệt để không còn gì làm cho người đời nhớ đến Tây
Sơn.
Tên vùng
đất phát tích ra nhà Tây Sơn cũng bị đổi ra An Tây.
Diệt tận
gốc, nhổ sạch rễ!
Nhưng
chỉ bên ngoài thôi.
Lòng
người Việt Nam yêu nước, nhất là người Bình Ðịnh, đâu có quên nhà Tây Sơn.
-----------------
[100]
Thơ của Nguyễn Bá Thuận đề sách Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn
Trọng Trì. Thơ 8 câu, đây là cặp luận. Câu thơ đại ý nói: Ðền ơn nước, một tấm
thân đầy cả mật (can đảm đầy mình). Nghìn năm giao tình với nhau, chỉ lấy tấm
lòng mà luận thị phi.
[101]
Chắc có lỗ thông hơi trong đá nên đèn không tắt.. Khoảng 1929-1930, Tản Ðà tiên
sinh có đến viếng mộ. Lúc ấy hai tảng đá vẫn còn. Cuộc viếng mộ có đăng trên
báo. Nay không còn thấy.
[102]
Những vôi đá của ba ngôi mộ bị quật vẫn còn sót ít nhiều. Ba ngôi mộ không bị
phá vẫn còn, nhưng nắng mưa làm hư nhiều lắm. Một ngôi ở trong vườn họ Từ, một
ngôi nằm ở trước ngõ họ Phan, một ngôi nằm ở nơi gò Vườn Xoài, cạnh con đường
liên hương từ Kiên Mỹ đi xuống. Không ai dám nhận những ngôi mộ này là của gia
đình, vì hình phạt của nhà Nguyễn rất tàn khốc.
LÒNG DÂN
ÐỐI VỚI NHÀ TÂY SƠN
Danh
người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ, người đã hai phen thảo quân xâm
lược do Duy Kỳ thỉnh về, Nguyễn Phúc Ánh rước tới, cứu nhân dân Việt Nam thoát
vòng nô lệ của ngoại quốc, cùng mặt trăng mặt trời rạng rỡ trên sông núi Việt
Nam.
Và nghĩ
rằng nếu không có Vua Thái Ðức mở đường, Ðông Ðịnh Vương giúp sức thì chắc gì
đã có những chiến công oanh liệt của Vua Quang Trung, nên người Bình Ðịnh, nhất
là người Bình Khê, ghi nhớ cả ba người anh hùng áo vải
Bởi vậy,
sau khi ngôi từ đường của nhà Tây Sơn ở Kiên Mỹ bị nhà Nguyễn phá hủy thì ngôi
đình làng thay thế vào.
Ðình
làng dựng lên để thờ thần. Nhưng nhân dân địa phương đem sắc thần để một ngôi
miếu khác, còn đình thì bí mật thờ ba Vua Tây Sơn. Xuân kỳ thu tế, nhưng chỉ
vái thầm chớ không đọc văn.
Ngoài
xuân kỳ thu tế, còn ngày kỵ của ba vua vào tháng 11 âm lịch. Ðể che mắt vua
quan nhà Nguyễn, ngày kỵ gọi trại là ngày cúng cơm mới.
Lâu ngày
chánh quyền địa phương biết được, nhưng một mặt sợ thần linh bẻ họng, một mặt
sợ thất nhân tâm, nên bóp bụng làm lơ.
Lòng
kính yêu nhớ tiếc ba Vua Tây Sơn thấm thía và bền bỉ, chẳng những ở trên tầng
lớp sĩ phu mà cả dưới mọi tầng lớp nhân dân. Bất kỳ trẻ già trai gái, hễ đi qua
đình Kiên Mỹ, là lấy nón cúi đầu. Khách đi ngựa đi võng đều phải xuống ngựa
xuống võng.
Và ca
dao địa phương có câu:
Ðá Hàng
cữ nước không sâu
Hàng
Thuyền lai láng mặc dầu cá đua.
Có đua
sông trước thì đua
Sông sau
mắc miễu thờ Vua xin đừng[103].
Lòng
kính yêu nhớ tiếc nhà Tây Sơn chẳng những ở thời trước, mà cho đến năm 1945 vẫn
nồng nàn như cũ. Xuân kỳ thu tế, ngày kỵ cúng cơm mới trong năm 1945 vẫn cử
hành theo thường lệ. Ðến năm 1947 có lệnh tiêu thổ kháng chiến, đình miễu bị
phá hủy, việc cúng tế mới thôi.
Năm
1960, nhân dân Bình Khê chung tiền chung sức lập lại đền thờ Tây Sơn nơi đình
cũ.
Ðền
không lấy gì làm rộng lớn, song trang nghiêm. Ðối với sự nghiệp anh hùng thật
không xứng. Nhưng đối
với hoàn
cảnh thiếu thốn của nhân dân địa phương lúc bấy giờ, thì chừng ấy cũng là một
cố gắng vượt mức.
Ðền có
ba gian.
Gian
giữa thờ vua Quang Trung.
Hai bên
thờ vua Thái Ðức và Ðông Ðịnh Vương.
Trước
sân có tượng bán thân của Vua Quang Trung và có bi đình khắc bài ký tán tụng
công đức nhà vua:
Ðức Vũ
Hoàng,
Họ
Nguyễn, húy Huệ.
Ứng hùng
năm Quý Dậu (1753),
Thừa
long năm Nhâm Tý (1792)
Thọ 40
tuổi, ở ngôi 5 năm.
Niên
hiệu Quang Trung.
Miếu
hiệu Thái Tổ Vũ Hoàng Ðế.
Tổ tiên
vốn người Châu Hoan, dời vào ấp Tây Sơn được bốn đời. Trước ở Phú Lạc, sau
xuống Kiên Thành
buổi
tiềm long, chính nơi đây là Tây Kỳ cơ chỉ.
Vũ Hoàng
có ba anh em.
Anh là
Vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc, thiệp thế đa mưu.
Em là
Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, thành tín nhân hậu.
Còn Vũ
Hoàng: Sức mạnh cử đảnh, tài dụng binh như thần, lại sùng thượng kinh văn, quý
trọng đạo lý. Kẻ cao tài đại đức được tôn kính vào bậc thầy. Văn võ dưới cờ đều
những trang khai quốc tuấn kiệt.
Thân bố
y, tay trường kiếm, Vũ Hoàng gồm cả khí tượng họ Hạng họ Lưu.
Quả là
cái thế anh hùng vậy.
Năm Tân
Mão (1771), thống tâm vì cảnh đất chia nước loạn, trăm họ hết chỗ đặt tay chân,
ba anh em Vũ Hoàng chiêu tập nghĩa binh, chịu gian nan mà dấy nghiệp. Lấy thành
Quy Nhơn làm căn cứ. Rồi đánh vào Nam, tiến ra Bắc. Lòng xa gần đều theo. Trăm
trận trăm thắng. Thanh thế nhà Tây Sơn lẫy lừng.
Riêng Vũ
Hoàng. Bốn lần bạt thành Gia Ðịnh, ba lần vào thành Thăng Long. Thắng chúa
Nguyễn, diệt chúa Trịnh. Thu non sông về một mối, dựng nên cơ nghiệp Võ Thang.
Lại hai
phen thảo quân xâm lược:
Năm Giáp
Thìn (1784) quét sạch 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong rước tới.
Năm Kỷ
Dậu (1789), đánh tan 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Kỳ khất lân lĩnh về.
Nhờ vậy
mà dân tộc thoát ách vong nô.
Nhờ vậy
mà tổ quốc vững nền độc lập.
Công
thật cao như Trường Sơn.
Ân thật
sâu như Nam Hải.
Non sông
đãng định, Vũ Hoàng chăm lo việc trị bình.
Ðắp quốc
cơ theo tôn chỉ phú cường. Sửa chính sự cho kỷ cương nghiêm túc. Dùng chữ Nôm
làm quốc gia
văn tự.
Lập Sùng Chính viện để đào tạo nhân tài.
Và cái
nhục cống người vàng cho Trung Hoa rửa xong, Vũ Hoàng luyện tướng nuôi binh,
quyết khôi phục phần đất Lưỡng Quảng.
Nhưng
than ôi!
Năm sắc
đá rèn gan, trời chưa kịp vá,
Chín
tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa.
Khiến
nhà Tây Sơn lâm vào bước suy vong!
Khiến
nước Việt Nam lỡ mất cơ cường thịnh!
Tuy
nhiên,
Danh Vũ
Hoàng vẫn cùng mặt trăng mặt trời mà sáng. Ân Vũ Hoàng vẫn cùng núi Trưng núi
Tượng mà cao.
Và nhân
dân Việt Nam vẫn ca rằng:
Non Tây
áo vải cờ đào
Giúp dân
dựng nước xiết bao công trình.
Tiết
Trọng Xuân năm Tân Sửu (1961)
Nhân dân
Bình Khê cẩn ký.
Sau khi
đền lạc thành, cứ mỗi năm, đến ngày lễ Ðống Ða, nhân dân toàn tỉnh Bình Ðịnh
hợp nhau tại đền
làm lễ
kỷ niệm. Lễ kỷ niệm cử hành theo cổ lễ, nhưng những cuộc vui thì có mới có xưa.
Người đến dự lễ vô cùng đông đúc. Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Và riêng
nhân dân Bình Khê, rằm tháng 11 âm lịch, lại tổ chức ngày kỵ ba Vua theo thường
lệ.
Trong
buổi lễ Ðống Ða và ngày kỵ đều có đọc văn tế và cử nhạc theo cổ lễ.
Hai bài
văn tế đầu tiên:
Văn Tế
Ðống Ða:
“ Than
ôi!
Dòng Côn
thủy mây lồng thức gấm, mãn vui tình mai liễu độ xuân;
Ðỉnh
Trường Sơn gió cuộn sóng tùng, chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.
Nhớ tôn
linh xưa:
Khí cốt
lăng tằng,
Anh tư
khôi đặc.
Sức điều
binh khiển tướng, Hạng Võ Lưu Bang Lòng trọng sĩ tôn hiền, Văn Vương Huyền Ðức,
Tình đất nước
giận cơn
chia xẻ, lưỡi gươm thần dẹp loạn cứu dân; Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn, thân
áo vải giúp anh dựng nước.
Quy Nhơn
biển lặng, rực rỡ ánh tường vân,
Thuận
Hóa trời cao, chói chang vầng bạch nhật. Xiêm phê áp phủ, trên chín trùng toan
mối trị bình, Vuốt
dũa nanh
mài, ngoài muôn dặm rắp tâm xâm lược. Cõng rắn tội kìa ai?
Bắt hùm
tay sẵn chước.
Tế Trời
Ðất đàn Giao cao vút vút, bóng tinh kỳ sáng dọi buổi đăng quang.
Nhìn non
sông khí giận ngất từng mây, tiếng hiệu lệnh sấm vang giờ xuất phát. Hùng binh
mười vạn hăng hái hy sinh!
Chiến
tượng hai trăm tinh trường trận mạc.
Lòng một
quyết ra tay hùng hổ, hẹn nước non ca khúc khải hoàn sau.
Chỉ mười
ngày dẹp giống sài lang, cùng tướng sĩ chung vui Nguyên Ðán trước.
Cạn lời
ủy lạo, trống giục cờ giong:
Dốc dạ
truy tùy, non băng biển vượt.
Ngày ba
mươi tháng chạp, sông Giản Thủy dồn binh;
Ðêm mồng
ba tháng giêng, đồn Hà Hồi hãm giặc.
Ðánh
trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng:
Xong đồn
nọ tới đồn kia, khói tan đá nát.
Khuya
mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt lương rừng lửa đỏ, khiến ba quân liều chết chớ
lui;
Sáng
mồng năm voi ngựa sẵn sàng, quấn cổ thước khăn vàng, quyết một trận chẳng hơn
thì thác.
Thế giặc
dẫu binh đông tướng dữ, thuốc súng chôn quanh thành, chông sắt cắm khắp lũy,
thêm bốn bề đạn rạc rào mưa;
Quân ta
nhờ trí sáng gan bền, ván dày cột thành cốt, rơm ướt phủ làm bì, hò một rập sức
cuồn cuộn thác,
Ầm tiếng
pháo, Ngọc Hồi kịp hạ, sông máu láng lai; Thúc chân voi, Khương Thượng liều
thân, núi thây chồng chất. Nghi Ðống liệu khôn bề sống sót, vội vàng treo cổ
Ðống Ða! Sĩ Nghị may tìm được lối ra, hớt hải thoát thân mạn Bắc. Ngoài ải sói
gió tan mùi sát khí, niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên; Vào thành Long cờ
rợp bóng vinh quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược. Mười ngày hẹn trước,
trời đất chứng lời vàng;
Hai bận
vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc ngọc.
Lửa tạnh
hề biên cương
Nền cao
hề xã tắc,
Tiếng
anh dũng nước mây lừng lẫy sấm,
Triều
Mãn Thanh bóp bụng sống chung trời;
Chí đấu
tranh gan sắt vững vàng non,
Niềm
Lưỡng Quảng quyết tâm đòi lại đất,
Nhưng
than ôi!
Tấm gan
rèn đá, trời chửa vá xong;
Ðỉnh Ngự
chìm mây, rồng sao vội khuất!
Cơ cường
thịnh thiếu tay xếp đặt,
Cửi dòn
thoi phút để mối tơ chùng!
Nghiệp
đế vương đuối sức giữ gìn,
Thuyền
thuận bến trúc theo cơn gió lật!
Trời Phú
Xuân sương gió lạnh lùng!
Biển Thị
Nại bèo mây tản mác!
Bút chép
sử múa men tay đắc thế: trang oanh liệt son nhòa! Nền ghi ân khuất lấp bóng cô
thôn: gương
anh hùng
thủy nhạt!
Nối chí
cả người sau toan lấp hận,
Lao công
Tinh Vệ, ngậm ngùi thương.
Gìn dấu
linh chốn cũ khó nguôi tình,
Lắng
giọng đề quyên tê tái ruột,
Cũng may
thay!
Lẽ tuần
hoàn trời đất chẳng ngừng xoay,
Ách
chuyên chế giống nòi nay đã thoát,
Trăng
hào kiệt bấy lâu u ám, ngọn đông phong mát mẻ vén màn sương;
Vườn anh
hoa đua nở tự do, bút thanh nghị ngọt ngào rơi giọt móc
Chúng
tôi nay:
Chung
gội ơn xuân.
Kính
dâng lễ bạc,
Non xanh
nước biếc, khí anh tú mơ màng,
Nội thắm
ngàn xa, hương tinh thành bát ngát.
Dòng
lịch sử mở ra ôn lại, dịu dàng chữ gấm dệt lời hoa. Tranh vĩ nhân trải rộng xem
chung, lộng lẫy chỉ
vàng
treo bóng ác.
Hầm hô
con cá nhảy, trong bóng mây thấp thoáng bóng rồng
Trưng
Lĩnh cánh diều bay, theo tiếng gió lẫy lừng tiếng nhạc.
Linh
thiêng xin chứng.
Bài văn
nhân dân Bình Khê tế Tây Sơn tam kiệt ngày rằm tháng 11.
“Duy!
Nước bị
qua phân,
Nhà sanh
tam kiệt,
Non Tây
áo vải, phất nghĩa kỳ dẹp loạn an dân.
Ðất Việt
khí thiêng, tung bửu kiếm diệt thù cứu nước.
Nền đế
nghiệp xây cao trời một cõi,
Bước
tiền đồ hoa cỏ đón mừng xuân;
Tiếng
anh hùng vang dội sấm mười phương,
Miền
biên tái sài lang im lặng dấu.
Ví thử
bóng rồng không vội khuất
Thì chi
đuôi ngạc dễ mà tung.
Biển nên
cồn thời vận khéo xui, tay bé không xoay trời đất lại;
Ðất vá
khuyết cơ duyên chưa gặp, dấu linh còn tạc nước non đây.
Nhân dân
Bình Khê chúng tôi:
Lắng hơi
quyên trằn trọc giấc canh chầy.
Mơ bóng
hạc thẫn thờ đêm nguyệt rạng.
Ðền cũ
dâng lòng hương một nén;
Bia xanh
tạc đức ngọc muôn hàng.
Cá nhớ
nguồn lên xuống nước Côn giang, dạ nhắc dạ mồi thơm chẳng tưởng;
Chim mến
cội đi về cây Tượng Lĩnh, đàn gọi đàn gò thấp chớ nương.
Một lòng
nguyện giữ sắt son,
Muôn gội
dám quên mưa móc.
Nay:
Niệm kỳ
húy nhật, lá vàng điểm tiết hàn đông;
Chứng
tấc thành tâm, lễ bạc dâng trời dị lộ.
Trăm
thước trầm hương cuồn cuộn gió,
Ðôi hàng
bạch lạp ngập ngừng châu.
Nâng kim
bôi rượu đủ ba tuần, phảng phất long nhan dường thấy đó;
Trước linh
án lễ rồi bốn lạy, mơ màng loan giá trở về đây. Gương nghìn thu lai láng ánh
quang huy,
Trong
khuất tịch cũng không còn hắc ám;
Ðất ba
cõi sáng soi vầng bạch nhật,
Dẫu vô
cùng vẫn được hưởng vinh quang.
Lời cầu
xin mong thấu cõi u huyền,
Lòng thành
kính ngửa nhờ ơn chiếu giám.
Phục
duy,
Thượng
hưởng “
Từ khi
đền Tây Sơn lập lại, năm năm đều tế lễ. Lễ Ðống Ða thay thế lễ Xuân Thu. Lễ húy
nhật vẫn giữ y
như cũ.
Và tuy đời đổi mới, lễ vẫn cử hành theo lề lối xưa. Nhưng lần lần, người đọc
văn tế có tài qua đời
hết, và
cứ đọc đi đọc lại mãi một bài nghe cũng chán, nên cứ vài ba năm, thay văn tế
một lần, không thiếu những điểm quan trọng, nhưng gọn gàng dễ đọc.
Có hai
bài thường được dùng đến:
Văn Tế
lễ Ðống Ða:
Non Tây
áo vải,
Trời
Việt khí thiêng;
Ngọn cờ
đào gió thuận lòng dân,
Mối ly
loạn dẹp yên dòng Trịnh Nguyễn;
Thanh
kiếm báu chớp ngời thế trận,
Ðường
xâm lăng quét sạch giặc Xiêm, Hoa.
Ðài vinh
quang rạng rỡ giống nòi,
Nền độc
lập vững bền đất nước.
Mây áng
Trường Sơn rồng dẫu khuất,
Trăng
lồng Quế Hải gấm còn giăng.
Ðền ghi
ân ngào ngạt nén tâm hương, đá tạo nghìn thu vững núi;
Bút chép
sử ung dung ngòi chính luận, son pha từng nét đơm bồng.
Nay
chúng tôi:
Ðón tiết
dương xuân,
Nhớ ngày
kỷ niệm.
Ngửa
dâng lễ bạc,
Cúi trải
niềm son.
Mơ màng
trận thắng Ðống Ða, hồn chiến sĩ thơm lây chiều gió mới;
Lai láng
dòng trong Côn Thủy, gương anh hùng sáng dọi ánh trăng xưa.
Nén tinh
thành mong thấu cõi u linh,
Cơ huyền
diệu sớm xoay thời thịnh thái.
Giống
Hồng Lạc đơm hoa kết trái, sương nắng chung, mưa móc cùng chung.
Tình Bắc
Nam líp thịt liền xương, dâu bể đổi, ruột gan chẳng đổi.
Linh
thiêng xin chứng.”
Bài Văn
tế ngày kỵ 15 tháng 11:
Tây lĩnh
tài cao,
Côn
giang đức cả.
Giận
Trịnh, Nguyễn cắt tình đất nước,
Thêm
Phúc Loan đọa kiếp giống dòng.
Tuốt
gươm thần phạt ngụy điếu dân, danh Tam Kiệt nướcnon lừng lẫy sấm.
Thu mối
nước bình Nam định Bắc, công nghìn thu sử sách rõ ràng son.
Nay
chúng tôi:
Ðối cảnh
đông thiên.
Niệm kỳ
húy nhật,
Ngọn gió
hương đưa hồn Tổ Quốc,
Ðầu non
thông vút khí anh hùng.
Rượu ba
tuần rót chén tinh thành.
Lễ bốn
lạy dâng trời dị lộ,
Phảng
phất đài mây điện ráng, ngưỡng vọng giáng lâm,
Chít
chiu con lạc cháu Hồng, huệ diên phước tải
Thượng
hưởng “
Những
bài văn ký đã nói lên được trung thực lòng người yêu nước đối với nhà Tây Sơn.
Nhưng
trong đó lòng chỉ dám biểu lộ sau khi nhà Nguyễn đã bị nhân dân đứng lên lật
đổ.
Dám biểu
lộ trong lúc ách cường quyền còn đè nặng trên cổ nhân dân, thì long kính yêu
nhớ tiếc mới thật là mạnh liệt.
Nguyễn Bá
Huân viết:Cân Quắc anh hùng truyện, Tây Sơn văn thần liệt truyện, Nguyễn Trọng
Trì viết: Tây Sơn danh tướng chinh Nam truyện, Tây Sơn lương tướng ngoại truyện
v.v...
Các tác
phẩm trên ghi chép sự tích, hành trạng của các anh hùng hào kiệt văn võ phò tá
nhà Tây Sơn. Sách viết thời Tự Ðức. Dụng ý đề cao nhà Tây Sơn.
Không
phải là danh sơn sự nghiệp mà sách được phổ biến trong giới trí thức đương
thời, trong đó có một đại thần nhà Nguyễn là Ðào Tấn ở Vĩnh Thạnh.
Ðiều đó
chứng minh rằng lòng người dân yêu nước đối với nhà Tây Sơn dâu bể đổi, ruột
gan chẳng đổi.
Ðến năm
1975, Bắc Nam thống nhất, đền Tây Sơn ngót 15 năm thuộc quyền quản trị của nhân
dân Bình Khê, giao lại cho Nhà nước cách mạng. Ðền được mở rộng thêm, và mỗi
năm lễ Ðống Ða vẫn được tổ chức trọng thể.
THAY LỜI
KẾT
Nhà Tây
Sơn
Khởi
nghĩa năm Tân Mão (1771).
Lấy
thành Quy Nhơn làm căn cứ chiến đấu năm Quý Tỵ (1773).
Lên làm
vua:
+ Thái
Ðức từ Mậu Tuất đến Quý Sửu (1778-1793)
+ Quang
Trung từ Mậu Thân đến Nhâm Tý (1788-1792)
+ Cảnh
Thịnh từ Quý Sửu đến Nhâm Tuất (1793-1802)
Trong 24
năm (1778-1802), nhà Tây Sơn phải đánh Nam dẹp Bắc, không mấy lúc rảnh việc
chiến tranh, nên chưa làm được việc lớn lao về mặt kinh tế, văn hóa, chính trị.
Sau khi
bị diệt vong, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn đời này sang đời khác gần 150 năm
(1802-1945) ra sức phá hủy không còn một dấu tích gì trên lãnh thổ Việt Nam!
Ði ngang
qua di chỉ nhà Tây Sơn, một nhân sĩ Bình Ðịnh là Nguyễn Trọng Trì có bài thơ
Cảm Hoài:
Loạn thế
anh hùng sản xuất đa
Bắc Nam
dược mã dự huy qua
Thập
niên huyết chiến thành hà sự
Không
thính ngư tiều túy tửu ca.
Bài thơ
viết vào khoảng Ðồng Khánh, Thành Thái (1885-1907) triều nhà Nguyễn, cho nên
đậm nét bi quan.
Chớ sao
lại không nên việc gì. Bởi việc gì đó há phải là những cái tồn tại trên mặt
đất, mà chính những cái còn mãi mãi trong lòng người Việt Nam, trong văn chương
Việt Nam.
Ngót 150
năm, nhà Nguyễn cố làm cho người người quên nhà Tây Sơn. Những người yêu nước
vẫn luôn nhớ đến nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn tìm
tòi trong nơi khuất tịch những tài liệu còn dấu cất, để viết về nhà Tây Sơn.
Và tiếng
Anh hùng áo vải, Anh hùng dân tộc mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ,
trên đất nước Việt Nam, từ Nam chí Bắc.
Còn nhà
Nguyễn đã làm được gì?
Có người
bảo rằng đã thống nhất Bắc Nam.
Ðó là
quên rằng chính nhà Tây Sơn đã thống nhất Bắc Nam, rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh
chiếm trên tay
Ðông
Ðịnh Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao phen bể nổi dâu chìm nhà Nguyễn còn để lại
tiếng Rước voi, cõng rắn.
Trăm năm
bia đá thời mòn
Nghìn
năm bia miệng mãi còn trơ trơ.
HẾT
-------------------------------------------
[103]
Câu này thường nghe hát ở nhiều nơi rằng: Ruộng đồng mặc sức chim bay Biển hồ
lai láng mặc tài cá đua. Câu này có tánh cách phổ thông. Câu kia, màu sắc địa
phương đằm thắm. Ðá Hàng là phụ lưu của sông Côn, chạy từ
[104] Hỷ
là tên tộc của Tạo.
[105]
Ông thân tôi làm thông ngôn cho hãng dệt Délignon, tuy là vai em nhưng vẫn được
gọi các cậu gọi bằng thầy vì kính nể.
[106]
Bùi Sơn Nhi là con cháu bà Bùi Thị Xuân và biết rất nhiều về nhà Tây Sơn.
PHỤ LỤC
- Phận
mệnh sách vở viết về nhà Tây Sơn. (Quách Tấn)
- Ảnh
hưởng Tây Sơn trong gia đình họ Quách. (Quách Tấn)
- Trích
thư Nguyễn Hiến Lê về Nhà Tây Sơn.
- Cảm
tưởng sau khi đọc Nhà Tây Sơn. (Nguyễn Ðồng)
- Trích
thư của Giản Chi về Nhà Tây Sơn.
- Trích
thư của Quách Tạo về Nhà Tây Sơn.
PHẬN
MỆNH SÁCH VỞ VIẾT VỀ NHÀ TÂY SƠN
Bà thân
tôi thuộc sử Tây Sơn như các nhà Nho thuộc sử Hán, Ðường. Ðó là nhờ trong Từ
đường họ Quách có hai bộ sử chép tay về nhà Tây Sơn, Tây Sơn Dã sử và Tây Sơn
Liệt truyện.
Hai bộ
sách này là sách cấm. Lúc ông nội tôi còn sống thì ông giữ. Trừ ông thân bà
thân và các bác tôi ra, không ai được mượn đọc. Ông nội tôi qua đời, sách vở
đều dồn về Từ đường. Hai bộ sử ấy cũng được ông bác ở Từ đường là bác Quách Lý
Ðạo cất giấu cẩn thận.
Khoảng
đầu thập niên 1920, sợ sách để lâu ngày bị mối mọt, bác tôi đem tất cả sách
treo trên các giá trong nhà lẫm ra phơi. Tình cờ một ông khách đến chơi. Ông
khách là người quen tên Mạc Viên tục gọi là Xã Suyền ở thôn Kiên Mỹ. Từ đường
họ Quách ở Thuận Nghĩa nằm về phía đông Kiên Mỹ, cho nên Xã Suyền cùng bác tôi
thường qua lại với nhau. Thấy bác tôi đương trở sách, Xã Suyền bèn giúp tay. Trông
thấy hai bộ sử Tây Sơn, Xã Suyền hỏi mượn. Bác tôi tìm lời thoái thác. Xã Suyền
giận dữ nói:
- Ðồ
hung của dữ đó quý báu gì mà làm bộ! Ðoạn bỏ ra về.
Mấy hôm
sau viên tri huyện Bình Khê là Hoàng Yến cỡi ngựa xuống Từ đường họ Quách, 1
tên lính đánh trống cán đi trước, 1 tên lính nữa cầm hèo tua theo sau. Không
biết việc gì mà quan đến nhà, bác tôi hết sức lo sợ. Quan vào nhà, đãi trà
không uống, đãi rượu không uống, nghiêm nghị nói:
- Nhà
ông có hai bộ sử Tây Sơn, tôi muốn mượn xem ít hôm có được chăng? Bác tôi rụng
rời chân tay!
Ðứng
sững không mở miệng được! Quan thét:
- Sao
không đáp? Vào lấy ra đây. Mau! Như một cái máy, bác tôi vào lấy hai bộ sách
ra, hai tay dâng lên, cả mình run lẩy bẩy, áo ướt đầm mồ hôi. Hoàng Yến lấy
sách, không nói không rằng, bước lên ngựa ra về, trống cán đi trước, hèo tua
theo sau, thái độ hách dịch.
Lúc bấy
giờ ông thân tôi làm việc ở hãng dệt Délignon ở Phú Phong. Bác tôi liền đến cầu
cứu. Qua thái độ và hành động của viên tri huyện, ông thân tôi đoán biết rằng y
viên chỉ muốn làm tiền chớ không cố ý làm hại. Sau khi thảo luận cùng bác tôi,
nên lấy của che thân, bác tôi liền đi nhờ tay chuyên môn lo thu xếp công việc.
Quan đòi
2 cây bạc, tức 100 đồng bạc Ðông Dương.Bác tôi phải bán ruộng..., việc mới yên.
Năm
1947, tôi gặp ông Hoàng Yến trong một cuộc hội nghị Liên Hiệp Quốc Dân tại Bình
Khê. Tôi có hỏi
thăm về
hai bộ sử ấy. Ông đáp:
Lâu quá
ai nhớ được. Mà giữ làm gì những thứ sách ấy.Hoàng Yến là một người có học, bên
chữ Hán đậu Phó Bảng, bên chữ Pháp đậu bằng Cao đẳng Tiểu học (Primaire
supérieur), mà không biết quý sách, đối với tôi thật là một điều bất ngờ! Cũng
may không phải là người Bình Ðịnh.
Trong
thập niên 1960, sau ngày Ðền Tây Sơn được nhân dân Bình Khê xây cất xong, Hồ
Hữu Tường ra dự lễ lạc thành, có tìm được một bộ Tây Sơn Dã Sử ở Cây Da Tuy
Phước. Tôi nghe nói, muốn tìm họ Hồ để xem thử phải bộ sách của Từ đường họ
Quách chăng, nhưng chưa có dịp. Không biết bộ sách ấy hiện nay có còn chăng và
nằm vào tay ai. Ngoài hai bộ Tây Sơn Dã Sử, Tây Sơn Liệt Truyện, khuyết danh
tác giả, Bình Ðịnh còn có:
- Cân
Quắc Anh Hùng truyện của cụ Nguyễn Bá Huân.
- Tây
Sơn Văn Thần truyện của cụ Nguyễn Bá Huân.
- Tây
Sơn Lương Tướng truyện của cụ Nguyễn Trọng Trì.
- Tây
Sơn Danh Tướng Chinh Nam truyện của cụ Nguyễn Trọng Trì.
- Ngụy
Triều Chư Tướng truyện của cụ Nguyễn Khuê.
Các tác
giả đều là người trong một nhà ở Vân Sơn huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Cụ
Nguyễn Khuê đậu ba
khoa tú
tài thời Minh Mạng, Thiệu Trị, hay chữ nổi tiếng. Cụ Nguyễn Bá Huân, Nguyễn
Trọng Trì là con, đều học cụ mà thi đậu Cử nhân dưới triều Tự Ðức.
Cụ Tú
Khuê soạn Ngụy Triều Chư Tướng truyện, cụ Nguyễn Trọng Trì (tục gọi là cụ Nghè
Trì, vì cụ có làm việc ở nội các cuối triều Tự Ðức) bảo: Tây Sơn há phải là
ngụy triều hay sao?. Bởi thế cụ mới soạn tập Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện,
chép kỹ hành trạng các tướng tài đã giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp.
Còn Cân
Quắc Anh Hùng Truyện và Tây Sơn Danh Tướng Chinh
Truyện
vì trong tập này không nói đến chiến công của ba tướng họ Bùi, họ Trần, họ Võ.
Những bộ
sách nói trên, sau khi các tác giả qua đời, đều giao cho bà Tú Năm con gái cụ
Nghè Nguyễn Trọng Trì, làm dâu nhà họ Ðào ở Phú Phong (Bình Khê) giữ. Nhưng
thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954), ở Phú Phong thường bị tản cư vì giặc ở
An Khê thường xuống phá rối, bà Tú bèn đem về Vân Sơn những bộ sử ấy và hơn 100
vở tuồng hát bội do cụ Nghè sưu tầm có, do cụ sáng tác có, giao lại cho người
con trai cụ Nghè là ông Tám Chu (em ruột bà Tú) để tránh nạn binh hỏa. Ai
ngờ...! Lúc bấy giờ đương lúc khan giấy hút thuốc, ông Tám Chu, người vô học,
lần lượt xé quấn thuốc và bán cho người quấn thuốc sạch trơn! Tránh lửa binh gặp
lửa thuốc! Lửa tàn bạo cũng như lửa ngu dốt đều là con cháu của lửa Tần.
Nhưng
văn chương chưa đến nỗi vô mệnh: Gần đây có người tìm thấy tại nhà của võ sư Hồ
Ngạnh - một tay vô địch về roi ở Bình Khê, sau khi họ Hồ tạ thế - một hòm sách
chữ Hán, trong đó có một số sách của họ Nguyễn Vân Sơn, như Tây Sơn Văn Thần
truyện, Tây Sơn Lương Tướng truyện... Song sách vừa bước chân đến Quy Nhơn liền
gặp rủi, phải trở vào danh sơn để đợi người tri kỷ.
Hùng khí
Tây Sơn vẫn còn.
Mùa hoa
sen Ất Sửu (1985)
QUÁCH TẤN
ẢNH
HƯỞNG TÂY SƠN TRONG GIA ÐÌNH HỌ QUÁCH
Ông thân
tôi, Quách Phương Xuân, thông Pháp văn (đậu bằng Thành Chung - Primaire
Complémentaire) nhưng chỉ đọc được viết được chữ Hán. Còn bà thân tôi lại giỏi
chữ Hán và chỉ biết đọc biết viết chữ Quốc ngữ. Tánh hai ông bà tương phản. Bà
thân tôi thì nghiêm nghị. Ông thân tôi lại ưa hài hước, mọi việc trên đời không
coi việc gì là quan trọng, cả đến cái CHẾT.
Tôi lại
có 3 ông cậu rất yêu quý ông thân bà thân tôi:
- Cậu
chánh tổng Trần Trác, con trưởng bác ruột của bà thân tôi.
- Cậu tú
Trần Khương, em ruột cậu Chánh.
- Cậu
cửu Ðoàn Nhuận, anh con bà cô ruột của bà thân tôi.
Ba cậu
chỉ hơn kém ông thân tôi một vài tuổi và đều ở Trường Ðịnh. Những lúc rảnh rang
ba cậu thường
đến
chuyện trò cùng hai thân tôi. Vì từ nhỏ đến lớn ba cậu lo học để đi thi, sử chỉ
đọc Hán, Ðường, chớ không thông sử Việt Nam, nhất là sử Tây Sơn, khi nói chuyện
thường bị bà thân tôi đả kích. Nhưng ba cậu tánh hiền lành lại thương em, nên
không bao giờ giận. ột hôm nhân bàn về nhà Tây Sơn, ông thân tôi nói:
- Sự
nghiệp nhà Tây Sơn nay không còn gì hết. Vua Quang Trung còn để lại được tiếng
Anh Hùng Áo Vải.
Vua Thái
Ðức còn để lại được câu nói chí tình Bì oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn.
Lúc ấy
có đủ ba cậu tôi. Tuy ngồi chung với nhau một chiếu, song giữa cậu Chánh và cậu
Tú có điều xích mích nhau vì binh vợ mà đầu mối bất hòa là do mợ Chánh gây ra.
Nhân đó bà thân tôi bèn diễn nôm lời nói của Vua Thái Ðức:
Lỗi lầm
anh vẫn là anh Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em.Vừa dịch vừa khóc. Ông thân tôi
cùng ba cậu cũng khóc theo. Từ đó gia đình cậu Chánh và cậu Tú trở lại hòa
thuận như cũ. à câu Nồi da xáo thịt trở thành câu hát ru con của những bà mẹ
hiền trong thôn Trường Ðịnh.
*
* *
Lại một
hôm, vào khoảng giữa năm 1926, bà thân tôi đòi cắt lưỡi em tôi là Quách Tạo.
guyên năm ấy Tạo vừa đậu Primaire, được bà thân tôi rất chiều. Tạo nằm nơi
giường kê gần cửa sổ nhà dưới, hát nghêu ngao những câu hát trong tuồng Võ Tánh
Tự Thiêu mà nhà trường Quy Nhơn tổ chức để lấy tiền cứu tế. Tạo hát đến câu: ...Lũ
Tây Sơn muông cẩu... thì thình lình nghe tiếng bà thân tôi gọi một cách giận
dữ:
- Hỷ, le
cái lưỡi tao coi[104].Tạo giật mình quay lại. Bà thân tôi đương ngồi vá áo nơi
góc giường, ngừng tay nhìn Tạo một cách nghiêm nghị. Trước đôi mắt nghiêm lẫn
giận của mẹ, Tạo cảm thấy rờn rợn, nhưng không hiểu duyên do, còn đương ngơ
ngác, thì bà xẵng giọng nhắc:
- Le
lưỡi ra.
Tạo vội
ngồi dậy, lè lưỡi. Bà đưa một tay chụp lưỡi Tạo, một tay chụp cây kéo làm cách
chụp lưỡi để cắt.
Tạo hết
hồn vội bước xuống giường. Bà hét:
- Tao
cắt lưỡi mầy đi! Ai dạy mầy hát như vậy? Tạo lúc bấy giờ mới 14 tuổi, sợ quá òa
lên khóc, rồi thưa:
- Ðó là
bài hát cải lương, các anh lớn ở trường hát cứu tế. Bà trừng mắt nói:
- Ai hát
mặc nẫu, mầy không được bắt chước. Tao còn nghe câu hát đó, tao cắt lưỡi đi.
Không hiểu tại sao hát câu đó lại làm cho mẹ giận, nhưng không dám hỏi, mà cũng
không dám hát nữa dù là hát một mình.
Mãi khi
lớn lên, biết rõ lịch sử nước nhà, mới hiểu được tấm lòng tôn kính tuyệt đối
của bà thân tôi cũng như của phụ huynh Bình Khê đối với Tây Sơn Tam Kiệt, và
mới thấy rõ mình đã vô tình và ngu dốt xúc phạm một cách thô bạo như thế nào!
*
* *
Cậu tú
Trần Khương mượn được một quyển sử nói về triều Nguyễn, đọc xong nói chuyện
cùng hai cậu và hai thân tôi. Trong khi nói chuyện, cậu Tú theo sách gọi Gia
Long bằng Ðức Thế Tổ và gọi ba Vua Tây Sơn là Ngụy Tây. Bà thân tôi phản đối:
- Nguyễn
Ánh thì gọi là Nguyễn Ánh, có kính nể lắm thì gọi là Gia Long, chớ sao lại gọi
Ðức Thế Tổ? Còn NGỤY là cái gì? Cậu Tú thất kinh, đương ngồi trên phản liền
nhảy xuống đất chạy bụm miệng bà thân tôi:
- Vách
có tai, ở tù mọt gông, cô ơi! Thái độ cậu tôi làm cho bà thân tôi bật cười. Ông
thân tôi cũng cười:
- Nhà
tôi tuổi tý mà lại gan hùm, còn anh tú tên Khương nên thích yên ổn. Như thế là
vui. Nhân nhà tôi đã hỏi Ngụy là gì, thì chúng ta thử bàn xem. Ba Vua Tây Sơn
có phải là Ngụy chăng.
Cậu cửu
Ðoàn Nhuận nói:
- Ðược
làm vua thua làm giặc. Giặc là Ngụy. Nhà Nguyễn được, nhà Tây Sơn thua, thì nhà
Nguyễn gọi nhà Tây Sơn là Ngụy là phải rồi. Bà thân tôi bẻ:
- Chúng
ta có phải nhà Nguyễn đâu mà cũng gọi nhà Tây Sơn là Ngụy Tây? Cậu chánh Trần
Trác nói:
- Thì ăn
cây nào rào cây nấy chứ. Bà thân tôi đáp:
- Chúng
ta có ăn cây nào của nhà Nguyễn đâu mà lo rào? Cậu Chánh có ý bất bình:
- Ðất
của Vua chùa của làng, cây nào mọc trên đất này lại không phải là cây nhà
Nguyễn . Ông thân tôi
giảng
hòa:
- Bàn để
cho vỡ lẽ chớ không phải để tranh hơn thua. Chúng ta hãy dựa vào sách vở của cố
nhân để lại
mà bàn
cho ra chân ngụy. Cậu tú Khương nói:
- Thầy
Thông[105] luận như vậy rất hợp ý tôi. Xin thầy nói tiếp. Cậu Cửu, cậu Chánh
cũng biểu đồng. Ông
thân tôi
tiếp:
- Các sử
gia Tàu cũng như ta chia các nhà vua ra Chính thống và Ngụy triều. Nhà nào có
công đánh giặc dựng nước, hoặc được chính thức kế truyền, được thần dân đều
tùng phục, thì gọi là Chính thống. Còn nhà nào làm tôi cướp ngôi vua, hay xưng
đế xưng vương ở nơi núi non, rồikéo quân đánh chiếm nước..., thì gọi là Ngụy
triều. Nhà Ðinh, nhà Hậu Lê đánh giặc dựng nghiệp, nhà Lý, nhà Trần được truyền
ngôi, sử gọi là Chính thống. Họ Hồ họ Mạc soán đoạt ngôi nhà Trần, nhà Lê thì
gọi là Ngụy triều. Còn nhà Tây Sơn diệt bọn tham ô của Trịnh, Nguyễn để cứu
dân, đánh đuổi quân Xiêm trong Nam, đánh đuổi quân Tàu ngoài Bắc, cứu nước ra
khỏi nạn xâm lăng, rồi lên làm vua, thống nhất đất nước, từ Bắc đến Nam đều
thần phục. Như thế sao gọi là Ngụy? Ðến như Nguyễn Phúc Ánh vì quyền lợi riêng,
đã rước voi Xiêm, rồi cõng rắn Pháp về dày xéo quê cha đất tổ. Như thế đối với
dân tộc Việt
*
* *
- Bà
thân tôi hết lòng kính phục Vua Quang Trung, nhưng có lần nói cùng ông thân tôi
và ba cậu:
- Vua
Quang Trung có công lớn trong việc dựng nước, song cũng có phần trách nhiệm
trong việc mất nước. Ba cậu tôi, cả ông thân tôi đều ngạc nhiên, vì xưa nay
chưa nghe ai nói. Bà thân tôi tiếp:
- Nếu
Vua Quang Trung đừng nghe lời bà họ Bùi truất ngôi Thái tử của con trưởng dòng
đích là Nguyễn Quang Thùy đã được Vua Càn Long phong Thế tử, thì ngôi cửu ngũ
đâu có lọt vào tay Nguyễn Quang Toản con dòng kế, mới 13 tuổi, khiến sanh việc
lủng củng trong triều, làm cho thế nước mỗi ngày một yếu. Tiếp đến việc cháu
giết bác để cướp đất đai làm cho môi hở răng lạnh. Ông thân tôi khen là một
khám phá mới.
Nhưng ba
cậu tôi nói:
- Mất
nước là cơ trời.Nguyễn Quang Thùy lên ngôi chưa chắc đã giữ nước khỏi lọt vào
tay nhà Nguyễn. Bà thân tôi cãi:
- Ý dân
là ý trời. Nguyễn Quang Toản quá trẻ không phân được phải quấy, nghe lời bọn
nịnh thần làm mất lòng dân, nên khi Phúc Ánh đánh mạnh, phía Tây Sơn không được
dân ủng hộ, tức là Trời không thương. Còn Nguyễn Quang Thùy khi Vua Quang Trung
băng thì đã 23, 24 tuổi và đã từng tham dự việc quân việc dân. Lại là người có
đức. Bằng cớ:
+ Khi có
người cho biết rằng vua cha đã đưa em mình lên ngôi Thái tử thay mình thì thản
nhiên đáp: Tôi lên ngôi hay em tôi lên ngôi cũng thế thôi. miễn sao nước thạnh
vượng, nhà được vững bền là được. Bá Di, Thúc Tề ngày xưa cũng không hơn.
+ Khi
vua cha thăng hà, phò vua em vẫn hết lòng hết sức.
Ðến lúc
sa cơ thì tuẫn tiết chớ không như Nguyễn Quang Toản cam chịu nhục dưới tay quân
thù. Nếu Vua Quang Trung để cho Nguyễn Quang Thùy nối ngôi thì Bùi Ðắc Tuyên
đâu có cơ hội làm mưa làm gió, đâu có việc công thần sát hại lẫn nhau, đâu có
việc Lê Trung bị giết oan, Lê Chất bỏ Tây Sơn đem những cơ mật trong thủy quân
vào nói hết cho Phúc Ánh biết, đâu có chuyện bọn tham quan ô lại thừa cơ cấp
trên lộn xộn mà ra tay bóc lột nhân dân...
Cậu Tú
và cậu Cửu mất trước ông thân tôi năm 1923, trước sau mấy tháng. Khi tôi khôn
lớn, bà thân tôi thường đem sự tích nhà Tây Sơn kể cho tôi và em tôi nghe. Và
sau khi bà thân tôi qua đời (1928), gặp tôi cậu Chánh và người em rể của cậu là
dượng Bùi Sơn Nhi ở thôn Xuân Hòa (Bình Khê) thường nhắc nhở đến bà và hết lời
ca tụng[106]. Những lời bình luận của bà thân tôi về nhà Tây Sơn thường được
cậu Trần Trác và dượng Bùi Sơn Nhi đem ra làm giai thoại.
Mùa hoa
sen Ất Sửu (1985)
QUÁCH
TẤN
Kỳ Ðồng
14-8-84
Mới cách
đây 4-5 ngày, tôi nhận được tập Nhà Tây Sơn, trên 10 bài H.P.N.H, 1 bức thư
chung cho tôi và Giản Chi với một bức thư riêng cho G.C.... Xin thưa anh rõ kẻo
anh mong: Tôi ở đây đã tháng rưỡi, uống thuốc Tây thuốc Bắc mà không thấy khá:
Cứ trị được chứng này nó lại sanh chứng khác, ngủ kém, ngại vận động, cứ suốt
ngày nằm dài, phải tạ khách vì nói chuyện lâu thì mệt... Không biết tôi còn
phải trị bao lâu nữa.
Nhà tôi
thì cũng phải đi Y Dược Học Dân Tộc để họ trị cho chứng huyết áp cao... Nhà thì
không có ai mà hai vợ chồng đồng đau, thật lúng túng... Ðau thì đau, tôi cũng
ráng đọc cho hết
- nếu
không thì không yên lòng
- những
tập của anh. Về những bài H.P.N.H. tôi chẳng thêm ý gì cả. Về tập Tây Sơn, tôi
có đánh dấu bằng
viết chì
những chỗ đánh máy lầm, sót, chép lầm chữ Hán, và những chữ sai chính tả.
Ngoài ra
tôi góp ý với anh mấy điểm này:
1. Bài
tựa anh vẫn giữ trọn những ý của anh, nhưng để cậu Giao viết, ký tên thì hơn.
2. Có
nhiều bản đồ vẽ sông mà không đề tên. Ví dụ huyện Tuy Viễn, sông Côn, mà tôi
không kiếm ra được
sông
Côn.
3. Trước
khi Nguyễn Nhạc ra quân có bài Cáo với quốc dân hoặc bài hịch kể tội chúa
Nguyễn không? Bài đó nhờ ông giáo Hiến làm cho được mà.
4. Cần
giải thích một số chữ thổ âm như Thao Càn chẳng hạn.
5. Hai
bài văn tế dài quá rồi, không cần chép thêm hai bài ngắn nữa.
6. Trang
cuối, chê nhà Nguyễn đúng đấy, nhưng nên nương tay với họ một chút, đừng đạp
thêm nữa, vì ở
trên đã
đập họ nhiều quá rồi.
Tập Tây
Sơn này viết kỹ lắm, nhất là:
- Nguồn
gốc Tây Sơn - Chương 1
- Anh
hùng nghĩa sĩ phò tá Tây Sơn - Chương 4
- Cảnh
nứt rạn trong nhà Tây Sơn viết rất rõ
- Chương
10
- Quang
Trung đại phá quân Thanh đọc thấy hồi hộp và khoái
- Chương
13
- Trần
Quang Diệu đánh thành Bình Ðịnh - Chương 20
Lòng dân
đối với nhà Tây Sơn - Chương cuối Một đặc điểm nữa là có nhiều bản đồ. Người
viết có flamme. Cảm tưởng của tôi là họ Quách ở Bình Ðịnh gần được như họ
Tô ở Tứ
Xuyên (Trung Hoa). Họ Tô có 4 người nổi tiếng: Cha, 2 con trai và 1 con gái
(Tiểu Muội). Họ Quách cũng có 4 nhà văn, nhà thơ: Anh, ông Tạo, cậu Giao và
cháu Mộng Hoa. Một nhà 4 người có văn tài, hiếm đấy.
Mừng
rằng cậu Giao hoàn thành một tác phẩm có giá trị. Chỉ buồn một nỗi là bao giờ
mới in được. còn 4-5 tập nữa chứ?...
NGUYỄN
HIẾN LÊ
(Thư gửi
Quách Tấn, Quách Giao trích lục)
CẢM
TƯỞNG SAU KHI ÐỌC NHÀ TÂY SƠN
Hơn mười
năm nay, từ ngày tuổi lên trên nhân sinh thất thập, tôi thường buâng khuâng lo
nghĩ đến lịch sử nhà Tây Sơn. Tôi sanh trưởng trên đất Tây Sơn. Từ lúc thiếu
niên, tôi đã từng được nghe tiên nghiêm và các vị phụ lão có uy danh tỉnh Bình
Ðịnh cho nghe, một cách tỷ mỷ sự tích nhà Tây Sơn, hành trạng các anh hùng
nghĩa sĩ của tỉnh nhà ra phò tá ba vị anh hùng họ Nguyễn. Có nhiều sự kiện
không thấy các quyển sử hành thế ghi chép, hoặc có ghi chép mà ghi chép trái
ngược. Các cụ thường phàn nàn về việc thiếu sót và sai lạc này, song không đủ
điều kiện để bổ khuyết, đính chính bằng bút mực. Tôi cũng thế. Người trước đã
qua, lớp người trên 70 tuổi cũng lần lượt ra đi kẻ sau người trước. Một khi đã
ra đi hết, thì những điều được cha ông truyền lại cũng sẽ tiêu tan lần lần. Lớp
thanh niên hậu học, muốn tìm, tìm đâu ra? Vì vậy mà tôi đâm lo ngại, lắm đêm
không ngủ được.
May sao
cháu tôi Quách Giao, đã đỡ được gánh nặng cho lòng tôi. Ðọc đi đọc lại tập nhà
Tây Sơn của cháu, tôi hết sức vui mừng! Những sự kiện chính xác có sẵn trong
các lịch sử thông dụng xưa nay, đã được cháu Giao thuật lại minh bạch. Những
câu chuyện truyền khẩu, những đức tính tài năng, hành trạng của các vị anh hùng
nghĩa sĩ phò tá nhà Tây Sơn đều được ghi chép kỹ lưỡng. Phối kiểm với những
điều tôi đã được nghe, tôi nhận thấy không có gì để thêm hay bớt, hay sửa chữa.
Ðể xác minh một lần nữa, tôi đã đi đến các huyện trong tỉnh, nhưng không tìm
thêm được gì khác nữa, chỉ biết được rằng một số nhân vật đời Tây Sơn vẫn còn
hậu duệ:
- Họ Võ
ở Phú Phong, Bình Khê, tức xã Bình Phú huyện Tây Sơn ngày nay, còn Võ Cán, Võ
Thừa Khuông, Võ Thừa Ân ở Phú Mỹ.
- Họ Bùi
ở Xuân Hòa (Bình Khê, Tây Sơn) còn Bùi Gia Tưởng, Bùi Thúc Ðình.
- Họ
Ðặng ở Dõng Hòa (Bình Thành, Tây Sơn) còn Ðặng Phu, Ðặng Mân.
- Họ
Ðinh ở Bình Nghi (Tây Sơn) còn Ðinh Hiên.
- Họ Lê
ở Kiên Dõng (Bình Thành, Tây Sơn) trước kia có người cháu 3 đời của tướng Lê
Hưng, tục gọi là
Ông Dẻo.
Ông Dẻo võ giỏi, sức mạnh phi thường. Xuống thành Bình Ðịnh thi võ, 2 tay xách
2 quả tạ, đi
quanh
thành 3 vòng, rồi ném hai quả tạ tới ngoài mức định đến hàng trăm thước. Nhưng
thi mới nửa chừng cáo bệnh bỏ cuộc. Ðến đời ông Dẻo thì họ Lê đã dời nhà xuống
Kiên Ngãi cách Kiên Dõng 1 thôn, thôn Kiên Luông. Nhà nghèo, ông Dẻo làm nghề
đốn củi, chẻ hom, đương thúng rổ mướn cho các nhà giàu có ở các làng lân cận.
Những khi vót nan chẻ hom, ông Dẻo cặp nách một tảng đá xanh vừa dài vừa rộng,
đặt dưới bóng cây để ngồi làm việc và để nằm nghỉ ngơi. Cả đời không trọng vọng
ai mà cũng không xem thường ai. Với ai cũng nói cười vui vẻ. Ông có người cháu
nội tên Tấn, không biết võ nhưng sức khỏe không kém ông. Ông Tấn rất ghét trộm.
Hễ nghe ở đâu la ăn trộm thì ông liền xách gậy chạy đến tiếp ứng. Kẻ trộm rất
căm. Một đêm tối trời, nghe làng bên cạnh hô hoán, ông Tấn vội chạy tới thì bị
mươi người vây đánh chí tử. Từ ấy mang bệnh thổ huyết mà chết. Nếu ông còn sống
đến nay thì tuổi chừng trên trăm. Hiện nay không còn con cháu. Ðó là những nhân
vật ở Bình Khê.
Còn các
vị ở các huyện khác như:
- Ngô
Văn Sở ở Bình Thạnh, huyện Tuy Phước, hiện còn Ngô Văn Liêm.
- Ðặng
Văn Long ở Cây Da (Tuy Phước) còn Ðặng Hiếu Khẩn, Ðặng Hiếu Trưng.
- Nguyễn
Văn Lộc ở Kỳ Sơn không biết có phải là tiền hiền của họ Nguyễn ở Phụng Sơn
chăng, vì chưa
được xem
gia phả.
- Trần
Quang Diệu ở Hoài Ân hiện còn phần mộ của các bậc tiền bối, nhưng không còn con
cháu, hay là còn mà con cháu không biết đến ông tổ cao đời.
- La
Xuân Kiều ở Phù Cát chỉ còn để lại bài thơ Vịnh Hòn Trâu Nằm ở ngoài cửa Phù
Ly.
Các nhân
vật khác ở trong tỉnh Bình Ðịnh và ở các tỉnh bạn, tôi không tìm được, không
biết đâu tìm ra con cháu.
Con cháu
của các anh hùng hào kiệt nhà Tây Sơn hiện còn và tôi được biết, không có gì
đặc biệt đáng ghi.
Vì nạn
trả thù cho chín đời của Gia Long mà những ngoại truyện, dã sử về nhà Tây Sơn,
những gia phả của các họ có liên quan đến nhà Tây Sơn đều bị tiêu hủy. Những mồ
mả thoát khỏi họa quật phá hầu hết đã thành mả hoang, vì con cháu hoặc bỏ làng
đi lánh nạn phương xa, hoặc sợ liên lụy không dám nhìn nhận, lâu ngày trở thành
mồ vô chủ, không còn biết là của ai.
Do đó
muốn tìm bằng chứng cụ thể cho lời xưa còn truyền lại, thật là thiên nan vạn
nan! Những người bóng xế ngàn dâu chúng tôi, nghe truyền sao, truyền lại vậy.
Cháu Quách Giao đã ghi chép trung thực mọi chi tiết cần thiết. Cháu lại ra công
nghiên cứu thêm những tài liệu đã thu thập được để vừa chứng minh vừa phong phú
cho những gì cháu đã nghe truyền lại, kể thật là công phu. Tập văn này biết đâu
lại chẳng giúp cho các nhà sử học chuyên môn, khám phá thêm những điều mới mẻ,
chính xác, để bổ sung, hiệu đính cho những quyển sử đã lưu hành về nhà Tây Sơn.
Viết tại
thôn Phú Hiệp, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn Mùa thu năm Giáp Tý (tháng 8 năm
1984)
NGUYỄN
ÐỒNG
(Quách
Giao sao lục)
Khánh
Hội, ngày 14-9-1984
Kính gởi
anh Quách Trường Xuyên, Thư 23-8-84 (mang tay) của Anh, tôi đã nhận được, với
đầu đủ những chương bổ sung H.P.N.H (II). Xin báo tin để Anh mừng, tôi đọc hôm
đực, hôm cái, nhưng cũng đã xong tất cả những gì Anh gởi cho tôi, qua Lộc Ðình
lần trước, và cụ Ðồng hôm qua... Lộc Ðình đọc Nhà Tây Sơn của Q.G. rất kỹ,
không sót chữ nào, những lỗi chính tả đều được đánh dấu ở ngoài lề hết. Duy
phần chữ Hán thì tôi phải sửa thêm. Có bài thơ viết sai cả mười mấy chữ, -
những chữ tôi còn ngờ chưa kể, nay mai tôi sẽ relever những chữ lầm ấy (Việt và
Hán) thành một bản gởi ra Anh. Công việc này mất vài ngày, chứ không hơn, nhưng
xin cho đợi hứng.
Nhà Tây
Sơn của Quách Giao có giá trị lớn. Nhiều chi tiết mới về dòng dõi anh em Vua
Quang Trung. Các tướng tá giúp vị anh hùng này cũng được truyền thần một cách
hết sức linh động. Nguyên nhân bất hòa giữa Vua Thái Ðức và Bắc Bình Vương xem
ra hữu lý hơn nguyên nhân đã được ghi trong chính sử. Ðiều đáng chú ý nhất là
ngọn bút của nhà chép sử trẻ này dạt dào nhiệt tình, đã gây được cảm xúc mạnh
nơi người đọc, làm cho người đọc yêu mặn nồng hơn mà ghét cũng ghét cay ghét
đắng hơn: Yêu những khí phách hào hùng, những tấm lòng thẳng ngay, chung
thủy..., ghét những thói gian ngoan, hèn nhát, những hành động tàn bạo, khát
máu, độc ác hơn cả giống sài lang. Tác giả thuật sự cũng rất giỏi, khiến người
đọc có lúc hồi hộp như đọc La Quán Trung hay Kim Dung. Ngần ấy thiết tưởng đủ
rồi, chả cần cầu viện đến văn phong tiểu thuyết (bắt gặp trong một vài đoạn, tỉ
như Quang cảnh thành Quy Nhơn lúc bấy giờ vừa bi vừa hùng - Ðó là ngày 24 tháng
5 năm Tân Dậu (1801)... Bóng chiều tràn ngập núi sông...) vân vân...
Sau
chuyện Sử, bây giờ xin trở lại chuyện Thơ.
Ðọc
những công trình biên khảo về Thơ của Anh, thứ nhất là Thơ Ðường và Hứng Phấn
Nâng Hương (I và II), tôi thật thán phục anh về công phu thi học và về thái độ
cẩn nghiêm của Anh trong việc áp dụng Niêm luật thơ Ðường. Ðến khi đọc chương
41/A, tôi cũng thán phục ngọn bút phê bình thơ Ðường rất tinh tế của anh Quách
Trường Sa. Tôi e rằng người mới học Thơ, có thể đọc các anh rồi, đâm hoảng,
không dám dấn thân nữa...
GIẢN CHI
Quách
Giao trích sao.
Hà Nội,
23-8-1984 Kính gởi anh chị, Bạn của cháu Ngọc đã mang đến tập Nhà Tây Sơn của
Giao viết và các bài viết lại Hứng Phấn Nâng Hương, đúng như trong thư anh ghi
rõ. Tôi đã đóng những trang mới ấy thay vào các trang cũ. Những bài mới, những
trang mới viết lại, rõ ràng hơn hẳn và có giá trị tư liệu cũng như văn học cao.
Tập Nhà
Tây Sơn viết rất hấp dẫn. Tôi mới đọc qua một lần, thấy có một số chỗ cần trao
đổi thêm. Có nhiều điểm rất cụ thể, nhận xét rất chính xác, như vấn đề bất hòa
giữa N. Nhạc, N. Huệ, nguyên nhân..., có những việc rất lý thú, rất đau xót,
nhất là cuộc đời Diệu, Xuân, Dũng, Long... v.v...
Tôi chưa
có thể viết lời góp ý ngay, mà cần phải đọc lại bằng lý trí (vì nay mới đọc
bằng tình cảm) nhưng có hai vấn đề cần gợi ý trước:
1.Ðúng
như anh nói trong bài giới thiệu: Tập này không thể gọi là một quyền lịch sử vì
tài liệu một số lớn
chưa
được phối kiểm một cách chặt chẽ. Ðó là khoa học. Tuy nhiên nó lại bao gồm rất
nhiều tư liệu chính xác mà chính sử không biết hoặc không nêu, hoặc xuyên tạc,
hoặc nhầm lẫn. Nó chính xác hơn vì nó được bảo tàng trong ký ức của nhân dân
địa phương, nó còn dấu vết tại địa phương. Vì vậy tôi đề nghị anh nên nói rõ hơn
trong Tựa, đính chính sai lầm của sách cũ, cũng như các suy đoán theo định kiến
của các nhà sử mới.
2. Nói
về Nhà Tây Sơn mà rất ít nói những tình cảm Tây Sơn để lại, trong nhân dân địa
phương cho đến nay, là một điều thiếu sót. Hình như không phải chỉ Kiên Mỹ thờ
ba Vua mà ngay cả ở Vân Tường cũng có việc làm lễ hàng năm.
Cần hỏi
lại anh Ðồng xem có biết được bài văn tế mà lý trưởng Kiên Mỹ, đời này sang đời
khác, truyền khẩu bí mật cho nhau để đọc khi tế ba Vua. Bài văn tế ấy cho đến
đời Xã Suyền chết 1947 mang theo xuống trình Quang Trung. Ðược bài văn ấy là
một cống hiến lớn cho lịch sử.
Việc 2
cây Ké, Cầy treo cờ làm lễ xuất quân ở chân đèo An Khê được nhân dân gìn giữ
làm vật lưu niệm, mãi đến thời Mỹ mới bị ngụy chặt phá..., cũng đẹp và có ích.
Văn của Giao viết giản dị mà hấp dẫn, rành rọt. Có một số địa danh, sự việc cần
được bàn kỹ lại.
Lý Tài,
Tập Ðình là hai tên tướng giặc Tàu Ô về giúp Tây Sơn, có đóng quân tại Phú Yên,
nơi đến nay vẫn còn dấu: Núi Trại Khách ở Ðồng Xuân. Ở đó cũng lưu lại một câu
hát đưa em:
- Gió
đưa ông đội về Tàu Bà đội ở lại xuống bàu bắt cua Bắt cua làm mắm cho chua Gởi
về ông đội khỏi mua tốn tiền. Ðó là sau khi hai tướng tàu bỏ trốn về Hải
SÁCH
THAM KHẢO
1. Ðại
Nam chính biên liệt truyện Nguyễn Phương dịch
2. Hoàng
Lê Nhất Thống Chí Ngô Tất Tố dịch
3. Ðại
Nam Nhất Thống Chí Nguyễn Tạo dịch
4. Tây
Sơn lương tướng truyện Nguyễn Trọng Trì
5. Tây
Sơn văn thần truyện Nguyễn Bá Huân
6.
Nguyễn triều long hưng sự tích Trần Văn Tuân
7. Việt
8. Dụ Am
Văn Tập PhanHuy Ích
9. Việt
Nam sử lược Trần Trọng Kim
10.
Quang Trung Nguyễn Huệ Hoa Bằng
11. Vua
Quang Trung Phan Trần Chúc
12.
Triều Tây Sơn Phan Trần Chúc
13. La
Sơn Phu Tử Hoàng Xuân Hãn
14. Lịch
sử Tây Sơn (bản thảo) Bùi Văn Lăng
15. Hùng
khí Tây Sơn Lam Giang
16. Sài
Gòn xưa và nay Vương Hồng Sến
17. Lịch
sử Việt Nam NXB Văn Hóa Hà Nội
18.
Thiên tài quân sự Nguyễn Huệ NXB.Quân đội nhân dân
19. Một
số trận quyết chiến chiến lược NXB. Quân đội nhân dân
20. Nhân
vật Bình Ðịnh Ðặng Quý Ðịch
21.
Histoire de I Indochine Lasson
22.
Nouvelle des Missions EtrangèresM.dela Bissachères
23.
Bulletin de la Sté des Etudes Indochinoises
24. Luận
án về Nguyễn Huệ 1753-1788 Trần Gia Phụng
25. Tập
san Sử Ðịa đặc khảo về Quang Trung (tập 9-10) năm 1968
26. Tây
Sơn nhân vật chí Ðinh Sĩ An
27. Nước
non Bình Ðịnh Quách Tấn.
TÁC PHẨM
CỦA QUÁCH TẤN
ÐÃ XUẤT
BẢN
Thơ:
1. Một
Tấm Lòng 1939
2. Mùa
Cổ Ðiển 1941 - Tái bản 1960
3. Ðọng
Bóng Chiều 1965
4. Mộng
Ngân Sơn 1966
5. Giọt
trăng 1973
6. Trăng
Hoàng Hôn 1999
7. Tố
Như Thi (thơ dịch) 1973 - Tái bản 1995
8. Lữ
Ðường Thi (thơ dịch) 2000
9. Tuyển
thơ 2002
10. Vui
Với Trẻ Em 1994
Văn:
1. Trăng
Ma Lầu Việt 1942 - Tái bản 2002
2. Nghìn
lẻ một đêm (4 tập) 1958 - Tái bản 1994
3. Nước
Non Bình Ðịnh 1968 - Tái bản 1999
4. Xứ
Trầm Hương 1969 - Tái bản 1992; 2002
5. Ðời
Bích Khê (hồi ký) 1971
6. Ðôi
nét về Hàn Mặc Tử (hồi ký) 1988
7. Họ
Nguyễn thôn Vân Sơn 1988
8. Nhà
Tây Sơn (+ Quách Giao) 1988 - Tái bản 1998; 2000; 2001
9. Nét
Bút Giai Nhân 1998
10. Bước
lãng du 1998
11. Thi
Pháp Thơ Ðường 1998
12. Bóng
Ngày Qua (Ðời Văn Chương) 1999
13.
Trường Xuyên Thi Thoại 2000
14. Bóng
Ngày Qua (Bàn Thành Tứ Hữu) 2001
15. Võ
Nhân Bình Ðịnh (+ Quách Giao) 2001
16.
Những Tấm Gương Xưa 2001
CHƯA
XUẤT BẢN
Thơ:
1. Tiếng
Vàng Khô Thơ thất ngôn
2. Nhánh
Lục Thơ lục bát
3. Mây
Cổ Tháp Thơ ngũ ngôn
4. Cánh
Chim Thu Thơ ngũ ngôn
5. Vị La
Phù Thơ ngẫu chiếm
6. Phấn
Bướm Còn Vương Thơ thất ngôn
7. Nửa
Rừng Trăng Lạnh Thơ lục bát
8. Giàn
Hoa Lý Thơ lục bát
9. Trăm
Thiên Ðường Luật Thơ thất ngôn
10. Móc
Ðọng Tàu Cau Thơ thất ngôn
11. Áo
Ðắp Tâm Tư Thơ thất ngôn
12. Xuân
Còn Rơi Rớt Thơ thất ngôn
13. Ngục
Trung Nhật Ký Thơ dịch
14. Bóng
Hương Xưa (Việt Nam Hán Thi) Thơ dịch
15. Thơ
Biền ngẫu Văn tế, Văn bia
Văn:
1. Hương
Vườn Cũ Thi thoại
2. Trong
Vườn Hoa Thơ Thi thoại
3. Những
Bức Thư Thơ (2 Tập) Thi thoại
4. Hứng
Phấn Nâng Hương Thi thoại
5. Cảnh
Cũ Còn Ðây Du ký
6. Nghìn
Lẻ Một Ðêm (4 Tập Tiếp) Thi pháp
8. Bát
Canh Tập Tàn Bút ký
9. Tà Bá
Nạp Bút ký
10.
Những Giấc Mộng Không Mê Bút ký
11.
Phong Trào Cần Vương Tỉnh Khánh Hòa Khảo cứu
12. 40
Năm Văn Học Khánh Hòa Khảo cứu
13. Bóng
ngày qua (10 tập) Hồi ký
VIẾT
CHUNG VỚI QUÁCH GIAO
1. Nhà
Tây Sơn
2. Võ
Nhân Bình Ðịnh
3. Hát
Bội Bình Ðịnh
4. Thi
Nhân Bình Ðịnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét