ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ ĐÔNG PHƯỚC
HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH HẬU GIANG
1930 - 1975
(SƠ THẢO)
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ ĐÔNG PHƯỚC
Tháng 12 năm 2003
Lời nói đầu
Tổ
quốc Việt Nam ta rất anh hùng, vì có Đảng vinh quang. Đông Phước là xã
anh hùng, vì có Đảng bộ anh hùng, nhân dân ta anh hùng trong chiến đấu,
dũng cảm và sáng tạo trong xây dựng hòa bình.
Ngày
nay Ngã Sáu thuyền bè tấp nập, trên 6 dòng kinh nước trong xanh lộng
ánh trăng vàng, các cô gái miền quê tóc dài thon thả trong chiếc áo bà
ba đưa nhẹ mái chèo, những tà áo dài thướt tha như đàn bướm trắng vui
đuổi nhau vào mái trường xinh xắn, cảnh công trường rộn rã tiếng máy
tiếng cười, những giọt mồ hôi tưới xuống đồng mạ xanh thẳng tắp chân
trời xa, vang tiếng hát yêu đời, để tạo dựng Đông Phước tươi đẹp dưới
nắng mai. Cây trái muôn màu, vườn xanh hoa nở, lòng người nở hoa. Lòng
dân Đông Phước có những phút giây xúc động bồi hồi, tự hào tưởng nhớ
lịch sử hào hùng của tiền nhân khai phá, ông cha chiến đấu kiên cường.
Đông Phước xưa là vùng sâu nghèo cơ cực bậc nhất, từ khi có Đảng, nổi tiếng anh hùng hàng đầu.
Trái
tim của Ngô Hữu Hạnh, người cộng sản, người bí thư đầu tiên của chi bộ
Thường Phước, còn tỏa mãi ánh sáng Nam kỳ khởi nghĩa trên biển Đông,
cuối trời Tổ quốc. Tiếng hô “Hồ Chủ tịch muôn năm” của Bùi Tâm Hảo, Phó
Bí thư Đảng bộ Đông Phước hiên ngang trên pháp trường ở khán đài Đông
Sơn đã thành tiếng kèn xuất quân xung trận đánh Mỹ.
Sông
nước, ruộng vườn Ngã Cạy còn in bóng đồng chí Ba Ca, người cố nông theo
Đảng, 26 ngày đánh Mỹ, 4 ngày bắt cua đinh nuôi vợ con, với lòng căm
thù nghĩ ra cách đánh giặc bằng ong vò vẽ, tạo nên chiến tích huyền
thoại cả thế giới khâm phục. Với ý chí quyết thắng, người du kích Mười
Cụt, Ba Thanh đã sáng chế nạng giàn thun bắn lựu đạn vào đồn địch, là vũ
khí từ cổ chí kim chưa có.
Người
Đông Phước hiền hòa, nhưng khi cần thì biết chọn cái chết liệt oanh,
còn kịp nhìn kẻ thù ngã gục dưới chân mình, như anh Nguyễn Văn Rớt, bị
biệt kích bao vây, anh giựt chốt lựu đạn “cưa đôi với giặc”.
Người
Đông Phước nặng tình nghĩa làng xóm, trước phút hy sinh vẫn lo nghĩ cho
đồng đội, anh Nho bị thương cụt hai chân, biết mình không sống nổi, đã
nhường thuốc, bông băng lại cho anh em… nụ cười trên môi tươi tỉnh, đi
vào cõi vĩnh hằng.
Vâng
lời Bác dạy “ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm” những người
nông dân thất học như anh Út Đệ, Hai Cọ, Ba Thanh trở thành “Kỹ sư nông
dân” chế tạo vũ khí thô sơ, biến những trái lựu đạn lép của giặc giết
lại giặc. Phụ nữ Đông Phước trung trinh, chung thủy sáng ngời xóa tan
bóng tối âm mưu làm hoen ố gia đình cách mạng; với tâm hồn chất phác cao
thượng nhưng gan góc, lý lẽ thông minh, tiến lên như thác lũ triều
dâng, cuốn trôi kẻ bạo tàn, lấy nghĩa nhân thắng cường bạo rực rỡ chữ
vàng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, tôn vinh đội quân tóc
dài và bà mẹ anh hùng. Đảng bộ Đông Phước từ ngày ra đời, đã 38 năm dài
kiên cường bám đất, bám dân, một phút không rời; chưa đầy 3 tuổi đã lãnh
đạo nhân dân phất cờ Nam kỳ khởi nghĩa, giương cao ngọn cờ độc lập, dân
chủ trong lửa đạn 2 cuộc kháng chiến thần thánh đến ngày toàn thắng.
Đảng bộ Đông Phước có những Bí thư như: Phạm Chánh Mỹ (Năm Mỹ), Trần Văn
Duyên (Chín Mẫn), Trần Văn Năm (Năm Mù)… gan lì bám trụ, “điều lắng” đã
tìm phương hướng đánh địch: tay không thắng giặc để vùng lên đồng khởi
làm điên đầu bọn nhà Trắng bên kia Đại Tây Dương.
Từ
năm 1969, cuộc chiến tàn khốc đến tột cùng, Mỹ muốn xóa “cái gai Đông
Phước” trên bản đồ Cần Thơ, nhưng du kích và đồng bào, với sự chỉ huy
của Bí thư Sáu Inh, Út Một, đã quần nhau với địch hằng ngày giữ trọn lời
thề “một tấc không đi, một ly không rời”. Đông Phước máu và hoa, cái
chết hóa thành bất tử, thành đóa sen hồng chiến công. Lá cờ giải phóng
kiêu hãnh tung bay trên xóm làng Đông Phước từ tháng 3 năm 1975.
Ngày
30-04-1975, Đại đội hai địa phương Châu Thành vừa được thành lập trước
đó 10 ngày, từ Đông Phước đã tiến về góp sức giải phóng Cái Răng.
Thật là:
Tội ác giặc Mỹ: Nước 6 kinh Ngã Sáu không rửa sạch.
Còn chiến công: Hoa anh hùng nở rộ đón chào xuân.
Uống
nước nhớ nguồn, để cháu con ghi nhớ công ơn những người đã dựng nên
Đông Phước anh hùng, mang truyền thống vẻ vang quý báu có một không hai
tiến quân vào trận chiến đấu mới để xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, cho Đông Phước ngàn lần tươi đẹp hơn.
Dù
truy tìm tư liệu quá khó khăn, nhân chứng sống còn quá ít. Đảng bộ Đông
Phước vẫn quyết tâm viết quyển sơ thảo lịch sử này, chắn chắn chưa đầy
đủ, nhiều thiếu sót.
Kính
mong các đồng chí Đảng viên lão thành của Đông Phước, các đồng chí đã
từng lãnh đạo và công tác tại Đông Phước, bà con từng bám đất chiến đấu
rộng lòng tha thứ và nhiệt tình cung cấp thêm, góp ý cho quyển sơ thảo
lịch sử Đông Phước ngày càng đầy đủ, hoàn chỉnh hơn.
Trân trọng, chân thành biết ơn.
BCH ĐẢNG BỘ XÃ ĐÔNG PHƯỚC
PHẦN MỘT
LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CỦA ĐẢNG BỘ
VÀ NHÂN DÂN XÃ ĐÔNG PHƯỚC
CHƯƠNG I
I. VÙNG ĐẤT – CON NGƯỜI
Xã
Đông Phước, xã anh hùng được nhà nước phong tặng ngày 20-12-1994, là xã
đã phát huy truyền thống tốt đẹp trong những năm hòa bình xây dựng đất
nước được Hội đồng nhà nước khen thưởng “Huân chương Chiến công hạng
nhì”, với thành tích xây dựng sau 15 năm thống nhất đất nước. Xã Đông
Sơn và Thường Phước sát nhập thành xã Đông Phước gồm 12 ấp: Phước Thuận,
Phước Long, Phước Hưng, Phước Hòa, Phước Thạnh, Đông Lợi, Đông Bình,
Đông Phú, Đông Thạnh, Đông Mỹ, Long Lợi, Long An.
Đông
Phước là một xã vùng sâu, vùng xa của huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ,
có địa lý và trung tâm dân cư, đầu mối giao lưu, cụm kinh tế - xã hội
liên hoàn với một số xã khu vực Châu Thành.
Phía Đông giáp xã Phú Hữu
Phía Tây giáp xã Long Thạnh
Phía Nam giáp với xã Đại Thành (huyện Phụng Hiệp).
Phía Bắc giáp với xã Đông Thạnh
Diện tích: 5.899 ha, dân số: 27.784 người.
Thời Pháp thuộc theo Nghị định 20-12-1889 của thống đốc Nam kỳ, hạt đổi thành tỉnh, tỉnh Cần Thơ có 4 quận, 10 tổng, 94 xã.
Tổng
Định Phước có 7 xã: Đông Sơn, Long Mỹ, Như Lăng, Phụng Hiệp, Song Mỹ,
Thường Phước, Trường Thành Sơn. Như vậy xã Đông Sơn và Thường Phước đã
có tên trong bản đồ hành chính.
Từ
khi khai phá đến thành xóm ấp, làng phải trải qua nhiều thế hệ, thời
gian rất dài: Đông Sơn, Thường Phước là vùng đất được người Việt Nam
khai phá từ xa xưa.
Ta
hãy đi ngược dòng lịch sử. Theo địa chí tỉnh Cần Thơ . Năm Qúi Dậu
(1753) Võ Vương (chúa Nguyễn đàng trong) phá ký lục bộ Chánh dinh Nguyễn
Cư Trinh vào Nam bộ kinh lược, ông Nguyễn Cư Trinh chiêu tập lưu dân,
tổ chức quân đội thẳng tiến vào vùng đồng bằng sông Cửu Long, ông xây
dựng đồn trại, tổ chức lại chính quyền hành chính ở những nơi mới khai
khẩn.
Từ năm 1805 đến năm 1836 triều Nguyễn tiến hành xong công cuộc đạc điền và lập địa bạ toàn quốc.
Từ
năm 1814 (Gia Long thứ 12) Cần Thơ thuộc huyện Vĩnh Định (nam sông Hậu)
triều vua Minh Mạng 1832 đổi trấn thành tỉnh. Cần Thơ thuộc tỉnh Vĩnh
Định có 4 tổng. Tổng Định Bảo có 8 thôn, có thôn Trường Thạnh (xứ Cái
Răng) có thể chăng, Đông Sơn, Thường Phước nằm trong Cái Răng địa hình
nằm liền kề nhau.
Lịch sử đã khẳng định, có ba dòng người đến khai phá vùng sông Hậu, lập Trấn Giang (tên xưa cũ của Cần Thơ).
Dòng
người thứ nhất là theo những quan lại từ quan, những sĩ phu, cùng nhiều
tập đoàn dân nghèo, chán ghét triều Lê chúa Trịnh rời bỏ quê cha đất tổ
đi tìm cuộc sống tự do, trong số họ đa số là người Bắc, sau đó là dân
đất Thuận – Quảng (miền Trung) theo Nguyễn Cư Trinh, dòng người này còn
lưu gia phả ở các xã ven sông Hậu như Phú An, Phú Hữu giáp ranh với Đông
Phước. Chúng ta lắng nghe khúc dân ca lưu truyền qua nhiều đời:
“Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai
Nước trong xanh sao lại chảy hoài
Thường người xa xứ lạc loài tới đây”
Và hai câu thơ:
“Cu kêu ba tiếng cu kêu
Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè”
(Theo miền Bắc, tết phải có cây nêu)
Dòng người thứ hai, từ sông Tiền xuống sông Hậu.
Theo
ông Bùi Nhật Ổn, 63 tuổi: Tổ phụ của ông, từ sông Tiền đến vùng Đông
Phước đời ông sơ (ông nội của ông nội) ông nội kể rằng: “Có hai cha con
phá rừng (ở Thường Phước) gặp cọp – hai cha con đâu lưng lại, chĩa hai
mũi mác lên cao để chống cọp phủ đầu” cọp bỏ đi hai cha con chết giấc từ
hồi nào rồi.
Dòng
người thứ ba (sau hơn hết) theo Mạc Thiên Tứ từ Hà Tiên lui về Trấn
Giang để chống lại vua Xiêm Phi Nhã Tân, và sau này chống quan Tây Sơn
truy đuổi chúa Nguyễn.
Vợ
con binh lính theo chồng, theo cha và cùng họ ở lại Trấn Giang. Qua
những chứng cứ trên, ta có thể khẳng định một chân lý lịch sử là: Người
Việt Nam cuối thể kỷ XVII, thời chúa Nguyễn (đàng trong) là người đầu
tiên đặt chân khai phá vùng tả, hữu ngạn sông Hậu, trong đó có Đông Sơn
và Thường Phước là xã Đông Phước ngày nay. Quan hệ họ hàng giữa người
Đông Phước và Thường Thạnh ngày nay còn rất đông.
Hiểu
được ngọn ngành chân lý này, ta mới lý giải được chất anh hùng Nam bộ
nói chung, và Đông Phước nói riêng, bắt nguồn từ trái tim yêu nước đấu
tranh chống ngoại xâm, chống cường quyền của người Việt Nam với bốn
nghìn năm văn hiến.
Quyển
lịch sử Đảng bộ huyện Phụng Hiệp có viết: “Dân cư vùng đất Phụng Hiệp
lúc ban đầu ở rải rác các vùng Láng Hầm, Rạch Gòi, Mái Dầm (Phú Hữu),
Tràm Bông (Đông Sơn), Giòng Đá v.v…”.
Từ
xa xưa, vùng đất này là đất hoang dã, rừng tràm bạc ngàn, chen lẫn cây
bần, sen đồng, lau sậy (cách đây vài mươi năm, dân còn đào những gốc
tràm rất to). Rất nhiều thú dữ: cá sấu, rắn, cọp, beo, heo rừng, trâu
rừng, nhiều đàn voi, đỉa vắt, muỗi mòng.
“Qua mùa nước ngập mênh mông
Voi lên sông nước, xuống rông băng ngàn
Lâu lâu quen ở đã an
Dậm bờ đạp lúa cả đoàn hàng trăm”
Voi, trâu rừng đi hàng đàn, tạo lối đi ngoằn ngoèo, dấu chân voi lâu ngày thành lung bào, thành rạch như “Rạch Đường Trâu”.
Tính
mạng con người luôn bị đe dọa vì chướng khí nước độc rừng già, bởi lắm
loài thú dữ rình rập, chuyện kể rằng: “Sáu người đi săn gặp con trăn to
(hoành bằng khạp da bò) vũ khí thô sơ không chống lại nổi, một người bị
trăn quấn nuốt chửng, ngày sau dân làng mang nhiều vũ khí bén, cung tên
đi giết trăn để trả thù. Con trăn bụng sình lên không bò được, dân làng
mổ bụng trăn lấy xác người về chôn, lấy thịt trăn chia cả làng cùng
hưởng”.
CHƯƠNG II
II. CƠ CẤU XÃ HỘI – KINH TẾ - VĂN HÓA
Lưỡi
dao chặt cây phá rừng nguyên sinh, nhát cuốc đầu tiên xuống đất hoang
sơ vang động từ hướng bắc khu vực Cái Muồng, Ngã Cạy (giáp xã Đông
Thạnh). Không thể kể xiết gian truân cơ cực của những người cùng đường
phải đến vùng sâu này, vùng xa lộ 4, xa sông Hậu trù phú, sông ngòi chưa
khai thông nên tiếp thu “văn minh kinh xáng”, giao lưu các vùng để nâng
cao đời sống rất khó khăn chậm chạp.
Phải
lao động vất vả để kiếm cái ăn dù thiên nhiên rất ưu đãi, nước ngọt
quanh năm, rừng nhiều thú, chim chóc, sông nhiều tôm cá. Nhìn chung thì
Thường Phước trù phú hơn Đông Sơn nhiều. Ngã Sáu (trung tâm xã hiện nay)
lúc mới hình thành chỉ có 4 ngã.
1. Rạch Cái Dầu: theo đường sông Hậu đi Cần Thơ – Vĩnh Long.
2. Rạch Mái Dầm: đi từ xã Phú Hữu, xa hơn nữa là Kế Sách, Sóc Trăng.
3. Rạch Cái Muồng: đi từ xã Long Thạnh về Cái Răng (trung tâm huyện).
4. Rạch Kinh Lạc: đi trong xã Đông Phước. Về sau Pháp bắt phu đào.
5. Kinh Hậu Bối (kinh mới): đi Cầu Trắng (Phụng Hiệp).
6. Rạch Xẻo Chồi: cũng đi Cầu Trắng (Phụng Hiệp).
Ngã
Sáu chia hai bên Xẻo Chồi, Kinh Lạc, Kinh Mới thuộc Đông Sơn. Cái Đôi,
Ngã Cạy, Cái Muồng thuộc Thường Phước, về sau Pháp bắt đào thêm kinh,
rạch.
Khoảng
năm 1940 – 1945 xáng múc “Kinh xáng Nàng Mau” đưa nước ngọt từ sông Hậu
ra Phú Hữu – Đông Phước – Phụng Hiệp về cho hàng ngàn héc-ta đất, thuận
tiện giao thông thủy, tập trung dân cư hai bờ kinh, xuất hiện cái gọi
là “văn minh kinh xáng”.
Từ
xưa, vùng đất này khó khai thác, kỹ thuật dụng cụ quá thô sơ, nên phải
trải qua thời gian rất dài hơn đối với các nơi khác, dân cư mới kéo về
đông dần. Có người giỏi khai thác được 5 héc-ta đến 7 héc-ta, họ trở
thành phú nông. Số khác bị địa chủ lớn chèn ép, cho vay nặng lãi, dùng
thủ đoạn thâm độc để mua đất rẻ hoặc giựt đất. Đa số là tá điền làm công
cho địa chủ mua đất khai khẩn. Đến đầu thế kỷ thứ XX, khoảng năm 1905
việc trồng lúa, rau củ mới phát triển. Đến năm 1925, việc trao đổi hàng
hóa giữa Đông Sơn, Thường Phước và các vùng khác ngày càng rộng hơn.
Từ
khi khai phá đến lập xóm ấp, qua thời gian dài, dân phải sống dưới chế
độ phong kiến; bị kìm kẹp bởi luật vua phép nước lệ làng, số phận của họ
nằm gọn trong tay bọn ác bá cường hào, sống một đời tôi mọi từ ông cha
đến con cháu, bên cạnh nổi thống khổ ấy còn gặp phải cảnh bắt lính của
vua Gia Long, những người lính họ bị bắt đưa ra tận Huế. Người lính thú
triều đình ngậm ngui với câu “Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”,
họ chỉ nhìn được lần cuối cùng bóng hình mẹ già, vợ yếu, con thơ dại
dưới mái tranh nghèo dột nát.
Trong số họ biết đâu có một số người ra đi không bao giờ trở lại, để cho người góa phụ ôm con côi nước mắt đầm đìa.
Đời
sống tâm linh của họ cũng bị ràng buộc bởi lễ giáo “tam cương ngũ
thường, phò vua theo chúa” và giáo lý nhà Phật về kiếp luân hồi ru ngủ,
an phận theo mệnh trời, phó mặt cho số phận hiện tại trông chờ vào nhân
quả của kiếp sau.
Đời
sống văn hóa hầu như số không, chỉ có kể chuyện cổ tích, ngâm vài câu
thơ hoài niệm người xa xứ, hoặc thả hồn theo tiếng tiêu sầu, tiếng đàn
cò ai oán hay những câu hò lai láng tình quê, tình người.
Hò ơ…
Nay em có nghén con so
Anh cưng cho cho như trứng mỏng
Không cho em trèo ghế leo thang
Chẩn mạch cho nàng gái trai cho biết
…..
Nước lường ba chén sắc còn bảy phân
Uống vô mạnh khỏe như thần
Nghệ tiêu phèn muối vân vân
Củi than đốt để có phần
Chờ đến ngày em khai hoa nở nhụy
Anh săn sóc ân cần, trình với thung đường
Ngày sau sanh con thảo cháu hiền
Vinh hoa phú quý – phỉ nguyền đôi ta
(Trích bài hò xưa đất Đông Phước)
CHƯƠNG III
IV. ĐÔNG PHƯỚC ĐƯỚI THỜI PHÁP THUỘC
Dân
Đông Phước sống về nghề ruộng, có một số ít làm thêm nghề dệt chiếu;
không thể kể xiết nồi cùng cực của người nông dân thời Pháp thuộc trong
cảnh một cổ hai tròng. Riêng Đông Phước là vùng sâu đời người dân càng
bi đát hơn, bọn địa chủ như con đỉa ba vòi hút máu nhân dân bằng địa tô,
lợi tức, nhân công. Vì đường đi lại khó khăn, bọn Tây và địa chủ không
lập đồn điền hay xây dựng nhà xưởng ở vùng sâu này. Một số địa chủ lớn
có tiếng như Cả Đạt (Cái Răng), Lý Phước Thạnh, bà Cả Non (Cái Chanh),
Hàm Ở, xã Gấm bóc lột vơ vét qua trung gian là người “bao hóa đất”
(người thuê đất của địa chủ rồi cho tá điền thuê lại). Xong mùa gặt chưa
kịp mừng thì đống lúa đã biến mất vào tay địa chủ lấy lúa ruộng, lúa
vay và còn phải đóng lúa canh (canh gác của làng), lúa cúng bà Chúa Xứ,
còn bị nạn gian lận trong cân đong, cái táo 22 lít.
Người
nông dân trắng tay không đủ cơm cháo ăn còn phải lo cống nộp cho ngày
giỗ, ngày tết của nhà địa chủ hai ngày không công và một cặp vịt to.
Phải đi vay mượn nặng lãi, làm mướn kiếm sống quần quật đêm ngày, vào
rừng, xuống sông nguy hiểm đến tính mạng. Bên cạnh đó người dân còn bị
Tây, Hội tề, tay sai đàn áp, bắt đóng đủ các thứ thuế (thuế thân phải
bán 25 giạ lúa) đi phu làm sâu liên miên, nạn bắt lính, nạn tình nghi vu
khống theo hội kín, theo cộng sản rồi bị tù đày.
Dân
làng phải thay ngựa trâu, kẻ đẩy người đeo dây vào cổ, kéo ống cán hủ
lô, làm lộ giữa ngày nắng đổ lửa còn bị đánh đập, quỵt bớt tiền công rẻ
mạt.
Hãy
nhìn về mặt văn hóa, để thấy thực dân vây gí dân ta trong vòng tròn bế
tắc, đói thể xác, cùng quẩn tâm hồn, u tối trí tuệ hòng dễ trị; chúng
chỉ cho tôn giáo phát triển như đạo Cao Đài, Hòa Hảo để ru ngủ, chia rẽ
tình làng nghĩa xóm; có chăng chúng tổ chức cho phép loại giải trí đầy
nọc độc như rượu chè, cờ bạc, hốt me, đá gà, hút xách, đồng bóng, mê tín
dị đoan để xóm làng sinh nạn trộm cướp gây mất an ninh, mất đoàn kết,
mất tính người.
Nhưng
dân ta có cách giữ vững lễ hội, đình chùa, đây là nơi sinh hoạt tâm
linh, giữ bản sắc Việt Nam, thuần phong mỹ tục, để nhớ và noi gương cha
ông, hun đúc thêm ngọn lửa yêu nước, ý chí quật cường trong trái tim sôi
sục của mình. Hai ngôi đình thờ vị thần Nguyễn Trung Trực, thủ lĩnh
nghĩa binh đã làm bạc vía giặc Tây, một ở tại Ngã Cạy (ấp Phước Long)
lập từ năm 1923 và một tại Cầu Dừa (ấp Đông Lợi) lập từ năm 1925. Hàng
năm có cúng đình hai lần: Thượng điền vào tháng tư âm lịch và Hạ điền
vào tháng mười một âm lịch. Theo nghi lễ thì xóm ấp cúng hai con heo,
người có đất mang cúng mâm xôi, dân làng tập trung ăn uống và tổ chức
vui chơi lành mạnh như: kéo co, đánh cờ người, thí vàng giúp tiền người
nghèo vv… Đây cũng là dịp để bà con thưởng thức văn nghệ như xem hát
bội, một kịch chủng truyền thống; tiếng đàn, tiếng hát, tuồng tích trung
trinh nghĩa khí làm rung động lòng người. Thất mùa thì hát nhỏ, trúng
mùa thì hát lớn 2 đến 3 chầu.
Về
việc học chữ, tới năm 1926 mới mở trường đầu tiên tại vàm Cái Muồng,
chỉ có hai lớp năm và lớp tư (lớp 1 và lớp 2 bây giờ) thầy giáo Mười
dạy, sau có thêm giáo Giàu, giáo Cơ, học sinh chỉ lèo tèo 5 đến 10 học
sinh nam, rất ít nữ, vì quan niệm phong kiến “nam trọng, nữ khinh” nên
ít cho nữ đi học.
Bọn
Pháp chỉ lo xây nhà tù, gông cùm, không xây dựng công trình phúc lợi xã
hội nào cho Đông Phước về y tế, giao thông, cầu đường. Dịch bệnh lan
tràn, dân chết hàng loạt, người đau ốm không tiền mua thuốc, chỉ trông
chờ vào cây lá thuốc Nam, cạo gió, nồi xông; người sắp trút hơi tàn còn
phải bám vào những lá bùa, câu thần chú, chữa trị mò của thầy cúng.
Người chết không có đất nằm, phải lạy lục chủ điền xin đất chôn, đối đế
đành phải đưa người thân mai táng ở lung bào.
Mấy câu thơ sau đây tả cảnh đứt ruột mẹ xa con để đi tìm cái ăn.
“Ai về Đông Phước mà xem
Lên rừng rắn độc, xuống sông đỉa lềnh
Quanh năm cuộc sống cơ hàn
Đau thì thiếu thuốc, đói thì thiếu cơm”
“Con ơi con ở lại nhà
Mẹ đi làm mắm tháng ba mẹ về
Mẹ về có mắm con ăn
Có khô con nướng, có em con bồng”
Bọn cai trị dã man, địa chủ tàn ác, gieo vào lòng người bần cố nông niềm uất hận không đội trời chung, ân oán phải đền.
PHẦN HAI
NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH
VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG
CỦA NHÂN DÂN ĐÔNG PHƯỚC DƯỚI
CỜ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CHƯƠNG IV
I. ĐẤU TRANH TỰ PHÁT VÀ DƯỚI NGỌN CỜ SĨ PHU
“Có
áp bức, có đấu tranh”, là quy luật đấu tranh giai cấp trên quan điểm
Mác-Lênin, con đường thoát của những người có nghĩa khí, nhân dân Đông
Phước đứng dưới lá cờ sĩ phu yêu nước đánh Tây… Ta chưa có tư liệu để
xác nhận người dân Đông Phước đã theo cờ người anh hùng nông dân Đinh
Sâm đánh Tây, chém đầu Cai tổng Vĩnh ở Phong Điền, nhưng xét về địa lý
cùng chung một tổng thì rất có thể chắc chắn một điều là, dũng khí bất
tử của thủ lĩnh Đinh Sâm đã nung sôi dòng máu đỏ quật cường trong tim
người Đông Phước, giục bước họ tiến dưới cờ khởi nghĩa của anh hùng
Nguyễn Trung Trực. Hai đình thần ở Đông Phước đều thờ ông, là biểu tượng
minh chứng cho sự thật lịch sử nói trên.
Năm
1910, thực dân Pháp bắt dân Phụng Hiệp (có dân Đông Phước) đào kinh
quan; dưới sự chỉ đạo nhóm “kèo xanh kèo vàng” (một tổ chức yêu nước
xuất hiện từ cuối thế kỷ thứ XIX ở Trung bộ, chạy vào Nam), dân nổi dậy
đánh bọn cai thầu, tự động bỏ việc về làng. Bọn chúng đưa quân đến đàn
áp mới dập tắt được. Vai trò lãnh đạo của phong trào sĩ phu yêu nước mất
dần, nhưng ngọn cờ khởi nghĩa ấy vẫn âm thầm phất cao trong ý chí mọi
người. Mất phương hướng nông dân phải đấu tranh tự phát. Từ năm 1910 –
1913 dân Đông Phước làm mùa xong, địa chủ lùng sục, vơ vét hết, đời sống
nhân dân lâm vào cơ cực, đến nổi phải đi đập rơm kiếm lúa lép để sống
cũng bị đánh đập mang bệnh chết. Phú nông bị chèn ép cũng không kém; ông
nội của Lê Đình Thi là Lê Đình Tại đánh Hội đồng tích ở Ngã Cạy ức hiếp
dân. Trong đêm đen nô lệ, cờ đỏ búa liềm của Đảng Cộng sản sáng rực như
vì sao bắc đẩu, cứu tinh cho người đi biển trong cơn giông tố. Đường
lối sáng suốt của Đảng ta, phẩm chất bản lĩnh của đảng viên trong sáng
kiên cường, đã gieo vào lòng người niềm tin chiến thắng như nắng hạn gặp
mưa rào, ruộng đồng Đông Phước mạ thêm xanh lúa thêm vàng, sen hồng
chen nhau đua nở đón chào xuân.
Hòn than yêu nước âm ỉ của Đông Phước bắt đầu bùng lên theo gió mới, cờ đỏ búa liềm phất phới bay vượt qua mấy độ thăng trầm.
CHƯƠNG V
II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN ĐÔNG PHƯỚC DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Sự khao khát đợi chờ tổ chức lãnh đạo sáng suốt, tiến bộ; thời cơ đấu tranh của nhân dân Cần Thơ và Đông Phước đã đến.
Trong
cảnh sống ngột ngạt sau đại chiến thứ nhất, nhân dân Việt Nam tiếp tục
được luồng gió Cách mạng vô sản tháng Mười Nga, cùng với chủ nghĩa
Mác-Lênin là trí tuệ khoa học của cách mạng thời đại mới, mà người đầu
tiên đưa về tổ quốc Việt Nam là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Từ năm
1924-1925 sách báo bí mật như: Đường kách mệnh, Bản án chế độ thực dân
Pháp, báo Người cùng khổ… của Nguyễn Ái Quốc đã về đến tay một số học
sinh trường Collège Cần Thơ là Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây, Nguyễn Văn
Cưng, Châu Văn Liêm, Phan Văn Bảy… lần lượt đến những thanh niên và
nhân dân huyện Châu Thành, thành động lực mới cho phong trào. Chẳng bao
lâu, các tổ chức “Nông hội đỏ, Thanh niên, Phụ nữ phản đế” được hình
thành và là tiền thân của “Thanh niên Cách mạng đồng chí hội”. Phong
trào đấu tranh đòi lại công điền, công thợ, giảm thuế, giảm xâu diễn ra
sôi nổi.
Tháng 9-1929 thành lập An Nam Cộng sản Đảng và Đặc ủy An Nam cộng sản Đảng Hậu Giang.
Ngày
3-2-1930 Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, bước lên vũ đài chính trị,
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Các đảng viên đầu tiên của Cần Thơ như Phan
Văn Bảy, Quảng Trọng Hoàng, Nguyễn Thế Ngọc thường xuyên về các làng ở
quận Châu Thành để gầy dựng cơ sở, bồi dưỡng những hạt giống đỏ. Sự hoạt
động của chi bộ Xóm Chài (1935) có ảnh hưởng lớn đến Đông Phước.
A. ĐẨY MẠNH CAO TRÀO DÂN CHỦ 1936-1939
Tháng
1-1936, mặt trận nhân dân Pháp (còn gọi là mặt trận bình dân) tạo thời
cơ thuận lợi cho vận động cách mạng ở các nước thuộc địa và Đông Dương.
Làng Đông Sơn và Phú Hữu là một trong bốn trụ sở của “ủy ban hành động”, nâng cao chất lượng đấu tranh của quần chúng.
Năm
1936, đồng chí Nguyễn Nguyên Hạnh giới thiệu đồng chí Quảng Trọng Hoàng
là Phó Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, kết nạp đồng chí Ngô Văn Khỏe tức
Ngô Hữu Hạnh. Thế là làng Thường Phước có đảng viên đầu tiên, trong lớp
đảng viên tiền bối lãnh đạo của Đảng bộ Cần Thơ. Đồng chí Ngô Hữu Hạnh
nhanh chóng xây dựng cơ sở cốt cán cho phong trào.
Đầu
năm 1937, chi bộ Đảng làng Thường Phước do đồng chí Ngô Hữu Hạnh làm Bí
thư đầu tiên, có các đồng chí: Bùi Văn Ngọc (Chín Ngọc), Bộ Kịa, Huỳnh
Công Trang, sau kết nạp thêm đồng chí Năm Hưởng, Bảy Thọ; chưa đủ số
đảng viên nên đảng viên Thường Phước, Đông Sơn sinh hoạt chung một chi
bộ.
Năm
1938-1939, chi bộ lãnh đạo phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ, chống thu thuế, chống bắt lính “người Việt chết thay cho Pháp”,
chi bộ Thường Phước vận động khoảng 100 người dự cuộc mít tinh tại Lung
Bảy Thưa, để nghe đồng chí Ngô Hữu Hạnh chỉ ra cho bà con thấy rõ thủ
đoạn bóc lột của thực dân và địa chủ, đồng thời phổ biến tình hình đất
nước và chủ trương của Đảng. Khí thế sôi nổi, đấu tranh rầm rộ hơn. Chi
bộ kết nạp thêm một số cốt cán: Phạm Chủ Lực (Năm Mỹ), Tám Đường, Tư
Tài.
Tháng
3-1973, nhân kỷ niệm ngày mất của chiến sĩ yêu nước Phan Chu Trinh, Ủy
ban hành động của Thường Phước – Đông Sơn – Phú Hữu đã tổ chức mít tinh,
phát động tinh thần yêu nước noi gương cụ.
Ngày
1-5-1938, hai chi bộ Thường Phước, Đông Sơn phát động gần 50 bà con kéo
đến Nhà việc làng đòi cứu đói, giảm thuế, giảm tô, chia lại đất cho tá
điền không có, hoặc thiếu đất.
Phát
huy thắng lợi, Đông Sơn – Thường Phước phối hợp với Phú Hữu, Thường
Đông kéo lên dinh quận, buộc tên chủ quận phải chấp nhận yêu sách gửi về
tỉnh.
Cuối
năm 1938, đồng chí Ngô Hữu Hạnh được bổ sung vào Tỉnh ủy Cần Thơ; chi
bộ tách ra: Chi bộ Thường Phước do đồng chí Trần Ngọc Hưởng làm Bí thư,
có 4 đảng viên; chi bộ Đông Sơn do đồng chí Trần Thế Mỹ làm Bí thư, có 3
đảng viên, sau đó đồng chí Bảy Thọ (Ba Kỳ) là Bí thư.
Ngày
14-7-1939, Tỉnh ủy vận động quần chúng tham gia cuộc mít tinh quy mô,
kỷ niệm 150 năm cách mạng Pháp tại thị xã Cần Thơ. Hơn 8.000 người từ
các quận đến dự, đội ngũ chỉnh tề, đa số là đồng bào quận Châu Thành (có
Đông Phước), hơn 1.000 người vào rạp Casino, số còn lại xếp hàng trật
tự ngoài rạp dài theo đường Delanoue (đường Phan Đình Phùng ngày nay)
sau đó tuần hành qua các đường, đồng thanh hát vang bài Quốc tế ca. Đây
là cuộc mít tinh công khai do người cộng sản tổ chức, đã nói lên tiếng
nói của Đảng và nguyện vọng của tầng lớp nhân dân.
Lần đầu tiên nhân dân Cần Thơ biểu dương sức mạnh đoàn kết của mình khiến quân thù run sợ, bất lực.
Cuối
năm 1938 đầu năm 1939, thực dân Pháp ở Đông dương phản bội, trở mặt đàn
áp tàn bạo, bắt bớ đảng viên, giải tán các tổ chức quần chúng hợp pháp,
gây căng thẳng trong đời sống nhân dân. Dù thế Đảng vẫn đẩy mạnh phong
trào đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh, chống tăng thuế, chống bắt lính,
yêu cầu được tham gia việc phòng thủ Đông Dương chống phát xít.
Làng Đông Sơn, Thường Phước là địa chỉ đỏ cùng một số làng khác trong phong trào này.
Từ năm 1936-1939, cao trào cách mạng vươn lên về tổ chức và lực lượng rộng khắp, vững chắc, phối hợp nhịp nhàng.
Đảng
bộ Phụng Hiệp tiếp thu Nghị quyết TW lần thứ 6 (11-1939, đưa cách mạng
nước ta sang thời kỳ mới: “Thời kỳ trực tiếp đánh đổ chế độ thống trị
của thực dân Pháp, giành độc lập, tự do cho nhân dân”. Tiếp theo, được
chủ trương của hội nghị tỉnh Cần Thơ (12-1939) các đồng chí trong ban
cán sự Đảng Phụng Hiệp trực tiếp xuống bám cơ sở, xây dựng lại các chi
bộ, có chi bộ Đông Sơn, Thường Phước.
Đồng
chí Nguyễn Văn Mai (Mai Cồ) Tỉnh ủy viên triển khai “đề cương khởi
nghĩa” cho các chi bộ: Phú Hữu, Đông Sơn, Thường Phước; được đảng viên
nhất trí cao. Tổ chức chống cướp phát triển mạnh ở Đông Sơn, Thường
Phước, thành lập từ 2 đến 3 tiểu đội bắt cướp, việc luyện tập võ nghệ
thu hút đông đảo thanh niên, nhiều lò rèn làm vũ khí thô sơ. Thực chất
là chuẩn bị cho lực lượng võ trang khởi nghĩa.
Đông
Sơn, Thường Phước tổ chức những ngày kỷ niệm, quốc tế lao động 1-5,
bằng các hình thức rải truyền đơn, treo băng, khẩu hiệu, cờ đỏ búa liềm,
phát tán báo Tiến Lên của Đặc ủy Hậu Giang. Ban đêm nổi trống, mõ làm
bọn tề xã ác ôn hoang mang, chạy trốn lánh thân.
Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật, dân ta càng cơ cực đến tột cùng.
B. ĐÔNG SƠN, THƯỜNG PHƯỚC TRONG CUỘC NAM KỲ KHỞI NGHĨA
Hội
nghị Xứ ủy tháng 9 năm 1940 quyết định khởi nghĩa Nam kỳ và quyết tâm
của Tỉnh ủy Cần Thơ xác định kế hoạch mục tiêu khởi nghĩa tại Cần Thơ.
Huyện ủy Châu Thành trực tiếp về Thường Phước, về Đông Sơn truyền lệnh
khởi nghĩa. Thời điểm hành động là không giờ đêm ngày 22 rạng
23-11-1940. Du kích Thường Phước được phân công cùng du kích Tân Phú
Thạnh phá cầu Cái Răng. Đông Sơn tập hợp quần chúng phản đế cùng lực
lượng Phú Hữu tiến về quận lỵ đánh chiếm các mục tiêu đã định.
Chi
bộ Phú Hữu vận động được 70 quần chúng, tập trung tại nhà bà Ngô Thị
Lụa ở Ngã Lá (cơ quan Liên Tỉnh ủy) cùng bà con Đông Sơn tiến về cướp
dinh quận Phụng Hiệp.
Quân khởi nghĩa được lệnh rút về Cái Cui – Đông Phú.
Năm
giờ sáng ngày 25-11. Tại nhà việc Phú Hữu, sau khi đốt hết sổ sách giấy
tờ, nổi trống mõ tập hợp quần chúng tham gia mít tinh, biểu tình thị
uy, vô rạch Mái Dầm, rồi trở ra chợ, bọn tề xã hoảng hốt trốn mất.
Cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng tinh thần bất diệt của cuộc tập dượt cướp chánh quyền đầu tiên này vẫn sống mãi trong lòng dân.
Giặc
Pháp điên cuồng bất bớ, tàn sát hàng ngàn người. Đồng chí Ngô Hữu Hạnh,
Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Cần Thơ bị chúng xử bắn tại khám lớn Cần Thơ,
sau khi chúng thất bại vì tù đày tra tấn không lay chuyển được khí tiết
của đồng chí. Người đảng viên kiên cường đầu tiên của Thường Phước, một
cán bộ lãnh đạo xuất sắc đã hiên ngang không cho bọn đồ tể bịt mắt,
trìu mến nhìn đồng bào, nhìn thẳng vào họng súng quân thù, hô to khẩu
hiệu: “Đả đảo thực dân Pháp” “Cách mạng thành công muôn năm”.
Hàng ngàn đồng bào rơi lệ, căm uất tràn vào pháp trường hét vang: “Đả đảo bọn sát nhân”.
Máu
đào người con ưu tú thấm vào đất mẹ Đông Phước cho lúa vàng, trái ngọt,
ươm ngàn hạt giống đỏ nhiều thế hệ mai sau. Ngô Hữu Hạnh đời đời sống
trong trái tim Cần Thơ – Đông Phước.
Đồng
chí Đào Văn Tần, đảng viên gần 60 tuổi Đảng, Trung đội trưởng cộng hòa
vệ binh xã Phú Thứ (1945) tâm sự rằng: “Dũng khí đảng viên của Ngô Hữu
Hạnh làm tôi kính phục Đảng và ngay ngày sau tôi đi tìm tổ chức cách
mạng”.
CHƯƠNG VI
ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN ĐÔNG PHƯỚC KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
A. VƯỢT QUA MỌI THỬ THÁCH KHÔI PHỤC CƠ SỞ ĐẢNG VÀ TỔ CHỨC QUẦN CHÚNG SAU KHỞI NGHĨA NAM KỲ (1941 – 8 / 1945)
Bọn
cầm quyền phủ màn tang đau thương trên từng gia đình của Phú Hữu, Đông
Sơn, Thường Phước. Bọn chúng vừa hốt hoảng, vừa điên cuồng mất cả tính
người, đốt nhà, hủy diệt xóm làng, giết người dã man hơn thời trung cổ.
Chúng dùng dây chì xỏ xâu tay, khất nhượng người cộng sản lẫn người
chúng tình nghi kéo lê trên mặt đường hòng đè bẹp tinh thần đấu tranh,
nhưng nhân dân ta càng khâm phục, kính trọng người đảng viên, nén đau
thương, nuốt uất hận chờ ngày hỏi tội kẻ thù.
Chi
bộ làng Phú Hữu, Đông Sơn, Thường Phước vv… bị tan rã. Thực hiện nghị
quyết của hội nghị đại biểu các quận trong tỉnh vào tháng 1 năm 1941,
tại Bù Hút, làng Phong Hòa, các quận khẩn trương xây dựng lại các chi bộ
bị tan rã, đồng thời phục hồi và phát triển các tổ chức quần chúng:
thanh niên, phụ nữ, nông dân phản đế.
Một
cổ hai tròng, phát xít Nhật càng tàn ác hơn, dùng người để làm bia thử
súng, mổ bụng người thử độ bén của gươm. Chúng vơ vét, bóc lộ tận xương
tủy để cung phụng cho trận chiến mà chúng sắp thua cuộc. Đặt thêm nhiều
thứ thuế vô lý như thuế nóc gia, thuế lương bổng vv… Bắt dân nhổ dâu tằm
ăn để trồng đay, tập trung lúa gạo của dân vào kho dự trữ cho chiến
tranh, người thất nghiệp càng đông, trộm cướp hoành hành, cảnh nhà chòi
xiêu vẹo, mập mờ ánh rọi mù u, người đói nằm la liệt không còn đủ bông
súng, củ co để thay cơm. Bệnh tật không có thuốc uống, nạn dịch lan
tràn, tiếng mỏ kêu cứu báo hiệu người chết hòa với tiếng ếch nhái côn
trùng thê thảm. Quần bô, áo dệt bằng cọng lác, không đủ che thân, bị rận
hút máu. Nguy hiểm hơn, bọn chúng khuyến khích cho các đạo giáo Cao
Đài, Hòa Hảo phát triển mạnh nhằm ru ngủ dân nghèo vào con đường mê tín,
cầu an.
Trước
bối cảnh lịch sử vô cùng phức tạp, nhờ có ánh sáng nghị quyết hội nghị
Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 và chủ trương kịp thời đúng đắn của
Liên Tỉnh ủy Hậu Giang (7-1942), chỉ đạo các địa phương nhanh chóng
khôi phục các tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng tổ chức quần chúng, lực lượng
cách mạng nông thôn.
Đồng
chí Lưu Kim Phong (Bảy Quới) về chỉ đạo một số làng có Thường Phước,
Đông Sơn; phong trào lên mạnh toàn diện, sôi nổi rực khí thế.
Sáng
10-3-1945 Nhật đảo chính Pháp. Tên chỉ huy giặc lùn “Satô” đổ 600 quân
về Cần Thơ, do tên Huỳnh Khai đầu sỏ của nghĩa sĩ Đảng (tên việt gian
này là con tên hội đồng gian ác). Bọn côn đồ này, cùng lính Nhật đua
nhau cướp bóc gây cảnh hỗn loạn từ thành thị đến nông thôn, đời sống
nhân dân ngày càng cơ cực, căm phẫn. Vè chống Nhật được phổ biến khắp
tỉnh.
“Trời cao có thấy
Cái bọn giặc lùn
Bức bách xóm làng
Giết người mổ bụng
Không cho làm ruộng
Bắt trồng bố đay
Qụa kêu dậy đất
Được chẳng mấy lúc
Giải pháp đầu hàng”
Tình hình thế giới và trong nước diễn biến nhanh
Ngày
12-3-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta” đã phát động mạnh mẽ phong trào cách mạng
của nhân dân chống phát xít Nhật và chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tháng 4
– 1945, Đông Phước được vinh dự bảo vệ cuộc hội nghị thành lập Liên
Tỉnh ủy miền Tây gồm 11 tỉnh, do đồng chí Nguyễn Văn Tây, Xứ ủy viên
triệu tập tại rạch Cái Muồng.
Hội nghị bầu ban chấp hành Liên Tỉnh ủy do đồng chí Nguyễn Văn Tây (Bí thư), Trần Ngọc Quế, Ủy viên phụ trách Cần Thơ.
Ngày
1 – 5 – 1945 phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, quân Nhật bị tấn công
mạnh ở Thái Bình Dương. Rất hoang mang, chúng muốn nắm lực lượng thanh
niên để làm hậu thuẫn. Tên cáo già trùm phát xít IĐA chọn bác sĩ Phạm
Ngọc Thạch, nhà trí thức có uy tín ở Sài Gòn làm thủ lĩnh.
Xứ
ủy chọn đồng chí Phạm Ngọc Thạch để lãnh đạo “Thanh niên tiền phong” và
chỉ thị cho các cấp chọn người thủ lĩnh tổ chức này. Ở Cần Thơ Tỉnh ủy
chọn đồng chí Trần Văn Khéo, chủ tịch nghiệp đoàn giáo Thức làm thủ
lĩnh. Ở Đông Sơn, Thường Phước phong trào thanh niên tiền phong rất sôi
nổi.
Sông
nước, ruộng đồng Đông Phước sáng lên theo lời ca yêu nước “Lên đàng”
“Tiếng gọi thanh niên” của người sinh viên nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (Người
con đất Ô Môn – Cần Thơ) thúc giục chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Đông Phước bí mật rèn gươm giáo, mã tấu, phi tiêu, tầm vông vạt nhọn để vũ trang cho đồng bào.
Ngày
16-8-1945, đại hội quốc dân Tân Trào ra lệnh tổng khởi nghĩa. Đây là
thời cơ “ngàn năm có một” mà Đảng ta và lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh
nắm bắt rất chính xác khoa học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra hiệu triệu, kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên giành chính quyền.
Ngày 19-8-1945, ta cướp chính quyền Pháp tại Hà Nội, chính quyền địch sụp đổ nhanh chóng tạo thời cơ cho toàn đất nước.
Chi
bộ Đông Sơn, Thường Phước (có trên 50 đảng viên) lãnh đạo lực lượng
nhân dân nổi dậy bằng sức mạnh chính trị, vũ trang. Bọn tề làng hoàn
toàn tê liệt.
Tin Cần Thơ cướp chính quyền, làm nức lòng người.
Dưới
sự hướng dẫn của nhóm nòng cốt: Phan Đình Hoàng, Lê Hồng Nhật, Nguyễn
Thị Phát, Nguyễn Thị Thơm, Trần Tuyết Hạnh, Phạm Phú Tải, Nguyễn Thị
Chiến, Trần Phong Cầm, Trần Phong Sắc, Hai Kình, lực lượng quần chúng
làng Đông Sơn, Thường Phước, Thường Thạnh kéo về sân vận động Phụng Hiệp
(chừng 1.000 người ), trương băng, cờ đỏ sao vàng, bao vây dinh quận,
hô vang khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm” “Đảng Cộng sản Đông Dương
muôn năm”.
Ngày
26-8-1945, lực lượng và nhân dân Đông Sơn, Thường Phước hòa theo 2 vạn
người tiến về Cần Thơ, biến cuộc mít tinh thành cuộc cướp chính quyền
tỉnh Cần Thơ.
Nhân
dân Đông Phước, dưới cờ Đảng đã vùng lên đổi đời. Trải qua đoạn đường
15 năm xương máu, hoa “độc lập đã nở” nhân dân thật sự là chủ đất nước,
xóa đời nô lệ 80 năm xiềng xích thoát kiếp lầm than dưới chế độ vua chúa
ngàn đời.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Đông Phước hăng hái chuẩn bị chiến đấu với giặc Pháp tái xâm lược.
Quân dân Đông Phước đáp lời Bác Hồ: “Thà hy sinh tất cả, nhất định không để mất nước, nhất định không làm nô lệ”.
PHẦN BA
ĐẢNG BỘ VÀ QUÂN DÂN ĐÔNG PHƯỚC
TIẾN HÀNH CUỘC KHÁNG CHIẾN
TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)
CHƯƠNG VII
I. NHỮNG NGÀY NAM BỘ KHÁNG CHIẾN ĐẾN TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (26-8-1945 ĐẾN 19-12-1946)
Lá
cờ tổ quốc sao vàng phất phới sáng rực xóm làng Đông Phước, thắp sáng
niềm tin trong lòng người công dân nước độc lập. Từ dòng sông, đồng
ruộng vút cao tiếng hát của những người hăng say làm việc hết mình để
thực hiện lời hiệu triệu của Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh Cần
Thơ, ông Trần Ngọc Quế ngày 26-8 và Nghị quyết 7 điểm của Tỉnh ủy Cần
Thơ.
Mới
được mấy ngày vui, Đông Phước phải đối phó với âm mưu của bọn đầu sỏ
phản động đội lốt tôn giáo xúi giục, huy động một số tín đồ Hòa Hảo nhẹ
dạ hòng cướp chính quyền cách mạng Cần Thơ ngày 9-9-1945. Trước cảnh nồi
da xáo thịt đau xót này, đồng bào Đông Sơn – Thường Phước chấp hành chỉ
thị của Tỉnh ủy ra sức thuyết phục, không gây đổ máu. Nhưng một số tín
đồ cuồng tín, bị lừa gạt là đi dự lễ “rước thầy”, súng cộng sản không nổ
do phép của đức Thầy.
Ta
rất khoan hồng với số tín đồ vốn là nông dân nghèo lao động, xử lý
nghiêm minh với bọn đầu sỏ phản động, đồng bào theo đạo Hòa Hảo đã hiểu
ra chính sách đại nghĩa, nhân đạo của Đảng, một số quay lại ủng hộ ta.
Ngày
23-9-1945, giặc Pháp chiếm Sài Gòn, tiếng súng kháng chiến của Nam bộ
đã nổ; ngày 26-9-1945 Hồ Chủ tịch gởi thư kêu gọi đồng bào Nam bộ đứng
lên kháng chiến. Người khẳng định: “chúng ta nhất định thắng lợi, vì
chúng ta có lực lượng đoàn kết toàn dân, vì cuộc đấu tranh của chúng ta
là chính nghĩa”.
Ngày
30-10-1945, chúng đánh chiếm thị xã Cần Thơ. Chi bộ Đông Sơn – Thường
Phước đáp lời Cụ Hồ phát động nhân dân chuẩn bị đánh Tây, trong tình
cảnh kinh tế kiệt quệ, cơm chưa no, áo chưa lành. Người dân Đông Phước
lại nóp với giáo mang ngang vai, tầm vông vạt nhọn, quần bô áo vải hiên
ngang chiến đấu trên đường phố Cần Thơ, Cái Răng, Phụng Hiệp suốt 70
ngày đêm oai hùng, nhiều gương chiến đấu hy sinh, dũng cảm. Đồng bào
Đông Phước hăng hái đắp cản: Cản Bà Vèn tiếp sau là cản đất, cản vàm Cái
Muồng, cản Ngã Sáu, cản Ngã Cạy, cản Mương Trắc, vàm Cái Đôi, phá đường
đào lộ ngăn chặn giao thông địch.
Phụng Hiệp được tăng cường cán bộ lãnh đạo, những viên ngọc quý từ Côn Đảo đã trở về.
Để
chuẩn bị kháng chiến, trước tình hình khó khăn, thực hiện lời kêu gọi
của Trung ương Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Cần Thơ phát
động “Tuần lễ vàng” để mua súng đạn. Nhiều cụ già, phụ nữ hiến cả bông
tai, nhẫn cưới. Tiếp theo là “tuần lễ đồng chì thau”, để làm vũ khí; bà
con hiến cả nồi đồng, mâm thau, bộ lư đồng, chân đèn đồng đang thờ ông
bà, ống ngoáy trầu; đây là cử chỉ cao đẹp vì nghĩa lớn dân tộc.
Một
niềm vui lớn, Mặt trận Việt Minh xã Đông Phước ra đời tại Kinh Mới do
ông Bảy Chưởng (Chủ tịch), ông Bảy Thọ (Phó Chủ tịch), ông Tám Đường (Ủy
viên) Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Đông Sơn là ông: Bảy Chưởng, xã
Thường Phước là ông Lương Minh Lường.
Dồn
dập tin vui, ngày 12-11-1945, trận chiến thắng hóa trang đánh kỳ tập
của đội cảm tử Lê Bình vào bọn chỉ huy giặc Pháp ở Cái Răng, tại Nhà
việc Thường Thạnh diệt một số tên, bắn trọng thương tên quan ba Rouen.
Ngày
25-12-1945, ngày hội lớn dân tộc, ngày bầu cử quốc hội đầu tiên nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Do tình hình chiến tranh Chính phủ quyết định
cho Nam bộ tiến hành trước 10 ngày. Lớp lớp người giương cao cờ Tổ
quốc, trương băng khẩu hiệu, hát vang “hãy đi bầu, chúng ta cùng đi, nam
nữ đi bỏ thăm, thi hành quyền tự quyết”. Đạp bằng mọi phá hoại của
địch, cuộc phổ thông đầu phiếu thành công tốt đẹp.
Đầu
tháng 1-1946, cộng hòa vệ bình diệt hai xe trên lộ Tầm Vu, tên quan năm
Dessert chỉ huy trưởng chiến trường miền Tây, là tên sĩ quan cao cấp
đầu tiên của cuộc chiến Đông Dương bỏ mạng trên đất Cần Thơ.
Phong trào chống giặc dốt làm vui xóm làng với tiếng đánh vần ê a, với câu hát vui:
Cô kia má đỏ hồng hồng
Vì không biết chữ nên chồng cô chê
Người biết nhiều dạy người biết ít, người mới biết dạy người chưa biết. Con cháu dạy ông bà mang kiếng soi, đồ từng chữ.
Lớp
học bình dân ban đêm lấy trăng làm đèn, lấy than thay bút, lấy bẹ chuối
thay giấy. Sau buổi học, già trẻ say sưa ca hát, bàn chuyện ngày mai
sản xuất, xây làng chiến đấu.
Phong
trào giảm tô, giảm tức từ 25% đến 50%, hiến đất cho cách mạng để cấp
cho nông dân được hưởng ứng tự nguyện. Phần lớn địa chủ là loại nhỏ, có
lòng yêu nước được đảng viên ta khéo léo vận dụng đường lối giai cấp,
giúp họ giác ngộ từ bỏ giai cấp đối kháng hăng hái chấp hành chính sách.
Trong số này có số trở thành đảng viên như: Bộ Kịa Lê Bộ Tư, hay thành
cán bộ cách mạng như Liễu Quốc Trường, Chủ tịch xã Thường Phước (1952),
Hà Chí Tôn (Phó Chủ tịch) và con cháu họ đi kháng chiến. Ông Đặng Ý Chợ
(huyện Chợ) hiến 1.200 công đất.
Ta phát động phong trào cải tạo đất vườn, hướng dẫn làm bao ngạn, đào kinh mương nên đời sống khá giả lên.
Nạn
rượu chè, mê tín, đồng bóng lùi dần trước ánh sáng văn hóa (đời sống
mới), nhà không cần đóng cửa, ghe xuồng, cây trái không cần giữ, xóm ấp
thương yêu đùm bọc nhau.
Sau
khi lực lượng ta tạm rút về U Minh, đảng viên cán bộ Đông Phước vẫn về
với dân bám trụ. Phải chăng, đây là truyền thống bám trụ suốt 30 năm qua
hai cuộc kháng chiến, nổi bật nhất là thời kỳ đánh Mỹ của chi bộ, bí
thư, cấp ủy và đảng viên Đông Phước.
Bây
giờ, xin đọc truyện kể của người Đông Phước đánh Tây, người thanh niên
Lê Văn Thượng (Năm Thượng) sinh năm 1925 tại ấp Phước Long, công nhân
nhà máy xay, 1945 là thiếu trưởng thanh niên tiền phong. Vì bực tức,
không chịu nổi sự ngang tàng phá phách của giặc, anh tập hợp một số
thanh niên trong ấp để trừ gian diệt tề. Trong nhóm có anh Văn viết
truyền đơn rất đẹp, nhờ vợ chủ tịch Chưởng (Đông Sơn) mua bút giấy, rau
câu để Giáo Quân in truyền đơn phân phát cho Mười Điểm, Mười Nỉ rải ở
Cầu Xéo dài vô chợ Cần Thơ.
Nhóm chỉ có một súng Rulô của anh Ba Xồi tức Lương Minh Chương em Lương Minh Lường (Chủ tịch xã Thường Phước).
Anh
Năm Thượng chạy sang xã Phú Thứ gặp chỉ huy đội Sát gian Đảng là Hoàng
Hà để bàn cách phối hợp, có khi mượn súng mi trai dết. Dần dần gây dựng
tiền thân Quốc vệ đội của Cần Thơ có: Lê Văn Thượng chỉ huy, gần 30 đội
viên (đa số ở Đông Phước). Có một súng Rulô, một súng mút, lựu đạn nhôm
phải đập, tầm vông, mã tấu, ná lẫy, phi tiêu.
Trận đầu tiên, bắn chết một lính Tây vô bắt gà nhà ông Qúy, máy bay rà bắn tới phủ Thờ.
Trận thứ hai, du kích Đông Phước cùng cộng hòa vệ binh Cà Mau đánh tàu lửa Cần Thơ ghé sát vào bờ diệt một số tên.
Quốc
vệ đội đánh thằng tây Roobe – con của chủ điền tây La-Bách, lấy 1
carbine, 3 súng trường. Ty công an Cần Thơ ra đời, lập Quốc vệ đội.
Quốc
vệ đội bây giờ (dân gọi là bộ đội 5 Thượng) đã có colt 12 ly của Năm
Thượng, 2 carbine của Cao Thanh Đời và 6 Gan, mi trai dết, phục kích tại
Nhà việc Thường Phước (đã bị phá), đánh cả tiểu đoàn Tây và lính đầu
đỏ.
Ta
nổ súng đồng loạt, rồi đánh cản hậu. Bọn địch phải lấy hết hòm của trại
hòm Mười Đài chôn thây. Sau đó, đánh lính Hòa Hảo giải vây cho đồng chí
Trương Văn Quá (Ba Rế), Phạm Kim Tòng (Mười Trấn), cán bộ Tỉnh ủy tại
cầu Cái Sâu (Đìa Xoài).
Cuối
1946-1947, bộ đội Ngô Hồng Giỏi đánh thằng tây Na-Bê dẫn tiểu đội lính
đi bố, thu toàn bộ vũ khí, vài tên lính băng đồng, dân quân rượt theo
cướp súng. Trận này có mặt anh Ba Thọ, Ủy viên quân sự của xã Thường
Phước.
Để
thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy đẩy mạnh vũ trang, ta đánh thắng trận
Tầm Vu II vào 8 giờ sáng 3-5-1947. Trận này ngoài lực lượng chính là Vệ
quốc đoàn, còn dân quân du kích (có du kích Đông Phước) và Quốc vệ đội
Cần Thơ, anh Năm Thượng bắt được tên trung úy Pháp đội Bê rê đỏ đi xe
jeep đầu. Thắng trận kéo về Ông Hào (Trường Long) đồng chí Chỉ huy
trưởng Huỳnh Phan Hộ, Khu bộ trưởng Khu 9, gắn thưởng Huy hiệu Hồ Chí
Minh cho đơn vị và chiến sĩ trong lễ mừng công. Đây là trận giao chiến
vang dội, còn âm vang mãi trong lòng người Cần Thơ và cả nước bài hát
Tầm Vu, nhạc: Đắc Nhẫn, lời: Quốc Hương.
Tháng
8-1946, một sự kiện chính trị quan trọng: Cuộc hội nghị thành lập Tỉnh
ủy và Ủy ban kháng chiến lâm thời của Tỉnh Cần Thơ tại nhà ông Thái Văn
Hiệu ở ấp Phước Hưng, mương Ông Như ở vàm Ngã Cạy (Đông Phước).
Theo
lời kể của ông Năm Thượng là đồng chí Nguyễn Xuân Mai (Mai Chí Thọ),
gọi ông Năm Thọ về vùng Phụng Hiệp dự hội nghị, nhưng hai địa điểm hội
nghị đều bị lộ. Ông Năm Thượng tổ chức đưa hội nghị về Đông Phước. Hội
nghị có mặt đồng chí Nguyễn Truyền Thanh (Ba Lê) được bầu là Bí thư Tỉnh
ủy, Trần Ngọc Quế phụ trách Ủy ban kháng chiến, Trần Văn Hoài (Hoài U)
phụ trách quân sự. Nguyễn Minh Hạnh phụ trách Mặt trận Việt Minh tỉnh,
Lương Chí phụ trách nông dân, chị Tấn phụ trách phụ nữ, Hoàn Trung Thực
phụ trách thanh niên, Mai Chí Thọ phụ trách công an, Chín Hà phụ trách
giao thông liên lạc.
Hội
nghị an toàn dưới sự lo lắng, giúp đỡ của chi bộ và đồng bào. Ông Năm
Thượng được Mai Chí Thọ phân công: trưởng Công an huyện Châu Thành.
Khi
lực lượng ta từ U Minh trở về đồng chí Trần Văn Hoài đưa một tiểu đội
Vệ quốc đoàn về hỗ trợ cho Đông Phước phát triển phong trào du kích. Ở
ấp Phước Hòa đã có trung đội dân quân tự vệ do anh Lê Thành Trung chỉ
huy (sau này tháng 10-1947 anh được kết nạp vào Đảng, năm 1951 là Bí thư
chi bộ Thường Phước).
Nổi bật là anh Cự du kích ấp Long An và Rạch Kết, mỗi lần anh chạy té xuống là gài xong ngay trái lựu đạn.
Như
vậy từ năm 1946-1947 Đảng bộ lãnh đạo nhân dân Đông Phước liên tục xây
dựng lực lượng từ tay không, với lòng căm thù cao độ, họ biết sáng tạo
vũ khí thô sơ, tổ chức cướp súng địch, diệt tề, trừ gian, đánh du kích
chống càn. Quân thù khi xét giấy biết là dân Đông Phước thì làm khó dễ
tuy rất ngán sợ.
Từ năm 1947-1949-1950
Năm
1947, do yêu cầu của chiến trường, Huyện ủy quyết định sát nhập Đông
Sơn – Thường Phước do đồng chí Phạm Chủ Lực (Năm Mỹ) làm Bí thư thay
đồng chí Bảy Thọ rút về trên, Năm Hưởng về Phú Hữu, chi bộ có 20 đảng
viên, chi ủy có 5 đồng chí, cơ quan đóng tại kinh Hai Phó.
Sau
đó Mặt trận Liên Việt ra mắt tại vàm Xẻo Chồi, ông Nguyễn Thành Thị
(Hai Thị) làm Chủ tịch, ông Chín Sửa (đại diện Cao Đài) cùng 5 thành
viên khác. Khối đại đoàn kết được mở rộng, nhiều nhân sĩ, trí thức, địa
chủ xin vào hội. Đầu năm 1948, đổi tên Ủy ban kháng chiến thành Ủy ban
kháng chiến hành chính, do ông Bảy Chưởng làm Chủ tịch, ông Tám Đường là
Phó Chủ tịch và 6 Ủy viên Ba Thọ (Xã đội trưởng) sau đó ông Nguyễn Tấn
Nhuận thay làm Chủ tịch.
Như vậy, Đông Phước được kiện toàn bộ máy lãnh đạo, nâng phong trào lên ngày càng cao một cách toàn diện.
Các
đoàn thể cách mạng hoạt động có chất lượng như: Nông dân cứu quốc, Ban
chấp hành phụ nữ xã do bà Hai Trinh, sau đó là bà Kim Chi làm trưởng ban
(các ấp điều có tổ phụ nữ), thanh niên cứu quốc do ông Lê Đình Thu phụ
trách. Lực lượng du kích phát triển nhanh có từ hai đến ba tiểu đội, sức
sản xuất phát triển, cuộc sống mọi mặt lên dần, vùng giải phóng vững
chắc.
Chi
bộ và chính quyền chăm lo về y tế, ăn ở vệ sinh, phòng bệnh, có thuốc
tây, thuốc nam trị bệnh. Giáo dục xóa dần nạn mù chữ, tri thức cán bộ
rộng hơn, công tác hiệu quả. Tiếng hát, câu hò, vè kháng chiến vang lên
dưới dòng sông sáng ánh trăng, làm ấm lòng người, đem lạ niềm vui và sức
sống trong tâm hồn làm khắn khít tình quân dân. Những đêm văn nghệ ở
khán đài Đông Sơn cả ngàn người xem, không sợ obus của đồn Cả Bảo dội
xuống.
Năm
1948, du kích xã phối hợp với Quốc vệ đội và bộ đội Ngô Hồng Giỏi tiêu
diệt đồn Hòa Hảo ban ngày ở Cái Muồng đóng tại nhà chủ Xướng. Ta vây đồn
một tuần. Anh Giao chỉ huy Vệ quốc đoàn của Cần Thơ chặn đường Đất Sét.
Anh Năm Thượng, Quốc vệ đội chặn từ Bờ Dầu ra Cái Chanh đánh tàu Tây vô
cứu viện.
Tiếp đến đại đội 1085, do Trần Ngọc Trúc chỉ huy pháo kích từ Rạch Vông ra Xóm Chài (ngang chợ Cần Thơ).
Tháng
6-1947, tên xếp Tây NaBê, dẫn một tiểu đội hành quân bằng tam bản bắt
Chủ tịch Bảy Chưởng, cán bộ Ba Dung giải về Cái Răng.
Đội du kích cùng tiểu đội Vệ quốc đoàn tăng cường cho Đông Phước đánh giải cứu, diệt 12 tên, có Tây NaBê, thu 12 súng.
Ngày
30-8-1950, ta đánh úp đồn Phước Long diệt 20 tên. Vây đánh đại đội 17
Hòa Hảo ngoài đồng, đánh xáp lá cà bằng báng súng, diệt 20 tên. Dân rượt
chúng tới bót Rau Cần mót thêm ít súng.
Tên
cò Jacquemain, dẫn lính từ thị xã Cần Thơ đi bố có xe lội nước. Chúng
mặc đò đen, quấn khăn rằn giả bộ đội của ta, bị đại đội 1085, anh Giao
chỉ huy đón đánh ở ấp Phước Hưng.
Từ
tháng 3-1951, đồng chí Lê Đình Thu là Phó Bí thư kiêm Chính trị viên,
Xã đội Thường Phước, đồng chí Thiểu làm xã đội trưởng đã hy sinh, đồng
chí Lê Văn Som lên thay. Xã đội có một tiểu đội du kích cơ động. Đồng
chí Nghĩa là Tiểu đội trưởng, đội viên có anh Ấn, Đê, Tính… trang bị 3
súng mút Nga, một mút Anh, một Lebel và nhiều lựu đạn ném, lựu đạn gài.
Thường
kết hợp với trung đội ba, đại đội 1090 đánh bọn Com măng đô Cái Tắc
biệt kích vùng, và bọn lính Hòa Hảo; làm rào chiến đấu gài trái, chúng
sợ không vô được. Còn qua lộ Đông Dương gài lựu đạn chặn bọn chúng tuần
tiễu. Bọn này rất ngán lựu đạn giật dây luồn trong cỏ, phải cho lính
xuống ruộng rà tìm mới dám đi.
Vào
năm 1952, tiểu đoàn 308 về đóng Xẻo Cách (ngọn Cái Đôi) đem theo súng
DKZ để đêm sau hạ đồn đại đội Hòa Hảo 17 ở Ngã Sáu. Sáng chúng kéo nhau
ra khỏi đồn đi ruồng. Tiểu đoàn 308, dân quân đánh bật chúng chạy về đồn
bỏ lại 20 mạng, ta thu hơn 10 súng, trận này đội du kích chặn phía kinh
nhỏ ngọn Ông Hoạch. Trung đội ba giữ mặt Cái Nhum (lộ xe).
Đội du kích giải thoát cho một số cán bộ xã Thường Đông tạm lánh qua Xẻo Cách ngọn Cái Đôi.
Về binh vận cũng đạt nhiều kết quả. Tên Đê con Hương Hào Dậu ra hàng mang theo một mút Anh.
Đồng
chí Lê Đình Thu, viết thư binh vận rất nhiều cho từng đối tượng. Ông
Hai Khỏe và Năm Thiệt rải truyền đơn rồi đưa thơ cho tên tiểu đội trưởng
trong đại đội 6 Hòa Hảo đóng Ngã Cạy.
Tên
Vận và hai lính đưa quần áo ra trước hẹn 3 đến 4 giờ sáng sẽ ra. Ta đợi
và cảnh giác vừa rút về thì chúng đi ra gặp trung đội 3, nộp 6 súng và
nhiều đạn, ta chia trung đội 3 ba khẩu, du kích ba khẩu.
Để
bảo vệ đường liên lạc huyết hạch của ta ngang qua kinh Hai Phó mới đào,
từ xã Đông Phú, Thạnh An qua Thường Phước rồi qua lộ Đông Dương về
tỉnh, về khu, ta vận động lính đại đội 17 đóng Ngã Sáu, ông Năm Khanh
nắm được ý nguyện của Trung đội trưởng Vực muốn gặp ta. Đồng chí Lê Đình
Thu gặp Vực. Hai bên chuyện trò, tên Vực đắc chí, lần sau kéo theo tham
mưu Mười gặp ta, và hứa không phá đường dây của ta, còn cùng đồng chí
Thu ngồi ghe hàng của ta nghi trang nồi đất ở trên chuyển qua lộ.
Ta làm ngã rũ năm tên, còn lại hai tên cài lại phục vụ yêu cầu của ta.
Thời
gian này, phong trào lên toàn diện, nhất là phong trào văn nghệ sôi
nổi. Nhạc sĩ Hoàng Lưu từ Cần Thơ về xã viết bài hát “Du kích giữ làng”
được bà con hát nâng khí thế xã nhà.
Anh
Nguyễn Phước Tống, người ấp Phước Hòa (đảng viên 1948) đi bộ đội Ngô
Hồng Giỏi từ tháng 10-1946, anh đã tham gia đầy đủ 4 trận Tầm Vu. Anh kể
lại trận đánh lính trung đoàn 5 tại vàm kinh Nhỏ (1950) của trung đội
3, đại đội 1090 phối hợp với du kích Đông Phước – được tin xã đội trưởng
báo là Hòa Hảo đi càn nhưng thật là một tiểu đoàn của sư đoàn 5, ta
đánh chúng tại Mỏ Neo, tiêu diệt 8 tên. Địch đi từ cầu ông Hoạch bọc hậu
ta diệt thêm 6 tên.
Từ
1949-1950, sau thất bại nặng nề ở chiến trường Việt Bắc quân viễn chinh
Pháp đành chuyển sang chiến lược đánh lâu dài, “dùng người Việt đánh
người Việt”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” mong cứu vãn tình thế
nguy ngập.
Địch
xem Châu Thành là địa bàn trọng yếu của Cần Thơ, và Cần Thơ là địa bàn
trọng yếu của miền Tây Nam bộ. Địch bắt lính lập các tiểu đoàn thân
binh, vũ tranh trong Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, tô dày đồn bót để chốt
chặn, càn quét các xã ven đô thị xã Cần Thơ, chúng muốn ngăn cắt con
đường độc đạo từ Khu 9 về tỉnh Vĩnh Trà, về Khu 8 đi ngang Đông Phước.
Vào
cuối tháng 9-1949, thi hành nghị quyết hội nghị khoáng đai của tỉnh,
Phụng Hiệp giao xã Đông Sơn và Thường Phước về huyện Châu Thành (nằm
trong vùng 6 xã ven thị xã Cần Thơ).
Đông
Phước phát huy chiến đấu, củng cố vững chắc căn cứ vùng giải phóng phát
triển nhiều mặt, đời sống sản xuất, xây dựng chính quyền ngày càng vươn
cao.
Từ 1951 - 1952
Ở
chiến trường Bắc Bộ, ta liên tiếp tiêu diệt sinh lực địch như chiến
dịch Hòa Bình ở Tây Bắc (tháng 2-1952) đã dồn địch vào thế bất bại, tinh
thần hoang mang đến cực độ.
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng từ 11 đến 19 tháng 2 năm
1951. Đại hội quyết định đưa Đảng ra công khai, đổi tên là Đảng LAO ĐỘNG
VIỆT NAM, tạo phấn khởi cho toàn dân tộc niềm tin nhất định thắng.
Đảng ra hiệu triệu cho toàn quân, toàn dân thực hiện khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Mùa
hè năm 1951, Bộ Tư lệnh phân liên khu miền Tây, mở chiến dịch Sóc Trăng
II. Huyện Châu Thành động viên các xã, trong đó có Đông Phước đánh địch
liên tục, phá lộ, đắp mô, đốn cây, hạ cột dây thép, chặn đường tiếp
diện trên tuyến lộ Cái Tắc – Ban Thạch.
Vào
cuối năm 1951, cán bộ đảng viên về bám cơ sở, bám dân vùng địch hậu xây
dựng tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng, ấp xã chiến đấu đánh địch nống
ra càn quét.
Hai
chi bộ Đông Sơn – Thường Phước phát triển hơn 100 đảng viên được xác
định là xã có du kích chiến tranh mạnh, công tác binh – địch vận giỏi
làm suy yếu tan rã hàng ngũ địch.
Ta
mở lại các trạm xuất nhập thị, trao đổi hàng hóa giữa hai vùng để giả
quyết đầu ra cho nông sản thực phẩm (lúa gạo) đồng thời mua được những
hàng cần thiết nâng cao đời sống, phục vụ cho chiến đấu như: dầu thắp
sáng, thuốc trị bệnh, nguyên liệu cho xưởng sản xuất vũ khí. Đến năm
1952, tiếp tục cấp đất cho nông dân, các vùng đều đóng thuế nông nghiệp
nhiều, lạc quyên cho cách mạng cao nhất, phong trào văn hóa – văn nghệ, y
tế, giáo dục được khôi phục và phát triển ở Đông Phước, các đội văn
nghệ, đội thông tin tuyên truyền lao động vào vùng ven gần đồn địch,
đồng bào càng tin tưởng cách mạng. Phòng thông tin của huyện tại ngã tư
Đông Sơn do đồng chí Phạm Trọng Yêm (Chín Công, Trưởng phòng thông tin
huyện Châu Thành xây dựng từ lâu) thì nay càng hấp dẫn hơn với hình ảnh
chiến thắng, với lời ca tân cổ ngợi ca chiến công Đông Phước, với tiếng
đàn tân cổ hòa điệu của violon, tây ban cầm, kèn ác-mo-ni-ca, tiếng đàn
guita móc máng, đàn kìm, đàn cò, trống phách tươi trẻ, hùng hồn.
Phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, lực lượng du kích Đông Phước được nhận cờ “chiến sĩ thi đua” cấp huyện và tỉnh.
Không
khí chuẩn bị tổng phản công ở Đông Phước rất rầm rộ, toàn diện. Đông
Phước xứng đáng là nơi giữ vững đường liên lạc cho khu, nơi đứng chân
cho bộ đội lớn cấp đại đội (1085-1090), cấp tiểu đoàn (Tây Đô), cấp
trung đoàn (122 Ngô Hồng Giỏi) là hậu cứ an toàn cho các bộ phận Khu ủy,
Tỉnh ủy, Thị xã ủy Cần Thơ, Huyện ủy Châu Thành – Phụng Hiệp, nơi cung
cấp nhiều nhân lực, tài lực ngày càng dồi dào, biểu hiện tinh thần bám
trụ, tình dân nghĩa Đảng.
Từ 1953 - 1954
Năm 1953, Pháp cho Mỹ nhảy vào Đông Dương, Mỹ đưa tướng Nava với kế hoạch Bình Định 18 tháng.
Bộ
chính trị Đảng ta đề ra phương châm chiến lược trong Đông Xuân 1953
nghị quyết đại hội đại biểu tỉnh Cần Thơ lần thứ ba (4-1953) đã động
viên cán bộ, đảng viên và nhân dân khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm
vụ mới.
Đông
Phước vươn lên đánh địch, bao vây đồn, đẩy mạnh mũi binh vận, đồng thời
hưởng ứng tuần lễ lạc quyên; có người ủng hộ gần hết tài sản gia đình.
Đông Phước dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Phụng Hiệp xông lên tiến công
hưởng ứng chiến dịch Điện Biên Phủ, nâng cao uy thế chính phủ ta trên
bàn Hội nghị Genève. Đông Phước bao vây, tiêu diệt 14/19 đồn bót, vùng
giải phóng ta mở rộng đến đâu thì tịch thu ruộng đất của Pháp, của địa
chủ phản động tạm cấp cho nhân dân đến đó.
Ngày 7-5-1954 tướng Pháp De Castrie đầu hàng tại Điện Biên Phủ.
Ngày 20-7-1954, Hiệp định Genève được ký kết một cách thắng lợi về ta.
Ngày
1-8-1954, tiếng súng đã ngưng bắn. Đảng bộ Đông Phước vận động nhân dân
tham gia cuộc biểu tình lớn vào thị xã Cần Thơ hô vang khẩu hiệu “hoan
hô hòa bình”, “hoan hô Hiệp định Genève”, “hoan hô đình chiến ở Đông
Dương”, “Việt Nam độc lập muôn năm”. Nhân dân phấn khởi đi mít tinh, hội
họp nghe giải thích thắng lợi của Hiệp định Genève. Đảng bộ tăng cường
giáo dục đảng viên, cán bộ, nhân dân về tình hình nhiệm vụ mới, về âm
mưu thâm độc của kẻ thù để tránh ảo tưởng hòa bình, chuẩn bị ý chí đấu
tranh. Đảng viên cán bộ quán triệt tư tưởng đấu tranh cách mạng lâu dài,
đi tập kết hay ở lại đều vình quang. Đảng viên, cán bộ, ngày đêm lao
vào công việc tạm cấp ruộng đất, xây dựng đời sống cách mạng ở nông thôn
như trường học, trạm y tế, nhà bảo sanh, đào tạo cán bộ các ngành.
Nổi
nhất là phong trào văn nghệ, các đoàn ca múa đã gieo vào lòng người dân
ở đây một tình cảm yêu thương Đảng và Bác, một niềm tin ngày mai, còn
giác ngộ được một số binh lính ngụy quyền.
Trong
thời gian ngắn, đảng viên cán bộ, bộ đội đã để lại trong tim người
“tình dân nghĩa Đảng”, là hành trang quý báu có một không hai trên con
đường tranh đấu với kẻ thù giàu nhất và tàn bạo thâm độc nhất thế giới.
Dân
tộc Việt Nam đã đập tan gồng xiềng nô lệ 80 năm, người dân Đông Phước
ngẩng cao đầu với tư thế anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí Minh.
PHẦN THỨ TƯ
21 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
CỦA ĐẢNG BỘ, QUÂN DÂN XÃ ĐÔNG PHƯỚC
CHƯƠNG VIII
CHUYỂN
HƯỚNG TỪ ĐẤU TRANH VŨ TRANG SANG ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ. TIẾN ĐẾN CAO TRÀO
ĐỒNG KHỞI ĐÁNH BẠI CHIẾN TRANH ĐƠN PHƯƠNG CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
26/7/1954-12/1960
Ngay
những ngày đầu khi Hiệp định Genève được ký, đế quốc Mỹ, cùng tên đầy
tớ Việt gian Ngô Đình Diệm đã thực hiện âm mưu thâm độc phá hoại hiệp
định, hòng đánh phá cách mạng miền Nam. Chúng đưa quân ào ạt đóng đồn
bót dày đặc, thiết lập bộ máy kìm kẹp đến tận xã ấp, phân vùng gom dân
hòng tát dân tách rời Đảng. Ngoài lực lượng ngụy quyền, chúng còn lợi
dụng quân đội Cao Đài, Hòa Hảo, tha hồ khủng bố cướp bóc. Ở nông thôn
chúng dùng bọn Việt gian, bọn địa chủ phản động ngốc đầu dậy, bọn gián
điệp tạo thành màn lưới vây ép đồng bào ta.
Thâm
độc hơn, chúng tung hàng thừa ế của Mỹ, tạo ra bộ mặt phồn vinh giả tạo
hòng lừa mị, và đưa đời sống người dân vào đường trụy lạc, đồng thời
đầu độc dân ta bằng các thuyết “Cần lao nhân vị”, với “Chiêu bài quốc
gia độc lập” chống cộng sản.
Nông thôn bao trùm tang thương, nhiễu thương, trong lòng người dân đang âm ỉ ngọn lửa căm thù, trái tim luôn hướng về Đảng.
Từ
năm 1954-1956, Đảng ta chủ trương: “Củng cố xây dựng, phát triển lực
lượng, chuyển hướng phương châm, phương thức hoạt động, phát động quần
chúng đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh dân chủ, đòi nghiêm chỉnh thi
hành Hiệp định Genève, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước
nhà”.
Xứ
ủy Nam bộ đã sáng suốt bố trí đảng viên trung kiên ở lại miền Nam bám
dân chiến đấu, mà bà con ta mến thương gọi là “hột gạo cội”.
Từ
năm 1954-1956 là đoạn đường đầy cam go, cũng là trận đầu tiên nhân dân
miền Nam thắng chiến tranh đơn phương của bọn xâm lược Mỹ. Cầm súng đối
mặt với giặc Pháp đã là dũng cảm, nay phải đấu súng, tay không đấu lý
trước mũi súng cường bạo bằng chí căm thù, trí thông minh, đó là ý chí
tuyệt vời của người dân Nam bộ thành đồng dưới thời đại Hồ Chí Minh.
Đảng
viên bám dân, dân bám quê cha đất tổ, đào hầm bí mật, làm vách đôi nuôi
chứa cán bộ, nhiều gương hy sinh để bảo vệ đảng viên.
Năm
1954, chi bộ Đông Phước có đồng chí Phạm Chánh Mỹ (Năm Mỹ, bí danh Năm
chủ lực) là Bí thư, đồng chí Bùi Tâm Hảo là Phó Bí thư.
Đảng
viên có đồng chí Tư Hậu, Năm Hoài, Hai Thị, Sáu Lường, Tám Tổng, Năm
Diệu, Sáu Ngôm, Bảy Lập, Năm Gộc vv… Lúc đầu đồng chí Sáu Ngôm phụ trách
vùng Đông, sau về vùng Phước, đồng chí Bùi Tâm Hảo thay vùng Đông. Đảng
bộ bảo vệ an toàn cho các đồng chí Liên Tỉnh ủy: đồng chí Sáu Dân (Võ
Văn Kiệt), đồng chí Ba Bài, đồng chí Tám Xuyến (Tám Dênh Dênh).
Đảng
bộ phân loại đảng viên A, B, C, thể hiện tầm nhìn đỉnh cao của Đảng
Mácxít chân chính để bố trí nâng cao chất lượng của đảng viên. Để phù
hợp cuộc chiến đấu, ta có đảng viên bí mật, hợp pháp, đơn tuyến cả đảng
viên cài vào lòng địch.
Địch
rất lo sợ Đông Phước, với vị trí quan trọng và truyền thống đấu tranh,
nên xua lính Hòa Hảo đóng đồn: đại đội 17 ở Ngã Sáu, đại đội 6 và 7 đóng
ở Cái Muồng và xung quanh, tề xã ở Cầu Dừa. Bọn này ăn cướp lúa, cướp
tài sản, vơ vét tới thượng vàng hạ cám.
Chi
bộ chọn một số cốt cán đưa vào tổ chức địch như đồng chí Nguyễn Thành
Thị làm Hội đồng hương chính xã, đồng chí Hai Cơ làm Hương quản, đồng
chí Sáu Thu phụ trách tài chính, đồng chí Bảy Giàu phụ trách nông
nghiệp. Nhờ đó ta nắm được để đối phó ý đồ của địch, tề ta cấp giấy tờ
hoạt động hợp pháp cho cán bộ ta.
Song
song, ta lập tổ chức hợp pháp như: hội cứu tế, phụ nữ nghiệp đoàn nông
dân, tổ vần đổi công để tập hợp vận động quần chúng đấu tranh. Tháng
2-1955, trận đầu tiên đấu tranh chính trị ra quân, chi bộ phân công: Lưu
Thị Ngọc, Huỳnh Thị Mười và Nguyễn Văn Cầu dẫn đầu khoảng 200 người với
gậy tầm vông vạt nhọn, liềm phảng, nổi trống mõ, giương cao biểu ngữ,
đồng thanh hô khẩu hiệu: “Chống đàn áp khủng bố”, “Chống bóc lột vơ
vét”, kéo đến dinh quận Cái Răng. Giặc nổ súng, ta hiên ngang tiến lên,
bắt buộc chúng nhận yêu sách và năn nỉ đoàn biểu tình.
Chiến
thắng trên làm tiền đề cho hơn 10 cuộc đấu tranh, biểu tình lớn nhỏ,
trên 1.000 lượt người đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, từ năm 1957-1960
góp phần với quân dân Đông Phước bẽ gãy, đập tan âm mưu chiến lược của
địch.
Địch
tăng cường đàn áp. Bắt lập “ngũ gia liên bảo”, lập bảng kê khai gia
đình, 16 tuổi trở lên phải làm giấy căn cước, tụ họp quá 3 người phải
xin phép, kể cả đám ma, đám cưới.
Đông
Phước đã thành công lớn trong cuộc đấu tranh không thi hành chỉ dụ số 2
(ngày 8-1-1955) chỉ dụ số 7 (2-5-1955), của Diệm hòng cướp đất của nông
dân được cách mạng cấp trong kháng chiến chống Pháp.
Tháng
5-1955, chúng bày trò hề trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại; Hội đồng
hương chính xã Đông Sơn đem thùng thăm nộp cho đồng chí Năm Mỹ, Bí thư
chi bộ Đông Phước.
Ngày
26-10-1956, Ngô Đình Diệm chính thức lên ngôi tổng thống, sau khi bịp
bợm gian lận bắt ép bầu cử cái gọi là “Quốc hội”. Người Đông Phước gạch
toẹt vào mặt Diệm, và viết “Đả đảo Ngô Đình Diệm”, “Đế quốc Mỹ cút đi”.
Từ
tháng 5-1955 đến tháng 7-1956 Mỹ - Diệm mở đợt I “Tố cộng”, với chiến
dịch Thoại Ngọc Hầu đánh vào căn cứ ta ở Cần Thơ, đồng thời thanh toán
lực lượng giáo phái.
Đông
Phước là một điểm tiếp nhận quân lính giáo phái đang cùng đường bị Diệm
truy diệt. Bà con Đông Phước đã thể hiện tình yêu giống nòi, chánh sách
nhân đạo, khoan hồng của cách mạng, lo lắng, giúp đỡ, qua đó đã giác
ngộ được một số lính Hòa Hảo, đồng thời ta khôn khéo cài người vào,
thuyết phục họ trao một số súng cho ta. Thế là lực lượng võ trang ta
được tăng cường để hỗ trợ có hiệu quả cho cuộc chiến đấu và nổi dậy.
Chi
bộ đánh giá Thanh niên là lực lượng đầu tàu, xung kích nên phát triển
Đoàn Thanh niên Lao động. Tập hợp thanh niên trong các tổ chức công khai
biến tướng: Đoàn ca vũ, đội văn nghệ, vạn vần đổi công, đội bóng đá,
bóng chuyền.
Ông
Bảy Lập (Hai Huỳnh là đảng viên) chỉ đạo Hai Ngọc trực tiếp lập ca vũ
hợp pháp. Đoàn có đội nhạc: anh Tám Bướm đàn Violon, anh Mười Thăng đàn
lục huyền cầm Ha-uây, Bảy Nhì, Hai Tơ; đội vũ có Ba Bảo, Tư, Tám Liếp,
Mười Tao, Bảy Căn, nữ có Út Minh Hương, Ba Oanh, Mai Út Vũ, Năm Ngoạn,
Năm Nhỏ (lúc thiếu, anh Bảy Căn đóng vai nữ), anh Ba Bảo dạy múa, sau
anh Sáu Ổn về vừa ca, vừa múa làm trưởng đoàn. Múa thì có tiết mục: Mừng
Hòa Bình, Lửa Trại Ca, Tiến Côn Vũ, Giải phóng quân nhập thành (những
điệu múa này đã có từ năm 1950, thời đánh Pháp).
Điệu múa “Quanh Bác Hồ”, theo lời ca:
“Quanh Bác Hồ kề vai chiến đấu keo sơn
Nguyền theo Bác kiến thiết nước non huy hoàng
Xây kết đoàn từ nam chí bắc – chen vai
Bao gian khổ nắm tay ta vượt qua”.
Khi ra diễn gần đồn địch ở Cái Muồng, ca sĩ Bùi Nhật Ổn (Sáu Ổn) có bài ruột: “Mong người chiến sĩ với lời ca:
Con ơi tình nước sâu hơn – hẹn ngày chiến thắng vinh quang – vẹn toàn chí hướng.
Nữ
ca sĩ Bùi Ngọc Yến, hát bài “Lời người ra đi” của nhạc sĩ Trần Hoàn
miền Bắc (có sửa lời): Một chiều anh bước đi, em tiễn chân ra tận cuối
đồi. Em dặn rằng: Dù sóng gió, dù tù đày, đừng nề gian khổ anh ơi.
Hai
bà hát trên vừa đề cao người chiến sĩ cách mạng, vừa khêu gợi tinh thần
dân tộc trong sĩ quan lính ngụy, tác dụng binh vận rất lớn. Lời ca điệu
múa đã đi vào lòng người, khêu gợi một truyền thống anh hùng, một niềm
tin ở Đảng, Bác Hồ giục bước quân dân đạp bằng khó khăn để chiến thắng.
Cuối năm 1955, chính sách đầu độc của Mỹ - Diệm khuyến khích nạn cờ bạc, rượu chè, trụy lạc sinh ra nạn trộm cướp.
Chấp
hành sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, chi bộ nhanh chóng thành lập các “tổ chống
cướp”. Thực chất là tổ chức vũ trang thô sơ của quần chúng chống bọn
lùng sục xom hầm bắt cán bộ, bảo vệ đảng viên rất có hiệu quả. Đội du
kích mật Đông Phước có: Út Oanh, Thép, Ba Ca và Sáu Ổn.
Như
vậy từ năm 1954-1956, chi bộ đã chỉ đạo, phát động nhân dân vượt qua
gian lao nguy hiểm thắng từ bước trong chiến tranh đơn phương của Mỹ -
Diệm.
CHƯƠNG IX
TỪ NĂM 1956-1960, THỜI KỲ CỰC KỲ KHÓ KHĂN, THỬ THÁCH, ĐẢNG BỘ VÀ QUÂN DÂN ĐÔNG PHƯỚC ĐỨNG LÊN LÀM CUỘC ĐỒNG KHỞI VẺ VANG
Ngày
20-7-1956 Mỹ - Diệm tuyên bố cự tuyệt Hiệp thương tổng tuyển cử, hô hào
“Bắc tiến”, “Lấp sông Bến Hải”, khủng bố ác liệt với cả lòng hận thù
giai cấp, chống cộng quyết liệt rất điên cuồng đầy ngu xuẩn. Chúng mang
ảo vọng xóa căn cứ cách mạng, trong đó có Đông Phước.
Chúng
bắt ép úp bộ vào “Thanh niên cộng hòa” “phụ nữ liên đới” của mụ Trần Lệ
Xuân liên tiếp, tổ chức tố cộng. Một lũ đầu trâu mặt ngựa, súng lăm le
trên tay, dọa dẫm đánh đập, bắt dân nói xấu cộng sản. Dân Đông Phước
hiên ngang, bình tĩnh biến thành cuộc tố ngược lại Mỹ - Diệm. Bà con
nói: Việt cộng cũng là người Việt, đánh Tây giành độc lập, còn cấp đất
cho dân cày, họ “hại” cho dân no ấm. Còn ông Diệm từ Mỹ về, lính quốc
gia cũng thương dân đến nổi gà vịt, quần lãnh rách giấu cũng không còn,
để gom dân vô khu trù mật, ăn đồ hộp của Mỹ nuốt hổng trôi. Sướng vậy,
sao mấy người không gom gia đình vô khu mà hưởng.
Đến bây giờ, người dân còn thích thú những câu trả lời của ông Ba Ngọng bị bắt đi tố cộng ở Phụng Hiệp.
Tên sĩ quan ngụy nói: Việt cộng thường ăn cám không.
Ông Ba trả lời: Cám từ gạo ra, Việt cộng ngu gì xay gạo ra cám dể ăn. Yêu cầu ông đừng bắn phá nữa.
Tên sĩ quan quay nòng pháo bắn xã khác.
Ông Ba tức giận: ụ, ẹ - ông bắn ở đâu cũng chết bà con tao hết.
Những câu ấy tuy đơn giản mà lòng gan dạ sắt của người nông dân Đông Phước đã khuất phục được kẻ thù.
Đồng
bào kiên quyết ngăn chặn ý đồ dã man của chúng ép, bắt bớ, tù đày, bắn
giết những gia đình có người đi tập kết, đi kháng chiến, và rất thông
minh lẫn tránh không nhận giấy “Qui thuận”, đầu hàng giặc. Dù có đếm nỗi
hết cây rừng, cũng không kể xiết tội ác tày trời của Mỹ - Diệm đày đọa
gia đình kháng chiến. Chúng đặt những gia đình này ra ngoài vòng pháp
luật, tha hồ cướp bóc, cấm đoán không cho qua lại làm ăn, từ dụ dỗ trở
mặt bắt bớ, giam cầm, nay đòi lên tra hỏi, mai bắt lên hù dọa. Thâm độc
hơn là chúng bắt dân lên tập trung xung quanh đồn hòng làm bia chắn để
ta không tấn công chúng; chúng bắt vợ phải ký giấy ly hôn bỏ chồng, cha
mẹ ký giấy từ con.
Bỉ
ổi hơn, chúng treo giải thưởng cho bọn tay sai lấy được vợ cán bộ, sẽ
được ăn lương một năm, nghỉ phép đi chơi. Ảo vọng cuồng ngông hòng nhốt
cú vọ chung với phượng hoàng của chúng tan thành mây khói trước ngọn lửa
căm thù từ lòng trung trinh của phụ nữ Đông Phước.
Để
trả đũa lại bọn tâm lý chiến, để phát động căm thù với truyền thống
“Tiếng hát át tiếng bom” Đoàn cải lương xã đã cho ra đời vở “Ngày Tàn
Bạo Chúa”, tác giả là ông Năm Gộc (đảng viên phụ trách hai ấp Phước
Thuận, Phước Long).
Kép
mùi là Hai Mỹ, đào mùi là cô Hai Huyền Nữ, kép độc là Sáu Ổn vai tướng
ác Lương Hoàng. Vì tuồng này lên án sự tàn ác bạo chúa mà người xem hiểu
ngầm là chửi chế độ Mỹ - Diệm nên bọn tề, cảnh sát không cho diễn. Ông
bầu Trực, bầu Bảy Lập đấu lý, cuối cùng vì sức ép của đồng bào hâm mộ,
chúng phải cho diễn tại khán đài Đông Sơn – Đồng bào chửi rủa tên tướng
Lương Hoàng quá ác và rất hả dạ khi hắn đền tội.
Sau đêm diễn, ông Sáu Ổn phải rời đoàn vào du kích mật, vì địch tìm bắt anh.
Tháng
8-1958, du kích Đông Phước cùng lực lượng vũ trang huyện Châu Thành
đánh địch trên tuyến Cầu Dừa (Đông Phước), giải thoát đồng chí Bạch Thái
An (Năm Già, trưởng phân ban huyện Châu Thành).
Đầu
năm 1959 Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa 2),
chuyển thế và lực lượng cách mạng từ bị động trong đấu tranh chính trị,
hình thành thế trận 3 mũi giáp công: chính trị, vũ trang, binh vận tiến
công địch. Sự sáng suốt, tài tình của Đảng đã đưa phong trào cách mạng
miền Nam lên cao trào như “diều gặp gió”.
Đảng
bộ Đông Phước rất coi trọng sự liên kết với các chi bộ xã bạn để tăng
sức chiến đấu – Vào 6 giờ sáng, 10-6-1959, dưới sự chỉ đạo phối hợp của
Đông Phước và Thường Đông, 350 quần chúng tập trung tại quốc lộ, giương
cao băng biểu ngữ “chống thảm sát đồng bào vô tội”, “thực hiện dân sinh
dân chủ”. Kéo đến Dinh tỉnh trưởng Cần Thơ, buộc hắn phải ngưng ngay.
Năm
1959, giặc lập khu trù mật tại Ngã Sáu, chi bộ phát động dân đấu tranh,
chúng thất bại vì dân nhận nền nhà nhưng không ai chịu về. Đỉnh cao của
sự tàn bạo là “Luật 10/59”, đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Chúng
có ảo vọng là lê máy chém đi chặt đầu người cộng sản để đi hù dọa,
nhưng dòng máu bất khuất của người cộng sản lại là nguồn nuôi máu đỏ hờn
căm trong tim dạt dào yêu Đảng, kính phục người đảng viên kiên hùng.
Huyện ủy Phụng Hiệp, đồng chí Trần Minh Sơn (Bảy Mạnh) làm Bí thư quan
tâm, chỉ đạo sát Đông Phước vượt qua khó khăn lớn này.
Ngày
14-10-1959, ngày uất hận của người dân Đông Phước, nước mắt tràn tuông,
tiếc thương đồng chí Phó Bí thư Bùi Tâm Hảo, người con ưu tú, người
đảng viên anh hùng thứ hai của Đông Phước mang dòng máu bất khuất của
Ngô Hữu Hạnh hiên ngang bước lên pháp trường tại khán đài Đông Sơn dõng
dạc hô to: “Hồ chủ tịch muôn năm”, tiếng khóc, tiếng nguyền rủa, tiếng
la hét “đả đảo” của ngàn người át tiếng súng của bọn đồ tể. Đồng bào đấu
tranh ba ngày liền mới mang được xác về chôn. Gia đình đem 2 đầu đạn
địch bắn về thờ để khắc ghi mối thù phải trả.
Ánh
lửa căm thù từ đôi mắt người cộng sản là ánh sáng niềm tin soi đường
cho bà con Đông Phước tràn lên trong đêm đồng khởi. Đông Phước xông lên
vây đồn, góp phần tiêu diệt đồn Mái Dầm.
Tháng
6-1960, du kích xã phối hợp binh vận, dùng mã tấu bao vây đồn Tràm Bông
giữa ban ngày, địch bỏ chạy, ta thu 6 súng, hơn 1.000 viên đạn. Du kích
mật họp dân, gọi một số tên tề ấp để trấn áp, giải tán bọn dân vệ, tịch
thu gậy tầm vong sơn xanh trắng đỏ. Đội du kích mật ngoài anh Ba Ca,
thì anh Sáu Ổn, Út Oanh, Hai Tâm phải bao mặt lại (vì hợp pháp) dân
tưởng là bộ đội chủ lực càng phấn khởi. Các anh còn xử tử hình “treo” 2
tên chỉ điểm: Hai Lùn (Đông Thạnh), Hai Can (Đông Phú), rút mã tấu ra,
đọc bản án rồi tha chúng.
Ngày
14-9-1960, trên 20.000 đồng bào (Châu Thành có 5.000 dân Đông Phước)
lớp đi bộ, lớp đi xuồng ghe, có tổ chức tổ toán chặt chẽ, các ngã tập
trung về Đầu Sấu, tiến thẳng về thị xã Cần Thơ, bất chấp sự đàn áp dã
man, khiến bọn đầu sỏ chánh quyền tỉnh khiếp vía kinh hồn.
Đêm
14-9-1960, lệnh đồng khởi của tỉnh truyền ra. Khí thế vùng lên long
trời lở đất, đèn đuốc rực trời, trống mõ oai hùng, thúc giục biển người
mang: gậy gộc, phảng kéo cổ, dao phay tràn lên như nước vỡ bờ. Trung đội
du kích ấp Phước Long do anh Sáu Ổn (trưởng), Ba Đầy (phó) chỉ huy, có
một súng ngắn, hai mã tấu. Hơn 400 bà con của 6 ấp kéo đi đông nghẹt
trên hai bờ kinh Tân Quới đến nhà Chín Bền chỉ 2 lần khẩu lệnh “Tiến
lên” đã sát đồn Ngã Sáu, do tên thượng sĩ Thường chỉ huy, chúng không
đầu hàng, bắn chết anh Hai Nhỏ đang phát loa, bóng anh ngã xuống, lòng
căm thù giặc đã góp thêm sức mạnh, khí thế bùng nổ, đoàn người xông lên
hô khẩu hiệu: “đả đảo Mỹ - Diệm”, “Phá tan ấp chiến lược”, “Tiêu diệt ác
ôn”, tiếp tục vây đồn, một số theo Xã đội trưởng Năm Mù truy lùng tề
điệp.
Trời
Đông Phước lửa rực sáng, vang lên khúc ca chiến thắng, tiếng hát mừng
đổi đời. Chi bộ (đ/c Trần Văn Duyên (Chín Mẫn) là Bí thư, Ba Lồng, Chi
ủy viên) lãnh đạo đồng khởi thắng lợi.
Qua
chặng đường lịch sử năm 1954-1960. Đảng bộ Đông Phước đã được rèn luyện
rút ra nhiều bài học thực tiễn trong gian nan máu lửa, một chân lý
thắng lợi của bao lực lượng cách mạng. Bám chặt đường lối Đảng là ánh
sáng soi bóng tối trong hầm bí mật, vách đôi, để đảm bảo đảng viên ta
bám dân, tìm ra phương thức mới, thích hợp quyết thắng giặc, phát huy
tài tình đòn đấu tranh chính trị, một sáng tạo tuyệt vời của cách mạng
miền Nam.
CHƯƠNG X
ĐÔNG PHƯỚC CHỐNG ÂM MƯU BÌNH ĐỊNH GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (5/1961-1965)
Thất
bại đau đớn, tháng 5-1961 Mỹ - Diệm hốt hoảng thực hiện chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”, với kế hoạch Staley – Taylor sẽ tiêu diệt cách
mạng Việt Nam trong vòng 18 tháng.
Cần
Thơ là trọng điểm bình định của miền Tây. Mỹ đặt lãnh sự quán Mỹ, tình
báo CIA, xây dựng cơ sở vật chất kho tàng, hậu cần cho vùng 4 chiến
thuật, xây dựng sân bay Trà Nóc lớn nhất miền Tây, quân cảng Bình Thủy,
đồng thời lập nhiều tuyến phòng thủ bảo vệ thị xã Cần Thơ, dồn dân lập
ấp chiến lược trên các tuyến lộ 4… Như thế, mức độ chiến tranh ác liệt
tăng nhanh ở các vùng ven đô thị xã Cần Thơ, có Đông Phước, con đường
huyết hạch tỏa ra nhiều nơi.
Chúng
ra sức đôn quân bắt lính, trang bị mạnh để làm mũi nhọn bình định, tăng
cường độ và quy mô càn quét, thẳng tay bắn giết đốt phá. Sư đoàn 21 có
cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy có tháng đi càn 26 ngày Đông Phước phải chịu
nhiều trận pháo kích giao điểm của các ụ pháo Phong Thuận, Cả Bảo,
Phụng Hiệp. Dồn dân lập ấp chiến lược, 5 nhà mới có được một cửa ra, 6
giờ sáng mới được mở cửa. Tháng 3-1961 bắt dân đi đắp đê Phú Hữu – Mái
Dầm.
Hội
nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng (tháng 1-1961) nhận định “Thời kỳ ổn
định của Mỹ - Diệm đã qua, thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng của nó đã
bắt đầu. Cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của nhân dân có thể bùng
nổ, lật đổ chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm, tiến tới giải phóng miền
Nam”. Bộ chính trị quyết định đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song song đấu
tranh chính trị, tiến công địch bằng 3 mũi: chính trị, quân sự và binh
vận…
Nghị quyết trở thành kim chỉ nam dẫn đường cho quân dân miền Nam.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời, ngày 20-12-1960.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng huyện Châu Thành được 5.000 dân đón chào tại Mỏ Neo (Đông Phước).
Mặt trận Dân tộc Giải phóng xã Đông Phước.
Chủ tịch: Ông Sáu Phón
Phó chủ tịch: Cô Ba Kim Chi và ông Bùi Nhật Ổn
Ủy viên: Ông Tám Đường
Ủy viên: Ông Sáu Huỳnh
Vùng
giải phóng Đông Phước mở rộng, khí thế gió lộng cờ bay dần dần trở
thành một trong lá cờ đầu tiên về du kích chiến tranh, nhiều điển hình
đánh giặc được toàn miền học tập nhân lên.
Đảng
bộ phát triển từ 20 đảng viên lên 25 đảng viên, cơ quan đóng gần kinh
Hai Phó (Phước Long). Chánh quyền hoạt động tích cực, các đoàn thể quần
chúng đông và chặt chẽ hơn.
Chi
bộ phát động phong trào du kích chiến tranh “Diệt ác phá kìm” chống càn
bằng tất cả những vũ khí thô sơ, lấy súng giặc cho ta. Bọn địch ở Cần
Thơ, Cái Răng, Phụng Hiệp, dồn hết lửa đạn để thiêu cháy Đông Phước,
hòng nhổ cái gai trong mắt, còn bà con xã Đông Phước đã quyết tử, thông
minh biến nơi này là bãi tử địa, mồ chôn lũ ác gian. Với khí thế sau
Đồng Khởi du kích Đông Phước dạy cho chúng trận đòn chua cay, chặn đánh
cuộc hành quân của một đại đội Bảo an từ Phụng Hiệp kéo vào… 19 tên bỏ
mạng, ta thu được 16 súng, hàng trăm viên đạn, bẻ gãy cuộc càn quét.
Cần nhắc lại tội ác thảm sát của Mỹ - Diệm, để ta hiểu rõ hơn vì sao người Đông Phước sống phải đánh giặc, đánh giặc để mà sống.
Ngày 12-3-1962 địch ném bom từ vàm Ngã Cạy đến rộc Rau Cần, gia đình ông Năm Dương chết hết 5 người trong hầm trú ẩn.
Ngày
22 tháng giêng âm lịch 1962 thảm sát dã man nhất ở ấp Phước Hưng, 22
mạng người, máy bay L19 rà sóat, lính Cái Răng vào bắn dân đang làm đồng
lúa cong trái me: ông Bảy Tài, Tư Nhương, Mười Của, Hữu, Bảy, tính
chung các nơi chết hơn 30 người.
Đầu năm 1964, ném bom Chùa Cô giết 14 người và 6 người bị thương.
Năm 1963 ở ngon Cái Đôi lính đánh chết một lúc 6 người, ở ngọn Rạch Cớt biệt kích bắn chết 6 dân thường.
Đọc
tên trên bia căm thù: Bà Cửu 104 tuổi, ông Út 81 tuổi, bà Kim, bà
Chiểu, ông Trung, em Bé, em Bảy cả hai hài nhi còn trong bụng mẹ, người
người càng ghê tởm “chiến công danh dự” của lũ không lực Huê Kỳ mất hết
tính người.
Hận thù trào dâng, người nông dân dù ít chữ vẫn hát lên lời ca chân thực, từ sâu thẳm trái tim căm giận, ý chí phục thù.
Bài thủ phong nguyệt (tác giả: Chí Sinh)
Ôi đau thương trùm phủ cả xóm làng
Loài Ngô – Mỹ, thật dã man
Tàn sát, bắn giết người dân
Ôi máu tuôn – vợ hiền xa chồng
Mẹ già đau lòng…
Vọng cổ câu 4: “Trời ơi vợ ôm xác chồng, người vợ hiền nức nở, mẹ già thét lên lời căm hờn…
Đả đảo quân Mỹ - Diệm hung tàn. Mỹ - Diệm bây ơi ! Bây giết con tao thì tội ác bây phải đền” (trích)
“Tiếng
hát át tiếng bom”, càng đau thương gian khổ tiếng hát càng cất cao, đó
là “chất nghệ sĩ” đó là truyền thống của người Đông Phước.
Từ
đó ta mới lý giải được tại sao khi Đảng bộ phát động vót chông 1 thì
dân 2, 5 thành 10. Ông bà cha mẹ thi đua với con cháu vót chông, làm hầm
chông trên phần đất của mình.
Nếu
ai hiểu được cái gan lì của Đông Phước thì làm sao không si mê em gái
tóc thề chấm ngang vai bình thản vót chông sau đợt pháo dội, cất tiếng
hát dưới trăng vàng “ Cây chông tre là cây chông, máu giặc đây nè, máu
giặc còn loang”.
Hoặc:
Làng Đông Phước ta nhiều chông, lắm hố
Khi giặc vào mang khổ cả đời
…………..
Toàn dân Đông Phước lập công
Thi đua ấp Bắc làm chông thật nhiều
(Điệu Bắc Sơn Trà)
Người mẹ vừa cho con bú, vừa gài chông, rồi đưa võng ru con chờ đợi tên lính đến thử da thịt nó với mũi chông.
Ầu ơ:
Chiều chiều lo bảy lo ba
Lo chông chưa chuốt, lo chà chưa xong
Lo cây cắm cọc ngoài đồng
Lo xong công việc - ầu ơ tấm lòng mới yên
Chuyện
nhổ cột nhà làm chông phản ánh tính khí của người dân Nam bộ không còn
là chuyện độc đáo riêng của anh Út Bụng, Tư Hòa (đảng viên ấp Đông Bình)
mà đã thành việc làm phổ biến của nhiều gia đình.
Có
cả dòng họ chông: chông hầm, chông bắn, chông ghim, chông bay, chông
trái ấu, chông di dời được, trong bài hát “chông chống Mỹ” theo điệu cải
lương, rất được nhiều người mê hát.
Người
du kích Ba Ca, được tôn là vua đánh chông lại chế thêm chông phảng. Anh
lấy hai phảng cũ, mài thật bén, xâu hai đầu, đâu lưỡi đặt hai bên vách
hầm, hai lưỡi phảng sẽ vuốt dọc từ chân tới đầu gối, nghe tả cũng đủ rợn
người. Anh còn đặt cái nón mới, cái khăn rằn như mới rớt ngoài đường,
thật là khoái khẩu mồi ngon cho bọn lính vốn có tính tham, đua nhau
tranh giành giật, thế là một trái nổ tung xác vài thằng.
Ngày
12-11-1962, 8 trực thăng đến đổ giò, đổ cóc, đánh nhanh rút lẹ. Thế là
cả rừng chông bằng tre, cau, dừa nước, cây lách mọc lên khắp đồng, chống
chiến thuật trực thăng vận, một trong những con chủ bài của chiến lược
chiến tranh đặc biệt. Có nơi còn tấp lá chuối lên ngọn chông cho chong
chóng cán gáo hút vướng, chỉ bay cao thôi.
Trong
lịch sử đánh nhau từ cổ chí kim chưa có vị tướng tài nào đưa nạng giàn
thun vào trận chiến, thế mà hai đồng chí Mười Cụt, Ba Thanh (đảng viên
ấp Đông Bình 1970, Xã đội phó Đông Phước) không học binh thơ ngày nào,
đã dùng hai cây cọc cắm thật chắc, tra dây thun vào buộc 1 trái túi lựu
đạn từ 1 đến 5 trái giương thun bắn vào đồn.
Thử
nghĩ xem, lính đang tụm lại trong đồn ấm cúng để suy nghĩ ngày mai đi
càn sẽ giựt món gì, bất chợt một loạt tiếng nổ như pháo bầy mà không
nghe tiếng đề pa, thì dù mình đồng da sắt cũng phải bò càn, cầu chúa,
niệm phật. Nỗi sợ nhất, thấp thỏm ngày đêm là không biết chừng nào ta sẽ
bắn nữa.
Từ
1963, qua làn sóng Đài Giải phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam, trong nước
và thế giới đều biết xã Đông Phước có anh Ba Ca đánh giặc bằng ong vò
vẽ.
Anh
Ba Ca tên thật là Nguyễn Văn Quy ở ấp Phước Hưng nghèo đến độ cán bộ,
bộ đội phải cho gạo ăn. Anh cố nông ấy tuyên bố một câu xanh rờn là:
“Một tháng đi làm cho cách mạng 26 ngày, còn 4 ngày đi bắt cua đinh nuôi
vợ con”. Bắt cua đinh để ăn, ăn no để đánh Mỹ - ngụy là hai việc làm
bình thường và thông thạo như nhau. Có lẽ vì thế mà con người thất học
đã trở thành thông minh tuyệt vời khi là đảng viên.
Anh dùng quần áo cũ nhử ong cho quen hơi anh rồi nuôi từng ổ trên mỗi cây riêng di dời được.
Trận
đánh bằng ong vò vẽ, tại ấp Phước Hưng như sau: Ta biết được tin do nội
tuyến đưa về là sáng mai 13-3-1963, Tiểu đoàn Bảo an có cố vấn Mỹ chỉ
huy sẽ tập trung tại Cái Chanh, đi càn quét Phước Hưng. Tối chúng dùng
máy bay phong tỏa, bắn phá toàn khu vực.
Ta
nắm được quy luật này nên đồng chí Ba Ca chỉ huy 13 du kích, bố trí các
tổ ong quanh nhà Ba Khế, đào hầm chông, gài trái đạn, chất nổ napan rồi
phục kích chờ.
9
giờ sáng 13, địch bị du kích ta dồn vào vòng vây, đồng chí Ba Ca ra
lệnh nổ súng xung phong, rồi giật mạnh dây ở các tổ ong, ong tủa ra đánh
tới tấp, quan lính hỗn loạn chạy sụp hầm chông đạp trái nổ. Địch chết
10, bị thương 16, ta thu 16 súng, 2.500 đạn các loại.
Anh
Ba ơi ! từ đất mẹ mong anh lắng nghe chuyện về anh. Anh đi dự báo cáo
điển hình về chiến tranh du kích của Đông Phước trên Trung ương Cục miền
Nam, nhiều nghệ sĩ say mê chiến công kỳ tích của anh, đó là đề tài sáng
tác điệu múa “Ong vò vẽ”.
Không
biết anh đã xem văn công Cần Thơ biểu diễn điệu múa đó chưa? Sáu cô gái
trẻ, tay đàn tay súng, mới hồi chiều mặt mày bê bết bùn đất, đào hầm,
tải gạo. Tối nay, ánh đèn sân khấu hòa lẫn ánh trăng rừng xanh, các em
đã trở thành các nàng tiên với trang phục con ong. Sáu diễn viên đẹp như
sáu dòng kinh Ngã Sáu bao vây bầy lính Mỹ. Đoạn cuối, ong chích Mỹ bò
càn, khán giả nhất là bộ đội và phụ nữ vỗ tay vang rừng.
Khi
đoàn văn công giải phóng miền Nam đi biểu diễn ở 9 nước bạn xã hội chủ
nghĩa, tiếng vỗ tay giòn giã kéo dài. Sau đó nhiều tướng quân sự, nhà
trí thức, nhà báo đến Đoàn hỏi thăm về ý kiến điệu múa, người sáng tác,
hỏi cách đánh của anh Ba Ca, hỏi về Đông Phước. Ta giảng giải rõ, hiểu
ra họ hết ngạc nhiên, trước khi từ giả họ nói: Việt Nam, Hồ Chí Minh và
đưa 2 ngón tay hình chữ V tức Victoire là “Chiến thắng”.
Phong
trào đánh giặc bằng ong vò vẽ, được nhân rộng khắp địa bàn xã. Du kích
phát triển, bố phòng chống càng vững chắc, bọn địch co cụm lại, lính đi
càn càng run sợ. Ong vò vẽ, giàn thun là vũ khí từ lòng căm thù của Đông
Phước.
Trận
địa chiến đấu tốt, có chiến công của hai đồng chí Út Cọ, Hai Đệ, hai
nông dân ít chữ trở thành “Kỹ sư chế tạo vũ khí” của công trường xã nhà.
Hai anh đã làm cho bọn Nhà trắng Huê Kỳ phải kinh hoàng bằng những vũ
khí thô sơ, lạ lùng mà chúng không thể tưởng tượng nổi. Đặc biệt là dùng
vũ khí tối tân hiện đại, bom đạn lép của chúng chế tạo lại, nổ tan xác
chúng. Đồng bào tìm kiếm và gởi về công trường gang, thép, sắt kể cả
những cây đinh rỉ sét. Đồng bào ngoài thành gởi vào những ống tuýp,
thuốc nổ, để chế súng kép, súng ngựa trời. Hai đồng chí “Kỹ sư” ấy đã
góp phần tạo niềm tin đánh giặc cho quân dân Đông Phước.
Tháng
3-1962 anh Sáu Ổn, anh Năm Vui cùng hai du kích được sự chỉ dẫn của
đồng chí Tư Đặc, đào hầm chôn súng ở ngọn Cái Đôi được hai khẩu mút Anh
đầu bằng và đầu ló, 1 súng trường Đức, 1 khẩu Thompon trang bị mạnh thêm
cho du kích xã. Ta đánh hai trung đội biệt kích ở Cả Mới (Ba Ngàn) của
tiểu đoàn biệt kích Phụng Hiệp. Đánh trận càn lớn với 4 mặt từ Long
Thạnh qua Cái Chanh, qua Cái Dầu cho tàu đổ bộ lên Cầu Dừa. Ta gài chất
nổ ở xã Thường Đông, Thường Thạnh, ta dồn quân về phục kích ở Ngã Cạy,
Ngã Cái. Đội du kích vừa đánh địch vừa hỗ trợ đồng bào đấu tranh chính
trị từ 7 giờ sáng đến 4 giờ chiều, giải thoát 300 đồng bào tại cản đất
Phước Long, Phước Thuận. Địch chết bị thương tại Ngã Cạy 10 tên, các ngã
khác chưa tính, 2/3 chết vì chông và ong vò vẽ của anh Ba Ca.
Đầu năm 1962 tên cố vấn Mỹ dẫn chó theo, sụp hầm chông nhà ông Ba Có chó chết, tên Mỹ bị thương.
Tháng
5-1962, du kích phối hợp binh vận bao vây đồn Bảy Thưa, địch vây gí đại
đội 23 của ta, du kích theo sát chặn bước tiến của chúng, đến chiều đại
đội 23 quật lại đánh hồi mã thương, diệt chúng một tiểu đoàn tại Tràm
Bông.
Tháng 3-1962, đội du kích chống cả tiểu đoàn Bảo an 270.
Tháng
6-1962, một đại đội Bảo an từ Phụng Hiệp càn quét Cầu Dừa vào rạch Đông
Phú, Đông Mỹ, có binh vận. Ta dụ chúng vào vòng vây, trận địa bố trí
sẵn, sau hai giờ giao tranh ác liệt, địch phải rút lui, chết 12, bị
thương 45, ta thu hồi 18 súng.
Tận
dụng thời cơ Mỹ đảo chính Diệm, chấp hành chủ trương của Huyện ủy, đẩy
mạnh 3 mũi tiến công, ta tiêu diệt đồn Bảy Thưa (xã Đông Phước) vào
tháng 4-1964.
Từ
năm 1961-1965, mỗi tháng địch càn vào Đông Phước ít nhất 2, 3 trận đến
4, 5 trận lớn nhỏ, đều bị du kích chặn đánh, có nhiều lần kết hợp với
chủ lực, địa phương quân.
Đồng chí Ba Ca đi dự hội nghị chiến sĩ thi đua toàn miền Nam.
Đồng
chí Sáu Ổn đi báo cáo ở hội nghị dân vận tỉnh Cần Thơ. Đông Phước được
tuyên dương là lá cờ đầu chiến tranh du kích trong toàn miền.
Đánh
về quân sự là thế, còn đánh giặc về chính trị thì đội quân tóc dài, các
chị, các bà, các mẹ đã lập chiến công xuất sắc: Tay không thắng giặc.
Suốt
từ năm 1961 đến 4-1975, có hơn 60 cuộc đấu tranh chính trị lớn nhỏ, với
23.000 lượt người. Bà con Đông Phước dũng cảm, thông minh, đấu lý thắng
địch tại chỗ, còn luôn có mặt rất đông, vượt chỉ tiêu trong các cuộc
biểu tình lớn về Cần Thơ, Cái Răng.
Ban chỉ huy mặt trận chính trị này, đặt tại Cái Muồng, do đồng chí Sáu Phón, đồng chí Ba Kim Chi là 2 chi ủy viên lãnh đạo.
Tổ
chức này ngày càng khoa học, chặt chẽ hơn, có đảng viên, có đoàn viên
làm nòng cốt. Đoàn được học tập, trang bị lý lẽ đấu tranh đúng yêu cầu
từng cuộc, có khẩu hiệu thích hợp như đòi: “Dân sinh, dân chủ”, “chống
càn quét cướp bóc”, “chống bắn ô bút”, “chống gom dân vào ấp chiến
lược”. Lý lẽ chính nghĩa sắc bén của bà con luôn thắng những câu nói
ngang, nói càn, thô tục, cả bọn “Thiên nga”, “Phượng hoàng”, tâm lý
chiến được đào tạo hẳn hoi. Từ thế bị thua bị “quê xệ”, bị bẽ mặt, lúng
túng chúng giở trò hăm dọa, bà con đã kết thành một khối tiến lên, mũi
súng chúng từ từ hạ xuống. Ông già Võ Văn Hiệp rượt mấy thằng lính đốn
lá nhà ông, tới đồn Cản đất, tên xếp đồn phải ra xin lỗi tha cho lính nó
lỡ dại!, âm mưu phá màu xanh địa hình của chúng bị thất bại.
Bà
Cà Mi (bà Tình), bị lính viết trên áo “Đả đảo Cộng sản” bà cởi áo ném
ngay xuống sông Cầu Dừa ở trần để vạch trần hành động dã man đối với phụ
nữ, cử chỉ đó biểu lộ khí tiết quyết liệt kêu gọi đoàn biểu tình tràn
lên như dòng nước – Ngã Sáu dâng đầy. Đông Phước là một điểm tập kết các
đội quân chính trị nhiều nơi tiến về thị xã Cần Thơ. Ngày 20-11-1961 và
tháng 4-1964 đêm chuẩn bị trở thành ngày hội lớn rất vui, rất hùng
tráng. Đèn đuốc sáng rực khẩu hiệu, cờ sao phất phới trên bờ dưới sông,
ghe xuồng tấp nập rộn ràng tiếng cười vui, tiếng hát. Đội võ trang hỗ
trợ thì thao diễn, đội tiền phong đi đầu tập bước tiến lui, ôn lại lý
lẽ, cả tư thế đánh trả khi bị đàn áp. Đội hậu cần lo đầy đủ bánh tét,
cơm nếp, nước uống.
Rừng
người tiến về thị xã, vẫn hiên ngang tiến trước mũi súng giặc, khói lựu
đạn cay, vượt rào kẽm gai, dũng cảm áp đảo, đánh lại bọn đầu trâu mặt
ngựa chặn đường. Nhiều bà, nhiều chị bị bắt bớ giam cầm từ nhiều ngày
đến vài tháng nhưng không nhụt chí đấu tranh.
Bà
Phạm Huỳnh Mai (nữ du kích năm 1960, đảng viên 1963, Ủy viên ban chấp
hành phụ nữ xã), là người chỉ huy 4 cuộc đấu tranh ra Phụng Hiệp, Cái
Răng kể lại rằng “Trận đấu tranh vào thị xã Cần Thơ (1964), đội quân của
Đông Phước có nòng cốt đảng viên, đoàn viên khá đông, là trận bị thiệt
hại nặng nhất. Đoàn đi bộ của Đông Phước phối hợp với đoàn Châu Thành,
kéo vào thị xã, địch bắn chết một chị bỏ lại đứa con tám tháng. Như lửa
đỏ thêm dầu, đoàn biểu tình kéo lên quận đòi bồi thường nhân mạng. Đoàn
đi ghe bị lộ, 36 chị ở Đông Phước bị bắt, bo bo kè về bến Ninh Kiều.
Chúng viết khẩu hiệu trên nón lá trên áo, các chị đã có kinh nghiệm, cởi
áo ngoài liệng bỏ, quăng nón, chúng xịt vòi rồng đổ nước xà bông tra
tấn rồi đem giam. Trốn về được còn lại 9 chị chúng giam từ 5 ngày đến 2
và 3 tháng như chị Hai Trước, Ngọc Hân, Ngọc Diệp, chị Huệ, chị Tư Đoàn,
chị Út Đạm, chị Bảy Tím, chị Mười Mén…”
Mỗi lần đội quân tóc dài đấu tranh thắng lợi, đồng chí Sáu Phón ngâm tặng bài thơ viết năm 1963.
“Vào tù ra khám xem thường
Chị em dấn bước trên đường đấu tranh”
Ông Bùi Công Kỵ thêm:
“Ta đánh chúng bằng đòn chánh trị
Có sá gì tánh mạng hy sinh”.
Đó
cũng là lời thề của đội quân tóc dài Đông Phước. Đòn chính trị tác động
mạnh đến đòn binh vận, những khẩu hiệu “Tăng lương cho binh sĩ”, “Anh
em binh sĩ hãy về với vợ con”, đã khêu gợi tinh thần dân tộc giác ngộ sĩ
quan binh lính ngụy quyền, tác động nhanh, sâu rộng phong trào “Súng Mỹ
lòng ta”; ta lấy nhiều đồn nhờ có nội tuyến.
Du
kích ta diệt một số tề điệp ác ôn. Du kích Tống, Được, Dũng, Trắng, bắn
tên chủ ấp Lẹo (Phước Hòa) lòi ruột, sát đồn Tư Cống (kinh nhỏ), hai
tên chiêu hồi dìu tới am, gặp anh Năm Gòn du kích bắn chết ngay tại chỗ;
xử tử hình công khai tên Thuộc, chỉ điểm tại Ngã Cạy. Năm 1964, bà Chín
Bình (vợ của đảng viên) phát hiện tên gián điệp về Xẻo Chồi (khu vực
Tỉnh ủy đóng) nó để máy liên lạc trên võng phát ra tiếng, ta bắt được
tên này.
Nhịp
nhàng với phong trào tòng quân cứu nước lên rất cao, đạt chỉ tiêu 1/3
đảng viên, 2/3 đoàn viên, ngoài 72 thanh niên xung phong đi khắp chiến
trường còn có đại đội 112 đưa về trên bổ sung.
Từ
1960-1966 có 480 tòng quân, đợt cao nhất là 43. Số thanh niên này, sau
trở thành sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam như; trung tá Thời, Tư Ca,
đại tá Nguyễn Thành Thiên (Ba Thiên, đoàn viên), đại tá Hai Chiêu (đảng
viên), thiếu tá Trần Văn Sơn (Sáu Sơn) anh hùng quân đội (trước là
trưởng ban nông dân ấp).
THỜI KỲ TỪ 1963 ĐẾN THÁNG 6-1965 LÀ ĐỈNH CAO CỦA “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT”
Ngày
8-12-1963, địch thành lập quân đoàn 4. Bảo vệ trung tâm đầu não vùng 4
chiến thuật tại thị xã Cần Thơ. Châu thành là cửa ngõ phía Tây Nam, Đông
Phước là “Bẩy lửa” khủng khiếp, nên địch quyết tâm xóa bàn đạp này.
Chúng tung sư đoàn 21, cả bọn mật vụ “Thiên nga”, “Phượng hoàng” dày
đặc. Với chiến thuật “2 gọng kìm” (tìm diệt và bình định), với trực
thăng vận, cắt nhiều mảnh, đánh dài ngày. Điển hình là cuộc càn của Tiểu
đoàn Bảo an 270, đánh vào Đông Phước nhưng ta đánh thắng, làm nức lòng
dân Châu Thành, toàn tỉnh Cần Thơ. Từ đó, địch tăng cường lập ấp chiến
lược.
Tháng
12-1964, địch đưa không quân ra đánh phá miền Bắc. Với khí thế trào sôi
căm giận, ngày 8-6-1965 quân dân Đông Phước lập công to trong trận đánh
Trung đoàn 33, Sư đoàn 21, cùng 4 đại đội Bảo an, có phi pháo yểm trợ
đánh vào các xã: Trường Long, Nhơn Ái, Phú Hữu, Đông Phước.
Đông
Phước vẫn giữ vững trận địa, đời sống về kinh tế nâng cao. Sản xuất
phát triển, nhân dân đóng góp thuế nông nghiệp nhiều hơn. Phong trào lạc
quyên “hũ gạo chống Mỹ” “cây chuối nuôi quân” đều khắp, khí thế cách
mạng lên cao. Bài bút ký “về Đông Phước” của nhà văn Lê Vĩnh Hòa được
đọc trên Đài Hà Nội, Đài Giải phóng để lại trong lòng quân dân cả nước
niềm tin yêu tự hào về Đông Phước.
Thế
là Đảng bộ Đông Phước lãnh đạo quân dân góp phần đánh bại “chiến tranh
đặc biệt”. Đúc kết được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo 3 mũi giáp công.
Cuối
1965, Chi bộ quân dân Đông Phước được Huyện ủy trao cờ luân lưu “thi
đua ấp Bắc” đoạt giải nhất về phong trào du kích của tỉnh.
ĐÔNG PHƯỚC GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA MỸ - NGỤY 1965-1968.
Sau
khi vụ thảm bại, Mỹ buộc phải chuyển sang “chiến trnh cục bộ”. Giữa
1965, Mỹ ồ ạc đưa quân chư hầu vào miền Nam, tăng cường chiến trnh hiện
đại nhất (cả pháo đài bay B52), thực hiện kế hoạch “2 gọng kìm”, “bình
định và tìm diệt” của tướng Oét-Mô-Rơ-Len, tập trung cao lực lượng phi
pháo bắn phá vùng giải phóng, rải chất độc hóa học khai hoang, phá địa
hình hòng xóa căn cứ ta, đốt sạch, phá sạch, giết sạch nhất là vùng ven
đô như Đông Phước. Tung hàng loạt bọn tâm lý chiến vào vùng ta, tạo một
đời sống trụy lạc hòng dễ bắt lính.
Đây
là giai đoạn đen tối, ác liệt nhất. Đảng bộ Đông Phước (đ/c Hai Thảnh
làm bí thư thay Chín Mẫn) vững vàng tiếp thu Nghị quyết đại hội lần 11
(3-1965) và hội nghị lần 12 (12-1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
đã phân tính tình hình chung một cách khoa học, so sánh lực lượng giữa
ta và địch, khẳng định thất bại không thể tránh khỏi của đế quốc Mỹ,
động viên quân dân cả nước giữ vững chiến lược tấn công, phát huy sức
mạnh tổng hợp, kiên quyết đánh bại mọi chiến lược chiến tranh xâm lược
trong bất cứ tình thế nào. Đảng bộ đã giáo dục đảng viên và quân dân,
phát huy tinh thần bám trụ “một tấc không đi một ly không rời”. Xã Đông
Phước địch đóng tới 10 đồn bót, một phân chi khu Cầu Dừa, 1 căn cứ liên
đội 10 tại Ngã Sáu (tên Đại úy Thụ chỉ huy) hàng đêm phải hứng chịu từ
50-100 quả pháo từ ụ pháo Cả Bảo – Phụng Hiệp – Cái Côn. Đi càn luôn có
cố vấn Mỹ chỉ huy. Bà con không nhịn cười khi nhắc lại vụ thằng Mỹ được
lính ngụy đặt vào cái lu, lội kè lu qua vàm Tràm Bông. Cái lu lật chìm,
thịt Mỹ làm mồi cho cá tôm Đông Phước. Ở vàm Cái Muồng, 1 tên Mỹ đen
cũng lâm vào thảm cảnh như vậy.
Tháng
1-1966, lực lượng ba mũi đã dũng cảm, mưu trí diệt đồn Xẻo Lá – tiếp
theo du kích xã phối hợp với Tiểu đoàn Tây Đô diệt gọn Đại đội Bảo an
416 tại Xẻo Chồi có 2 cố vấn Mỹ, bắn rơi một trực thăng, thu 20 súng.
Từ
tháng 5-1966, Đảng bộ quán triệt nghị quyết Huyện ủy đẩy mạnh phong
trào 3 mũi giáp công, quyết chống càn quét, chống lùa dân vào ấp chiến
lược, “giết Mỹ lập công” bám đất giữ làng. Dù bom đạn ác liệt, mũi đấu
tranh chính trị vẫn tiến công, phá tan âm mưu lập ấp chiến lược, ấp “Tân
sinh”.
Ngày
1-10-1966, cuộc biểu tình lớn vào thị xã Cần Thơ với khẩu hiệu “chống
ném bom” “rải chất độc”. Cuối năm 1967, Đông Phước cùng hàng ngàn bà con
chở 53 tử thi, 30 quan tài, 25 người bị thương đòi Mỹ bồi thường nhân
mạng, chấm dứt bắn phá. Nhiều gương dũng cảm, địch lùa lên máy bay, cánh
quạt trực thăng.
Lính
lùa đi bộ thì thuyết phục lính. Âm mưu lập ấp chiến lược bị thất bại
nặng nề. Bà con một số ít ở vùng ven bị dồn ra ấp chiến lược, ban ngày
đòi về làm ruộng vườn, mà thật tâm để về gặp đảng viên, cán bộ ta. Nhiều
gương cảm động bảo vệ đảng viên của bà con trong cảnh cá chậu chim lồng
luôn hướng về đất cách mạng. Từ người già cho đến trẻ em, nhất là phụ
nữ tự giác làm công tác binh vận tại chỗ, giúp ta nắm được tề (như tề
Quăn, chủ ấp Phiến ở Ngã Sáu).
Năm
1968, ta bắt tên tình báo, đào hầm giấu máy thông tin ở ấp Long An. Cơ
sở mật giúp công an huyện bắt 4 tên gián điệp ở ấp Đông Phú.
Đồn Phước Long chặn tuyến giao thông, đường qua lại của ta gây khó khăn cho nhiều hoạt động.
Ngày
14-7-1967 chi bộ hạ quyết tâm lấy đồn, với lực lượng du kích kết hợp
binh vận, phối hợp với tiểu đoàn Tây Đô bao vây, diệt 12 tên, thu 7
súng. Đây là trận chiến thắng lớn, mở đường huyết mạch giao thông từ Khu
9 (T3) về Khu 8 (T2) và về Trung ương Cục (R).
Tháng
9-1967, du kích xã bảo vệ cho 500 đồng bào ở tuyến quốc lộ 1, phá lộ
dài 100m, đoạn từ Long Thạnh đến Cầu Trắng, đặt 2 bao bố đựng ong vò vẽ
dưới mặt lộ mới phá. Ngày sau 45 lính công binh đến giải tỏa lộ bị trận
đòn ong đánh – bỏ lộ tắc nghẽn 6 tiếng, chặn địch từ Cần Thơ về Sóc
Trăng.
Ngày
16-8-1968, du kích cùng tiểu đoàn Tây Đô đánh sư đoàn Mỹ, máy bay ném
bom bừa đồng trống, ta diệt nhiều tên, có tên Mỹ ăn đạn chết trôi. Trận
hủy diệt tàn khốc nhất năm 1969 bốn đại đội từ Ban Thạch qua Xẻo Lác,
tràn về Kinh Nhỏ, ta diệt một số, có cố vấn Mỹ, chúng tháo chạy, kêu
phản lực, trực thăng tới ném bom. Vừa pháo, vừa bom gần 1.600 trái, hủy
diệt Kinh Nhỏ.
Chi
bộ xây dựng phong trào toàn diện, trang bị thêm cho du kích, đời sống
nhân dân được cải thiện, nhiều gia đình “cưa đôi gia tài” hay hiến hết
nhà chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân.
Ta cần nhắc lại chiến công âm thầm của người già, trẻ em tuổi thiếu niên trong đường dây B80, đóng tại ngọn Ngã Cạy.
Đường
dây này nằm trong đường Trường Sơn trên biển. Đường độc đạo chuyển vũ
khí từ hậu phương lớn chuyển vào cửa biển Trà Vinh, qua Cần Thơ về miền
Tây. Chi bộ động viên đồng bào Đông Phước (có trẻ em từ 16 tuổi), khiêng
vác đạn, chuyển xuống xuồng ghe, tập kết để vượt qua lộ 4 về miền Tây.
Đây là công tác gian khổ, nguy hiểm cần đến sự táo bạo, thông minh tính
toán chính xác giờ giấc, con nước, quy luật tuần tra của địch, cả kế
hoạch bảo vệ vũ khí khi đường tạm bị tắc nghẽn; phải dầm sương, ngâm
mình dưới nước, gió lạnh đêm khuya, chịu đói khát, khiêng vác nặng, căng
thẳng sẵn sàng chiến đấu.
Có
thể phải hy sinh tính mạng, dùng thủ pháo tự nhận chìm tàu, ghe xuồng,
hủy diệt vũ khí, thùng đựng tiền khi đối đầu chiến đấu với các giang
đoàn, tàu giặc dựng tắt máy phục kích chờ ta trên sông, cả bọn tuần tra
trên lộ Long Thạnh.
Với
tư thế người dân công, đồng thời là một chiến sĩ, người già đến trẻ của
Đông Phước hoàn thành xuất sắc, thắng lợi nhiều năm liên tục, đóng góp
lớn cho khu Tây Nam bộ.
Thế
là Đông Phước góp phần đánh thắng chiến tranh cục bộ, sẵn sàng tư thế
tấn công, lẫn vai trò căn cứ, hậu thuẫn cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân
1968.
CHƯƠNG XI
CUỘC TỔNG TẤN CÔNG NỔI DẬY MÙA XUÂN MẬU THÂN 1968
Cuối
tháng 12-1967, Bộ Chính trị nhận định “chúng ta đang đúng trước những
triển vọng và thời cơ chính trị lớn. Đế quốc Mỹ ở trong tình trạng tiến
thoái lưỡng nan”. Bộ chính trị ra quyết định lịch sử “chuyển cuộc cách mạng Việt Nam sang thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định”.
Thư chúc tết của Bác Hồ 1968:
“Xuân này hơn hẵn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua chống giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”.
Đó
là lời kêu gọi, thúc giục Đảng bộ, quân dân Đông Phước phấn khởi, lao
lên vượt thời gian chuẩn bị trận đánh mới, chấp hành đúng chủ trương,
Đảng bộ nâng cao sức chiến đấu, lực lượng võ trang bao vây kìm chân địch
đồng thời đẩy mạnh mũi binh vận, kêu gọi lính bỏ súng, quay về với nhân
dân. Địch hoảng sợ co cụm lại. Đơn vị tiếp ứng của xã điều đến Cầu
Trắng (Long Thạnh). Làm chủ quốc lộ 1, 22 ngày đêm cho bộ đội tiến quân
về Cần Thơ. Từng đợt đội du kích xã nhiều lần đến mặt trận cùng chia lửa
với Vòng Cung.
Thanh
niên xung phong đi tiếp tế hậu cần, tải đạn, tải thương. Đông Phước là
một nơi chu đáo, tiếp một số thương binh Vòng Cung, giữ mối đường liên
lạc cho các nơi về Vòng Cung.
Ngày
8-1-1968, 1 lữ đoàn cùng Sư đoàn 9 Mỹ đưa xuống Cần Thơ thì ngày 15-1
tổ chức ngay cuộc hành quân hỗn hợp có tàu chiến, xe thiết giáp của 2
trung đoàn thuộc Sư đoàn 7 và 21 ngụy, 3 tiểu đoàn biệt động quân 42,
43, 44, một đại đội thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn Mỹ có pháo binh yểm
trợ đánh phá vào Vòng Cung, Phú Hữu – Đông Phước, chúng bắn giết, phá
sạch tất cả. Sau đó, trong nhiều ngày liên tiếp, B52 rải thảm phát
hoang, hòng tát dân, cứ 30 phút, 1 loạt đạn pháo, mỗi điểm cách nhau
10m.
Dã
man hơn, chúng rải chất độc bừa bãi, dầy đặc. Ban đêm, trực thăng rà
soát, tìm lực lượng ta, thấy người là bắn. Còn dư bom chúng trút xuống
Ngã Sáu. Đông Phước sống trong “tọa độ lửa”. Không thể kể xiết sự khốc
liệt, nhưng quân dân Đông Phước vẫn kiên cường bám trụ, luồn sau lưng
địch buông ra đánh những đòn đau, giữ vững địa bàn.
Dân
phân tán, cán bộ gặp khổ muôn trùng. Ban ngày phải “chém vè” ở lung
bào, chui xuống hầm lấp cây khô lên, nhịn đói khát nhiều ngày, có lúc
không còn đủ chuối ăn. Mặc dù bám trụ rất giỏi, địch có vô là có đánh,
nhưng ngày càng gặp khó khăn vì mất nhiều nguồn dân, lúc đó xuất hiện
cụm từ “đảng viên trọi”.
Đảng
bộ nhạy bén chấn chỉnh, tìm mọi cách về bám dân, đưa cốt cán vào dân
trong ấp chiến lược. Từ đó cơ sở ngày càng rộng, càng vững vàng. Dân
Đông Phước lòng son dạ sắt vừa nuôi chứa, bảo vệ cán bộ.
Buổi
sáng, sau giờ “tan phèn” (giờ mà máy bay và địch không dám hoạt động)
thì dân đưa cơm, tin tức, thơ thừ công tác vào các “chòi lá, chòi
nilon”, các lùm cho cán bộ.
Sáng
17-6 địch đổ quân xuống Đìa 20, kinh Thái Tử, ngay điểm tiểu đoàn Tây
Đô dưỡng quân. Ta mưu trí, vừa đánh vừa bảo toàn lực lượng, bẻ gãy bảy
đợt tấn công. Chúng huênh hoang gọi loa: “sư đoàn 9 bộ binh Huê Kỳ hùng
mạnh, ra đi hẹn ngày đơn vị các ông tổ chức lại”. Song, nó không bao giờ
trở lại vì phải bỏ lại 70 mạng.
Tháng
7-1968, du kích xã cùng bộ đội chủ lực, quyết liệt đánh trả 3 tiểu đoàn
địch ở kinh Bảy Thưa, diệt 100 tên, cả ban chỉ huy tiểu đoàn. Tháng
5-1969, địch mở cuộc càn lớn liên tục 26 ngày đêm vào vùng 6 xã, với lực
lượng chi khu, tiểu khu, của vùng 4 chiến thuật. Sư đoàn 31 kết hợp với
hải thuyền, trực thăng. Tháng 08, 09 địch lại chà xát tàn bạo, ngày bộ
binh, đêm phi pháo, trực thăng soi lùm, phát loa “Tử thần hay chiêu
hồi”, rất trơ trẽn.
Đông Phước bám trụ vững, dân phá ấp chiến lược trở về, cuộc đời vẫn đẹp sao vui theo tiếng hát át tiếng bom.
Qua
những năm ác liệt này, Đảng bộ Đông Phước đã chiến thắng sáng đẹp chủ
nghĩa anh hùng cách mạng: “Đảng vì dân – Dân theo Đảng”.
QUÂN
DÂN ĐÔNG PHƯỚC KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN TRANH XÂM
LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH, BUỘC MỸ PHẢI KÝ HIỆP ĐỊNH PARIS VỀ VIỆT
NAM”.
Chiến
lược chiến tranh cục bộ bị phá sản, Mỹ phải xuống thang, chuyển qua
Việt Nam hóa chiến tranh với công thức “Vũ khí Mỹ cộng với quân đội
ngụy, thay màu da trên xác chết”, tăng cường phương tiện chiến tranh để
Mỹ, lũ chư hầu rút dần về nước.
Chúng
ra sức thực hiện các chiến dịch “Bình định cấp tốc”, “Bình định đặc
biệt”, “Bình định bổ sung”, từ “Tìm diệt” quay về “Quét và giữ”. Do đó
mức độ khốc liệt chiến tranh càng tăng. Tăng cường phi vụ B52, rải chất
độc phát hoang địa hình, Đông Phước là một trong số trọng điểm.
Chỉ
có 3 ấp: Ngã Cạy, Xẻo Chồi, Tràm Bông mà chúng đóng tới 4 tiểu đoàn, sự
phản kích điên cuồng của địch gây cho ta khó khăn, tổn thất nhất định.
Vùng giải phóng bị thu hẹp, chúng dồn dân ra ấp chiến lược, ta mất nhiều
cơ sở.
Đảng
bộ Đông Phước, đồng chí Ba Long thay đồng chí Năm Mù rút về trên; 5
tháng sau Huyện ủy Phụng Hiệp điều đồng chí Bảy Tần làm Bí thư; 7 tháng
sau thay đồng chí Tư Chương; đầu năm 1969, đồng chí Tám Cao thay làm Bí
thư. Đảng bộ còn lại 42 đảng viên (1968 có tới 185 đảng viên); vì một số
hy sinh, một số đi bộ đội thoát ly, một số vì gia đình khó khăn, tổ
chức cho tạo hợp pháp làm ăn. Đến tháng 10-1969, đồng chí Tám Cao hy
sinh, đồng chí Sáu Inh làm Bí thư (Phùng Văn Inh).
Nhà
cửa bị đốt phá, Đông Phước như búc tranh không còn màu xanh, hoang tàn,
âm u tử khí, đêm đêm ỉ eo tiếng loa chiêu hồi càng gây phẫn nộ lòng
người. Số dân bám trụ còn rất ít, mỗi ấp còn vài chục hộ, Đông Mỹ, Đông
Bình, Đông Thạnh, không quá 10 hộ. Đảng bộ và du kích vẫn bám trụ ngày
đánh địch, đêm thì ra bám dân, nhờ ta rút kinh nghiệm có đưa nòng cốt
theo dân. Địch càng ép, dân càng hướng về cách mạng, có người không theo
vợ con ra ấp chiến lược, ở lại bám với ta như ông Tư Kiệm (Đông Bình),
ông Võ Trung Nhân cũng vai vác mác, lựu đạn nai nịt gọn gàng. Dân đấu
tranh, sáng về làm ruộng vườn để về với cách mạng, tối ra vùng ven tránh
pháo.
Xin
nhắc đến chị Hai Đáng, sống về nghề mua bán, qua bao năm dài, khéo léo
vượt hiểm nguy tiếp tế cho cán bộ hoặc mua những hàng bị cấm để cung cấp
cho các cơ quan ta.
Anh
Hai Bình (Bình trúm), sống về nghề đặt trúm bắt lươn, kiếm vừa đủ ăn,
còn bao nhiêu cũng cho bộ đội, cán bộ ăn hàng ngày. Anh được xét trong
diện có công với cách mạng, được thưởng huân chương. Bác Hai Lành hiến
một lần 100 giạ lúa.
Đồng
chí Bí thư Sáu Inh có trình bày với đồng chí Chín Khương, Ủy viên
thường vụ Tỉnh ủy về khó khăn liên hệ giữa Đông Phước và Huyện ủy Phụng
Hiệp, đề nghị nên đưa về Châu Thành sẽ hoạt động, thỉnh thị sự chỉ đạo
dễ hơn.
Được
sự chấp nhận của Tỉnh ủy, Đông Phước thành một xã của huyện Châu Thành.
Đảng bộ chủ trương cho một số cán cộ già yếu, bệnh tật chuyển sang địa
bàn khác để trị bệnh, công tác theo khả năng, cán bộ nữ thì tận dụng ưu
thế về hoạt động hợp pháp để bám vào dân chỉ dạo đấu tranh trong vùng
địch. Đảng viên, cán bộ trẻ, dân quân du kích ở lại bám trụ chiến đấu.
Giai
đoạn này rất căng thẳng, nên đảng bộ tăng cường lãnh đạo tư tưởng; phân
tích thắng lợi của ta trên toàn cục, lực ta tạm thời yếu nhưng thế ta
rất mạnh, nhanh chóng chuyển thế sẽ giành thắng lợi lớn. Từ đó, giải
quyết thông ý nghĩ: “về trên phân tích tình hình hình thì thấy lực lượng
của địch mỏng như lá lúa, về địa phương thì thấy nó dầy như da trâu”.
Đi sát từng đảng viên để giải quyết vướng mắc về nhận thức, hay trong
đời sống tình cảm, nên đảng viên phát huy vai trò rất tốt, ảnh hưởng tốt
ra dân.
Màu
xanh niềm tin ở lòng người tô điểm dần màu đất chết, máu lửa tang
thương. Xã hội cùng lực lượng khu, tỉnh tiêu diệt 3 phân chi khu ở Đông
Phước, Phú Hữu, Thạnh An, bức hàng 6 đồn bót, giải tán trên 200 phòng vệ
võ trang, thu hơn 100 súng các loại, chống càn hàng chục trận.
Tháng 2-1969, du kích đánh tiểu đoàn Bảo an ở Xẻo Lác, giết 28 tên (có 2 cố vấn Mỹ) thu 24 súng.
Cùng
trong tháng 2-1969 máy bay đổ dù lính sư đoàn 9 ngụy xuống Đông Mỹ, du
kích xã phối hợp B80 đánh quyết liệt. Sau 3 giờ, địch rút lui, 81 chết
và bị thương, ta thu 45 súng.
Kế
tiếp, du kích xã cùng du kích Phước Long, Phước Hòa chặn tiểu đoàn Bảo
an 417 tại vàm Xẻo Lác; địch bị thiệt hại nặng, (có 1 Mỹ chết) thu 21
súng, nhiều đạn dược.
Tháng
6-1969 du kích phối hợp với một đại đội tiểu đoàn Tây Đô bắn hạ và làm
bị thương 84 tên, thu 40 súng, một máy thông tin của sư đoàn 7 (bộ binh)
và một đại đội biệt kích Mỹ tại Bảy Thưa (Đông Bình).
Tháng 10-1969, đội du kích với binh vận, diệt gọn đồn Mương Khai ấp Long Lợi, địch chết 6, ta thu 5 súng.
Năm
1970, bao vây đồn Cái Chanh đánh đại đội phản kích đi bọc đường Long
Thạnh diệt gọn cả 100, chỉ còn vài tên. Du kích Phước Long lấy cả ghe
súng. Ta tiếp tục bao vây đồn Cầu Dừa. Đầu 1971, tại Cái Muồng, ta diệt
61 tên, thu 10 súng. Ngày 19-5-1970, để dâng quà lên vị cha già dân tộc,
du kích Đông Phước đánh bọn tuần tra từ đoạn lộ 19-20 (Phụng Hiệp). Ta
ném lựu đạn lọt vào xe…chết cả 5 tên.
Tháng 10-1971, địch đổ quân đóng bót Cản Đất, 11 giờ đánh bót Cái Đôi.
Cũng
trong tháng 10-1971, 10 giờ sáng, máy bay đổ một trung đội xuống cánh
đồng Năm Trăm, đánh vào cơ quan Đảng bộ xã. Bọn địch sợ địa hình đầm lầy
phức tạp nên co cụm lại. Đồng chí Bí thư Sáu Inh cho trinh sát nắm tình
hình, cử đồng chí Kiệt, Xã đội phó và đồng chí Giỏi mang gài trái đạn
105 ly, nổ súng dụ địch vào vòng, trái 105 ly nổ, chúng chết khá đông,
chúng gọi tiểu khu lên tiếp viện nhưng không được, có 3 chiếc L19 và
trực thăng bắn như đổ đạn. Đồng chí Kiệt bắn rơi một chiếc trực thăng
HU6, chết 1 Mỹ, hàng chục máy bay khác ào tới, ta vẫn bám trụ đánh trả,
hạ thêm 2 tên, một đồng chí của ta đã hy sinh. Dân hát vang bài ca “Bắn
hạ máy bay” theo điệu Tam Pháp Nhập Môn.
Tức thay, lũ quân tàn bạo
Súng đây chính tay mình tạo
Chờ nó đảo lộn nghiêng nghiêng
Những người anh hùng du kích
Nhắm ngay máy bay siết cò
Đùng đùng đùng, nó bốc cháy
Kìa rồi kìa, khoái khoái quá
Chúi ngay xuống dòng sông sóng trào
Vào
tháng 12-1971, đồng chí Huỳnh Thanh Diệu, Bí thư ấp Đông Bình, nắm được
quy luật hàng tháng lính đồn Bảy Thưa lên Phụng Hiệp nhận tiền, nhận
gạo, nhận súng đạn, được tin binh vận báo về chắn chắn. Ta gài trái dưới
sông, phục kích trên bờ. Xuồng đầu có 4 tên trúng mìn lật chìm, ta bắn
và xung phong lên, xuồng 5 tên đi sau cũng bị mìn nổ, tan xác 4, bị
thương 1, ta rút lui an toàn.
Năm 1972 bo bo lính Phụng Hiệp vô Cầu Dừa qua Bảy Thưa lúc về bị du kích mật giăng dây chì ngang sông, bo bo vướng lủi vô bờ.
Ngày
2-9-1972 đồng chí Ba Thanh, đảng viên, ấp đội trưởng Đông Bình gài trái
đạn 105 ly. Bọn tiểu khu cùng bọn đồn Ngã Tư sông Xáng do trung úy Tấn,
trưởng đoàn dẫn đầu, lọt vào đường mòn gài sẵn, trái đạn nổ chết tại
chỗ, có tên trung úy tiểu khu, trung úy đồn trưởng Ngã Tư, chết bị
thương 17 tên.
Từ 1969-1975, anh Ba Thanh đã chế tạo lại đạn lép, đánh nổ 18 trái, diệt 81, bị thương gần 100 tên.
Ta
đánh mạnh, phong trào đấu tranh chính trị cũng lên cao. Đông Phước được
nhận danh hiệu “lá cờ đầu phát triển chiến tranh du kích, xây dựng lực
lượng” trong toàn tỉnh.
Từ
1970-1971, có 4.000 đồng bào bỏ ấp chiến lược về với ruộng vườn cũ ở
các xã: Đông Phước, Thường Đông, Phú Hữu, Thạnh An, Phú Thứ.
Về
binh vận, ta vận động thân nhân lính ngụy kêu gọi con em mình bỏ ngũ;
ta cài nội tuyến vào đồn, vào phòng vệ dân sự, nên đã tạo được nhiều
thuận lợi cho mũi quân sự chính trị.
Đảng
bộ lãnh đạo quân dân Đông Phước ngày càng chủ động vươn lên từ chiến
đấu đến nâng cao đời sống, góp phần cho huyện Châu Thành hoàn thành
nhiệm vụ trọng điểm, làm bàn đạp tiến công ra thành phố Cần Thơ là đầu
não vùng 4 chiến thuật, góp phần thắng lợi của ta trên bàn hội nghị
Paris.
Tháng 2-1972, đồng chí Liễu Văn Út (Út Một) làm Bí thư thay cho đồng chí Sáu Inh về làm Chánh Văn phòng Huyện ủy Châu Thành.
Đảng
bộ có 18 đảng viên, có 2 đảng viên hợp pháp: Hai Râu, Ba Dung, Tư Bé,
Tám Tôn, Năm Sĩ, Chín Bình, Năm Tốt, Ba Thanh, Tư Diệu, Bảy Láng, Tám
Nùng vv… Đội du kích do đồng chí Tám Nhãn chỉ huy, có một số đoàn viên.
Đây là thời kỳ ác liệt tột đỉnh, bám trụ kiên cường nhất, địch vô hàng
ngày đều bị đánh. Địch đóng 17 đồn Bảo an (556 tên), bốn ụ phòng vệ quân
sự (150 tên), 4 ụ công sự dã ngoại bố trí 16 mìn play-mo, đoàn bình
định (100 tên) làm cái gọi là “ba cùng với dân”, còn có phân chi khu Cầu
Dừa, căn cứ liên đội 10.
CHƯƠNG XII
ĐẢNG
BỘ LÃNH ĐẠO QUÂN DÂN ĐÔNG PHƯỚC, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI HOÀN TOÀN CUỘC CHIẾN
TRANH XÂM LƯỢC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ THÁNG 1-1973 ĐẾN 30-4-1975
Trong
chiến dịch mùa hè 1972-1973, ta đã giành thắng lợi to lớn, vững chắn,
nhất là gỡ đồn bót và quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ sôi nổi.
Ngày
27-1-1973, Mỹ ngụy phải ký Hiệp định Paris, ở thế thua nhưng chúng phản
bội ngay. Chúng cố phản kích ác liệt, tung ra chiến dịch “tràn ngập
lãnh thổ” các đồn “nong” ra cắm bờ ba que chiếm đất, giành dân, bắt lính
ráo riết đôn quân. Chúng đưa thêm 10 tiểu doàn vào Đông Phước, Phú Hữu,
Tân Hòa, Thạnh Xuân.
Căn
cứ Đảng bộ dời từ Xẻo Chồi (cách đồn Sáu Liểng 800 mét) về cánh đồng
Năm Trăm, ở giữa lau sậy có trận địa chất nổ, hầm chông, vừa bảo vệ lực
lượng, vừa bảo vệ dân. Tinh thần “một tấc không đi, một ly không rời”
được nâng cao tột đỉnh. Dù phải dài ngày ăn chuối, đu đủ, bí rợ, Chi bộ
và đội du kích vẫn giữ đúng lời thề:
“Giặc vô phải đi lò dò
Giặc về đứa lết, đứa bò, đứa khiêng”
Dân
thương, tin đảng viên, du kích, lo lắng, nuôi dưỡng rất chu toàn. Đảng
viên phát triển nhanh. Từ 7 du kích: Năm Chỉ, Bình, Nhãn, Kiệt, Năm Lê,
Mười Cung, Ba Thanh. Đến năm 1973 lên đến 26 đảng viên.
Đồng
chí Út Một có sáng kiến lập “Sơ đồ chính trị” (cách gọi riêng của đồng
chí bí thư), phân loại quần chúng, có kế hoạch cho đảng viên, cán bộ
phát huy cao độ, hành động tích cực của họ để làm đầu tàu, nâng chất
lượng cách mạng nên quần chúng rất phấn khởi đi theo Đảng đến cùng.
Chiến tranh ác liệt trong đạn bom, khói lửa hàng ngày, quân dân Đông
Phước xông lên lập chiến công với ba mũi giáp công.
Từ
1971-1973, ta mở mảng giải phóng nhiều ấp. Đông Phước đã trở thành căn
cứ an toàn góp phần bảo vệ và phối hợp với bộ đội trên về như tiểu đoàn
Tây Đô, một số đồng chí Khu ủy viên đồng chí Ba Bài, Sáu Sâm ở Xẻo Chồi,
Huyện Ủy Châu Thành ở Chùa Cô. Thị xã ủy Cần Thơ ở Cái Muồng, Ngã Cạy,
các đồng chí Tỉnh ủy như đồng chí Chín Khương, Tư Sến, Ba Kim, Ba Trọng
về chỉ đạo 6 xã. Một số cán bộ có câu nói vui là “Từ trong lộ vòng cung
về dưỡng quân ở Thạnh Xuân như về miền Bắc, về Đông Phước như đi Liên
Xô”, vì nơi đây đã trở thành nơi an toàn nhờ bố phòng chặt chẽ; nhiều
lúa gạo, lắm cá tôm, lại được học tập. Ban binh vận Thành ủy Cần Thơ
từng tổ chức lớp huấn luyện ngắn hạn cho cán bộ, thanh niên, trí thức,
sĩ quan và binh lính nội tuyến ngoài thành vào học. Đất trời Đông Phước
bom cày đạn xé trở thành căn cứ vững chắc, vì có lòng dân.
Trận đánh đồn Xẻo Chồi 1972, là trận đánh binh vận đẹp, chiến thuật hay, táo bạo, sử dụng yếu tố bất ngờ.
Theo
lời kể của đồng chí Bí thư Út Một, chỉ huy trận này: “Lính đồn Xẻo Chồi
có hai trung đội dân vệ, tên Mai Vưn Đoàn mê cô Năm là con một gia đình
cơ sở cách mạng có 3 liệt sĩ: Hai Sót, Tư Cụt, cha là Ba Bá Đỏ, mẹ là
Ba Mậu. Lê Văn Hưởn (Mười Hưởn) là trưởng màn lưới Phượng Hoàng (gián
điệp ở Phụng Hiệp) đã được ta thuyết phục, đưa nguyên bút báo cáo gián
điệp cho đồng chí Tôn, Xã đội trưởng, qua cô Năm (gọi Hưởn là dượng rể).
Xã đội phó Nhãn là anh em chú bác ruột với Đoàn, nhận từ tay Đoàn bảng
sơ đồ bố phòng của đồn. Đồng chí Ba Ứng, Huyện ủy viên xuống chỉ đạo,
cùng đồng chí Út Một phân tích, phán đoán: Vì Đoàn là cơ sở quá mới,
đồng chí Út Một trực tiếp gặp Đoàn, Đoàn mang ra cho ta một khẩu súng
lấy của bạn; đồng chí Út Một kết nạp ngay tại chỗ: Đoàn là đoàn viên.
Anh Đoàn gác vọng canh từ chợ đi vào, ám hiệu là quẹt 3 cái hút thuốc.
Đồng chí Ba Ứng hơi đắn đo phương án “Yếu tố bất ngờ” là ta hành quân
trên lộ. Đồng chí Út Một nghĩ rằng địch cho là ta không dám đi trên lộ,
nên chúng có thể tưởng là quân của chúng. Huyện tăng cường đồng chí
Nhiều đại đội trưởng đại đội 1, địa phương quân với khẩu “Kôlinốp”. Đúng
12 giờ đêm nổ súng, chớp nhoáng 7 phút, diệt 4 tên lấy 3 AR15, 1 Colt, 1
máy PCR25. Qua trận này ta rút kinh nghiệm là có thể nên cài anh Đoàn ở
lại tốt hơn.
Tháng
9-1973 du kích phối hợp Tiểu đoàn Tây Đô bao vây đồn Sáu Liểng của đại
đội 225 ở Xẻo Chồi, đánh công đồn đả viện, diệt 10 tên có đại úy Nguyễn
Phước Kiến, Trưởng ban tác chiến 3 của Phụng Hiệp.
Ngày 22-4 bức rút đồn này, có ý nghĩa mở mảng rất lớn. Sau đó bức rút đồn Tràm Bông.
Đồng
chí Bảy Láng, đảng viên phụ trách ấp Phước Long bị biệt kích bắt (sau
đày đi Côn Đảo) đồng chí Út Một chỉ định đồng chí Sáu Ổn thay đồng chí
Nguyễn Văn Trọng (Hai Trọng), trưởng ban công an xã là đảng viên lâu
năm, đóng góp nhiều cho lãnh đạo Đảng bộ, đảng viên hợp pháp Nguyễn Văn
Thôi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nắm địch tính, vẽ sơ đồ chuẩn bị đánh
bót Cầu Dừa rất ác ôn (1978 đồng chí Thôi là Chủ Tịch Ủy ban nhân dân xã
Đông Phước).
Ba đồng chí du kích đánh bọn biệt kích đi xuồng ở Kinh Sáng lấy 1 M79, nhiều đạn.
Hai
mươi du kích xã bao vây, bắn 04 trái mọt chê, M72 tên xã phó Muôn chạy
về Cầu Trắng, ta lấy bót Tràm Bông, song song, ta tăng cường diệt tề
điệp.
Ba
giờ chiều, đồng chí Mười Cung bắn hụt tên trưởng ấp Ba Mùi, sau đó ta
phục kích tại nhà Tư Đực, tước súng bọn phòng vệ dân sự mang súng về
nhà, trở lên đồn đi học, được 3 carbine, 1 garant. Sau đó ta bao vây
rượt tên Chín Ngựa, đại đội phó biệt kích giả là cán bộ trà trộn vào
Đông Phước.
Về
binh vận, ta phát triển nhanh nội tuyến như đồn Bảy Thưa (có đồng chí
Liêm), Võ Văn Trí (ụ phòng vệ Bảy Thưa) và nhiều đồn bót khác. Lính sư
đoàn 9 thua ở U Minh về đóng ở Cái Nhum, ta cùng dân vận động ra ngũ 30
tên (đồng chí Út Một đưa dẫn 2 tên), vợ con binh lính vào đồn Sáu Liểng
chở chồng ra đầu hàng ta. Tràm Bông ra 3 tên.
Cũng
cần nhắc lại chiến công của nữ đồng chí Lê Ngọc Trước trong Ban Chấp
hành Phụ nữ xã, đã tuyên truyền, giác ngộ được 1 trưởng đồn, 3 dân vệ
mang về cho ta 4 súng, hơn ngàn viên đạn.
Lực
lượng ta mạnh lên, 26 du kích cùng đồng chí Út Một quyết liệt chống
càn, địch vô là bị đánh, bỏ thây hoặc khiêng về vì bị chất nổ.
Cuối
1973, Đảng bộ Đông Phước được xác nhận là Đảng bộ vững mạnh. Đông Phước
được khen thưởng Huân chương Chiến công hạng 3 du kích diệt, làm bị
thương 196 địch, 68 trận đánh và bao vây diệt gọn 1 đồn. Địch cố đóng
chốt ở căn cứ lõm, những nút trên hành lang huyện này qua huyện khác. Cố
sức giành đất giành dân, nhưng dân ta đấu tranh, trở về làm ruộng vườn
ngày càng đông.
Sau
vài tháng, ta dứt điểm đồn Năm Kim, đồn Cản Đất, du kích xã đuổi một
đêm 3 đồn là đồn Hai Lân, đồn Bảy Mực, đồn vàm Ngã Cạy. Hai du kích đi
xem văn công tỉnh diễn, đồng chí Út Một dặn khi đi ngang qua 3 đồn trên
bắn 1 loạt đạn kôlinốp và M79. Ba đồn sợ quá chạy về đồn Cái Chanh. Du
kích nhờ máy phóng thanh của đoàn văn công đang diễn báo tin, bà con kéo
về san bằng luôn cả 3 đồn.
Các u phòng vệ võ trang ở ngã tư Đông Phú, vàm Ngã Cạy, Xẻo Chồi tự rã ngũ.
Năm
1974, du kích kết hợp địa phương quân đánh bật 1 tiểu đoàn địch, diệt 2
tên trung đội trưởng và phó (Hai Lọ, Út Chuồn). Ta bao vây đả viện.
Trận này anh Phước, Huyện đội trưởng chỉ huy, Út Một là phó. Địch ở
Phụng Hiệp treo giải thưởng 100.000đ lấy đầu Út Một.
Đồn Ngã Sáu nổi tiếng ác ôn, phách lối cũng co cụm lại, phản kích kịch liệt gọi cứu viện không được, bỏ đồn tháo chạy.
Cuối 1974, Đông Phước đã giải phóng 3/4 xã, chỉ còn đồn Cầu Dừa, Xẻo Lác, rồi cũng phải bỏ đồn tháo chạy.
Tháng 3-1974, quân dân Đông Phước giải phóng hoàn toàn xã nhà.
Đông Phước nô nức chuẩn bị cho chiến dịch tổng tấn công.
Đông chí Tám Nùng thay đồng chí Út Một làm bí thư.
Ngày
24-4-1975, Đông Phước lập đại đội 3, địa phương quân huyện Châu Thành
trên 50 chiến sĩ, đồng chí Út Một làm chính trị viên. Đại đội 3, từ Đông
Phước tiến về giải phóng Cái Răng chiếm thành Cả Đạt, hậu cứ 481 và chi
khu.
Thế
là, 6 dòng kinh giăng đầy đỏ rực cờ sao, đồng lúa vang lên tiếng hát
“Giải phóng miền Nam”, “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, nụ cười
rạng rỡ.
Đông Phước trở thành đất anh hùng, vì có nhân dân, có những đảng viên tiên phong anh hùng.
Vinh
quang đời đời này thuộc về Đảng ta, Đảng bộ bám sát đất mẹ, bám dân
“một tấc không đi, một ly không rời”, biến căm thù thành sức mạnh vô
địch, trải qua 31 năm dài cực kỳ gian lao, máu lửa, qua mấy độ thăng
trầm trên đường trường chinh, máu xương nở hoa chiến thắng. Đông Phước:
bản anh hùng ca tiếng hát át tiếng bom, nhận chìm lũ ngoại xâm dã man,
hiện đại nhất trong cuộc đối đầu lịch sử.
Đảng
bộ và quân dân Đông Phước được quyền tự hào, vì trên mãnh đất vùng sâu
nhỏ bé cơ cực và lửa máu này, cờ Đảng luôn phất cao; chỉ trong 21 năm
chống Mỹ, đã hiến dâng tổ quốc 443 đồng chí hy sinh, 93 đồng chí thương
binh, 700 gia đình trung kiên đóng góp sức người sức của cho cách mạng
và 221 đồng chí cho bộ đội chủ lực miền Nam. Lá cờ đầu chiến tranh du
kích Đông Phước lấp lánh ánh sao. 1.586 huân chương kháng chiến (nhất,
nhì, ba), 89 huy chương chiến công, 39 bằng khen trung ương, 46 bằng
khen của tỉnh.
Trong
kháng chiến chống Mỹ, quân dân Đông Phước đã chống càn hơn 500 trận lớn
nhỏ, tiêu biểu là 27 trận, có 6 trận tiêu diệt gọn. Đánh 102 lượt đồn
bót, bức rút, bức hàng 28 lượt, đánh bại 7 tiểu đoàn, 1 sư đoàn, 3 đại
đội (có 1 đại đội biệt kích Mỹ), 11 trung đội, diệt 1 phân chi khu, bắn
rơi 2 máy bay, thu 442 súng các loại, hàng loạt viên đạn, khí tài. Loại
khỏi vòng chiến đấu 47 giặc Mỹ và 2.500 lính ngụy. Hơn 5.000 con em
thoát ly đi kháng chiến. Hơn 60 trận đấu tranh chính trị lớn nhỏ, với
23.000 lượt đội quân tóc dài xuất trận. Phong trào binh trận góp phần
phối hợp tiêu diệt đồn bót, trên 290 lính mang 60 súng về với nhân dân.
Tất nhiên con số trên chưa đủ, sẽ còn nhiều hơn, nhưng cũng đã xứng đáng với danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Thành
kính dâng tràng hoa tiếc thương, đời đời nhớ ơn đến những đồng chí,
đồng bào Đông Phước ngã xuống cho màu cờ chiến thắng rực rỡ hôm nay,
đến những đảng viên ưu tú: Ngô Hữu Hạnh, Bùi Tâm Bảo, Ba Ca, Trần Văn
Duyên (Chín Mẫn), Trần Văn Năm (Năm Mù), Trương Văn Cao (Tám Cao), Ba
Long, Mai Văn Nho, Út Oanh, Thiểu, Nguyễn Văn Rớt v.v…
Trân
trọng chào đón những tấm huân chương, huy chương chiến công nhà nước
phong tặng các mẹ anh hùng, các bà, các chị đội quân tóc dài, những gia
đình có công, những gia đình có 3 thế hệ kháng chiến như đồng chí Phạm
Chánh Mỹ, những du kích bám trụ kiên cường, nhiều chiến công như: Nguyễn
Văn Thanh, Bùi Nhật Ổn, Phạm Huỳnh Mai, Thái Văn Đông, Lê Văn Bình;
Nguyễn Hữu Dung, Nguyễn Thành Vạn, Nguyễn Phước Tống, Nguyễn Văn Chơi
(Ba Long), Tư Chương, Bảy Tần, v.v…
Sau
cùng, xin gắn bông sen đỏ thắm lên trái tim các đồng chí bí thư: Phạm
Chánh Mỹ, Phùng Văn Inh, Liễu Văn Út, Lê Văn Tuôi (Tám Nùng) v.v… tay
phất cờ, tay cầm súng xung trận.
Truyền
thống anh hùng là niềm tự hào, mãi mãi là tấm gương trong ngần cho Đảng
bộ và quân dân Đông Phước sáng mắt, sáng lòng trên đường mới xây dựng
xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam huy hoàng dưới cờ Đảng anh
minh.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
BÀI HỌC THỨ NHẤT
NẮM VỮNG VÀ VẬN DỤNG LINH HOẠT SÁNG TẠO
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC-DÂN CHỦ NHÂN DÂN
CỦA ĐẢNG PHÙ HỢP VÀO ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ CỦA ĐÔNG PHƯỚC ĐỂ HOÀN THÀNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA ĐẢNG BỘ
Từ
1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, đến 1938 chi bộ Đông Sơn, Thường
Phước đã vững vàng lãnh đạo nhân dân làm nên lịch sử hào hùng của Đông
Phước. Đó là thành quả của quá trình giác ngộ, vận động cách mạng Việt
Nam của lãnh tụ thiên tài Nguyễn Ái Quốc đưa về tổ quốc mình. Hoạt động
xuất sắc của các đảng viên tiền bối trong “An Nam Cộng Sản Đảng”, Đặc ủy
Hậu Giang và Liên Tỉnh ủy Hậu Giang đã gieo hạt giống đỏ trên đất cách
mạng Đông Phước.
Đảng
bộ Đông Phước thấm nhuần đường lối cách mạng dân tộc dân chủ, vận động
linh hoạt trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm, để lãnh đạo nhân dân giành
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, góp phần đánh bại đế quốc sừng sỏ,
đã giải phóng và thống nhất nước nhà. Vừa ra đời, chi bộ đưa nhân dân
đấu tranh thắng lợi trong cao trào dân chủ thời kỳ mặt trận bình dân.
Mới hơn 2 tuổi, Đảng bộ Đông Phước đã là một mũi xung kích trong cuộc
khởi nghĩa Nam kỳ; dù chưa thành công nhưng là cuộc biểu dương xu thế
lịch sử, một cuộc tập dượt cho cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng thành công
tháng 8-1945.
Với
sự vận dụng đúng đắn, linh hoạt đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, với phẩm chất trong sáng, tiên phong, người đảng viên trở
thành trung tâm khối đại đoàn kết trên nền tảng công nông liên minh,
người cầm lái vững vàng con thuyền giải phóng, vượt qua bão tố điên
cuồng, nhất là thời kỳ đánh Mỹ. Với ý kiến kiên cường tiến công sáng
tạo, đảng viên trở thành tấm gương thuyết phục một số người lầm đường,
một số tín đồ tôn giáo bị bọn phản động lừa bịp, o ép. Ưu việt hơn, đã
giác ngộ một số lớn người của giai cấp đối kháng, họ trở thành điền chủ
khai minh, cả con cháu họ đứng vào hàng ngũ Đảng, hoặc tham gia hai cuộc
kháng chiến thần thánh. Khối đại đoàn kết ngày càng phát triển là sức
mạnh vô địch, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Từ
những tháng ngày cùng cực, thực dân Pháp đàn áp trong biển máu sau Nam
kỳ khởi nghĩa, đến những năm đen tối, tay không thắng chiến tranh đơn
phương của Mỹ Diệm, ngọn cờ dân tộc dân chủ vẫn sống trong tim đồng bào
Đông Phước, chuẩn bị cho cờ đồng khởi phất cao vẫy gọi toàn dân miền Nam
đứng lên vây khốn quân thù trong lửa chiến tranh nhân dân, phát triển
mặt trận bạo lực chính trị, là một sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ Đông
Phước.
Đường
lối ấy là ánh sao soi đường xuyên suốt cho cách mạng miền Nam, dù trong
thời kỳ thoái trào ác liệt nhất, Đảng bộ Đông Phước luôn linh hoạt,
sáng suốt đánh giá đúng lực lượng ta và địch, tìm ra phương châm, phương
thức đánh địch, từ tay không đến vũ khí tối tân của nhà Trắng thâm độc,
tàn bạo nhất thế giới.
Dù
ở tình huống nào, Đảng bộ quyết hy sinh để đạt được mục tiêu giải phóng
và giành độc lập, vâng lời Bác Hồ: “Thà hy sinh tất cả, nhất quyết
không chịu mất nước, nhất quyết không chịu làm nô lệ”. “Không gì quý hơn
độc lập tự do”.
Đường
lối sáng suốt của Đảng, sự thông minh sáng tạo kiên gan bền bỉ của Đảng
bộ và niềm tin yêu Đảng của nhân dân là những yếu tố cơ bản tạo nên
Đông Phước anh hùng.
BÀI HỌC THỨ HAI
VÌ NHÂN DÂN QUÊN MÌNH
Quan
điểm quần chúng của Đảng ta là tin dân – dựa hẳn vào dân. Từ đó mọi
hành động của đảng viên đều phải vì dân, do dân, khẳng định lý tưởng vì
dân quên mình. Nhìn lại lịch sử, ta tự hào về đảng viên Đông Phước, giữ
đúng lời thề đó trước cờ Đảng.
Dân
bám đất, Đảng bám dân, với tinh thần bám trụ “một tấc không đi, một ly
không rời” Đảng bộ Đông Phước tin dân, biết giáo dục, phát động dân, chỉ
ra con đường cách mạng dưới cờ Đảng Cộng sản, một tổ chức giải phóng
con người hợp tiến trình lịch sử.
Từ
thời kỳ bí mật, Đảng ta tổ chức những hội quần chúng bí mật, tổ chức
hợp pháp biến tướng để đấu tranh từ thấp lên cao, Đảng bộ đã đánh giá
đúng sức mạnh vô địch của quần chúng khi có sự lãnh đạo của Đảng chân
chính, mà mốc son là cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng 8-1945.
Vâng
lời vị cha già kính yêu cảu dân tộc – Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ đã
phát động nhân dân Đông Phước đứng lên với ngọn tầm vông, giáo mác, cuốc
xuỗng cùng đồng bào Nam bộ xây nên thành đồng Tổ quốc.
Mỹ
- Diệm phủ màn đêm thê lương trên xóm làng, tàn bạo lê máy chém đi hù
dọa, người đảng viên càng tin dân sẽ tìm ra cách rửa hận. Dù có đốn hết
tre, trúc, lau, sậy làm giấy cũng không thể viết hết những hành động,
đùm bọc, che giấu trong vách đôi, hầm bí mật, kể cả hy sinh tính mạng để
bảo vệ những đảng viên “điều lắng”, mà dân tin yêu gọi là “hột gạo cội”
của cách mạng. Đông Phước có căn cứ an toàn là lòng dân. Vì thế, dù ở
hầm tối, ánh sáng tình dân nghĩa Đảng vẫn ấm áp, trí tuệ sáng để đảng
viên tìm ra phương châm lãnh đạo nhân dân chống giặc.
Từ
1969-1975, giặc run sợ nhưng cũng gắng dốc hết sức tàn để biến Đông
Phước thành “tọa độ lửa”, mưa bom, bão đạn nhưng Đảng bộ và nhân dân
cũng tìm ra cách đánh, biến đất mẹ thành tử địa hạ gục chúng bằng ong vò
vẽ, bằng chất nổ, hầm chông, vũ khí cướp của giặc: những cái đầu ngu
xuẩn của Ngũ Giác Đài, Huê Kỳ, không thể hiểu nổi những kiểu chết do vũ
khí thô sơ, vũ khí của lòng căm thù.
Đảng viên vì dân mà hy sinh, dân vì Đảng mà chiến đấu, vượt bất cứ hoàn cảnh sóng gió tưởng chừng không vượt nổi.
Mặt
khác Đảng luôn chăm lo đời sống của dân, phong trào sản xuất, văn hóa,
giáo dục, y tế vùng giải phóng lên cao. Quan tâm giải phóng và đề cao
vai trò phụ nữ là tầng lớp chịu thiệt thòi nhất, đã thành đội quân tóc
dài vô địch, những bà mẹ anh hùng.
Đảng
đã cấp đất cho dân cày, hướng dẫn canh tác nuôi trồng. Phong trào
“Tiếng hát át tiếng bom”, nâng cao tình yêu người, yêu đời. Dân trí nâng
cao đảm bảo yêu cầu cho từng cuộc đấu tranh chính trị, binh vận, bồi
dưỡng kỹ thuật chiến đấu lên mức khoa học, nghệ thuật. Xa hơn nữa, nâng
cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa xây dựng đất nước mai sau.
Đảng bộ đã xứng đáng với lời dạy của Bác:
“Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
Đất anh hùng Đông Phước thật là:
“Tình dân nghĩa Đảng mênh mông
Sáu dòng Ngã Sáu xanh trong sáng ngời”
BÀI HỌC THỨ BA
XÂY DỰNG ĐẢNG
Đảng bộ lãnh đạo nhân dân, cần phải xây dựng Đảng mạnh, trong sạch từ ý chí đến hành động.
Trước
hết phải xem trọng đoàn kết như con ngươi mắt mình. Rèn luyện trong
chiến đấu, nâng cao trình độ, phẩm chất trong học tập, trong thực tiễn
phong trào. Dân nghe Đảng, Đảng bộ nghe dân để phê bình, tự phê bình,
nên trong tình huống bất lợi nào, Đảng bộ cùng dân đều tìm ra phương
hướng, phương châm thích hợp đưa phong trào đi lên. Về nghe dân, cũng
cần nhắc lại câu nói của vợ khuyên chồng “Anh đi đầu hàng, em cắn lưỡi
chết” – Đó là lời khí tiết vàng ngọc của phụ nữ Đông Phước.
Từ
1969-1972, từ 1973-1975, chiến tranh đến mức tàn khốc tột đỉnh. Đảng
viên phải nhịn đói khát dài ngày, ở dưới hầm phủ lá khô chịu nắng cháy
mưa dầm, bom pháo liên hồi, ngày chiến đấu, đêm ra vùng ven đầy nguy
hiểm để bám dân. Đảng bộ từ bí thư như đồng chí Sáu Inh, Út Một đến chi
ủy càng bám sát đảng viên làm công tác tư tưởng, giải quyết vướng mắc,
nâng cao ý chí tiến công.
Có
thể tự hào rằng, các đồng chí bí thư, cấp ủy đều tay phất cờ chỉ đường,
tay giương súng diệt địch, và từ 1969 -1975 toàn thắng, chưa có một
đảng viên, một du kích nào buông súng.
Đảng
bộ anh hùng thì dân sẽ anh hùng. Bài học xây dựng Đảng từ thực tiễn kết
hợp lý luận, bài học quý báu bằng xương máu ấy, đã được Đảng bộ Đông
Phước thừa kế xuất sắc trong hòa bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lập
nhiều thành tích xứng đáng với Huân chương Chiến công hạng nhì sau 15
năm giải phóng.
BÀI HỌC THỨ TƯ
PHÁT HUY QUAN ĐIỂM BẠO LỰC
CÁCH MẠNG
Cách
mạng Xô Viết tháng 10 Nga đã chứng minh quan điểm bạo lực cách mạng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng: “bạo lực là bà đỡ cho cách mạng cướp chính
quyền”.
Cuộc cách mạng Việt Nam thành công đã phát triển quan điểm này.
Trong
cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, Đảng bộ Đông Phước đã phát huy rất sớm quan
điểm bạo lực. Đối với bọn thực dân đế quốc chỉ một con đường, một mất
một còn, không thể có ảo tưởng hòa bình.
Có
thể nói rằng cuộc cách mạng miền Nam đã đóng góp làm phong phú thêm học
thuyết trên, chưa có cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nào trên thế
giới có “Đội quân tóc dài” đánh thắng Mỹ võ trang từ chân đến răng. Đội
quân tóc dài trong mặt trận đấu tranh có tổ chức chặt chẽ, chỉ huy từng
trận mà vũ khí là trái tim căm thù, lý lẽ thông minh sáng rực chân lý,
vừa là đầu tàu, vừa là hậu thuẫn cho mặt trận quân sự và binh vận. Họ
chỉ là người nông dân nghèo theo Đảng, chân lấm tay bùn, ít học, nhưng
lý lẽ từ ý chí của họ đã làm cho bọn đầu xỏ Nhà Trắng phải câm họng,
điên đầu, bọn tay sai giết người phải hạ súng. Đồng khởi toàn miền Nam
là đỉnh cao của bạo lực chính trị. Tiếng trống, mõ, tiếng thét long trời
của đoàn người cầm gậy gộc, mã tấu, phảng kéo cổ là tiếng sấm báo hiệu
ngày tàn của cường quyền. Trận địa chiến tranh nhân dân từ bãi chông,
hầm chông có tổ ong vò vẽ, súng kép, súng ngựa trời, chất nổ tự tạo,
trái nổ cải tạo từ bom, đạn, pháo lép của địch là nơi giặc bỏ xác, bỏ
súng lại trang bị cho ta. Cả đồn bót cũng là kho vũ khí trang bị dần cho
du kích ta. Bạo lực âm thầm cũng nằm trong phong trào “Súng Mỹ lòng
ta”.
Đảng
ta vận dụng tài tình quan điểm: Thế và lực. Lực ta tạm thời yếu, nhưng
thế ta là thế đứng trên đầu thù, vì ta có chính nghĩa và ý chí cả dân
tộc. Đảng bộ Đông Phước nhuần nhuyễn bài học này, nên dù đối mặt với bom
đạn, với cái chết giặc đổ ập xuống đêm ngày, quân dân vẫn đứng vững thế
bám trụ, càng đánh ta càng mạnh, đưa cuộc chiến đấu ba mũi giáp công
đến đỉnh cao nghệ thuật, chuyển thế với tốc độ thần kỳ.
Vì
thế cuộc đọ sức cuối cùng trong chiến dịch tổng tấn công mùa Xuân 1975
ta toàn thắng giữ nguyên vẹn thành phố, ít hao xương máu. Đông Phước
hoàn toàn giải phóng sớm trước từ tháng 3-1975.
Truyền
thống cách mạng chiến thắng, những kinh nghiệm trên là hành trang quý
giá có một không hai cho lớp cháu con Đông Phước xây đời hạnh phúc.
Đảng bộ Đông Phước anh hùng
Cháu con noi dấu bước cùng hùng anh,
DANH SÁCH MẸ VNAH XÃ ĐÔNG PHƯỚC
01. Huỳnh Thị Trà SN 1912
02. Huỳnh Thị Huê SN 1910
03. Nguyễn Thị Biên SN 1903
04. Nguyễn Thị Sáu SN 1912
05. Lê Thị Kỷ SN 1922
06. Bùi Thị Thơ SN 1902
07. Lê Thị Kim (1905) ấp Long Lợi
08. Bùi Thị Thi ấp Long Lợi
09. Nguyễn Thị Biền ấp Long Lợi
10. Hồ Thị Huôi (1923) ấp Hưng Thạnh
11. Lê Thị Lài (1912) ấp Tân Thuận
12. Lê Thị Chọn ấp Tân Thuận
13. Lương Thị Ngán ấp Long Lợi
14. Đặng Thị Đồ ấp Phước Hòa
15. Huỳnh Thị Hai (1915) ấp Hưng Thạnh
NHÂN CHỨNG ĐÃ GẶP
01. Phạm Chủ Lực (Năm Mỹ): BT 1948
02. Phùng Văn Inh: BT 1969
03. Liễu Văn Út: BT 1972 – 4/1975
04. Lê Thành Trung: BT 1954
05. Lê Đình Thu: P.BT – Xã đội phó 1951
06. Nguyễn Hữu Dung: Đảng viên 1946
07. Bùi Nhật Ồn: Xã đội phó – Đảng viên 1962
08. Phạm Huỳnh Mai: BCH PN xã – Đảng viên 1963
09. Nguyễn Văn Thanh: Đảng viên 1970
10. Lê Văn Thượng: Du kích – Quốc vệ đội Cần Thơ
11. Nguyễn Thành Vạn: Đảng viên 1963 (du kích, bộ đội chủ lực)
12. Nguyễn Phước Tống: Đảng viên 1948 (du kích, bộ đội chủ lực)
13. Nguyễn Hà Phan: Thành ủy viên Cần Thơ
14. Phạm Trọng Yêm (Chín Công): BT Châu Thành 1958 – 1960; Phó BTC TW Đảng
15. Trần Văn Mến: BT Châu Thành B 1966
16. Phạm Duy Khương: Thường vụ tỉnh ủy Cần Thơ
17. Trần Minh Sơn (Bảy Mạnh): Quyền BT Phụng Hiệp 1960
18. Trần Văn Có
19. Trần Văn Tốt
20. Nguyễn Văn Bé
21. Nguyễn Thị Đáng
DANH SÁCH LIỆT SĨ XÃ ĐÔNG PHƯỚC
TT
|
HỌ VÀ TÊN
|
NĂM SINH
|
GHI CHÚ
|
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
| TRẦN VĂN TRUNG NGUYỄN VĂN BẢY HỒ VĂN CUÔL HỒ VĂN SỮA PHẠM VĂN CA NGUYỄN VĂN AN NGUYỄN VĂN DỄ THÁI VĂN DŨNG TRẦN VĂN NĂM NGUYỄN VĂN MẬU CHÂU VĂN TRẠNG HUỲNH VĂN CHIÊM LÊ VĂN LUÂN HỒ VĂN TUI TRƯƠNG VĂN DỠ VÕ VĂN VÂN LÊ VĂN THÔNG TỪ VĂN VỌNG TRẦN VĂN NHO TỪ VĂN NGHIÊM LÊ THỊ THANH NGUYỄN VĂN KIỂN PHAN VĂN BÊN NGUYỄN VĂN TRỪ LÊ VĂN LANG HỒ VĂN CÂN NGÔ VĂN THANH HỒNG VĂN ĐỔI HÀ VĂN THẮNG LÊ VĂN HIỆP BÙI VĂN GẦN HÀ VĂN ĐÔI NGUYỄN VĂN BẢY TRẦN VĂN QUẬN NGUYỄN TẤN THÀNH LÂM VĂN MỪNG TRẦN VĂN PHẢI NGUYỄN VĂN NGỮ HỒ VĂN TƯ NGUYỄN THANH TÙNG NGUYỄN VĂN XUNG NGUYỄN VĂN ĐIỂN BÙI THỊ HỶ LÊ VĂN SỈ NGUYỄN VĂN SÁU NGUYỄN VĂN SƠN VÕ VĂN TUYẾN NGUYỄN VĂN ĐẠO THÁI VĂN LONG NGUYỄN VĂN THẮNG LÊ VĂN SÙNG LÊ VĂN HUNG MAI VĂN TRUNG NGUYỄN VĂN ÚT NGUYỄN VĂN ÚT NGUYỄN VĂN KHANH TRẦN VĂN CỐC NGUYỄN VĂN HẠNH LÊ VĂN HÙNG BÙI THIỆN CĂNG BÙI VĂN HẢO LÊ MINH KHÔI LÊ VĂN TÁM MAI VĂN NĂM HỒ MINH THIỆN TRẦN VĂN TRÌNH NGUYỄN VĂN NĂNG NGUYỄN VĂN BÉ LỚN ĐOÀN VĂN HUỲNH NGUYỄN NGỌC EM ĐINH VĂN TRÍ NGUYỄN VĂN HOÀNG ĐOÀN VĂN ĐỨC HUỲNH VĂN NGUYÊN PHẠM VĂN BẢY PHAN THỊ CHÍNH ÔN QUỐC TUẤN HỒ VĂN THÂU LÊ VĂN KÍNH NGUYỄN HOÀNG DÂN NGUYỄN VĂN TẦN HỒ VĂN TIỆN LÊ HOÁNG PHAO MAI VĂN ẨM NGUYỄN VĂN CHỨA HỒ THỊ SÂM NGUYỄN VĂN NHUNG NGUYỄN VĂN NHUNG TRẦN HOÀNG MINH NGUYỄN VĂN MỘT NGUYỄN NGỌC EM NGUYỄN VĂN THỌ NGUYỄN VĂN TÀI LƯƠNG HOÀNG NHI ĐÀO HOÀNG ĐẢO BÙI VĂN TRIỆU TRẦN VĂN HAI NGUYỄN THỊ CẦM VÕ VĂN LUYẾN HÀ KIM SƠN CAO VĂN CA NGUYỄN VĂN THANH VÕ VĂN VINH NGUYỄN VĂN BA ĐOÀN VĂN LONG HỒ VĂN NHI NGUYỄN VĂN HƯNG ĐINH VĂN TÂM LƯU VĂN HAI NGUYỄN VĂN MƯỜI ĐOÀN VĂN HIẾN NGUYỄN VĂN TỔNG LÝ VĂN VÂN TRẦN VĂN ĐÔNG TRẦN VĂN ĐÔNG PHAN VĂN HỔ TRẦN VĂN DƯƠNG TRẦN VĂN BẢY NHÁNH VÕ VĂN TÁNH NGUYỄN VĂN HÒA TRẦN VĂN MÙNG NGUYỄN VĂN THÀNH NGUYỄN VĂN HIỆP HUỲNH VĂN TƯ NGUYỄN VĂN THÀNH TRẦN VĂN BA HUỲNH TRÍ CƯỜNG TRẦN VĂN BA NGUYỄN THẾ KHÂM VƯƠNG THỊ TỨ NGUYỄN VĂN THANH TRẦN VĂN Ở TRẦN VĂN THANH LÊ VĂN HÙNG NGUYỄN VĂN SÁNG NGUYỄN VĂN CHÀNG BÙI VĂN TRIỆU NGUYỄN VĂN HAI TRẦN VĂN LỄ NGUYỄN VĂN PHƯỚC LÊ VĂN HIỆP NGUYỄN VĂN ĐẠO ĐẶNG VĂN HẢI NGUYỄN VĂN HAI NHỎ NGUYỄN VĂN GÀN LÊ THANH HÙNG NGUYỄN VĂN TƯ LÊ VĂN TỐT NGUYỄN TẤN TÀI DIỆP VĂN HÓ TIẾT THÀNH CÔNG PHẠM VĂN NGỮ NGUYỄN VĂN BÁ LÊ VĂN XA VÕ THANH BÌNH ĐẶNG HOÀNG LÂM PHẠM VĂN PHÓ NGUYỄN VĂN NHỜ NGUYỄN THANH PHONG HUỲNH VĂN PHẤN NGUYỄN VĂN LANH NGUYỄN VĂN BÉ NĂM LÊ VĂN VIỆT TRẦN VĂN BA NGÔ VĂN HIẾU NGUYỄN VĂN TÒNG LÊ VĂN BÉ NGUYỄN VĂN LUYẾN LÊ THÁI HOÀNG NGUYỄN VĂN BÁ DƯƠNG VĂN SÍA TRẦN VĂN ĐANG LÊ VĂN TẦN ĐINH VĂN MẪN TRẦN VĂN HAI LIỄU CHIỀU GHI LÊ VĂN THẠCH NGUYỄN HOÀNG THANH TRẦN VĂN CƯU VÕ VĂN TUÔL NGUYỄN VĂN NIÊN NGUYỄN VĂN CHỨA NGUYỄN VĂN QUÂN PHẠM VĂN TRẢI THÁI VĂN RĂNG NGUYỄN VIỆT HÒA NGUYỄN VĂN TÙNG LÊ VĂN TƯ VÕ THÀNH TÂM NGUYỄN VĂN HOÀNG NGUYỄN VĂN CHÁNH NGUYỄN VĂN ĐEN TRẦN NGỌC SƠN T6ANG8 VĂN BẢY BÙI VĂN THẠNH LÊ VĂN HUYỀN HUỲNH VĂN TÒNG TRẦN VĂN HIỆP NGUYỄN THANH LIÊN MAI VĂN NHÃ NGUYỄN VĂN TÁM NGUYỄN VĂN PHẤN HÀ VĂN THỰC NGUYỄN VĂN DỄ ĐẶNG QUỐC THỚI ĐINH VĂN HUỲNH TRƯƠNG THÀNH LONG TRƯƠNG VĂN NHÀN NGUYỄN VĂN KÉT HỒ VIỆT HẢI TRẦN VĂN BỐN NGUYỄN VĂN TƯ PHẠM VĂN THÀNH VÕ AN NINH NGUYỄN VĂN HOA CHÂU VĂN HẠNH PHAN VĂN QUÂN ĐẶNG VĂN SÁNG LÊ HỒNG PHƯỚC HỒ VĂN BE LÊ VĂN LẬP TRẦN VĂN PHƯỚC NGUYỄN VĂN ĐANG NGUYỄN VĂN PHỒI TRẦN VĂN XINH LÊ VĂN CHIÊU LÊ VĂN TÁM TRẦN VĂN ĐÊ NGUYỄN HÒA XA TRẦN MINH THẮNG LÊ VĂN LUÔNG ĐẶNG THỊ NHIỂU NGUYỄN VĂN HAI TRẦN VĂN CỐC NGUỄN VĂN DỰ ĐINH QUANG GIÀU NGUYỄN VĂN MỘT LÊ VĂN LẮM LÊ VĂN BÊ NGUYỄN VĂN HOÀNG NGUYỄN VĂN HÙNG TRẦN VĂN HỘI NGUYỄN VĂN HẬU THÁI VĂN LẮM NGUYỄN VĂN BÉ TRẦN VĂN PO LÊ VĂN HÙNG NGUYỄN VĂN THÙY |
1935
1925
1912
1931
1911
1935
1932
1926
1930
1914
1915
1936
1928
1932
1932
1941
1925
1942
1941
1944
1926
1932
1935
1942
1915
1934
1943
1909
1937
1923
1934
1948
1937
1937
1925
1933
1910
1912
1930
1938
1937
1922
1930
1947
1925
1926
1928
1918
1931
1932
1932
1931
1933
1940
1934
1940
1923
1914
1917
1909
1927
1935
1944
1946
1946
1917
1921
1917
1918
1908
1932
1931
1930
1918
1932
1926
1929
1937
1937
1905
1930
1930
1940
1940
1940
1927
1930
1931
1939
1937
1944
1938
1943
1930
1935
1920
1916
1926
1938
1930
1930
1944
1928
1941
1915
1948
1946
1926
1938
1936
1926
1916
1927
1920
1935
1942
1914
1904
1934
1930
1922
1926
1916
1924
1904
1964
1920
1938
1922
1917
1911
1925
1941
1941
1939
1940
1949
1947
1910
1926
1917
1948
1947
1944
1938
1926
1934
1948
1948
1930
1947
1931
1948
1932
1930
1926
1919
1931
1930
1911
1931
1912
1913
1912
1918
1931
1922
1920
1922
1916
1922
1923
1924
1921
1913
1922
1929
1923
1930
1931
1931
1919
1931
1906
1912
1931
1921
1921
1916
1930
1930
1911
1924
1917
1920
1930
1908
1919
1924
1914
1911
1910
1932
1930
1909
1924
1927
1920
1916
1939
1911
1923
1938
1914
1922
1912
1920
1908
1909
1912
1927
1933
1928
1919
1911
1917
1922
1930
1945
1929
1927
1921
1937
1910
1910
1914
1905
1948
1948
1945
1951
1948
1935
1952
1940
1950
1937
1933
|
DANH SÁCH BÍ THƯ XÃ ĐÔNG PHƯỚC
(Qua 2 cuộc kháng chiến
Chống Pháp – Mỹ: 1938 – 1975)
- Năm 1938 – 1939: Người Bí thư đầu tiên là đồng chí Ngô Hữu Hạnh (lúc này chi bộ có 4 đảng viên).
- Năm 1939 – 1946: Chi bộ chia ra:
+ Chi bộ Đông Sơn, đ/c Phạm Chánh Mỹ Bí thư.
+ Chi bộ Thường Phước, đ/c Trần Văn Hưởng Bí thư.
- Năm 1947 – 1960: Hai làng nhập lại thành xã Đông Phước, đ/c Phạm Chủ Lực (Năm Mỹ) làm Bí thư Đảng bộ.
- Tháng 7/1954: Lê Thành Trung Bí thư (đến tháng 12/1954).
- Tháng 12/1954 – 1957: đ/c Phạm Chánh Mỹ Bí thư.
- Năm 1958: đ/c Năm Thiện (Sáu Hộ) Bí thư.
- Cuối tháng 6/1960 – 1963: đ/c Trần Văn Duyên (Chín Mẫn) Bí thư.
- Năm 1964: đ/c Hai Thảnh làm Bí thư.
- Tháng 2/1965 – 12/1967: đ/c Trần Văn Năm (Năm Mù) Bí thư.
- Tháng 01/1968 – 6/1968: đ/c Nguễn Văn Chơi (Ba Long) Bí thư.
- Tháng 6/1968 – 10/1968: đ/c Bảy Tần Bí thư.
- Tháng 10/1968 – 01/1969: đ/c Tư Chương Bí thư.
- Tháng 01/1969 – 10/1969:đ/c Trương Văn Cao (Tám Cao) Bí thư.
- Tháng 10/1969 – 1972: đ/c Phùng Văn Inh (Sáu Inh) Bí thư.
- Năm 1972-13/4/1975: đ/c Liễu Văn Út (Út Một) Bí thư.
- 13/4/1975 – 30/4/1975: đ/c Lê Văn Tuôi (Tám Nùng) Bí thư (lúc này chi bộ có 14 đảng viên đến ngày toàn thắng).
* Chỉ đạo và chịu trách nhiệm xuất bản:
BAN THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY XÃ ĐÔNG PHƯỚC
* Ban Biên tập:
1. ĐẶNG THUẬN PHONG
2. NGUYỄN HOÀNG THOẠI
3. LÊ PHƯỚC THÀNH
4. NGUYỄN VĂN VĨ
5. ĐỖ TẤN TÀI
* Chủ biên:
Nhạc sĩ Cửu Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét