XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Ba, 3 tháng 3, 2015

Lý Thường Kiệt (Tiếp theo)



CHƯƠNG XI : HÒA VÀ HÒA-BÌNH
1.- Tránh phục-binh : Trận Đâu-đỉnh
Chiếm xong huyện Quang-lang, Quách Quì định kéo quân thẳng xuống Lạng-châu.
Đường thẳng là đường từ Ôn-châu đến Phủ-lạng-thương ngày nay. Đường rất hiểm-trở. Hai bên toàn rừng núi. Phía đông có dãy núi rừng man-mác chạy dài qua châu Tô-mậu đến bờ bể. Phía tây, có núi đá rất cheo-leo, bao-trùm một vùng rất rộng, mà nay gọi là núi Cai-kinh, hay đúng hơn, là núi Bắc-sơn. Núi toàn đá lèn lởm-chởm tràn về phía tây đến sông Phú-lương, thuộc Thái-nguyên ngày nay.
Trong núi, có một vài lối đường hẹp, ngoặt-ngoèo. Không quen đường thì khó dò ra được.
Đường chính phải qua ải Chi-lăng, mà sách TB chép tên là ải Giáp-khẩu. Ngoài đường chính ấy, còn có một đường vành xa về phía tây, qua xã Bình-gia, châu Vạn-nhai rồi đến Phú-lương (V/1) ; và có một lối tắt trong núi, qua xã Vạn-linh. Đường cuối này, tuy hẹp nhưng cũng khá ngắn.
Ải Chi-lăng đã làm cho quân Tống, khi sang đánh Lê Hoàn, bị một phen thất-bại. Đại-tướng Hầu Nhân-Bảo đã bỏ mình vì phục-binh của Lê đặt ở đó.
Lần này, Lý Thường-Kiệt cũng đặt nhiều quân lính nấp hai bên cửa ải để đợi quân Tống.
Quách Quì dò biết, không dám đưa quân qua ải. Nhưng bấy giờ đại-quân Tống đã dồn vào chỗ đường độc-đạo, như nước chảy vào khe hẹp ; nên Quì phải tìm đường qua. Quì sai tướng tiền-phong Tu Kỷ đem quân vòng quanh về phía tây.
Sách TB chép : ” Giặc mới đặt phục-binh ở cửa ải Giáp-khẩu, để đón quân ta. Quì biết, nên đi đường tắt qua dãy núi Đâu-đỉnh mà tiến. Bèn tới sông Phú-lương. ” (TB 279/22a)
Theo SK, thì Tống-sử và các sách khác chép rằng : “Quách Quì tiến đóng ở ải Quyết-lý, rồi tự đưa binh sang phía tây, tiến đến sông Phú-lương.”
Nếu mở bản-đồ vùng này ra xét, ta phải nhận rằng dãy núi Đâu-đỉnh nói trên chắc là dãy núi Bắc-sơn. Vả chăng hai chữ Đâu-đỉnh có nghĩa là đỉnh đâu-mâu, tức là cái đỉnh bằng kim-loại, mà người ta cắm trên mũ. Núi đá lèn, có đỉnh lô-nhô như mũi đâu-mâu sắp thành hàng, có thể có tên là Đâu-đỉnh-lĩnh. (V/cth 2)
Vậy ta chắc rằng, sau khi không dám qua ải Giáp-khẩu, Quách Quì đem đại-quân hướng về phía tây, vượt qua dãy núi Bắc-sơn để ra chỗ cao-nguyên ở vùng Yên-thế. Quì đã theo đường tắt qua xã Vạn-linh.
Thường-Kiệt không ngờ quân Tống có thể đem đại-quân qua đường hẹp ấy, nên chỉ để một ít quân giữ. Tướng tiên-phong Tu Kỷ đưa kỵ-binh đi trước. Kỷ gặp một đoàn quân ta chừng vài nghìn người. Quân ta đánh rất gắt. Kỷ phải đánh hết sức mới ra khỏi núi. (Theo lời chiếu kể công Tu Kỷ, ngày Q. Vi, 6-8 năm Đinh-tị, DL 26-8-1077 ; TB 284/4a)
Tiền-quân qua lọt. Đại-quân kéo tràn theo sau. Một mặt, tiến xuống bờ sông Phú-lương, tức là thượng-lưu sông Cầu, thuộc địa-phận Thái-nguyên ngày nay. Một mặt, tiến sang phía đông, tới phía nam ải Giáp-khẩu. Quân Lý nấp ở ải bị bọc sau lưng, nên lật-đật rút lui vào miền núi động Giáp để tháo lui về phía đông-nam, liên-lạc với hữu-dực đóng ở vùng Vạn-xuân.
Sau khi quân Lý phải bỏ ải Giáp-khẩu, quân Tống kéo tràn qua đó và thẳng tới sông Đào-hoa. Chúng qua sông ấy liên-lạc với những quân đã qua dãy núi Đâu-đỉnh. Rồi, chia nhau đóng dọc bờ bắc sông Như-nguyệt (trung-lưu sông Cầu).
Trong lúc ấy, đạo quân Khúc Chẩn cũng từ Quảng-nguyên tiến tới phía đông-nam. Chẩn tới châu Môn. Thủ-lĩnh châu ấy, là Hoàng Kim-Mãn, theo hàng (X/cth9). Kim-Mãn theo Chẩn tới sông Phú-lương, họp với đại-quân. Chắc rằng Khúc Chẩn đã đi đường Bình-gia, Vạn-nhai theo dọc phía tây dãy núi Đâu-đỉnh, để vào tỉnh Thái-nguyên ngày nay.
Các đạo quân Tống đã lần-lượt theo con đường từ bắc tiến xuống nam, mà dồn vào trước cái hào sâu thiên-nhiên, là con sông Cầu. Các quân ấy đóng trên bờ, từ khoảng tỉnh-lỵ Thái-nguyên đến vùng trước Thị-cầu.
Sách Tống-hội-yếu chép : “Ngày 21 tháng chạp, quân Quách Quì tới sông Phú-lương.” (Q. Ma, DL 18-1-1077 ; THY và TB 279/21b).
Quân Lý bắt đầu một trận phòng-thủ vĩ-đại.
2.- Tiền-phong qua sông : Trận Như-nguyệt
Bản-đồ IIIb - Mặt trận Phú-lương
Bản-đồ IIIb – Mặt trận Phú-lương
Thế là sau khi vượt gần vạn dặm, quân Tống đã đến trước trung-thổ nước ta. Qua được sông Như-nguyệt này, thì Tống chắc khuynh-đảo được lăng-tẩm họ Lý và cơ-đồ Đại-Việt.
Quách Quì sửa-soạn qua sông.
Từ bờ sông Như-nguyệt đến Thăng-long, đường gần nhất và không bị trở-ngại nhiều, là đường đi từ làng Như-nguyệt ở cửa sông Cà-lồ chảy vào sông Cầu, tới bờ sông Nhị phía tây-bắc hồ Tây. Đường ấy chỉ dài chừng hai mươi cây-số.
Phía tây bến đò Như-nguyệt, còn có những cồn núi cuối cùng của dãy núi Tam-đảo ngăn-cản. Từ đó sang phía đông, thì chỉ có đồng-bằng. Qua sông chỗ nào cũng dễ-dàng, và lúc qua rồi thì gặp đồng ruộng phì-nhiêu. Lương-thực nhiều, phu-phen sẵn, và muốn qua sông Lô cũng không khó nữa.
Vậy nên, quân Tống ở mặt tây đổ dồn xuống trước bến-đò Như-nguyệt. Đó là hữu-dực, do tướng Miêu Lý quản-lĩnh. Giúp việc dẫn đường có hàng-tướng Hoàng Kim-Mãn, mà Khúc Chẩn đã đem theo.
Đại-quân Quách Quì đóng cách đó sáu mươi dặm về phía đông (TB 281/14a). Sáu mươi dặm tức bằng chừng 30 cây-số. Tính theo bờ sông khuất-khúc, ta thấy rằng đại bản-doanh đóng vừa trước xã Thị-cầu ngày nay. Chính đó là ở trên đường cái đi Thăng-long.
Từ hành-doanh sang phía đông, đường đất ở bắc-ngạn sông Nam-định bị dãy núi Nham-biền chắn ngang, ngăn đường tới Vạn-xuân. Tả-dực quân Tống hình như không qua dãy núi nầy, và phải còn quay mặt về hướng đông để đối-phó với quân Thân Cảnh-Phúc đóng vùng động Giáp.
Nói tóm lại, phòng-tuyến của Tống theo dọc bờ sông Cầu ngày nay, từ địa-phận huyện Hiệp-hòa, qua huyện Việt-yên, đến chân núi Nham-biền ở huyện Yên-dũng. Rồi chạy lên phía đông-bắc đến nam-ngạn sông Thương. Khoảng phòng-tuyến chính dài ba muơi cây-số, trải từ trước bến đò Như-nguyệt đến chân núi Nham-biền. Quân Tống chực qua sông ở khoảng ấy.
Còn quân Lý, thì tiền-quân mai-phục ở ải Giáp-khẩu đã rút lui về động Giáp để xuống miền Vạn-xuân. Đại-quân cũng rút lui về phía nam sông Nam-định. Đó là phòng tuyến thứ ba của quân Lý.
Như trên đã nói (X/1), sông Nam-định cũng là phòng-tuyến cuối-cùng, mà Lý Thường-Kiệt phải đem toàn-lực giữ ; vì nó che-chở cho lăng-tẩm nhà Lý ở Thiên-đức, cho đồng-ruộng của dân-gian, và vì nó cũng là cái hào ngoài cho đô-thành Thăng-long.
Lý Thường-Kiệt đã sai đắp đê nam-ngạn cao như bức thành đất. Ngoài đê, đóng cọc tre mấy từng để làm giậu (VĐUL và NTDT). Chiến-thuyền đều rút về bờ nam, sẵn-sàng đón đánh quân địch, nếu chúng chực qua sông (TB 279/22b).
Đại-quân Lý chắc rằng đóng ở Thiên-đức và Thăng-long. Còn thủy-quân, một phần do Lý Kế-Nguyên đốc-suất, giữ sông Đông-kênh, để chặn thủy-quân Tống không để lọt vào nội-địa và tiếp-viện Quách Quì ; một phần đóng ở Vạn-xuân để tùy cơ ứng-biến.
Phòng-tuyến ta rất kiên-cố. Mà Tống lại không có thuyền để qua sông. Thủy-quân cũng không thấy tới. Quách Quì sẵn tính cẩn-thận, lại muốn đợi thuyền từ bể vào ; cho nên hạ lệnh không cho các tướng tự-tiện tấn-công.
Nhưng viên châu-mục Hoàng Kim-Mãn mách với Miêu Lý biết rằng đường từ bến-đò Như-nguyệt đến Thăng-long rất gần. Miêu Lý trình với Quách Quì việc ấy. Y nghĩ rằng đại-quân địch còn đóng ở động Giáp, chưa kịp rút về, vậy nên thừa-hư mà qua sông ở bến đò Như-nguyệt. Kể ra, địa-điểm và thời-gian cuộc tấn-công khởi-thủy chọn như thế là xác-đáng.
Y bèn nói với Quì rằng : “Giặc đã trốn đi rồi. Xin cho quân qua sông”. Quách Quì cũng miễn-cưỡng bằng lòng (TB 281/14a).
Miêu Lý sai buộc phù-kiều trước bến đò Như-nguyệt, rồi hẹn với tướng tiền-phong Vương Tiến đem quân qua sông trước. Hoàng Kim-Mãn dẫn đường.
Quân Lý Thường-Kiệt cản lại. Vương Tiến thấy thế, sợ quân ta dùng cầu qua bắc-ngạn ; vội sai quân cắt đứt cầu. Hậu-quân Tống không sang sông kịp. Quân tiền-phong tiến gấp về phía Thăng-long. Có kẻ chỉ cách kinh-đô chừng mười lăm dặm (1). Quân ta phản-công kịch-liệt. Quân Tống lâm-nguy. Viện -binh phải chèo bè sang tiếp-cứu. Nhưng bị quân ta ngăn, không đổ-bộ được. Thế quân Tống bị đứt. Quách Quì phải ra lệnh gọi tụi Miêu Lý trở về. (TB 284/11b)
Tuy quân Tống phải lui, nhưng thế vẫn mạnh. Cho nên tụi Miêu Lý trở về được vô-sự. Về sau lúc vua Tống thưởng công, Miêu Lý được phong tước tử, và gần hai trăm quân được thưởng vải hay được thăng chức, đều là nhờ việc sang sông táo-bạo lần này (TB 281/14a). Tụi Vương Tiến, Bình Viễn và Lưu Mân bị kết tội đã vội cắt phù-kiều. Nhưng vì có công đánh Quảng-nguyên, Quyết-lý, nên đều được tha khỏi tội chém. (TB 284/11b).
Trận Như-nguyệt này rất kịch-liệt. Quân ta có khi đã lâm vào thế khốn. Muốn cổ-vũ binh-sĩ, Lý Thường-Kiệt sai người giả làm thần-nhân, nấp trong đền Trương Hát ở bờ nam cửa sông Như-nguyệt, đọc thơ mắng giặc, và báo trước rằng giặc sẽ thua.
Sách VĐUL chép chuyện Trương Hát, thần sông Như-nguyệt, kể lại rằng chính thần-nhân đã đọc bài thơ sau này : (2)
” Nam-quốc sơn-hà Nam-đế cư.
Tiệt-nhiên định phận tại Thiên-thư ;
Như hà nghịch-lộ lai xâm-phạm !
Nhĩ-đẳng hành khan thủ bại hư. “
nghĩa là :
Sông núi nước Nam, vua Nam coi.
Rành-rành phận định ở sách Trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm !
Bay sẽ tan-tành chết sạch toi !
Sách chép tiếp : “Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn-khởi. Quân Tống sợ táng-đảm, không đánh đã tan.”
Trận này rất quyết-liệt và định-đoạt sự thắng-phụ sau này. Các bia và sách ta đều ghi trận sông Như-nguyệt, và cho là một cuộc đại-thắng của quân ta. Đó cũng hợp với lời chép trong sách TB của Tống.
Quách Quì cũng nhận là thất bại, bắt tội Miêu Lý đã trái lệnh trên. Lý trả lời rằng Quì đã cho phép sang sông. Triệu Tiết cũng bào-chữa hộ. Cho nên Lý mới được tha. (TB 281/14b)
3.- Tống tấn-công thất bại : Trận Nam-định
Sau khi thất-bại ở đò Như-nguyệt, Quách Quì không mong chọc-thủng phòng-tuyến ta một cách bất-ngờ, và đành chịu đóng quân đợi thủy-quân tới đón qua sông.
Nguyên trong kế-hoạch đã dự-định (IX/8), hai tướng Hòa Mân và Dương Tùng-Tiên phải đem thuyền vượt bể, vào trong sông thuộc nước ta để liên-lạc với lục-quân và đón quân qua sông. Nhưng thủy-quân đã thất-lợi ngay ở vùng biên-giới (X/12), và không liên-lạc được với Quách Quì.
Đợi mãi không nhận được tin-tức gì của tụi Mân và Tùng-Tiên, Quì bèn tự-liệu để tổng-tấn-công.
Quì sai đóng bè rất lớn, có thể chở mỗi lần 500 quân. Bè đi lại nhiều lần, đổ bộ lên nam-ngạn những đạo quân khá mạnh.
Quân tiên-phong đổ-bộ. Liền xông tới áp giạu. Vừa chặt, vừa đốt ; nhưng giạu dày mấy từng, không phá được. Quân Lý trên bờ cao đánh xuống. Quân Tống rất khốn-đốn ; muốn trở về cũng không được, vì bè đã về bắc-ngạn, để chở viện-binh sang.
Quân ta chép giết quân địch đã đổ-bộ. Phần bị chết, phần xin hàng, đạo quân đã qua sông hoàn-toàn tan vỡ (NTDT).
Trên đây là lời của Chính Thúc, do Tô Bình kể lại, và chép trong sách NTDT. Hai ông họ Trình bàn thêm rằng : ” Tranh nhau chỉ hai mươi lăm dặm. Muốn qua sông lần nữa, nhưng không có thuyền, không có lương để đóng binh lâu. Lo việc nước mà lầm như vậy, chưa từng thấy “. (NTDH 10 và TB 280/17a, Lê Quí-Đôn có sao lại đoạn này trong sách VĐLN của ông).
Thế là mộng-tưởng qua sông của quân Tống bị tiêu-tán. ” Muốn qua sông lần nữa, nhưng không có thuyền ! ” Sự thất-bại của Tống trong việc hành-quân vĩ-đại này, được tóm-tắt trong lời phê-bình ngắn-ngủi ấy.
Quì đóng quân lâu, đợi thuyền không thấy. Có lúc thám-tử về báo có thuyền từ phía đông lại. Tưởng là thủy-quân của Hòa Mân và Dương Tùng-Tiên đã đến, quân-sĩ Tống rất mừng. Lúc thuyền tới nơi ” lại hóa ra hàng vạn quân Giao-chỉ, cổ-tháo mắng chửi quan-quân ” (MC Quách Quì, theo TB 279/22b)
Quách Quì sợ quân mình khinh-địch, lại càng cấm ngặt không được tấn-công nữa. Lệnh ban ra rằng : “Ai bàn đánh sẽ bị chém !” (ĐP)
Quân Lý cũng thỉnh-thoảng qua sông khiêu-chiến. Có lúc cưỡi thuyền con, chèo sang áp bắc-ngạn. Tướng Tống là bọn Diêu Tự đưa tinh-binh hết sức giữ bờ. Quân Lý không lên cạn được. (ĐĐSL 104)
Triệu Tiết sai quân-sĩ vào rừng đốn cây, làm những máy bắn đá. Máy này có một cái cần, ở một đầu có bộ-phận để những viên đạn bằng đá. Cần trương lên rồi bật, làm cho đá ở đầu cần bắn đi xa. Tiết dùng công-cụ ấy phá thuyền đậu ở nam-ngạn, và để đánh lui thuyền ta, mỗi lúc quân ta tấn-công sang. (TS 332 và ĐĐSL 91).
Hai bên giằng-co nhau hơn một tháng, đối-ngạn nhìn nhau, không ai dám quyết-liệt tổng-tấn-công nữa.
Viên chuyển-vận phó-sứ Quảng-tây Miêu Thì-Trung bàn rằng : “Quân ta không có ý tiến đánh, thì chắc rằng giặc sẽ đi đường tắt tới, để mong khi ta không phòng-bị, may gì phá được ta chăng. Ta nên để chúng làm như vậy. Hễ chúng có thua, thế cùng rồi mới chịu hàng. Ta nên bí-mật phòng-bị đợi chúng. ” (TS 331)
Yên Dạt cũng đồng ý, và còn chủ-trương khiêu-khích quân Lý để nhử tới. Đạt dẫn sách Binh-thư, nói : “Nhử người tới đất mình lợi hơn mình tới đất người. Vậy ta nên giả cách không phòng-bị. Chúng nó ắt sẽ tới đánh ta. ” (TS 349 và ĐĐSL 84)
Mưu này sắp được thi hành. Quân Thường-Kiệt sẽ sa vào bẫy ấy.
4.- Lý Tấn-công thất-bại : Trận Kháo-túc
Thám-tử Tống lại báo rằng ngoài sông Kháo-túc có thể lấy được. Quách Quì muốn tới đó, nhưng nghi ta có đặt phục-binh. Cho nên Quì dẫn theo 5.000 kỵ-binh người phiên-lạc tức là người thổ-dân ở phương bắc.
Sách Đàm-phố chép việc nầy, không nói rõ sông Kháo-túc ở đâu. Nhưng ta thường thấy tiếng kháo dùng ở miền Lạng-châu để chỉ tên các núi. Cũng có khi viết khâu hay khảo. Đó là tiếng thổ, nghĩa là núi, ví dụ Kháo-mẹ, Kháo-con, Khâu-ôn. Trong một câu sau ở sách ấy, lại chép sông Kháo (bỏ chữ Túc). Tiếng Kháo và Cầu rất gần nhau. Lại xét trận-thế sau đây, và lời của sách Tống, ta có thể nghi rằng sông Kháo-túc nầy là một khúc sông Cầu, khoảng kề phía đông-nam núi Nham-biền. Có lẽ tên núi ấy là Kháo-túc chăng ? Cho nên tên sông ấy cũng lấy tên núi ở cạnh bờ mà gọi.
Ý chừng phòng-tuyến của ta từ chân núi Nham-biền đến Vạn-xuân, không kiên-cố như ở phía tây. Cho nên Quì nghĩ qua sông ở khoảng ấy dễ.
Lý Thường-Kiệt sai các hoàng tử Hoằng-chân, Chiêu-văn (VSL) đem thuyền chở quân đến chống lại (3). Hoằng-chân có nuôi riêng 500 quân đặc-biệt ; cấm mọi điều thị-dục, dạy cho trận-pháp. Đội quân riêng ấy rất giỏi. Hiệu-lịnh rất nghiêm. Người nào cũng cầm một cái kim-bài để làm hiệu riêng. (ĐP).
Hoằng-chân từ phía đông đem 400 chiến-hạm, chở vài vạn quân tới. Quân quát-tháo ầm-ỹ. Theo kế-hoạch Yên Đạt đã bàn, Quì rút quân. Quân ta đổ-bộ lên bắc-ngạn sông, đuổi đánh quân địch. Tiền-quân của Tống thua ; Quách Quì phải cho thân-quân tới cứu. Tụi Yên Đạt cũng tiến theo. (MC Quách Quì, theo TB 279/22a)
Quân ta bấy giờ đã tiến sâu vào đất bằng (ĐP), có lẽ mé tây núi Nham-biền. Quân Tống phản-công mạnh. Quân ta lui một ít. Quì sai các tướng Trương Thế-Cự, Vương Mẫn, đưa kỵ-binh ra giúp sức. Giới Định đặt phục-binh ở trong núi, (TB 281/14a) bấy giờ cũng đổ ra. Quân Tống giết chừng vài nghìn quân địch. Trên đất bằng, kỵ-binh Tống rất thắng lợi. Quân ta bị rối loạn, rút lui hỗn-loạn, tranh nhau sang sông trở về, bị chết đuối rất nhiều. Nước sông ba ngày chảy không hết xác (TB 279/22a).
Ta ghé thuyền đưa quân về, bị quân Tống bắn đá xuống như mưa làm thuyền đắm. Hai hoàng-tử Hoằng-chân và Chiêu-văn đều bị chết chìm xuống sông (VSL). Thuyền của đội quân riêng của Hoằng-chân bị đắm, nhưng ai cũng cầm vững kim-bài mà chết (ĐP). Tả-lang-tướng Nguyễn Căn bị tướng Tống là Đặng Trung bắt (TB 283/8a).
Trận Kháo-túc nầy là cuộc đại tấn-công của Lý Thường-Kiệt, nhưng thất-bại. Các sách và sử Tống đều cho là một cuộc đại-thắng của Tống, và thường chép ” đánh đại-bại quân Giao-chỉ ở sông Phú-lương “. Ấy là muốn nói trận này.
Quân ta tấn-công bất-lợi, bèn đóng giữ bờ nam sông. Quân Tống muốn sang, mà thuyền không có. Hai bên cầm-cự nhau đã 40 ngày. ” Đường chỉ cách 25 dặm mà không thể nào vượt qua được ” (NTDT).
Quách Quì đợi thủy-quân mãi, nhưng không thấy đến.
5.- Thủy-chiến : Trận Đông-kênh
Nguyên là tụi Hòa Mân và Dương Tùng-Tiên đã đem thuyền sang hải-phận ta, muốn theo dọc sông Đông-kênh, để vào cửa Bạch-đằng ; nhưng gặp thủy-quân của Lý Kế-Nguyên chặn lại ở hải-phận Vĩnh-an.
Các tướng như Trương Thuật, Bùi Cảnh, Bành Tôn đều hăng-hái chiến-đấu (TB 288/13a), nhưng cũng không tiến nổi, phải lùi về đóng ở cửa sông Đông-kênh, có lẽ là cửa Tiên-yên ngày nay. (TB 288/13b).
Tùng-Tiên, quân tuy ít, nhưng cũng gắng tiến sâu vào cõi ta. Gặp thủy-binh ta, đánh nhau lớn bé, đến mười trận. ” Tuy không giết được nhiều quân địch, nhưng cũng không đến nỗi thua ” (TB 288/6a). Đó là lời bào-chữa cho Tùng-Tiên của vua Tống trong chiếu ngày 23 tháng 2 năm Mậu-ngọ (M. Th, DL 8-4-1078 ; TB 288/6a). Thật ra, thủy-quân Tống bị thua luôn. Quân-lính bị thương nhiều (Theo lời tâu của viên coi Liêm-châu, 8-3 Đinh-tị, M. Ng, DL 3-4-1077 ; TB 281/2a)
Tùng-Tiên đậu thuyền ở cửa sông Đông-kênh, đợi tin lục-quân, nhưng không biết tin-tức và tình-trạng của đại-binh ra sao cả. Y bèn sai hai tướng hiệu-dụng, là Phàn Thật và Hoàng Tông-Khánh, vượt bể vào biên-giới miền nam nước ta, để dò tình-hình và khuyên Chiêm-thành đừng giúp ta. Tùng-Tiên lại khuyên Chiêm-thành nên đem quân chắn các đường từ nước ta vào nước ấy để phòng khi quân ta, bị quân Quách Quì đuổi, chạy trốn xuống phương nam (TB 288/13b). Chiêm-thành nghe lời và có đưa 7 ngàn quân chẹn các đường quan-hệ (theo lời tụi Thực, TB 288/13b).
Nhiệm-vụ đầu của thủy-quân, là xui Chiêm-thành đánh ta, như thế là không đạt. Mà quân Tùng-Tiên cũng không vào lọt sông ta, trợ-chiến cho lục-quân được. Không có liên-lạc với Quách Quì, Tùng-Tiên đỗ thuyền đợi. Đến lúc, có lệnh đi đón về mới biết đã hòa-bình ! Ngày 8 tháng 3 năm Đinh-tị (M. Ng, DL 3-4-1077), vua Tống hạ chiếu có nói rằng : ” Nếu Dương Tùng-Tiên chưa về, thì cho quân đi tiếp-viện. “
Ngày 20 tháng ấy, Tùng-Tiên mới về đến nơi.
Thủy-quân Tống đã hoàn-toàn thất-bại, vì không tinh-nhuệ bằng thủy-quân ta. Sự thất-bại về chiến-thuật của thủy-sư như thế đã làm hỏng cả chiến-lược của Quách Quì.
6.- Tống lui quân
Sau khi quân ta thất-trận ở Kháo-túc, mất hai hoàng-tử, Lý Thường-Kiệt nghĩ đến kế hoãn-binh. Vả ta biết rằng quân Tống cũng mỏi-mệt lắm rồi. Hễ chúng rút quân về, thì quân ta lại khôi-phục dễ-dàng những châu đương bị chiếm.
Vì vậy, Thường-Kiệt bèn ” dùng biện-sĩ để bàn hòa. Không nhọc tướng-tá, khỏi tốn máu-mủ, mà bảo-an được tông-miếu ” (LX).
Ông sai sứ tới doanh Quách Quì nói : ” Xin hạ chiếu rút đại-binh về, thì sẽ lập-tức sai sứ sang tạ tội, và tu-cống “. Ông lại bằng lòng nhượng đất cho Tống. Sứ-giả là viên văn tư-sứ Kiều Văn-Ứng nhận với Quách Quì rằng (4) : “Chỗ nào quân Tống đã chiếm tức là đất Tống” (TB 349/7a). Ông lại bào-chữa cho vua Lý, đổ lỗi việc đánh Ung-châu cho người Tống là Từ Bá-Tường đã xui-giục (VII/1).
Về mặt Tống, lương-thảo rất thiếu-thốn (X/6). Từ khi đại-quân vào đất ta, phu khuân-vác lương-thảo không đủ số. Ngày 17 tháng 12 (K. Ho, DL 14-1-1077, TB 279/17a) viên chuyển-vận phó-sứ Quảng-tây Miêu Thì-Trung phải tâu việc ấy về triều. Vua Tống hạ-chiếu nói : “Vì số phu không đủ, cho nên binh phải dừng lại lâu như thế. Vậy phải bắt phu cho đủ. Nếu bắt không đủ bảy phần mười thì châu-quan phải phạt một phần và huyện-quan phải phạt hai phần…”
Về sau, khi kê công-tội trong việc nam-chinh, Triệu Tiết bị khiển-trách vì để thiếu lương (chiếu 18 năm Đinh-tị, M. Dn, DL 21-8-1077, TB 283/16b). Chính Thúc kể chuyện thiếu lương, phải thở ra câu này : “May có lời giặc xin qui-thuận, không thì làm thế nào ?” (NTDT).
Tình-hình quân quẫn-bách như thế ! Mà Thăng-long gần như thế ! Các tướng Tống không biết nghĩ nên gắng tiến hay nên lui.
Bấy giờ đã cuối tháng giêng năm Đinh-tị. Mùa nóng gần tới. Các tướng Tống đều thoái-chí, cùng bàn rằng : “Lưong ăn của chín đạo quân ta đã cạn. Lúc ra đi, quân có 10 vạn, phu có 20 vạn. Vì nóng-nực và lam-chướng, quân phu đã chết mất quá nửa rồi. Còn non nửa, cũng đều ốm”.
Quách Quì kết-luận rằng : “Ta không đạp đổ được sào-huyệt giặc, bắt được Càn-đức, để báo mệnh Triều-đình; đó là bởi Trời ! Thôi ta đành liều một thân ta, chịu tội với Triều-đình, để mong cứu hơn 10 vạn nhân-mạng.” (TB 279/22b)
Quì bèn quyết-định nhận lời sứ ta, mà lui quân. Quì cho người mang biểu của vua Lý về triều Tống, và hẹn với sứ ta tới đó nhận trả lời (TB 279/22b)
Quách Quì đã định ngày rút quân. Nhưng sợ quân ta theo đánh, cho nên không ban bố cho mọi người biết trước. Đang đêm, Quì cho lệnh rút lui lập-tức. Các bộ-binh và kị-binh không kịp sắp thứ-tự, hoảng-hốt đạp xéo nhau mà đi. Tống-sử (TS 334) chép việc nầy, kể thêm rằng : “Quân Giao-chỉ đóng bên kia sông, rình thấy như vậy ; nhưng biết rằng tướng Đào Bật cầm hậu-quân đi sau, cho nên không giám đuổi theo.”
Đào Bật là một tướng văn võ kiêm toàn. Từ khi đánh Quảng-nguyên đến khi quân tới Phú-lương, Quì đã sai Bật cầm quân giữ mặt hậu. Nay quân rút, Bật cũng có trách-nhiệm che-chở cho đại-quân lui, để khỏi bị quân ta theo đánh. Bật, rất điềm-tĩnh, ra lệnh cho quân-sĩ mình không được nhôn-nhao; đợi sáng rồi, mới sắp hàng chỉnh-tề, thong-thả rút lui. Quân Quách Quì nhờ đó được vô-sự (TS 334).
Các sách không chép rõ ngày rút quân. Nhưng theo sách NTDT thì hai bên cầm-cự nhau 40 ngày ở sông Phú-lương. Ta biết rằng Quì đến đó ngày 21 tháng 12. Vậy ngày rút quân về ở đầu tháng hai năm Đinh-tị 1077.
Lý Thường-Kiệt, cũng muốn hòa-bình, nên cũng không thừa-cơ bội-ước, và để quân Tống rút lui yên-ổn.
7.- Giảng hòa
Quân Tống đã vượt hàng ngàn cây-số, qua biết bao núi đèo mới tới sông Phú-lương. Chỉ còn vài chục cây-số là đến Thăng-long. Thế mà triều-đình Tống đợi mãi không được tin báo thắng-trận.
Ngày đầu năm Đinh-tị (1077), vua Tống Thần-tông nóng lòng, phán rằng : “Triều-đình muốn biết sự động-tĩnh của quân An-nam-hành-doanh từng ngày một. Vậy sai Chu Ốc, hiện sung chức quyền-phát ở Ung-châu, phải tâu về hằng ngày. Phu mang điệp, sẽ dùng thứ bài dài đặc biệt, viết chữ lớn để xa trông rõ, đề chữ Khu-mật-cấp-tốc văn-tự (văn-tự cấp-tốc của bộ quốc-phòng), và sẽ chạy qua các trạm không phải dừng.” Nhờ vậy vua Thần-tông theo dõi đại-quân tiến hằng ngày.
Vua rất quan-tâm đến việc này, cho nên luôn-luôn xem địa-đồ và trình-lục rất kỹ-lưỡng. Lúc Quách Quì tâu về báo rằng đại-quân đã đến Quang-lang, vua Tống mừng; nói cho các quan biết. Nhưng các can-thần không biết Quang-lang ở đâu. “Vua bèn giảng cho biết từ Quang-lang đến chỗ này 50 dặm là đường gần (có lẽ đường ải Chi-lăng), đến chỗ kia 100 dặm là đường xa (có lẽ đường quanh trong núi). Vua chỉ chỗ hiểm, chỗ bằng, lối quanh, lối thẳng, thuộc như đếm mấy ngón tay” (Theo lời thư Tôn Thù gửi cho Triều Bổ-Chi, chép trong sách Kê-lặc).
Đến khi được tin quân Tống không thể sang sông Phú-lương được, vua tôi Tống rất bất-bình, bèn đổ lỗi cho nhau. Ngày 18 tháng 2 năm Đinh-tị (K. Ho, DL 15-3-1077; TB 280/14a) viên thị-lang bộ lễ Vương Thiều dâng sớ nói rằng : “Ngày trước tôi đã diện-đàm về việc Quyết-lý, Quảng-nguyên; tôi đã thấy rằng phàm lo việc nước, đại-thần không nên tham hư-danh mà quên thực-họa; bỏ sự-nghiệp xa mà lấy việc nhỏ làm đầu. Lúc mới khởi việc đánh An-nam, tôi đã tranh-luận kịch-liệt, muốn nuôi dân-lực và bớt phí-tổn, đến nổi sinh thù với kẻ chấp-chính bấy-giờ (Vương An-Thạch). ” Vua Tống lấy làm mếch lòng. Vương Thiều bị bãi (TS 328).
Hạ-tuần tháng 2, được tin Quách Quì nhận lời đình-chiến với Lý, đã lui quân, và thôi không tìm cách vượt bốn năm chục dặm cuối-cùng để hạ Thăng-long nữa. Tuy nhận được biểu của vua Lý khiêm-tốn xin nhận lỗi, chịu nhường đất và trở lại tu-cống như xưa, nhưng Tống Thần-tông lấy làm bất-mãn. Vua liền muốn sai quân tiếp-viện xuống để gắng qua sông. Có viên giám-sát ngự-sử Thái Thừa-Hi dâng sớ can ngăn (VKT). Trong sớ có nói rằng :
“Thánh-nhân đối với man-di, làm chính-sách không trị mà trị; thế mà trong thiên-hạ không đâu là không trị. Tôi trộm nghĩ rằng, từ khi Giao-chỉ chưa hàng, ta đem quân đánh, thì chỉ đánh một góc, mà binh phu đã chết dọc đường nối-tiếp nhau; phí của nước kể hàng ức, hàng vạn. Trong hai năm nay, thật là lao-khổ. Thế mà chỉ được đất vài châu như Quảng-nguyên mà thôi. Đất ấy cũng chỉ là chỗ cùng-hải, cùng-sơn, đầy thú ác, khí độc. Người ấy, đất ấy, nếu có được thì cũng chả có ích gì cho thiên-hạ.
“Nếu nói đánh An-nam để hỏi tội, thì nó đã chịu tội rồi.
“Khi xưa rợ Tam-Miêu chưa dẹp, vua Thuấn cũng chỉ đi đánh 70 ngày rồi về. Nay, cớ sao ta lại cần đánh nhiều ngày hơn ? Mà bây giờ, Quách Quì, Triệu Tiết chưa về kinh-đô, quân ra ngoài biên-thùy chưa trở về doanh-ngũ. Thế cho nên kẻ ngoài huyên-truyền rằng : mặc dầu Lý Càn-đức đã hàng, Triều-đình còn ngấm-ngầm ý gì, muốn đem quân đánh trở lại. Không biết sự ấy có thật hay không ?
“Vả man-di, ở ngoài cõi hoang-phục, phong-tục khác. Thư-từ phải thông-dịch mới hiểu được. Với phép trị chúng, ở đời Tam-đại (Nghiêu, Thuấn, Thang), tinh-xảo biết bao, mà bấy giờ cũng cho rằng chúng không đáng được cai-trị. Ấy vì cớ gì ? Ấy vì không muốn bởi dân man mà làm khổ dân trong nước.
“Nếu Triều-đình muốn trả thù sự chúng cướp-bóc, thì ta đã thu đất nó, giết tướng nó, bắt quân nó. Muốn đề-phòng ngày sau khỏi có khi chúng ra lòng bất-trắc, thì ta nên sai bọn Quì và Tiết canh giữ; khiến cho chúng sợ bị đánh lần nữa mà không giám tới cướp.
“Vạn-nhất, nếu có nghĩ đến chước đi đánh trở lại, tôi xin Triều-đình nghĩ kỹ, nên để người Hồ (Kinh-hồ tức Hồ-nam và Hồ-bắc), Quảng (Quảng-nam tức Quảng-tây và Quảng-đông) nghỉ-ngơi vài năm, đợi lúc thương-tích lành, rồi sau sẽ tính việc.”
Vua Tống cũng cho lời tâu ấy là phải. Vả Lý Thường-Kiệt cũng đã giữ thể-diện cho Tống, bằng lời lẽ xin qui-phục, xin cống-hiến và nhường những đất quân Quì đã chiếm. Tể-tướng Ngô Sung là kẻ chủ-hòa xưa nay, lại rất bằng lòng.
Ngày 25 tháng 2 năm Đinh-tị, Ngô Sung thay mặt quần-thần dâng biểu mừng vua Tống “đã dẹp yên An-nam, và đã lấy lại được Quảng-nguyên.” (B. Ng, DL 22-3-1077, TB 280/16a, còn TS 6 chép lầm ra tháng ba).
Cũng ngày ấy, có chiếu đổi châu Quảng-nguyên ra Thuận-châu và thăng châu Quang-lang lên hàng huyện, bãi bỏ ti An-nam-đạo kinh-lược chiêu-thảo đô-tổng-quản và ti an-phủ, và giải-tán hành-doanh. (TB 280/16a)
Vua Tống liền trả lời cho vua Lý Nhân-tông, bảo phải tu-cống như trước và phải trả lại dân-đinh mà quân Lý đã bắt ở Khâm, Liêm và Ung (TB 280/16a).
Cuộc chiến-tranh Lý, Tống khởi đầu từ tháng 11 năm Ất-mão (1075) đến đây đã chấm dứt. Ấy vào tháng hai năm Đinh-tị (1077). Nó đã kéo dài trong mười lăm tháng.
8.- Kết cục
Tống không đạt mục-đích dự-định thôn-tính đất Việt, không tiêu-hủy được binh-lực Lý, chỉ chiếm được đất các châu Quảng-nguyên, Tư-lang, Tô-mậu, Môn và Quang-lang là đất rừng núi mà thôi. Nhưng trái lại, bị thiệt người tốn của rất lớn. Ngoài bốn trại Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thiên-long, và bốn thành Khâm, Liêm, Bạch và Ung bị tàn phá, Tống còn mất quân lính, phu-phen rất nhiều. Theo lời Chính Thúc, “8 vạn phu vận-lương và 11 vạn chiến-binh chết vì lam-chướng. Còn được 28.000 người sống-sót về, mà trong đó còn bị ốm nhiều. Kể cả số trước bị địch giết thêm mấy vạn, cả thảy không dưới 30 vạn” (NTDT). Tuy so với các số công-khai sau này có khác, nhưng có lẽ Chính Thúc kể cả thổ-đinh.
Tuy triều-đình Tống chúc mừng thắng trận, nhưng ai cũng biết Tống đã bị thất-bại to, và đã mất thể-diện với thiên-hạ.
Vua Tống cho kiểm-điểm binh-mã. Thấy có 49.506 người, 4.690 ngựa. Lúc về đến nơi, trừ số chết bệnh hay vì cớ khác, chỉ còn 23.400 lính và 3.174 ngựa (TB 280/17a). Phí tổn cả thảy mất 5.190.000 lượng vàng. (Theo lời Từ Hi tâu ngày 21 tháng 3 năm Đinh-tị, T. Vi, DL 16-4-1077; TB 281/5a).
Vua Tống nghe lời bàn của Thái Thừa-Hi (X, 13), sai các tướng cầm quân nam-thảo coi các châu ở trên đường sang Giao-chỉ : Quách-Quì coi Đàm-châu, Triệu Tiết coi Quế-châu, Thạch Giám coi Ung-châu và Đào Bật coi Thuận-châu tức là Quảng-nguyên cũ. (TB 280/17b).
Sau, vua Tống xét rõ công tội các tướng cầm quân. Tội chính về Quách Quì, vì đã trì-hoãn không chịu tiến binh. Quì bị đổi đi Ngạc-châu, rồi giáng làm tả-vệ tướng quân và an-trí ở Tây-kinh (27-7, A. Ho, DL 18-8-1077). Vua sai tra-cứu duyên-cớ sự trì-hoãn ấy. Chu Ốc khai vì tể-tướng Ngô Sung bảo Quì đừng tiến binh. Nhưng sự thật là Sung dặn phải xét kỹ-lưỡng rồi sẽ hành-động (TB 303/8b TĐ). Tội thứ hai là đã không biện đủ lương-thảo cho quân-mã dùng. Những người có trách nhiệm về lương-thảo như bọn Lý Bình-Nhất, Thái Dục và Chu Ốc đều bị biếm (1-8, M. Dn, 21-8-1077, TB 284/1a).
Còn Triệu Tiết lại được khỏi tội; vì có ngự-sử Thái Xác bênh-vực (TB 283/16b). Nhưng năn năm sau (1082) khi bị đổi lên lộ Phu-Diên, Tiết tỏ vẻ không bằng lòng; vua Tống mắng rằng : “Triệu Tiết trước đây đi đánh An-nam bị thua, đã được tha không bị tội chết. Nay còn ý oán. Nếu không trừng-trị thì ai sợ lệnh trên nữa. ” (TB 326/19a)
Cho đến Dương Tùng-Tiên thống-lĩnh thủy-quân, lúc mới về, cũng bị tội, nhưng sau được ân-xá. (TB 288/6a)
Tống vội phủ-dụ các quân lính bị đau, cấp tiền cho gia-đình những người tử-trận, thưởng những người đã có công, và phạt những người đã có tội theo hàng Lý. Từ Bá-Tường phải tự thắt cổ (năm 1078, TB 288/7a). Triệu Tú trước bày cho ta phép hỏa-công, bị phát-phối đi Hồ-bắc (năm 1077, TB 281/13b).
Các binh-mã thuộc An-nam hành-doanh được rút về, trừ một số phải đóng coi các châu vừa được nhượng (TB 280/16a).
Muốn tỏ lòng khoan-hồng, vua Tống lại theo lời Quách Quì xin, thu-dụng tả-lang-tướng Nguyễn Căn đã bị bắt ở sông Kháo-túc, và bổ làm hạ-ban điện-thị (1-6, TB 283/1a).
Tuy vậy, vua Tống vẫn nghĩ đến tương-lai. Ngày 14 tháng 9 năm Mậu-ngọ 1078, có La Xương-Hạo từ Chiêm-thành về tới nơi, dâng các bản-đồ vẽ đường đi từ Chiêm đến Giao-chỉ. Tống Thần-tông phê thưởng cho Xương-Hạo và nói thêm rằng: “Từ khi dụng binh ở An-nam, kẻ hiến kế đánh giặc kể có hàng trăm. Lời bàn về đường thủy, đường bộ để tiến quân, thường không giống nhau. Chưa biết ai phải. Nên chép các thuyết thành từng loại, về mỗi loại, vẽ đồ phụ vào, để sẵn-sàng cho việc dụng-binh ngày sau” (TB 292/6a).
Nhưng sau đó, Thần-tông chán-nản về việc chiến-tranh và không muốn động đến nước ta nữa. Lý Thường-Kiệt thì trái lại, dùng vũ lực chiếm lại một phần đất mất và đe-dọa Quảng-nguyên. Cuối-cùng, Tống không những phải bỏ cả năm châu dã chiếm, mà còn phải trả cho ta một phần đất ở phía tây-bắc Cao-bằng ngày nay, mà các tù-trưởng đã đem nộp Tống
CHÚ-THÍCH
(1) – Số 15 dặm là theo TB 281/14a. Về số này, mỗi nơi chép một khác. Lời Chính Thúc (NTDT) nói : “Tranh nhau chỉ 25 dặm mà thôi”. Sách Thông-giám chép: “Bấy giờ đại-quân xa Giao-châu chừng 30 dặm; chỉ cách một con sông mà không tiến được”. Sách Tống-sử (TS 279) lại chép: “Quân ta tiến tới sông Phú-lương, còn cách Giao-châu 30 dặm.”
Một dặm là bao nhiêu? Các sách toán-thư cổ như Cửu-chương, Tôn-tử, Ngũ-tào đều chép 300 bước là một dặm. Nhưng sách Toán-kinh của Hạ Hầu-Dương đời Tấn chép : “5 thước là một bước, 360 bước là một dặm”. Sự đổi ấy là từ đời Tùy, và còn giữ đến đời Thanh. Vậy đời Tống, dặm ăn 360 bước. Theo sách Toán-học từ-điển của Đoàn Dục-Hoa và Chu Nguyên-Thụy thì bằng 576 mét. Theo sách Ức-trai toán pháp nhất-đắc-lục của Nguyễn Hữu-Thận (đời Gia-long) thì nói : “địa-cầu chia làm 360 độ, mỗi độ bằng 20 dặm tây (hải-lý), mà mỗi dặm tây bằng 10 dặm Đại-Thanh”. Nay ta biết rằng địa-cầu chu-vi chừng 40 000 kilomét, thì ta suy thấy dặm Đại-Thanh bằng 555 mét.
Xem vậy ta có thể lấy chừng một dặm bằng già nửa cây-số, thì có vẻ ước được đường dài.
(2) – Sách VĐUL có chép chuyện hai vị thần Trương Hống và Trương Hát một cách rõ. Hai người là anh em, đều là tướng của Triệu Quang-Phục. Sau khi Lý Nam-đế đánh bại Triệu, cho người mời hai ông ra giúp việc. Hai ông dều chối và trốn vào ở trong núi Phù-long. Lý bèn mưu giết. Cho nên hai ông uống thuốc độc tự-tử. Đến đời Ngô Xương-Văn đi đánh giặc Lý Huy ở châu Tây-long, đóng quân ở cửa Phù-lan. Hai thần hiện lên xin giúp. Sau khi giặc tan, vua Ngô phong cho anh, Trương Hống, làm Đại-đương-giang đô-hộ-quốc-thần-vương và sai lập đền thờ ở cửa sông Như-nguyệt. Vua Ngô lại phong cho em, Trương Hát, làm Tiểu-đương-giang đô-hộ-quốc-thần-vương, và sai lập đền thờ ở cửa sông Nam-quân (tức là Nam-bình hay sông Thương ngày nay).
Các sử TT, SK cũng chép lại chuyện ấy, và nhắc lại chuyện thần sông Như-nguyệt đọc thơ. Bài thơ kia, bản viết VĐUL lại chép khác một vài chữ, như nghịch-lộ đổi ra nghịch-tặc, bại-hư đổi ra tảo trừ.
Thần-phả Trương-tôn-thần sự-tích phụ-họa vào nhiều. Nào kể lai-lịch bố mẹ, em trai, em gái. Nào kể chuyện thần giúp Ngô, Lê, Lý, Trần, Lê. Chuyện thần đọc thơ được kể hai lần, đời Lê Hoàn và đời Lý. Câu cuối lại đổi ra : nhất trận phong-vân tận tảo trừ, trong lúc giúp Lê.
Chuyện này bất-quá vì là lòng sùng-bái của người ta, mà bịa đặt ra, và nhà nho phụ-họa cho thêm linh. Sự thật có lẽ như tôi đã theo ý Trần Trọng-Kim, nhận rằng thơ là của Lý Thường-Kiệt. Nhưng nói chắc là Thường-Kiệt làm được thơ thì không có gì làm bằng cứ.
Ngày nay, cả vùng lân-cận hai sông Cầu và Thương, có đến hơn 290 ngôi đền thờ hai vị thần họ Trương. Đền chính thờ Trương Hống ở làng Vọng-nguyệt, cạnh làng Như-nguyệt; và đền thờ chính Trương Hát ở làng Phượng-nhỡn ở cửa sông Thương. Vị-trí đền phù-hợp với việc quân Tống qua sông ở bến đò Như-nguyệt, cho nên câu chuyện thần ám-trợ kể trong VĐUL có căn cứ vào sự thật ít nhiều.
(3) – Sách TT không hề chép đến chuyện hai hoàng-tử chết trận. Nhưng VSL chép : “Vua Lý sai Nguyễn Thường-Kiệt lĩnh thủy-quân để chống lại. Hai hầu Chiêu-văn và Hoằng-chân đều chết đuối ở sông Như-nguyệt. “
Các sách Tống chép về chuyện ấy nhiều. Tống-sử (TS 290) chép : “Ta đại-chiến ở sông Phú-lương, chém được vương-tử giặc là Hồng-chân”. Mộ-chí Quách Quì chép : “Giết được đại-tướng Hồng-chân, băÙt được tả-lang-tướng Nguyễn Căn”. Sách Thông-giám chép : “Bắt được thái-tử giặc là Hồng-chân”. Sách Trường-biên (TB 293/8a) chép : “Tướng Bạch Bảo bắt được thái-tử Hồng-chân; và tướng Đặng Trung bắt được tả-lang-tướng Nguyễn Căn… Nhưng tướng Tiết Đức lại nói chính mình giết được Hồng-chân ở ải Quyết-lý”. Sách Đông-phố chép rõ-ràng nhất. Tôi đã kể lại trên. Các sách viết đời sau như ANCL, ANCN, VKT đều theo sách Tống chép tên hai hầu cả.
Sách SK, tức là sách TT chữa lại ít nhiều cho hợp sử Trung-quốc, có chú-thích nhiều về đoạn này. Kẻ soạn chú-thích ấy, có lẽ Ngô Thì-Sĩ hay Ngô Thì-Nhiệm, đã khảo Tống sử, và chữa đoạn sử này một cách khá xác-đáng. Lời chú-thích có nói : “Lại xét Tống sử và các sách khác chép, thì Quách Quì tiến đóng ở ải Quyết-lý. Sai tướng lấy lại Ung, Liêm (chép thứ-tự như thế là sai). Rồi tự mình đem quân đi về phía tây, tiến đến sông Phú-lương. Quân ta cưỡi thuyền đón đánh. Quân Tống không qua sông được. Triệu Tiết chia công việc, sai các tướng đẵn gỗ, đóng công-cụ, bắn đá xuống như mưa. Chiến-thuyền quân ta đều vỡ. Rồi Tiết đặt phục-binh mà đánh lại, chém vài ngàn đầu. Thái-tử Hồng-chân chết tại trận”. Sau khi nói thêm về việc Tống chiếm các châu thượng-du, SK nối lời rằng : “So đó với sự sử ta chép rằng quân Tống bị thua, thì khác nhau. Tôi trộm nghĩ rằng Hồng-chân không phải là thái-tử, sự ấy đã rõ (ta đã thấy lẽ khác ở X/cth 1). Hoặc-giả các vương có người bị tử-trận mà đương-thời giấu chuyện đi chăng ? Hoặc là tụi Quì muốn che sự thua, mà bịa chuyện tâu về, để kể là chiến-công “. Tác-giả ngả về thuyết sau, nên bàn rằng : “Nếu không phải thế, thì sao với đạo quân tám vạn tên mà chết quá nửa, một dải Nhị-hà mà không dám qua để đến kinh-sư ? Như thế thì sao có thể nói là thắng ? “. Lý-luận ấy đúng. Ta nay biết rõ là Tống và Lý không ai thắng bại cả.
Lại có sách Tùng-đàm chép tên hoàng-tử khác hẳn các sách khác. Sách ấy nói : “Tướng tiên-phong là Miêu Lý và Yên Đạt qua sông Phú-lương. Đánh một trận, phá tan giặc. Bắt được thái-tử giặc là Phật-nha” (TB 303/9a). Tên Phật-nha ấy tuy khác các tên kia, nhưng chắc là đúng. Lý Thái-tông khi còn thái-tử có tên là Phật-mã, thì con có thể là Phật-nha. Chắc đó là tên húy còn hiệu là Hoằng-chân-vương hay Hoằng-chân-hầu.
Sự lạ là chính-sử như TT không chép chuyện Hoằng-chân. Chắc không phải rằng đời Lý dấu sự ấy, vì VSL, viết đời Trần, còn chép. Có lẽ chỉ vì đời Lê, sử Lý đã thất-lạc đi nhiều.
Nay tôi có để ý đến thần đền Voi-phục, là đền dựng đời Lý ở phía tây Thăng-long, kề phía bắc đường Hà-nội đi Sơn-tây và cạnh ô Cầu-giấy. Hiệu thân là Linh-lang đại-vương. Trong hạt Hoài-đức còn nhiều đền thờ. Nhưng bốn đền chính là các đền ở làng Thủ-lệ (Voi-phục), Bồng-lai ở huyện Từ-liêm, và hai làng Đại-quan, Thuần-lễ. Tuy thần-tích mỗi nơi một khác, vì thường thường thần-phổ là do kẻ khai bịa đặt ra nhiều, nhưng xét gốc chuyện có một phần chung, mà ta có thể coi là có liên-quan với sự thật.
Trong chuyện Linh-lang, thì cốt chuyện là như sau. Linh-lang là con vua Lý Thái-tông. Mẹ là một người con gái kẻ quê, quán ở Bồng-lai. Nhưng chính là con thần Thủy-long ở hồ Dâm-đàm (hồ Tây) giáng sinh. Vua đặt tên cho là Hoàng-tứ-lang theo thần-phả đền Voi-phục, hay Hoàng-lang theo thần phả làng Đại-quan. Tên ấy nghĩa là con thứ tư vua hay con vua.
Hoàng-lang mặt-mũi khôi-ngô, nhưng đã lớn mà chưa biết nói.
Chợt có giặc xâm-lăng nước. Các tướng đi đánh, không thắng. Vua và triều-thần lo. Có thần báo mộng cho vua biết rằng đã có thần-nhân giúp, cứ cho sứ mời thì được.
Sứ đi tìm các nơi. Lúc sứ tới làng Thủ-lệ (theo thần-phả Đại-quan thì Thị-lệ), Hoàng-lang thưa với mẹ gọi sứ tới, rồi nói với sứ rằng : “Xin vua cha một lá cờ đỏ lớn, cán dài và một con voi. Ta sẽ dẹp yên giặc.”
Lúc được cờ với voi, Hoàng-lang cầm cờ chỉ voi. Voi liền phục xuống Hoàng-lang bèn cưỡi voi cầm cờ ra trận. Voi chạy như bay, cờ phất một cái thì giặc tan.
Lúc Hoàng-lang trở về, bèn bị bệnh đậu. Thuốc chữa không khỏi. Hoàng-lang nói với vua cha rằng mình là con Thủy-cung tới giúp vua, xong rồi phải về Thủy-cung.
Tự-nhiên Hoàng-lang biến thành một con rắn đen dài mà bò vào hồ Dâm-đàn biến mất. Vua sai lập đền thờ ở trại Thủ-lệ là chỗ cung mẹ ở, tại làng Bồng-lai là quê mẹ, và ở hai làng Đại-quan và Thuần-lễ là nơi Hoàng-lang trú binh.
Xem chuyện trên, ta thấy một vài chủ-ý mà ta thường thấy trong các chuyện thần khác : thụ thai với giao-long, thai bọc, lớn không biết nói, xin voi, cờ (gần như chuyện Phù-đổng thiên-vương), hóa ra rắn mà biến.
Kể ra các thần-phả ấy còn chép nhiều chuyện hiển-nhiên là bịa-đặt sai-lầm. Nhưng chuyện nầy làm cho ta chú-ý, vì có sự hoàng-tử đời Lý đánh lui giặc ngoại-xâm rồi chết. Thần-phả đền Đại-quan nói giặc là Trinh Vĩnh khởi binh từ Nam-hải. Ta không biết Trinh Vĩnh là dân-tộc nào. Trái lại, thần-phả đền Voi-phục nói giặc là Tống. Phả ấy chép : “Bấy giờ, có các tướng mạnh của Tống, là Triệu Tiết, Quách Quì đem quân của chín tướng, và tụi Hồng-chân, Vũ Nhĩ, Dư Tĩnh và hợp Hoàng Vĩnh-Trinh với Chiêm-thành Chân-lạp mà tới xâm.”
Bên cạnh những sự đúng, như nói tướng Tiết và Quì, lại có những sự sai, như nói đến Vũ Nhĩ (tướng ta đời Lý Thái-tông. IV/3), Dư Tĩnh (quan Tống đánh Nùng Trí-Cao, IV/3). Còn tên Hoàng Vĩnh-Trinh kia với tên Trinh-vĩnh chắc có liên-quan.
Sự lạ nhất là trong các tướng Tống, lại có tên Hồng-chân. Nếu kẻ viết thần-phả bịa-đặt hoàn-toàn thì sao biết có tên Hồng-chân ấy. Nếy y có đọc Tống-sử thì sao lại lẫn các tên người Tống, người ta ?
Hoặc là tên Hồng-chân có trong chuyện thần lúc xưa. Nhưng sau, chuyện bị sai-suyễn. Cho nên kẻ viết lại thần-phả lầm-lẫn, nhưng vẫn giữ được tên Hồng-chân.
Vì lẽ ấy, ta có thể ngờ rằng thần Linh-lang tức là hoàng-tử Hoằng-chân. Nhưng còn có hai lẽ làm ta thêm tin thuyết ấy. Về đường ngữ-học, tên Hoàng-lang chép ở thần-phả rất có thể là biến-âm của Hoằng-chân hay Hồng-chân. Hoàng và hoằng gần nhau, sự ấy đã rõ. Còn lang và chân, tuy bề ngoài tưởng xa, nhưng thật là gần. Âm CH là biến-âm của TR, mà TR là biến-âm của TL, và TL lại biến ra L. Ví dụ : Chàm là tràm, là tlàm là lam, và Chèm là Trèm là Tlèm là Liêm (Từ-liêm). Cũng theo luật ấy mà chân biến ra Lang. Nói tóm lại, tên Hoằng-chân đã biến ra Hoàng-lang ở thần-phả.
Đó là một lẽ. Lẽ thứ hai là sự Hoàng-lang hiện ra rắn rồi lặn xuống hồ có thể là cách tượng-trưng sự Hoằng-chân chìm xuống sông mà chết.
Ta có thể tin một phần rằng hoàng-tử Hoằng-chân đã được thờ ở đền Voi-phục. Có lẽ vì tử-tiết nên được biệt-đãi, được thờ trong thành Thăng-long.
(4) – Sách VSL có chép tên Kiều Văn-Tư, nói y được cất làm chức thượng-lâm quốc-sĩ-sư vào năm 1100. Không biết có phải là Kiều Văn-Ưng làm chức Văn-tư-sứ mà sách VSL chép lầm hay không.
CHƯƠNG XII : KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT
Bản-đồ IV. Trấn Thanh-hóa đời Lý
Bản-đồ IV. Trấn Thanh-hóa đời Lý
1.- Tống tổ-chức nhượng-địa
Tuy không lấy được toàn cõi nước ta, nhưng Tống cũng đã chiếm đuợc năm châu miền núi : Quang-lang, Tô-mậu, Môn, Tư-lang và Quảng-nguyên. Trong đó hai châu Quang-lang và Quảng-nguyên là quan-trọng hơn cả. Quang-lang là cổ-họng của châu Ung, và Quảng-nguyên là nơi có tiếng sản-xuất nhiều vàng bạc.
Tống liền tổ-chức cai-trị các châu ấy. Ngày 25 tháng 2, sau khi triều-đình mừng thắng trận, vua Tống hạ chiếu đổi Quảng-nguyên ra Thuận-châu và thăng Quang-lang lên hàng huyện. (TB 280/16a)
Ta sẽ thấy rằng Quang-lang ở vào địa-thế không thể giữ được, nên Tống phải bỏ, sau khi Quách Quì rút quân. Các châu Tô-mậu và Môn hình như không được hai bên chú-ý lắm. Còn Thuận-châu, thì được đặt vào hàng Ung-châu, và có lẽ kiêm-quản các châu kia.
Đào Bật liền được bổ coi châu mới ấy (28-2, TB 280/22a). Bật là người Vĩnh-châu. Xuất thân vũ-chức. Trước đã từng giúp Dương Điền đánh giặc Dao ở Hồ-nam. Sau lại có công phủ-dụ dân bị loạn Nùng Trí-Cao lôi cuốn. Trong vụ hành-quân đánh Lý lần nầy, Bật đã được giao những trọng-chức, là đi phủ-dụ các dân khê-động vùng Tả-giang : và mỗi lúc đại-quân tiến hay lui, Bật cũng phải cầm quân chặn hậu (XI/6). Tuy là vũ-tướng, Bật lại là một thi-sĩ có tài. Lê Quí-Đôn có chép trong sách Kiến-văn tiểu-lục (quyển 4) sáu bài thơ mà Bật làm trong khi đi tuần-thúp ở Tả-giang. Số là, sau khi ta đã rút khỏi Ung-châu, Tống lập lại thành Ung. Rồi tháng 5 Bính-thìn 1076, bổ Đào Bật tới coi châu ấy. Quách Quì lại sai Bật vào các khê-động phủ-dụ man dân. Trong khi đi đường qua trại Vĩnh-bình, Bật có bài thơ ngũ-ngôn, tả cảnh nơi biên-thùy xa-xăm buồn tẻ đối với một biên-tướng giàu thi-tứ :
Điệp-chướng thâm thiên-lý, Nghìn dặm núi chồng-chất.
Cùng-biên kim nhất ngu. Một góc biên tít xa
Bắc-phong gia tín-tức, Nam đẩu soi đường khách.
Nam-đẩu khách trình-đồ. Bắc-phong thổi tin nhà.
Lĩnh-thế tần khai hợp, Cửa Lĩnh từng khép mở,
Viên-thanh sạ hữu vô Tiếng vượn chốc kêu ca.
Quá khê nhân tiếu ngữ, Lội khe, ai cười nói :
Cách ngạn thú-yên cô. Đồn cách, khói la-tha.
Xét nhân-cách, chức-vị, công-trạng của viên tri-châu đầu ở Thuận-châu, ta biết rằng Tống quan-tâm đến nhượng-địa vừa được, và gắng sức tổ-chức cai-trị.
Ngoài Đào Bật, Tống định bổ tới Thuận-châu đủ các viên-chức, mỗi chức một người : thông-phán, thiểm-thư, phán-quan, kiềm-hạt, đô-giám, đô-áp. Sợ rằng châu mới độc nước, quan-lại không thích đi, chiếu thư có dặn rằng : ” Mỗi năm sẽ thay một quan. Ở hết hạn, được thăng một chức, và bổ về mạc-chức, nghĩa là ở chỗ trung-ương “. (21-2, TB 280/15b)
Việc đầu Tống làm là củng-cố sự đề-phòng châu mới. Từ tháng giêng (Đ. Ti 1077), ti tuyên-phủ đã tâu : ” Châu Quảng-nguyên mới được, nên đóng binh phòng-bị khai-thác. Xin theo lệ các đất Hi-hà và Nguyên-châu, đem các tội-nhân tới giam đó “. Vua Tống bằng lòng và bảo đem tội-nhân bị án phát-phối, từ Hoài-nam trở xuống, đến ở Quảng-nguyên. (28-1, TB 280/7a)
Ngày mồng 8 tháng 3, ngự-sử Đặng Nhuận-Phủ tâu : ” Gần đây, nghe nói đã đắp thêm thành Quảng-nguyên và đã bổ vũ thần đến coi. Xin trước hết sait ti an-phủ Quảng-tây cùng giám-ti xét các điều-lệ lợi hại thế nào, mỗi năm dùng giáp-binh bao nhiêu, lương-thực bao nhiêu, giáp-binh lấy từ đâu, lương-thực biện chỗ nào. Làm sao cho lính đủ để chống giặc, lương đủ cho lính ăn, và khi thình-lình có biến, khỏi phải lo-liệu lật-đật vất-vả “. Tống liền sai 17 chỉ-huy ở các xứ Hồng-châu tới phòng-thủ Quảng-nguyên, Tư-lang. (TB 281/1b và 2a)
Việc thứ hai là tổ-chức khai-lợi các mỏ. Chiến-tranh chưa hết, Quách Quì đã xin sai viên đề-điểm-hình-ngục Quảng-tây đề-cử đặt các lò luyện quặng vàng bạc ở Quảng-nguyên (28-1, TB 280/7a). Ngày mồng 9 tháng 3, có chiếu sai viên quan cao-cấp là viên-ngoại-lang Tất Trọng-Hùng coi về việc ấy (TB 281/20 và 3a).
Việc thứ ba là thu-phục nhân-tâm. Tống đặt các chức lại-trị coi đủ mọi việc hành-chánh. Lại thưởng công cho các tù-trưởng đã theo giúp quân Tống, như cháu Nùng Thiện-Mỹ là Huệ Đàm (TB 280/21b), và định cấp ấn son cho các động-trưởng. (19-4, TB 281/10b)
Châu-trị bấy giờ đóng ở đâu ? Thành Na-lữ, ngày nay còn dấu, có lẽ là thành Thuận-châu cũ.
2. Khôi-phục Quang lang
Huyện Quang-lang kề trại Vĩnh-bình, thuộc Ung-châu cai quản. Đất ấy quan-trọng, vì gần-gũi các đồn ở Vĩnh-bình, nhưng sự phòng-thủ dễ-dàng hơn Thuận-châu. Vả lại hòa-bình đã trở lại dần-dần. Vua Lý đã xin sai sứ tới Tống. Triệu TiêÙt, bấy giờ coi Quế-châu, không ngần-ngại mà rút bớt tiền chi-phí về việc quân phòng-thủ ở Quang-lang(1-5, TB 282/1a).
Lý Thường-Kiệt liền mưu-đồ chiếm lại những đất đã mất. Sau khi quân Quách Quì rút lui khỏi Lạng-châu, quân Lý liền theo sau, và đóng giữ ở động Giáp. Rồi kéo vào đánh úp, chiếm lại Quang-lang (TB 283/15a). Các viên tri-huyện Hồ Thanh và tuần-phòng Trần Tung đều bỏ chạy (TB 287/1b).
Thế mà viên coi trại Vĩnh-bình không biết. Tháng 7 (Đ.Ti 1077), ti chuyển-vận mới tâu về triều, nói : ” Có dò được tin quân Giao-chỉ hiện đóng ở ngoài huyện Quang-lang “. Vua Tống không hài lòng, hạ chiếu : ” Huyện Quang-lang đã bị quân Giao-chỉ đánh úp và chiếm. Chưa thấy lộ Quảng-tây xử-trí làm sao. Từ đó qua ải Quyết-lý đến Thuận-châu không xa. Coi khéo lại không thể cố-thủ được. Phải làm sao cho không tổn quốc-uy, sao cho binh-lực và tài-phí không càng ngày càng hao-tổn. Vậy giao cho Triệu TiêÙt, Lý Bình-Nhất, Miêu Thì-Trung cùng nhau bàn mưu-kế cho đúng lợi hại. Chớ có lần-lữa tránh việc, đến nỗi hỏng đại-sự của Triều-đình ở một phương, Bàn-định xong, rồi sẽ gấp tự viết thư báo về tâu rõ. ” (TB 283/15a)
Sau đó không thấy Tiết tâu điều bàn-định về triều. Chỉ thấy rằng ngày 8 tháng giêng nhuận năm sau (Mậu-ngọ 1078), hai viên-chức ở Quang-lang bị kết tội bỏ thành trốn : Trần Tung bị chém và Hồ Thanh bị đày ra đảo Sa-môn. (TB 287/15b)
Thế là quân Lý đã lấy lại được huyện Quang lang. Có lẽ hai châu gần cạnh, là Tô-mậu và Môn, cũng được giải-phóng nốt. Chỉ còn Quảng-nguyên, vì trọng-binh Tống đóng, quân Lý chưa giám kéo vào. Nhưng Lý thường thường đe-dọa, phao truyền tin sắp tới chiếm Quảng-nguyên, để thử xem quan Tống hành-động thế nào. Được tin, Đào Bật vẫn điềm-nhiên, khuyên binh-sĩ ở yên cố-thủ, chớ khiêu-khích quân Lý. Vì vậy quân Lý vẫn đóng im ở Quang-lang, không giám kéo vào. Dân Thuận-châu được yên-tĩnh. Hễ quân Lý động tĩnh thế nào, đều có kẻ mách cho Đào Bật biết. (TB 334 và TB 280/24a)
Dùng vũ-lực khôi-phục đất mất sợ không xong, Lý lại chủ-trương ngoại-giao mềm-giẻo, và xin sai sứ tới bàn. Triệu Tiết tâu về, vua Tống bằng lòng, và hạ chiếu nói : ” Giao-chỉ chịu theo ta rồi. Nếu nó có sai người tới bàn việc, hãy cho tới Quế-châu ” (1-5, TB. 282/1a).
Tuy vậy, vua Tống vẫn sợ quân ta sẽ sang đánh Ung-châu như trước. Vua viết thư hỏi ý-kiến Triệu Tiết : ” Giao-chỉ nghịch thuận thế nào ? Chúng sắp vào cống. Thế nào chúng cũng yêu cầu dân miền đã nhượng cho ta. Ta nên trả lời chóng hay chầy, cho chúng nhiều hay ít ? “
Tiết tra lời rất tường-tận. Lời bàn như sau :
” Lúc chống quân ta ở sông Phú-lương, Giao-chỉ đã đem tất cả các tướng giỏi tụ-tập lại đó. Thế mà cũng đến nỗi thế cùng, lực quệ, rồi phải xin hàng. Nay việc binh vừa xong. Nên để binh dừng, dân nghỉ. Nhưng tụi thủ-lĩnh các khê-động thuộc Khâm, Liêm muốn dựa vào biên-hấn để kiếm-lợi. Chúng trương-hoành thanh-thế giặc, để làm náo-động biên-tình. Những kẻ nhẹ dạ hay nghe và thích kiếm chuyện, lại đồng-thanh phụ-họa, gây lo cho phương nam.
” Tôi xét thế Giao-chỉ, thấy chúng chưa giám động. Ấy vì có ba lẽ :
” 1.) Trước đây, Giao-chỉ lấy tụi Lưu Kỷ làm mưu-chủ. Nay tụi ấy đã được ta bổ làm công-chức. Các thuế mỏ vàng mỏ bạc ở Quảng-nguyên, Tư-lang, nay đều về ta. Các khê-động mới theo ta, nay đều tự-chủ và lập đảng riêng-biệt ; Giao-chỉ khó lòng mà họp lại được. Huống chi dân miền biên-thùy chống lại chúng, không chịu để chúng hiếp-dỗ. Ta đã lấy được phủ ở phía ngoài đất chúng, như là đã cắt cánh tay phải của chúng. Trong vài năm nữa, thế chúng vẫn còn chết. Càn-đức nhỏ-dại, chính-sự phần lớn ở môn-nhân mà ra. Chúng nó còn phải gầm-ghè nhau để tự-bảo, không rỗi tay để cướp ta. Đó là lẽ thứ nhất, mà chúng chưa giám động.
” 2.) Từ kinh-thành Giao-chỉ đến biên-trại cũ, đường đi mất hơn mười ngày. Từ trước, giặc tới đó chưa từng có đủ lương ăn. Chúng chỉ nhờ tụi Lưu Kỷ góp-nhặt cấp cho, mà cũng không đủ ăn nửa tháng. Hết rồi thì chúng cướp-đoạt của dân. Cho nên dân rất oán-thù. Trước đây, tụi Kỷ liên-lạc với các khê-động ở đất ta, và nhờ dẫn đường, nên chúng giám vào cướp. Nay phên-giạu đều hết sạch. Chúng biết nương-tựa vào đâu mà dám dòm-ngó biên-thùy ?
Từ khi chúng làm phản đến nay, dân bỏ cày đã hai năm. Dân ta cũng bỏ cày cấy. Lại thêm bị điều-động, bị tật-dịch. Số chết nhiều không kể xiết. Ví như chúng có ý ngông-cuồng tranh cương-thổ ta, thì vừa qua khỏi trường-giang (1), đã dậm lên đất ta. Chúng lấy ai dẫn đường ? Lấy lương đâu ăn ? Quân giặc có bao nhiêu để tự-vệ ? Phải chia quân ra thủy lục, thì quân chắc ít, khí chắc hết. Đó là lẽ thứ hai, mà chúng chưa giám động.
” 3.) Giao-chỉ thu thuế nặng. Những nhà hạng vừa và hạng dưới mà mỗi năm phải nộp đến trăm quan. Bốn phần mười thuế ấy nộp nhà chúa ; còn dư, các thủ-lĩnh lấy. Thuế nặng đến nỗi dân phải xiết cả tài-sản, vợ con, mà bù không đủ số thiếu. Biên-dân rất oán-giận. Vừa rồi, quan-quân đến đánh. Muốn tỏ lòng thương những dân-chúng tới hàng, ta đã treo các sắc-bảng hứa tha cho chúng năm năm thuế. Lòng chúng đều vui qui-thuận. Giá-sử Giao-chỉ trở lại hiếp dỗ chúng, thì có ai theo ? Đó là lẽ thứ ba, mà chúng chưa giám động.
” Xét ba lẽ chúng không thể động, ta thấy rằng giặc vừa bị thương-di như thế, mà sợ chúng lại phạm thiên-uy, thì quá đáng. Trước đây, Địch Thanh bại Nùng Trí-Cao xong rồi rút quân liền, không cần phá sào-huyệt nó. Thế mà Trí-Cao rồi cũng bị giết. Huống nay, Giao-chỉ đã không trông cậy vào láng-giềng nào, mà dân-chúng đều oán. Thế cô như cây măng. Chỉ chờ thời bị diệt. ” (TB 291/6b)
Tuy lời thư của Triệu Tiết ngoa và không đáp lại những câu hỏi của Tống Thần-tông, nhưng nó tả cũng khá đúng thế-lực và tâm-tình tương-đối của hai bên Tống Lý, một năm sau khi giảng-hòa. Thật vậy, tuy Lý giữ được gần toàn binh-lực ở đồng bằng, nhưng vây-cánh ở thượng-du hoàn-toàn bị tan-rã. Họ Nùng, họ Vi (2) theo Tống đã đành. Mà họ Thân hình như cũng điêu-tàn. Trong sử Lý sau này, không thấy nói gì đến nữa. Trái lại, trong đời Anh-tông, có Thân Lợi tự xưng là con Nhân-tông họp nhiều quân, chiếm các đất Bắc-cạn, Thái-nguyên (1140, TT ; không biết Lợi có họ hàng gì với họ Thân ở động Giáp hay không (VSL chép tên Ông Thân-Lợi vào năm 1139). Còn Tống thì chán-nản không muốn đánh nhau với quân ta nữa, tuy rằng vẫn muốn giữ các mỏ vàng Quảng-nguyên.
Tống Thần-tông nghe lời Triệu Tiết, bèn ” xá tội ” cho vua Lý. Tống Lý trở lại hòa-thuận cùng nhau. Lý Thường-Kiệt sẽ cơ-hội để ngoại-giao đòi lại những đất còn mất.
3.- Đòi Quảng-nguyên : Đào Tông-Nguyên
Tháng 7 năm ấy (Đ.Ti 1077), triều đình Tống xét rõ công-trạng của các tướng thuộc An-nam hành-doanh ; Quách Quì bị an-trí ở Tây-kinh, còn Triệu Tiết vẫn được lưu lại coi Quế-châu, sung chức an-phủ-sứ Quảng-tây, để đối-phó với Lý. Tháng 10, sứ-bộ ta tới biên. Tiết tâu rằng : ” Người Giao sai tụi Lý Kế-Nguyên tới biên-giới cùng với quan ta bàn việc. Tôi muốn bảo quan ta lấy ấn-tín triều-đình mà hiểu-dụ Càn-đức, ra lệnh cho y trả lại những nhân-khẩu đã cướp, rồi triều-đình sẽ cấp đất cho. ” Vua Tống bằng lòng. (TB 285/4b)
Nhưng trong lời biểu của vua Lý, có dùng chữ húy của triều Tống. Triệu Tiết không chịu nhận biểu, và bảo sứ ta trở về chữa lại. Ngày 15 tháng 11, Tiết tâu : ” Giao-chỉ dâng biểu có phạm miếu-húy. Sứ-giả đã về rồi. ” Vua Tống bảo cứ thu rồi tâu đệ về triều. (TB 285/17b)
Đầu năm sau (M. Ng 1078), vua Lý sai Đào Tông-Nguyên trở lại đi sứ. Tông-Nguyên đem theo năm voi để cống, và tờ biểu của vua Lý xin lại các đất Quảng-nguyên và Quang-lang (TT chép vào tháng giêng nhuận, VSL chép vào tháng 2 ; còn TB chép vào tháng giêng như TT).
Lời biểu nói rằng :
” Tôi đã nhận được chiếu-chỉ cho phép theo lệ tới cống, y như lời tôi thỉnh-cầu. Chiếu lại đã sai quan thuộc ti an-phủ định rõ cương-giới và dặn tôi không được xâm-phạm. Tôi đã vâng chỉ-dụ. Nay sai người tới cống phương-vật. Tôi xin triều-đình trả lại các đất Quảng-nguyên và Quang-lang ” (3). (9-1, A. Ma, DL 25-1-1078 ; TB 287/1a)
Vua Tống trả lời : ” Hãy đợi sứ tới kinh, sẽ phân-xử về cương-giới. “
Tuy vậy, ti kinh-lược Quảng-tây có kẻ không muốn để sứ tiến kinh. Ngày 22 tháng giêng nhuận, ti chuyển -vận tâu trằng : ” Trước đây, sứ Giao-chỉ đến, nhưng phải quay về, vì trong biểu có phạm húy. Nay sứ đã trở lại, và đã chữa biểu. Nhưng viên câu-đương thuộc ti kinh-lược, là Dương Nguyên-Khanh, chưa chịu thu nhận. Sợ chúng ngờ-vực là muốn ngăn chúng “. Vua Tống liền bảo tụi Nguyên-Khanh : ” Phải nhận và gửi biểu về, sai người đưa sứ tới kinh. Còn như việc chúng đòi trả nhân-khẩu và sự định biên-giới, thì hãy đợi phân-xử riêng ” (TB 287/19a)
Vua tôi Tống vẫn sợ ta có lòng phản-trắc. Triệu Tiết xin tăng quân đóng ở Quế-châu cho được 5.000 (TB 285/8b). Ti chuyển-vận Quảng-tây xin tăng lương-thực và tiền bạc (TB 287/20b). Quế-châu xin sai chúa trại Hoành-sơn tới đạo Đặc-ma mua ngựa, và tới châu Ung, Khâm kiểm-điểm đân khê-động và sai tập rèn vũ-nghệ (TB 286/5a). Vua Tống sai khuyến-khích dân Thái xứ Cửu-đạo-bạch-y, vì chúng đã trình những việc thám-thính được ở nước ta (TB 285/18a). Nhân bấy giờ có sứ Chiêm-thành tới Quảng-châu, ti kinh-lược Quảng-đông không muốn cho vào kinh, vì ” chúng đều vãng-lai với Giao-chỉ, sợ có gian-phi lẫn vào để thám-thính ” (TB 285/17a). Trong khi sứ ta khó-nhọc dẫn đàn voi đi Biện-kinh, vua Tống phê rằng : ” Sứ Giao tiến tới kinh. Vì chúng mới cướp ta, nên phải lo đề-phòng. Khi còn ở dọc đường cũng như khi tới kinh, hễ chúng ra vào, phải cắt người giám-thị. Vậy phải viết thư cho ti kinh-lược Quảng-tây và cho các viên hộ-tống phải mau mau báo-cáo. Nếu dọc đường có xẩy việc gì, ti kinh-lược chưa kịp bẩm, thì cứ việc thi-hành. ” (25-5, TB 289/18b).
Tháng 6, sứ-bộ qua lộ Kinh-hồ-bắc. Viên chuyển-vận sứ ở đó không đủ phu hộ-tống, xin phép bỏ tiền thuê phu cho đắt (TB 290/1b). Ngày mồng 2 tháng 9, Đào Tông-Nguyên đã tới kinh, xin dâng cống-vật (TB 292/1b).
Triệu Tiết khuyên Tống Thần-tông đừng trả hai châu Quảng-nguyên và Tư-lang (theo TCK, TB 300/12b). YÙ Thần-tông cũng không bằng lòng trả (TS 14).
Nhưng từ khi chiếm được Quảng-nguyên, Tống đã bị thất-vọng lớn. Châu ở cách xa Ung hai ngàn dặm. Khí-hậu lại độc. Quân thú mười phần chết mất bảy, tám (TS 334). Mỗi lúc đến phiên đi thú ở đó, lính từ-biệt vợ con như là sắp chết. Cả nhà khóc-lóc rất là thảm-thiết (ĐHBL). Quân thú đào-ngũ hàng đoàn. Có lúc có hai quân-đội bỏ doanh trốn về nhà. Triệu Tiết nghe nói, viết thư cho tướng chỉ-huy chúng, bảo : ” Quân đóng ở ngoài lâu ngày mệt nhọc, cho chúng nghỉ một tháng, rồi bảo chúng trở lại. ” Lúc chúng về qua doanh, Tiết mời ăn uống. Rồi gọi hai người đứng đầu mà hỏi vì sao bỏ ngũ. Chúng đều trả lờiv : ” Chỉ vì đi thú lâu ngày ở nơi nước độc, cho nên nhớ nhà. ” Tiết nói : ” Mẹ ta già tám mươi tuổi. Ta muốn về thăm, có được không ? ” Lập-tức sai chém hai người ấy, và phạt tội bọn kia phải đánh và đày đi châu khác (TB 291/7b).
Các viên-chức ở Quảng-nguyên lần-lần ốm chết. Từ ngày mồng một tháng ba năm Mậu-ngọ (1078), Đào Bật đã cáo ốm, và xin đổi, hay về hưu nếu không có chỗ để đổi đi. Vua Tống sai Tiết khám thật, và bảo chọn người khỏe mạnh thay-thế, để Bật về nghỉ ở Quế-châu (TB 288/7b). Bật được đổi và thăng chức, nhưng ốm chết vào tháng mười một năm ấy (TB 291/3b).
Vua Tống hỏi ý-kiến Triệu Tiết, thì Tiết khuyên giữ lấy Quảng-nguyên và Tư-lang (1-8, TCK, xem TB 300/12b)
Triều-đình cho đất Thuận-châu là vô-dụng. Vua Tống bất-đắc-dĩ phải trả lời sẽ trả cho vua Lý. Nhưng, hoặc muốn giữ thể-diện, hoặc để khỏi bị chỉ-trích, hoặc vẫn muốn theo lời Tiết, Tống Thần-tông đòi ta trả trước các tù-binh và nhân-khẩu đã bị bắt. Tống-sử còn chép lời chiếu trả lời cho Lý Nhân-tông như sau :
” Khanh đã được triều-đình cho coi cõi Nam-giao, đời đời được ban vương-tước. Thế mà, Khanh đã bội đức, phụ mệnh, tới cướp phá các biên-thành ; đã bỏ lòng trung-thuận của cha ông, làm phiền quân triều-đình phải đi chinh-phạt. Đến lúc quan-quân vào rong cõi, thế bức rồi Khanh mới qui-hàng. Xét tội, thì Khanh càng đáng bị truất chức.
” Nay Khanh đã sai sứ tới cống ; dâng lời rất kính-cần. Xét rõ tư-tình. Trẫm thấy Khanh đã biết hối.
” Trẫm vỗ-về vạn-quốc, không kể xa gần. Nhưng Khanh phải trả các dân Khâm, Ung mà Khanh đã bắt đưa đi xa làng-mạc chúng. Đợi khi nào Khanh đưa chúng trở về hết, Trẫm sẽ lập-tức lấy các châu Quảng-nguyên ban cho Khanh “. (TS 488)
Đào Tông-Nguyên đệ lời vua Lý, hẹn sẽ trả một nghìn quan-lại bắt ở ba châu Khâm, Liêm, Ung (TS 488). Tống Thần-tông lại đặt ra một điều-kiện mới, là phải phạt những kẻ cầm-đầu gây việc chiến-tranh. Sách TB (292/4a) chép rằng ngày 12 tháng 9, Tống Thần-tông hạ chiếu nói :
” Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-Đức bằng lòng trả những người đã cướp ở ba châu Ung, Khâm, Liêm, thì theo lời Khanh đã xin, lấy các châu Quảng-nguyên, Tô-mậu và huyện Quang-lang trả lại cho. Nhưng phải đem các thủ-lĩnh đã gây loạn đến biên-giới xử ? ” (Q. Vi, DL 1-10-1078).
Thế là Tống đòi Lý xử ” tội-nhân chiến-tranh “. Mà tộ-nhân ấy chính là ám-chỉ Lý Thường-Kiệt ! Vua Lý trả lời rất tường-tận. Đó là theo chú-thích ở sách TB (292/4a), nhưng sách ấy nói : bản Thục-lực cựu-kỷ (4) chép lời đáp rất rõ, bản tân-kỷ bỏ đi. Nay sách ấy không chép lại. Ta rất tiếc không được biết lời-lẽ thư trả lời ấy. Nhưng ta cũng đoán được rằng Lý không nhận đem xử thủ-lĩnh gây loạn. Mà vì thế, phái-bộ Đào Tông-Nguyên lần này không đem lại được một kết-quả thực-tế gì về việc đòi đất Quảng-nguyên, ngoài lời hứa của hai bên.
4.- Tống trả nhượng-địa
Tuy Tống lấy giọng bề trên đối với vua Lý, nhưng bề trong, Tống vẫn sợ ta uy-hiếp biên-thùy. Đối với sứ-bộ Đào Tông-Nguyên, Tống tiếp-đãi rất tử-tế. Bấy giờ sứ Chiêm-thành cũng vừa đến, đưa voi từ Quảng-châu tới cống (tới Quảng-châu từ tháng chạp năm trước. TB 286/1a). Sứ Chiêm sợ gặp mặt sứ ta. Vua Tống tỏ vẻ lúng túng, vì biết rằng ta tự coi Chiêm-thành như phụ-thuộc trực-tiếp nước ta. Bèn sai xếp-đặt làm sao cho hai sứ-bộ không chạm mặt nhau, và để tỏ rõ rằng Tống ưu-đãi sứ ta hơn sứ Chiêm. Vua Tống dặn các viên đón-tiếp rằng : ” Nhà ở, nơi ăn yến, đều để riêng. Gặp ngày sóc, thì hai phái-bộ đều đến điện Văn-đức, nhưng chia ra đông-tây mà đứng. Ngày vọng thì phái-bộ Giao-chỉ vào điện Thùy-củng, phái-bộ Chiêm-thành vào điện Tử-thần. Ngủ và đãi yến thì sứ Giao ở điện Đông-đoá, sứ Chiêm ở Tây-vu “. (TB 292/7a)
Tống Thần-tông bấy giờ lo việc biên-thùy miền bắc hơn miền nam. Tháng 8 năm ấy (M. Ng 1078), đổi Triệu Tiết đi coi Thái-nguyên, và bổ Tăng Bố thay. Nhưng viện khu-mật xin lưu Tiết coi ti an-phủ, tuy rằng Bố đã đến Quế-châu (12-9, TB 292/4a).
Trong khi ấy, nội-tình ở Quảng-nguyên, cũng như ở các biên-trại, vẫn khó-khăn và bối-rối. Đào Bật ốm nặng. Ngày 28 tháng 10, phải sai Trương Chi-Gián thay coi Thuận-châu. Bật không về kịp, tháng sau thì mất. (TB 292/12a).
Ung-châu bị tật-dịch, hỏa-tai luôn luôn. Người đương-thời hay tin những điềm gở. Khi tấy một tượng Phật ở Ung-châu tự-nhiên động, dân-gian lo-sợ ; vì trước quân Lý vào đánh Ung-châu cũng đã có điềm ấy. Vua Tống sai lập thủy-lục đạo-tràng để cầu phúc cho những oan-hồn tử-sĩ, và giao cho Tăng Bố bàn có nên dời thành Ung hay không (TB 392/7a). Mà điềm xấu không phải ngoa. Các doanh-đồn, kho, trại ở Ung, Liêm, Vĩnh-bình, Thái-bình bị cháy. Rất nhiều lương-thực, khí-giới bị thiêu-hủy (TB 293/9a). Phải chăng chỉ là sự tình-cờ ?
Một mặt khác, thấy Tống lần nữa không muốn trả Quảng-nguyên, Lý Thường-Kiệt xui dân châu cướp phá. Ngày 21 tháng tư năm Kỷ-mùi 1079, ti kinh-lược Quảng-tây tâu : ” Dân Man cướp Thuận-châu. Xin đưa quân dẹp. Vua Tống phê : ” Có thể đưa cả đạo quân đoàn-kết ở Đàm-châu đến Quế-châu, tạm đóng để trấn-tĩnh lòng dân ở Lưỡng-Quảng, cho chúng khỏi khiếp-sợ. Đợi lúc biên-sự yên, quân ấy sẽ trở về chỗ cũ “. (TB 297/15b)
Cầm đầu quân giải-phóng ấy có Nùng Trí-Xuân coi động Cung-khuyết. Trí-Xuân có lẽ là dòng Trí-Cao, vốn đã theo Tống, và được ban chức nội-điện sùng-ban. Bấy giờ, Trí-Xuân thông với họ Ma coi vùng Bắc-cạn ngày nay. Ma Thuận-Phúc coi động Vũ-lăng (đất Bắc-cạn) và Hoàng Phu họp quân cùng Nùng Trí-Xuân, đánh Thuận-châu (TB 298/13a ; TB 300/6b chép Ma Trọng-Phúc). Các tù-trường trung-thành với Tống chống lại, trong bọn ấy, có Linh Sùng-Khái (5) coi châu Cát-lộng (Có lẽ cũng là đất Cổ lộng ở phía bắc vùng Ngân-sơn phía nam Cao-bằng, X/7). Nùng Trí-Hội coi châu Qui-hóa cũng đem 2.000 quân tới cứu Thuận-châu (TB 298/4b).
Trí-Xuân thua. Chạy xuống miền nam cầu-viện với vua Lý. Lúc trở lại thì bị viên coi Đống-châu là Hoàng An-Cao giết. Vợ con và đồ-đảng cũng bị bắt (TB 298/13a tháng 6). Ba tháng sau, Ma Thuận-Phúc và Hoàng Phu cũng bị bắt và đày đi xa (TB 300/6b). Lý Thường-Kiệt hình như cũng không muốn gây việc chiến-tranh to. Cho nên việc khởi-nghĩa ở Quảng-nguyên cũng tạm bỏ.
Nhưng các quan Tống ở Quảng-nguyên lần-lượt chết bệnh. Vua Tống thương-xót, truy-ân cho viên quyền-phát Vương Cảnh-Nhân, viên đô-giám Trương Cát, viên đô-giám Dương Nguyên-Khanh, viên tuần-phán Lưu Tử-Dân (tháng 10, TB 300/9b và 12 a), viên kiềm-hạt Trương Thuật và viên đồng-tuần-kiểm Ngô Hạo (tháng 11, TB 301/4b và 5a). Các người ấy đều chết bệnh sốt-rét ở Quảng-nguyên.)
Lính thú thì mỗi năm cắt tới ba nghìn, mà chết năm sáu phần. Đó là lời của Triệu Tiết nói (TL, TB 300/12b). Vua Tống phải đặt lệ ban tiền tuất cho con cháu những tử-sĩ một cách rất hậu (TB 301/7b).
Cuối cùng, Triệu Tiết cũng nhận rằng không thể giữ được châu Quảng-nguyên. Nhưng trong triều còn có kẻ luyến tiếc. Vua Tống nói : ” Vì Càn-đức đã phạm-thuận, ta mới sai quân đi hỏi tội. Quách Quì đã không đánh lấy được kinh-đô nó. Mà nay, Thuận-châu là đất lam-chướng. Triều-đình được đất ấy cũng chưa có lợi. Lẽ nào lại còn tự mình xua thú-binh vào nơi nước độc. Một người bị chết, Trẫm còn thương-xót, huống chi trong mười người chết mất năm, sáu. ” (TCL, xem TB 300/12b). Miêu Thì-Trung cũng bàn nên bỏ, nhưng không muốn chính-thức trả lại cho vua Lý. Y nói : ” Các đồn-trại thuộc Thuận-châu ở sâu trong đất giặc. Chở lương vào đó rất khó. Thú-binh đóng đó. Mười người chết tám chín. Vậy ta nên bỏ đi. Nhưng mà Thuận-châu vốn là đất cơ-mi của châu Ung, chứ không phải thuộc Giao-chỉ “. (TB 300/12b)
Vua tôi nhất-định trả đất Quảng-nguyên. Chỉ còn chờ cơ-hội có thể trả mà không mất thể-diện mà thôi.
Cơ-hội ấy sắp đến. Không lấy sự Tống yêu-sách xử tội mình làm giận, Lý Thường-Kiệt sai đem trả một ít tù-nhân, gồm đủ gái trai già trẻ.
Các tù-nhân ấy được đưa từ Ngệ-an về bằng đường thủy. Cửa thuyền đều bị trát bùn kín. Trong thuyền thắp đèn đuốc luôn, để tù-nhân không biết ngày đêm thế nào, và cũng không thấy đường-sá. Mỗi ngày chỉ cho thuyền đi chừng mười đến hai mươi dặm rồi bắt đậu lại. Quân lính canh thuyền giả đánh trống cầm canh. Ngồi trong thuyền nghe canh, tưởng chừng đi trong vài tháng mới tới nơi. (TS 488).
Ngày 13 tháng 10 năm ấy (K. Mu 1079), ti kinh-lược Quảng-tây tâu nói Giao-chỉ đã đưa trả 221 người dân đã cướp (TS 488 và TB 300/12a chép số ấy, còn TB 349/7a chép 206 người). Tuy Lý trả không đủ số một nghìn quan-lại đã hẹn, và tuy đã khắc chữ vào mặt và tay tù-nhân (VII/9). Tống Thần-tông cũng vin vào cơ-hội, mà phán rằng : ” Hãy nhận tù-nhân ; và bỏ Thuận-châu, lấy ban cho Giao-chỉ. ” (13-10, M. Ta, DL 9-11-1079 ; TB 333/12a). Tuy lời chiếu chỉ nói đến đất Thuận-châu, nhưng kỳ-thật thì Tống trả tất cả bốn châu, một huyện mà quân Quách Quì đã chiếm : Quảng-nguyên, Tư-lang, Môn, Tô-mậu và Quang-lang. (TS 488)
Tuy vậy, quan Tống đã đề-phòng sự trả đất nầy, cho nên trước đó đã bớt lại những châu, động, nguyên thuộc Ung-châu mà sau sáp-nhập vào Thuận-châu. Sáu tháng trước, ti kinh-lược Quảng-tây nói : ” Những động như Cống thuộc châu Thuận-an, trước là thuộc Ung-châu. Sau khi lấy được Quảng-nguyên, mới nhập vào đó. Vậy xin đem nhập lại Ung-châu. ” Vua Tống bằng lòng (TB 297/15a). Tống trả đất, nhưng đã di-dân vào đất Tống. Một năm sau khi có chiếu trả Thuận-châu, viên coi Ung-châu là Lưu Sơ tâu : ” Đã dời 9.929 người đã theo ta vào ở các động gần trong, để dễ đàn-áp. Dân dời tới Tả-giang thì giao cho các viên tuần-kiểm Nùng Bảo-Phúc và viên coi Giang-châu Hoàng Thiên-Hưng quản. Dân dời vào Hữu-giang thì giao cho các viên coi Điền-châu Hoàng Tiên-Sảnh, viên coi Đống-châu Hoàng An-Định quan-sát. ” Vua Tống bằng lòng. (22-10-C. Ta 1080, TB 309/14a)
5.- Dư-luận
Đến đây, là chấm dứt cái chính-sách của Tống muốn chinh-phục nước Đại-Việt. Nào hai bên huy-động quân, dân, hàng chục vạn, nào biện-luận trong gần bốn năm ; kết-quả là biên-thùy lại trở lại như trước năm Ất-mão 1075. Thế mà Tống đã thiệt hơn hai chục vạn người.
Đối với nước ta tuy có thể nói không được thua gì. Nhưng thật ra, nếu ta để Tống tấn-công trước, chưa chắc quân ta đã bảo-toàn lãnh-thổ được. Vậy cho nên chánh-sách ngoại-giao của Lý gồm ba thời kỳ, là tấn-công, cầm-cự để đến đình-chiến và điều-đình, có lẽ là con đường độc-nhất mà một nước nhỏ phải làm, để đối-phó với một nước lớn, lăm-le muốn nuốt mình.
Xét lại, cuộc tấn-công của Lý Thường-Kiệt không những là táo-bạo, mà ta có thể nghĩ đó là vong-mạng, dễ-dàng đem lại những ảnh-hưởng tai-hại vô-cùng cho nước ta. Nhưng sự hành-động của ông đã thành-công. Ấy vì ông đã quan-sát tường-tận tình-hình, quyết-định rõ-ràng kế-hoạch. Khiến nên, trong lịch-sử nước ta, có một vũ-công phi-thường, để dấu chân người Đại-Việt lên đất xưa vua Triệu. Đời sau, không có khi nào người nước ta có nhịp diễn lại một cuộc tranh-hùng như vậy, tuy rằng hình như Nguyễn Huệ có lúc muốn theo gương Lý Thường-Kiệt, nhưng vì chết yểu nên sự không thành.
Không biết câu ca-dao:
Nực cười châu-chấu đấu xe.
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng !
sinh ra đời nào. Nhưng nó có thể tóm-tắt, như hoạt-họa, khoảng lịch-sử oanh-liệt này của nước ta. Tuy về vật-chất, sự thắng-lợi của chính-sách Lý Thường-Kiệt chỉ có tính-cách tiêu-cực, nhưng về tinh-thần, thì trái lại, nó đã làm tăng thanh-thế nước ta lên nhiều, buộc Chiêm phải sợ và Tống phải nể.
Đối với Tống, sự thất-bại trong chính-sách nam-thùy có ảnh-hưởng rất lớn. Như ta đã thấy, ảnh-hưởng đầu tiên là cuộc tấn-công của Lý Thường-Kiệt làm cho kẻ chủ-mưu Vương An-Thạch bị đổ và kéo đổ theo cả một công-cuộc cách-mạng về tư-tưởng, chính-trị, tài-chính và kinh-tế của hoàn-cầu. Ảnh-hưởng thứ hai là người nối An-Thạch, là Ngô Sung, cũng vì thất-bại trong cuộc tấn-công ta, nên cũng bị gièm-pha và đổ.
Phê-bình chung về chánh-sách Tống ở nam-thùy, đã có lời Ngụy Thái, em vợ Tăng Bố, trong sách Đông-hiên bút lục. Thái viết : “Từ khi bọn Tiêu Chú đến kinh-lược Quảng-tây, hoặc nói dối-giá để lừa trên dưới, hoặc không phòng-ngữ dân ngoài, để đến nỗi bốn đồn-trại bị hãm. Quách Quì lại do-dự. Đến nỗi cũng không giữ nốt được Quảng-nguyên, cuối cùng phải bỏ đi. Dân bị bắt, thì mười phần chỉ thả được có một. Thế mà triều-đình tốn hàng vạn. Dân Lưỡng-Quảng từ đó phải khốn-đốn “. (ĐHBL 8)
Những kẻ chỉ có óc trào-phúng, không nghĩ rằng Tống Thần-tông phải trả đất Quảng-nguyên là không giữ nổi. Chúng chế-nhạo vua Tống bằng hai câu thơ (TT 1084) :
Nhân tham Giao-chỉ tượng,
Khước thất Quảng-nguyên kim.
Nghĩa là : “Vì tham voi Giao-chỉ, nên mất vàng Quảng-nguyên “. (6)
6.- Bang-giao thân-thiện (1079-1082)
Trả xong các đất Quảng-nguyên, Tống coi như đã trút được một gánh nặng trên vai. Vua Tống lấy làm đắc chí, thăng hàm cho viên coi Quế Châu là Tăng Bố. “Vì đã xếp-đặt việc Giao-chỉ xong-xuôi, nên Bố được suy ân ” (8-11-K. Vi 1079, TB 301/5a). Nhưng ai cũng nhận thấy rằng cuộc chinh-nam đã làm tổn-hại binh-lực và thanh-danh Tống, mà không đem lại được một lợi-điểm nào. Triều-thần đều đổ lỗi cho Ngô Sung đã kiềm-hãm Quách Quì không để Quì tiến binh mau-chóng. Vì vậy Ngô Sung bị bãi chức tể-tướng (tháng 3, TB 303/1a), rồi chẳng bao lâu thì mất (tháng 4).
Đối với ta, vua Tống tỏ vẻ kính-nể. Tháng 9 nhuận năm ấy (1080), tăng thêm thực-ấp cho vua Lý (TB 309/2a). Ở nước ta, triều-đình rất vui-vẻ. Sử, như VSL, toàn chép những sự tốt lành trong mấy năm liền. Năm Kỷ-mùi 1079, được mùa to. Lạng-châu hiến voi trắng, công-chúa Thiên-Thành là vợ Thân Cảnh-Long, hiến rùa sáu mắt ba chân; “rồng vàng” hiện luôn luôn. Năm Canh-thân 1080, đúc chuông chùa Diên-hữu, (tức là chùa Một-cột). Sương cam lộ xuống. Vua đi xem đánh cá ở Cùng-giang, xem đua thuyền ở điện Linh-quang, đi xem gặt ở Lị-nhân, đặt lễ ban yến mùa thu. Người Tàu dâng cây tử-chi. Năm Tân-dậu 1081, ngày xuân, mặt trời có hai quầng. Sứ Chiêm-thành tới cống. Chỉ cómột điều làm bớt vui, là Lý Đạo-Thành mất vào tháng mười năm ấy (TT).
Đối với Tống, vua Lý vẫn tiếp-tục giao hiếu. Giữa năm Tân-dậu 1081, một phái-bộ được sai sang Tống, vừa để cống phương-vật (TB), vừa để xin kinh Đại-tạng (VSL). Phái-bộ nầy quan-trọng hơn thường, gồm đến 156 nhân-viên, và có Lương Dụng-Luật và Nguyễn Văn-Bội (7) cầm đầu. Sợ quan địa-phương Tống làm khó dễ như trước, Lý Nhân-tông gửi biểu nói :
“Trước đây, tôi có sai bọn Đào Tông-Nguyên vào triều cống. Nhưng bị quan Quảng-châu cấm-chế, ngăn-cản, nên các thú-vật đem cống không cùng tới một lần được (XII/3). Nay tôi lại sai viên Lương Dũng-Luật, và viên trước tác-lang Nguyễn Văn-Bội đi thuyền tới cống. Xin giáng chỉ cho phép theo lệ cũ mà vào kinh. “
Vua Tống bảo viên quan coi Quảng-châu không được ngăn-cản, phải theo lệ cũ mà nhận sứ. Và dặn phải sai một viên nhập-nội-sứ-thần hộ-tống tới kinh (27-6, TB 313/11b). Viên chuyển vận-sứ Quảng-đông nói sứ ta xin đi đường Kinh-hồ. Vua Tống trả lời : “Nếu người Giao muốn đi đường thủy, thì ti kinh-lược Quảng-tây cứ theo đường cũ mà dẫn, chớ có đổi “. Tháng 7, TB 314/11a). Thế mà, viên kinh-lược Quảng-tây bấy giờ, là Trương Hiệt (thay Tăng Bố từ tháng 9 nhuận năm trước), nói : “Giao-chỉ vào cống có 156 người. Đối với lệ cũ thì thừa ra 56 người”. Tống Thần-tông phê : “Ai đã đến đó thì cứ cho vào kinh. Về sau sẽ theo lệ cũ” (Tháng 8, TB 315/11b).
Tống hết sức làm vừa lòng vua Lý. Thấy sự giao-tiếp các công-văn với nước ta phiền-phức, vua Tống hạ chiếu cho ti kinh-lược Quảng-tây, nói rằng : “Từ nay hễ có chiếu ban cho An-nam, thì sai Khâm-châu báo tin cho đạo ấy. Đợi nó sai người đến biên-giới nghinh tiếp, rồi giao cho” (Tháng 12, TB 321/10a)
Dọc biên thùy, Tống tổ-chức lại để cho sự giao-dịch trở lại bình-thường. Từ tháng 5 năm Kỉ-mùi 1079, viên kinh-lược Quảng-tây, là Tăng Bố, đã sai các châu Khâm và Liêm lập lại các trạm, các bến-đò, để người nước ta sang buôn bán (TB 298/18a). Sau cuộc chiến-tranh, Ôn Cảo được bổ coi trại Hoàng-sơn. Năm 1082, có chiếu đổi Cảo coi Khâm-châu. Viên chuyển-vận phó-sứ Quảng-tây, Ngô Tiềm, sợ người nước ta oán Cảo mà sinh sự. Tiềm nói : “Gần đây sai Ôn Cảo coi Khâm-châu. Tôi trộm nghĩ rằng Giao-chỉ còn nghiến răng muốn ăn thịt Cảo. Sợ chẳng may, vì thế, chúng sẽ cướp”. Vua Tống vốn không thích Cảo (IX/6), phê : “Cảo vốn tính nhu-nhược, mà lại có hiềm-thù với Giao-chỉ. Thật không nên ở chỗ cùng-biên can-trọng. Vậy sai viên kiềm-hạt Lưu Hi kiêm coi Khâm-châu.” (TB 331/12b). Trái lại, Long Đạt, được bổ coi trại Vĩnh-bình, không chịu nhận chức, vì “đã coi các trại ở Ung-châu, y từng bị Giao-chỉ giết chết mẹ, vợ, con và em, nay không muốn gặp mặt chúng”. Vua Tống cũng bằng lòng (TB 334/15b).
Xem các việc trên, ta thấy rằng vua Tống tránh những việc tuy rất nhỏ, nhưng có thể gây sự với nước ta.
7.- Đòi Vật-ác, Vật-dương. Lại Đào Tông-Nguyên
Sở-dĩ Tống dè-dặt với nước ta như vậy, là vì bấy giờ Tống còn phải đánh nhau với quân Hạ ở miền bắc, và vừa bị thua một trận to ở Vĩnh-lạc (Tháng 9 năm N. Tu 1082). Ở trong địa hạt Quảng-tây, cũng vừa có dân châu An-hóa nổi loạn. Các quan Tống vào dẹp, bị giết chết (Tháng 5, TB 326/20a). Loạn ấy kéo dài đến cuối năm chưa yên, làm vua Tống rất lo.
Thấy Tống lâm vào khó-khăn, và biết ý Tống Thần-tông không dám găng với nước ta, Lý Thường-Kiệt bắt đầu từ năm Nhâm-tuất 1082 trở lại chính-sách củng-cố và mở-mang bờ-cõi vào các khê-động Hữa-giang. Chính-sách dùng hôn-nhân để ràng-buộc thượng-du vẫn được tiếp-tục. Tháng hai năm ấy, vua Lý gả công-chúa Khâm-Thành cho Hà Di-Khánh châu-mục Vĩ-long, ở vùng châu Chiêm-hóa ngày nay (TT và VSL). Thường-Kiệt lại mưu sự lấy lại những đất, tuy thuộc Quảng-nguyên, nhưng đã bị các tù-trưởng đem nộp Tống trước khi có cuộc Tống Lý chiến-tranh. Trong những đất ấy, có hai động lớn, là Vật-dương và Vật-ác.
Các sử-sách Tống và Việt đều có chép hai tên đất ấy, nhưng không chỉ rõ ở vùng nào. Nay góp-lặt những tham-khảo rời-rạc, ta có thể nhận ra rằng hai động ấy ở phía tây-bắc Cao-bằng ngày nay.
Từ đời Đường, các động ấy đều thuộc châu Quảng-nguyên, bởi họ Nùng cai-quản.
Hai tên Vật-dương và Vật-ác thấy chép ở sử ta vào đời Nùng Trí-Cao. Ta đã thấy rằng (IV/3) Trí-Cao được vua Lý Thái-tông tha chết và cấp cho đất Quảng-nguyên và đất lân-cận như Lôi-hỏa, Bình, Tân (8), Bà, Tư-lang (1041). Bảy năm sau, Trí-Cao làm loạn, chiếm đất Vật-ác (TT và VSL, 1048). Bị quân Lý đánh, Trí-Cao chạy vào đất Tống, chiếm đất châu An-đức (TS 495 và TB 167/8a). Năm 1050, Trí-Cao lấy động Vật-dương, thuộc châu An-đức, lập nước Nam-thiên và lấy hiệu Cảnh-thụy (VSL) (9). Theo đó, ta biết rằng hai động kia ở trung-gian Cao-bằng và An-đức ngày nay.
Sau khi Trí-Cao mất, Nùng Tông-Đán coi đất Vật-ác. Theo lời viên kinh-lược Quảng-tây Hùng Bản tâu năm 1084 thì trong đời Gia-hữu (1057), Tông-Đán đem động Vật-ác nộp cho Tống, cùng các động khác là Lôi-hỏa, Kế-thành và Ôn-nhuận, rồi Tống đổi tên Vật-ác ra châu Thuận-an (TB 394/7b và V/8). Ta còn nhớ rằng bấy giờ, vua Lý Thái-tông đòi Tống giả người và đất. Vua Tống Anh-tông không chịu trả tụi Tông-Đán, nhưng chịu trả hai châu, và sai Tông-Đán coi châu Thuận-an mới lập.
Nói tóm lại, Lý mất động Vật-ác vào năm 1057, bởi vì Nùng Tông-Đán đem nộp cho Tống; Tống gọi đất ấy là châu Thuận-an.
Ta cũng đã thấy rằng cha con Nùng Tông-Đán theo Tống, nhưng vẫn là mối lo cho Tống. Phải đợi năm 1064, Tống-Đán mới vào ở Đất Tống. Năm ấy viên coi Quế-châu, Lục Sằn, tới vùng Hữu-giang dụ các khê-động. Không những tụi Tông-Đán theo, mà còn có tụi Nùng Trí-Hội cũng theo. Trí-Hội là dòng dõi Nùng Dân-Phú, tri-châu Quảng-nguyên đời Nam-Hán (IV/3). Đó là theo lời Lưu Sơ coi Ung-châu (TB 349/7a). Lại theo lời Hùng Bản, trong đời Trị-bình (1064), Nùng Trí-Hội đem động Vật-dương theo Tống, được vua Tống đổi tên cho động ấy ra châu Qui-hóa (TB 349/7b). Trí-Hội rất trung-thành với Tống. Năm 1073, Ôn Cảo giúp việc ti kinh-lược Quảng-tây có tâu xin tăng hàm cho. Cảo nói : “Đã có chiếu bổ tụi Nùng Tôn-Đán và Nùng Trí-Hội làm tướng quân. Nhưng man-di không biết chức ấy là gì, chúng muốn xin một chức ở hàng cao, như phó-sứ. ” Tống Thần-tông ban cho chúng hàm cung-bị-khố phó-sứ, Tông-Đán làm đô-giám Quế-châu và Trí-Hội coi châu Qui-hóa (TB 244/3b).
Ta cũng đã thấy rằng Trí-Hội chặn đường từ Quảng-nguyên đi Đặc-ma, cản-trở việc Lưu Kỷ đi mua ngựa ở đó. Cho nên tháng tư nhuận Ất-mão 1075, Lưu Kỷ đã đem quân đánh châu Qui-hóa (VII/3). Tống giúp Trí-Hội chống Lưu Kỷ, nên Trí-Hội giữ vững châu mình. Sau lại được phong chức văn-tư phó-sứ (TB 298/4b). Năm 1079, Nùng Trí-Xuân cùng Ma Thuận-Phúc họp nhau đánh quân Tống coi Quảng-nguyên, Trí-Hội lại mang quân tới cứu quan Tống (XII/4). Vua Tống bèn ban thưởngvà thăng lên chức cung-uyển phó-sứ, và cấp cho toàn bổng, vì “Trí-Hội tuổi già và đã có công” (TB 302/8a). Xem vậy, ta thấy rằng từ khi hàng Tống vào năm 1064, Trí-Hội vẫn trung-thàng với Tống. Châu Qui-hoá, mà y vẫn quản-lĩnh, là đất cũ Vật-dương của Lý. Trong khoảng mười sáu năm, Lý chưa có dịp nào để đòi lại đất ấy.
Đất Qui-hóa ở đâu ? Theo lời viên coi Ung-châu, là Lưu Sơ, thì khi Lưu Kỷ nộp đất Quảng-nguyên cho Tống (1076-1077), “triều-đình lấy châu Thông-nông cho Trí-Hội” (TB 349/7a). Như vậy nghĩa là vua Tống lấy đất Thông-nông thuộc Quảng-nguyên thưởng cho Trí-Hội, để thêm vào đất Qui-hóa của y đã có. Sử Lý cũng có chép tên đất Thông-nông ấy vào đời Lý Anh-tông (Dương Tự-Minh đánh Đàm Hữu-Lạng ở đó vào năm 1145, TT), và nói rõ rằng châu ấy thuộc Quảng-nguyên. Nay ở làng Xuân-lĩnh, gần Nước-hai (Cao-bằng), còn có đền Quan-triều thờ Dương Tự-Minh, và ở phía tây tỉnh Cao-bằng, còn có làng và tổng Thông-nông. Vả chăng viên coi Quế-châu, là Hùng Bản, có nói : “Các châu Qui-hóa, Thuận-an là đất cổ-họng của Hữu-giang, chế-ngự các đường trọng-yếu đi các nước Giao-chỉ, Đại-lý, Cửu-đạo-bạch-y”. Xét các chứng trên, ta có thể nhận rằng động Vật-dương hay châu Qui-hóa ở phía bắc tổng Thông-nông ngày nay, tức là ở vào địa-phận châu Qui-thuận và Trấn-an, kề phía bắc các địa phận Sóc-giang và Bảo-lạc ở địa-đồ của sở họa-đồ Đông-dương.
Còn đất Vật-ác hay châu Thuận-an cũng kề đất Vật-dương, kề đất An-đức và đất Lôi-hỏa. Nay tên An-đức hãy còn trong hạt châu Qui-thuận của Trung-quốc. Tên châu Lôi-hỏa không còn. Nhưng còn có Hóa-động ở trên đường quan-lộ nối phủ Trùng-khánh thuộc Cao-bằng với châu Qui-thuận. Vả các sách Tống có chép tên động Lôi-hóa làm Hỏa-động (TB 185/8b). Hỏa-động gần Hồ-nhuận cũng như Hóa-động gần Ôn-nhuận. Ta có thể đoán rằng Hóa-động ngày nay là Hỏa-động hay Lôi-hỏa đời Lý, vào đất Vật-ác hay châu Thuận-an ở khoảng giữa Hóa-động và An-đức ngày nay.
Nói tóm lại, động Vật-dương là đất Nùng Trí-Hội nộp Tống vào năm 1064 và được Tống đổi tên ra Qui-hóa ; động Vật-ác là đất Nùng Tông-Đán nộp Tống từ năm 1057 và được Tống đổi ra châu Thuận-an. Hai động này ở phía bắc biên-thùy huyện Thạch-lâm tức là phần tây-bắc Cao-bằng, và thuộc các châu Trấn-an và Qui-thuận của Trung-quốc. Phải chăng tên Qui-thuận là lấy hai chữ đầu hai châu Qui-hoá, Thuận-an mà đặt ra ?
Tháng 6 năm Nhâm-tuất 1082, vua Lý sai một phái- bộ đem 50 sừng tê và 50 ngà voi sang cống vua Tống. Đó là theo TB (327/15b). Sách ấy có chú-thích rằng : ” TL tân-kỷ chép rằng ngày Nhâm-thân 22 tháng 6, Giao-chỉ cống hai con tê nuôi, nhưng Cựu-kỷ không chép.” Nay Tống-sử (TS 16) cũng chép như Tân-kỷ. Vừa năm trước đã có cống-bộ Lương Dũng-Luật tới Biện-kinh. Vậy cống-bộ năm nay không phải là theo thường-lệ. Hình như cũng không có sứ-giả tới kinh. Mục-đích lần nầy là để đòi dân Quảng-nguyên mà Tống đã đem vào ở trong đất Tống. Lời biểu của Lý nói (TB327/15b) :
“Thủ-lĩnh động Cát-đán thuộc Quảng-nguyên, là Nùng Dũng, cùng dân động đã làm loạn và chạy vào Ung-châu. Tôi đã viết thư nhiều lần vào đòi. Nhưng Ung-châu không chịu trả.”
Vua Tống trả lời : “Tụi Nùng Dũng nguyên không phải Giao-chỉ quản. Chúng theo ta khi Giao-chỉ chưa hàng. Vậy chúng là dân ta. Không lẽ gì ta trả chúng.”
Theo lời Tống, ta hiểu rằng bọn nầy theo Tống khi quân Yên Đạt đánh Quảng-nguyên. Trước lúc trả Quảng-nguyên, Tống đem dân châu ấy vào ở Tả-giang và Hữu-giang, như ta đã thấy (XII/4). Chắc bọn Nùng Dũng ở trong đám dân ấy. Nhưng không hiểu vì sao Lý chỉ đòi dân động Cát-đán mà thôi. Có lẽ Cát-đán là Cốc-đán (Cát và Cốc đồng một nghĩa là tốt, như trong quán-thoại cát-nhật hay cốc-nhật), ngày nay ở góc tây-nam Cao-bằng. Cát-đán ở phía nam Thông-nông mà Nùng Trí-Hội còn chiếm.
YÙ Thường-Kiệtlà khôi-phục lại các đất mà Trí-Hội còn giữ. Thái-độ Lý coi chừng đã găng. Ti an-phủ Quảng-tây đòi trả thêm các quan-lại và đàn bà bắt ở ba châu Ung, Khâm, Liêm. Sứ ta trả lời không có nữa (TB 349/7a). Viên chuyển-vận phó-sứ Quảng-tây, Ngô Tiềm, nói : “Gần đây, nghe nói Giao-chỉ nhiều lần vào đòi dân Hữu-giang. Tôi đã cùng bàn chuyện với những người am-hiểu việc Giao-chỉ, và thử đoán ý chúng. Ai cũng đều nói rằng trong dăm ba năm nữa, chúng sẽ tới cướp. Vậy xin huấn-luyện thổ-đinh ở Quảng-tây để phòng-bị.” (22-6, TB 327/26a)
Tin nầy và tin dân An-hóa ở Nghi-châu nổi loạn làm cho vua Tống lấy làm lo. Tuy Hùng Bản đã có lệnh triệu về kinh, bấy giờ cũng phải trở lại coi Quế-châu thay Trương Hiệt (8-7 năm N. Tu 1082, TB 328/4b). Ngô Tiềm lại xin đem 500 quân kỵ ở Thiểm-tây xuống đóng ở Quế-châu (2-8, TB 329/1b).
Ngô Tiềm lo, không phải là không đúng. Tháng 9 năm ấy, Lý Thường-Kiệt sai châu-mục châu Thượng-nguyên, là Dương Thọ-Văn (vùng Bắc-cạn), đem quân đánh Nùng Trí-Hội ở châu Qui-hóa, và toan đánh vào châu Thuận-an (TB 349/7a). Nùng Trí-Hội thua chạy vào Hữu-giang cầu cứu (346/4b). Hùng Bản tâu về triều nói : “Đời Gia-hữu, Nùng Tông-Đán đem các động Vật-ác nộp, vua ban tên Thuận-an. Đời Trị-bình, Nùng Trí-Hội đem động Vật-dương nộp, vua ban tên châu Qui-hóa. Nay các châu động họ Nùng cai quản, vốn không phải thuộc xứ Nam-bình (Giao-chỉ). Mà các châu Qui-hóa là đất chẹn cổ-họng của Hữu-giang; chế-ngự các đường quan-yếu đi Giao-chỉ, Đại-lý, Cửu-đạo-bạch-y. Vậy xin hạ chiếu cho Giao-chỉ, hỏi vì sao đã xâm-phạm châu Qui-hóa, và bảo trả lại tất cả các sinh-khẩu mà chúng đã cướp. Như thế mới dứt được lòng ác của chúng, khi nó chưa sinh.” (TB 349/7b)
Trong lúc ấy, ở triều Lý, vua Lý đã trưởng-thành và tự cầm quyền. Vua lập một quân ở Thanh-hóa, giao cho Lý Thường-Kiệt (XIII/2). Có lẽ vì lý-do đó, thái-độ của Lý bấy-giờ không cương-quyết như trước nữa.
Hùng Bản sai sứ mang thư trách vua Lý. “Lý Càn-đức tạ-tội, bèn rút quân về”, nhưng vẫn xin Tống trả đất Vật-dương, Vật-ác.
Bản là một nho-thần, xuất thân tiến-sĩ. Tính điềm-tĩnh, đến đâu cũng không hay sinh sự. Thường dùng chính-sách ôn-hòa đối-đãi với dân. Nhờ thế, mà loạn An-hóa không lan rộng. Nay thấy nước ta găng, Bản tuy viết thư trách, nhưng xin Tống Thần-tông trả cho Lý tám động đất hoang (TB 346/4b), rồi hẹn với vua Lý phái người tới Vĩnh-bình bàn cương-sự.
Tháng 6 năm Quí-hợi 1083, Hùng Bản phái viên đô-tuần-kiểm Tả-giang là Thành Trạc và viên coi lò vàng Điền-nại là Đặng Khuyết đến Vĩnh-bình (TB 335/13a, TB 349/6a chép Đặng Tịch). Vua Lý phái Đào Tông-Nguyên đến bàn-nghị.
Sứ ta muốn đòi lại hai châu Vật-dương và Vật-ác, mà Tống chỉ muốn trả một dải đất ở phía nam dãy núi Hỏa-diễm mà thôi. Đào Tông-Nguyên vẫn giữ thái-độ găng. Cuối cùng Tông-Ngyên đề-nghị :
“Đất thuộc Quảng-nguyên nầy chỉ là đất nhỏ. Khó lòng mà bán chia. Tôi muốn tự làm bài tâu, để rồi triều-đình định bằng lòng hay không.” (TB 339/2a).
Ta có thể coi lời sứ ta như một tối-hậu-thư ! Tất-nhiên, Thành Trạc không bằng lòng. Đào Tông-Nguyên bỏ hội-nghị về.
Ngày mồng 2 tháng 9 (Năm Q. Ho 1083), ti kinh-lược Quảng-tây tâu lời Đào Tông-Nguyên nói với quan Tống, và báo rằng y đã về nước. Vua Tống không bằng lòng lời ấy, nhưng lại trách quan Tống; cho nên hạ chiếu nói : “Hùng Bản chỉ-huy các viên bàn cương-sự. Như có hội-nghị với Đào Tông-Nguyên, thì đưa cho nó xem rõ văn-tự của Triều-đình. Đừng có lấy lý-lẽ bắt-bẻ, thương-lượng cãi nhau, mà để chúng ra ý khinh-nhờn” (TB 339/2a).
8.- Phái-đoàn Lê Văn-Thịnh
Hội-nghị Vĩnh-bình thất-bại. Tình-thế dọc biên-thùy trở lại găng. Vua Lý lại sai tập-trung quân gần châu Qui-hóa. Ngày 25 tháng chạp năm ấy (Q. Ho 1083), ti kinh-lược Quảng-tây nói : “Châu Qui-hóa báo rằng Giao-chỉ tụ-binh, muốn trở lại lấy châu mình. Trước đây, lấy cớ đuổi bắt Nùng Trí-Hội, Giao-chỉ đã xâm châu Qui-hóa. Nay, tuy đã về giữ sào-huyệt, nhưng vẫn có ý dòm-ngó. Nay Trí-Hội lại nói rằng nếu Giao-chỉ tới thì khó lòng ngăn, và chúng sẽ lập-tức vào đất ta. Trí-Hội đã không hay kiên-quyết chống Giao-chỉ; nếu nay để nó ở đó, thì không tránh khỏi sự Giao-chỉ cướp đất ta”. Vua Tống hạ chiếu rằng : “Hùng Bản hãy hiểu-dụ rõ-ràng cho Trí-Hội, bảo nó dời nhà vào nội-địa. Rồi sai lo-liệu giữ chắc những đường ải quan-trọng ở Qui-hóa. Nếu Giao-chỉ lại kéo quân tới, tức là vô-cớ vào đất ta. Ngươi có thể viết thư hỏi tội.” (TB 341/18b)
Các viên-chức ở Quế-châu phần-nhiều lo lắng. Viên chuyển-vận phó-sứ Ngô Tiềm chỉ vì nói Giao-chỉ muốn vay gạo, mà ti đề điểm-hình-ngục cũng hặc (TB 331/10a, tháng giêng Q. Ho 1083). Viên sai-quan Hồ Cách chỉ có công cãi-cọ hăng với Đào Tông-Nguyên mà cũng được giữ lại không phải về hưu (tháng 8, TB 338/11b). Một mình viên kinh-lược Hùng Bản vẫn điềm-nhiên. Có lúc thám-tử về báo rằng : “Sang năm, Giao-chỉ sẽ vào cướp. Sứ Giao-chỉ cũng nhận là đúng “. Vua Tống hỏi ý Bản. Bản trả lời : “Sứ An-nam còn ở trên đường, không thể có chuyện ấy. Sứ-giả có mưu-trí, sao lại nói cho ta biết trước mưu mình. ” (TS 334 và TB 346/4b)
Lý cũng không muốn có ý đoạn-tuyệt sự thương-thuyết. Tháng 6 năm Giáp-tý 1084, vua Lý sai viên lang-trung binh-bộ Lê Văn-Thịnh và Nguyễn Bội (7) tới Vĩnh-bình, tiếp-tục bàn-nghị việc biên-cương mà Đào Tông-Nguyên đã bỏ dở gần một năm qua (TT và VSL). Lê Văn-Thịnh là kẻ đậu khoa nho-học đầu tiên ở nước ta (A. Ma 1075). Ông lại được vào cung dạy vua Lý Nhân-tông từ thủa bé. Chắc ông là một tay ứng-đối giỏi nhất ở triều, cho nên được chọn sung vào sứ-mệnh này.
Lúc đầu hai bên bàn-cãi gay-go. Sứ ta không chịu nghe lời Tống. Tống vẫn nghi ta muốn sinh sự. Tháng 7, khu-mật-viện nói : “Sứ Giao-chỉ còn biện-nghị cương-chí, hoàn-toàn chưa chịu nghe mệnh. Sợ rằng ở biên-thùy còn phải phòng-bị “. Vua Tống chiếu : “Hùng Bản phải lo-liệu sự phòng-ngự ở các thành, trại, dọc biên-thùy. Phải hết sức chú-ý xếp đặt Thi-hành thế nào thì tâu về ” (TB 347/15b)
Đến tháng 8, hội nghị đã có cơ thành công. Tuy Hùng Bản đã được thăng lên chức thị-lang lại-bộ từ tháng 6, nhưng còn phải đợi xong việc biện-chính địa-giới rồi mới về kinh. Bấy giờ, Bản được lệnh gọi về. Miêu Thì-Trung được bổ thay Bản. Ngày 16 tháng 8, vua Tống nói : “Cứ theo báo cáo, thì việc Giao-chỉ bàn cương-chí xem đã có cơ xong. Thì-Trung am-hiểu man-di ở phương ấy. Không nên để Thì-Trung xử việc biên-cương dưới quyền Hùng Bản. Và Bản đã có lệnh đổi; sợ không có trách-nhiệm nên không chịu làm việc ấy. Vậy giục Thì-Trung thôi đừng đợi bàn-gia, lấy ngựa trạm mà đi chóng tới nhậm-sở. ” (TB 348/6b)
Hội-nghị Vĩnh-bình lần thứ hai này ra sao ? Hai bên thỏa-thuận những điều gì ? Các sử ta nói rất đơn-sơ. Sách TT chỉ chép vẻn-vẹn rằng : “Định biên-giới. Tống lấy sáu huyện, ba động trả ta “. Sách ấy lại dẫn câu thơ người Tống cười triều-đình tham voi Giao-chỉ, mất vàng Quảng-nguyên vào đây (10). Tống-sử chép rõ hơn, nhưng cũng rất vắn-tắt. Nay góp-lặt những việc tản-mát trong TB, ta có thể kể lại việc ấy khá tường-tận như sau.
Mục-đích cuộc hội-nghị là bàn cương-giới thuộc hai đất Vật-dương và Vật-ác, hoặc theo Tống, là bàn cương-giới hai châu Qui-hóa và Thuận-an (TS 16 và TB 349/6a). Bên Tống, Thành Trạc đứng đầu phái-bộ; có lẽ vẫn có viên coi lò vàng Đặng Khuyết giúp. Bên Lý, ngoài chánh-sứ Lê Văn-Thịnh còn có Nguyễn Bồi (TB 349/8a), có lẽ là người đã đi cùng ào Tơng-Ngyên tới Biện-kinh sáu năm về trước. Hội-nghị họp trong tháng bảy năm ấy (G. Ty 1084).
Văn-Thịnh biện rõ rằng hai châu Qui-hóa và Thuận-an nguyên là đất Vật-dương và Vật-ác của nước ta, đã bị các tù-trưởng lấy trộm đem nộp Tống. Một phái-viên Tống nói : “Những đất mà quân nhà vua đã đánh lấy, thì đáng trả cho Giao-chỉ. Còn những đất, mà các người coi giữ, lại mang nộp để theo ta, thì khó mà trả lại. “
Văn-Thịnh trả lời : “Đất thì có chủ. Các viên coi giữ mang nộp và trốn đi, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không tha-thứ được, mà trộm của hay tang-trữ thì pháp-luật cũng không cho phép. Huống chi nay, chúng lại mang đất trộm dâng, để làm nhơ bẩn sổ-sách nhà Vua ! ” (TB 349/7b)
Câu trả lời ấy chắc đã làm mếch lòng người Tống. Nhưng sau nầy, vua Tống từng khen Văn-Thịnh biết khiêm-tốn. Có lẽ Thành Trạc không giám thuật lại câu trên chăng. Sách TB chép câu ấy, chỉ nói rằng có kẻ nói như trên, rồi Văn-Thịnh trả lời như vậy. YÙ TB là nói rằng câu chuyện trên do người ta mách lại, chứ không phải là câu ghi trong biên-bản. Vì Văn-Thịnh găng, cho nên mới có lệnh bảo Quảng-tây phải đề-phòng, như đã kể trên.
Sau đó, không rõ rằng có huấn-lệnh bảo Văn-Thịnh bớt găng, hay tự ông nhún-nhường chăng. Kết-quả là Thành Trạc buộc rằng Văn-Thịnh đã nói : “Tôi không giám tranh chiếm các châu động mà Nùng Trí-Hội và Nùng Tông-Đán đã nộp ” và : “Như Thành-Trạc đã bàn về các động Vật-dương và Thuận-an, định vạch cương-giới ở phía nam đất ấy, thì kẻ bồi-thần nầy không giám cãi. ” (TB 348/8a)
Sự thật chứa trong bức thư mà Văn-Thịnh gửi cho Hùng Bản. Thư ấy nói rằng :
” Thành Trạc đã nói sẽ vạch địa-giới ở phía nam mười tám xứ sau nầy : Thượng-điện, Hạ-lôi, Ôn-nhuận, Anh, Dao, Vật-dương, Vật-ác, Kế-thành, Cống, Lục, Tần, Nhâm, Động, Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện (11), và nói những xứ ấy đều thuộc Trung-quốc. Bồi-thần tiểu-tử nầy, chỉ biết nghe mệnh, không giám cãi lại. Nhưng những đất ấy, mà họ Nùng đã nộp, đều thuộc Quảng-nguyên.
“Nay, may gặp Thánh-triều ban-bố hàng vạn chính-lệnh khoan-hồng. Sao lại chọn miếng đất đầy đá-sỏi, lam-chướng nầy, mà không cho lại nước tôi, để giúp kẻ ngoại-thần. ” (TB 349/7b)*
Đọc lời thư trên, ta thấy rằng Lê Văn-Thịnh không bằng lòng đề-nghị của Thành Trạc. Nhưng biết rằng cãi nhau với Trạc cũng vô-ích, và muốn dùng lời nhún-nhường khéo-léo để lay-động những kẻ cầm-quyền ở thượng-cấp.
Thành Trạc hoặc tự xuyên-tạc ý Văn-Thịnh, hoặc không hiểu rõ, lại tâu về triều rằng Văn-Thịnh không đòi đất Vật-dương và Vật-ác nữa. Và xin vua Tống giáng chiếu theo lời Trạc đề-nghị. Vua Tống sai Hùng Bản xét lại những công-điệp và những điều diện-nghị của Văn-Thịnh, thì thấy lời tâu của Trạc không đúng.
Ngày 7 tháng 8 năm ấy (G. Ty 1084), vua trách rằng : “Đã sai Hùng Bản bảo Thành Trạc bày-tỏ những công-điệp và những điều diện-nghị của Lê Văn-Thịnh. Trong đó không thấy nói đến câu không giám tranh-chiếm đất Nùng Tông-Đán nộp. Thế mà Trạc lại nói chúng nó đã nghe lời. Thế thì căn-cứ vào đâu để xin giáng-chiếu gia-ân. “
Mười ngày sau, Tống lại tiếp được lời tâu của Hùng Bản nói : “Thành Trạc thưa rằng trong điệp Lê Văn-Thịnh có nói : “Khê-động nhỏ mọn ấy, nếu Trạc nhận là đất của Tống, thì xin để tôi bày-tỏ với nha kinh-lược, nhờ tâu về triều, và xin triều-đình định-đoạt. “
Chính lúc ấy, Văn-Thịnh đưa cho Hùng Bản bức thư đã thấy trên. Vua Tống nói : “Muốn sai Hùng Bản xét kỹ-càng những lời Thành Trạc tâu về từ trước. Hoặc là nếu quan kinh-lược mới đã tới, thì hãy xét tường-tận những công-điệp và lời đối-đáp của Văn-Thịnh. Như có chấp-cứ được, thì vạch rõ ra mà theo; để từ rày về sau, hễ người Giao-chỉ nhận được chiếu, thì không thể phản-phúc nữa. Vậy phải trình về cho rõ.”
Ba ngày sau, là ngày 20 tháng 8, Tống lại tiếp được một báo-cáo khác của Hùng Bản nói : “Thành Trạc trình rằng : “Theo công-điệp của Lê Văn-Thịnh, thì bằng lòng vạch địa-giới ở phía nam các châu Vật-dương và Thuận-an. ” Vậy xin bàn nên phụng chỉ ban chiếu-thư, cấp cho Giao-chỉ tám-xứ ở ngoài ải, và ban cho Lê Văn-Thịnh và Nguyễn Bồi đồ-vật.”
Lại ba ngày sau nữa, vua Tống nhận được báo-cáo cuối cùng của ti kinh-lược Quảng-tây gửi về nói : “Trước đây, bản-đạo chưa rõ đầu đuôi việc hai châu Qui-hóa và Thuận-an. Vì thế, đã sai viên-chức ti kinh-lược tới biện-chính, và đạt chiếu cho Càn-đức bảo người tới chia đất. Nay cứ ti kinh-lược Quảng-tâu tâu, thì ti đã sai Thành Trạc biện-chính với sai-quan Giao-chỉ là Lê Văn-Thịnh. Bây giờ, đã thấy rõ đầu đuôi. Vậy xin giáng chiếu. “.
Vua Tống bèn phê rằng : “Nay An-nam đã bằng lòng phân-hoạch xong-xuôi, thì hãy đem các đất sáu huyện Bảo-lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phỏng, Cận và hai động Túc, Tang (12) ở ngoài-ải Khấu-nhạc, giao cho Giao-chỉ thủ-lĩnh. Cứ theo đó mà giáng chiếu. Bảo viện học-sĩ theo đó mà thảo lời chiếu. Đợi ti kinh-lược Quảng-tây khám xong tên các ải, rồi sẽ viết chiếu. Còn như bọn Lê Văn-Thịnh, thì ban vải vóc để may áo : cho Lê Văn-Thịnh 200 tấm, và Nguyễn Bồi 100 tấm. ” (13)
Những chi-tiết lời trình của Quảng-tây và lời chiếu của Tống Thần-tông chép lại trên đây là theo Thời-chính-kỷ của viện khu-mật (xem TB 349/8a). Ta thấy rằng, từ mồng 7 đến 23 tháng 8, viện khu-mật nhận được bốn tờ trình của Hùng Bản. Vì đường trạm đi từ Vĩnh-bình đến Biện-kinh mất chừng một tháng, ta doán rằng hội-nghị Vĩnh-bình nhóm suốt trong tháng bảy, và những chỉ-thị của vua Tống, trả lời các tờ trình ấy, không tới kịp Quảng-tây, trước khi hội-nghị bế-mạc. Vậy thì sự định cuối-cùng của vua Tống chỉ căn-cứ vào lời trình khi đầu của Thành Trạc, chứ không căn-cứ vào bức thư của Lê Văn-Thịnh. Vua Tống tin rằng Văn-Thịnh đã bằng lòng nhận những đề-nghị của Thành Trạc, và vua Lý chịu mất Vật-dương và Vật-ác.
Ngày 22 tháng 10, sau khi ti kinh-lược Quảng-tây đã khám rõ tên các ải, dùng làm cận cho biên-thùy, vua Tống sắc cho vua Lý lời nghị-định sau :
“Sắc cho Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-đức :
“Trẫm đã xét lời ti kinh-lược Quảng-nam tây-lộ tâu về nói : “Trước đây, vì An-nam tâu kêu rằng cương-chí các khê-động thuộc hai châu Vật-ác, Vật-dương chưa được rõ, đã có triều-mệnh sai bản-ti lo-liệu. Bản-đạo đã sai quan-chức biện-chính. Nay được tin báo An-nam dã sai bọn Lê Văn-Thịnh tới biên-giới, và biện-chính đã xong. Vậy xin giáng chiếu-chỉ để trao cho An-nam theo làm. “
” Trẫm đã xem xét các lời Khanh trần-tình về phong-cương. Trẫm đã đặc-biệt sai biên-thần lo-liệu biện-chính. Khanh vốn được Trẫm yêu-mến. Giữ một lòng trung-thuận, Khanh đã vâng chiếu-chỉ, sai chức thuộc đến chia cõi các châu, động. Nay đầu-đuôi đã được rõ-ràng.
” Về hai động Vật-dương và Vật-ác, Trẫm đã giáng chỉ lấy tám ải sau này làm giới hạn : Canh-liệm, Khâu-cự, Khiếu-nhạc, Thông-khoáng, Canh-nham, Đốn-lị, Đa-nhân và Câu-nan. Đất ngoài các ải ấy có sáu huyện là Bảo-lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phóng, Cận và hai động là Túc, Tang. Các đất ấy đều cho Khanh chủ-lĩnh (12).
” Khanh hãy xem đó biết Trẫm luyến-ái. Khanh càng phải cung-thuận, tuân theo cẩn-thận điều-ước về cương-giới, chớ có xâm lấn.” (Ngày M. Ty, DL 22 11 1084; TB 349/6a)
Thế là Tống Thần-tông đã quyết-định theo lời đề-nghị từ đầu của Thành Trạc, mà không chấp lời xin của Lê Văn-Thịnh trong công-điệp gửi cho Hùng Bản. Tuy có ban cho Lý đất sáu huyện và hai động, nhưng hai châu Vật-dương và Vật-ác vẫn bị Tống giữ, vì Thàng Trạc đã nói rõ là vạch cương-giới ở phía nam mười tám xứ, trong đó có Vật-ác và Vật-dương.
9.- Lý cố nài. Tống quyết từ
Sự quyết-định ấy của vua Tống Thần-tông tạm chấm dứt lịch-sử điều-đình giữa Tống và Lý, nó bắt đầu từ tháng giêng năm Đinh-tị 1077, là khi Tống rút quân khỏi bắc-ngạn sông Nam-định về. Ở triều Lý, chính-sách ngoại-giao từ lúc ấy đến năm Nhâm-tuất 1082 hoàn-toàn bởi tay Lý Thường-Kiệt điều-khiển. Từ năm Nhâm-tuất về sau, vua Lý đã trưởng-thành và đã tự mình coi việc nước. Còn Lý Thường-Kiệt đi ra giữ trấn Thanh-hóa. Cho nên nếu ông còn có ảnh-hưởng ở triều, thì ảnh-hưởng ấy không lớn như trước nữa. Tuy vậy, các nho-thần như Lê Văn-Thịnh cũng không đi trái với chính-sách mà Thường-Kiệt đã vạch rõ trong mười năm rồi. Có khác chăng, chỉ là bớt phần cương-quyết.
Nhận được chiếu của vua Tống, vua tôi Lý không lấy làm hài lòng. Nhưng hình như họ cũng còn do-dự trong cách đối-phó. Lý không trả lời lập-tức. Tống yên-trí là Lý nhận lời. Sáu tháng sau, ở Tống, vua Triết-tông lên ngôi. Vua Lý được gia phong chức đồng-trung-thư môn-hạ bình-chương sự (11 tháng tư năm Ất-sửu 1085, TB 354/4b).
Việc chia địa-giới cũng là việc cuối-cùng Tống Thần-tông làm đối với nước ta. Thần-tông mất ngày Mậu-tuất mồng 5 tháng 3 năm ấy (DL 1-4-1085, TB 353). Triết-tông lên ngôi, mới mười tuổi. Quốc-chính ở trong tay thái-hoàng-thái-hậu họ Cao. Thái-hoàng-thái-hậu trước vẫn ghét Vương An-Thạch và đồng-đảng. Cho nên lập-tức đem phái cựu lên giúp việc. Lã Công-Trứ, Tư-mã Quang, Trình Di đều được trọng-dụng. Các đảng-nhân tân-pháp đều bị tội hay bị biếm. Triều-đình Tống cố-tâm xóa bỏ những sự mà Vương An-Thạch đã làm nên. Đối với các nước ngoài, Tống tỏ thái-độ rất cương-quyết, “để rửa những cái nhục của đời Thần-tông.”
Lý vin vào cơ-hội mới, lại gửi thư sang vua Tống mới, xin đổi lời chiếu cũ về hai động Vật-dương và Vật-ác. Viện khu-mật tâu : “Nên giáng chiếu, nhắc lại chiếu-chỉ của Tiên-triều, và bảo Càn-đức phải tuân theo “.
Ngày 24 tháng 6, Tống trả lời không nhận lời xin của vua Lý. Lời chiếu có giọng cương-quyết như sau :
“Ban cho Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-đức chiếu sau này.
“Trẫm đã xét kỹ lời biểu của Khanh xin cương-thổ các động Vật-ác, Vật-dương. Đời Tiên-đế, Khanh đã bày-tỏ việc cương-giới. Tiên-đế đã giáng chiếu-dụ, đầu đuôi rõ ràng. Đã đặc-biệt theo lời Khanh cầu, mà cắt đất cho. Nay Trẫm đọc lời tâu, bất ngờ còn thấy Khanh bày-tỏ kêu-ca điều ấy.
“Trẫm vừa nối nghiệp, hành-động phải theo mệnh trước. Nghị-định trước đã rõ, nay khó lòng mà đổi được. Khanh phải trung-thuận, nhất-nhất phải tuân theo lời chiếu trước.” (TB 357/16a).
Đó là Lý cố nài, và Tống quyết-từ lần thứ nhất.
Vua Lý được chiếu, chắc lấy làm tức-giận. Nhưng không hề đổ lỗi cho Lê Văn-Thịnh đã vụng bàn. Tháng 8 năm ấy (A. Su 1085), Văn-Thịnh được cất lên chức thái-sư, tức là đứng đầu triều-đình. Trái lại, vua Lý tức Tống đã bất-chấp lời cố nài của mình. Cho nên Lý lại muốn dùng binh lực quấy-nhiễu. Bấy giờ, có Nùng Thuận-Thanh coi động Nhâm, bị cha con Lương Hiền-Trí chiếm đất. Thuận-Thanh đánh lại (TB 402/10b). Viên coi châu Quảng-nguyên, là Dương Cảnh-Thông, nhân đó thông với Thuận-Thanh. Bèn sai bọn Đàm An đem quân vào đánh biên-dân ở Tống. Ngày mồng 2 tháng giêng năm Bính-dần 1086, vua Tống hạ chiếu cho ti kinh-lược Quảng-tây bảo phải xét việc ấy, và gửi thư trách vua Lý “hỏi vì cớ gì mà không chịu theo chiếu sắc “. (TB 364/1a)
Lý Nhân-tông trả lời và nhắc chuyện xin đất. Nhưng lần này, đổi lý-lẽ và mưu-mẹo. Biết rằng nếu nhắc lại sự biện-chính cương-chí trước, thì Tống vin vào chiếu cũ mà trả lời thoái-thác. Lý Nhân-tông mượn sự vua Tống mới lên ngôi mà xin đổi mới chính-sách đối với hai đất Vật-ác, Vật-dương. Lý bèn gửi biểu sau này sang Tống, lời-lẽ khá khôn-ngoan :
“Ấp tôi có tám huyện ở hai động Vật-dương, Vật-ác, giáp với đất nhà vua. Trước sau bị các tù trưởng làm loạn mà bỏ đi, đem mình vào qui-minh. Đất Vật-dương thì năm Bính-thìn (1076) được thu vào vương-thổ, đất Vật-ác thì năm Nhâm-tuất (1082) mới được thu và đặt ải Thông-khang (14).
“Tuy đất ấy là nhỏ-nhen nhưng tôi rất lấy làm đau-xót, luôn-luôn nghỉ đến. Thật tổ-tiên tôi ngày trước đã đánh-dẹp những kẻ tiếm-nghịch; xông-pha gian-hiểm mới có đất ấy. Nay gặp thời-vận suy-đồi, tôi không hay nối sự-nghiệp cha ông. Tôi đâu giám dự vào hàng phiên-thần, sống trong chốc-lát.
“Năm Giáp-tý (1084), ti kinh-lược Quảng-tây đã từng tâu về việc ấy. Tiên-triều lấy hai động Túc, Tang và sáu huyện cho tôi chủ-lĩnh. Nhưng các đất Túc, Tang ấy hiện thuộc ấp tôi rồi, không phải là đất mà nay tôi đã xin. Cho nên tôi không giám nhận mệnh.
“May gặp khi Bệ-hạ lên ngôi. Việc gì cũng đổi mới. Vậy tôi kính-cẩn bày-tỏ lời biểu này để tâu lên.” (TB 380/20b)
Ngày 13 tháng 6, vua Tống trả lời, cương-quyết gạt hẳn lời xin. Thư Tống như sau :
“Vả nay, biên-thần nói : “Thủ-lĩnh thuộc Khanh đã xâm-lấn biên-thùy. Tiên-hoàng vốn sẵn lòng nhân, đã ban chiếu-dụ. Cho phép biện-chính, chứng-thực rõ-ràng. Đã đặc-biệt cắt đất ải Khang (chắc là Thông-khang), ân-tứ cho Khanh. Tiếng ban đức như còn đó, nét mực chiếu vẫn còn tươi !
“Vậy Khanh nên nghĩ đến lượng bao-dung, mà tuân theo bờ đã định. Cớ sao còn tâu nhắc lại, vẫn giữ lầm xưa, mà lấy đất mới ban cho làm vật cũ sẵn có ? Không kiêng-dè đến thế. Thờ kẻ trên như vậy, sao coi được !
” Xét ý Khanh không lẽ như vậy; ngờ lời người mách thế là sai. Huống chi dân châu động ấy là dân nhà vua đã từ lâu. Từ khi quan-quân đánh lấy Quảng-nguyên đến lúc Trẫm trả Thuận-châu, không hề có tranh-giành ruộng đất ở đó.
“Khanh phải hết lòng thành-thật, tuân theo chiếu trước. Phải thêm cẩn-thận, giữ-gìn cương-vực. Chớ có sinh-sự lôi-thôi. Gắng làm cho đáng Trẫm thương, để được đời đời hưởng lộc.” (Chiếu ngày N. Ty, DL 7-8-1086; TB 380/21a).
Vua Tống lại sai viên kinh-lược Quảng-tây, là Miêu Thì-Trung, viết thư cãi lại lời vua Lý.
Đó là Lý cố-nài, Tống quyết-từ lần thứ hai.
Thế là Tống dứt hẳn con đường thương thuyết để nước ta thôi đòi lại những đất Vật-ác, Vật-dương. Tống cũng biết rằng sự bang-giao với Lý trở lại khó-khăn. Tuy rằng năm ấy sứ ta sắp tới Biện-kinh mừng Triết-tông lên ngôi, các quan Tống ở Quảng-tây cũng ra công đề-phòng biên-giới cẩn-thận.
Ngày 11 tháng 10, viện khu-mật nói : “Ti kinh-lược Quảng-tây tâu về, ngỏ ý rất sợ rằng khi sứ Giao-chỉ trở về, chúng sẽ gây sự. Vậy xin thêm quân phòng-ngự “. Thái-hoàng-thái-hậu nói : “Nếu ti kinh-lược Quảng-tây dò thấy sự chóng chầy gì Giao-chỉ cũng sẽ làm loạn là không sai, thì một mặt sai đạo quân thứ 18 đóng ở đông-nam Đàm-châu xuống đóng ở Quế-châu, một mặt soạn-sửa đem quân Hồ-nam tới Quảng-tây và lấy quân ở kinh xuống đóng ở Hồ-nam. Đợi khi nào sứ Giao vào cống, thì sẽ chuyển quân. ” (TL cựu-kỷ, theo TB 390/14a).
Ti kiềm-hạt Quảng-tây cũng xin cho quân thú ở các trại Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thái-bình, Hoành-sơn, Thiên-long, Như-tích, Để-trạo được hai năm thay phiên một lần. (TB 393/6b).
Sứ-bộ ta lần nầy gồm có viên-ngoại-lang hộ-bộ Lê Chung là chánh-sứ, và phó-hiệu úy Đỗ Anh-Bối là phó-sứ.
Sứ-bộ tới Quảng-tây trong tháng mười một. Lê Chung gặp Thành Trạc. Y nói với Trạc rằng : “Vua Lý đã xin đổi địa-giới mà chưa được chiếu trả lời “. Chung lại xin chép lại những nguyên-thư và trạng của Lê Văn-Thịnh gửi cho quan Tống, để lúc về sẽ dâng cho vua Lý xem. Trạc mách lại ti kinh-lược. Ti ấy tâu về triều các việc trên và thêm rằng : “Nếu khi Lê Chung tới kinh, lại nói đến việc xin đất, thì nên đem bức thư dài của Lê Văn-Thịnh cho xem mà giảng-dụ, để Lê Chung hiểu rõ rằng trước đó, vì Thành Trạc bảo-đảm sự sứ Giao-chỉ bàn biên-cương không đến nỗi phản-phúc, cho nên dã theo lời sứ xin mà giáng chiếu rồi. Từ rày về sau, nếu người Giao tới kinh còn giám bày-tỏ kêu-ca về chuyện ấy, thì triều-đình khó lòng xử-trí cách khác được “.
Tống trả lời cho Miêu Thì-Trung rằng : “Nếu người Giao không thôi việc đệ thư xin đổi địa-giới, thì đem hết lẽ mà trả lời và giảng-giải “.
Đó là Lý cố-nài và Tống quyết-từ lần thứ ba.
Mồng 6 tháng 4 năm Đinh-mão 1087, sứ-bộ tới Biện-kinh. Mồng 4 tháng 5, vua Tống thăng chức cho chánh và phó-sứ; lấy Chung làm viên-ngoại-lang lại-bộ, và Anh-Bối làm Tây-kinh tả-tàng-khố phó-sứ. Không rõ Lê Chung có tâu việc xin đất không. Có lẽ không, vì không thấy TB chép lại. Chỉ biết rằng, bấy giờ, triều-đình Tống tiếc đã trả đất ngoài tám ải cho ta, và giận Thành Trạc và Hùng Bản đã đề nghị sự ấy.Chính ngày mà Tống ban chức cho sứ ta, viện khu-mật hặc Trạc đã bảo-lĩnh cho Giao-chỉ biện-chính, mà lại còn tự-tiện lấy thư của Lê Văn-Thịnh đã gửi cho Tống, đưa cho Lê Chung xem. Thành Trạc bị giáng chức và sai đi coi thuế rượu ở Quảng-châu (TB 400/6b). Mười ngày sau, Hùng Bản cũng bị biếm; vì cớ “lúc coi Quế-châu, đã phân-hoạch địa-giới không đúng.” (TB 401/9b).
Tống không những không trách vua Lý, mà tháng 7 năm ấy, còn phong cho “Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-đức tước Nam-bình-vương ” (15) (TB 403/7a).
Thế, nhưng mà Lý Nhân-tông cũng không liền chịu bỏ rơi hai động đã mất. Tống sợ quân ta tời đánh úp, bèn xây đồn ở các cửa ải ở đó, và phát quân đến canh-phòng. Vua Lý vin vào việc ấy mà viết thư kêu với Tống, ý nói quân Tống đe-dọa đất mình, và có lẽ vua Lý lại đòi đất hai động Vật-dương và Vật-ác một lần nữa.
Lời thư ấy không còn nữa. Nhưng chiếu trả lời của vua Tống nay còn. Chiếu ấy viết ngày 22 tháng 8 năm Mậu-thìn 1088, nghĩa là hơn một năm sau khi Lê Chung tới kinh-đô Tống. Lời chiếu như sau :
” Trẫm nhớ thánh-đức của Tiên-đế đã đoái-thương đến phương xa. Sau khi rút quân khỏi Phú-lương, Tiên-đế đã xét lời khẩn-cầu của Khanh, liền lấy các châu Quảng-nguyên ban-cấp.
” Sau đó, vì thủ-lĩnh An-nam nhận lầm vương-thổ. Tiên-đế lại sai quan biện-chính chia cõi. Rồi lấy sáu huyện, hai động ở ngoài tám ải, cấp cho Khanh chủ-lĩnh. Thi-ân như thế, có thể gọi là tột mực.
“Trẫm vâng theo lời dạy của Tiên-đế, cốt làm sao cho bờ-cõi yên vui. Huống chi, Trẫm đã giáng chiếu nhiều lần, giảng cực rõ-ràng. Các đất Vật-ác, Vật-dương, không thể trở lại bàn đến được.
” Còn như sự xây cửa ải, đặt lính thú, thì đều là việc thường làm ở biên cương. Huống chi những đất này qui-minh từ trước, và sự xây ải là sau. Vậy không lẽ gì mà ngờ-vực và kêu-ca nữa.
“Thật rằng, nghĩa kẻ phiên-thần là trước hết dốc lòng thành-tín. Chớ nên vu-hoặc. Lời Trẫm không thể nói đi nói lại nhiều lần.
” Thành Trạc, nhân khi đi tuần-biên để soát các cửa ải, đã tự-tiện đem đồ vật và lụa cho thủ-lĩnh ở ngoài cõi. Làm thế là trái luật. Vừa rồi, theo lời ti kinh-lược tố-giác và tâu hặc Trạc đã sinh sự, Trạc đã bị biếm và đổi đi rồi. Khanh nên đòi lại những đồ vật ấy, và đệ tất cả tới quan.
” Hãy dâng thư-biểu, tỏ lòng cung-thuận. Gắng hiểu lòng Trẫm thương-mến nồng-nàn, để được thêm hưởng nhiều phúc. ” (TB 413/8a)
Đó là Lý cố nài và Tống quyết từ lần thứ tư.
Trong chiếu trên, có nói đến việc Thành Trạc đi tuần-biên, cho thủ-lĩnh người nước ta lụa vải và đồ vật. Không biết sự ấy vào khoảng nào. Ta biết rằng Thành Trạc đã bị biếm từ tháng 5 năm trước. Trong chiếu vua Tống lại nói vì Trạc làm lầm việc tuần-biên nên đã bị biếm. Vậy ta nghĩ rằng việc lầm ấy có từ lâu, và có lẽ là việc cho Lê Văn-Thịnh vải vóc từ năm 1084. Nếu quả như vậy, thì vua Tống xử quá gay-gắt và vụng-về.
Lý đã kiên-nhẫn xin đất Vật-ác và Vật-dương cả thảy sáu lần, mà hai lần bị Tống Thần-tông từ, bốn lần bị Thái-hoàng-thái-hậu họ Cao gạt.
Từ đó, vua Lý phải thôi hẳn, không thể nhắc đến việc hai động nữa.
Vả bấy giờ, nước ta đã đến lúc cực thịnh. Thái-hậu Linh-nhân (Ỷ-Lan) và vua đều rất mộ Phật và ưa tạo-tác. Các đại-thần thì có Lê Văn-Thịnh đứng đầu, đều là những người mê-tín dị-đoan và luôn-luôn xu-nịnh cái tính mê-tín của vua và thái-hậu. Cho nên không có ai nghĩ đến việc biên-thùy một cách khẩn-thiết như hồi Lý Thường-Kiệt còn cầm quyền. Còn Lý Thường-Kiệt, thì bấy giờ ở luôn tại Thanh-hóa. Ảnh-hưởng ông đối với Nhân-tông hình như cũng giảm đi nhiều.
Tuy rằng sau khi Thái-hoàng-thái-hậu Tống mất (năm Quí-hợi 1093), vua Tống cầm quyền nhu-nhược, đảng-phái tân cựu lại khynh-đảo nhau rất kịch-liệt, quân Hạ đe-dọa Tống ở miền bắc, mà vua Lý cũng không biết nhân cơ-hội, cố đòi lại đất còn mất. Trái lại, năm Kỷ-tị 1089, quân Tống có khi kéo vào châu Thạch-tê (có lẽ Thạch-lâm ở Cao-bằng ngày nay), mà vua Lý cũng không chống lại kịch-liệt (VSL).
Từ đó về sau, sự bang-giao Lý Tống trở lại thường, không có tính-cách phản-đối, yêu-sách đòi-hỏi gì nữa (16). Tuy rằng VSL có chép vào năm 1106 rằng : “tháng 11, vua Lý sắp có việc lôi-thôi với Tống, sai đóng thuyền Vĩnh-long có hai bụng và những chiến-hạm “, nhưng sau, không thấy có chuyện gì. Trái lại, VSL chép liền sau : “Viên-ngoại-lang Ngụy Văn-Tướng đi sứ sang Tống “.
Tống Lý lại trở nên hòa-hảo. Triều Lý Nhân-tông còn dài. Trong khi ấy nước Tống bị nước Kim xâm-lấn, bắt vua và phá kinh-đô. Kẻ sống-sót phải xuống miền nam sông Dương-tử mà lập nên Nam-Tống. Thế mà các vua Lý không hề biết lợi-dụng thời-cơ, để mở rộng thêm vùng Bắc-Việt.
Xem thế mới biết rằng, tất cả chính-sách lấn dần vào Hữu-giang, trong triều Lý, chỉ nhờ Lý Thường-Kiệt mới có thành-công.
CHÚ-THÍCH
(1) – Nguyên văn : Tài quá Trường-giang, tức tiển tỉnh-địa. Nghĩa là vừa qua sông dài (hay là vừa qua sông Trường), lập-tức đạp lên đất nhà vua (Tống). Hai chữ Trường-giang có thể hiểu là danh-từ chung hay là danh-từ riêng. Nếu hiểu là danh-từ chung, thì sông dài ấy là sông nào. Theo lời chấp-nhận của sứ ta, thì đất Lạng-châu, đã bị Quách Quì chiếm, là thuộc Tống. Vậy sông dài kia là sông Cầu ngày nay. Nếu hiểu là danh-từ riêng thì có thể là sông Thương, mà tên xưa là sông Xương. Âm xươngvà trường đều đọc như nhau, là tchang. Nhưng đây chắc nó chỉ có nghĩa là sông dài mà thôi. Trong bia cổ LX và STDL đều chép : Lý Thường-Kiệt bại Tống trên Như-nguyệt trường-giang. Hai chữ trường-giang ở đây cũng như ở trong biểu của Triệu Tiết, chỉ là một cách nói cho trịnh-trọng và bóng-bảy.
(2) – Viên coi Khâm-châu là Lưu Sơ đã dỗ được Vi Thủ-An coi châu Tô-mậu. Chúa trại Vĩnh-bình Dương Nguyên-Khanh đã dỗ được những thủ-lĩnh Quảng-nguyên. Các viên ấy đều được thưởng bảy tư (TB 281/8a). 2.
(3) – Những châu mà Lý xin là Quảng-nguyên, Tư-lang, Môn, Quang-lang và Tô-mậu. Trong các văn-kiện, thường chỉ kể một vài tên để trỏ toàn-thể. Vả bấy giờ, quân ta đã lấy lại Quang-lang, và có lẽ cũng đã chiếm lại Tô-mậu và Môn. Nhưng vua Lý vẫn xin khéo các châu ấy, cốt ý để Tống cho Quảng-nguyên. 3.
(4) – Sau khi Triết-tông lên ngôi, triều Tống, sai các sử-quan Phạm Tổ-Vũ, Triệu Ngạn-Nhược, Hoàng Đình-Kiên soạn Thần-tông thực-lục. Năm Tân-mùi 1091, soạn xong. Bấy giờ đảng-phái chống Vương An-Thạch cầm quyền, cho nên thực-lục Thần-tông phỉ-báng An-Thạch. Đến năm Quí-dậu 1093, Triết-tông thân chính, phái tân-pháp trở lại đắc-dụng, cho nên sai rể An-Thạch, là Thái Biện, soạn lại Thần-tông thực-lục. Tháng chạp năm Giáp-tuất (đầu năm 1095), Biện soạn xong. Các sứ-thần soạn bản thực-lục cũ đều bị an-trí. Vì vậy, nên có hai bản Thần-tông thực-lục, cựu-kỷ và tân-kỷ .3
(5) – TB (411/5b) lại chép rằng năm Mậu-thìn, sau khi trả Thuận-châu cho ta, Linh Sùng-Khái chạy vào đất Tống. Được Tống cho coi động Hoài-hóa. Tống thưởng công liệt vào hàng sứ và đổi động Hoài-hóa ra châu. 4.
(6) – Một dư-luận quan-trọng khác là lời Tô Thức (Tô Đông-Pha) tâu can vua Tống Triết-tông đừng dùng Thẩm Khỉ. Nguyên Khỉ và Lưu Di bị biếm và có nghị-định về sau không được lục-dụng nữa. Nhưng Di được khôi-phục chức-vụ ít nhiều. Khi Triết-tông lên ngôi, định xá tội cho Khỉ, Tô Thức dâng biểu nói :
“Tôi thấy từ đời Hi-ninh, Vương An-Thạch được dùng, bắt đầu tìm lập biên-công, sinh hiềm-thù với các man-di. Vương Thiều dâng việc Hi-hà. Chương Thuần xui việc Ngũ-khê (vùng Mai-châu, Phúc-kiến). Hùng Bản gây việc Lô-châu (vùng Tứ-xuyên). Thẩm Khỉ và Lưu Di thấy vậy, cũng bắt chước, kết oán với Giao-chỉ. Binh dùng liền-liền, gây ra họa lớn. Quân chết đến mười vạn người. Cả nhà Tô Giàm bị hóa ra bùn tro. Đến nay, Lưỡng-Quảng bị đau thương chưa khỏi.
“Tiên-đế đầu muốn giết hai người ấy để tạ thiên-hạ. Nhưng Vương An-Thạch hết sức che-chở, cho nên chúng mới khỏi mất đầu. Thế là đã may lắm rồi. Đến năm Nguyên-phong thứ 6 (24-3 năm Quí-hợi 1083) có Thánh-chỉ định rằng Thẩm Khỉ đã phạm tội nặng không được lục-dụng nữa. Thiên-hạ truyền-tụng tin ấy, vàcho là đáng. Đó là lời Tiên-đế không thể đổi được.Vậy không nên vì tức-vị mà ân-xá.
“Thẩm Khỉ và Lưu Di đều có trách-nhiệm đối với hàng mười vạn sinh linh. Tuy có bị kiềm-hãm suốt đời, cũng chưa trả đủ nợ. Gần đây, chỉ vì Lưu Di hơi được dùng, mà Khỉ không biết tự-lượng, giám ngỏ lời kêu và đổ lỗi cho Di, vin lẽ nọ kia, để mong được dùng.
“Theo ý tôi, thì việc An-nam là do Khỉ gây mối, mà Di nối theo. Phép có thủ-phạm, tùng-phạm. Di còn là kẻ siêng năng; học-thuật còn có chỗ dùng được. Còn Khỉ thì nhân-cách ti-tiện, làm việc xu-nịnh và nham-hiểm. Sự Triều-đình dùng Di đã làm mất tín đối với công-nghị, huống nay lại dùng Khỉ. Thật không có lẽ gì ân-xá Khỉ. ” (TB 373/4a). 5.
(7) – Các tên sứ, thì các sách chép hơi khác nhau. Thông-giám cương-mục (sách Tàu) chép tên chánh-sứ là Lệ-tân-phó-sứ Lương Dụng-Tân. Sách TB chép Lệ-quảng-phó-sứ Lương Dụng-Luật. Sách ta chỉ có VSL chép tên sứ mà thôi, và chép Lương Dụng-Luật như ở TB.
Còn tên phó-sứ, thì TB 313/11b chép Nguyễn Văn-Bội, và nói theo các sách TL chép như vậy. Nhưng sau đó (TB 349/6a), có chép tên một phó-sứ khác là Nguyễn Bồi đi sứ Tống cùng Lê Văn-Thịnh. 6 và 8.*
(8) – Sách TT chép : “bốn động : Lôi-hỏa, Bình, Yên, Bà, và một châu Tư-lang “. Còn VSL chép ba động : Lôi-hỏa, Bình, Bà và châu Tư-lang. Sách TS 495 chép : “lấy bốn động : Lôi-hỏa, Tần, Bà và châu Tư-lang “. Sách SK so-sánh TT và TS và kết-luận : “Có nơi đổi tên Yên ra Tần. Đây tôi lấy Tần, vì trong chiếu vua Tống có chép tên ấy. 7.
(9) – TT chép : ” Tháng 9, người Vật-dương loạn, đánh dẹp yên “. VSL chép : ” Nùng Trí-Cao chiếm động Vật-dương thuộc châu An-đức ở Tống “. TS 495 chép : “Nùng Trí-Cao đánh úp châu An-đức, tiếm xưng Nam-thiên-quốc, cải-nguyên Cảnh-thụy. Năm Hoàng-hữu đầu (1049), vào cướp Ung-châu. Năm sau (1050), Giao-chỉ đưa quân tới đánh, không được”. 7.
(10) – Các sử-gia ta ngày trước không ai hiểu rõ việc trả đất năm Giáp-tý 1084, cho nên thường chép lúng-túng. Ngô Thì-Sĩ nhận thấy sự mập-mờ ấy, có bàn trong sách SK, nhưng chính ông cũng không hiểu nốt. Ông nói : “Theo Cương-mục tục-biên và Giao-chỉ di-biên, thì ” quân Tống tới xâm, lấy các đất Quảng-nguyên, Tư-lang, Tô-mậu, Quang-lang, rồi đổi Quảng-nguyên ra Thuận-châu. Đến khi Lý trả dân đã bắt, Tống bèn lấy Thuận-châu trả lại. Về sau định giới, lại trả lại sáu huyện, ba động. ” So với cựu-sử (tức là TT), thì cũng như nhau, nhưng đều không chép rõ huyện nào, động nào. Nay xét, thấy các sách đều không nói trả các châu Tư-lang, Quang-lang. Thế mà các đất này từ đời Lý Thần-tông về sau sẽ là đất Lý. Hoặc-giả, sau khi đổi Quảng-nguyên ra Thuận-châu, Tống lại hợp đất Tư-lang và Quang-lang mà đổi thành huyện và động. Sáu huyện, ba động kia hoặc là đất ấy chăng ? Lúc đầu chỉ trả Thuận-châu; về sau định-giới, mới trả hết cả. Như thế mới còn có lý. Nhược-bằng sáu huyện là đất Bảo-lạc, ba động là đất Túc-tang (TT và SK đều nói ba động, và hình như hiểu Túc-tang là tên một động mà thôi), thì người Tống chưa hề xâm đất ấy, cớ sao lại trả cho ta ? “. 8.
(11) – Sách cũ của nước ta và nước Tầu không có chấm câu. Khi nào chép tên nhiều đất liền nhau như ở đây, rất khó lòng nhận tên đất cho đúng, vì có tên chỉ một chữ, có tên gồm hai, ba chữ. Nhưng có một vài trường-hợp, ta có thể nhận ra; nhất là khi trong số đất chép tên, có một vài đất mà mình quen tên trước, và khi nào biết trước số tên đất chép đó. Hai trường-hợp ấy gặp ở đây. Vậy tôi đã theo nguyên-tắc sau này để chấm câu : phải chấm câu làm sao cho có đủ 18 tên, mà giữ trọn được những tên đã biết rồi, như Ôn-nhuận, Vật-ác, Vật-dương, Tần, Nhậm, Cống, hay là những tên có thể đoán được, như Hạ-lôi, Thượng-điện. Ngoài những tên ấy ra, thì ở đây phải nhận rằng mỗi tên chỉ có một chữ, mới đủ 18 tên. Đó là trường-hợp đặc-biệt. 8.
(12) – Tôi cũng theo nguyên-tắc vừa nói trong chú-thích 11, mà định những tên này. Những tên ải thì chắc như thế là đúng; vì có 8 ải mà có 16 chữ, mỗi tên chắc gồm hai chữ. Vả chăng nếu chấm câu như vậy, thì những tên sẽ có chữ Canh, Khâu, Khiếu đứng đầu, đều là những danh-từ chỉ đèo, núi.
Tên sáu huyện và hai động cũng chắc là đúng như trên. Vì tên Bảo-lạc nay còn. Huyện Bảo-lạc xưa là vùng phía bắc tỉnh Hà-giang bây giờ. Nùng Văn-Vân nổi loạn ở đó (1833). Vua Minh-mạnh bèn xoá tên Bảo-lạc, mà chia đất ra làm hai huyện Để-định và Vĩnh-điện. Huyện-lị đời xưa đóng ở phố Vân-trung. Cho nên phố ấy cũng có tên Bảo-lạc. Nay, ở trong bản-đồ sở họa-đồà Đông-dương còn để tên Bảo-lạc vào chỗ ấy.
Nguyên-tắc dùng để định tên đất, đã dùng trên, chỉ có lý khi nào biết chắc-chắn số đất. Về sáu huyện hai động, thì có nhiều thoại khác nhau. Sách ta có TT chép “6 huyện 3 động”. Sách Tầu thì TS 488 chỉ nói đất Túc-tang, hay Túc, Tang; TS 334 nói “8 động Túc-tang hay Túc, Tang “; Thông-giám-cương-mục chép như TT : 6 huyện, 3 động. Chỉ có TB chép theo TCK, có chép đủ chi-tiết, và nói 6 huyện, 2 động. Xét thấy thoại của TCK là chắc-chắn đúng. 8.
(13) – TS 488 chép : “Tống Thần-tông khen rằng Văn-Thịnh biết khiêm-tốn, Càn-đức biết cung-thuận. Cho nên ban cho Văn-Thịnh áo bào, đai nịt, và 500 tấm quyến. Lại cho Càn-đức sáu huyện Bảo-lạc và hai động Túc-tang ở ngoài tám ải “. 8.
(14) – Ải Thông-khang nầy có lẽ là ải Thông-khoáng trong 8 ải phân-giới đã nói trong chiếu của vua Tống (xem XII/8). 8.
(15) – VSL chép: năm Đinh-mão, vua Tống Triết-tông gia cho vua Lý chức Đồng-bình-chương-sự, và ba năm sau mới phong cho vua Lý tước Nam-bình-vương. Còn TT cũng chép như TB. Nhưng TS 488 chép rõ rằng : Triết-tông lên ngôi (1085), gia-phong cho Càn-đức chức Đồng-trung-thư môn-hạ-bình-chương-sự, và năm Nguyên hữu thứ 2 (1087), Giao-chỉ sai sứ vào cống, được tiến-phong Nam-bình-vương. Xem vậy, VSL chép đúng việc, nhưng sai năm. 9.
(16) – Từ năm 1090 đến cuối đời Nhân-tông (1027), Lý sai mười sứ-bộ vào cống Tống; cứ bốn năm tới Biện-kinh một lần.
Sau đây là bảng kê các phái-bộ ta tới tiếp-xúc với Tống trong đời Lý Nhân-tông và sau cuộc Tống-Lý chiến-tranh :
NĂM SỨ-THẦN MỤC-ĐÍCH VIỆC LÀM
1073 Lý Hoài-Tố Cáo ai
1077 Kiều Văn-Ưng Bàn hòa Tới doanh Quách Quỳ.
1077 Lý Kế-Nguyên Xin cống Phạm miếu-húy, phải quay về.
1078 Đào Tông-Nguyên (a) Xin đất Quảng-nguyên Cống 5 voi
1081 Lương Dụng-Luật
Nguyễn Văn Bồi Xin đất Vật-ác, Vật-dương
Xin kinh Phật Cống voi, ngà, sừng tê.
1083 Đào Tồng-Nguyên Chia địa-giới Tới Vĩnh-bình, không xong việc.
1084 Lê Văn-Thịnh
Nguyễn Bội Chia địa-giới Tới Vĩnh-bình, được 6 huyện, 3 động.
1087 Lê Chung
Đỗ Anh-Bối MừngTriết-tông đăng-cực Muốn xin Vật-ác,Vật-dương.
1090 ? Kết hiếu
1094 Nguyễn Lợi-Dụng Kết hiếu (VSL)
1098 Nguyễn Văn-Tín Xin kinh Tam-tạng (VSL)
1102 Đỗ Anh-Hậu Kết hiếu (VSL)
1106 Ngụy Văn-Tướng Kết hiếu (VSL) Xin mua sách.
1110 Đào Ngạn Kết hiếu (VSL)
1114 Đào Tín-Hậu Kết hiếu Cống voi.
1118 Nguyễn Bá-Độ (b)
Lý Bảo-Thần Kết hiếu Cống 1 tê trắng, 1 tê đen và 3 voi.
1122 Đinh Khánh-An
Viên Sĩ-Minh Kết hiếu Cống voi.
1126 Nghiêm Thường
Từ Diên Kết hiếu Tới Quế-châu phải trở về, vì Kim đánh Tống.
(a) TT chép tên Đào Sùng-Nguyên đi sứ Tống năm 1069 (Xem V/3), chắc cũng là Đào Tông-Nguyên. Chữ SÙNG và TÔNG gần giống nhau.
(b) Theo TT. Còn VSL chép tên Khánh. Chữ KHÁNH viết thảo và chữ ĐỘ gần tụ-dạng.
(c) Trong chương V, đoạn 3, trương 112, dòng 4 kể từ dưới, có lầm ra năm 1164. Vậy cải-chính, và phải đọc 1174.
Còn như việc Tống phong cho Lý Nhân-tông, thì thứ-tự như sau :
1073 Trao chức Kiểm-hiệu thái-úy, Tĩnh-hải-quân tiết-độ sứ, An-nam đô hộ phong tước Giao-chỉ quận-vương.
1085 Gia-phong Đồng-trung-thư môn-hạ bình-chương-sự (vì Triết-tông lên ngôi)
1087 Tiến-phong Nam-bình-vương.
1101 Gia-phong Khai-phủ-nghị đồng-tam-ti, Kiểm-hiệu thái-sư (vì Huy-tông lên ngôi).
1119 Gia Thủ-tư-không (vì Khâm-tông lên ngôi).
1132 Tặng Thị trung tuy phong Nam-Việt-vương (Lý Nhân-tông mất năm 1127, nhưng vì Tống bị Kim đánh chạy, đến năm 1132 mới đóng đô yên-ổn ở Hàng-châu).
Cách phong cho vua Lý đến Lý Anh-tông vẫn theo lệ cũ, nghĩa là bắt đầu bằng chức Thái-úy, Tĩnh-hải quân tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ, và phong Giao-chỉ quận-vương. Nhưng trong đời Lý Anh-tông, nhân có sứ ta là Doãn Tử-Tư và Lý Bang-Chính tới cống (1073), vua Tống Hiếu-tông phong cho vua Lý tước An-nam quốc-vương (1074). Từ đó về sau, Tống nhận ta là một nước (QUỐC), và các vua Lý Cao-tông, các vua Trần Thái-tông, Thánh-tông đều được phong chức An-nam-quốc-vương, lập-tức ssau khi mới lên ngôi. Sách TT chép Tống phong Lý Anh-tông làm An-nam-quốc-vương và đổi Giao-chỉ ra An-nam-quốc, vào năm Giáp-thân 1164. Chắc là sai. Không những VSL, TS 488 và TS 34 chép vào năm Giáp-ngọ 1074, mà câu thơ của Lý Bang-Chính (c), mà LNĐĐ còn ghi lại : Thử khứ ưu thành tứ quốc-danh (V/3) chứng rõ rằng sự đặt tên nước An-nam là vào năm Bang-Chính đi sứ, ngghĩa là năm 1074.
Phần III – Vì Dân vì Đạo
CHƯƠNG XIII : COI ĐẤT MIỀN NAM
1. Tu-bổ nội-trị
Sau khi đánh lui quân Tống, thanh-thế Lý Thường-Kiệt lại càng lừng-lẫy. Vua mới mười hai tuổi. Quyền vẫn ở trong tay tể tướng. (1)
Thường-Kiệt đã lo-lắng khôi-phục những đất đã mất và đòi lại những châu-động bị sáp-nhập vào Tống trước khi có đại-chiến-tranh (XII). Đối với trong nước, ông cũng tu-bổ đê-điều, đường-sá, đình chùa hư hỏng vì chiến tranh. Ông sửa đổi việc hành-chánh, tuyển thêm nhân-viên giúp việc các công-sở.
Ta đã thấy rằng quân ta đắp đê bờ nam sông Cầøu thành một bức trường-thành để ngăn quân Tống. Các trận kịch-liệt chắc đã làm cho đê hư-hỏng nhiều. Tháng 9 năm Đinh-tị 1077, có lệnh đắp lại đê con sông ấy. Khoảng đắp lại dài 67.380 bước (VSL), bằøng ước chừng 35 cây-số, có lẽ từ ngã ba sông Như-nguyệt đến chân núi Kháo-túc.
Tháng giêng năm sau (Mậu-ngọ 1088), thành Đại-la cũng được đắp lại (TT ; VSL chép tháng giêng nhuận). Có lẽ ông còn sợ quân Tống trở lại, cho nên tu-bổ các thành-trì. Sự chữa đê Như-nguyệt kỳ-thật là để làm chắc thêm phòng-tuyến chống xâm-lăng.
Sau một năm loạn-lạc, các đền-đài, tự-quán bị hư-hỏng nhiều (theo Mộ-chí Lưu Ba). Ông sai sửa-chữa lại.
Về việc hành-chính, liền sau khi đánh Ung-châu về, đã có sự cải-lương. Ông chọn những kẻ hiền-lương có tài văn-vũ để cai-quản quân và dân. Trong sự chọn-lọc quan-liêu, hình như tài văn-học bắt đầu được chú-ý lắm. Cuối năm Bính-thìn 1076, chọn những quan-viên văn-chức hay chữ vào dạy trường Quốc-tử-giám (TT). Tháng chạp năm ấy, nhà khoa-bảng đầu tiên ở nước ta, là Lê Văn-Thịnh, được trao chức binh-bộ thị-lang (VSL).
Một việc cải-cách quan-hệ mới là tổ-chức những cơ-quan hành-chính thuộc mọi ngành. Năm Đinh-tị 1077, nước ta bắt đầu có mở những kỳ thi chọn những nhân-viên chuyên-môn về viết chữ tốt, làm toán giỏi, thông hình-luật. Những người trúng-tuyển được bổ làm lại-viên ở các viện và bộ, như thư-xá, hộ-bộ, hình-bộ.
2. Thôi chức tể tướng
Vì Thường-Kiệt có công-lao đặc-biệt, nên được cất lên ngang hàng các hoàng-tử. Ta đã thấy rằng vua Lý Thánh-tông từng phong ông làm Thiên-tử nghĩa-nam, nghĩa là con nuôi vua. Cho nên, vua Lý Nhân-tông coi ông như em nuôi, và ban cho ông hiệu Thiên-tử nghĩa-đệ.
Tuy vậy, vua càng năm càng lớn, thì thế-lực Thường-Kiệt chắc cũng bị giảm dần. Quyền-bính dần-dần chuyển sang tay Lý Nhân-tông. Từ năm Quí-hợi 1083, các sử bắt đầu có chép những việc tỏ rằng Nhân-tông đã ra thân-chính. Bấy giờ vua lên 16 tuổi ; đối với nhà vua, đó là tuổi trưởng-thành. Tháng hai năm ấy, vua ra ngự ở điện Thiên-khánh, thân-hành duyệt các hoàng-nam ở kinh-thành, và chia ra làm ba hạng (VSL và TT). Hoàng-nam, như ta đã thấy (II/cth 3), là con trai lên mười tám tuổi, phải đăng tên vào sổ công, để gọi ra lính. Duyệt hoàng-nam thật là một dấu-hiệu vua mới trưởng-thành. Tháng ba năm ấy, thái-hậu đã sai chọn mỹ-nữ vào hầu ở cung Vạn-diên (VSL). Tháng chín, dân động Ma-sa (ở vùng Đà-giang) nổi loạn, tháng mười vua đem quân thân-chinh, và dẹp yên (VSL).
Thường-Kiệt đi đâu vắng, mà vua phải thân-chinh ? Các sử ta không hề chép. Nhưng còn có hai bia đời Lý nói rõ rằng ông được sai coi đất Thanh-hóa. Bia LX không chép rõ ông vào ở Thanh-hóa năm nào, mà chỉ nói rằng : ” Đầu đời Anh-vũ-chiêu-thắng, vua ban hiệu Thiên-tử nghĩa-đệ, sai ông ra giữ trấn Thanh-hóa, thuộc quận Cửu-chân, châu Ái, coi mọi việc quân và dân. Lại phong cho ông lộc của một vạn hộ ở Việt-thường “. Niên-hiệu Anh-vũ-chiêu-thắng có từ tháng tư năm Bính-thìn 1076 đến thánh hai năm Ất-sửu 1085. Vậy, bia LX nói đầu niên-hiệu ấy có lẽ chỉ vào năm 1076, và đó là năm vua ban cho ông hiệu Thiên-tử nghĩa-đệ mà thôi. Bia BA chép rõ-ràng hơn. Bia ấy nói : ” Năm Nhâm-tuất, Hoàng-đế đặc-gia một quân ở trấn Thanh-hóa, ban cho ông làm phong-ấp “. Năm Nhâm-tuất 1082 chính là năm trước khi có những việc Nhân-tông thân-hành đã kể trên.
Vậy thì chắc rằng trong năm Nhâm-tuất, ông ra đóng ở trấn Thanh-hóa. Có lẽ vào cuối năm ấy. Song hình như ông đã được trao quyền coi Ái-châu từ trước, nhưng chỉ phải dao-thụ, nghĩa là ở xa trông-coi mà thôi. Từ lúc đánh Chiêm-thành về, ông đã có chức Nam-bình tiết-độ-sứ (II/6). Nam-bình đây có thể trỏ ba châu mới được. Ta sẽ thấy rằng (XV/3), năm Tân-dậu 1081, Lý Thường-Kiệt có lần vào Thanh-hóa xử việc chia ruộng cho giáp Bối-lý. Vậy bấy giờ, ông đã được coi riêng đất Thanh-hóa rồi.
Lý Đạo-Thành mất năm Tân-dậu 1081. Chỉ còn Thường-Kiệt là kẻ chế lại ít nhiều uy-quyền của Nhân-tông. Ông đi xa, thì vua mới thân-chinh thực-sự được. Chắc đó là một cớ khiến ông vào trấn Thanh-hóa.
Và theo lời Triệu Tiết, vua và thái-hậu oán Thường-Kiệt đã gây chiến-tranh với Tống (X/5). Tuy những ý-tưởng của người Tống đối với người nước ta phần nhiều là những thành-kiến chủ-quan, nhưng trong cơn nguy-kịch, đang khi quân Tống uy-hiếp lăng-tẩm và kinh-thành nhà Lý, thái-hậu và vua, là đàn bà con trẻ quen sống thái-bình, êm-ấm, chắc chẳng khỏi có lúc nản lòng, và oán viên đại-tướng quen với trăm trận, không nghĩ đến sự nhàn thân. Vả bấy giờ chiến-tranh đã xong, mà lại đòi được tất cả những đất đã mất. Danh-dự và quyền-lợi đã bảo-toàn. Thế mà Thường-Kiệt còn gắt-gao đòi lại những đất Vật-ác, Vật-dương. Tháng 9 năm ấy, ông lại quân vào đánh Nùng Trí-Hội để chiếm đất Vật-dương, và có lẽ còn soạn-sửa tấn-công mạnh vào đất Tống nữa. Những lời Ngô Tiềm nói, và những tin đồn ở Quảng-tây rằng quân ta sắp đánh Tống, dẫn lại trong chương trước (XII/7), chứng-thực cho sự sửa-soạn ấy. Tự-nhiên, thái-hậu sợ vì ông mà chiến-tranh lại bùng nổ một lần nữa. Đó là cớ thứ hai mà thái-hậu và vua muốn ông bỏ chính-quyền.
Tuy vậy, như ta đã thấy, triều-đình Lý vẫn thiết-tha muốn đòi lại hai động Vật-ác và Vật-dương. Nhưng lại chỉ muốn dùng lối ôn-hòa. Trước đó bốn năm, Tống đã đòi Lý xử tội Thường-Kiệt đã gây chiến-tranh. Nếu ông rời ngôi tể-tướng, có lẽ sự điều-đình sẽ dễ-dàng hơn. Đó là lẽ thứ ba, khiến vua Lý Nhân-tông sai ông vào coi trấn Thanh-hóa.
Thường-Kiệt phải bỏ Thăng-long vào Thanh-hóa là một sự bất-đắc-dĩ, nhưng không phải là ông bị cách chức, hay khiển-trách. Vua Nhân-tông lại đặc-biệt đặt thêm một quân ở Thanh-hóa để phó cho ông, và phong ông một vạn hộ ở Việt-thường, nghĩa là ở ba châu ngoài dãy núi Hoành-sơn (Bia LX). Như thế đủ tỏ rằng tuy thôi chức tể-tướng, nhưng ông vẫn rất được tôn-trọng. Vả hình như trong hồi ông ở Thanh-hóa, các triều-thần như Lê Văn-Thịnh vẫn chịu ảnh-hưởng của ông trong việc điều-đình với Tống để đòi đất.
3. Thị-trấn Thanh-hóa
Thanh-hóa là một trấn giàu, rộng, được khai thác từ đời Hán, Đường. Nhân-dân trù-mật, và rất được giáo-hóa. Các việc cai-trị và hành-chính ở đó chẳng khác gì ở trung-nguyên chung-quanh Giao-châu.
Đời Đinh, Lê, đô đóng ở Hoa-lư, không xa Thanh-hóa mấy. Lê Hoàn lại là người Ái-châu (huyện Thụy-nguyên, làng Trung-lập có đền). Theo ĐNNTC, tục truyền rằng đền làm trên nhà họ Lê, tuy rằng Ngô Thì-Sĩ nói khác). Vì thế, đất Ái-châu được các vua Lê chú ý tới (2). Năm 993, Lê Hoàn phong cho con thứ bảy là Long-Túng làm Định-phiên-vương, coi Ngũ-huyện-giang ở Ái-châu.
Đến đời Lý, kinh-đô đóng tại Thăng-long. Đất Ái-châu liền đổi ra trại (1010, TT). Thanh-hóa hình như không được quan-tâm đến lắm. Các sử còn lại không chép một tên vị quan nào được bổ coi Ái-châu trong đời đầu Lý. Trong khoảng ba đời vua đầu nhà Lý, ta thấy sử còn chép dân nổi loạn sáu lần (3). Mỗi lần, hoặc vua thân-chinh, hoặc vua sai hoàng-tử đi dẹp. Năm 1061, Thường-Kiệt đã được sai đi kinh-phỏng ở Ngũ-huyện (1/3).
Theo đó, đất Thanh-hóa bấy giờ chỉ giao cho các châu-mục giữ, chứ không có đại-quân đóng. Mỗi lúc hữu-sự, thì sai quân ở miền bắc vào. Phải đợi đến năm 1082, Lý Nhân-tông mới đặt Thanh-hóa thành một trấn, có một đạo quân đóng luôn ở đó. Đạo quân ấy giao cho Lý Thường-Kiệt. Ta có thể coi đất Thanh-hóa gần như một nước nhỏ, tự-lập đối với triều-đình. Lý Thường-Kiệt tuy không có tước vương, nhưng là một Thiên-tử nghĩa-đệ. Vậy ông được hoàn-toàn tự-do hành-động trong trấn ông coi.
Trị-sở trấn Thanh-hóa bấy giờ ở gần xã Duy-tinh, huyện Hậu-lộc ngày nay. Bia chùa Sùng-nghiêm-diên-thánh ở Duy-tinh còn chép rằng chùa ấy ở góc tây-nam trấn-sở (XV/3). Vậy trấn-sở ở đông-bắc xã Duy-tinh. Xét bản đồ, ta thấy gần phía ấy, phía bắc con sông bé Ngu-giang, còn có vài làng rất lớn, có thể là nơi trấn cũ. Nếu đào đất khảo-cổ ở vùng đó, chắc sẽ cho ta biết rõ.
Trấn-sở có lẽ không to-tát, kiên-cố lắm ; vì mười lăm năm sau đã phải sửa-chữa nha-thự (Bia SNDT). Với lộc vạn-hộ ở Việt-thường và thuế cả Ái-châu, ông có thể xây đủ lâu-đài doanh-thự, nhưng hình như ông không muốn làm phí-phạm của dân.
Vả dân Thanh-hóa, cũng như dân khắp cả nước Đại-Việt đương-thời, sinh-hoạt cốt nhờ về nghề nông. Tuy cũng có những nghề nhỏ, như chăn tằm, dệt vải, đánh cá, trồng hoa quả, đốn gỗ, săn tê tượng, làm muối, làm công-nghệ và buôn-bán, nhưng đều là những nghề phụ. Kẻ trị dân tốt là kẻ không quấy-nhiễu dân, không làm dân tốn tiền, tốn của, phải chầu-chực việc công ; để dân có đủ thời-giờ cày cấy đúng thời, tát nước, làm cỏ. Kẻ trị dân tốt là kẻ nghiêm cấm tụi vô-lại cướp lúa, cướp tiền-của, ăn trộm trâu bò hay tranh-giành ruộng đất. Kẻ trị dân tốt lại là kẻ xử kiện công-minh, để cho kẻ bị áp-bức có đường kêu, cho kẻ phạm tội không oán-trách. Còn như những công-tác làm cho kinh-tế mở-mang, quốc-quĩ dồi-dào, nếu làm thì phải phiền đến dân trước đã : hoặc ép dân phải đi xâu, hoặc bắt dân phải đóng thuế. Cho nên một kẻ ” lương-mục ” ngày xưa thường tránh không làm.
Ta không biết Lý Thường-Kiệt trị dân bằng cách nào. Có lẽ ông chỉ chăm phủ-dụ, không làm phiền dân, xử kiện rất công bình.
Vị đại-sự Hải-chiếu Pháp bảo, là một người làm việc ở Thanh dưới quyền ông, đã ca-ngợi công-đức ông trong bài bia Linh-xứng. Lời bia nói rằng :
” Ông, trong tỏ khoan-minh, ngoài thì ân-huệ. Sửa-đổi tục xấu cho dân, không quản khó-nhọc. Làm việc thì cốt tránh làm phiền dân; sai dân thì cốt dỗ dân vui lòng làm việc; vì đó mà dân được nhờ. Đem bụng khoan-thứ cứu dân, lấy lòng nhân-ái yêu dân; vì đó mà dân kính-phục. Lấy vũ-oai để trừ lũ ác, lấy chính-luật mà xử kiện; nhờ đó mà không ai oán, cho nên ngục-thất chẳng cần coi. Xem sự đủ ăn là nguyện của dân, lấy việc cày cấy là gốc của nước; nhờ đó mà mùa không mất. Cai-trị giỏi cho nên không cần đánh dẹp. Nuôi-nấng những kẻ già-nua, cho nên kẻ già được yên. Đạo ông như thế, có thể gọi là gốc để trị dân, thuật để yên dân. Thật là đẹp-đẽ ! “
Bia chùa Báo-ân cũng chép : ” Đến năm Nhâm-tuất, Hoàng-đế đặc-gia một quân ở trấn Thanh-hóa, quận Cửu-chân, châu Ái, ban cho ông làm phong-ấp. Các châu-mục đều theo bóng, vạn nhân-dân đều mến đức “.
Tuy lời các bia là lời tán-dương của những kẻ thuộc-hạ. Nhưng ta cũng không có lẽ gì mà cho đó chỉ là lời nịnh-hót một vị quan trên, nhất là văn ấy lại viết sau khi Lý Thường-Kiệt đã rời Thanh-hóa, hay đã mất. Một sự chắc-chắn là từ khi ông ra coi Ái-châu, trong mười chín năm, không hề thấy sử chép một việc loạn gì ở vùng Thanh-hóa trở vào nam. Trái lại, sau khi ông trở về triều, ở Diễn-châu và ở miền giáp Chiêm-thành, lại có giặc quấy.
Trong lúc tại quận, nhân-dân yên-ổn, chính-sự nhàn-rỗi. Ông thường ngao-du sơn thủy, để thưởng-thức phong-cảnh đẹp lạ ở Thanh-hóa.
Ai đã ở qua vùng Thanh-hóa cũng phải nhận rằng núi sông ở đây khác hẳn các nơi. Núi phần nhiều núi đá, gọi là núi lèn. Núi trông lởm-chởm, có thể hình-dung được nhiều vật lạ, như Hàm-rồng, Chồng-mâm, Ngọc-nữ, Kim-đồng. Hoặc ở gần đường cái, hoặc nổi giữa đồng bằng, những núi đất và đá đều gần dân-gian, cho nên thường được trang-sức. Nhiều chùa đền được xây-dựng ở trên. Núi đá lại thường có nhiều hang-động, trong có thạch-nhũ thiên hình vạn trạng. Nào động Linh-quang, Bích-đào, Hồ-công, Kim-sơn, đều là những nơi đại-thắng-cảnh. Núi lại thường gần sông lớn. Cảnh trên đá dưới nước, gần chỗ thuyền bè đô-hội, làm cho du-khách càng đông. Nào Thần-phù, Sầm-sơn, Linh-trường, Bàn-a, Vân-hoàn đều có danh từ đời trước.
Lý Thường-Kiệt cũng đã bị những cảnh thiên-nhiên ấy cám-dỗ. Ông thường ngao-du. Đến đâu cảnh-trí thanh-u, ông dừng thuyền lên bộ, chọn chỗ xây đình, dựng chùa. Nay còn lại một vài vết tích, chương XV sẽ kể.
Những lúc khách kinh-kỳ tới viếng, những lúc sứ Chiêm-thành, Chân-lạp qua chầu, ông đón tiếp ân-cần. Đó cũng là những lúc đỡ tẻ trong đời êm-lặng của tướng-quân tại quận.
Các sử không chép việc ông ra trị Thanh-hóa. Vậy ta không biết rõ chính-tích của ông. Chỉ có bia chùa Hương-nghiêm còn ghi chuyện ông chia đất ở làng Bối-lý, và bia Linh-xứng chép chuyện ông, với một vị cao-tăng tới thăm ông, cùng đi du-lịch các sông núi, và chuyện ông dựng chùa Linh-xứng và nhà Thọ-đường mà thôi.
Về việc dựng chùa, sau này sẽ kể (XV/3). Sau đây là chuyện chia đất. Chùa Hương-nghiêm là một ngôi chùa cổ, lập ra từ đời Đường, ở giáp Bối-lý. Người sáng-lập là Lê Lương, một kẻ rất giàu-có và nhiều thế-lực trong hạt. Gặp năm đói-kém, ông lấy của nhà phát chẩn cho dân. Khi Đinh Tiên-Hoàng lên ngôi, vua ban cho ông chức-tước và thực-ấp. Thực-ấp ấy là đất chung-quanh chùa, có lẽ rộng như một phủ, huyện. Đến đời Lý Nhân-tông, họ Lê có vị đại-sư rất có tiếng là Đạo-dung. Sư lại có người anh họ, là Lưu Khánh-Đàm (XV/1), bạn thân của Lý Thường-Kiệt. Vì vậy, Thường-Kiệt đã, vì sư và Khánh-Đàm, sửa-chữa chùa Hương-nghiêm ở trong trị-hạt của ông.
Bia HN chép chuyện trên, nối lời rằng :
” Năm Tân-dậu (1081), hai phò-ký-lang, họ Thiều và Tô, xin đất phong ấp của họ Lê. Vua bèn xét, định trả lại giáp Bối-lý cho họ Lê. Mùa thu năm ấy, thái-úy Lý-công tới trả ruộng đất. Ông lập bia đá chia ruộng cho hai giáp…Thái-úy dặn đi dặn lại, bảo hai giáp không được lấy một lá lau-lách ở hai bên bờ phân-giới…”
Chính-tích của Lý Thường-Kiệt trong mười chín năm tại trấn, mà nay chỉ ghi được một việc cỏn-con như thế mà thôi. Thật là đáng tiếc, mà đáng trách các sử-gia và văn-sĩ ta đã không ghi chép việc thường ngày.
4. Trở về triều
Bia BA kể công-đức Lý Thường-Kiệt ở Thanh-hóa có nói : ” Trong mười chín năm, ông thực-hành tiết-tháo.” Ta có thể hiểu rằng ông ở Thanh-hóa trong mười chín năm, từ năm 1082 đến năm 1101. Sách TT chép vào năm Tân-sửu 1101 việc vua Nhân-tông cải nguyên, lấy niên-hiệu Long-phù (VSL chép Long-phù-nguyên-hóa) và cử Lý Thường-Kiệt kiêm chức nội-thị phán-thủ đô-áp nha-hành-điện nội ngoại đô-trị-sự, nghĩa là một chức quan hầu gần vua, và coi hết các việc trong ngoài cung điện. Như thế đủ tỏ rằng có sự thay đổi lớn ở triều trong năm ấy, và Lý Thường-Kiệt được gọi về kinh.
Hai chứng phù-hợp với nhau cho ta biết chắc rằng năm Tân-sửu, vua Lý Nhân-tông mời ông về Thăng-long giữ chức tể-tướng trở lại. Lúc rời kinh, ông 64 tuổi; bấy giờ trở về, đã 83 tuổi.
Vì lẽ gì có việc thay đổi nầy ?
Năm năm trước, thái-sư Lê Văn-Thịnh bị cách chức, vì có việc vua hiềm-nghi ông muốn dùng thuật-pháp để hại vua (XIV/6). Văn-Thịnh bị đày vào Thanh-hóa (4), giao cho Thường-Kiệt giữ. Sử không chép ai thay ở chức tể-tướng.
Sau đó mấy năm liền, nhiều hiện tượng thiên-nhiên xẩy ra, mà người ta cho là điềm xấu, báo sự Trời không bằng lòng nhân chính hay tin trước những sự tai-họa sắp xẩy ra, như : tật-dịch, binh-đao, hoặc một vị đại-thần, thái-hậu, vua sắp mất. Khi thấy có những điềm ấy, vua thường tự xét mình có tội-lỗi gì và tìm phương cứu-chữa. Hoặc sai xét lại các án, hoặc phóng-thích tù-nhân, hoặc cầu “trực-ngôn”, nghĩa là cho phép công-luận một cách không dè-dặt chỉ-trích chính-sách triều-đình và đề khởi những chính-sách mới. Cũng có lúc dùng lễ-bái để cầu Trời, cầu Phật tha lỗi, hay là dùng một cách giản-dị hơn, là đổi niên-hiệu để tỏ mình bắt đầu một kỷ-nguyên mới, như một người thường dân, gặp vận đen, đổi nhà hay đổi họ, đổi tên.
Năm Đinh-sửu, chín tháng sau khi Lê Văn-Thịnh phải tội, trên trời, sao hiện giữa ban ngày. Vua liền xá tội cho các tù-nhân giam ở nhà ngục Đô-hộ-phủ ở Thăng-long (VSL 1097). Một năm sau nữa, đất động, sao chổi lại hiện ra. Vua 35 tuổi, vẫn chưa có hoàng-trừ. Vua lập đàn, có xây núi Ngao-sơn trên đất cạn; dựng đài cao, chung-quanh treo đèn đủ sắc, đủ kiểu, ở trên có vũ-nữ múa, nhạc-công cử nhạc (VSL 1098). Rồi trong hai năm, vua Nhân-tông và thái-hậudựng nhiều chùa, ở núi An-lão (ở Kiến-an, 1099 VSL), ở núi Tiên-du (ở Bắc-ninh, 1110 VSL). Vua sai Kiều Văn-Tư đi sứ Tống để xin kinh Tam-tạng (tháng 7 năm C. Th 1110, VSL).
Vua cố gắng như vậy, nhưng tai-nạn cũng không tránh khỏi. Cuối năm Canh-thìn 1110, bệnh dịch phát to trong nước (TT và VSL, tháng chạp). Vì vậy, mà đầu năm sau, vua mới cải-nguyên và mời Lý Thường-Kiệt về kinh.
Ông có thay đổi chính-trị gì không ? Các sử ta chép những khoảng nầy rất sơ-sài, nên không thấy nói gì về chính-sự. Chỉ thấy trong mấy năm liền, chép rặt chuyện dựng chùa, xây tháp; chuyện sai hoàng-hậu và phi-tần ăn chay cầu-tự; và chuyện vua đi các hành-cung xem cày, gieo thóc, xem đánh cá, hoặc săn voi (VSL).
Tuy nhiên, ta cũng còn thấy sử chép một đôi việc, có thể đoán là do sáng-kiến của ông mà ra. Liền sau khi ông từ Thanh-hóa trở về triều, ông đổi châu Hoan ra phủ (5) Ngệ-an (VSL). Chắc rằng, ông đã thấy vị-trí quan-trọng của châu Hoan trong việc phòng-thủ nước nhà, nên ông cất xứ ấy lên hàng phủ để tăng số quân-lính coi giữ. Cuối năm Nhâm-ngọ 1102, lụt to, nên đầu năm sau ông sai các nơi trong và ngoài thành đều đắp đê chắn nước (VSL).
Tuy chính-tích ông còn ghi rất ít, nhưng ta cũng tin rằng sự ông về triều đã làm yên lòng vua và dân. Những năm sau đó đều là những năm thịnh. Sử còn chép rằng vào tiết lập-xuân, tháng chạp năm Nhâm-ngọ, đầu năm1103 (6), “thụy-tuyết” xuống. Tuyết là sương-muối chăng ? Bấy giờ cho rằng nó báo điềm tốt. “Rồng vàng” lại hiện, “mây tốt” cũng thấy trên trời, hươu đen tự nhiên tới. (VSL)
Vua ban áo lạnh cho các quan, đặt lễ thu-yến (VSL 1101). Thái-hậu đem tiền kho chuộc con gái nhà nghèo đã phải thế thân để trả nợ, rồi đem gả cho những đàn ông góa vợ nhưng không có tiền cưới vợ khác (TT và VSL 1103). Sứ Chiêm tới cống. Vua sai Đỗ Anh-Hậu đi sứ Tống. Thật là cảnh-tượng thái-bình. Chỉ có cuối năm Quí-vị 1103, đầu năm Giáp-thân 1104, có loạn ở miền nam, nhưng hình như cũng không nguy-kịch mấy.
Sau khi Lý Thường-Kiệt tự đem quân dẹp các loạn Lý Giác ở Diễn-châu (1103), và Chiêm-thành ở các châu Bố-chánh (1104), ông liền tổ-chức lại quân-đội trong nước. Tháng ba năm Giáp-thân 1104, duyệt lại các đơn-vị, từ cấm-binh đến dân-quân. Đổi hai đội binh Hoàng-nam-dũng-tiếp tả và hữu ra đô Ngọc-giai. Đô là đội thân-quân, hộ-vệ vua và giữ cung-điện. Đô Ngọc-giai là đô hầu bên “thềm ngọc”, tức là gần bên ngai vua. Đội binh Ngự-long được đổi ra đô Hưng-thánh và đô Quảng-vũ(7). Đó là cấm quân. Còn sương-quân thì có quân của các đại-tộc, tức là quân của các nhà quan có quyền-thế, nhưng không phải họ vua; và dân-quân vừa cày vừa làm lính, gọi là điền-nhi. Quân của nhà quan đổi thành línhVũ-thắng. Điền-nhi đổi ra lính Thiết-lâm. Sách VSL chép rõ những sự cải-cách trên. TT chỉ nói : “tháng ba, lại đổi hiệu các cấm-vệ-binh”.
5. Dẹp loạn Lý Giác
Nhưng sau khi Thường-Kiệt rời khỏi Thanh-hóa, dân miền nam lại có kẻ manh-tâm làm loạn. Tuy rằng Nghệ-an được củng-cố phòng-thủ hơn trước, ở đất Diễn-châu có Lý Giác chống với quan-quân. Tương-truyền rằng Giác học được phép phù-thủy, dùng âm-binh sai khiến quân lính giả, bện bằng rơm, bằng cỏ. Giác bèn chiêu-tập những kẻ vô-lại, chiếm Diễn-châu, đắp thành để làm loạn. (TT)
Sách CM chép lại chuyện trên theo TT, nhưng có thêm nhiều chi-tiết sau, mà không thấy ở sách hay bia cũ nào chép cả. Có lẽ CM lấy ở một thần-tích nào chăng ? Tin loạn Lý Giác báo về đến kinh, vua hỏi quần-thần ai có thể cầm quân dẹp nổi. Các quan đều trỏ Lý Thường-Kiệt, tuy rằng bấy giờ ông đã 85 tuổi. Vua nói : “Giặc Lý Giác kiệt-hiệt. Nên chọn tướng trẻ tuổi mà địch nó. Thường-Kiệt dự việc binh đã lâu năm, nay đã già rồi. Nếu nay Trẫm lại còn giao cho việc quân, thì không đành lòng Trẫm muốn đãi kẻ lão-thần”. Thường-Kiệt cúi đầu tâu rằng : “Tôi từ trước, chưa từng học mưu lược của kẻ làm tướng. Thế mà đánh Chiêm, phạt Tống, may được thành-công. Đó là nhờ đức thiêng của Bệ-hạ, và sự gắng của các tướng-thần. Nay nhờ ơn nước, tôi được ngôi cao, lộc trọng thế này. Nếu cứ ngồi yên xem giặc Giác làm kiêu, thì tôi sẽ chết không nhắm được mắt”. Rồi ông tình-nguyện đi đánh. Vua ban lời khen ngợi, và bằng lòng để ông đi.
Diễn-châu là đất phía bắc tỉnh Nghệ-an và có lẽ gồm một ít đất Thanh-hóa. Thường-Kiệt đem quân đến đánh. Lý Giác thua, bỏ chạy vào Chiêm-thành. Dư-đảng bèn tan.
Việc loạn Lý Giác này cũng như việc đánh Chiêm-thành năm sau, có lẽ không phải là một cuộc xuất quân quan-trọng như CM có ý kể lại trên đây. VSL không hề chép hai việc ấy. Còn VĐUL chỉ nói qua về Lý Giác mà thôi. Dẫu sao, chuyện Lý Giác có kết-quả là gây lại mối chiến-tranh với Chiêm-thành một lần nữa.
6. Đuổi quân Chiêm
Lý Giác chạy trốn vào Chiêm-thành, nói rõ tình-hình trong nước ta cho vua Chiêm nghe. Theo TT, vua Chiêm bấy giờ là Chế ma-na; Maspéro nói là Indravarman II. Có lẽ Giác mách vua Chiêm rằng từ khi Nhân-tông thân-chính, về vũ-bị không gia-ý như trước. Cho nên vua Chiêm đem quân vào chiếm lại các đất Lâm-bình, Minh-linh và Bố-chánh mà Chế-củ đã nhường cho ta.
Tháng hai năm Giáp-thân 1084, vua Lý sai Thường-Kiệt đem quân vào đuổi. Quân Chiêm thua. Chế ma-na phải trả lại ba châu ấy. (TT)
Như trên đã nói, việc đánh Chiêm-thành này không kịch-liệt. Đó chỉ là một cuộc tuần-biên. Một mình TT chép chuyện mà thôi. Các sách VSL và VĐULđều không nói đến. Các bia đời Lý cũng không bia nào ghi việc ấy cả. Nhưng nếu ta xét lịch-sử bang giao Chiêm-Việt từ lúc Tống-Lý chiến-tranh, ta cũng có thể hiểu được rằng cuộc xung-đột lần nầy có thể xẩy ra, nhưng cũng chẳng quá một cuộc xích-mích ở biên-thùy.
Trước đó, Chiêm-thành đã nghe lời Tống, đem quân chực đón đánh quân ta, trong khi quân Quách Quì tấn công mặc bắc để dồn quân ta xuống cõi miền nam (1076-1077). Nhưng sau, thấy quân Tống phải rút lui, Chiêm-thành lấy làm lo, sợ ta trả thù. Vì vậy, trong năm 1077, Chiêm sai sứ tới nước ta; và sứ-thần Chiêm, khi tới Biện-kinh cùng một lúc với sứ ta, đã tìm cách tránh mặt (XII/3). Sách VSL chép rất kỹ về việc sứ Chiêm tới, và còn cho ta biết rằng từ năm 1081 đến 1091, năm nào sứ Chiêm cũng đến cống vua Lý. Trong khoảng ấy, vua Lý cũng có sai Mạc Hiển-Tích đến nước Chiêm một lần (TT 1084). TT nói là để đòi lễ tuế-cống, nhưng có lẽ không phải, vì mấy năm liền, Chiêm không hề thiếu cống.
Năm 1092, vua Chiêm hơi đổi ý. Nhân sứ Chiêm tới Tống, vua Chiêm xin Tống đem quân đánh Lý, và hẹn sẽ tập-kích để yểm-hộ. Vua Tống nói rằng : “Chiêm-thành có thù cũ với Giao-chỉ. Hiêïn nay, Giao-chỉ vẫn giữ thần-tiết vào cống thường-thường. Vậy khó lòng bàn việc cất quân đánh Giao-chỉ”. (TB 470/1a).
Chiêm-thành nghỉ cống trong ba năm. Năm 1094, lại bắt đầu sai sứ đến triều Lý, hoặc một, hoặc hai năm một lần (8), cho đến hết đời Lý Nhân-tông. Nhưng chính năm 1103, không thấy sử chép Chiêm tới cống, mà năm 1104 lại có. Xemvậy, ta có thể hiểu rằng, đó là vì có Lý Giác xui-giục Chiêm-thành vào đánh nước ta. Vua Chàm sẵn thù vua Lý, nên bị lầm, tưởng nước ta bấy giờ yếu, nên mới đem quân vào chiếm miền nam. Nhưng khi Thường-Kiệt kéo quân vào, thì quân Chiêm liền lui. Vua Chiêm lại sai sứ tới Thăng-long như cũ (VSL 1104). Vả Thường-Kiệt cũng không có ý kéo quân vào chiếm thêm đất Chiêm. Bấy giờ ông đã 85 tuổi. Tuy không hăng-hái như trong trận năm1069, nhưng già như vậy mà còn cầm quân đi xa hơn ngàn dặm, so với chuyện Mã Viện đời Hán cũng chẳng kém gì.
7. Huân-dự cuối cùng
Vua Nhân-tông nghị công ông đánh-dẹp, đem vũ-uy làm chấn-động từ Tống đến Chiêm, bèn chế bài hát để tán-dương công-trạng. Rồi ban ông chức : Triều-quốc thái-úy, thủ thượng-thư-lệnh, khai phủ nghị-đồng-tam-ti, kiêm ngự-sử đại-phu, dao thụ chư trấn tiết-độ-sứ (NBS).
Nhưng tuổi già, ông không chịu nổi gian-lao trong cuộc đuổi quân Chiêm. Năm sau, vào tháng 6 năm Ất-dậu 1105, ông mất tại kinh-đô. Thọ 86 tuổi (NBS chép 87). Các sử TT và VSL đều chép như trên. TT và VĐUL có thêm : vua tặng quan-chức tước-lộc như sau : Nhập-nội-điện đô-tri kiểm hiệu-thái-úy, bình-chương quân-quốc-trọng-sự, Việt quốc-công, thực-ấp vạn hộ (9).
Vua lại phong cho em là Thường-Hiến nối tước hầu. Theo NBS, vua ban tên thụy là Mục-uyên.
Nhữ Bá-Sĩ nói mộ Lý Thường-Kiệt đặt tại làng Yên-lạc, huyện Kim-động, tỉnh Hưng-yên ngày nay (10).
Đầu đời Lý Anh-tông, niên-hiệu Thiệu-minh (1138), vua sai trấn quan lập đền ở núi Ngưỡng-sơn (Thanh-hóa), tại nhà Thọ-đường (chắc là sinh-từ), bên cạnh chùa Linh-xứng, mà ông đã từng dựng lên. Vua lại sai dân hai tổng (NBS chép tổng, nhưng chế-độ tổng là đời sau mới đặt ra) Ngọ-xá và Hoàng-xá phụng-sự. Mỗi năm có ban quốc-tế (NBS). Đời Trần Nhân-tông, năm đầu niên hiệu Trùng-hưng (1285), vua ban sắc, phong ông tước Trung-phụ-công. Năm Trùng-hưng thứ 4 (1288), lại gia-phong hai chữ Dũng-vũ. Đời Trần Anh-tông, năm Hưng-long thứ 21 (1313), lại tấn-phong làm Uy-thắng-đại-vương (đó là theo NBS, VĐUL chỉ nói gia-phong hai mỹ-tự Uy-thắng mà thôi). Về đời sau, nhiều lần được phong thêm hai chữ mỹ-tự. Cho đến đời Tự-đức thứ 29, 1876, đã có 258 chữ. (NBS)
Trong sổ Bách thần-lục đời Tự-đức, Lý Thường-Kiệt chỉ được liệt vào trung-đẳng, và thường có hiệu Quảng-uy Lý tôn-thần, hay Mục-uyên vũ-dũng thần, hay Thái-úy Việt-quốc-công tôn-thần, hay nói tắt Lý Thái-úùy tôn-thần.
Ngày nay, còn có một vài nơi có đền thờ Lý Thường-Kiệt. Đền chính ở xã Ngọ-xá, phủ Hà-trung (Thanh-hóa). Theo bia NBS thì huyện Kim-động (Hưng-yên), và huyện Vĩnh-thuận (gần trường đua ngựa ở Hà-nội), cũng có đền. Trong mục-lục sách VĐUL, có chép đền ông ở Gia-lâm-hương. Nhưng nay không rõ ở đâu nữa.
Đền mà NBS nói ở các làng thuộc Kim-động (nay, một số ăn về huyện Đông-an), thì không phải thờ Lý Thường-Kiệt (11). Đền Vĩnh-thuận, thì nay có lẽ là một ngôi đền nhỏ, lẫn vào những nhà dân làm nghề trồng rau ở làng Vĩnh-phúc, gần đua-ngựa. Kẻ thủ-từ, cho đến dân làng, cũng không biết đích-xác thần là ai nữa. Mà xét ra, thì đền cũng không giữ được dấu vết gì xưa.
Đền Ngọ-xá tuy cũng nhỏ, nhưng ở vào địa-thế rất đẹp. Đền ở xa thành-thị, nên còn giữ được tính-cách một miếu thần. Theo bia NBS ở đền, thì đền nầy lập từ đời Lý Anh-tông (1138), nhưng sau bị đổ nát. Đến đời Lê Trung-hưng, vua Lê tin rằng thần đã giúp mình đánh Mạc, nên sai dân xã Ngọ-xá trùng-tu, và cấp cho 20 suất tảo-lệ, và 18 suất lệ-phu coi việc tế-tự và giữ đền.
Năm Cảnh-hưng thứ hai (T.Zu 1741), vua sai theo lệ trước lập đền ấy. Giao cho dân ba thôn Bùi, Đồ, Thị trông coi việc tế-tự. Những kẻ sung vào việc đền đều được tha hết thuế, dịch khác. Năm Cảnh-hưng Bính-thân 1776, lại gia phong cho đền hai chữ tối linh, nghĩa là rất thiêng (theo tựa thần-tích ở làng Ngọ-xá).
Những điều ban ấy, thì trước năm 1942 đã bỏ hết; nhưng miếu vẫn còn. Miếu ở phía tây Đò-lèn, cách cầu xe lửa chừng hai cây-số. Miếu dựng trên bờ bắc sông Lèn (Nga-giang), ở chân nam núi Ngưỡng-sơn. Về kiến-trúc, miếu không có gì đặc-biệt. Chỉ có ba gian nhà ngói sơ-sài, trên một nền đất cao. Trong đền, tự-khí chỉ có ba hương-án với một ngai và đồ ngũ-sự bằng gỗ mà thôi. Vật gì cũng là đồ mới, đơn-sơ. Trên thềm miếu có hai tấm bia, là đồ cũ hơn cả. Bia ở phía tây, là bia NBS, mới làm và khắc đời Tự-đức thứ 29 (1876). Bia ấy khá lớn, chữ khắc cả hai mặt. Bài bia là thần-tích do Nhữ Bá-Sĩ, là một nhà nho-học có tiếng trong đời Thiệu-trị, Tự-đức ở Thanh, soạn theo thần-tích cũ, lại có tham-khảo Việt-sử, Tống-sử và các sử khác. Tuy trong đó có những sự chép sai lầm, nhưng đối với các ký-tải khác, thì đầy-đủ hơn cả.
Bia đặt phía đông là bia chùa Linh-xứng, nay đem vào để gửi đó. Bia khắc đời Lý. Chữ còn rất rõ, nét rất tốt (Xem ảnh III). Bia nhỏ hơn bia NBS, làm bằng đá xanh thớ mịn. Không trang-sức. Những chữ triện ở “trán” đẹp, và nhất là con rùa đội bia lại có vẽ mỹ-thuật. Bài văn bia và bài minh rất dài, khắc hết cả hai mặt bia. Người soạn văn bia là một vị cao-tăng đã từng làm việc dưới quyền Lý Thường-Kiệt. Trong chương XV sẽ nói rõ về bài bia này.
Trước đền có đám đất hoang, hơi trũng, hình như là một cái hồ cũ. Trước vườn có cửa tam-quan gồm bốn cột gạch sơ-sài. Trước cửa là đường đê, thông-lộ từ huyện Nga-sơn đến huyện Vĩnh-lộc. Bên kia sông, có đền thờ Lý Thường-Hiến, có vẻ tráng-lệ hơn nhưng lại không có bia đời Lý.
8. Dư-luận
Công-trạng Lý Thường-Kiệt lớn-lao như thế. Đời Lý đã rất được tán-dương. Các bia Linh-xứng, Báo-ân và Hương-nghiêm đã ghi lại một vài lời tán-tụng.
Trong lời minh ở bia LX, Hải-chiếu đại-sư đã viết :
Nguyên văn : Nghĩa là
Việt hữu Lý-công, Việt có Lý-công,
Cổ-nhân chuẩn thức Theo dấu người cổ.
Mục quận ký ninh, Coi quận yên dân,
Chưởng sư tất khắc. Đánh đâu được đó.
Danh dương cực Hạ, Tiếng động cõi xa,
Thanh chấn hà-vực. Danh lừng Trung-thổ.
Tông-giáo qui-sùng, Dựng phúc chốn này,
Cảnh phúc thị thực. Qui sùng Phật-tổ.
Bia BA có những câu ca-tụng huân-nghiệp ông rằng : ” Đồ lâm đại-tiết, ngôn thụ chuyết-lưu. Tín hồ : lục xích chi cô khả thác, bách lý chi mệnh khả ký. Quyết hậu, nãi thệ vu sư ; bắc chinh lân-quốc, tây thảo bất đình. Thiện thất túng thất cầm chi thắng địch. Phi Hán hữu Hàn Bành chi công, khởi Tề hữu Quản Yên chi liệt. Duy Công phụ quân, quốc-gia ân phú đa lịch niên, sở khả thùy thần-đạo thiên-cổ chi hi-tích dã. ” Nghĩa là : ” Mưu thì đương được tiết lớn, lời thì nhận được mệnh to. Vua trẻ mồ-côi có thể gửi cho ông ; lệnh sai đi có thể giao cho ông. Sau, ông dốc lòng về việc quân : bắc đánh nước láng giềng, nam phá nước không phục-mệnh. Hay thắng địch bằng cách bắt rồi lại thả. Chẳng phải như công Hàn Tín, Bành Việt, ở Hán ; há không bằng công Quản Trọng, Yến Anh ở Tề hay sao ! Thật, ông giúp vua, làm nước nhà giàu mạnh đã lâu năm. Như thế có thể để lại muôn đời cái chính-tích sáng láng của kẻ bầy tôi đó ! “
Bia STDL tán-dương vũ công đời Nhân-tông có những câu :
” Trên ngôi yên lặng, quanh nước vỗ-về. Thình-lình biên-lại làm xằng ; đến nỗi bắc-thùy có biến. Dồn-dập ruổi quân cự-địch, ầm-ầm sấm động ra uy. Thành Ung-châu ức nghìn quân giặc, tan-tành như trận gió cuốn mây ; sông Như-nguyệt trăm vạn binh thù, vỡ-lở như mặt trời đốt giá. Tuy ngoài trận, tướng-quân ra sức ; nhưng trong cung, hoàng-thượng bày mưu. Từ đó về sau, ngôi cả thảnh-thơi, nhân-dân phú-thọ. Gió nhân thổi hóa dân ngu, mưa huệ thấm nhuần cõi lạ. Vua Chiêm Sạ-chế, bỏ cung-thất xin tới làm dân ; chúa nước La-vu, lìa sơn-hà sang qui chịu phục. Chúng đều dốc chí kính tôn, nghiêng lòng theo dõi. “
Chỉ cần nhắc lại rằng bấy giờ vua Nhân-tông mới lên mười tuổi, thì ta đủ hiểu rằng lời khen trên qui vào Lý Thường-Kiệt là kẻ vừa cầm quyền vừa cầm quân.
Đời Trần tuy không có văn tán-dương công-trạng Lý Thường-Kiệt để lại, nhưng sách Việt-điện u-linh viết đời ấy, còn chép chuyện ông, và nói vua Trần Nhân-tông phong sắc thần cho ông. Thế cũng đủ biết danh ông còn lừng-lẫy ở đời ấy. Chỉ tiếc rằng Lê Văn-Hưu, trong Đại-Việt sử-ký, không để lại một lời bàn.
Đầu nhà Lê, Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại-cáo, có nói rằng hào-kiệt nước ta đời nào cũng có ; cho nên ” Triệu Tiết nghe tiếng giật mình ! “. Đó là một câu để ca-tụng kín-đáo Lý Thường-Kiệt.
Trong đời Lê Thánh-tông, văn-học đại-thịnh. Tuy đối với những kẻ hoạn-thần, sử-gia đã có lòng khinh-dể, nhưng Ngô Sĩ-Liên khi chép đến trận Ung-châu, cũng phải phê-bình : ” Vua Tống ban tên thụy cho Tô Giàm là Trung-dũng, cũng đủ làm rạng lòng trung-dũng của Lý Thường-Kiệt ” (TT)
Đặng Minh-Khiêm (đậu Hoàng-giáp đời Hồng-đức thứ 18, năm 1497) có bài thơ vịnh Lý Thường-Kiệt trong Thoát-hiên vịnh-sử-thi :
Đệ huynh chỉ-xích thị minh-quang
Tài lược kiêm ưu hữu mão dương.
Bắc phạt, nam chinh, huân-nghiệp trước.
Thù phi môn ngoại tiểu điêu-đương.
Nghĩa là :
Anh em chầu-chực chốn đền đài,
Tài lược gồm hay, lại đẹp giai.
Đánh bắc, bình nam, huân-nghiệp rạng
Hoạn-thần nhưng khác lũ hầu-sai.
Dư-luận đời Hậu-lê thường chú-ý đến sự Thường-Kiệt là một hoạn-quan, hoặc có ý tiếc rằng sự-nghiệp ấy không vào tay một nho-thần, hoặc có ý tự-phụ rằng hoạn-quan nước Việt còn thế, huống chi nho-thần ! Tự-nhiên, đó chỉ là những dư-luận của nhà nho, nhờ chữ nho mà nay còn sót lại. Còn dư-luận của các hạng người khác ra sao, thì ta không thể biết được.
Ngô Thì-Sĩ là người đã chịu khó khảo-sát các sách Trung-quốc để tăng-bổ đoạn sử Lý Thường-Kiệt. Ông đã phê-bình nhiều về họ Lý. Thì-Sĩ viết : ” Nước ta với Bắc triều đánh nhau nhiều lần, khi thắng, khi bại. Sau đó, Ngô Tiên-chúa được trận ở Bạch-đằng, Lê Đại-hành giết giặc ở Lạng-sơn. Trần Nhân-tông bại Toa-đô, bắt Ô-mã-nhi, đuổi Thoát-hoan. Ấy là những việc mà nước ta thích khoe. Nhưng những cuộc thắng trận ấy, đều vì giặc đến trong nước ta bất-đắc-dĩ mà chống. Bên mỏi, bên nhàn khác nhau ; thế chủ, thế khách chênh-lệch. Đến như, bày trận đường-đường kéo cờ chính-chính ; mười vạn quân kéo thẳng sâu vào đất khách ; phá quân ba châu như chẻ trúc ; lúc tới cõi không ai dám địch ; lúc rút quân không ai giám đuổi ; dụng binh như thế, chẳng phải nước ta vốn chưa từng có bao giờ ? Vậy cho nên, tôi cho rằng việc các châu Ung, Liêm, Khâm là vũ-công đệ nhất từ xưa nay ở nước ta. Lý Thường-Kiệt khởi thân là một quan hoạn, mà lập được nhiều công lạ liền-liền. Người Tống thật phải xấu-hổ !
” Hoặc có kẻ hỏi tại sao không gióng trống thẳng tiến ? Nếu không đến kinh-đô nhà Tống, thì cũng lấy lại đất của nhà Triệu ta xưa. Xin trả lời : Phải biết người, biết ta. Trăm trận mà không biếng, đó là phép dụng vũ hay đó. Xét thấy nhờ việc này, mà ta trương vũ-uy. Người Tống thấy ta mạnh, bèn nghĩ đến cách lấy ân-ý mà đãi ta. Từ đó về sau, nghi-lễ cống-sính, lời-lẽ văn-thư, đều không sách-hoạch lôi thôi nữa… ” (SK 1076 và Việt-sử tiêu-án).
Qua đời Nguyễn, nghị-luận cũng quanh-quất trong hai ý ấy : tán-dương vũ-công, chú ý đến sự xuất-thân là hoạn-thị. Từ vua Tự-đức trong Việt-sử ngự-chế tổng-vịnh, qua bia Nhữ Bá-Sĩ, cho đến người phê-bình nhân-vật chép trong VĐUL, đều lặp đi lặp lại hai ý ấy.
Ngày nay chúng ta không thành-kiến, có thể xét sự-nghiệp Lý Thường-Kiệt một cách công-minh.
Đọc hết đoạn sử này, ai cũng phải nhận rằng Lý Thường-Kiệt đã có công đặc-biệt đối với vận-mệnh nước ta : là mở cõi miền nam và miền bắc, chống thắng cuộc xâm-lăng của nước ngoài và củng-cố biên-thùy mọi mặt, khiến các lân-bang kính-nể.
Đạt được mục-đích ấy là nhờ dân ta đời Lý đã đông-đúc. Lại nhờ kẻ cầm quyền đã biết tổ-chức binh-đội, biết lợi-dụng đức-tính bền-bỉ của nông-dân ở đồng-bằng, tập-tính giỏi nghề đi sông đi bể của dân miền bể và sự hiểu thiên-thời, địa-lợi của dân thượng-du.
Trái lại, tuy Tống có của-cải nhiều, binh-mã giỏi, tướng có kinh-nghiệm, vua có chí to, nhưng những cái sở-trường ấy dùng không hợp với mục-đích xâm-lăng, không hợp với địa-hình, thời-tiết miền nam. Cũng tướng ấy, quân ấy, nếu để ở biên-thùy băÙc thì chắc có thể ngăn cản được quân Liêu, Hạ. Nhưng vua Tống lại đem chúng tới vùng nóng-nực, rừng núi, xa làng-mạc chúng. Chỉ nêu danh-nghĩa đem quân đi phạt man-di, thì có lẽ chỉ làm phấn-khởi lòng các tướng-tá, vì họ mong thắng trận rồi được thăng chức-tước. Nhưng đối với quân ô-hợp lượm ở miền bắc, thì chỉ có sự mong muốn cướp-bóc, hiếp-chóc, họa may mới làm chúng chiến-đấu hăng-hái. Khốn nỗi, quân chưa từng xuống đến miền giàu có, mà đã bị thiệt-hại nhiều rồi. Cho nên không ai có lòng chiến-đấu.
Lý Thường-Kiệt đã biết đem sự bất-kỳ chống với sự mạnh, đem chỗ mình giỏi chống với chỗ địch kém, đem quân được nghỉ ngơi đợi quân phải mệt-nhọc, đem sự nhẫn-nại chống với sự kiêu-căng, và nhất là lấy nghĩa sinh-tồn của một dân-tộc đối với lòng cầu danh của một vài nhân-vật địch. Đó là những cớ chính làm cho quân Lý thắng và quân Tống phải thua.
Công Lý Thường-Kiệt là to. Tài cầm quân Thường-Kiệt là cao đã đành, mà đến chính-sách nội-trị và ngoại-giao của Thường-Kiệt cũng khéo. Thường-Kiệt lại không tự-ái quá, biết trọng quyền-lợi chung. Nếu không, thì sao khi vua còn nhỏ, ông cầm hết quyền-bính và quân-đội trong tay, mà không bắt chước Lê Hoàn hay Lý Công-Uẩn, chỉ ra một lệnh là cướp được ngai vàng ? Nếu không, thì sao khi thấy tình-thế ngoại-giao với Tống trở nên khó-khăn bởi mình, ông lại chịu bỏ ngôi tể-phụ mà ra lủi-thủi ở trấn Thanh-hóa ?
Tuy sách-sử ta chép chuyện sơ-sài. Nhưng xét qua những sự còn ghi trong những sách Tống ta cũng hiểu được ít nhiều đức-tính của Thường-Kiệt.
Chỉ tiếc rằng riêng về cá-tính của ông, thì không có những chứng làm cho ta biết rõ ràng hơn. Những lời nói mà bia Nhữ Bá-Sĩ và sách Cương-mục còn chép, vào khoảng đồng-ấu và lúc già, thì không có gì chắc-chắn. Sợ đó chỉ là lời sáo-ngữ mà sử-quan hay người viết thần-sắc và dã-sử đã bịa ra mà thôi. Chỉ có một điểm mà ta chắc-chắn, là thái-độ của Thường-Kiệt đối với đạo Phật. Tuy ông không mê đạo, nhưng ông cũng đã che-chở các tăng-đồ, và ít ra, cũng đã dựng chùa Linh-xứng ở Thanh-hóa.
Chùa ấy nay cũng đã mất. Ngoài cái bia chùa còn lại, tuyệt-nhiên không còn có vật gì kỷ-niệm một vị ân-nhân của dân-tộc ta. Tưởng nay đã đến lúc ta có thể đền-bù công đức của Lý Thường-Kiệt.
CHÚ-THÍCH
(1) – Bia HN chép việc chữa Hương-nghiêm, có nói : ” năm Đinh-tị 1077, sư Đạo-dung nhờ Lưu Khánh-Đàm chữa chùa. Khánh-Đàm nghe lời, bèn nói chuyện ấy với quốc-tướng thái-úy Lý-công…” Chữ tướng đây là tể-tướng. 1.
(2) – Sách TT chép chuyện Lê Hoàn đánh các tướng nhà Đinh, là Đinh Điền, Nguyễn Bặc ở Tây-đô (979 TT 1/7b). Nhân dó chú-thích: ” Hoàn người Ái-châu, đóng đô ở Hoa-lư; cho nên sử gọi Ái-châu là Tây-đô “.
Năm N. Ng 982, Lê Hoàn đi đánh Chiêm-thành, đem quân từ Hoa-lư qua đường núi, qua huyện Thạch-thành, Vĩnh-lộc, đến đền Đồng-cổ (ở xã Đan-nê, trên trung-lưu sông Mã), từ đó đến sông Bà-hòa (?), đường núi hiểm-trở, binh-mã phải khó-nhọc. Đường bể thì bị sóng gió. Cho nên Lê Hoàn sai đào “Hải đạo tân cảng”, nghĩa là sông mới trên đường bể. Đến năm 984 mới xong (TT). Có lẽ đó là sông nối sông Thần-phù ở Ninh-bình và sông Chính-đại ở Thanh-hóa, mà ngày nay còn dùng.
Năm K. Su 989, Lê Hoàn thân-chinh Dương Tiến-Lộc, vì Tiến-Lộc không chịu nghe lệnh thu thuế ở Hoan-châu, và Ái-châu (TT và VSL).
Năm Q. Ti 993, phong con thứ năm, Long-Túng, làm Định-phiên-vương, ở vùng Ngũ-huyện-giang (TT). Năm G. Ng 994, phong con thứ mười, Long-Mang, làm Nam-quốc-vương ở châu Vũ-long (phía nam Thanh-hóa). (TT).
Năm T. Su 1001, Lê-Hoàn thân-chinh giặc Cử-long ở Thanh-hóa. Trông thấy Hoàn đằng xa, tướng giặc trương cung nhắm bắn, thì tên rơi. Lại trương cung bắn lần thứ hai, thì cung gãy. Nên giặc sợ mà lui quân. Hoàn bèn đưa thuyền vào sông Cùng-giang đuổi theo. Bị giặc nấp hai bên sông bắn. Con Đinh Tiên-Hoàng là Vệ-vương Tuấn tử-trận. Hoàn kêu trời ba tiếng, rồi thúc quân đột chiến, giặc bèn thua (TT và VSL). Nhữ Bá-Sĩ trong Thanh hóa-chí đã nhận thấy rằng huyện Cẩm-thủy có tổng Cự-lữ và các xã Lữ-thượng, Lữ-trung, Lữ-hạ và nói đó là do tên Cử-long xưa mà ra. Nếu Cử-long là Cẩm-thủy, thì sông Cùng-giang cũng không xa đó. Nhưng VSL chép hai lần sự vua Lý Nhân-tông đi xem đánh cá ở Cùng-giang (1101, tháng 2 và tháng 9) và lúc tháng 2, lại đi xem cày ở Ứng-phong (phủ Nghĩa-hưng ngày nay, theo CM). Không biết rằng đó là sông Cùng-giang khác, hay là cũng là sông Cùng-giang kia ở Thanh-hóa, nhưng gần phủ Nghĩa-hưng. Hoặc ấy là sông Chính-đại đã nói trên chăng ? Thế cũng có lý, vì dân Cử-long có thể đã xuống đánh vùng Nga-sơn ngày nay, cho nên măm 1001, Lê Hoàn vào dẹp ở đó. Tôi tin như thế là đúng, vì bốn năm sau, là năm 1001, dân Cử-long lại tới đánh cửa Thần-đầu, tức là Thần-phù. Dân Cử-long chắc là dân Mường ở các huyện thuộc miền bắc và tây-bắc Thanh-hóa.
Năm A. Tị 1005, sau khi Lê Hoàn mất, các con tranh nhau ngôi. Đông-thành-vương chạy vào Cử-long, rồi bị Long-Việt đuổi theo, bèn chạy vào Chiêm-thành, nhưng bị giết ở cửa Kỳ-la (Hà-tĩnh). Long-Việt lên ngôi, liền bị Long-Đĩnh giết. Trong khi Long-Đĩnh đi đánh các anh em ở mọi nơi, thì nghe dân Cử-long lại vào cướp, và đã đến cửa Thần-đầu (Thần-phù). Long-Đĩnh đi thuyền tới đánh tan. (TT)
Năm Q. Ma 1003, Lê Hoàn đi chơi Hoan-châu (TT). Có ghé thăm Thanh-hóa và viếng chùa Hương-nghiêm (bia HN).
Năm K. Zu 1009, tụi Ngô Đô-Đốc, Kiều Hành-Hiến xin đào sông đắp đường, dựng bia chỉ đường ở Ái-châu. Long-Đĩnh sai quânvà dân Ái-châu đào sông và đắp dường từ cửa quan Chi-long, qua núi Đỉnh (hay Hạng TT), đến sông Vũ-lung. Long-Đĩnh lại đi chơi Ái-châu. Tới sông Vũ-lung. Tục truyền rằng ai lội qua sông ấy hay bị chết đuối. Long-Đĩnh sai người lội qua lại ba lần, mà không việc gì. Bèn sai đóng đò để bốn chỗ trên sông, cho người qua sông (TT). Về Chi-long, sách Thiên-hạ lợi-bệnh thư có nói Chi-long-quan ở huyện Chi-nga, tức là Nga-sơn ngày nay. Sông Vũ-long, chữ nho viết vũ là trái với văn, lung là thủy với long. Bia HN có chép tên đất Vũ-long, nhưng vũ là múa và long là rồng. Theo nghĩa văn bia, thì đất ấy ở phía nam sông Lương. Chắc rằng Vũ-lung và Vũ-long là một. Sông Vũ-lung có lẽ là sông Ngọc-giáp ở phía nam huyện Quảng-xương ngày nay.
Năm M. Ta 1008, Long-Đĩnh đánh Ái-châu (VSL, còn TT nói đánh Hoan-châu), bắt người ta bỏ cũi mà đốt. 3.
(3) – Năm T. Ho 1011, tháng 2, Lý Thái-tổ đem đại binh đánh diệt hẳn giặc Cự-long, bắt được thủ-lĩnh đem về. (TT và VSL)
Năm K. Ti 1029, dân giáp Đãn-nại nổi loạn. Tháng 4, Lý Thái-tông thân-chinh. Dẹp yên (TT, VSL). Sai dân Đãn-nại đào sông Đãn-nại (TT)
Năm T. Vi 1031, Thái-tông đi đánh Hoan-châu (TT, VSL). Ghé chơi Ái-châu, qua thăm chùa Hương-nghiêm (bia HN).
Năm A. Ho 1035, Ái-châu có loạn, tháng 10 Thái-tông thân-chinh. Xử tội mục-trưởng Ái-châu (TT, VSL).
Năm Q. Vi 1043, tháng giêng, Ái-châu lại nổi loạn. Vua sai hoàng-thái-tử Khai hoàng-vương dẹp yên (TT, VSL).
Năm C. Da 1050, dân giáp Long-trì thuộc Ngũ-huyện-giang ở Ái-châu nổi loạn. (VSL).
Năm T. Ma 1051, sai kiêu-vệ tướng-quân Trần Nậm đem người Ngũ-huyện đào sông Cá-Lẫm. 3.
(4) – TT chép Văn-Thịnh bị đày lên miền nguồn Thao-giang, (Thượng-lưu sông Nhị). Nhưng VSL chép : bị đày lên nguồn Lương-giang. Làng Bối-lý (XV/3) có sinh Lê Quát, đậu trạng-nguyên đời Trần Minh-tông. Tục truyền rằng ông là dòng-dõi Lê Văn-Thịnh. Vậy sự Lê Văn-Thịnh bị đày vào Thanh-hoá có lẽ đúng. Vả chăng đất Thanh-hóa là đất để giam tù-nhân. Ví-dụ năm 1128, đày dân làm loạn ở Quảng-nguyên vào Thanh-hóa (TT). 4.
(5) – Thực ra tên Nghệ-an đã có từ năm 1036. Tháng tư năm B. Ty 1036, Lý Thái-tông đặt hành-doanh ở Hoan-châu ở Nghệ-an (TT). Nhưng bấy giờ còn chỉ là một châu. VSL nói năm 1101, đổi Hoan-châu ra Ngệ-an-phủ. Nhưng trong các đời sau, chỉ thấy sử chép Nghệ-an-châu mà thôi, ví-dụ TT 1128, 1073, 1131, 1132, vân vân. 4.
(6) – VSL chép tháng chạp năm N. Ng 1102 có lập-xuân. Theo phép lịch, thì năm ấy phải là năm nhuận, và có hai tiết lập-xuân. Còn TT chép vào tháng giêng. Nay xét lịch nhà Tống thì năm ấy có tháng sáu nhuận. Vậy chắc VSL chép đúng. Còn TT có lẽ thấy sử cũ chép tiết lập-xuân vào mùa đông tháng chạp, cho là vô-lý, cho nên tự chữa. 4.
(7) – Năm 1118, Nhân-tông chọn 350 con trai hạng đại-hoàng nam mạnh khỏe, để sung vào các đô Ngọc-giai, Hưng-thánh và Ngự-long-binh (TT). Xem vậy, hình như tên Ngự-long không bỏ. 4.
(8) – Theo VSL, từ khi bị Lý Thánh-tông đánh bại đến hết đời Nhân-tông , Chiêm-thành sai sứ cống vua Lý, vào những năm sau này : 1073, 1075, 1077, 1081, 1082, 1083, 1084, 1085, 1086, 1087, 1088, 1089, 1091, 1094, 1095, 1097, 1098, 1099, 1102, 1104, 1105, 1106, 1108, 1110, 1111, 1116, 1118, 1120, 1126. – 6.
(9) – Bia LX, dựng sau khi Lý Thường-Kiệt mất, kê đủ các chức tước của ông như sau : Suy-thành, Hiệp-mưu, Thủ-chính, Tá-lý, Dực-đới công-thần, Thủ thượng-thư-lệnh, Khai phủ nghị đồng-tam-ti, Nhập-nội nội-thị-tỉnh-đô đô-tri, Kiểm-hiệu thái-úy, Kiêm ngự-sử đại-phu, Dao-thụ chư-trấn tiết-độ-sứ, Đồng-trung-thư môn-hạ bình-chương-sự, Thượng-trụ quốc, Thiên-tử-nghĩa-đệ, Phụ-quốc thượng-tướng-quân, Việt-quốc-công, Thực-ấp nhất vạn hộ, Thực thật-phong tứ-thiên-hộ. Nghĩa là : Kẻ bầy tôi có công, trung-thành, bày-mưu, cầm tiết, giữ chính, giúp việc, phò-tá; coi việc ti thượng-thư, được quyền mở phủ, ngang với tam-ti, được vào nội, coi tất cả các viêïc chầu trong cung, lĩnh chức thái-úy đứng đầu các quân; kiêm chức ngự-sử đại-phu kiểm-soát việc chính; ở Kinh coi việc quân tất cả các trấn, cùng coi việc bí-thư, hằng ngày đến gần vua bàn việc; hàm thượng-trụ-quốc; đã có công bắt được tướng giặc; em nuôi vua; chức thượng-tướng giúp nước; tước quốc-công, hiệu Việt; được phong lộc hạng một vạn hộ; được thật-phong lộc bốn nghìn hộ.
Bia BA (dựng trước khi ông mất) kê có khác một vài chữ như sau : chữ hiệp ở bia BA viết khẩu và thập, ở LX viết thập và ba chữ lực; Chữ nghị-đồng thì BA viết khâm-đồng; chữ phụ-quốc thì BA viết khai-quốc. 7.
(10) – Về mộ Lý Thường-Kiệt, bia Nhữ Bá-Sĩ nói là ở làng Yên-lạc ở phủ Khoái-châu, tỉnh Hưng-yên. Không biết rằng Bá-Sĩ chép sự ấy theo ai, nhưng có lẽ theo sổ các vị thần được ghi vào điển-bộ. Chính trong sách ĐNNTC, soạn đời Tự-đức, cũng chép rằng huyện Kim-động có đền thờ Lý Thường-Kiệt.
Nhưng theo các làng thuộc tỉnh Hưng-yên khai các vị thần thờ trong hạt, để trả lời một cuộc điều-tra của viện Bác-cổ năm 1938, thì những làng Yên-lạc và lân-cận (Cao-quán, Hoàng-vân-ngoại, Hoàng-vân-nội, Thổ-khối, Kim-tháp nay thuộc huyện Đông-an (Phủ Khoái-châu kiêm-lý), và Đào-xá, Tượng-cước, Bình-cầu, Vũ-xá, Đề-cầu, Lôi-cầu thuộc Kim-động) đều khai tên thần mình là đức-thánh Lác và tên là Đỗ Anh-Vũ. Nhưng đến khi kể thần-tích, thì phần lớn đều kể chuyện của Lý Thường-Kiệt đánh Chiêm-thành và đánh Tống.
Đền chính là đền Yên-lạc, nay cũng thuộc về huyện Đông-an; cho nên thường chỉ gọi thần là đức thánh Lác mà thôi, vì tên tục làng là Lác. Làng còn có đám đất chừng tám mẫu gọi là cấm-địa, trong đó có mộ của thần.
Vì sao có những sự mâu-thuẫn như thế ? Và đức-thánh Lác đính là ai ?
Thủa xưa mộ thần có một bia lớn, nhưng nay đã “chìm” mất. Đó là theo lời người làng Yên-lạc. Họ lại kể chuyện rằng vì trẻ chăn trâu thường đốt lửa cạnh bia, cho nên bia đã vỡ và lấp xuống đất mất. Nhưng làng còn bản sao bia ấy. Tuy kẻ chép lại có bỏ sót hoặc viết sai một vài chữ, và tuy rằng bản sao không có niên-hiệu và tên người làm bài bia, nhưng tôi đã xét kỹ nội-dung bài văn bia, thì thấy rằng bia ấy thật dựng từ đời Lý, và dựng vào năm 1158. Ngoài những chứng như cách dùng chữ hư-tự Nãi, Yên, giống ở các bia đời Lý khác, ngoài những chuyện chép khá phù-hợp với sách TT, còn có một chứng rất chắc-chắn là sự sau này. Bia có chép rằng Lý Anh-tông lấy con gái họ Đỗ tên Thụy-Châu. Việc ấy trong TT không có. Nhưng trong VSL lại có (VSL 1175). Ta biết rằng sách VSL đã viết vào đời Trần, vàbị mất ở xứ ta, có lẽ vào khoảng đời Minh Vĩnh-lạc. Sự bia và VSL có chép tên Đỗ Thụy-Châu, mà TT không chép, bắt buộc ta phải kết-luận rằng ví-phỏng bài bia kia có kẻ bịa ra, thì ít ra cũng từ đời Trần. Nhưng cũng không có gì khiến ta nghĩ rằng bài bia đã bị bày đặt, như các thần-tích khác. Huống chi bia này là một mộ-chí, kể chuyện một người vừa mất, chứ không phải chuyện một vị thần. Vậy ta có thể tin rằng mộ-chí kia thật dựng lên đời Lý.
Mộ-chí ấy là mộ-chí Đỗ Anh-Vũ, làm thái-úy đời Lý Anh-tông, chứ không phải là mộ-chí Lý Thường-Kiệt. Mặc dầu bia NBS và sách ĐNNTC nói Lý Thường-Kiệt táng và có đền ở làng Yên-lạc, mặc dầu các làng ở Kim-động và Đông-an khai chuyện đức-thánh Lác y như chuyện Lý Thường-Kiệt, mộ-chí ở làng Yên-lạc buộc ta phải nhận rằng đức-thánh Lác là Đỗ Anh-Vũ, đúng như tên khai bởi các làng thờ thần.
Thế thì tại sao lại có sự hồ-đồ ấy ? Có lẽ vì những cớ sau này. Nguyên là Đỗ Anh-Vũ cũng làm đến chức thái-úy ở đời Lý như Lý Thường-Kiệt. Mà theo mộ-chí Anh-Vũ lại được vua ban họ Lý. Cho nên cũng gọi là Lý thái-úy, y như Thường-Kiệt, lại thêm, dòng đầu ở mộ-chí có đề “Cự Việt quốc Thái-úy Lý công thạch-bi minh tự “, nghĩa là bài tựa của lời khắc vào bia quan thái-úy họ Lý người nước Cự-Việt(tức là Đại-Việt). Nếu kẻ đọc bia chữ đã mờ mà không để ý thì dễ nhầm ra Việt-quốc-công thái-úy Lý-công nghĩa là Lý Thường-Kiệt. Chức tước của Đỗ Anh-Vũ cũng dài và gần giống như chức tước Thường-Kiệt. Chức-tước ấy như sau (Những chữ giống chức-tước Thường-Kiệt sẽ viết xiên) : Suy trung, Hiệp-mưu, Bảo-tiết, Thủ-chính, Tá-Lý, Dực-đái công-thần; Thủ thượng-thư lệnh, Khai phủ nghị đồng tam ti; Nhập-nội nội-thị tỉnh-đô đô-trị, Kiểm hiệu thái-úy, Kiêm ngự-sử đại-phu; Dao-thụ chư trấn Tiết-độ-sứ, Đồng trung-thư, minh-chính bình-chương-sư; Thương-trụ-quốc, Thiên-tử tứ tính. Đặc tiến Phu-quốc thượng-tướng-quân. Nguyên-soái đại-đô-thống.
Gặp thời loạn-lạc, hoặc đời Lê, hoặc đời Nguyễn, thần-tích làng Yên-lạc đã mất. Các làng thờ đức-thánh Lác không còn thần-tích nữa. Tuy vậy, ai cũng còn biết tên thần là Đỗ Anh-Vũ. Đến khi phải khai sự-tích thần mình, thì không mấy ai để ý đến mộ-chí kia, hoặc họ chỉ xem qua dòng đầu mà cho đó là mộ Lý Thường-Kiệt, hoặc họ chỉ nhớ rằng thần là Lý Thái-úy làm quan đời Lý, có công dẹp giặc; rồi họ cho đó là Lý Thường-Kiệt. Vì vậy, tuy có mộ-chí, tuy người làng biết thần là Đỗ Anh-Vũ có tên trong quốc-sử, nhưng họ lẫn công-lao với công-lao của Lý Thường-Kiệt. Còn người ngoài thì lầm tưởng mộ và đền là của Lý Thường-Kiệt.
Mộ-chí này dài, có chép một ít tên đất, tên người và những sự-tích rất có ích cho sự kiểm-soát sách TT và VSL. Tiếc vì nay chưa tiện bới đất tìm bia, cho nên ta chưa chắc-chắn tin vào văn sao được, và chưa có thể bàn một cách hoàn-toàn chu-đáo.
Nhưng mộ-chí cũng cho ta biết một điều rất quan-hệ có liên-quan đến Lý Thường-Kiệt, mà ta phải lập-tức nêu ra. Ấy là vấn-đề gốc-tích ông. Trong chương đầu sách này, tôi đã dựa theo bia NBS và sách VĐUL, và TT, mà viết rằng Thường-Kiệt người phường Thái-hòa, họ Lý; cha là An-ngữ, sung chức sùng-ban-lang-tướng và mất ở Thanh-hóa năm 1031, trong khi ông còn bé. Thế mà theo mộ-chí này thì ta thấy rằng cha Thường-Kiệt là một quan thái-úy đời Thái-tông, họ Quách, quán ở huyện Câu-lậu, thuộc Tế-giang (ở đây có lẽ có chữ viết lầm, vì Tế-giang trỏ đất gồm huyện Văn-giang ở tả-ngạn Nhị-hà, mà Câu-lậu thì lại là đất huyện Thạch-thất ở hữu-ngạn sông ấy). Nay xét các sách TT và VSL, ta thấy ở đời Thái-tông có Thái-úy Quách Thịnh-Dật là tướng mà Thái-tông sai cầm quân đánh Nùng Trí-Cao năm 1048. Có thể đó là người sinh ra Thường-Kiệt.
Nếu quả như vậy, thì tại sao Thường-Kiệt lại thành họ Lý. Mộ-chí Đỗ Anh-Vũ đã trả lời sẵn : ấy vì vua ban quốc-tính cho ông. Tuy mộ-chí không nói chuyện ấy xẩy vào năm nào, nhưng có lẽ vào năm ông được ban hiệu Thiên-tử nghĩa-nam. Vua nhận ông làm con nuôi, thì tự-nhiên cho ông họ Lý.
Trước khi tìm lại đích-xác mộ-chí này, tôi chỉ tạm-dịch đoạn có nói đến Lý Thường-Kiệt và sự liên-quan giữa ôngvà Đỗ Anh-Vũ. Đoạn ấy như sau :
“Tổ-tiên Đỗ Anh-Vũ là thái-úy họ Quách, vốn người huyện Câu-lậu thuộc Tế-giang. Quách thái-úy sinh Thường-Kiệt giúp triều Nhân-tông. Đó là quan thái-úy được vua ban quốc-tính Lý. Cha Đỗ Anh-Vũ tên là Tướng, họ Đỗ, tức là cháu ngoại-sanh (nghĩa là con chị hay con em gái) quan thái-úy họ Lý.”
Xem đó, ta thấy rằng các thần-tích, dẫu là xưa như những chuyện chép theo sách Việt-điện-u-linh, cũng rất đáng nghi-ngờ. Nhất là khi các thần-tích ấy chép rõ các chi-tiết vụn-vặt, thì lại càng nên nghi-hoặc.
Mộ Yên-lạc đã là mộ Đỗ Anh-Vũ, thì mộ Thường-Kiệt ở đâu ? Ở làng Ngọ-xá không hề nghe nói đến mộ ông. Mà mộ cũng không thể ở phường Thái-hòa được, vì đời Lý, phường này còn ở trong thành Thăng-long. ¨Phải chăng rằng ông đã hỏa-táng và tàn được giấu vào ngôi tháp nào chăng ? Hay là có mộ ở nơi nào nhưng nay chưa biết. Trong mục-lục sách VĐUL, có chú-thích dưới hiệu ông mấy chữ Gia-lâm hương. Ấy muốn nói đền chính thờ Lý Thường-Kiệt là ở làng Gia-lâm (sau thành huyện). Vậy có lẽ tìm kỹ-càng, ta còn có thể thấy mộ và mộ-chí của ông trong địa-hạt Gia-lâm ngày nay. Làng Gia-lâm cũng không xa làng Yên-lạc bao nhiêu; có lẽ cũng vì lẽ ấy, mà người đời sau lẫn với nhau hai vị thái-úy đời Lý cùng được ban quốc tính. 7.
(11) – Bài tựa thần-tích ở đền làng Ngọ-xá có chép lại mấy câu trong sắc thần cũ : “Anh-hùng xuất thế, văn vũ tư kiêm. Bảo đại định công, nẫm chẩn uy-thanh ư tuyệt-vực; khang dân thọ quốc, truờng lưu tuấn dự ư thanh-biên” nghĩa là : Anh hùng hơn chúng, văn-vũ gồm hay. Giữ đạo, định công, từng rậy uy-thanh nơi lạ; yên dân, cứu nước, lâu còn tiếng tốt sử xanh. 7.
CHƯƠNG XIV : ĐẠO PHẬT ĐỜI LÝ
1.- Tín-ngưỡng ở Giao-châu
Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơn chắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay “chùa” Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Ðiện hẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
Ðến hồi Bắc-thuộc, đạo Nho và đạo Lão được đem vào. Nhất là trong đời loạn-li sau khi Hán mất, Sĩ-Nhiếp là thái-thú ở Giao-châu, giữ một vùng yên ổn, thì nhiều nhà trí-thức Trung-hoa tụ tập ở Luy-lâu, trị-sở Giao-châu. Nhờ đó Nho-học và Ðạo-học lại càng bành-trướng. Trong hai đạo mới, đạo Lão là thích-hợp với tín-ngưỡng gốc của dân Việt, cho nên nó lan tràn chóng và hòa lẫn với những tập-tục dân-gian. Còn như Nho-giáo, tuy được dựa thế những kẻ cầm-quyền, phần đông là nho-sĩ, nhưng nó cũng chỉ giữ tính-cách thường chứ không thành một tín-ngưỡng mới.
Sau đó, đạo Phật từ Ấn-độ mới lan đến góc đông-nam lục địa. Với tính-cách ôn-hòa, thần-bí, Phật-giáo chóng ăn sâu vào lòng tín-ngưỡng người Việt. Nó dung-hòa dễ-dàng với sự sùng-bái thường, và nó dễ đi đôi với Ðạo-giáo đến đấy từ trước.
Ba tông-giáo Nho, Lão, Phật đã sớm thành cơ-bản của tín-ngưỡng dân Việt, và đồng thời tiến-triển. Cho nên thường gọi là Tam-giáo. Tuy nói là tam-giáo tịnh hành, nhưng theo thời-đại, một hay hai giáo vẫn được chuộng hơn. Ta sẽ thấy trong thời nhà Lý, Phật-giáo chiếm bậc nhất. Nhưng ta cũng phải nhận rằng Phật-giáo hành ở xứ ta, cũng như ở Trung-quốc bấy giờ, đã dung-hòa với Ðạo-giáo và những tín-ngưỡng gốc ở dân-gian. Nó đã biến thành một tông-giáo lấy Phật làm gốc, nhưng lại ghép vào các vị thần-linh, mà xưa chỉ là một mãnh-lực thiên-nhiên. Và nó dùng những kỳ-thuật, theo-đuổi những mục-đích thích-hợp với Ðạo-giáo hơn là Phật-giáo.
Ðịa-vị các tăng-gia, trong suốt đời Lý, vẫn là trọng; nhưng ảnh-hưởng về chính-trị hình như không có bao nhiêu. Về phương-diện tinh-thần và luân-lý, thì hẳn rằng Phật-giáo có ảnh hưởng lớn. Nó đã đổi cái triều-đình vũ-phu và mộc-mạc của các đời Ðinh, Lê, đóng ở chỗ đầu ngàn cuối sông, ra một triều-đình có qui-mô, có lễ-độ, ở giữa bình-nguyên, có thể so-bì với các nước khác ở miền bắc.
2. Ðạo Phật tới Việt
Nhờ một câu chuyện giữa thái-hậu Linh-nhân, tức là Ỷ-lan, mẹ Lý Nhân-tông, với một nhà sư có học uyên-bác, mà ta còn biết gốc-tích đạo Phật ở nước ta. Sách TUTA còn ghi chuyện ấy rất rõ-ràng trong chuyện Thông-biện quốc-sư (TUTA 19a).
Ngày rằm tháng 2 năm Hội-phong thứ 5 (1096), thái-hậu đặt tiệc chay ở chùa Khai-quốc, thết các tăng. Tiệc xong, thái-hậu kê-cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Thái-hậu hỏi:
” Nghĩa hai chữ Phật và Tổ thế nào? Bên nào hơn? Ðạo tới xứ ta đời nào? Truyền-thụ đạo ấy, ai trước ai sau? Mà sự niệm tên Phật, hiểu tâm tổ là do từ ý ai? “
Các sư đều im-lặng. Chỉ có vị Trí-không trả lời rất tường-tận từng khoản. Vì đó, thái-hậu ban cho sư hiệu Thông-biện quốc-sư. Về đoạn truyền giáo vào xứ ta, lời sư đại-khái như sau:
” Phật và Tổ là một. Phật truyền đạo cho Ca-diệp. Về đời Hán có Ma-đằng đem đạo vào Trung-quốc, Ðạt-ma lại truyền vào nước Lương và nước Ngụy. Ðạo rất thịnh khi dòng Thiên-thai thành-lập. Dòng ấy gọi là Giáo-tông. Sau lại có thêm dòng Tào-khê, tức là dòng Thiền-tông. Hai dòng ấy vào nước ta đã lâu năm. Về dòng Giáo, có Mâu Bác và Khang-tăng-hội là đầu. Về dòng Thiền, trước nhất có Tì-ni-đa-lưu-chi ; sau đó, Vô-ngôn-thông lại lập ra một dòng Thiền khác nữa. “
Trí-không trả lời như thế đã khá rõ-ràng. Nhưng thái-hậu có óc phán-đoán, lại hỏi thêm chứng những điều nói trên. Sư trả lời rành-mạch, dẫn những sách cũ, những lời của các người xưa, mà nay ta còn tìm lại được một phần, nó có thể khiến ta tin rằng những chứng Trí-không đem ra đều là đích-xác.
Trí-không viện lời của hai người xưa bên Trung-quốc, một người nói đến sự truyền dòng Giáo-tông, một người chứng việc truyền dòng Thiền-tông vào nước Việt.
Chứng đầu là lời pháp-sư Ðàm-thiên kể lại một câu chuyện mà sư này nói với vua Tề Cao đế (479-483). Vua Tề khoe với sư rằng mình đã xây-dựng chùa tháp khắp mọi nơi, kể cả Giao-châu ; rồi vua nói thêm rằng: “Xứ Giao-châu tuy nội-thuộc, nhưng chỉ là một xứ bị ràng-buộc mà thôi. Vậy ta nên chọn các sa-môn có danh-đức, sai sang đó để giảng-hóa. May chi sẽ làm cho tất-cả nhân-dân được phép Bồ-đề. “
Vua Tề tưởng rằng nước ta còn kém về đạo Phật cho nên mới có ý ấy. Nhưng sư Ðàm-thiên biết rõ rằng sự thật là trái ngược: nước ta đã được Phật-hóa từ lâu, trước cả nước Tề ở vùng Sơn-đông nữa. Sư trả lời rằng:
” Xứ Giao-châu đường thông với Thiên-trúc (Ấn-độ). Khi Phật, Pháp chưa tới Giang-đông (nước Tề), thì ở Luy-lâu (kinh đô Giao-chỉ, nay là làng Lũng-khê ở phủ Thuận-thành tỉnh Bắc-ninh), đã có xây hơn hai mươi ngôi chùa, chọn hơn năm trăm vị tăng và tụng mười lăm quyển kinh rồi. Vì đó, mà người ta đã nói rằng Giao-châu theo Phật trước chúng ta. Lúc ấy, đã có những vị sư Ma-la-kê-vực , Khang-tăng-hội , Chí-cương-lưu-chí và Mâu Bác ở đó. “
Sau đó dẫn lời Ðàm-thiên ở trên, sư Trí-không còn nói thêm một chứng của sư, là: “Sau đó lại có sư Pháp-đắc-hiền được Tì-ni-đa-lưu-chi truyền tông phái của tổ thứ ba là bồ-tát Ðạt-ma cho. Sư ấy ở chùa Chúng-thiện và dạy hơn 300 đệ-tử. “
Chứng thứ hai là thuộc về dòng Thiền-tông. Sư Trí-không viện lời Quyền Ðức-Dư , là viên tể-tướng đời Ðường, về cuối thế-kỷ thứ tám. Ðức-Dư đã viết trong tựa sách Truyền-pháp rằng: ” Sau khi Tào-khê mất, phép Thiền rất thịnh, và dòng Thiền nối-dõi không dứt. Có thiền-sư Chương Kính-Huy là học trò Mã-tổ đi truyền giáo ở các xứ Ngô Việt và có đại-sư Vô-ngôn-thông đi truyền ý phái Bách-trượng và giảng pháp ở xứ Giao-châu “.
Ðó là hai chứng mà sư Trí-không đã bày trước thái-hậu. Ta có thể tin vào đó chăng? Ông Trần Văn-Giáp trong sách BA đã khảo-cứu các sách Phật, và đã thấy rằng, tuy những lời của Ðàm-thiên kể lại trên không còn thấy trong những sách còn lại, nhưng những nhân-vật kể trong đó đều có thật, và còn có chuyện hợp với lời trên. Vả sách TUTA cũng chép lại gốc-tích các dòng Thiền, nó chứng thật lời Quyền Ðức-Dư, mà nay vẫn thấy trong sách Tàu còn lại.
Trong những nhân-vật kể trong lời Trí-Không, thì Mâu Bác là xưa nhất. Bác nguyên người Thương-ngô, sang Giao-châu ở với mẹ, vào khoảng cuối đời Hán Linh-đế (năm cuối là 189). Bấy giờ Sĩ Nhiếp coi quận Giao-châu. Ðất Giao-châu được yên-tĩnh, trong khi nước Hán bị loạn; cho nên nhiều người học giỏi chạy sang ở đó. Sự học càng bành-trướng ở Giao-châu. Mâu Bác ban đầu theo học Ðạo-giáo và phép thần-tiên. Nhưng vào khoảng năm 194-195, Bác lại theo đạo Phật. (BA)
Xem vậy thì trước Mâu Bác, Phật-giáo đã được hành ở Giao-châu rồi. Ðạo Phật từ đâu đã vào đất Việt? Có thể từ đất Hán, vì đạo đã vào Hán chừng một trăm năm trước. Nhưng đạo cũng rất có thể từ Ấn-độ được theo đường bể đem vào, theo các thuyền buôn đi dọc bờ biển Ấn-độ, sang biển Trung-hoa. Khi sư Ðàm-thiên nói xứ Giao-châu đường thông với Thiên-trúc, có lẽ sư muốn nói đường thủy. Những người Tây-vực, tức là ở vùng tây-bắc Ấn-độ, đã sang buôn-bán dọc bờ biển. Những đồng tiền bạc, tìm thấy ở nội-địa trong Nam, chứng tỏ rằng đồng-thời với các hoàng-đế ở Rome, xứ Tây-vực đã có liên-lạc với đất Ðông-dương. Trong chuyện phật chùa Pháp-vân ở Luy-lâu, có nói rằng đời Sĩ Nhiếp, đã có hai vị sư Ấn-độ, là Kì-vực và Khâu-đa-la qua đó. Những chuyện kể sau sẽ làm ta tin thêm vào thuyết ấy.
3. Ðạo Phật bành-trướng
Ba vị sư, mà Ðàm-thiên kể tên trên kia, đều là người Ấn-độ hay Tây-vực (ở xứ Sogdiane) gần phía tây-bắc Ấn-độ.
Ma-la-kì-vực, tên chữ Phạn là Marajivaka, là người Ấn-độ, đến Giao-châu, rồi qua Quảng-châu. Tới Lạc-dương đời Tấn Huệ-đế, năm 294. Ông giỏi phù-pháp. Sau gặp loạn ở Trung-quốc, ông lại trở về Ấn-độ.
Khang-tăng-hội vốn người Tây-vực, theo cha buôn ở Giao-châu rồi học đạo Phật ở đó. Nguyên người Tây-vực mà ở xứ Việt, cho nên ông học giỏi hai thứ tiếng Phạn và Việt. Nhờ đó, ông đã dịch nhiều sách Phật ra Hán-văn. Sau đó, ông sang nước Ngô, giảng đạo cho Ngô Tôn-Quyền, rồi mất tại nước Ngô vào năm 280.
Còn như Chi-cương-lương, thì Trần Văn-Giáp cho là Cường-lương-lưu-chi chép trong sách Thập-nhị-du-kinh. Tên Phạn của sư là Kalaruci theo Pelliot, hay là Kalganaruci theo Trần Văn-Giáp. Vị sư này tới Giao-châu vào khoảng năm 255-256, và có dịch kinh Pháp-hoa Tam-muội. (BA)
Xem mấy thí-dụ trên, ta thấy rằng nhiều vị tăng dịch kinh Phật là người Ấn-độ hay người Tây-vực. Ngoài số những vị đã do đường bộ tới Trung-quốc, một số đã đi đường bể. Những vị này tất-nhiên phải học Hán-tự. Các vị ấy chắc phần lớn đã qua và ở đất Giao. Vì thế, đạo Phật rất có thể đã tới nước ta trước khi đến nước Trung-quốc.
Cho đến sư Ðàm-thiên, cũng là người Indoscythe, ở phía tây-bắc Ấn-độ. Sư rất giỏi Hán-văn. Sở-dĩ sư lại rõ tình-hình Phật-giáo ở Giao-châu, chắc vì cũng có thời-kì qua ở đó.
Lịch-sử Phật-giáo ở nước ta, từ ban đầu đến lúc phái Thiền-tông xuất-hiện, không được biết rõ nữa, vì không ai biên-chép lại. Về Thiền-tông, thì sách TUTA còn chép khá kĩ-càng.
Dòng Thiền-tông lại có hai phái: phái Nam-phương và phái Quan-bích. Phái Nam-phương vào trước, phái Quan-bích vào sau. Nhưng từ đời Ðinh, hai phái đều phát-triển một cách thịnh-vượng.
Tổ phái NAM-PHƯƠNG là Tì-ni đa-lưu-chi, tên Phạn là Vinitaruci, nguyên người Thiên-trúc, hoặc đạo Bà-la-môn (Braman). Sau theo Phật-giáo, rồi sang các xứ đông-nam để tới Tràng-an, kinh-đô nước Trần bên Trung-quốc (573). Sau, sư tới Quảng-châu; ở đó sáu năm dịch các kinh Phật. Tháng ba năm Canh-tý 580, sư sang Giao-châu, tới trụ-trì ở chùa Pháp-vân tại Luy-châu. – đó được mười lăm năm. Ðến năm Giáp-dần 594, đời Tùy Khai-hoàng, mới mất.
Ðệ tử Vinitaruci có sư Pháp-hiền, mà sách TUTA đã chép ra Pháp-đắc-hiền, trong chuyện quốc sư Thông-biện. Vị này được coi như là tổ thứ nhất của dòng Nam-phương. Sư người Chu-diên, họ Ðỗ; ở chùa Chúng-thiện, tại núi Thiên-phúc, hạt Tiên-du. Sư có rất nhiều học-trò. Thứ-sử Lưu Phương mời tới Luy-lâu, ở chùa Pháp-vân. Rồi đi giảng đạo, dựng chùa khắp mọi nơi ở Phong-châu (Sơn-tây), Hoan-châu (Nghệ-an) Tràng-châu (Ninh-bình) và Ái-châu (Thanh-hóa). Ðến năm Bính-tuất 626, đời Ðường Vũ-đức, mới mất. (TUTA 44a).
Nhờ đó, phái Nam-phương rất được phát đạt, và đã bành-trướng nhất trong vùng phủ Từ-sơn. Có sư Ðịnh-không, là tổ thứ tám, lập chùa ở làng Dịch-bảng, là quê nhà Lý về sau (trước 808). Sau đó phái Nam-phương có nhiều can-hệ với các triều-đại độc-lập ở nước ta. Sư Pháp-thuận giúp Lê Ðại-hành, sư Vạn-hạnh giúp Lý Thái-tổ, sư Ðạo-hạnh mà tục-truyền là tiền-thân của Lý Thần-tông, sư Minh-không giúp Lý Thần-tông, đều thuộc phái này cả.
Phái QUAN-BÍCH thì đến đời Ðường Nguyên-hòa mới vào nước ta, do vị sư người Ðường là Vô-ngôn-thông đem tới. Sư người Quảng-châu, họ Trịnh. Sau khi đi học với Mã-tổ ở Giang-tây, sư về Quảng-châu. Sư sang Giao-châu, năm canh-tý 820; ở chùa Kiến-sơ, tại Phù-đồng (TUTA 4a). Phái này phát-đạt cũng chóng và đã phát ra nhiều vị cao-tăng còn để tiếng về sau. Sư Khuông-việt giúp Ðinh Tiên-hoàng, sư Trí-không tức là Thông-biện quốc-sư, sư Khổng-lồ , sư Giác-hải đều thuộc phái này cả.
Không những ở chung-quanh kinh-kỳ đạo Phật thịnh-hành, mà đến những chốn xa, như Ái-châu, Phật-giáo trong đời Ðường cũng đã phát đạt. Trong các vị tăng quê nước ta đã từng đi Thiên-trúc cầu đạo (3), có hai vị người Ái-châu, là Trí-hành và Ðại-thặng-đăng. (BA). Vả bia HN cũng cho ta biết rằng về đời thuộc Hậu-đường (923-937), châu-mục Lê Lương ở Ái-châu có dựng ba chùa ở trong hạt ấy.
Tuy đạo được thịnh-hành, nhưng nước ta bấy giờ vẫn còn bị người Tàu thống-trị. Cho nên Phật-giáo, cũng như các ngành tư-tưởng khác, hình như cũng chỉ đạt đến một hạng người quyền-quí, hay gần-gũi người ngoại-quốc cầm quyền, chứ không phổ cập đến dân-gian. Phải đợi đến thời-kỳ độc-lập, mới bắt đầu có những chứng rằng Phật-giáo có tổ-chức và ăn sâu vào dân-chúng.
4. Chế-độ tăng và chùa
Trong khi các nước ở Trung-quốc phải đương đầu với Tống trong cuộc chiến-tranh thống-nhất, thì ở nước Giao-chỉ, tông-giáo cũng như hành-chính, dần dần tự cởi dây ràng-buộc, và trở nên tự-trị. Các phái Thiền-tông phát-đạt, và tăng-đồ càng bành-trướng ảnh-hưởng trong xã-hội.
Kẻ cầm quyền không những cần đến thiền-sư về phương-diện tín-ngưỡng mà tôi, mà cả về phương-diện chính-trị, cũng cần nữa. Nhất là trong đời Ðinh Lê, các vua đều là những bậc võ-biền, nhân loạn mà nắm được chính-quyền. Học-thức vua ít; mà kẻ nho-học cũng chưa đông, và phần nhiều chắc có lòng trung-thành với triều-đại bị tiếm, nên không được tin dùng. Chỉ có kẻ tăng-đồ có đủ thì-giờ, đủ phương-tiện sinh-sống để đọc nhiều, hiểu rộng. Vả nhà tu-hành lại ít có thành-kiến thiên-vị về chính-trị, cho nên dễ được vua mới tin-dùng.
Lúc nhà Ðinh mới lập nước, liền trọng-đãi các nhà sư. Năm đầu sau khi lên nôi, Ðinh Tiên-hoàng đã định phẩm-hàm và giai-cấp cho các nhà tăng và đạo. Tăng và đạo cũng được coi như là những công-chức văn võ (TT 961) (5). Tuy đời Lý, cũng có đặt lại phẩm-hàm và giai-cấp cho tăng-đạo, nhưng vẫn theo qui-chế đời Ðinh.
Ðầu hàng Tăng, có chức Quốc-sư. Sau, theo thứ-tự trên dưới, có những chứctăng-thống, tăng-lục, tăng-chính, đại-hiền-quan. Quốc-sư chỉ có nghĩa là người sư của nước, chứ không phải là chức tể-tướng như vị thái-sư. Cũng như các chức kia, quốc-sư coi việc giữ các chùa trong nước, giảng đạo, lập đàn, và giúp vua trong những việc cầu may, cầu phúc.
Ngoài những chức phẩm trên, ta còn nhận thấy những hiệu như đại-sư, trưởng-lão, cư-sĩ (Bia LX, TUTA). Có lẽ đó chỉ là huy-hiệu mà thôi.
Chùa thì do vua, quan hay dân làng xây dựng lên. Những chỗ danh-lam thì chắc thuộc nhà vua và được vua cấp tiền của, ruộng đất, phu-hầu. Năm 1088, Lý Nhân-tông định chia chùa làm ba hạng, đại, trung và tiểu-danh-lam, do các quan văn và quí-chức đề-cử. Sách TT chép việc ấy, và thêm rằng: ” Ấy vì bấy giờ, các chùa có điền-nô và của kho “. Ðiền-nô là phu cày ruộng cho chùa.
Ở các trấn, cũng có tăng-quan coi các chùa và phật-giáo. SưHải-chiếu có nói trong bia LX rằng sư ” kiêm coi công-sự ở Thanh-hóa “, và là ” thuộc hạ ” của Lý Thường-Kiệt.
Ðược làm sư không những là một vinh-hạnh. Sư có chức-phận đã đành, mà về phần vật-chất, lại khỏi bắt làm xâu, làm lính; ở chùa lại được bổng-lộc dân chúng cúng và vua ban. Vì thế muốn được làm sư, phải có bằng của nhà nước cấp cho. Như thế, gọi là được độ. Sử-sách ta còn chép một vài năm, vua chọn dân để cho làm sư. Năm 1014, tăng-thống Thẩm Văn-Uyển xin lập giới-trường ở chùa Vạn-thọ trong thành Thăng-long để cho tăng-đồ thụ giới. Năm 1016, vua chọn hơn nghìn người ở Kinh-sư để cho làm tăng và đạo-sĩ. Năm 1019, Lý Thái-tổ lại độ dân khắp nước để làm tăng. Sau mãi đến năm 1134, Lý Thần-tông mới sai hội dân ở đài Nghinh-tiên để độ tăng một lần nữa. (TT).
Ðó là những cơ-hội lớn chọn tăng một cách tập-đoàn. Còn hàng ngày, vẫn cấp bằng cho những trai-tráng được rút tên ra ngoài sổ bạ (Bia LX). Ðồng-thời ở Tống, bằng-cấp độ tăng lại là một lợi-khí làm tiền cho công-quĩ. Sách TB thường chép rằng vua Tống cấp cho các lộ một số lớn bằng-cấp ấy, để hưng-công xây thành, đào sông. Không biết ở triều Lý có lợi-dụng sự độ tăng như thế không. Nhưng ta biết rằng nhà-nước có dùng cách ấy để thưởng một hạng người có công. Như năm 1128, Lý Thần-tông sai chọn bốn người lính già, cho làm tăng (TT).
Con cháu những nhà quyền-quí cũng không ngần-ngại bỏ nhà theo Phật-giáo, như các cháu họ Lý Thường-Kiệt (bia LX), sư Mãn-giác con Lý Hoài-Tố, Diệu-nhân ni-sư con nuôi Lý Thánh-tông và sư Viên-chiếu cháu thái-hậu Linh-nhân.
Xem chuyện các cao-tăng trong sách TUTA, ta thấy phần nhiều các vị này giỏi nho-học, hay khi bé thường học Nho rồi sau mới theo Phật. Nhưng trong khoảng đầu đời Lý, chưa mở khoa thi nho. Sau, dần-dần nho-học tiến-mạnh. Tam-giáo tịnh-hành. Các khoa thi nho được mở đều, và các khoa thi tam-giáo cũng được lập vào cuối đời Lý Cao-tông (năm 1179 và 1194, TT). Các nho-thần như Ðàm Dĩ-mông đã bắt đầu kiềm-chế tăng-đồ, kiểm-điểm khảo-hạch tăng-chúng. Năm 1179, Lý Cao-tông sai thi các đệ-tử tăng-quan tụng kinh Bát-nhạ (TT).
Nhân các vua trước, như Thần-tông, Anh-tông mê đạo nhiều dân-đinh xin độ làm tăng để trốn khỏi dao-dịch. Lại có những ác-tăng làm điều phạm-pháp. Cho nên năm 1198, Ðàm Dĩ-Mông nói với vua rằng: ” Bây giờ, tăng-đồ gần bằng số dịch-phu. Chúng tự kết bè, bầu chủ, họp nhau thành từng bầy. Chúng làm nhiều việc bẩn-thỉu. Hoặc ở nơi giới-trường, tĩnh-xá, mà công-nhiên rượu thịt; hoặc ở trong trai-phòng tĩnh-viện, mà âm-thầm gian-dâm. Ngày ẩn, tối ra, thật như đàn cáo chuột. Chúng làm bại tục, thương giáo; dần-dần thành thói quen. Nếu mà không cấm, thì lâu thành quá lắm. “
Vua Cao-tông cho lời Dĩ-Mông nói là phải. Sai Dĩ-Mông triệu-tập tăng-đồ trong xứ lại ở các nơi cốc-xá; chọn từng mười người có tiếng, lưu lại làm tăng. Còn dư, thì đánh dấu vào tay mà bắt hoàn tục.
Chắc rằng lời Dĩ-Mông quá đáng, và sự sa-thải triệt-để tăng-đồ là một phần do nho-gia bài-xích dị-đoan. Tuy vậy, đạo Phật không phải vì đó mà suy. Trạng-nguyên Lê Quát, là dòng-dõi Lê Văn-Thịnh, phải phàn-nàn, trong bia chùa Thiệu-phúc dựng đời Trần, rằng: ” Làng xóm nào cũng có chùa, mà không đâu thấy thờ Khổng-thánh. “
5. Tăng và chính-trị
Lúc nước ta vừa được độc lập, vua đều là những kẻ vũ-biền. Sở-dĩ các vua ấy trọng tăng-đồ, một phần chắc vì lý-do chính trị. Tuy không có chứng gì tỏ rằng các vua Ðinh và Lê mộ Phật, nhưng dân-gian bấy giờ chắc theo đạo Phật nhiều. Trái lại nhiều việc, còn chép trong sử, tỏ rằng các vua ấy hành-động thường trái với điều dạy phải từ-bi của Phật, vì như những cực-hình dùng ở đời ấy: cột đồng đốt nóng, vạc dầu đun sôi, chuồng hổ báo, cũi ngâm sông.
Các vua lại nhận thấy rằng các tăng có học rộng hơn mình và hơn các tướng. Tuy bên cạnh vũ-tướng còn có nho-thần, nhưng những người này thường hay cố chấp trong những thuyết trung-quân, cho nên không thể trung-thành với một ông vua mới, đã cướp quyền của chúa mình. Vì những lẽ ấy, các vua Ðinh, Lê đã lợi dụng học-vấn của tăng-đồ để trị dân và đối ngoại. Cũng như đại-đa-số người đương-thời, các vua rất tin rằng các tăng và đạo-sĩ có những thuật làm cho họ biết trước những sự hay dở tương-lai, hay là có thể cầu cho họ được phúc và tránh họa.
Vị sư đầu-tiên được tham-gia chính-sự là đại-sư Khuông-Việt, giúp Ðinh Tiên-hoàng và Lê Ðại-hành. Sư tên Ngô Chân-Lưu, dòng-dõi vua Ngô. Bé học nho, lớn theo Phật. Ðinh Tiên-hoàng ban cho chức tăng-thống và hiệu Khuông-Việt đại-sư, nghĩa là vị sư lớn giúp nước Việt (TT 971 và TUTA 8a) . Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, “phàm sự quân-quốc, đều giao cho sư hết”. Ðó là lời sách TUTA, còn sách TT chỉ chép việc Khuông-Việt giúp vua Lê đón sứ Tống mà thôi (XIV 7).
Lúc Lý mới lập cơ-nghiệp, sư Vạn-hạnh đã có ảnh hưởng nhiều. Từ đời Lê, sư có tiếng là một kẻ tiên-chi cho nên Lê Ðại-hành đã từng hỏi ý-kiến, trong khi đánh Tống và đánh Chiêm. Sách TUTA chép rằng: về việc chống Tống, sư đoán nội trong ba bảy ngày giặc sẽ tan, còn về việc đánh Chiêm, thì sư khuyên nên đánh chóng (TUTA 52a). Các sách sử ta đều kể chuyện Vạn-hạnh đã đoán được câu sấm, mà sâu ăn thành ra trên cây vong-gạo; và sư biết trước rằng nhà Lê sắp mất và nhà Lý sẽ lên. Sư bèn nói với Lý Công-Uẩn chuyện ấy và quả-quyết rằng họ Lý là họ của ông. Biết đâu rằng chuyện sấm ấy lại ông phải là mưu của Vạn-hạnh.
Về sau, các vua Lý có học hành. Tuy vẫn thích Phật, nhưng một cách cao hơn. Triều-thần đã có nhiều người học uyên-bác. Cho nên ảnh-hưởng về chính-trị của các vị sư bị giảm dần. Cuối cùng, các tăng chỉ giữ những việc giảng kinh hay giáo-hóa.
Trong phạm-vi tín-ngưỡng và kỹ-thuật, địa-vị các tăng-già vẫn rất trọng. Các vua và thái-hậu thường mời những vị sư có tiếng vào giữ chùa trong thành nội, để giảng kinh. Các vị Huệ-sinh và Viên-chiếu từng được Lý Thái-tổ mời vào cung. Nhất là trong đời Lý Nhân-tông, vua và thái-hậu Linh-nhân rất mộ Phật, thường sai các sư, có danh nhất, vào nội để bàn đạo. Những vị như Thông-biện, Mãn-giác, Chân-không,Giác-hải, Khổng-lộ đều được mời và trọng-đãi. Cũng nhờ đó mà ta mới có câu chuyện Thông-biện bàn nguồn gốc đạo Phật, còn chép lại đến ngày nay.
Các công, vương, tướng cũng thường hay che-chở tăng ni, và tôn-trọng họ vào bực thầy. Lương Nhậm-Văn, Lý Thường-Kiệt, Vương Tại, Ðoàn Văn-Liệm, Phụng-càn-vương, công chúa Thiên-cực đều có giao-thiệp mật-thiết với các cao-tăng (TUTA). Vả chăng nhiều vị thiền-sư là con cháu vua, hoàng-hậu hay các đại-thần. Chắc vì sự liên-quan bằng gia-đình, ảnh hưởng những vị ấy đối với chính-trị cũng không ít.
Về mặt kỹ-thuật, tăng-đồ thường lại có tiếng là có phép thần-thông, hay biết chữa-bịnh một cách thần-diệu. Vì vậy mà nhiều vị đã được vua dùng như Minh-không chữa bệnh cho Thần-tông. Ðạo-tuệ được Anh-tông đón vào cung-cấm chữa cho các cung-phi. Nguyện-học có tiếng cầu mưa và chữa bệnh rất hay, cũng đã được Anh-tông mời tới.
Trong đời Thánh-tông và Nhân-tông, vì vua chậm có hoàng-trừ, cho nên các vị có tiếng biết phép cầu-tự, đầu-thai, lại rất được quý-trọng: Những chuyện Ðại-điên, Ðạo-hạnh còn được để đến ngày nay.
Nói tóm lại, ảnh-hưởng các nhà sư lúc ban đầu trực-tiếp với chính-trị. Nhưng sau, dần-dần ảnh-hưởng chỉ còn kịp tới cá-nhân vua quan. Vì đó mà gây ra những phong-trào từ trên lan xuống dưới. Rồi phong-hóa chung cả nước cũng chịu nhiều ảnh-hưởng của hình-thức Phật-giáo hiện-hành.
6. Ðạo Phật và phong-hóa
Từ đời Lý Nhân-tông về sau, các vua thường chết yểu, tự-quân thường trẻ tuổi, cho nên các thái-hậu được nhiều quyền. Sự sùng Phật dần-dần chuyển sang thành một mối dị-đoan, nó ăn nhịp với đạo-giáo hiện-hành và những tín-ngưỡng cổ-truyền còn sót lại.
Những kẻ tầm-thường đua nhau lợi-dụng lòng mê-tín của vương hậu, đến nỗi gây ra một phong-trào loạn-tri ở trong cung. Những chuyện huyền-bí như Nguyễn Bông đầu-thai thành Càn-đức,Giác-hoàng muốn đầu-thai nhưng bị Ðạo-hạnh ngăn cản, rồi đến chuyện Ðạo-hạnh hóa kiếp ra Lý Thần-tông, đã làm người nước ta đời bấy giờ rất tin vào thuyết luân hồi và vào bí-thuật của các nhà sư. (2)
Ai cũng tin rằng, nếu tìm được thiền-tăng hay đạo-sĩ dạy cho, thì mình có thể biến-đổi được sức mạnh thiên-nhiên, hóa hình, ẩn thân, rút đất phục hổ, cầu mưa, làm nắng. Vì thế, một vị thái-sư có danh-vọng như Lê Văn-Thịnh mà phải cách chức và toan bị giết, chỉ vì vua Nhân-tông nghi ông đã hóa hổ để vồ mình; một tên dân thường mộng thấy trâu trèo lên ngọn cây muỗm, mà đoán rằng mình sắp được làm vua, bèn nổi loạn.(3)
Ở trong triều thì từ công-hầu, hoạn-đậu, cho đến những tăng-già, cũng đua nhau hiến vật lạ, cho là điềm tốt: nào rùa sáu chân ba mắt, mang từng hàng chữ chúc vua trên mai, nào hươu trắng hươu đen, sẻ vàng ác trắng, nào cau chín buồng, lúa chín bông, cá ruột có ngọc, ngựa chân có cựa. Những điềm lành như mây ngũ sắc, rồng vàng hiện, thì các chính-sử TT và VSL còn chép rất nhiều.
Tuy những sự mê-tín này không có ảnh-hưởng trực-tiếp đến chính-trị, nhưng nó đủ chứng rằng tâm-thần nhân-dân rối-loạn, thời-giờ của nhà chức-trách bỏ phí vào việc hão-huyền, và sự thưởng-phạt của nhà vua thường căn-cứ vào những điều không chính-đáng.
Ðến cuối đời Lý, nho-học bành-trướng. Những tà-thuyết dần-dần bị phát-giác; những ảo-thuật của kẻ bịp đời bị bộc-lộ. Sử còn chép những chuyện buồn cười như vị sư ở Tây-vực khoe mình biết phục-hổ, nhưng đến khi làm thử thì chết khiếp rồi bị hổ vồ. Lại như chuyện tên hầu-cận nói mình có phép làm im sấm, nhưng sau khi đọc thần chú, sấm vẫn ầm-ầm, làm cho Lý Cao-tông sợ kinh. (4)
Trên đây là nói riêng về ảnh-hưởng không tốt của sự mê-tín dựa theo đạo Phật. Còn như những tư-tưởng siêu-việt, những giáo-dụ từ-bi của đức Phật, thì hẳn đã có ảnh-hưởng rất hay đối với phong-tục và văn-hóa nước ta về triều Lý.
So sánh với hai triều Ðinh, Lê, ta nghiệm thấy rằng trong đời Lý, phong-tục triều-đình thuần-hậu hơn nhiều. Các vua vũ-biền các đời trước đã đem những thói giết-chóc thời loạn ra thi-hành ở thời bình. Những cực-hình dùng hàng ngày, chứng tỏ rằng các vua ấy còn giữ tập-tính của người rừng-rú. Những việc Ðỗ Thích giết cha con vua Ðinh, Ngọa-triều giết em là Lê Trung-tông, đủ tiêu-biểu lòng tàn nhẫn, tính phàm-phu và sự chỉ có tư-lợi điều-khiển những hành-vi của kẻ cầm quyền.
Sang đời Lý, thì khác hẳn. Tuy rằng trong các vụ hành-quân ở Chiêm hay đánh Tống, có giết hại nhiều người, tuy rằng khi có loạn trong nước, vẫn có gia tội tử-hình, nhưng ta phải nhận rằng chưa có đời nào, như ở đời Lý, mà vua có độ-lượng khoan-hồng đối với dân hay là đối với kẻ địch. Lý Thái-tông đã tha tội cho Nùng Trí-Cao. Lý Thánh-tông đã tha chết cho vua Chàm là Chế-củ. Tuy rằng đó là có lợi cho đường chính-trị, nhưng nếu không có sẵn từ-tâm, thì ắt không nghĩ đến khoan-hồng để làm lợi cho chính-trị mình.
Nhờ sẵn từ-tâm như vậy, cho nên các vua Lý đã có những cử chỉ đáng kính, tuy vụn-vặt, nhưng còn được ghi lại trong sử-sách. Mùa đông năm Ất-mùi 1055, trời giá rét, Lý Thánh-tông nói với các quan rằng: “Ta ở trong cung kín, sưởi lò than, khoác áo lông, mà còn rét như thế này. Ta nghĩ đến tù-nhân bị nhốt trong lao-tù, chịu trói-buộc khổ-sở, mà chưa biết phải trái ra sao. Ăn không đầy bụng, mặc chẳng che thân. Vì gió rét, nên có kẻ chết không nơi nương-tựa. Ta thật lấy làm thương.” Rồi vua sai phát chăn chiếu cho tù, và cấp cho một ngày hai bữa cơm. (TT)
Lại có lúc, Thánh-tông chỉ con gái mình là công-chúa Ðộng-thiên, mà nói với các quan coi việc kiện-tụng rằng: “Ta yêu con ta như ta là cha mẹ dân yêu dân. Vì dân không hiểu luật-lệ, nên mắc tội. Ta lấy làm thương. Vậy từ rày về sau, không kể tội nặng hay nhẹ, các người phải xử một cách khoan-hồng cả.” (TT 1065)
Lòng thương người như vậy của Thánh-tông không phải là một sự giả-dối của nhà chính-trị, mà chính là phần biểu-diễn của lòng từ-bi, do Phật-giáo gây nên. Chính Lý Thánh-tông là tổ thứ nhất một dòng Thiền-tông ở nước ta là dòng Thảo-đường, lập ra tại chùa Khai-quốc ở Thăng-long (TUTA 71 b).
Cho đến Thái-hậu Ỷ-lan, tuy có ghen-tuông, cho nên đã bức-sát thái-hậu Thượng-dương và các cung-nữ, nhưng sau đó, bà biết hối và luôn luôn tìm chuộc tội mình. Bà xuất-thân là một gái thôn-quê, biết rõ nỗi gian-lao của nông-dân phải cày sâu cuốc bẫm. Cho nên bà đã có lúc khuyên Lý Nhân-tông phạt tội nặng những kẻ trộm và giết trâu. Tháng hai năm Ðinh-dậu 1117, thái-hậu nói cùng vua: “Gần đây người kinh-thành và làng-ấp đã có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông-dân cùng-quẩn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây ta đã từng mách việc ấy, và nhà-nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước.” Nhân-tông bèn hạ lệnh phạt rất nặng những người trộm và giết trâu, phạt cả vợ con và hàng-xóm, vì tội không tố-giác. (TT)
Thái-hậu chậm con hiếm cháu, cho nên thương những đàn bà con gái, vì nghèo, phải đem thân thế nợ, không thể lấy chồng. Mùa xuân năm Quý-mùi 1103, thái-hậu lấy của kho chuộc chúng về, và gả cho những kẻ góa vợ. (TT)
Tuy những hành-động từ-bi của thái-hậu không phải tự-nhiên mà có, tuy đó vì một phần muốn chuộc tội và cầu phúc cho con, nhưng chắc nhờ ảnh-hưởng Phật mới có những hành-động bác-ái ấy.
Vả chăng, ở triều Lý, ít có những cuộc tàn-sát vì những chuyện mưu tiếm-vị cướp quyền. Tuy có hai lần, vào đời Thái-tông và Cao-tông, nhưng kết-cục, cũng không khốc-hại như ỏ các triều khác. Các đại-thần cũng ít người bị nghi-kị và tàn-sát như ở các đời sau.
Nói tóm lại, sau các đời vua hung-hãn họ Ðinh, Lê, ta thấy xuất-hiện ra những kẻ cầm quyền có độ-lượng khoan-hồng, những người giúp việc ít tham-lam phản-bạn. Ðời Lý có thể gọi là đờithuần-từ nhất trong sử nước ta. Ðó chính là nhờ ảnh-hưởng đạo Phật.
Mà thực vậy, mỗi lúc ta thấy có nho-gia bài-xích Phật-giáo, thì ta biết rằng trong nước sẽ có cuộc tranh quyền-lợi mà giết lẫn nhau. Sau khi Ðàm Dĩ-Mông sa-thải tăng-già, thì có Trần Thủ-Ðộ liền sau tàn sát họ Lý. Cuối đời Trần, nho-học nên thịnh. Có Trương Hán-Siêu, Lê Quát chỉ-trích đạo Phật, thì sau lại có Hồ Quí-Ly sát-hại họ Trần. Trần Thủ-Ðộ và Hồ Quí-Ly làm những việc kia, ấy cũng vì muốn thi-hành chính-trị vị-danh, xa hẳn lòng bác-ái từ-bi của Phật.
Mà trong khi Dĩ-Mông phỉ-nhục tăng-đồ, thì lại có một vị tăng giám can Lý Cao-tông đừng hát-xướng chơi-bời, xa-hoa quá độ. Lời can ấy lại viện sách nhà Nho! Sư là tăng-phó Nguyễn Thường. Lời sư nói với Cao-tông rằng: “Tôi nghe ở tựa kinh Thi có nói: âm-nhạc làm loạn nước thì nghe như oán, như giận. Nay dân thì loạn, nước thì khốn. Chúa-thượng rong chơi vô-độ. Triều-chính rối loạn, dân-tâm lìa-tan. Ðó là triệu-chứng nước mất đó.”
Lời can ấy cũng đủ tỏ giá-trị của người đi tu và ảnh-hưởng của họ đối với chính-trị, với phong-hóa. Mà lời can ấy lại là một lời đoán vận-mệnh nhà Lý rất hay, chỉ cần lý-luận mà tìm ra, chứ chẳng phải mượn kì-thuật gì cả.
7. Ðạo Phật và văn-hóa
Lời sư Nguyễn Thường can vua lại chứng-tỏ một sự mà ta đã biết rồi, là ở đời Lý, phần lớn các tăng học nho rất rộng. Vậy nên tăng-đồ có ảnh hưởng lớn đến văn-hóa đương-thời. Văn thơ đời Lý để lại còn nhiều, nhờ sách TUTA (2) và một số bia nhà Lý. Ta thấy các sư thật là những người hay chữ. Mà những nho-gia khác cũng chịu ảnh-hưởng tư-tưởng của nhà chùa.
Câu chuyện làm thơ đầu tiên trong lịch-sử độc-lập nước ta là thuộc về hai vị sư. Tống Thái-tông sai nhà văn-hào Lý-Giác sang phong cho Lê Hoàn làm Tĩnh-hải tiết-độ-sứ. Năm 987, Giác tới nơi. Chắc trong triều bấy giờ ít người hay chữ. Vua phải nhờ đến sư Ðỗ Thuận tiếp. Các sách TT3 và TUTA chép rằng sư giả làm lái đò chèo thuyền cho Giác. Tính Giác thích làm thơ. Bấy giờ có hai con ngỗng cùng bơi trên mặt nước. Giác ngâm:
Nguyên văn:
Nga nga, lưỡng nga nga.
Ngưỡng diện hướng thiên-nha.
Nghĩa là:
Ngỗng kìa! Ngỗng một đôi!
Nghểnh cổ nhìn góc trời.
Sư Thuận nghe, ứng-khẩu đọc tiếp:
Bạch-mao phô lục-thủy.
Hồng trạo bãi thanh-ba.
nghĩa là:
Nước xanh lông trắng phủ.
Sóng biếc chân hồng bơi.
Giác khen sư hay thơ và có tài mẫn-tiệp. Rồi Giác làm thơ tự vịnh, nhưng tỏ ý kính-trọng vua ta. Cho nên lúc Giác ra về, Vua Lê nhờ sư Khuông Việt làm bài ca tặng. Bài ca ấy nay còn chép (TT và TUTA) Khuông Việt soạn ra bài ca chúc sứ lên đường, lúc cùng nhau uống chén tiễn-biệt. Sau đây là bài dịch theo đúng điệu và nguyên-vận.
“Trời lành, gió thuận, buồm gấm trương,
Thần tiên về đế-hương.
Ngàn trùng vượt sóng bể mênh-mang,
Ðường xa mấy dặm trường.
Cạn tình thảm-thiết chén li-xương.
Cầm tay sứ, lòng càng . .
Nhờ đem thâm-ý người nam-cương,
Phân minh tâu Thượng-hoàng.”
Ðó là lời tửu-chúc-từ thân-thiện đầu-tiên trong lịch-sử ngoại-giao của nước Việt. Mà lại là của một vị sư!
Bước sang triều Lý, nho-thần đủ người để sung vào việc ngoại-giao. Ta không thấy những vị sư tiếp sứ nữa. Nhưng sư vẫn có nhiều người hay chữ. Nguồn thơ là đạo-lý uyên-nguyên. Suốt quyển TUTA, trong chuyện tất cả các vị sư, đều có một vài câu kệ bằng văn vần. Trong khi các sư nói chuyện về đạo-lý cùng nhau, họ đều đọc thành những câu kệ, ý-tứ mông-lung, nhưng đối với sự hiểu thường của ta, thì thường không rõ ý. Ví như chuyện có tăng tới hỏi sư Viên-chiếu, là con anh thái-hậu Ỷ-lan, rằng: “Phật và Thánh nghĩa là thế nào?” Sư trả lời
Cúc trùng-dương dưới giậu,
Oanh thục-khí đầu cành.
Tăng kia không hiểu, nhờ sư giảng. Sư lại nói:
Ngày thì ác vàng chiếu
Tối lại thỏ ngọc soi.
Tăng bèn nói đã hiểu chân-ý của sư. Thật ra, ta không biết ý ấy ra sao. Phải chăng sư muốn nói rằng Phật và Thánh nghĩa là tất cả những biến-tướng hiện ra trong trời đất?
Trái lại, có một vài bài thơ ý-tứ gần ta hơn, nhưng lời-lẽ rất thanh-tao, đọc lên cảm thấy đời sống mặc-tĩnh, ý-nghĩ thâm-trầm của những nhà cao-ẩn. Ví-dụ như bài kệ của sư Mãn-giác (XV/3), là một vị tăng con một đại-thần, và được vua Nhân-tông và thái-hậu Linh-nhân rất trọng. Sư mất khi mới 45 tuổi, năm Hội-phong thứ 5 (1096). Trước khi mất, sư đọc bài kệ sau này:
Nguyên-văn:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn-tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa tận lạc,
Ðình-tiền tạc-dạ nhất chi mai.
Nghĩa là:
Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân lại nở trăm hoa.
Trước mắt sự đời thoảng,
Trên đầu hiện tuổi già.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một cành mơ.
Tóm-tắt trong sáu câu trên, có đủ ý vũ-trụ tuần-hoàn trái với đời người ngắn-ngủi, ý người ta không nên lấy sự ấy làm phàn-nàn, vì tuy mất rồi, nhưng vẫn còn tinh-hoa để lại cùng vũ-trụ.
Cho đến phái nho, vì hằng ngày giao-thiệp với các tăng, nên cũng chịu ảnh-hưởng nhiều của Phật-giáo. Thi-văn của phái nho nay không còn gì nữa, ngoài một vài bài, giữ được nhờ sách TUTA. Ví như hai bài thơ của vị công-bộ thượng-thư Ðoàn Văn-Liệm tặng và điếu thiền-sư Quảng trí (TUTA 18a), mất vào khoảng đời Quảng-hữu (1085-1092). Bài thơ điếu như sau:
Lâm man bạch thủ độn kinh-thành,
Phất tụ cao-sơn viễn cánh hinh.
Kỷ nguyện tĩnh-cân xu trượng-tịch,
Hốt văn di lý yểm thiền-quinh.
Trai-đình u-điểu không đề nguyệt,
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh.
Ðạo lữ bất tu thương vĩnh-biệt
Viện tiền sơn thủy thị chân-hinh.
Phỏng-dịch như sau:
Rừng xanh đầu bạc lánh kinh-thành,
Rũ áo lên non rậy nổi danh.
Toan đội khăn sòng lên cửa Phật,
Thoát nghe tiếng dép động ngoài sanh.
Sân chùa chim rũ gào suông nguyệt,
Mộ tháp ai còn giúp viết minh.
Bạn đạo xin đừng than vĩnh-biệt,
Trước am, sông núi ấy chân-hinh.
Văn đời Lý nay chỉ còn một ít văn bia, do tăng hay nho viết. Những bia ấy là bia chùa. Văn rất cổ-kính. Trong chương sau, ta có nhịp dịch một vài đoạn văn của Hải-chiếu đại-sư.
Về khảo-cứu, ta đã thấy rằng quốc-sư Thông-biện thật là một nhà khảo-cổ uyên-bác. Chỉ tiếc nay không còn trước-tác gì khiến ta biết rõ hơn.
Nói tóm lại, văn-học đời Lý đã thịnh, và chịu ảnh-hưởng đạo Phật nhiều. Vả nhờ đạo Phật mà các bia chùa, và sách Thuyền-uyển-tập-anh còn giữ được một phần tác-phẩm. Xem vậy Phật-giáo có công to đối với sự phát-triển cũng như sự bảo-tồn văn-học nước nhà.
Ðối với các ngành mỹ-thuật, như kiến-trúc, điêu-khắc và hội-họa, đạo Phật là một cớ làm tiến triển rất to.
Trong triều Lý, rất nhiều chùa tháp được xây dựng với qui-mô rộng lớn. Hầu hết những danh lam còn lại, là do từ đời Lý lập ra. Những thắng-tích ở Hà nội, như quán Trấn-vũ (tên tục là chùa Quan-thánh, tên đời Lý là Bắc-đế, 1102). Diên hữu (tên tục là chùa Một cột, 1049), đền Nhị nữ (tục gọi là đền Hai Bà, nguyên ở phường Bố-cái tức là ở bãi Ðồng-nhân, 1160), đền Linh-láng(tên tục là đền Voi-phục), đều khởi-tạo từ đời nhà Lý. Sách TUTA và các sử còn chép nhiều tên chùa dựng ở Thăng-long, nhưng nay đã bị hủy mất, hay đã bị đổi tên.(5)
Còn như những danh-sơn như núi Long-đội ở huyện Duy-tiên, núi Phật-tích ở huyện An-sơn, núi Tiên-du ở huyện Tiên-du, núi Lãm-sơn ở huyện Quế-dương, núi Tiêu-sơn ở huyện Yên-phong, núi Ðồ-sơn ở huyện Nghi-dương, đều có dựng chùa và tháp.
Ngoài những từ miếu, các vua Lý còn dựng và sửa chữa nhiều cung-điện ở Thăng-long và ở những nơi vua thường đi chơi, hay đi làm lễ xem gặt, xem cày. Tuy là các tạo-tác này không có tính-cách tông-giáo nhưng chắc nó cũng chịu nhiều ảnh-hưởng của sự dựng chùa.
Trong chương sau, ta sẽ thấy tả một vài chùa cổ làm trong hồi Lý Thường-Kiệt vào trấn ở Thanh-hóa. Sau đây là tả qui-mô chùa Một-cột, theo bia STDL và sách TT. Tháng 9 năm Ất-dậu 1105, Lý Nhân-tông dựng hai tháp mái bằng sứ trắng ở chùa Diên-hữu. Bấy giờ vua chữa lại chùa (TT). “- vườn Tây cấm, dựng chùa Diên-hữu. Theo giấu chế độ cũ, thêm mưu mới của nhà vua. Tạc hồ Linh-chiểu. Trên hồ dựng lên một cột đá. Trên cột đá nở một hoa sen nghìn cánh. Trên hoa lại gác một tòa điện. Trong điện đặt tượng phật vàng. Chung-quanh hồ có hành-lang bao vây, tường vẽ. Ngoài hành-lang lại có hồ Khang-bích bọc bốn bề. Mỗi bề có cầu thông ra ngoài sân. Trong sân, kề đầu cầu ở trước chùa, có dựng hai tháp lợp ngói sứ.” (Bia STDL).
Tuy những cung điện, chùa miếu cũ nay không còn, nhưng ở một vài nơi, còn có vài tòa tháp, hay một tấm bia, hay vài bệ đá, hay ít nhiều tảng đá chạm cũ. Những di-vật ấy cũng đủ tỏ cho ta thấy rằng nghề kiến-trúc, cũng như nghề điêu-khắc đời Lý, rất tinh-vi và hùng-vĩ, các triều-đại sau không sánh kịp.
Một ảnh-hưởng bất-ngờ của đạo Phật là: nhờ các vua Lý muốn tổ-chức những hội long-trọng, cho nên đã khuyến-khích sáng-chế ra nhiều máy tự-động. Sử và nhất là bia STDL còn tả rõ những máy đã được thực-hiện ở trong đời Nhân-tông.
Ðây là máy kim-ngao. Ngày trung-thu và ngày tết, Nhân-tông ngự ở điện Linh-quang trên bờ sông Lô. Dưới sông, hàng nghìn thuyền gióng trống đua bơi. – giữa sông, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội rù-rờ trên mặt nước, lộ vân trên vỏ và rè bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua, mà cúi đầu chào. (STDL)
Ðây là máy đèn quay và người nộm đánh chuông. Ấy là lúc vua kén hoàng-hậu. Nhân-tông đặt hội đèn Quảng-chiếu. “Dựng đài Quảng-chiếu, ngảnh ra cửa Ðoan-môn. Giữa nêu một cột, ngoài đặt bảy từng. Rồng cuốn mà đỡ tòa kim-liên, rèm lồng mà che đèn sáng rực. Có máy giấu kín dưới đất, làm đài quay như bánh xe. Lại có hai tòa hoa-lâu. Treo quả chuông đồng. Tạc chú tiểu mặc áo cà sa, vặn máy kín thì giơ dùi đánh. Nghe tiếng sáo, liền quay mặt lại. Thấy bóng vua, lại biết cúi đầu. Tựa-hồ như có trí-khôn, biết khi động, khi tĩnh.” (STDL)
Nói tóm lại, suốt trong triều Lý, đạo Phật được vua quan trọng, tăng-già nhiều kẻ giỏi-giang. Cho nên ảnh-hưởng Phật-giáo ăn sâu vào tất-cả các ngành hoạt-động của người trong nước, về phương-diện tinh-thần cũng như vật-chất.
Chú-thích
(1) – Theo TV. Giáp, các vị tăng đã qua Ấn độ là: Vận-kỳ người Giao-châu, Mộc-soa-dê-ba (Moksadeva) người Giao-châu, Khủy-xung người Giao-châu (mất ở Thiên trúc), Tuệ-diệm người Ái-châu (ở lại Thiên-trúc), Trí-hạnh, người Ái-châu (mất ở bắc-ngạn sông Hằng-hà), Ðại-thặng-đăng người Ái-châu (mất ở Ấn-độ). 3.
(2) – CHUYỆN NGUYỄN BÔNG. – Về chuyện Nguyễn Bông, sách TT chép: “Năm Quí-mão 1063, Lý Thánh tông đã bốn mươi tuổi, nhưng chưa có con. Vua sai viên chỉ hầu Nguyễn Bông tới cầu-tự ở chùa Thánh-chúa. Sau đó, Ỷ-lan phu-nhân có mang, sinh Càn-Ðức, tức là Lý Nhân-tông.” Sách ấy lại chú-thích rằng: Sư chùa Thánh-chúa bày cho Bông phép đầu thai để vào làm con vua. Sự bại-lộ, nên Bông bị chém ở trước chùa, tại chỗ mà nay vẫn gọi là Cánh-đồng Bông. Chùa này, nay ở làng Dịch-vọng, huyện Từ-liêm, gần phía tây thị-trấn Hà-nội. Cánh-đồng Bông ở phía tây, trước cửa chùa.
Dã-sử và thần tích Ỷ lan thái-hậu (Xem sách Chuyện Ỷ-lan, nhà Minh-tâm xuất-bản) có kể rõ nhiều chi-tiết, và chép tên sư chùa Thánh chúa là Ðại-điên. Ðại-điên bảo Bông về nấp trong buồng tắm Ỷ-lan. Một hôm Ỷ-lan tắm thì bắt được Bông còn ẩn trong buồng. Vua Thánh-tông sai đem Bông đi chém. Khi qua chùa Thánh-chúa, Bông xin vào chùa để trách sư. Sư cười và trả lời: “Nếu không hủy thân này, thì sao đầu-thai được.” Bông mới hiểu mưu sâu của Ðại-điên và chịu chết. Sách VSL không hề chép đến việc Nguyễn Bông.
CHUYỆN GIÁC HOÀNG. – Về chuyện Giác-hoàng thì cả hai sách TUTA và VSL, soạn đời Trần, đều có chép. Sau đây, là dịch nguyên-văn trong VSL5.
“Tháng 2 năm Nhâm-thìn 1112, người Thanh-hóa nói ở bờ bể có một đứa bé lạ. Tuổi mới lên ba, mà người ta nói gì, nó cũng hiểu. Nó tự xưng là con đầu-lòng vua, và tự gọi là Giác-hoàng (nghĩa là Phật). Phàm vua Nhân tông làm việc gì, nó cũng biết trước. Vua sai sứ tới hỏi, thì quả đúng như lời đồn. Sứ bèn rước Giác-hoàng về Thăng-long, để ở chùa Báo-thiên (ở chỗ nhà thờ lớn Cơ đốc cạnh hồ Gươm). Vua thấy Giác-hoàng linh dị, càng yêu-dấu; và muốn lập làm thái tử. Triều-đình cho là không nên, vua bèn thôi.
“Vua mới sai đặt trai-đàn trong cung, muốn sai Giác-hoàng đầu thai để làm con mình. Có vị sư ở núi Phật-tích, tên Từ-Lộ, hiệu Ðạo-hạnh, nghe tin ấy, lấy làm lo. Sư bèn giao cho em gái vài hạt châu có làm phép, và dặn rằng: “Ðến xem hội, hãy giắt châu vào mái nhà, đừng để ai thấy.” Từ-thị làm đúng như lời. Bỗng-nhiên, Giác-hoàng phát cơn sốt mà ốm. Y bèn nói với người ta rằng: “Ta thấy trong nước lưới sắt bày la-liệt khắp; không có lối nào vào cung để thác sinh.”
“Vua sai lục tìm khắp trong chốn trai-đàn, thì thấy mấy hạt châu mà Từ-thị đã giấu. Vua sai bắt Từ Lộ trói ở hành lang Hưng thánh, rồi toan kết tội chết. Nhân lúc ấy, em vua, Sùng hiền hầu, vào chầu vua. Từ Lộ thấy, kêu-van thảm thiết rằng: “Mong Hiền-hầu cứu bần-tăng. Nếu bần-tăng được thoát, thì sẽ vào làm con Hầu để báo đức” Sùng-hiền-hầu nhận lời. Vào thăm vua, hầu tìm mọi cách cứu Ðạo-hạnh. Hầu nói: “Nếu Giác-hoàng quả có thần-lực mà lại bị Từ Lộ làm phép yểm được, thì Lộ chả giỏi hơn Giác-hoàng hay sao? Sự ấy đã rõ. Tôi nghĩ rằng: chi bằng Vua cho phép Lộ vào thác-sinh.” Vua bèn tha cho sư. Còn Giác-hoàng, thì bệnh thành nguy-ngập. Y dặn người chung quanh rằng: “Sau khi ta mất, hãy dựng tháp ở Tiên-du để táng ta.”
Lời văn dịch trên đây gần giống y như văn trong sách TUTA. Có lẽ cả hai sách đều lấy gốc một nơi. Nhưng trong TUTA, ở chuyện Từ Ðạo-hạnh (53b), có nói rõ vì cớ gì mà Ðạo-hạnh lại không muốn để Giác-hoàng đầu-thai làm con vua Nhân-tông. Nhân-tiện đây, tôi sẽ kể lại chuyện Từ Ðạo-hạnh, theo sách TUTA, để ta thấy dưới triều Lý đời sống đầy chuyện huyền-ảo, và ta có thể so-sánh với óc thực-tế của Lý Thường-Kiệt.
CHUYỆN TỪ ĐẠO-HẠNH. – Ðạo-hạnh họ Từ. Bố tên Vinh, làm chức tăng-quan đô-sát.Vinh từng du-học ở làng Yên-lãng (làng Láng ở gần phía tây thị trấn Hà-nội), lấy vợ họ Tăng ở đó, và ở lại làng ấy. Bà sinh Ðạo-hạnh. Lúc bé Ðạo-hạnh tính thích-thảng, có chí lớn. Cử-động thế nào, không ai lường được. Ngày thường, ông kết bạn cùng nho-giả Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn-Nghĩa, và con hát Vi Ất. Tối thì chịu khó đọc sách. Ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Cha thường trách ông là lười biếng. Một đêm, cha lén vào phòng ngủ, dòm trộm, thì thấy đèn chong suốt đêm, sách-vở chồng đống. Ông thì tựa án ngủ, tay không buông sách. Từ ấy, cha không lo nữa.
Sau, ông dự kì thi tăng-quan, bèn đỗ.
Từ Vinh thường dùng tà-thuật quấy Diên thành-hầu (có lẽ là con vua Lý Thánh-tông). Hầu nhờ pháp-sư Ðại-điên dùng phép đánh chết. Về đoạn này, thần-tích chùa Láng, chùa Thầy và các nơi thờ Từ Ðạo-hạnh, có nói rằng Từ Vinh dùng phép tàng-hình, lọt vào trong hậu-cung của Diên-thành-hầu để ghẹo kẻ cung-nhân. Hầu nhờ Ðại-điên bắt. Một hôm, Ðại-điên lấy tro rắc trước cửa phòng cung-nhân, rồi đọc chú, vẽ bùa và trao cho cung-nhân một cuốn chỉ ngũ-sắc. Ðại-điên dặn cung nhân rằng nếu Vinh tới thì lấy chỉ buộc mình y. Ðêm ấy, Từ Vinh quả tới. Cung-nhân buộc chỉ vào lưng, rồi hô-hoán lên. Vinh túng thế, nhưng không chạy được; bèn biến hình làm con dán và trốn vào vách. Ðại-điên tới tìm mãi không thấy. Sau thấy có râu dán trong vách lòi ra. Ðại-điên cầm râu kéo ra, tì thấy một con dán trắng. Ðại-điên đánh chết. Lại hiện ra thây Từ Vinh.
TUTA không chép chuyện con dán ấy, mà chỉ nói Ðại-điên đánh chết Từ Vinh mà thôi. Sau đó, TUTA chép nối rằng Ðại-điên vứt thây Vinh xuống sông Tô-lịch. Thây trôi đến cầu Vu-quyết (có lẽ Yên-quyết, ở gần góc tây-nam thành Thăng-long), trước nhà Diên-thành-hầu, thì thình-lình đứng dựng lên, mà trỏ tay vào nhà hầu. Hầu sợ, chạy mách Ðại-điên. Pháp-sư tới đọc một câu kệ. Thây bèn trôi đi.
Ðạo-hạnh muốn trả thù cha, nhưng kông có kế. Một hôm, ông rình Ðại-điên. Lúc Pháp-sư đi ra, ông toan giơ gậy đánh, thì nghe trên không có tiếng mắng, bảo: “chớ, chớ!”. Ông sợ, bèn bỏ gậy mà chạy.
Ông muốn sang Ấn-độ học dị-thuật để chống với Ðại-điên. Nhưng khi đi đến xứ mán Kim-xỉ (Mán răng vàng, có lẽ ở vùng Thượng-Lào hay Vân-nam), thì đường-xá hiểm trở quá, nên ông đành trở về. Ông bèn lên núi Từ-sơn mà ẩn. Ngày ngày, niệm kinh Ðại-bi-tâm-đà-la-ni, niệm đủ một vạn tám nghìn lần. Một hôm,ông thấy thần-nhân tới nói rằng: “Ðệ-tử là Tứ-trấn-thiên-vương. Cảm công-đức sư tụng kinh, cho nên lại hầu, để sư sai-khiến.”
Ðạo-hạnh tự biết rằng mình đã học được đạo-pháp và thù cha sẽ trả xong. Ông bèn tới cầu Vu-quyết, cầm gậy thử, ném xuống sông. Gậy bèn trôi ngược dòng như rồng lội, đến cầu Tây-dương mới dừng. Ông mừng và nghĩ thầm rằng phép mình sẽ thắng Ðại-điên. Ông bén đi thẳng đến nhà Ðại-điên. Ðại-điên thấy ông, liền nói: “Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?” Ông ngửng mặt lên trời, thì không thấy có gì lạ. Ông bèn lấy gậy đánh Ðại-điên. Ðại-điên phát bệnh mà chết.
Sau khi thù cha rửa sạch, ông bèn đi thăm các tùng-lâm, bàn đạo với các sư Trí-huyền ở Thái-bình và Sùng-phạm ở chùa Pháp-vân.
Rồi đến năm Hội-tường-đại-khánh thứ ba 1112, xảy ra chuyện Giác-hoàng đã kể trên.
Sau đó, Ðạo-hạnh được tha. Ông xin đến nhà Sùng-hiền-hầu, dùng phép Ðại-điên bày cho Nguyễn Bông trước, để đầu thai. Ông cũng nấp ở buồng tắm phu-nhân. Phu-nhân giận, mách. Hầu biết chuyện, nên không nói gì. Phu-nhân bèn có mng. Ngày chuyển dạ, phu-nhân theo lời Ðạo-hạnh dặn trước, sai người lên chùa Thiên-phúc (chùa Thầy) báo tin cho ông. Ðạo-hạnh bèn tắm rửa, thay quần-áo, rồi vào trong hang núi mà chết. Ấy là ngày Dương-hoán sinh, tức là Lý Thần-tông.
Sách TT chép vào tháng sáu năm Bính-thân 1126. Xác Ðạo-hạnh không hư-hỏng. Dân làng giữ để thờ. Ðến đời Minh Vĩnh-lạc, quân Minh sang đánh Hồ Quí-li, mới đốt mất. 6.
(3). – CHUYỆN LÊ VĂN-THỊNH. – Lê Văn-Thịnh đậu khoa nho đầu tiên ở nước ta, mở năm 1075; rồi được vào dạy vua Nhân-tông (1112). Năm 1084, Văn-Thịnh được sai tới trại Vĩnh-bình để chia địa-giới với Thành Trạc là quan Tống. Năm sau, được cất lên chức thái-sư. Y giữ chức tể-tướng trong mười hai năm. Năm 1096, y bị cách chức và đày đi nơi nước độc. Nguyên-do chỉ vì một việc tin dị-đoan rất thường thấy ở đương-thời. Các sách TT, VSL, VÐUL6, đều có chép chuyện ấy.
Văn-Thịnh nuôi được tên hầu, người Ðại-lý (Vân-nam), biết làm phép thả hơi mù và biến thân thành hổ báo. Văn-Thịnh học lại được phép ấy. Y bèn lập kế giết tên hầu, và định dùng thuật ấy để cướp ngôi vua.
Bấy giờ vào tháng 11 (theo VSL, còn TT nói tháng ba, và VÐUL, nói mùa thu), vua Lý Nhân-tông dạo chơi hồ Dâm-đàm (Hồ-Tây) xem đánh cá. Vua cưỡi một chiếc thuyền chài, có tên Mục Thận người phường Tây-hồ (ở trên bờ bắc hồ), đứng đầu mũi, bủa lưới. Lúc thuyền ra đến giữa hồ, thình lình mù lên đen tối. Nhìn chung quanh không thấy rõ. Bỗng nghe tiếng thuyền chèo vụt-vụt, lướt qua mù tới thuyền vua. Qua mù, ai cũng nhìn thấy trong thuyền ấy có một con hổ lớn đang nhe răng như muốn cắn. Vua sợ lắm. Mục Thận thấy vậy cũng kêu nguy-cấp. Sẵn lưới ở tay, Thận ném vào thuyền kia, bắt được hổ. Thì lại hóa ra Lê Văn-Thịnh!
Vua sai lấy dây sắt trói vào cũi mà giam. Nhưng nghĩ rằng Văn-Thịnh là một đại-thần, từng có công to, vua không nỡ giết (TT). Bèn sai đày lên ở một trại ở thượng-lưu sông Lương (theo VSL, còn TT và VÐUL, đều nói sông Thao.)
Chuyện trên này tiêu-biểu cho sự mê-tín có ảnh-hưởng lớn đến chính-trị ở triều Lý. Sử còn cho biết nhiều chuyện chứng rằng Nhân-tông, cũng như các vua Lý về sau, rất tin ảo-thuật, và có thần-kinh dễ cảm-xúc. Cho nên, chỉ vì một việc xảy ra rất thường, mà Văn-Thịnh xuýt bị chết. Về tháng mười một, trận mù thình-lình tới trên hồ, đó là một sự thường có. Nhưng với tâm-thần hay bị xúc-cảm của vua Lý, khi thấy trời tối mà mình còn ở trên mặt nước, thì vua đâm ra hoảng-hốt. Có lẽ Văn-Thịnh, cũng vì thấy trời tối, mà vội-vã sai chèo thuyền gấp tới để hộ vua về. Ngồi trong thuyền bị trùng-triềng không vững. Văn-Thịnh phải ngồi khom mình, tay chống vào thuyền cho vững. Hình-dáng trông như con hổ. Một mặt khác, có lẽ Văn-Thịnh cũng tin vào các thuật, và có tiếng sẵn là đã học được phép hóa hổ. Cho nên, kẻ trông thấy hình con hổ trong thuyền lại càng nghi cho y muốn hại vua.
Cũng may cho y. Tuy vua tin dị-đoan, nhưng đạo Phật đã gieo mối từ-tâm, cho nên Văn-Thịnh không bị tru di tam tộc như Nguyễn Trãi đời sau. Các nhà bình luận phái nho ở đời sau, như Ngô Sĩ-Liên, còn trách rằng: “Nhân-thần mà mưu giết vua cướp ngôi, thế mà còn tha tội. Làm sai hình chính như vậy; ấy bởi vì lỗi vua quá sùng Phật.”
Sau đó, Mục Thận được ban chức đô-úy-tướng-quân, và đất Tây-hồ làm thực-ấp (TT). Mục Thận làm quan đến chức phụ-quốc tướng-quân. Sau khi mất, được tặng hàm thái-úy, và được vua sai lập đền ở phường nhà. Ðền ấy nay vẫn còn. Sách VÐUL còn chép thêm rằng cạnh đền có một cổ-thụ rất to, hình dáng cong queo, như thân con rắn lớn. Cành lá thưa-thớt, trong thân có lỗ. Trong lỗ có con trăn làm tổ. Ngày sóc vọng, trăn vào đền, khoanh thành mấy vòng, nằm chầu.
CHUYỆN TRÂU TRÈO MUỖM. – Lê Vãn là một tên lính ở giáp Cổ-hoàng (thuộc huyện Hoằng-hóa, tỉnh Thanh-hóa ngày nay). Người giáp ấy có kẻ thấy dấu-tích một con trâu trèo lên một cây muỗm. Xem ra, thì là trâu trắng. Khá lâu sau, trâu lại xuống bằng một lối khác. Lê Vãn bèn đoán rằng: “Trâu trắng là một vật ở thấp. Nay nó lại trèo lên cao. Ðó là điềm kẻ dưới được lên ở trên.” Tuy các sách sử không nói, nhưng có lẽ Vãn là tuổi Sửu (cầm tinh con trâu), và tự cho rằng điềm ám-chỉ mình. Y bèn tụ quân làm loạn (TT). Bấy giờ vào năm 1192, đời Lý Cao-tông. Vua sai Ðàm Dĩ-Mông đem quân Thanh-hóa dẹp. Dĩ-Mông sai đẵn chuối bỏ sông, ngăn cản thuyền của Vãn không bày thành trận đuược. Quân Dĩ-Mông thình-lình tiến tới đánh gấp. Quân Vãn liền tan. 6.
(4) – CHUYỆN SƯ GIÁNG HỔ.- Mùa thu năm Ðinh-mùi 1187, đời Lý Cao-tông, có một sư người Tây-vực (phía tây-bắc Ấn-độ) tới Thăng-long. Cao-tông hỏi: “Sư biết phép gì không?” Sư trả lời: “Biết giáng hổ.” Vua sai tên chỉ-hầu-phụng-ngự Lê Năng-Trường đem sư về công-quán ở, và sai người bắt hổ để thử. Hơn một tuần sau, sư nói với Năng-Trường rằng hổ ấy có thể phục được. Năng-Trường tâu vua. Vua sai dựng chuồng trong các Vĩnh-bình. Rồi bảo sư vào chuồng thử hổ. Sư đi ren-rén bước một, miệng đọc chú, tay cầm gậy. Ðến trước hổ, sư lấy gậy đánh vào đầu hổ. Hổ vồ lấy gậy. Sư lui ra, tâu vua: “Có người nào ác, đã giải mất phép chú của tôi.”
Một hôm khác, vua lại sai thử lại. Sư xin làm đàn cầu Phật trước. Vua bằng lòng. Nhưng sư làm lễ lâu không chịu vào thử. Vua muốn thử cho đến cùng. Một hôm khác, vua ép sư vào chuồng hổ. Hổ nhảy lồng lên rường nhà, cào, thét. Sư sợ quá, lùi, không biết làm gì nữa. Bèn tựa chuồng mà chết.
CHUYỆN THỦY-CUNG. – Lý Cao-tông thường say đắm chơi bời. Thường lấy vải lụa bọc sáp chung-quanh, rồi vứt xuống hồ trong Thượng-uyển, và sai kẻ hầu lặn xuống mò lên, để giả làm như Thủy-cung đem hiến. Sau, có tên hầu là Vũ Cao, sợ phải lặn mò. Y bèn bịa đặt kể lại chuyện sau: “Cao qua chơi trên bờ hồ. Thấy một người lạ, cầm lấy tay mà dắt đi. Ðến gốc cây muỗm trên bờ hồ, người kia kéo Cao bảo đi xuống nước. Cao sợ chết đuối, không giám tiến. Một lát, thấy nước rẽ ra. Cao bèn đi vào. Ðến một nơi, thấy cung-điện nguy-nga, thị-vệ nghiêm-chỉnh. Cao hỏi ai ở đó. Người kia trả lời: ta ở đó để quản hồ này. Rồi người kia sai giọn mâm-cỗ, cùng Cao uống rượu. Rượu xong, Cao xin về. Người kia đưa cho cau cầm tay, rồi dẫn ra. Ðến gốc cây muỗm, thì không thấy người kia đâu nữa, mà trong tay, cau đã hóa ra mấy viên đá. Bấy giờ Cao mới biết hồ có thần.”
Cao-tông nghe chuyện, không sợ-hãi gì cả, mà còn sai chôn sắt để yểm thần. (VSL 1206)
CHUYỆN GỌI NƯỚC. – Ðến mùa đông, nước hồ cạn. Cao-tông không thể dong thuyền chơi trên hồ được. Vua bảo kẻ hầu chung-quanh: “Có ai làm phép cho nước sông lên đầy hồ được, thì ta sẽ hậu-thưởng.” Có tên Trần Túc trả lời: “Tôi làm được.” Không phải như ta tưởng; Túc không làm máy tát nước đâu. Y định làm phép chú. Vua sai làm, nhưng nước không lên. (VSL 1206)
Chuyện giáng sấm. – Tính Cao-tông sợ sấm. Mỗi lúc nghe sấm động thì run sợ. Có tên cận-thần Nguyễn Dư khoe rằng mình có phép giáng sấm. Gặp khi có tiếng sấm kêu, Cao-tông bảo nó làm phép. Dư ngửng mặt lên trời đọc chú. Sấm lại càng kêu lớn. Vua hỏi tại sao, Dư trả lời: “Tôi đã răn nó từ lâu, mà nó còn cường-bạo như thế đó!” (VSL 1206).6
(5) – Sau đây, kê những việc các vua Lý làm, có liên quan với đạo Phật, Lão và Nho. Bảng kê theo hai sách TT3 và VSL4. Khi nào cả hai sách cùng chép một việc, thì sau việc ấy, có đánh dấu (C). Khi nào chỉ một sách chép chuyện ấy mà thôi, thì chỉ đánh một dấu (T) hay (V). Còn về cách chép năm, thì trong khoảng từ năm 1133 đến 1155, hai sách ấy chép lệch năm nhau. Trong khoảng 1133-1139, cũng cùng một chuyện, sách TT chép chậm lại một năm đối với VSL. Trong khoảng 1140-1155, sách TT chép chậm đến hai năm đối với VSL. Muốn biết đâu là hư thực, ta phải so sánh với những tài-liệu thứ ba.
Trong khoảng đầu, TS5 và bia Ðỗ Anh-Vũ đều cho ta biết rằng Lý Thần-tông mất năm Ð. Tị 1137, y như trong VSL. Thế mà TT lại chép chuyện ấy vào năm sau. Ta phải nhận rằng TT sai, mà VSL đúng. Vì đâu có sự sai ấy? Xét kỹ, ta thất TT bỏ sót mất đề-mục năm Q. Sửu 1133, cho nên chép chuyện năm ấy vào năm sau: rồi sự sai ấy kéo truyền đến năm Canh-thân 1140, mà ta phải chữa ra K. Vi 1139.
Trong khoảng thứ hai, TS cho ta biết rằng tháng 4 năm A. Su 1145, có sao Chổi hiện. Thế mà sách TT lại chép vào năm 1146, và VSL lại chép vào năm 1144. Vả chăng, TT còn cho biết rằng năm ấy có tháng 6 nhuận; mà theo lịch Tống thì chính năm A. Su có tháng nhuận. Vậy những việc chép vào năm có sao Chổi đều thuộc về năm A. Su 1145. Trong khoảng nói đây, 1140-1145, TT vẫn chép chậm một năm, mà VSL lại chép sớm một năm.
Trong bảng kê sau đây, tôi sẽ theo nguyên-tắc trên mà chữa niên-kỷ của hai sách.
Ðời LÝ THÁI-TỔ. – Năm:
1010, dựng chùa riêng Hưng-thiên-ngự-tự và lầu Ngũ-phượng-tinh-lâu trong thành nội. Dựng chùa Thắng-nghiêm ở phương nam thành Thăng-long (C). Phát 2 vạn quan tiền để dựng 8 chùa ở phủ Thiên-đức, đều có dựng bia ghi công. Sức cho các làng phải trùng-tu chùa-chiền. Phát 1.680 lạng bạc để đúc chuông chùa Ðại-giáo . Chọn dân làm tăng. (T)
1011, trong thành, dựng cung Thái-thanh ở bên tả, chùa Vạn-thọ ở bên hữu. Dựng nhà tăng-kinh Trấn-phúc. Ngoài thành, dựng chùa Tứ-dạ-thiên-vương (T). Dựng chùa Cẩm-y và Long-hưng-thanh-thọ (C).
1014, tăng-thống Thẩm Văn-Uyển xin lập giới-trường ở chùa Vạn-thọ để cho tăng-đồ thụ-giới (xem 1011). Phát 310 lạng vàng để đúc chuông chùa Hưng-thiên, và 800 lạng bạc để đúc chuông chùa Thắng-nghiêm và lầu Ngũ-phượng (xem 1010). (T)
1016, dựng các chùa Thiên-quang, Thiên-đức, và tô tượng Tứ-thiện-đế (C). Dựng đền Lý Phục-Man. Chọn hơn 1.000 người ở kinh-sư, cho làm tăng và đạo. (T)
1018, sai Nguyễn Ðạo-Thanh và Phạm Hạc đi Tống xin kinh Tam-tạng (C). Năm 1020 mới về. Vua Lý sai sư Phi Trí tới Quảng-châu đón. (T)
1019, độ dân làm tăng. (T)
1021, dựng núi Nam-sơn chúc thọ (C). Dựng nhà tăng-kinh Bát-giác (T).
1023, sai viết lại kinh Tam-tạng, rồi trữ tại tàng-kinh Ðại-hưng. (T)
1024, dựng chùa Chân-giáo ở trong thành nội, để tiện việc tụng kinh. (T)
1027, sai viết kinh Tam-tạng.
Ðời LÝ THÁI-TÔNG.- Năm:
1028, dựng núi Nam-sơn chúc thọ. Dựng miếu thần Ðồng-cổ ở phía hữu thành Ðại-la, cạnh sau chùa Thánh-thọ. Ðặt các giai-cấp cho tăng và đạo. (T)
1031, sai chữa và dựng nhiều chùa và quán; sách VSL chép 150 nơi, sách TT chép 950 nơi. Lập pháp-hội. Ðặt chức ký-lục coi cung Thái-thanh (xem 1011) và giao cho đạo-sĩ. (T)
1034, vua thăm chùa Trùng-quang ở núi Tiên-du. Dựng nhà tàng-thư Trùng-hưng. Sai Hà Thụ và Ðỗ Khoang đi sứ Tống. Vua Tống tặng cho kinh Tam-tạng. Hai vị tăng Nghiêm Bảo-Tính và Phạm Minh-Tâm tự thiêu; sai để xá-lị ở chùa Trường-thánh (T). Ðào được hòm xá-lị ở chùa Pháp-vân tại Cổ-Pháp (C).
1035, cấp 6 nghìn cân đồng để đúc chuông chùa Trùng-quang (xem 1034); chuông “tự dời đến chùa”. (T)
1036, khánh-thành phật-hội Ðại-nguyện ở Long-trì. Sai viết kinh Ðại-tạng để trữ ở tàng-thư Trùng-hưng (xem 1034). (T)
1037, tượng Phật cổ ở dưới đất mọc ra ở một vườn dâu tại Ô-lộ. (T)
1038, dựng bia chùa Trùng-quang (xem 1034) (T)
1040 đặt hội La-hán. Khánh-thành một nghìn pho tượng Phật bằng gỗ, một nghìn bức tranh và một vạn cờ phướn. (T)
1041, xây viện Thiên-phúc ở núi Tiên-du; cấp 7.560 cân đồng để đúc tượng Di-lặc và chuông, đặt tại viện ấy (T)
1043, vua đi thăm chùa cổ ở núi Tùng-sơn tại châu Vũ-ninh. Chùa đã đổ. Có một cột đá tự nhiên dựng lại. (T)
1048, dựng đàn Xã-tắc ở ngoài cửa Trường-quảng, để cầu được mùa (C). Ðặt lễ rước trâu đất đầu mùa xuân (V).
1049, dựng chùa Diên-hữu, tức chùa Một-cột (C). Nguyên vua mộng thấy Phật-bà Quan-âm ngồi trên đài hoa sen, đến dẫn vua lên trên đài. Lúc tỉnh, vua kể chuyện lại Triều-thần cho là điềm gở (điềm vua chết). Sư Thiền-tuệ khuyên nên xây chùa, dựng cột đá giữa hồ, đặt đài hoa sen có tượng Quan-âm ở trên, như thấy trong mộng. Tăng-đồ đi vòng quanh đài, tụng kinh để cầu cho vua sống lâu (T).
Ðời LÝ THÁNH-TÔNG. – Năm:
1055, dựng chùa Ðông-lâm (TUTA nói ở Ðiển-lạnh) và chùa Tĩnh-lữ, ở Ðông-cứu. (V)
1056, lập hội La-hán ở điện Thiên-an (V). Dựng chùa Sùng-khánh-báo-thiên; phát 12.000 cân đồng để đúc chuông chùa. Vua tự làm bài minh khắc vào chuông. Chùa này thường gọi là chùa Báo thiên, ở chỗ nhà thờ lớn Cơ-đốc tại Hà-nội ngày-nay. (C)
1057, xây tháp Ðại-thắng-tư-thiên, tức tháp chùa Báo-thiên (xem 1056). Tháp cao vài mươi trượng. TT chép tháp có 12 tầng, VSL chép 30 tầng chắc sai. Dựng các chùa Thiên-phúc và Thiên-thọ ; đúc tượng Phạn-vương và Ðế-thích để thờ ở đó. (C)
1058, vua đi xem chỗ xây tháp Ðồ-sơn (ở nơi khách-sạn lớn tại mỏm núi Ðồ-sơn ngày nay). (V)
1059, dựng chùa Sùng-nghiêm-báo-đức ở châu Vũ-ninh. Vua đặt tên cho tháp Ðồ-sơn là Tường long, vì “có rồng vàng hiện ở điện Vĩnh-thọ”. (V)
1063, dựng chùa ở núi Ba-sơn để cầu-tự. (V)
1066, sai lang-tướng Quách Mãn dựng tháp ở núi Tiên-du. (C)
1070, dựng chùa Nhị-thiên-vương ở đông-nam thành Thăng-long (V). Tháng 8, dựng (hay chữa, TT chép tu) văn-miếu; tô tượng Khổng-tử, Chu-công, tứ-phối, thất-thập-nhị-hiền để thờ. Cho hoàng thái-tử ra đó học (T).
1071, vua viết chữ Phật, cao một trượng 6 thước (C); khắc vào bia để tại chùa núi Tiên-du. (T)
Ðời LÝ NHÂN-TÔNG. – Năm:
1072, ngày Phật-đản, vua tới xem làm lễ tắm Phật. (C)
1073, rước phật Pháp-vân về kinh để cầu tạnh. Lập đền thờ núi Tản-viên (VSL chép vào năm trước).
1075, thi minh kinh bác-sĩ. (T)
1077, đặt hội Nhân-vương ở điện Thiên-an. (V)
1080, đúc chuông chùa Diên-hữu (xem 1049), chuôn
CHƯƠNG XV : LÝ THƯỜNG KIỆT VỚI ĐẠO PHẬT
Lý Thường-Kiệt sống trong thịnh-thời của đạo Phật. Ông từng chịu Phật-giáo chi-phối một phần. Quả như lời đại-sư Hải-chiếu nói trong bia LX: ” ông tuy thân vướng cõi tục, nhưng lòng đã quy-y”.
Không biết ông theo đạo Phật đến mực nào. Có điều chắc-chắn là ông che-chở cho các vị sư có danh như Trì-bát, Chân-không (TUTA), Ðạo-dung (HN) và Sùng-tín (LX).
1. Sư Ðạo-dung. Chùa Hương-nghiêm.
Năm 1077, Lý Thường-Kiệt đã giúp sư Ðạo-dung chữa chùa Hương-nghiêm ở Thanh-hóa.
Sách TUTA có chép chuyện vị sư này. Nhưng những bản, nay còn, đều chép hiệu sư là Pháp-dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy Trần Hưng-Ðạo(1)
Chùa Hương-nghiêm nay vẫn còn ở xã Phủ-lý, phủ Ðông-sơn, tỉnh Thanh-hóa. Chùa mới được trùng-tu. Chùa còn có hai tấm bia. Một tấm bia lớn, rất xưa. Bia ấy nguyên dựng năm 1124, đời Lý Nhân-tông. Niên-hiệu ở bia là Thiên-phù-duệ-vũ thứ 5, Giáp-thìn. Nhưng sáu trăm năm sau, năm 1726, đời Lê Bảo-thái thứ 7, Bính ngọ, có vị sư ở chùa, là Lê Văn-Nghị, đã thuê thợ đục lại, theo nét chữ xưa. Nhờ đó, bây giờ chữ vẫn rất rõ. Nhưng nhìn kỹ, ta sẽ thấy, có chữ không theo hẳn nét cũ, và có chữ lại đục hơi sai.
Bia ấy dựng trong hạ-đường chùa, tựa vào tường, ở phía trái nếu ta nhìn vào phật-điện. Không biết mặt áp tường có chữ hay không? Còn mặt ngoài có 30 dòng chữ cũ, và một dòng niên-hiệu mới. Mỗi dòng, nhiều nhất, có 45 chữ.
Văn bia kể sự-tích chùa khá kỹ. Về thiền-sư Ðạo-dung, sự-tích chép ở bia khá phù-hợp với sách TUTA, và bổ-túc cho sách ấy. Ðó là một chứng rất quí cho sự cổ-truyền và xác-thực của cuốn sách TUTA.
Bia lại còn nói đến một vị thái-phó họ Lưu, tùng-huynh sư Ðạo-dung, và sống đồng-thời với Lý Thường-Kiệt. Xét rõ, thấy đó là Lưu Khánh-Ðàm, mà ta thấy tên chép ở sử (2)và ở mộ-chí dựng đời Lý, nay vẫn còn ở làng Lưu-xá, huyện Hưng-nhân, tỉnh Thái-bình. Như thế thì vì một sự ngẫu-nhiên đặc-biệt, ta còn có hai bia đời Lý, một sách đời Trần, chép những chuyện về đời Trung-cổ ở nước ta, có liên-quan với nhau. Sự ấy thật là quí. Nhất là, sự các sử-liệu ấy không trái với các sách Việt-sử-lược và Ðại-Việt sử-ký toàn-thư, nó làm tăng giá-trị hai cuốn sử này.
Sau đây, tôi theo bia HN, các sách TUTA, TT và VSL, sẽ kể lai-lịch chùa Hương-nghiêm, thân-thế sư Ðạo-dung và sự liên-quan giữa Lý Thường-Kiệt và Lưu Khánh-Ðàm.
Chùa Hương-nghiêm ở núi Càn-ni. Ðó là theo bia HN; còn sách TUTA chép núi Ma-ni, vì chữ Càn húy đời Trần (1). Chùa ở giáp Bối-lý, bây giờ là làng Phủ-lý, phủ Ðông-sơn, tỉnh Thanh-hóa. Ðời Hậu-Ðường (923-937), Lê Lương dựng chùa ấy (HN). Lê Lương thuộc một cự-tộc ở quận Cửu-chân, châu Ái. Ông làm đến chức Trấn-quốc bộc-xạ. Nhà ông giàu, rất có thế-lực trong xứ. Thóc ông trữ đến 110 lẫm. Trong nhà ông nuôi 3.000 người khách. Ông dốc một lòng thiện, rất sùng đạo Phật. Ông là người trước nhất dựng chùa ở giáp Bối-lý. Các bia chùa Hương-nghiêm, Trinh-nghiêm, Minh-nghiêm đều có khắc chép công ông (HN).
Bấy giờ, dân ở châu quận này bị mất mùa đói khó. Ông đem thóc nhà phát-chẩn để cứu dân.
Ðến sau lúc vua Ðinh Tiên-hoàng lên ngôi (968-979), nghe tiếng ông có đạo-đức, vua phong cho ông chức Ái-châu Cửu-chân đô-quốc dịch sứ, tức là chức quan đứng đầu giúp nước ở Ái-châu, quận Cửu-chân. Vua lại ban cho ông hàm Kim-tử quang-lộc đại-phu, và phong ấp ở trong giới-hạn sau này : đông đến Phân-dịch, nam đến Vũ-long, tây đến đỉnh núi Ma-la, bắc đến Kim-cốc(3), và cho đời đời con cháu làm quan coi đất ấy (HN). Sách TUTA cũng có chép rằng ông làm châu-mục Ái-châu đời Ðường và suốt mười lăm đời, họ ông nổi tiếng ở đó.
Ðến khi vua Lê Ðại-hành tuần-du ở Ngũ-huyện-giang, tức là triền sông Lương, sông Mã ở Thanh-hóa, Vua thấy chùa đổ nát bèn chữa lại (HN). VSL có chép : Vua đi chơi Hoan-châu năm 1003, có lẽ vua qua Thanh năm ấy.
Ðến đời Lý, vua Thái-tông đi chơi về phương nam, tới Ái-châu, có qua chùa ấy. TT và VSL chép rằng năm 1031 Lý Thái-tông đi đánh Hoan-châu về, phát tiền thuê thợ chữa nhiều chùa quán ở các hương-ấp (XIV/ cth 5). Chắc rằng vua tới thăm chùa ấy. “Trải mấy đời thờ cúng, rường cột đã đổ nát, vua bèn sai chữa lại. Vua lại ban cho cháu ông bộc-xạ, là Ðạo-quang trưởng-lão làm thiền chủ, cấp cho năm tên giúp việc và sai trụ-trì ở đó.” (HN).
Hai tiếng trưởng-lão là một mỹ-hiệu tặng những tăng hay tăng-quan được vua kính-trọng. Tuy tăng-quan ấy coi chùa, nhưng vẫn có gia-đình con-cái.
Theo TUTA thì trưởng-lão này hiệu là Tăng-phán, tên là Huyền-nghi. Trưởng-lão là thân-phụ thiền-sư Ðạo-dung. (HN)
Thiền-sư Ðạo-dung tên gì ? TUTA không chép. Nguyên bia HN có ghi, nhưng nay mòn không thấy chữ nữa.
Thiền-sư có một tùng-huynh là Lưu Khánh-Ðàm, cũng là người Ngũ-huyện-giang, ở Cửu-chân, thôn Yên-lãng (Mộ-chí). Nay ở phủ Thọ-xuân và phủ Thiệu-hóa có hai làng Yên-lãng gần nhau ở hai bờ sông Lương. Có lẽ quê ông là vùng ấy. Ông nội Lưu Khánh-Ðàm có năm con trai. Trong đó có Huy-Triết, dời nhà tới ngụ cư ở khách-quán, có lẽ tới ở làng Lưu-xá huyện Hưng-nhân, tỉnh Thái-bình bây giờ. (Bia HN và Mộ-chí Lưu-xá).
“Bấy giờ, vua Lý Thái-tông chọn dân ở quận để cho vào hầu vua. Lưu Khánh-Ðàm “phi thường khác chúng” nên được chọn vào chầu ở nội đình”. Kịp đến khi Lý Thánh-tông lên ngôi, ông chầu bên cạnh, rất được vua yêu. Sau khi Nhân-tông lên ngôi, vua nghĩ đến công ông giúp-rập ba đời, có nhiều công, vậy phong cho ông chức thái-phó, kiêm chức nội-dịch trưởng-quan, coi hết các việc quân và việc thường trong cung-dịch. Vua lại ban cho ông chức tước sau này : Nhập-nội nội-thị tỉnh-đô đô-tri, kiểm-hiệu thái-phó, kiêm cung-dịch-sứ, đại-tướng-quân, kim-tử quang-lộc đại-phu, thực ấp 6700 hộ, thật phong 3000 hộ. (HN).
“Thiền-sư Ðạo-dung có hình-thần lạ đẹp, tư khí thanh-cao. Kinh kệ thì không gì không đọc tới (TUTA). Năm Bính-thìn 1076, sư bỏ gia-hương đi tìm bạn. Cưỡi thuyền ra bể, rồi tới Thăng-long. – đó, thiền-sư gặp một vị tăng, hiệu là Cao-tăng. Sư cảm-phục bèn theo học.” (HN). Vị Cao-tăng ấy là ai ? Sách TUTA có nói : Lúc nhỏ, sư theo tăng thống Nguyễn Khánh-Hỉ để xuất-gia. Tăng-thống người Cổ-giao, quận Long-biên (thuộc Bắc-ninh bây giờ), trụ-trì ở Từ-liêm, gần phía tây thành Thăng-long. Có lẽ Cao-tăng kia chính là hiệu của tăng-thống Khánh-Hỉ trước năm 1133, khi chưa được triệu vào kinh và chưa được ban chức tăng-thống(4).
“Cao-tăng Khánh-Hỉ để ý đến Ðạo-dung, cho là một kỳ-nhân và dạy cho Phật-pháp (TUTA). Ðạo-dung hỏi : “Ðiều gì cốt yếu trong Pháp ?” Cao-tăng trả lời :”Pháp vốn không phép, ta lấy gì mà bảo ngươi.” Bỗng nghe, sư thấy lòng nở-nang, bèn giác-ngộ”. (HN).
Một hôm, sư Ðạo-dung hỏi Cao-tăng :”Tôi đã hiểu rõ nghĩa chữ không và chữ sắc. Sắc là bởi kẻ phàm thấy, không là bởi kẻ Thánh thấy. Có phải thế không ?” Cao-tăng trả lời bằng một bài kệ phỏng-dịch như sau này:
Ở đời chớ hỏi sắc và không,
Học đạo chẳng qua tìm Tổ Tông.
Trồng quế trên trần sao được rậm.
Tìm Tâm ngoài Phật khó lòng mong.
Bao-hàm nhật-nguyệt trong hạt cải,
Thu hết càn-khôn đầu mũi lông.
Ðại-dụng rõ-ràng tay nắm chặt,
Ai hay phàm thánh, biết đâu cùng.
“Từ đó sư thích dạo núi sông, không đâu ngại đến.” (TUTA).
“Sư bèn ngược sông Lô (Nhị hà), trèo núi Thứu-đài. Ngắm xem cảnh đẹp ấy, sư dừng chân lại, cho là rất vừa ý. Sư sai thợ chọn hướng, ghép đá làm nền, mà dựng nên chùa. Ðặt tên là chùa Khai-giác”. Trên đây là theo bia HN, còn TUTA chép : “Sư đi đạo-hóa, dừng chân ở núi Thứu-phong, tại chùa Khai-giác và dạy học-trò”. Sư được công-chúa Thụy-thành, có lẽ là con vua Thái-tông, và Thái-phó Lưu Khánh-Ðàm cấp cho khí-dụng để làm chùa. (HN).
Sư dạy học-trò. Người tới học đầy nhà. (TUTA).
“Năm sau, Ðinh-tị 1077 (bia HN, khi khắc lại, lầm ra Ðinh-mão), sư trở về ấp cũ, thấy chùa Hương-nghiêm đã đồi-hoại. Sư bèn nói với Lưu Khánh-Ðàm rằng : “Kẻ nhân-hiền không quên dấu-tích tiên-tổ. Xin anh chữa lại cho.” Lưu-công nghe nói, vui lòng mà thuận.” (HN).
Bấy giờ, quân ta vừa đánh lui quân Tống. Lý Thường-Kiệt vừa lập đại-công. Lưu-công, và em là Lưu Ba, cũng vừa được chia phần vinh-dự. Lưu-công thấy chùa chiền bị chiến-tranh làm hư đổ, đang lo sửa-sang tự-tháp. (Mộ-chí Lưu-xá).
“Lưu-công bèn nói với quốc-tướng thái-úy Lý Thường-Kiệt rằng : “Chùa Hương-nghiêm là do tiên-tổ tôi sửa-chữa. Nay đã đổ nát. Ông cùng tôi, chúng ta hãy chữa lại.” (HN).
Theo chương trên, ta biết rằng bấy giờ Thường-Kiệt còn ở Thăng-long. Có lẽ Thanh-hóa là thực-ấp của ông từ trước, cho nên Khánh-Ðàm mới bàn cùng ông chữa chùa Hương-nghiêm ở đó. Thường-Kiệt bèn tìm gỗ, sai thợ tới sửa chùa.
Năm Tân-dậu 1081, hai phò-ký-lang, họ Thiều và họ Tô (5), tâu vua xin ruộng đất của bộc-xạ Lê Lương. Vua xét lời tâu, bèn định trả giáp Bối-lý cho họ hàng Lê-công.
Mùa thu năm ấy, Lý Thường-Kiệt đi Thanh-hóa trả ruộng. Ông lập bia đá chia ruộng cho hai giáp. Từ nửa đầm A-lôi trở lên, cho giáp Bối-lý ; từ nửa đầm trở xuống, cho giáp Viên-đàm. Ông lại dặn đi dặn lại hai giáp không được hái một lá lau-lách ở hai bên bờ đầm, vì đó là giới-hạn. (HN).
Hai tên giáp ấy nay đã thay đổi, nhưng đất còn có thể tìm được. Chùa Hương-nghiêm nay ở làng Phủ-lý. Nếu ta xét bản đồ Thanh-hóa ngày nay, ta thấy rằng bên cạnh làng Phủ-lý có những làng Nhân-lý, Mỹ-lý. Theo tục đổi tên ở xứ ta (6), ta có thể chắc rằng ba làng ấy khi xưa là một và sau mới chia ra. Vả làng Phủ-lý có tên nôm là làng Kĩ. Chắc đó là tên giáp Bối-lý cũ. Bên cạnh phía tây làng Phủ-lý, ta lại thấy có hai làng liền nhau, tên là Viên-quang và Hồ-đàm. Ta cũng có thể đoán đó là do làng Viên-đàm cũ mà phân-tách ra. Xem vậy, ta có thể nhận dấu hai giáp Bối-lý và Viên-đàm. Nhưng đầm A-lôi thì không thấy nữa. Ruộng vùng ấy là ruộng sâu. Có lẽ đó là đầm cũ.
Năm Ðinh-mão 1087, sư Ðạo-dung được vua Nhân-tông triệu tới kinh, lập đạo-tràng trong cung (HN).
Năm Nhâm-dần 1122, sư trở về thăm quê cũ. “Nhân vật tuy đổi, non nước như xưa. Chùa đã đổ nát, nền móng vẫn còn.” Sư liền sai thợ chữa lại. Tô tượng Phật ngồi trên Bàn-đà. Ðào hồ. Giữa hồ, xây bệ ; đặt tượng Phật trên. Chùa cao, cửa rộng, mái ngói. Mé tả có lầu chuông, mé hữu dựng bia đá ghi công. Xung quanh đều xây tường. Vườn trồng hoa cỏ. (HN).
Chữa xong chùa, sư đặt tiệc mừng ; lập đàn cầu tự cho vua, và cầu phúc cho quần-chúng. Sư mời người làm bài ký, khắc vào bia. Chính là bia dựng năm 1124 mà nay hãy còn. Nhưng tên tác giả thì mờ hẳn không đọc được nữa. Có lẽ cũng là vị Hải-Chiếu đại-sư, làm bia Linh-xứng dựng năm 1126 và bia Sùng-nghiêm-diên-thánh dựng năm 1118.
Sau đó sư ở lại chùa cho đến lúc mất. TUTA chép rằng :”Rồi sư trở về nhà, dựng chùa để ở đến lúc già. Sư mất ngày mùng 5 tháng 2 năm Giáp ngọ 1174, đời Thiên-cảm-chí-báu”. Chép như vậy chắc lầm, vì rằng năm 1076, sư đã ra Thăng-long. Nếu sống đến năm 1174, thì sư phải ít nhất cũng một trăm hai mươi tuổi. Sau khi sư mất, học-trò là sư Tăng Ðạo-lâm làm lễ hỏa-táng và xây tháp ở núi Càn-ni. (TUTA).
Ngày nay, làng Phủ-lý không có núi. Núi Càn-ni, chép ở bia, có lẽ chỉ là mô đất cao hơn cánh đồng chung quanh.
Chùa nay hoàn toàn mới. Các vật trong chùa đều mới, trừ quả chuông đúc đời Gia-long. Trong vườn không thấy có tháp cổ. Còn có hồ. Nhưng trong chùa và ngoài chùa không thấy vật cổ nữa. Nếu bới đất tìm, trong nền hay dưới hồ, may chi còn thấy cái bia xưa, dựng đời Hậu-Ðường ghi công-đức Lê Lương.
2. Núi An-hoạch. Chùa Báo ân.
Chừng hai cây-số phía tây thành Thanh-hóa, có làng An-hoạch, kề đường cái đi làng Sim. Hiện nay, làng có một ngôi chùa cổ, ở phía bắc con đường ấy. Cửa tam-quan cũng là lầu chuông. Cửa khi nào cũng đóng. Nhìn qua rào thưa, ta thấy vườn rộng. Trong xa có nhà bái-đường lợp tranh. Ðường lên chùa có bậc đá. Trông vào thì bên tả thấy có hai bia, một bia to cao, dựng gần bên lối vào.
Bia rất mòn, nhưng ở ngạch còn tám chữ to và rõ : AN-HOACH-SƠN BÁO-ÂN TƯ BI-MINH, nghĩa là bài minh của bia chùa Báo-ân ở núi An-hoạch.
Ðó là một ngôi chùa dựng lên trong lúc Lý Thường-Kiệt còn trấn Thanh-hóa. Bia tuy mờ mất niên-hiệu và mất tên người dựng. Nhưng cũng còn đọc được. Nó cho ta biết nhiều điều rất quý về Lý Thường-Kiệt.
Núi An-hoạch thuộc núi Nhồi, là dãy núi lèn ở phía tây-nam thành Thanh-hóa. – chân núi, có làng Nhồi, tên chữ là Nhuệ-thôn. Dân làng chuyên-môn làm nghề lấy đá ở núi để làm bia, khánh, cối xay, trục lăn, tượng. Nghề ấy có đã lâu đời. Ðời Tấn (265-418), thái-thú Dự-chương là Phạm Ninh sai sứ tới Cửu-chân lấy đá làm khánh; tức là lấy ở đó.
Theo bia Báo-ân, thì “Năm Nhâm-tuất (1082), vua Lý Nhân-tông đặt riêng một quận ở Thanh-hóa, ban cho Lý Thường-Kiệt, để làm phong-ấp. Thường-Kiệt ra đó, coi việc quân dân. Các đầu-mục đều theo bóng, tất cả dân gian đều mến đức.
“Ông thấy ở phía tây-nam quận-lỵ, có quả núi cao và to, tên là An-hoạch. Núi sẵn một thứ đá đẹp. Ðá rất quí cho thợ. Màu sáng như ngọc lam, chất xanh như khói mới lên. Tạc làm đồ dùng rất dễ, làm khánh đánh rất kêu, làm bia rất bền. Ông bèn sai một người quản-giáp tên là Vũ Thừa-Thiết đem dân Cửu-chân tới núi ấy để lấy đá.
“Ông coi quận trong 19 năm (1082-1101) nay. Dân kính-mến. Giặc sợ-hãi. Dân tự nghĩ rằng, đó là nhờ Phật tế-độ cho dân qua bể khổ, mà dân chưa lấy gì báo-đáp. Bèn chọn chỗ này; xẩy cỏ dựng chùa, đặt tên chùa là Báo-ân. Ðắp tượng, vẽ đồ. Chùa bắt đầu làm năm Kỷ-mão (1099) đến năm sau Canh-thìn (1100) thì xong.
“Chùa ngoảnh mặt về hướng nam. Ðất là huyện Cổ-chiến. Sau chùa có núi Tường-phượng. Gần mé sau có núi Bạch-long. Trước chùa có sông chảy ngang ; phía tả chảy về phương đông, tới xứ Phân-dịch ; phía hữu chảy về núi Nghiêu-nhạc. Trước cửa có giếng đá, trông ra có hai tảng đá nhọn đứng. Bên cạnh có cầu.” (BA)(7).
Trên đây là theo văn bia mà tả. Ngày nay con sông lại chảy quanh sau chùa; có lẽ bị chữa vì địa-lý. Phía đông, sông chia ra hai nhánh, một nhánh xuống qua làng Bố-vệ, cạnh đền vua Lê rồi ra sông Mã, một nhánh chảy về phía nam, hợp với Hoàng-giang. Phía tây, sông bị lấp tại làng Phủ-lý. Sông ấy là sông Bồn. Theo sách Thanh-hóa kỷ thắng chép lại, thì khi xưa, sông ấy thông với Lễ-khê chảy từ Lương-giang ra. Tục truyền rằng có một bà thái-hậu đời Trần, thấy nước Lễ-khê ngọt, cho rằng đất ở đó có thể phát vua, bèn lấp sông ấy.
Tuy rằng bia Báo-ân mất niên-hiệu, nhưng theo năm làm chùa xong là năm 1100, và theo câu nói Lý Thường-Kiệt coi quận trong 19 năm nay, thì ta thấy rằng bài bia làm năm Hội-phong thứ 9, Canh-thìn 1100. Vậy bia này là bia bằng chữ Hán xưa nhất còn thấy ở nước ta.
Mà chùa cũng rất đáng chú-ý, vì trong chùa còn những tượng rất xưa. Như trên đã nói, hạ-đường chỉ là một nhà tranh, nhưng thượng-đường lợp ngói. Trong có một pho tượng rất cao gần hai mét, xưa thiếp vàng, nay lớp vàng đã phai hết, chỉ còn lớp sơn đen, nhưng trông rất đẹp. Pho tượng lại ngồi trên tòa sen. Tòa sen đặt trên lưng một con vật bằng đá, điêu-khắc rất tinh-xảo. Con vật ấy đầu hình đầu lợn, có nanh, mắt hung-dữ; chân có vuốt nhọn, đuôi to có hình lông xoắn ốc. Cả pho tượng và con thú ấy đặt trên một bệ đá, có lẽ mặt trước có điêu-khắc, nhưng nay đã bị người ta xây một bệ khác che khuất. – hai góc, còn lòi ra một phần, và ở góc ấy có hình agudo, tức là vị thần, thân người đầu chim, có cánh, chân có vuốt, tai đeo khuyên, ngực đeo chuỗi hạt, lấy đầu và hai cánh đỡ mặt trên bệ. Kiểu điêu-khắc ấy y như kiểu nay còn thấy ở cổ-vật Chàm, mà ta cũng thấy ở một vài chùa ta. Chắc rằng đó là do ảnh-hưởng của các thợ Chàm, mà ta bắt đem về đời Lý Thái-tông, và đời Lý Thánh-tông. Những bức chạm ở đây rất có thể là do người Chàm mà Lý Thường-Kiệt đã đem về năm 1069, hay là những học trò thợ ấy. Ðó là một chứng cho ta tin rằng bệ đá, và có lẽ tượng đất, là từ đời Lý để lại.
Trong chùa còn có nhiều bệ con; trong số ấy, có một cũng chạm aguda ở góc. Các đá tảng kê cột cũng chạm hình hoa sen. Chắc xưa chùa to, nay những đá tảng còn lại, to không hợp với những cột nhỏ bé ngày nay. Nếu phá được cái bệ mới thêm vào trước bệ chính ở chùa, thì ta có lẽ thấy những bức chạm khác hay là những dấu chữ xưa.
Ngoài sân đền, còn có một cái khánh đá cũ, nhưng nay bị vỡ. Xem kỹ, khô

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét