XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

KỸ THUẬT NUÔI CÁ NƯỚC NGỌT

KỸ THUẬT NUÔI CÁ NƯỚC NGỌT

MỞ ĐẦU

Nuôi thủy sản nước ngọt những năm gần đây trở thành một hướng phát triển quan trọng trong nông nghiệp. Diện tích nuôi cá nước ngọt tăng nhanh do chủ trương của Nhà nước chuyển đổi những diện tích ruộng trũng cấy lúa năng suất thấp sang nuôi cá cho năng suất cao và ổn định. Mặt khác, sản phẩm nuôi thủy sản là nguồn thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, ít có khả năng nhiễm độc nên có nhiều người ưa chuộng. Điều này cũng góp phần đáng kể thúc đẩy phát triển nuôi cá nước ngọt.
Nuôi thủy sản nước ngọt không đòi hái quá nhiều vốn, quy trình công nghệ không cao, kỹ thuật nuôi cá hầu như người dân nào cũng biết, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thể thu hoạch sản phẩm quanh năm. Với các đặc điểm quý giá này, ngày nay nuôi trồng thủy sản đã giúp nhiều nông hộ từ “xóa đói” đến “làm giàu”. Tuy nhiên, cũng không ít người đã bị rủi ro từ nuôi trồng thủy sản. Những rũi ro không đáng có ấy và hiệu quả canh tác nuôi trồng thủy sản chưa cao là do người nuôi cá thiếu những hiểu biết cơ bản về đời sống của đối tượng nuôi với các đặc thù của đời sống dưới nước. Để canh tác có hiệu quả, nhất là trong thời đại mới này, người nuôi không thể không có những kiến thức nhất định.
Để giúp người nuôi cá có những hiểu biết cơ bản về kỹ thuật nhằm phục vụ cho việc nuôi cá nước ngọt có hiệu quả hơn, chúng tôi biên soạn tập tài liệu này, nhằm giới thiệu một số tiến bộ kỹ thuật đã được ứng dụng trọng thực tế.

CHƯƠNG I:     KỸ THUẬT NUÔI CÁ TRONG AO NƯỚC TỈNH

BÀI I: ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI PHỔ BIẾN

1. Cá trắm cá

Cá trắm cá thích sống trong môi trường nước sạch, sống chủ yếu ở tầng giữa và tầng nước dưới trong ao.
Cá thích sống trong môi trường nước ngọt, tuy nhiên có thể sống được trong môi trường nước lợ độ mặn đến 9%0.
Cá trưởng thành ăn thức ăn chủ yếu là thực vật, gồm các loại:
+ Cá các loại ở trên cạn và dưới nước.
+ Các loại rong, bèo ở dưới nước.
+ Các loại lá cây như: lá chuối, lá sắn, lá ngô.
Ngoài ra cá có thể ăn các loại thức ăn tinh như:
+ Các loại bột như: bột sắn, bột ngô, bột cám.
+ Các loại hạt, củ, lúa, ngô, khoai, sắn và thức ăn viên tổng hợp.
Cá có kích cỡ từ 2 - 3cm trở lên có thể ăn bèo tấm, bèo cám. Cá từ 8 - 10cm trở lên có thể ăn rong cá trực tiếp.
Cá trắm cá có khả năng tăng trọng khá nhanh, nuôi 1 năm có thể đạt 1,5 - 2kg/con.
Khả năng sinh sản: cá trắm cá cái 3 t
uổi, cá đực 2 tuổi bắt đầu thành thục sinh dục. Cá trắm cá không đẻ tự nhiên trong ao mà chỉ đẻ trong điều kiện nhân tạo.
Cá trắm cá thường được chọn làm đối tượng nuôi chính.

2. Cá chép

Cá chép thích sống ở tầng đáy và tầng giữa. thức ăn chính là các loài động vật đáy gồm: các loại giun, các loại ốc, giáp xác, côn trùng.
Cá chép còn ăn thức ăn tinh như:
+ Các loại bột: bột sắn, bột ngô, cám.
+ Các loại hạt: thóc, ngô và thức ăn tổng hợp.
Cá chép tăng trọng tương đối nhanh, nuôi 1 năm có thể đạt 1kg/con.
Khả năng sinh sản: cá chép 1 tuổi bắt đầu thành thục sinh dục, cá có khả năng đẻ tự nhiên trong ao nuôi khi gặp điều kiện thích hợp.
Cá chép vẫn thường được sử dụng để làm đối tượng nuôi ghép với cá khác ở trong ao.

3. Cá mè trắng

Cá mè trắng thích sống ở vùng nước tĩnh, cá sống chủ yếu ở tầng mặt và tầng giữa.
Thức ăn của cá mè trắng là sinh vật phù du mà thực vật phù du là chủ yếu (chiếm 60 - 70%). Sau khi nở 3 - 4 ngày ăn chủ yếu là động vật phù du và luân trùng, cá đạt 2,5 - 3cm trở lên ăn thực vật phù du là chính như cá trưởng thành.
Cá mè trắng có khả năng tăng trọng tương dối nhanh, nuôi 1 năm có thể đạt 1 - 1,5kg/con.
Khả năng sinh sản: cá mè trắng cái 3 tuổi, cá đực 2 tuổi bắt đầu thành thục sinh dục. Cũng như cá trắm cá, cá mè trắng không sinh sản tự nhiên trong ao nuôi mà phải cho đẻ nhân tạo để lấy giống.
Cá mè trắng thường được sử dụng làm đối tượng nuôi chính.

4. Cá mè hoa

Cá mè hoa thích sống ở tầng nước mặt và tầng giữa. thức ăn là sinh vật phù du nhưng ngược lại với cá mè trắng, cá mè hoa ăn chủ yếu là động vật phù du (chiếm 60 - 70%).
Khả năng tăng trọng của cá mè hoa nhanh hơn cá mè trắng, nuôi trong ao 1 năm tuổi có thể đạt 1 - 2kg/con nếu thức ăn đầy đủ.
Khả năng sinh sản: cá cái 3 tuổi, cá đực 2 tuổi bắt đầu thành thục sinh dục, cá không sinh sản tự nhiên trong ao nuôi mà chỉ sinh sản nhân tạo.
Do phổ thức ăn của cá mè hoa hẹp nên không sử dụng làm đối tượng nuôi chính mà chỉ ghép với các loại cá khác.

5. Cá rô phi

Cá rô phi là loại cá dể nuôi và phổ biến, cá sống được trong môi trường nước ngọt và nước mặn.
Cá rô phi là loài cá ăn tạp, thức ăn của chúng là thực vật, mùn bã hữu cơ, sinh vật phù du, côn trùng. Cá còn ăn thức ăn tinh như: các loại bột, thức ăn viên.
Khả năng sinh sản: cá rô phi rất mắn đẻ, nuôi trong ao cá đẻ tự nhiên nhiều lần trong năm, ảnh hưởng đến quy cách thương phẩm.
Cá rô phi nuôi 1 năm có thể đạt 1kg/con. Nhưng do mắn đẻ, giao phối gần dần dần giống bị thoái hóa nên chậm lớn.
Hiện nay để hạn chế khả năng sinh sản người ta tạo ra giống cá rô phi đơn tính đực bằng cách sử dụng hóa chất (17a-metyltestosterol) trộn vào thức ăn cho cá con ăn từ khi mới nở (bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài) đến khi cá đạt 21 ngày tuổi. Sau thời gian nuôi như vậy đàn cá rô phi con sẽ chuyển giới tính thành cá đực gọi là cá rô phi đơn tính đực.
Cá rô phi có thể sử dụng làm đối tượng nuôi chính và có khả năng thâm canh với năng suất cao.

6. Cá chim trắng

Cá chim trắng thích hợp trong môi trường nước ngọt nhưng chúng có thể sống bình thường ở độ mặn từ 5 – 10%0.
Cá chim trắng sống ở tầng giữa và tầng đáy, cá thường bơi thành từng đàn trong ao. Cá chim trắng ăn tạp, phổ thức ăn rất rộng. Thức ăn của cá là thực vật các loại, hạt ngũ cốc, mùn bã hữu cơ, động vật các loại như: giun, ốc, hến, cá tạp và thức ăn viên.
Cá chim trắng 3 tuổi thì thành thục sinh dục và có thể sinh sản tự nhiên trong ao được.
Về khả năng sinh trưởng: cá 6 – 7 tháng tuổi có thể đạt trọng lượng 1,5 - 2kg/con.
Cá chim trắng có thể sử dụng làm đối tượng nuôi đơn hoặc nuôi ghép ở trong ao.

7. Cá trê

Cá trê sống ở tầng đáy, lúc còn nhá ăn động vật phù du, lúc lớn ăn các loại giun, côn trung, tôm cá tạp, xác bã động vật thối rữa và các chất bột ngũ cốc.
Cá trê sống được trong môi trường khắc nghiệt, nước bẩn, thiếu oxy, pH thấp (môi trường xấu mà các loài cá khác không sống được). Ngoài tự nhiên thu được cỡ cá 0,2 - 0,4kg/con. Nuôi trong ao có thể cho cá trê ăn thêm cám gạo, ngô (70%) và cá tạp, bột cá (30%) nấu chín, đóng viên hoặc nắm lại rải ven ao, cho cá ăn vào buổi chiều tối.

8. Cá lóc:

Thích sống ở vùng nước có nhiều rong cá, nhờ có cơ quan hô hấp phụ nên nó có thể hít thở được O2 trong không khí. ở vùng nước hàm lượng O2 thấp cũng vẫn sống được, có khi không cần nước chỉ cần da và mang cá có độ ẩm nhất định vẫn có thể sống được thời gian khá lâu.
Cá lóc thuộc loại cá dữ. Thức ăn là chân chèo và râu ngành; thân dài 3 - 8cm ăn côn trùng, cá con và tôm con; thân dài trên 8cm ăn cá con. Khi trọng lượng nặng 0,5 kg có thể ăn 100g cá. Trong điều kiện nuôi nó cũng ăn thức ăn chế biến. Mùa đông không bắt mồi.

BÀI 2: MỘT SỐ YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỜI SỐNG CỦA CÁ

Cá luôn có mối quan hệ mật thiết với môi trường nước. Toàn bộ đời sống của cá và các sinh vật làm thức ăn tự nhiên cho cá đều gắn bó với nước. Bởi vậy các yếu tố thủy lý, thủy hóa, thủy sinh của môi trường nước luôn ảnh hưởng đến đời sống của cá.

1. Độ pH

pH là một ký hiệu dùng để diển tả mức độ chua hoặc kiềm của nước và đất. Người ta chia độ pH ra làm 14 bậc, pH = 7 là môi trường trung tính, pH < 7 là môi trường axit, pH > 7 là môi trường kiềm.
Độ pH để cá sinh trưởng và phát triển tốt là pH = 7 - 8,5. Nếu pH càng thấp hoặc càng cao thì đều ảnh hưởng xấu đến đời sống của cá và có thể làm cho cá bị chết.
Độ pH ở trong ao nuôi cá thường dao động không lớn lắm.

2. Nhiệt độ nước

Nhiệt độ thích hợp để cá sinh trưởng và phát triển tốt nhất nằm trong khoảng 25 - 320C. Ngoài phạm vi trên nhiệt độ sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống của cá. nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đều có thể làm cho cá bị chết.
Nhiệt độ nước ao hồ thường phụ thuộc vào nhiệt độ không khí, nhưng mức độ biến thiện chậm hơn nhiệt độ không khí. Càng xuống sâu nhiệt độ càng ổn định hơn. Bởi vậy về mùa lạnh, nước ở tầng đáy các ao hồ ấm hơn ở tầng mặt và ngược lại về mùa nóng nước ở tầng đáy mát hơn.
Do đó ở các ao hồ nuôi cá, để hạn chế ảnh hưởng xấu của nhiệt độ nước đến cá người ta thường sử dụng ao đảm bảo độ sâu mực nước đạt từ 1,2 – 1,5m để nuôi cá.

3. Hàm lượng Ôxy hòa tan trong nước

Cũng như các loài động vật khác, cá rất cần có oxy để thở. Khác với động vật trên cạn, cá sống trong nước, hô hấp bằng mang nhờ oxy hòa tan trong nước. Hàm lượng oxy hòa tan trong nước thích hợp để cá sinh trưởng và phát triển tốt là 5mg/l. Nếu hàm lượng oxy 2mg/l thì cá có thể nổi đầu và chết.
Hàm lượng oxy ở trong ao nuôi do 2 nguồn cung cấp:
+ Thứ nhất: do hoạt động quang hợp của thực vật thủy sinh tạo ra. Đây là nguồn cung cấp oxy chính cho ao nuôi .
+ Thứ hai: do sóng, gió và tác động cơ học khác làm cho oxy trong không khí hòa tan vào nước trong ao.
Ở điều kiện thông thường, do hoạt động quang hợp và hô hấp của tảo, ở những ao có nhiều thực vật phù du thì hàm lượng oxy sẽ cao về ban ngày và thấp về ban đêm. Do đó hàm lượng oxy hòa tan trong nước cao nhất vào lúc 15 – 17h và thấp nhất vào lúc 4 – 6h sáng hàng ngày. đó là lý do cá thường bị nổi đầu vào ban đêm và lúc sáng sớm do thiếu oxy để thở.
Do vậy, ở các ao hồ nuôi cá cần phải giữ ổn định mức độ phát triển của thực vật phù du ở mức vừa phải để khắc phục tình trạng thiếu oxy trong ao.

4. Hàm lượng khí cacbonic (CO2)

Khí CO2 có hại cho sự hô hấp của cá. Hàm lượng CO2 trong nước cao sẽ làm cho cá ngạt thở.
Nguồn CO2 được tạo ra trong nước ao nuôi là do sự hoà tan CO2 từ trong không khí vào nước bởi sóng gió và do quá trình hô hấp của sinh vật ở trong nước tạo ra. Ngoài ra CO2 còn do quá trình phân giải chất hữu cơ trong nước tạo ra.

5. Hàm lượng khí Sunfuahydro (H2S)

Khí H2S là một khí rất độc cho cá.
Khí H2S được tạo ra bởi quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh lắng đọng dưới đáy ao hồ.
Những ao nuôi cá có lớp bùn đen dày nếu không được xử lý cải tạo kỹ trước khi thả cá, trong quá trình nuôi , nhất là vào những ngày thời tiết thay đổi có thể cá bị chết do hàm lượng khí H2S quá cao.
Do vậy để hạn chế ảnh hưởng của khí H2S đối với cá, những ao nuôi lâu ngày có lớp bùn đen dày thì cần phải nạo vét hoặc phơi đáy, cải tạo kỹ càng. Đồng thời trong quá trình nuôi cần phải quản lý kỹ lượng thức ăn cho cá ăn tránh để dư thừa thức ăn.

BÀI 3. CẢI TẠO AO NUÔI

1. Lợi ích của nuôi cá ao

   Nuôi cá ao từ lâu đời nay đã được đồng bào tiến hành rộng rãi vì:
-         Kỹ thuật nuôi tương đối đơn giản.
-         Tiền vốn đầu tư cho nuôi cá thường thấp.
-  Có thể tận dụng sức lao động của những lứa tuổi khác nhau và các sản phẩm nông nghiệp sản có trong gia đình để nuôi cá đạt hiệu quả cao.

2. Tiêu chuẩn ao nuôi cá

Ao nuôi cá nên có diện tích từ 100m2 trở lên, độ sâu tốt nhất từ 1 - 1,5 m nước, ao có 1 lớp mùn dày từ 15 – 25 cm. Mặt ao phải thoáng, bờ ao không bị rò rỉ và cao hơn mực nước từ 0,4 - 0,5 m, có cống cấp nước và tháo nước thuận tiện, gần nguồn nước sạch, có đăng cống chắc chắn để giữ nước và phòng cá đi.
Với những ao hồ nằm ở vị trí có khả năng bị ngập lụt thì cần nuôi tránh lụt.
Nên chọn ao nuôi ở những vùng đất đáy ao là đất thịt, thịt pha sét hoặc bùn cát, không bị chua phèn hay nhiễm mặn.
Ao ở gần nguồn nước sạch, có thể chủ động cấp và thay được nước.
Ao nuôi nên làm theo hình chữ nhật hoặc hình vuông.

3. Dọn ao

Nếu là ao cũ thì tát hoặc tháo cạn, dọn sạch cá, tu sữa bờ, đăng cống, vét bùn bớt bùn đáy nếu lượng bùn quá nhiều. Sau đó phơi nắng từ 5 - 7 ngày.
Nếu là ao mới đào thì cần tháo rữa đáy ao bằng cách cho nước vào ao, ngâm từ 1 - 2 ngày rồi tháo nước ra, làm như vậy từ 3 - 4 lần.
Bón vôi khắp đáy ao để diệt cá tạp và các mầm bệnh bằng cách rải đều từ 7 – 10 kg/100m2 đáy ao. Mục đích của việc bón vôi là giảm độ chua phèn của ao nuôi , giữ cho độ pH trong ao được ổn định. Ngoài ra vôi còn có khả năng diệt trừ cá dữ, địch hại, mầm bệnh. Nên bón vôi vào những ngày nắng. Vôi cần được rãi đều trong ao và nên tập trung vào những vùng nước đọng có mạch nước rỉ màu nâu đá nhiều hơn. Có thể bón vôi quanh bờ ao để hạn chế phèn rỉ xuống ao nuôi .
Sau khi tẩy vôi 3 ngày, bón lót bằng cách rải đều khắp ao từ 20 – 30 kg phân chuồng và 50 kg lá xanh cho 100m2. Lá xanh cần bó thành từng bó nhỏ 5 – 7 kg dìm ở góc ao. Lấy nước vào ao ngập 0,3 - 0,4 m, ngâm 5 – 7 ngày, vớt hết bã xác phân xanh, lấy nước tiếp vào ao đạt độ sâu 1m. Nước lấy vào ao cần phải lọc bằng đăng hoặc lưới để đề phòng cá dữ, cá tạp xâm nhập. Sau 3 - 4 ngày quan sát thấy nước có màu xanh lục hay nâu vàng là được.
Nếu nước chưa lên màu có thể bổ sung thêm phân vô cơ gồm các loại: urê, lân, NPK. Có thể bón urê : lân với tỷ lệ 2 : 1, hoặc NPK, liều lượng bón khoảng 0,2 kg/100m2. Chú ý: phân phải được hoà tan vào nước riêng rẽ từng loại rồi tạt đều xuống ao chứ không bón nguyên hạt,
Mục đích của việc bón phân nhằm tăng cường các chất dinh dưỡng, tạo thức ăn tự nhiên cho cá để sau khi thả là cá có sẵn thức ăn tự nhiên, cá sẽ ít hao hụt và chóng lớn.

BÀI 4. CHỌN VÀ THẢ CÁ GIỐNG

1. Chọn giống

          Con giống có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả nuôi sau này, vì vậy cần phải chọn giống tốt.
- Chất lượng giống tốt: cá khoẻ mạnh, bơi lội hoạt bát, phản ứng nhanh với tiếng động, không xây xát, không dị hình, không mầm bệnh, đồng đều kích cỡ.
- Kích cỡ giống: cá giống phải đảm bảo kích cỡ để khi nuôi đỡ bị hao hụt.
+ Cá mè, cá trắm: kích cỡ 12 – 15 cm.
+ Cá chép: kích cở 8 – 12 cm, cá rô phi: kích cỡ: 6 - 8cm.

2. Thả giống

          Tuỳ theo điều kiện ao nuôi , khả năng giải quyết thức ăn, phân bón, nguồn cá giống và nhu cầu tiêu thụ mà có thể chọn chủng loại cá gì làm đối tượng nuôi chính.
- Với những ao có chất đáy màu mỡ, nước ao có màu tốt, không bị ô nhiễm thì nên chọn cá mè là đối tượng nuôi chính.
- Với những ao khó gây màu nước, trong ao có nhiều rong, bèo cá và ở địa phương có cây làm thức ăn xanh thì nên chọn cá trắm cá là đối tượng nuôi chính.
+ Nếu nuôi cá trắm cá là chính: thì thả cá trắm cá 50%, các cá khác như mè trắng, mè hoa, chép, rôphi 50%
+ Nếu nuôi cá mè trắng là chính: thì thả cá mè trắng 60%, các cá khác như chép, mè hoa, trắm cá, rôphi 40%
Mật độ thả ghép: tuỳ thuộc vào điều kiện của ao hồ và khả năng đầu tư chăm sóc quản lý mà thả nuôi cá với mật độ khác nhau. Tuy nhiên nên thả nuôi với mật độ: 0,7 - 1,5 con/m2 là thích hợp.

3. Chăm sóc ao nuôi cá

Chăm sóc cá trong ao nuôi cần đạt được 2 mục tiêu là cung cấp đủ dinh dưỡng cho nhu cầu phát triển của cá để rút ngắn thời gian nuôi, tăng cỡ cá thương phẩm đồng thời giảm đầu tư chi phí thức ăn, hạ giá thành cá thương phẩm. Phương pháp chủ yếu để cung cấp dinh dưỡng cho cá là bón phân và cung cấp thức ăn trực tiếp cho cá.
3.1. Bón phân
Đối với đa số các ao nuôi cá nước ngọt (trừ ao nuôi cá trắm cá), bón phân là phương pháp rẻ tiền đồng thời tạo ra cơ sở thức ăn tự nhiên trong ao, đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của cá. Người nuôi cá cần lưu ý, chỉ một số ít các loài cá sử dụng phân chuồng làm thức ăn trực tiếp, phần lớn lượng phân bón được phân huỷ để phát triển cơ sở thức ăn tự nhiên. Do vậy, nên ủ kỹ phân hữu cơ trước khi bón xuống ao.
3.2. Bổ sung thức ăn trực tiếp
Đối với các ao nuôi cá tăng sản thức ăn tự nhiên trong ao không đủ đáp ứng cho nhu cầu của cá, người nuôi cá cần phải cung cấp thêm các loại thức ăn trực tiếp.
Cho cá ăn ngày 2 lần vào lúc sáng sớm và chiều mát, lượng thức ăn như sau:
- Thức ăn tinh: cho ăn hàng ngày với liều lượng từ 2 - 3% trọng lượng cá.
- Thức ăn xanh: cho ăn hàng ngày với liều lượng từ 25 - 35% trọng lượng cá.
Thường xuyên cho cá ăn vào những thời gian và địa điểm cố định sẽ tạo cho cá một phản xạ có điều kiện, cá sẽ tìm ăn đúng giờ và đúng địa điểm. Như vậy sẽ hạn chế thức ăn thừa lẫn vào bùn, tránh lãng phí thức ăn, tránh ô nhiễm môi trường và dễ dàng thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho cá.

4. Quản lý ao nuôi cá

Để quản lý tốt ao nuôi cá tăng sản, người nuôi cá phải thăm ao hàng ngày để phát hiện các sự cố như sụt lì bờ, địch hại, ô nhiễm môi trường, bệnh cá... Hàng tháng phải kiểm tra tốc độ lớn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp với nhu cầu của cá. Kịp thời thay nước, bổ sung nước, xử lý bệnh tật khi phát hiện các sự cố về môi trường.

5. Thu hoạch

Sau một thời gian nuôi , có thể thu hoạch bớt những con đạt kích cỡ thương phẩm theo hình thức đánh tỉa. Sau 8 - 9 tháng nuôi tháo cạn ao để thu hoạch.

BÀI 5: THỨC ĂN VÀ CÁCH SỬ DỤNG THỨC ĂN MỘT CÁCH CÓ HIỆU QUẢ

Trong nuôi trồng thủy sản, xét về mặt chi phí sản xuất, chi phí thức ăn nuôi cá chiếm tỉ lệ khá cao. Vì vậy, thức ăn là khâu quan trọng quyết định hiệu quả kinh tế trong các mụ hình nuôi cá. Hiện nay, người nuôi cá sử dụng rất nhiều loại nguyên liệu khác nhau để phối chế thức ăn và phương thức phối chế cũng đa dạng. Các hộ nuôi quy mụ nhá chủ yếu sử dụng các loại nguyên liệu từ phụ phẩm nông nghiệp sẵn có tại chỗ, rẻ tiền để phối chế thức ăn nuôi cá. Nguồn nguyên liệu để phối chế thức ăn truyền thống thường là cám, cá tạp và được phối chế với tỷ lệ khác nhau. Việc nắm bắt giá trị dinh dưỡng của từng nguồn nguyên liệu, cách sử dụng và phương thức phối chế thức ăn là cần thiết nhằm sử dụng có hiệu quả và kinh tế nhất trong nuôi cá. 
Trong tài liệu này, chúng tôi xin đề cập đến giá trị dinh dưỡng của một số nguyên liệu thường được sử dụng trong nuôi cá và cách sử dụng một số loại thức ăn để nuôi cá đạt hiệu quả cao.

1. Giá trị dinh dưởng của nguồn nguyên liệu:

* Cám gạo:
Cám gạo là nguyên liệu được sử dụng phổ biến nhất để làm thức ăn tự chế trong nuôi trồng thuỷ sản. Hàm lượng đạm trong một số loại cám dao động trong khoảng từ 8,34- 16,3%. Hiện nay người nuôi thích dùng cám gạo để phối chế thức ăn vì cám này có hàm lượng đạm ồn định (12,4%) và có bột gạo nhiều dễ làm dẻo thức ăn khi nấu và phối trộn.
* Cá tạp
Có hai nguồn cá tạp là cá tạp nước ngọt và cá tạp biển. Tuy nhiên, hiện nay người dân sử dụng chủ yếu là cá biển. Có thể kể một số nhúm cá chủ yếu sau: nhúm cá cơm, cá nục, cá trớch, cá liệt, cá chỉ vàng, … Thành phần đạm các loại cá tạp dao động từ 44,1% (như đầu cá nục, đầu cá trích…) đến 69,2% (như cá hố, cá cơm…). Hàm lượng khoáng của nhóm đầu cá khá cao (22-23,4%) trong khi ở cá tạp nguyên con là 11,5- 16,9%.
Chất đạm đóng vai trò quan trọng nhất trong thành phần hóa học của thức ăn. Chất đạm từ cá được động vật thủy sản tiêu hóa rất tốt (90%), cung cấp đầy đủ các acid min cần thiết cho cá nuôi. Hàm lượng chất béo của các loại cá tạp khụng khác nhau nhiều, dao động trong khoảng từ 15,3 - 19,3. Cá tạp là nguồn cung cấp các acid béo cần thiết và năng lượng trong thức ăn cho cá.
* Bột đậu nành
    Một loại nguyên liệu cũng thường được sử dụng để chế biến thức ăn nuôi cá là bột đậu nành. Bánh dầu đậu nành được nhập khẩu từ các nguồn khác nhau và có chất lượng khá ổn định. Hàm lượng đạm trong bột đậu nành dao động từ 44 – 48%.

2. Chế biến thức ăn cho cá:

 Để đảm bảo dinh dưỡng cho cá phát triển tốt, đạt chất lượng cao, người nuôi cần nắm vững nhu cầu dinh dưỡng của cá, trong đó nhu cầu chất đạm từng giai đoạn phát triển rất quan trọng. Việc sử dụng các chất cung cấp tinh bột như cám, tấm, mì lát.. phải trong giới hạn, dựng quá nhiều cá sẽ không tiêu hóa hết, tích luỹ trong cơ thể dưới dạng mỡ hoặc thải ra ngoài làm ô nhiễm môi trường nuôi. ngoài ra để tăng cường sức khỏe cho đàn cá cần bổ sung thêm vitamin (1-2%), đặc biệt là vitamin C. 
Một vài cụng thức đề nghị phối chế thức ăn cho cá: 
(chỉ bao gồm các thành phần chính)
Nguyên liệu Cộng thức thức ăn
theo tỷ lệ đạm khác nhau (%)



Bột cá (*)
Bột đậu nành
Cám gạo
Bột sắn
Premix vitamin
20 30
34
15
1
17
25
35
20
1
9
20
50
20
1

(*) Có thể thay thế bột cá bằng cá tạp theo tỷ lệ lượng cá tạp = lượng cá bột x 4 
 Tuỳ điều kiện của từng hộ mà áp dụng các phương thức chế biến khác nhau. Tuy nhiên việc nấu chọn các nguyên liệu là cần thiết, đặc biệt là cám, bột sắn vì sẽ làm gia tăng độ tiêu hoá thức ăn, giảm lượng phân thải vào môi trường.
Quy trình chế biến thức ăn cho cá như sau:
Cân nguyên liệu ----->; Trộn và nấu nguyên liệu ----->; Để nguội ------>Trộn thêm nguyên liệu (vitamin, men tiêu hóa,...) ------>; ép viên hoặc nắm thành từng nắm và cho ăn.

3. Cách sử dụng một số loại thức ăn:

Khi cho cá ăn cần quan tâm tới 4 yêu cầu cơ bản: lượng thức ăn vừa đủ; chất lượng thức ăn tốt (không ẩm, mốc, thiu thối, hàm lượng đạm động vật chiếm 10% trở lên và lượng vitamin C chiếm 1%); thời gian cho ăn thích hợp; địa điểm cho ăn là nơi cá thường đến, yên tĩnh và cố định.
Thức ăn cho cá có thể chia làm 2 loại chính: thức ăn sử dụng trực tiếp và thức ăn sử dụng gián tiếp.
Thức ăn sử dụng trực tiếp (thức ăn trực tiếp) gồm: thóc gạo, ngô, khoai, sắn, đậu tương, khô dầu, các loại thủy sản chế biến ở dạng bột hoặc để thô; một số loại thực vật như cá, lá ngụ, rong, lá sắn... thái nhá vừa cỡ để cá có thể ăn được. Thức ăn thực vật dùng để phối chế bổ sung vitamin C và các chất khoáng theo tỷ lệ phù hợp cho từng loài, từng giai đoạn sinh trưởng của cá (gọi là thức ăn tổng hợp). Vì chất lượng thức ăn có ý nghĩa quyết định tới tốc độ sinh trưởng, phát triển nên khi cá còn nhá phải cho ăn đầy đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng thì mới sinh trưởng tốt, cho năng suất cao.
Các loài cá đều ăn thức ăn tinh bột, lượng cho ăn hàng ngày bằng 1- 10% trọng lượng thân cá. Riêng cá trắm cá thiên về thức ăn thực vật, bằng 20 – 70% trọng lượng thân cá.
Với thức ăn là tinh bột, mỗi ngày cho cá ăn 2 lần vào sáng sớm và buổi chiều mát. Thức ăn là thực vật thường cho cá ăn vào chiều tối. Địa điểm cho ăn cách bờ ao 1-2m, có độ sâu 1-1, 5m trở lên, ở vị trí cố định và yên tĩnh. Thức ăn tinh nên cho vào sàn, đặt cách đáy ao 0,3-0, 5m. Thức ăn thực vật phải thả vào khung tre nổi trên mặt nước, khung rộng 6-10m2.
Thức ăn sử dụng gián tiếp (thức ăn gián tiếp) gồm các loại phân bón cho ao để tạo ra thức ăn tự nhiên cho cá.
Nguyên tắc chung khi bón phân cho ao nuôi cá là phải xác định được lượng phân phù hợp. Không nên bón phân vào ngày trời âm u hay mưa. Trước khi bón, phân chuồng phải được ủ kỹ với vôi bột. Nếu cần bón phối hợp các loại phân thì nên bún riờng và xen kẽ, 2 ngày bún một loại.
Phân bón cho ao nuôi cá có 2 loại chính: phân hữu cơ và phân vô cơ.
Phân hữu cơ gồm các loại phân chuồng (phân gia súc, gia cầm, thuỷ cầm...) và phân xanh (các loại lá cây thân mềm, có nhiều màu xanh, không gây độc hại như chó đẻ, cứt lợn, cóc vàng, cây họ đậu còn xanh...). Có thể ủ phân hữu cơ với phân chuồng và vôi bột, trong 20-30 ngày, vói đều cho ao nuôi tạo thức ăn tự nhiên cho cá.
* Cách bón phân hữu cơ cho ao nuôi cá:
Phân chuồng và phân xanh ủ tổng hợp với nhau, lượng bón 20-25kg/100m3 nước ao /tuần. Phân được rói đều khắp ao.
Nếu bón riêng phân chuồng đó ủ kỹ thì bún 10-15kg/100m3 nước ao /tuần, phân được rói đều khắp ao. Phân xanh có thể không cần ủ mà bó thành bó (10 – 15kg/bú) rồi dìm ở đáy ao, sau 2-3 ngày vớt cọng phân xanh lên bờ để nước ao khái bị thối. Lượng phân xanh bón cho ao trung bình 7-15kg/100m3 nước ao /tuần.
Phân vô cơ gồm các loại phân đạm, lân, kali, NPK và vôi, riêng vôi cần sử dụng thường xuyên cho ao nuôi cá theo liều 2-3kg/100m3 nước ao /tuần vì có tác dụng làm sạch nước ao, giữ nước không bị chua và cung cấp lượng chất khoáng, canxi giúp cá sinh trưởng và phòng bệnh tốt.
Phân vô cơ nên bón từ tháng 4 đến tháng 10 (bón vào ngày nắng vừa phải). Thời gian bún tốt nhất 9 – 10 giờ. Lượng phân trung bình là 0,2kg đạm + 0,4kg lân/100m3 nước ao /tuần. Trước khi bón phân vô cơ được hoà tan riêng biệt từng loại, té đều khắp mặt ao.

BÀI 6: NHỮNG BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CÁ NUÔI:

1. Bệnh xuất huyết đốm đỏ do vi khuẩn:

Cá kém ăn hoặc bá ăn, bơi lờ đờ trên mặt nước.
Có các đốm đá trên thân, vảy, vây xuất huyết rách nát.
Cơ quan nội tạng xuất huyết, ruột xuất huyết hoại tử thối nát.
Bệnh thường gặp ở cá giống và cá thịt.
* Phòng trị bệnh:         
- Bón vôi nông nghiệp (CaCO3) với lượng 2 –3 kg/100m2ao.
- Tắm cho cá bằng muối sống trước khi thả cá xuống ao với nồng độ 2 – 3%( 200 – 300g) muối/10 lít nước . Thời gian tắm 5 – 10 phút.
- Thuốc kháng sinh:
+ Stretomyxin: 50 – 75mg/kg cá nuôi , cho ăn 5 – 7 ngày.
+ Kanamyxin: 50mg/kg cá nuôi , cho ăn 7 ngày.
+ Nhóm Sulfamid: 100 – 200mg/kg cá nuôi , cho ăn 10 - 12ngày.
-  Thuốc Vitamin C: Vào mùa cá xuất hiện bệnh nhiễm khuẩn máu, trộn thêm Vitamin C vào thức ăn tinh cho cá ăn hàng ngày. Liều lượng 50 – 60mg/kg cá/ngày.

2. Bệnh nấm thuỷ my:

Trên da cá xuất hiện nhiều vùng trắng xám.
Nấm phát triển như đám bông (để trong nước quan sát rá hơn ngoài khô).
Trúng có màu trắng đục xung quanh có sợi nấm.
Bệnh thường gặp vào mùa đông và mùa xuân.
 * Phòng trị bệnh:        
- Bón vôi nông nghiệp (CaCO3) với lượng 2 –3 kg/100m2ao.
- Tắm cho cá bằng muối sống trước khi thả cá xuống ao với nồng độ 2 – 3% (200 – 300g) muối/10 lít nước . Thời gian tắm 5 – 10 phút.
- Tắm cho cá bằng thuốc tím (KMn04) nồng độ 5 – 10 g/ m3 nước. Thời gian tắm 15 – 30 phút.

3. Bệnh trùng quả dưa:

- Trên da, vây, mang cá xuất hiện nhiều trùng bám thành hạt lấm tấm rất nhá màu hơi trắng đục có thể thấy rá bằng mắt thường.
- Cá bị bệnh này thường tách đàn bơi lờ đờ quanh bờ, khi bơi đầu hơi ngoi lên đuôi cắm xuống đáy.
- Bệnh thường gặp vào mùa đông và mùa xuân, mùa thu.
* Phòng trị bệnh:         
- Bón vôi nông nghiệp (CaCO3) với lượng 2 –3 kg/100m2ao.
- Tắm cho cá bằng muối sống trước khi thả cá xuống ao với nồng độ 2 – 3%( 200 – 300g) muối/10 lít nước . Thời gian tắm 5 – 10 phút.
- Tắm cho cá bằng thuốc tím (KMn04) nồng độ 5 – 10 g/ m3 nước. Thời gian tắm 15 – 30 phút.

Hình 8: Trùng quả dưa

4. Bệnh trùng mỏ neo:

- Cá kém ăn, gầy yếu đầu to thân nhá.
- Trùng ký sinh vào làm viêm loét da, vây và mang cá.
* Phân bố bệnh:
- Bệnh thường gặp vào mùa đông và mùa xuân mùa thu.
* Phòng trị bệnh:         
- Bón vôi nông nghiệp (CaCO3) với lượng 2 –3 kg/100m2ao.
- Dùng lá xoan( để cả nhánh) đập dập bó thành từng bó thả xuống ao sau 3 – 5 ngày lá xoan có tác dụng diệt trùng.
- Tắm cho cá bằng thuốc tím (KMn04) nồng độ 5 – 10 g/ m3 nước. Thời gian tắm 15 – 30 phút.

5. Bệnh rận cá :

-   Trùng ký sinh bám trên da cá hút máu cá đồng thời phá huỷ da làm viêm loét tạo điều kiện cho các sinh vật khác tấn công có thể thấy rá bằng mắt thường.
-  Cá bị bệnh này thường tách đàn bơi lờ đờ quanh bờ, khi bơi đầu hơi ngoi lên đuôi cắm xuống đáy.
-    Bệnh thường gặp vào mùa xuân , mùa thu.
* Phòng trị bệnh:         
-   Bón vôi nông nghiệp (CaCO3) với lượng 2 –3 kg/100m2ao.
-  Dùng lá xoan(để cả nhánh) đập dập bó thành từng bó thả xuống ao sau 3 – 5 ngày lá xoan có tác dụng diệt trùng
-  Tắm cho cá bằng muối trước khi thả cá xuống ao với nồng độ 2 – 3%( 200 – 300g) muối/10 lít nước . Thời gian tắm 5 – 10 phút.
- Tắm cho cá bằng thuốc tím ( KMn04) nồng độ 5 – 10 g/ m3 nước. Thời gian tắm 15 – 30 phút.



                                                Hình 9: Rận cá

CHƯƠNG II: TÌM HIỂU CHẾ PHẨM SINH HỌC VÀ THUỐC TRONG NTTS

BÀI 1: TÌM HIỂU CHẾ PHẨM SINH HỌC TRONG NTTS

“ Sử dụng chế phẩm sinh học (men vi sinh) trong nuôi trồng thủy sản là hướng đi có ý nghĩa thực tiển về khía cạnh bảo vệ mụi trường và đảm bảo hiệu quả sản xuất. Từ đó, góp phần đưa nghề nuôi thủy sản phát triển bền vững đảm bảo hiệu quả” 
Trước những yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong và ngoài nước đối với các mặt hàng thực phẩm thủy sản là “An toàn - Chất lượng” nên đòi hái người nuôi phải tăng cường các biện pháp phòng bệnh cho các mụ hình nuôi của mình để hạn chế bệnh phát sinh. Đây cũng là một biện pháp nhằm hạn chế dư lượng các loại hóa chất và kháng sinh cấm sử dụng trong sản phẩm thủy sản vượt quá giới hạn cho phép theo các quy định của thị trường quốc tế.
Nếu tôm cá nuôi không bị bệnh, tất nhiên người nuôi sẽ không sử dụng thuốc để điều trị thì các sản phẩm thủy sản sẽ có cơ hội đáp ứng được yêu cầu về “An toàn - Chất lượng”.
Một trong những biện pháp cần được khuyến cáo trong việc phòng ngừa bệnh trong các ao nuôi thủy sản là sử dụng các chế phẩm sinh học (CPSH) để cải thiện chất lượng nước nhằm nâng cao khả năng phòng bệnh cho tôm, cá. CPSH là những sản phẩm có chứa một vài các nhóm vi sinh vật (là những loài vi khuẩn sống có lợi) như nhóm: Bacillus sp., Lactobacillus sp., Nitrosomonas sp., Nitrobacter sp., Clostridium sp..
Ngoài ra, trong thành phần của một số CPSH có chứa các Enzyme (men vi sinh) như Protease, Lipase, Amylase …có công dụng hỗ trợ tiêu hóa và giúp hấp thu tốt thức ăn để trộn vào thức ăn cho cá. Các CPSH được sản xuất ở 3 dạng: Dạng viên, dạng bột và dạng nước.
* Tác dụng của CPSH
Khi đưa CPSH vào môi trường nước ao, các vi sinh vật có lợi sẽ sinh sôi và phát triển rất nhanh trong môi trường nước. Sự hoạt động của các vi sinh vật có lợi sẽ có tác dụng cho các ao nuôi thủy sản như:
1. Phân hủy các chất hữu cơ trong nước (chất hữu cơ là một trong nhiều nguyên nhân làm môi trường nước bị ô nhiễm), hấp thu xác tảo chết và làm giảm sự gia tăng của lớp bùn đáy.
2. Giảm các độc tố trong môi trường nước (do các chất khí: NH3, H2S… phát sinh) , do đó sẽ làm giảm mùi hôi trong nước, giúp tôm cá phát triển tốt.
3. Nâng cao khả năng miễn dịch của tôm cá (do kích thích tôm, cá sản sinh ra kháng thể).
4. Ức chế sự hoạt động và phát triển của vi sinh vật có hại (do các loài vi sinh vật có lợi sẽ cạnh tranh thức ăn và tranh giành vị trí bám với vi sinh vật có hại). Trong môi trường nước, nếu vi sinh vật có lợi phát triển nhiều sẽ kìm hóm, ức chế, lấn át sự phát triển của vi sinh vật có hại, do đó sẽ hạn chế được mầm bệnh phát triển để gây bệnh cho tôm cá.
5. Giúp ổn định độ pH của nước, ổn định màu nước do CPSH hấp thu chất dinh dưỡng hòa tan trong nước nên hạn chế tảo phát triển nhiều, do đó sẽ giảm chi phí thay nước. Đồng thời CPSH còn có tác dụng gián tiếp làm tăng oxy hòa tan trong nước, giúp tôm cá đủ oxy để thở, do đó tôm cá sẽ khỏe mạnh, ít bệnh, ăn nhiều, mau lớn.
Ngoài ra, một số CPSH còn được sử dụng trong trường hợp trộn vào thức ăn để nâng cao khả năng hấp thu thức ăn của cơ thể tôm cá, làm giảm hệ số thức ăn và phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn đường ruột cho tôm cá.
Do đó, sử dụng CPSH sẽ có ý nghĩa nhiều mặt trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế cho các mụ hình nuôi thủy sản như:
- Làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn (giảm hệ số thức ăn).
- Tôm cá mau lớn, rỳt ngắn thời gian nuôi.
- Tăng tỷ lệ sống và tăng năng suất do tôm cá nuôi ít bị hao hụt.
- Giảm chi phí thay nước.
- Giảm chi phí sử dụng thuốc kháng sinh và hóa chất trong việc điều trị bệnh.
* Vài lưu ý khi sử dụng các loại CPSH:
Các CPSH đều có tác dụng chính là phòng bệnh cho tôm cá, cho nên cần phải sử dụng càng sớm càng tốt để phát huy tốt hiệu quả phòng bệnh. Có thể sử dụng CPSH ngay sau quá trình cải tạo ao vì trong quá trình cải tạo ao, diệt tạp thì hầu như các vi sinh vật (kể cả vi sinh vật có lợi và có hại) đều bị tiêu diệt. Do đó, trước khi thả giống vào ao nuôi cần phải đưa CPSH vào nước ao để phục hồi sự hiện diện của các vi sinh vật có lợi và tái tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho ao (đặc biệt là những ao ương tôm cá giống).
Khi sử dụng các loại CPSH, ngoài việc xem trong thành phần có chứa các nhóm vi sinh (vi khuẩn có lợi) hay không, người sử dụng cần xem kỹ các công dụng và hướng dẫn sử dụng (có in ở ngoài bao bì) để tùy trường hợp cụ thể của ao nuôi tôm cá mà sử dụng đúng theo công dụng và hướng dẫn để sử dụng CPSH đạt được hiệu quả cao.
Khụng sử dụng CPSH cựng lỳc với các loại húa chất và kháng sinh, vì kháng sinh và húa chất sẽ làm chết các nhúm vi sinh của các CPSH, do đó việc sử dụng CPSH sẽ không có hiệu quả.
Nếu đó sử dụng các loại húa chất (vớ dụ như: thuốc tím, phèn xanh, BKC …) tạt vào ao nuôi thì khoảng 2 - 3 ngày sau nên sử dụng CPSH để khôi phục lại các nhóm vi sinh vật có lợi trong nước để cải thiện chất lượng nước và hạn chế ô nhiễm môi trường, vì khi đưa hóa chất vào nước ao sẽ làm tảo chết, mà vai trò của tảo trong nước rất quan trọng (nhưng tảo phải phát triển ở mức độ vừa phải) do tảo hấp thu các chất dinh dưỡng hòa tan trong nước sẽ giúp cho môi trường nước được “sạch” hơn.
Nếu đó sử dụng kháng sinh (trong trường hợp cho ăn thuốc để điều trị bệnh) thì sau khi ngưng sử dụng kháng sinh nên sử dụng các loại CPSH (có công dụng hỗ trợ tiêu hóa) hoặc các loại men vi sinh trộn vào thức ăn cho cá để khôi phục lại hệ men đường ruột. Nguyên nhân là thuốc kháng sinh đó làm chết hệ men đường ruột trong hệ tiêu hóa của cá nên sau khi sử dụng kháng sinh cá sẽ có hiện tượng yếu ăn, chậm lớn do kém hấp thụ thức ăn vì trong bộ máy tiờu húa thiếu các loại men vi sinh để giúp các hấp thu tốt thức ăn.
Cần lưu ý đến điều kiện bảo quản các CPSH ở các nơi cung ứng vì nếu để CPSH ở nơi có ánh nắng trực tiếp thì sẽ làm chết các nhúm vi sinh vật có lợi trong CPSH, do đó việc sử dụng CPSH sẽ không còn tác dụng.
Sử dụng chế phẩm sinh học trong qui trình nuôi thủy sản được xem là một tiến bộ khoa học - kỹ thuật, có ý nghĩa sâu xa là tạo ra sự an toàn về mụi trường còng như trong thực phẩm cho người tiêu dùng, nhằm giúp cho nghề nuôi tôm, cá phát triển ổn định và bền vững.
Do đó việc cải thiện chất lượng nước bằng CPSH để phòng bệnh cho tôm cá là một việc làm thiết thực cần được khuyến cáo để áp dụng trong thời gian tới nhằm giúp cho các sản phẩm thủy sản đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm theo mục tiêu của ngành thủy sản đó đề

BÀI 2: SỬ DỤNG THUỐC TRONG NTTS

NHỮNG VẤN ĐỀ LƯU Ý KHI SỬ DỤNG HÓA CHẤT TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

Có một vài lưu ý khi sử dụng hóa chất trong nuôi trồng thủy sản: Ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sử dụng. Ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm do dư lượng hóa chất trong các sản phẩm thủy sản. Ảnh hưởng của hóa chất sử dụng đến chất lượng nước và bùn đáy ao, tác động đến cấu trúc và tính đa dạng sinh học. Tồn lưu trong môi trường, tác động đến hệ vi sinh vật trong môi trường và đưa đến các dũng vi khuẩn kháng thuốc. Sự thiếu hiểu biết trong việc sử dụng hóa chất sẽ đưa đến việc để lại dư lượng hóa chất trong cơ thể đối tượng nuôi , hoặc sử dụng hóa chất không hiệu quả. Vì vậy cần tuân thủ các yếu tố sau: Chọn loại hóa chất dễ sử dụng, đơn giản, có hiệu quả và tác dụng nhanh, hiệu quả kinh tế sau khi sử dụng.

CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG THUỐC, HÓA CHẤT TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

Để phòng trị bệnh cho động vật thủy sản cần áp dụng các phương pháp sau:
- Dùng thuốc với nồng độ tương đối cao tắm cho động vật thủy sản theo thời gian quy định (tương ứng với nồng độ thuốc cho phép), phương pháp này chỉ áp dụng trong trại giống hoặc môi trường nuôi có diện tích nhá.
- Thuốc được dùng với nồng độ thấp và thời gian kéo dài, thường áp dụng cho các ao đầm nuôi với diện tích lớn. Để giảm lượng hóa chất sử dụng cần hạ thấp mực nước trong ao đầm nuôi, đồng thời cũng cần phải chuẩn bị một lượng nước sạch để chủ động cấp vào ao nuôi phòng khi có sự cố xảy ra.
- Dùng thuốc hoặc các chế phẩm trộn vào thức ăn, phương pháp này thường kém hiệu quả đối với một số bệnh vì khi đối tượng nuôi bị bệnh khả năng hoạt động sẽ kém, do đó hoạt động bắt mồi thường kém đôi khi bá ăn nên kết quả điều trị thường không cao. Khi sử dụng phương pháp này cần bổ sung thêm dầu gan mực, dầu thực vật bao bên ngoài viên thức ăn để hạn chế thuốc, hóa chất bị mất đi do hòa tan trong mụi trường nước nuôi .
- Dùng thuốc tiêm trực tiếp vào cơ thể động vật thủy sản (chỉ áp dụng cho động vật quý hiếm hoặc đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao).

CHƯƠNG III: KỸ THUẬT NUÔI CÁ RUỘNG LÚA VÀ NUÔI CÁ V.A.C

BÀI 1: KỸ THUẬT NUÔI CÁ RUỘNG LÚA

1. Lợi ích của việc nuôi cá trong ruộng lúa

Nuôi cá trong ruộng lúa có lịch sử từ lâu đời, đây là một việc làm mang lại nhiều lợi ích:
Trước hết ngoài lúa ra còn thu thêm được cá là một sản phẩm có giá trị kinh tế cao.
Nhờ nuôi cá ở ruộng lúa mà tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cả cá và lúa ở trong ruộng:
+ Cá ăn sâu bọ phá hoại lúa.
+ Cá ăn các loại cá dại trong ruộng.
+ Cá thải ra phân làm cho ruộng màu mỡ hơn.
+ Bón phân cho lúa có tác dụng làm tăng thức ăn tự nhiên cho cá.
+ Thóc rơi rụng là thức ăn của cá.

2. Chọn ruộng lúa để nuôi cá

Ruộng lúa dùng để nuôi cá phải bờ ruộng chắc chắn, không bị rò rỉ và cao hơn mức nước trong ruộng ít nhất 0,5 m, có cống cấp và cống thoát, chủ động về nguồn nước. Trong ruộng phải có kênh mương với diện tích tổng cộng 1/10 diện tích ruộng lúa, độ sâu của kênh mương phải đảm bảo từ 0,8 – 1 m để cá trú ẩn khi cần thiết.
Tháo cạn nước trong ruộng, bón vôi với liều lượng 8 – 12 kg/100m2. Bón lót từ 30 – 40 kg phân chuồng/100m2 mương.

3. Thời gian thả cá

 Sau khi cấy lúa từ 15 đến 20 ngày ta tiến hành thả cá giống vào ruộng. Đối với lúa gieo thì phải sau 1 tháng mới được thả cá.
Trước khi thả phải ngâm túi cá giống xuống nước 15 phút, sau đó mở túi cho nước vào từ từ để tránh cho cá khái bị sốc.
Đối tượng thả nuôi là: cá trắm cá, cá mè, rô phi, cá chép.
Lưu ý: chỉ thả cá trắm cá khi lúa đã tốt hoặc đã thu hoạch

4. Mật độ và kích cỡ cá thả

- Mật độ cá thả từ 0,3 – 0,35 con/m2.
- Kích cỡ cá thả:
+ Cá rô phi, cá chép: 6 – 8 cm.
+ Cá mè, cá trắm cá: 10 – 12 cm.

5. Chăm sóc quản lý

Thường xuyên quan sát theo dõi hoạt động của cá, kiểm tra đê cống đề phòng rò rỉ cá sẽ bị hao hụt.
Bổ sung thức ăn trực tiếp để cá mau lớn, cho cá ăn ngày 2 lần vào lúc sáng sớm và chiều mát, lượng thức ăn như sau:
- Thức ăn tinh: cho ăn hàng ngày với liều lượng từ 2 - 3% trọng lượng thân cá.
- Thức ăn xanh: cho ăn hàng ngày với liều lượng từ 25 - 35% trọng lượng thân cá.
Trong quá trình nuôi khi cần phun thuốc trừ sâu cho lúa phải tháo cạn ruộng để dồn cá vào mương. sau khi phun thuốc từ 5 đến 7 ngày mới lấy nước trở lại để cho cá lên ruộng kiếm ăn.

6. Thu hoạch

Sau 1 thời gian nuôi ta có thể tiến hành thu hoạch bằng cách đánh tỉa những cá thể có kích thước lớn. Tiếp theo ta tiến hành tháo cạn nước trong ruộng để thu hoạch (thường là nuôi 2 vụ lúa 1 vụ cá để có kích cỡ cá thương phẩm lớn, được thị trường ưa chuộng). Với những ruộng nuôi cá có bổ sung thức ăn ta có thể đạt năng suất 2 – 3 tấn/ha.

BÀI 2: KỸ THUẬT NUÔI CÁ V.A.C.

Hệ thống Vườn - Ao - Chuồng (V.A.C)

Lợi ích của hệ thống V.A.C

V.A.C là hoạt động nông nghiệp kết hợp giữa chăn nuôi gia súc, gia cầm (C) với làm vườn (V) và nuôi cá ao (A). Trong việc điều hành của hệ V.A.C cần tận dụng sự kết hợp, hỗ trợ của các thành phần trong hệ thống sinh thái khép kín đó để nâng cao hiệu quả của sản xuất.
V.A.C là mô hình của nền nông nghiệp đa dạng, có sản phẩm của trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Đây cũng là mô hình của nền nông nghiệp sạch, bền vững vì tất cả các vật thải đều được tận dụng và đất đai, mặt nước không bị nghèo kiệt mà ngày càng thêm màu mỡ.
+ Sự hỗ trợ qua lại giữa Ao - Chuồng
Ao: không những chỉ nuôi cá mà còn thả rau, bèo hỗ trợ chăn nuôi , chất thải của ao (cá tạp, đầu cá, ruột cá) bổ sung chất đạm cho gia súc, gia cầm. Nước ao dùng để vệ sinh chuồng trại, tắm rửa hàng ngày cho gia súc.
Chuồng: phân, nước thải, nước rủa chuồng, thức ăn thừa của lợn,gà, vịt, ngan, ngỗng lại bổ sung thức ăn cho cá dưới ao. Quan hệ 2 chiều này đã giúp cho Ao và Chuồng cùng phát huy hiệu quả là tăng năng suất nuôi cá - chăn nuôi và góp phần làm sạch môi trường.
+ Sự hỗ trợ qua lại giữa Chuồng - Vườn
Chuồng: phát triển dựa vào các sản phẩm phụ của vườn. đó là thức ăn xanh, rau, cá, lá và chất bột sắn, ngô, khoai của vườn.
Vườn: cây trồng phát triển được dựa vào đất đai màu mỡ, dựa vào phân bón, vật thải của Chuồng.
+ Sự hỗ trợ qua lại giữa Ao - Vườn
Ao: phát triển dựa vào các sản phẩm phụ của vườn đó là rau xanh, cá lá, chất bột làm thức ăn bổ sung cho cá dưới ao.
Vườn: phát triển dựa vật thải của ao, đó là: nước ao tưới cho cây trồng, giữ ẩm cho đất, bùn ao bón mát cho cây trồng.
+ Cách bón phân cho ao nuôi cá:
Ao nuôi cá trong hệ V.A.C có kết hợp chăn nuôi đủ lợn, gà hoặc vịt trên ao thì không phải bón thêm phân chuồng (chỉ cho cá ăn thêm thức ăn bổ sung). Riêng ao xa khu chăn nuôi gia súc, gia cầm sau khi thả đủ cá giống, mỗi tuần phải bón thêm phân chuồng từ 10 – 15 kg/m2 ao.

2. Xây dựng kết nối hệ thống V.A.C

Phải là một hệ thống liên hoàn, khép kín. Chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm phải gần ao nuôi cá. Chuồng có hệ thống mương dẫn nước thải xuống ao. Vườn gần ao để dể dàng thu hái thức ăn xanh cho cá và thuận tiện vét bùn cải tạo đáy ao, có đất tốt bổ cho vườn.

3. Chọn đối tượng cá nuôi

Cá nuôi trong hệ V.A.C nhất thiết phải là cá biết tận dụng được các chất thải của vườn, của chăn nuôi . Trong hệ V.A.C có phân của gia súc, gia cầm để nuôi cá mè trắng, cá rô phi. Có rau, bèo, lá, cá để nuôi cá trắm cá. Có chất đáy tốt để phát triển động vật đáy làm thức ăn cho cá chép.

4. Mật độ và kích cở cá nuôi

- Tỷ lệ thành phần cá nuôi ghép: nếu nuôi cá trắm cá là chính có thể ghép 25 – 30 con cá trắm cá/100 con cá. Nếu nuôi cá mè là chính thì ghép 15 – 20 con cá mè trắng/100 con cá. Số còn lại là cá khác như: cá chép, cá trê, cá rô phi.
- Mật độ và kích cở cá thả: tùy theo điều kiện ao và khả năng tận dụng thức ăn, phân bón có thể thả từ 1 – 2 con/m2. Cở cá thả tốt nhất từ 20 – 30 con/kg (khoảng 30 – 50 g/con). Cá giống phải kháe mạnh, bơi lội hoạt bát, toàn thân trơn bóng, không khô mình, không mất nhớt, không mang mầm bệnh.

5. Quản lý chăm sóc

Ngoài các sản phẩm tận dụng của vườn và chuồng cần cho cá ăn thức ăn bổ sung như cám gạo, bột sắn, bột ngô. Cho ăn 2 lần/ngày với liều lượng 2 – 3% trọng lượng thân cá.
Nuôi cá trong hệ V.A.C chủ yếu là tận dụng hợp lý các sản phẩm phụ dư thừa của trồng trọt và chăn nuôi . Tùy theo thành phần đàn cá nuôi trong ao, khả năng đầu tư mà năng suất có thể đạt từ 2 – 3 tấn/ha/năm.
Trong quá trình nuôi nếu màu nước trong ao nuôi lên quá đậm (độ trong < 10cm) thì ta nên tiến hành thay từ 20 – 30% lượng nước trong ao nuôi .

6. Thu hoạch

- Thu tỉa: sau khi nuôi được 4 – 5 tháng hoặc khi cá được giá nên thu hoạch tỉa bớt cá lớn để bán và thả bù ngay cá giống cỡ lớn (của loài cá vừa thu).
- Thu hoạch toàn bộ: sau khi nuôi được 6 – 7 tháng ta tiến hành tháo cạn nước và thu hoạch toàn bộ cá trong ao.
Trên đây là một số kỹ thuật nuôi cá nước ngọt đã được chúng tôi đúc rút từ thực tiễn sản xuất. Mong rằng qua tập tài liệu này sẽ đóng góp một phần nào đó để giúp cho bà con đạt được những thành công trong các vụ nuôi, làm giàu từ nghề nuôi trông thủy sản mà ở đây là làm giàu từ nghề nuôi cá nước ngọt.

CHƯƠNG IV: KỸ THUẬT NUÔI MỘT SỐ ĐỐI TƯỢNG THUỶ ĐẶC SẢN

BÀI 1: KỸ THUẬT NUÔI CÁ TRÊ VÀNG LAI

1. Một số điều cần biết về cá Trê lai:

1.1 Cá Trê lai, một loại cá có sức chống chịu cao đối với điều kiện xấu của ao nuôi
 Cá Trê lai cỡ thương phẩm có thể sống trong nước với các giới hạn:
- Nhiệt độ từ 8 đến 39,5 0C
- Độ chua, kiềm: pH từ 3,5 đến 10,5
- Độ muối dưới 15 0/00
- Ôxy hoà tan: Cá có cơ quan thở phụ, hấp thụ được ôxy khí trời, nên có thể sống những nơi chật hẹp, hàm lượng ôxy hoà tan rất thấp, thậm chí có thể sống ở bên ngoài nước một số giờ nếu giữ được độ ẩm cầm thiết cho cá. Cá càng lớn khả năng chống chịu của cá càng cao.
- Nhược điểm của cá Trê lai là khả năng chịu rét hơi kém. Vì thế về mựa đông ở Miền Bắc cần có kế hoạch phòng chống rột cho cá.
1.2. Cá Trê lai lớn nhanh, cho năng suất cao
- Cá con: Ương nuôi từ cá bột sau 28 ngày có thể đạt qui cách cá giống 4-6 cm.
 - Cá thương phẩm: Nuôi từ cá giống, sau 4-5 tháng đạt qui cách 250-400 g/con.
 - Có thể đạt năng suất 1,0-2,0 kg/m2 sau 4-5 tháng nuôi trong điều kiện bình thường, không cần điều kiện thiết bị phức tạp.
1.3. Cá Trê lai là loài cá ăn tạp, ăn trực tiếp được nhiều loại thức ăn
 - Lúc còn nhỏ ăn các loại động vật cỡ nhá sống trong nước như các loại động vật phù du (Thuỷ trần, bọ nước), giun đá v.v..
 - Lúc trưởng thành: ăn được các loại mùn bó động vật, côn trùng, cám gạo, phân gia súc, gia cầm, thức ăn hỗn hợp v.v..
1.4. Cá Trê lai sinh sản kém, không có hiệu quả trong sản xuất. Chỉ sử dụng con lai F1 để làm cá thịt.
1.5. Bạn chọn cá Trê lai thế nào để nuôi? Và làm thế nào để phân biệt chúng?
 Hiện nay trên Miền Bắc đang nuôi 5 loài cá Trê lai trong đó 3 loài cá Trê lai thuần là: Cá Trê đen (Clarias fuscus), cá Trê vàng (C. macrocephalus), cá Trê phi (C. gariepinus), hai loại cá trê lai là: F.Đ và F.V.
 Cả hai loại cá trê lai: F.Đ và F.V. đều có tính chống chịu khá, lớn nhanh, thịt ngon, ngoại hình đẹp. Mỗi loại có những ưu điểm riêng: cá trê lai F.Đ có sức chịu rét và chống chịu bệnh tốt hơn F.V, nhưng cá F.V lại có màu sắc đẹp, năng suất cá bột cao hơn F.Đ. Vì thế tuỳ theo điều kiện nuôi dưỡng, yêu cầu thị trường mà ta lựa chọn.

2. Nuôi cá trê thịt thương phẩm

Cá trê lai có thể nuôi đơn, nuôi ghép với các loài cá nuôi khác. Khi nuôi ghép cần chú ý tới qui cỡ cá thể để tránh ảnh hưởng xấu lẫn nhau v.v... Đồng thời cá trê có thể nuôi trong hệ thống chăn nuôi tổng hợp với gà, vịt đạt kết quả tốt. Thông thường nuôi đơn dể chăm sóc, quản lý và phổ biến hơn. Dưới đây giới thiệu kỹ thuật về cách nuôi đơn.
2.1. Nơi nuôi :
Ao nuôi có điều kiện giống như ao nuôi vỗ cá bố mẹ, nhưng mực nước sâu hơn, thường sâu từ 1,0-1,5m, diện tích lớn hơn có thể từ vài chục đến vài nghìn m2.
2.2. Mật độ thả:
Tuỳ thuộc vào cỡ cá giống, chế độ thức ăn, khả năng thay nước, trình độ chăm sóc v.v... Nếu nuôi trong diện tích nhá, chăm sóc được tốt có thể thả cá cỡ nhá 3-5cm. Nếu ao lớn khả năng diệt trừ địch hại khó khăn, mới bắt đầu nuôi kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, nên thả cá cỡ 5-7cm. Cá giống thả phải khoẻ mạnh, đồng đều từ nguồn giống tốt. Dưới đây là một số mật độ thả đối với nuôi đơn.
- Ao nhá, chăm sóc, diệt trừ dịch hại tốt: Cỡ giống (cm) 3 – 5; Mật độ (con/m2) 15 – 25.
 - Ao trung bình, chăm sóc đảm bảo: Cỡ giống (cm) 4 – 6; Mật độ (con/m2) 15 – 20.
 - Ao lớn, diệt trừ địch hại khó khăn: Cỡ giống (cm) 5 – 7; Mật độ (con/m2) 10 – 15.
 Nuôi ghép thường thả ghép cá trê 1,0-2,0 con/m2, cỡ cá trê phải nhá hơn cá nuôi khác.
2.3. Thức ăn cho cá:
 Sử dụng các loại thức ăn: Cám gạo, gạo kém phẩm chất, ngô, bó rượu, mỡ vụn, bột cá nhạt, đầu vá tôm, tôm, cua, ếch, nhái, giun đất, phế phụ lò giết mổ, phân gia sỳc, gia cầm v.v... để cho cá ăn. Cá càng lớn khả năng tiêu hoá càng mạnh, cá càng ăn tạp. Cần phối trộn các loại thức ăn. Thức ăn chất bột cần nấu chín. Lượng chất đạm (Protein) trong thức ăn càng nhiều càng tốt, lượng tối thiểu cần cho tháng thứ 1: từ 20-30%, tháng thứ 2 từ 10-20%, tháng thứ 3 trở đi từ 10-15% trong tổng số thức ăn.
 Khi cho cá ăn, nắm thành từng nắm khoảng 500 g/1nắm thả từ từ xuống một vài chổ trong ao để cho cá ăn (khoảng 200 m2/1điểm) lượng thức ăn cho ăn từ 4-6% khối lượng cá/ngày theo thức ăn khô, 8-12% theo thức ăn ướt, điều chỉnh theo mức ăn hết của cá.
 Một hình thức tốt là nuôi cá trờ thích hợp với nuôi gà vịt, chuồng gà nằm trờn bờ hoặc trờn bờ ao, thức ăn rơi vói của gà (5-10%), phân gà là thức ăn tốt cho cá. Cứ khoảng 2,5 kgcon gà nuôi được 1m2 ao. Trên mặt ao thả bèo cái giống mới 1/2 mặt ao để bèo hút bớt chất bẩn đồng thời cung cấp thức ăn cho chăn nuôi . Nếu có điều kiện có một ao khác bên cạnh để dùng nước thải của ao cá trê nuôi các loại khác như mè, rô phi. Các loại cá này làm thức ăn cho người, cá trê hoặc chăn nuôi khác.
 2.4. Chăm sóc:
 Cá trê lai tuy có sức chịu đựng cao đối với điều kiện xấu của môi trường, nhưng khi nước bị nhiễm bẩn, có màu đen, có mùi hôi cầm thay nước. Về mùa hè cầm chống nóng cho cá bằng cách giữ nước sâu trên 1m, thả bèo trên mặt nước. Về mùa đông cần chống rét cho cá bằng cách giữ nước sâu trên 1,5m, khuất gió, phủ bèo trên mặt ao v.v... Khi mới thả cá cần nhớ, cần chú ý diệt trừ địch hại như chim bói cá, rắn nước, nếu trong ao có cá lớn quá trội, cần bắt tỉa để tránh cá tranh ăn và ăn lẫn nhau. Có biện pháp tích cực phòng cá đi trong mùa mưa lũ như đăng, cống chắc chắn, đề phòng đánh bắt trộm cá.
 2.5. Thu hoạch:
 Thu tỉa bằng câu, thả ống, đánh lưới, thu toàn bộ bằng tát cạn ao. Trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, khi thu hoạch có thể đạt qui cỡ:
 Nuôi 3-4 tháng đạt cỡ: 200-300 g/con
 Nuôi 5-6 tháng đạt cỡ: 400-500 g/con
Nuôi 8-10 tháng đạt cỡ: 600-800 g/con
Tỷ lệ sống đạt từ 70 đến 80%.

3. Phương pháp phòng trị một số bệnh thường gặp

3.1. Bệnh nhầy da:
 * Triệu chứng: Cá bột thường bơi thẳng đứng trên mặt nước, mang tím, vây cá bị ăn mòn, râu quăn, trên da có những đám chất nhầy, đôi khi có những cá bơi mất thăng bằng, xoắn vặn, cá chết hàng loạt.
 * Tác nhân gây bệnh: Do các loại ký sinh trùng như: Trùng bánh xe Trichodina glossatella, Epistylis v.v... trong đó trùng bánh xe là nguy hiểm nhất.
 * Điều trị: Dùng Sulfat đồng (phèn xanh) CuSO4 nồng độ 0,3-0,4 ppm (1ppm = 1/1.000.000), tắm trong 20-30 phút, tắm trong 2-3 ngày. Khi cá nổi nhiều trên mặt nước, ngừng tắm ngay, cho vào nước sạch.
3.2. Bệnh trắng da, khoang thân:
 * Triệu chứng: Cá bột thường nổi trên mặt nước, bơi chậm chạp, trên thân có những vệt, đám trắng, da bị loét, vây cụt. Cá chết đứng thẳng, chết rất nhanh đồng loạt ở đáy bể.
 * Tác nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Flezibacter columnaris. Vi khuẩn tiết độc tố huỷ hoại da, mang, cản trở hô hấp làm cá chết rất nhanh.
 * Điều trị: Có thể dùng các loại kháng sinh như Chloroxit, Tetracylin hay Ampicilin để tắm cho cá với liều lượng 1 viên 250mg/10 lít trong 30 phút
3.3. Bệnh trùng quả dưa, bệnh chấm trắng:
 * Triệu chứng: Trên da, gốc vây, ngực có những chấm nhá màu trắng, to bằng đầu ghim. Cá bơi thành từng đám trên mặt nước, ở các góc cạnh dụng cụ ương nuôi . Khi bị nặng da cá bung ra từng mảng. Bệnh hay lây, chết hàng loạt, rất nhanh trong 2-3 ngày.
 * Tác nhân gây bệnh: Do một loại nguyên sinh động vật Ichthyophirius mulrifilis gây nên. Có 2 giai đoạn phát triển:
 - Giai đoạn 1: Trùng ký sinh nằm trong các bào nang dưới da (điểm màu trắng) chưa có thuốc điều trị.
 - Giai đoạn 2: Bào nang vỡ, ấu trùng bơi trong nước tìm gặp ký chủ trong 24h, giai đoạn này cá chết hàng loạt.
 * Điều trị: Bệnh khú chữa. Có thể dựng 2 cách sau:
 - Cách 1: Ngâm cá trong dung dịch Vemalachit 0,005ppm. Nồng độ pH trong nước lên 9 bằng nước vôi trong, giữ nhiệt độ nước 28-29 0C. Hàng ngày thay nước thuốc 1 lần, giữ liên tục trong 8 ngày.
 - Cách 2: Ngâm cá trong nước với hàm lượng Formalin CH3COOH 25ppm, ở nhiệt độ nước 28-29 0C trong 8 ngày.
3.4. Bệnh sán lá một chủ 16 múc:
 * Triệu chứng: Cá bị bệnh có màu đen, đầu to, đuôi nhá, mang bị sưng, có thể trông thấy những sợi nhá, màu trắng trong dài 0,5-1,0mm bám trên da, vây, râu cá. Cá bơi ngoe nguẩy, chậm chạp hoặc dựng đứng trên mặt nước hoặc dựa vào thành dụng cụ.
 * Tác nhân gây bệnh: Do sán lá một chủ 16 móc Dactylogyrus gây nên. Chúng làm cho cá yếu chết dần và tạo cơ hội cho các vi khuẩn gây bệnh khác xâm nhập.
 * Điều trị: Tắm cá trong nước muối 30/00 trong 3-5 phút, hoặc phun trực tiếp Dipterex 0,25-0,5 ppm trong 1-2 ngày.
 Trong khi điều trị các bệnh trên cần cho cá ăn thức chất lượng tốt, tươi, lúc đầu cho ăn bằng 1/2 mức ăn bình thường, sau đó tăng dần theo sự hồi phục của cá.

4. Phòng trị bệnh cho cá trưởng thành:

 Cá trê càng lớn, sức chống chịu với bệnh càng cao. Tuy nhiên nếu điều kiện nuôi dưỡng quá xấu như: nước quá bẩn, thức ăn thối mốc, chất lượng kém, một số bệnh sẽ phát sinh:
 4.1. Bệnh do ký sinh trùng:
 * Triệu chứng: Trờn da có nhiều chất nhầy, vết loét, vây bị thối rữa, có những điểm trắng trên lưng, cá có màu đen hơn so với bình thường, ngáp, dóy trờn mặt nước hoặc xoắn vặn.
 * Tác nhân gây bệnh: Do ký sinh trùng như: Trùng bánh xe, Costia v.v..
 * Điều trị: Dùng CuSO4 liều lượng 0,3-0,5 ppm phun trực tiếp xuống ao 2-3 ngày liền, phun đều khắp mặt ao.
 4.2. Bệnh do vi khuẩn:
 * Triệu chứng: Có những vết loét trên cơ thể, vây cá bị thối rụng, bụng cá trương phù nề, ứ máu, da có nhiều chất nhầy, cá chết nhanh.
 * Tác nhân gây bệnh: Do các loại vi khuẩn Aeromonas sp, Flexibacter sp v.v... gây nên.
 * Điều trị: Thay nước 2 ngày/lần, bón vôi 120-200 kg/ha, trộn xay Tetracilin, chloroxit hoặc Ganidan vào trong thức ăn với liều lượng 0,3-0,5 g/kg thức ăn.

BÀI 2: KỸ THUẬT NUÔI CÁ LÓC

Cá lóc lai là loài cá dữ, nhưng thịt thơm ngon và rất được ưa chuộng. Kích cỡ cá lớn rất nhanh. Cá thành thục vào 23 - 24 tháng tuổi. Khoảng nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng từ 20 - 300C. Độ mặn 0 - 160/00 thích hợp cho sự phát triển cá lóc. Cá có thể chịu đựng được pH = 4. Cá có khả năng chịu đựng tốt ở môi trường thiếu oxy. Con giống nuôi hiện nay đã chủ động sản xuất nhân tạo.

1. Kỹ thuật nuôi cá lóc thương phẩm.

1.1. mùa vụ nuôi .
Cá lóc có thể nuôi quanh năm nhưng bà con nên chọn thời điểm nuôi sao cho phù hợp với điều kiện thời tiết ở tỉnh ta. Có thể thả nuôi từ tháng 3 đến tháng 9 dương lịch lúc này thời tiết ở tỉnh ta bắt đầu ấm áp nhiệt độ trong ngày cao phù hợp với điều kiện để thả nuôi . Các tháng còn lại có thể nuôi nhưng bà con thả cá lóc với mật độ thấp để tránh cho cá bị bệnh trong mùa rét và cá nhanh lớn.
1.2. Điều kiện ao nuôi .
+ Diện tích ao 500 - 1.500m2 để dễ quản lý, chăm sóc trong quá trình nuôi
+ Bờ ao phải chắc chắn, không bị rò rỉ. Ao phải có hai cống, một cống cấp và một cống xã;
+ Quanh ao được rào lưới, chiều cao của lưới tính từ mép lưới chôn trên bờ ao 1,5m;
+ Xung quanh ao thả bèo tây hoặc bèo cái, dùng tre, nứa cố định lại với mục đích chắn giữ cá quả không nhảy ra ngoài ao, đồng thời cũng tạo được nơi nghỉ ngơi kín đáo cho cá;
+ Ao sâu 1,2 - 2 m nước;
+ Nguồn nước phong phú, không bị ô nhiễm hoá chất độc hại.
1.3. Chuẩn bị ao trước khi nuôi .
+ Đối với ao cũ, trước khi nuôi cần phải cải tạo kỹ: Phát quang bờ ao, san lấp các hang hốc, tu sửa lại đăng cống, tháo cạn nước và vét bùn ra khái ao. Với ao mới đào, cần phải tiến hành rữa ao bằng cách cho nước vào ngâm trong ao, sau đó xã cạn, tiến hành rữa ao 2-3 lần như vậy.
+ Dùng vôi để cải tạo đáy ao và diệt tạp, tuỳ theo pH của đáy ao mà dùng với liều lượng vôi khác nhau(7-10kg/100m2 ao), tiến hành bón vôi vào những ngày trời nắng.
+ Lấy nước vào ao: Nước lấy vào ao phải được lọc qua lưới lọc, với mục đích chắn rác bẩn, cá tạp. Sau khi đạt độ sâu 1,2m - 1,5m thì tiến hành thả giống.
1.4. Mật độ nuôi .
Cần dựa vào nguồn thức ăn và chất nước để quyết định, nhìn chung thả 10 - 20con/m2 (cá 5 cm), sau đó xem tình hình sinh trưởng của cá, dùng lưới đánh bắt những con sinh trưởng quá nhanh để tránh tình trạng cá lớn nuốt cá bé, nếu nguồn nước phong phú cũng có thể tăng thêm mật độ. Ngoài ra có thể thả ghép vào một ít cá mè để khống chế chất nước.
1.5. Con giống.
- Cách chọn giống: Cá giống thả nuôi phải có kích cỡ đồng đều, khoẻ mạnh, nhiều nhớt, không bị bệnh tật, dị hình; cỡ cá giống đạt 3 - 5g và có chiều dài từ 6 - 8cm.
- Thả giống: Nên thả giống vào lúc sáng sớm hay chiều mát; giống trước khi thả cần tắm qua dung dịch nước muối với liều lượng 200-300g muối ăn /10lít nước ngọt trong vòng 5 - 10 phút để phòng các bệnh ngoài da cho cá. Cá con mới đem về nên thả vào giai từ 10 - 15 ngày để dễ chăm sóc quản lý, mật độ thả trong giai từ 100 - 200 con/m2.
1.6. Cho ăn.
- Luyện cho ăn : Thức ăn sống và thức ăn chế biến cá đều có thể ăn được.
- Thức ăn sống gồm : Cá tạp, cua, ốc và các phụ phẩm của lò mổ. Khẩu phần ăn 3 - 5%. Cá càng lớn khẩu phần ăn càng giảm dần.
- Thức ăn chế biến: Từ các nguồn nguyên liệu trên nấu với cám, tấm, trong đó cá tạp chiếm 50%. Hàm lượng đạm trong thức ăn phải đảm bảo từ 25 - 35%. Khẩu phần ăn với thức ăn chế biến từ 5-7%.
- Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và tối. Cho cá ăn trong sàng làm bằng nẹp tre có gắn phao nổi giữ đáy sàng cách mặt nước khoảng 10cm. Thức ăn cho cá cần được rữa sạch, xay nhuyễn và kết dính bằng bột gòn.
Sau thời ương từ 10 - 15 ngày khi thấy cá phát triển tốt thì thả cá ra ao. Lúc này thức ăn vẫn được xay nhuyễn với kích cỡ vừa miệng cá. Dùng sàng ăn đặt nhiều điểm cố định trong ao, đáy sàng cách mặt nước từ 15 - 20 cm để cá bắt mồi dễ dàng.
Cho cá ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, đúng giờ, tạo ra phản xạ có điều kiện như vỗ tay, gâ kẻng để cá bắt mồi đồng loạt. Sau 40 - 60 phút kiểm tra lượng thức ăn trong sàng ăn, trường hợp trong sàng ăn còn thức ăn thì điều chỉnh lượng thức ăn ở lần sau cho phù hợp. Phải vệ sinh sàng ăn mỗi ngày để tránh nấm, sinh vật bám ký sinh, vi khuẩn có thể ảnh hưởng xấu đến cá.
Khả năng sử dụng thức ăn của cá thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể cá. Lúc cá còn nhá cần cho ăn nhiều hơn cá lớn, có thể tham khảo theo bảng sau:

Kích cỡ cá giống (g/con) Khẩu phần ăn (%)/ trọng lượng cá
<10 span="">
10-12
10-20 8-10
20-30 5-8
30-50 5-8
50-100 5-8
>100 3-5

1.7. Quản lý chất lượng nước.
Ao nuôi cá lóc phải được thay nước thường xuyên để thịt cá không có mùi lạ (mùi tanh, mùi bùn).
Đối với cá thả dưới 1 tháng tuổi 7 - 10 ngày thay nước 1 lần, khi cá đạt 2 tháng tuổi 4-6 ngày/lần và từ 3 tháng tuổi trở đi thì chế độ thay nước càng nghiêm ngặt hơn, cứ 1 - 2 ngày thay nước 1 lần và mỗi lần thay 30% lượng nước trong ao hay trong bể.
Cá lóc có khả năng nhảy phóng rất cao (nhảy cao khái mặt nước 1,5m); nếu nước ở ngoài ao thấp hơn nước trong ao thì cá nhảy qua ao có nước thấp, nước chảy hoặc trời mưa càng kích thích cá lóc nhảy đi. Vì vậy, nhất là khi có mưa rào phải thăm ao. Cá lóc cần thức ăn phải tươi và sạch, cho nên trước khi cho ăn phải dọn rửa sàng ăn. Tuy cá lóc có khả năng chịu được môi trường nước kém 02, nhưng không phải vì thế mà để nước bẩn. Phải thường xuyên bổ sung thêm nước mới, bảo đảm nước trong sạch, tốt nhất dòng chảy.
1.8. Quản lý chất lượng đáy ao.
Do cá ăn mồi tươi sống nên đáy ao dễ bị ô nhiễm. Từ tháng thứ 2 trở đi bà con cần chú ý định kỳ xử lý nền đáy ao, bể, để tránh hiện tượng cá bị nhiễm khí độc dẫn đến cá giảm bắt mồi, chết rải rác….Có thể sử dụng các loại men vi sinh bán rộng rãi trên thị trường như: chế phẩm EM, BRF2,….hay sử dụng Zeolite, Dolomic. Với liều lượng của nhà sản xuất để xử lý cho ao hay bể nuôi cá lóc.

2. Phòng và trị bệnh.

2.1. Phòng bệnh.
Để phòng bệnh cần định kỳ 15 ngày/ lần sát trùng ao nuôi bằng vôi bột với liều lượng 5 - 10g/m3 nước ao, vôi được hoà tan trong nước tạt đều khắp ao.
Thường xuyên bổ sung Vitamin C để tăng sức đề kháng cho cá.
Định kỳ trộn tái vào thức ăn với liều lượng 4 - 5g/kg thức ăn để phòng bệnh đường ruột cho cá. Ngoài ra có thể bổ sung thêm men tiêu hoá để giúp cá tăng khả năng chuyển hoá thức ăn, tiêu hoá thức ăn tốt, cá lớn nhanh.
2.2. Bệnh ngoại ký sinh.
- Nguyên nhân và triệu chứng: Bệnh do các sinh vật rất nhá bám vào mang, da của cá để hút máu hoặc chất dinh dưỡng gây nên những vết thương, xuất huyết. Khi bị bệnh màu sắc cá trở nên nhợt nhạt, cá thích tập trung ở những nơi có nguồn nước chảy vào. Bệnh xuất hiện khi mật độ nuôi quá dày, điều kiện vệ sinh kém, mưa kéo dài thời tiết lạnh.
- Phòng và trị:
+ Phòng: Thả nuôi với mật độ vừa phải, tránh để ao bị ô nhiễm.
+ Trị: Dùng formol tạt xuống ao với nồng độ 20 - 25ml/m3.
2.3. Bệnh đốm đá.
- Nguyên nhân và triệu chứng: do vi trùng Pseudomoná punotata (sơ đô mô nát bun nô tata) hay Ae romonas hydrophila. ( ê rô mô nát hy rô phi la). Thân và bụng bị xuất huyết, vảy cá dụng lên, các gốc vây xuất huyết và ứ nước vàng. Bụng cá trương to và chứa nhiều dịch tễ đá bầm. ở một số cá bệnh mắt và hậu môn lồi ra, một số vây cá bị rách xơ xác dần dần bị rụng, bên trong thịt ứ máu và mủ. Cá lội lờ đờ, chậm chạp, ít ăn hoặc bá ăn.
- Cách phòng: Không nuôi mật độ quá dày, cho cá ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng, môi trường ao nuôi luôn giữ ổn định và sạch sẽ. Định kỳ 15 ngày tạt vôi bột một lần với lượng 3kg/1000m3 nước .
- Trị bệnh: Sử dụng kháng sinh Neomycine 4g/100kg cá bệnh và Vitamin C 3g/100kg cá bệnh, thuốc được trộn vào thức ăn cho ăn 5- 7 ngày.
2.4. Bệnh nấm thuỷ my.
- Triệu chứng: Khi nấm mới ký sinh, mắt thường khó nhìn thấy, phần cuối của sợi nấm đâm sâu vào thịt cá, phần đầu sợi nấm lơ lửng trong nước. Khi bị bệnh phát hiện nhiều trên thân cá xuất hiện những đám bông màu trắng. Cá có cảm giác ngứa ngáy, thân cá gầy đen sẫm. Nấm càng ngày càng phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập làm bệnh nặng thêm.
- Phòng bệnh: Tạo điều kiện sống thuận lợi cho cá, nhất là những lúc trời lạnh, giữ môi trường trong sạch, không để cá bị suy dinh dưỡng( thiếu ăn) không nuôi mật độ quá dày hoặc làm cá bị xây xước.
- Trị bệnh: Dùng thuốc tím ( KMnO4) tạt xuống ao với liều 3 -5g/m3 nước, hoặc dùng muối ăn 3% tắm cho cá trong vòng 15 phút.
2.5. Bệnh lở loét.
- Nguyên nhân: Do nhiều nguyên nhân kết hợp như siêu vi (virut), vi khuẩn, nấm thuỷ mi, giáp xác ký sinh, môi trường nước quá bẩn, nhiệt độ thay đổi…..
- Triệu chứng: cá ăn ít hoặc bá ăn, hoạt động lờ đờ trên mặt nước, da cá nhợt nhạt và xuất hiện các vết lở loét trên thân dần dần lan rộng ra có thể ăn sâu đến xương. Cơ quan nội tạng hầu như không bị thương tổn.
- Phòng và trị
+ Phòng bệnh: Luôn giữ môi trường nước trong sạch, định kỳ dùng vôi bột và các hoá chất để xử lý đáy ao. Khi trong khu vực có xảy ra dịch bệnh cần hạn chế thay nước hoặc khử trùng nước trước khi cấp vào ao nuôi .
+ Trị bệnh: Dùng thuốc tím 3g/m3 kết hợp với muốí ăn 0,3kg/m3 tạt xuống ao. Đồng thời trộn kháng sinh cho ăn 5 - 7 ngày với liều Oxytetraxyline 2g/ kg thức ăn, bổ sung Vitamin C 3g/kg thức ăn.
2.6. Bệnh do dinh dưỡng.
Thức ăn kém chất lượng có thể gây bệnh cho cá như: cá tạp dùng làm thức ăn bị ươn thối dẩn đến giá trị dinh dưỡng kém, bột cá, cám gạo dự trử lâu ngày bị mốc meo, ẩm ướt và các loại thuốc bổ sung cho ăn bị hết thời hạn sử dụng. Khị cho cá ăn các loại này sẻ bị nhiểm các bệnh sau.:
- Bệnh vàng da: Bệnh thường xảy ra ở cá tra, cá trê, cá bống tượng. khi cá bị bệnh giảm ăn, bơi lờ đờ, chậm chạp da cá có màu vàng tái hoặc vàng nghệ và chết hàng loạt. khi cá bị bệnh giảm thức ăn hàng ngày và thay thức ăn khác có chất lượng hơn.- Bệnh do thiếu Vitamin C: Gây xuất huyết dưới hầu, làm biến dạng cơ thể, cá biếng ăn. Khi cá bị bệnh này cần bổ sung Vitamin C ngay vào thức ăn cho cá từ 5 - 7ngày với liều lượng2 - 3g/ kg thức ăn.
2.7. Bệnh nấm
* Tác nhân gây bệnh
         Saprolegnia và Achlya.
* Đối tượng nhiễm bệnh
         Các loài cá nước ngọt, lợ, baba, ếch...
Nhiệt độ nước 18-250C, thích hợp cho nấm phát triển.
Mùa vụ phát bệnh: vào mùa xuân, mùa thu,đặc biệt mùa đông ở miền Bắc, mùa mưa ở miền Nam.
* Dấu hiệu bệnh lý.
Da xuất hiện những vùng trắng xám, có các sợi nấm nhá mềm.
Đan chéo thành búi trắng như bông, có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Trứng cá bị bệnh có màu trắng đục
Bệnh xuất hiện nhiều ở các ao nước tù đọng, có nhiều mùn bã hữu cơ, nuôi ở mật độ cao, bị xây xát, vết thương do ký sinh trùng, và vi khuẩn
* Phòng trị bệnh
         Khử trùng các giá thể
         Nguồn nước ương, ấp phải lọc sạch.
         Hạn chế lượng trứng ung trong bể.
         Muối: 2-3g/10lít H2O/10-15 phút
         KMnO4 với nồng độ 100g/m3) .

3.Thu hoạch.

Sau 4-6 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 300 - 500g/con có thể thu hoạch. Tiến hành hạ mức nước còn 40-50cm dùng lưới kéo thu cá, sau đó tát cạn thu hoạch toàn bộ đối với nuôi trong ao. Còn đối với nuôi trong bể hoặc nuôi trong bạt thì ta có thể thu tỉa những con lớn trước sau đó thu hoạch toàn bộ.

BÀI 3: KỸ THUẬT NUÔI LƯƠN

1. Đặc điểm sinh học:

- Lươn phân bố rộng rải dài từ bắc Trung Quốc đến Việt Nam, từ Nhật Bản đến quần đảo Nam Dương. Trong các thủy vực, lươn sống phổ biến trong các ao, hồ, ruộng lúa...Lươn có khả năng chịu đựng khô hạn bằng cách chui rúc vào trong đất ẩm và sống ở đây suốt mùa khô. Khi sinh sản lươn làm tổ bằng cách đào hang ở cạnh bờ và nhả bọt lên miệng hang cho trứng bám vào. Nhiệt độ thích hợp cho lươn sinh trưởng từ 22 - 280C, dưới 100C lươn sẻ chui xuống bùn trú đông và trên 300C lươn bắt mồi kém.
- Khi còn nhỏ lươn ăn động vật phù du, lớn lên ăn động vật là chủ yếu. Vào mùa sinh sản lươn hầu như không ăn. Lươn có tập tính kiếm ăn vào ban đêm, ban ngày ẩn nấp trong hang hoặc chỉ rìn mồi ở cửa hang. Khi kớch cỡ khụng đồng đều và khi đói chúng có thể ăn thịt lẫn nhau.
- Lươn thành thục sinh dục sớm (1 tuổi). Tùy kích cỡ của lươn, sức sinh sản có thể 100 - 1.500 trứng/con. Mùa vụ sinh sản của lươn vào đầu mùa mưa (tháng 4 - 5) đến giữa mùa mưa (tháng 8 - 9).

2. Kỹ thuật nuôi lươn thịt:

2.1. Phương pháp thông thường:
* Điều kiện cần thiết:
Cần chọn nơi có nguồn nước sạch và chủ động cấp nước khi cần thiết.
Diện tích ao to nhá tùy điều kiện của mỗi hộ gia đình. Ao có thể rộng từ 6 - 10m2 tới 100 - 200m2. Nên chọn ao có vị trí gần nhà để dễ chăm sóc và quản lý.
Ao nuôi lươn tốt nhất là xây bằng gạch, vách và đáy trơn láng. Đáy trải một lớp bùn dẻo để có nơi lươn chiu rúc. Thành ao nên xây nghiêng vào phái trong đề phòng lươn trốn thoát ra ngoài. Trong ao thả những cành cây, gạch ống, ống nước PVC cũ cắt khúc (30 - 40cm) hoặc dùng dây nilon buộc thành chùm tạo thành hang hốc cho lươn trú ẩn. Nước nuôi lươn giữ ngập mặt bùn cỡ 10 - 15 cm là vừa ...Do đặc tính sống chui rúc thỉnh thoảng thò đầu ra khái hang để thở, nếu nước quá sâu thì khụng có lợi cho lươn hít thở không khí và bắt mồi. Trong ao có thể trồng thực vật thủy sinh như môn nước, rau ngổ để tạo bóng mát và cải thiện chất lượng môi trương nước. Mùa hè cần che bớt nắng hạn chế nhiệt độ nước tăng cao không có lowinj cho sức kháe lươn nuôi .
* Thả lươn giống:
Lươn giống yêu cầu có kích thước đồng đều, lưng màu vàng sậm nặng từ 20 - 25 g/con (40 - 50 con/kg). Trung bình 1m2 có thể thả 50 - 60 con tùy theo điều kiện chăm sóc quản lý của người nuôi .
* Thức ăn nuôi lươn:
Cần tập cho lươn ăn được nhiều loại thức ăn khác nhau. Tốt nhất là chọn được nguồn nguyên liệu có sẵn tại chỗ, giá rẻ để hạ giá thành sản phẩm (giun đất, ốc, cá tép tạp, đầu tôm, tấm cám...). Không dùng thức ăn hư thối cho lươn ăn vì dễ gây bệnh đường ruột cho lươn.
* Quản lý dinh dưỡng:
Lươn có tập tính hoạt động mạnh về đêm vỡ vậy thời gian cho ăn thích hợp là từ 6 - 7 giờ tối . Mỗi ngày có thể cho ăn từ 1 - 2 lần, lượng cho ăn vào buổi tối chiếm 2/3, lượng cho ăn ban ngày chiếm 1/3. Thường xuyên kiểm tra để vớt thức ăn thừa, không để thức ăn dư làm thối nước. Vào mùa hè nắng nóng cần tăng số lần thay nước đảm bảo giữ nhiệt độ nước ổn định ở mức 25 - 280C.
2.2. Phương pháp nuôi lươn trong ao nước tĩnh:
* Xây ao:
Ao xây gạch trát xi măng, vách và đáy cần làm trơn láng tránh xây xát cơ thể lươn. Ao sâu từ 0,8 - 1m. Bên trong đổ đất dẻo dày 30cm, cho nước vào ngập sâu từ 10 - 15 cm, từ mặt nước trở lên còn khoảng cách 30 - 40 cm vách ao để lưn không trốn thoát ra đượ. Có nơi dào ao đất nửa nổi nửa chìm hoặc ao nổi rồi dựng bạt lút xung quanh.
Ở đầu cấp nước vào đặt cách mặt nước từ 30 - 40 cm và có lưới nagwn không cho lươn ra. Phần cửa thoát nước đặt gần mặt bùn để có thể tháo toàn bộ nước cũ ra ngoài khi cần thiết (dùng lưới kim loại giữ cho chắc chắn).
Ao nuôi ngoài trời có thể thả thêm cây môn nước, bèo làm chổ trú nắng cho lươn, phía trên làm dàn bầu, giàn mướp che mát cho ao.
* Thả giống:
Ở điều kiện chủ động cấp thay nước có thể thả mật độ từ 2 - 2,5kg/m2 (cỡ 40 - 50con/kg); nếu thay nước kém thì nên thả 1 - 1,5kg/m2 là vừa. Lươn nuôi thưa ít nhiễm bệnh, mau lớn, rút ngắn thời gian nuôi.
* Cho ăn.
Tùy theo cỡ lươn giống thả nuôi mà tạo ra miếng ăn có kích thước phù hợp đảm bảo cho lươn bắt mồi tốt. Mỗi ngày cho ăn 2 - 3 lần, buổi tối (6 - 7 giờ) cho ăn nhiều hơn sáng và trưa. Sau 1 giờ cho ăn kiểm tra thấy lươn ăn hết mồi là tốt.
* Quản lý chất lượng nước:
Cần giữ cho nước ao nuôi sạch sẽ, đủ dưỡng khí cho lươn thở. Bình thường 2 - 3 ngày thay nước một lần. Những ngày nắng nóng nhiệt độ tăng cao hay thức ăn dư thừa làm nước mau bẩn có mùi hôi thì mỗi ngày thay nước 1 lần.

3. Phòng và trị bệnh cho lươn:

3.1. Phòng bệnh:
- Chọn lươn giống kháe, kích cỡ đồng đều.
- Lươn giống khi mua về cần tắm nước muối 5 % khoảng 3 - 5 phút để khử trùng trước khi thả vào ao.
- Cần cho ăn no đủ, thức ăn tươi, luôn thay nước, cọ rửa ao bể giữ môi trường nuôi luôn sạch sẻ.
 Khi thấy lươn nhiễm bệnh cần tìm cách chữa trị kịp thời.
3.2. Các bệnh thường gặp ở lươn:
 Bệnh ngoài da:
Triệu chứng: Trên thân lươn bị bệnh, xuất hiện những nốt ban tròn màu đá xen lẫn các đám da bị dập nát. Lươn bơi quẫy yếu ớt, thường thò đầu lên khái mặt nước thở mệt mái và yếu dần rồi chết.
Phòng trị bệnh: Trước lúc thả lươn phải tiến hành tiêu độc ở lươn và bể nuôi . Vào mùa lươn bệnh phải dùng vôi bột để tẩy uế bể nuôi , vớt thức ăn thừa bẩn, thay nước sạch cho bể.
Bụi thuốc tớm loóng vào những chổ viờm loét trờn thân lươn, thao tác nhẹ nhàng, thận trọng.
 Bệnh tuyến trựng:
Do ký sinh trựng đường ruột gây viêm ruột sưng đá, khi bệnh nặng lươn sẽ yếu, hậu môn sưng đá và chết dần. Điều trị bằng cách dùng Dipterex tinh thể 90% trộn vào thức ăn với liều lượng 0,1g thuốc/kg lươn, cho ăn liên tục trong 6 ngày.
Bệnh lở loét:
Do ký sinh trựng, vi trựng bám vào vết thương làm trên mình lươn xuất hiện nhiều vết tròn lở loét, bơi lội khó khăn, đầu lươn ngoi lên khái mặt nước, bệnh thường xảy ra vào tháng 5 đến tháng 9. Để phòng bệnh, trước khi nuôi nên sát trùng bể, ao bằng vôi. Khi lươn bị bệnh dùng 250.000UI Strepto- mycine/m3 để phun toàn bể, kết hợp 0,5g Sulfamidine trộn vào thức ăn cho 50 kg lươn ăn một lần /ngày, điều trị từ 5-7 ngày; kết hợp bụi thuốc tớm trực tiếp vào vết loét.
Bệnh sốt núng:
Do nuôi với mật độ dày, dịch nhầy lươn tiết ra trong nước, lên men, độ nhớt tăng lên, làm nhiệt độ nước tăng theo, hàm lượng ôxy giảm. Đầu lươn bệnh sưng phồng to, chết hàng loạt. Lúc xảy ra bệnh phải giảm mật độ nuôi , thay nước; có thể thả tạm vài con cá trê để chúng ăn thức ăn thừa; đề phòng lươn cuốn vào nhau bằng cách thả thêm 10- 15 con chạch đồng/m2, bảo đảm tốt chất lượng nước. Khi phát hiện bệnh dùng dung dịch Sulfat đồng 0,07% với liều lượng 5ml/m3 nước tưới vào bể nuôi . Do nuôi với mật độ dày, dịch nhầy lươn tiết ra trong nước, lên men, độ nhớt tăng lên, làm nhiệt độ nước tăng theo, hàm lượng ôxy giảm. Đầu lươn bệnh sưng phồng to, chết hàng loạt. Lúc xảy ra bệnh phải giảm mật độ nuôi , thay nước; có thể thả tạm vài con cá trê để chúng ăn thức ăn thừa; đề phòng lươn cuốn vào nhau bằng cách thả thêm 10- 15 con chạch đồng/m2, bảo đảm tốt chất lượng nước. Khi phát hiện bệnh dùng dung dịch Sulfat đồng 0,07% với liều lượng 5ml/m3 nước tưới vào bể nuôi .

BÀI 4: KỸ THUẬT NUÔI GIUN ĐẤT

Nuôi giun đất tuy là một nghề mới phát triển nhưng rất hữu ích và phù hợp với điều kiện của mọi gia đình. Loài giun đất với chức năng sống tự nhiên sẽ góp phần phân hủy rác và các chất phế thải hàng ngày trong gia đình bạn thành nguồn thức ăn mà động vật ưa thích, giun đất có hàm lượng protein chiếm 70% khối lượng. Đây chính là nguồn thức ăn giàu đạm tại chổ cho hầu hết các con vật nuôi trong gia đình chúng ta, đồng thời cũng là nguồn cung cấp phân bón hữu cơ quí báu cho cây trồng.
Muốn nuôi giun đất trong hộ gia đình chỉ cần 02 điều kiện sau:
- Có nguồn phân động vật tại chổ như phân gà, phân heo, phân trâu bò, phân thỏ, ...đây là nguồn rất dễ kiếm đối với những hộ nông dân, đặc biệt là những hộ kinh tế VAC, đó là thức ăn tuyệt vời của giun đất.
- Phải có một chuồng nuôi thích hợp: Tất cả những dụng cụ đựng mà đảm bảo thoát nước, không úng ngập và chứa đựng được thì tất cả những thứ đó đều có thể làm chuồng nuôi giun. Ví dụ như trong thùng phuy bỏ không, trong can nhựa bá không có thể làm chuồng nuôi giun.

1. Chuẩn bị chuồng nuôi:

Trên thực tế người ta nuôi giun theo 02 dạng chuồng:
- Luống nuôi giun:
Luống nuôi giun có thể xây bằng gạch, trong điều kiện chưa có vốn chúng ta có thể quây mê bồ là có thể nuôi được. Luống nuối giun rất thích hợp ở nông thôn vì có mặt bằng.
- Thùng nuôi giun:
Tùy theo qui mô lớn nhỏ và tùy theo điều kiện tận dụng nguyên vật liệu của mỗi nơi, mà thiết kế thùng nuôi có kích thước phù hợp. Thùng nuôi giun phải đảm bảo có thể chứa được thức ăn cho giun và không làm thay đổi nhiệt độ của thức ăn, nước trong thức ăn khi lắng xuống phải có chổ thoát để phần thức ăn bên dưới không quá ẩm. Đóng thùng nuôi giun phải đảm bảo kín không cho giun bò ra ngoài, bỏ trốn khỏi nơi nuôi. Thông thường các thùng nuôi giun làm bằng gỗ hoặc xây các bể xi măng.
Nuôi giun trong gia đình với qui mô nhỏ, có thể làm những thùng nuôi vuông 70-70 cm và cao 45 cm. Với kích thước này có thể nuôi được 10.000 con giun. Các thùng có thể xếp chồng lên nhau và đặt trong nhà có mái che mưa che nắng.
Trong điều kiện chật hẹp như ở đô thị hoặc nhà cao tầng, người ta sử ta sử dụng hộp nuôi giun. Hộp nuôi giun phải có kích thước 50 x 35 x 20 cm. Đáy hộp có khoan nhiều lỗ thoát nước đường kính khoảng 5mm và được lót dưới chất dẽo ngăn không cho giun bò ra ngòai. Bên trong hộp phủ giấy màu đen hoặc lá chuối để tạo ra môi trường tối. Bốn góc hộp có chân cao khoảng 5 cm để khi chồng lên nhau vẫn có kẽ hở cho thông không khí. Dưới mỗi chồng hộp đặt một cái chậu để hứng nước từ các hộp trờn chảy xuống.

2. Dụng cụ nuôi giun:

- Cây chĩa 6 răng: Đây là dụng cụ dùng để xới, thu họach và chăm sóc giun, không dùng các dụng cụ khác có thể làm giun bị thương.
- Tấm che phủ: Tấm che phủ thường làm bằng bao tải hoặc bao chiếu. Đặc điểm của giun là ăn cạn và tối. Do đó người ta dùng tấm che phủ thường để tạo bóng tối cho bề mặt luống giun để giun liên tục ở bề mặt ăn thức ăn. Mặt khác cũng dùng để giữ độ ẩm cho luống giun.
- Thùng tưới: Nếu không có thùng tưới có thể dùng tay vẫy nước qua sàn rổ.

3. Chọn giống giun:

Ở Việt Nam, giống và chủng lọai giun rất phong phú. Tuy nhiên, cho đến nay các cơ sở nghiên cứu và sản xuất giống giun phù hợp với điều kiện thời tiết khí hậu, cho năng suất cao còn rất hạn chế.
Do vậy, để có giống giun, người chăn nuôi hãy tự lựa chọn trên chính mảnh đất của mình bằng cách cho gà vịt ăn nhiều lọai giun khác nhau. Quan sát để tìm một vài loại mà gà vịt thích ăn nhất để nuôi thử. Sau đó, tiến hành nuôi thử một vài loài trên, trong điều kiện giống nhau, rồi chọn loại nào có tốc độ phát triển nhanh nhất để nuôi gây giống.
- Giun đất có nhiều loài, nhưng chúng ta thường nuôi giun quế. Giun quế là lọai giun phân, nghĩa là có phân thì nó sinh sản rất nhanh, dễ nuôi, cho năng suất cao và thích hợp với từng vùng nhiệt đới.
- Giun quế lại rất mau đẻ. Sau khi giao phối là 7 ngày là giun quế cho 1 lứa đẻ.
- Giun quế là loài động vật lưỡng tính sốmg tại chỗ, nghĩa là 2 yếu tố đực và cái có trên cùng một cá thể. Cho nên sau khi giao phối thì cả hai cá thể đều đẻ, có thể nói về việc tăng số lượng giun là loài động vật sinh sản nhanh nhất.

4. Mật độ:

Mật độ thả quyết định năng suất thu hoạch. Mật độ thích hợp khoảng 0,8 - 1 kg/m2, nghĩa là vào khoảng 8 ngàn đến 1 vạn cá thể/m2 mới đảm bảo được sau 30 ngày cho 1 lần thu họach với năng suất 12 - 15 kg/m2, tương đương với 120 - 150 tấn giun/ha. Nếu ta có đầy đủ nguồn thức ăn có thể rút ngắn chu kỳ thu hoạch là 20 ngày. Ngoài ra, giun đất còn cần chất mùn làm nhà ở. Đất mùn có thể làm từ phân động vật và rác độn đem ủ hoai, thời gian ủ từ 20 - 30 ngày. Sau khi ủ, phân có màu nâu và hết mùi, lúc đó ta xổ đống phân ra bầm nhá và đổ vào luống để làm nền, thường thì lớp chất mùn trên luống giun cao từ 10-15cm.
Vớ dụ: Một luống giun có diện tích 2m2 cần 50% phân động vật các các lọai, cùng với 50% rác độn (không dùng những rác thải có chất độc, rác, cay, có tinh dầu).

5. Thức ăn và cách cho ăn:

- Tất cả các loại phân như phân lợn, phân trâu bò, phân gà, phân thỏ, ... đều có thể làm thức ăn cho giun đất. Thức ăn sử dụng cho giun đất ở dưới dạng tươi.
- Cách cho ăn : Khi cho ăn giở tấm phủ và bón thức ăn cho giun. Lượng thức ăn tùy thuộc vào sức tiêu thụ của từng luống cụ thể và tùy mùa.
Vào mùa hè từ 3 - 5 ngày cho giun ăn 01 lần, lượng thức ăn bón trên bề mặt luống dày từ 2- 3 cm, sau khi bón xong đậy bao tải lại và tưới ẩm. Chúng ta cũng có thể bón thành từng ụ, hoặc theo từng dãy dài để khi nhiệt độ trong luống tăng cao giun có khoảng trống chui lên thở.
Đến mùa đông lượng thức ăn bón nhiều hơn, dày khoảng 5 cm và bón phủ đầy luống giun. Thời gian cho ăn cũng thưa hơn mùa hè.

6. Ủ phân làm thức ăn cho giun:

- 50 kg cỏ khô hay rơm lúa, thân đậu, bó mía, mạt cưa, giấy vụn, ...
- 30 kg phân gia súc (trâu, bò, heo, ...)
- 20 kg thực vật tươi (rau, cỏ, lá chuối, ...)
Tổng cộng được 100 kg vật chất thô, ở giữa hố ủ cắm một thanh tre hay khúc gỗ dài từ đáy hố nhô lên khỏi mặt hố. Mỗi ngày tưới nước vừa, khi tưới lắc thanh tre nhằm mục đích cho nước ngấm đều hố ủ. Sau thời gian khoảng 03 tháng thì phân hoai, riêng rơm đã mục sẳn thì thời gian ủ sẽ ngắn hơn.
Riêng phân tươi của gia súc ăn cá có thể cho ăn trực tiếp.

7. Chăm sóc nuôi dưỡng giun:

- Rải một lớp phân ủ hoai dày khoảng 10 cm ở đáy chuồng nuôi.
- Đổ giun giống vào và rải một lớp máng thức ăn bên trên.
- Phun sương cho đất vừa ẩm, ẩm độ 60 - 70% (độ ẩm thích hợp là nắm hổn hợp thức ăn và vắt nước chảy theo kẻ tay). Phun sương 02 lần/ngày (sáng và chiều).
- Cứ 03 ngày thì cho giun ăn một lần và giữ môi trường luôn ẩm.
- Giun thường có tập tính sống trong môi trường tối, hễ gặp ánh sáng là giun rút xuống. Do đó, chúng ta phải tạo môi trường tối để giun di chuyển lên bề mặt tiếp nhận phần thức ăn cung cấp thường kỳ.

8. Quản lý và chống dịch hại:

Hàng ngày theo dõi luống giun, nếu thấy kiến phải tiêu diệt ngay. Diệt kiến có thể dựng cách đơn giản là đốt những vệt kiến bò vào luống giun, nhớ khi đốt đậy tấm phủ giun lại, hay cho nước ngập hố giun và kiến nổi lên mặt nước, dùng rọi đốt kiến trên mặt nước, sau đó tháo nước ra. Ngoài ra có thể dùng thuốc diệt kiến quét trên vách chuồng. Một điều cần lưu ý là luống giun phải được che chắn hoặc bao lưới xung quanh để tránh gà, ếch nhái, rắn mối hoặc chuột ăn giun.
Giun ít bệnh, nó chỉ có một bệnh thường xảy ra vào mùa hè là bệnh đau bụng.

DÙNG THẢO MỘC CHỮA BỆNH CHO CÁ

Nuôi cá là nghề truyền thống đó có từ lâu ở nước ta. Do lợi nhuận từ nghề nuôi cá mang lại khá cao nên trong những năm gần đây số lượng ao, lồng, bể nuôi tăng lên một cách đáng kể và trở thành nguồn thu nhập chính của nhiều hộ gia đình. Các loài cá nuôi nước ngọt như: cá rô phi, cá điêu hồng (cá rô phi đỏ), cá lóc, cá trắm cá, cá chép, cá chình... đó trở thành đối tượng nuôi chính. Tuy nhiên, do phát triển một cách tự phát nên bệnh vẫn thường bộc phát trong quá trình nuôi, sản lượng thu được không cao. Để khắc phục tình trạng lệ thuộc vào dựng hóa chất, kháng sinh phòng trị bệnh cho cá nuôi, tiến tới phát triển nuôi theo hướng tạo sản phẩm bảo đảm an toàn thực phẩm. Dưới đây là một số thảo mộc phòng chữa một số bệnh thường gặp ở cá đó có kết quả

Cây xoan:

Tên khoa học Meliaazedarach L, còn có tên là cây thụ đâu, thuộc loại cây thân gỗ, vá xù xì, rụng lá vào mựa đông, ra hoa, lá, quả vào mùa xuân. Vá và lá xoan có vị đắng, ngâm dưới nước có màu đen. Trong nuôi cá, dùng lá xoan để diệt trùng má neo và trùng bánh xe đều đạt kết quả. Cách dùng như sau: Cành lá xoan non bó thành bó ngâm trong ao nuôi cá đang có bệnh trùng má neo, trùng bánh xe, cũng có thể ngâm trong lồng nuôi cá ở phía đầu nguồn nước với lượng 150 – 200kg lá xoan/ha ao có mực nước 1,5 – 2m hoặc 20 – 25kg lá xoan/lồng 8m3.

Cây thầu dầu tía:

Ricinus com–munisL, có tên khác là dầu ve (vì hạt có các vân như viên bi ve), cây đu đủ tía, cây tù ma. Là cây sống lâu năm, thường được trồng bằng hạt, hoặc mọc hoang ở các bụi ven sông. Quả thầu dầu có nhiều gai mềm (như gai quả chôm chôm), hạt có vỏ cứng màu đá tía, mỗi quả 3 – 4 hạt, hạt dùng để ép dầu. Lá thầu dầu có chất đắng, nhân dân dùng để chữa bệnh loét mang, bệnh đốm đá cho cá có kết quả cao. Cách dùng: Lấy lá thầu dầu bó thành bó ngâm xuống ao với lượng 250 – 300kg lá thầu dầu/ha ao nước sâu 1,5 – 2m. Đối với lồng nuôi cá ngâm 15 – 20kg lá thầu dầu/8–10m3 lồng.
3. Cây rau sam:
Portulacaoler–acea L. Cây thấp, có nhiều nhánh, thân cây có màu đá nhạt, lá hình bầu dục hơi dầy, hoa có màu vàng mọc ở đầu cành, có thể làm rau luộc, ăn hơi có vị chua. Nhân dân đó dựng rau sam chữa bệnh viêm ruột do vi khuẩn đối với cá trắm cá. Cách dùng: Rửa rau sạch rồi vô trùng bằng nước muối 3%, rải rau trong khung nổi ở ao hoặc trong lồng cá, mỗi ngày cho ăn 1 lần, liên tục trong sáu ngày với liều lượng 1,5 – 3kg rau/100kg cá. Đối với cá giống cần băm nhá rau rắc đều trên mặt ao hoặc trong lồng cá.

4. Cây tía đá:

Pelilla frutescen L Brittvar, là loại thân thảo có lông, lá mọc đối, mặt trên lá có màu xanh, mặt dưới lá có màu đá tím (đá tía, lá có hình trứng, mộp lá có răng cưa, hoa màu trắng nhạt, thân và lá có mùi thơm, dùng làm gia vị. Trong nuôi trồng thủy sản, nhân dân dùng cây này để chữa bệnh đường ruột cho cá trắm cá. Cách dùng: Thân và lá cây băm nhá nấu kỹ, lấy nước trộn với thức ăn tinh rồi cho cá ăn, lượng 0,2 – 0,5kg lá tía đá/1kg thức ăn, cho cá ăn liên tục 3 – 5 ngày.

5. Cây tái:

Allium Sativum, dùng củ tái để chữa bệnh đường ruột cho cá. Cách dùng: Nghiền nát củ tái trộn với thức ăn tinh cho cá ăn, liều lượng 0,5 – 1kg tái trộn với thức ăn/100kg cá, cho ăn liên tục 6 ngày. Đối với nuôi cá lồng dùng 0,5 – 1kg tái nghiền nát ngâm với thức ăn xanh từ 15 – 30 phút mới thả thức ăn vào lồng cho cá ăn, cho ăn 3 – 5 ngày liên tục/tháng.

CHỐNG RÉT, QUẢN LÝ VÀ CHĂM SÓC CÁ TRONG MÙA ĐÔNG

Mùa đông nhiệt độ thường xuống rất thấp, trời rét kéo dài làm cho nhiều loài cá, tôm chịu rét kém như: Cá rô phi, chim trắng, tôm càng xanh…bị chết, ảnh hưởng không nhá đến năng suất, sản lượng.
Theo tài liệu nghiên cứu thì các loại cá mè, trôi, trắm, chép, ếch đồng chỉ thích ứng với điều kiện nhiệt đới, thường từ 20 – 300C. Ở nhiệt độ từ 10 – 20oC, cá chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nếu kéo dài trong ao nước nông, không kín gió, cá sẻ bị chết do rét.
Cá chim trắng, cá rô phi là những giống ngoại nhập, chịu được nhiệt độ thấp. Nhưng nếu trời rét kéo dài ngày ở nhiệt độ < 100C, cá sẻ bị chết nhanh hơn các loài thuỷ sản khác. Để chống rét, cá rúc đầu xuống bùn, nấm thuỷ mi phát triển ăn kín vào mang làm cá bị ngạt thở chết và có nhiều loại bệnh khác phát sinh. Để giúp bà con thực hiện việc chống rét cho cá, nhằm hạn chế thiệt hại do thời tiết gây ra, dưới đây xin giới thiệu một số biện pháp chống rột cho cá.

1. Chống rét giữ giống qua đông.

Để chuẩn bị cá cho vụ Đông Xuân, việc chống rét bảo vệ cá qua đông rất là quan trọng. Ngay từ tháng 7 – 8, các trại cá giống phải tiến hành cho đẻ nhân tạo đợt cuối. Sau đó, lấy cá bột ương thành cá hương, cá giống càng to càng tốt, tiến hành chống rét giữ giống bằng cách:
- Chọn ao nuôi cá giống qua đông có bờ cao, khuất gió bắc. Độ dày lớp bùn đáy ao để khoảng 15-20cm, chủ động cấp và thoát nước. Mực nước trong ao đạt > 1,4.
- Thả bèo 1/3 ao để chắn gió, góc ao để những sọt rơm, rạ (dùng các sọt đan bằng tre lấy rơm, rạ phơi khô, dùng nước vôi phun vào sát trùng rồi ấn đầy vào sọt cắm cọc dìm xuống đáy ao) cho cá trú đông, ngoài ra những ngày rét đậm có thể dùng bạt phủ kín mặt ao để chống rét cho cá.
- Những trại giống lớn có hệ thống nhiệt đến cuối tháng 11 đầu tháng 12, bắt cá hương, cá giống đưa vào bề nâng nhiệt giữ cá ở nhiệt độ 22 – 250C với mật độ dày và có sục khí. Đến cuối tháng 2 đầu tháng 3 đưa cá giống ra nhân nuôi .
Trong quá trình giữ cá giống qua đông, mặc dù thời tiết lạnh cá giảm ăn, có lúc bá ăn nhưng vẫn theo giái chăm sóc cá cho cá ăn định kỳ vào sáng và chiều theo quy trình nuôi cho cá béo khoẻ tăng khả năng chống rét. Lượng thức ăn tuỳ theo khả năng sử dụng của cá. Cho cá giống ăn đủ thức ăn tinh vào những lúc nhiệt độ môi trường trên 200C.

2. Chống rét cho cá thịt.

Tháng 11 và tháng 12 hàng năm, sau khi tiến hành thu hoạch, có 1 số loại cá chưa đủ cở thu hoạch thì phải tiến hành chống rét để nuôi tiếp.
- Cần chọn ao có diện tích khoảng 500m2, độ sâu từ 1,2 – 1,5m, kín gió, dọn vệ sinh sạch sẽ. Đưa cá vào nuôi với mật độ 2 – 4 con/m2, tiếp tục cho cá ăn vào những ngày ấm để cá tăng khả năng chịu rét. Dùng sọt đựng rơm thả xuống đáy ao để cá chịu vào trú đông.
- Trên mặt ao thả bèo kín 1/3 ao, nếu có điều kiện có thể dùng nilon phủ kín mặt ao. đến cuối tháng 2 đầu tháng 3 đưa cá này ra thả nuôi cá sẻ phát triển tốt.

3. Quản lý và chăm sóc cá trong mùa đông.

Chế độ chăm sóc: Cần có chế độ chăm sóc thật đặc biệt, ngoài việc theo dõi thì phải cho ăn bằng thức ăn đủ chất dinh dưỡng hoặc thức ăn công nghiệp chất lượng cao và bổ sung Vitamin C vào khẩu phần ăn để các loài cá có đủ sức đề kháng bệnh tật cũng như khả năng chịu rét.
Thức ăn và chế độ cho cá ăn: không dùng phân chuồng cho xuống ao (kể cả bún lút) vì mựa đông phân hủy chậm, dễ làm thay đổi môi trường nước gây nhiễm bệnh cho cá.
Dùng thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn tự phối chế, hàm lượng protein trong thức ăn bảo đảm tuỳ theo nhu cầu của mỗi loài cá.
Thức ăn tự phối chế được nấu chín, ngày cho ăn 2 lần vào buổi sáng lúc 9-10 giờ và buổi chiều lúc 14-16 giờ. Khẩu phần thức ăn chiếm 10-15% khối lượng cá nuôi.
Thức ăn để vào sàng và theo dõi thường xuyên để định số lượng cho phù hợp.
Cho ăn lượng vừa đủ để tránh dư thừa gây lãng phí và ô nhiễm môi trường.
Những ngày nhiệt độ xuống thấp có thể giảm khẩu phần thức ăn hoặc ngừng hẳn. Những ngày nắng ấm cho tăng khẩu phần thức ăn.
Theo dõi mức nước trong ao thường xuyên để cấp nước bổ sung kịp thời, bảo đảm mực nước ổn định. Định kỳ 15-20 ngày thay nước 1 lần, mỗi lần thay 25-30% lượng nước trong ao.
Lưu ý: Thời gian từ tháng 2 – 3 hàng năm, khi thời tiết thay đổi từ mùa đông sang mùa xuân, cá dễ bị bệnh cần phải dùng vôi bột rắc xung quanh ao và giữa ao với lượng 5 -7kg/500m2 (/sào), nếu không có vôi có thể dùng tro bếp rắc khắc ao với lượng 8 – 10kg/500m2. Dọn sạch cá, rác, thức ăn thừa ở nơi cho cá ăn, dùng vôi bột cho vào túi vãi treo ở nơi cho cá ăn để diệt trùng và nấm gây bệnh cho cá phát triển đầu vụ Xuân, làm như vậy cá sẻ chống được bệnh, nhất là bệnh đốm đá ở cá trong mùa Xuân.

MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CHỐNG NÓNG CHO CÁ TRONG MÙA HÈ

Vào mùa hè nắng nóng kéo dài hoặc mưa gió bất thường sẽ làm thay đổi các yếu tố môi trường nước trong ao nuôi cá, tôm như nhiệt độ, ôxy… một cách đột ngột, dẫn đến cá bị sốc hoặc phát sinh bệnh, làm ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng nuôi .
Cá, tôm là động vật thuộc nhóm máu lạnh nên điều kiện nhiệt độ môi trường nước ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của chúng. Thân nhiệt của cá, tôm thay đổi theo nhiệt độ nước, thường chỉ chênh lệch với nhiệt độ nước khoảng 0,10C, lúc môi trường nước giảm hay tăng đột ngột có thể kích thích dây thần kinh da làm mất khả năng điều tiết hoạt động của các cơ quan, phát sinh ra bệnh có thể gây chết hàng loạt.
Vào mùa hè, nhất là khi trời chuyển mưa, khi có sấm sét mà không có mưa hay thời điểm trước mưa giông, do áp suất không khí giảm, ôxy hoà tan trong nước giảm hoặc khi mưa giông rất ngắn làm nhiệt độ nước tầng mặt giảm, tầng đáy cao gây ra hiện tượng đối lưu, các chất mùn bã hữu cơ ở tầng đáy bị đảo lên, sẽ tăng cường sự phân huỷ tiêu hao nhiều ôxy, đồng thời tăng khí độc như H2S, NH3 … làm cho cá nổi đầu. Những ao, hồ tảo phát triển nhiều, chúng tiến hành quang hợp sản sinh ra nhiều ôxy, nhưng ngược lại vào ban đêm trong quá trình hụ hấp, chúng lại lấy nhiều ôxy và thải ra nhiều CO2 dễ làm cho cá nổi đầu hơn.
Dưới đây là một số biện pháp chống nóng cho cá, tôm nuôi vào mùa hè nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại có thể xảy ra.
- Đối với nuôi cá ruộng: cần đảm bảo lượng nước đầy đủ, tránh nước rò rỉ bằng cách đầm nén chặt bờ. Đào mương và tạo các chỗ trũng trong ruộng làm nơi trú ẩn cho cá vào những ngày nắng nóng kéo dài và cũng là nơi tập trung cho cá ăn, thu hoạch cá. Nếu là ruộng nhá, đào một chỗ trũng, nếu là ruộng to đào 2-3 chỗ trũng ở giữa ruộng hoặc rìa ruộng, diện tích chỗ trũng chiếm 2-3% tổng diện tích ruộng. Hệ thống mương hình dấu cộng (+) hoặc hình chữ nhật để nối thông giữa các chỗ trũng, mương rộng 0,5m, độ sâu 0,4 - 0,5 m.
- Đối với ao, hồ nuôi cá, tôm cần tẩy dọn sạch sẽ, nạo vét bùn, chỉ để lượng bùn vừa phải, sau đó phơi nắng đáy ao thật kỹ trước khi đưa vào nuôi .
- Phân bón cần được ủ kỹ, lượng bón tuỳ theo điều kiện thời tiết và chất nước mà điều chỉnh cho thích hợp.
- Mật độ cá, tôm thả ương nuôi, mật độ trứng ấp không nên quá dày để đảm bảo môi trường đủ ôxy.
- Cho cá, tôm ăn nên áp dụng biện pháp 4 định: định chất lượng, định số lượng, định thời gian và định địa điểm, nếu thức ăn hàng ngày thừa phải vứt bỏ.
- Trong vận chuyển cá tôm phải chọn thời tiết có nhiệt độ thích hợp, nếu nhiệt độ quá cao, phải có biện pháp xử lý hạ nhiệt khi vận chuyển. Nhiệt độ nước chệnh lệch trong vận chuyển không quá 2 - 50C, đối với cá, tôm cỡ lớn, nhiệt độ thay đổi không quá 50C, đối với con giống, không quá 2-40C.
Thường xuyên theo dõi sự biến đổi của môi trường để bơm nước sạch vào ao, nên dùng máy sục khí để kịp thời bổ sung ôxy cho ao ương nuôi./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét