Chuyện Địa Lý: Giai thọai về ngôi mộ nhà họ “Ngô Đình” tại huyện Lệ Thủy, tình Quảng Bình
Tác giả: Tạp chí Khoa Học Huyền Bí số 1B(75) ngày 20 tháng 1-1975
Khỏang cuối thế kỷ 19 đời vua Tự Đức tại làng
Đại Phong (tục danh Đợi), huyện Phong Lộc (sau đổi thành huyện Lệ
Thủy), tỉnh Quảng Bình, có một nông dân đến ngụ cư trong làng,...vợ chết
sớm, chỉ có một cậu con trai nhỏ độ 6 tuổi, hằng ngày làm mướn sinh
sống. Ban hội tề ở đình làng này cắt cử ông đến phục dịch ở đình làng
mỗi khi có hội họp hoặc tế lể.
Sau đó, trong một cơn bệnh nặng, ông qua đời,
được ban hội tề làng cử 4 dân đinh đưa thi hài ống đến an táng lại “Bến
Đẻ” một vùng rừng núi ngược dòng sông Kiến Giang cách làng Đại Phong độ
3 cây số ngàn.
Vì mới đến ngụ cư, không có địa vị trong
làng, không thân thuộc, lại quá nghèo, nên công việc tổ chức mai táng
cũng chỉ đơn sơ và vội vàng.
Ngôi mộ
Khi 4 dân đinh chèo thuyền đưa thi hài ông
đến “Bến Đẻ” thì trời đã về chiều, mà nơi này có tiếng nhiều cọp, nên
khi dân đinh đang khiêng thi hài ông từ bến đậu thuyền tiến vào núi,
bỗng có nhiều tiếng cọp gầm gừ quanh vùng. Dân đinh sợ quá vội hạ xuống
cùng nhau hối hả đào một huyệt cạnh đường mòn, nhưng đào chưa xong thì
tiếng gầm thét của chúa sơn lâm càng rền vang đâu đó, 4 dân đinh khiếp
đảm liền đặt thi hài ông xuống huyệt còn quá cạn rồi lấp đất qua loa,
đọan vội vã cùng nhau co giò chạy về bến xuống thuyền chèo về nhà, định
bụng sáng hôm sau sẽ trở lại sửa sang lại chu đáo hơn kẻo tội nghiệp
người quá cố.
Qua hôm sau, số dân đinh này chèo thuyền trở
lại, thì lạ thay, ngôi mộ chiều hôm trước mới lấp qua loa chưa thành
nấm, nay đã hóa thành một gò đất tròn trịa do mối tạo lên lớn bằng một
căn nhà. Các bậc lão thành trong làng và lân cận nghe tin, lũ lượt đến
xem và đều cho là ngôi mộ thiên táng.
Nhưng rồi câu chuyện cũng theo thời gian đi
và quên lãng, không ai lưu tâm bàn tán gì đến nữa. Mỗi lần ai đi ngang
qua ngôi mộ này cũng không còn để ý đến một gò đất cây cỏ um tùm vì
không người viếng thăm săn sóc từ năm này qua năm khác.
Cụ Ngô Đình Khả
Ông cụ qua đời, để lại cậu con trai côi cút
mới lên 8, mặt mũi rất khôi ngô dĩnh ngộ, nên được vị cố đạo Thiên Chúa ở
xứ đạo Mỹ Phước cạnh làng Đại Phong nhận đem về nuôi cho ăn học. Cậu bé
đó là cụ Ngô Đình Khả sau này đó.
Sau này, cậu bé được cho ra Hà Nội học, thi
đậu tốt nghiệp trường thông ngôn Đông Pháp, được bổ làm thông phán tại
tòa Thống sứ Bắc Kỳ tại Hà Nội (trường này giống học viện hành chánh bây
giờ).
Theo thông lệ xưa, hễ ai được nhà nước bảo hộ
hay Nam triều bộ nhậm chức tước gì thì đều được nhà nước, thông tư về
nguyên quán và ban hội tề làng phải tổ chức lên tỉnh rước sắc bằng về
làng, nhằm làm tăng vinh dự cho người được bổ nhậm, thường gọi là “tư án
quán”. Tại làng, người nào có phẩm hàm cao thì được làng cấp phần ruộng
tốt giao cho thanh nhân canh tác.
Nhưng khi được nhà nước bảo hộ ở Hà Nội tư án
quán, tòa công sứ và dinh tuần vũ tỉnh Quảng Bình báo cho làng Đại
Phong lên tỉnh rước sắc bằng cụ Khả, thì ban hội tề làng này từ khước
viện lý do làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả cả, bởi vì nếu
nhận có, tất cụ Ngô Đình Khả sẽ là vị tiên chỉ của làng này, trong khi
làng này chỉ có những quan nhỏ cửu, bát phẩm mà thôi.
Do sự khước từ trên, cu Ngô Đình Khả giận
làng Đại Phong, sau đó cụ kết hôn với một thiếu nữ trâm anh ở làng Phú
Cam gần kinh đô Huế và nhận làm công dân của làng này.
Sau này cụ Ngô Đình Khả chuyển cái ngạch Nam
triều rồi lần lượt thăng tiến trên đường họan lộ, đến triều vua Thành
Thái ngài thăng chức Thượng thơ bộ Học, Hiệp ta Đại học sĩ.
Dân làng Đại Phong lúc bấy giờ hối tiếc việc
không thừa tiếp một công dân anh tài vẻ vang cho làng xóm, nên đã cùng
nhau vào Huế xin tạ lỗi và thỉnh cầu được tiếp nhận cụ về làng, được cụ
chấp thuận. từ đó, cụ là công dân làng Đại Phong. Cụ đã góp công xây
dựng ngôi đình làng Đợi to lớn và ngôi nhà thờ nguy nga hiện nay vẫn
còn.
Gái và trai
Cụ Ngô Đình Khả sinh được 2 gái và 6 trai:
hai gái là bà cụ Cả Lễ và bà cụ Ấm, 6 trai là cụ nguyên tổng đốc tỉnh
Quảng Nam Ngô Đình Khôi, Đức tổng Giám mục Ngô đình Thục, nguyên tổng
thống đệ nhứt VNCH Ngô Đình Diệm, nguyên cố vấn Ngô Đình Nhu, nguyên đại
sứ VNCH tại Anh quốc Ngô Đình Luyện và nguyên cố vấn cao nguyên trung
nguyên Trung phần Ngô Đình Cẩn.
Năm 1936, cụ bà Ngô Đình Khả cùng các con gồm
các ông Ngô Đình Khôi, Đức cha Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình
Nhu và Ngô Đình Cẩn (vắng mặt ông Ngô Đình Luyện có lẽ du học ngọai
quốc) về làng Đại Phong thăm làng. Trước khi về làng, cụ bà và các con
đến Bến Đẻ viếng mộ cọ cố Tam Đại Tổ.
Chạm long mạch
Năm 1938, ông Paul Ngọc, một nhà kinh doanh
khai khẩn đất hoang nguyên quán Đồng Hới được phép khai khẩn đồn điền Ba
Canh (tả ngạn sông Kiến Giang song song với vùng núi Bến Đẻ, Bến Trấm),
ông này vô tình cho đào một con mương dẫn nước vào đồn điền để canh tác
đã chạm phải long mạch của ngôi mộ thiên táng của nhà họ Ngô Đình kể
trên và tai nạn đã đưa đến nho nhà họ Ngô là:
- Thượng thơ bộ Lại của triều đình Huế Ngô
Đình Diệm bị hòang đế Bảo Đại cất chức thượng thơ thu hồi tất cả phẩm
trật và huy chương vì đã chống đối lệnh hòang đế.
- Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi phải bị
rắc rối một thời gian vì đã chống đối gây sự bất hòa với viên phó tòan
quyền Đông Pháp Nouailletas.
Năm 1944, ông Paul Ngọc được chuyên viên canh
nông Nhật bổn yểm trợ khuếch trương đào các con kinh dẩn thủy trong đồn
điền Ba Canh của ông, vô tình đã chạm vào long mạch của ngôi mộ kể
trên, nên lại một lần nữa gây đại nạn cho nhà họ Ngô là:
- Ông Ngô Đình Khôi và con trai đầu lòng là Ngô Đình Huân bị chính quyền VM bắt và thủ tiêu sau cuộc cách mạng mùa thu 1945.
- Ông Ngô Đình Diệm cũng bị chính quyền VM bắt giam nhưng đã trốn thóat bôn đào ra ngọai quốc.
Hàn lại long mạch
Nhưng nhờ thời gian Đồng minh đánh Nhật và VN
chống Pháp, mọi công tác tại đồn điền này đều phải đình chỉ, các kinh
đào dẫn thủy nhờ thời gian qua đã lấp lại hết. Long mạch đã được hàn gắn
lại nên vận số nhà họ Ngô lại phục hưng bột phát hơn trước:
- Tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh rồi trở thành vị tổng thống sáng lập nền đệ nhất cộng hòa VN.
- Cùng lúc, bào đệ là ông Ngô Đình Nhu nắm
giữ chức cố vấn nòng cốt của chế độ, ông Ngô Đình Luyện giữ chức đại sứ
VNCH tại Anh Quốc, ông Ngô Đình Cẩn trở nên vị lãnh chúa của miền Trung.
Còn Đức Cha Ngô Đình Thục lên chức Tổng Giám Mục và có thể sẽ là vị
Hồng Y đầu tiên của Công Giáo tại VNCH.
Lại chạm Long Mạch
Nhưng vào khỏang năm 1960-1962, chế độ miền
Bắc bắt đầu đặt nặng công cuộc yểm trợ tận lực cho Mặt trận Giải Phóng
miền Nam được Trung Cộng viện trợ xây đắp xa lộ từ Bắc vào Đồng Hới qua
Hậu Hùng, Mỹ Đức đến vùng đồn diền Ba Canh tiến sát vĩ tuyến 17 và vùng
Ba Canh trở thành căn cứ sản xuất và bổ túc vủ khí để chuyển vào Nam. Họ
đào những đường hầm sâu để đặt cơ xưởng dưới lòng đất hầu tránh oanh
kích đã làm đứt hẳn long mạch của ngôi mộ thiên táng nhà họ Ngô tại Bến
Đẻ. Sự kiện này đưa đến đại nạn cho tòan thể gia đình họ Ngô Đình vào
mùa đông năm 1963 như chúng ta đã rõ.Âu cũng là do thiên định cho sự kết
phát của ngôi mộ kể trên phải chịu trong giai đọan đại biến này thôi.
Rồi nếu hồng phúc của nhà họ Ngô Đình trời còn dành cho phần trường cửu
hơn, thì biết đâu sau này lại có những sự kiện đưa đến hàn gắn lại long
mạch để lớp hậu duệ nhà họ Ngô Đình tái phục hưng vĩ đại hơn nữa.
Về phương diện phong thủy, phải chăng ngôi mộ
kể trên đã chung tú bới non sông hùng vĩ của huyện Lệ Thủy từ phía Nam
có 3 hòn núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ và phía Tây có núi Đầu Mâu
chung khí về biển Hạc Hải ờ phía Đông Bắc trải long mạch dựa theo sông
Kiến Giang ngược lên Tróc Vực quy tụ vào ngôi mộ này kết phát đến tột
đỉnh, Đế, Bá, Công, Hầu chăng ?
Kẻ viết giai thọai này chỉ là kẻ hậu sinh,
nhờ được sinh sống ở quê hương từ thuở thiếu thời, được các bậc tiền bối
truyền thọai lại mà thôi. Nay xin viết lại để mong chư hải nội tiền bối
nhất là liệt quý vị cao niên đồng hương hiện ờ Miền Nam phủ chính lại
cho, hầu xây dựng đích thực một sử liệu không những chỉ ở lãnh vực địa
lý mà cả cho danh nhân chí của Việt Nam nữa ./.
Tây Đô tháng 10-1973.
BỔ XUNG.
* "Thế đất “Đầu Mâu vi bút, Hạc-Hải vi
nghiêng” ở làng Lệ-Thủy, tỉnh Quảng-Bình đã xuất phát tổng thống
Ngô-đình-Diệm, Võ-nguyên-Giáp và thiếu tướng Đỗ-Mậu. "
* (Lệ Thủy là một huyện thuộc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Phía nam giáp huyện Vĩnh Linh (thuộc tỉnh Quảng Trị), phía bắc giáp huyện Quảng Ninh (Quảng Bình), phía tây giáp tỉnh Khammouan của Lào, phía đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên 142.052 ha, dân số năm 1998 là 140.804 người Đây là quê hương của Sùng Nham hầu Dương Văn An, Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Kim tử Vinh Lộc Đại phu Đặng Đại Lược, Thạc Đức hầu Đặng Đại Độ, Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân, Vũ Đăng Phương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm. Lệ Thủy nổi tiếng với sông Kiến Giang, khu nghỉ mát suối nước khoáng Bang, văn hóa đặc trưng Hò khoan Lệ Thủy, trong đó có điệu hò khoan chèo đò, hò giã gạo. Hằng năm, vào ngày 2 tháng 9, nơi đây diễn ra đua thuyền truyền thống. Trong Chiến tranh Việt Nam, nơi đây là chiến trường ác liệt với mật độ bom rải thảm của Không quân Mỹ với mật độ dày đặc. Phía tây là dãy Trường Sơn, địa hình dốc theo hướng đông với vùng núi, đồi, có suối nước khoáng Bang với nguồn nước khoáng đang được khai thác làm nơi nghỉ dưỡng và làm nước uống đóng chai. Ở giữa là một dải đồng bằng hẹp hai bên bờsông Kiến Giang. Ven biển là một dải cồn cát trắng. Vùng biển của huyện Lệ Thủy là những bãi cát trắng, nước biển sạch. Hiện đã có bãi tắm tại Ngư Thủy được đưa vào khai thác.) - Theo vi.wikipedia.org/
* (Lệ Thủy là một huyện thuộc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Phía nam giáp huyện Vĩnh Linh (thuộc tỉnh Quảng Trị), phía bắc giáp huyện Quảng Ninh (Quảng Bình), phía tây giáp tỉnh Khammouan của Lào, phía đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên 142.052 ha, dân số năm 1998 là 140.804 người Đây là quê hương của Sùng Nham hầu Dương Văn An, Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Kim tử Vinh Lộc Đại phu Đặng Đại Lược, Thạc Đức hầu Đặng Đại Độ, Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân, Vũ Đăng Phương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm. Lệ Thủy nổi tiếng với sông Kiến Giang, khu nghỉ mát suối nước khoáng Bang, văn hóa đặc trưng Hò khoan Lệ Thủy, trong đó có điệu hò khoan chèo đò, hò giã gạo. Hằng năm, vào ngày 2 tháng 9, nơi đây diễn ra đua thuyền truyền thống. Trong Chiến tranh Việt Nam, nơi đây là chiến trường ác liệt với mật độ bom rải thảm của Không quân Mỹ với mật độ dày đặc. Phía tây là dãy Trường Sơn, địa hình dốc theo hướng đông với vùng núi, đồi, có suối nước khoáng Bang với nguồn nước khoáng đang được khai thác làm nơi nghỉ dưỡng và làm nước uống đóng chai. Ở giữa là một dải đồng bằng hẹp hai bên bờsông Kiến Giang. Ven biển là một dải cồn cát trắng. Vùng biển của huyện Lệ Thủy là những bãi cát trắng, nước biển sạch. Hiện đã có bãi tắm tại Ngư Thủy được đưa vào khai thác.) - Theo vi.wikipedia.org/
* NHỮNG TRƯỜNG HỢP MỘ TỐT:
1. Phù địa: Là mạch đất chỗ chôn mộ ngày càng nổi lên cao, do thủy tụ làm cho đất nở trương ra. ( Khác với phù sa là đất bồi do hiện tượng xâm thực của cuồng lưu.)
2. Đất xốp: Nhẹ và mịn màng gần ao hồ, sông, bể. Huyệt đào lên thấy đất đỏ mịn như tròng đỏ hột gà.
3. Mộ kết: Là một điểm trong long mạch có mật độ siêu vật chất cao nhất và động nhất; đồng thời có cảm trường siêu vật lý đi qua thường trực và cao diệu. Cảm trường siêu vật lý phân giải và làm tê liệt tà vật, tà khí, vi sinh vật hủ hóa, nên hài cốt không bị tiêu hủy và bề mặt sinh cơ còn tiếp tục sinh sản dưới một hình thức khác lạ của sinh vật hạ đẳng như là nấm mốc, mối đùn, thủy tụ.
*Nấm mốc: Làm di hài còn nguyên vẹn và bên ngoài được bao bọc bởi một mạng tơ trắng hay xanh, vàng, do ngoại bì biến thái.
*Kết mối: Là mối (termite) tập họp, tạo thành một lớp keo bảo vệ hài cốt kiên cố như xây xi mân. (Tin đồn rằng mộ ông nội của tổng thống Thiệu ở làng Tri-Thủy ở Phan-Rang kết mối).
*Kết thủy: Hay thủy tụ là hài cốt được một lớp nước trong bảo vệ qua nhiều chục năm như một thứ nước ướp xác. Nếu bốc mộ thì nước sẽ nhanh chóng hóa đục và hài cốt tức khắc ngã nàu đen. ( Thầy địa lý cho rằng mộ ông nội của tiến sĩ Lê-qúi-Đôn ở huyện Duyên-Hà, tỉnh Thái-Bình, kết thủy ?) * NHỮNG TRƯỜNG HỢP MỘ XẤU:
1. Mộ chôn gần cây cổ thụ, để rễ cây đâm vào hài cốt thì con cháu bị mổ xẻ, bại liệt, đui mù, câm điếc, giảm thọ.
2. Mộ chôn gần freeway, đường xe lửa, bến tàu, hay nhà máy kỹ nghệ nặng, làm nhiễu động âm phần: Con cháu gian xảo, buôn gian bán lận, cờ bạc, hút xách.
3. Mộ chôn chỗ quanh năm ngập nước phèn, hay sình lầy: Con cháu bị bịnh phì mập, phù thủng, đau thận, đau lưng, hư răng hay mục răng.
4. Triệt địa là đào ao nuôi cá, khai mương nước, làm đường xe lửa, xây xa lộ trên đầu mộ: Long mạch bị cắt đứt! Chết bất đắc hay tuyệt tự, không con trai nối dõi.
5. Mộ chôn ở diên địa (đất có pha quặng chì), bị phá khí thái cực, gây điên đảo âm dương, nên con cháu có người bất phân phái tính, bán nam, bán nữ. Đồng tính luyến ái.
6. Quan quách mà đóng đinh sắt, thép hay chôn theo vàng bạc, châu báu: Con cháu điên khùng, ung thư.
7. Quan tài bằng đá hay kim khí, thì con cháu ngỗ nghịch, dâm đãng, giang hồ, tâm thần loạn trí, phạm pháp.
8. Mộ xây bằng bê tông cốt sắt mà bít kín mặt nấm, sẽ tạo ra áp lực của nước, của khí. Khi nhục thể bắt đầu thối rữa, phát sinh ra nhiệt, khiến con cháu bị huyết áp cao, tiểu đường, hay cholesterol.
9. Bia mộ để dưới chân: Con cháu ngu đần, vất vả cơ hàn. (Rất may, hầu hết các nghĩa địa ở Mỹ đều để bia trên đầu, như Rose Hill, Peek family,Westminster Memorial Park, Chúa Chiên Lành...)
10. Dùng quế, trầm, tro, củi tẩm liệm: Con cháu bị bệnh lở lói, phung cùi, xấu xí.
11. Dùng lụa tơ tằm để tẩm liệm hài cốt. Bỏ nhiều giấy vàng bạc có bột kim khí thì con cháu hay trở thành đồng cô cốt cậu, chồng con lận đận. Bỏ hột xoàn hay vàng vào miệng người chết để phạn hàm, thì đời sau tuyệt tự, không con trai nối dõi.
12. Long hổ giao nhau. Núi đồi bên trái mộ và những gò đồi bên tay phải mộ, đụng vào nhau ở tiền án hay minh đường: Loạn luân, anh em dòng họ lấy nhau. (Như ngôi mộ nhà Trần kết phát 200 năm, nhưng gia tộc ruột thịt lấy nhau, vì sợ mất ngôí!)
13. Mộ nghịch long, tức là đầu mộ để dưới thấp, chân hướng về tổ sơn trên cao: Con cháu loạn thần tặc tử, bất hiếu, bất trung.
14. Mộ đang kết khí, kết thủy, kết mối mà bốc mộ dời đi: Con cháu suy sụp, chết bất đắc. (Nghĩa trang Mạc-đỉnh-Chi ở Sài-Gòn khi bị giải tỏa, nhiều ngôi mộ nằm ở tầng trên mà lại kết thủy đầy nước trong veo, trong khi mộ ở tầng dưới không kết tốt, lại thấy khô ran.)
15. Trùng táng hay trùng huyệt, tức là chôn nhằm chỗ mà trước đây đã có người chôn rồi; hoặc có xương thú như voi, trâu, bò: Con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên táng. Nghĩa là nhiều người chết liên tục trong vòng 3 năm. Nếu nút áo của người chết bằng xương thú hay kim khí, cũng phải cắt bỏ, chứ không để nguyên như vậy mà chôn theo người chết.
16. Người Khmer thường xây mộ bằng đá ong, dùng tà thuật chôn theo người chết những tượng sa thạch, và an táng trên nọa địa hay thiết địa, (đất khô cứng vì có quặng kim khí) nên con cháu tàn ác dã man, chết vì gươm đao, súng đạn, suýt bị diệt chủng. (“Cánh đồng chết” với những núi sọ người đã làm cả thế giới hãi hùng!).
17. Người Do-Thái và người Nhật ngày xưa, có tập tục hỏa thiêu rồi giữ lại hài cốt mà không chịu chôn cất. Hậu qủa là thế hệ sau làm nạn nhân của lò thiêu Hitler và bom nguyên tử. Trong đại chiến thứ 2, Đức-quốc-Xã của Hitler muốn tiêu diệt người Do-Thái nên đã tập trung họ lại rồi lùa ï vào lò thiêu. Còn người Nhật ở Mã-Đảo và Trường-Kỳ bị thiêu hủy vì 2 trái bom nguyên tử.( Đây là một thứ nhân quả vật lý, khác với nhân qủa của nhà Phật. Ví dụ bà mẹ lận đận chồng con hai ba đời. Con gái sau đó cũng trắc trở hai ba đời chồng. Trong gia đình có người chết trôi, phải lo đoạn nghiệp , vì sợ về sau sẽ có người chết chìm nữa. Cha chết bất đắc, con cũng chết thảm như gia đình Kennedy.) ( Quảng Đức )
1. Phù địa: Là mạch đất chỗ chôn mộ ngày càng nổi lên cao, do thủy tụ làm cho đất nở trương ra. ( Khác với phù sa là đất bồi do hiện tượng xâm thực của cuồng lưu.)
2. Đất xốp: Nhẹ và mịn màng gần ao hồ, sông, bể. Huyệt đào lên thấy đất đỏ mịn như tròng đỏ hột gà.
3. Mộ kết: Là một điểm trong long mạch có mật độ siêu vật chất cao nhất và động nhất; đồng thời có cảm trường siêu vật lý đi qua thường trực và cao diệu. Cảm trường siêu vật lý phân giải và làm tê liệt tà vật, tà khí, vi sinh vật hủ hóa, nên hài cốt không bị tiêu hủy và bề mặt sinh cơ còn tiếp tục sinh sản dưới một hình thức khác lạ của sinh vật hạ đẳng như là nấm mốc, mối đùn, thủy tụ.
*Nấm mốc: Làm di hài còn nguyên vẹn và bên ngoài được bao bọc bởi một mạng tơ trắng hay xanh, vàng, do ngoại bì biến thái.
*Kết mối: Là mối (termite) tập họp, tạo thành một lớp keo bảo vệ hài cốt kiên cố như xây xi mân. (Tin đồn rằng mộ ông nội của tổng thống Thiệu ở làng Tri-Thủy ở Phan-Rang kết mối).
*Kết thủy: Hay thủy tụ là hài cốt được một lớp nước trong bảo vệ qua nhiều chục năm như một thứ nước ướp xác. Nếu bốc mộ thì nước sẽ nhanh chóng hóa đục và hài cốt tức khắc ngã nàu đen. ( Thầy địa lý cho rằng mộ ông nội của tiến sĩ Lê-qúi-Đôn ở huyện Duyên-Hà, tỉnh Thái-Bình, kết thủy ?) * NHỮNG TRƯỜNG HỢP MỘ XẤU:
1. Mộ chôn gần cây cổ thụ, để rễ cây đâm vào hài cốt thì con cháu bị mổ xẻ, bại liệt, đui mù, câm điếc, giảm thọ.
2. Mộ chôn gần freeway, đường xe lửa, bến tàu, hay nhà máy kỹ nghệ nặng, làm nhiễu động âm phần: Con cháu gian xảo, buôn gian bán lận, cờ bạc, hút xách.
3. Mộ chôn chỗ quanh năm ngập nước phèn, hay sình lầy: Con cháu bị bịnh phì mập, phù thủng, đau thận, đau lưng, hư răng hay mục răng.
4. Triệt địa là đào ao nuôi cá, khai mương nước, làm đường xe lửa, xây xa lộ trên đầu mộ: Long mạch bị cắt đứt! Chết bất đắc hay tuyệt tự, không con trai nối dõi.
5. Mộ chôn ở diên địa (đất có pha quặng chì), bị phá khí thái cực, gây điên đảo âm dương, nên con cháu có người bất phân phái tính, bán nam, bán nữ. Đồng tính luyến ái.
6. Quan quách mà đóng đinh sắt, thép hay chôn theo vàng bạc, châu báu: Con cháu điên khùng, ung thư.
7. Quan tài bằng đá hay kim khí, thì con cháu ngỗ nghịch, dâm đãng, giang hồ, tâm thần loạn trí, phạm pháp.
8. Mộ xây bằng bê tông cốt sắt mà bít kín mặt nấm, sẽ tạo ra áp lực của nước, của khí. Khi nhục thể bắt đầu thối rữa, phát sinh ra nhiệt, khiến con cháu bị huyết áp cao, tiểu đường, hay cholesterol.
9. Bia mộ để dưới chân: Con cháu ngu đần, vất vả cơ hàn. (Rất may, hầu hết các nghĩa địa ở Mỹ đều để bia trên đầu, như Rose Hill, Peek family,Westminster Memorial Park, Chúa Chiên Lành...)
10. Dùng quế, trầm, tro, củi tẩm liệm: Con cháu bị bệnh lở lói, phung cùi, xấu xí.
11. Dùng lụa tơ tằm để tẩm liệm hài cốt. Bỏ nhiều giấy vàng bạc có bột kim khí thì con cháu hay trở thành đồng cô cốt cậu, chồng con lận đận. Bỏ hột xoàn hay vàng vào miệng người chết để phạn hàm, thì đời sau tuyệt tự, không con trai nối dõi.
12. Long hổ giao nhau. Núi đồi bên trái mộ và những gò đồi bên tay phải mộ, đụng vào nhau ở tiền án hay minh đường: Loạn luân, anh em dòng họ lấy nhau. (Như ngôi mộ nhà Trần kết phát 200 năm, nhưng gia tộc ruột thịt lấy nhau, vì sợ mất ngôí!)
13. Mộ nghịch long, tức là đầu mộ để dưới thấp, chân hướng về tổ sơn trên cao: Con cháu loạn thần tặc tử, bất hiếu, bất trung.
14. Mộ đang kết khí, kết thủy, kết mối mà bốc mộ dời đi: Con cháu suy sụp, chết bất đắc. (Nghĩa trang Mạc-đỉnh-Chi ở Sài-Gòn khi bị giải tỏa, nhiều ngôi mộ nằm ở tầng trên mà lại kết thủy đầy nước trong veo, trong khi mộ ở tầng dưới không kết tốt, lại thấy khô ran.)
15. Trùng táng hay trùng huyệt, tức là chôn nhằm chỗ mà trước đây đã có người chôn rồi; hoặc có xương thú như voi, trâu, bò: Con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên táng. Nghĩa là nhiều người chết liên tục trong vòng 3 năm. Nếu nút áo của người chết bằng xương thú hay kim khí, cũng phải cắt bỏ, chứ không để nguyên như vậy mà chôn theo người chết.
16. Người Khmer thường xây mộ bằng đá ong, dùng tà thuật chôn theo người chết những tượng sa thạch, và an táng trên nọa địa hay thiết địa, (đất khô cứng vì có quặng kim khí) nên con cháu tàn ác dã man, chết vì gươm đao, súng đạn, suýt bị diệt chủng. (“Cánh đồng chết” với những núi sọ người đã làm cả thế giới hãi hùng!).
17. Người Do-Thái và người Nhật ngày xưa, có tập tục hỏa thiêu rồi giữ lại hài cốt mà không chịu chôn cất. Hậu qủa là thế hệ sau làm nạn nhân của lò thiêu Hitler và bom nguyên tử. Trong đại chiến thứ 2, Đức-quốc-Xã của Hitler muốn tiêu diệt người Do-Thái nên đã tập trung họ lại rồi lùa ï vào lò thiêu. Còn người Nhật ở Mã-Đảo và Trường-Kỳ bị thiêu hủy vì 2 trái bom nguyên tử.( Đây là một thứ nhân quả vật lý, khác với nhân qủa của nhà Phật. Ví dụ bà mẹ lận đận chồng con hai ba đời. Con gái sau đó cũng trắc trở hai ba đời chồng. Trong gia đình có người chết trôi, phải lo đoạn nghiệp , vì sợ về sau sẽ có người chết chìm nữa. Cha chết bất đắc, con cũng chết thảm như gia đình Kennedy.) ( Quảng Đức )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét