Đường Xưa Mây Trắng
Tác giả:
Thích Nhất Hạnh
Mục sách
: Văn hóa - Xã hội
Tình
trạng: Hoàn (full)
Từ khóa:
Phật giáo
Đường Xưa Mây Trắng là cuốn sách kể
chuyện đời đức Phật Thích Ca qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất
gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Đó là chú bé cúng dường cỏ bồ đề cho sa
môn Tất Đạt Đa tĩnh tọa suốt 49 ngày trước khi thành đạo.
Tác phẩm là một thiên anh hùng ca tỏ
bày lòng ngưỡng mộ chân thành trước một lối sống gương mẫu đầy những hành vi và
mục đích cao cả, thu hút bạn đọc bởi nhân cách vĩ đại của Buddha qua cái nhìn
và ngòi bút của Thầy Thích Nhất Hạnh.
Đường Xưa Mây Trắng đã bán được hơn 1
triệu bản tại bắc Mỹ và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng; trong đó có tiếng Hindu.
Chính vì thế mà nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi sau khi đọc Đường Xưa Mây
Trắng đã nói với phóng viên tờ Hollywood Reporter: "Tôi tìm được Đường Xưa
Mây Trắng từ hai năm nay, cuốn sách đã thay đổi đời tôi và nay đến lượt tôi
phải chia sẻ hạnh phúc ấy với thế giới ".
Ông đã quyết định tài trợ 120 triệu
USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.
Tỉ phú
Bhupendra Kuman Modi hy vọng bộ phim có thể được chọn chiếu ở Liên hoan phim
Cannes 2008.
Chương 01
ĐI ĐỂ MÀ ĐI
Trong
bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú
ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như
thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng
đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá
nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi
và khỏe mạnh.
Bụt hiện
đang cư trú trong tu viện này cùng với khoảng gần bốn trăm vị khất sĩ học trò
Người. Tu viện đông như thế mà vẫn thanh tinh. Đất của tu viện rộng đến bốn
chục mẫu. Những giống tre trồng ở tu viện đều là những giống tre đẹp khỏe, lấy
từ khắp nơ trong vương quốc Magadha. Tu viện tọa lạc ở phía bắc thành Vương Xá.
Tu viện này do chính vua Bimbisara hiến tặng cho Bụt. và cho giáo đoàn khất sĩ
của Người cách đây bảy năm.
Svastika
mở mắt. Chú mỉm cười. Hai bắp chân chú đã moi. Chú tháo chân ra khỏi tư thế hoa
sen và bắt đầu xoa bóp cho máu chạy đều trong hai chân.
Svastika
năm nay mới hai mươi mốt tuổi. Chú chỉ mới được xuống tóc và thọ giới khất sĩ
cách đây ba hôm. Thầy Sariputta một trong những vi cao đệ của Bụt đã làm lễ
truyền giới cho chú.
Svastika
quê ở Uruvela gần Gaya, chú được làm quen với Bụt ngay từ hồi Bụt chưa thành
đạo, cách đây dúng mười năm. Hồi đó chú mới mười một tuổi. Bụt thương chú lắm,
cách đây nửa tháng, Bụt ghé lại làng Uruvela tìm chú. Bụt đưa chú về đây, và
Bụt đã bảo thầy Sariputta truyền giới khất sĩ cho chú.
Được
chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt, Svastika sung sướng lắm. Chú nghe nói trong
giáo đoàn của Người có rất nhiều vị khất sĩ xuất thân từ giới quyền quý, như
thầy Nanda. Thầy Nanda cũng là hoàng thái tử, em ruột của Bụt.
Lại có
những vị hoàng thân khác như Bhaddiya, Devadatta, Anuruddha và Ananda. Chú chưa
đựơc trực tiếp chắp tay chào hỏi các vị này, tuy chú đã được trông thấy họ. Các
vị này tuy đã đi tu, tuy đã khoác những chiếc áo cà sa bạc màu trên người nhưng
dáng điệu vẫn còn mang tính cách thanh lịch và quý phái. Svastika có cảm tưởng
là còn lâu lắm chú mới làm quen thân được với các vị. Bụt là một vị hoàng tử
con vua thật đấy, nhưng Svastika không còn tìm thấy được sự ngăn cách nào giữa
người và chú. Có lẽ vì chú quen với Bụt lâu rồi và ngày xưa đã từng ngồi với Bụt
hàng giờ hoặc trên bờ sông Neranjara hoặc dưới cột bồ đề im mát. Chú thuộc về
hạng những người cùng đinh, những người thấp kém và nghèo khổ nhất ở xứ chú.
Chú đã làm nghề giữ trâu trên mười năm nay. Trong vòng nửa tháng vừa qua, chú
đã chung đụng với những người tu thuộc giai cấp quý tộc. Những người này đều là
khất sĩ và là học trò của Bụt. Tuy họ rất tử tế với chú, tuy họ đã nhìn chú với
con mắt có cảm tình và nhiều khi đã mỉm cười với chú, nhưng chú vẫn chưa cảm
thấy thật sự thỏai mái với họ. Chắc là tại chú chưa quen. Có lẽ phải sống với
họ trong nhiều tháng nữa chú mới thực sự cảm thấy đây là thế giới của chú.
Nghĩ tới
đây, Svastika lại mỉm cười. Ở đây ngoài Bụt ra, chú còn cảm thấy thoải mới với
một người khác nữa. Đó là chú Rahula, con trai Bụt, Rahula năm nay mười tám
tuổi, Rahula được theo Bụt tám năm rồi và trên đường tu học, Rahula đã bước
được những bước thật dài. Hiện Rahula là bạn thân nhất của chú. Chính Rahula đã
chỉ cho chú phương pháp quán niệm hơi thở.
Rahula
giỏi giáo lý và hành trì hơn chú nhiều nhưng sỡ dĩ Rahula chưa được thọ giứoi
khất sĩ vì tuổi Rahula chưa đến hai mươi. Muốn được thành khất sĩ, muốn được
thọ giới bhikkhu, nghĩa là giới khất sĩ thì ít nhất phải là hai mươi tuổi.
Tháng trước khi Bụt ghé vào làng Uruvela tìm Svastika thì gặp lúc Svastika
không có ở nhà, chú đang chăn trâu ngoài ruộng với đứa em trai tên là Rupka.
Chỉ có hai đứa em giá của chú là ở nhà. Bala là chị Rupka năm nay lên mười sáu,
còm Bhima là đứa em gái út năm nay mười hai tuổi. Bla nhận ra ngay được Bụt. Nó
đòi ra bờ sông tìm anh những Bụt nói là để Bụt tự ý đi tìm. Rồi người rủ Rahula
cùng đi. Hôm ấy đi với Bụt còn có hai mươi mấy vị khất sĩ nữa. Ai cũng theo Bụt
đi ra bờ sông. Quả nhiên khi ra tới bờ sông thì Bụt gặp Svastika. Lúc ấy trời
đã chiều, và Svastika đang cùng Rupka tắm cho đàn trâu. Đàn trâu của Svastika
chăn có tới tám con trâu liứn và một con nghé. Hai anh em Svastika cũng nhận ra
Bụt ngay tức khắc.
Svastika
cùng Rupka vội chạy đến chắp tay búp sen cúi đầu chào Bụt.
- Các
con đã lớn quá, Bụt nhìn hai anh em và mỉm cười một cách thân ái.
Svastika
đứng ngây người ngắm Bụt. Vẫn khuôn mặt trầm tĩnh và hai con mắt sáng ngời ngày
xưa. Vẫn nụ cười bao dung và hiền hậu đó. Vẫn những lọn tóc nhỏ xoắn hình ốc
trên đầu. Bụt khoát một chiếc y màu chàm, do nhiều miếng vải may kết lại. Người
vẫn còn đi chân đất như thuở nào, Svastika đưa mắt nhìn các vị xuất gia đứng
sau lưng Bụt. Chú nhận thấy vị nào cũng đi chân trần như Bụt. Vị nào cũng quấn
y màu chàm. Chú để ý thì thấy y của Bụt dài hơn các vị thầy khác độ một tấc.
Đứng gần Bụt là một thầy rất trẻ, trạc tuổi Svastika. Vị thầy này cứ nhìn chú
mà mỉm cười hoài.
Bụt xoa
đầu Svastika và Rupak. Người bảo người đang trên đường về thành Vương Xá, tiện
đường chiều này ghé lại thăm mấy anh em. Người bảo người sẽ đứng trên bờ sông,
đợi hai anh em xuống tắm trâu cho xong rồi sẽ cùng về nhà.
Trên
đường về làng Bụt giới thiệu chú Rahula với hai anh em. Chú Rahula là vị xuất
gia trẻ tuổi nhát hồi nãy trên bờ sông cứ đứng nhìn hai anh em Svastika mà cười
hoài. Rahula thua Svastika ba tuổi nhưng cũng đã cao bắng Svastika. Rahula chưa
thọ giới khất sĩ, nhưng đã thọ giới xuất gia làm s’ramanera, nghĩa là một vị sa
di. Trông chú không khác gì những vị khất sĩ khác. Rahula đi giữa hai anh em.
Chú trao chiếc bát cho Rupak giữ, và chú đặt tay trên vai hai người một cách
thân ái. Chú đã từng được nghe Bụt nói chuyện về gia đình Svastika rồi, và chú
có rất nhiều cảm tình với gia đình này. Cũng vì vậy nên hai anh em Svastika cảm
nhận ngay được thân tình mà Rahula bộc lộ.
Về tới
nhà, Bụt hỏi Svastika có muốn theo học với Bụt và gia nhập giáo đoàn khất sĩ
không. Đây là một điều mà Svastika mong ước từ lâu. Mười năm trước, Svastika đã
từng tỏ lộ ước mơ ấy với Bụt. Ngày ấy Bụt cũng đã hứa là sau này sẽ thừa nhận
chú làm học trò xuất gia. Và bây giờ đây Người đã trở lại. Người đã không quên
lời hứa. Các em của Svastika đã lớn cả rồi.
Rupak em
trai của Svastika đã có đủ khôn ngoan để một mình chăm sóc bầy trâu. Em gái lớn
của Svastika là Bala cũng có đủ sức để làm một người nội trợ rồi.
Bụt ngồi
ngoài sân, trên một chiếc ghế đẩu nhỏ. Tất cả các vị khất sĩ đều đứng sau lưng
người. Nhà của mấy anh em Svastika là một túp lều lụp xụp, vách đất, làm gì có
đủ chỗ để mời tất cả mọi người vào. Rupak đi lùa trâu về nhà ông chủ trâu cũng
chưa về. Bala nói với Svastika:
- Anh cứ
đi theo Bụt và các thầy đi. Tụi em ở nhà cũng đủ sức lo. Thằng Rupak nó mạnh
lắm, mạnh hơn cả anh hồi xưa. Anh đi chăn trâu nuôi tụi em đã hơn mười năm rồi,
không lý bây giờ tụi em không đủ sức để tự lo cho chính mình sao.
Ngồi bên
lu nước, con Bhima ngửng lên nhìn chị, không nói năng gì, Svastika nhìn no. Con
bé năm nay đã lớn. Hồi Svastika mới được gặp Bụt.
Bhima
còn chưa đầy tuổi thôi nôi. Bala hồi đó mới sáu tuổi, đã phải vừa ẳm em vừa nấu
cơm. Rupak hồi đó mới có ba tuổi, cả ngày vọc đất vọc cát chơi ngoài sân. Cha
chúng vừa mất được sáu tháng thì mẹ chúng cũng bỏ chúng, ngay sau khi sanh em
Bhima. Svastika mười một tuổi mà đã phải làm chủ gia đình. May mắn mà nó được
chăn trâu cho gia đình ông Rambhul trong xóm. Nhờ chăn trâu giỏi cho nên nó
kiếm đủ thức ăn mỗi ngày cho chính nó và cho các em. Nó còn kiếm được cách xin
sữa trâu cho bé Bhima nữa.
Bhima có
khuôn mặt xinh xinh. Thấy anh nhìn mình như có ý dọ hỏi, Bhima mỉm cười. Nó
ngần ngừ một lát rồi nói, giọng nhỏ nhẹ:
Bhima có
khuôn mặt xinh xinh. Thấy anh nhìn mình như có ý dọ hỏi, Bhima mỉm cười. Nó
ngần ngừ một lát rồi nói, giọng nhỏ nhẹ:
- Anh đi
với Bụt đi. Nói xong Bhima quay mặt đi nơi khác, rơm rớm nước mắt. Bhima đã
từng nghe anh nói về dự tính đi theo Bụt để tu học. Nó muốn anh nó được đi,
nhưng nó lại buồn khi biết anh nó sắp đi.
- Vừa
lúc ấy, Rupak về tới. Rupak nghe được câu nói của em. Nó hiểu tất cả.
Nó nhìn
Svastika, và nói:
- Anh cứ
đi với Bụt đi.
Mọi
người im lặng, Rupka nhìn Bụt nói:
- Bụt cho
anh con được đi học với Bụt . Con ở nhà đủ sức lo cho chị và cho em con rồi.
Và quay
sang Svastika, Rupak nháy mắt:
- Nhưng
thỉnh thoảng anh phải xin phép Bụt về thăm tụi em.
Thế là
vấn đề của Svastika được giải quyết. Bụt đứng dậy xoa đầu Bhima và nói:
- Các
con đi ăn cơm và chuẩn bị đi nhé. Sáng mai, ta sẽ trở lại đây đón Svastika cùng
lên đường đi Rajagaha. Bây giờ ta và các thầy khất sĩ sẽ đi về cây Bồ Đề và sẽ
nghỉ đêm trong ấy.
Ra tới
cổng, Bụt quay lại. Người nhìn Svastika và nói:
- Ngày
mai, con không cần đem theo gì hết. Chỉ cần áo mặc trên người thôi, con nhé.
Đêm đó,
bốn anh em thức khuya. Svastika dặn dò các em đủ điều. Svastika ôm từng đứa em
trong vòng tay, thật lâu. Bé Bhima khóc thút thít trong tay anh. Nhưng bé lại
ngửng lên nhìn anh và mỉm cười. Nó không muốn anh nó buồn. Ánh sáng chiếc đền
dầu tuy tù mù nhưng vẫn soi rõ được nụ cười của bé. Tối hôm đó không ai nghĩ
đến chuyện ăn cơm tối cả, dù Bala đã nấu cơm sẵn cho bốn anh em từ hồi xế
chiều.
Sáng
tinh sương hôm sau, khi Svastika vèa dậy thì đã thấy chị Sujata đến thăm. Chị
đến để chào từ giã Svastika, bởi chiều hôm qua trên đường bờ sông chị đã được
gặp Bụt và đã được Bụt báo tin cho biết là Svastika sẽ lên đường theo Bụt Chị
Sujata là con gái của ông hương cả. Chị lớn hơn Svastika hai tuổi, ngày xưa,
chị cũng đã được gặp Bụt hồi người chưa thành đạo, và chị cũng từng giúp mấy
anh em Svastika nhiều lần trong nhưng cơn ốm đau hoạn nạn. Sujata đem đến tặng
Svastika một lọ dầy, nói là để đánh gió những khi bị nhức đầu. Hai chị em mới
nói được vài ba câu chuyện thì Bụt và các thầy tới. Các em của Svastika cũng đã
dậy và sửa soạn để tiễn đưa anh. Chú Rahula đến ân cần hỏi thăm từng đứa em của
Svastika. Chú hứa trong tương lai nếu có dịp đi ngang qua vùng Gaya thế nào chú
cũng sẽ ghé thăm mấy đứa. Chị Sujata và ba đứa em của Svastika đưa Bụt và đoàn
khất sĩ ra tới bờ sông. Đoàn người theo con đường ven sông để đi về phía Đông
Bắc. Bốn chị em chắp tay chào Bụt, chào các thầy, chào chú Rahula và chào
Svastika. Svastika thấy lòng nao nao. Đây là lần đầu tiên chú Svastika rời bỏ
quê hương. Nghe nói phải đi đến mười hôm mới tới được thành Rajagaha. Bụt và
các thầy khất sĩ đi thật khoan thai. Đi như thế này thì lâu đến là phải. Nhưng
Svastika cũn châm bước lại. Bước chân Svastika cũng trở nên khoan thai. Lòng
Svastika bây giờ bình yên hơ. Svastika đã một lòng quay về nương tựa Bụt, nương
tựa Pháp và nương tựa Tăng.
Svastika
đã có đường đi của mình. Chú quay lại nhìn một lần chót. Bóng của chị Sujata và
các em đã khuất sau rừng cây.
Svastika
có cảm tưởng là Bụt đi để mà đi chứ không phải đi để mà tới. Đoàn khất sĩ đi
theo nguời cũng vậy. Không ai tỏ vẻ nóng ruột hoặc hấp tấp muốn cho chóng tới
Rajagaha. Mọi người bước những bước vững chắc, chậm rãi và thanh thản. Đi như
là đi chơi. Không ai tỏ vẽ mỏi mệt. Vậy mà mỗi ngày đoàn người đi được rất xa.
Cứ vào khoảng mười giờ sáng thì đoàn khất sĩ lại ghé vào một thôn xóm bên đường
để khất thực. Họ đi thành một hàng. Bụt đi đầu, tay phải Người nâng bình bát,
Svastika đi chót, ngay sau chú Rahula.
Đoàn
người trang nghiêm vừa đi vừa theo dõi hơi thở, mắt nhìn phía trước.
Thỉnh
thoảng đoàn người dừng lại. Có người trong xóm đem thức ăn ra cúng dường. Họ
đứng nghiên mình đổ thức ăn vào trong bình bát của các vị khất sĩ. Có người quỳ
xuống bên đường để dâng cúng thức ăn. Các vị khất sĩ sau khi nhận thức ăn thầm
lặng hộ niệm cho người thí chủ.
Đoàn
khất sĩ sau khi khất thực, từ từ đi ra khỏi thôn xóm và tìm tới dưới một khu
rừng hay dưỡi một bãi cỏ. Họ ngồi xuống thành vòng tròn và chia xẻ thức ưn đã
xin được cho những chiếc bình bát chưa có gì. Chú Rahula từ bờ sông đi lên mang
theo một bình nước đầy. Chú cung kính mang bình nước tới trước mặt Bụt. Bụt
chắp tai lại thành một búp sen. Chú đổ nước trên tay Bụt để Bụt rửa tay. Rồi
chú đến trước các vị khất sĩ, cung kính đổ nước trên tay từng vị. Sau cùng chú
đến đổ nước cho Svastika rửa tay. Sau đó mọi người chắp tay lại để quán niệm và
chú nguyện. Rồi mọi người nâng bát lên ăn. Bữa ăn trang nghiêm và im lặng.
Svastika chưa có bát. Chú Rahula đã chia thức ăn cho Svastika trên một tàu là
chuối tươi.
Thọ trai
xong, đoàn khất sĩ tìm nơi nghỉ trưa. Có vị tiếp tục đi thiền hành. Có vị ngồi
thiền tọa dưới gốc cây. Khi nắng bắt đầu dịu xuống, mọi người lại lên đường.
Đoàn người đi chó đến khi bóng chiều ngã thì mới tìm nơi tá túc.
Chỏo
nghỉ đêm tốt nhất của họ là một khu rừng thưa. Mọi người đều có mang theo tọa
cụ. Họ ngồi xếp bằng trong tư thế hoa sen để thiền tọa dưới một gốc cây. Có vị
thiền tọa đến quá nửa đêm mói ngả lưng xuống nghỉ trên áo ca sa xếp tư của mình.
Các vị khất sĩ thường mang theo mình một chiếc y khác. Họ dùng y này để đắp khi
trời trở lạnh. Svastika cũng bắt chước mọi người thiền tọa, và chú cũng học
cách ngả lưng ngủ dưới một gốc cây, đầu chú gối trên một chiếc rễ cây.
Buổi
sáng thức dậy, Svastika thấy Bụt đã dậy từ hồi nào và đang an nhiên ngồi tĩnh
tọa. Dáng điệu của người trầm tĩnh và an lạc lạ thường. Nhìn quanh, Svastika
thấy nhiều vị khất sĩ cũng đã dậy và đang thực tập thiền quán. Khi trời đã sáng
rõ, mọi người lại xếp y, cầm bắt và chuẩn bị lên đường.
Ngày đi
đêm nghỉ, như thế được mười hôm thì đoàn người tới thủ đô Vương Xá. Đây là lần
đầu tiên trong đời Svastika thấy nhà cửa phố xá đông đúc như vậy. Xe ngựa rộn
rịp. Tiếng cười tiếng nói vang vang. Tuy nhiên, đoàn khất sĩ vẫn đi khoan thai,
nghiêm chỉnh và tịnh lạc như đi trên một bờ sông hoặc một con đường giữa hai
cánh đồng lúa nơi thôn dã. Nhiều khách bộ hành dừng lại đẻ ngắm đoàn khất sĩ.
Có người nhận ra được Bụt. Họ vội sụp xuống lạy một cách kính cẩn. Đoàn khất ĩ
vẫn an nhiên đi. Rồi đoàn khất sĩ về tới tu viện Trúc Lâm.
Tin Bụt
về tới Trúc Lâm phút chốc đã được truyền đi khắp tu viện. Chỉ trong chốc lát,
gần bốn trăm vị khất sĩ cư trú tại Trúc Lâm đã tề tựu lại tịnh xá của người để
thăm hỏi. Bụt không nói chuyện nhiều, người chỉ hỏi thăm mọi người về hiện
trạng tu học và hành đạo tại Trúc Lâm và tại thành Vương Xá.
Rồi
người giao Svastika cho thầy Sariputta. Thầy Sariputta hiện là vị giáo thọ crua
chú Rahula. Thầy cũng là vị giám viện của tu viện Trúc Lâm. Hiện thầy đáng
hướng dẫn việc tu học cho gần năm trăm vị khất sĩ tân học, nghĩa là những vị
khất sĩ trẻ mới được xuất gia trong vòng vài ba năm. Người đứng đầu tu viện là
đại đức Kondanna.
Chú
Rahula có phận sự chỉ dẫn cho Svastika về thể thức sinh hoạt hằng ngày trong tu
viện: cách đi, cách ngồi, cách đứng, cách chào hỏi, cách htiền hanh, cách thiền
tọa, và cách quán niệm hơi thở. Rahula cũng chỉ cho Svastika cách khoát y, mang
bát, cách khất thực, chú nguyện rửa bát. Nội trong ba hôm, Svastika theo sát
chú Rahula để học tất cả những thứ đó. Rahula chỉ dẫn rất tận tình, nhưng
Svastika biết rằng để có thể làm được những việc này một cách ung dung và tự
nhiên như chú Rahula, chú phải thực tập trong nhiều năm. Cuối cùng thầy Xá Lợi
Phất gọi Svastika vào thảo am riêng của thầy. Thầy bảo Svastika ngồi xuống trên
một chiếc ghế thấp bên cạnh thầy và bắt đầu giảng cho Svastika về giới luật của
người khất sĩ.
Khất sĩ
là người từ bỏ đời sống gia đình, nương vào Bụt như người đưa đường chỉ lối cho
ình trong cuộc đời, nương vào Pháp như con đường đưa tới sự thành tựu đạo
nghiệp giải thoát và nương vào Tăng như đoàn thể của những người cungà đi trên
một con đường chí hướng. Người khất sĩ phải sống đời đạm bạc và khiêm nhượng.
Đi khất thực là để thực hiện tinh thần ấy mà cũng là để có cơ hội tiếp xúc với
dân chúng và hướng dẫn mị ngườivào con đường của hiểu biết và của thương yêu mà
Bụt chỉ dạy.
Mười năm
về trước dưới cây Bồ Đề, Svastika và các bạn đã từng được nghe Bụt nói về đạo
giải thoát như con đường của hiểu biết và thương yêu, nên bây giờ chú hiểu rất
chóng những điều mà thầy Sariputta đang giảng dạy.
Nét mặt
của thầy nghiêm trang, nhưng hai mắt và nụ cười của thầy bộc lộ rất nhiều từ
ái. Thầy nói sáng ngày mai Svastika sẽ được làm lễ thế phát xuất gia để được
gia nhập vào giáo đoàn khất sĩ. Và thầy dạy cho Svastika học thuộ những câu nói
và chú phải nói trong lễ thọ giới.
Trong lễ
thọ giới của Svastika, chính thầy Sariputta là giới sư truyền giới.
Chỉ có
khoảng trên hai mươi vị khất sĩ tham dự. Bụt cũng đến tham dữ lễ truyền giới
này. Rahula cũng có mặt. Svastika rất sung sướng. Thầy Sariputta làm lễ xuống
tóc cho Svastika. Tay cầm dao cạo, thầy im lặng một lát để chú nguyện rồi đưa
dao cạo một vài đường tóc trên đầu Svastika. Sau đó Rahula nhận trách nhiệm
hoàn tất việc cạo đầu cho vị giới tử mới.
Svastika
được thầy Sariputta trao cho ba chiếc y, một chiếc bình bát và một dụng cụ lọc
nước. Đã học cách quấn y với Rahula rồi nên chú mặt y vào người một cách tự
nhiên và mau chóng. Chú sụp lạy trước Bụt và đoàn thể các vị khất sĩ để biểu lộ
niềm quy kính và lòng biết ơn của chú.
Ngay
sáng ngày hôm ấy Svastika được tập sự đi khất thực. Chú đã là một bhikkhu. Quấn
y, mang bát, chú gia nhập vào đoàn của vị y chỉ sư của mình, tức là thầy
Sariputta. Rahula là thị giả của thầy Sariputta nên cũng có trong đoàn của chú.
Mấy trăm vị khất sĩ trong tu viện Trúc Lâm chia nhau thành nhiều đoàn, mỗi đoàn
tìm đi khất thực trong một con đường khác nhau của thành Vương Xá. Hôm ấy Bụt
không đi trong đoàn của Svastika.
Vừa bước
ra khỏi tu viện, Svastika thấy ngay rằng đi hóa trai là một phương thức hành
đạo. Lập tức chú trở về theo dõi hơi thở. Chú bước từng bước đoan nghiêm, đôi
mắt nhìn thẳng về phía trước. Chú Rahula hiện đi ngay phía sau chú. Tuy
Svastika có ý thức rằng mình là một vị khất sĩ thực thụ, chú cũng biết rất rõ
là kinh nghiệm tu học của chú còn kém xa kinh nghiệm tu học của Rahula. Và chú
thường nguyện nuôi dưỡng đức khiêm cung nơi chú
---o0o---
Chương 02
NGHỆ THUẬT CHĂN TRÂU
Hôm nay
trời mát, sau bữa cơ trưa ăn trong quán niệm, các vị khất sĩ lặng lẽ đi rửa bát
của mình và đem trải tọa cụ ngoài trời ngồi quây quần quanh Bụt.
Tu viện
Trúc Lâm có rấ nhiều sóc. Chúng quanh quẩn bên các thầy, không có vẻ gì sợ hãi.
Nhiều con sóc leo lên trên các thân tre, đưa mắt nhìn xuống.
Svastika
đưa mắt tìm Rahula. Chú thấy Rahula ngồi ngay trước mặt Bụt.
Chú rón
rén đến trải tọa cụ bên cạnh Rahula và nghiêm chỉnh ngồi xuống trong tư thế hoa
sen. Không khí thật trang nghiêm. Không ai nói với ai lời nào, nhưng Svastika
biết rằng ai cũng đang theo dõi hơi thở trong khi chờ đợi Bụt mở lời chỉ dạy.
Bụt ngồi
trên một chiếc chõng tre, cao hơn mọi người chừng vai gang tay để mọi người có
thể nhìn thấy. Người ngồi ung dung và uy nghiêm như một con sư tử chúa ngồi
trong bầy sư tử. Người đưa mắt nhìn đại chúng một cách từ hòa. Rồi cái nhìn của
ngươờidừng lại nơi Svastika và Rahula. Bỗng nhiên, Bụt mỉm cười. Người cất
tiếng:
- Hôm
nay tôi muốn nói chuyện với đại chúng về việc chăn trâu, và thế nào là một em
bé chăn trâu giỏi. Một em bé chăn trâu giỏi là một em bé có thể dễ dàng nhận ra
được trâu của mình, biết hình tướng của mỗi con, biết cách cọ xát tắm rửa cho
trâu, biết thương yêu trâu, biết tìm bến tốt để cho trâu qua sông, biết tìm chỗ
có cỏ non và nước uống cho trâu, biết bảo trì những vùng thả trâu và cuối cùng
là biết để cho những con trâu lớn làm gương cho nhưng con trâu nhỏ Ngưng một
lát Bụt tiếp :
- Này
các vị khất sĩ! Một vị khất sĩ giỏi cũng phải làm tương tự như một em bé chăn
trâu. Nếu em bé chăn trâu biết nhận ra được trâu của mình thì người xuất gia
cũng phải biết nhận ra được những yếu tố tạo nên sắc thân của mình. Nếu em bé
chăn trâu biết được hình tướng của mỗi con trâu trong đàn trâu của mình thì
nguời xuất gia cũng phải thấy được những hành động nào của thân của miệng và của
ý là những hành động đáng làm và những hành động nào là những hành động không
đáng làm. Nếu một em bé chăn trâu biết cách cọ xát tắm rửa cho trâu thì người
xuất gia cũng phải biết buông xả và gột rửa khỏi thân tâm những tham dục, si mê
và hờn oán… Trong khi Bụt nói những lời trên, mắt Bụt không rời Svastika,
Svastika có cảm tưởng rằng chú làn nguồn cảm hứng cho những lời mà Bụt đang
nói.
Chú nhớ
rằng ngày xưa chú đã được ngồi bên Bụt hàng giờ, và Bụt đã từng hỏi chuyện chú
một cách tỉ mỉ về công việc chăn trâu và cắt cỏ. Vốn là một vị hoàng thái tử
xuất thân, làm sao Bụt có thể hiểu rõ như thế về nghề chăn trâu, nếu chính chú
đã không kể hết những chuyện đó cho người nghe?
Bụt vẫn
nói. Tiếng nói người vừa rõ vừa trong. Tuy người chỉ nói giọng bình thường,
tiếng của người vẫn vọng ra rành mạch rừng âm, không ai à không nghe thấy:
- Nếu em
bé chăn trâu biết chăm sóc các vết thương của trâu thì người xuất gia cũng phải
biết hộ trì sáu căn của mình là mắt, tai, mũi, lưỡi thân và ý và để cho sáu đối
tượng tức là sáu trần không thể lung lạc được mình. Nếu em bé chăn trâu biết
cách đốt khói un trâu để trâu khỏi bị muỗi đốt thì người xuất gia cũng phải đem
đạo lý giải thoát để dạy cho người chung quanh để họ tránh được những khổ đau
dằn vặt trong thân tâm họ. Nếu em bé chăn trâu biết tìm đường đi an toàn cho
trâu thì người xuất gia cũng phải biết tránh những con đường đưa tới danh lợi,
sắc dục, quán rượu và hý trường.
Nếu em
bé chăn trâu biết thương yêu trâu thì người xuất gia cũng phải biết quý trọng
những niềm an vui do thiền tập đưa tới. Nếu em bé chăn trâu biết tìm bến tốt
cho trâu qua sông thì người xuất gi cũng phải biết nương vào diệu lý bốn sự
thật để biết đến bến bờ. Nếu em bé chăn trâu biết tìm chỗ có cỏ non và nước
uống cho trâu thì người xuất gia cũng phải biết rằng bốn lãnh vực quan niệm là
mảnh đất tốt nhất để làm phát sinh giải thoát. Nếu em bé chăn trâu biết bảo trì
những vùng thả trâu, không tàn hại phá phách môi trường nuôi trâu, thì người
xuất gia cũng phải cẩn thận và dè dặt trong việc tiếp xúc với quần chúng và thu
nhận của cúng dường. Nếu em bé chăn trâu biết dùng những con trâu lớn làm gương
cho những con trâu con thì người xuất gia cũng phải biết nương vào đức hạnh và
kinh nghiệm của các bậc thầy đi trước… Một vị khất sĩ biết làm đúng theo mười
một điều vừa nói thì có thể đạt đến quả vị La hán trong vòng sáu năm tu học.
Vị khất
sĩ trẻ tuổi Svastika lấy làm kỳ lạ. Những điều chú nói với Bụt cách đây mười
năm, Bụt còn nhớ hết. Người đã nhắc lại tất cả những chi tiết, và con đem áp
dụng vào việc tu học của người khất sĩ. Tuy Bụt đang dạy giáo lý chung cho đại
chúng, nhưng chú có cảm tưởng là Bụt đang dạy riêng cho một mình chú. Chú nhìn
đăm đăm vào mặt Bụt, hai mắt không rời khỏi người.
Những
lời Bụt dạy thật hàm súc. Những danh từ như “sáu căn”, “sáu trần”, “bốn sự
thật”, và “bốn lãnh vực quán niệm”… mà Bụt đã xử dụng trong bài pháp thoại,
Svastika chưa hiểu được tường tận. Chú tự bảo là sẽ nhờ chú Rahula giảng giải
cho. Nhưng chú có cảm tưởng là dù sao chú cũng hiểu được khái quát những lời Bụt
dạy. Chú sẽ ôn lại những điều học hôm nay với chú Rahula. Nhưng Bụt đã lại lên
tiếng, Người giải thích thêm về việc chọn con đường an toàn cho trâu đi. Nếu
con đường có quá nhiều gai góc, trâu có thể sẽ bị thương, và những vết thương
có thể làm độc. Nếu em bé chăn trâu không biết cách trị thương cho trâu thì
trâu có thể lên cơn sốt và lăn ra chết. Sự tu học cũng giống như thế. Không tìm
chánh đạo mà đi thì sẽ bị mang thương tích trong thân thể và tâm hồn. Những vết
thương do các độc tố tham sân si làm cho ung thối sẽ có thể làm hư hỏng cả sự
nghiệp giác ngộ
Svastika
có cảm tưởng là Bụt đi để mà đi chứ không phải đi để mà tới. Đoàn khất sĩ đi
theo nguời cũng vậy. Không ai tỏ vẻ nóng ruột hoặc hấp tấp muốn cho chóng tới
Rajagaha. Mọi người bước những bước vững chắc, chậm rãi và thanh thản. Đi như
là đi chơi. Không ai tỏ vẽ mỏi mệt. Vậy mà mỗi ngày đoàn người đi được rất xa.
Cứ vào khoảng mười giờ sáng thì đoàn khất sĩ lại ghé vào một thôn xóm bên đường
để khất thực. Họ đi thành một hàng. Bụt đi đầu, tay phải Người nâng bình bát,
Svastika đi chót, ngay sau chú Rahula.
Đoàn
người trang nghiêm vừa đi vừa theo dõi hơi thở, mắt nhìn phía trước.
Thỉnh
thoảng đoàn người dừng lại. Có người trong xóm đem thức ăn ra cúng dường. Họ
đứng nghiên mình đổ thức ăn vào trong bình bát của các vị khất sĩ. Có người quỳ
xuống bên đường để dâng cúng thức ăn. Các vị khất sĩ sau khi nhận thức ăn thầm
lặng hộ niệm cho người thí chủ.
Đoàn
khất sĩ sau khi khất thực, từ từ đi ra khỏi thôn xóm và tìm tới dưới một khu
rừng hay dưỡi một bãi cỏ. Họ ngồi xuống thành vòng tròn và chia xẻ thức ưn đã
xin được cho những chiếc bình bát chưa có gì. Chú Rahula từ bờ sông đi lên mang
theo một bình nước đầy. Chú cung kính mang bình nước tới trước mặt Bụt. Bụt
chắp tai lại thành một búp sen. Chú đổ nước trên tay Bụt để Bụt rửa tay. Rồi
chú đến trước các vị khất sĩ, cung kính đổ nước trên tay từng vị. Sau cùng chú
đến đổ nước cho Svastika rửa tay. Sau đó mọi người chắp tay lại để quán niệm và
chú nguyện. Rồi mọi người nâng bát lên ăn. Bữa ăn trang nghiêm và im lặng.
Svastika chưa có bát. Chú Rahula đã chia thức ăn cho Svastika trên một tàu là
chuối tươi.
Thọ trai
xong, đoàn khất sĩ tìm nơi nghỉ trưa. Có vị tiếp tục đi thiền hành. Có vị ngồi
thiền tọa dưới gốc cây. Khi nắng bắt đầu dịu xuống, mọi người lại lên đường.
Đoàn người đi chó đến khi bóng chiều ngã thì mới tìm nơi tá túc.
Chỏo
nghỉ đêm tốt nhất của họ là một khu rừng thưa. Mọi người đều có mang theo tọa
cụ. Họ ngồi xếp bằng trong tư thế hoa sen để thiền tọa dưới một gốc cây. Có vị
thiền tọa đến quá nửa đêm mói ngả lưng xuống nghỉ trên áo ca sa xếp tư của
mình. Các vị khất sĩ thường mang theo mình một chiếc y khác. Họ dùng y này để
đắp khi trời trở lạnh. Svastika cũng bắt chước mọi người thiền tọa, và chú cũng
học cách ngả lưng ngủ dưới một gốc cây, đầu chú gối trên một chiếc rễ cây.
Buổi
sáng thức dậy, Svastika thấy Bụt đã dậy từ hồi nào và đang an nhiên ngồi tĩnh
tọa. Dáng điệu của người trầm tĩnh và an lạc lạ thường. Nhìn quanh, Svastika
thấy nhiều vị khất sĩ cũng đã dậy và đang thực tập thiền quán. Khi trời đã sáng
rõ, mọi người lại xếp y, cầm bắt và chuẩn bị lên đường.
Ngày đi
đêm nghỉ, như thế được mười hôm thì đoàn người tới thủ đô Vương Xá. Đây là lần
đầu tiên trong đời Svastika thấy nhà cửa phố xá đông đúc như vậy. Xe ngựa rộn
rịp. Tiếng cười tiếng nói vang vang. Tuy nhiên, đoàn khất sĩ vẫn đi khoan thai,
nghiêm chỉnh và tịnh lạc như đi trên một bờ sông hoặc một con đường giữa hai
cánh đồng lúa nơi thôn dã. Nhiều khách bộ hành dừng lại đẻ ngắm đoàn khất sĩ.
Có người nhận ra được Bụt. Họ vội sụp xuống lạy một cách kính cẩn. Đoàn khất ĩ
vẫn an nhiên đi. Rồi đoàn khất sĩ về tới tu viện Trúc Lâm.
Tin Bụt
về tới Trúc Lâm phút chốc đã được truyền đi khắp tu viện. Chỉ trong chốc lát,
gần bốn trăm vị khất sĩ cư trú tại Trúc Lâm đã tề tựu lại tịnh xá của người để
thăm hỏi. Bụt không nói chuyện nhiều, người chỉ hỏi thăm mọi người về hiện
trạng tu học và hành đạo tại Trúc Lâm và tại thành Vương Xá.
Rồi
người giao Svastika cho thầy Sariputta. Thầy Sariputta hiện là vị giáo thọ crua
chú Rahula. Thầy cũng là vị giám viện của tu viện Trúc Lâm. Hiện thầy đáng
hướng dẫn việc tu học cho gần năm trăm vị khất sĩ tân học, nghĩa là những vị
khất sĩ trẻ mới được xuất gia trong vòng vài ba năm. Người đứng đầu tu viện là
đại đức Kondanna.
Chú
Rahula có phận sự chỉ dẫn cho Svastika về thể thức sinh hoạt hằng ngày trong tu
viện: cách đi, cách ngồi, cách đứng, cách chào hỏi, cách htiền hanh, cách thiền
tọa, và cách quán niệm hơi thở. Rahula cũng chỉ cho Svastika cách khoát y, mang
bát, cách khất thực, chú nguyện rửa bát. Nội trong ba hôm, Svastika theo sát
chú Rahula để học tất cả những thứ đó. Rahula chỉ dẫn rất tận tình, nhưng
Svastika biết rằng để có thể làm được những việc này một cách ung dung và tự
nhiên như chú Rahula, chú phải thực tập trong nhiều năm. Cuối cùng thầy Xá Lợi
Phất gọi Svastika vào thảo am riêng của thầy. Thầy bảo Svastika ngồi xuống trên
một chiếc ghế thấp bên cạnh thầy và bắt đầu giảng cho Svastika về giới luật của
người khất sĩ.
Khất sĩ
là người từ bỏ đời sống gia đình, nương vào Bụt như người đưa đường chỉ lối cho
ình trong cuộc đời, nương vào Pháp như con đường đưa tới sự thành tựu đạo
nghiệp giải thoát và nương vào Tăng như đoàn thể của những người cungà đi trên
một con đường chí hướng. Người khất sĩ phải sống đời đạm bạc và khiêm nhượng. Đi
khất thực là để thực hiện tinh thần ấy mà cũng là để có cơ hội tiếp xúc với dân
chúng và hướng dẫn mị ngườivào con đường của hiểu biết và của thương yêu mà Bụt
chỉ dạy.
Mười năm
về trước dưới cây Bồ Đề, Svastika và các bạn đã từng được nghe Bụt nói về đạo
giải thoát như con đường của hiểu biết và thương yêu, nên bây giờ chú hiểu rất
chóng những điều mà thầy Sariputta đang giảng dạy.
Nét mặt
của thầy nghiêm trang, nhưng hai mắt và nụ cười của thầy bộc lộ rất nhiều từ
ái. Thầy nói sáng ngày mai Svastika sẽ được làm lễ thế phát xuất gia để được
gia nhập vào giáo đoàn khất sĩ. Và thầy dạy cho Svastika học thuộ những câu nói
và chú phải nói trong lễ thọ giới.
Trong lễ
thọ giới của Svastika, chính thầy Sariputta là giới sư truyền giới.
Chỉ có
khoảng trên hai mươi vị khất sĩ tham dự. Bụt cũng đến tham dữ lễ truyền giới
này. Rahula cũng có mặt. Svastika rất sung sướng. Thầy Sariputta làm lễ xuống
tóc cho Svastika. Tay cầm dao cạo, thầy im lặng một lát để chú nguyện rồi đưa
dao cạo một vài đường tóc trên đầu Svastika. Sau đó Rahula nhận trách nhiệm
hoàn tất việc cạo đầu cho vị giới tử mới.
Svastika
được thầy Sariputta trao cho ba chiếc y, một chiếc bình bát và một dụng cụ lọc
nước. Đã học cách quấn y với Rahula rồi nên chú mặt y vào người một cách tự
nhiên và mau chóng. Chu sụp lạy trước Bụt và đoàn thể các vị khất sĩ để biểu lộ
niềm quy kính và lòng biết ơn của chú.
Ngay
sáng ngày hôm ấy Svastika được tập sự đi khất thực. Chú đã là một bhikkhu. Quấn
y, mang bát, chú gia nhập vào đoàn của vị y chỉ sư của mình, tức là thầy
Sariputta. Rahula là thị giả của thầy Sariputta nên cũng có trong đoàn của chú.
Mấy trăm vị khất sĩ trong tu viện Trúc Lâm chia nhau thành nhiều đoàn, mỗi đoàn
tìm đi khất thực trong một con đường khác nhau của thành Vương Xá. Hôm ấy Bụt
không đi trong đoàn của Svastika.
Bụt
ngừng nói. người ra dấu cho Svastika lại gần người. Svastika vâng lời, đến đứng
chấp tay búp sen bên Bụt. Bụt tươi cười giới thiệu chú với đại chúng. Người
nói:
- Mười
năm trước, tôi đã được gặp chú Svastika tại rừng Gaya, trước ngày thành đạo.
Chính chú Svastika đã cho tôi những nắm cỏ Kusa để trải làm tọa cụ mà ngồi dưới
gốc cây Bồ Đề. Hồi đó chú mới mười một tuổi. Những điều mà tôi biết về nghệ
thuật chăn trâu là do chú dạy tôi hồi đó. Tôi biết Svastika là một em bé chăn trâu
giỏi. Và tôi tin tưởng rằng vị khất sĩ Svastika hôm nay cũng sẽ là một vị khất
sĩ giỏi trong ngày mai.
Mọi con
mắt đổ dồn về phía Svastika. Chú biết là hai tai và hai má chú đang đỏ bừng.
Mọi người cháp tay búp sen để chào chú. Chú cúi đầu chắp tay đáp lễ. Bụt kết
thúc buổi pháp thoại bằng cách yêu cầu chú Rahula lặp lại những phép quán niệm
hơi thở. Chú Rahula đứng dậy chắp tay. Chú đọc rành mạch từng phép. Giọng chú
sang sảng như tiếng chuông đồng. Đọc xong, chú lại chắp tay cung kính xá đại
chúng. Bụt đứng dậy. Người trở về am tranh. Đại chúng giải tán. Mọi người thu
xếp tọa cụ và trở về vị trí mình. Tại tu viện Trúc Lâm không phải ai cũng cư
trú trong các tịnh xá. Có nhiều vị khất sĩ ngồi thiền và ngủ ngay dưới các bụi
tre. Chỉ khi nào trời mưa các vị mới xếp tọa cụ và tìm vào ẩn mưa ở các tăng xá
hoặc ở giảng đường.
Svastika
được thầy Sariputta cho phép ở chung một liêu với chú Rahula.
Năm nay
chú Rahula đã chững chạc rồi nên không còn phải ngủ chung một liêu với thầy y
chỉ sư như những năm còn bé. Svastika rất sung sướng được thân cận với Rahula.
Chú thầm cảm ơn vị y chỉ sư. Thầy Sariputta hiểu chú không kém gì Bụt. Hèn gì
ai cũng nói thầy là học trò lớn của người. Chiều nay sau giờ thiền tọa,
Svastika tập đi kinh hành một mình. Chú chọn một con đường vắng trong tu viện
để khỏi phải gặp nhiều người. Trong lúc kinh hành, chhú không được nhất tâm cho
lắm, bởi vì chú đã bắt đầu cảm thấy nhớ nhà và nhớ các em. Hình bóng con đường
làng dẫn ra bờ sông hiện rõ trong trí. Hình bóng của bé Bhima đang cúi mặt
xuống gần như khóc. Hình bóng của thằng Rupak một mình chăm sóc đàn trâu đông
đảo của ông Rambhul. Chú cố xua đuổi những hình ảnh ấy đi để chú tâm vào bước
chân và hơi thở, nhưng thỉnh thoảng các hình bóng ấy lại lảng vảng về. Chú hơi
giạn chú là đã không hết lòng tu học đã không xứng đáng với lòng tin cậy của
Bụt. Chú định bụng sau giờ thiền hành sẽ đi tìm chú Rahula để hỏi thêm về
phương pháp nhiếp tâm. Với lại còn có mấy điều Bụt dạy hồi trưa mà chú ghi nhận
chưa được kỹ càng. Rahula chắc chắn là có thể giúp chú. Nghĩ đến Rahula, chú
thấy vững tâm hơn và tự nhiên tâm trí chú trở nên định tĩnh. Giờ đây chú có thể
tập trung được tâm ý vào hơi thở và bước chân một cách dễ dàng hơn trong việc
thực tập thiền hành.
Svastika
chưa kịp đi tìm Rahula thì Rahula đã tìm đến chú, Rahula kéo chú ngồi xuống bên
một gốc tre.
- Hồi xế
trưa tôi có gặp thầy Ananda. Thầy đã được nghe Bụt giới thiệu về chú và thầy
muốn gặp chú để được nghe chú kể chuyện ngày xưa, hồi chú còn bé và chú đã được
gặp Bụt như thế nào.
- Thầy Ananda
là ai vậy hả chú?
- Thầy
là một vị vương tử dòng học Sakya, và là em chú bác của Bụt. Thầy xuất gia bảy
năm nay. Thầy học giỏi lắm và rất được Bụt thương. Thầy thường để tâm săn sóc
đến sức khỏe của Bụt, thầy mời anh em mình chiều mai đến thảo am của thầy đàm
đạo. Tôi cũng rất muốn được nghe chú kể chuyện Bụt hồi người còn tu ở rừng
Gaya.
- Thế
Bụt chưa kể cho chú nghe sao?
- Có
chứ, nhưng người chỉ kể sơ lược thôi. Tôi tin chắc là chú có rất nhiều chuyện
hay để kể lại.
- Chuyện
thì cũng không có gì nhiều đâu, nhưng nhớ được điều gì tôi sẽ kể lại điều ấy.
Này chú, thầy Ananda có dễ thương không? Tôi ngại quá.
- Dễ
thương lắm, và hiền lắm. Tôi đã có nói sơ lược về chú và về gia đình chú cho
thầy ấy nghe, thấy ấy tỏ vẻ ưa thích lắm. Thôi nhé, chúng ta sẽ gặp lại nhau
ngày mai vào giờ đi khất thực. Tôi sẽ đi giặt y cho kịp khô.
Rahula
đứng dậy, Svastika kéo áo bạn:
- Chú
ngồi chơi thêm chút nữa, tôi có mấy điều muốn hỏi chú. Hồi sáng Bụt dạy râấtrõ
về mười một điều mà một vị khất sĩ cần phải làm theo. Tôi đã không ghi nhớ hết
mười một điều. Vậy nhờ chú chỉ bảo lại tôi.
- Hồi
chiều tôi cũng có nhẩm lại mười một điều ấy nhưng tôi cũng chỉ nhớ được có chín
điều. Thôi thế này nhé, ngày mai gặp thầy Ananda chúng ta sẽ nhờ thầy nhắc lại.
- Có
chắc thầy Ananda nhớ được hết không?
- Chắc
chứ! Ai chứ thầy Ananda thì một trăm mười một điều thầy cũng nhớ được chứ đừng
nói mười một điều. Chú mới tới thành ra không biết thầy Ananda đấy thôi. Thầy
có một trí nhớ kinh khiếp lắm; ở đây không có người nào là không phục. Những
điều Bụt nói, thầy ấy có thể trùng tuyên lại vanh vách không sót một chi tiết
nào. Ai cũng xưng tụng thầy là “đệ nhất đa văn” đấy. hễ ai quên một điều gì Bụt
đã dạy thì người ấy lại tìm đến thầy Ananda.
Ở đây
lâu lâu đại chúng lại tổ chức một buổi học ôn lại và mời thầy trùng tuyên lại
những bài dạy căn bản của Bụt.
- Vậy
thì chúng ta may mắn quá. Chúng ta đời đến chiều mai vậy. À mà quên, tôi lại
định hỏi chú: làm thế nào để nhiếp tâm trong khi đi kinh hành?
- Chú
muốn nói là khi đi kinh hành chú cứ nghĩ đến những chuyện khác phải không? Hẳn
là chú nhớ tới các em chú ở nhà?
Svastika
nắm tay bạn:
- Sao
chú thông minh quá! Quả thật tôi có nghĩ đến các em ở nhà. Chiều hôm nay sao
tôi thấy nhớ nhà thế. Tôi rất hối hận đã không nhất tâm với việc tu học. Tôi
cảm thấy xấu hổ với Bụt và với chú lắm. Rahula cười:
- Chú
đừng cảm thấy xấu hổ. Hồi tôi mới đi theo Bụt tôi cũng nhớ mẹ, ông nội và bà dì
của tôi lắm. Có nhiều đêm tôi nằm úp mặt vào vách mà khóc một mình. Tôi biết mẹ
tôi, ông nội và bà dì tôi cũng nhớ tôi lắm. Nhưng mà lâu ngày thì quen đi.
Rahula
kéo Svastika đứng dậy. Chú ôm ngang hông Svastika một cách thân ái:
- Các em
chú dễ thương lắm. Chú nhớ nhà là phải. Nhưng rồi chú cũng sẽ quen đi như tôi.
Ở đây chúng ta có nhiều chuyện phải làm lắm. Phải tu và phải học. Có dịp tôi sẽ
kể chuyện mẹ tôi, ông nội tôi và bà dì cho chú nghe.
Chú có
muốn nghe không?
Svastika
nắm chặt bàn tay của Rahula trong hai tay mình. Chú gật đầu. Hai bạn chia tay.
Rahula đi giặc y. Svastika đi tìm chổi quét lá tre xung quanh các tịnh xá và
gom lá tre lại thành từng đống
---o0o---
Chương 03
MỚ CỎ KUSA
Tối hôm
đó trước khi đi ngủ, Svastika ngồi trước gốc tre ôn lại những gì đã xảy ra
trong thời gian mấy tháng được gặp Bụt trong rừng để chiều mai kể lại cho thầy
Ananda và chú Rahula nghe. Chú có cảm tưởng chú không có chuyện gì nhiều để kể.
Hồi đó chú mười một tuổi. Mẹ chú vừa mất, chú phải chăm sóc ba đứa em. Em gái
út của chú là bé Bhima chỉ đựơc có mấy tháng, Bhima không có sữa uống. Hồi đó
Svastika đã được ông Rambhul trong xóm giao cho công việc chăn trâu. Hồi đó đàn
trâu chỉ có bốn con và một con trâu nghé. Mỗi ngày Svastika đã lén vắt sữa trâu
cho em uống. Nó chăm sóc bầy trâu rất cẩn thận vì biết rằng nếu nó không được
giữ trâu cho ông Rambhul thì các em nó sẽ đói. Từ ngày ba nó mất, căn nhà chưa
lợp lại lần nào. Mái tranh đã nát, hễ trời mưa lớn là nhà dột, và thằng Rupka
phải đi lấy mấy cái chậu sành đã mẻ ngoài hiên vào để hứng nước dột. Bé Bala
mới có sáu tuổi mà đã phải học nấu cơm, ẵm em và đi nhặt củi ngoài rừng. Có khi
nó phải ẵm em ra rừng, để vừa giữ em vừa nhặt củi. Còn nhỏ tuổi nhưng bé Bala
đã biết nhồi bột làm bánh Chappati cho cả nhà. Mấy anh em ít khi có đủ tiền để
mua bột cà – ri. Có khi lùa trâu về chuồng, đi ngang qua nhà bếp ông Rambhul
nghe mùi cà ri bốc lên thơm lừng, Svastika chảy cả nước miếng. Từ ngỳa ba chúng
nó mất ít có khi nào chúng nó được ăn bánh chappati cuốn hoặc chấm trong nước
ca ri nấu thịt đâu. Áo quàn của đứa nào cũng tơi tả. Svastika chỉ vận có một
cái xà rông khi đi chăn trâu. Hôm nào trời lạnh lắm nó mới quấn thêm tam vải
màu nâu lên người. Tấm vải đã bạc màu và mốc thếch nhưng nó quý lắm, Svastika
phải tìm những nơi có đủ cỏ cho trâu ăn. Nó biết hễ trâu tới nhà mà bụng còn
lép là nó sẽ bị ông Ramhul đánh mắng. Một buổi ciều lùa trâu về, Svastika phải
gánh theo một gánh cỏ tươi để cho trâu ăn. Đàn trâu ăn cỏ suốt đêm. Vào những
hôm có nhiều muỗi, Svastika còn phải đốt lửa in khói để đuổi muỗi cho trâu
trước khi ra về. Ông Rambhul trả lương cho nó bằng bạo, bột mì và muối, cứ ba
hôm một lần. Có hôm đi chăn trâu về, Svastika đem đươc về cho Bala vài ba con
cá mà nó câu được ở bờ rông Neranjara.
Một buổi
chều sau khi đã tắm xong cho trâu và đã cắt cỏ được đầy gánh, Svastika định vào
rừng ngồi chơi một lát trước khi lùa trâu về chuồng. Để bầy trâu ăn ở cửa rừng.
Svastika đi tìm một gốc cây để ngồi tựa lưng. Bỗng dưng nó thấy một người đang
ngồi yên lặng dưới gốc một cây pippala thật lớn về phía trước, cách nó chừng
hai chục sải tay. Svastika ngạc nhiên đứng lại nhìn. Nó chưa bao giờ thấy có ai
ngồi đẹp như vậy. Người ấy ngồi lưng rất thẳng, chân xếp tréo vào nhau, dáng
vững chải và hùng mạnh. Mắt người ấy như là đang nhắm lại, và hai tay người ấy
đang vào nhau đặt thoải mái phía giữa. Người ấy ăn mặc rất giản dị: một tấm vải
màu vàng nhạt một đầu quấn phía dưới và một đầu phủ lên vai. Toàn thân người ấy
tỏa chiếu một cái gì vừa thanh thoát, vừa trầm hùng và vừa an bình. Chỉ cần
nhìn người ấy người ta cũng đã cảm thấy khỏe khoắn trong mình. Tự nhiên
Svastika cảm thấy một thứ tình cảm nẩy sinh trong nó và làm rung động trái tim
nó. Nó không hiểu tại sao nó có cảm tình ngay với một người khi mà nó cũng chưa
biết người đó là ai. Nó đứng trân trân nhìn ngắm người ấy một hồi lâu, không
dám cử động.
Một lát
sau người ấy mở mắt. Nhưng người ấy vẫn không trông thấy Svastika. Người ấy dao
động thân thể, rồi tháo chân ra để xoa bóp. Rồi người ấy từ từ đứng dậy và bắt
đầu đi từng bước chầm chầm. Vì đi về phía bên kia cho nên người ấy vẫn chưa
thấy được em bé chăn trâu. Svastika vẫn đứng lặng yên nhìn người ấy đi những
bước chân vững chãi, trầm lặng và nhẹ nhàng trên lối mòn của khu rừng. Đi được
bảy tám bước người ấy quay trở lại, và người ấy nhận ra sự có mặt của Svastika.
Thấy em
bé, người ấy mỉm cười. Nụ cười thật hiền hậu và bao dung. Chưa bao giờ Svastika
thấy ai cười với mình như thế. Như bị một sức hút lôi kéo, Svastika chạy về
phía người ấy. Nhưng khi còn cách người ấy chừng bốn bước, Svastika ngừng lại.
Nó nhớ là nó không được quyền đụng chạm vào những người thuộc giai cấp trên.
Svastika
thuộc về giới ngoại cấp, nghĩa là không thuộc giai cấp nào trong bốn giai cấp
của xã hội cả. Nó đã từng nghe ba nó nói rằng giai cấp Bà la môn (brahmana) là
giai cấp cao quý nhất trong xã hội. Những người trong giai cấp này phần lớn là
những giáo sĩ thông hiểu kinh Vệ Đà biết đọc kinh, biết cúng tế, có thể tiếp
xúcvới thần linh. Khi Phạm Thiên tạo ra loài người thì Bà la môn được sinh ra
từ miệng Ngài. Những người thuộc giai cấp Sát đế lợi (Ksatriya) là những người
có quyền bính chính trị và quân sự, họ đã được sinh ra từ hai tay của Phạm
Thiên. Những người thuộc giai cấp Phệ xà (Vaisya) là những người trong giới
buôn bán, trồng tỉa, chăn nuôi và tiểu công nghệ, họ đã được sinh ra từ bắp đùi
của Phạm Thiên. Còn những người thuộc giai cấp Thủ đà (sudra) là những người đã
sinh ra từ hai bàn chân của Phạm Thiên. Họ thuộc về giai cấp nghèo nhất, phải
làm những nghề cực nhọc mà người trong ba giai cấp trên không làm. Giai cấp ấy
là giai cấp thấp nhất rồi mà gia đình Svastika lại thuộc vào một tình trạng
thấp kém hơn nữa.
Gia đình
Svastika ở vào hạng ngoại cấp, nghĩa là không thuộc vào giai cấp nào cả. Nhưng
người như Svastika phải làm nhà ở một khu riêng biệt bên ngoài làng. Nghề
nghiệp của họ chỉ là những nghề nghiệp thấp kém như đổ phân, đắp đường, nuôi
heo, giữ trâu, cày ruộng. Ai sinh ra ở giai cấp nào thì phải chấp nhận hoàn
cảnh của mình. Thần linh đã dạy như vạy và kinh điển cũng dạy như vậy.
Những
người thuộc giới ngoại cấp như Svastika mà nếu lỡ lầm đụng phải một người thuộc
giai cấp cao thì có thể bị trừng phạt nặng. Trong làng Uruvela đã có người bị
đánh bầm tím thân thể vì đã lỡ tay đụng nhầm một người Bà la môn. Lỡ tay đụng
phải một người Bà la môn hay một người Sác đế lợi tức là làm ô nhiễm người ấy,
và người ấy phải về ăn chay, nằm đất và sám hối nhiều tuần lễ mới được trong
sạch trở lại. Mỗi khi lùa trâu về chuồng, Svastika phải cẩn thận lắm. Nó không
bao giờ dám tới gần một người nào trong cái xã hội caô quý, dù trên đường đi
hay là trong sân nhà ông Rambhul. Nhiều lúc Svastika thấy con trâu còn có may
mắn hơn mình.
Một
người Bà la môn có thể đụng tới con trâu mà không bị ô uế, nhưng nếu người ấy
đụng nhầm Svastika là ong ta phải về sám hối cả hai ba tuần lễ. Dù mình không
đụng người ta mà người ta đụng nhầm minh thì mình cũng có thể bị đánh đập tàn
nhẫn.
Hiện
đứng trước Svastika là một người thật dễ thương nhưng theo kiểu cách của người
đó thì chắc chắn ông ta không phải là người cùng đẳng cấp với Svastika rồi. Nụ
cười ông ấy hiền hậu như thế và cái nhìn của người ấy bao dung như thế thì chắc
hẳn người ấy sẽ chẳng nở đánh đập Svastika đâu, dù Svastika có lỡ đụng nhầm.
Nhưng Svastika nghĩ rằng nếu lỡ đụng nhầm người ấy thì sẽ làm người ấy ô nhiễm,
tội nghiệp. Cho nên nó vội ngừng lại khi khoảng cách giữa hai người chỉ còn ba
bước. Thấy Svastika không bước tới, người ấy lại bước gần Svastika. Svastika tự
khắc lui một bước, để tránh sự đụng chạm. Nhưng người ấy nhanh nhẹn lắm. Chỉ
trong một chớp mắt ông ta đã tóm được Svastika. Tay trái người ấy ôm ngang vai
Svastika còn tay phải người ấy xoa lên đầu nó. Svastika đứng yên, ngoài má nó,
chưa có ai xoa đầu nó một cách âu yếm như thế bao giờ. Tuy nhiên nó vẫn còn sợ
- Em đừng sợ người ấy nói, giọng nhỏ nhẹ và thân mật.
Svastika
rất yên tâm khi nghe người ấy nói. Nó ngửng đầu lên thì lại gặp cái nhìn bao dung
và nụ cười hiền hậu của người ấy. Ngập ngừng một lát nó nói:
- Chú dễ
thương lắm Người ấy lấy tay nâng cằm nó lên và nhìn vào mắt nó:
- Em
cũng dễ thương lắm. Nhà em ở gần đây phải không?
Svastika
không trả lời. Nó nắm lấy bàn tay trái của người đó trong hai bàn tay của nó.
Nó hỏi cái câu hỏi đang nằm trong đầu nó:
- Con
nắm tay chú như thế này thì chú bị ô nhiễm rồi phải không?
Người ấy
cười và lắc đầu:
- Không
đâu, em. Em là con người, tôi cũng là con người. Em không làm ô nhiễm tôi đâu.
Đừng có nghe lời người ta nói.
Người ấy
cầm tay Svastika đi ra phía cửa rừng. Đàn trâu của Svastika còn đó. Gánh ỏ tươi
của Svastika cũng còn đó. Người ấy nhìn Svastika hỏi:
- Em
chăn những con trâu này phải không? Và đây là gánh cỏ mà em đã cắt cho trâu ăn,
phải không? Em tên là gì? Nhà ở gần đây không?
Svastika
lễ phép thưa:
- Dạ đây
là trâu của con chăn. Bốn con này và con nghé này nữa. Đây là cỏ của con mới
cắt. Con tên là Svastika. Nhà con bên kia sông, ở cuối làng Uruvela. Thưa chú,
còn chú tên gì, và nhà chú ở đâu, chú nói cho con nghe được không?
Người ấy
ôn tồn đáp:
- Được
chứ. Chú tên là Siddhatta. Nhà chú ở xa lắm. Hiện giờ chú ở tạm trong rừng này.
- Chú là
sa môn, phải không?
Người ấy
gật đầu. Svastika biết rằng sa môn là những người tu, thường hay cư trú trong
núi.
Hai
người mới quen nhau, mới trao đổi với nhau có vài câu chuyện mà Svastika đã có
cảm tưởng là mình đã rất thân với người bạn mới này.
Trong
làng Uruvela, nó chưa thấy có ai đối xử với nó một cách thân ái như thế hay nói
chuyện với nó một cách ôn tồn như thế. Nó cảm thấy một niềm hạnh phúc dâng lên
trong lòng. Nó muốn bày tỏ nỗi hân hoan của nó. Nó nghĩ giá nó có một cái gì để
làm quà tặng cho người này thì hay biết bao.
Trong
túi nó không có một đồng tiền, cũng không có một cục đường phèn, biết lấy gì
làm quà tặng. Nhưng Svastika có can đảm nói ra những gì mình đang nghĩ.
- Thưa
chú, con muốn tặng chú một món quà, nhưng con không có gì trong người con hết.
Siddhatta
nhìn Svastika rồi mỉm cười nói:
- Có
chứ, em có một thứ mà nếu em làm quà cho tôi thì tôi thích lắm.
Svastika
ngơ ngác:
- Con có
gì đâu?
Siddhatta
chỉ gánh cỏ:
- Cỏ của
em cắt cho trâu ăn mềm và thơm lắm. Nếu em cho tôi vài nắm để tôi trải dưới gốc
cây làm nệm ngồi thì tôi sẽ sung sướng biết bao.
Mắt
Svastika sáng lên. Nó chạy tới gánh cỏ, cúi xuống ôm lấy một ôm đầy trong hai
vòng tay nhỏ. Rồi nó trử về dâng ôm cỏ cho Siddhatta:
- Cỏ
Kusa này con mới cắt bên bờ sông. Con xin biếu chú. Lát nữa con sẽ ra bờ sông
cắt thêm cho đầy gánh.
Siddhatta
chắp tay cung kính nhận bó cỏ từ tay em bé. Ông nói:
- Em rất
dễ thương, tôi cám ơn em. Thôi bây giờ em ra bờ sông cắt cỏ thêm cho đầy gánh
đi, rồi về kẻo muộn. Chiều mai nếu có dịp em ghé vào rừng thăm tôi nhé.
Bé
Svastika cúi đầu chào. Nó đứng đợi cho Siddhatta ôm bó cỏ đi khuất vào rừng rồi
mới tới gỡ lưỡi liềm gài trên chiếc đòn xóc đặt nghiêng trên gánh xỏ và bước ra
phía bờ sông.
Nó thấy
ấm áp trong lòng. Trời đầu mùa Hạ, cỏ Kusa còn non và lưỡi liềm của Svastika
còn sắt nên cắt rất ngọt. Chẳng mấy chốc mà Svastika đã cắt được đầy một ôm
lớn.
Svastika lùa trâu về. Sông Neranjara có một khúc rất cạn gần
đó, Svastika cho trâu lội qua khúc ấy. Con nghé con còn lưu luyến đám cỏ non
bên bờ sông, Svastika phải tới lùa nó chạy theo đàn trâu. Gánh cỏ trên vai
không có gì là nặng, Svastika lội qua sông cùng một lượt với bầy trâu ---o0o---
Chương 04
CHIM THIÊN NGA TRÚNG TÊN
Ngày hôm
sau, Svastika thả trâu bên bờ sông và bắt đầu cắt cỏ ngay từ buổi sáng. Đến
trưa nó đã cắt cỏ xong và nhét đầy cứng hai cái giỏ. Để gánh cỏ bên này sông,
Svastika lùa trâu sang bên kia sông. Bên kia sông chỉ có rừng mà không có ruộng
lúa, thành ra Svastika thường cho trâu ăn bên ấy để có chút thì giờ ngả lưng
trên đám cỏ non bên bờ sông gió mát. Nó chỉ đem theo chiếc liềm. Chiếc liềm đối
với nó rất quý giá vì đó là phương tiện sinh sống của nó. Qua bên kia sông,
Svastika dở nắm cơm mà Bala đã gói cho nó từ hồi sáng trong một tờ lá chuối.
Vừa định bốc cơm ăn thì nó nhớ đến vị sa môn trong rừng. Nó nhớ đến Siddhatta.
“Mình có thể đem cơm này chia xẻ với người ấy. Người ấy chắc là sẽ không chê
cơm của mình là hèn mọn đâu”. Nghĩ như thế, Svastika gói nắm cơm trở lại. Nó
lùa đàn trâu về ăn phía cửa rừng. Rồi nó theo lối cũ, tìm về chốn gặp gỡ chiều
qua.
Từ xa,
nó đã thấy dáng của Siddhatt, ngồi dưới gốc cây đại thọ pippala.
Nhưng
Siddhatta không ngồi một mình. Trước mặt Siddhatta còn có một người khác. Đó là
một cô bé trạc tuổi Svastika, ăn mặc rất tươm tất. Cô bé vận sari màu trắng
đang ngồi nhìn Svastika ăn cơm. Svastika dừng lại.
Nhưng
Svastika đã ngửng lên, và đã trông thấy Svastika.
-
Svastika!
Người ấy
vừa gọi vừa đưa tay vẫy ra hiệu cho nó lại gần. Cô bé cũng nhìn ra. Svastika
nhận ra cô vé này. Nó chưa biết tên cô bé nhưng đã gặp cô bé một vài lần trên
đường làng. Svastika bước tới gần. Cô bé ngồi xích ra một bên. Siddhatta chỉ
một chỗ ngồi trước mặt và ra hiệu cho Svastika ngồi xuống. Trước mặt Siddhatta,
có một mảnh lá chuối tươi. Trên mảnh lá chuối là một nắm cơm và một ít muối mè.
Siddhattachỉ mới bẻ nắm cơm ra làm hai chứ chưa bắt đầu ăn.
- Em ăn
cơm chưa? Siddhatta nhìn Svastika.
- Thưa
chú con chưa ăn.
- Vậy
chúng ta cùng ăn cơm với nhau cho vui được không?
Nói xong
Siddhatta trao cho Svastika một nắm cơm. Svastika cung kính chắp tay nhưng
không nhận. Nó đưa nắm cơm của nó ra:
- Con cũng
có đem cơm theo đây.
Rồi nó
mở gói cơm. Cơm của Svastika là cơm gạo đỏ không trắng trẻo như cơm của
Siddhatta. Với lại nó không có muối mè. Nó chỉ vài hạt muối trắng.
Siddhatta
mỉm cười nhìn hai đứa trẻ:
- Vậy
chúng ta gom lại và cùng ăn chung được không? Nói xong Siddhatta lấy một nửa
nắm cơm hẳm của Svastika và ăn ngon lành. Svastika hơi bỡ ngỡ; nhưng thấy
Siddhatta ăn cơm rất tự nhiên nó cũng đưa cơm lên ăn.
- Cơm
của chú dẻo, mềm và thơm lắm, nó nói.
- Đó là
cơm của Sujata đem cho, Siddhatta vừa nói vừa nhìn cô bé.
À thì ra
cô bé này tên Sujata. Svastika nhìn kỹ lại. Cô bé này lớn hơn mình, có lẽ lớn
hơn một hoặc hai tuổi. Hai mắt cô ta to đen lay láy. Svastika ngừng nhai, nói:
- Em có
gặp chị mọt vài lần trên đường làng. Em không biết chị tên Sujata.
Sujata
nói:
- Chị là
con gái ông hương cả lầng Uruvela. Còn em, có phải em là Svastika không? Thầy
Siddhatta vừa kể chuyện em cho chị nghe xong. Này Svastika, em đừng kêu thầy
Siddhatta là “chú” nữa. Thầy là sa môn mà, mình kêu thầy bằng thầy thì đúng
hơn.
- Dạ.
Siddhatta
ngừng nhai nhìn hai đứa trẻ mỉm cười.
- Như
vậy là ta khỏi giới thiệu hai con với nhau. Này các con, thầy thường ăn cơm
trong im lặng. Những hạt cơm và những hạt mè mà các con đem đến quý giá v cùng.
Ta muốn ăn cơm im lặng để thấy được giá trị của những hạt ấy Sujata, chắc con
ít có dịp được ăn cơm gạo đỏ. Có thể là con đã ăn cơm rồi, nhưng con nên ăn một
miếng cơm gạo đỏ của Svastika đem đến. Ngon lắm đó con. Bây giờ chúng ta nên im
lặng mà ăn. Xong bữa cơm thầy sẽ nói chuyện cho hai con nghe.
Siddhatta
bẻ một miếng cơm từ nắm cơm của Svastika và trao cho Sujata.
Cô bé
chắp tay thành búp sen, kính cẩn nhận lấy. Ba người lặng lẽ ngồi ăn cơm trong
cảnh rừng trưa u tịch.
Sau khi
cơm và muối mè đã hết, Sujata thu lượm các mảnh lá chuối lại. Cô lấy bình nước
trong để bên cạnh, rót vào một cái bát bằng đá duy nhất mà cô đem theo và dâng
lên. Siddhatta tiếp nhận bát nước và trịnh trọng đưa mời Svastika. Svastika vội
nói:
- Con
xin mời chú, à quên… mời thầy uống trước.
Siddhatta
nhìn nó, ôn tồn nói:
- Con
uống trước. Thầy muốn con uống trước. Và ông nâng bát lên bằng cả hai tay.
Svastika
hơi luống cuống nhưng không còn cách nào từ chối. Nó chắp tay lại, đón lấy bát
nước và đưa lên uống một mạch cạn chén, rồi trao bát lại cho Siddhatta, cũng
bằng hai tay. Siddhatta chìa bát ra để Sujata rót bát thứ hai.
Khi bát
nước đã đầy ông nâng lên với dáng điệu cung kính và thong thả uống từng ngụm
nhỏ. Uống xon bát nước, Siddhatta lại chìa bát ra để Sujata rót cho bát thứ ba.
Bát này Siddhatta đưa lên mời Sujata. Sujata đặt bình nước xuống trước mặt. Cô
chắp hai tay và nhận lấy bát nước. Hồi nãy đến giờ mắt Sujata không ngừng quan
sát hai người. Bây giờ cô mới nâng bát nước lên và uống từng ngụm nhỏ giống như
Siddhatta vừa uống. Sujata ý thức rằng đây là lần đầu tiên cô đã uống nước từ
một cái bát mà một người thuộc hạng ngoại cấp đã uống. Siddhatta là thầy mình.
Ông đã uống thì tại sao mình lại không uống? Tuy nhiên, cô bé không hề có cảm
tưởng mình bị ô nhiễm. Bất giác cô đưa tay trái của cô ra, và sờ vào đầu tóc
của cậu bé chăn trâu ngồi bên cạnh.
Cử chỉ
rất bất ngờ, khiến cho Svastika không tránh kịp, Sujata đã chạm được vào đầu
Svastika. Tay phải cô bé vẫn còn nâng bát nước. Sujata thu tay trái lại. Với
hai tay cô nâng bát lên và uống hết nước trong chiếc bát. Cuối cùng cô bưng bát
đặt xuống gốc cây, và nhìn hai người, mỉm cười.
Siddhatta
gật đầu:
- Các
con đã hiểu được lời ta nói. Con người sinh ra không có giai cấp.
Nước mắt
của người nào cũng mặn, máu của người nào cũng đỏ. Chia người ra thành giai cấp
để mà kỳ thị lẫn nhau đó là một điều sai lầm. Thầy đã thấy được điều đó trong
khi thầy thiền quán.
Sujata
trang nghiêm:
- Chúng
con là học trò của thầy và chúng con tin lời thầy dạy. Nhưng ở đời hình như
không có ai nghĩ như thầy hết. Ai cũng tin rằng những người sudra và những
người ngoại cấp đã được sinh ra từ bàn chân của chúa trời Phạm Thiên. Kinh điểm
cũng nói như vậy. Có ai dám nghĩ khác hơn đâu.
- Thầy
biết. Nhưng sự thật là sự thật, dù không có ai tin theo. Một điều sai lầm mà
được hàng triệu người tin theo thì cũng là một điều sai lầm. Các con phải có
thật nhiều can đảm mới có thể sống theo sự thật.
Để thầy
kể chuyện này cho các con nghe. Hồi đó thầy mới có chín tuổi. Một hôm thầy đang
chơi thơ thẩn một mình ở trong vườn thì có một con chim thiên nga từ trên trời
rơi xuống, ngay trước mặt thầy. Con chim có vẻ đau đớn lắm. Nó quằn quại trên
mặt đất. Thầy chạy tới ôm nó lên, và thấy có một mũi tên cắm sâu vào cánh nó.
Thầy cầm mũi tên trong tay, ngậm miệng lại, và rút mạnh mũi tên ra. Con chim
run bắn lên, và máu rỉ ra ướt đỏ cả cánh chim. Thầy vội lấy ngón tay cái ấn lên
trên vết thương cho máu ngưng chảy. Ôm con chim trong tay, thầy chạy vào nhà
trong đi tìm cô cung nữ Sundari. Thầy nhờ cô đi hái một nắm lá dâu nhai nhỏ và
rịt lên vết thương của con chim. Con chim run rẩy. Hình như nó bị lạnh. Thầy
cởi chiếc áo lông cừu ra, bọc chim vào cho chim ấm, và đặt chim gần lò sưởi ngự
Siddhatta ngưng lại, nhìn Svastika:
-
Svastika, ta chưa nói cho con biết là hồi đó ta là hoàng thái tử con vua
Suddhodana ở thành Kapilavatthu. Điều này Sujata đã biết rồi.
Thầy
đang định đi kiếm cơm nguội cho chim ăn thì Devadatta đẩy cửa chạy vào,
Devadattalà em chú bác của ta, hồi đó tám tuổi. Tay Devadatta còn cầm cung và
tên. Devadattahỏi:
- Siddhatta,
anh có thấy một con chim trắng rơi xuống đâu đây không?
Ta chưa
kịp trả lời thì Devadatta đã nhìn thấy con chim để gần lò sưởi ngự.
Nó định
chạy tới dành lấy con chim. Ta vội ngăn nó lại:
- Em
không được lấy con chim. Con chim này là của anh.
Devadattakhông
chịu:
- Con
chim ấy là của em. Chính em bắn nó rơi xuống.
Lúc đó
ta đứng chận trước mặt Devadatta, cương quyết không cho nó rờ tới con chim. Ta
nói:
- Con
chim này bị thương. Anh cứu nó. Anh che chở cho nó. Nó cần anh, chứ nó không
cần em.
Devadatta
là một đứa em cũng cứng đầu lắm, nó có chịu thua đâu. Nó lại là một đứa trẻ
thông minh. Nó lý luận:
- Này
nhé, anh nghe đây. Con chim này, khi nó còn bay trên trời, thì nó không thuộc
về ai cả. Em bắn nó rơi xuống, thì lý đương nhiên nó thuộc về em.
Nghe nói
như thế, thầy tức lắm. Lý lụan của nó có vẻ vững chãi đanh thép, nhưng thầy
thấy nó có một cái gì sai sai ở trong ấy mà không biết đích xác là sai ở chổ
nào. Thầy thấy nghẹn cả họng, và rất muốn thụi nó một cái thật mạnh vào vai,
nhưng thầy đã không làm thế, thầy cũng không biết tại sao.
Bỗng
nhiên thầy tìm thấy được cách trả lời Devadatta. Thầy nói:
- Em
cũng nghe anh nói đây. Thói thường, những kẻ thương yêu nhau mới ở chung với
nhau, còn những kẻ ghét bỏ nhau thì không bao giờ sống chung với nhau. Em có ý
dữ muốn bắn giết con chim, như vậy em và con chim là những kẻ thù ghét nhau,
làm sao con chim có thể ở chung với em được.
Trong
khi đó, anh cứu con chim, anh rịt vết thương cho nó, anh sưởi ấm cho nó, và anh
đang đi kiếm thức ăn cho nó ăn… vậy thì anh và con chim là những kẻ biết yêu
thương nhau, anh và con chim có thể ở chung với nhau… như anh đã nói, con chim
nó cần anh, chứ nó không cần em.
Sujata
vỗ hai tay lại với nhau kêu đốp đốp:
- Thầy
nói đúng lắm! Thầy nói đúng lắm!
Siddhatta
quay sang nhìn Svastika:
- Còn
con , con thấy lý luận của thầy thế nào?
Svastika
ngẫm nghĩ. Một lát sau nó nói:
- Con …
con cũng thấy thầy có lý. Nhưng con nghĩ rằng ở đời ít ai chịu chấp nhận cái lý
ấy. Phần đông người ta theo lý luận của Devadatta hơn.
Siddhatta
gật đầu:
- Con
nói đúng. Người đời phần lớn đều hùa theo lý luận của Devadatta. Để thầy kể
tiếp cho các con nghe. Cuộc tranh chấp giữa thầy và Devadatta không đi đến đâu,
vì vậy sau đó được đưa ra giữa những người lớn. Hôm đó có buổi họp trong chiều.
Thầy thì ôm con chim, còn Devadattathì ôm cung tên, cả hai chạy ùa vào nhờ các
quan phán xử. Lúc ấy phụ vương của thầy đang ngồi ở giữa buổi chầu. Cuộc đàm
luận việc nước phải được tạm ngừng lại. Các quan nghe xong lý luận của
Devadattathì nghe đến lý luận của thầu.
Họ bàn
tán phân vân, rất lâu, rất lâu, và chẳng đi đến kết quả gì cả. Số người theo
phe Devadatta rất đông. Giữa lúc ấy thì phụ vương của thầy ngứa cổ.
Ông ho
lên mấy tiếng. Lập tức các quan đều im lặng. Ai cũng nhìn vua. Và sau đó, buồn
cười chưa, một người đều nghĩ lý luận của thầy đúng hơn, và nên giao con chim
cho thầy giữ. Devadatta tức lắm .
Thầy
được con chim, nhưng cũng không thấy vui mấy. Bởi vì tuy còn nhỏ tuổi, thầy
cũng dư sức để biết rằng sự thắng cuộc của thầy không được vẻ vang. Người ta vì
nể phụ vương thầy mà cho thầy thắng cuộc chứ không phải vì họ thấy lý luận của
thầy là đúng.
- Buồn
quá thầy nhỉ, Sujata buộc miệng.
- Buồn
thật. Nhưng lúc đó nghĩ đến sự an toàn của con chim, thầy cũng cảm thấy được an
ủi ít nhiều. Nếu không thì con chim đã bị đưa xuống nhà bếp để làm thịt rồi.
Ở đời,
ít người biết nhìn bằng con mắt thương yêu. Vì vậy họ ác độc với nhau, họ không
tha thứ cho nhau. Hồi ấy tuy mới có chín tuổi, thầy đã thấy được điều đó. Những
kẻ yếu đuối và đứng ở cô thế thường thường là dễ bị bắt nạt và làm hại. Lý luận
của thầy hồi đó, bây giờ thầy vẫn thấy có giá trị.
Đó là lý
luận của tình thương yêu và sự hiểu biết. Đó là sự thật có thể làm vơi bớt nỗi
khổ của mọi loài. Dù số đông không công nhận thì đó vẫn là sự thật. Cho nên
thầy đã dặn các con: Các con phải có thật nhiều can đảm mới có thể đứng về phía
sự thật mà bảo vệ sự thật.
- Còn
con chim, sau đó nó ra sao, hả thầy? Sujata hỏi.
- Thầy
nuôi con chim được bốn ngày. Khi thấy vết thương nơi cánh của nó đã lành hẳn,
thầy đã thả nó ra. Thầy đã dặn nó bay thật xa để đừng bị Devadatta bắn rơi một
lần nữa.
Siddhatta
nhìn hai đứa trẻ ngồi trước mặt mình. Cả hai đứa đang ngồi trầm ngâm, không nói
năng gì. Ông lên tiếng:
-
Sujata, đã đến lúc con phải về nhà kẻo mẹ con đợi. Svastika, con đi chăm sóc
đàn trâu của con đi. Và nếu chưa cắt đủ cỏ thì con hãy cắt. Ôm cỏ mà con cho
thầy hôm qua, thầy đã trải làm nệm ngồi, tốt lắm. Đêm qua và sáng hôm nay thầy
ngồi thiền rất thành công và thầy đã đạt tới nhiều cái thấy quan trọng. Công
đức của con không phải là nhỏ. Chừng nào thầy đạt được đạo quả viên mãn, thầy
sẽ đem dạy cho các con. Đến giờ thầy thiền tọa rồi.
Svastika
nhìn xuống. Quả thật ôm cỏ đã được Siddhattatrải làm nêm ngồi.
Các lá
cỏ đã cuốn tròn lại nhưng chắc chắn là cỏ còn mềm. Cậu bé nghĩ là cứ ba hôm một
lần, cậu có thể dâng cho thầy một ôm cỏ mới. Cậu đứng dậy cùng với Sujata, cậu
chắp tay vái chào Siddhatta Sujata về nhà, còn Svastika thì lùa trâu về lại bờ
sông cho trâu ăn cỏ.
---o0o---
Chương 05
BÁT SỮA CỨU MẠNG
Từ hôm
ấy về nhau, mỗi ngày Svastika đều có ghé vào rừng thăm Siddhatta.
Những
hôm nào cắt được đầy gánh cở thì Svastika ghé vào và ăn trưa vói Siddhatta.
Nắng càng gay gắt thì cỏ càng ít đi vì vậy có hôm Svastika phải đợi đến xế
chiều mới vào thăm vị sa môn trong rừng được. Có khi Svastika vào rừng thì gặp
lúc Siddhatta đang ngồi thiền tọa. Những lúc ấy cậu bé chỉ ngồi ngắm Siddhatta
một hồi rồi lặng lẽ đi ra khỏi rừng, sợ làm phiền nhiễu đến công phu thiền tập
của thầy. Chỉ khi nào vào rừng mà gặp Siddhatta đang đi kinh hành thì Svastika
mới dám đến gần để được truyện trò chốc lát.
Năm bảy
hôm một lần, Svastika cùng gặp Sujata trong rừng. Hôm nào chị Sujata cũng đem
dâng cho Siddhatta một nắm cơm và một ít thức ăn, hoặc muối mè, hoặc đậu phụng,
hoặc nước sốt cà – ri, có hôm chị đem theo cả sữa hoặc để hồ hoặc được phèn.
Hai chị em đã từng có dịp nói chuyện nhiều lần ở cửa rừng, bên cạnh những con
trâu ăn cỏ. Có khi Sujata đi với cô em gái tên là Supriya, trạc chín mười tuổi.
Svastika nghĩ thầm là một hôm nào đó nó cũng sẽ đưa các em nó vào rừng để thăm
Siddhatta. Nó sẽ ẳm con Bhima.
Bala sẽ
dắt tay thằng Rupak. Thế nào chúng nó cũng lội qua sông được ở khúc sông cạn
nhất gần đó.
Sujata
đã kể lại cho Svastika nghe những gì mà chị ấy biết về vị sa môn tên Siddhatta.
Chị ấy đã làm quen với Siddhatta mấy tháng nay rồi, và từ hôm ấy đến nay mỗi
ngày chị đều có đem cơm cúng dường Siddhatta vào khoảng trước giờ ngọ. Cái hôm
đầu tiên mà chị Sujata được gặp Siddhatta là một ngày rằm. Nghe lời mẹ, chị Sujata
mặc sari mới màu hồng, bưng một mâm bồng đầy thức cúng vào cửa rừng để cúng các
thần linh. Trên mâm có bánh, có sữa, có đề hồ, có mật. Đó là vào khoảng giữa
trời trưa. Trời nắng khá lớn.
Mới tới
bờ sông, Sujata thấy một người nằm sóng soài dưới nắng. Sujata đặt mâm xuống
bên bờ cỏ và chạy tới quan sát. Người này còn thoi thóp thở.
Ông ta
ốm lắm, chỉ còn da bọc xương. Hai mắt ông ta nhắm nghiền. Má ông ta hóp hẳn lại
như ngưòi đã lâu ngày thiếu ăn. Tóc và râu của ông ta ra dài, chắc đã lâu ngày
rồi không cạo. Nhìn cách phục sức của ông ta, Sujatabiết đây là một ông thầy tu
núi. Vốn là một cô bé thông minh, Sujata biết rằng ông này té xỉu vì đói quá.
Cô bé liền cúi xuống lấy bình sữa rót đầy vào một cái bát nhỏ đem theo. Rồi cô
kê bát sữa vào môi người kia và đổ xuống từng giọt. Ban đầu người ấy không đáp
ứng. Nhưng sau đó đôi môi động đậy và người ấy há miệng ra. Sujata kê hẳn bát
sữa vào miệng người ấy và đổ sữa vào từ từ. Người ấy bắt đầu uống. Chẳng mấy
chốc bát sữa đã cạn.
Sujata
ngồi xuống một bên bờ cỏ để đợi phản ứng. Người kia từ từ ngồi dậy, mở mắt.
Thấy Sujata, người ấy mỉm cười. Ông kéo chiếc khăn choàng lại trên vai, ngồi
xếp bằng lại trên bờ cỏ, trong tư thế hoa sen, thân hình rất thẳng, và bắt đầu
thở. Thế ngồi của ông rất vững và rất đẹp. Tưởng đây là một vị thần linh của
rừng núi hiện ra để thử mình, cô bé chắp hai tay để lại xuống, nhưng người ấy
đã đưa một bàn tay ra ngăn lại. Sujata còn ngẩn ngơ thì người ấy lên tiếng nhỏ
nhẹ bảo cô:
- Con
rót thêm cho ta một ít sữa nữa.
Sung
sướng, Sujata rót sữa đầy bát dâng lên. Người ấy tiếp lấy và uống cạn.
Sữa thật
là mầu nhiêmj. Trong chưa đầy một khắc đồng hồ, sức khoẻ người ấy hình như đã
được phục hồi. Mắt người đó thật sáng. Nụ cười người đó thật hiền. Sujata hỏi
thăm về duyên cớ tại sao người ấy ngất xỉu giữa đường.
Người ấy
nói:
- Ta tu
ở trong rừng này. Vì tu khổ hạnh lâu ngày nên thân thể ta yếu mòn.
Hôm nay
ta đã quyết định xuống xóm để hoá trai, nhưng đi đến đây thì kiệt sức. May mà
con đến kịp để cứu ta.
Ngồi
trên bờ sông, người ấy kể cho Sujata nghe sơ lược về cuộc đời tu hành của ông.
Nhờ đó mà Sujata biết được rằng vị sa môn mà mình đã cứu thoát chết tên là
Siddhatta, con của một vị quốc vương đang trị vì ở nước Ca tỳ la vệ, Sujata
ngồi nghe rất chăm chú, Siddhatta nói với cô bé:
- Ta đã
thấy rằng kềm chế xác thân không phải là con đường có thể giúp con người đạt
Đạo. Thân thể không phải chỉ là một dụng cụ. Thân thể là đền thờ của tâm linh,
thân tể là chiếc thuyền vượt biển. Vì vậy ta đã từ bỏ con đường kềm chế xác
thân bằng sự đói khát và bằng sự chịu đựng. Ta đã quyết định mỗi ngày sẽ xuống
xóm để hoá trai vào giờ ngọ.
Sujata
chắp tay:
- Nếu
thầy cho phép thì mỗi ngày con sẽ đem dâng cúng thực phẩm cho thầy. Thầy cứ ở
trong rừng mà hành đạo, đừng xuống xóm để khỏi mất thì giờ. Nhà con cũng gần
đây thôi, và ba mẹ con cũng sẽ bằng lòng cho con mỗi ngày đem cơm dâng cúng cho
thầy.
Siddhatta
im lặng. Một lát sau, ông nói:
- Ta vui
lòng nhận cơm cúng dường của con mỗi ngày. Nhưng ta cũng muốn thỉnh thoảng đi
vào xóm để khất thực và tiếp xúc với bà con trong xóm.
Hôm nào
con đưa ta tới nhà con nhé. Ta muốn làm quen với ba và mẹ của con. Ta cũng muốn
gặp các em bé khác trong xóm.
Sujata
mừng rỡ. Cô bé chắp tay bái tạ. Cô rất vui khi nghĩ đến lúc được vị sa môn này
ghé lại nhà và thăm ba mẹ của cô. Cô không nghĩ rằng cúng dường cho vị sa môn
này là tốn kém. Gia đình cô ta là một trong những gia đình khá giả nhất ở
Uruvela. Nhưng Sujata không muốn nói điều ấy ra. Cô nghĩ đây là một ông thầy tu
núi rất quan trong gấp mấy lần cúng dường các vị thần núi thần rừng. Sau này mà
Siddhatta tìm được Đạo thì cuộc đời sẽ được vơi bớt bao nhiêu là nỗi khổ.....
Siddhatta
đã chỉ cho Sujata rặng núi Dangsiri nơi có những hang động mà Siddhatta đã từng
cư trú để hành đạo. Rồi ông nói:
- Bắt
đầu từ hôm nay, ta sẽ hông cư trú ở đó nữa. Bên bờ sông, có một khu rừng rất
mát và co một cây pipala thật sum xuê. Ngồi dưới gốc cây ta có thể thấy được cả
dòng sông. Ta đã chọn nơi ấy để tu hành. Mai mốt khi con đem theo thức ăn cúng
dường cho ta, con sẽ đem tới đấy. Để ta đưa con đi xem qua chỗ ấy cho biết.
Rồi ông
đưa Sujata vào thăm khu rừng êm mát bên bờ sông Neranjara. Ông chỉ cho cô bé
xem gốc cây pippala mà ông thường ngồi để thiền định. Sujata ngắm thân cây rồi
ngửng lên nhìn cành lá. Cây lớn quá. Cây che mát cả một vùng khác rộng. Đây là
một loại cây đa, lá lớn bằng bàn tay Sujata. Lá cây giống như trái tim và có
những cái đuôi thật dài. Sujata nghe tiếng chim hót ríu rít. Nơi đây quả là một
nơi thanh tịnh và êm mát. Sujata cũng đã có lần tới đây với ba mẹ cô để dâng
cúng phẩm vật cho thần linh.
- Vậy
đây là nhà mới của thầy, có phải thế không? Sujata nhìn Siddhatta với hai mắt
to và tròn lấp láy. Mỗi ngày con sẽ vào đây thăm thầy.
Siddhatta
gật đầu. Ông đưa tiễn Sujatara cửa rừng, rồi trở về gốc cây ngồi thiền tọa.
Từ hôm
đó, ngày nào Sujatacũng mang cơm hoặc bánh vào cúng dường vị sa môn, trước khi
mặt trời đứng bóng. Có khi cô bé mang theo cả sữa, hoặc đề hồ. Có khi Siddhatta
cầm bát tự mình đi vào làng khất thực. Ông đã gặp đựoc cha mẹ của Sujata, và
biết rằng cha của sụ là vị hương cả trong làng.
Sujata
cũng đưa cho ông đi và gặp những đứa trẻ khác mà cô bé quen ở trong xóm. Cô
cũng đưa ông ta tới nhà người thợ cạo và nhờ người này cạo sạch tóc và râu cho
vị sa môn. Sức khỏe của Siddhatta phục hồi thật mau chóng. Siddhatta cũng cho
cô bé thí chủ biết rằng công phu thiền quán của người đang mang lại nhiều hoa
trái quan trọng. Cho đến một hôm, Sujata được gặp Svastika.
Hôm ấy
Sujata đến sớm và đã được Siddhatta nói cho nghe về cuộc gặp gỡ với Svastika
chiều hôm trước. Sujata vừa mới ngỏ ý muốn được gặp Svastika thì Svastika đã
hiện ra trong rừng. Sau này có dịp gặp Svastika, Sujata đã hỏi thăm về các em
của Svastika. Và Sujata cũng đã cùng với Purna tới nhà Svastika chơi. Purna là
con hầu mới của Sujata. Con hầu cũ, tên là Radha, đã bị bệnh thương hàn chết
cách đây hai tháng. Trong những lần thăm viếng sau này Sujata đã đem cho các em
của Svastika một ít áo quần cũ nhưng lại rất tốt. Và Sujata đã ẵm bé Bhima
trước sự ngạc nhiên của con hầu Purna. Sujata dặn Purna đừng mách cho ba mẹ cô
biết là cô đã ẵm trong tay một em bé ngoại cấp.
Một bữa
trưa hôm nọ, bọn trẻ rủ nhau vào thăm Siddhatta khá đông. Các em của Svastika
đều có mặt. Sujata rủ theo Balagupta, Vijayasena. Ulluvillike và Jatilika. Bốn
người này đều là bạn gái của Sujata. Sujata cũng mời được chị họ là Nandabala
cùng đi. Chị Nandabala đã mười sáu tuổi. Anh Nalaka năm nay đã mười bón. Còn
Subash mới chín tuổi. Mười một đứa ngồi thành một vòng cung trước mặt Siddhatt.
Hôm ấy ngoài ngoài thức ăn đem theo để cúng dường vị sa môn, bọn trẻ còn đem
theo thức ăn trưa của chúng. Sau khi dân cơm cho Siddhatta, bọn trẻ cũng mở
thức ăn của mình ra ăn trong yên lặng. Bala và Rupka đã được anh dặn dò và huấn
luyện kỹ càng rồi cho nên chúng ngồi ăn thật nghiêm trang. Bé Bhimba mở to mắt
nhìn mọi người: chưa bao giờ bé thấy nhiều người như thế. Bé ngồi thật ngoan
trong lòng Svastika và không hề khóc.
Hôm ấy
Svastika đã cúng dường một ôm cỏ mới cho Siddhatta. Hôm ấy Svastika cũng đã nhờ
đứa bạn chăn trâu của nó là thằng Gavampati coi trâu giùm trong giấc trưa.
Ngoài ruộng trời đã nắng gắt lắm nhưng trong rừng bọn trẻ đang cùng với vị sa
môn ngồi trong bóng cây im mát. Cây pippala này lớn quá, cành lá xờ ra che mát
cả một vùng lớn bằng cả mười mấy căn nhà. Bọn nhỏ chia xớt thức ăn cho nhau.
Rupka và bé Bala hôm nay được ăn bánh chappati với nước xốt cà ri. Chúng cũng
được ăn cơm trắng chấm muối đậu phụng và muối mè. Sujata và Balagupta đã đem đủ
nước uống cho mọi người. Không khí ở đây thật lặng lẽ, nhưng niềm vui ở đây
thật lớn lao.
Hôm ấy
theo lời của Sujata thỉnh cầu, Siddhatta đã kể cho bọn trẻ nghe về cuộc đời của
mình. Bọn trẻ đã ngồi nghe say mê từ đầu đến cuối.
---o0o---
Chương 06
BÓNG MÁT CÂY HỒNG TÁO
Hồi còn
chín tuổi, Siddhatta đã nghe kể lại rằng ngày có mang Siddhatta, mẹ của
Siddhatta đã nằm mông thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên trời đi xuống.
Trên không nhã nhạc vang lừng và tiếng ca hát chúc tụng của chư thiên vọng lên
không ngớt. Con voi trắng đi xuống càng lúc càng gần, da của nó trắng như tuyết
trên đỉnh núi và vòi của nó quấn một đóa sen hồng. Con voi tới gần bà, đưa đóa
hoa chạm vào người bà. Rồi con voi ấy đi vào trong bà. Tự nhiên bà thấy trong
người sảng khoái lạ thường. Bà có cảm tưởng rằng từ nay bà sẽ không bao giờ còn
khổ đau, lo lắng, giận dữ và phiền muộn nữa.Bà thức giấc. Chưa bao giờ bà cảm
thấy hạnh phúc như thế. Bà trỗi dậy. Những tiếng hát ca của chư thiên và nhạc
trời êm ái còn như văng vẳng bên tai bà. Bà đi tìm vua Suddhodana và kể cho vua
nghe về giấc mộng. Vua chia xẻ niềm vui với bà. Sáng hôm ấy, vua với những đạo
sĩ và những thầy bà la môn nổi tiếng ở kinh đo vào cung để nhờ đoán mộng. Sau
khi đã nghe kể về giấc mộng của hoàng hậu, các vị đều nói:
- Tâu bệ
hạ, hoàng hậu sẽ hạ sinh một hoàng nam. Thái tử sau này sẽ là một người xuất
chúng. Thái tử có thể sẽ là một vị chuyển luân thánh vương trị vì cả bốn cõi;
thái tử cũng có thể sẽ đi tu và trở thành vị lãnh đạo tinh thần cho cả cõi
người và cõi trời. Cõi đất của chúng ta, tâu bệ hạ, đã chờ đợi từ lâu rồi một
người như thái tử.
Vua
Suddhodana rất vui mừng. Sau khi hội ý với hoàng hậu, vua cho lệnh lấy bớt tài
vật trong kho ban phát cho những người ốm đau và bệnh tật trong xứ. Thần dân ở
vương quốc Sakya đều được thấm nhuần ơn dức của vua và hoàng hậu.
Mẹ của
Siddhattatên là Maha Maya người nước Koliya. Hoàng hậu Maya là một người đức
hạnh. Bà thương yêu con người, nhưng bà cũng biết thương yêu các loài cầm thú
và cỏ cây. Mùa xuân năm sau, đúng vào ngày trăng tròn tháng tư, hoàng hậu hạ
sinh thái tử trên đường từ Kapilavatthu về thủ đô Ramagama của vương quốc
Koliya quê hương của bà. Tục lệ của nước bà là người con gái có chồng phải về
sinh con tại nhà cha mẹ. Trên đường đi, bà đã ghé vào nghỉ tại vườn Lumbini.
Trong vườn muôn hoa đang nở rộ, chim chóc đang ca hát vang lừng. Những con công
xòe đuôi rực rỡ trong nắng mai. Thấy một cây Vô ưu hoa nở rực đầy cành, bà bước
tới. Khi tới gần cây này, bà thấy hơi lảo đảo. Bà vội đưa tay nắm chặt một cành
cây vô ưu. Một giây sau đó, bà sinh em bé. Thái tử Siddhatta được các thị nữ nâng
lên và bọc lại trong một tấm khăn choàng bằng lụa màu vàng. Các thị nữ biết
rằng chuyến đi Ramagama không cần thiết nữa cho nên dìu hoàng hậu ra xe bốn
ngựa đi trở về Kapilavatthu. Thái tử được đem tắm bằng nước ấm rồi được đặt lên
giường bên cạnh hoàng hậu.
Được
tin, vua Suddhodana lập tức vào thăm hai mẹ con. Vua vui mừng khôn xiết. Mặt
vua sáng rỡ. Vua đặt tên cho thái tử là Siddhatta.
Hôm đó
tất cả quần thần đều được nghe tin, mọi người đều đến chúc mừng vua và hoàng
hậu. Vua Suddhodana truyền mời các ông thầy tướng giỏi đến coi tướng cho
Siddhatta. Ông thầy nào cũng nói rằng Siddhattacó tướng của một vị chuyển luân
thánh vương, và cũng đều tiên đoán rằng thái tử sẽ là một vì vua trị vì không
phải một phương mà cả bốn biển.
Một tuần
lễ sau đó, có một ông đạo sĩ bà la môn tên là Asita Kaladevala đến thăm. Đạo sĩ
Asita là một ẩn sĩ trên núi. Vị đạo sĩ này đã già lắm, lưng ông đã còm. Ông
phải chống gậy đi từ trên núi xuống.
Khi được
quân hầu báo tin, vua Suddhodana đích thân ra khách đường chào ông và đưa ông
vào cung thăm thái tử. Ông nhìn thái tử một hồi mà không nói năng gì. Bỗng
nhiên ông nấc lên khóc. Thân hình ông rung rung trên chiếc gậy. Vua hoảng kinh,
hỏi:
- Tại
sao, tại sao thầy khóc như thế? Có điều gì không hay sẽ xảy ra cho trẫm hoặc cho
thái tử đây không?
Đạo sĩ
Asita lấy tay quệt nước mắt. Ông lắc đầu:
- Tâu bệ
hạ không có chuyện gì xấu cả. Tôi khóc là khóc cho số phận tôi.
Tôi biết
thái tử sau này sẽ thành một bậc vĩ nhân, thấu suốt được mọi lẽ huyền vi trong
vũ trụ. Thái tử sẽ không làm vua đâu: thái tử sẽ làm một vị đạo sĩ lấy trời đất
làm quê hương, lấy muôn loài làm thân tốc. Tôi khóc là vì tôi sẽ chết trong nay
mai, và chẳng có diễm phúc được nghe tiếng nói chân thốt ra từ miệng Người. Bệ
hạ có phúc lớn lắm, nước nhà có phúc lớn lắm mới có được thái tử.
Tâu xong
đạo sĩ Asita lập tức rời bỏ hoàng cung để về núi: vua Suddhodanatìm đủ mọi cách
để lưu ông lại, nhưng vua không thành công.
Cuộc
viếng thăm của đạo sĩ Asit làm vua buâng khuâng. Vua không muốn rằng sau này
Siddhattađi tu. Vua chỉ muốn sau này Siddhatta nối nghiệp vua để làm vua, và mở
rộng bờ cõi. Vua nghĩ rằng vị đạo sĩ Asita chỉ là một đạo sĩ trong hàng trăm
hàng ngàn vị đạo sĩ khác. Có thể là ông nói sai. Và có thể những vị đạo sĩ khác
đã nói đúng. Nghĩ như thế, vua thấy yên dạ Hoàng hậu Maya sinh thái tử được tám
ngày thì mất. Cả nước thương tiếc bà. Vua Suddhodana tuyển ngay em ruột của bà
là bà Mahapajapati vào cung và đưa lên ngôi hoàng hậu. Phu nhân Pajapati cũng
được gọi là Gotami. Bà thay thế chị để chăm sóc Siddhatta. Siddhatta là cháu
gọi bà bằng dì, nhưng bà thật sự xem Siddhatta như con ruột của chính bà. Lớn
lên, Siddhatta đã nhiều lần hỏi bà về mẹ. Siddhatta biết rằng dì Gotami thương
mẹ lắm và cũng biết rằng trong trời đất có lẽ ngoài dì Gotami không ai có thể
thương mình bằng mẹ của mình. Được săn sóc và thương yêu, Siddhatta lớn lên rất
mau.
Một hôm
đang ngắm Siddhatta chơi ngoài vườn ngự, bà Mahapajapati nghĩ:
- Đã đến
lúc mình có thể dạy cho con trai đeo vòng và đeo ngọc.
Bà
truyền thị nữ đem đủ các thứ vòng và chuỗi đến để bà đeo thử cho Siddhatta. Bà
thử hết mọi loại vòng vàng và một loại chuỗi ngọc, nhưng không thứ nào đeo vào
mà có thể làm cho Siddhatta đẹp hơn và dễ thương hơn, Siddhatta cũng tỏ ý không
thích các loại trang sức này. Cuối cùng Gotami nhận thấy rằng cứ để cho
Siddhatta tự nhiên thì Siddhatta lại đẹp hơn và dễ thương hơn, và bà truyền
lệnh cất hết các thứ vòng vàng và chuỗi ngọc.
Đến tuổi
đi học, Siddhatta được học đọc, học viết, học vẽ, học âm nhạc và học thể thao.
Siddhatta được học chung với các vương tử khác trong dòng họ Sakya. Tất ca đều
là con trai. Trong số các bạn học của Siddhatta, có Devadatta, Kaludayu và
Kimbila. Devadatta là em chú bác của Siddhatta.
Kaludayi
là con của một vị đại thần trong triều, Kimbila là một người em cô cậu của
Siddhatta. Vì tư chất thông minhh, Siddhatta học rất mau chóng.
Thầy dạy
chữ của Siddhatta là giáo sư Visvamitra. Devadatta đã là một đứa trẻ thông minh
đối với ông, nhưng Siddhatta mới là đứa trẻ làm cho ông kinh ngạc. Ông chưa bao
giờ dạy một đứa trẻ thông minh đến như thế.
Năm lên
chín, Siddhatta được cùng các bạn đi dự lễ cày ruộng đầu năm. Ba Gotami đã tự
tay mặc áo và mang giày cho Siddhatta. Các bạn cùng lớp học đều được đi theo
Siddhatta Chính vua Suddhodana sẽ đứng ra chủ tọa buổi lễ này. Các vị đạo sĩ và
tu sĩ Bà la môn ở những cấp cao đều được mời tới tham dự. Các thầy mặc áo và
đội mũ rất sặc sỡ. Buổi lễ được cử hành ở những thửa ruộng tốt nhất của vương
quốc không xa vòng ngoài hàng thành là mấy. Đây là mùa xuân. Cờ xí treo đầy
đường đầy ngõ. Thức ăn thức uống và rượu được bày la liệt trên các đài cúng
thần. Các đội âm nhạc và ca vũ chia nhau đi các ngã đường để giúp vui cho ngày
hội. Không khí tưng bừng náo nức. Các thầy Bà la môn xướng tụng rất uy nghiêm.
Phụ vương của Siddhatta mặc áo hoàng bào và các vị đại thần trong triều phục
lớn đều đang đứng xoay mặt về phía lễ đài. Siddhatta đứng với các bạn phía sau,
một bên là Devadatta, một bên là Kaludayi. Các thị nữ nói rằng sau buổi lễ thì
sẽ có ăn cỗ, và cỗ sẽ được bày ngay trên các bãi cỏ. Siddhatta thích lắm, vì ít
khi Siddhatta có dịp được ngồi trên bãi cỏ mà ăn cơm, nhưng các thầy tụng kinh
lâu quá, bọn trẻ nóng ruột chờ không nổi. Chúng rủ nhau đi chơi. Kaludayi kéo
tay Siddhatta. Bọn trẻ kéo nhau về phía có ca vũ và âm nhạc. Trời đã bắt đầu
nắng gắt. Áo quần các nhạc công đều đã ướt đẫm mồ hôi. Trán các nàng vũ nữ cũng
lấm tấm mồ hôi. Chạy chơi một hồi lâu, Siddhatta cũng thấy nóng bức. Siddhatta
bỏ các bạn đến núp nắng dưới một cây táo đỏ bên đường. Dưới bóng cây im mát, Siddhatta
cảm thấy dễ chịu. Vừa lúc ấy bà Gotami đi đến. Bà nhìn Siddhatta:
- Mẹ đi
tìm con từ hồi nãy. Con đi đâu lâu thế? Có lẽ con nên trở về dự cho xong buổi
lễ để cho phụ vương vui lòng.
- Thưa
mẹ, buổi lễ kéo dài quá. Các thầy đọc kinh gì mà lâu vậy hả mẹ?
- Họ đọc
kinh Vệ Đà đó con, Kinh đó nghĩa lý huyền diệu lắm. Mai này con sẽ được học.
Kinh này do chính Thiên chúa Brahma mặc khải cho các thầy Bà la môn tự không
biết bao nhiêu đời rồi.
- Thế
sao phụ vương không đọc kinh mà lại phải mời các thầy ấy đọc thưa mẹ?
- Chỉ
những người sinh ra trong dòng họ Bà la môn mới có quyền xướng tán và đọc tụng
kinh này thôi con ạ. Họ thuộc giai cấp tăng lữ. Vì vậy các nhà chính trị như
phụ vương con uy quyền nhiều như thế mà cũng cần phải nhờ tới họ.
Siddhatta
suy nghĩ về những điều mà bà Gotami vừa nói. Cậu lặng yên hồi lâu rồi chắp tay
hai tay lại:
- Xin mẹ
trở lại với phụ vương con đi. Mẹ xin phép cho con được ở lại đây chơi. Ngồi
dưới cây hồng táo này con thấy vui và khỏe quá thưa mẹ.
Chiều
con, bà Gotami gật đầu. bà lấy bàn tay vuốt lại tóc trên đầu Siddhatta, mỉm
cười rồi trở lại lối cũ.
Các thầy
Bà la môn đã kết thúc việc đọc kinh. Vua Suddhodana đã bước xuống ruộng, nắm
lấy cán cày, và với sự phụ tá của hai vị võ quan, đi luống cày đầu tiên của mùa
làm ruộng mới. Quần chúng hoan hô vang dội. Các nông dân trong vùng bắt đầu
xuống ruộng làm theo vua, cày những luống đầu tiên trên ruộng họ. Nghe tiếng hò
reo, Siddhatta cũng chạy ra đứng ở bờ ruộng. Cậu thấy một con trâu đang nặng
nhọc kéo cày, theo sau là một bác nông dân thân hình lực lưỡng, nước da như
đồng đen. Tay trái bác cầm cày, tay phải bác cầm roi quất vào lưng trâu. Trời
nắng gắt và mồ hôi ông ta chảy ra nhễ nhại. Đất lật ngửa rẽ ra thành luống hai
bên lưỡi cày, thật đẹp. Có những con giun bị lưỡi cày xắn làm hai khúc, quằn
quại trên luống đất mới cày. Có những con chim bay sà xuống xuống thấp, mổ
những con giun và đứng ăn giun trên luống đất mới. Rồi cậu thấy một con chim
lớn sà xuống, cặp một con chim nhỏ bay lên.
Siddhatta
đứng xem mải mê một hồi ngoài nắng, và đến lượt cậu, cậu cũng thấy mồ hôi chảy
ướt trong người. Trời nóng quá, Siddhatta chạy về núp ở dưới cây hồng táo.
Những hình ảnh mà cậu vừa chứng kiến đối với cậu thật là mới lạ. Những hình ảnh
ấy kích thích cậu. Siddhatta tới dưới cây hồng táo, ngồi xếp bằng và nhắm mắt
lại để chiêm nghiệm về những gì đã thấy.
Cậu ngồi
rất thẳng, rất đẹp và khá lâu. Khắp nơi quần chúng đã bắt đầu tập họp ca hát,
đàn địch, nhảy múa. Có những người đã bắt đầu dọn cỗ bàn trên những bờ ruộng
hay dưới những bóng cây. Nhưng Siddhatta vẫn ngồi yên chăm chú vào những hình
ảnh trong nội tâm, không nghe thấy gì. Một lát sau, khi vua và hoàng hậu tới
cây hồng táo để tìm con thì Siddhatta vẫn còn ngồi đó. Hoàng hậu Gotami cảm
động đến muốn khóc khi thấy Siddhatta ngồi đẹp như bức tượng nhỏ dưới gốc cây,
nhưng vua Suddhodana thì khác.
Vua cảm
thấy lo ngại, chín tuổi mà con mình đã biết ngồi trầm tư như thế thì lời ông
đạo sĩ Asita có thể thành sự thực. Phiền muộn, vua truyền lấy xa giá về cung
trước, không ở lại dự tiệc trên bãi cỏ với quần thần.
Một đám
trẻ con dân dã đi ngang qua đùa giỡn lớn tiếng. Bà Gotami đưa tay ra hiệu cho
bọn trẻ im lặng. Bà chỉ cho bọn trẻ thấy Siddhatta đang ngồi dưới gốc hồng táo.
Bọn trẻ đứng lại im lặngnhìn, bỗng nhiên Siddhatta mở mắt. Thấy hoàng hậu, thái
tử mỉm cười:
- Mẹ ơi,
đọc kinh cũng không giúp được những con chim và những con giun, mẹ ạ.
Siddhatta
đứng dậy chạy đến cầm tay bà Gotami. Cậu nhìn bọn trẻ con nhà dân dã đang đứng
yên nhìn cậu. Các em bé này cũng trạc tuổi với Siddhatta nhưng ăn mặc rách
rưới, mặt mày lấm láp và tay chân gầy ốm. Nhìn lại sắc phục của mình, Siddhatta
thấy ngượng. Tuy nhiên cậu rất ưa chơi với bọn này. Siddhatta cười và đưa tay
vẫy bọn trẻ. May cho Siddhatta là có một đứa con trai cười đáp lại. Được khuyến
khích bằng nụ cười đó, Siddhatta quay lại xin phép mẹ cho bọn trẻ con được tới
tham dự cuộc vui trên bãi cỏ với mình, Bà Gotami lưỡng lực một chút rồi gật đầu
chiều ý thái tử.
---o0o---
Chương 07
GIẢI THƯỞNG VOI TRẮNG
Năm
Siddhatta lên mười bốn thì hoàng hậu Gotami sinh em Nanda. Cả hoàng cung mở hội
để ăn mừng. Siddhatta rất hãnh diện khi có một đứa em.
Mỗi ngày
sau buổi học, Siddhatta thường chạy về thăm em, Siddhatta đã lớn rồi nên được
phép thỉnh thoảng ẳm em đi chơi. Devadatta cũng hay đến chơi. Siddhatta cũng có
những người em họ khác: Mahanama, Baddhiya và Kimbila. Mỗi khi các em tới,
Siddhatta thường rủ họ ra chơi ở vườn hoa phía sau cung điện. Bà Gotami cũng
hay theo bọn trẻ ra vườn hoa. Bà ưa ngồi may áo cho Nanda trên một chiếc ghế gỗ
đặt bên cạnh hồ sen và nhìn bọn trẻ nô đùa. Bên bà luôn luôn có một người thị
nữ túc trực. Bà chỉ hay sai phái người thị nữ này khi cần đi lấy nước nôi và
bánh trái cho bọn trẻ.
Càng lớn
lên, Siddhatta càng học giỏi. Devadatta đã nhiều lần tỏ vẻ ganh tỵ với Siddhatta.
Môn học nào Siddhatta cũng xuất sắc, kể cả võ nghệ.
Devadatta
khỏe hơn Siddhatta, nhưng về phương diện lanh lẹ thì lại không bằng Siddhatta.
Về toán học, cả lớp đều nhường Siddhatta. Giáo sư dạy toán là Arjunacó khi phải
mất thật nhiều thì giờ với những câu hỏi của Siddhatta.
Về âm
nhạc, Siddhatta rất ưa thổi sáo. Siddhatta có một ống sáo thật quý do chính
giáo sư âm nhạc của mình tặng cho. Có những buổi chiều hè, Siddhatta ra ngoài
công viên một mình để thổi sáo. Tiếng sáo của Siddhatta có khi dìu dặt, có khi
cao vút khiến người nghe có cảm tưởng như đã thoát lên được trên mấy từng mây.
Nhiều hôm trong bóng đêm đang xuống, bà Gotami cũng ra ngoài vườn ngự ngồi nghe
tiếng sáo của con. Bà cảm thấy khỏe khoắn khi ngồi thả lòng bay theo tiếng sáo
của Siddhatta.
Cùng với
tuổi, Siddhatta càng ngày càng lưu tâm đến đạo và triết học, Siddhatta được học
các kinh Vệ Đà và được nghiền ngẫm về những đạo lý hàm chứa nơi các bài tụng
trong các kinh ấy. Hai kinh Rigveda và Atharvaveda là hai kinh được học hỏi nhiều
nhất. Từ thuở ấu thơ, Siddhatta đã được thấy các thầy Bà la môn hành lễ và đọc
kinh, Bay giờ đây Siddhatta đích thực đi vào trong nội dung của các kinh. Địa
vị của Lời Nói trong đạo Bà la môn rất quan trọng. Lời kinh đi theo với nghi lễ
là một sức mạnh lớn có thể ảnh hưởng tới và làm thay đổi được tình trạng của
thế giới và của con người. Vị trí của tính tượng và sự vận chuyển của bốn mùa
có liên hệ mật thiết tới sự cúng tế và tới lời kinh cầu đảo. Các thầy Bà la môn
là những người duy nhất có thể hiểu thấu được những lẽ huyền bí trong Phạm Thư
và trong trời đất, và có thể dùng lời kinh và nghi lễ để chỉnh lý lại được trật
tự trong tự nhiên giới và nhân sự giới.
Siddhatta
được học rằng vũ trụ là một cái Ta lớn gọi là Purusa, có khi gọi là Phạm Thiên,
và các giai cấp của con người trong xã hội đều được phát xuất từ những phần
khác nhau của thân thể vũ trụ ấy. Mỗi con người đều mang theo một cái ta cùng
phát xuất từ cái Ta siêu việt ấy và cùng một tính chất với cái ta siêu việt ấy.
Cái ta này là bản chất thường tại trong mỗi con người.
Siddhatta
lại còn được học thật kỹ về các Phạm Thư Brahmana và các Áo Nghĩa Thư. Các giáo
sư bao giờ cũng muốn giảng giải các thánh thư theo truyền thống, nhưng
Siddhatta và các bạn luôn luôn muốn đặt những câu hỏi buộc họ phải nhắc tới
những tư tưởng đương thời được xem như không trung thành mấy với truyền thống.
Trong
những ngày nghỉ học, Siddhatta thường rủ các bạn đi thăm các vị sa môn và các
vị Bà la môn nổi danh ở kinh đô để học hỏi. Nhờ xúc tiếp nhiều như thế nên Siddhatta
sớm tin ra rằng hiện đang có những cuộc vận động tư tưởng chống lại uy quyền
thống trị của truyền thống Bà la môn. Cuộc vận động này không những có mặt
trong giai cấp Sát đế lợi đang muốn vươn lên để nắm được cả quyền uy tinh thần
lâu nay đang nằm trong tay của giai cấp Bà la môn, mà cũng có mặt ngay trong
giới những người Bà la môn nữa.
Ngày
xưa, từ khi được ăn cơm trên cỏ lần đầu với bọn trẻ dân dã, Siddhatta thường
xin phép được đi chơi, và nhân dịp đi thăm các thôn xóm ngoài thành. Trong
những chuyến đi như thế, Siddhatta thường có ý ăn mặc giản dị. Tiếp xúc với dân
dã, Siddhatta học được rất nhiều cái mà trong trường không bao giờ Siddhatta
được học. Đã đành dân chúng thờ phụng ba vị Thần của đạo Bà la môn là Brahma,
Visnu, và Siva, nhưng dân chúng cũng bị các thầy Bà la môn lợi dụng và bóc lột
quá mức. Trong tất cả các dịp quan, hôn, tang, tế, người dân đều phải chu cấp
thực phẩm tiền bạc và sức lao động của mình cho ông thầy cúng, dù nghèo khó đến
mấy cũng thế.
Một hôm,
đi ngang qua một túp lều, Siddhatta nghe tiếng khóc kể thảm thiết.
Chàng rủ
Devadatta ghé vào thăm, và được biết rằng người chủ gia đình vừa mới qua đời.
Đây là một gia đình nghèo khổ. Mấy mẹ con trông thật lam lũ, áo quần tả tơi.
Nhà cửa xiêu vẹo, đổ nát. Hỏi ra thì người chủ gia đình chỉ vì muốn mời ông
thầy Bà la môn trong làng tới cúng đất đai để có thể xây lại nhà bếp mà đã phải
ờ lại mấy ngày làm lao động tại nhà cho ông thầy. Ông bị bắt làm việc rất nặng
nhọc, nào khuân đá, nào bửa củi, trong khi cơ thể ông đã suy nhuợc vì cảm cúm,
Sau mấy ngày lao động, ông thầy Bà la môn bảo ông đi về trước và hẹn vài hôm
sau sẽ đến cúng. Về tới nửa đường, người chủ gia đình nghèo khó đã bị trúng gió
và chết bên lề đướng. Người trong xóm phát giác ra và về báo cho mấy mẹ con
hay.
Từ khi
biết suy đoán, Siddhatta đã có khuynh hướng âm thầm không chấp nhận ba giáo
điều căn bản của đạo Bà la môn: Kinh Vệ Đà là thiên khải cho riêng người Bà la
môn, Phạm Thiên là đấng tối cao ngự trị, và tế lễ có công hiệu vạn năng.
Siddhatta thấy có cảm tình với những vị sa môn và Bà la môn nào có tư tưởng cấp
tiến dám thẳng thắn phủ nhận giá trị của ba thứ quyền ấy.
Tuy vậy,
Siddhatta không bao giờ bỏ một buổi học hỏi và thảo luận nào về kinh Vệ Đà. Các
môn học khác mà Siddhatta vẫn theo học là tự vựng học (Nighandu), ngữ nguyên
học (Sokharappabhedana), sử truyện (Itihasa) và văn pháp học (Veyyakarana).
Siddhatta
rất ưa tiếp xúc với các vị đạo sư và sa môn. Biết rằng phụ vương không ưa việc
này, Siddhatta phải kiếm cớ đi du ngoạn để có dịp tìm gặp các nhà tu ấy. Họ là
những người không thiết tha đến quyền lợi vật chất và địa vị trong xã hội như
các ông thầy Bà la môn chuyên lo tế tự và gần gũi giới có quyền thế. Trái lại,
họ muốn từ bỏ tất cả để đi tìm cầu sự giải thoát, cắt đứt những sợi dây ràng
buộc họ vào nếp sống đầy não phiền của cuộc đời. Họ là những người đã từng học
hỏi và thông hiểu qua Vệ Đà và Áo Nghĩa Thư.
Siddhatta
biết rằng tại nước láng giềng Kosala về phía Tây và nước láng giềng Maghada về
phía Nam có rất nhiều những vị sa môn như thế, và Siddhatta ao ước một ngày kia
có thể đi đến những miền ấy để tìm thầy học đạo.
Vua
Suddhodana không phải là hoàn toàn không hay biết gì về tâm tư của Siddhatta.
Vua rất lo lắng về việc Siddhatta có thể đi tu theo kiểu các vị sa môn. Có lần
nói chuyện riêng với người em ruột là Dronodanaraja, cha của Devadatta và
Aranda, vua than thở:
- Vương
quốc Kosala hay dòm ngó lãnh thổ nước ta. Nếu sau này chúng ta không có người
trẻ tài giỏi như Siddhatta và Devadatta thì lấy ai mà nắm lấy vận mệnh của
nước? Ta rất sợ Siddhatta sau này sẽ đi tu, theo như lời tiên đoán của sa môn
Asita Kaladevala. Devadatta lại hay đi theo với Siddhatta.
Chú có
biết là hai anh em chúng nó ưa đi gặp các thầy sa môn khổ hạnh hay không?
Hoàng
thúc Dronodanaraja rất lấy làm ngạc nhiên khi nghe vua nói. Ngẫm nghĩ một hồi,
ông ta thầm thì bên tai vua:
- Theo
tôi, huynh vương nên lo cưới vợ cho Siddhatta. Có vợ con rồì thì tư tưởng đi tu
sẽ không còn.
Vua
Suddhodana im lặng gật đầu. Tối hôm ấy vua tâm sự với bà Gotami.
Hoàng
hậu hiểu ý vua, hứa sẽ lưu tâm tìm cách sắp đặt để Siddhatta chóng lập gia
đình.
Những
buổi hòa nhạc, những hội thể thao và những cuộc du ngoạn từ đo được tổ chức
thường xuyên cho các giới trẻ được gặp nhau. Siddhatta tham dự hết lòng vào
những cuộc vui này, trong đó chàng gặp gỡ được nhiều bạn mới, nam cũng như nữ.
Năm sau,
hoàng hậu Gotami sinh cho Siddhatta một cô em gái. Công chúa được đặt tên là
Sundari Nanda.
Vua
Suddhodana có một người em gái tên là Pamita. Chồng của bà là Thiện giác vương
Dandapani, thuộc bộ tộc Koliya. Họ có nhà cửa bên thủ phủ Ramagama của vương
quốc Koliya nhưng họ cũng có trú sở ơ Kapilavatthu.
Sakya và
Koliya là hai vương quốc nhỏ nằm sát bên nhau, ngăn cách bởi con sông Rohini.
Hai bên bộ tộc Sakya và Koliya đã nhiều đời giao hảo với nhau rất thân mật.
Kapilavatthu chỉ cách Ramagama có một ngày đường, Hai vợ chồng được bà Gotami
ủy thác tổ chức một đại hội thể thao trên một bãi cỏ rộng mênh mông cạnh bờ hồ
Kunau. Vua Suddhodana đích thân chủ tọa đại hội này, bởi vì vua rất muốn khuyến
khích những người trai trẻ ở vương quốc Sakya bồi đắp sức khỏe và trau dồi võ
nghệ. Tất cả những người trẻ trong kinh đô đều được mời tham dự nam cũng như
nữ. Các thiếu nữ tuy không tham dự vào các cuộc tỷ thí những được khuyến khích
có mặt để tán thưởng và cổ võ các chàng trai. Yasodhara, con gái của Dandapani
và của vương phi Pamitta, đứng ra điều khiển việc tiếp tân, Yasodhara là một cô
gái nhan sắc diễm lệ. Nàng tự nhiên và tươi mát như một đóa sen mùa hạ.
Siddhatta
được làm quen với Yasodhara trong đại hội thể thao này. Chàng đã chiếm giải
nhất trong các môn thi bắn cung, đánh kiếm, cõi ngựa và cử tạ.
Yasodhara
được cử đem giải thưởng đến cho Siddhatta. Giải thưởng là một con voi trắng.
Người giật giải quán quân cuộc thi sẽ cỡi voi đi một vòng trong thành
Kapilavatthu trước sự hoan hô của mọi người. Yasodhara đem voi tới cho
Siddhatta. Nàng đi chầm chậm bên voi. Voi đi từng bước có lễ nghi dưới sự điều
khiển của một quản tượng.Tới trước Siddhatta, Yasodhara chắp tay cúi đầu chào
thái tử và nói những lời khen ngợi:
- Xin
điện hạ nhận thớt voi này, phần thưởng dành cho người chiếm giải quán quân của
đại hội thể thao. Em xin thành tâm khen ngợi và chúc mừng điện hạ.
Giọng
nàng thanh tao, dáng điệu nàng thật tự nhiên. Cách phục sức của nàng thật trang
nhã. Nụ cười của nàng chúm chím tươi như một bông sen hàm tiếu. Siddhatta
nghiêng mình đáp lễ. Chàng nhìn Yasodhara, đáp:
- Xin
cám ơn công nương.
Lúc ấy
Devadatta đang đứng ngay sau lưng Siddhatta. Devadatta không được vui, vì chàng
chỉ được đứng hàng nhì trong cuộc thi tài. Thấy Yasodhara không nhìn tới mình,
Devadatta bực tức. Chàng bước tới mấy bước nắm lấy vòi con bạch tượng, dùng tất
cả sức mình, chàng đấm con bạch tượng một đấm như trời giáng và chỗ yếu. Con
bạch tượng đau quá, ngã qụy xuống.
Siddhatta
quay lại nhìn Devadatta:
- Em làm
như thế không tốt.
Nói
xong, chàng đưa tay sờ voi xoa bóp chỗ đau và an ủi nó. Con voi từ từ đứng dậy
được và nghiêng đầu tôn kính chàng. Quần chúng vỗ tay và hoan hô vang dậy.
Siddhatta leo lên mình voi và đám rước bắt đầu diễn hành.
---o0o---
Chương 08
CHUỖI NGỌC
Cuộc
sống trong cung điện hơi ngột ngạt đối với chàng, nên Siddhatta ưa đi ra ngoài
thành. Chàng đã trưởng thành lâu rồi - năm nay chàng hăm bốn - nên đi đâu trong
vòng một vài hôm chàng không phải xin phép vua và hoàng hậu nữa - Siddhatta có
một người hầu cận trung thành là Channa. Chan na thường đánh xe song mã đưa
Siddhatta đi. Có khi chàng rủ bạn hoặc đem em đi theo, có khi chàng đi một mình
với Channa, và rất nhiều khi chàng tự tay cầm ngựa, để cho Channa ngồi chơi bên
cạnh chàng. Siddhatta không bao giờ dùng roi ngựa. Biết vậy nên Channa cũng
không sờ tới cây roi.
Vương
quốc Sakya, chàng đã đi thăm gần như khắp nơi. Phía Bắc của vương quốc là miền
cao nguyên gồm những dãy đồi nối tiếp nhau chạy về phía chân dãy Himalaya. Một
nửa vương quốc là đồng bằng ở vào phía Nam.
Kinh dô
Kapilavatthu ở vào khoảng đất trù phú nhất của miền đồng bằng này. So với các
nước láng giềng Kosala và Magadha, vương quốc Sakya thật bé nhỏ. Đất đai cũng
không phì nhiêu, nhưng vị thế của vương quốc thật là đặc biệt. Các con sông
Rohini và Banganga bắt nguồn từ miền cao nguyên chảy về tưới đồng bằng rồi tiếp
tục đi về miền Nam để chảy về sông Hiranyavati trước khi rót vào sông Hằng.
Siddhatta thường ưa ngồi bên bờ sông Banganga ngắm dòng nước chảy. Dân quê vẫn
tin rằng nước sông này có thể tẩy trừ tội lỗi và nghiệp chướng kiếp trước và
kiếp này cho nên thường hay kính cẩn xuống ngâm mình dưới dòng nước, cả những
khi nước rất lạnh. Có một hôm ngồi với Channa bên bờ sông, Siddhatta chỉ những
người đang tắm ở bên kia sông và hỏi người hầu cận:
- Này
Channa, anh có tin là tắm như thế rất thường thì có thể rửa sạch được nghiệp
chướng không?
- Thưa
điện hạ, có chứ. Nếu không thì người ta tắm làm gì?
Siddhatta
cười:
- Nếu
thế thì đứng về phương diện nghiệp chướng có phải các loài tôm, cá, rùa và sò
ốc là những loài thanh tịnh nhất không? Chúng ở suốt đời dưới sông thì chúng
phải sạch nghiệp hơn chúng ta chứ?
Channa
trả lời:
- Nhưng
ít nhất tắm dưới sông cũng rửa sạch được những cáu bẩn trên da thịt.
Siddhatta
vỗ vai Channa:
- Cái đó
thì anh nói đúng.
Một hôm
trên đường về thành nội, Siddhatta ghé lại thăm một xóm nghèo ở ngoại thành.
Chàng ngạc nhiên thấy Yasodhara đang ở trong xóm. Cùng một đứa ở, nàng đang săn
sóc cho các trẻ em đó. Các em đang được săn sóc đều là những đứa trẻ có bệnh:
đứa thì đau mắt, đứa thì cảm cúm, đứa thì ghẻ chóc. Yasodhra ăn vận rất đơn
giản, nhưng nàng tươi mát như một bà tiên vừa hiện đến giữa bầy trẻ nghèo.
Siddhatta thất cảnh tượng rất đẹp. Chàng sửng sốt khi thấy một người con gái
nhà quyền quý lại chịu thương chịu khó đi làm những công việc như rửa ghẻ, rửa
mắt, xức thuốc, giặt áo cho bọn trẻ nghèo đói.
- Công
nương đã bắt đầu làm các việc này từ bao giờ thế? chàng hỏi. Thật là quý hóa
quá.
Đang rửa
tay cho một em bé gái chừng ba tuổi, Yasodhara ngửng lên nhìn Siddhatta:
- Chúng
em bắt đầu làm công việc này cũng đã gần hai năm rồi, thưa điện hạ. Tuy nhiên
đây chỉ là lần thứ hai em đến xóm này.
- Tôi
đến xóm này thường lắm. Bọn trẻ con trong xóm đều biết tôi. Tôi nghĩ được làm
những công việc này chắc công nương thấy vui trong lòng lắm.
Yasodhara
mỉm cười, không đáp. Nàng cúi xuống tiếp tục rửa mụt ghẻ trên đầu gối của em
bé.
Hôm ấy,
Siddhatta được nói chuyện nhiều với Yasodhara. Chàng ngạc nhiên khám phá ra
rằng Yasodhara có nhiều nhận thức giống chàng. Yasodhara không phải là một cô
gái khuê các chỉ biết vâng theo truyền thống. Nàng cũng biết về tư tưởng Vệ Đà,
cũng ngấm ngầm phản đối tình trạng bất công của xã hội. Cũng như Siddhatta,
nàng không cảm thấy có hạnh phúc trong địa vị giàu sang và nhiều quyền thế của
hoàng tộc. Trái lại nàng ghê tởm những cuộc tranh chấp quyền lợi và địa vị của
những thành phần quý tộc trong triều đình, và ngay ở giới tăng lữ Bà la môn.
Biết mình là gái không thể nào làm được những cuộc thay đổi lớn trong xã hội,
nàng chỉ tìm cách biểu lộ cái thấy của mình và thiết lập sự bình an trong tâm
mình bằng các công việc từ ái. Nàng hy vọng sẽ có những bạn hữu trong giới trẻ
tuổi thấy được ý nghĩa của công việc nàng làm.
Đã có cảm
tình tự nhiên sẵn với Yasodhara từ trước, Siddhatta càng nghe nàng nói càng tỏ
vẻ mến phục nàng. Phụ vương đã ngỏ ý muốn chàng lập gia đình. Yasodhara có thể
là người mà chàng chọn lựa.
Trong
các cuộc gặp gỡ khác như những nhạc hội, vũ hội, Siddhatta đã gặp nhiều thiếu
nữ diễm lệ. Ở Kapilavatthu cũng như ở Ramayana không thiếu những cô gái mặn mà,
Yasodhara tuy không phải là cô gái đẹp nhất mà chàng gặp nhưng đó là cô gái mà
mỗi khi gặp là chàng cảm thấy trong tâm hồn một sự an bình và thoải mái.
Một hôm,
hoàng hậu Gotami muốn chính tự mình tổ chức một cuộc trình diễn quốc phục phụ
nữ. Bà nhờ vương phi Pamita, mẹ của Yasodhara tới giúp mình về việc tổ chức.
Tất cả các thiếu nữ trong thành Kapilavatthu đều được mới tới dự thi.
Người
nào cũng sẽ có giải thưởng nữ trang. Vương phi Pamita đề nghị Siddhatta phát
giải thưởng cho các cô, cũng như tháng trước Yasodhara đã làm công việc tiếp
tân trong đại hội thể thao do bà tổ chức vậy. Vua Suddhodana, triều đình và tất
cả các vị vương tôn công nương đều được mới tham dự. Đêm đầu hạ thật mát, thức
giải khát đặt khắp nơi. Âm nhạc dân tộc làm nền cho buổi dạ hội. Dưới ánh hoa
đăng rạng rỡ, các thiếu nữ tha thướt trong những chiết sari đủ màu và lóng lánh
kim tuyến, từng người một đi ngang tuyền đài trước hàng ghế danh dự trong đó có
vua và hoàng hậu.
Siddhatta
mặc quốc phục đứng về phía bên trái, trước mặt chàng là những xâu chuỗi, vàng
ngọc đủ để phân phát cho cả ngàn người.
Siddhatta
đã từng từ chối việc phát thưởng, nhưng bà Gotami và vương phi Cam Lộ đã nài ép
chàng. “Được thái tử Siddhatta tự tay phát thưởng, đó là một niềm vui lớn cho
bất cứ ai. Con phải biết điều đó”, vương phi Pamita nhìn chàng nói một cách
tươi cười. Đem niềm vui cho kẻ khác đó là việc chàng không muốn từ chối, nên
Siddhatta đã hoan hỷ vâng lời. Giờ đây đứng trước hàng ngàn quan khác chàng
thật không biết làm sao cho thỏa đáng. Mỗi thiếu nữ khi bước lên đài, phải đi
qua một hàng ghế danh dự để mọi người được trông thấy. Đi qua hàng ghế ấy mới
tới chỗ Siddhatta. Thiếu nữ đi đầu là Soma, con của một vị vương tử. Theo sự
chỉ dẫn của vương phi Pamita, nàng tiến tới, bước mấy nấc thang để lên bục và
đi ngang qua đài.
Tới
trước mặt vua và hoàng hậu, nàng quay lại chắp tay cúi đầu chào, rồi từ từ tiến
về bên trái, đi về phía Siddhatta. Đến trước Siddhatta, Soma cúi đầu chào
chàng. Siddhatta đáp lễ, rồi cúi xuống cầm lên một xâu chuỗi ngọc.
Chàng
trao cho Soma, có tiếng cử tọa hoan hô. Soma nghiêng mình cảm tạ.
Nàng lí
nhí mấy câu cám ơn, nhưng Siddhatta không nghe rõ nàng nói gì.
Thiếu nữ
thứ hai là Rohini, tên của dòng sông. Siddhatta có vẻ như không lựa chọn các
phần thưởng cho xứng đáng với vẻ đẹp và sắc phục các thiếu nữ. Vớ được món nữ
trang nào trên bàn, chằng tặng ngay món nữ trang đó.
Vì vậy
cuộc trình diễn đi qua khá mau, dù số thiếu nữ tham dự rất đông, Vào khoảng
mười giờ đêm, các món nữ trang đặt trên dãy bàn dài đã vơi gần hết.
Mọi
người tưởng Sela là thiếu nữ sau chót, và chính Siddhatta cũng nghĩ thế.
Bỗng
dưng, một thiếu nữ từ trên hàng khán đài bước xuống. Đó là Yasodhara. Nàng bước
ra trước khán đài, và quay trở vào vái chào vua và hoàng hậu. Yasodhara vận một
chiếc sari màu trắng ngà, đơn sơ và nhẹ nhàng như một cơn gió sớm.
Duyên
dáng, tự nhiên, nàng bước tới trước Siddhatta, rồi mỉm cười tươi như hoa, nàng
hỏi:
- Điện
hạ, còn món nữ trang nào để cho em không?
Siddhatta
nhìn Yasodhara. Chàng nghiêng mình đáp lễ rồi nhìn xuống mấy món nữ trang còn
lại. Chàng tỏ vẻ bối rối: trong những món còn lại đó chẳng có món nào xứng đáng
với con người đẹp đẽ đang đứng trước mặt chàng.
Đột
nhiên Siddhatta mỉm cười. Chàng đưa tay tháo xâu chuỗi ngọc chàng đang đeo ở
cổ. Cầm chuỗi ngọc lóng lánh trên tray chàng mỉm cười nhìn Yasodhara:
- Đây là
món quà tặng cho công nương.
- Em làm
đẹp cho điện hạ còn chưa hết, lòng nào mà lại lấy món trang sức của điện hạ.
Siddhatta
nói:
- Mẹ ta
hoàng hậu Gotami thường nói là ta chẳng cần đeo đồ trang sức. Càng đeo vào càng
xấu thêm ra. Vậy xin công nương vui lòng nhận món quà này.
Nói xong
chàng ra hiệu cho Yasodhara lại gần và cúi đầu xuống, và chàng mang chuỗi ngọc
lóng lánh vào cho nàng.
Tiếng
hoan hô vang dậy cả trên và dưới khán đài. Tiếng hoan hô kéo dài như không bao
giờ dứt. Mọi người đều đứng dậy và bày tỏ nỗi vui mừng của mình.
---o0o---
Chương 09
CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ CON ĐƯỜNG
Đường
Xưa Mây Trắng - XÃ HỘI Đám cưới của thái tử Siddhatta và công nương Yasodhara
được tổ chức vào mùa Thu năm ấy. Đây là một cuộc vui mừng lớn cho cả vương quốc
Sakya, nhất là cho dân chúng kinh kỳ. Khắp nơi thiên hạ treo cờ, treo đèn, kết
hoa và tổ chức vũ nhạc. Song mã của Siddhatta và Yasodhara điểm tới đâu quần
chúng reo hò tới đó. Siddhatta và Yasodhara cho xe chạy ra cả ngoại thành.
Hai
người đi tới những xóm làng quen biết và đem tặng đủ các thứ quà bánh và vải bô
cho những gia đình túng thiếu nhất.
Vua Suddhodana
truyền dựng cho thái tử ba nơi trú cung, một cung cho mùa Đông, một cung cho
mùa Hạ và một cung cho mùa Mưa. Cung mùa Hạ được xây dựng trên một cảnh đồi
ngoạn mục miền cao nguyên, cung mùa Mưa và cung mùa Đông ở ngay trong thành
nội. Cung nào cũng có hồ sen, hồ toàn sen xanh, hồ toàn sen đỏ, hồ toàn sen
trắng. Áo mũ khăn giày của hai người đều được đặt làm từ thành Baranasi, tận
vương quốc Kasi miền Tây Nam.
Trầm
hương đốt hàng ngày cũng được nhập cảng từ vương quốc ấy.
Vua
Suddhodana rất yên tâm. Vua nghĩ rằng Siddhatta đã đi trúng con đường vua mong
ước, và vua truyền tuyển lựa các nhạc công và vũ công tài ba trong nước để
thường trực giúp vui cho cặp vợ chồng mới cưới của hoàng gia.
Nhưng
hạnh phúc của Siddhatta cũng như của Yasodhara không phải là được sống bưng bít
trong quyền quý và giàu sang. Hạnh phúc của hai người là sự chia xẻ những nỗi
niềm và những ước vọng của tâm linh với người mà mình có thể cởi mở tấm lòng.
Họ không
thực sự để tâm đến các cao lương mỹ vị hoặc các thứ xiêm y lụa là. Họ thấy cái
đẹp của vũ của nhạc nhưng họ không say mê trong việc vui chơi. Họ có những khao
khát riêng của họ: khao khát tìm được những câu trả lời thỏa đáng cho tâm hồn
và cho xã hội.
Mùa nóng
năm sau, nhân được cư trú tới bốn tháng ở cung Hè trên miền cao nguyên.
Siddhattaru Yasodhara đi khám phá thêm về vương quốc Sakya.
Người
hầu cận Channa vẫn luôn luôn là người đánh xe cho Siddhatta. Họ tìm ra được
nhiều phong cảnh sơn thủy rất tú lệ. Họ chuẩn bị để có thể đến cư trú năm bảy
ngày ở những nơi ấy. Có khi họ xin ở lại ngủ nhà của thường dân và tìm dịp giúp
đỡ cho các gia đình nghèo. Họ đã thử ăn những món ăn dân dã, ngủ trên những
chiếc giường tre sọc sạch của người dân, và họ tìm hiểu được rất nhiều về nếp
sống và phong tục tập quán từng vùng.
Có khi
họ gặp những cảnh nghèo khổ cùng cực. Họ gặp những cặp vợ chồng có tới chín
hoặc mười đứa con, đứa nào cũng ốm tong teo, đứa nào cũng bệnh tật, trong khi
đó cả vợ lẫn chồng dù làm việc quần quật suốt ngày đêm cũng chỉ đủ sức nuôi nổi
hai đứa là cùng. Nghèo khổ và bệnh tật là hai cái gánh nặng đè lên kiếp sống
của người dân. Ngoài hai cái gánh nặng ấy, còn có những cái gánh nặng khác: sự
áp chế của giới cầm quyền và sự thống trị của các giáo sĩ Bà la môn. Ở miền
quê, dân chúng có bị giới hương hào áp chế cũng không thể kêu ca vào đâu được.
Kinh thành xa quá, với lại ở kinh thành cũng không quen biết ai.
Siddhatta
nhìn những em bé ốm tong teo, hai chân khẳng khui như những ống sậy và cái bụng
phình to vì giun sán. Siddhatta nhìn những kẻ tàn tật và bệnh hoạn ăn xin ở các
ngã đường. Những cảnh tượng này làm cho thái tử mất hết mọi niềm vui. Chàng
thấy con người bị kềm hãm trong một tình thế không có lối thoát. Chàng thấy dù
chàng có quyền lực của một vị quốc vương chàng cũng không thể thay đổi tình
trạng. Siddhatta biết khá rõ về tình trạng triều đình. Người quyền quý làm đủ
mọi cách để bảo vệ quyền thế và lợi ích của mình, không đếm xỉa gì đến khổ đau
của người khác. Họ lại còn lấn áp nhau, ganh tỵ nhau, và những tranh chấp của
họ làm cho Siddhatta chán ngán cảnh chính trường. Quyền lực của phụ vương chàng
rất giới hạn và mỏng manh, Siddhatta thấy rất rõ điều ấy. Làm vua như phụ vương
chàng không thật sự có tự do. Vua bị ràng buộc đủ thứ, và quyền bính lại chính
là tù ngục đang giam hãm vua. Phụ vương chàng biết trong triều đình có những vị
đại thần hư hỏng và nhiều tham vọng, nhưng lại phải dựa vào những người ấy cho
tình thế ổn định. Chàng nghĩ nếu chàng đứng vào địa vị của cha, có thể chàng
cũng phải làm như thế. Chàng thấy chỉ khi nào con người chuyển đổi được nội tâm
mình, đập tan được những tham vọng và ganh tỵ trong nội tâm mình thì cảnh huống
con người mới có thể thay đổi, và niềm ước ao ngày xưa bừng dậy trong chàng:
tìm ra được một lối thoát cho tâm linh.
Yasodhara
là một cô gái rất thông minh. Nàng hiểu được tâm trạng chồng.
Nàng có
đức tin nơi Siddhatta: nàng biết nếu Siddhatta quyết tâm tìm kiếm con đường
giải thoát thì chàng sẽ tìm ra. Nhưng nàng cũng là một cô gái rất thực tế: cuộc
tìm kiếm này có thể kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm, trong khi những khổ
đau hiện thực vẫn xảy ra hàng ngày trong cuộc sống. Vì vậy nàng nghĩ phải làm
một cái gì ngay trong giờ phút hiện tại. Và nàng bàn với Siddhatta những phương
pháp có thể làm vơi bớt nỗi khổ của những người thiếu may mắn nhất trong vương
quốc. Công việc này nàng đã bắt đầu từ hơn hai năm nay ở các xóm nghèo. Công
việc ấy một mặt có thể thoa dịu bớt khổ đau của một số người, một mặt có thể
đem lại chút ít bình an và hạnh phúc cho tự tâm nàng. Yasodhara tin rằng tình
yêu của Siddhatta có thể là lưng tựa vững chải và lâu dài cho công việc ấy.
Từ thủ
đô Kapilavatthu, các vật dụng cần thiết cho cuộc sống tại Hạ cung vẫn được chở
tới đều đều. Trong cung số người hầu cận, nấu nướng, dọn dẹp và chăm sóc rất
đông. Siddhatta và Yasodhara gửi bớt những người này về thành. Họ chỉ giữ lại
một số người đủ để chăm sóc vườn cảnh, nấu nướng và dọn dẹp. Và cố nhiên là họ
giữ lại Channa. Yasodhara tổ chức lại đời sống hàng ngày cho thật đơn giản.
Nàng hay vào bếp chỉ dẫn cách thức nấu những món ăn đơn giản mà hạp với khẩu vị
của Siddhatta. Nàng ưa tự tay săn sóc sự ăn uống và sự phục sức của chàng. Nàng
luôn luôn tham khảo ý kiến của Siddhatta về những công việc xã hội mà nàng dự
tính tiếp tục khi trở về thủ đô. Siddhatta hiểu biết được nhu cầu hành động của
nàng và luôn luôn tỏ ý quan tâm về những dự án này khiến cho Yasodhara càng lúc
càng thêm tin tưởng.
Tuy hiểu
được Yasodhara và biết giá trị của công việc nàng làm, Siddhatta vẫn thấy con
đuờng của nàng chưa phải là con đường có thể thực sự đem lại an lạc cho tâm
linh. Lối thoát mà nàng nghĩ đã tìm ra chỉ là một phương thuốc thoa dịu có tính
cách tạm bợ. Con người bị trói buộc không những bởi những điều kiện trong xã
hội mà còn bởi những phiền não nội tâm nữa.
Yasodhara
hiện có thể làm được một ít công việc giúp người nghèo khó và bị áp bức, nhưng
trong xã hội mấy ai có được những điều kiện thì giờ và vật chất để làm được như
nàng, và nếu Yasodhara bị kẹt vào một trong những tâm lý sợ hãi, ganh tỵ, cay
đắng hoặc oán thù, liệu nàng có đủ nghị lực để tiếp tục công việc? Tự thân
Siddhatta cũng đã trải qua những giai đoạn nghi ngờ, bất mãn, khổ đau và bực
tức khi nhận ra được thực trạng trong triều và ngoài nội. Không vượt thoát được
những khổ đau của nội tâm, không đạt tới được sự an bình của nội tâm thì hành
động xã hội lấy đâu làm căn cứ xuất phát? Chàng nghĩ như thế nhưng chàng không
nói với Yasodhara. Chàng không muốn nàng lo âu và nghi nan trong giai đoạn này.
Khi hai
vợ chồng trở về kinh đô vào mùa Đông năm ấy, các anh em và bạn bè tới thăm hỏi
thật đông. Tại cung mùa Đông, Yasodhara tiếp đãi khách khứa và bạn bè rất ấm
cúng và chu đáo. Những câu chuyện mà nàng nghe Siddhatta nói với các bạn bên lò
sưởi thường là câu chuyện tư tưởng triết học và đạo học có liên hệ tới tình
trạng chính trị và xã hội. Đi lại trong phòng và hướng dẫn các thị nữ mang trà
nước cho khách, nàng không bỏ sót một câu chuyện nào. Nàng để ý trong số các
bạn và người thân thích xem có ai là người đồng điệu có thể mời cộng tác với
mình trong công tác cứu tế người cùng khổ, nhưng nàng không thấy được mấy ai.
Đa số bạn bè thường ưa ăn to nói lớn, có người thì quá phù phiếm, có người thì
chỉ chú trọng đến chuyện tổ chức những cuộc vui. Nhưng Siddhatta phải kiên nhẫn
ngồi tiếp hết mọi người.
Khách
khứa tuy vậy cũng thưa dần. Yasodhara bắt đầu tổ chức trở lại công việc cứu tế
của nàng với sự phụ giúp của mấy người thị nữ hầu cận. Nàng sung sướng lắm, bởi
vì ngoài Siddhatta, nàng đã có thêm một người hiểu nàng, thương nàng và yểm trợ
công việc của nàng: đó là phu nhân Gotami, tức là hoàng hậu Mahapajapati. Hoàng
hậu rất quan tâm đến hạnh phúc của nàng, bởi bà biết nếu nàng có hạnh phúc thì
Siddhatta cũng có hạnh phúc, nhưng không phải chỉ lý do đó mà bà ủng hộ công
tác cứu trợ của Yasodhara, bà là người có lòng nhân từ, và ngay trong chuyến
đầu đi với Yasodhara vào xóm cùng dân, bà đã thấy ngay được giá trị của công
việc Yasodhara đang làm, giá trị ấy không phải là những vật dụng mà người cứu
trợ đem tới như gạo, bột mì, vải và thuốc men ... Giá trị ấy là cái nhìn, hai
bàn tay và tình thương của người đã chịu đi tới tiếp xúc với những người kém
may mắn. Hoàng hậu Mahapajapati không phải là một người đàn bà tầm thường. Bà
thường nói với Yasodhara rằng người đàn bà cũng có đủ trí tuệ và sức khỏe để
đảm nhiệm những trách vụ trong xã hội không thua gì người đàn ông. Người đàn bà
có khả năng tạo ra khung cảnh ấm áp và hạnh phúc của gia đình nhưng không phải
vì vậy mà người đàn bà sinh ra là để ở suốt ngày trong bếp núc. Gotami đã tìm
thấy nơi người con dâu một người bạn đồng chí, bởi vì Yasodhara vốn là một cô
gái có chí khí và có nhận thức độc lập. Không những bà muốn yểm trợ tinh thần
cho Yasodhara mà bà còn hứa sẽ làm việc chung với nàng.
---o0o---
Chương 10
CHỮ TÂM KIA MỚI BẰNG BA CHỮ TÀI
Trong
khi đó quốc vương Suddhodana tỏ ý muốn Siddhatta thân cận với vua hơn để có cơ
hội thực tập về chính sự. Thái tử được mời dụ những buổi họp quốc sự, khi thì
riêng với phụ vương, khi thì chung với quần thần. Chàng để hết tâm ý vào các
vấn đề chính trị, kinh tế và quân sự được đưa ra và chàng nhận ra rằng căn bản
của các vấn đề nằm ở nhận thức và tư dục của người làm chính sự. Khi mà tâm
người đã trấn ngự bởi ý thức về quyền lợi cá nhân, gia đình và dòng họ rồi thì
mọi quyết định về chính sách không thể nào còn khách quan nữa, và như vậy chính
sách không còn thực sự nhắm vào việc lợi nước lợi dân. Siddhatta ngồi nghe và
đoán biết được tâm lý của những người cộng sự với phụ vương chàng. Chàng thấy
được những tư dục của họ, có khi chàng thấy được cái mặt trái giả đạo đức của
họ và đồng thời cũng thấy một niềm tức giận nảy sinh và tràn dâng trong lòng,
nhưng Siddhatta biết mình phải kềm chế niềm tức giận ấy. Chàng biết chàng có
thể nói huỵch toẹt ra giữa triều đình những điều không mấy tốt đẹp ấy nhưng
chàng đã ngậm miệng không nói, bởi vì chàng không có hoặc chưa có phương pháp
gì đối trị. Nói ra chỉ là để gây đổ vỡ mà thôi, và như vậy lại tạo thêm những
khó khăn cho phụ vương chàng.
- Tại
sao con không góp ý kiến với triều thần mà chỉ ngồi im lặng thế? Vua Suddhodana
hỏi chàng, sau một buổi chầu trong đó các quan đã bàn luận rất lâu về chính sự.
Siddhatta
nhìn cha:
- Không
phải là con không ý kiến, nhưng những ý kiến của con, nếu nói ra, cũng không có
ích lợi gì, vì chúng chỉ có thể nêu ra chứng bệnh mà chưa phải là phương thuốc
trị bệnh. Con thấy con chưa có đủ khả năng để thay đổi tâm trạng của các quan.
Tư dục của họ còn nặng nề lắm và con biết con chưa có thể làm việc được với họ.
Phụ vương nghĩ xem. Quan phụ chính đại thần Vessamitta là một người có quyền
lực rất lớn trong triều đình. Phụ vương biết rằng ông ta không liêm khiết và
nhiều khi ông ta lấn cả quyền của phụ vương. Ấy vậy mà phụ vương vẫn phải dùng
ông ta. Tại sao? Tại phụ vương biết nếu không dùng ông ta thì triều đình có thể
rối loạn.
Vua
Suddhodana nhìn con, im lặng một hồi lâu. Rồi vua nói:
- Nhưng
con cũng biết là để cho yên nước yên nhà, nhiều khi ta phải chịu đựng. Ta biết
quyền lực ta có giới hạn, nhưng nếu con tập làm chính sự, sau này con sẽ giỏi
hơn ta và con sẽ có đủ tài năng để thanh lọc lại hàng ngũ của chính quyền mà
không gây ra những xáo trộn cho xứ sở.
Siddhatta
đưa tay lên trán. Chàng thở dài:
- Con
không tin rằng tài năng là yếu tố căn bản. Con nghĩ rằng vấn đề căn bản là giải
phóng được cho tâm mình. Con biết là chính con, con cũng bị khuynh đảo bởi
những tình cảm như buồn giận, ganh ghét, sợ hãi và những ham muốn dung thường.
Những
cuộc đàm luận ngắn như thế giữa hai cha con càng ngày càng làm cho vua lo lắng.
Vua thấy Siddhatta là một người có nhận thức rất sâu sắc nhưng cũng là một
người ưa đòi hỏi cái tuyệt đối. Vua thấy được sự khác biệt giữa mình và thái
tử. Tuy vậy trong lo lắng, vua vẫn cố nuôi hy vọng.
Vua hy
vọng rằng nếu Siddhatta tiếp xúc lâu ngày với người và với việc, thái tử sẽ có
thể một ngày nào đó chấp nhận cái tương đối trong cuộc đời.
Trong
lúc ấy, Siddhatta không bao giờ ngưng học hỏi. Ngoài công việc học tập chính sự
và giúp đỡ Yasodhara, chàng tìm cách tiếp xúc với các vị Bà la môn và sa môn
nổi tiếng trong xứ để học hỏi thêm. Chàng biết rằng học đạo không phải chỉ là
học những tư tưởng uyên áo chứa đựng trong các thánh thư mà còn là học phép
thiền định để đạt tới sự giải phóng tâm ý. Chàng rất ưa đi tìm những vị sa môn
ẩn cư để học hỏi và thực tập, và chàng đem những gì đã được học về để thực tập
ngay trong cung điện. Thỉnh thoảng Siddhatta cũng đem những điều mình đã học và
đang thực tập ra để chia xẻ với Yasodhara. Chàng hay nói với nàng:
- Này
Gopa, có lẽ em phải thực tập thiền định thì tâm em sau này mới an được và em
mới có thể làm việc xã hội được lâu dài.
Gopa là
tên nhỏ của Yasodhara, chàng hay gọi nàng bằng tên này một cách âu yếm.
Yasodhara
nghe lời chàng. Tuy bận rộn công việc, nàng vẫn thường chịu thiền tập. Có khi
hai người ngồi chung trong im lặng. Tất cả các người hầu cận đều phải rút lui
trong những giờ giấc ấy, những đoàn ca vũ được hai người cho đi làm việc ở
những nơi khác.
Từ hồi
ấu thơ, Siddhatta đã từng được nghe về bốn giai đoạn trong đời sống của một
người Bà la môn. Tuổi trẻ, người con trai Bà la môn phải học kinh Vệ Đà. Đó là
giai đoạn đầu. Giai đoạn thứ nhì, thành người, là giai đoạn lập gia đình, nuôi
dưỡng con cái và phục vụ xã hội. Giai đoạn thứ ba, khi con cái đã lớn khôn, thì
có thể rút lui làm ẩn sĩ, và trong giai đoạn thứ tư, buông bỏ mọi ràng buộc với
cuộc đời, người Bà la môn có thể sống đời sống xuất thế. Siddhatta nghĩ rằng bốn
giai đoạn ấy của cuộc đời đã được chia ra một cách quá rạch ròi. Đợi đến già
mới học đạo thì sẽ trễ tràng quá. Chàng không thể chờ đợi được.
- Tại
sao ta không thể sống bốn cách ngay trong một giai đoạn? Tại sao không tập sống
đời xuất thế ngay khi ta còn có gia đình?
Nghĩ
vậy, Siddhatta có ý bắt đầu học đạo và hành đạo ngay trong đời sống hiện tại.
Tuy nhiên, chàng không thể không nghĩ tới những đạo sĩ nổi danh đang hành đạo ở
phương xa, mãi tận Savathi hay Rajagaha. Chàng tin rằng nếu được du phương học
đạo với những bậc thầy nổi danh chàng sẽ có thể đạt đạo mau chóng. Các bạn và
ngay các vị sa môn ẩn cư mà chàng đi thăm đều có nhắc đến tên những sa môn nổi
tiếng như Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Ai cũng ước mong được tiếp xúc và
học hỏi với các vị này.
Càng
ngày Siddhatta càng thấy niềm mong ước của mình trở nên thúc bách.
Một buổi
chiều Yasodhara đi làm việc về mặt buồn rười rượi. Nàng đăm chiêu không nói. Em
bé bị thương hàn mà nàng chăm sóc từ hơn một tuần nay vừa mới chết. Mấy hôm nay
nàng đã làm đủ mọi cách mà không rứt em ra khỏi tay tử thần. Buồn quá, nàng
ngồi thiền định. Nàng không ngăn được cảm xúc, Siddhatta vừa dự một buổi họp
triều chính về. Trông thấy chàng, Yasodhara òa lên khóc, Siddhatta ôm nàng
trong hai tay và hỏi han cớ sự.
Chàng
tìm cách an ủi nàng:
- Gopa,
ngày mai ta sẽ đi với em để dự đám tang của em bé. Em cứ khóc đi cho nhẹ bớt
nỗi khổ trong lòng. Sinh, già, bệnh, chết là những gánh nặng đè lên vai của tất
cả mọi người, những gì xảy đến cho em bé đều có thể xảy ra cho chúng ta, bất cứ
lúc nào.
Yasodhara
thổn thức:
- Càng
ngày em càng thấy điều điện hạ nói là đúng. Khổ đau thì vô cùng mà hai bàn tay
thì nhỏ bé. Lòng em cũng đầy sự bất an. Anh ơi, anh chỉ cho em cách nào để em
đối trị được những khổ đau và lo lắng trong lòng đi anh.
Siddhatta
ôm Yasodhara chặt trong hai tay chàng:
- Em ơi,
chính anh cũng đang đi tìm con đường để đối trị những khổ đau và lo lắng trong
anh. Anh đã nhìn thấy thực trạng của xã hội và của con người, nhưng anh chưa
thấy được nẻo thoát dù anh đã bỏ công học hỏi và tìm kiếm.
Tuy
nhiên anh tin rằng một ngày nào đó anh sẽ tìm ra được con đường cho tất cả
chúng ta, Gopa, em hãy có lòng tin nơi anh.
- Em bao
giờ mà không có lòng tin nơi anh. Em biết một khi đã quyết định một điều gì thì
anh sẽ đi đến cùng để thực hiện cho kỳ được điều ấy. Em biết một ngày nào đó
anh sẽ bỏ hết phú quý giàu sang và ngai vàng để ra đi tìm đạo, nhưng anh ơi,
xin anh đừng bỏ em trong giai đoạn này. Em rất cần anh.
Siddhatta
nâng cằm Yasodhara lên, nhìn vào mắt nàng:
- Không,
không, anh không bỏ em bây giờ đâu. Chừng nào, chừng nào ...
Yasodhara
bịt miệng Siddhatta lại:
-
Siddhatta anh, anh đừng nói gì vội. Em muốnhỏi anh điều này: nếu anh có một đứa
con với em, thì anh muốn đó là con trai hay là con gái?
Siddhatta
giật mình, chàng nhìn Yasodhara chăm chú:
- Em nói
sao, Gopa? Có phải em đã, em đã ...
Yasodhara
gật đầu, nàng chỉ vào bụng và nói:
- Em rất
sung sướng vì em đang được mang trong em hoa trái của tình yêu chúng ta. Em
muốn nó sẽ là con trai, và có khuôn mặt giống anh, thông minh như anh, và hiền
đức như anh.
Siddhatta
đưa hai vòng tay ôm lấy Yasodhara vào lòng. Trong nỗi vui mừng lớn lao, chàng
chợt nhận ra những hạt giống của sự lo lắng. Tuy nhiên chàng tươi cười nói với
Yasodhara:
- Em
sinh con trai hay con gái thì anh cũng mừng như nhau. Miễn là con chúng ta sẽ
vừa nhân từ vừa thông tuệ như em. À này, Gopa, em đã báo tin này cho mẹ biết
chưa?
- Em
chưa cho ai biết hết, trừ anh ra. Chiều nay em sẽ vào cung Thánh Từ báo cho
lệnh bà Gotami. Nhân tiện để em học hỏi với mẹ về cách nuôi dưỡng thai nhi, em
cũng sẽ báo tin này cho phu nhân Pamita mẹ của em ngày mai. Chắc mọi người sẽ
mừng lắm.
Siddhatta
gật đầu. Chàng biết là khi nghe tin này, dì mẫu của chàng sẽ báo tin ngay cho
phụ vương chàng. Phụ vương sẽ rất hài lòng và sẽ tổ chức một lễ ăn mừng lớn.
Siddhatta có cảm tưởng là những sợi dây ràng buộc chàng với cuộc đời ở cung
điện càng ngày càng siết chặt lại.
---o0o---
Chương 11
TIẾNG SÁO CANH KHUYA
Udayin,
Devadatta, Kimbila, Mahnama, Kaludayi và Anuruddha là những người bạn thường
đến chơi với Siddhatta để luận bàn chính trị và đạo đức cùng với Ananda và
Nanda, họ sẽ là những người thần tử thân cận nhất của Siddhatta sau này khi
chàng lên nối ngôi vua. Những cuộc đàm luận kéo dài sau tiệc rượu, và chiều ý
các bạn, Siddhatta đã để cho những đoàn vũ nhạc của hoàng gia trình diễn có khi
đến suốt đêm. Devadatta thường nói thao thao bất tuyệt về chính trị. Udayin và
Mahanama là những người hưởng nứg nhiều nhất và thảo luận về những điểm mà
Devadatta đưa ra ma không biết mệt mỏi. Siddhatta nói rất ít. Có khi giữa một
hội ca vũ, nhận thấy Anuruddha ngồi ngủ gục không tỏ ý gì tha thiết với các
cuộc vui, chàng nắm tay Anuruddha đưa ra vườn. Hai người im lặng ngắm trăng và
nghe tiếng suối róc rách chảy. Anuruddha là em ruột của Mahanama. Hai người đều
là con trai của thân vương Amiriodana, chú ruột của Siddhatta. Anuruddha tính
tình hòa nhã, diện mạo xinh đẹp, thường được các công nương để ý theo dõi,
nhưng chàng không để tâm tới chuyện tình duyên. Có khi Siddhatta và Anuruddha
ngồi chơi ngoài ngự viên thật khuya, và khi tiếng đàn hát trong cung đã im bặt
chàng mới lấy ống sáo ra thổi dưới ánh trăng vằng vặc. Lúc này các vương tử và
bạn bè đều say sưa hoặc mệt mỏi nên đã được mời vào an nghỉ trong cung tại các
phòng dành cho tân khách. Sau khi sắp đặt đâu đấy xong xuôi và cho bọn người
hầu đi ngủ, Copa thường đi đốt một lò trầm nhỏ và đem ra vườn. Nàng lặng lẽ đặt
lư trầm lên bệ đá rồi ngồi xuống trên một chiếc ghế gần bên để lắng nghe tiếng
sáo dìu dặt bỗng trầm trong canh khuya.
Thấm
thoát mà đã đến ngày Yasodhara mãn nguyệt khai hoa. Vương phi khuyên con ở lại
nội cung để sinh nở mà đừng về quê ngoại ở Ramagama, bởi chính bà cũng đang cư
trú ở Kapilavatthu. Bà bàn với hoàng hậu ma và sắp đặt mời các bà mụ giỏi nhất
trong kinh đô về cung để giúp Yasodhara.
Ngày
Yasodhara lâm bồn, hoàng hậu Gotami có mặt mà vương phi Pamita mẹ của Yasodhara
cũng có mặt. Mọi người yên lặng chuẩn bị giờ ra đời của em bé. Trong cung, một
bầu không khí nghiêm trọng bao phủ. Vua Suddhodana không có mặt ở đây nhưng
Siddhatta biết rằng phía bên kia cung điện phụ vương chàng cũng đang khắc khoải
chờ đợi. Mới vừa đây, Yasodhara còn ngồi với chàng, khi bắt đầu kêu đau,
Yasodhara đã được các thị nữ vực vào phòng trong. Bây giờ là vào giữa trưa, nhưng
bỗng dưng trời tối sầm lại như có bàn tay ai che mát mặt trời. Siddhatta ngồi
ngoài này, cách nàng tới hai lớp cửa, nhưng những tiếng rên siết của nàng từ
bên trong đưa ra chàng đều nghe rõ mồn một. Càng lúc niềm lo lắng của chàng
càng lớn thêm, rồi những tiếng đau đớn của Yasodhara vọng lên không ngớt.
Siddhatta
nóng ruột, những tiếng gào của nàng làm nát cả tâm can thái tử.
Chàng
không thể ngồi yên một chỗ. Chàng đứng dậy đi bộ trong phòng, có khi Yasodhara
thét lên những tiếng lanh lảnh làm cho chàng hốt hoảng. Mẹ sinh ra chàng, hoàng
hậu Mahamaya, ngày xưa vì sinh chàng mà đã mệnh chung; chàng không bao giờ quên
sự thật nát lòng này. Bây giờ đến Yasodhara. Bây giờ đến đứa con của chàng.
Sinh đẻ là một cửa ải mà người đàn bà có chồng phải có lúc vượt qua: một cửa ải
nguy hiểm không cùng.
Qua được
là sống mà không qua được là chết, mà có khi chết cả hai mẹ con.
Nhớ đến
lời dạy của vị sa môn mà chàng đi thăm mấy tháng về trước, chàng ngồi lại trong
tư thế hoa sen để bắt đầu điều phục tâm ý. Đây là một giây phút thử thách.
Chàng phải giữ được tâm bình lặng trước những tiếng thét của Yasodhara. Chàng
vừa ngồi lại thì bỗng thấy hình bóng của một em bé sơ sinh hiện ra trong óc.
Hình bóng của đứa con chàng. Ai cũng mong ước cho chàng có một đứa con, và sẽ
vui mừng cho chàng vì chàng có một đứa con. Chính chàng, chàng cũng đã ao ước
có một đứa con, nhưng bây giờ đây, trong giờ phút quyết liệt này, chàng cảm
thấy có một đứa con là một biến cố vô cùng quan trọng. Mình chưa tìm ra được
đường đi cho chính mình, mình chưa biết mình đi về đâu, mà mình sinh con ra há
chẳng phải tội nghiệp cho con lắm sao?
Bỗng
nhiên tiếng la hét của Yasodhara im bặt. Chàng bật người đứng dậy, Cái gì đang
xảy ra? Trái tim của chàng đập mạnh. Để lấy lại bình tĩnh chàng chú tâm vào hơi
thở. Chính vào lúc ấy có tiếng oe oe của một đứa trẻ vọng ra. Biết là em bé đã
sinh, Siddhatta đưa tay lên mồ hôi trên trán.
Bà
Gotami mở cửa đi ra nhìn chàng, miệng bà mỉm cười. Siddhatta biết rằng mẹ con
Yasodhara đã được bình yên. Hoàng hậu ngồi xuống phía trước mặt chàng. Bà nói:
- Gopa
đã sinh con trai.
Siddhatta
mỉm cười, nhìn mẹ với cặp mắt cám ơn. Chàng nói:
- Con
đặt tên cho nó là Rahula.
Chiều
hôm đó, Siddhatta được vào thăm hai mẹ con Rahula. Hai mắt sáng ngời nhìn
chàng, tràn đầy hạnh phúc. Bên cạnh nàng là em bé. Em bé đã được bọc trong lụa,
và chàng chỉ thấy được khuôn mặt bụ bẫm của con.
Siddhatta
nhìn Yasodhara. Nàng ra đấu ưng thuận. Chàng cúi xuống bế Rahula lên và ôm con
vào trong hai tay. Yasodhara nhìn theo. Cũng như hồi nãy, chàng vừa có cảm giác
phơi phới lâng lâng mà cũng vừa có cảm giác lo lắng nặng nề.
Yasodhara
được tĩnh dưỡng nhiều ngày trong cung. Hoàng hậu Gotami săn sóc nàng thật kỹ
lưỡng từ thức ăn đến lò sưởi. Mỗi buổi chiều, khi về đến tư cung, Siddhatta lại
vào thăm hai mẹ con. Ôm Rahula trong tay, Siddhatta cảm thấy sự quý giá và mong
manh của một mầm sống. Chàng nhớ lại hôm đi đám hỏa táng của em bé ở xóm nghèo.
Em bé là một em bé trai chỉ chừng bốn tuổi. Xác nó còn để trên giưòng, khi
chàng với Yasodhara tới. Em bé không có một chút sinh khí nào. Thân hình nó vừa
trắng bệch, vừa xanh xao, vừa gầy ốm. Mẹ của em bé vẫn còn ngồi bên giường vừa
chùi nước mắt vừa khóc kể. Một lát sau, ông thầy Bà la môn tới. Mấy người láng
giềng đã túc trực tại đó từ bao giờ. Họ quấn xác em bé vào trong vải hồng rồi
đặt em bé vào trong một cái cáng tre mà họ đã làm sẵn để đưa em ra bờ sông.
Siddhatta và Yasodhara đi theo sau, trong đám người nghèo khổ. Ngoài bờ sông,
đã có dựng một hỏa đàn nhỏ, rất đơn giản. Theo sự chỉ dẫn của ông thầy cúng,
người ta khiêng cáng xuống sông và nhúng xác em bé vào dòng nước. Đó là lễ tẩy
tịnh; người ta tin rằng nước sông Banganga thiêng liêng sẽ rửa sạch nghiệp
chướng của em bé. Rồi người ta đem cáng lên bờ đặt xuống để nước giọt đi bớt.
Một người đàn ông đi chế dầu thơm vào hỏa đàn. Thi thể của em bé được đạt lên
giàn hỏa. Ông thầy Bà la môn, tay cầm đuốc, vừa đi quanh hỏa đàn vừa đọc kinh,
Siddhatta nhận ra những đoạn trong kinh Vệ Đà. Đi quanh được ba vòng, ông thầy
châm lửa vào giàn hỏa. Lửa phật cháy, Mẹ và các anh chị của đứa bé òa lên khóc.
Lửa đã bắt đầu táp vào thi thể em bé.
Siddhatta
nhìn Yasodhara. Mắt nàng đẫm lệ. Siddhatta bất giác cũng muốn khóc. Bé ơi, bé
ơi, bé đang đi về đâu?
Siddhatta
trả Rahula lại cho mẹ nó. Chàng đi ra vườn ngự, và chàng ngồi ở ghế đá một mình
cho đến khi màn đêm buông xuống và một cô thị nữ ra tìm chàng:
- Tâu
điện hạ, lệnh bà cho con đi tìm điện hạ. Hoàng thượng ngự giá sang thăm.
Siddhatta
đi vào. Đèn đuốc đã được thắp lên sáng trưng trong cung điện.
---o0o—
Chương 12
CON NGỰA KANTHAKA
Sức khẻo
của Yasodhara trở lại bình thường, và nàng đã có thể bắt đầu lại công việc, tuy
rằng nàng để khá nhiều thì giờ lo cho bé Rahula. Một sáng mùa Xuân nọ, Channa
đánh xe song mã đưa Siddhatta và Yasodhara đi ra ngoài thành du ngoạn, theo lời
khuyên nhủ của bà Gotami. Rahula cũng được ẵm theo và một cô thị nữ tên Ratna
cũng được đi theo để săn sóc bé.
Nắng ấm
đã lên. Lá cây xanh mơn mởn. Hoa nở khắp nơi, những cây vô ưu và những cây hồng
táo nở hoa đầy mình. Chim chóc ca hát bốn phía. Channa cho xe đi chậm. Có những
người dân quê nhận ra được Siddhatta và Yasodhara. Họ đứng dậy đưa cả hai tay
lên vẫy. Xe đã ra tới bờ sông Banganga. Bỗng nhiên, Channa ghim cương ngựa lại.
Mọi người nhìn về phía trước mặt. Một người đang nằm chặn giữa đường, tay chân
người đó co quắp lại. Toàn thân người đó run rẫy. Miệng người đó không ngớt kêu
rên.
Siddhatta
nhảy xuống, lại gần. Channa cũng buộc cương ngựa vào thành xe, nhảy xuống.
Người nằm bên đường là một người đàn ông, tuổi chưa tới ba mươi. Siddhatta cầm
lấy tay người ấy và ngước mắt hỏi Channa:
- Ngưòi
này trúng gió phải không, Channa? Anh hãy giúp ta xoa bóp và đánh gió cho ông
ta.
Channa
lắc đầu:
- Thưa
điện hạ, đây không phải là triệu chứng của người trúng gió. Người này mắc phải
chứng dịch hạch. Chứng này hiện chưa có thầy thuốc nào biết cách chữa.
- Khổ
chưa, thái tử Siddhatta nhìn kỹ lại người bệnh. Ta có nên chở ông ta về cho ngự
y xem xét không?
- Thưa
điện hạ, bệnh này ngự y cũng không trị nổi, mà bệnh này lại hay lây.
Nếu ta
chở người này lên xe thì bệnh có thể lây tới lệnh bà, tới cậu Rahula, và tới cả
điện hạ nữa. Xin điện hạ buông tay người ấy ra đi, kẻo nguy hiểm lắm.
Siddhatta
vẫn không buông tay người bệnh. Chàng nhìn tay người bệnh rồi nhìn lại tay
chàng. Chàng biết chàng là một người mạnh khẻo, nhưng nhìn thấy người bệnh trạc
tuổi mình đang nằm trước ngưỡng cửa của cái chết, bao nhiêu sự tự hào về sức
khẻo và sự may mắn của riêng mình đột nhiên tan biến hết nơi chàng. Từ bờ sông,
bỗng có tiếng khóc than vọng lại. Chàng đưa mắt nhìn lên. Lại một đám ma. Lại
một giàn hỏa. Tiếng đọc kinh đã vọng lên chen lẫn với tiếng khóc than và tiếp
đến là tiếng phần phật của giàn lửa bốc cháy.
Siddhatta
nhìn xuống thì người bệnh dưới chân mình đã tắt thở. Hai con mắt ông ta còn
trợn trừng. Chàng đặt bàn tay người ấy xuống, đưa tay vuốt mắt người chết. Khi
đứng dậy thì chàng thấy Yasodhara đã đứng dẵn sau lưng chàng không biết từ lúc
nào.
Nàng nói
giọng nhỏ nhẹ:
- Xin
điện hạ xuống rửa tay dưới bến sông. Channa, anh cũng nên xuống sông rửa tay
đi. Rồi chúng ta đánh xe vào xóm báo cho nhà chức trách địa phương biết để họ
lo liệu.
Cuộc du
hành mùa Xuân tới dây là chấm dứt. Siddhatta báo Channa đánh xe trở về cung
điện. Trên đường về không ai nói với ai một lời nào.
Tối hôm
ấy, Yasodhara nằm mơ thấy toàn là những ác mộng. Trong giấc mơ đầu, nàng thấy
một con bò mộng trắng, trên đầu có gắn một viên ngọc lớn lấp lánh như sao Bắc
đẩu. Con bò đi từng bước thong thả qua đường phố thành Kapilavatthu và hướng về
cổng thành. Từ đền thờ Indra, có tiếng thiên thần la lớn: “Nếu không giữ được
con bò này lại thì kinh đô này còn đâu là ánh sáng”. Mọi người trong thành đều
chạy đến cố sức giữ bò lại, nhưng rốt cuộc, không ai giữ được nó. Con bò thoát
ra khỏi thành và đi mất.
Trong
giấc mộng thứ hai, nàng thấy bốn vị vua trời từ trên đỉnh núi Tu Di phóng hào
quang ngay thành Kapilavatthu. Ngọn cờ đang bay phấp phới trên đền thờ Indra
bỗng dưng đập mạnh và rơi xuống đất. Hoa ở trên trời rơi xuống như mưa, hoa đủ
năm màu, chói lọi. Khắp nơi như mở đại hội, và tiếng nhạc từ trên không vang
dội khắp kinh kỳ.
Trong
giấc mộng thứ ba, nàng nghe tiếng hô to trong không gian: “Giờ đã đến! Giờ đã
đến!”. Nàng hoảng hốt nhìn sang chỗ Siddhatta ngồi thì không còn thấy Siddhatta
ở đấy. Những chiếc hoa lài cài trên tóc nàng bỗng rơi xuống sàn nhà và biến
thành tro bụi. Tất cả những áo mão và đồ trang sức mà Siddhatta để lại trên ghế
chàng bây giờ bỗng biến thành một con rắn đang trườn ra phía cửa. Trong hoảng
hốt, nàng nghe tiếng rống của con bò trắng từ phía ngoài thành. Nàng nghe tiếng
phần phật của ngọn cờ trên đền thờ Indra, và nàng nghe tiếng hô lớn trong không
gian: “Giờ đã đến! Giờ đã đến!”.
Yasodhara
thức giấc. Trán nàng toát mồ hôi. Quay sang phía Siddhatta, nàng lay chàng dậy:
- Anh,
anh ơi, anh thức dậy đi anh.
Siddhatta
vẫn còn thức. Chàng đưa tay vỗ về Yasodhara. Chàng nói:
- Em vừa
mới mơ thấy gì đó? Hãy kể cho anh nghe đi.
Yasodhara
kể lại những giấc mộng của nàng, và nàng hỏi chàng:
- Có
phải những giấc mộng ấy báo trước rằng anh sẽ ra đi tìm đạo và bỏ em ở nhà một
mình phải không anh?
Siddhatta
im lặng nghe. Chàng an ủi nàng:
- Này
Gopa, em đừng buồn. Anh biết em là một người có chí khí. Anh biết em là người
cộng sự của anh, và em có thể giúp anh hoàn thành được chí nguyện. Em hiểu anh
hơn ai hết trong những người thân thuộc của chúng ta.
Vậy nếu
mai này mà anh phải đi và phải xa em, xa em trong một thời gian, anh mong rằng
em sẽ có đủ can đảm để tiếp tục công việc của em. Em sẽ chăm sóc con và nuôi
con lớn lên, dù anh có đi, dù anh có ở xa em thì tình thương của anh đối với em
bao giờ cũng thế. Anh sẽ chẳng bao giờ không yêu em. Nếu em biết như thế thì em
có thể chịu đựng được sự xa cách. Khi anh tìm được đạo, anh sẽ trở về với em,
với con. Thôi em ngủ lại đi.
Tiếng
Siddhatta ôn tồn, ngọt ngào và vỗ về đi thẳng vào lòng Yasodhara.
Nàng có
đủ đức tin nơi chàng. Nàng ngoan ngoãn nhắm mắt lại.
Sáng hôm
sau, Siddhatta vào gặp vua cha. Chàng tâu:
- Thưa
phụ vương, con xin phép phụ vương xuất gia để tìm đạo.
Vua
Suddhodana giật mình, tuy đã từng nghĩ đến biến cố có thể xảy ra này, nhưng vua
chưa bao giờ nghĩ nó xảy ra một cách đột ngột như vậy. Trầm ngâm hồi lâu, ngài
nhìn con rồi nói:
- Ngày
xưa trong giòng họ ta thỉnh thoảng cũng có người đi xuất gia làm sa môn, nhưng
không ai bỏ nhà ra đi vào tuổi của con cả. Ai cũng đợi đến sau tuổi năm mươi.
Sao con không làm như thế? Con của con còn nhỏ, và nước nhà đang trông cậy vào
con ...
- Thưa
phụ vương, một ngày con ngồi trong cung cũng như một ngày con ngồi trên đống
lửa. Tâm con không an thì làm sao con có thể đáp lại sự trông cậy của phụ
vương, của nước nhà, cũng như của bất cứ ai? Con thấy ngày tháng qua rất mau,
tuổi trẻ của con cũng vậy. Xin phụ vương cho phép con ...
Vua ôn
tồn:
- Con
nên nghĩ đến sơn hà, xã tắc, đến ta, đến Yasodhara và đến đứa con còn trứng
nước của con.
- Thưa
phụ vương, chính vì con nghĩ đến cho nên con mới xin phép phụ vương cho con ra
đi. Con đi đây không phải là để cho một mình con. Con không ích kỷ đi trốn
tránh nhiệm vụ của con. Chính phụ vương cũng biết rằng phụ vương không giúp
được cho con giải tỏa những khổ đau dằn vặt trong con. Ngay cả những khổ đau
dằn vặt trong lòng phụ vương, phụ vương cũng chưa giải tỏa được.
Vua đứng
dậy nắm lấy tay chàng:
- Con
biết rằng ra rất cần con. Con là người mà ta đặt hết kỳ vọng của ta.
Con đừng
bỏ ta.
- Con
không bao giò bỏ phụ vương. Con chỉ xin phụ vương đi xa. Chừng nào đạt đạo con
sẽ trở về.
Nét mặt
Suddhodana dàu dàu. Ngài không nói gì nữa. Ngài bỏ vào biệt điện.
Chiều
hôm đó, hoàng hậu Gotami qua ở lại suốt buổi với Yasodhara.
Cũng
chiều hôm đó, Udayin bạn của Siddhatta đến chơi. Chàng rủ theo Devadatta,
Ananda, Anuruddha, Kimbila và Bhadrika, những người trai trẻ đòi tổ chức cuộc
vui. Udayin đã mời được đoàn vũ công tài ba nhất trong kinh thành đến. Đèn đuốc
thắp lên sáng rực cả cung điện.
Bà
Gotami cho Yasodhara biết là Udayin đã được vua cho triệu tới và giao trách
nhiệm làm đủ mọi cách để ngăn Siddhatta bỏ nhà ra đi. Cuộc vui tối nay nằm
trong chương trình hành động của chàng.
Yasodhara
ra lệnh cho các thị nữ đi lo thức ăn và thức uống cùng các nhu cầu khác cho
cuộc vui và nàng ở lại bên trong đàm đạo với phu nhân Gotami trong khi bên
ngoài công viên Siddhatta tiếp đãi các bè bạn. Hôm đó là ngày trăng tròn tháng
Uttarasalha. Khi tiếng nhạc của cuộc vui bắt đầu trổi đậy thì trăng cũng bắt
đầu nhô lên trên rặng cây phía trời Đông Nam.
Bà
Gotami tâm sự với Yasodhara cho tới khuya mới về cung an nghỉ. Khi đưa bà ra
sân. Yasodhara thấy trăng đã lên tới đỉnh đầu. Cuộc vui còn tiếp diễn với tiếng
trống tiếng nhạc và tiếng nói cười. Đưa hoàng hậu Gotami khỏ ngõ, nàng trở vào
đi tìm Channa. Người hầu cận này đang ngủ. Nàng đánh thức Channa dậy, thầm thì:
- Có thể
đem nay thái tử cần đến ngươi. Hãy chuẩn bị cho con Kanthaka, yên cương dầy đủ,
và cũng nên chuẩn bị một con ngựa khác cho chính ngươi.
- Thưa
lệnh bà, thái tử đi dâu vào giờ này?
- Ngươi
đừng hỏi, cứ việc chuẩn bị như lời ta dặn vì thái tử có thể cần đến ngươi trong
đêm nay.
Channa
vâng dạ đi vào tàu ngựa. Yasodhara đi trở vào trong cung. Nàng sắp đặt sẵn giày
nón và áo dạ hành cho thái tử. Nàng lại đi lấy thêm một chiếc chăn mỏng để đắp
thêm cho Rahula, rồi nàng thay áo và lên giường. Nằm trên giường, nằng lắng
nghe tiếng nhạc, tiếng ca, tiếng nói và tiếng cười.
Cuối
cùng, cuộc vui tan. Có lẽ mọi người đều đã tìm nơi an nghỉ. Yasodhara nằm yên
lắng nghe sự im lặng trở về trong cung cấm. Nằm nằm yên chờ đợi, nhưng lâu lắm
nàng vẫn không thấy Siddhatta đi vào.
Trong
khi đó, Siddhatta ngồi một mình thật lâu ngoài vườn ngự. Chàng nhìn lên trời.
Trăng sáng vằng vặc, ngàn sao nhấp nháy. Chàng quyết định đêm nay phải rời bỏ
hoàng cung. Chàng đi vào, mang giày và mặc áo. Chàng vén rèm nhìn vào phòng ngủ
, Rahula nằm ngay bên cạnh. Chàng muốn vào nói lời từ biệt nàng, nhưng chàng
lưỡng lự, những lời dặn dò cần thiết nhất, chàng đã nói với nàng rồi. Thức nàng
dậy chàng biết chàng sẽ làm cho phút biệt ly khó khăn hơn, và não lòng hơn,
Chàng buông rèm xuống, định bước chân ra, nhưng chàng đứng lại vén rèm lần nữa,
để nhìn hai mẹ con một lần cuối. Chàng nhìn thật kỹ như để thu lấy thêm một lần
nữa cái hình ảnh quen thuộc và thân yêu ấy. Cuối cùng chàng buông rèm, bước ra.
Khi đi
ngang qua phòng khánh tiết. Siddhatta thấy bọn vũ nữ nằm ngủ la liệt và ngã
nghiêng trên nệm thảm. Đầu tóc họ xổ tung, có người mở rộng miệng ra như những
con cá chết, những cánh tay mềm mại của họ bây giờ cứng đơ như những thanh củi,
và chân họ gác ngang gác ngửa như trên một bãi chiến trường. Họ trông giống như
những cái xác chết không hồn. Siddhatta có cảm tưởng mình đang bước ngang qua
một cái nghĩa địa.
Chàng mở
cửa ra đi ra phía chuồng ngựa. Channa đang thức. Chàng bảo:
-
Channa, đem con Kanthaka ra đây.
Channa
vâng dạ. Channa đã chuẩn bị mọi sự chu đáo rồi. Con Kanthaka đã có đủ yên
cương. Channa thưa lại:
- Con có
đi với điện hạ không?
Siddhatta
gật đầu. Channa đi vào tàu, dắt ra một con ngựa khác. Con ngựa này cũng đã có
đủ yên cương.
Hai thầy
trò dắt ngựa ra khỏi cung. Siddhatta dừng lại, vuốt ve con Kanthaka. Chàng nói
với ngựa:
- Này
Kanthaka, chuyến đi này là một chuyến đi quan trọng. Con hãy hết lòng đưa ta
đi.
Chàng
nhảy lên mình ngựa. Channa cũng nhảy lên ngựa của mình. Hai thầy trò cho ngựa
đi thong tha để đừng gây nên nhiều tiếng động.
Những
người lính gác cửa thành đang ngủ say. Hai thầy trò vượt qua cổng thành một
cách dễ dàng. Ra khỏi cổng thành, được chừng một dặm, Siddhatta dừng ngựa.
Chàng quay nhìn lại kinh đô đang nằm im lìm dưới ánh trăng. Chính nơi kinh đô
này mà Siddhatta đã sinh ra và lớn lên. Chính nơi kinh đô này mà chàng đã trải
qua bao nhiêu buồn vui và thao thức.
Chính
trong kinh đô ấy, phụ hoàng, bà Gotami, Yasodhara, Rahula và tất cả những người
thân yêu khác hiện đang ngủ say. Chàng thầm bảo:
- Nếu
không tìm ra được con đường, ta sẽ không trở về Kapilavatthu nữa.
Chàng
quay ngựa về phương Nam. Con Kanthaka bắt đầu phi nước đại.
---o0o---
Chương 13
ĐẠO TRÀNG ĐẦU TIÊN
Hai thầy
trò đi như thế cho đến khi trời rạng sáng thì vượt khỏi biên giới vương quốc
Sakya. Trước mặt họ là con sông Anoma. Hai thầy trò cho ngựa đi dọc theo bờ
sông kiếm chỗ nước cạn để vượt qua bên kia sông. Qua bên kia sông, họ đi thêm
một chặng đưòng nữa thì ngưng lại. Trước mặt dàn trải một khu rừng. Thấp thoáng
trong rừng có bóng một con nai đi qua. Chim chóc bay quanh không hề biết sợ
hãi. Siddhatta nhảy xuống ngựa. Chàng mỉm cười đưa tay vuốt bờm con Kanthaka:
-
Kanthaka, con giỏi lắm. Con đã giúp ta tới được nơi đây, ta cám ơn con.
Con ngựa
quý nghểnh cổ nhìn chàng. Siddhatta rút thanh kiếm đeo bên yên ngựa. Với tay
trái, chàng nắm mớ tóc mây, và với tay mặt đang cầm kiếm chàng cắt ngang mái
tóc. Channa đã xuống ngựa. Chàng đưa mớ tóc và thanh kiếm cho Channa. Rồi chàng
cởi tràng ngọc đang đeo trên cổ ra:
- Channa
ơi, anh hãy đem chuỗi ngọc, thanh kiếm và mớ tóc này về cho phụ vương ta. Anh
thưa với ngài là ngài hãy có đức tin nơi ta. Ta bỏ nhà ra đi như thế này không
phải vì ta íck kỷ, vì ta trốn tránh bổn phận. Ta đi vì mọi người và mọi loài.
Anh hãy an ủi phụ vương giùm ta. Anh hãy an ủi hoàng hậu. Anh hãy an ủi
Yasodhara. Ta nhờ anh ...
Channa
tiếp lấy chuỗi ngọc, hai dòng nước mắt chảy ròng ròng:
- Điện
hạ ơi, mọi người chắc là sẽ khổ lắm. Con chẳng biết sẽ ăn nói ra sao với hoàng
đế, với hoàng hậu và với lệnh bà Yasodhara. Điện hạ ơi, làm sao mà điện hạ có
thể sống được trong rừng và ngủ dưới gốc cây như những ông thầy tu khổ hạnh?
Điện hạ từ xưa tới nay chỉ quen với nệm ấm chăn êm trong cung vàng điện ngọc?
Siddhatta
mỉm cười:
- Anh
đừng lo. Người khác sống như thế nào thì ta cũng sẽ sống được theo như thế ấy.
Channa ơi! Thôi anh về đi, về để kịp báo tin cho những người thân, kẻo họ sốt
ruột. Hãy để ta ở lại đây một mình.
Channa
đưa tay chùi nước mắt:
- Xin
điện hạ cho con ở lại đây để hôm sớm hầu hạ ngài. Xin điện hạ ra ơn làm phúc!
Xin đừng bắt con trở về mang cái tin dữ này về cho những người mà con kính yêu!
Siddhatta
vỗ vai người hầu cận: giọng chàng nghiêm nghị:
- Này
Channa! Anh biết là ta cần anh trở về báo tin cho những người thân thuộc. Nếu
anh thực sự thương ta thì anh nghe lời ta. Ta không cần anh ở đây. Người xuất
gia tu hành đâu có cần tới kẻ hầu cận. Ta cần anh về với những người thân
thuộc. Thôi anh về đi!
Channa
miễn cưỡng vâng lời. Chàng trân trọng cất mớ tóc và chuỗi ngọc trong áo, và
treo thanh gương vào trên yên con Kanthaka, rồi chàng đưa cả hai tay nắm lấy
cánh tay Siddhatta: - Con xin nghe lời điện hạ nhưng xin điện hạ thưong con,
thương mọi người.
Xin điện
hạ đừng quên trở về ngay sau khi tìm ra được đạo.
Siddhatta
gật đầu. Chàng mỉm cười nhìn Channa với một cái nhìn khuyến khích. Chàng vỗ đầu
Kanthaka:
-
Kanthaka, con về nhé.
Channa
cầm lấy giây cương của con Kanthaka và leo lên lưng ngựa của mình. Con Kanthaka
nghểnh cổ nhìn Siddhatta một lần chót trước khi quay gót. Hai mắt nó cũng ướt
như hai mắt của người dắt nó.
Đợi cho
Channa và hai con ngựa đi khuất rồi Siddhatta mới ngoảnh mặt về phía rừng. Chàng
đã đi vào cuộc sống lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu.
Khu rừng
này sẽ là nhà của Siddhatta hôm nay. Một cảm giác thoải mái và tự tại phát sinh
trong chàng.
Vừa lúc
ấy có một người từ trong rừng đi ra. Thoạt nhìn, Siddhatta tưởng rằng đó là một
vị sa môn, bởi vì người này khoác một cái áo màu chàm thường là màu áo của
người ẩn tu, nhưng nhìn kỹ Siddhatta thấy tay người ấy cầm cung và lưng người
ấy đeo một bó tên.
- Anh là
thợ săn phải không. Siddhatta hỏi.
- Vâng,
người ấy trả lời.
- Anh là
thợ săn, vậy tại sao anh mặc áo sa môn?
Người
thợ săn mỉm cười:
- Tôi có
khoác áo này thì bọn thú rừng mới không sợ. Nhờ đó tôi mới dễ dàng bắt chúng.
Siddhatta
lắc đầu:
- Như
vậy là anh lợi dụng lòng thương của người tu hành rồi. Anh có muốn tôi đổi cái áo
này của tôi cho anh không?
Ngưòi
thợ săn nhìn Siddhatta. Chiếc áo mà người đối diện mình đang mặc là một chiếc
áo trị giá ngàn vàng.
- Ông
muốn đổi thật không, người thợ săn hỏi lại.
- Thật
chứ sao không, Siddhatta mỉm cười. Có cái áo này, anh có thể đem bán làm vốn để
tìm một nghề khác làm ăn mà khỏi phải đi săn, còn tôi, tôi muốn làm sa môn cho
nên tôi cần cái áo của anh.
Người
thợ săn mừng rỡ. Hai người đứng ở cửa rừng cởi áo và đổi áo cho nhau.
Người
thợ săn được áo, hấp tấp đi ngay. Siddhatta trong chiếc áo mới đã có dáng dấp
một vị sa môn. Chàng bước vào rừng. Tìm một gốc cây, chàng ngồi xuống tĩnh tọa
lần đầu trong cuộc sống không nhà không cửa.
Sau một
ngày dài ở trong cung và một đêm thâu trên lưng ngựa, giờ đây Siddhatta cảm
thấy thoải mái lạ thường trong tư thế thiền tọa. Chàng ngồi như để nghỉ ngơi và
nuôi dưỡng cảm giác thảnh thơi mà chàng đã nếm được khi mới bước vào rừng.
Nắng đã
lên cao, một tia nắng xuyên qua được rừng cây và đến đậu trên mí mắt Siddhatta.
Chàng mở mắt. Trước mặt Siddhatta hình như có người.
Chàng
ngửng lên và thấy một vị sa môn đang đứng ngắm chàng. Vị sa môn này khuôn mặt
khắc khổ, thân hình gầy ốm, Siddhatta đứng dậy chắp tay chào hỏi. Chàng cho vị
sa môn biết là chàng vừa mới bỏ nhà đi làm sa môn, nhưng chưa có dịp được một
vị đạo sư nào thu nhận cả. Chàng nói chàng có ý định về miền Nam để tìm tới đạo
tràng của đạo sư Alar Kalama để thụ giáo.
Vị sa
môn cho Siddhatta biết là ông đã từng tu học dưới sự chỉ dẫn của đạo sĩ Alara
Kalama. Ông cho biết hiện thời đạo sĩ đang mở đạo tràng ở phía Bắc thành phố
Vesali, và dạy trên bốn trăm vị đệ tử. Ông biết đường đi về đạo tràng này và
sẵn sàng đưa Siddhatta tới đó.
Chàng
theo vị sa môn vượt khu rừng già rồi theo một con đường mòn lên lên một ngọn
đồi để đi tới một khu rừng già khác. Đi như vậy tới trưa. Vị sa môn bảo
Siddhatta ngừng lại. Rồi ông ta rủ Siddhatta cùng đi tìm hái những trái rừng và
những đọt lá rừng để hai người ăn cho đỡ đói. Siddhatta hỏi để biết tên của
những trái cây rừng và những đọt lá rừng này. Vị sa môn cho biết nhiều khi phải
đi đào những rễ cây để ăn nếu không hái được trái và lá.
Biết
rằng mình phải sống lâu ngày trong rừng núi. Siddhatta ghi nhớ kỹ lưỡng những
lời chỉ dẫn của vị sa môn. Siddhatta được biết rằng vị sa môn này tu theo lối
khổ hạnh, chỉ sống bằng trái rừng, đọt cây và rễ cây. Ông tên là Bhargava. Vị
này cho biết rằng các vị sa môn tu theo đạo sĩ Alara Kalama không theo lối khổ
hạnh bởi vì họ cũng đi khất thực hoặc nhận thực phẩm của dân cư các vùng lân
cận đem đến cúng dường.
Chín hôm
sau, hai người tới Anupiya rồi đi dần về phía đạo tràng của đạo sĩ Alara
Kalama. Đạo tràng này được thiết lập trong một khu rừng. Họ đến vừa lúc đạo sĩ
Alara đang giảng đạo cho các đệ tử. Hơn bốn trăm người đang vây quanh. Đạo sĩ
Alara tuổi chừng bảy mươi. Người ông gầy yếu nhưng mắt ông còn sáng và giọng
ông ngân vang như tiếng chuông đồng. Siddhatta và người bạn đồng hành đứng chờ
bên ngoài vòng và lắng nghe hết những lời giảng dạy. Buổi giảng dạy chấm dứt,
mọi người đi tứ tán trong rừng để thực tập. Siddhatta tiến tới làm lễ đạo sĩ
Alara, tự giới thiệu mình, rồi cung kính nói:
- Bạch
thầy, xin thầy cho phép con được gia nhập vào đoàn thể các vị sa môn ở đây và
tu học dưới sự hướng dẫn của thầy.
Đạo sĩ
chăm chú ngồi nghe Siddhatta, ngắm nhìn chàng hồi lâu và tỏ vẻ hài lòng:
-
Siddhatta, thầy rất vui mà chấp nhận con. Con cứ ở lại đây. Nếu con hành được
theo pháp và luật của thầy thì chỉ trong một thời gian thôi là con đắc đạo.
Siddhatta
vui mừng lạy tạ.
Đạo sĩ
Alara ở trong một túp lều do các vị đệ tử dựng lên. Trong rừng rải rác cũng có
những chòi lá khác của các sa môn đệ tử.
Tối hôm
đó, Siddhatta tìm một nơi bằng phẳng để ngủ. Chàng gối đầu lên trên một cái rễ
cây. Vì mệt quá nên Siddhatta ngủ say cho đến sáng ngày mai. Khi thức dậy, nắng
đã lên, và chim chóc đã ca hát vang rừng.
Siddhatta
chỗi dậy. Các bạn đồng tu đã dậy từ lâu và đã hoàn tất buổi ngồi thiền đầu tiên
trong ngày. Họ đang chuẩn bị để đi vào thôn làng khất thực.
Siddhatta
được trao cho một chiết bát và dạy cho phương pháp đi vào thôn làng xin ăn.
Theo các
vị sa môn, Siddhatta ôm bát đi vào thành phố Vesali. Lần đầu tiên ôm bát đi
khất thực, Siddhatta cảm thấy cuộc đời của người đi tu có dính liú rất nhiều
với xã hội con người. Chàng học cách ôm bát, học cách đi, cách đứng, cách nhận
thức cúng dường và cách chú nguyện để cảm tạ người thí chủ. Hôm ấy, Siddhatta
đã được cúng dường một ít cơm nóng và nước cà ri chan lên trên.
Khi
Siddhatta theo các đồng tu về tới rừng thì mọi người đã bắt đầu ngồi thọ thực.
Sau buổi ăn, chàng đi tìm đạo sư Alara để được chỉ giáo về phương pháp tu. Lúc
chàng tới thì Alara đang ngồi nhập định. Để chờ đợi, Siddhatta cũng ngồi nhiếp
tâm trước mặt thầy. Lâu lắm, đạo sĩ Alara mới mở mắt.
Siddhatta
cúi lạy, xin thầy chỉ giáo cho mình.
Đại sĩ
Alara gọi Siddhatta là sa môn, bởi vì Siddhatta đã chính thức là một vị sa môn
khi được chấp nhận vào giáo đoàn. Ngài dạy cho vị sa môn về lòng tin, về sự
tinh cần, về cách thở và về sự tập trung tâm ý. Ông bảo:
- Giáo
lý của ta không phải chỉ là lý thuyết. Giáo lý của ta là sự hành trì. Cái biết
của ta là cái biết của sự tự tri, tự chứng, tự đạt mà không phải là cái biết
của lý luận. Con phải thực hiện cho được những trạng thái thiền định, mà muốn
thực hiện cho được những trạng thái thiền định thì phải bỏ hết những vọng tưởng
về quá khứ, về tương lai và chỉ nhắm về hướng giải thoát mà thôi.
Sa môn
Siddhatta hỏi thêm về cách điều phục thân thể và cảm giác rồi bái tạ vị đạo sư
đi tìm một góc rừng để hành trì.
Ông đi
bẻ cây bẻ lá che một mái lều dưới một gốc cây để làm nơi nương náu mà thực tập
thiền định. Siddhatta thực tập rất chuyên cần. Cứ năm bảy hôm, ông lại trở về
với Alara Kalam để thỉnh giáo về những chỗ còn kẹt. Tu như vậy trong ít lâu,
ông đạt được nhiều tiến bộ đáng kể.
Ngồi lại
trong tư thế thiền định ông buông bỏ hết mọi suy tư và mọi ám ảnh về quá khứ
cũng như về tương lai và thực hiện được sự thanh tịnh an lạc.
Tuy
nhiên trong niềm an lạc này, ông vẫn thấy có bóng dáng và mầm mống của những
suy tư. Mấy tuần sau, trong một trạng thái thiền định cao hơn.
Siddhatta
loại trừ được các mầm mống của suy tư, rồi ông đi vào được một trạng thái trung
tâm ý trong đó ý niệm về an lạc và không an lạc cũng không còn. Trong trạng
thái tập trung ý đó, hình như năm cánh cửa cảm giác đã hoàn toàn đóng lại. Tâm
ông tĩnh lặng như một mặt hồ khi không có gió.
Khi đem
trình bày kết quả sự thực tập của mình cho đạo sĩ Alara Kalama, sa môn
Siddhatta được đạo sĩ hết lời ca ngợi. Đạo sĩ bảo rằng ông đã bước những bước
tiến bộ rất lớn trong một khoảng thời gian rất ngắn. Đạo sĩ bắt đầu dạy ông về
phương pháp thực hiện một trạng thái thiền định gọi là không vô biên xứ, trong
đó tâm của hành giả được đồng nhất với không gian vô biên. Trong không gian vô
biên ấy mọi hiện tượng vật chất và mọi hình sắc đều tan biến, và không gian trở
nên nền tảng của vũ trụ vạn hữu.
Sa môn
Siddhatta vâng lời thầy về cố công thực tập. Trong vòng chưa đầy ba hôm, vị sa
môn trẻ đạt tới sự thành công, nhưng Siddhatta có cảm tưởng định không vô biên
xứ không giúp cho ông giải tỏa được những tâm tư sâu kín nhất của mình. An trú
trong định đó, ông vẫn còn thấy bế tắc. Ông trở lại với Alara và trình bày tri
kiến mình.
- Con
phải bước lên thêm một nấc nữa, đạo sĩ nói. Cái hư không vô biên mà con đạt tới
đó, nó cũng cùng một chất liệu với tâm thức con. Nó không phải là đối tượng của
tâm thức con mà nó chính là tâm thức con. Vậy con hãy nổ lực mà đạt cho được
trạng thái thiền định kế tiếp là thức vô biên xứ.
Siddhatta
trở về góc rừng của mình. Chỉ trong vòng hai hôm, ông thực hiện được thiền thức
vô biên xứ. Ông thấy được tâm thức mình trong một hiện tượng vũ trụ. Song le,
ông vẫn không giải tỏa được những sầu đau và thao thức của mình.
Siddhatta
trở về với vị đạo sĩ và trình bày chỗ kẹt của mình. Alara nhìn ông bằng một con
mắt kính phục. Vị đạo sĩ nói:
- Con đã
đi gần tới đích. Hãy trở về quán chiếu về tính cách hư giả của vạn pháp. Mọi
hiện tượng trong vũ trụ đều do tâm thức ta tạo nên. Tâm thức là khuôn đúc của
tất cả mọi hiện tượng. Hình sắc, âm thanh, hương, vị, và những xúc chạm, nóng
lạnh, cứng mềm đều là những sáng tạo của tâm thức.
Chúng nó
không có như ta thường tưởng, Tri giác của chúng ta là vị họa sư; nó vẽ ra hết
mọi hình tượng. Phải đạt cho được cảnh giới vô sở hữu xứ thì con sẽ thành công.
Vô sở hữu xứ là cảnh giới trong đó ta thấy được rằng không có một hiện tượng
nào thật sự hiện hữu như tri giác của ta tưởng tượng.
Vị sa
môn trẻ tuổi này chắp tay lĩnh giáo. Ông lại trở về góc rừng của ông.
Trong
thời gian tu học với đạo sĩ Alara, Siddhatta đã làm quen với nhiều vị sa môn
đồng đạo. Tánh tình ông hòa nhã nên ai cũng mến yêu. Có ngày Siddhatta không
cần đi kiếm thực phẩm mà vẫn có thức ăn lót dạ vào buổi trưa. Có khi xuất
thiền, ông thấy thức ăn đã để sẵn một bên, hoặc là một vài trái chuối, hoặc là
một mâm cơm tín thí cúng dường mà một vị sa môn bạn đã kín đáo chia xẻ lại. Đạo
sĩ Alara đã có lần hỏi về gốc tích của ông, và sau đó có người cũng đã biết
được tung tích ông. Siddhatta chỉ mỉm cười mỗi khi có một bạn đồng tu hỏi ông
về cái gốc tích vương giả ấy. Ông khiêm nhượng nói:
- Cái đó
không quan trọng gì. Có lẽ chúng ta chỉ nên chia xẻ với nhau về kinh nghiệm
hành đạo mà thôi.
Rất
nhiều vị sa môn đồng tu ưa được làm bạn với Siddhatta để được học hỏi với ông.
Họ đã được nghe lời ca tụng Siddhatta, trực tiếp từ vị đạo sư của họ.
Trong
khoảng thời gian chưa đầy một tháng, Siddhatta thực hiện được định vô sở hữu
xứ. Ông rất vui mừng thấy mình đạt tới cái thấy này. Trong nhiều tuần lễ kế
tiếp, Siddhatta ngồi khai thác cái thấy ấy để giải quyết những bế tắc lâu ngày
của tâm ý, nhưng định vô sở hữu xứ, dù là một trạng thái thiền định khá sâu sắc
vẫn không giúp ông được. Cuối cùng Siddhatta phải trở về thỉnh ý đạo sư Alara.
Đạo sư
Alara ngồi nghe Siddhatta một cách chăm chú. Mặt ông sáng rỡ lên.
Đổi cách
xưng hô, ông nói:
- Sa môn
Siddhatta, ngài là một vị tài ba lỗi lạc. Ngài đã đạt tới chỗ cao nhất mà tôi
đã đạt. Cái gì mà tôi đạt tới, ngài cũng đã đạt tới. Sa môn Siddhatta, xin ngài
ở lại đây. Hai chúng ta sẽ cùng nhau dìu dắt giáo đoàn tu sĩ này.
Siddhatta
im lặng. Ông suy nghĩ. Định vô sở hữu xứ tuy là một hoa trái quý giá của sự tu
học nhưng không giải quyết được vấn đề sinh tử, không giải phóng được cho ta
khỏi những sầu đau và thao thức căn bản, không đưa ta đến chỗ giác ngộ hoàn
toàn. Mục đích của ta không phải là làm giáo chủ một giáo đoàn. Mục đích của ta
là tìm con đường giải thoát đích thực.
Nghĩ như
thế, Siddhatta chắp tay lại trình đạo sĩ:
- Thưa
thầy, định vô sở hữu xứ không phải là mục đích tìm cầu của con. Con muốn tìm
con đường đích thực để giải thoát sanh tử. Con xin cảm ơn thầy đã có lòng chiếu
cố và yêu mến con. Xin thầy cho phép con được đi du phương tìm đạo. Thầy đã dạy
dỗ con hết lòng trong những tháng vừa qua. Con xin ghi nhớ ơn thầy đời đời.
Đạo sĩ
Alara Kalama tỏ ý buồn bã và tiếc nuối nhưng ý của Siddhatta đã quyết. Ngày hôm
sau, ông lại lên đường.
---o0o---
Chương 14
VƯỢT SÔNG HẰNG
Siddhatta
vượt sông Ganga và đi sâu vào nội địa Magaha. Đây là một vương quốc nổi tiếng
có nhiều vị ẩn tu bậc lớn. Siddhatta quyết đi tìm cho được vị chân sư có thể
trao truyền cho bí quyết siêu sinh thoát tử. Phần lớn những nhà tu hành này đều
cư trú trong chốn núi rừng. Theo sự chỉ dẫn của các bạn đồng tu, Siddhatta đi
tìm họ để tham vấn, học hỏi, thực tập. Hễ nghe nơi nào có vị chân sư là
Siddhatta tìm tới, dù phải vượt núi băng ngàn, dù phải dầm sương dãi nắng tháng
này qua tháng khác.
Siddhatta
đã gặp những người tu thuộc phái lõa thể. Họ không có một mảnh áo quần tối
thiểu nào trên người họ. Ông cũng đã gặp những nhóm người tu khổ hạnh. Những
người này không nhận thức ăn cúng dường của nhân gian.
Họ chỉ
ăn rễ cây, đọt cây và trái rừng. Họ để cho nắng gió và mưa bão hành hạ xác thân
họ. Họ tin rằng chịu đựng được những khổ hạnh như thế thì sau khi chết họ sẽ
sinh lên cõi trời. Có một hôm Siddhatta nói với họ:
- Dù các
bạn có sinh lên cõi trời đi nữa thì những đau khổ trên trần gian vẫn còn nguyên
vẹn. Chúng ta tu đạo tức là đi tìm phương thuốc giải khổ cho cuộc đời chứ không
phải tìm cách trốn tránh cuộc đời. Đã đành là nếu ta o bế thân thể ta như những
người chủ trương ăn chơi kia, thì ta không giúp được gì cho cuộc đời, nhưng nếu
ta hành hạ thân thể ta, ta cũng chẳng giúp được gì hơn cho cuộc đời là mấy.
Nói
xong, Siddhatta từ giã họ và tiếp tục con đường tham cứu học hỏi của mình. Ông
tìm tới nhiều đạo tràng khác nhau. Có nơi ông lưu trú lại trong ba tháng để
thực tập. Có nơi ông lưu trú lại sáu tháng. Niệm lực và định lực của ông nhờ sự
thực tập càng ngày càng tăng tiến, nhưng đạo lớn của sự vượt thoát tử sinh ông
vẫn chưa tìm được.
Đôi khi
ngồi thiền tập trong rừng, hình ảnh của vua cha, của Yasodhara và Rahula cũng
như những hình ảnh của quãng đời niên thiếu hiện về. Năm tháng qua thật mau.
Mới đó mà hai năm đã trôi qua từ ngày Siddhatta rời bỏ xứ sở. Siddhatta nhiều
khi không khỏi sốt ruột. Tuy vậy, đức tự tin vẫn còn rất mạnh trong ông.
Một thuở
nọ, Siddhatta ẩn cư trên sườn đồi Pandava cách kinh đô Rajagaha của vương quốc
Magadha không xa. Một hôm, ông cầm bát xuống núi, đi vào kinh thành khất thực.
Dáng đi của ông nghiêm túc và khoan thai. Phong thái của ông trầm tĩnh. Hai bên
đường người ta dừng lại để nhìn vị sa môn khất sĩ. Ông đang đi trên đường phố
mà ung dung như một con sư tử đang đi giữa chốn sơn lâm. Tình cờ xa giá của
quốc vương Magadha đi ngang qua đó. Vua Bimbisara cho dừng xe lại để quan sát
ông. Rồi vua ra lệnh cho một thủ hạ đem thức ăn đến cúng dường vị sa môn khất
sĩ này, và tìm cách theo dõi ông ta về nơi ẩn cư của ông cho biết chỗ.
Chiều
hôm sau, vua Bimbisara tìm lên nơi ẩn cư của Siddhatta. Để xe tứ mã dưới chân
đồi, vua leo lên cùng với một tên thị vệ. thấy Siddhatta đang ngồi dưới một gốc
cây, vua tiến tới chào. Siddhatta đứng dậy. Nhìn cách ăn mặc của vua, ông biết
đây là quốc vương Magadha. Ông chỉ một phiến đá gần đó và chắp tay mời vua
ngồi, và ông cũng ngồi xuống bên một phiến đá đối diện.
Thấy
dáng điệu và tư cách thanh tao đặc biệt của ông thầy tu, vua Bimbisara rất đỗi
ngạc nhiên và khâm phục. Vua nói:
- Trẫm
là quốc vương xứ Magadha. Trẫm đến để kính mời sa môn về kinh thành với trẫm.
Trẫm ước ao có sa môn bên mình để được thấm nhuần đạo đức của ngài. Có được
ngài bên trẫm, chắc chắn nước Magadha sẽ có hòa bình và thịnh trị.
Siddhatta
mỉm cười:
- Tâu
đại vương, bần đạo đã quen sống ở chốn núi rừng.
- Sa môn
ở đây thật là cực khổ. Giường chiếu không có, người hầu hạ cũng không. Nếu ngài
chấp nhận về với trẫm, trẫm sẽ để dành cho ngài riêng một cung điện. Ngài về để
dạy dỗ ...
- Đại
vương, đời sống cung điện không thích hợp với bần đạo. Bần đạo đang cố công tìm
cho ra con đường giải thoát để có thể cứu độ cho mình và cứu độ cho những kẻ
khác. Đời sống cung điện không thích hợp với hoài bảo của kẻ tu hành này.
- Ngài
còn trẻ, mà quả nhân lại cần một tâm hồn bạn hữu. Mới trông thấy ngài lần đầu,
trẫm đã đem lòng mến yêu. Ngài hãy về với trẫm. Nếu cần trẫm sẽ chia một nửa
giang sơn này cho ngài trị vì, rồi đến khi tuổi cao, ngài sẽ trở về cuộc đời
của kẻ xuất gia, như vậy cũng chưa muộn.
- Bần
đạo xin cảm ta tấm lòng chiếu cố của đại vương, nhưng quả thật giờ đây bần đạo
chỉ có một ước vọng mà thôi: đó là ước vọng tìm cho ra chánh đạo để cứu giúp
muôn loài. Thì giờ đi qua rất mau, tâu bệ hạ. Nếu ta không xử dụng năng lực của
tuổi trẻ để thực hiện điều ta mong ước thì không mấy chốc tuổi già sẽ đến và ta
sẽ hối tiếc, với lại, cuộc sống rất vô thường. Cái khổ của sinh lão bệnh tử
luôn luôn rình rập ta. Những ngọn lửa phiền não nội tâm như tham vọng, giận dữ,
oán thù, si mê, ganh ghét, và kiêu mạn đang nung nấu tâm hồn ta. Ta chỉ có thể
đạt tới an lạc thật sự nếu ta tìm được con đường. Chỉ khi nào Đạo Lớn được tìm
ra, mọi loài mới có một đường thoát. Nếu bệ hạ có lòng yêu mến bần đạo thì xin
bệ hạ để cho bần đạo được theo đuổi con đường mà kẻ tu hành này đã hướng đến từ
lâu.
Càng
nghe, vua Bimbisara càng lấy làm cảm phục vị sa môn khất sĩ. Vua nói:
- Quả
nhân rất sung sướng được nghe những lời nói đầy cương nghị và đầy đạo hạnh của
ngài. Kính bạch đại đức sa môn! Ngài là người xứ nào, dòng họ của ngài là dòng
họ nào? Ngài có thể cho quả nhân được biết hay không?
- Tâu
đại vương, bần đạo xuất thân từ vương quốc Sakya. Dòng họ của bần đạo là Sakya.
Vua Suddhodana là người thân sinh ra bần đạo, hiện trị vì ở Kapilavatthu, và mẹ
của bần đạo là phu nhân Mahamaya. Bần đạo vốn là thái tử Đông cung, nhưng vì
muốn xuất gia tìm Đạo mà phải rời bỏ cha mẹ, vợ con và cung điện, kể đã được
hơn ba năm trời.
Vua
Bimbasara rất đỗi ngạc nhiên. Vua thốt lên:
- Thế ra
ngài cũng là người thuộc giới cành vàng lá ngọc! Trẫm hân hạnh được gặp ngài.
Bạch sa môn! Giữa hoàng gia xứ Sakya và hoàng gia xứ Magadha đã có liên hệ thân
hữu lâu đời! Trẫm đã dại dột dám đem danh lợi ra mà thuyết phục một vị đại sa
môn! Xin sa môn tha thứ cho trẫm. Trẫm chỉ xin ngài một ân huệ là thỉnh thoảng
viếng thăm cung điện để trẫm được cơ duyên cúng dường, rồi khi nào tìm ra được
Đạo lớn, xin ngài từ bi trở về chỉ dạy cho đệ tử. Xin ngài hứa cho.
Siddhatta
chắp tay đáp lễ:
- Bần
đạo xin hứa là khi nào tìm ra được đạo, bần đạo sẽ trở về chia xẻ với đại
vương.
Cuộc
tiếp kiến chấm dứt. Vua Bimbasara cúi đầu chào vị sa môn rất thấp và cùng tên
cận vệ xuống núi.
Sa môn
Siddhatta rời bỏ chỗ ẩn cư của ông ngay sau ngày hôm đó. Ông không muốn bị bận
rộn vì sự lui tới cúng dường của hoàng gia. Hướng về phía Nam, ông đi tìm một
nơi khác thuận lợi cho sự tu tập. Nhờ người mách bảo, ông tìm tới đạo tràng của
đạo sĩ Uddaka Ramaputta. Ông nghe nói đạo sĩ có chứng đắc cao siêu lắm. Đạo
tràng của đạo sĩ Ramaputta không xa thủ đô Rajagaha mấy. Đạo sĩ có tới gần bảy
trăm vị đệ tử, ba trăm tu học tại chỗ và gần bốn trăm tu học tại những cơ sở
địa phương.
---o0o---
Chương 15
KHỔ HẠNH LÂM
Đạo sĩ
tuổi đã bảy mươi lăm. Ông được mọi người tôn sùng như một vị thánh sống. Ông
muốn mọi người phải tu học theo từng giai đoạn từ thấp lên cao, và vì vậy sa
môn Siddhatta phải làm lễ nhập môn và học lại từ những bài thực tập dễ dàng
nhất.
Chỉ
trong vòng vài tuần lễ, Siddhatta đã chứng minh được cho vị đạo sư mới của mình
rằng định vô sở hữu xứ ông đã thành tựu được và ông mong rằng đạo sư sẽ dạy cho
ông con đường có thể đi xa hơn nữa. Trông thấy diện mạo của Siddhatta, và nghe
Siddhatta trình bày kiến giải của mình, đạo sĩ Uddaka rất đỗi vui mừng. Ông
thấy nơi vị sa môn trẻ này con người có thể kế sự nghiệp của ông một cách xuất
sắc. Ông đổi cách tiếp đãi với Siddhatta và bắt đầu xem Siddhatta như một người
tri kỷ. Ông ôn tồn chỉ dạy cho Siddhatta rất cặn kẽ:
- Này sa
môn Siddhatta Gotama, trong định vô sở hữu xứ, cái không không còn là không
gian, cái không cũng không còn là tâm thức nói chung, mà chỉ còn là tri giác.
Tri giác tức là tưởng, mà còn tưởng tức là còn đối tượng của tưởng, còn tri
giác là còn đối tượng của tri giác. Vậy thì con đưòng thoát của chúng ta là
vượt được tri giác.
Siddhatta
cung kính hỏi lại:
- Thưa
thầy, nếu loại bỏ tri giác thì cái gì còn lại? Không có tri giác thì khác gì
vật gỗ đá vô tri?
- Gỗ đá
vô tri cũng không phải là không tri giác. Gỗ đá vô tri vẫn là tri giác.
Ta phải
đạt tới một trạng thái tâm lý trong đó cả hai niệm về hữu tri và vô tri đều
được loại trừ. Đó là trạng thái phi tưởng phi phi tưởng. Sa môn Siddhatta
Gotama, ông hãy về thực hiện cho được trạng thái đó của tâm.
Siddhatta
lĩnh ý. Chỉ trong vòng mười lăm hôm, ông đã thực hiện được định phi tưởng phi
phi tưởng.
Định
này, theo Siddhatta, cho ta có cảm tưởng là ta đạt tới một cảnh giới của nhận
thức vượt ra ngoài mọi nhận thức thông thường, nhưng mỗi khi ra khỏi định, ông
thấy cái nhận thức phi thường vẫn không thay đổi cái tình trạng của thực tại
sinh tử. Định ấy chỉ là một nơi trú ẩn mà không phải là một chìa khóa mở cửa
thực tại.
Khi
Siddhatta trở lại với đạo sư Uddaka Ramaputta thì được ông này hết sức khen
ngợi. Sau khi biết Siddhatta đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng.
Uddaka nắm tay Siddhatta:
- Sa môn
Gotam là người hành giả thông minh nhất mà tôi đã được gặp từ trước đến giờ.
Ngài đã đi những bước thật lớn, và đi rất mau lẹ. Ngài đã đạt được cái quả vị
cao nhất mà tôi đã đạt. Tôi đã già rồi, và đã gần đất xa trời.
Nếu ngài
ở lại đây, chúng ta sẽ cùng nhau quản lý đại chúng này và mai kia khi tôi qua
đời rồi ngài sẽ thay tôi lãnh đạo đồ chúng.
Cũng như
lần trước, Siddhatta ngỏ lời khéo léo để từ tạ. Ông biết định phi tưởng phi phi
tưởng không phải là chìa khóa mở được cánh cửa giải thoát sanh tử. Ông phải từ
giã, nhưng trước khi từ giã, ông hết lòng cảm tạ vị thầy mới và các vị bạn đạo
mới. Ai cũng cỏ vẻ quyến luyến và tiếc rằng vị sa môn đỉnh ngộ và tài năng này
không ở lại với họ.
Trong
thời gian tu học tại đạo tràng Uddaka Ramaputta, Siddhatta đã làm quen với một
vị sa môn trẻ tên Kondanna, Kondanna rất mến phục Siddhatta, không những xem
Siddhatta là một người bạn mà còn xem Siddhatta là một bậc thầy. Trong đồ chúng,
chưa ai đạt được tới định vô sở hữu xứ chứ đừng nói đạt tới phi tưởng phi phi
tưởng xứ như Siddhatta. Vị sa môn tân học Siddhatta đã được thầy của Kondanna
đối xử như một người tri kỷ, Kondanna biết như thế. Mỗi lần nhìn Siddhatta,
Kondanna lại thấy thêm vững niềm tin. Bởi vậy nên ông đã nhiều lần tìm cách
thân cận Siddhatta để học hỏi. Do đó mối tình đồng đạo giữa hai người mỗi ngày
mỗi trở nên khắng khít. Bây giờ Siddhatta ra đi, Kondanna không khỏi không buồn
tiếc.
Ngày
Siddhatta lên đường, vị ssa môn này đã đưa ông xuống núi. Đợi cho Siddhatta đi
khuất ông mới trở lên.
Biết
rằng có đi tham vấn bao nhiêu vị đạo sư đi nữa mình cũng không học hỏi thêm
được điều gì đáng kể, sa môn Siddhatta quyết định trở về tìm kiếm chìa khóa
giác ngộ ngay trong tự tâm mình.
Hướng về
phía Tây, Siddhatta vượt những cánh đồng lúa, những vũng bùn lầy lội, những đầm
nước đọng và những dòng suối đục ngàu. Lội qua sông Neranjara, ông đi băng qua
một cánh đồng nữa thì tới ngọn núi Dungsiri, thuộc địa phận tụ lạc Uruvela. Ở đây
có nhiều hang động. Có những tảng đá cheo leo, có những rặng núi hình răng cưa,
có nhữn tảng đá thật lớn, lớn bằng những túp nhà của dân nghèo trong tụ lạc.
Siddhatta quyết định lưu lại đây một thời gian để hạ thủ công phu, quyết tìm
cho ra nẻo thoát. Ông tìm được một cái hang động khá tốt để ngồi tĩnh tọa. Ông
nhớ rằng ông đã từng khuyên các nhà tu khổ hạnh đừng hành hạ xác thân họ, vì
hành hạ xác thân như thế chỉ gây thêm khổ đau, trong khi cuộc đời đã có nhiều
đau khổ rồi, nhưng hôm nay ông muốn xét lại điều ấy một cách kỹ lưỡng hơn. Ngồi
trong hang đá, ông tự bảo:
- Với
một miếng gỗ mềm và ướt thì ta không thể nào cọ xát làm cho lửa phát sinh được.
Thân thể ta cũng vậy, nếu thân thể ta còn bị vật dục khống chế thì tâm ta khó
có thể đạt tới giải thoát. Ta hãy tìm cách chế ngự thân thể ta xem sao.
Sa môn
Gotama, bắt đầu thực hành những phương pháp chế ngự thân thể.
Có những
hôm, ông tìm tới những nơi thật thanh vắng trên rừng sâu, những nơi mà có người
chỉ nghĩ đến thôi cũng để để rợn óc trên người và tóc sau gáy dựng lên, để ngồi
suốt đêm. Thỉnh thoảng cái sợ đến và xâm chiếm cả thân tâm ông, nhưng ông vẫn
ngồi yên, không hề nhúc nhích. Có khi trong đêm tối đen, một con nai sột soạt
tới gần. Cái sợ của ông nói với ông rằng đó là một con quỷ dạ xoa hiện đến đoạt
mạng, nhưng ông vẫn gan lì ngồi yên không nhúc nhích. Có khi trong đêm đen, một
con chim phụng đạp gãy một cành cây khô. Cái sợ của ông nói với ông rằng đó là
một con trăn sắp trườn xuống và quấn chặt lấy ông, nhưng ông vẫn gan lì ngồi
không nhúc nhích, mặc cho cái sợ chạy rần rần trên da đầu ông như một bầy kiến
lửa.
Ông tập
như vậy để có thể vượt thắng sự sợ hãi. Ông nghĩ rằng một khi xác thân vượt
thoát được những cám dỗ rồi thì tâm ý cũng có thể vượt thoát được những ràng
buộc của khổ đau.
Có khi
ông ngồi ngậm miệng cứng lại, để lưỡi sát vào họng trên, dùng tâm ông để điều
phục niềm thao thức bồn chồn trong tâm ông, như hai người lực sĩ đè bẹp một
người yêu đuối, và bắt người yếu đuối này phải thốt lời khuất phục. Dùng tâm mà
đàn áp tâm kiểu ấy trong một hồi thì mồ hôi chảy ra ướt hết cả mình mẩy ông.
Tuy vậy, dù niệm lực có mạnh, dù ý chí đầy dẫy, dù những đau khổ gây ra trên
thân xác có da diết tới cách nào đi nữa thì tâm ông vẫn không đạt tới sự an
tịnh.
Có khi
ông vừa thực tập vừa nín thở, không thở ra cũng không thở vào. Khi thực tập như
thế, ông nghe tiếng gió mạnh như vũ bão phát ra trong đầu ông, từ hai lỗ tai đi
vào, âm thanh giống như âm thanh của một chiếc lò rèn đang được thụt lửa. Những
luồng gió hung dữ xoáy mạnh trong đầu óc ông và đầu ông đau như có ai lấy lưỡi
rìu bửa ra làm hai mảnh. Có khi đầu ông đau như bị ai lấy một cái niềng sắt
niềng lại. Bụng ông đau như một con bò bị người đồ tể lách lưỡi dao nhọn quanh
sườn. Thân thể ông đau như bị người ta túm lấy và đem nướng trên một lò than
đang cháy rực.
Những
lúc thực tập để chế ngự thân thể như thế, dù ý chí và năng lượng đầy dẫy, dù
niệm lực hùng hậu, dù xác thân ông có đau đớn cực độ, tâm ông cũng không nhờ
vậy mà được an ổn hơn lên.
Sa môn
Gotama thực tập khổ hạnh như vậy trong gần sáu tháng. Trong ba tháng đầu chỉ có
một mình ông thực tập khổ hạnh trên núi. Đến tháng thứ tư, có năm vị sa môn đệ
tử của đạo sư Kondanna là người lãnh đạo nhóm này.
Gặp lại
Kondanna, Siddhatta rất vui. Kondanna cho biết là một tháng sau khi Siddhatta
từ giã, chính Kondanna cũng đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng xứ
và nghĩ rằng mình sẽ không học được gì thêm từ đạo sĩ Uddaka. Nghĩ vậy, ông đã
rủ bốn người bạn thân đi tìm Siddhatta. Sau hơn một tháng trời tìm kiếm họ đã
may mắn tìm ra Siddhatta. Họ ngõ ý muốn ở lại tu học với ông dưới sự hướng dẫn
của ông bởi vì họ tin tưởng nơi ông.
Siddhatta
đành phải chấp nhận. Ông giải thích cho họ biết tại sao ông đang thí nghiệm con
đường điều phục thân xác. Nghe xong, cả năm người cũng quyết thực tập theo.
Bốn vị
sa môn đi theo Kondanna cũng đều là những vi sa môn còn trẻ. Họ tên là Vappa,
Bhaddiya, Assaji và Mahanama. Mỗi người tìm một cái hang đá để ở; hang của họ
không xa nhau mấy. Mỗi ngày chỉ một người đi khất thực thôi, và phần ăn của một
người được chia ra làm sáu. Thức ăn hàng ngày của mỗi người rất ít, và có thể
để gọn trong bàn tay trái khẳng khiu của một người.
Ngày
tháng qua đi. Thân thể cả sáu người đều hao gầy đi rất nhiều. Có những lúc
Siddhatta thực tập khống chế hình hài đến nước năm người bạn tu phải khiếp đảm.
Họ thấy trong bất cứ pháp môn tu tập nào họ cũng không theo kịp Siddhatta.
Những tháng gần đây, Siddhatta bỏ luôn cả việc đi tắm dưới sông Neranjara. Ông
bỏ luôn một phần thực phẩm được chia cho ông.
Có ngày,
ông chỉ ăn một trái ổi thối mà ông lượm được dưới chân ông. Có khi ông chỉ ăn
miếng phân bò khô trên bờ ruộng. Thân hình ông tiều tuỵ quá, chỉ còn da bọc lấy
xương. Bao nhiêu xương sườn của ông đều lộ rõ ra. Ông không hề cạo. Có khi ông
đưa tay lên sờ đầu và thấy tóc ông rụng xuống từng mảng như là những sợi tóc ấy
không còn chỗ để đứng trong da đầu ông.
Cho đến
một hôm đó ngồi thiền dịnh trong bãi tha ma dưới chân núi, Siddhatta bừng tỉnh,
thấy được rằng con đường khổ hạnh là con đường sai lầm.
Nắng đã
tắt và gió chiều nhè nhẹ tới mơn trớn trên làn da ông. Đã ngồi trọn một ngày
trong nắng, bây giờ Siddhatta thấy làn gió mát dịu lạ thường, và ông thấy tâm
hồn ông sảng khoái hơn ban ngày nhiều lắm. Ông nhận ra rằng thân và tâm là một
thực thể không thể tách rời ra được và sự an lạc của thân có liên hệ tới sự an
lạc của tâm, hành hạ xác thân cũng là hành hạ tâm trí.
Ông nhớ
đến thời niên thiếu, hồi ông mới lên chín tuổi, lần đầu tiên ông ngồi yên lặng
dưới bóng mát cây hồng táo trong ngày lễ cày ruộng đầu năm. Cảm giác hồi ấy là
một cảm giác an lạc, làm cho ông tỉnh táo và sáng suốt lạ thường. Ông cũng nhớ
lại lúc ông ngồi tập thiền lần đầu tiên trong rừng ngay khi Channa người hầu
cận ông vừa từ giã ông, và những ngày đầu khi tập thiền với đạo sư Alara
Kalama; những buổi thiền tập ấy nuôi dưỡng thân tâm ông, tạo cho ông rạt rào
nghị lực. Ông nhớ sau đó nghe lời đạo sĩ Alara Kalama ông phải bỏ pháp lạc
trong thiền để đạt tới những trạng thái thiền định trong cõi vô sắc như không
vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, và phi tưởng phi phi tưởng xứ, luôn
luôn tìm cách tách rời khỏi thế giới của thọ và tưởng, nghĩa là của cảm giác và
tri giác. Ông tự bảo:
- “Tại
sao ta phải mãi mãi nương theo truyền thống của kinh điển? Tại sao ta lại sợ
hãi những an lạc do thiền định đưa tới? Những an lạc ấy không dính líu gì hết
với năm loại dục lạc thường có tác dụng che lấp tâm trí. Trái lại, những an lạc
ấy có thể nuôi dưỡng hình hài và tâm hồn ta để ta có thể có đủ sức mạnh mà đi
xa trên đường giác ngộ".
Sa môn
Gotama quyết định sẽ bồi dưỡng lại sức khỏe và sẽ sử dụng thiền duyệt làm thức
ăn cho thân tâm. Ông định ngày mai sẽ đi khất thực trở lại, và ông sẽ tự mình
làm thầy cho mình, không muốn nương tựa vào một ai khác. Nghĩ như thế, ông ngã
lưng dựa trên một mô đất, an tâm tìm giấc ngủ.
Lúc ấy
trăng mười bốn vừa lên. Trời trong không một gợn mây,và dòng ngân hà hiện ra
rất rõ.
Ông thức
dậy sáng hôm sau, khi chim chóc đã bắt đầu ca hát. Sa môn Gotama đứng dậy, và
nhớ lại những suy tưởng chiều qua. Ông nhìn lại thân ông. Thân thể dính dầy bụi
đất, vì đã lâu ông hề tắm gội. Chiếc áo cà sa của ông đã rách nát không đủ che
thân. Ông chợt nhớ ngày hôm qua khi tới nghĩa địa để ngồi thiền, ông có thấy
thi thể một người chết được quàng tại đó và trên thi thể ấy người ta đã phủ lên
một tấm vải lớn màu gạch non. Ông đưa mắt nhìn. Cái xác vẫn còn đó và tấm vải
màu gạch vẫn còn đó. Có thể là hôm nay hoặc ngày mai người ta sẽ đau xác này ra
bờ sông để làm lễ hỏa táng và tấm vải sẽ không cần thiết. Sa môn Gotama quyết
định tới xin tấm vải kia để dùng làm chiếc cà sa mới. Ông bước tới. Ông đứng
yên mật niệm, quán tưởng về sanh tử, rồi ông đua tay nhẹ rút tấm vải lên. Thi
hài của một cô gái chừng hai mươi tuổi lộ ra, tím bằm.
Cầm tấm
vải, Siddhatta đi về hướng bờ sông. Ông có ý định xuống sông tắm gội cho sạch
sẽ và đồng thời giặt sạch tấm vải để quàng lên người thay thế cho chiếc ca sa
đã rách bươm.
Nước
sông rất mát và Siddhatta thấy rất dễ chịu. Ông chấp nhận cảm giác dễ chịu của
ông, ông đón chào cảm giác này với một tâm trạng mới. Ông tắm khá lâu. Rồi ông
dem tấm vải ra giặt và vắt cho thật khô.
Khi ông
lội vào bờ thì sức ông đã kiệt. Bờ sông hơi cao và ông không đủ sức tự mình leo
lên. Ông phải đứng yên lặng hồi lâu để thở. Nhìn sang bên trái ông thấy có một
cây sà xuống, có những đọt lá xòe ra gần đụng mặt nước.
Ông lội
từng bước về phía ấy, rồi níu lấy cành cây leo lên bờ.
Leo được
lên bờ sông ông ngồi xuống nghỉ. Nắng đã lên. Ông trải tấm vải ra để phơi. Nắng
bắt đầu gay gắt. Thấy tấm vải đã khô, sa môn Siddhatta choàng nó vào người. Ông
đã có ca sa mới. Theo con đường đưa vào xóm Uruvela, ông đi tới.
Nhưng đi
chưa được nửa đường thì sa môn Gotama kiệt sức. Ông thở hào hển, và cuối cùng
ông ngã xuống, bất tỉnh.
Ông nàm
bất tỉnh như vậy một hồi lâu thì có một cô bé trong xóm đi tới. Cô bé chừng
mười ba tuổi. Sujata được mẹ giao phó đem sữa bánh và đề hồ vào khu rừng bên
sông để cúng cho thần linh, và Sujata thấy vị sa môn nằm bất tỉnh trên con
đường bờ sông, bụng còn thoi thóp thở. Nhìn Siddhatta, cô bé biết nhà tu khổ
hạnh này đã kiệt sức. Cô quỳ xuống đổ sữa vào miệng ông.
Khi
những giọt sữa ngon ngọt thấm được vào lưỡi và cổ họng. Siddhatta đáp ứng ngay.
Ông chấp nhận cảm giác dễ chịu do sữa tạo nên và chầm chậm uống hết bát sữa.
Chỉ trong vòng mấy mươi hơi thở sau đó ông tỉnh táo hẳn và ngồi dậy được.
Và ông
ra hiệu cho Sujata rót thêm cho ông một bát sữa thứ hai. Những bát sữa phục hồi
được sức lực của ông rất mau chóng, Siddhatta quyết định bỏ hang động nơi ông
tu khổ hạnh và dời về khu rừng êm mát bên bờ sông để hành đạo. Ông ăn uống trở
lại bình thưòng. Có khi Sujata đem thức ăn vào rừng để cúng dường. Có khi ông
cầm bát đi vào làng để khất thực. Mỗi buổi chiều ông đều có xuống tắm ở sông
Neranjara. Mỗi ngày ông đều có đi thiền hành bên bờ sông. Thì giờ còn lại ông
dành cho việc thiền tọa.
Tự mình
tìm kiếm con đường, buông bỏ mọi uy quyền của truyền thống và kinh điển.
Siddhatta trở về sử dụng tất cả những kinh nghiệm thành bại của chính ông. Ông
không e ngại gì nữa về sự sử dụng thiền duyệt để nuôi dưỡng thân tâm. Mức độ an
lạc của ông tăng triển hàng ngày. Không tìm cách xa lìa và trốn tránh cảm giác
và tri giác, và dùng định lực quán chiếu vào cảm giác cùng với những đối tượng
của chúng.
Một hơi
thở, một tiếng chim kêu, một tờ lá, một tia nắng mặt trời ... tất cả đều có thể
trở thành đối tượng của công trình quán chiếu. Rời bỏ ý định thoát ly thế giới
hiện tượng, ông trở về để có mặt sâu sắc trong thế giới hiện tượng. Ông bắt đầu
thấy rằng chìa khóa của sự giải thoát nằm ngay trong từng hơi thở, từng bước
chân hoặc từng hạt sỏi bên đường. Ông thấy rằng thế giới hiện tượng và thế giới
bản thể là một.
Sa môn
Gotama đi từ sự quán chiếu cơ thể qua sự quán chiếu cảm giác, rồi đi từ sự quán
chiếu cảm giác sang sự quán chiếu tri giác cùng những hiện tượng sinh diệt khác
của tâm ý. Cuối cùng ông tìm thấy tính cách bất nhị của thân tâm. Thân thể
không còn là một thực tại riêng biệt nữa. Mỗi sợi tóc cũng là tâm, mỗi tế bào
trong cơ thể đều chứa đựng đủ trí tuệ của vũ trụ và hành giả chỉ cần nhìn sâu
vào một hạt bụi, chân tướng của vũ trụ cũng phải hiện nguyên hình trước ánh
sáng quán chiếu của hành giả. Chân tướng của hạt bụi chính là vũ trụ và ngoài
hạt bụi, vũ trụ không thể nào có mặt. Sa môn Gotama vượt thoát ý niệm về ngã,
về atman, và ông giật mình thấy rằng đã từ bao nhiêu lâu nay ông đã từng bị ý
niệm về atman của tư tưởng Vệ Đà khống chế. Thực tướng của vạn hữu là vô ngã,
là anatman. Một từ ngữ không phải để chỉ định một vật thể, mà là một lưỡi búa
tầm sét đập tan xích xiềng của sự cố chấp. Nắm lấy nguyên tắc vô ngã, Siddhatta
như vị tướng lãnh có lưỡi gươm thần trong tay, đi vào trận địa của thiền quán
như đi vào chỗ không người. Dưới gốc cây cổ thụ, ngày cũng như đêm, ông đạt tới
những cái thấy lóe sáng như sấm sét trên thái không.
Trong
khi ấy, năm người bạn đồng tu đã bỏ ông đi mất. Họ từng thấy ông thọ lãnh thức
cúng dường bên bờ sông Họ đã thấy ông cười nói với một cô bé, ăn cơm và mang
bát vào làng khất thực. Kondanna đã nói với các bạn: Siddhatta không còn là kẻ
mà ta có thể trông cậy. Siddhatta đã nửa chừng bỏ dỡ công phu tu hành.
Siddhatta bây giờ chỉ lo bồi dưỡng xác thân và sống những ngày nhàn hạ. Chúng
ta hãy bỏ Siddhatta và tìm tới nơi khác tu hành.
Ta cũng
không cần tiếp tục tu theo phương pháp mà Siddhatta đã đề nghị mấy tháng về
trước.
Chỉ khi
năm người bỏ đi rồi, sa môn Gotama mới thấy sự vắng mặt của họ.
Được
khích lệ bởi cái nhìn mới, Siddhatta đã để hết thời gian vào viẹc hạ thủ công
phu mà chưa có dịp nào đi giải thích với các bạn đồng tu. Ông tự nhủ: các bạn
hiểu lầm ta, nhưng ta không cần lo tới việc minh oan. Ta hãy dốc lòng tìm cho
ra đạo. Rồi sau đó ta sẽ đi tìm họ và giúp họ. Nghĩ như thế, ông trở về với
công phu thiền quán hàng ngày của mình.
Chính
trong những ngày mà ông đạt tới những tiến bộ lớn trên con đường tầm đạo thì
chú bé chăn trâu Svatika tìm tới. Ông đã vui vẻ nhận những nắm cỏ tươi của chú
bé mười một tuổi dâng cúng. Tuy Sujata, Svatika và bạn bè của các em là những
đứa bé, Siddhatta đã cũng có thể chia xẻ được một phần nhỏ cái thấy của ông với
chúng, và ông mừng rỡ thấy bọn trẻ thiếu học ở thôn quê có thể hiểu được và
thấy được ánh sáng của những điều ông mới tìm ra. Ông linh cảm rằng chỉ trong
một thời gian ngắn nửa là cánh cửa giác ngộ hoàn toàn sẽ mở rộng, bởi vì ông đã
nắm trong tay chiếc chìa khóa mầu nhiệm của cánh cửa ấy: tự tính duyên sinh và
vô ngã của vạn hữu.
---o0o---
Chương 16
THÌ RA LỆNH BÀ GIẢ NGỦ
Svastika
là con nhà nghèo, hồi nhỏ chưa từng được đi học. Năm mười hai tuổi mới bắt đầu
được Sujata dạy cho chút ít về văn hóa. Chú nói năng chưa được hoạt bát, cho
nên trong khi kể lại những gì mà Bụt đã kể về cuộc đời niên thiếu của người,
chú đã ngập ngừng nhiều lúc và phải nhờ những người ngồi nghe chuyện đỡ lời
cho. Hôm ấy ngoài thầy Ananda và chú Rahula, còn có hai người ngồi nghe chú kể.
Đó là một ni sư tuổi đã lớn, tên là ni sư Mahapajapati và một thầy khoảng ba
mươi lăm tuổi tên là thầy Assaji.
Chiều
hôm ấy chú Rahula đã giới thiệu hai vị này với Svastika rồi. Chú rất cảm động
khi biết ni sư Mahapajapati chính là lệnh bà Gotami, dì của Bụt và đã nuôi Bụt
từ khi tấm bé. Bà là người phụ nữ đầu tiên được xuất gia và gia nhập vào giáo
đoàn của Bụt. Hiện bà làm ni trưởng lãnh đạo hơn bảy trăm vị nữ khất sĩ. Bà mới
cùng một phái đoàn các ni sư từ miền Bắc xuống để thăm viếng Bụt và tham khảo ý
kiến của người về việc tu chỉnh giới luật của ni chúng. Chú Svastkia nghe nói
quý vị ni sư mới tới Rajagaha chiều hôm qua.
Chú
Rahula là cháu của bà. Biết bà sẽ rất vui mừng được nghe Svastika kẻ lại những
gì xảy ra trong rừng Uruvela những Bụt sắp thành đạo và những tuần lễ sau ngày
Bụt thành đạo, chú Rahula chắp tay cúi đầu rất thấp để chào vị ni trưởng vì chú
đã từng được nghe Bụt kể về bà và đã có sẵn rất nhiều cảm mến, và chú có cảm
tưởng bà cũng thương chú như thương chú Rahula cháu ruột của bà vậy. Nghĩ như
thế chú cũng tự xưng cháu với bà.
Sau khi
giới thiệu bà, chú Rahula lại giới thiệu thầy Assaji, Svastika không nhớ tên
này dù Bụt đã có nhắc đến tên thầy trong câu chuyện mà người đã kể cho bọn
thiếu nhi trong rừng Uruvela. Mắt Svastika sáng lên khi chú biết thầy Assaji là
một trong năm vị sa môn đã tu khổ hạnh với Bụt ngay tại quê hương của chú. Chú
đã từng nghe Bụt nói rằng sau khi thấy Bụt ngưng tu khổ hạnh, bắt đầu uống sữa
và ăn cơm thì năm người này bỏ Bụt đi tu chỗ khác. Vậy mà bây giờ không biết
trong trường hợp nào mà thầy Assaji lại trở nên một vị khất sĩ đệ tử của Bụt và
đang tu hành dưới sự chỉ dẫn của người, ngay tại tu viện Trúc Lâm. Chú dự tính
sẽ hỏi Rahula về việc này.
Trong
câu chuyện chú kể, chính ni sư Gotami đã đỡ lời cho chú nhiều nhất.
Nhiều
khi bằ đặt câu hỏi để chú có cơ hội nói thêm về những chi tiết của câu chuyện,
những chi tiết không mấy quan trọng đối với chú nhưng hình như rất quan trọng
đối với bà. Ví dụ như những chi tiết về mớ cỏ Kusa mà chú đã dâng lên Bụt để
người trải làm tọa cụ dưới cây bồ đề. Ni sư đã hỏi: “Cỏ đó, con cắt ở đâu? Cứ
mấy ôm thì con cắt cỏ mới để dâng cúng cho Bụt? Con dâng bớt cỏ cho Bụt như thế
thì trâu con có đủ cỏ để ăn ban đêm hay không?
Và con
có bị chủ trâu đánh mắng hay không? ...
Câu
chuyện chú kể đã xong đâu, còn nhiều lắm. Chú xin phép ngưng lại nơi đây. Chú
thưa với mọi người là chú sẽ xin kể tiếp ngày mai, nhưng trước khi từ giã, chú
muốn được hỏi ni trưởng một vài câu hỏi mà chú đã ấp ủ trong lòng gần mười năm
nay, có thể là ni trưởng sẽ trả lời được cho chú. Nghe chú nói thế, ni sư
Gotami mỉm cười nhìn chú:
- Chú cứ
hỏi, nếu trả lời được, thì ta sẽ trả lời ngay.
Svastika
muốn biết nhiều chuyện lắm. Trước hết chú muốn biết khi thái tử Siddhatta vén
màn định từ giã lệnh bà Yasodhara thì lệnh bà đang ngủ thật hay là đang giả
ngủ? Rồi khi người hầu cận thái tử Siddhatta đem thanh kiếm, chuỗi ngọc, mớ tóc
và con ngựa Kanthaka về tới kinh đô thì hoàng thượng, hoàng hậu và lệnh bà
Yasodhara đã nghĩ gì, nói gì và làm gì? Trong sáu năm vắng mặt, cái gì đã xảy
ra cho những người thân yêu của Bụt tại Kapilavatthu? Và ai nghe tin Bụt thành
đạo trước? Ai đi đón Bụt? Và đến khi Bụt về thì cả kinh thành đón rước ra sao?
- Chú
hỏi nhiều câu hỏi thật, ni sư Gotami mỉm cười hiền hậu nhìn Svastika.
Để ta
trả lời sơ lược cho chú. Trước hết là chuyện Yasodhara có thật là đang ngủ khi
Siddhatta từ giã hay không. Chuyện này cho chắc chắn, chú phải hỏi ni sư
Yasodhara, nhưng theo ta, thì lúc ấy Yasodhara không ngủ. Chính Yasodhara đã
soạn đủ nón giày và áo dạ hành để sẵn bên hành lang. Chính Yasodhara đã vào bao
Channa thắng yên cương vào cho con Kathanka. Vậy Yasodhara biết chắc là đêm ấy
thái tử sẽ bỏ đi. Làm sao mà Yasodhara có thể ngủ trong một tâm trạng như thế
được, hả chú Svastika? Ta nghĩ rằng Yasodhara đã làm như đang ngủ để tránh cho Siddhatta
và cho mình giây phút khó khăn của sự giã biệt. Chú chưa biết, chứ mẹ của
Rahula tính tình cương nghị lắm, Yasodhara hiểu được chí hướng của Siddhatta và
đã âm thầm yểm trợ cho Siddhatta, điều đó ta biết rõ hơn ai hết ở trong cung,
bởi vì ta là người thân cận và làm việc với công nương Yasodhara nhiều hơn ai
hết.
Rồi ni
sư Gotami kể tiếp những gì đã xảy ra trong cung điện. Buổi sáng ấy, nghe tin
Siddhatta đã bỏ đi rồi, trong cung náo động, ai cũng bàng hoàng hoảng hốt, chỉ
trừ có Yasodhara. Vua Suddhodana giận dữ, quát tháo quân hầu, quát tháo mọi
người, trách họ đã không giữ gìn để cho thái tử ra đi. Bà Goatmi nghe tin vội
chạy qua tìm Yasodhara. Yasodhara không nói gì, chỉ ngồi thầm lặng khóc. Quan
phụ chính đại thần tổ chức nhiều toán người sai đi bốn ngã tìm kiếm thái tử.
Toán người ngựa đi về phương Nam đã gặp được Channa, đang trở về với con ngựa
Kanthaka. Channa ngăn họ không cho họ đi về phương Nam tìm thái tử. Channa nói:
- Quý vị
hãy để yên cho thái tử tu hành. Tôi đã cầu xin hết lời, đã khóc lóc đã van nài,
nhưng thái tử đã một lòng một chí muốn đi tìm đạo. Với lại thái tử đã đi vào
chốn thâm sơn. Núi rừng trùng điệp, lại thuộc về một vương quốc khác, thì các
vị đi tìm làm sao được?
Khi
Channa trở về tới cung điện, anh ta dập đầu tạ tôi rồi đem thanh kiếm, chuỗi
ngọc và mớ tóc dâng lên vua. Lúc ấy hoàng hâu Goatmi và lệnh bà Yasodhara cũng
đang đứng bên cạnh vua. Thấy Channa khóc, vua không nỡ buộc tội. Vua hỏi han
mọi chuyện, than vãn hồi lâu, rồi truyền cho Channa đem gươmg báu, chuỗi ngọc
và mớ tóc của thái tử giao lại cho lệnh Yasodhara cất giữ. Không khí của cung
điện thật là buồn bã. Vua ở luôn trong biệt điện nhiều ngày liên tiếp không
chịu ra thiết triều. Quan phụ chính đại thần Vessamitta phải thay vua xử lý mọi
công việc chính sự.
Con
Kanthaka sau khi được trả về tàu ngựa từ chối không ăn uống gì. Mấy ngày sau nó
qua đời. Channa rất thương tiếc. Mấy Channa nói với Yasodhara làm lễ hỏa thiêu
cho nó.
Ni sư
Gotami kể tới đó thì chuông thiền tọa buổi tối đã vọng lên. Mọi người đều tỏ vẻ
tiếc vì phải bỏ dỡ câu chuyện, nhưng thầy Ananda bảo không nên bỏ giờ thiền
tọa, dù câu chuyện có hay cách mấy đi nữa, và thầy mời mọi người chiều hôm sau
lại tới liêu xá thầy. Svastika và Rahula chắp tay làm lễ ni sư Gotami, thầy
Anada và thầy Assaji để trở về liêu xá của thầy Sariputta.
Đôi bạn
thân đi bên nhau im lặng không nói. Tiếng chuông chậm rãi bây giờ đây đã bắt
đầu dồn dập đổ hồi. Svastika theo dõi hơi thở và thầm đọc bài kệ nghe chuông:
“lắng lòng nghe, lắng lòng nghe - tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm”.
---o0o---
Chương 17
CHIẾC LÁ PIPPALA
Ngồi
dưới gốc cây Pippala, sa môn Gotama tập trung hết định lực và quán chiếu vào
nội thân. Tinh lực của ông đầy dẫy và niệm lực của ông hùng hậu.
Ông thấy
cơ thể của ông như một dòng sông đang trôi chảy bất tuyệt và những tế bào trong
cơ thể là những giọt nước xô đẩy nhau trên dòng sinh khởi, trưởng thành và biến
diệt. Ông không tìm thấy một cái gì đồng nhất và bất biến có thể gọi là ngã cả.
Xen lẫn trong trong dòng sông cơ thể ông nhận thấy có một dòng sông khác: đó là
dòng sông cảm thọ, trong đó mỗi cảm giác là một giọt nước. Những giọt nước cảm
giác này cũng xô đẩy nhau trong quá trình sinh khởi, trưởng thành và biến diệt
của chúng. Có những cảm giác dễ chịu, có những cam giác khó chịu, có những cảm
giác không dễ chịu cũng không khó chịu. Tự thân của những cảm giác cũng vô
thường và luôn luôn sinh diệt giống như tự thân của các tế bào trong cơ thể.
Với định lực vững chắc, sa môn Gotama khám phá ra dòng sông tri giác đang trôi
chảy len lõi giữa các dòng sông cơ thể và dòng sông cảm giác. Những giọt nước
trong dòng sông tri giác cũng xô đẩy nhau và ảnh hưởng lẫn nhau trên đà sinh
trưởng và hoại diệt của chúng. Thế giới là thế giới của tri giác; tri giác
chính xác thì thực tại hiển lộ, tri giác sai lầm thì thực tại chìm lặn. Tri
giác sai lầm làm phát sinh bao nhiêu cảm giác khổ đau trong dòng sông cảm thọ.
Con người sở dĩ lặn hụp trong khổ đau là vì nhận thức sai lầm của mình: vô
thường thì cho là thường, vô ngã thì cho là ngã, không sinh diệt thì cho là có
sinh diệt, cùng chung một tự tính mà lại cho là riêng lẻ tách biệt. Sa môn
Gotama quán chiếu những hiện tượng tâm ý thường được xem là nguồn gốc của các
cảm thọ khổ đau: những tâm lý sợ hãi, giận dữ, căm thù, kiêu mạn, ganh ghét,
tham đắm và u mê. Chánh niệm bừng tỏ nơi ông như một mặt trời. Đem mặt trời
chánh niệm ấy soi vào lòng của các hiện tượng tâm lý kia, ông thấy rằng bản
chất của chúng đều là sự u mê. Tên nó là vô minh. Tên nó là mờ ám. Tên nó là sự
thiếu sáng suốt. Chìa khóa của giải thoát vì vậy là sự đập tan u mê, là thể
nhập vào lòng của thực tại để có một cái biết trực tiếp và chân thực về thực
tại. Cái biết này không phải là cái biết của trí thức suy luận. Cái biết này là
phải là cái biết trực tiếp của kinh nghiệm, của thực chứng. Ngày xưa, Siddhatta
đã tìm đủ cách để chế ngự sợ hãi, chế ngự giận dữ, chế ngự tham đắm, nhưng
những phương cách ấy không có hiệu quả, vì chúng chỉ là sự đè nén và đàn áp.
Ngày nay Siddhatta biết được bản chất của chúng là u mê: giải tỏa u mê và đi
tới sự hiểu biết, tức là làm cho chúng tự tan rã, như khi mặt trời lên thì tự
khắc bóng tối tan biến. Sự hiểu biết này là kết quả của công trình quán chiếu.
Giải thoát không phải là kết quả của một sự lẫn tránh thực tại, giải thoát trái
lại là hiểu biết được tự thân của thực tại để đạt tới tự do, để cắt đứt mọi sợi
dây khống chế.
Sa môn
Gotama mỉm cưòi. Ông thấy một chiếc lá Pippala in trên nền trời xanh, đuôi lá
hướng về phía đất và phe phẩy như đang gọi ông. Chiếc lá này một thực tại mầu
nhiệm. Nhìn chiếc lá ông thấy mặt trời và trăng sao. Nếu không có mặt trời, nếu
không có ánh sáng và sức nóng, chiếc lá không thể nào có mặt. Cái này có vì cái
kia có. Ông lại thấy một đám mây bay lửng lơ trong lòng chiếc lá. Nếu không có
đám mây thì không có mưa và nếu không có mưa thì không làm gì có chiếc lá. Ông
thấy đại địa. Ông thấy thời gian.
Ông thấy
không gian. Ông thấy tâm thức. Tất cả đều đang có mặt trong chiếc lá. Vũ trụ có
mặt trong chiếc lá và với chiếc lá. Điạ, thủy, hỏa, phong, không thời, phương,
thức, tất cả đều có mặt với chiếc lá trong giờ phút này.
Cái này
có thì cái kia có, và ông thấy thực tại của chiếc lá cùng thực tại của bản thân
ông là một. Chiếc lá dường như chỉ mới có mặt từ đầu mùa Xuân năm nay, nhưng
thật ra chiếc lá đã có mặt không biết tự bao giờ. Trong ánh nắng đã có sẵn
chiếc lá. Trong đám mây bay đã có sẵn chiếc lá. Trong cây đã có sẵn chiếc lá,
và trong Siddhatta, đã có sẵn chiếc lá. Chiếc lá thực ra chưa từng bao giờ
sinh, chiếc lá chỉ được biểu hiện ra mà thôi. Sa môn Siddhatta cũng chưa bao giờ
từng sinh, sa môn Siddhatta cũng chỉ được hiểu hiện. Những ý niệm sinh diệt và
con mất là những ý niệm phát xuất từ nhận thức sai lầm, từ vô minh. Tự thân của
chiếc lá Pippala cũng như tự thân của sa môn Gotama chưa từng bao giờ sinh
diệt. Sự có mặt của một hiện tượng kéo theo sự có mặt của tất cả mọi hiện tượng
trong vũ trụ. Cái một bao hàm tất cả, và cái tất cả được có mặt trong cái một.
Chiếc lá
không có cá thể biệt lập, không có một cái ngã thường tại bất biến.
Sa môn
Gotama cũng vậy, ông không thể có mặt biệt lập với vũ trụ vạn hữu, ông không có
một cái ngã thường tại bất biến. Thấy được tính cách trùng trùng duyên khởi của
vạn hữu cũng là đồng thời chứng nghiệm được sâu xa tính cách vô ngã của vạn
hữu. Và vì vậy chìa khóa mở cánh cửa giải thoát là nguyên lý vô ngã, nguyên lý
duyên sinh.
Một đám
mây trắng bay qua, và chiếc lá Pippala giờ đây đang in hình trên nền trắng ấy.
Đám mây kia chiều nay có thể sẽ gặp một luồng khí lạnh và sẽ biến thành mưa.
Đám mây là một biểu hiện, mưa là một biểu hiện. Tự thân của đám mây không có
sinh diệt và còn mất. Nếu đám mây biết điều đó thì khi cần được biến thành mưa,
đám mây sẽ ca hát khi rơi xuống thành giọt trên núi rừng, trên ruộng lúa. Sa
môn Gotama thấy được rằng trong thực tại, không có gì sinh ra, không có gì mất
đi, không có gì từ không mà trở nên có, không có gì từ có mà trở nên không, và
ông vượt thoát được các ý niệm có không và sinh diệt.
Sa môn
Gotama lấy cái thấy này và soi chiếu lại vào những dòng sông cơ thể, cảm thọ,
tri giác, tâm tư và nhận thức của con người. Ông thấy hầu hết những khổ đau của
con người đều được phát xuất từ nhận thức sai lầm của con người. Nếu con người
thấy được tính cách vô thường vô ngã của thực tại thì con người giải thoát được
khổ đau. Vô thường và vô ngã là điều kiện tất yếu của sự sống; nếu không có vô
thường và vô ngã thì không có biến chuyển sinh diệt, vì vậy không có gì có thể
sinh trưởng và phát triển. Hạt lúa nếu không có vô thường và vô ngã thì không
thể mọc thành cây lúa. Đám mây nếu không vô thường và vô ngã thì không thể nào
biến thành cơn mưa.
Em bé
nếu không có vô thường và vô ngã thì không thể lớn lên. Vì vậy chấp nhận sự
sống tức là chấp nhận vô thường và vô ngã. Khổ đau bắt nguồn từ sự nhận thức vô
thường là thường, và vô ngã là là ngã. Chứng nhập được tự tánh vô thường và vô
ngã của vạn hữu là thoát ra được vòng khổ đau.
Sa môn
Gotama thấy rằng một khi đã chứng nhập được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn
hữu thì tự tánh không của vạn hữu cũng bắt đầu hiển lộ.
Không
tức là không sinh cũng không diệt, không có cũng không không, không một cũng
không nhiều, không trong cũng không ngoài, không lớn cũng không nhỏ, không nhơ
cũng không sạch ... Tất cả những ý niệm về không và có, sinh và diệt, một và
nhiều, trong và ngoài, lớn và nhỏ, nhơ và sạch ... đều do những khuôn khổ hẹp
hòi của tri giác tạo nên. Thâm nhập được vào thể tính không của vạn pháp,
Siddhatta vượt lên trên của tất cả mọi phạm trù ấy của tri giác.
Đêm này
qua đêm khác, sa môn Gotama ngồi thiền định dưới gốc cây Pippala, chiếu rọi ánh
sáng của thiền định vào thân tâm và vào vũ trụ. Năm người bạn đồng tu của ông
đã bỏ ông lâu rồi. Bạn tu của ông bây giờ là núi rừng, là dòng sông, là chim
chóc, là hàng vạn côn trùng dưới dất trên cây.
Bạn tu
của ông là cây đại thọ Pippala. Bạn tu của ông còn là ngôi sao Hôm tỏa chiếu
rạng rỡ vào ông lúc ông bắt đầu buổi thiền tọa tối. Đêm nào ông ngồi thiền định
cho tới khuya. Bọn trẻ con trong xóm mỗi khi đem thức ăn cho ông thường chỉ ở
lại một lát vào giờ trưa, giờ nóng bức nhất trong ngày.
Trưa hôm
ấy, Sujata đem cúng dường ông một bát đề hồ nấu với sữa và mật ong. Svastika
cũng đem đến tặng cho ông một mớ cỏ Kusa rất tươi để ông trải làm tọa cụ.
Svastika lùa trâu đi rồi, ông có cảm tưởng là nội trong đêm nay, ông sẽ đạt tới
được tận cùng của sự tỉnh thức mầu nhiệm. Vừa hồi khuya, ông mơ thấy những giác
mơ rất lạ. Trước hết ông thấy ông nằm nghiêng, đầu gối lên dãy Hy Mã Lạp Sơn,
tay trái để trên bờ biển phương Đông, tay phải đặt trên bờ biển phương Tây, và
hai chân chấm bờ biển phương Nam. Trong giác mơ thứ hai ông thấy từ rốn mình
mọc lên hoa sen lớn và hoa sen này nở lớn như một vành xe, dâng cao lên tận mây
xanh.
Trong
giác mơ thứ ba ông thấy chim chóc đủ màu từ bốn phương bay tới quy tụ bên ông,
không biết bao nhiêu mà kể. Những giấc mộng ấy như báo trước sự thành công của
ông.
Chiều
hôm ấy, sa môn Gotama đi thiền hành bên bờ sông, lội xuống sông tắm gội, rồi
lại lên bờ sông đi thiền hành. Khi nắng bắt đầu tắt bên sông, ông trở lại với
gốc cây Pippala quen thuộc. Nhìn gốc cây với tấm thảm cỏ mới trải, Siddhatta
mỉm cười, Ngồi dưới cây này ông đã thực hiện được bao nhiều khám phá quan
trọng. Ông biết giờ phút mà ông chờ đợi từ lâu đã sắp đến. Cánh cửa giác ngộ
hoàn toàn sắp được tung mở.
Khoan
thai, Siddhatta ngồi xuống và điều chỉnh thế ngồi trong tư thế hoa sen. Ông đưa
mắt nhìn ra. Dưới kia dòng sông đang thầm lặng trôi. Những ngọn gió thật nhẹ
đang lướt qua bờ cỏ. Rừng chiều vắng lặng nhưng sống động. Chung quanh ông có
tiếng rì rào của muôn loại côn trùng. Ông nhiếp tâm theo dõi hơi thở và khép
nhẹ đôi mi. Sao Hôm chắc đã lên rồi.
---o0o---
Chương 18
SAO MAI ĐÃ MỌC
Chánh
niệm đưa thân tâm và hơi thở trở về một mối. Chánh niệm sung mãn đưa tới một
định lực hùng tráng. Sa môn Gotama bắt đầu dọi ánh sáng quán chiếu vĩ đại ấy
vào tự thân. Hồi lâu, ông bắt đầu thấy, trong giây phút hiện tại, sự có mặt của
muôn loại chúng sanh ngay trong chính tự thân ông. Tất cả các loại chúng sanh,
từ khoáng, khí, hơi, sương cho đến rêu cỏ, thảo mộc, côn trùng, cầm thú và loài
người đều có mặt, và có mặt một cách hiện thực ngay trong giờ phút hiện tại.
Ông thấy sự có mặt của tất cả các loại chúng sanh ấy chính là sự có mặt của
ông, không những trong hiện tại mà cũng là trong quá khứ và trong vị lai. Ông
trông thấy được tất cả những sinh diệt của mình trong các kiếp quá khứ. Ông
trông thấy được tất cả những sinh diệt của mình trong các kiếp hiện tại. Ông
cũng trông thấy được tất cả những sinh diệt của mình trong các kiếp vị lai. Ông
thấy được sự co giãn và thành hoại của muôn ngàn thế giới, muôn ngàn tinh cầu,
với tất cả những nỗi niềm đau của từng sinh vật; trong ấy, loài thì do thai
sinh ra, loài thì do trứng sinh ra, loài thì do sự tụ họp biến hóa sinh ra,
loài thì do sự chia cắt phân thân sinh ra. Ông thấy mỗi tế bào trong cơ thể ông
chứa đựng được cả tam thiên đại thiên thế giới và cũng chứa đựng cả thời gian
từ vô thỉ đến vô chung. Cái thấy ấy là túc mệnh minh. Ông chứng đạt được trí
tuệ này vào cuối canh một.
Sa môn
Gotama tiếp tục đi sâu vào trên con đường khám phá. Ông thấy tuy vô lượng vô số
thế giới từng co giãn, sinh diệt và thành hoại như thế và tuy vô lượng vô số
chúng sinh từng sinh diệt và thành hoại như thế trong vô lượng vô số kiếp,
nhưng kỳ thực những co giãn, sinh diệt và thành hoại ấy chỉ là những biểu hiện
bề ngoài, chưa từng đụng tới thực tướng của pháp giới, cũng như trên mặt biển
cả tuy lúc nào cũng có hàng triệu đợt sóng lô nhô xuất hiện nhưng đại dương
chưa bao giờ vì vậy mà có sinh diệt hay thành hoại. Sóng dường như có còn mất
sinh diệt mà nước không hề có còn mất sinh diệt, và nếu sóng tự biết mình là nước
thì sóng có thể vượt ra ngoài sự sinh diệt còn mất, đạt tới tâm trạng an ổn và
đập tan mọi niềm sợ hãi. Cái thấy này đưa sa môn Gotama vượt thoát lưới sinh
tử. Ông bất giác mỉm cười. Nụ cười của ông nở như một bông hoa dù là trong đêm
tối. Nụ cười đó như tỏa chiếu hào quang. Nụ cười ấy là hoa trái của một cái
thấy vi diệu. Cái thấy ấy là lậu tận minh. Sa môn Gotama đạt tới cái thấy ấy
vào cuối canh hai.
Vừa lúc
ấy có tiếng sấm nổ vang trời và những làn chớp giật tiếp nhau lóe lên như xé
rách không gian. Tự hồi nào mây đen đã kéo đến che lấp hết trăng sao. Giờ đây
với tiếng sấm nổ rền, mưa cũng bắt đầu rơi xuống xối xả.
Mưa rơi
ướt hết cả thân hình vị sa môn đang ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây Pippala, nhưng
Siddhatta vẫn ngồi yên bất động. Ông thản nhiên tiếp tục công phu thiền quán.
Tiếp tục
rọi ánh sáng vào cõi tâm, ông thấy chúng sanh đang chịu đựng vô lượng khổ đau
chỉ vì mỗi người mỗi loài không biết rằng mình đang cùng chung một thể tính với
mọi người và mọi loài khác, và từ sự u mê đó đã làm phát sinh bao nhiêu phiền
não làm rối loạn tâm hồn. Tham đắm, giận hờn kiêu căng, nghi ngờ, tật đố và sợ
hãi ... những tâm niệm ấy đều phát sinh từ gốc vô minh. Nếu mỗi người biết tìm
cách tĩnh tâm để nhìn lại, để quán chiếu sâu sắc vào lòng sự vật thì ai cũng có
thể đạt tới sự hiểu biết, và sự hiểu biết này sẽ làm tiêu tán được mọi phiền
não và làm phát sinh được sự chấp nhận và niềm tin yêu. Ông khám phá ra rằng
hiểu biết và thương yêu là một và nếu không thể hiểu biết thì không thể thương
yêu. Tính tình của một con người, dù ác độc đi mấy, cũng là do những điều kiện
sinh lý, tâm lý và xã hội tạo thành, Nếu hiểu được điều đó ta sẽ không oán ghét
con người mà chỉ lo chuyển hóa những điều kiện sinh lý, tâm lý và xã hội. Với
một nhận thức như thế ta không còn oán hận mà chỉ có xót thương. Có xót thương
ta mới ra tay hành động để chuyển hóa con người và chuyển hóa hoàn cảnh.
Con
đường mà Siddhatta tìm ra là con đường hiểu biết để xót thương và hành động.
Muốn thương yêu phải hiểu biết. HIểu biết là chìa khóa của cánh cửa giải thoát.
Mà muốn đạt tới hiểu biết, con người phải sống thức tỉnh trong từng giây từng
phút, thức tỉnh để tiếp xúc, để nhận diện và để nhìn thấy những gì đang xảy ra
trong ta và chung quanh ta. Cái nhìn ấy càng ngày sẽ càng sâu sắc, và khi nhìn
sâu được vào lòng một hiện tượng thì hiện tượng đó sẽ phơi bày chân tướng trước
mặt ta. Đó là bí quyết của chánh niệm. Có chánh niệm thì đời sống được soi sáng
bởi cái nhìn chân thực (chánh kiến), suy tư chân thực (chánh tư duy), lời nói
chân thực (chánh ngữ), hành động chân chính (chánh nghiệp), sự cố gắng đi về
đường chính (chánh tinh tiến) và sử dụng đúng pháp những trạng thái thiền định
về mục đích giải thoát (chánh định). Con đường này gọi là con đường thành đạo,
là arymarga, là con đường cần được chỉ bày cho nhân gian. “Chánh niệm là con
đường duy nhất để thực hiện giải thoát và giác ngộ", sa môn Siddhatta thì
thầm. Nhìn thấu vào tâm niệm của mọi loài chúng sanh. Siddhatta đã chứng được
tha tâm minh. Đồng thời ông cũng đạt tới khả năng có thể thấy có thể nghe tất
cả niềm vui nỗi khổ của mọi loài mà không cần đi tới tận chỗ. Cùng một lúc ông
đạt tới thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh và thần túc minh.
Lúc ấy,
trời đã cuối canh ba. Sấm sét đã im. Mây đen đã cuốn sạch, và trăng sao lại
vằng vặc hiện ra trên bầu trời trong suốt.
Sa môn
Gotama có cảm giác một cái nhà tù thường giam hãm con người trong ngàn vạn kiếp
đã vừa bị phá tung. Vô minh là người chủ ngục, vì sự u mê cho nên những vọng
động (hành) đã gợn lên trong tâm thức cũng như mây đen đã giăng bủa trên bầu
trời và che lấp cả trăng sao. Từ những vọng động của tâm thức mà phát sinh ra
sự phân biệt tâm và vật, chủ thể và đối tượng, ta và người, có và không, còn và
mất (danh sắc, lục nhập, xúc). Từ sự phân biệt ấy phát sinh sự tù túng (thọ,
ái, thủ, hữu). Nhà tù được xây dựng kiên cố. Trong khổ đau (sinh lão bệnh tử),
vô minh lại càng ngày càng sâu nặng, và bốn bức tường của cái nhà tù càng ngày
càng thêm vững chắc, Càng vùng vẫy, con người càng thấy những bức tường của nhà
tù vững chắc.
Chỉ có
một cách mà thôi: đó là nắm lấy người chủ ngục và khám phá chân tướng nó. Người
chủ ngục ấy là vô minh. Phưong pháp giải trừ vô minh là con đường bát chánh
đạo. Mọi khi tên chủ ngục không còn thì ngục tù bị phá tung, và không bao giờ
còn được xây dựng trở lại.
Sa môn mỉm
cười, thì thầm:
- Này kẻ
cai tù ơi, ta đã nhìn thấy ngươi. Từ bao nhiêu kiếp rồi, ngươi đã thiết lập bao
nhiêu phen những nhà tù sanh tử. Bây giờ đây những bức tường đã bị phá vỡ, kèo
cột đã bị đập nát. Ta đã nhìn rõ mặt mũi của ngươi rồi. Từ nay trở đi, ngươi
không còn xây được một cái nhà tù nào nữa”.
Nhìn
lên, Siddhatta thấy sao Mai đã mọc ở chân trời, lấp lánh như một hạt kim cương
lớn. Lâu nay ngồi dưới gốc Pippala, Siddhatta đã nhiều lần trông thấy ngôi sao
này. Nhưng hôm nay sao Mai hiện ra như một ngôi sao mới, chói sáng và lấp lánh
mừng vui như nụ cười giác ngộ. Siddhatta nhìn sững ngôi sao Mai rồi buột miệng
lên tiếng:
- “Lạ
thay, tất cả mọi chúng sanh dều có sẵn hạt giống của trí tuệ giác ngộ trong
lòng, vậy mà trong ngàn muôn ức kiếp cứ để cho tự mình lặn ngụp trong biển sinh
tử khổ đau. Thật là đáng thương”.
Siddhatta
biết rằng đạo lớn đã được tìm ra, và hoài bão của ông đã đạt được.
Tâm hồn
an lạc, thư thái, ông nghĩ đến những năm lặn lội kiếm tìm với bao nhiêu gian
truân và nhọc nhằn. Ông nghĩ tới cha, tới mẹ, tới dì, tới Yasodhara, tới Rahula
và tới mọi bạn bè quen thuộc. Ông nhớ tới triều đình, tới kinh thành
Kapilavatthu, tới dân, tới nước, tới những kẻ cùng khổ thiếu may mắn, và tới
những đứa bé sống lây lất trong các xóm nghèo. Ông hứa sẽ tìm cách đem ánh sáng
của con đường mới, soi tỏ đường đi nước bước của họ và dìu họ ra khỏi biển khổ.
Tình thương nơi ông dào dạt hơn bao giờ hết bởi vì trí tuệ nơi ông bây giờ sáng
tỏ hơn bao giờ hết.
Bóng tối
đã tan. Nắng đã lên. Chim chóc đã bắt đầu ca hát. Nắng đã bắt đầu lọc qua những
chiếc lá non. Nắng và lá đẹp một cách lạ kỳ. Sa môn Gotama đứng dậy, rời chỗ
ngồi, ông đi dần ra phía bờ sông.
Trên bờ
cỏ, các bông hoa đủ màu đã lấm tấm nở trong nắng mai. Nắng như reo mừng trên
không gian, trên cành lá và trên mặt sông. Hình như bước tới đâu ông thấy hoa
nở tới đó. Sầu đau không còn có mặt. Tất cả những mầu nhiệm của hiện hữu nối
tiếp nhau hiển bày trước mắt ông. Tất ca hôm nay đều như đổi mới, đều như khác
lạ. Nền trời xanh đối với ông cũng là mới lạ.
Đám mây
trắng đối với ông cũng là mới lạ. Vũ trụ mới tinh, và tự thân sa môn Gotama
cũng mới tinh.
Vừa lúc
ấy thì Svastika chạy tới. Thấy chú bé chăn trâu, Siddhatta mỉm miệng cười.
Svastika đứng dừng lại. Cậu bé nhìn ông chăm chăm, hai mắt như bỡ ngỡ và miệng
há to. Nó quên cả chắp hai tay lên trán để chào.
Siddhatta
gọi:
-
Svastika!
Chú bé
giật mình, đáp:
- Dạ!
Rồi mới
chắp tay chào. Nó tiến tới mấy bước nữa, ngừng lại, rồi lại đứng nhìn Siddhatta
trân trân. Cuối cùng nó thẹn thùng nói:
- Thưa
thầy, hôm nay con trông thầy rất khác lạ.
Vị sa
môn vẫy nó lại gần và ôm nó trong hai tay. Ông hỏi:
- Con
thấy ta khác thế nào?
Úp mặt
vào Siddhatta, Svastika nói:
- Con
không biết. Con chỉ biết là hôm nay thầy khác lắm. Con thấy thầy như một cái mặt
trời.
Siddhatta
xoa đầu cậu bé:
- Vậy hả
con? Con thấy thầy như là cái gì nữa?
Svastika
nhìn lên:
- Con
thấy thầy như bông sen vừa nở. Con lại thấy thầy như ... như ... mặt trăng trên
đỉnh núi Gayasisa.
Siddhatta
nhìn vào mặt Svastika:
- Con là
thi sĩ rồi đó. Nào, nói cho thầy nghe đi, tại sao hôm nay con đến thăm thầy sớm
thế? Trâu của con được thả ăn ở đâu?
Svastika
kể cho Siddhatta nghe là hôm nay cậu không phải thả trâu cho ăn, vì tất cả mấy
con trâu lớn đều được đi cày ruộng. Chỉ có một con nghé thì được giữ tại
chuồng. Hôm nay nó chỉ cần đi cắt cỏ cho trâu mà thôi. Hồi hôm nó và mấy em
thức dậy vì tiếng sấm sét và vì mưa dột ướt cả mấy cái chõng tre. Mấy anh em
đều phải chổi dậy. Chưa bao giờ nó thấy có trận mưa lớn và sấm chớp nhiều như vậy.
Cả bọn đều nghĩ đến Siddhatta và đứa nào cũng lo lắng cho Siddhatta. Chúng ngồi
với nhau cho đến khi trời tạnh mưa mới đi ngủ lại, và khi trời mới sáng,
Svastika đã chạy qua chuồng trâu để lấy quang gánh đi cắt cỏ. Nó muốn ra sớm để
tìm xem Siddhatta có được an lành không, và khi ra tới bờ sông thì nó gặp
Siddhatta.
Vị sa
môn cầm tay Svastika:
- Ngày
hôm nay là ngày vui nhất của thầy. Chưa bao giờ thầy vui như hôm nay. Nếu được
thì chiều nay các con ghé lại cây Pippala chơi với thầy. Nhớ cho mấy đứa em của
con đến với nhé. Bây giờ thì con hãy đi cắt cỏ cho đầy gánh đi.
Svastika
sung sướng chạy đi, trong khi vị sa môn tiếp tục đi từng bước một trên bờ sông
ngập nắng.
---o0o---
Chương 19
TRÁI QUÍT CỦA CHÁNH NIỆM
Trưa hôm
ấy khi mang cơm vào rừng cho sa môn Siddhatta, Sujata thấy ông đang ngồi dưói
gốc cây Pippala, đẹp như một buổi sáng mai. Nét mặt ông rạng rỡ, toàn thân ông
tỏa chiếu sự an lạc và thanh tịnh. Đã hàng trăm lần Sujata trông thấy cảnh
tượng vị sa môn ngồi tĩnh tọa trang nghiêm hùng tráng và đẹp đẽ dưới gốc cây
Pippala, nhưng hôm nay có bé cảm thấy một điều gì rất khác lạ. Nhìn Siddhatta,
Sujata tự nhiên cảm thấy tất cả những buồn lo của mình tan biến và niềm vui
phát hiện trong lòng cô như một ngọn gió mùa Xuân. Cô có cảm tưởng rằng cô không
còn ham muốn hay mơ ước một cái gì trên cuộc đời này nữa cả. Tất cả vũ trụ như
đã trở nên hoàn toàn tốt lành, hoàn toàn đẹp đẽ và trong nhân gian không cần
phải nhọc nhằn lo lắng nữa. Sujata tiến tới mấy bước, Cô bé cảm thấy rất an ổn
và nhận ra rằng niềm an lạc, và thanh tịnh của thầy đã tỏa chiếu và đi vào
trong con người của cô. Siddhatta mỉm cười nhìn Sujata. Ông nói:
- Con
ngồi xuống đây. Thầy cám ơn con đã cúng dường cơm nước cho thầy trong suốt thời
gian sáu tháng. Hôm nay là ngày vui nhất của thầy, bởi vì đêm qua thầy vừa tìm
ra đạo lớn. Con hãy vui mừng đi. Mai mốt thầy sẽ ra đi để chỉ bày cho mọi người
con đường thầy mới tìm ra được.
Sujata
nhìn lên, ngạc nhiên:
- Mai
mốt thầy sẽ ra đi? Thầy bỏ chúng con sao?
- Mai
mốt thầy sẽ ra đi, nhưng thầy sẽ không bỏ các con. Trước khi từ giã các con,
thầy cũng sẽ dạy cho các con con đường thầy mới khám phá.
Sujata
chưa được yên tâm. Cô bé định hỏi thêm, thì Siddhatta đã nói tiếp:
- Thầy
sẽ ở lại đây với các con ít ra cũng là một tuần trăng nữa. Thầy sẽ dạy đạo cho
các con. Sau đó thầy mới lên đường, nhưng như vậy không có nghĩa là thầy sẽ xa
các con mãi mãi. Thỉnh thoảng trên đường hành đạo, thầy sẽ ghé thăm và chơi với
các con.
Nghe nói
sa môn sẽ ở lại một tuần trăng trước khi đường, Sujata mới tạm yên dạ. Cô bé
quỳ xuống, mở gói lá chuối và dâng cơm lên.
Siddhatta
thọ trai, trong khi Sujata ngồi một bên, nhìn vị sa môn đang thong thả bẻ từng
miếng cơm nhỏ chấm vào muối mè để ăn. Cô thấy lòng hân hoan không biết chừng
nào mà kể.
Thọ trai
xong, Siddhatta bảo Sujata đi về, và hẹn xế chiều sẽ gặp lại cùng với bọn trẻ
trong xóm.
Chiều
hôm ấy, bọn trẻ đến rất đông. Ba đứa em của Svastika cũng đều có mặt. Các cậu
con trai đều đã tắm rửa sạch sẽ và ăn mặc tươm tất. Các cô bé đều choàng sari
màu, Sujata mặc sari lụa màu ngà. Nandabala màu đọt chuối. Bhima màu hồng. Bọn
trẻ ngồi quanh Siddhatta dưới gốc cây Pippala, rực rỡ như những bông hoa.
Sujata
đã đem đến rất nhiều trái dừa và những thẻ đường thốt nốt để thết đãi thầy
Siddhatta và cả bọn. Chúng cạy dừa và bẻ ra từng miếng để ăn với nhau rất là
vui vẻ. Đường thốt nốt càng làm cho dừa ngon thêm. Nandabala và Subas cũng đem
theo mấy mươi trái quít. Chúng chia nhau bóc quít ăn. Sa môn Siddhatta ngồi
giữa bọn trẻ, rất vui. Bé Rupak mời ông một miếng dừa và một miếng đường thốt
nốt, đặt trên một cái lá Pippala . Nandabala dâng ông một trái quít. Ông tiếp
nhận mọi thứ và cùng ăn chung với bọn trẻ.
Bữa tiệc
ngắn chưa chấm dứt, Sujata đã lên tiếng:
- Thưa
các anh chị, các bạn và các em. Thầy nói hôm nay là ngày vui của thầy vì Đạo
Lớn đã được tìm ra. Sujata cũng cảm thấy hôm nay là một ngày rất lớn của
Sujata. Vậy thưa các anh chị các bạn và các em; tất cả chúng ta hãy xem này hôm
nay là một ngày vui lớn. Chúng ta họp lại hôm nay để mừng ngày thành đạo của
thầy. Bạch thầy, Đạo Lớn đã thành, chắc thầy không ở lại với chúng con được
lâu. Chúng con xin thầy dạy cho chúng con những điều mà chúng con có thể hiểu
được, để chúng con được thấm nhuần ơn đức của thầy.
Nói
xong, Sujata chắp hai tay lại hướng về sa môn Gotama, dáng điệu kính cẩn và tha
thiết. Nandabala và bọn trẻ cũng đều chắp tay hướng về Siddhatta với vẻ chí
thành.
Siddhatta
im lặng. Một lát sau ông ra hiệu cho bọn trẻ bỏ tay xuống, và nói:
- Các
con là những đứa trẻ thông minh, thế nào các con cũng hiểu và làm theo được
những lời ta dạy. Đạo Lớn mà ta tìm ra rất sâu kín và nhiệm màu, nhưng nếu
người nào chịu học hỏi hết lòng cũng có thể thấy và hành theo được. Con đường
ta tìm ra được gọi là con tỉnh thức.
Khi các
con bóc một trái quít ra ăn, các con có thể ăn quít một cách tỉnh thức hay
không tỉnh thức. Thế nào gọi là ăn quít một cách tỉnh thức. Đó là trong khi ăn
quít, mình biết là mình đang ăn quít, mình cảm nhận được hương thơm và vị ngọt
của trái quít. Khi bóc quít mình biết là mình đang bóc quít, khi gỡ một múi
quít bỏ vào miệng, mình biết là mình đang gỡ một múi quít bỏ vào miệng, khi
tiếp xúc với hương thơm và vị ngọt của múi quít, mình biết là mình đang tiếp
xúc với hương thom và vị ngọt của múi quít. Trái quít mà chị Nandabala vừa tặng
thầy hồi nãy có tất cả là chín múi. Thầy đã ăn từng múi trong sự tỉnh thức như
thế và thầy thấy được rằng trái quít là rất quý giá, rất mầu nhiệm. Trong suốt
thời gian ăn trái quít thầy không quên trái quít, vì vậy trái quít có thật đối
với thầy trong thời gian đó. Trái quít có thật thì người ăn quít cũng có thật
và như vậy tức là ăn quít trong sự tỉnh thức.
“Này các
con, còn thế nào gọi là ăn quít một cách không tỉnh thức? Đó là trong khi ăn
quít, mình không biết là mình đang ăn quít, mình không cảm nhận được hương thơm
và vị ngọt của trái quít. Khi bóc quít, mình không biết là mình đang bóc quít,
khi gỡ một múi quít bỏ vào miệng, mình không biết là mình gỡ một múi quít bỏ
vào miệng, khi tiếp xúc với hương thơm và vị ngọt của múi quít, mình không biết
là mình đang tiếp xúc với hương thơm và vị ngọt của múi quít. Ăn quít như thế
thì không thấy được sự quý giá và mầu nhiệm của trái quít. Ăn quít mà không
biết là mình ăn quít, thì trái quít không thật sự có mặt. Trái quít không thật
sự có mặt thì người ăn quít cũng không thật sự có mặt. Các con, đó là ăn quít
mà không có sự tỉnh thức.
“Này các
con, ăn quít trong tỉnh thức có nghĩa là trong khi ăn quít ta xúc tiếp thật sự
với trái quít, óc ta không suy nghĩ vẫn vơ đến những chuyện khác, chuyện của
ngày hôm qua, chuyện của ngày mai, vì tâm ta an trú trong giờ phút hiện tại cho
nên trái quít mới thật sự có mặt. Như vậy, sống tỉnh thức là sống trong giây
phút hiện tại, thân và tâm an trú trong giây phút hiện tại.
“Người
tu tập phép tỉnh thức khi cầm trái quít trong tay và nhìn vào trái quít có thể
thấy được những điều mà người khác không thấy. Nhìn trái quít trong tỉnh thức,
các con có thể thấy được cây quít, các con có thể thấy được cây quít nở hoa
trong mùa Xuân, các con có thể thấy được ánh nắng và giọt mưa đang nuôi lớn trái
quít. Nhìn sâu hơn nữa các con có thể thấy được muôn vật trong vũ trụ đang tiếp
tay nhau để làm cho trái quít có mặt. Nhìn một trái quít như thế người tu tập
phép tỉnh thức có thể thấy được những sự mầu nhiệm của vũ trụ và đồng thời cũng
thấy được sự giao tiếp trùng trùng của mọi vật trong vũ trụ đối với nhau”.
“Này các
con, đời sống hàng ngày của chúng ta cũng giống như một trái quít. Nếu trái
quít có thể có chín múi hoặc mười múi hay mười hai múi, thì mỗi ngày cũng có
hai mươi bốn giờ. Mỗi giờ là một múi quít. Sống một ngày hai mươi bốn giờ cũng
như ăn cả một trái quít: con đường mà ta tìm ra là con đường sống tỉnh thức
suốt hai mươi bốn giờ một ngày, thân và tâm luôn luôn an trú trong hiện tại.
Ngược lại tức là sống trong quên lãng. Sống trong quên lãng tức là sống mà
không biết mình sống, sống mà không thật sự tiếp xúc với sự sống, bỏi vì thân
tâm mình không an trú trong hiện tại".
Nói tới
đây, sa môn Gotama gọi:
- Này
Sujata.
- Dạ,
Sujata chắp tay nhìn lên chờ đợi.
- Con
nghĩ sao, khi một người biết sống tỉnh thức, người ấy làm nhiều lầm lỗi hay ít
lầm lỗi?
- Bạch
thầy, khi một người biết sống tỉnh thức, người ấy ít phạm vào lầm lỗi.
Mẹ con
thường dạy: làm con gái con phải có ý tứ khi đi, khi đứng, khi nói, khi cười và
khi làm việc. Con thấy rằng sống có ý tứ cũng như sống tỉnh thức. Nếu con để
tâm vào công việc, nếu con có ý tứ trong khi đi, đứng, nói, cười thì trong đời
sống hàng ngày con tránh được những ý nghĩ, những lời nói và những động tác có
thể gây nên sự đổ vỡ và làm kẻ khác phiền lòng.
- Đúng
như vậy, Sujata. Khi một người biết sống tỉnh thức, người ấy biết mình đang
nghĩ gì, nói gì và làm gì và vì vậy người ấy có thể tránh được những ý nghĩ,
lời nói và động tác có thể gây nên khổ đau cho mình và cho kẻ khác.
Này các
con, sống tỉnh thức tức là sống trong giờ phút hiện tại, và biết được những gì
đang xảy ra trong bản thân mình và hoàn cảnh mình. Sống như thế ta tiếp xúc
được với sự sống, và nếu tiếp tục sống tinh cần như thế ta có thể hiểu biết
được bản thân ta và hoàn cảnh ta một cách sâu sắc, và sự hiểu biết đưa tới sự
chấp nhận và sự thương yêu. Khi mọi loài hiểu biết nhau, không còn nhiều khổ
đau. Này Svastika, con nghĩ sao? Người ta có thể thương được không, nếu người
ta không hiểu?
- Bạch
thầy, không hiểu thì khó có thể thương. Xin thầy nhìn em Bhima của con. Có một
hôm bé Bhima khóc hoài, khóc cả đêm, làm cho chị nó là bé Bala nổi cáu lên,
phát cho nó một cái thật mạnh vào mông. Bhima bị chị đánh lại khóc to hơn. Con
đến ẳm Bhima và con biết rằng Bhima đang sốt.
Có thể
nó khóc vì đang bị nhức đầu. Con gọi Bala mà nói:
“Này
Bala, hãy tới sờ đầu em mà xem”. Bala tới sờ đầu em, hiểu ngay. Mặt nó dịu lại.
Nó ôm em vào lòng, rồi ru em với tất cả sự thương yêu. Em Bhima nín khóc, dù nó
vẫn còn sốt. Bạch thầy, đó là nhờ Bala đã hiểu, cho nên con nghĩ rằng nếu không
hiểu thì không thể thương.
- Con
nói đúng lắm, Svastika? Có hiểu mới thương, và có thương mới biết chấp nhận.
Này các con, tập sống cho tỉnh thức các con sẽ từ từ hiểu: hiểu mình, hiểu
người, hiểu vạn vật và các con sẽ có lòng thương. Đó là những điều sơ lược về
con đường mầu nhiệm mà ta đã tìm ra”.
Svastika
chắp tay:
- Bạch
thầy, chúng con có thể gọi con đường ấy là con đường tỉnh thức được không?
Siddhatta
cười:
- Được
chứ, các con có thể gọi đạo của ta là đạo tỉnh thức. Ta cũng ưa cách gọi ấy của
các con lắm.
Sujata
chắp tay xin phép nói:
- Còn
thầy là người đã tỉnh thức, đã biết sống tỉnh thức và sẽ đi dạy đạo tỉnh thức
cho mọi người. Vậy chúng con có thể gọi thầy là người tỉnh thức được không?
Siddhatta
gật đầu:
- Các
con đặt tên cho ta như vậy, ta bằng lòng lắm. Cứ gọi ta là người tỉnh thức.
Cách gọi ấy ta thấy đơn sơ mà thân mật.
Mắt của
Sujata sáng lên. Cô bé nói:
- Tỉnh
thức nói theo tiếng Magadhi là budh. Người tỉnh thức nói theo tiếng Magadhi là
Buddha. Vậy từ nay chúng con gọi thầy là Bụt.
Siddhatta
gật đầu. Tất cả bọn trẻ đều hoan hỷ. Nalaka, mười bốn tuổi, là người con trai
lớn tuổi nhất trong bọn. Cậu lên tiếng:
- Lạy
Bụt, chúng con rất sung sướng được Bụt dạy cho chúng con về con đường tỉnh
thức. Con nghe em Sujata nói gần sáu tháng nay Bụt ngồi tu dưới gốc của cây
Pippala này, và chính đêm qua Bụt đã thành đạo dưới gốc cây Pippala này. Thưa
Bụt, cây Pippala này đẹp nhất trong rừng. Chúng con muốn đặt tên cây này là cây
tỉnh thức, có được hay không? Cây tỉnh thức tức là cây Bồ Đề, bởi vì chữ bồ đề
(bodhi) cũng cùng một họ với chữ bụt, cũng có nghĩa là sự tỉnh thức.
Sa môn
Siddhatta Gotama gật đầu. Ông rất hoan hỷ. Ông không ngờ trong một buổi nói
chuyện ngắn ngủi với bọn trẻ nhỏ trong rừng mà ông đã có tên, đạo của ông mới
tìm được đã có tên, và cây đại thọ nơi ông tìm ra đạo lớn cũng đã có tên.
Nandabal
chắp tay:
- Chúng
con xin bái biệt Bụt hôm nay. Trời đã gần tối, ít hôm nữa chúng con sẽ xin trở
lại để được Bụt dạy dỗ.
Bọn trẻ
nhất loạt đứng dậy chắp tay búp sen để cám ơn và từ giã Bụt. Chúng ríu rít vui
mừng như một đàn chim. Bụt cũng vui, Bụt đã quyết định ở lại rừng này trong một
thời gian để chiêm nghiệm về cách đem gieo rắc những hạt giống của đạo tỉnh
thức trong cuộc đời, đồng thời cũng để có thời gian thể nghiệm đầy đủ niềm an
lạc lớn lao do sự chứng đạo đem tới.
---o0o---
Chương 20
NAI NGỌC
Mỗi
ngày, Bụt đều có xuống tắm dưới dòng Neranjara. Người thường đi bách bộ để
thiền hành trên bờ sông hoặc ở những con đường mòn trong rừng do chính dấu chân
của ngài tạo ra. Có khi Bụt ngồi tĩnh tọa trên bờ sông bên dòng nước chảy. Có
khi Bụt ngồi tĩnh tọa dưới cây bồ đề trong lúc hàng ngàn chim chóc ca hát líu
lo trên cành lá. Lời nguyện xưa bây giờ đã được thực hiện. Bụt biết là người sẽ
trở về Kapilavatthu. Ở đó có nhiều người đang chờ đợi Bụt. nhưng Bụt cũng nhớ
rằng ở thành Rajagaha, vua Bimbisara cũng đang đợi chờ người. Vua Bimbisara quả
là một người bạn tri kỷ của Bụt. Bụt phải đáp lại tấm thịnh tình đó trước, và
còn năm người bạn đồng tu nữa. Bụt phải giúp đỡ họ. Họ là những người có khả
năng tiếp nhận đạo giải thoát. Có lẽ năm người ấy cũng chỉ đang quanh quẩn
trong vùng này mà thôi.
Dòng
sông, bầu trời, trăng sao, núi rừng cũng như từng ngọn cỏ và từng hạt bụi đều
trở nên mầu nhiệm đối với Bụt. Người thấy những năm lang thang tìm Đạo của mình
trước kia không phải là vô ích. Chính nhờ những năm phong trần ấy mà người thấy
được rằng đạo sáng nằm ngay trong tự tâm mình. Tâm của chúng sinh chính là tâm
của giác ngộ. Hạt giống tỉnh thức nằm ngay trong tâm của mỗi người. Chúng sanh
không cần đi tìm sự giác ngộ ở bên ngoài, bởi vì mỗi sinh vật chứa đủ trong tự
thân tất cả trí tuệ và hùng lực của toàn vũ trụ. Đây là một phát kiên vĩ đại
của Bụt, và là một tin mừng lớn cho tất cả.
Bọn trẻ
đã rủ nhau trở lại nhiều lần để được Bụt dạy dỗ. Trong khi tiếp xúc với chúng,
Bụt vui mừng nhận ra rằng đạo lý giải thoát có thể diễn bày bằng một ngôn ngữ
đơn giản và mộc mạc. Bọn trẻ, dù là những em bé chưa bao giờ đi học cũng có thể
hiểu được giáo pháp của Bụt. Điều này làm cho Bụt phấn khởi. Có một bữa nọ, bọn
trẻ đã tới Bụt với một rỗ quít. Rỗ quít này do Sujata đem đến. Chúng muốn được
cùng ăn quít với Bụt trong sự tỉnh thức để thực tập lại bài học đầu tiên mà
chúng đã được học về đạo Bụt. Sujata nâng rỗ quít đi mời từng người. Trước hết
cô bé quỳ trước Bụt và nâng rỗ quít lên trên hai tay, đầu cô bé hơi cúi xuống
trong dáng diệu thành kính. Bụt chắp tay búp sen và tiếp nhận một trái quít từ
trong rỗ. Sujata hướng sang mời Svastika hiện đang ngồi phía bên trái của Bụt,
Svastika cũng chắp tay búp sen như Bụt để tiếp nhận một trái quít. Sujata làm
như thế cho đến khi mọi người đều đã có trong tay một trái quít mới trở về chỗ
ngồi. Đặt rỗ quít trước mặt, cô bé cũng chắp tay trước khi lấy lên một trái
quít. Bọn trẻ im lặng, Bụt bảo chúng theo dõi hơi thở và mỉm cười. Rồi Bụt để
trái quít lên trên lòng bàn tay trái, đưa lên, nhìn vào trái quít để quán tưởng
chiêm nghiệm. Bọn trẻ đồng loạt làm như Bụt. Một lát sau, Bụt từ từ bóc quít,
bọn trẻ cũng làm như người. Thầy trò thong thả ăn quít trong im lặng, trong
tỉnh thức. Khi mọi người đã ăn xong quít, Bala đi thu hồi tất cả những cái vỏ
quít. Bọn trẻ rất sung sướng được ăn quít với Bụt trong chánh niệm và Bụt cũng
cảm thấy một niềm vui lớn khi được ngồi thực tập với bọn trẻ quê mùa nhưng rất
dễ thương này.
Bọn trẻ
thường trở lại với Bụt vào những buổi chiều. Có khi Bụt dạy chúng cách theo dõi
hơi thở để điều phục tâm ý trong những khi buồn bực hoặc nóng giận. Có khi Bụt
dạy chúng cách ngồi yên để làm cho tâm trí tĩnh lặng.
Có khi
Bụt dạy chúng cách đi thiền hành để học nếm sự thảnh thơi. Bụt dạy chúng thật
kỹ về cách nhìn người và sự việc: nhìn như thế nào để có thể thấy, có thể hiểu
và có thể thương. Bài dạy nào bọn chúng cũng hiểu được.
Mộ hôm
nọ, Nanbadaal và Sujata quyết định cùng nhau may một chiếc áo ca sa mới để dâng
Bụt. Hai chị em đã để ra một ngày để làm chuyện này. Chiếc áo ca sa mới này màu
gạch, hơi giống với tấm vải mà Bụt đang choàng.
Sujata
đã khám phá được nguồn gốc của tấm vải đó. Đó là tấm vải đã được phủ lên thi
hài của Radha, người ở của nhà cô, khi còn quàng ngoài nghĩa địa. Radha đã chết
vì bệnh thương hàn. Ba mẹ của Sujata đã nuôi một người ở khác tên là Purna. Khi
biết rằng thầy mình đã phải lấy một tấm vải ngoài nghĩa địa dể giặt đi mà làm
áo ca sa. Sujata như muốn khóc, và đó là lý do khiến cô bé đi tìm người chị họ.
Ngày hai
chị em đem áo vào dâng, Bụt đang ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề. Hai chị em ngồi im
lặng đợi cho đến khi người xuất thiền mới dâng áo ca sa lên.
Bụt rất
vui lòng khi có áo mới. Người nói người sẽ cần đến áo này. Và người nói người
muốn giữ lại tấm vải, để mỗi khi giặt áo thì có vật khoác lên trên người. Nghe
nói thế, Nanbadala và Sujata quyết định may thêm cho Bụt một chiếc nữa để người
có thể thay được áo ngoài mà đem đi giặt.
Một hôm
nọ, bọn trẻ được nghe Bụt kể một chuyện tiền thân. Hôm ấy chúng đến khá đông,
bé Balagupta hỏi Bụt về tình bạn. Balagupta là một cô bạn gái của Sujata, mới
lên mười hai tuổi. Sở dĩ Balagupta hỏi Bụt về tình bạn vì ngày hôm trước cô đã
cùng với cô bạn gái là Jatilika có chuyện xích mích cùng nhau, và hôm nay trước
khi đi vào thăm Bụt cô bé đã định không ghé vào rủ Jatilika cùng đi, nhưng cuối
cùng, Sujata đã ép cô vào rủ Jatilika, Jatilika đã chiều Sujata mà đi, nhưng
khi tới cội bồ đề, đôi bạn ngồi ra hai góc chứ không ngồi gần sát bên nhau như
trong những lần khác.
Bụt kể
cho bọn trẻ nghe về tình bạn giữa một con nai, một con chim và một con rùa.
Theo Bụt thì chuyện này đã xảy ra từ thời xa xưa, cách đây hàng ngàn năm, lúc
Bụt còn là một con nai. Bọn trẻ ngạc nhiên, nhưng Bụt bảo:
- Trong
những kiếp trước, chúng ta ai cũng đều đã từng làm đất, làm đá, làm sương, làm
gió, làm nước, làm lửa. Chúng ta ai cũng đã từng làm làm rêu, làm cỏ, làm cây
cối, làm côn trùng, làm cá, làm rùa, làm chim muông, làm thú vật. Điều này ta
tấy rất rõ trong thiền quán của ta. Vậy thì trong một kiếp trước, ta đã làm một
con nai, đó là chuyện rất thường. Ta còn nhớ, có một kiếp nọ, ta làm một mỏm đá
trên đỉnh núi. Có một kiếp khác nữa, ta đã làm một cây bông sứ. Các con cũng vậy,
chuyện ta sắp kể là chuyện một con nai, một con chim, một con rùa và một bác
thợ săn. Có thể là một đứa trong các con ngày xưa ấy đã làm con chim, và một
đứa khác làm con rùa.
Các con
nên biết, có một thời nọ, trên cõi đất của chúng ta, chưa có mặt của loài
người, và cũng chưa có mặt chim chóc và muông thú. Lúc ấy chỉ có rong rêu dưới
nước và cây cối trên cạn mà thôi. Hồi đó, chúng ta chỉ có thể là đất đá, sương
khói hoặc cây cối. Rồi từ đó mà chúng ta luân chuyển thành chim chóc, thành các
loài cầm thú và thành con người. Ngay trong kiếp này, chúng ta cũng không phải
chỉ là người. Ta là người nhưng ta cũng đồng thời là cây lúa, là cây dừa, là
trái quít, là dòng sông, là không khí ... bởi vì không có mặt những thứ đó thì
con người cũng không thể nào có mặt. Cho nên khi các con nhìn cây lúa, trái
dừa, trái quít, dòng sông, các con nên nhớ trong kiếp này tuy mình là người
mình cũng phải nương tựa vào các loài ấy và mình cũng có thể nói rằng mình là
những loài ấy. Thấy được như vậy mới thật là có hiểu biết và có tình thương.
Chuyện
ta sắp kể cho các con nghe tuy đã xảy ra cách đây hàng ngàn năm nhưng có thể là
đang xảy ta ngay trong giờ phút này. Các con hãy lắng nghe cho kỹ mà suy nghĩ,
để xem mình có dính líu gì tới những con vật ở trong truyện hay không!
Rồi Bụt
bắt đầu kể. Thuở ấy Bụt là một con Nai ở trong rừng. Trong rừng có một hồ nước.
Dưới hồ nước có một con Rùa. Bên hồ nước có một cây dương, và trên cây dương có
một con chim Sáo. Nai, Rùa, và Sáo chơi nhau rất thân. Một hôm có một người thợ
săn đi theo hai dấu chân Nai tới bên hồ, nơi Nai thường xuống uống nước. Ông ta
đặt một cái bẫy bằng những sợi dây da rất chắc ở đó, rồi đi về nhà. Nhà ông ta
không xa bìa rừng là mấy.
Chiều
hôm ấy, tới bờ hồ dể uống nước. Nai bị mắc bẫy, Nai kêu lên, Rùa và Sáo nghe
tiếng Nai. Rùa bò đến, Sáo bay tới. Thấy Nai bị nạn, Rùa và Sáo bàn nhau phương
thức giải cứu cho bạn. Sáo nói với Rùa: “Chị Rùa ơi, chị có răng khỏe thì chị
hãy gắng gặm cho đứt những chiếc dây da của cái bẫy này, còn em, em sẽ tìm cách
ngăn ông thợ săn lại, đừng cho ông tới”. Nói xong, Sáo vội vã bay đi.
Rùa khởi
sự gặm các sợi dây da. Sáo bay ra khỏi rừng, tới nhà người thợ săn và đậu sẵn
trên một cành cây xoan trước cửa nhà, chờ đợi. Trời sáng, người thợ săn cầm lấy
con dao nhọn và mở cửa đi ra. Thấy người thợ săn bước ra, Sáo vỗ cánh bay tới
và lao mình vào mặt ông ta bằng hết cả sức mạnh. Bị Sáo đạp vào mặt, bác thọ
săn choáng váng. Bác trở lui vào nhà. Bác nằm xuống giường để nghỉ ngơi chốc
lát. Hồi lâu sau bác lại chồm dậy, cầm lấy con dao nhọn. Lần này, bác đi ra
bằng cửa sau, nhưng Sáo đã biết trước. Sáo đã chực sẵn trên một cành mít ở sân
sau. Khi bác thợ săn mở cửa đi ra. Sáo lại vỗ cách và lao mình vào mặt bác một
lần nữa.
Bị chim
tấn công hai lần liên tiếp, bác thợ săn quay vào nhà. Bác suy nghĩ: Ngày hôm
nay xấu quá, dù ta đi bằng ngõ trước hay bằng ngõ sau thì cũng bị con chim quái
gỡ này ngăn cản. Thôi ta hãy nghĩ ngơi, để ngày mai sẽ vào rừng.
Sáng hôm
sau, người thợ săn thức dậy sớm. Cầm lấy chiếc dao nhọn, ông lấy nón đội lên
che kín mặt rồi mở cửa đi ra. Không tấn công ông ta vào mặt được nữa. Sáo lập
tức bay về rừng báo cho hai bạn:
- Bác
thợ săn sắp tới.
Lúc ấy
Rùa đã gặm đứt gần hết các sợi dây a. Chỉ còn có một sợi nữa thôi là Nai có thể
thoát được. Rùa dùng hét sức bình sinh để gặm, nhưng sợi dây này cứng quá, cứng
như thép. Răng của Rùa gần như là sắp rụng hết và miệng Rùa chảy máu rất là tội
nghiệp. Rùa đã ra sức gặm trong hai đêm và một ngày, miệng Rùa không chảy máu
sao được.
Trong
lúc đó người thợ săn vừa tới. Trông thấy ông ta, Nai hoảng kinh vùng mạnh một
cái. Nhờ vậy sợi dây mà Rùa gặm nửa chừng bị đứt. Nai vội phóng vào rừng. Lúc
đó Sáo đã bay lên đậu trên cây dương, nhưng Rùa kiệt sức quá, không bò đi đâu
được. Thấy mất Nai, bác thợ săn tức lắm. Bác lượm lấy Rùa, bỏ vào trong một cái
túi da và treo túi trên một thân cây rồi đi tìm Nai.
Lúc đó,
Nai đang đứng sau một bụi rậm nhìn ra để thăm chừng các bạn. Nai nghĩ: “Các bạn
đã liều thân cứu ta, đến lượt ta, ta cũng phải liều thân cứu bạn”. Nghĩ như
thế, Nai từ từ bước ra cho người thợ săn trông thấy. Nai làm ra vẻ kiệt sức và
khuỵu hai chân trước xuống.
Người
thợ săn nghĩ:
- Con
Nai này kiệt sức rồi, Ta có thể đuổi theo nó và đâm nó một nhát.
Ông ta
liền cầm đao đuổi theo Nai. Nai đứng dậy từ từ đi vào rừng, dụ bác thợ săn đi
theo. Sau khi đã dụ được bác thợ săn đi vào khá sâu trong rừng, Nai vụt chạy
thật nhanh, làm mất dấu chân mình, rồi phóng trở ra hồ nước.
Tới bên
cây dương, Nai dùng gạc của mình đẩy cái túi da của bác thợ săn úp ngược xuống.
Nhờ vậy Rùa rơi ra khỏi túi. Sáo cũng bay tới gần. Nai nói với hai bạn:
- Nhờ
hai bạn mà tôi đã thoát chết về tay người thợ săn. Tôi cám ơn hai bạn.
Người
thợ săn sẽ trở lại ngay bây giờ. Anh Sáo, anh hãy dời tổ anh đi nơi khác, còn
chị Rùa, xin chị bò xuống nước đi thôi. Mau lên, còn tôi, tôi sẽ đi ngay vào
rừng.
Khi
người thợ săn trở lại, ông ta thấy Rùa đã thoát đi đâu mất. Nai và Sáo cũng bặt
tăm. Buồn bã, ông ta đeo túi và cầm dao đi về nhà.
Bé Rupak
và bé Subash nghe đến chỗ con Rùa gặm những sợi dây da suốt hai đêm và một ngày
khiến cho miệng Rùa chảy máu thì lấy làm thướng lắm. Chúng nó gần khóc. Kể xong
chuyện tiền thân, Bụt hỏi:
- Các
con nghĩ xem, thuở ấy ta là Nai, còn ai trong các con là Rùa?
Bốn em
bé đưa tay lên. Svastika nhận thấy trong số những người đưa tay có cả Sujata.
Bụt lại hỏi:
- Vậy ai
trong các con là Sáo?
Lần này
Svastika đưa tay lên. Nó nhận thấy có hai đứa nữa cũng đưa tay lên.
Đó là
Jatilika và Balagupta.
Sujata
nhìn Jatilika rồi nhìn Balagupta:
- Cả hai
em đều là Sáo, như vậy hai người chỉ là một người. Sáo mà giận Sáo thì còn ra
gì nữa. Tình bạn của chúng ta không bằng tình bạn giữa Sáo, Rùa và Nai hay sao?
Nói xong
Sujata lại nhìn Balagupta, Balgupta hiểu ý, đứng dậy. Cô bé tiến tới chỗ
Jatilika, đưa hai tay nắm lấy tay bạn. Jatilika cũng đưa hai tay ôm Balagupta
vào lòng, rồi nó ngồi xịch ra một bên cho Balagupta có chỗ ngồi sát bên nó.
Bụt mỉm
cười:
- Các con đã hiểu được chuyện tiền thân. Các con nên nhớ rằng chuyện tiền thân như chuyện ta vừa kể đang xảy ra trong cuộc sống hàng ngày giữa chúng ta.
---o0o---
MỤC LỤC
Đường
xưa mây trắng (Chương 1 – 20)
Đường
xưa mây trắng (Chương 21 – 40)
Đường xưa mây trắng (Chương 41 – 80)
Đường xưa mây trắng (Chương 61 – 81 end)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét