XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025

BỈM SƠN

 



Địa đầu xứ Thanh

      Trước khi có đường cao tốc chạy qua Thanh Hóa, nếu từ Nam ra, Bắc vào trên quốc lộ 1A hoặc tầu hỏa đều phải đi qua dốc Xây. Từ Thanh Hóa đi ra, bên kia dốc Xây là thị xã Tam Điệp của tỉnh Ninh Bình. Dốc Xây nằm trên dãy núi Tam Điệp thuộc lãnh thổ của Thị xã Bỉm Sơn, điểm cực bắc của tỉnh Thanh Hóa.

     Trong “tứ sơn” (Bỉm Sơn, Sầm Sơn, Nghi Sơn và Lam Sơn) của tỉnh Thanh Hóa, thị xã Bỉm Sơn và thị xã Sầm Sơn là hai đứa con sinh đôi. Nói sinh đôi vì cả hai cùng một số quyết định, cùng cấp quyết định và cùng ngày thành lập. Cùng với Thị xã Sầm Sơn, ngày 18 tháng 12 năm 1981, thị xã Bỉm Sơn chính thức ra đời với Quyết định số 157/QĐ/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Thị xã Bỉm Sơn được thành lập trên cơ sở gộp các đơn vị được tách ra khỏi huyện Hà Trung là: thị trấn Bỉm Sơn, thị trấn nông trường Hà Trung, xã Quang Trung và xã Hà Lan.

     Lý do nào để thành lập đô thị Bỉm Sơn tại vùng đất hoang vu nằm ở cực bắc Thanh Hóa, thuộc huyện Hà Trung, nơi núi đồi hoang vắng, dân cư thưa thớt, có tên là Đồng Giao – Quán Cháo, vùng đất từng có trong ca dao: “Ai đi Quán Cháo, Đồng Giao/ Má hồng để lại, xanh xao mang về”? Câu trả lời là: ngày 4 tháng 3 năm 1980, Chính phủ ra Quyết định thành lập nhà máy xi măng Bỉm Sơn, một nhà máy xi măng lớn, với sự giúp đỡ về thiết bị, kỹ thuật của Liên Xô để đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước sau chiến tranh. Việc thành lập thị xã Bỉm Sơn chính là để tạo lập hạ tầng đô thị, môi trường sản xuất kinh doanh, không gian khoa học công nghệ cho nhà máy xi măng có dư địa phát triển. Đồng thời, với sự ra đời của nhà máy xi măng Bỉm  Sơn, các khu nhà ở của công nhân nhà  máy, các khu dân cư di dân cơ  học mọc lên ngày càng nhiều, các hoạt động dịch vụ gắn với nhà máy ngày càng tấp nập đã tạo cơ sở hạ tầng cho đô thị ra đời. Vì vậy, có thể khẳng định, không có nhà máy xi măng Bỉm Sơn sẽ không có thị xã Bỉm Sơn.

     Việc chọn Bỉm Sơn để xây dựng nhà máy xi măng được chuẩn bị rất sớm. Từ những năm 1968 – 1974, các chuyên gia Liên Xô phối hợp với Việt Nam đã tiến hành khảo sát địa chất tại  khu vực Bỉm Sơn, đánh giá trữ lượng , chất lượng đá vôi và vị trí thích hợp để xây dựng nhà máy. Năm 1975 nhà máy xi măng Bỉm Sơn chính thức được khởi công xây dựng để sau 5  năm, vào năm 1980 Chính phủ Quyết định thành lập nhà máy, tạo tiền đề và động lực cho sự ra đời của thị xã Bỉm Sơn.

    Trong sách “Địa chí Thanh Hóa” tập I, phần Địa lý và Lịch  sử có chép: “Theo “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX”, thì cho đến đầu thế kỷ XIX vẫn chưa có tên gọi Bỉm Sơn, chỉ có tên gọi chung là Đồng Giao – Quán Cháo. Các vùng đất thuộc thị xã  Bỉm Sơn ngày nay nằm trong tổng Trung Bạn và Thượng Bạn, huyện Tống Sơn phủ Hà Trung, là vùng đất hoang rậm, không có người ở, chỉ có đường thiên lý độc đạo đi qua, thường được xem là vùng đất dữ: “Cọp Đồng Giao, ma Quán Cháo”. Tên gọi Bỉm Sơn của vùng đất này được đặt từ sau thế kỷ XIX, khi ở đây có đồn lính án ngữ đường thiên lý phía bắc thuộc địa phận Thanh Hóa”.

    Tìm trong sử cũ, địa danh Bỉm Sơn xuất hiện lần đầu tại sách “Đồng Khánh địa dư chí” được biên soạn dưới thời vua Đồng Khánh (1886 – 1888) viết về tỉnh Thanh  Hóa, trong phần phủ Hà Trung, huyện Tống Sơn mục Thành trì, đồn lũy có ghi: “Đồn Bỉm Sơn: ở huyện Tống Sơn”.  Sách “Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa”, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn dưới triều vua Tự Đức, ở mục “Đồn ải và các cửa biển” cũng ghi: “Đồn Bỉm Sơn ở xã Bỉm Sơn thuộc huyện Tống Sơn, nay có lính tập đóng giữ”. Trong bài vè “Nhật trình đường bộ” lưu truyền ở Thanh Hóa từ cuối thế kỷ XIX có câu: “Lắng nghe đồn Bỉm thu không/ Nước Cừ (cầu Cừ) lai láng chảy sông Bình Hòa” thì đồn Bỉm chính là nói về đồn Bỉm Sơn. 

   Là thị xã mới có tuổi đời hơn 40  năm, được tách ra từ huyện Hà Trung, nên đặc điểm tự nhiên của Bỉm Sơn được sử sách xưa nêu đều ở huyện Hà Trung và cũng không  nhiều, nổi bật nhất có núi Tam Điệp và sông Tống Giang.

      Chép về núi Tam Điệp, sách “Đồng Khánh địa dư chí” ghi ngắn gọn: “Núi Tam Điệp: ở phía bắc huyện hạt. Núi từ huyện Thạch Thành chạy đến, các ngọn dựng đứng, trùng điệp liền nhau theo 3 mảng. Mảng thứ nhất từ địa giới tỉnh Thanh Hóa chạy ra bắc, tương đối bằng phẳng. Mảng thứ 2 ở chính giữa, cao nhất. Mảng thứ ba chạy đến địa giới Ninh Bình, hơi thấp và bằng phẳng. Vì thế cho nên có tên gọi là núi Tam Điệp. Mảng thứ hai ở nơi giáp giới 2 tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình, từ đỉnh núi nhìn về phía đông là biển rộng mênh mông, đường thông nam bắc qua đó là chỗ yết hầu. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) vua tuần hạnh phía bắc, có làm bài thơ ngự chế khắc bia và dựng đình bia ở ngọn giữa của núi”.

    Sách “Đại Nam nhất thống chí” trong phần nói về huyện Tống Sơn ghi về núi Tam Điệp: “Ở địa phận tổng Trung Bạn, phía bắc huyện Tống Sơn. Núi bắt đầu nổi từ huyện Thạch Thành chạy lại, cao thấp trùng trùng, nối liền từng ngọn, dọc theo đường trạm, chia làm 3 đợt nối nhau: Đợt thứ nhất ở phía tây bắc Thanh Hóa, thế núi hơi phẳng; đợt thứ nhì một ngọn núi chót vót cao nhất ở giữa là nơi chia địa giới hai tỉnh  Thanh Hóa và Ninh Bình; đợt thứ ba đi tới địa phận Ninh Bình, thế núi đã dần phẳng thấp. Vì thế nên đặt tên là núi Tam Điệp. Đứng trên núi quay về phía đông, ngó ra miền biển, tầm mắt thoáng rộng bao la, thực là một nơi yết hầu (cuống họng) của hai miền Nam Bắc vậy. Gần nơi chót núi, hai bên vách đá cheo leo, giữa có  một lối hẻm, tục truyền là miệng đó của Không Lộ Thiền sư. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), khi ra Bắc tuần có ngự chế bài thơ, cho khắc vào đá và lập nhà dựng lên ở giữa ngọn núi cao. Bài thơ nguyên chữ Hán như sau:

Đương lộ sầm khâm tích thúy nùng

Tầng tầng túng bộ khóa cầu long

Bất vi Vương ốc không lưu kính

Cánh tác La phù thặng biệt tung

Viễn nhạ tương phùng lâm nhất đính

Cao phan điệt xuất thượng trùng phong

Toàn ngoan phân trấn Thanh Ninh cảnh

Khởi phục bản hồi diệu tú chung.

Tạm dịch quốc văn:

Giữa lối xanh om chót vót chồng

Tầng tầng phóng  bước  cưỡi cầu long

Chẳng như Vương ốc chừa nơi tắt

Còn giống La phù biệt lối thông

Đón tiếp thẳm xa xuôi một ngọn

Với vin cao ngất lại bao trùng

Thanh Ninh hai cõi nhờ đây trấn

Linh tú quanh co lượn khắp vùng…”.

     Sông Tống Giang, con sông được nhà Nguyễn dùng để đặt tên cho huyện Tống Giang thuộc phủ Hà Trung xưa, được sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi: “Sông này ở vào địa phận huyện Tống Sơn, bắt nguồn từ khe Thạch Bàn, huyện Phụng Hóa thuộc tỉnh Ninh Bình, chuyển vào huyện Thạch Thành, chuyển xuống cạnh núi Trang Chư huyện Tống Sơn, đi sang qua phía nam cầu Hội Thủy ở xã Quang Lăng, rồi chảy về phía đông đến cửa ải Thanh Đan thì chia làm hai ngả. Một ngả do Nga Cảng chạy sang phía nam đến cửa ải Nga Sơn, họp với sông Nga Giang rót ra cửa bể Bạch Câu và một ngả chảy ra phía đông, tới quãng sông Chính Đại, rồi hợp với hai con sông Trinh Giang và Càn Giang chảy ra ngoài biển cả”.

    Di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng và là điểm đến du lịch hấp dẫn của Bỉm Sơn là đền Sòng Sơn và đền Chín Giếng. Đền Sòng Sơn nằm ngay trên đường thiên lý Bắc – Nam, nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh, một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian người Việt. Đền Sòng Sơn tọa lạc tại làng Cổ Đam, tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung xưa, nay là phường Quang Trung. Theo truyền thuyết, đây là nơi nữ thần Vân Hương tức Liễu Hạnh công chúa hiển thánh sau lần giáng trần thứ ba tại Phố Cát – Thạch Thành. Tương truyền đền Sòng Sơn được nhân dân xây dựng từ thế kỷ XV – XVI làm nơi Thánh Mẫu Liễu Hạnh an ngự lâu dài để bảo vệ con dân. Trong bối cảnh xã hội thời Lê – Trịnh, khi Nho giáo đang thịnh đạt, lo sợ trước sự ngưỡng vọng, sùng bái của dân gian với Thánh Mẫu, để bảo vệ sự độc tôn về tư tưởng,  triều đình đã cho phá đền Sòng Sơn và Phố Cát. Thần tích đã ghi lại cuộc phá đền và bảo vệ nơi thờ tự này thông qua truyền thuyết về đại chiến Sòng Sơn giữa Liễu Hạnh công chúa với Tiền Quan Thánh của triều đình. Tuy nhiên, trước sức sống mãnh liệt của tín ngưỡng dân gian về Thánh Mẫu, vào giữa thế kỷ XVII, nhà Lê – Trịnh đành phải cho xây lại đền Sòng Sơn và đền  Phố Cát, cấp sắc phong thần “Thượng thượng đẳng tối linh tôn thần”, rồi “Mẫu nghi thiên hạ” với quyền uy đứng đầu các Mẫu trong hệ thống thờ các nữ thần của văn hóa dân gian Việt Nam.

      Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo đến nay đền Sòng Sơn trở thành điểm hành hương thăm viếng đông đúc của du khách gần xa. Đền có kiến trúc hình chữ tam, quay về hướng Tây Bắc, bên ngoài là tam quan, bên trong có 3 cung: Cung đệ nhất thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh; cung đệ nhị thờ Ngọc Hoàng vua cha thánh mẫu và ngũ vị vương quan; cung đệ tam thờ các ông hoàng, bà cô, phối thờ Đức Thánh Trần và bà chúa Chín. Phía trước đền có hồ nước hình bán nguyệt, sau đền có suối bao quanh, trên suối có cầu đá bắc qua.

       Mặc dù di tích không có quy mô lớn, lại chịu nhiều thăng trầm của lịch sử nhưng trong tâm thức dân gian, đền Sòng Sơn là nơi thờ Mẫu rất thiêng. Suốt quanh năm đền Sòng Sơn dập dìu du khách và các con nhang đệ tử đến chiêm bái, cúng tế. Đặc biệt vào dịp lễ hội mùa Xuân từ ngày mùng 10 đến 26 tháng 2 âm lịch, người dân khắp miền đất nước đổ về đây đông không kể xiết. Dân gian có câu: “Tháng 6 hội gai, tháng 2 hội mía” là cách nói hoán dụ, thông qua đặc sản đặc trưng của vùng đất để nói về lễ hội đền Hàn và đền Sòng. Lễ hội đền Hàn (Hà Sơn) tổ chức vào tháng 6 có nhiều dứa gai bày bán, còn lễ hội đền Sòng Sơn tổ chức vào tháng 2, bày bán nhiều mía Triệu Tường, loại mía tiến vua, là những món hàng quý nên đi vào tâm thức dân gian thành câu ca dễ nhớ, dễ thuộc. Vì thiêng nên trong dân gian cũng lưu truyền những câu ca: “Nhất vui là hội phủ Dày/ Vui thì vui vậy chẳng tày Sòng Sơn”, “Còn trời, còn nước, còn non/ Còn ngày rước Mẫu ta còn đi xem/ Ai về nhắn chị cùng em/ Rủ nhau dắt díu mà lên đền Sòng/ Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh…”. Năm 1993, đền Sòng Sơn đã được Bộ VHTT công nhận là di tích cấp Quốc gia.

     Đền cô Chín, dân gian gọi là đền Chín Giếng cách đền Sòng Sơn không xa, bên bờ suối Ba Dội. Cô Chín cũng là tiên nữ thuộc hạ của Mẫu Liễu Hạnh đã giáng trần theo Mẫu, được mẫu giao cho cai quản sông suối, cửa rừng vùng phía bắc xứ Thanh. Còn gọi là đền Chín Giếng vì cạnh đền cô Chín có dòng suối, dưới lòng suối có 9 giếng ngầm, mùa mưa sẽ là những vực xoáy nước, mùa khô là những giếng nước tronng vắt. Đền Cô Chín nằm trong không gian núi non, suối thác cảnh quan tươi đẹp dưới chân đèo Ba Dội gắn liền với đền Sòng Sơn, trở thành một quần thể thờ tự thống nhất. Trong lễ hội hàng năm, du khách đi hành lễ sẽ theo lộ trình hành hương từ đền Sòng đến đền Đức Ông và kết thúc ở đền Chín Giếng. Vì gắn bó mật thiết như vậy nên trong cách gọi dân gian thường gắn liền hai di tích này, gọi là đền Sòng –  Chín Giếng. Chính vì thế nhiều người, thậm chí có bài viết đã nhầm đền Sòng và đền Chín Giếng là một di tích.

     Bỉm Sơn gắn liền với địa danh Tam Điệp nổi tiếng trong lịch sử với “nước cờ Tam Điệp” của quân sư Ngô Thì Nhậm và chiến thắng oai hùng của hoàng đế Quang Trung đại phá quân Thanh. Năm 1788, lợi dụng lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống, nhà Thanh kéo 20 vạn quân xâm lược Đại Việt. Theo kế sách của Ngô Thì Nhậm, đại đô đốc Ngô Văn Sở đã lui về lập phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn để bảo toàn lực lượng, cất giấu binh lương, tạo thành lũy ngăn địch để chờ vua Quang Trung ra Bắc. Tam Điệp là vị trí tập kết quân bộ, vụng biển Biện Sơn, nơi có đảo Nghi Sơn, là căn cứ quân thủy. Tam Điệp và Biện Sơn kết hợp thành căn cứ thủy bộ liên hợp thống nhất, ứng cứu lẫn nhau, “tiến dĩ công, thoái dĩ thủ”, vừa phòng ngự vững chắc, vừa có thể triển khai phản công, tấn công đều thuận lợi. Dựa vào vị trí hiểm trở, kín đáo, hai căn cứ tạo thành nơi ém quân bí mật, an toàn, có thể triển khai được nhiều cánh quân thủy bộ tiến đánh ra đồng bằng Bắc Bộ.

     Tam Điệp là đoạn cuối cùng của dãy núi đá vôi từ Hòa Bình kéo ra tận lợi nước biển đông, thế núi trùng trùng, điệp điệp, dáng núi cao vút như thành lũy. Ninh Tốn, viên tướng nhà Lê - Trịnh đã phải thốt lên: “Binh pháp dạy rằng, tranh được núi thì thắng, giữ chỗ hiểm thì vững. Giữa Thanh Hoa Nội (Thanh Hóa) và Thanh Hoa Ngoại (Ninh Bình) có núi Tam Điệp ngăn cách, ấy là chỗ trời đất xây dựng rất hiểm yếu”. Phòng tuyến Tam Điệp là toàn bộ dãy núi đá vôi Tam Điệp kéo dài từ xã Hà Long qua dốc Xây đến các dãy núi cao ngất phía bắc phường Bỉm Sơn hiện nay. Đây là ranh giới tự nhiên hiểm yếu, núi non hiểm trở và như bức tường thành liên tiếp, án ngữ ngăn cách miền Bắc với miền Trung của nước ta. Ngày nay, các di tích gắn liền với chiến thắng đại phá quân Thanh vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789 như Bái Giáo, Bái Gạo là kho vũ khí và kho lương thực của quân Tây Sơn nằm trên đất của phường Quang Trung.

    Nhà máy xi măng Bỉm Sơn chính là trái tim của Bỉm Sơn, được thành lập ngày 4/3/1980, nay được đầu tư, mở rộng và trở thành Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn. Ngày 12/8/1993, Bộ Xây dựng quyết định thành lập Công ty Xi măng Bỉm Sơn trên cơ sở nhà máy xi măng Bỉm Sơn. Đến năm 2006 công ty xi măng Bỉm Sơn chuyển đổi thành công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn. Đến năm 2010 công ty hoàn thành dây chuyền sản xuất xi măng lò quay phương pháp khô theo công nghệ Nhật Bản với công suất 2 triệu tấn sản phẩm/ năm. Từ đơn vị sản xuất xi măng, công ty đã phát triển kinh doanh đa ngành như sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng, các sản phẩm phục vụ xây dựng và công nghiệp, kinh doanh bất động sản, vận tải hàng hóa. Trải qua 45 năm xây dựng và phát triển, công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn đã sản xuất và cung cấp cho đất nước 100 triệu tấn xi măng, đóng góp cho ngân sách nhà nước gần 5.000 tỷ đồng, tạo ra 3.000 tỷ đồng lợi nhuận và hàng tỷ đồng đóng góp cho an sinh xã hội.

   Thị xã Bỉm Sơn phía bắc giáp thị xã Tam Điệp (Ninh Bình), các phía đông, tây và nam giáp với huyện Hà Trung. Trước khi sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, thị xã Bỉm Sơn có 7 xã phường trên diện tích hơn 6.700ha. Thực hiện chủ trương chính quyền địa phương hai cấp, thị xã Bỉm Sơn giải thể và được chia thành 2 phường. Phường Bỉm Sơn được thành lập trên cơ sở sắp xếp nguyên trạng các phường Đông Sơn, Lam Sơn, Ba Đình và nhập thêm xã Hà Vinh của huyện Hà Trung. Phường Quang Trung được thành lập trên cơ sở sắp xếp nguyên trạng các phường Bắc Sơn, Ngọc Trạo, Phú Sơn và xã Quang Trung.

     Đến năm 2025 này nhà máy xi măng Bỉm Sơn, nay là công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn tròn 45 tuổi. Dù không còn thị xã Bỉm Sơn nhưng trái tim của Bỉm Sơn, nhà máy xi măng, vẫn đập ngày đêm để cung cấp vật liệu xây dựng cho đất nước. Cái tên Bỉm Sơn vẫn còn, vẫn là địa danh truyền thống gắn với lịch sử dân tộc và kiêu hãnh nơi địa đầu phía bắc của tỉnh Thanh Hóa.

Ps: Ảnh Tam quan đền Sòng Sơn

       Nhà máy xi măng Bỉm Sơn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét