HỒ SEN
Bọn trẻ
đi rồi, Bụt đứng dậy đi thiền hành. Người đi ra phía bờ sông. Người vén cao
chéo áo, lội qua sông. Qua sông, Bụt theo con đường giữa hai ruộng lúa đi tới
cái hồ sen quen thuộc. Người dừng lại bên hồ.
Ngắm
những ngó sen, lá sen và hoa sen trong hồ. Bụt thấy vị trí và hình dáng khác
nhau của mỗi thứ. Bụt biết những củ sen không bao giờ vượt ra khỏi bùn, Bụt
biết có những cọng sen còn đang nằm dưới mặt nước, có những lá sen còn cuốn
lại, một nửa ở dưới nước, một nửa ở trên không. Có những bông sen đã trồi lên
khỏi mặt nước nhưng búp còn ngậm. Có những bông sen đang hé nở. Có những bông
sen đã nở lớn. Lại có những cái gương sen không còn mang theo cánh sen nào. Có
những bông sen màu trắng, có những bông sen màu xanh, có những bông sen màu
hồng. Quán sát hồ sen, Bụt thấy con người cũng vậy. Mỗi người có một căn tính
khác nhau.
Devadatta
không giống Annda, Yasodhara không giống phu nhân Pamita mẹ nàng, Sujata không
giống Bala. Tính tình, đức độ, sự thông minh và tài trí mỗi người một khác. Con
đường giải thoát mà Bụt đã tìm ra cần được diễn bày nhiều cách để có thể thích
ứng với mọi lớp người. Khi Bụt dạy dỗ bọn trẻ con trong xóm, người đã tự nhiên
tìm được những phương tiện để diễn giải đạo lý cho chúng hiểu. Những phương
tiện này có thể được gọi là những cánh cửa mở ra để con người đi vào và hiểu
được giáo pháp: có thể gọi đó là những pháp môn. Vậy pháp môn là kết quả tự
nhiên giữa sự tiếp xúc giữa Bụt và quần chúng, chứ không phải là do sự sắp đặt
đơn phương của Bụt khi ngồi dưới cội bồ đề. Nghĩ như vậy, Bụt thấy rằng đã đến
lúc người cần trở lại với xã hội con người. Trở lại để cho vành xe chánh pháp
bắt đầu chuyển động trên con đường gieo rắc những hạt giống của đạo giải thoát.
Bốn mươi chín ngày đã đi qua từ khi đạo tỉnh thức đã được chứng đạt. Bụt quyết
định trưa mai sẽ rời tụ lạc Uruvela, tạm biệt khu rừng êm mát bên sông
Neranjara, tạm biệt cây bồ đề và bọn trẻ. Bụt định đi tìm hai vị đạo sư của
mình là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Bụt tin rằng hai vị này nếu được Bụt
chỉ bày sẽ có thể đạt tới quả vị giác ngộ rất mau chóng. Bụt dự tính sau khi
giúp hai người này, Bụt sẽ đi tìm năm người bạn đồng tu khổ hạnh để giúp họ, và
sau đó người mới trỏ về Vương Xá gặp quốc vương xứ Magadha.
Sáng hôm
sau, Bụt mặc áo ca sa mới, ôm bát và đi vào thôn Uruvela khi trời còn mờ sương.
Người tìm tới nhà Svastika. Bụt báo tin cho chú bé biết là người sẽ rời khỏi
Uruvela sáng nay. Svastika thức các em dậy. Tất cả đều buồn rầu khi nghe tin
Bụt sắp đi. Bụt xoa đầu từng đứa để từ giã. Svastika và mấy đứa em muốn đưa
tiễn Bụt ra khỏi làng, nhưng Bụt còn muốn từ giã Sujata, cùng với bọn trẻ,
người đi vào xóm. Khi Bụt đến nhà Sujata thì cô bé đã dậy. Nghe tin Bụt sắp đi,
Sujata khóc. Bụt nói:
- Ta
phải tạm xa các con để đi lo cho tròn trách vụ, nhưng ta hứa là sẽ trở lại đây
thăm các con mỗi khi có dịp thuận lợi. Ta cám ơn các con. Các con nhớ sống và
làm theo những lời ta dặn, như thế là các con sẽ không bao giờ xa cách ta.
Sujata, con hãy lau nước mắt và cười lên đi.
Sujata
lấy chéo áo sari lau nước mắt và gượng cười để Bụt vui lòng. Bọn trẻ đưa Bụt ra
cổng làng.
Tới bờ
sông, vừa định chia tay với bọn trẻ thì Bụt trông thấy một sa môn trẻ từ phía
ruộng đi lên. Thấy Bụt, vị sa môn này chắp tay chào rồi nhìn sững Bụt . Một lúc
sau, ông ta mới nói:
- Sa môn,
dáng điệu ngài trầm tĩnh lắm. Thần sắc ngài rạng rỡ. Ngài tên là gì, và ai là
vị đạo sư của ngài?
Bụt trả
lời:
- Tôi
tên là Siddhatta Gotama. Tôi đã học với nhiều thầy, nhưng hiện tại thì không ai
làm thầy của tôi cả, còn thầy, thầy tên gì và đang đi đâu?
Vị sa
môn đáp:
- Tôi là
sa môn Upaka. Tôi mới từ đạo tràng của đạo sư Uddaka Ramaputta tới.
- Đạo sư
Uddaka có mạnh giỏi không, thầy?
- Đạo sư
Uddaka mới tịch cách đây mấy hôm.
Nghe nói
đạo sư Uddaka đã tịch, Bụt thở dài. Như vậy là Bụt không có dịp để giúp ông ta.
Bụt hỏi thêm:
- Vậy
thì thầy đã có dịp thọ giáo với đạo sư Alara Kalama chưa?
Sa môn
Upaka nói:
- Tôi
cũng đã từng được học với đạo sư Alara Kalama. Đạo sư cũng đã tịch rồi.
Như vậy
là hai vị thầy đầu mà Bụt từng theo học đã theo nhau tịch. Bụt hỏi thêm:
- Vậy
thầy có biết sa môn Kondanna không?
Upaka
đáp ngay:
- Có,
tại đàng tràng cũ của đạo sư Uddaka, tôi có nghe nói rằng sa môn Kondanna, cùng
với bốn vị sa môn bạn hữu hiện đang tu ở Isipatana, trong vườn Nai, gần thành
Baranasi. Sa môn Gotama, xin ngài cho phép tôi từ biệt. Tôi còn phải đi trọn
ngày hôm nay mới tới được nơi tôi muốn tới.
Bụt chắp
tay từ giã sa môn Upaka, rồi quay lại bọn trẻ. Người nói:
- Các
con, bây giờ ta sẽ lên đường đi Baranasi. Ta sẽ đi tìm gặp năm người bạn tu khổ
hạnh của ta.Thôi nắng đã lên rồi, các con về đi.
Nói
xong, Bụt chắp tay từ giã. Người đi dọc theo bờ sông đi về hướng Bắc.
Người
biết rằng con đường này tuy dài hơn, nhưng dễ đi hơn. Sông Neranjara đi lên
hướng Bắc và sẽ đổ vào sông Hằng. Gặp sông Hằng, người sẽ theo bờ sông đi ngược
về phương Tây. Chừng sáu ngày đường Bụt sẽ tới làng Pataligrama. Tại đây người
sẽ vượt ngang sông Hằng. Bên kia sông là kinh đô Baranasi của vương quốc Kasi.
Bọn trẻ
chắp tay đứng nhìn Bụt cho đến khi người đi khuất. Đứa nào cũng buồn hiu.
Sujata lại khóc. Svastika cũng muốn khóc, nhưng cậu bé cầm lại được. Các em
mình còn đứng đó, khóc sao cho tiện. Cuối cùng Svastika nói:
- Chị
Sujata, em chào chị. Em phải về đưa trâu đi ăn. Các em, ta về nhà đi thôi.
Bala, hôm nay em phải tắm cho thằng Rupak. Đưa Bhima đây anh ẳm cho.
Trên con
đường bờ sông, bọn trẻ âm thầm đi về xóm cũ.
***
Thầy
Anada là một vị sa môn tính tình nhu hòa rất dễ mến. Người thầy rất đẹp. Thầy
có trí nhớ thật diệu kỳ, bất cứ Bụt dạy điều gì, thầy đều ghi nhớ không sót một
mảy. Thầy đã nhắc lại mười một điều mà Bụt nói trong kinh chăn trâu, theo thứ
tự trước sau. Vị sa môn trẻ Svastika nghĩ rằng tất cả những gì mà chú vừa thuật
cho thầy nghe, thầy đều đã ghi vào trong ký ức của thầy đầy đủ.
Trong khi
thuật lại giai đoạn Bụt còn ở trong rừng với bọn trẻ, Svastika thường thỉnh
thoảng ngước mặt nhìn ni sư Gotami. Chú thấy hai mắt bà lóng lánh. Chú biết bà
rất ưa được nghe những chuyện này chú đã cố gắng thuật lại với thật nhiều chi
tiết. Bà rất vui khi nghe chú kể tới những chuyện như chuyện bọn trẻ cũng ngồi
im lặng ăn quít với Bụt ở trong rừng.
Rahula
nghe Svastika kể chuyện cũng rất lấy làm thích thú, còn thầy Assaji nữa. Thầy
là người nghe im lặng nhất từ cả ngày hôm qua cho đến ngày hôm nay. Chú biết
thầy là một trong năm vị sa môn từng tu khổ hạnh với Bụt tại Uruvela. Chú rất
muốn được thầy kể lại cuộc gặp gỡ giữa Bụt và năm thầy sau sáu tháng xa cách,
nhưng chú chưa dám. Vừa lúc ấy thì ni trưởng Gotami lên tiếng:
- Chú có
muốn đại đức Assaji kể cho chú nghe về những gì đã xảy ra cho Bụt từ khi Bụt
rời khỏi Uruvela không? Đại đức Assaji đã từng thân cận với Bụt trong suốt mười
năm nay, chính ta cũng chưa được nghe ai kể hết về những gì đã xảy ta trong
mười năm hành đạo của người. Thưa sa môn Assaji, chúng tôi có thể thỉnh cầu đại
đức kể lại cho chúng tôi nghe về quãng đời đó của Bụt được không?
Thầy
Assaji chắp tay đáp lễ:
- Xin ni
sư cứ gọi tôi bằng thầy, vừa đơn giản vừa thân mật. Vâng hôm nay chúng ta nghe
chú Svastika kể cũng đã nhiều rồi, và cũng lại gần đến giờ thiền tọa buổi tối.
Vậy chiều mai xin mời ni sư, đại đức Ananda và hai chú sang liêu xá tôi. Nhớ
gì, tôi sẽ xin tường thuật lại hết cho quý vị nghe.
---o0o---
Chương 22
CHUYỂN PHÁP LUÂN KINH
Hồi đó
sa môn Assaji vẫn còn tu theo lối khổ hạnh tại vườn Nai ở Isipatana.
Một hôm,
sau giờ thiền tọa, thầy Assaji trông thấy thấp thoáng bóng một vị sa môn đang
từ ngoài xa đi đến. Nhìn kỹ, ông biết đó là Siddhatta. Ông vội báo cho các bạn
cùng biết. Thầy Bhaddiya nói:
-
Siddhatta hồi đó đang tu khổ hạnh với chúng ta thì nửa chừng bỏ cuộc.
Ông ta
ăn cơm, uống sữa, vào ra thôn lạc và làm quen với bọn trẻ trong xóm.
Sa môn
Siddhatta đã làm cho chúng ta thất vọng. Vậy nếu ông ấy có tới thăm chúng ta
thì chúng ta cũng không nên đón tiếp nồng hậu làm gì.
Cả năm
người đồng ý là sẽ không ra tận ngõ để đón tiếp mà cũng không cần đứng dậy khi
Siddhatta bước vào.
Nhưng sự
tình đã xảy ra khác hẳn. Thấy Siddhatta bước vào tới cổng, không ai bảo ai, cả
năm người đều tức khắc đứng dây. Sa môn Siddhatta có phong độ thật uy nghi.
Người ông như tỏa chiếu hào quang. Mỗi bước chân của ông như nói lên được sức
mạnh của tâm linh ông và cái nhìn của ông như lấy đi hết tất cả mọi ý niệm
kháng cự có thể có trong năm người sa môn đã cùng tu chung với ông thuở trước. Sa
môn Kondanna chạy tới trước. Ông đỡ lấy bình bát trên tay Siddhatta. Sa môn
Mahanama chạy đi múc nước cho Siddhatta rửa tay và rửa chân. Sa môn Bhaddiya kê
một chiếc ghế mời Siddhatta ngồi. Sa môn Vappa đi tìm một quạt bằng lá cây thốt
nốt để quạt cho Siddhatta. Assaji thì đứng ngớ ngẩn một bên, chẳng biết làm gì.
Sau khi
Siddhatta đã rửa tay, rửa mặt, rửa chân và ngồi xuống, Assaji mới biết đi tìm
rót một bát nước lạnh đem tới cho Siddhatta giải khát. Rồi năm người bạn cũ
cùng ngồi quanh Siddhatta. Siddhatta đưa mắt nhìn các bạn, rồi nói:
- Này
quý vị, tôi đã tìm ra đạo giải thoát rồi, và tôi sẽ chỉ dạy lại cho quý vị.
Nghe nói
như thế, sa môn Assaji nửa tin nửa ngờ. Có lẽ bốn người kia cũng có cảm tưởng
như ông. Mọi người im lặng hồi lâu. Bỗng Kondanna lên tiếng:
- Sa môn
Gotama! Hồi trước trong thời gian tu với chúng tôi, bạn đã nửa chừng bỏ cuộc,
bạn đã ăn cơm, uống sữa và giao thiệp với người lớn và trẻ con trong xóm. Làm
sao bạn có thể tìm được đạo giải thoát. Làm sao bạn có thể chỉ dạy cho chúng
tôi về đạo giải thoát?
Siddhatta
nhìn vào mắt sa môn Kondanna, ông hỏi:
- Sa môn
Kondanna, bạn đã quen biết tôi từ gần sáu năm nay. Trong thời gian ấy tôi đã
từng nói dối bạn một lần nào chưa?
Kondanna
giật mình. Ông thẳng thắn nói:
- Sa môn
Gotama nói đúng, Tôi chưa bao giờ từng nghe sa môn nói một điều không phù hợp
với sự thực.
- Vậy
các bạn hãy nghe đây. Tôi đã tìm ra được Đạo Lớn rồi và tôi sẽ chỉ dạy cho các
bạn. Các bạn là những vị sa môn đầu tiên trên đời được nghe giáo pháp mầu nhiệm
mà tôi đã tìm ra. Giáo pháp này không phải là kết quả của suy luận. Giáo pháp
này là hoa trái của thực chứng. Các vị hãy đem hết nhận thức thanh tịnh mà
nghiêm chỉnh lắng nghe.
Giọng
nói của Bụt mang uy lực tâm linh rất lớn khiến năm người đều tự động đổi thế
ngồi, nghiêm chỉnh hướng về người. Họ chắp tay lại. Kondanna thành kính nói:
- Xin sa
môn Gotama đem hết lòng xót thương mà dạy cho chúng tôi.
Bụt
nghiêm trang mở lời:
- Này
các vị sa môn, có hai thái cực mà người tu đạo nên tránh: một là lao mình vào
khoái lạc nhục thể, hai là hành hạ thân xác cho hao mòn. Cà hai con đường đều
đưa tới sự phá sản của thân tâm. Con đường mà tôi đã tìm ra là con đường trung
đạo tránh được hai thái cực ấy và có thể đem đến trí tuệ, giải thoát và an lạc.
Con đường đó là con đường Bát chánh: nhận thức chân chính, tư duy chân chính,
ngôn ngữ chân chính, hành động chân chính, sinh kế chân chính, chuyên cần chân
chính, niệm lực chân chính và định lực chân chính. Tôi đã theo con đường bát
chánh đó và đã thực hiện được trí tuệ, giải thoát và an lạc.
Này các
vị, sao gọi là chánh đạo? Sở dĩ gọi là chánh đạo vì con đường này không phải là
con đường trốn tránh đau khổ mà là con đường đối diện trực tiếp khổ đau để diệt
trừ khổ đau. Con đường bát chánh này là con đường của sự sống tỉnh thức, vì vậy
chánh niệm là khởi điểm. Có chánh niệm thì sẽ có chánh định, nghĩa là định lực
có tác dụng đưa tới trí tuệ. Nhờ có niệm lực và định lực chân chính thì nhận
thức, tư duy, ngôn từ, hành động, sinh kế và sự chuyên cần cũng sẽ đi vào chánh
đạo. Trí tuệ được phát sinh sẽ giải thoát được cho người hành giả tất cả mọi
ràng buộc khổ đau và làm phát sinh nơi người hành gia nguồn an lạc chân chính.
Này các
vị, có bốn sự thật mà người tu phải công nhận: sự có mặt của những nguyên nhân
của các khổ đau ấy, sự chấm dứt khổ đau và con đường đi tới sự chấm dứt khổ
đau. Bốn sự thật ấy là bốn sự thật mầu nhiệm, gọi là tứ diệu đế. Này các vị sa
môn, đây là sự thật thứ nhất: Khổ đau, sinh, già, bệnh và chết là khổ; buồn,
giận ghen, tức, lo lắng, sợ hãi và thất vọng là khổ; chia cách người thân yêu
là khổ, chung đụng với người ghét bỏ là khổ, tham đắm và kẹt vào năm uẩn là
khổ.
Này các
vị sa môn, đây là sự thật thứ hai: nguyên nhân của khổ đau. Vì u muội, vì không
thấy và không hiểu được sự thật về bản thân và về cuộc đời cho nên con người bị
những ngọn lửa của tham đắm, giận hờn, ghen tức, sầu não, lo lắng sợ hãi và
thất vọng đêm ngày đốt cháy và hành hạ.
Này các
vị sa môn, đây là sự thật thứ ba: sự chấm dứt khổ đau. Đó là trí tuệ, là hiểu
biết, là nhận thức được sự thật về bản thân và về cuộc đời. Trí tuệ này, cái
thấy này đưa lại sự chấm dứt của mọi sầu đau và làm phát sinh niềm an lạc.
Này các
vị sa môn, đây là sự thật thứ tư: con đường diệt khổ. Đó là con đường Bát chánh
mà tôi đã trình bày. Bản chất của Bát chánh đạo được nuôi dưỡng bằng nếp sống
tỉnh thức hàng ngày, đó tức là chánh niệm. Chánh niệm đưa tới Định và Tuệ, có
năng lực giải thoát con người khỏi mọi niềm đau và đem lại mọi an vui. Tôi sẽ
hướng dẫn cho các vị từng bước trên con đường thực hiện này.
Trong
khi Siddhatta giảng giải về bốn sự thật mầu nhiệm, sa môn Kondanna bỗng thấy
tâm mình bừng sáng. Ông thấy được lập tức con đường giải thoát thật sự mà lâu
nay ông tìm kiếm. Nét mặt ông rạng rỡ. Thấy thế, Bụt chỉ vào ông và nói lớn:
- Sa môn
Kondanna! Bạn đã hiểu! Bạn đã hiểu!
Kondanna
chắp tay quỳ xuống bên ghế ngồi của Bụt. Ông thành kính nói:
- Sa môn
Gotama, xin thầy hãy nhận Kondanna này làm học trò của thầy.
Kondanna
biết rằng dưới sự chỉ dạy của thầy, Kondanna sẽ thành đạt nguyện lớn.
Bốn vị sa
môn kia thấy vậy cũng quỳ xuống cả dưới chân Bụt và chắp tay cầu xin Bụt nhận
họ làm đệ tử. Bụt đỡ cả năm người dậy. Người bảo họ ngồi lên ghế. Người cũng
ngồi xuống chỗ ngồi cũ của mình. Bụt nói:
- Này
quý vị! Bọn trẻ trong làng Uruvela đã đặt tên cho tôi là Bụt. Có lẽ quý vị cũng
có thể dùng danh từ ấy để gọi tôi.
Kondanna
hỏi lại:
- Bọn
con nít gọi sa môn Gotama là Bụt? Bụt có nghĩa là “người tỉnh thức"?
- Đúng
như vậy, và chúng gọi con đường mà tôi tìm ra là “đạo tỉnh thức".
Các thầy
nghe có được không?
- Người
tỉnh thức! Đạo tỉnh thức! Hay lắm! Hay lắm! Danh xưng vừa chính xác, vừa đơn
giản và thân mật. Chúng con xin từ nay gọi thầy là Bụt và nền đạo lý mà thầy
tìm ra là đạo Bụt. Đạo tỉnh thức. Đúng lắm, bởi vì nếp sống tỉnh thức hàng
ngày, như thầy nói, là căn bản cho sự tu hành.
Năm
người đã đồng ý tôn sa môn Gotama làm thầy, bây giờ đều đồng ý gọi sa môn là
Bụt.
Bụt mỉm
cười nhìn họ:
- Xin
các vị tinh tiến tu hành. Con đường đã tìm ra được. Nếu quý vị thực tập nghiêm
chỉnh thì chỉ trong vòng ba tháng quý vị sẽ đạt tới quả vị giải thoát.
Bụt ở
lại Isipatana một thời gian để dạy dỗ cho năm vị sa môn. Họ vâng lời Bụt chấm
dứt lối tu khổ hạnh. Mỗi ngày ba vị luân phiên cầm bát đi khất thực trong xóm.
Trưa về, ba người san sẽ thức ăn xin được cho ba người ở lại, trong đó có Bụt.
Bụt ở lại để hướng dẫn sự tu học cho mọi người. Năm vị tu học rất tinh tiến và
ngày nào cũng đạt được nhiều tiến bộ.
Bụt dạy
cho họ về tự tính vô thường và vô ngã của vạn vật. Người phân tích cho họ thấy
năm uẩn đều như những dòng sông luôn luôn trôi chảy và biến đổi, trong đó không
có một cái gì có thể gọi là đồng nhất và bất biến. Năm uẩn tức là thân thể
(sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm hành (hành) và nhận thức (thức).
Bụt dạy
họ quán sát sự trôi chảy của năm dòng sông ấy trong tự thân của mỗi người để có
thể thấy được tính vô thường và vô ngã của chúng và của vạn hữu, và cũng để
thấy những liên hệ mật thiết và mầu nhiệm giữa vũ trụ và bản thân mình.
Nhờ sự
tu học tinh chuyên, năm vị dần dần đạt được cái thấy mầu nhiệm.
Người
đầu tiên chứng ngộ là Kondanna. Rồi hai tháng sau là đến phiên Vappa và
Bhaddhiya. Cuối cùng Mahanam và Assaji cũng đạt tới quả vị A la hán.
Bụt rất
vui mừng. Ngưòi nói:
- Chúng
ta đã có đoàn thể xứng đáng với tên gọi sangha, đoàn thể của những người biết
sống cuộc đời tỉnh thức, rồi đây quý vị sẽ phải cùng với tôi đem những hạt
giống của đạo tỉnh thức gieo rắc khắp mọi nơi.
---o0o---
Chương 23
NHỮNG GIỌT NƯỚC CAM LỘ
Bụt hay
dậy sớm, và sau khi ngồi thiền, người ưa đi thiền hành ngoài trời giữa những
hàng cây. Một hôm đang đi thiền hành ngoài trời, Bụt thất một người đi tới. Lúc
ấy nắng chưa lên và trong sương mù hình dáng của cây cối và của người khách lạ
kia không được tỏ rỏ lắm. Bụt ngồi xuống một tảng đá gần đó. Người khách lạ đã đến
gần. Nười này chưa thấy Bụt nhưng Bụt đã thấy ông ta. Đó là một chàng thanh
niên chừng ba mươi tuổi, dáng điệu thanh tú, chàng thanh niên vừa đi vừa lẩm
bẩm cái gì trong miệng, khi anh ta tới gần. Bụt nghe anh ta lẩm bẩm: “Thật là
đáng sợ, thật là ghê tởm”. Chàng thanh niên vẫn chưa thấy Bụt.
Bụt lên
tiếng:
- Không
có gì đáng sợ, không có gì ghê tởm.
GIọng
Bụt vọng lên rành mạch và ôn tồn trong không khí mát lạnh của buổi mai. Chàng
thanh niên giật mình nhìn sang. Anh ta thấy Bụt ngồi thảnh thơi trên một tảng
đá, phong thái thật ung dung và trầm tĩnh. Anh tuốt bỏ đôi dép, tiến tới trước
Bụt và lạy xuống, rồi anh ngồi xuống trên một hòn đá thấp bên cạnh Bụt, Bụt
hỏi:
- Cái gì
mà đáng sợ? Cái gì mà ghê tởm?
Chàng
thanh niên bắt đầu kể chuyện mình. Anh ta tên là Yasa, con của một thương gia
giàu có vào bậc nhất nhì ở thành phố Baranasi. Yasa sống một cuốc sống giàu
sang tột bực. Cha mẹ anh cưng chiều anh và cung cấp cho anh đủ hết phương tiện
để sống trong các thú vui của người giàu có: nhà cao, cửa rộng, châu báu, tiền
bạc, rượu mạnh, kỹ nữ, tiệc tùng, cuộc vui ... Yasa là một người con trai biết
suy nghĩ. Những năm gần đây, anh bắt đầu thấy lợm vì cái nếp sống trác táng đó.
Anh ta không còn cảm thấy lạc thú gì trong cuộc sống ấy.
Anh ta
khao khát một đời sống lành mạnh, giống như một người bị nhốt lâu trong một căn
phòng kín mít khao khát khí trời. Cả đêm hôm qua, bạn bè anh ta quy tụ để ăn
uống, đàn địch và nô đùa với bọn vũ nữ. Thức dậy lúc nửa đêm Yasa nhìn thấy
cảnh tượng cac vũ nữ nằm ngã nghiêng, phơi bày những chân tướng không đẹp đẽ gì
của họ, chàng cảm thấy không thể nào còn tiếp tục được cuộc sống trác táng này.
Chàng khoác lên người một cái áo, luồn chân vào một đôi dép và mở cửa đi ra
khỏi nhà. Chàng đi ra cổng trước. Mở cửa cổng trước, chàng đi mà không biết
mình đi đâu. Chàng cứ thế mà đi trong đêm khuya, và tình cờ Yasa đi về hướng
vườn Lộc Uyển.
Tới đây
thì trời vừa sáng và Yasa gặp Bụt.
Bụt dạy:
- Yasa
cuộc đời đầy dẫy những khổ đau mà cũng đầy dẫy những hiện tượng tượng mầu
nhiệm. Đắm mình trong dục lạc, điều đó chỉ có thể tàn phá sức khỏe của hình hài
cũng như của tâm hồn, và lại tạo thêm khổ đau cho ta.
Nếu biết
sống một cuộc đời lành mạnh, không bị vật dục lôi cuốn, ta có thể tiếp xúc với
biết bao cảnh tượng mầu nhiệm trong cuộc đời. Yasa, con hãy nhìn những thân cây
đứng trong sương mù này. Đó là những hình ảnh vừa đẹp đẽ vừa mầu nhiệm. Trăng,
sao, sông, núi, ánh sáng mặt trời, tiếng chim hót, tiếng suối reo ... tất cả
những biểu hiện đó của vũ trụ đều mầu nhiệm, đều đẹp đẽ, đều có thể cho ta
những nguồn vui bất tận.
Những
niềm vui này không phá hại sức khỏe của thân thể và của tâm hồn, trái lại còn
nuôi dưỡng được cho thân thể và tâm hồn. Chính thân thể và tâm hồn con cũng là
những hiện tượng mầu nhiệm, con thử nhắm mắt lại, thở ra thở vào vài ba hơi,
rồi mở mắt ra xem. Con thấy không? Hai mắt của con có thể nhìn thấy cây, thấy
sương, thấy trời, thấy tia nắng ấm; hai mắt của con thật mầu nhiệm, vì không
tiếp xúc được với hiện hữu mầu nhiệm nên đã có lúc con chán ghét ngay cả thân thể
con và tâm hồn con. Có người chán ghét thân thể họ, tâm hồn họ và chán ghét
luôn cả cuộc đời cho nên đã đi tự tử.
Họ không
biết rằng vạn hữu cũng là mầu nhiệm. Họ chỉ thấy được mặt khổ đau của vạn hữu,
nhưng khổ đau không phải là bản chất của vạn hữu. Khổ đau là do thái độ sống và
do cách nhìn sai lạc của con người mà có ...
Yasa là
một chàng trai rất thông minh, những lời của Bụt như những giọt nước mát tưới
vào tâm hồn khô cạn của chàng. Rất sung sướng, chàng quỳ xuống dưới chân Bụt và
xin được làm học trò xuất gia của Bụt.
Bụt đỡ
Yasa lên. Ngưòi nói:
- Người
xuất gia sống một cuộc đời thanh bạch và khiêm cung, không nắm giữ tiền bạc,
ngủ trong am lá hoặc dưới gốc cây, ăn bất cứ thức ăn nào xin được và mỗi ngày
chỉ ăn một bữa. Con có thể sống như vậy được không?
- Lạy
thầy, con có thể sống như vậy được.
Bụt nói:
- Người
xuất gia tu học cần phai đem hết tâm tư và nghị lực để hoàn thành sự nghiệp
giải thoát của mình, để có thể giúp đời và giúp người, làm vơi bớt những khổ
đau trong sự sống, con có phát nguyện đi theo con đường ấy không?
- Lạy
thầy, con xin phát nguyện đi theo con đường mà thầy chỉ dạy.
- Vậy ta
sẽ cho con xuất gia. Người xuất gia tu học trong giáo đoàn ta sẽ được gọi là
bikkhu, nghĩa là người khất sĩ. Mỗi ngày đi xin thực phẩm là để tự nuôi sống
mình, để tập đức khiêm cung, và cũng để có cơ hội tiếp xúc với con người mà
hướng dẫn họ trên con đường đạo hạnh.
Vừa lúc
ấy năm vị sa môn khất sĩ học trò của Bụt cũng ra tới. Yasa đứng dậy cung kính
chào mọi người. Bụt giới thiệu năm thầy với Yasa, rồi hướng về thầy Kondanna,
Bụt nói:
- Thầy
Kondanna, đây là Yasa, một người trẻ tuổi có chí nguyện xuất gia.
Tôi đã
ưng thuận, vậy cúi xin thầy chỉ dạy cho Yasa về cách mang y, ôm bát, đi khất
thực, điều phục hơi thở, ngồi thiền và đi kinh hành. Yasa, con đi theo thầy
Kondanna đi.
Yasa cúi
chào Bụt. Thầy Kondanna đưa chàng vào tịnh xá, xuống tóc cho chàng. Thầy trao
cho Yasa một cái y và một cái bát và dạy cho chàng cách mang y và cầm bát. Y
bát này đã được cúng dường cho thầy từ lâu, nhưng vì có sẵn y bát cũ, thầy chưa
bao giờ dùng tới.
Chiều
hôm ấy, vị trưởng giả thân sinh của Yasa tìm tới vườn Lộc Uyển. Cha của chàng
cho người đi lùng chàng khắp nơi. Có một gia nhân theo vết dép của Yasa và tìm
tới được vườn Lộc Uyển. Anh ta thấy được đôi dép bằng vàng của tiểu chủ nằm bên
một chiếc ghế đá. Vào hỏi thăm, anh ta biết là tiểu chủ của mình đang có mặt
tại đây. Anh vội vã về báo tin.
Ông thân
sinh của Yasa tìm tới vườn Lộc Uyển và được gặp Bụt đang ngồi trên tảng đá. Ông
ta đến làm lễ người rồi chắp tay hỏi:
- Bạch
sa môn, ngài có thấy Yasa con của con không?
Bụt chỉ
chiếc ghế đá bên cạnh người:
- Mời
ông ngồi xuống đây. Yasa đang ở trong tịnh xá. Nó sẽ ra đây bây giờ.
Ông thân
sinh của Yasa ngồi xuống, Bụt kể cho ông ta nghe về những gì đã xảy ra sáng
nay. Bụt cũng nói cho ông ta nghe về tâm sự của Yasa và những khao khát của
chàng. Người kết luận:
- Yasa
là một người con trai thông minh và có chí khí. Nó đã tìm ra được nẻo thoát cho
tâm hồn nó, và hiện tại đã có niềm tin và sự an lạc. Xin ông mừng cho nó.
Tiếp
theo, Bụt dạy cho ông ta về cách sống tỉnh thức để tránh bớt những khổ đau và
phiền muộn, và cũng là để tạo sự an lạc cho mình và cho những người chung
quanh. Nghe Bụt nói, tâm của ông càng lúc càng như sáng ra.
Ông đứng
dậy chắp tay cầu Bụt cho ông ta làm học tại gia của người. Bụt lặng yên. Một
lát sau, người nói:
- Học
trò của tôi là những người biết sống đơn giản, tỉnh thức, biết tránh sự giết
hại sinh vật, biết tôn trọng tư hữu của kẻ khác, biết tránh việc tà dâm, biết
nói lời chân thật và tránh việc rượu chè say sưa. Này trưởng giả, nếu ông thấy
ông có thể theo được con đường đó thì tôi chấp nhận ông là học trò tại gia của
tôi.
Ông thân
sinh của Yasa quỳ xuống trước mặt Bụt. Ông chắp tay thành kính nói:
- Con
xin nương tựa nơi thầy, xin thầy chỉ đường đưa lối cho con trong cuộc đời này.
Con xin nguyện làm đệ tử tại gia của thầy cho đến này con nhắm mắt lìa bỏ cuộc
đời.
Bụt đỡ
vị trưởng dậy. Khi đứng lên, vị trưởng giả trông thấy Yasa đứng hầu sau lưng
Bụt. Yasa trong y phục của một người xuất gia, râu tóc cạo sạch. Vị khất sĩ mới
chắp tay lại thành búp sen, cung kính chào cha, và miệng chàng mỉm cười. Thần
sắc Yasa tỉnh táo và sáng rỡ. Vị trưởng giả chưa bao giờ thấy con mình tươi vui
và hạnh phúc như thế. Ông chắp tay lại đáp lễ, rồi ông nói:
- Mẹ của
con đang sầu đau và lo lắng ở nhà.
Yasa
đáp:
- Con sẽ
về thăm mẹ con, nhưng con đã phát nguyện theo Bụt sống đời giải thoát và phục
vụ chúng sanh.
Vị
trưởng giả hướng về Bụt:
- Lạy
Bụt, con xin thỉnh ngài và các vị khất sĩ đệ tử xuất gia của ngài trưa mai đến
thọ trai tại nhà con. Xin để cho người đệ tử mới của ngài đi theo làm thị giả
cho ngài. Chúng con sẽ rất sung sướng được cúng dường một bữa cơm cho các vị
khất sĩ tại nhà và cũng sẽ rất sung sướng được nghe lời giáo huấn quý báu của
ngài về đạo giải thoát.
Bụt quay
lại nhìn Yasa. Hai mắt của người khất sĩ mới tu lấp lánh. Bụt gật đầu chấp
thuận lời thỉnh cầu của trưởng giả.
Sáng hôm
sau, Bụt cùng sáu vị khất sĩ đến thọ trai tại nhà ông trưởng giả.
Mẹ của
Yasa thấy con mừng rơi nước mắt. Bụt và sáu vị đệ tử xuất gia được mời ngồi
trên những chiếc ghế có trải tọa cụ. Mẹ của Yasa tự tay dâng cúng thực phẩm vào
bát của Bụt và vào bát của sáu vị khất sĩ. Bữa cơm diễn ra trong yên lặng. Cha
mẹ của Yasa và các người hầu cận kính cẩn đứng hầu, không ai dám nói với ai một
lời nào. Bữa cơm kết thúc. Sau khi bát đã được rửa, nước uống đã được dâng lên,
vợ chồng ông trưởng giả chắp tay làm lễ Bụt và ngồi xuống trên những chiếc ghế
thấp phía trước mặt người. Bụt bắt đầu giảng cho họ nghe về nội dung của năm
giới. căn bản tu học của người đệ tử tại gia. Bụt nói:
- Người
học theo con đường tỉnh thức thì phải biết vun bồi sự hiểu biết (Trí) và tình
thương yêu (Bi) của mình. Năm giới tức là cách thức sống để thực hiện từ bi và
trí tuệ.
Giới thứ
nhất là tránh việc tàn hại sinh mạng. Chúng sinh loài nào cũng tham sống sợ
chết, vì vậy nếu ta thực sự học theo đạo hiểu biết và thương yêu thì ta phải
giữ giới không sát sanh. Không những ta không được sát hại con người mà ta còn
cố gắng đến mức tối đa để tránh sự sát hại các loài cầm thú.
Giữ giới
này là một cách nuôi dưỡng từ bi và trí tuệ rất hiệu quả.
Giới thứ
hai là không gian lận trộm cắp. Ta không có quyền xâm phạm vào tư hữu của kẻ
khác, và không làm giàu bằng cách lợi dụng sự khờ dại và bóc lột sức lao động
của kẻ khác, trái lại ta phải biết tìm cách giúp đỡ những kẻ khốn khổ những
phương tiện để họ có thể tự lực mưu sinh.
Giới thứ
ba là không tà dâm, nghĩa là không xâm phạm đến tiết hạnh của những người khác
và hết lòng trung thực với người vợ hoặc người chồng của mình.
Giới thứ
tư là không nói dối, nghĩa là không nói những lời trái với sự thật, không xuyên
tạc, chửi rủa, không dùng lời nói để gây thù hận và loan truyền những tin mà
mình không chắc là có thực.
Giới thứ
năm là không say sưa, không dùng những chất ma túy và kích thích như thuốc
phiện và rượu.
Nếu ta
sống theo được tinh thần của năm giới này, ta sẽ tránh được cho bản thân, gia
đình ta và bạn bè ta mọi đau khổ và đổ vỡ. Ta sẽ thấy đời ta tươi sáng và hữu
ích lên gấp trăm lần.
Trong
khi Bụt nói, bà mẹ của vị khất sĩ trẻ Yasa rất sung sướng. Bà thấy được cánh
cửa hạnh phúc mở rộng trước mặt bà. Bà biết chồng mình đã được Bụt chấp nhận là
đệ tử tại gia của người, và điều đó làm bà hân hoan vô hạn. Bà quỳ xuống chắp
tay lại và cầu xin Bụt cho bà làm đệ tử tại gia.
Sau đó,
Bụt và sáu vị khất sĩ trở về vườn Lộc Uyển.
---o0o---
Chương 24
HÃY ĐI NHƯ NHỮNG CON NGƯỜI TỰ DO
Tin Yasa
đi xuất gia bắt đầu được loan truyền trong giới bạn hữu của chàng.
Bốn
người bạn thân nhất của Yasa là Vimala, Subahu, Punnaji và Gavampati, một hôm
rủ nhau tìm tới vườn Lộc Uyển. Trên đường đi, Subahu nói:
- Nếu
Yasa chịu đi tu, thì ông thầy của Yasa phải là một người rất giỏi và giáo pháp
của ông ta phải là một giáo pháp thâm diệu. Tôi biết Yasa ít phục ai lắm.
Vimala
trả lời:
- Không
chắc như thế, có thể là Yasa bốc đồng đi tu một thời gian mà thôi.
Sáu
tháng hay một năm sau anh chàng hoàn tục cũng chưa biết chừng.
Gavampati
nói:
- Anh
Vimalla coi thường Yasa quá. Tôi thấy tánh Yasa trầm lặng và anh ta thường suy
nghĩ chín chắn lắm.
Bốn
người vào gặp Yasa. Yasa đem các bạn mình tới giới thiệu với Bụt.
Yasa
bạch:
- Lạy
Bụt, bốn người bạn này của con đều là những người tốt. Xin Bụt đem lòng thương
mở mắt cho họ thấy được con đường giải thoát.
Bụt ngồi
nói chuyện với bọn trẻ. Vimala ban đầu còn có vẻ hồ nghi nhưng càng nghe Bụt nó
chàng càng thấy thấm. Cuối cùng Vimala đề nghị với các bạn xin Bụt cho cả bốn
chàng xuất gia theo Yasa.
Bốn
chàng trai trẻ quỳ xuống chắp tay cầu Bụt để được xuất gia. Thấy cả bốn người
đều nhiệt thành và thiết tha, Bụt ưng thuận. Người giao cả bốn chàng cho khất
sĩ Kondanna dạy dỗ.
Bạn bè
cũ của vị khất sĩ Yasa đông có tới hàng trăm người. Tin Yasa và bốn người bạn
thân đi tu chẳng mấy chốc mà đã được truyền ra khắp chốn. Hơn một trăm hai chục
người đã tập họp về nhà của Yasa và cùng rủ nhau đến vườn Lộc Uyển để thăm hỏi.
Họ đều là những người trai trẻ, tuổi từ hai mươi tới ba mươi. Đó là vào một
buổi sáng đẹp trời. Nghe tin họ đến thăm, khất sĩ Yasa ra đón họ tận ngoài
cổng. Thầy thuật cho họ trường hợp đi xuất gia của mình và nói với họ về Bụt.
Cuối cùng, thầy đưa tất cả một trăm hai mươi người bạn vào yết kiến người.
Một trăm
hai mươi người trẻ vây quanh, Bụt bắt đầu nói chuyện về con đường thánh, có khả
năng đưa tới sự diệt khổ và đem lại an lạc. Người kể sơ lược về thân thế và
hành trình tìm đạo của người, và nói đến chí nguyện cứu người giúp đời của tuổi
trẻ. Một trăm hai mươi người trai trẻ ngồi nghe Bụt một cách say mê. Cuối cùng,
năm mươi người trong đám đông đó xin phép được ở lại xuất gia tu đạo.
Trong số
bảy mươi chàng thanh niên còn lại, có nhiều người cũng muốn xuất gia, nhưng họ
còn kẹt bổn phận gia đình; người thì có cha, người thì có mẹ, người thì có vợ
và con.
Yasa
thỉnh Bụt chấp nhận lời thỉnh cầu của năm mươi người bạn. Bụt bằng lòng, rất
sung sướng, Yasa bạch với thầy:
- Ngày
mai, con xin Bụt cho cho con được về nhà con để khất thực. Con sẽ có dịp nói
chuyện với song thân con về việc cúng dường y mới và bát mới cho những vị tân
khất sĩ.
Tại vườn
Lộc Uyển, từ hôm đó ngoài Bụt đã có cả thảy sáu mươi vị khất sĩ.
Bụt ở
lại vườn Lộc Uyển thêm ba tháng nữa để dạy dỗ và hướng dẫn đại chúng xuất gia.
Trong thời gian ấy hàng trăm vị cư sĩ đã đến vườn Nai để xin Bụt chấp nhận cho
làm đệ tử cư sĩ.
Bụt dạy các
vị khất sĩ về phép quán niệm hơi thở, quán niệm về thân thể, về cảm giác, về
tri giác, về tâm ý và về đối tượng của tâm ý. Người cũng dạy phương pháp quán
chiếu tự tính duyên khởi của vạn hữu trong thế giới hiện tượng. Phép duyên khởi
là một phép quán rất quan trọng trong công trình tu tập. Vạn vật nương vào nhau
để phát hiện, tồn tại rồi ẩn diệt; chính vì nương vào nhau nên mọi vật mới có
thể có mặt và vì vậy trong cái một, có cái tất cả, và cái tất cả cũng không thể
có mặt nếu cái một không có mặt. Phép quán duyên khởi này là cánh cửa, do đó
người tu thoát được ra khỏi sinh tử. Phép quán duyên khởi cũng có công năng phá
trừ những định kiến lâu đời như định kiến vũ trụ đã được một nguyên do đầu tiên
sinh khởi, dù nguyên do đó là một vị thần linh hay là một chất liệu làm căn bản
cho hiện hữu như đất, nước, lửa hay là không khí.
Với tình
thương, với ý thức trách nhiệm của một bậc thầy, cũng như của một anh cả, Bụt
chăm sóc và dạy dỗ sáu mươi vị khất sĩ một cách tận tình. Người lại giao phó
cho năm người đệ tử đầu trách nhiệm dìu dắt các vị khất sĩ mới học. Kondanna
dìu dắt hai mươi vị. Bốn người khác, Bhaddiya, Vappa, Mahana và Assaji, mỗi
người dìu dắt mười vị. Đại chúng bước những bước rất vững và mạnh trên con
đường tu học.
Khi thấy
phần lớn các vị khất sĩ dưới sự hướng dẫn của mình đã có được bản chất và tư
cách của những người hành đạo, Bụt tập hợp đại chúng và nói:
- Các vị
khất sĩ, xin hãy nghe tôi nói. Chúng ta là những con người tự do, không vướng
bận và không bị ràng buộc vào bất cứ một cái gì. Qúy vị đã biết đường đi. Quý
vị hãy tinh tiến dũng mãnh bước trên con đường ấy. Quý vị có thể rời khuôn viên
Lộc Uyển. Hãy đi như những con người tự do để mang ánh sáng của đạo tỉnh thức
đến tận những chốn hang hố thẳm. Đi để gieo rắc hạt giống giải thoát và giác
ngộ. Đi để đem an lạc đến cho con người. Quý vị hãy dạy đạo lý giải thoát, nền
đạo lý đẹp đẽ từ đầu đến cuối, từ hình thức cho đến nội dung. Nhân gian sẽ thừa
hưởng được công trình hoằng pháp của quý vị, còn tôi, tôi cũng sẽ lên đường.
Trong ít lâu nữa, tôi sẽ đi về phương Đông. Tôi muốn về thăm cội bồ đề và các
em bé ở thôn Uruvela, và sau đó tôi sẽ về thăm một người bạn tri kỷ ở Rajagaha.
Các vị
khất sĩ nghe theo lời Bụt dạy. Một số lớn khoác y và mang bát lên đường hành
hóa. Chỉ còn mươi thầy ở lại vườn Lộc Uyển với Bụt.
Nhưng từ
mấy tháng nay, tại hai vương quốc Kasi và Magadha, nhiều người đã nghe nói tới
Bụt và các đệ tử của người. Họ nghe nói có một vị hoàng tử dòng họ Sakya đi tu
đã thành đạo và đang giảng dạy tại vườn Lộc Uyển gần thành Baranasi. Nghe tin
này nhiều vị sa môn từng tu tập lâu ngày mà chưa đạt ngộ được gì rất lấy làm
phấn khởi. Từ nhiều địa phương khác nhau họ tìm về Isipatana. Nhìều người đã
sung sướng được nghe Bụt thuyết pháp và đã phát nguyện sống đời xuất gia dưới
sự chỉ dạy của người. Các vị khất sĩ học trò của Bụt đi hoằng hóa mọi nơi cũng
đã bắt đầu đưa về vườn Lộc Uyển rất nhiều thanh niên muốn được xuất gia. Số
lượng học trò xuất gia của Bụt vì vậy lại tăng lên rất chóng.
Một hôm
Bụt tập họp đại chúng lại. Người nói:
- Các vị
khất sĩ! Tôi nghĩ rằng tôi không cần trực tiếp làm lễ thọ giới xuất gia cho tất
cả những ai muốn sống đời sống phạm hạnh theo con đường tỉnh thức. Nếu bất cứ
ai muốn xuất gia đều phải về vườn Lộc Uyển gặp tôi, thì điều đó sẽ gây ra nhiều
bất tiện. Điều bất tiện thứ nhất là các thầy phải bỏ dỡ công việc hoằng hóa để
đưa người giới tử về tận đây. Điều bất tiện thứ hai là người giới tử không được
thọ giới ngay tại chỗ cư trú của mình với sự có mặt của bạn bè và những người
thân thuộc, trái lại phải đi đường dài có khi mất cả mười mấy ngày mới tới được
đây. Điều bất tiện thứ ba là tôi bị bắt buộc ở tại đây mãi mãi. Tôi cũng là một
con người tự do như quý vị, và tôi cũng muốn được tự do đi đâu thì tùy ý tôi.
Vì vậy tôi nghĩ rằng các thầy có thể làm lễ truyền giới xuất gia cho những giới
tử nào hợp đủ điều kiện, và làm lễ ngay tại địa phương hành đạo của mình.
Đại đức
Kondanna đứng lên chắp tay:
- Lạy
Bụt, như vậy thì xin Bụt dạy cho chúng con phương pháp làm lễ xuất gia cho
người phát tâm tu học để chúng con có thể làm lấy khi trường hợp xảy ra.
Bụt nói:
- Thì
quý vị đã từng thấy tôi làm lễ xuất gia cho nhiều người rồi. Quý vị cũng có thể
làm như thế.
Vị khất
sĩ sa đứng dậy trình bày:
- Lạy
Bụt, nhân cách của Bụt rất lớn, thành ra người không cần phải có nghi thức rườm
ra, nhưng đối với chúng con, một nghi thức tối thiểu để sử dụng trong lúc làm
xuất gia rất là cần thiết. Sư huynh Kondanna, xin sư huynh đề nghị một nghi
thức đi. Có Bụt ở đây, người sẽ chỉ dạy cho chúng ta thêm.
Khất sĩ
Kondanna im lặng một lát để suy nghĩ, rồi ông lên tiếng:
- Lạy
Bụt, theo con thì việc trước tiên là phải cho người giới tử cạo sạch râu tóc.
Sau đó, giới tử được dạy cho cách mặc áo ca sa. Khi mặc ca sa vào rồi, giới tử
phải vạch trần vai bên phải ra theo nghi lễ và quỳ xuống trước mặt vị khất sĩ
truyền giới. Vị khất sĩ này bây giờ là đại diện cho Bụt, vì vậy, giới tử quỳ
xuống dưới chân người là phải. Chắp tay lại thành búp sen, giới tử đọc:
- Con
nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời này.
Con về
nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết. Con về nương tựa
Tăng, đoàn thể của những nguyện sống cuộc đời tỉnh thức". Lặp lại ba lần
như vậy thì giới tử trở nên một vị khất sĩ trong giáo đoàn của Bụt.
Lạy Bụt,
con mạo muội đề nghị như thế, không biết con có phạm vào lầm lỗi nào không?
Bụt dạy:
- Nghi
thức thầy đề nghị hay lắm. Vậy tôi xin xác định với đại chúng; quý vị đọc ba
lần tam quy dưới chân một vị khất sĩ thì có thể trở nên một vị khất sĩ.
Đại
chúng hoan hỷ tuân theo lời Bụt dạy.
Sau đó
mấy hôm, vào một buổi sáng đẹp trời. Bụt khoác áo, cầm bát, một mình rời khỏi
vườn Lộc Uyển. Người hướng về phương Nam, tìm lối vượt sông Hằng để đi về vương
quốc Magadha.
---o0o---
Chương 25
ĐỈNH CAO CỦA NGHỆ THUẬT
Con
đường này Bụt đã từng đi. Người đi thong thả và ngắm nhìn cảnh vật.
Trời gần
trưa, người ghé khất thực ở một xóm ven đường, rồi người mang bát đi vào một
khu rừng yên tĩnh gần đó để thọ trai. Thọ trai xong, Bụt đi kinh hành trong
rừng và sau đó người tìm một gốc cây im mát ngồi xuống để tĩnh tọa. Được sống
trở lại một mình trong rừng, Bụt rất hoan hỷ. Người ngồi tĩnh tọa được hồi lâu
thì thấy một đám thanh niên đi ngang. Đây chắc là những thanh niên con nhà khá
giả, bởi vì người nào cũng ăn mặc tươm tất sạch sẽ. Họ vào khoảng ba mươi
người. Nhiều người cầm nhạc cụ trong tay.
Thấy
Bụt, họ ngưng lại, thanh niên đi đầu cúi chào và hỏi người:
- Sa
môn, ông có thấy một cô gái mới chạy ngang qua đây không?
Bụt hỏi
lại:
- Các
bạn tìm cô gái ấy để làm gì?
Người
thanh niên kể lại đầu đuôi câu chuyện. Bọn họ đều là dân thành phố Banarasi. Họ
vào rừng này từ sáng để tổ chức một cuộc vui. Họ có đem theo nhiều nhạc cụ và
một cô vũ nữ. Sau khi đàn hát, múa nhảy và ăn uống, cả bọn đều tìm chốn ngã
lưng để ngủ trưa. Trong khi mọi người ngủ trưa, cô gái đã đánh cắp một số những
đồ châu báu trang sức của bọn con trai và bỏ đi mất. Các chàng trai thức dậy
thấy thế rủ nhau đi lùng bắt cô gái.
Bụt nhìn
các chàng trai và trầm tĩnh nói:
- Này
các bạn, trong giờ phút này các bạn nên đi tìm cô gái hay là nên đi tìm chính
các bạn?
Các cậu
con trai ngạc nhiên. Phong thái của ông thầy tu đã đặc biệt mà câu hỏi của ông
ta cũng đặc biệt. Câu hỏi đó làm các cậu giật mình. Họ rủ nhau ngồi xuống, vây
quanh Bụt. Chàng trai đầu đàn nói:
- Bạch
sa môn, có lẽ chúng con nên đi tìm chúng con trước.
Bụt nói:
- Sự
sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, nhưng tâm ta ít khi chịu an trú trong
giây phút hiện tại. Tâm ta hay ưa trở về quá khứ hoặc vọng đến tương lai. Ta cứ
tưởng ta là ta, nhưng quả thực ta chưa hề thực sự tiếp xúc ta với ta, bởi vì
tâm ta cứ rong ruổi chạy theo những ảo ảnh của quá khứ và của vị lai.
Chỉ có
một phương cách duy nhất để tiếp xúc với sự sống đích thực: đó là trở về với
giây phút hiện tại. Nếu các em biết trở về với giây phút hiện tại thì các em
trở nên tỉnh thức, và lúc đó các em mới có cơ hội tìm được các em.
Các em
hãy nhìn những đọt lá xanh và ánh sáng mặt trời đang lọc qua những đọt lá ấy.
Các em đã từng có dịp thật sự ngắm nhìn màu xanh của lá cây trong trạng thái
trầm lặng và tỉnh thức của tâm tư chưa.
Màu xanh
ấy là một khía cạnh vi diệu của sự sống. Nếu các em chưa bao giờ thực sự nhìn
màu xanh ấy thì bây gìờ đây các em hãy thử nhìn đi.
Các
chàng thanh niên yên lặng. Theo ngón tay trỏ của Bụt, họ ngước nhìn những ngọn
lá xanh đang run nhẹ dưới làn gió thoảng của buổi trưa hè. Một lát sau, Bụt
quay lại với chàng trẻ tuổi ngồi gần bên người, và nói:
- Em có
ống sáo, vậy em hãy thổi sáo đi.
Chàng
thanh niên hơi ngạc nhiên một chút, nhưng cũng lấy sáo ra. Ngồi lại ngay ngắn,
anh ta đưa sống sáo lên thổi. Mọi người lắng nghe. Tiếng sáo đượm buồn như
tiếng than khóc của một cuộc tình duyên lỡ dỡ. Trong khi anh thổi sáo, mắt Bụt
không rời khỏi anh.
Khúc sáo
chấm dứt. Rừng trưa đượm buồn. Mọi người im lặng, Bụt cũng im lặng. Bỗng nhiên
người thanh niên thổi sáo quay lại, cầm đưa ống sáo cho Bụt:
- Sa
môn, ngài thổi sáo đi.
Bụt mỉm
cười. Tất cả các chàng trai đều cười rộ. Ai cũng cho anh chàng là ngộ nghĩnh.
Đã có ai đưa ống sáo để bảo một vị sa môn thổi bao giờ.
Nhưng
Bụt đã đưa hai tay tiếp nhận ống sáo. Mọi người đều nhìn về vị sa môn, sự tò mò
trong mỗi người được kích thích.
Bụt thở
những hơi thở thật dài và thật nhẹ, rồi người nâng ống sáo lên ngang miệng.
Hình ảnh
người con trai thổi sáo năm xưa trong vườn Thượng Uyển thành Kapilavatthu hiện
ra trong Bụt. Đó là một đêm trăng. Đó là bà Maha Pajapati ngồi trên ghế đá đang
im lặng lắng nghe. Đó là Yasodhara với đỉnh trầm thơm mới đổi. Bụt bắt đầu thổi
sáo.
Tiếng
sáo nhẹ như một làn khói nhỏ lơ lửng và nhẹ nhàng đi lên từ một mái tranh nghèo
nào đó ở ngoại thành Kapilavatthu trong giờ nấu cơm chiều. Rồi làn khói bỗng
nhiên tỏa rộng trên không gian như một đám mây. Đột nhiên đám mây bến hình
thành một đóa hoa sen ngàn cánh, mỗi cánh hoa một màu sắc khác nhau lấp lánh
trong ánh nắng chiều. Đột nhiên một người thổi sáo biến thành một ngàn người
thổi sáo, tất cả những mầu nhiệm của vũ trụ đều được chế biến thành âm thanh,
âm thanh muôn màu muôn sắc, âm thanh khi thì nhẹ như gió thoảng, khi thì mau
như tiếng mưa rào, khi thì trong như tiếng hạc, khi thì đậm đà như tiếng ru
con, khi thì sáng rỡ như ngọc lưu ly, khi thì hùng vĩ như tiếng hải triều, khi
thì im lặng như nụ cười của người đã thoát ly được sự hơn thua còn mất. Chim
chóc trong rừng đã im hơi lặng tiếng và gió chiều cũng đang thổi rì rào trong
lá. Rừng được bao phủ bởi một không gian thanh tịnh, an lạc và nhiệm mầu. Tất
cả các chàng thanh niên ngồi bên Bụt đều trở nên tỉnh táo một cách kỳ lạ. Họ
hoàn toàn sống giây trong phút hiện tại, tiếng sáo đưa họ về với những mầu nhiệm
của giây phút hiện tại. Họ có rừng cây, họ có Bụt, họ có tiếng sáo, họ có nhạc,
họ có bản thân họ. Tiếng sáo đã chấm dứt, nhưng tiếng sáo vẫn còn, không có
chàng thanh niên nào nghĩ tới cô vũ nữ và những châu ngọc bị đánh cắp.
Họ ngồi
yên lặng rất lâu. Cuối cùng chàng thanh niên thổi sáo lên tiếng hỏi Bụt:
- Sa
môn, thầy thổi sáo thật hay, con chưa bao giờ nghe ai thổi sáo diệu kỳ như vậy.
Thầy đã học với ai? Con có thể theo thầy để học thổi sáo được không?
Bụt mỉm
cười:
- Hồi
nhỏ, tôi đã học thổi sáo, nhưng bảy năm nay tôi không có dịp thổi. Đây là lần
thứ nhất tôi thổi sáo trở lại sau bảy năm, nhưng tiếng sáo bây giờ lại có chất
liệu hơn tiếng sáo ngày trước.
- Tại
sao thế, thưa sa môn? Tại sao sau bảy năm không tập dượt mà tiếng sáo thầy lại
hay hơn?
- Thổi
sáo hay không phải là chỉ do tập dượt nhiều. Sở dĩ tôi thổi được hay hơn ngày
xưa là tại vì tôi đã tìm được chính tôi. Nghĩa là tôi đã tìm ra được đạo giác
ngộ. Em không thể đạt được tới chỗ tuyệt vời của nghệ thuật nếu em không lên
tới được chỗ tuyệt cùng của tâm linh. Vì vậy nếu em muốn thổi sáo hay thì em
phải tu học theo con đường tỉnh thức.
Rồi Bụt
bắt đầu giảng cho các chàng thanh niên về đạo giác ngộ, về bốn sự thật và con
đường Bát Chánh. Ba mươi người thanh niên nghe người giảng đều được tỏ ngộ. Tất
cả đều quỳ xuống tỏ ý xin làm môn đệ xuất gia của người.
Bụt vui
lòng làm lễ xuất gia họ ngay tại chỗ, và bảo ba mươi chàng thanh niên tìm ngay
về vườn lộc Uyển để gặp đại đức Kondanna, Ngưòi dặn họ trình bày tự sự với thầy
Kondanna và xin thầy cho cạo bỏ râu tóc, khoác áo khất sĩ và thọ lãnh những lời
chỉ dẫn tu học. Người bảo trong một tương lai gần họ sẽ được gặp lại người.
Đêm ấy,
Bụt nghỉ trong rừng. Sáng hôm sau, người vượt sông Hằng, rồi theo bờ sông đi về
phương Đông, Người dự định sẽ ghé thăm bọn trẻ tại thôn Uruvela, trước khi đi
về Rajagaha gặp vua Bimbisara theo lời hứa cũ.
---o0o---
Chương 26
NƯỚC CŨNG ĐI LÊN NHƯ LỬA
Bảy hôm
sau Bụt về tới Uruvela. Người rất vui được trở về rừng cây thanh tú với cội Bồ
Đề. Bụt nghỉ lại một buổi chiều và một đêm tại đó. Sáng hôm sau người gặp chú
bé Svastika ở bờ sông Neranjara. Svastika thấy Bụt rất mừng. Hai thầy trò ngồi
chơi thật lâu bên bờ sông, rồi Bụt bảo Svastika đi cắt cỏ. Người cũng học cắt
cỏ với cậu bé. Một lát sau tạm biệt Svastika, Bụt khoác áo ngoài, nâng bát vào
xóm để hóa trai.
Chiều
hôm sau bọn trẻ rủ nhau đến thăm Bụt, Sujata và Svastika đem theo các bạn rất
đông. Các em của Svastika đều có mặt. Bọn trẻ được gặp Bụt vui mừng khôn xiết.
Bụt kể cho chúng nghe sơ lược những gì đã xảy ra trong gần một năm qua, và Bụt
hứa là khi Svastika hai mươi tuổi, Bụt sẽ cho cậu xuất gia để học đạo. Bụt nói
vào tuổi ấy Svastika đã có thể theo Bụt vì lúc ấy các em của Svastika sẽ đã lớn
cả rồi.
Bọn trẻ
cho Bụt biết là gần nửa năm nay có một đoàn đạo sĩ Ba la môn khổ hạnh đến cư
trú trong vùng. Họ đông lắm, có tới gần năm trăm người. Họ không cạo đầu như
các vị sa môn, tóc họ kết và bới trên đầu. Ngưòi đứng đầu tên Kassapa, rất được
mọi người kính nể. Họ theo đạo thờ cúng Thần Lửa.
Sáng hôm
sau, Bụt tìm tới trú sở của đạo sĩ Kassapa. Giáo đoàn Bà la môn này cư trú ở
bìa rừng phía bên kia sông. Họ sống trong những túp lều dựng bằng cành cây và
lá cây. Áo của họ được làm bằng vỏ cây. Họ tiếp nhận các thức cúng dường của
dân chúng từ các làng mạc trong vùng, nhưng họ không đi khất thực. Họ tự nấu
nướng lấy. Họ cũng chăn nuôi thú vật để ăn và cũng để cúng tế. Dừng chân bên
một túp lều. Bụt nói chuyện với các đạo sĩ Ba la môn. Các vị này cho biết lãnh
tụ của họ, tôn giả Kassapa, là một người tinh thông ba bộ kinh Vệ Đà, sống một
cuộc đời đức hạnh và là người có tu có chứng. Tôn giả Kassapa có hai người em
trai, người nào cũng là tu sĩ Bà la môn cùng tu trong một môn phái, tức là môn
phái Bái Hỏa, thờ lửa như là bản chất uyên nguyên của vũ trụ. Người em trai lớn
lớn tên là Nadi Kassapa lãnh đạo một giáo đoàn ba trăm vị đệ tử, cư trú và hành
đạo trên bờ sông Neranjara cách Uruvela chừng một ngày đường về hướng Bắc.
Người em thứ hai tên Gaya Kassapa lãnh đạo một giáo đoàn gồm hai trăm đệ tử, cư
trú và hành đạo tại Gaya. Tôn giả Kassapa, vì cư trú và hành đạo tại Uruvela
nên được gọi là Uruvela Kassapa. Ông rất được hai người em mình tôn kính.
Những
buổi giảng đạo của ông được dân chúng địa phương đến tham dự rất đông.
Các đạo
sĩ Bà la môn đưa Bụt đến yết kiến tôn giả Kassapa tại tịnh xá của ông. Tôn giả
Kassapa tuổi đã lớn nhưng còn rất nhanh nhẹn và rắn rỏi. Thấy vị sa môn còn trẻ
mà đạo phong uy nghiêm, tôn giả đem lòng kính yêu ngay.
Ông tiếp
Bụt như một người thượng khách. Kassapa mời Bụt ngồi xuống trên một khúc cây
cưa sẵn ngoài sân tịnh xá, và ông ngồi xuống khúc cây đối diện. Hai người đàm
đạo hồi lâu.
Kassapa
rất đỗi ngạc nhiên khi thấy vị sa môn ngồi trước mặt mình là một người lão
thông ba bộ thánh thư Vệ Đà. Ông hoảng hốt thấy rằng có những tư tưởng trong Vệ
Đà mà ông chưa nắm vững được. Vị sa môn này đã chỉ cho ông thấy những chỗ uyên
áo nhất của các bộ Atharvaveda và Rigveda, những chỗ ông đã tưởng rằng ông hiểu
mà thực ra ông chưa hiểu. Lạ hơn nữa là khi nói tới các môn tự vựng học, ngữ
nguyên học, sử truyện, văn pháp học và mười tám pháp tế tự của đạo Bà la môn,
không có điều gì mà vị sa môn này không thông.
Trưa hôm
ấy, Bụt nhận lời thọ trai với Uruvela Kassapa. Xếp áo ngoài lại thành bốn để
trải thành tọa cụ trên bờ cỏ, Bụt ngồi đoạn nghiêm thọ trai trong im lặng.
Kassapa thấy đạo phong uy nghiêm của người thì rất cảm phục. Ngồi bên vị khách
sa môn, ông cũng giữ sự im lặng đoan trang để thọ trai.
Chiều
hôm ấy, trong khi đàm đạo với Kassapa. Bụt hỏi:
- Này
hiền giả, hiền giả hãy nói cho tôi biết tại sao thờ Thần Lửa lại có thể đem lại
cho ta sự giải thoát?
Tôn giả
Uruvela Kassapa giữ im lặng một lát. Ông biết rằng đối với vị sa môn có trí tuệ
xuất chúng này, ông không thể trả lời một cách khinh xuất và dung thường được.
Ông ta đã chinh phục được hàng trăm người theo môn phái ông, nhưng ông biết
chinh phục được vị sa môn này là một điều rất khó.
Kassapa
bắt đầu nói về lửa như là bản chất uyên nguyên của vũ trụ. Lửa có nguồn gốc từ
Phạm Thiên, nghĩa là từ Brhama, vì vậy trong các hỏa viện, nghĩa là trong điện
thờ chính của giáp phái Bái Hỏa, luôn luôn hình tượng của Phạm Thiên được đặt
vào vị trí trung ương. Kinh Atharvaveda có nói về phép thờ Lửa. Lửa là sự sống.
Nếu không có lửa thì không có sự sống. Lửa là ánh sáng, là hơi ấm, là nguồn
năng lượng làm phát sinh ra cây cối, muông thú, và con người. Lửa phá tan bóng
tối, phá tan sự lạnh lẽo, đem tới nguồn vui và sự sinh trưởng của vạn vật. Thức
ăn nhờ lửa mà được tịnh hỏa. Con người nhờ lửa mà trở về và hợp nhất được với
thiên chủ Brhama vậy. Thần Lửa Agni cũng chỉ là một trong muôn ngàn biểu hiện
như có hai cái đầu: một đầu biểu trưng cho lửa của nhật dụng và một đầu biểu
trưng cho lửa của sự tế lễ và của sự trở về nguyên thể. Có tới bốn mươi bốn
phép tế lửa. Người đạo sĩ phái Bái Hỏa phải giữ giới, phải khổ hạnh và phải
chuyên cần tu tập mới có đủ tư cách duy trì và làm sáng tỏ con đường giải
thoát.
Đạo sĩ
kịch liệt chống lại những tu sĩ Bà la môn thường lợi dụng giai cấp và địa vị
mình để sống giàu sang và đắm mình trong dục lạc. Ông nói những vị Bà la môn đó
đã xem công việc và đọc kinh như một phương tiện giúp họ sống giàu có và như
vậy là làm đánh mất giá trị của truyền thống đạo đức Bà la môn.
Bụt hỏi:
- Tôn
giả Kassapa, ngài nghĩ thế nào về những người cho rằng nước là bản chất uyên
nguyên của sự sống, nước bắt nguồn từ Phạm Thiên, và nước có công năng tịnh hóa
con người, giúp con người trở về hợp nhất với Phạm Thiên?
Kassapa
im lặng, Ông nghĩ tới hàng trăm vạn người, ngay trong giờ khắc này, đang tắm
mình trong nước sông Hằng và trong những dòng sông được xem là linh thiêng
khác, mong rửa sạch được mọi tội lỗi và nghiệp chướng để sau này có thể trở về
với Phạm Thiên. Một lát sau, ông nói:
- Sa môn
Gotama, nước không thật sự giúp ta siêu thoát được. Nước đi xuống, trong khi
lửa lại bốc lên. Khi ta chết, thân xác ta nhờ lửa mà bay lên thành khói ...
- Tôn
giả Kassapa, ngài nói như vậy e không đúng. Đám mây trắng đang bay trên trời
kia cũng là nước đấy, và nước cũng có thể bay lên. Khói cũng chỉ là hơi nước.
Cả hai thứ mây và khói đều sẽ phải trở lại. Vạn vật, như ngài đã biết, luôn
luôn luân chuyển tuần hoàn.
- Nhưng
vạn vật có một nguyên ủy, và vạn vật có thể trở về nguyên ủy ấy.
- Tôn
giả Kassapa, vạn vật nương nhau mà có mặt. Tôn giả hãy nhìn chiếc lá trong tay
tôi đây. Đất, nước, hơi nóng, hạt mầm, thân cây, đám mây, mặt trời, thời gian,
không gian ... đều là những nhân duyên giúp cho chiếc lá này có mặt. Thiếu một
trong những nhân duyên ấy thì chiếc lá không thành. Tất cả các loài đất đá,
thảo mộc và cầm thú đều vâng theo luật duyên sinh ấy.
Nguyên
ủy của một vật là vạn vật. Tôn giả hãy quán sát kỹ xem. Có bao giờ một nhân mà
đưa tới được quả đâu. Nhân quả là trùng trùng. Ý niệm về một nguyên nhân duy
nhất và đầu tiên là một vọng tưởng so sự thiếu quán chiếu mà ra. Này tôn giả,
chiếc lá tôi cầm trong tay đây là do tất cả các pháp trong vũ trụ họp lại để
tạo thành, trong đó có nhận thức của tôn giả.
Vị đạo
sĩ Bà la môn im lặng.
Trời đã
tối.
Đạo sĩ
ngỏ ý mời Bụt ngủ lại trong túp lều của ông. Đây là lần thứ nhất vị lãnh đạo
Kassapa mời một người khách ngủ lại trong túp lều của mình, vị sa môn này đối
với ông quả thật là một người khách đặc biệt. Ông muốn đem lòng tri kỷ của mình
để tiếp đãi. Nhưng Bụt ngần ngại. Từ lâu, người đã ưa nghỉ đêm một mình. Bụt
ngỏ ý muốn được nghỉ đêm trong hỏa viện. Vị đạo sĩ Bà la môn nói:
- Mấy
hôm nay, có một con rắn lớn chui vào núp trong hỏa viện, đuổi thế nào cũng
không đi. Sa môn Gotama không nên nghỉ đêm trong ấy, có thể là nguy hiểm. Chính
vì con rắn kia mà lâu nay chúng tôi phải lập tế đàn ngoài trời để hành lễ. Xin
ngài nghỉ đêm tại đây cho an toàn.
Bụt nói:
- Tôn
giả an tâm. Tôi muốn được nghỉ đêm trong hỏa viện. Chắc cũng không sao.
Bụt nghĩ
tới những tháng ngày ngồi tu ở các nơi núi rừng cao thẳm. Có khi thú dữ đi
ruồng cả đêm mà không động tới người. Có khi đang ngồi tĩnh tọa người trông
thấy những con rắn thật lớn bò ngang qua trước mặt. Bụt biết là nếu mình cẩn
thận đừng làm cho các loài này hoảng sợ thì chúng sẽ không động tới mình.
Thấy Bụt
đã nhất quyết, Kassapa nói:
- Sa môn
Gotama đã muốn nghỉ đêm tại hỏa viện thì xin cứ tự tiện. Ngài muốn ở đó bao lâu
cũng được.
Đêm ấy,
Bụt nghỉ trong hỏa viện. Trên bàn thờ trung ương, lửa được nuôi bằng nhiều
chiếc đèn, mỗi đèn có nhiều bấc. Góc bên trái chất nhiều khúc cây lớn, có lẽ là
những khúc gỗ quí dùng để đốt lửa bên ngoài mỗi khi hành lễ. Bụt nghĩ nếu có
một rắn cư trú trong hỏa viện thì con rắn ấy có thể ẩn nấp trong đống gỗ. Người
chọn góc đối diện, xếp áo ca sa ngoài thành bốn, trải xuống làm tọa cụ và bắt
đầu tĩnh tọa. Khi Bụt ngừng tĩnh tọa thì trời đã khuya. Dưới ánh đèn mờ, Bụt
thấy một con rắn thiệt lớn nằm khoanh tròn giữa hỏa viện, trước mặt người. Bụt
lên tiếng nhỏ nhẹ như là để tự nói với mình.
- Rắn
ơi, con hãy đi ra ngoài rừng cho an ổn.
Giọng
nói của Bụt chứa đầy tình thương và sự hiểu biết. Con rắn từ từ trườn đi, hướng
về phía cửa, Bụt cũng ngã lưng xuống tọa cụ.
Khi Bụt
thức giấc thì ánh trăng khuya chênh chếch chiếu vào nơi người nằm.
Trăng
mươi tám thật sáng. Bụt muốn đi ra ngoài rừng để thiền hành. Người ngồi dậy,
cuốn áo, rũ bụi rồi khoác áo lên người và đi ra khỏi hỏa viện.
Vào lúc
trời tang tảng sáng thì hỏa viện bốc cháy, không biết vì lý do gì. Các vị đệ tử
của đạo sư Kassapa thấy lửa đều hoảng hốt la lớn. Mọi người chạy đi tìm bình
xuống sông múc nước để tưới, nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô hiệu. Nước thì ít,
lửa thì nhiều. Cuối cùng hàng trăm người đều đứng ngẩn ra nhìn. Hỏa viện của họ
bốc cháy dữ dội, không có cách gì cứu chữa nổi.
Đại sĩ
Uruvela Kassapa có mặt trong đám mấy trăm người ấy. Ông thương tiếc vị sa môn
đức hạnh và tài ba mà ông vừa mới được làm quen từ sáng ngày hôm qua Nếu sa môn
Gotama nhận lời nghỉ đêm trong tịnh xá của mình thì bây giờ đâu đến nổi này.
Giữa lúc
ấy thì Bụt xuất hiện. Đang đi thiền hành trên đồi cao, người trông thấy lửa, và
người đã trở về.
Thấy
Bụt, đạo sĩ Kassapa mừng quá chạy lại và nắm lấy tay người.
- May
quá, may quá, sa môn Gotama vẫn an toàn, không sao cả. Tôi mừng lắm.
Bụt trao
bình bát của mình cho một vị tu sĩ trẻ cầm giúp, rồi đặt tay lên vai vị đạo sĩ
Bà la môn:
- Cám ơn
tôn giả, tôi vẫn được an toàn.
Bụt biết
hôm nay là ngày đạo sĩ Uruvela Kassapa thuyết pháp. Nghe nói trong số những
người nghe pháp. Ngoài năm trăm vị đệ tử tu sĩ, sẽ còn có gần một ngàn người từ
các thôn xóm kéo tới. Giờ thuyết pháp được định vào buổi trưa, ngay sau giờ thọ
trai. Biết ràng sự có mặt của mình trong buổi thuyết pháp sẽ làm cho vị lãnh
đạo mất bớt vẻ thoải mái, sáng ấy Bụt mang bát đi vào thôn xóm để khất thực.
Khất
thực xong, người đi về phía hồ sen. Ngồi bên bờ sông, người thọ trai và ở lại
đó. Đến xế chiều thì đạo sĩ Kassapa tìm tới, Kassapa đã đi tìm Bụt sau giờ thọ
trai và thuyết pháp. Vị đạo sĩ nói: - Sa môn Gotama, hôm nay vào giờ ăn trưa
chúng tôi chờ mãi không thấy ngài. Chúng tôi đã dọn sẵn cơm để cúng dường. tại
sao ngài không tới?
Bụt nói
với Kassapa là người muốn vắng mặt trong buổi thuyết pháp.
- Tại
sao sa môn Gotama lại muốn không có mặt trong buổi tôi thuyết pháp?
Bụt mỉm
cười rất nhẹ, và người không nói gì.
Vị đạo
sĩ Bà la môn cũng nín thinh. Ông thấy vị sa môn này biết được sự suy tư của
ông. Vị sa môn thật vừa thông minh vừa tế nhị.
Hai
người ngồi bên bờ hồ để đàm đạo.
Đạo sĩ
Kassapa hỏi Bụt:
- Hôm
qua sa môn Gotama nói về sự có mặt của chiếc lá như là sự tập họp của nhiều yếu
tố nhân duyên. Ngài nói rằng con người cũng do sự tập họp của nhân duyên mà có
mặt. Vậy khi các nhân duyên tan rã, con người đi về đâu?
Bụt nói:
- Đã từ
lâu chúng ta bị kẹt vào ý niệm atma, nghĩa là ý niệm về một cái ta thường tại
bất biến. Chúng ta đã quen nghĩ rằng khi thân xác ta tan rã, cái ngã ấy vẫn còn
tồn tại và có thể trở về với nguồn gốc của nó là Phạm Thiên để mà cộng trú với
ngài. Này tôn giả Kassapa, đó là một sai lầm căn bản đã từng làm lạc lối biết
bao nhiêu thế hệ.
Tôn giả
Kassapa nên biết: vạn pháp từ nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt.
Cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái này vắng mặt vì cái kia vắng mặt, cái này
sinh ra vì cái kia sinh ra, cái này ẩn diệt khi cái kia ẩn diệt.
Đó là
đạo lý duyên sinh mầu nhiệm mà tôi đã khám phá được bằng thiền quán. Trong thực
tại, không có một cái gì đồng nhất và bất biến, không có ngã, dù là đại ngã hay
tiểu ngã. Này tôn giả Kassapa, ngài đã từng quán chiếu về thân thể, cảm thọ,
tri giác, tâm hành và nhận thức chưa? Con người có mặt là do sụ tập hợp và vận
hành của năm uẩn ấy. Đó là những dòng biến chuyển liên tục, trong đó không có
một yếu tố nào thường tại.
Đạo sĩ
Kassapa im lặng hồi lâu. Một lát sau, ông hỏi:
- Như
vậy người ta có thể nói sa môn Gotama chủ trương thuyết hư vô không?
Bụt mỉm
cười lắc đầu:
- Không.
Ý niệm về hư vô cũng là một loại tà kiến trong rừng tà kiến dày đặc. Ý niệm về
hư vô cũng tai hại như ý niệm về một bản ngã đồng nhất và bất biến. Tôn giả
Kassapa, ngày hãy nhìn mặt hồ Anotatta đây. Tôi không hề nói rằng nước hồ và
những lá sen, hoa sen và gương sen trong hồ là hư vô.
Tôi chỉ
nói rằng nước hồ, cũng như lá sen, hoa sen và gương sen đều là những hiện tượng
do nhân duyên phối hợp và có mặt, và trong tư thể của chúng không hề có một
thực thể bất biến và thường tại.
Kassapa
ngừng lên nhìn vào mặt Bụt:
- Vậy
nếu không có ngã, không có atma, thì cần gì phải tu hành để đạt tới giải thoát?
Giải thoát cho ai, và ai là người được giải thoát?
Bụt nhìn
vào mắt vị đạo sĩ Bà la môn. Cái nhìn của người sáng chói như những tia sáng
mặt trời nhưng cũng cũng êm dịu như ánh trăng, và người nói, với một nụ cười:
- Tôn
giả Kassapa hãy thử tự tìm lấy câu trả lời. Hôm khác, ta sẽ tiếp tục câu
chuyện.
Hai
người trở về trú sở. Uruvela Kassapa nhường tịnh xá của mình cho Bụt nghỉ đêm.
Ông sang nghỉ đêm tại túp lều của một người đệ tử lớn. Bụt nhận thấy vị đạo sĩ
Bà la môn này rất được các đệ tử quý mến, người nào cũng vâng lời tôn giả
Kassapa một cách cung kính.
---o0o---
Chương 27
VẠN PHÁP ĐANG BỐC CHÁY
Trong
những ngày kế tiếp, Bụt không đi khất thực bên ngoài vì sáng hôm nào đạo sĩ
Kassapa cũng cho đem thức ăn cúng dường tại chỗ. Tuy vậy, trưa hôm nào sau khi
thọ trai, người cũng đi vào rừng hoặc ra bên hồ để tịnh cư một mình. Cứ xế
chiều, Kassapa lại đi tìm Bụt để đàm đạo, hoặc dưới một gốc cây, hoặc bên bờ
hồ, càng tiếp xúc với Bụt, Kassapa càng thấy được tầm vóc vĩ đại của tuệ giác
cũng như của đức hạnh vị sa môn này.
Một hôm
nọ trời mưa tầm tã suốt đêm và buổi sáng hôm sau nước sông Neranjara tràn bờ,
làm ngập lụt bao nhiêu ruộng vườn và nhà cửa trong vùng. Bao nhiêu thuyền bè
địa phương đều được đem ra sử dụng để đi cứu người. Khu rừng nơi đạo sĩ Kassapa
và năm trăm vị đệ tử đang hành đạo vì ở chỗ thấp nên cũng bị ngập lụt. Tuy vậy
mọi người đều chạy kịp, không ai bị nước cuốn. Riêng vị sa môn Gotama thì không
ai thấy mặt. Đạo sĩ Kassapa dốc thúc nhiều chiếc ghe đi tìm. Cuối cùng người ta
tìm thấy Bụt đang đứng trên một đỉnh đồi.
Nước
dâng rất mau và rút cũng rất mau. Ngày hôm sau Bụt ômg bát đi khất thực trong
xóm của những người cùng đinh. Người có ý muốn tìm thăm những gia đình và những
đứa trẻ trong xóm. May mắn là không ai bị chết vì nạn lụt. Những người nghèo
cho biết họ không có tài sản gì nhiều để mà mất mát.
Các vị
tu sĩ trong giáo đoàn của Kassapa đã khỏi sự dựng lại hỏa viện bị cháy và các
túp lều bị nước cuốn đi hoặc làm cho xiêu vẹo.
Một buổi
chiều, Bụt cùng đạo sĩ Kassapa đứng bên bờ sông Ni Liên Thuyền.
Hai
người tiếp tục cuộc đàm đạo. Đạo sĩ Kassapa nói với Bụt:
- Hôm
trước, sa môn Gotama có nói về sự quán chiếu các dòng hiện tượng sắc thân, cảm
thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức. Tôi đã thực tập và bắt đầu thấy rằng
những cảm thọ và những tri giác của mình nói lên được giá trị của đời sống
mình. Tôi cũng đã thấy được rằng không có một yếu tố nào thường tại trong năm
dòng hiện tượng đó cả. Sa môn Gotama nói rằng nhận thức về xự có mặt của tự ngã
là một nhận thức sai lầm, điều này tôi thấy có thể là đúng, nhưng tôi vẫn chưa
hiểu được rằng nếu tự ngã không có thì ta cần gì phải nhọc công tu tập? Giải
thoát cho ai, và ai là người được giải thoát?
Bụt hỏi
lại:
- Tôn
giả Kassapa, ngài có công nhận rằng khổ đau là một sự thật không?
- Sa môn
Gotama, tôi công nhận khổ đau là một sự thật.
- Ngài
có công nhận rằng nỗi khổ đau nào cũng có nguyên do, cũng như vạn hữu trong vũ
trụ, vật nào cũng do nhân duyện kết hợp mà thành?
- Tôi
công nhận là những nguyên do của khổ đau có thật.
- Tôn
giả Kassapa, khi những nguyên do của khổ đau có mặt thì khổ đau có mặt; vậy khi
những nguyên do của khổ đau vắng mặt thì khổ đau có vắng mặt không?
- Tôi
công nhận là khi nguyên do khổ đau không còn thì khổ đau cũng không còn.
- Này
tôn giả, nguyên do của khổ đau là vô minh, tức là nhận thức sai lầm về thực
tại. Đời vô thường mà ta tưởng là thường, đó là vô minh. Thực tại không có tự
ngã mà ta tưởng là có tự ngã, đó là vô minh. Từ vô minh, phát sinh ra tham
vọng, giận hờn, sợ hãi, ganh ghét, và bao nhiêu đau khổ khác.
Con
đường giải thoát là con đường quán chiếu thực tại để thực chứng được tự tính vô
thường, vô ngã và duyên sinh của vạn hữu. Con đường ấy là con đường diệt trừ vô
minh. Vô minh diệt thì phiền não diệt và khổ đau diệt. Đó là giải thoát. Cần gì
phải có tự ngã mới có giải thoát.
Uruvela
Kassapa im lặng. Một lát sau, ông hỏi:
- Sa môn
Gotama, tôi biết những điều ngài nói ta là những điều ngài thực chứng chứ không
phải chỉ là những suy tưởng của trí năng ngài. Theo ngài, thì quả giải thoát
chỉ có thể do công phu quán chiếu đem lại. Vậy tất cả những lễ nghi, thờ phụng
và lời khấn nguyện đều là hoàn toàn vô ích hay sao?
Bụt chỉ
tay sang bên kia sông. Đạo sĩ nhìn theo ngón tay người. Bụt nói:
- Tôn
giả Kassapa, nếu có người đang đứng bên này sông mà muốn qua bên kia sông thì
người ấy phải làm gì?
- Người
ấy phải lội qua sông, nếu mực nước sông rất thấp. Trong trường hợp nước đầy như
hôm nay, người ấy phải dùng thuyền bè để chèo qua bên kia sông. Nếu bơi giỏi,
người ấy cũng có thể bơi sang bên kia sông.
- Đúng
rồi, tôn giả Kassapa, nhưng giả dụ có người muốn qua sông mà không muốn lội,
không muốn bơi, cũng không muốn chèo, trái lại chỉ đứng bên sông này mà cầu
khẩn bờ bên kia, hy vọng bờ bên kia sẽ qua tới bên này cho mình bước lên, thì
tôn giả nghĩ sao?
- Tôi sẽ
nói rằng đó là một người không thực tế.
- Cũng
như vậy thôi, tôn giả Kassapa! Nếu không tu tập quán chiếu để diệt trừ vô minh,
và các phiền não khác thì ta không đạt tới bến bờ giải thoát được, dù ta có tế
lễ khẩn cầu suốt cả cuộc đời ta.
Đạo sĩ
Kassapa bỗng nhiên sụp lạy dưới chân Bụt. Ông khóc nức nở. Ông nói:
- Sa môn
Gotama, con đã lầm lỡ hết hơn một nửa đời người. Giờ đây xin thầy chấp nhận con
là đệ tử của thầy để con có cơ duyên học hỏi và tu tập con đường giải thoát.
Bụt nâng
Kassapa dậy. Người nói:
- Tôi
không ngần ngại gì mà không chấp nhận tôn giả, nhưng còn gần năm trăm vị đệ tử
của ngài thì ngài tính sao? Ai sẽ dắt dìu họ?
Kassapa
bạch:
- Xin sa
môn Gotama, xin thầy cho con có dịp tiếp xúc với họ sáng mai.
Chiều
mai con sẽ trình thầy quyết định của con.
Bụt nói:
- Các em
bé trong làng Uruvela gọi tôi là Bụt.
Kassapa
ngạc nhiên:
- Thưa
thầy, chúng gọi thầy là Bụt? Nghĩa là người Tỉnh Thức? Hay, hay lắm. Chúng con
sẽ gọi thầy là Bụt cho thân mật. vậy xin phép Bụt cho con về trước.
Sáng hôm
sau, Bụt lại đi khất thực trong làng Uruvela. Khất thực xong, người đi đến bờ
hồ để thọ trai và tĩnh cư cả ngày ở đó. Chiều hôm ấy đạo sĩ Kassapa lại ra tìm
Bụt ở bờ hồ. Ông cho Bụt biết là tất cả gần năm trăm vị đệ tử của ông đều đồng
lòng theo ông xuất gia tu học dưới sự hướng dẫn của Bụt.
Ngày hôm
sau, theo gương Uruvela Kassapa, tất cả mọi người đều cạo bỏ râu tóc, khoác áo
ca sa. Họ liệng xuống sông Neranjara tất cả những cái búi tóc của họ cùng với
tất cả những tượng thờ và dụng cụ tế lễ khác. Tất cả đều theo gương Kassapa quỳ
dưới chân Bụt. Họ đọc:
- Con về
nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
- Con về
nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
- Con về
nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.
Tiếng
phát nguyện của năm trăm vị khất sĩ mới vang động cả khu rừng.
Lễ xuất
gia cho năm trăm người cử hành xong, Bụt thuyết giảng cho năm trăm vị khất sĩ
mới về bốn sự thật mầu nhiệm và cách thức quán chiếu hơi thở, thân thể và tâm
ý, rồi Bụt dạy cho phép khất thực và tĩnh cư.
Ngay sau
đó, các vị khất sĩ được lệnh phóng thích vào rừng tất cả những đàn thú vật mà
họ đã chăn nuôi. Họ học theo Bụt, cầm bát đi theo người vào các thôn xóm để
thực tập việc khất thực.
Chiều
hôm ấy, Bụt triệu tập Kassapa và mười vị đã từng là đệ tử xuất sắc nhất của
Kassapa lại. Người trao truyền cho họ những giáo lý căn bản của đạo tỉnh thức,
và sau đó người còn chỉ bảo cho họ những nguyên tắc tổ chức và hướng dẫn tăng
đoàn. Khất sĩ Kassapa tỏ ra là một lãnh tụ đồ chúng có tài. Bụt rất vui khi
nhận thấy điều này. Người giao phó cho Kassapa việc phân phối và huấn luyện các
vị khất sĩ trẻ tuổi, theo kinh nghiệm đã thu lượm được tại trung tâm tu học
Vườn Nai ở Isipatana.
Ngày hôm
sau, đạo sĩ Nadi Kassapa, người em trai thứ nhất của khất sĩ Uruvela Kassapa
cùng một số các vị đệ tử tìm tới. Nadi Kassapa là lãnh tụ của ba trăm vị đệ tử
tu theo đạo thờ Thần Lửa. Đạo tràng của họ về phía Bắc, cũng trên bờ sông
Neranjara. Họ có vẻ hốt hoảng. Mới hôm qua đây, họ thấy trôi lều bều trên dòng
sông hàng trăm cái búi tóc và rất nhiều dụng cụ thờ tự, và nghĩ rằng một tai
nạn nào đó đã xảy ra cho trung tâm tu học Uruvela do đạo sĩ Uruvela Kassapa
lãnh đạo. Họ tới vào giờ chư vị khất sĩ đi khất thực nên không gặp ai và vì vậy
tỏ vẻ lo lắng, nhưng từ từ họ thấy các vị khất sĩ khất thực trở về. Hỏi thăm,
họ mới biết là Uruvela Kassapa cùng năm trăm vị đệ tử đã xuất gia theo học với
một vị sa môn tên là Gotama thuộc dòng Sakya. Một lát sau nữa thì Bụt và
Uruvela Kassapa về tới. Thấy em, khất sĩ Kassapa rất vui mừng. Ông giới thiệu
Nadi Kassapa với Bụt. rồi hai anh em đưa nhau ra rừng nói chuyện rất lâu. Cuối
cùng, Nadi được anh thuyết phục và bằng lòng trở về đem ba trăm vị đệ tử đến
quy y.
Họ cũng
đồng ý cho người đi mời người em út là Gaya Kassapa tới để thông báo những gì
đã xảy ra và nếu bằng lòng, Gaya Kassapa cũng sẽ đem hai trăm vị đệ tử tới để
cùng quy y và tu học dưới sự chỉ dẫn của Bụt.
Ba anh
em đã từng nổi tiếng là rất thương mến nhau. Hơn nữa họ là những người cùng một
lý tưởng. Vì vậy chỉ trong một thời gian bảy hôm, tất cả ba người cùng chín
trăm vị đệ tử đều đã cắt tóc, mặc áo ca sa và trở nên những vị khất sĩ nghiêm
chỉnh tu học theo quy chế của giáo đoàn do Bụt lãnh đạo.
Một hôm,
sau giờ khất thực tất cả mọi người được lệnh đi về tụ họp trên đỉnh núi Tượng
Đầu ở Gayasisa, cách đó không xa. Chín trăm vị khất sĩ ngồi thọ trai im lặng và
trang nghiêm cùng với Bụt và ba anh em Kassapa. Buổi thọ trai chấm dứt, mọi
người vây quanh Bụt. Nghiêm trang ngồi trên một tảng đá, Bụt cất tiếng dạy chín
trăm vị khất sĩ:
- “Này
các vị khất sĩ, tất cả vạn pháp đều đang bốc cháy. Cái gì đang cháy.
Sáu loại
giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đang bốc cháy. Sáu loại đối tượng
của giác quan là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp đang bốc cháy.
Sáu loại
nhận thức là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và cái suy tư
cũng đang bốc cháy. Bốc cháy bằng thứ lửa nào. Bốc cháy bằng lửa tham dục, lửa
hận thù, lửa ảo vọng. Tất cả đang bốc cháy theo với những cái khổ của sinh,
già, bệnh chết, với đau thưong, phiền muộn, lo lắng, sợ hãi, và thất vọng.
Này các
vị khất sĩ, mọi cảm thọ cũng đang bốc cháy, dù đó là khổ thọ, lạc thọ, hay xả
thọ. Cảm thọ phát sinh từ những điều kiện giác quan, đối tượng và sự xúc chạm.
Cảm thọ cũng đang bốc cháy vì ngọn lửa tham dục, hận thù, và ảo vọng. Cảm thọ
cũng đang bốc cháy theo với những cái khổ của sinh, già, bệnh, chết, với đau
thương phiền muộn, lo lắng, sợ hãi và thất vọng.
Này các
vị khất sĩ, các vị đừng để tự bốc cháy theo ngọn lửa của tham dục, của hận thù
và của ảo vọng. Các vị phải thấy được tính cách vô thường và duyên sinh của mọi
pháp để đừng làm nô lệ cho dòng sinh diệt của giác quan, đối tượng và cảm thọ”.
Gần một
ngàn vị khất sĩ ngồi nghe đều cảm thấy tâm thần rúng động khi nói về lửa. Họ
rất hoan hỷ khi thấy mình đã tìm ra được con đường tu học mà công phu quán
chiếu là động lực duy nhất đưa đến giải thoát. Niềm tin phát sinh trong tâm tư
của mọi người.
Trong ba
tháng liên tiếp, Bụt cư trú tại Gaya để giáo huấn các vị khất sĩ.
Giáo
đoàn đạt tới nhiều kết quả lớn trên đường tu học. Ba anh em Kassapa đã trở
thành những vị phụ tá rất đắc lực cho Bụt trong việc hướng dẫn và giáo huấn
tăng đoàn.
---o0o---
Chương 28
RỪNG KÈ
Một buổi
sáng nọ, Bụt từ giã Gayasisa để về Rajagaha. Khất sĩ Uruvela Kassapa đề nghị
xin Bụt cho cả giáo đoàn đi theo. Bụt ngần ngại, nhưng Kassapa trình bày với
Bụt là sẽ không có trở ngại gì cho việc chín trăm khất sĩ về tới kinh đô nước
Magadha. Ông nói gần thủ đô Rajagaha có nhiều khu rừng trong đó các vị khất sĩ
có thể cư trú, họ sẽ đi khất thực ở những miền ngoại ô thành phố và ngay cả
trong thủ đô nữa để có dịp giáo hóa dân chúng miền này. Kassapa cũng thưa với
Bụt là số lượng chín trăm vị khất sĩ là quá lớn đối với dân chúng miền Gaya. Về
thủ đô, việc khất thực và giáo hóa sẽ dễ dàng hơn.
Khất sĩ
Uruvela Kassapa có kiến thức khá tường tận về tình hình xã hội trong nước
Magadha. Sau khi nghe vị khất sĩ này trình bày, Bụt bằng lòng cho chín trăm vị
khất sĩ đi theo người về thành Vương Xá.
Ba anh
em khất sĩ Kassapa đã tổ chức tăng đoàn rất nghiêm minh. Đại chúng của tăng
đoàn được phân làm thành các chúng, mỗi chúng hai mươi lăm vị, mỗi chúng có một
vị trưởng chúng trưởng lãnh đạo. Vị chúng trưởng này có trách nhiệm về sự tu
học và sự sinh hoạt của hai mươi bốn người trong chúng. Đạo phong của các vị
khất sĩ vì vậy càng ngày cáng sáng rỡ và uy nghi. Từ Gaya, tăng đoàn phải đi
tới mười hôm mới về tới thủ đô Rajagaha.
Mỗi buổi
sáng, các vị khất sĩ đều phải ghé vào các tụ lạc để khất thực. Khất thực xong,
họ quy tụ trong một khu rừng hoặc một bãi cỏ để thọ trai trong im lặng. Thọ
trai xong, họ lại lên đường. Họ đi thành từng chúng, và có cả thảy ba mươi sáu
chúng như vậy. Hình dáng của các vị khất sĩ khoác áo ca sa đi trầm lặng trên
đường đã gây một ấn tượng rất sâu đậm và đẹp đẽ trong lòng dân chúng.
Tới
Rajagaha, khất sĩ Uruvela Kassapa hướng dẫn Bụt và tăng đoàn về tạm cư ờ Rừng
Kè Mới Trồng, trong đó có đền Supatthita cách thủ đô hai dặm về phía Nam. Sáng
ngày hôm sau, giáo đoàn được phép ôm bát đi vào thành khất thực. Các vị khất sĩ
đi thành từng chúng hai mươi lăm người. Họ đi thành hàng, bước từng bước khoan
thai và có ý thức, tay ôm bát, mắt nhìn thẳng về phía trước, dáng điệu uy nghi
và lặng lẽ. Theo lời Bụt dạy, họ dừng lại trước mỗi căn nhà, không phân biệt
giàu nghèo. Khoảng năm phút sau, nếu không được cúng dường, họ tiến tới trước
cổng nhà bên cạnh. Trong khi đứng im lặng chờ đợi được cúng dường, họ theo dõi
hơi thở và thực tập phép quán niệm mà Bụt đã dạy. Khi được cúng dường, họ chỉ
lặng lẽ nghiêng mình cám ơn mà không nói lời khen chê nào về thực phẩm được
cúng dường. Nguời cúng dường sau khi sớt thức ăn vào bát vị khất sĩ, có thể đặt
một vài câu hỏi. Các vị khất sĩ đã được lệnh ân cần trả lời về những câu hỏi
đó. Đại ý, các vị cho biết là mình tu học trong giáo đoàn Tỉnh Thức, dưới sự
hướng dẫn của một vị sa môn tên là Gotama Sakya, thường được gọi là Bụt, và họ
giảng cho vị thí chủ nghe về bốn sự thật, về năm giới hoặc về con đường tám
nhánh.
Tất cả
các vị khất sĩ đều đã được lệnh trở về trú sở trước giờ ngọ để ăn trưa và nghe
pháp thoại. Buổi chiều và buổi tối chỉ là để học hỏi và thiền tập. Vì vậy từ
giữa trưa cho đến rạng sáng ngày hôm sau, không ai còn thấy bóng dáng một vị
khất sĩ áo vàng nào nữa trong thành phố.
Chỉ
trong vòng nửa tháng, phần lớn dân chúng thủ đô đã biết tới sự có mặt của giáo
đoàn khất sĩ do Bụt lãnh đạo. Vào những buổi chiều khi trời dã mát, có nhiều vị
thí chủ tìm tới Rừng Kè để được gặp Bụt và tăng đoàn để học hỏi về đạo lý tỉnh
thức. Bụt chưa kịp đi thăm người bạn năm trước là vua Seniya Bimbisara thì vua
đã được nghe báo cáo về Bụt và về giáo đoàn khất sĩ đông đảo của người. Vua
được biết người lãnh đạo giáo đoàn này là vị sa môn trẻ mà mình đã gặp trước
đây trên một ngọn đồi gần kinh đô. Một buổi chiều, vua cùng với hoàng hậu và
thái tử Ajatasattu ngồi xe tứ mã tìm về Rừng Kè để thăm Bụt. Đi theo xa giá của
vua có nhiều chiếc xe khác. Vua đã mời đi theo mình một trăm hai mươi vị nhân
sĩ trí thức và lãnh đạo cao cấp trong giới Bà la môn. Đến cửa rừng, vua xuống
xe đi bộ vào, hoàng hậu cầm tay thái tử Ajatasattu theo sau. Một trăm hai mươi
vị tân khách Bà la môn cũng làm như thế.
Nghe tin
vua đến, Bụt cùng Uruvela Kassapa đi ra đón tiếp và đưa tất cả mọi người vào.
Tất cả chín trăm vị khất sĩ đều có mặt, ngồi vây thành những vòng tròn lớn, Bụt
mời vua, hoàng hậu, thái tử và các vị tân khách an tọa.
Vua
Bimbisara bắt đầu giới thiệu các vị nhân sĩ Bà la môn với Bụt. Vua không nhớ
hết danh tánh từng người; vì vậy mỗi khi quên vua lại yêu cầu người bị quên tên
tự giới thiệu mình. Trong số những vị tân khách này có nhiều người lão thông
kinh điển và giáo lý Vệ Đà. Họ thuộc về đủ khuynh hướng đạo học và tôn giáo.
Phần lớn
các vị nhân sĩ này đã từng nghe danh đạo sĩ Uruvela Kassapa, và một số đã được
gặp ông, nhưng ngoài quốc vương Bimbisara chưa ai được gặp Bụt lần nào. Thấy
thái độ cung kính của Kassapa đối với Bụt nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên. So với
Uruvela Kassapa, sa môn Gotama Sakya nhỏ tuổi hơn nhiều. Họ thầm thì với nhau,
không biết sa môn Gotama là đệ tử của Kassapa hay Kassapa là đệ tử của sa môn
Gotama. Biết được tâm ý họ, khất sĩ Uruvela Kassapa rời chỗ ngồi, đứng dậy đi
tới trước mặt Bụt. Ông chắp tay lại thành hình sen búp, chậm rãi và rõ ràng,
ông nói:
- Sa môn
Gotama, bậc giác ngộ, bậc tôn quý nhất trên đời; con là Uruvela Kassapa, đệ tử
của thầy, xin cung kính làm lễ thầy.
Nói
xong, ông sụp xuống lạy Bụt ba lạy, rất kính cẩn.
Bụt nâng
Kassapa dậy và bảo ông ngồi xuống bên tay trái của người. Bây giờ đây một trăm
hai mươi vị tân khách Bà la môn mới hoàn toàn giữ im lặng. Sự im lặng còn lớn
lao hơn khi nhìn thấy chín trăm vị khất sĩ áo vàng đang lặng lẽ ngồi vây quanh,
trong dáng điệu trang nghiêm và hùng vĩ.
Bụt lên
tiếng giảng cho mọi người nghe về đạo Tỉnh Thức. Người nói về tự tính vô thường
duyên sinh của mạng sống và của vạn vật. Người chỉ dạy con đường diệt trừ lầm
lạc và khổ đau, con đường của sự sống tỉnh thức, con đường của sự thực hành
giới luật, định tâm và quán chiếu. Giọng Bụt vọng lớn như tiếng chuông đồng, ấm
như nắng mùa Xuân và trầm hùng như tiếng hải triều. Tiếng nói của Bụt như mưa
Xuân thấm nhuần trên cây cỏ. Hơn một ngàn người lắng tai nghe Bụt, và không ai
dám thở mạnh, sợ âm thanh của hơi thở xem vào làm vẫn đục pháp âm của người.
Hai mắt
vua Bimbisara càng ngày càng sáng. Càng nghe, vua càng thấy tâm tư mình mở
rộng. Bao nhiêu nghi vấn lâu nay trong lòng vua dần dần được cởi mở. Cuối cùng
vua nở một nụ cười sung sướng và rạng rỡ.
Bụt chấm
dứt pháp thoại. Vua Bimbisara đứng dậy hai tay cung kính chắp trước ngực, vua
nói:
- Thưa
Thế Tôn, hồi còn nhỏ, trẫm có năm điều ước nguyện, giờ đây tất cả năm điều ước
nguyện ấy đã được thành tựu. Ước nguyện thứ nhất là được làm lễ quán đảnh và
lên ngôi vua. Ước nguyện ấy đã thành. Ước nguyện thứ hai là làm thế nào trong
đời được gặp một bậc đạo sư giác ngộ. Ước nguyện ấy cũng đã thành. Ước nguyện
thứ ba là có duyên kính ngưỡng bậc giác ngộ ấy. Ước nguyện ấy cũng đã được
thành. Ước nguyện thứ tư là được bậc giác ngộ ấy dạy cho con đường chánh pháp.
Ước nguyện ấy cũng đã thành. Ước nguyện thứ năm là có thể hiểu được giáo pháp
của bậc giác ngộ ấy. Thưa Thế Tôn, ước nguyện này vừa được thành tựu. Trẫm đã
bắt đầu hiểu được giáo lý mầu nhiệm của ngài. Thế Tôn, ngài đã làm sáng tỏ giáo
lý ấy bằng nhiều cách giảng dạy khác nhau. Thế Tôn, hôm nay xin ngài nhận cho
trẫm làm đệ tử tại gia của ngài.
Bụt mỉm
cười im lặng chấp thuận.
Vua lại
tỏ ý thỉnh cầu Bụt và tất cả chín trăm vị khất sĩ ngày trăng tròn sắp tới đến
thọ trai ở cung điện. Bụt cũng hoan hỷ nhận lời.
Một trăm
hai mươi vị nhân sĩ tân khách cũng đều đứng dậy cám ơn Bụt. Có khoảng một phần
mười trong số những tân khách này tỏ ý muốn được trở thành đệ tử của Bụt.
Cùng với
Uruvela Kassapa, Bụt đưa vua, hoàng hậu, thái tử Ajatasattu và các vị tân khách
ra đến cửa rừng, Bụt biết rằng chỉ còn chưa đầy một tháng nữa thì mùa mưa sẽ
tới, và người không thể trở về quê hương kịp trước mùa mưa. Người quyết định
cùng chín trăm vị khất sĩ an cư ba tháng tại Rừng Kè. Người biết rằng sau ba
tháng an cư tu học, tăng đoàn sẽ khá vững vàng để có thể tự trị và người sẽ
thong thả ra đi vào đầu mùa Nắng khi bầu trời đã trong xanh và cây cối đã xanh
tươi.
Vua
Seniya Bimbisara có chủ ý tổ chức một cuộc đón rước Bụt và tăng đoàn thật long
trọng. Vua dự tính làm lễ trai tăng cúng dường ngay trước sân điện chầu, một
cái sân gạch rộng có thể có chỗ ngồi cho một vạn người. Vua cho thông báo với
thần dân biết ngày thỉnh Bụt và khuyên dân chúng treo đèn kết hoa trên những
con đường mà Bụt và tăng đoàn sẽ đi ngang qua để tới vương cung. Vua cho mời
rất nhiều nhân sĩ đến nghe Bụt thuyết pháp. Tất cả các quan chức trong triều
cũng đều được mời đến dự. Vua cũng cho mời cả những em trai vào trạc tuổi của
hoàng thái tử Ajatasattu. Thái tử năm nay lên mười hai tuổi. Biết Bụt và tăng
đoàn không chấp nhận việc sát sinh để cúng dường, vua ra lệnh chuẩn bị những
thức ăn thuần túy chay tịnh và rất ngon lành. Những người thân tín của vua có
tới mười ngày để chuẩn bị cho cuộc tiếp đón.
---o0o---
Chương 29
MUÔN VẬT TỪ DUYÊN MÀ SINH LẠI TỪ
Đường
Xưa Mây Trắng - DUYÊN MÀ DIỆT Trong thời gian ấy, nhiều người có đạo tâm tìm
đến với Bụt để xin xuất gia.
Đa số là
những thanh niên tuấn tú. Những vị khất sĩ giỏi làm phụ tá cho Bụt đã có nhiều,
nên việc tiếp nhận và giảng dạy các vị khất sĩ mới đều được họ phụ trách. Con
trai và con gái các nhà lành tìm đến Rừng Kè để xin quay về và nương tựa nơi
tam bảo cũng rất đông. Có một hôm, sau lễ quy y của gần ba trăm người trẻ tuổi,
đại đức Kondanna giảng cho người này về ba viên ngọc quý. Ba viên ngọc quý này
là Bụt, Pháp và Tăng. Khất sĩ Kondanna là vị đệ tử đầu tiên đã thực chứng đạo
Tỉnh Thức. Đại đức dạy:
- Bụt
(Buddha) là người tỉnh thức, và là người tỉnh thức cao độ. Người tỉnh thức biết
được và thấy được chân tướng vũ trụ và cuộc đời. Vì vậy người tỉnh thức không
còn bị ràng buộc vào ảo vọng, sợ hãi, giận hờn và tham đắm. Người tỉnh thức là
người tự do, có đầy đủ an lạc, có đầy đủ tình thương và sự hiểu biết. Bậc đại
sa môn Gotama, thầy của chúng ta, là một bậc tỉnh thức hoàn toàn. Người là kẻ
chỉ đường cho tất cả chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi thế giới ảo vọng để trở nên
những người tỉnh thức.
Mỗi
người trong chúng ta đều có tính Bụt (Buddhata) trong lòng, và vì vậy ai cũng
có thể trở thành người tỉnh thức như Bụt. Tính Bụt này là khả năng tỉnh thức,
khả năng vượt thoát ảo vọng. Nếu chúng ta tu tập theo đạo lý tỉnh thức thì
chúng ta làm cho tính Bụt trong ta mỗi ngày mỗi sáng và một ngày kia chúng ta
sẽ cũng sẽ đạt được tự do và an lạc hoàn toàn như Bụt. Bụt ở ngay trong tâm của
mỗi chúng ta. Chúng ta phải trở về tìm Bụt ngay trong tâm ta. Bụt là viên ngọc
quý thứ nhất.
Pháp
(Dharma) là con đường đưa tới sự tỉnh thức. Con đường này đã được Bụt tìm ra và
đã và đang chỉ dạy cho chúng ta. Con đường này đưa ta thoát khỏi ngục tù ảo
vọng, giận hờn, sợ hãi và tham đắm, và dẫn ta tới chân trời tự do an lạc, vô
úy, làm cho sự hiểu biết và tình thương phát hiện nơi ta.
Hiểu và
thương là những hoa trái đẹp đẽ nhất của đạo lý tỉnh thức. Pháp là viên ngọc
quý thứ hai của chúng ta.
Tăng
(Sangha) là đoàn thể những người đang cùng nhau thực tập đạo tỉnh thức và cùng
đi trên con đường giác ngộ. Muốn tu tập đạo giải thoát ta phải nương tựa vào
đoàn thể này. Một mình đơn độc, ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong sự tìm học và
thực hành đạo lý tỉnh thức. Vì vậy chúng ta phải nương vào tăng đoàn. Người
xuất gia cũng như người tại gia phải biết trở về nương tựa nơi Tăng để có thể
đi xa trên con đường tu tập. Tăng là viên ngọc quý thứ ba của chúng ta.
Này các
thiện nam tử và thịện nữ nhân! Tất cả chúng ta phải trở về nương tựa nơi ba
viên ngọc quý của trần gian là Buddha, Dharma và Sangha. Có nương tựa rồi chúng
ta sẽ hết bơ vơ và chúng ta sẽ vững tiến trên con đường giác ngộ và trong cuộc
đời. Đã từ hai năm nay, tôi đã trở về nương tựa nơi ba viên ngọc quý. Hôm nay
quý vị cũng phát nguyện đi cùng một con đường. Chúng ta nên vui mừng và sung
sướng khi đưa ba viên ngọc quý vào lòng. Thật ra, ba viên ngọc quý ấy đã có sẵn
trong tự tâm của chúng ta từ vô thỉ. Ta tu tập đạo giải thoát là để làm cho ba
viên ngọc ấy chiếu sáng trong ta.
Các
thanh niên rất sung sướng được nghe thầy Kondanna giảng. Họ cảm thấy một nguồn
sinh lực mới trào dâng trong họ.
Từ hôm
ấy, những người con trai và con gái các nhà lành có đạo tâm và ý chí tu học bắt
đầu được các thầy khất sĩ gọi là thiện nam tử và thiện nữ nhân.
Trong
thời gian này, Bụt đã thâu nhận vào tăng đoàn hai vị đệ tử thật xuất sắc: đó là
Sariputta và Moggallana. Hai người đã từng tu học với đạo sĩ Sanjaya, một vị du
sĩ nổi tiếng ở thủ đô Rajagaha. Bụt cũng đã từng nghe nói tới vị du sĩ này.
Giáo đoàn của đạo sĩ Sanjaya là giáo đoàn của những vị du sĩ, gọi là
parivrajaka. Sariputta và Moggalana là hai người bạn thân, cả hai đều thông
minh và cởi mở. Họ đã từng hẹn với nhau là ai chứng đạt được đạo lớn thì phải
thông báo và chỉ bảo ngay cho người kia biết.
Một hôm
Sariputta trông thấy vị khất sĩ Assaji cầm bát đi khất thực trong thành phố
Rajagaha. Assaji là một trong năm vị đệ tử xuất gia đầu của Bụt và đã được Bụt
khai ngộ cho ở vườn Nai gần Banarasi. Thấy phong độ ung dung và giải thoát của
Assaji, Sariputta rất lấy làm cảm phục. Phong độ này tạo ngay được niềm tin
trong lòng vị du sĩ. Sariputta tự bảo:
- Đây
chắc chắn là một vị đạo sĩ đã đạt đạo. Thật đúng như mình đã nghĩ: thế nào trên
thế gian này cũng có người đạt đến quả vị giải thoát! Ta phải tới hỏi xem vị ấy
tu học với ai, ai là thầy của vị ấy, và người ấy đã tu học theo giáo pháp nào?
Vừa nghĩ
như thế, Sariputta vừa bước theo sau vị khất sĩ Assaji, nhưng ông lại tiếp:
- Vị đạo
sĩ này đang đi khất thực từ nhà này sang nhà khác một cách lặng lẽ và nghiêm
trang. Ta không nên quấy rầy thầy ấy. Ta nên đợi cho đến khi nào ông ta khất
thực xong xuôi rồi hãy tới hỏi chuyện cũng không muộn.
Và
Sariputta kiên nhẫn đi theo Assaji. Cho đến khi Assaji khất thực xong và đi ra
khỏi vòng đai thành phố, Sariputta mới rảo bước đi nhanh, vượt qua ông ta, rồi
quay trở lại để chào. Assaji dừng lại. Sariputta cung kính hỏi:
- Thưa
đạo sĩ, phong thái của ngài rất ung dung, đạo đức của ngài biểu hiện ra từ dáng
đi, từ cử chỉ cho đến nét mặt. Tôi xin mạn phép hỏi ngài: Ngài đã xuất gia tu
học với ai? Ai là thầy của ngài? Và vị đạo sư ấy dạy giáo pháp gì?
Khất sĩ
Assaji nhìn Sariputta một lát, rồi mỉm cười rất thân thiện. Ông trả lời:
- Tôi tu
học dưới sự chỉ dẫn của vị đại sa môn Gotama. Thầy của tôi xuất thân từ dòng họ
Sakya. Chúng tôi gọi người là Bụt. Người hiện đang ở nơi đền Suppatthita trong
Rừng Kè.
Nghe đến
danh từ Bụt, mắt Sariputta sáng lên:
- Thầy
của ngài dạy giáo pháp gì, xin ngài vui lòng cho tôi được biết sơ qua một chút.
- Tôi
chỉ mới theo học với thầy tôi gần đây thôi; giáo pháp của thầy tôi vi diệu lắm
tôi chưa đủ sức tuyên giải đâu. Ngài nên tìm đến thầy tôi thầy tôi sẽ chỉ dạy
cho ngài.
Sariputta
nài nỉ:
- Xin
ngài cho tôi vắn tắt một vài câu cũng đã quý lắm rồi. Tôi sẽ đến cầu xin lệnh
sư sau.
Assaji
mỉm cười rồi đọc cho Sariputta nghe một bài kệ:
Muôn vật
từ duyên sinh lại từ duyên mà diệt bậc giác ngộ tuyệt vời đã từng như vậy
thuyết.
Nghe
xong bài kệ, Sariputta bỗng thấy tâm tư bừng sáng. Cái thấy không tỳ vết về
chánh pháp được phát sinh ngay trong lòng. Mừng quá, ông cúi đầu chào Assaji và
lập tức chạy về tìm bạn.
Thấy
Sariputta trở về mặt tươi như một đóa hoa, Moggalana hỏi:
- Sao
mặt sư huynh hôm nay tươi như thế? Hay là sư huynh đã tìm được đạo lớn rồi? Nói
đi, sư huynh!
Sariputta
kể lại cho bạn nghe về cuộc gặp gỡ với vị khất sĩ Assaji. Rồi ông đọc cho
Moggallana nghe bài kệ:
Muôn vật
từ duyên sinh lại từ duyên mà diệt bậc giác ngộ tuyệt vời đã từng như vậy
thuyết.
Nghe bài
kệ, Moggallana lập tức thấy tâm trí bừng sáng. Cái thấy về chánh pháp đến mau
như một làn chớp giật. Vũ trụ hiện ra như một màn lưới nhân duyên chằng chịt,
cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái cái kia sinh, cái này không vì
cái kia không, cái này diệt vì cái kia diệt. Ý niệm về một thần linh như nguyên
nhân đầu tiên tạo ra vạn vật đột nhiên tan biến. Cái vòng lẫn quẩn dường như có
thể chặt đứt được. Cánh cửa giải thoát thấp thoáng ở đâu đây.
Moggallana
giục bạn:
- Sư
huynh, chúng ta nên lập tức đi tìm Bụt. Bụt chính là thầy của chúng ta.
Ta phải
tới xin tu học với người.
Sariputta
do dự:
- Nhưng
mà hai trăm năm mươi vị du sĩ trong giáo đoàn đang trông cậy nơi chúng ta như
những người anh cả. Chúng ta không thể bỏ họ một sáng một chiều như thế được.
Chúng ta phải đến cho họ biết trước.
Hai
người bạn tu liền trở về trụ xứ tu học của giáo đoàn tu sĩ. Họ kể cho các bạn
nghe về những gì vừa xảy ra cho họ. Cuối cùng, họ nói:
- Các
huynh đệ, chúng tôi đã quyết định đi tìm Bụt và xin tu học dưới sự hướng dẫn
của người. Chúng tôi xin có lời từ giã các bạn.
Nghe
Sariputta và Moggallana sắp bỏ giáo đoàn du sĩ để theo Bụt, hai trăm năm mươi
vị du sĩ đều tự nhiên cảm thấy bơ vơ. Lâu nay họ đã tin cậy vào hai vị sư huynh
này. Bây giờ hai vị bỏ đi, họ không cảm thấy bơ vơ sao được. Cuối cùng tất cả
ngỏ ý xin đi theo hai vị.
Sariputta
và Moggallana đi tìm đạo sĩ Santaya, vị lãnh tụ giáo đoàn du sĩ và báo cho ông
biết về quyết định của mình. Đạo sĩ Sanjaya buồn lắm, ông nói:
- Hai vị
ở lại đây đi. Ta sẽ giao quyền lãnh đạo giáo đoàn du sĩ cho hai vị.
Ông năn
nỉ tới ba lần như vậy, nhưng hai người vẫn không chịu ở lại. Họ nói:
- Thưa
ngài, chúng tôi đi tu là cốt tìm con đường giải thoát chứ không phải là cốt trở
thành những người lãnh dạo. Con đường không có thì chúng ta lãnh đạo người ta
đi đâu? Chúng tôi phải tìm tới với sa môn Gotama, bởi vì sa môn Gotama đã tìm
thấy con đường mà chúng tôi thường mong ước.
Nói
xong, Sariputta và Moggallana cúi xuống lạy đạo và từ biệt. Hai trăm năm mươi vị
du sĩ cũng làm như thế. Tất cả đều đi theo hai người.
Sariputta
và Moggallana đưa hai trăm năm mươi vị du sĩ tới Rừng Kè. Mọi người sụp lạy
trước Bụt và cầu xin được xuất gia. Bụt hỏi thăm và an ủi các vị du sĩ. Người
dạy đạo lý bốn sự thật cho họ và chấp nhận cho họ xuất gia tu học trong giáo
đoàn khất sĩ. Sau lễ xuất gia, số lượng các vị khất sĩ trong giáo đoàn lên tới
con số một ngàn hai trăm năm mươi vị.
---o0o---
Chương 30
VENUVANA
Ngày
trăng tròn đã tới. Buổi sáng, Bụt khoác ca sa, mang bát, cùng với một ngàn hai
trăm năm mươi vị khất sĩ đi vào thành Rajagaha, đáp lại lời mời của quốc vương
Bimbisara. Đoàn người đi trang nghiêm và lặng lẽ. Đường phố mà các vị khất sĩ
đi qua đã được treo cờ và kết hoa. Dân chúng đổ ra hai bên đường chào đón đông nghịt.
Tới một ngã tư, Bụt và giáo đoàn không đi lên được nữa, bởi vì dân chúng đã đổ
ra đông quá, làm bít mất con đường.
Lúc ấy,
khất sĩ Uruvela Kassapa đang đi sát sau lưng Bụt, còn chưa biết làm cách gì để
khai thông con đường thì thầy bỗng thấy xuất hiện trước mặt Bụt một chàng thanh
niên tuấn tú, tay cầm cây đàn mười sáu dây. Thanh niên cất tiếng hát, giọng
chàng trong sáng và vọng lớn lên như tiếng chuông đồng, Tay đàn, miệng hát,
chàng rẽ đám đông để đi tới. Quần chúng tránh đường cho chàng đi. Con đưòng
được mở rộng, lúc ấy Bụt và giáo đoàn mới tiến lên được.
Thầy
Kassapa nhận ra được tung tích người thanh niên đang mở đường cho Bụt và tăng
đoàn bằng âm nhạc và thi ca. Đó là một chàng thi sĩ đã tới quy y với Bụt cách
đây chưa đầy một tháng. Chàng đang ứng khẩu hát lên những cảm nghĩ của mình.
Chàng hát:
Sáng nay
trên đất nước, có mùa Xuân thắm tươi Giữa thủ đô ta có bậc giác ngộ tuyệt vời
Cùng một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử, người đi vào thành Vương Xá Bậc điều ngự
đang ung dung bước tới, dung quang lặng lẽ mà sáng ngời.
Quần
chúng nghe chàng một cách say mê. Mọi người nhìn vào chàng, rồi lại nhìn vào
Bụt. Chàng mỉm cười rồi hát tiếp:
Bởi ta
có may mắn là học trò của bậc toàn giác Hãy cho ta ca ngợi tình thương và trí
tuệ không bờ bến của Người Cho ta ca con đường đưa tới chân trời tự tại Cho ta
ca tăng đoàn đang đi trên chánh đạo soi sáng cho đời.
Chàng
còn hát nữa, cho đến khi Bụt và tăng đoàn tới được cổng hoàng cung.
Lúc ấy
chàng mới cúi đầu làm lễ Bụt rồi biến mất trong đám đông.
Vua
Seniya Bimbisara đích thân ra tận ngọ môn để đón chào Bụt và tăng đoàn. Các
nhân sĩ và tân khách của vua, có tới hàng ngàn người, cũng theo vua ra đón Bụt.
Vua đưa Bụt vào hoàng cung. Sân rồng đã được che nắng bởi những chiếp rạp dựng
lên cho cuộc đón tiếp long trọng này. Rạp được kết bằng hoa lá rất mỹ lệ. Chỗ
ngồi của Bụt được đặt ở vị trí trung ương.
Chỗ ngồi
của một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ cũng đã được chuẩn bị chu đáo. Sau
khi Bụt đã ngồi xuống trên ghế của người, vua Bimbisara thỉnh cầu các vị khất
sĩ và toàn thể quan khách an tọa. Vua ngồi một bên Bụt. Phía bên kia là khất sĩ
Kassapa.
Ngôi chủ
khách đã phân, thái tử Ajatasattu mang nước và khăn ra cho Bụt rửa tay chân.
Tiếp theo, quân hầu cũng đem nước và khăn ra cho tất cả các vị khất sĩ rửa tay
chân. Lễ tẩy tịnh đã xong, vua đích thân đứng dậy cúng dường các thức ăn cho
Bụt. Vua cung kính sớt các thức ăn vào bát của mỗi người. Trong khi đó, phu
nhân của vua, hoàng hậu Vedehi, hướng dẫn người hầu trong hoàng cung cúng dường
thức ăn cho các vị khất sĩ.
Bụt và
giáo đoàn khất sĩ mặc niệm và chú nguyện trước khi ăn. Vua Bimbisara và tất cả
các quan khách cũng đều giữ im lặng trong thời gian dùng bữa. Trong sáu ngàn
tân khách của vua, không ai là không cảm nhận được sự thanh tịnh và an lạc
thoát ra từ nhân cách của Bụt và của giáo đoàn khất sĩ.
Sau khi
Bụt, tăng đoàn và quan khách đã thọ trai xong, bình bát của các vị khất sĩ được
người hầu đem rửa và trả lại cho mỗi vị.
Vua
Bimbisara hướng về Bụt, cung kính chắp tay. Hiểu được ý vua, Bụt lên tiếng dạy
về chánh pháp. Người nói về năm giới như là phương thức tạo dựng và bảo vệ hòa
bình và hạnh phúc trong trong quốc gia. Người nói năm giới có thể được nhận
thức như là những nguyên tắc sống chung hòa bình và an lạc, trong gia đình cũng
như ngoài xã hội.
“- Giới
thứ nhất là không sát hại. Giữ gìn giới này là để nuôi dưỡng lòng từ bi. Tất cả
các loài sinh vật, từ người cho đến chim muông và cầm thú, loài nào cũng sợ
chết. Nếu ta biết tôn quý sự sống của ta thì ta cũng phải biết tôn quý sự sống
của loài sinh vật khác. Không những ta không được tiêu diệt sự sống của con
người, mà ta còn nên tránh việc tiêu diệt sự sống của các chủng loại khác. Ta
phải sống hòa bình với con người và sống hòa bình với các loài sinh vật khác.
Nuôi dưỡng được lòng thương, ta làm cho cuộc đời bớt khổ và đẹp đẽ thêm lên.
Nếu mọi người trong nước đều biết giữ giới không sát hại thì đất nước sẽ không
bị loạn lạc, và dân chúng được sống hòa bình. Khi mọi người thương nhau và đoàn
kết với nhau thì dân giàu và nước mạnh, không nước nào sẽ có đủ sức để xâm lăng
nước mình, và tuy có quân đội hùng mạnh, quốc gia sẽ không cần sử dụng đến.
Quân đội sẽ có thì giờ để làm những công việc xây dựng đường xá, cầu cống, chợ
búa và đê điều.
- Giới
thứ hai là không xâm phạm đến tài sản của kẻ khác. Nếu tài sản của mình là do
mình tạo ra bằng sức làm việc hàng ngày của mình thì không ai có quyền xâm phạm
đến. Tất cả những lời nói và hành động nào nhằm tước đoạt tài sản ấy đều được
xem là phạm giới. Không được ăn trộm, ăn cướp, lường gạt, hoặc dùng quyền lực
mình để cưỡng chiếm tài sản của kẻ khác.
Lợi dụng
sự khờ dại, sức lao động của kẻ khác và hoàn cảnh khó khăn của họ để làm giàu
cũng phạm vào giới này. Nếu dân trong một nước mà biết hành trì giới này thì
trong nước sẽ có công bằng xã hội và những tội ác như cướp của và giết người sẽ
giảm bớt rất mau chóng”.
- Giới
thứ ba là không xâm phạm tiết hạnh của kẻ khác. Ngoài vợ mình hay chồng mình,
người giữ giới không được chung chạ với kẻ khác. Giữ được giới này thì tạo được
đức tin và hạnh phúc trong gia đình mình, đồng thời cũng tránh được sự gây ra
đổ vỡ khổ đau trong các gia đình khác. Muốn có hạnh phúc, muốn có thì giờ và
tâm não để lo việc ích quốc lợi dân thì nên tránh việc có nhiều tỳ thiếp.
- Giới
thứ tư là không nói dối và không nói những lời gây chia rẽ căm thù.
Lời nói
phải phù hợp với sự thật: có thì nói có, không thì nói không. Lời nói có thể
tạo nên niềm tin và hạnh phúc. Lời nói cũng có thể tạo nên đổ vỡ và sự thù oán,
có khi còn đưa tới sự chém giết lẫn nhau. Có khi lời nói cũng có thể tạo ra
chiến tranh. Ta phải rất cẩn thận cho lắm mới được.
- Giới
thứ năm là không uống rượu và không sử dụng các chất ma túy. Rượu và các chất
ma túy làm cho ta mất sáng suốt. Khi say ta có thể tạo ra nhiều đổ vỡ cho bản
thân, cho gia đình và cho tổ quốc. Giữ giới này, ta giữ cho thân thể ta được
khỏe mạnh và tâm hồn được sáng suốt, vì vậy bậc thức giả luôn luôn phải giữ
giới này. Nếu đại vương và các vị chức sắc của triều đình mà thấu triệt và vâng
giữ được năm giới này thì đó là một điều đại phước cho quốc gia và cho tất cả
bàn dân thiên hạ trong vương quốc.
Đại
vương, bậc quốc vương đứng đầu một nước cần sống trong tỉnh thức và biết được
những gì đang xảy ra trong vương quốc mình. Nếu đại vương làm cho trong triều
ngoài quận ai cũng hiểu thấu và thực hành được năm giới, tức là năm nguyên tắc
sống hòa bình và an lạc, thì vương quốc Magadha sẽ trở nên vương quốc thịnh
vượng nhất trong hoàn vũ”.
Vua
Bimbisara sung sướng tiến tới trước Bụt và làm lễ người. Hoàng hậu Vedehi cũng
đứng dậy từ chỗ ngồi của bà. Cầm tay thái tử Ajatasattu, bà đi tới trước Bụt.
Bà dạy thái tử chắp tay thành búp sen để vái chào người, rồi bà nói:
- Lạy
Bụt, hôm nay có thái tử Ajatasattu, con của con và nhiều trẻ em khác con của
các vị vương tử đại thần và quan khách. Các em đông có tới bốn trăm đứa. Xin
Bụt đem lòng thương xót chỉ bày cho thiếu nhiều con đường của tỉnh thức và của
thương yêu.
Nói xong
hoàng hậu sụp xuống lạy Bụt. Thái tử Ajatasattu cũng được bà bảo sụp xuống lạy
Bụt. Bụt mỉm cười đưa tay cầm lấy tay thái tử. Hoàng hậu quay lại làm dấu hiệu.
Tất cả các thiếu nhi có mặt đều được đưa ra trình diện. Đây toàn là trẻ em nhà
quyền quý và khá giả, nên em nào cũng được phục sức rất tươm tất. Trai cũng như
gái đều có đeo vòng ở cổ tay và cổ chân. Các em gái mặc những chiếc sari lộng
lẫy đủ màu trông rất tươi mát.
Thái tử
Ajatasattu cũng ngồi xuống ngay dưới chân Bụt.
Bụt nhớ
lại những em bé nghèo mà người đã gặp dưới cây hồng táo ở ngoại thành
Kapilavatthu. Người tự hứa là mai này về lại quê hương sẽ đi tìm gặp lại những
em bé như thế để làm tròn ước nguyện.
Người
nói:
- Này
các con, trước khi ta được làm người, ta đã từng làm đất đá, cây cối, chim chóc
và muông thú. Các con cũng vậy, trong những kiếp xưa các con đã từng làm đất
đá, cây cối và chim muông. Ngày hôm nay ta được gặp các con, cũng có thể là vì
trong những kiếp xa xưa ta và các con đã từng gặp nhau. Chúng ta đã có thể làm
cho nhau sung sướng. Chúng ta cũng đã có thể làm cho nhau khổ đau.
Hôm nay
ta muốn kể cho các con nghe một chuyện đã từng xảy ra hàng ngàn kiếp trước. Đây
là chuyện một còn cò, một con cua, một cây bông sứ và rất nhiều tôm cá. Hồi ấy,
ta là cây bông sứ, và trong số các con có thể có đứa đã làm con cò, có đứa có
thể đã làm con cua và nhiều đứa có thể đã làm tôm cá.
Trong
câu chuyện ày, con cò là một đứa nham hiểm và có tính hay lường gạt. Nó đã làm
cho biết bao nhiêu con khác chết chóc và khổ đau. Hồi ấy, như các con đã biết,
ta làm cây bông sứ. Con cò cũng đã làm cho khổ đau, nhưng ta đã học được một
bài học. Đó là: khi mình lường gạt và làm khổ đau kẻ khác thì mình cũng sẽ bị
lường gạt và sẽ bị khổ đau trở lại.
Trong
kiếp xa xưa đó, ta làm cây bông sứ đứng gần một cái hồ sen rất thơm và rất mát.
Hồ sen này lại không có cá.
Cách hồ
không xa, lại có một cái ao nhỏ hẹp, ít nước và nóng bức, nhưng lại có nhiều
tôm cá. Một con cò đi ngang qua đây thấy tôm cá quá nhiều mới nảy sinh ra một
mưu kế. Nó tới đứng gần bên bờ hồ và tự tạo cho mình một vẻ mặt đăm chiêu.
Bọn cá
hỏi:
- Bác
Cò, bác suy nghĩ gì đấy?
- Ta
đang suy nghĩ đến số phận của các chú. Ở đây, ao hẹp, nước ít lại nóng bức. Các
chú lại thiếu thức ăn. Đời sống của các chú có vẻ khổ cực, ta thương lắm.
- Vậy
bác có cách gì giúp tụi cháu không, bác Cò?
- Nếu
tụi bay để ta chở từng đứa tới bỏ xuống cái hồ sen đàng kia, thì ở đó tụi bay
sẽ được tha hồ bơi lội trong nước mát và sẽ có vô số thức ăn.
- Bác Cò
ơi, tự thuở cha mẹ sinh ra, chúng cháu chưa bao giờ nghe nói là loài cò mà lại
có lòng tốt với loài tôm cá. Bác bày ra cách đó chẳng qua chỉ là để ăn thịt
chúng cháu, đứa này rồi tới đứa khác, vậy thôi. Có phải không?
- Tụi
bay đa nghi lắm. Tao là bác của tụi bay, không lý tao lại gạt tụi bay hay sao.
Sự thật là đàng kia có một cái hồ sen rộng lắm, nước nhiều mà lại mát nữa. Nếu
tụi bay không tin thì một đứa hãy theo tao qua đó xem. Xem xong tao lại trả nó
về đây để nó báo cáo lại sự thật cho tụi bay biết.
Bọn tôm
cá châu đầu vào nhau để bàn luận một hồi lâu. Cuối cùng chúng cử một bác cá
nhám đi với con cò. Con cá nhám này đã già, thân thể gần như một cục đá. Nói
bơi lội giỏi đã đành, mà nó cũng có thể di chuyển dễ dàng trên đất cạn. Con cò
cáp lấy con cá nhám vào mỏ và bay về phía hồ sen. Nó thả con cá vào hồ sen để
các bơi lội thỏa thích và đi thăm mọi nơi trong hồ.
Quả thật
là hồ rộng, nước rất mát và thực phẩm rất nhiều. Một lát con cò chở con cá nhám
về ao, và nó kể lại tất cả những gì nó đã thấy cho bọn chúng trong ao nghe.
Bọn tôm
cá nghe kể rất lấy làm vui sướng. Chúng yêu cầu con cò chở chúng sang hồ, mỗi
chuyến một đứa. Cò bằng lòng. Nó cắp con cá đầu tiên vào mỏ và bay đi, nhưng
thay vì thả cá xuống hồ sen, nó bay về phía cây bông sứ, nó buông cá vào một
chỉa ba của thân cây. Nó dùng mỏ rỉa cá ra và ăn thịt con cá. Ăn xong, nó hất
xương cá xuống gốc cây bông sứ. Rồi nó bay về phía ao để “chở” một con cá khác,
và luôn luôn bỏ xương cá xuống gốc cây.
Ta là
cây bông sứ. Ta chứng kiến tất cả những điều này. Ta rất tức giận con cò nhưng
không thể nào ngăn cản được con cò. Các con biết, cây bông sứ chỉ có thể đâm rễ
sâu thêm vào đất, mọc cành mọc lá và làm hoa, nhưng không thể chạy đi đâu được.
Ta không thể chạy tới ao để vạch rõ cho bọn tôm cá biết âm mưu của con cò. Ta
cũng không thể vươn cành ra để ngăn con cò không cho cò ăn thịt cá. Ta đứng yên
chịu trận. Mỗi lần cò mang tới một con cá và mổ cho cá toét ra để ăn thịt là
mỗi lần cây bông sứ đau đớn rúng động cả châu thân, nhựa cây như chảy dồn dập
hơn, da cây như co rúm lại. Có khi cây bông sứ rung rung và những giọt sương
rơi xuống như là cây cũng biết khóc. Con cò không để ý tới những dấu hiệu đó.
Ngày này sang ngày khác, nó mang cá tới cây bông sứ để ăn thịt. Ăn hết cá nó ăn
đến tôm.
Đống
xương cá dưới gốc cây đã cao bằng hai cái thùng lớn.
Làm một
cây bông sứ, ta biết mình có bổn phận nở hoa để làm thơm làm đẹp cho núi rừng,
nhưng ta rất đau khổ vì không làm được gì để cứu bọn tôm cá.
Nếu ta
là một con nai hoặc một con người thì ta đã có thể làm được một cái gì. Đàng
này ta bị chôn chân xuống đất không đi đâu được. Với niềm thương trong lòng, ta
thầm nguyện sau này nếu được làm thú hay làm người, ta sẽ gắng hết sức để bênh
vực kẻ yếu và ngăn chận không cho kẻ hung bạo và giảo quyệt đi lừa gạt và tàn
sát kẻ khác.
Ngày hôm
ấy, dưới ao cá và tôm đã hết. Chỉ còn có một con cua. Lúc đầu cò ta chê, nhưng
sau đó đói bụng quá, nó lại gần bờ nước và nói:
- Này
cháu, tất cả những tôm cá mà ta đã chở tới hồ sen, hiện đang sung sướng vẫy
vùng bên đó. Cháu lại đây, bác chở qua đó luôn.
- Bác
thì làm sao chở được cháu? Cháu là một con cua mà.
- Thì
bác cắp cháu trong mỏ bác, như đã chở những đứa khác.
- Bác mà
cắp cháu trong mỏ bác thì không chắc lắm. Bác có thể để cho cháu rơi xuống và
cháu sẽ vỡ toang.
- Đừng
có sợ, cháu. Báu sẽ ngậm cháu thật chặt.
Con cua
suy nghĩ: có thể là cò đã thả tất cả tôm cá xuống hồ sen. Cũng có thể là cò đã
ăn thịt hết tất cả họ hàng nhà tôm và họ hàng nhà cá. Ta hãy cẩn thận. Ta phải
đề phòng. Nếu cò thả ta xuống hồ thì đó là chuyện tốt. Nếu cò muốn ăn thịt ta
thì ta cũng có sẽ cách tự vệ.
Nghĩ như
thế, Cua nói với Cò:
- Bác
ơi, mỏ bác không đủ mạnh để giữ cho cháu khỏi rơi dâu. Bác phải để cháu bám vào
cổ bác bằng hai cái càng của cháu mới được.
Cò bằng
lòng ngay, nó để cho Cua bám vào cổ nó. Cò vỗ cánh bay đi, nhưng thay vì bay
thẳng xuống hồ, cò lại bay qua cây bông sứ.
- Bác
ơi, tại sao bác không đưa cháu xuống hồ mà lại đem cháu đi đâu thế?
- Cháu
ơi, ai dại dột mà đi chở mướn cho bọn bay. Tao đâu có phải là đầy tớ của bọn
mày. Ta chỉ muốn chở bọn mày tới đây để ăn thịt từng đứa mà thôi.
Coi kìa,
mày có thấy đống xương cá cao nghệu dưới gốc cây bông sứ không? Đó, mày cũng sẽ
chấm dứt cuộc đời của mày nơi đó.
- Bác Cò
ác độc ơi, tụi tôm cá ấy dại dột quá nên mới bị bác lừa dối và ăn thịt, nhưng
cháu thì bác đừng có hòng mà ăn thịt được cháu. Bác hãy mang cháu về dưới hồ
đi, nếu không cháu sẽ kẹp đứt cổ bác cho mà xem.
Nói
xong, Cua bắt đầu xiết những gọng kềm của Cua trên cổ Cò. Những cái càng cua
siết cứng như những chiếc gọng kềm bằng sắt khiến cho Cò ta đau quá. Cò kêu
lên:
- Thôi
anh Hai ơi, anh Hai đừng kẹp tôi đau quá. Để tôi đưa những Hai xuống hồ. Tôi
không dám ăn thịt anh Hai đâu.
Cò
nghiêng cánh liệng bay trở lại hồ sen và đạt Cua xuống bờ nước, nơi có chút ít
bùn lầy. Cua vẫn chưa buông cổ Cò. Nghĩ tới bao nhiêu tôm các trong hồ bị Cò
tàn sát hết. Cua nghiến răng kẹp hai cái càng thật mạnh, khiến cho cổ Cò đứt
rời ra, và Cò lăn xuống chết. Rồi Cua đi xuống nước.
Các con
ơi, lúc ấy ta là cây bông sứ, ta chứng kiến từng chi tiết nhỏ của tấn kịch này.
Ở đời, ăn hiền ở lành thì sẽ được người hiền lành giúp đỡ. Ăn ở độc ác sớm muộn
gì cũng lâm vào cảnh thảm thương. Ta đã học được bài học đó. Ta nguyện đời đời
sẽ làm việc lợi ích cho muôn loài. Ta đã làm người trong nhiều vạn kiếp. Giờ
đây, gặp các con, ta muốn truyền lại bài học ta đã học ngày xưa cho các con
nghe.
Tất cả
các thiếu nhi có mặt đều chăm chú nghe Bụt thuật chuyện tiền thân.
Đứa nào
cũng thương cho cây bông sứ và cho tất cả những loài tôm cá bị lừa gạt. Đứa nào
cũng căm giận con cò và khen con cua là biết lo xa. Bụt lặng yên và bọn thiếu
nhi quay lại thầm thì với nhau về câu chuyện người vừa kể.
Vua
Bimbisara đứng dậy. Đi tới trước Bụt, vua chắp tay lại làm lễ người.
Vua nói:
- Hôm
nay bậc tôn quý trên đời đã ban cho người lớn và trẻ em một bài học thật quý
giá. Trẫm mong thái tử Ajatasattu thấm nhuần được lời dạy và đạo đức của người.
Vương quốc Magadha có được may mắn lớn nên người mới dừng chân hoằng hóa nơi
đây. Trẫm có một món quà muốn dâng lên bậc giác ngộ và tăng đoàn của người,
không biết người có chịu cho trẫm cái hân hạnh được dâng cúng món quà ấy không?
Bụt
không nói. Người đưa mắt nhìn vua, có ý muốn vua nói tiếp. Vua im lặng một lát
rồi nói:
- Về
phía Bắc thủ đô Rajagaha có một vườn tre rất rộng và rất đẹp mà trẫm gọi là
Trúc Lâm, hay làVenuvana. Trúc Lâm cách cửa Bắc của kinh đô chỉ chừng hai dặm.
Công viên này rất yên tĩnh, rất mát mẻ và có rất nhiều con sóc hiền lành. Trẫm
muốn hiến cúng công viên ấy lên Bụt và tăng đoàn của người để làm trụ sở tu học
và hành đạo.
Mong đức
Từ Bi chấp nhận cho lòng thành của trẫm.
Bụt suy
nghĩ. Đây là lần đầu tiên một cơ sở được hiến tặng cho giáo đoàn để làm nơi tu
học. Các vị khất sĩ cũng cần có một căn cứ để an cư trong mùa mưa. Ta nên chấp
nhận tặng phẩm này.
Nghĩ như
thế, Bụt mỉm cười và gật đầu ưng thuận. Vua Bimbisara mừng rỡ.
Vua nghĩ
là cơ sở đó có thể giữ được bậc giác ngộ lâu dài trong vương quốc mình. Trong
số các vị tân khách, có nhiều người thuộc giới lãnh đạo Bà la môn. Họ không mấy
hoan hỷ về quyết định này của vua, nhưng họ vẫn giữ im lặng.
Vua
truyền đem ra một cái bình vàng. Ngài tự tay làm lễ rót nước trong bình lên tay
Bụt, và trang trọng tuyên bố:
- Bạch
Thế Tôn, cũng như nước trong chiếc bình vàng này chảy vào tay người, khu vườm
Trúc Lâm đã được trẫm hiến tặng cho người và giáo đoàn do người lãnh đạo.
Lễ bàn
giao đã xong. Cuộc thừa tiếp giáo đoàn đã kết thúc Bụt và một ngàn hai trăm năm
mươi vị khất sĩ từ giã hoàng cung.
---o0o---
Chương 31
SANG XUÂN TA SẼ TRỞ VỀ
Ngay
ngày hôm sau, Bụt và các vị trưởng thượng trong giáo đoàn đi thăm viếng Trúc
Lâm. Thật là một nơi cư trú lý tưởng cho giáo đoàn khất sĩ. Khu vườn rộng vào
khoảng bốn chục mẫu. Tre mọc xanh tốt, đủ cả các loại. Hồ Kalandaka tọa lạc ở
giữa rừng tre là một nơi rất thuận lợi để các vị khất sĩ tắm giặt và đi kinh
hành. Tre rất nhiều, những chiếc thảo am có thể được dựng lên rải rác để làm
chỗ cư trú cho các vị đại đức lớn tuổi. Các vị đệ tử lớn như Kondanna, Kassapa,
Sariputta v.v... đều rất hoan hỷ. Họ họp nhau lại và hoạch định cách tổ chức
Trúc Lâm thành một tu viện có quy củ. Bụt dạy:
- Mùa
mưa không tiện lợi cho sự du hành. Các vị khất sĩ cần có nơi an cư trong mùa
mưa để cùng tu học với nhau. Như vậy họ tránh được sự ướt át và dẫm đạp lên
trên các loại côn trùng thường bò ra đầy dẫy. Tôi muốn mỗi năm cứ vào đầu mùa
mưa, các vị khất sĩ phải tìm nơi an cư tu học với nhau, khỏi phải đi du hành
đây đó. Trong ba tháng ấy, thiện nam và tín nữ có thể mang thực phẩm tới cúng
dường tại các trung tâm an cư, và mỗi ngày, họ sẽ được các vị xuất gia chỉ dạy
về đạo lý tỉnh thức.
Truyền
thống an cư được thiết lập, chỉ còn mười lăm hôm nữa, mùa an cư được bắt đầu.
Dưới sự
điều khiển của đại đức Moggallana, các vị khất sĩ trẻ tuổi đã dựng lên một tịnh
xá nhỏ cho Bụt và nhiều tịnh xá nhỏ khác cho các vị khất sĩ trưởng thượng hoặc
lớn tuôi. Tất cả đều được làm bằng tre, tranh, và bùn đất. Tịnh xá của Bụt tuy
nhỏ nhưng rất xinh xắn. Phía sau tịnh xá có một bụi tre vàng rất đẹp. Bên trái
tịnh xá cũng có một bụi tre thật xanh tươi và cao.
Bụi tre
này cho Bụt rất nhiều bóng mát. Thầy Nagasamala đã đóng cho Bụt một cái chõng
tre để người nằm nghỉ. Người cũng ngồi thiền trên đó. Thầy lại còn kê cho Bụt
một vại nước ở phía sau tịnh xá để người có chỗ rửa mặt và tay chân. Thầy
Nagasamala là một vị khất sĩ trẻ. Trước đây thầy đã từng là đệ tử của đại đức
Uruvela Kassapa, khi đại đức còn chưa xuất gia theo Bụt. Từ ngày dọn về tu viện
Trúc Lâm, thầy Nagasamala được đại đức Kassapa tiến cử lên Bụt để làm thị giả
cho người.
Đại đức
Sariputta đã tiếp xúc với một vị cư sĩ ở thành Vương Xá và vị cư sĩ này đã đem
cúng dường tu viện Trúc Lâm một chiếc chuông đồng. Đại đức đã cho treo chuông
gần hồ Kalandaka dưới một cành cổ thụ. Tiếng chuông báo hiệu giờ giấc tu học
trong tu viện, và trở thành hiệu lệnh cho tất cả tăng đoàn. Bụt dạy mỗi khi
nghe tiếng chuông, tất cả mọi người đều phải theo dõi hơi thở và thực tập chánh
niệm. Tiếng chuông như vậy không chỉ có tác dụng thông báo giờ giấc mà còn có
tác dụng nhắc nhở mọi người trở về với chánh niệm nữa.
Các vị
đệ tử cư sĩ của Bụt ngày nào cũng có lui tới Trúc Lâm để giúp đỡ công trình
kiến thiết tu viện. Họ được đại đức Kassapa cho biết là ngày trăng tròn sắp
đến, tăng đoàn sẽ bắt đầu an cư tu học tại Trúc Lâm. Đại đức nói:
- Đây là
một dịp để các vị khất sĩ được thực tập đạo giải thoát trực tiếp dưới sự hướng
dẫn của Bụt. Họ sẽ có nhiều thì giờ học hỏi và thực tập hơn trong mùa an cư.
Đồng thời họ cũng tránh được sự dẫm đạp lên các loại côn trùng thường xuất hiện
rất nhiều vào mùa mưa trên các con đường, nhất là những con đường thôn dã.
Trong thời gian ba tháng an cư của các thầy. Quý vị có thể đem thức ăn tới cúng
dường Bụt và tăng đoàn. Quý vị có thể họp nhau để tổ chức việc cung cấp thực
phẩm cho tăng đoàn, như thế thì sẽ không có ngày nào thức ăn bị dư hoặc bị
thiếu. Tất cả các vị thí chủ, dù là người nghèo khổ nhất và chỉ có thể cúng
dường một vài chiếc bánh chappati, cũng đều được mời ở lại để nghe Bụt hoặc một
vị cao đệ của người thuyết pháp.
Mùa an
cư sẽ đem lại nhiều tiến bộ cho sự tu học của tăng đoàn cũng như là của các vị
đệ tử tại gia.
Đại đức
Kassapa lãnh đạo tăng đoàn rất giỏi mà tổ chức giới cư sĩ cũng giỏi.
Thầy đã
hội họp với những vị thí chủ của tu viện và đã giúp cho họ điều hợp việc cúng
dường và hổ trợ tu viện. Các vị khất sĩ, ngoài áo ca sa, bình bát và nệm ngồi
thiền, còn được cúng dường một chiếc khăn lau mặt và một chiếc lọc để lọc nước
uống nữa.
Ngày an
cư đã đến, và thời khóa tu học do các vị trưởng thượng ấn định, đã được tăng
đoàn chấp hành theo một cách nghiêm chỉnh. Buổi sáng vào lúc đầu canh tư, đã có
chuông báo thức. Sau khi rửa mặt, các vị khất sĩ bắt đầu thiền tập ngay tại chỗ
của mình. Mọi người thực tập thiền tọa và kinh hành nhiều lần cho đến khi mặt
trời đã lên tới đầu ngọn tre. Sau đó là giờ đi khất thực. Đại chúng chỉ nghỉ đi
khất thực vào những ngày có thí chủ cúng dường thực phẩm đầy đủ cho tu viện.
Vào những ngày này, các vị khất sĩ có thể sử dụng thì giờ buổi sáng để đi tìm y
chỉ sư của mình mà học hỏi thêm giáo lý và tham vấn về những điều mình chưa nắm
vững trong lãnh vực giáo nghĩa cũng như trong lãnh vực thực tập. Y chỉ sư là
một vị khất sĩ đã đạt tới nhiều tiến bộ trên con đưòng học hỏi và hành trì. Các
vị đại đức như Kondanna, Assaji, Kassapa, Sariputta, Moggallana, Bhaddhiya,
Vappa, Mahanama v.v...
đều là
những vị y chỉ sư lớn, mỗi vị phụ trách hướng dẫn năm sáu mươi vị khất sĩ mới
học. Có những vị y chỉ sư hướng dẫn mười vị, có vị hướng dẫn hai mươi vị, có vị
hướng dẫn ba mươi vị ... Vị khất sĩ mới học nào cũng có y chỉ sư của mình. Đó
là người huynh trưởng trong đạo mà mình cần nương tựa vào để học hỏi. Đại đức
Kassapa đã cùng với đại đức Sariputta làm công việc phân phối này rất kỹ lưỡng
trước ngày an cư.
Vào đầu
giờ Ngọ, các vị khất sĩ đều đã có mặt tại tu viện. Họ mang bát đứng thành từng
hàng dài ở sân cỏ bờ hồ. Sau khi đã được cúng dường hoặc đã san sẽ thực phẩm
xin được cho nhau, mọi người ngồi xuống bãi cỏ và bắt đầu thọ trai trong im
lặng. Buổi trai phạn hoàn tất vào cuối Ngọ. Mọi người quây quần bên Bụt. Có khi
người giảng dạy cho các vị khất sĩ và các vị cư sĩ được dự thính, có khi người
giảng dạy cho các vị cư sĩ, và các vị khất sĩ dự thính. Lại có những buổi giảng
dạy cho thiếu nhi và tất cả những người lớn tuổi của cả hai giới xuất gia và
tại gia dự thính. Thường thường trong các buổi giảng cho trẻ em, Bụt hay dùng
những truyện tiền thân.
Có khi
các đại đức cao đệ của Bụt đứng ra giảng dạy thay Bụt. Những lúc ấy, Bụt ngồi
nghe, và người thường mở lời khen ngợi khi đạo lý giải thoát được diễn bày một
cách đúng mức và thông minh. Sau buổi thuyết pháp, giới đệ tử tại gia ra về.
Mọi người có được một thời gian nghỉ ngơi. Sau đó chuông lại báo hiệu giờ thiền
tọa và thiền hành. Các thầy thực tập tham vấn và học hỏi cho đến đầu giờ Hợi
mới đi nghỉ.
Bụt
thường thiền tọa cho đến nửa đêm. Ngưòi hay bắc chiếc chõng tre ra trước tịnh
xá ngồi cho mát, nhất là vào những đêm có trăng. Mỗi buổi sáng khi thức dậy, người
ưa đi thiền hành, người không cần ngủ nhiều giờ như các vị khất sĩ trẻ tuổi.
Đại đức Kassapa cũng thức rất khuya để thiền tập.
Vua
Bimbisara rất siêng năng đến Trúc Lâm để thăm Bụt và tăng đoàn. Vua không đem
theo hàng trăm người như lần đầu đi gặp Bụt ở rừng Kè. Những lần đi thăm Bụt ở
Trúc Lâm, vua chỉ đem theo hoàng hậu Vedehi và thái tử Ajatasattu. Có khi vua
đến một mình. Để xe tứ mã và quân hầu phía ngoài tu viện, vua đi bộ vào tịnh xá
của vị đại sa môn.
Có một
hôm thấy các vị khất sĩ ngồi trong mưa để nghe giảng, vua bạch với Bụt xin xây
cất một Pháp đường trong đó chư vị xuất gia có thể thọ trai và nghe Pháp. Được
sự chấp thuận của Bụt. Pháp đường được xây dựng ngay sau cuộc viếng thăm của
vua. Pháp đường không những che mưa nắng cho trên một ngàn vị xuất gia mà còn
che mưa nắng được cho khoảng một ngàn vị đệ tử cư sĩ nữa. Từ hôm Pháp đường
được xây dựng xong, đời sống của tu viện đã bắt đầu có đủ tiện nghi.
Bụt đưa
vua vào thăm tịnh xá bằng tre của mình và mời vua ngồi thử trên chiếc chõng tre
của Bụt. Thầy thị giả của Bụt cũng đã đóng cho Bụt hai chiếc ghế bằng tre để
Bụt tiếp khách. Một hôm Bụt mời vua ngồi chơi với Bụt trên những chiếc ghế tre
đặt trước tịnh xá. Sau một hồi đàm đạo, vua tâm sự:
- Trẫm
có một đứa con trai khác mà Bụt chưa gặp. Trẫm rất muốn nó và mẹ nó tới thăm
ngài. Thưa Thế Tôn, mẹ nó không phải là hoàng hậu Vedehi. Mẹ nó tên là
Ambapali, nó tên là Jivaka, năm nay mười sáu tuổi. Mẹ nó cư trú tại Vesali,
phía Bắc thành phố Pataliputta. Ambapali không ưa đời sống chật hẹp trong cung
cấm. Ambapali không màng chức tước và địa vị. Nàng chỉ thích tự do. Trẫm đã ban
cho hai mẹ con mấy cơ sở tự túc kinh tế, trong đó có một vườn Xoài rất đẹp.
Jivaka rất thông minh và đôn hậu. Jivaka cũng không thích chính trị và quyền
binh. Hiện nó đang ở gần thủ đô và đang học nghề y sĩ.
Trẫm
thương nó lắm, cầu xin Bụt thương nó như trẫm đã thương. Nếu được đức Từ Bi
chấp nhận, trẫm sẽ bảo nó về đây thăm ngài và để được học hỏi với ngài.
Bụt mỉm
cười lặng thinh, đó là dấu hiệu người ưng thuận. Vua chắp tay chào Bụt và từ
giã.
Một buổi
chiều hôm nọ, có hai người khách đặc biệt tới viếng Bụt ở tu viện Trúc Lâm. Hai
người ấy đến từ quê hương của Bụt, kinh đô Kapilavatthu.
Đó là
Kaludayi và Channa. Kaludayi là bạn học từ thuở bé của Bụt, và Channa là người
ngày xưa thường đánh xe đưa Bụt đi. Cuộc gặp gỡ này làm ấm cả Trúc Lâm tịnh xá.
Bụt xa
nhà đã bay năm, và người rất muốn được nghe tin tức nhà. Người hỏi thăm
Kaludayi về phụ vương, hoàng hậu, Yasodhara, Nanda, Sundari Nanda, Rahula và
tất cả những người thân thuộc. Kaludayi tuy còn rất khỏe nhưng nét mặt đã dạn
dày gió bụi. Channa thì đã già hẳn đi. Hai người được Bụt tiếp chuyện rất lâu
trước túp lều tranh của người. Kaludayi đã có chức tước quan trọng trong triều
và đã trở nên một trong những người phụ tá thân tín của vua Sudhodana. Ông nói
là tin Bụt thành đạo và đang hằng hóa ở vương quốc Magadha đã được chuyển về
Kapilavatthu liên tiếp từ hai tháng nay. Ai nghe tin này cũng mừng rỡ. Mừng rỡ
nhất là vua, hoàng hậu, và Gopa. Khi nguồn tin đã được liên tiếp xác nhận, vua
đã ủy thác cho Kaludayi đi mời Bụt trở về quê hương. Kaludayi rất sung sướng
được vua giao cho trách vụ này. Ông để ra ba hôm để chuẩn bị chuyến đi, và suốt
cả mấy đêm ông không ngủ được vì náo nức trong dạ. Ông đã qua thăm Yasodhara để
trình bày với phu nhân về chuyến đi. Phu nhân mừng rỡ và đề nghị cho Channa đi
theo. Khi được báo tin là sẽ được cùng thượng quan Kaludayi đi mời Bụt, Channa
đã mừng rơi nước mắt. Hai thầy tớ đã đi gần một tháng mới tới được tu viện Trúc
Lâm.
Theo lời
Kaludayi thì sức khỏe phụ vương đã có phần suy giảm. Ngài vẫn còn sáng suốt, và
hiện nay ngài có đủ người phụ tá giỏi trong công việc triều chính. Hoàng hậu
Gotami vẫn còn rất tráng kiện. Hoàng tử Nanda đã lớn và đã đính ước vói một
tiểu thư con nhà dòng dõi tên là Kalyani. Nanda rất đẹp trai và rất ưa chưng
diện, nhưng tính tình không được cương nghị cho mấy.
Sundari
Nanda em gái Bụt đã trở nên một cô thiếu nữ kiều diễm. Phu nhân Yasodhara thì
từ ngày Bụt đi đã bỏ hết mọi đồ trang sức. Bà ăn mặc rất giản dị, bao nhiêu vật
quý giá trong cung bà đã cho đem bán hết để lấy tiền giúp vốn cho những gia
đình túng quẩn nhất ở các xóm nghèo. Nghe nói Bụt mỗi ngày chỉ ăn một bữa, bà
cũng bắt đầu mỗi ngày chỉ ăn một bữa Bà vẫn còn làm việc từ thiện xã hội như xưa
với sự góp sức của hoàng hậu Gotami.
Rahula
đã trở thành một cậu bé bảy tuổi xinh đẹp, mạnh khỏe, hai mắt đen láy, thông
minh và quả cảm. Rahula rất được ông nội và bà nội cưng quý, cưng quý không
khác gì cưng quý Siddhatta ngày xưa.
Những
điều Kaludayi đã nói được người đánh xe Channa xác định. Bụt ngồi nghe và cảm
thấy rất ấm lòng. Cuối cùng, Kaludayi hỏi Bụt chừng nào người có thể lên đường
trở lại quê hương, Bụt nói:
- Đầu
mùa Xuân, tôi sẽ về. Bây giờ là đang là mùa mưa, việc du hành đã trở nên không
thuận lợi. Với lại trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ, có rất nhiều
vị còn non yếu trên con đường thực tập. Sau mùa an cư này họ sẽ vững vàng hơn,
và tôi có thể an tâm hơn để ra đi.
Kaludayi!
Bạn hãy ở lại đây chơi một tháng, Channa cũng vậy. Sau đó các vị có thể về nước
và báo tin cho phụ vương ta hay là đầu mùa Xuân ta sẽ lên đường trở lại quê
hương.
Kaludayi
và Channa lưu lại tu viện Trúc Lâm như người người khách. Họ làm quen với các
vị khất sĩ. Họ thấy được nếp sống thanh tịnh an lạc của người xuất gia. Họ thấy
được ảnh hưởng của đạo giải thoát trên tâm hồn và trong nếp sống hàng ngày của
người xuất gia. Kaludayi ngày nào cũng được gần Bụt. Ông quán sát Bụt rất kỹ.
Ông thấy được sự thảnh thơi mầu nhiệm của Bụt. Con người này đã đạt tới chỗ
không còn mong muốn hay tìm cầu một cái gì khác nữa. Bụt như một con cá thảnh
thơi trong nước, như một đám mây thảnh thơi trên trời. Người hoàn toàn an trú
trong hiện tại. Cái nhìn và nụ cưòi của Bụt chứng minh rằng Bụt đã đạt tới tự
do tuyệt đối của tâm linh. Không còn gì có thể ràng buộc được con người này,
nhưng cũng không ai có được sự hiểu biết và lòng thương yêu rộng lớn và không
điều kiện của người. Kaludayi thấy người bạn học năm xưa đã bỏ mình xa quá trên
con đường tâm linh. Ông bỗng ao ước được sống đời sống tịnh lạc của một kẻ xuất
gia dưới sự hướng dẫn của Bụt. Ông muốn bỏ hết địa vị, chức tước và những lo
lắng phiền muộn của cuộc sống lợi danh. Sau ngày thứ bảy cư trú tại Trúc Lâm,
ông ngõ ý xin Bụt xuất gia. Bụt hơi tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng người đã gật đầu
ưng thuận.
Channa
là một người hầu cận rất trung thành. Thấy Kaludayi được xuất gia, ông cũng
muốn được xuất gia. Nhưng ông nghĩ rằng ông không thể xuất gia nếu không được
phép lệnh bà Yasodhara trước. Vì vậy ông tự bảo phải chờ đến khi Bụt trở về
Kapilavatthu.
---o0o---
Chương 32
NGÓN TAY CHỈ MẶT TRĂNG
Một buổi
chiều nọ, hai vị đại đức Sariputta và Moggallana đến thăm Bụt nơi tịnh xá của
người và giới thiệu với Bụt một người quen thân của họ, du sĩ Dighanakha. Du sĩ
Diganakha không phải là đệ tử của đạo sĩ Sanjaya nhưng cũng rất nổi tiếng,
Dighanakha là cậu ruột của đại đức Sariputta. Nghe nói hai người thân nhất của
mình đã xuất gia theo Bụt, ông tìm tới để hỏi thăm Bụt về giáo pháp của người.
Thay vì mô tả và tường thuật, hai vị đưa ông đến trực tiếp gặp Bụt.
Diganakha
nói vói Bụt:
- Sa môn
Gotama, ngài dạy giáo pháp gì? Chủ thuyết của ngài là chủ thuyết nào? Riêng
tôi, tôi không thích một chủ trương hay một lý thuyết nào hết.
Tôi
không tin vào một chủ trương hay một lý thuyết nào hết.
Bụt mỉm
cười hỏi:
- Vậy
ngài có thích cái chủ trương “không thích” của ngài không? Ngài có tin cái chủ
trương “không tin” của ngài không?
Vị du sĩ
ngỡ ngàng. Ông ta nói liều:
- Sa môn
Gotama, tôi thích hay không thích, tôi tin hay không tin, thì cũng như vậy
thôi, điều đó không quan hệ gì mấy.
Bụt từ
tốn:
- Một
khi đã bị kẹt vào một chủ thuyết rồi thì người ta mất hết tự do, người ta trở
nên độc đoán, cho rằng chỉ có chủ thuyết của mình mới là chân lý còn tất cả
những chủ thuyết khác đều là tà đạo. Những tranh chấp và cãi cọ được phát sinh
từ thái độ cố chấp này. Những tranh chấp và cãi cọ ấy có thể kéo dài bất tuyệt,
làm mất rất nhiều thì giờ quý báu và có thể tạo ra xung đột và chiến tranh. Vì
vậy cho nên kiến thủ là trở ngại lớn lao nhất trên con đường tu học.
- Kiến
thủ là gì?
- Kiến
là nhận thức, là quan điểm. Thủ là sự cố chấp. Kiến thủ là cố chấp vào một nhận
thức hay một quan điểm. Cố chấp như vậy là bị kẹt, vì bị kẹt cho nên cánh cửa
chân lý không còn cơ hội mở ra cho mình nữa.
Này ông
bạn, để tôi kể cho ông bạn nghe câu chuyện này. Có một người lái buôn góa vợ
kia đang sống với một đứa con trai năm tuổi. Anh ta cưng chiều con, xem đứa nhỏ
là lẽ sống của đời mình. Một bữa nọ trong khi anh ta bỏ hàng đi vắng, kẻ cướp
đến đốt xóm đốt làng, cướp bóc và bắt đứa con của anh đi theo. Khi về tới nơi,
người cha trẻ thấy thi hài một em bé cháy đen nằm bên căn nhà đã cháy rụi của
mình, anh ta tin ngay rằng con mình đã chết. Anh ta khóc lóc, làm lễ hỏa thiêu
thân xác đứa bé, vì thương con quá, anh ta cất tro của đứa bé vào một cái túi
gấm và đi đâu cũng mang theo bên mình. Mấy tháng sau, đứa con của anh ta thoát
được tay ke cướp và tìm về được vào lúc nửa đêm Nó gõ cửa đòi vào. Lúc ấy người
cha trẻ đang ôm chiếc túi gấm đựng tro và than khóc một mình. Anh ta không chịu
đứng dậy mở cửa. Anh ta tin rằng con anh đã chết thật rồi, và đứa trẻ đang gõ
cửa ngoài kia là một đứa trẻ hàng xóm mất dạy nào đó đang cố tình trêu ghẹo
anh. Vì vậy mà đứa con thật của anh ta phải thất thểu ra đi, và người cha khốn
khổ kia vĩnh viễn mất đứa con duy nhất.
Này ông
bạn, nếu ta cố chấp vào một chủ nghĩa và cho đó là chân lý tuyệt đối, ta sẽ lâm
vào tình trạng của người cha trẻ kia. Ta sẽ không mở lòng ta ra được để đón
nhận chân lý. Ta sẽ có cảm tưởng rằng ta không cần đi tìm sự thật nữa, vì ta đã
có sự thật rồi. Lúc ấy nếu sự thật có tới gõ cửa tìm ta, ta cũng sẽ từ chối
không mở cửa.
Diganakha
hỏi:
- Vậy
giáo pháp của ngài dạy có phải là một chủ nghĩa không? Cố chấp vào nó có phải
là kiến thủ không?
- Giáo
pháp của tôi chỉ dạy không phải là một chủ nghĩa hay một lý thuyết.
Nó không
hình thành do công phu suy tư và ức đạt của trí năng, như những chủ thuyết chủ
trương về bản chất của vũ trụ, cho rằng bản chất ấy là lửa, nước, là đất, là
gió hay là thần linh hoặc cho rằng vũ trụ hữu hạn hay vô hạn, hữu biên hay vô
cùng v.v... Trí năng ức đạt và suy tư về sự thật cũng như con kiến bò quanh
miệng bình bát không đưa ta đi đến đâu cả. Không, giáo pháp của tôi dạy không
phải là một chủ thuyết xây dựng trên trí năng. Đó là kinh nghiệm thực chứng,
những gì tôi nói ra tôi đều đã thực chứng, và ông bạn cũng có thể kiểm điểm lại
bằng kinh nghiệm thực chứng của ông bạn.
Tôi nói
vạn vật là vô thường và không có tư ngã. Điều này tôi đã chứng nghiệm và các
bạn cũng có thể chứng nghiệm. Tôi nói vạn vật nương vào nhau mà sinh khởi, tồn
tại, và hoại diệt, chứ không phải xuất phát từ một nguyên nhân đầu tiên nào
hết. Điều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng nghiệm. Tôi
nói quán chiếu về vô thường, vô ngã và duyên sinh thì có thể đạt tới giải thoát
và an lạc. Điều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng
nghiệm. Những điều tôi nói không có mục đích thuyết minh về vũ trụ mà chỉ có
mục đích hướng dẫn sự thực tập và chứng nghiệm thực tại. Lời nói không diễn tã được
thực tại, chỉ có kinh nghiệm trực tiếp mới làm cho ta tiếp xúc được với thực
tại.
Diganakha
thốt lên:
- Hay
quá, hay quá, sa môn Gotama! Nhưng trong trường hợp mà có người nhận thức giáo
pháp của ngài như một chủ thuyết thì sao?
Bụt im
lặng gật đầu:
- Du sĩ
Diganakha, câu hỏi của ông bạn hay lắm. Giáo pháp của tôi không phải là một chủ
thuyết do trí năng tạo dựng, nhưng sau này và ngay cả bây giờ nữa, đã có thể có
những người nhận giáo pháp ấy như một chủ thuyết.
Tôi cần
nói rõ: giáo pháp của tôi là một phương tiện để đi vào thực tại chứ không phải
là để miêu tả thực tại, cũng như ngón tay chỉ lên mặt trăng không phải là mặt
trăng. Người khôn khéo phải nương vào ngón tay để thấy được mặt trăng. Nếu cố
chấp vào ngón tay, nếu cho ngón tay là mặt trăng thì sẽ không có cơ hội nào
thấy được mặt trăng cả. Giáo pháp của tôi là để thực tập chứ không phải là để
cất giữ mà thờ phụng và ca ngợi. Chiếc bè là để giúp ta qua sông chứ không phải
để ta vác lên trên vai mà tự hào. Này các bạn, giáo pháp tôi dạy cũng như một
chiếc bè. Phải sử dụng nó để đi sang bên bờ bên kia, bờ giải thoát.
- Xin
Bụt chỉ bày cho tôi con đường có thể vượt thoát được những cảm thọ sầu khổ.
- Cảm
thọ có ba loại: cảm thọ dễ chịu, cảm thọ khó chịu và cảm thọ không dễ chịu cũng
như không khó chịu. Cả ba loại cảm thọ đều có gốc rễ hoặc trong thân thể hoặc
trong tâm ý và nhận thức. Cảm thọ có sinh có diệt như bất cứ hiện tượng tâm vật
lý nào. Phương pháp tôi chỉ bày là phương pháp quán chiếu. Quán chiếu để có thể
thấy được bản chất và nguồn gốc của các cảm thọ, dù là lạc thọ, khổ thọ hay xả
thọ. Thấy được nguồn gốc của các cảm thọ rồi, ta sẽ thấy được bản chất của cảm
thọ. Ta sẽ thấy cảm thọ cũng có tánh vô thường và vô ngã như tất cả các pháp
khác. Sự sinh diệt của chúng dần dần sẽ không động được tới ta. Hầu hết các cảm
thọ khổ đau của ta đều bắt nguồn từ nhận thức sai lầm của ta về thực tại. Nhổ
bật gốc rễ của những sai lầm ấy lên thì khổ thọ không còn. Các vị nên biết:
nhận thức của con người đầy dẫy sai lầm. Vạn pháp vô thường mà cho là thường,
vạn pháp vô ngã mà cho là ngã. Đó là vô minh. Vô minh là nguồn gốc của khổ đau.
Tu tập
đạo giải thoát tức là diệt trừ vô minh của nhận thức. Điều này quý vị chỉ có
thể thực tập bằng phép quán chiếu chứ không thể thực tập bằng cách cầu nguyện
và tế tự.
Trong
khi Bụt nói, các đại đức Sariputta và Moggallana đều có mặt. Họ đứng sau lưng
người. Kaludayi cũng có mặt. Thầy thị giả Nagasamala cũng có mặt. Channa cũng
có mặt, nhưng người thấu đạt sâu sắc những những lời Bụt nói là đại đức
Sariputta. Thầy thấy tâm trí thầy sáng lên như có một mặt trời tỏa chiếu. Không
ngăn được xúc cảm, thầy chắp tay sụp lạy xuống trước mặt Bụt.
Moggallana
cũng cảm động không kém. Thấy bạn lạy xuống, thầy cũng lạy xuống. Du sĩ
Diganakha đã thấy thấm thía từ lúc Bụt kể chuyện người cha trẻ mất con, bây giờ
được hoàn toàn chinh phục. Thấy hai bạn lạy xuống, ông cũng lạy xuống. Ông xin
Bụt được xuất gia theo học với người.
Kaludayi
và Channa được chứng kiến cảnh tượng này rất lấy làm cảm động.
Trong họ
nảy sinh vừa niềm tin tưởng vừa sự tự hào.
Mấy hôm
sau đó, hoàng hậu Vedehi cùng người của hoàng gia đưa thực phẩm đến cúng dường
đại chúng. Hoàng hậu lại đem theo cả một cây bông sứ để trồng phía bên trái túp
lều của Bụt. Hoàng hậu nhớ mãi câu chuyện tiền thân về cây bông sứ mà Bụt đã kể
cho trẻ em trại sân rồng hơn một tháng trước.
Dưới sự
hướng dẫn của Bụt, đại chúng tu học rất tinh tiến và đạt được rất nhiều tiến
bộ. Các đại đức Sariputta và Moggallana đã trở nên những ngôi sao sáng nhờ sự
thông minh, công phu hành trì và tài lãnh đạo của họ. Cùng với các vị đại đức
khác như Kondanna và Kassapa, họ giúp Bụt tổ chức và hướng dẫn tăng đoàn một
cách rất hữu hiệu. Uy tín của tăng đoàn càng ngày càng lên cao và vì vậy tại
thủ đô Rajagaha đã bắt đầu có một luồng dư luận nói xấu Bụt. Nguồn dư luận này
có thể đã phát xuất từ những giáo phái có tư tưởng cạnh tranh. Các vị đệ tử tại
gia đến tu viện Trúc Lâm để cúng dường và học hỏi thỉnh thoảng lại nói đến
nguồn dư luận này. Người ta đồn đãi rằng từ khi Bụt đến thành Vương Xá, người đã
quyến rũ hàng ngàn người thanh niên tuấn tú theo một đạo mới. Họ nói không biết
sau này bao nhiêu ngàn người con trai nữa sẽ bỏ nhà bỏ cửa theo Bụt, và bao
nhiêu người con gái lớn lên sẽ không lập được gia đình và nối dõi được tổ tông.
Một số
các vị khất sĩ không mấy hài lòng khi nghe những lời buộc tội này.
Rốt cuộc
tiếng đồn tới được tai Bụt. Bụt an ủi các vị khất sĩ và các vị đệ tử tại gia:
“Quý vị
đừng phiền muộn về những lời đồn đãi đó. Những lời đồn đãi đó trước sau gì cũng
sẽ im bặt”.
Mà đúng
như thế. Chỉ trong vòng nửa tháng sau, không ai còn nói đến luồng dư luận kia
nữa.
---o0o---
Chương 33
CÁI ĐẸP KHÔNG TÀN HOẠI
Một hôm
nọ, khi mùa an cư chỉ còn nửa tháng nữa thì được hoàn mãn, có một người thiếu
phụ rất đẹp đến viếng thăm Bụt. Người thiếu phụ này đi xe song mã. Hai con ngựa
đều trắng và xe cũng sơn màu trắng. Thiếu phụ bước xuống xe cùng với một chàng
con trai khoảng mưòi lăm hay mười sáu tuổi.
Thiếu
phụ trang sức cực kỳ lộng lẫy và dáng đi rất quý phái. Tại cổng tu viện bà gặp
một vị khất sĩ trẻ tuổi và hỏi thăm về Bụt. Vị khất sĩ này hương dẫn bà và cậu
thanh niên vào đến tận túp lều của Bụt. Bụt không có đó.
Người
đang đi thiền hành. Vị khất sĩ mời thiếu phụ và cậu con trai ngồi xuống trên
hai chiếc ghế tre đặt trước sân tịnh xá. Chiếc ghế thứ ba là để Bụt ngồi.
Một lát
sau Bụt về tới, cùng với Kaludayi, Sariputta và thầy thị giả. Thiếu phụ và cậu
con trai cùng đứng dậy vái chào người. Bụt mời hai mẹ con an tọa. Người cùng
ngồi xuống chiếc ghế đặt sẵn cho người. Người biết đây là ca nương Ambapati và
cậu con trai là Jivaka.
Kaludayi
chưa bao giờ thấy một người đàn bà đẹp như thế và duyên dáng như thế. Thầy chỉ
mới đi tu được có một tháng nên thầy bỡ ngỡ, không biết nhìn ngắm một người đàn
bà đẹp như vậy thì có đúng phép không. Nghĩ như vậy, thầy nhìn xuống đất. Thầy
thị giả Nagsamala cũng có phản ứng giống hệt như vậy. Cả hai thầy đều nhìn
xuống đất. Duy chỉ có Bụt và Sariputta là nhìn thẳng vào mặt thiếu phụ mà thôi.
Sariputta
nhìn thiếu phụ rồi xoay sang nhìn Bụt. Thấy sắc diện của Bụt không khác gì sắc
diện của một mặt trăng rằm, tự nhiên, hiền lành, trong sáng. Phút chốc, thầy
cảm thấy cái tự tại và an lạc của Bụt thấm vào lòng thầy.
Thiếu
phụ có tên là Ambapati cũng đang nhìn Bụt. Bà chưa thấy ai nhìn bà như vậy bao
giờ. Từ xưa tới nay mỗi khi có một người đàn ông hay một thanh niên nhìn bà, bà
đều thấy trong ánh mắt người đó hoặc một thoáng bối rối, hoặc một thoáng ao
ước, hoặc một dự tính chiếm hữu. Bụt đang nhìn bà như đang nhìn một đám mây,
một dòng sông hay một bông hoa. Hình như người thấy được tận trong chiều sâu
thẳm của tâm hồn bà.
Ambapali
chắp tay bạch Bụt:
- Con là
Ambapali, và đây là con trai của con, Jivaka, năm nay mười lăm tuổi. Cháu nó
đang học nghề y, con đã được nghe nói về thầy và con rất ao ước cháu sẽ được có
duyên tới học hỏi cùng thầy.
Bụt hỏi
thăm Jivaka về chuyện học văn và đời sống của chàng, Jivaka trả lời rất lễ
phép. Đây là một chàng trai đôn hậu, hiền lành và thông minh. Cùng cha khác mẹ
với thái tử Ajatasattu, nhưng chàng trông có đức độ hơn và cũng có vẻ thông
minh hơn. Sau một vài câu chuyện với Bụt, Jivaka bỗng thấy trào dâng trong lòng
một mối cảm tình sâu đậm đối với ông thầy tu này.
Chàng tự
hẹn là sau khi học xong nghề thuốc chàng sẽ xin ở gần bên Bụt.
Ambapali
đã tưởng rằng Bụt chỉ là một ông thầy tu nổi tiếng như những ông thầy tu nổi
tiếng khác mà bà đã gặp, nhưng không, bà chưa từng gặp một người nào như Bụt.
Bà chưa từng thấy ai có cái nhân cách như nhân cách Bụt. Cái nhìn của Bụt hiền
dịu làm sao. Bà có cảm tưởng là bà không cần than thở gì với Bụt mà Bụt vẫn
thấy và hiểu được những niềm khổ đau sâu kín trong tâm bà. Được nhìn Bụt và
được Bụt nhìn như thế, bà đã thấy vơi bớt rất nhiều nỗi khổ. Một giọt nước mắt
ứa ra trên khóe mi bà. Bà nói:
- Lạy
thầy, đời con khổ lắm. Tuy rằng con không thiếu thốn gì trên phương diện tiền
của và vật chất nhưng con chưa bao giờ có được một niềm tin.
Hôm nay
là ngày sung sướng nhất của đời con.
Ambapali
là ca nhi, nhưng nàng không hát cho bất cứ ai muốn nghe nàng hát. Những người
mà nàng không ưa hoặc nàng nhận thấy thiếu phong độ và tư cách thì dù có đem
đến cả trăm vạn đồng nàng cũng từ chối. Từ năm mười sáu tuổi, nàng đã gặp một
cuộc tình trắc trở. Sau đó, nàng đã gặp vua Bimbisara khi vua còn là thái tử.
Có những người trong triều đã không muốn hoàng gia công nhận Jivaka là con của
thái tử. Họ nói Jivaka là con hoang mà thái tử bắt gặp ở trong một cái thúng để
ở bên vệ đường. Điều này cũng đã làm cho Ambapali đau khổ. Nàng đã gánh chịu
rất nhiều khổ đau vì ghen ghét và vì thù hận. Nàng trân quý tự do như bảo vật
duy nhất còn lại trong đời, cho nên từ ấy đến nay không ai và chưa ai trói buộc
được nàng.
Bụt dạy:
- Nhan
sắc cũng chịu luật sinh diệt và cũng sẽ tàn phai như bao nhiêu hiện tượng khác.
Của cải và sự giàu sang cũng vậy Chỉ có niềm an lạc và cái tự do công phu quán
chiếu đem tới mới là niềm vui chân thật mà thôi. Này Ambapali, đã đến lúc con
phải tập đời sống tỉnh thức an lạc. Phải trân quý từng giây phút còn lại của
đời mình, đừng lãng phí chúng trong sự vui chơi quên lãng. Điều này rất quan trọng
cho con và cho Jivaka.
Rồi Bụt
dạy cho Ambapali cách tổ chức lại đời sống hàng ngày, cách hành trì năm giới,
cách thở, cách ngồi, cách sử dụng thì giờ, cách cúng dường và làm việc phúc
thiện. Ambapali sung sướng ngồi nghe những lời dạy quý báu của Bụt. Cuối cùng
trước khi từ giã Bụt, bà nói:
- Tại
ngoại ô thành Vesali, con có một vưòn xoài rất mát và rất thanh tịnh.
Con mong
có ngày đi hoằng hóa ngang đó, Bụt và chư vị khất sĩ sẽ ghé nơi ấy để nghỉ
ngơi. Đây sẽ là một vinh hạnh lớn cho con và cho Jivaka. Kính xin đức Từ Bi
hoan hỷ nhận lời cho con.
Bụt mỉm
cười nhận lời.
Ambapali
đi rồi, thầy Kaludayi xin phép được ngồi xuống bên Bụt. Thầy thị giả cũng mời
đại đức Sariputta ngồi xuống trên chiếc ghé còn lại, còn thầy thì vòng tay đứng
hầu sau lưng Bụt. Một số các vị khất sĩ đang đi thiền hành gần đấy thấy khung
cảnh ấm cúng cũng ghé vào. Đại đức Sariputta mỉm cười nhìn Kaludayi, rồi nhìn
thầy thị giả Nagasamala. Cuối cùng thầy hỏi Bụt:
- Lạy
đức Thế Tôn, người tu hành nên có thái độ nào đối với nữ sắc? Cái đẹp, nhất là
nữ sắc, có phải là một trở ngại cho công phu tu tập không?
Bụt mỉm
cười. Người biết Sariputta hỏi câu hỏi này không phải là để cho bản thân thầy
mà là cho các thầy khác. Người nói:
- Các vị
khất sĩ, tự tính của vạn pháp vượt ra ngoài ý niệm đẹp và xấu. Đẹp và xấu là
những ý niệm tạo ra do tri giác và nhận thức dung thường.
Đứng về
tục để mà nói, ta thấy có đẹp và có xấu. Đẹp và xấu tùy thuộc rất nhiều vào cơ
cấu của năm uẩn. Đối với con mắt của người nghệ sĩ, cái gì cũng có thể đẹp và
cái gì cũng có thể xấu, một dòng sông, một đám mây, một chiếc lá, một bông hoa,
một tia nắng sớm hay một buổi chiều vàng đều có thể có cái đẹp riêng của nó.
Những bụi tre vàng xung quanh đây cũng có những vẻ đẹp riêng của chúng, Nhưng
chưa có cái đẹp nào có thể trói buộc và làm tiêu ma chí khí của một kẻ nam nhi
bằng nữ sắc. Tham đắm vào nữ sắc rồi thì chí nguyện có lớn lao đến mấy và sự
nghiệp có lẫy lừng đến mấy cũng có thể bị tàn hại. Vì vậy tôi muốn căn dặn quý
vị hãy rất cẩn thận đối với nữ sắc.
Đối với
những người đã quán chiếu và đạt đạo, cái đẹp vẫn là cái đẹp, những vị đã đạt
tới giải thoát và tự do, họ không còn bị cái đẹp hay cái xấu khống chế nữa.
Không phải là họ dửng dưng không thấy cái đẹp; sự thực là họ không bị nô lệ cho
cái đẹp. Nhìn vào cái đẹp, họ thấy được những cái không đẹp đã góp phần làm ra
cái đẹp. Nhìn vào cái xấu, họ thấy được những cái không xấu đã góp phần làm ra
cái xấu. Họ thấy được tính cách vô thường của vạn pháp, đẹp cũng như xấu, vì
vậy họ không bị cái xấu làm cho chán nản cũng không bị cái đẹp làm cho đam mê.
Đối với những người tu hành chưa đủ công phu quán chiếu, chưa có được bản lĩnh
nhận thức, tôi muốn khuyên họ đừng gần gũi nữ sắc. Những vị này phải để hết thì
giờ vào việc học hỏi và thiền tập.
Chỉ có
một cái đẹp không bao giờ tàn hoại và không gây khổ đau: đó là lòng từ bi và
tâm giải thoát. Từ bi là thứ tình thương không có điều kiện và không cần sự đền
trả. Tâm giải thoát cũng là thứ tâm không thối chuyển, như con gà con một khi
ra khỏi vỏ trứng rồi thì không còn chun trở lại nằm trong vỏ trứng nữa. Đã
không còn lệ thuộc vào điều kiện cho nên cái đẹp của lòng từ bi và tâm giải
thoát là cái đẹp chân thực, và niềm an lạc do cái đẹp ấy cống hiến cũng do đó
mà là thứ an lạc chân thực. Này các vị khất sĩ, các vị hãy tinh tiến mà thực
hiện cho được cái đẹp ấy.
Kaludayi
và các vị khất sĩ có mặt đều rất sung sướng được nghe lời Bụt dạy.
Mùa an
cư đã được hoàn mãn. Bụt cho gọi Kaludayi và Channa, và đề nghị hai người về
Kapilavatthu trước một tháng để báo tin là Bụt sẽ về.
Kaludayi
lĩnh mệnh. Ngay ngày hôm đó thầy và Channa chuẩn bị cho chuyến hồi hương,
Kaludayi đã trở nên một kẻ xuất gia, có đủ uy nghi của một vị khất sĩ rồi. Ông
nghĩ thế nào khi về tới quê nhà ông cũng sẽ làm cho mọi người ngạc nhiên. Ông
vui mừng vì được giao trách vụ về báo tin mừng, nhưng ông cũng tiếc là thời
gian được học hỏi với Bụt tại Trúc Lâm còn ngắn ngủi quá.
---o0o---
Chương 3
MÙA XUÂN ĐOÀN TỤ
Công
viện Nigrodha ở về phía Nam Kapilavatthu, cách kinh thành non ba dặm đưòng, Bụt
và các các vị khất sĩ tùy tùng nghĩ tại đây, theo lời đề nghị của khất sĩ
Kaludayi. Đi theo Bụt về quê hương người có khoảng ba trăm vị khất sĩ do đại
đức Sariputta dẫn đầu. Đại đức Moggallana ở lại tu viện Trúc Lâm và cùng các vị
cao đức khác như Kondanna với ba anh em khất sĩ Kassapa lãnh đạo và duy trì nếp
sống tu học của tu viện.
Kaludayi
sau khi đã về báo tin cho vua, hoàng hậu và Yasodhara ngày về của Bụt, lại một
mình ôm bát ra đi. Lần này thầy không đi với Channa. Thầy đi một mình với tư
cách một du tăng, hướng về phương Nam để đón Bụt.
Thầy áp
dụng phép khất thực của giáo đoàn khất sĩ, ngày đi đêm nghỉ. Chỉ dừng lại các
thôn lạc vào giờ khất thực mà thôi. Tới đâu thầy cũng báo tin là thái tử
Siddhatta đi tu hành thành đạo sắp sửa trở về. Đi được chín hôm thì thầy gặp
Bụt và đoàn khất sĩ từ phương Nam đi lên. Mừng rỡ, thầy gia nhập phái đoàn và
cùng đi về hướng Băc. Bụt và giáo đoàn khất sĩ được tiếp đón niềm nỡ bất cứ nơi
nào ghé đến.
Về tới
Kapilavatthu Bụt và các vị khất sĩ nghỉ một đêm tại công viên Nigrodha. Sáng
hôm sau người ôm bát cùng tăng đoàn đi vào kinh thành khất thực.
Cảnh
tượng ba trăm vị khất sĩ khoác ca sa vàng, tay ôm bình bát, lặng lẽ và trang
nghiêm đi khất thực trong thành phố đã gây một ấn tượng lớn trong lòng người
thủ đô. Chẳng mấy chốc mà tin này được báo vào hoàng cung.
Vua
Suddhodana, hoàng hậu và phu nhân Yasodhara được báo rằng Siddhatta hiện đang ở
trong thành cùng đi xin ăn với hàng trăm vị khất sĩ khác. Vua truyền đánh xe
ngự ra để vua đi gặp thái tử. Hoàng hậu Prajapati hồi hộp chờ trong cung. Hai
mẹ con Rahula cũng hồi hộp chờ trong cung.
Xa giá
vừa ra tới phố Đông thì vua gặp được đoàn khất sĩ.
Siddhatta
có mặt trong đoàn khất sĩ ấy và vị võ quan hầu cận bên vua nhận ra ngay thái
tử.
- Tâu bệ
hạ, bệ hạ nhìn vị khất sĩ đi đầu, người mang chiếc ca sa dài màu hỏa hoàng kia.
Vua chợt
nhận ra người con của mình, dáng điệu của Bụt uy nghi, từ tốn, người Bụt như
tỏa chiếu hào quang. Bụt đang ôm bát đứng trước một ngôi nhà có vẻ nghèo nàn,
người đứng trang nghiêm và lặng lẽ, làm như việc xin ăn là việc quan trọng nhất
trong đời. Một lát sau, vua thấy một thiếu phụ ăn mặc rách rưới từ trong nhà đi
ra, trong tay chỉ có một củ khoai nhỏ. Thiếu phụ quỳ xuống dưới chân Bụt rồi
kính cẩn đặt củ khoai ấy trong bình bát của người. Bụt cũng kính cẩn không kém.
Người nghiêng mình đáp lễ thiếu phụ, rồi mới lặng lẽ giã từ, bước sang ngôi nhà
bên cạnh.
Xa giá
của vua còn cách Bụt khá xa, nhưng vua bảo ngừng xe để vua xuống đi bộ. Ngài đi
thẳng về phía Bụt. Bụt cũng vừa thấy vua. Hai người tiến lại gần nhau, đáng đi
của vua hấp tấp, nhưng dáng đi của Bụt vẫn thong dong.
-
Siddhatta! Vua thốt lên.
- Phụ
vương! Bụt trả lời.
Đại đức
Nagasala lúc ấy cũng vừa đi tới bên Bụt. Bụt trao chiếc bát của người cho thầy
thị giả. Người nắm lấy hai bàn tay của vua trong hai tay người. Mấy giọt nước
mắt ứa ra và chảy xuống trên gò má đã bắt đầu nhăn nheo của vua. Bụt nhìn vua,
hai mắt người bao phủ vua với một cái nhìn vừa dịu dàng vừa đầm ấm.
Vua biết
rằng Siddhatta con mình bây giờ đây không còn là một vị đông cung thái tử nữa
mà đã là một nhà tu, một vị lãnh đạo tinh thần. Vua muốn ôm Bụt vào lòng, nhưng
biết làm như vậy là không ổn. Cuối cùng vua chắp hai tay nghiêng mình trước
người con của mình, theo thể thức một vị quốc vương làm lễ một vị đạo sĩ. Vị võ
quan hầu cận cũng bắt chước vua chắp tay nghiêng mình làm lễ Bụt.
Lúc ấy
đại đức Sariputta cũng đã đi tới gần bên Bụt. Bụt nói với Sariputta:
- Tăng
đoàn khất thực xong, xin thầy hướng dẫn họ về công viên Nigrodha để thọ thực và
an nghỉ. Thầy Nagasamala sẽ đi theo tôi. Chúng tôi vào thăm hoàng gia và sẽ thọ
thực ở đấy. Chiều nay thầy Nagasamala và tôi sẽ trở về cùng quý vị.
Khất sĩ
Sariputta kính cẩn nhận lệnh của Bụt. Thầy nghiêng mình làm lễ vua và Bụt rồi
quay gót.
Vua nhìn
Bụt:
- Ta
tưởng con về tới là đi về thăm gia đình ngay. Ai ngờ con còn đi khất thực ngoài
phố. Tại sao con không về thẳng hoàng cung để ăn cơm?
Bụt mỉm
cười nhìn cha:
- Con
đâu có đi một mình. Con đi với cả giáo đoàn. Giáo đoàn các vị bikkhu, nghĩa là
những người khất sĩ. Con cũng là một vị khất sĩ như mọi người và vì vậy con
phải đi ăn xin như mọi người.
- Nhưng
tại sao con phải xin ăn tại những nhà nghèo hèn như thế? Dòng họ Sakya ta trong
bao nhiêu đời có ai làm như con không?
- Thưa
phụ vương, dòng họ Sakya thì không ai làm như thế, nhưng dòng họ khất sĩ thì ai
cũng làm như thế. Thưa phụ vương, đi khất thực là một phép tu nhằm thực hiện
tinh thần khiêm cung và bình đẳng. Khi con nhận một củ khoai của một gia đình
nghèo khổ, con cũng có thái độ cung kính như khi con nhận một món ăn sang trọng
do một vị đế vương cúng dường. Thái độ cung kính này chứng tỏ rằng con đã có
thể vượt ra khỏi sự phân biệt sang hèn, và cũng chứng tỏ rằng bất cứ ai dù
nghèo hèn đến mấy cũng có nhân phẩm và cũng có thể đạt tới giải thoát và giác
ngộ. Trong xã hội có nhiều sự chênh lệch về tài sản và quyền thế. Trong xã hội
có rất nhiều bất công.
Trong
đạo pháp mà con tìm ra, mọi người đều được hoàn toàn bình đẳng. Đi ăn xin như
thế này, con không làm cho nhân cách của con thấp thỏi đi mà trái lại, con làm
cho giá trị của tất cả mọi con người được sáng tỏ ra. Thưa phụ vương, con mong
phụ vương nghĩ tới một đường lối chính trị mà trong đó phẩm giá của mọi người
dân đều được tôn trọng.
Vua
Suddhodana há miệng nghe người con trai mình thuyết pháp. Những lời đồn đãi lâu
nay về Siddhatta thì ra đã là sự thật: con mình bây giờ đã trở nên một vị lãnh
đạo tinh thần, và đạo đức của con mình đã bắt đầu chiếu sáng khắp thế gian.
Cầm tay
vua, Bụt đua vua đi bộ về hoàng cung. Thầy Nagasamala cũng đi theo sau vua và
Bụt.
Trong
khi ấy đứng ở lan can trên một từng lầu nơi hoàng cung, hoàng hậu Gotami, công
nương Yasodhara và công chúa Sundari Nanda đã nhìn thấy hết tất cả những gì xảy
ra. Rahula cũng đang đứng gần đấy với một người thị nữ. Người thị nữ này trước
đây khi còn dọn dẹp trên lầu đã trong thấy tăng đoàn đang khất thực và đã chạy
xuống báo với hoàng hậu. Hoàng hậu dắt tay Sundari Nanda cùng Yasodhara lên
lầu. Từ trên cao, ba người nhận ra được Bụt đang dẫn đầu đoàn người khất sĩ,
rồi họ thấy xa giá của vua dừng lại và chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa vua và người
con trai lớn của ngài. Họ đã thấy vua vái chào Bụt theo nghi lễ cần có đối với
một vị đạo sĩ lớn.
Bây giờ
vua và Bụt đang tiến gần tới cửa hoàng cung. Yasodhara gọi Rahula lại. Một tay
nắm tay con, một tay chỉ xuống Bụt, bà bảo:
- Này
con yêu quý của mẹ, con có thấy ông thầy tu đang cầm tay ông Nội và đi vào cửa
hoàng cung đó không?
- Dạ con
có thấy, Rahula đáp.
- Ông
thầy tu ấy là cha của con đó. Con chạy xuống chào cha con đi. Cha con có gia
tài quý báu lám, cha con sẽ trao gia tài ấy cho con. Con xuống xin gia tài của
con đi.
Rahula
nghe lời mẹ, chạy xuống lầu. Trong khoảng khắc cậu đã xuống tới sân điện chầu.
Cậu chạy ra cửa hoàng cung, rồi cậu chạy lại với Bụt.
Bụt biết
ngay cậu bé đang chạy tới là Rahula. Người mở rộng hai tay ôm lấy cậu bé.
Rahula vừa thở hổn hển vừa nói:
Ông thầy
tu ơi, mẹ bảo xuống xin gia tài của ông thầy tu. Gia tài của con đâu, ông đưa
cho con đi.
Bụt vuốt
má Rahula. Người nói:
- Gia
tài của con hả? Thong thả rồi cha sẽ trao lại cho con.
Bụt nắm
lấy tay cậu bé. Người đi ở giữa, tay trái cầm tay Rahula, tay phải cầm tay vua
cha, và ba người tiến vào cung. Hoàng hậu Gotami, Yasodhara và Sundari Nanda
cũng hướng về phía cầu thang đi xuống.
Xuống
tới sân điện, ba người thấy vua, Bụt và Rahula đi rẽ vào vườn Thượng Uyển. Ba
người cũng đi theo lối ấy.
Trời mùa
Xuân nắng lên rất ấm áp. Ngoài vườn Thượng Uyển tất cả các loại hoa đều đang nở
rộ. Chim chóc ríu rít vang lừng. Bụt đưa vua và Rahula tới ngồi trên những
chiếc cẩm đôn. Thầy Nagasamala cũng được Bụt mời ngồi xuống trên một chiếc cẩm
đôn. Lúc ấy hoàng hậu Gotami, Yasodhara và Sundari Nanda bước vào vườn Ngự.
Bụt đứng
ngay dậy. Người đi tới phía ba người. Hoàng hậu Gotami, dáng dấp vẫn còn trẻ
trung và khỏe mạnh. Bà khoác áo sari màu lá tre xanh mát.
Gopa vẫn
xinh đẹp như tự thuở nào tuy nước da có hơi xanh. Chiếc sari nàng khoác trên
người màu trắng như tuyết. Nàng không đeo một thứ phục sức nào cả, còn cô em
gái Bụt năm nay mười sáu tuổi, đang vận sari màu vàng, mắt đen lay láy. Cả hai
vị phu nhân đều chắp tay búp sen trước ngực và cúi đầu rất thấp để chào Bụt. Họ
đã thấy quốc vương làm như thế và họ cũng bắt chước làm như thế. Bụt chắp tay
lại thành búp sen để đáp lễ. Người kêu lên hai tiếng:
- Mẹ!
Em!
Nghe
tiếng Bụt gọi. Bà Gotami và Yasodhara đều rơi nước mắt.
Bụt cầm
lấy tay hoàng hậu và đỡ bà ngồi xuống trên một cẩm đôn. Người hỏi:
- Em
Nanda của con đâu?
Hoàng
hậu nói:
- Em nó
đi tập võ, chắc cũng sắp về tới. Đây là em gái của con. Con thấy nó mau lớn
không?
Bụt nhìn
đứa em gái sau gần tám năm xa cách.
-
Sundari Nanda, em chóng lớn quá!
Bụt tiến
tới cầm lấy tay Yasodhara, Gopa cảm động đến run rẩy trong tay Bụt. Người đưa
bà tới ngồi xuống trên một chiếc cẩm đôn khác. Khi mọi người đã an tọa, Bụt mới
ngồi xuống trên chiếc cẩm đôn của người. Từ hồi nãy đến giờ vua không ngớt hỏi
thăm Bụt, nhưng bây giờ vua ngồi im lặng.
Mọi
người đều ngồi im lặng, kể cả chú Rahula. Bụt nhìn vua, nhìn hoàng hậu, nhìn
Yasodhara, rồi nhìn Sundari Nanda. Niềm vui đoàn tụ được biểu hiện trong mắt
của từng người. Cuối cùng, Bụt lên tiếng:
- Thưa
phụ vương, con đã về. Thưa mẹ, con đã về. Gopa, em thấy không, ta đã về với em.
Lúc ấy
hai người phụ nữ mới òa lên khóc.
Những
giọt nước của họ là những giọt nước mắt sung sướng. Bụt để yên cho họ khóc.
Người gọi Rahula tới ngồi bên cạnh người, và vuốt tóc chú bé.
Một lát
sau, lệnh bà Gotami lấy chéo áo sari lau khô nước mắt rồi mỉm cười nói với Bụt:
- Con đi
lâu quá. Như vậy là đã hơn bảy năm trời. Con biết không, Gopa là một người phụ
nữ rất can đảm.
Bụt nhìn
bà Gotami rồi nhìn Yasodhara. Người nói:
- Điều
này con thấy từ lâu rồi. Mẹ và Yasodhara là hai người phụ nữ can đảm nhất mà
con đã biết. Không những mẹ và Gopa đã gây dựng được ý chí cho người nam nhi,
mẹ và Gopa còn là mẫu mực của những người đàn bà đức hạnh nữa. Con có duyên
lành lắm mới có được mẹ và có được Gopa.
Yasodhara
bây giờ mới mỉm cười. Có mặt vua và hoàng hậu, bà ít khi dám lên tiếng nói
chuyện thân mật với Siddhatta.
Vua nói:
- Hồi
nãy con có kể sơ lược cho ta nghe về những năm con đi tìm thầy học đạo và tu
khổ hạnh. Bây giờ con có thể nhắc lại những điều đó được không, trước khi con
kể tiếp?
Vâng lời
phụ vương. Bụt kể sơ lược về những năm học đạo và hành đạo của mình. Người kể
lại cuộc gặp gỡ giữa người với vua nước Magadha, về ngày thành đạo, về những
đứa trẻ ở xóm nghèo Uruvela, về năm người bạn tu khổ hạnh, và về cuôc tiếp đón
vĩ đại của vua Bimbisara. Mọi người lắng nghe Bụt với tất cả sự chăm chú. Cả
Rahula cũng phát ra một tiếng động.
Khi Bụt
kể đến đoạn vua Bimbisara cúng dường Rừng Trúc, một cô thị nữ đi ra vườn Ngự và
đến gần hoàng hậu Gotami, cô cúi xuống thầm thì mấy câu bên tai hoàng hậu.
Hoàng hậu thầm thì mấy câu trả lời, rồi người thị nữ đi vào, bà đã ra lệnh cho
người thị nữ đặt bàn dọn cơm trưa hoàng gia ra ngoài vườn Ngự.
Tiếng
của Bụt đầm ấm. Người kể khái quát những gì đã xảy ra và không nói nhiều đến
các chi tiết. Người cũng không nói nhiều đến những gian truân khổ hạnh của
người. Nhưng người đã nhân câu chuyện mà gieo vào trong lòng những người thân
thuộc những hạt giống tốt lành của chánh pháp.
Khi cơm
nước đã được người hầu dọn ra đầy đủ ngoài vườn thì hoàng thái tử Nanda cũng
vừa đi du hành về tới. Chàng mặc võ phục màu trắng.
Quân gác
ở cửa thành đã cho Nanda biết là Bụt đã về, vì vậy Nada đã vội vàng chạy vào
cung. Không thấy ai, chàng hỏi người thị nữ. Thị nữ cho biết mọi người đang ở
ngoài vườn Ngự. Chàng ra vườn Ngự. Thấy Bụt, Nanda vội chạy đến chào mừng, Bụt
nắm tay em, người nói:
- Em lớn
mau lắm. Năm ta đi, em mới có mười lăm tuổi. Bây giờ em đã hai mươi hai rồi
phải không?
Nanda
gật dầu. Hoàng hậu nói:
- Con
phải chắp tay chào anh con theo cách chào một vị đạo sĩ. Con làm cho quen đi.
Nanda
vâng lời chắp hai tay trước ngực cúi đầu xá Bụt. Bụt cũng chắp tay lại đáp lễ
em.
Mọi
người quây quần quanh bàn ăn. Bụt đưa thầy Nagasamala tới ngồi gần bên mình.
Người hầu đem nước tới để mọi người rửa tay. Vua hỏi:
- Hồi
nãy hai thầy đã khất thực được những gì trong bát?
Bụt nhìn
vào bát mình rồi nhìn vào bát của thầy thị giả. Người nói:
- Con
chỉ mới xin được có một củ khoai, còn thầy Nagasamala chưa xin được gì hết.
Vua
Suddhodana đứng dậy:
- Vậy để
ta sẽ cúng dường hai thầy.
Vua đứng
dậy. Yasodhara cũng đứng dậy. Bà nói:
- Con
xin mang các thức ăn đến để phụ hoàng cúng dường vào bát các thầy.
Bà nâng
chậu cơm trắng giữa bàn lên trên hai tay rồi tiến đến bên cạnh thầy Nagasamala.
Sau khi
vua đã sớt cơm vào bát của thầy Nagasamala và của Bụt rồi, bà mới đặt chậu cơm
xuống và nâng vịm thức ăn lên. Vịm thức ăn này toàn là thức ăn chay nấu với
cari, thức ăn bốc lên thơm ngát. Cúng dường xong, vua ngồi xuống, Bụt và thầy
Nagasamala nâng bát lên mặc niệm. Ngồi quanh bàn, mọi người thấy thế cũng đều
giữ im lặng. Mọi người ăn cơn im lặng theo Bụt. Rahula ngồi trước bát thức ăn
do mẹ xới cho, cũng biết ăn cơm trong im lặng. Nắng càng ấm và tiếng ca hát của
loài chim càng vọng lên rộn rã hơn.
Cơm nước
xong, hoàng hậu thỉnh vua và Bụt rời bàn ăn trở về ngồi trên những chiếc cẩm
đôn. Người hầu cận dâng lên mỗi người một trái quít.
Ngoài
Rahula, ai cũng cầm trái quít trong tay mà không ăn, bởi vì ai cũng lắng tai
nghe Bụt kể chuyện. Phu nhân Gotami là người hỏi Bụt nhiều câu hỏi nhất. Khi
Bụt nói chuyện về túp lều của Bụt tại tu viện Trúc Lâm, vua có ý định cất cho
Bụt một tịnh thất như vậy ở công viên Nigrodha và một số các tịnh xá nhỏ khác
cho các vị đại đức lớn tuổi trong giáo đoàn. Vua ngỏ ý muốn Bụt ở lại vương
quốc lâu ngày để giáo hóa. Hoàng hậu Gotami, Yasodhara, Nanda và Sundari Nanda
ai cũng tỏ vẻ vui mừng khi nghe lời phát biểu của vua.
Bụt nói
đã đến lúc người cần trở về với tăng đoàn. Vua hỏi Bụt:
- Ta
muốn Bụt và tăng đoàn tới thọ trai trong hoàng cung. Con nghĩ điều ấy có tiện
không? Ta cũng muốn làm như vua nước Magadha mời các vương hầu và nhân sĩ đến
để được nghe con giảng bày về đạo lý.
Bụt cho
phụ vương biết là điều đó có thể làm được. Mọi người thảo luận và đồng ý rằng
trong bảy hôm nữa, hoàng gia sẽ thỉnh Bụt và tăng đoàn đến để cúng dường.
Yasodhara cũng tỏ ý muốn mời Bụt và đại đức Kaludayi tới thọ trai ở Đông Cung,
Bụt cũng nhận lời, nhưng người cho biết cần chờ đợi ít hôm sau ngày trai tăng
của đại chúng.
Vua
truyền đem xe tứ mã đưa Bụt về công viên Nigrodha, nhưng người từ chối. Người
nói người đã lập hạnh chỉ đi bộ mà thôi. Cả nhà đưa Bụt và thầy Nagasamala ra
tận cổng hoàng cung. Cả nhà kể cả ông hoàng bé Rahula đều theo gương vua chắp
tay trước ngực kính cẩn chào hai vị khất sĩ.
---o0o---
Chương 35
RA NHÌN TIA NẮNG SỚM
Tin thái
tử Siddhatta đi tu đắc đạo đã trở về được truyền đi rất mau trong thành
Kapilavatthu. Tin này được xác định bằng sự có mặt của giáo đoàn khất sĩ mỗi
buổi sáng ở thành phố và các vùng lân cận thủ đô. Nhiều người đã được trông
thấy cảnh tượng những đoàn khất sĩ lặng lẽ và trang nghiêm đi khất thực trên
các nẻo đường. Nhiều nhà đã học được cách thức cúng dường thực phẩm cho các vị
khất sĩ theo nghi lễ. Nhiều gia đình đã được nghe các vị khất sĩ thuyết pháp.
Quốc vương Suddhodana cũng đã ra lệnh dân chúng treo cờ kết hoa vào ngày rước
Bụt và giáo đoàn đến hoàng cung thọ trai. Vua cũng đã ra lệnh dựng lên những am
thất nhỏ rải rác trong công viên Nigrodha để che nắng che mưa cho Bụt và các vị
đệ tử lớn tuổi của người. Ngoài những người có phận sự đến xây dựng am thất, đã
có một số các người tìm tới tận công viên Nigrodha để thăm viếng và học hỏi với
Bụt và các vị khất sĩ. Nhiều người ở thủ đô quả quyết đã được gặp thái tử
Siddhatta trong hình thức tu sĩ trang nghiêm mang bình bát đi khất thực.
Trong
suốt cả tuần lễ, dân Kapilavatthu chỉ nói có một câu chuyện này khi dịp gặp gỡ
nhau.
Hai vị
phu nhân Gotami và Yasodhara cũng rất muốn lên vườn Nigrodha để thăm Bụt nhưng
họ không có thì giờ. Cả hai người đều phải lo điều động công việc tổ chức lễ
trai tăng. Vua đã cho mời hàng ngàn tân khách. Không những nhân vật trong giới
chính trị và văn hóa trong và ngoài hoàng gia được mời mà tất cả các giới lãnh
đạo tôn giáo và trí thức cũng đã được mời.
Theo lời
Bụt dặn, tất cả các thực phẩm cúng dường và thết đãi ngày hôm ấy sẽ đều là
những món chay tịnh.
Hoàng tử
Nanda đã lên thăm Bụt được hai lần vào hai buổi chiều. Chàng đã được ngồi với
Bụt khá lâu và được Bụt giảng dạy cho những điều căn bản của đạo lý tỉnh thức.
Nanda rất thương kính Bụt và rất mến nếp sống tịnh lạc của các vị khất sĩ.
Chàng có hỏi thăm về đời sống hàng ngày của các vị khất sĩ. Chàng lại hỏi Bụt
xem thấy chàng có đủ khả năng sống đời sống xuất gia không. Bụt chỉ mỉm cười
không trả lời. Nanda là một thanh niên có nhiều tình cảm nhưng chưa được vững
mạnh lắm về mặt ý chí. Khi ngồi với Bụt thì có ý muốn đi xuất gia, khi về đến
cung điện và nghĩ tới mỹ nhân Kalyani, vị hôn thê của mình thì chàng lại thấy
chàng chưa đi xuất gia được. Chàng tự hỏi không biết anh mình nghĩ gì về mình.
Ngày
trai tăng đã đến. Cả thủ đô treo cờ hết hoa để đón Bụt và tăng đoàn.
Hoàng
thành cũng được treo cờ kết hoa bốn phía. Cả thủ đô tưng bừng chuẩn bị đón rước
người hùng của cả nước. Nhiều nơi trong thành phố, thiên hạ mở hội vũ nhạc.
Trên con đường mà Bụt và tăng đoàn sẽ đi qua, quần chúng tập họp rất đông dảo.
Ai cũng muốn thấy tận mặt Bụt. Trong hoàng cung, tân khách của quốc vương đã tề
tựu đầy đủ. Phu nhân Gotami và Yasodhara đích thân điều khiển công cuộc tiếp
đãi. Gopa đã nghe lời hoàng hậu trang điểm và phục sức thật đúng mức trong ngày
hội lớn này.
Trong
lúc ấy Bụt cùng đoàn khất sĩ đang trầm lặng và nghiêm chỉnh đi vào thành. Hai
bên đường dân chúng đứng chen từng hàng đông đảo. Nhiều người chắp tay cúi đầu
khi Bụt đi qua. Những em bé được công kênh lên để có thể thấy được Bụt. Có cả
những tiếng hò reo mừng Bụt trở về. Trong không khí rộn rã tưng bừng ấy, đoàn khất
sĩ vẫn lặng lẽ và chậm rãi đi tới.
Các vị
khất sĩ để hết tâm ý vào bước chân và hơi thở của họ.
Vua
Suddhodana ra đón Bụt tận ngoài cổng hoàng cung, cũng như vua Bimbisara ở nước
Magagha vậy, Bụt và các vị khất sĩ được hướng dẫn vào chỗ ngồi đã bày sẵn ở
giữa sân điện. Thấy vua kính cẩn chắp tay làm lễ Bụt, tất cả các vương hầu và
quan khách đều phải bắt chước đứng lên làm lễ người, dù trong số đó có người
nghĩ rằng không có lý do gì mà họ phải tôn trọng vị khất sĩ trẻ này một cách
quá đáng như vậy.
Sau khi
Bụt và các vị khất sĩ đã an tọa, vua ra hiệu cho các người hầu mang thức ăn ra
cúng dường. Chính tay vua cúng dường thức ăn vào bát của Bụt.
Các vị
khất sĩ cũng đều được cúng dường một lượt. Trong khi ấy hoàng hậu và Yasodhara
hướng dẫn những cung nhân thừa tiếp trên một ngàn tân khách của vua, trong đó
có nhiều đạo sĩ Bà la môn, các du sĩ và cả những nhà tu khổ hạnh. Tất cả đều
thọ trai im lặng theo Bụt và tăng đoàn. Thức ăn thuần là chay tịnh.
Sau khi
mọi người đã thọ trai và bát của Bụt và của chư vị khất sĩ đã được rửa và trả
lại cho từng người, vua đứng dậy chắp tay và thỉnh Bụt thuyết pháp.
Bụt ngồi
im lặng một lát để quán chiếu tâm ý của đại chúng, Sau đó người lên tiếng.
Trước hết người nói cho mọi người nghe sơ lược về kinh nghiệm học đạo, tìm đạo
và tu đạo của người. Những điều này, người biết, ai trong đại chúng cũng muốn
được nghe. Rồi Bụt khai thị cho đại chúng về đạo lý vô thưòng, vô ngã, và duyên
sinh của vạn vật, nghĩa là về những khám phá căn bản trong công trình thiền
quán của người. Người nói đến con đường quán chiếu và thực tập tỉnh thức như là
con đường duy nhất có thể đưa đến sự diệt khổ và thực hiện an lạc. Người cũng
cho biết là tế tự và cầu nguyện không phải là những phương thức hữu hiệu để đạt
tới giải thoát.
Rồi Bụt
giảng dạy về bốn sự thật căn bản: sự có mặt của khổ đau, nguyên do của khổ đau,
khả năng diệt khổ để kiến tạo an lạc và giải thoát, và con đường thực hiện diệt
khổ và kiến tạo an lạc.
Bụt khai
thị thêm:
“Ngoài
những tai nạn như sinh, già, bệnh, chết, có người còn phải gánh chịu biết bao
nhiêu khổ đau khác do mình tự tạo ra cho mình. Vì vô minh, nghĩa là vì nhận
thức sai lầm, con người nghĩ, nói và làm những điều có thể tạo ra cho bản thân
mình và cho những người xung quanh rất nhiều nỗi khổ.
Những
đau khổ vì giận dữ, hờn oán, nghi kỵ, ganh ghét, bất mãn ... đều do ta thiếu
sáng suốt mà sinh ra. Ta sống trong những khổ đau ấy như sống trong một nhà
đang bốc cháy. Phần lớn những khổ đau mà ta chịu đều do ta tự tạo ra cho ta. Ta
không thể thoát ra được khổ đau bằng cách cầu cứu một vị thần linh. Ta phải
quán chiếu tâm ta và hoàn cảnh ta để loại trừ những nhận thức sai lầm đã từng
là nguồn gốc phát sinh ra các khổ đau ấy. Ta phải tìm tới ngọn nguồn của đau
khổ thì ta mới thật sự hiểu được bản chất của đau khổ.
Một khi
hiểu được bản chất của một niềm đau khổ thì ta thoát được ra khỏi niềm đau khổ
ấy.
Ví dụ có
một người kia tới chửi mắng ta. Ta có thể nổi giận và chửi mắng trả lại người
ấy. Trong trường hợp này ta khổ mà người ấy cũng khổ. Theo đạo lý tỉnh thức thì
không nên vội nổi giận và chửi mắng người kia. Ta phải bình tâm quán chiếu để
thấy được vì sao người kia lại tới chửi mắng ta, nghĩa là ta đi tìm tới cội
nguồn của sự giận dữ của người ấy. Do công phu quán chiếu bình tĩnh đó mà ta có
thể thấy được những nguyên nhân sâu xa và chằng chịt nào đó đưa tới thái độ và
hành động hôm nay của người ấy. Nếu ta thật sự có lỗi thì ta thấy sự chửi mắng
đó là kết quả tất nhiên của lỗi lầm ta. Nếu ta quả không có lỗi lầm gì thì chắc
chắn đã có một sự hiểu lầm nơi người ấy. Ta quán chiếu để tìm ra và chứng minh
được sự hiểu lầm ấy cho người kia thấy.
Làm như
vậy, ta tránh được khổ đau cho ta và cũng giải tỏa được khổ đau cho người kia.
Thưa Đại
Vương và các vị quan khách! Tất cả mọi khổ đau của ta, ta đều có thể thoát ra
khỏi bằng đường lối quán chiếu ấy, nhưng muốn quán chiếu cho thành công ta phải
biết theo dõi hơi thở, biết thực tập sống theo tinh thần giới định tuệ. Giới là
những nguyên tắc sống cho an lạc. Có sống theo các nguyên tắc này, ta mới thực
hiện được định. Định là nếp sống có tỉnh thức, có chú tâm. Có tỉnh thức và chú
tâm ta mới có khả năng quán chiếu về thực tánh của tâm ta và của hoàn cảnh, và
có quán chiếu ta mới có Tuệ. Tuệ tức là sự hiểu biết.
Một khi
đã có hiểu biết, ta có thể thương yêu và tha thứ. Cuộc đời sẽ bớt khổ rất nhiều
khi ta có hiểu biết. Nếu không hiểu biết, ta không thể thương yêu và tha thứ.
Cho nên con đường giải thoát chân thật là con đường thực hiện sự hiểu biết.
Hiểu biết là trí tuệ, là bát nhã.
Mà trí
tuệ chỉ có thể do quán chiếu đem lại. Con đường giới, định và tuệ vì vậy là con
đường duy nhất đưa tới giải thoát”.
Bụt lặng
yên một lát rồi mỉm cười. Người nói tiếp:
“Nhưng
khổ đau chỉ là một mặt của sự sống. Sự sống còn có một mặt khác: đó là sự có
mặt của những mầu nhiệm trong cuộc đời, và nếu con người được tiếp xúc với
những mầu nhiệm ấy, con người sẽ có niềm vui và sự an lạc. Khi tâm ta được giải
thoát, ta tiếp xúc ngay được với những mầu nhiệm ấy. Nếu ta chứng nghiệm được
sự thật về vô thường, vô ngã và duyên sinh thì ta có thể thấy được rằng tất cả
đều là mầu nhiệm: từ tâm ý ta, thân thể ta cho đến cành tre tím, bông cúc vàng,
dòng sông trong, mặt trăng sáng.
Chỉ vì
ta tự giam hãm ta trong thế giới khổ đau cho nên ta mới không xúc tiếp được với
thực tại mầu nhiệm. Phá được vô minh rồi, ta sẽ thênh thang trong thế giới của
an lạc, của giải thoát, của niết bàn. Niết bàn là sự chấm dứt của vô minh, tham
đắm và giận hờn. Niết bàn cũng là sự hiển lộ của niềm an lạc và giải thoát. Quý
vị cứ thử ra nhìn một dòng sông trong hay một tia nắng sớm. Qúy vị sẽ thấy mình
đã tiếp xúc được với thế giới của an lạc và giải thoát chưa. Nếu bị giam hãm
trong ngục tù của phiền não, ta vẫn còn chưa tiếp xúc thật sự được với những
nhiệm mầu của vũ trụ, trong đó có hơi thở ta, thân và tâm ta. Phá giặc phiền
não bằng phép quán chiếu, đó là con đường tôi đã tìm ra được. Tôi đã thực
nghiệm, đã thành công và đã chỉ bày cho nhiều người khác. Nhiều người thực hành
theo phương pháp ấy cũng đã thành công”.
Khi Bụt
chấm dứt pháp thoại, người đã chinh phục được hầu hết mọi người trong số những
tân khách của vua Suddhodana. Điều này có thể cảm nhận được trong không khí và
trong ánh mắt của các vị tân khách. Vua sung sướng đã đành mà hoàng hậu Gotami
và công nương Yasodhara cũng tỏ vẻ hết sức hoan hỷ. Họ nhất quyết trong những
ngày kế tiếp tìm tới với Bụt để được học về những phương pháp quán chiếu thực
tiễn có thể giúp họ đạt tới giải thoát và giác ngộ.
Sau buổi
pháp thoại, vua tiễn Bụt và giáo đoàn ra khỏi hoàng cung rồi mới đưa tiễn các
vị tân khách. Mọi người đều chúc mừng vua về sự thành công của Bụt.
Công
viên Nigrodha đã được biến thành một tu viện cho Bụt và tăng đoàn. Ở đây có rất
nhiều cây sung cổ thụ. Các cây này cho Bụt và tăng đoàn rất nhiều bóng mát. Rất
nhiều người đến xin xuất gia thọ trì năm giới của người cư sĩ.
Trong số
những người đến xin Bụt xuất gia có cả những thanh niên thuộc dòng họ Sakya của
người.
Yasodhara
thường đi chung với hoàng hậu và Rahula đến thăm và cúng dường Bụt và tăng đoàn
tại tu viện. Bà đã được nghe Bụt thuyết pháp nhiều lần. Bà cũng đã có cơ hội
hỏi Bụt những câu hỏi về sự liên hệ giữa sự tu đạo và công việc cứu tế xã hội.
Bà được Bụt dạy cho những phương pháp theo dõi hơi thở và thực tập thiền quán
để nuôi dưỡng sự an lạc trong thân tâm.
Bà biết
rằng nếu không có an lạc thì con người không thể giúp được gì cho kẻ khác. Bà
học được rằng phát triển sự hiểu biết cũng là nuôi dưỡng được tình thương. Bà
rất sung sướng tìm ra được rằng bà có thể thực tập thiền quán ngay trong đời
sống hàng ngày và trong những lúc làm công tác cứu tế xã hội. An lạc có thể đạt
được ngay trong khi mình làm công việc. Phương tiện và cứu cánh không còn là
hai cái khác nhau.
Hoàng
hậu Gotami cũng đạt được nhiều tiến bộ tu học trong thời gian mấy mươi ngày sau
đó.
---o0o---
Chương 36
BÔNG SEN DUYÊN KIẾP
Mộ hôm
công nương Yasodhara thỉnh Bụt, đại đức Kaludayi và thầy Nagasamala tới thọ
trai ở cung điện riêng của mình. Bà cũng đã mời hoàng hậu. Sau buổi cúng dường,
bà đã thỉnh Bụt và hoàng hậu đi ra ngoại thành thăm những xóm nghèo nơi bà đã
làm việc cứu tế xã hội trong những năm qua. Các thầy Kaludayi và Nagasamala
cũng cùng đi với người, Rahula cũng được đi theo Bụt.
Khi Bụt
tới nơi, người thấy trẻ con tập hợp đông có tới hàng trăm đứa, thì ra công
nương Yasodhara đã triệu tập chúng từ những xóm làng quanh đó. Chỗ tập hợp là
gốc cây hồng táo năm xưa, nơi mà Bụt đã ngồi thiền định lần đầu lúc người mới
lên chín tuổi. Mới đó mà hai mươi bảy năm trời đã trôi qua.
Cây hồng
táo đã lớn lên gấp bội. Yasodhara cho Bụt biết là những đứa trrẻ Bụt gặp năm
xưa nay đã là những người chủ gia đình. Những đứa trẻ mà Bụt được gặp cách đây
tám năm bây giờ cũng đã trở thành những chàng trai cao lớn và những cô gái
duyên dáng. Phần lớn bọn trẻ mà Bụt gặp hôm nay đều từ bảy tới mười hai tuổi,
hầu hết là con cái nhà nghèo.
Bọn trẻ
đã được bà Yasodhara dạy cách đón mời Bụt. Khi thấy Bụt tới, chúng bỏ cuộc
chơi, đứng dậy, dàn thành hai hàng để Bụt có lối đi tới gốc cây hồng táo. Nơi
đây chúng đã đặt một cái ghế đặc biệt cho Bụt ngồi.
Chúng đã
trải chiếu để mời những vị quan khách khác như bà Gotami, Yasodhara, và các
thầy đi theo Bụt.
Bụt rất
hài lòng được ngồi giữa bầy trẻ và giảng dạy giáo pháp cho chúng.
Người
nhớ những buổi tập họp của bọn trẻ em nhà nghèo ở Uruvela. Người kể cho các em
nghe về chú bé chăn trâu tên Svastika và cô bé mang sữa tên Sujata. Người dạy
các em về cách nuôi dưỡng lòng thương yêu và mở rộng tầm hiểu biết. Người lại
kể cho các em nghe câu chuyện tranh nhau con chim thiên nga giữa người với
Devadatta hồi người mới lên bảy tuổi. Bọn trẻ con được nghe giảng dạy bằng
những câu chuyện hấp dẫn này rất lấy làm vui sướng.
Cuối
cùng Bụt bảo Rahula ra ngồi trước mặt người rồi Bụt kể cho tất cả các em bé
nghe một câu chuyện tiền thân. Người nói:
“Ngày
xưa có một chàng trai trẻ tên là Megha, thông minh, đức hạnh, hiếu thuận và học
giỏi. Chàng sống ở miền chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Chàng muốn đi về miền đồng bằng
để học hỏi thêm. Không có tiền, nhưng chàng cũng can đảm ra đi. Chàng mang theo
một cái gậy, một cái nón, một cái bình đựng nước uống và một chiếc áo choàng.
Trên con đường về kinh đô mỗi ngày chàng ghé lại làm việc cho những nhà nông
dân bên đường để được có cơm ăn, và để tiếp tục đi nữa. Có khi chàng còn được
trả tiền. Khi đến thủ đô Divapati, chàng đã để dành được năm trăm đồng trong
túi áo.
Vào đến
cửa thành chàng thấy dân chúng đang mở hội rất vui. Chàng không biết người ta
đang mở hội ăn mừng việc gì nên có ý muốn tìm người để hỏi.
Vừa lúc
ấy có một cô thiếu nữ xinh đẹp, mặt mày thật sáng sủa, đi ngang. Cô cầm trong
tay một bó sen. Bó sen có tất cả bảy bông sen hàm tiếu. Chàng hỏi cô:
- Có
việc gì vui mà dân chúng mở hội thế cô?
Thiếu nữ
đáp:
- Chắc
anh không phải là dân địa phương cho nên mới không biết hôm nay dân chúng mở
hội gì. Số là hôm nay tại thủ đô Divapali có một bậc giác ngộ xuất hiện tên là
Dipankara. Người là bó đuốc soi đường cho tất cả chúng sanh Ngài là con của vua
Areimat, đã đi tu và đã thành đạo. Đạo của ngài sáng chói cả thế gian. Hôm nay,
để mừng ngài, dân chúng tại đây mới mở hội.
Nghe nói
có một vị giác ngộ xuất hiện trên thế gian. Megha rất lấy làm sung sướng. Chàng
rất muốn được cúng dường ngài, được tới làm lễ ngài và học đạo với ngài. Chàng
hỏi cô thiếu nữ:
- Cô mua
bảy bông sen này bao nhiêu tiền thế, thưa cô?
Thiếu
nữa đưa mắt nhìn người con trai lễ phép và có dáng dấp thông minh.
Nàng trả
lời:
- Em chỉ
mua có năm bông thôi. Hai bông kia là của em đem theo. Em hái hai bông ấy ở ao
nhà.
Megha
nói:
- Vậy
năm bông kia cô mua bao nhiêu, thưa cô?
- Em mua
hết năm trăm đồng.
Megha
khản khoản cầu xin thiếu nữ để lại cho anh ta năm bông sen ấy để anh có thể có
hoa đem cúng Bụt Dipankara. Thiếu nữ không chịu. Nàng nói:
- Em mua
để cúng Bụt chứ không phải để bán lại.
Megha
hết lòng khẩn khoản. Anh nói:
- Cô
cúng dường hai bông cũng được rồi mà. Xin cô vui lòng cho tôi lại năm bông để
tôi cũng có dịp được cúng dường bậc giác ngộ với. Thưa cô được gặp một bậc giác
ngộ trên đời là quý hóa lắm. Tôi quyết tâm cùng đi với cô để tới gặp ngài. Tôi
muốn được học hỏi đạo lý do ngài chỉ dạy. Nếu cô vui lòng nhượng cho tôi năm
bông hoa ấy, tôi sẽ nhớ ơn cô suốt đời.
Thiếu nữ
nhìn xuống đất, không nói.
Megha
lại năn nỉ:
- Nếu cô
cho tôi mua lại năm bông hoa, tôi sẽ làm bất cứ điều gì cô sai bảo để trả ơn
cô.
Thiếu nữ
không dám ngửng đầu lên. Hai người im lặng đi bên nhau rất lâu.
Cuối
cùng cô lên tiếng:
- Anh
ơi, không biết tại vì duyên nợ nào từ những kiếp trước mà khi gặp anh, em đem
lòng thương anh liền. Em đã gặp nhiều người con trai, nhưng chưa bao giờ trái
tim của em rung động như hồi nãy khi em mới gặp anh.
Em muốn
tặng không cho anh năm bông sen này để anh cúng đức giác ngộ, nếu anh hứa với
em là trong kiếp này cũng như trong những kiếp khác em được làm vợ của anh,
hoài hoài và mãi mãi.
Nàng nói
một mạch những điều trên, và nói xong nàng thấy gần như hụt hơi.
Megha im
lặng một lát rồi nói:
- Có là
người rất dễ mến. Và cô lại là một con người rất chân thật. Mới đầu gặp cô, tôi
cũng thấy có cảm tình với cô ngay, nhưng tôi là người chí tu đạo giải thoát.
Cưới vợ thì bị ràng buộc, làm sao sau này tôi có được tự do mỗi khi có dịp ra
đi tìm đạo?
Thiếu nữ
nói:
- Anh cứ
hứa với em đi. Em xin nguyện rằng mỗi khi anh muốn ra đi tìm đạo thì em sẽ
không dám tìm cách ngăn cản anh. Trái lại, em sẽ tìm cách giúp anh thực hiện
được hoàn toàn chí nguyện.
Nghe
thiếu nữ nói như thế, Megha vui vẻ nhận lời.
Hai
người tìm tới đức giác ngộ Dipankara. Quần chúng đông đảo đang vây quanh Người.
Thấy sắc diện của vị đạo sĩ Dipankara. Megha biết ngay đó là một bậc giác ngộ
chân thực. Chàng rất sung sướng. Chàng phát nguyện phải tu học cho đến khi đạt
tới quả vị giác ngộ cao tột như đức giác ngộ này.
Chàng
muốn tiến tới gần để dâng lên Dipankara năm bông sen, nhưng quần chúng vòng
trong vòng ngoài đang vây phủ lấy người, chàng không tài nào tiến tới được.
Cuối cùng chàng dùng hết sức của hai cánh tay chàng tung năm bông hoa sen vào
cho đấng giác ngộ. Lạ thay, cả năm bông sen đều bay tới và rơi đúng vào trong
hai cánh tay ngài. Megha thấy thế mừng rỡ. Chàng biết là lòng thành của chàng
đã cảm ứng được đấng toàn giác. Vừa lúc ấy thiếu nữ trao cho chàng hai bông sen
còn lại, ra hiệu cho chàng tung vào cho Bụt. Chàng nhận hai bông hoa và tung
lên. Mầu nhiệm thay, cả hai bông hoa này cũng đều rơi vào giữa tay đức giác ngộ
Dipankara.
Vừa lúc
ấy, đức toàn giác Dipankara lên tiếng gọi người cúng dường hoa sen tới bên cạnh
người. Quần chúng hé lối cho Megha đi vào. Megha cầm tay thiếu nữ kéo nàng theo
đến trước mặt Bụt, Megha và thiếu nữ quỳ xuống.
Đức giác
ngộ Dipankara nói với Megha:
- Ta
biết được tâm thành của con. Ta cũng biết rằng con có chí lớn muốn tu học để
đạt tới quả vị giải thoát và cứu độ cho loài chúng sanh. Con hãy an lòng. Ta
biết con sẽ trở nên một bậc giác ngộ hoàn toàn trong tương lai.
Rồi nhìn
thiếu nữ đang quỳ bên Megha, ngài nói:
- Còn
con, trong kiếp này và trong những kiếp tới con sẽ là người bạn đường của Megha
Con hãy nhớ lời nguyện của con, lo tác thành cho chí hướng của chồng mà không
tìm cách ngăn cản chàng mỗi khi chàng ra đi tìm đạo.
Megha và
thiếu nữ rất cảm xúc được nghe lời dạy chỉ bảo của bậc toàn giác.
Từ đó về
sau, cả hai người đều chăm chỉ tu học theo đạo lý giải thoát của đức giác ngộ
Dipankara.
Các con
nghe không, từ kiếp ấy về sau, trong kiếp nào chàng Megha và cô thiếu nữ cũng
đều được gặp nhau và cũng đã trở nên vợ chồng, và mỗi khi người con trai đến
tuổi ra đi tu đạo, người con gái lại tìm cách giúp đỡ người con trai. Chẳng bao
giờ nàng tìm cách cản ngăn chí nguyện của chàng. Vì vậy, chàng rất biết ơn
nàng. Cho đến một kiếp nọ, chàng thực hiện được chí nguyện lớn của chàng và trở
thành một bậc giác ngộ, sáng suốt không kém gì bậc giác ngộ Dipankara kiếp
trước.
Các con
nên biết: tiền của và danh vọng không phải là những vật quý nhất trên đời. Tiền
của và danh vọng có thể tiêu tan rất mau chóng, nhưng sự hiểu biết và lòng
thương yêu mới thật sự là những gì quý nhất trên đời. Có hai thứ ấy thì chắc
chắn là con người có hạnh phúc. Chàng Megha và cô thiếu nữ đã sống hạnh phúc
với nhau trong nhiều đời nhiều kiếp, đó cũng nhờ hai người đã có sự hiểu biết
và lòng thương yêu. Đã hiểu và đã thương thì không có gì mà ta không thực hiện
được trên cõi đời này”.
Yasodhara
chắp hai tay trước ngực hướng về phía Bụt. Bà rất cảm động về câu chuyện tiền
thân này. Bà biết tuy Bụt kể chuyện này cho bọn trẻ nghe nhưng người cũng đã kể
chuyện này với bà. Bụt đã nói lên lời cảm ơn của Bụt đối với bà một cách tế
nhị. Bà cảm động đến muốn khóc. Hoàng hậu Prajapati nhìn bà. Hoàng hậu cũng
hiểu lời Bụt như bà hiểu. Bà đặt một bàn tay lên vai người con dâu. Rồi bà lên
tiếng nói với lũ trẻ:
- Các
con biết chàng Megha trong tiền kiếp xa xưa đó là ai không? Chính là Bụt đấy.
Trong kiếp này, chàng đã thành một bậc giác ngộ sáng suốt hoàn toàn, và các con
có biết cô thiếu nữ trong tiền kiếp xa xôi đó là ai không? Đó chính là lệnh bà
Yasodhara của các con vậy. Nhờ lệnh bà có hiểu biết cho nên lệnh bà đã không
ngăn cản thái tử Siddhatta. Thái tử đã đi tu và đã thành đạo. Các con nên cảm
ơn lệnh bà.
Bọn trẻ
đã sẵn có lòng quý mến Yasodhara từ lâu. Nay nghe hoàng hậu nói, chúng đều
hướng về bà chắp hai tay lại trước ngực và cúi chào bà rất kính cẩn. Thấy cảnh
tượng ấy, Bụt rất vui. Người đứng dậy, và cùng các đại đức Kaludayi và
Nagasamala trở về tu viện.
---o0o---
Chương 37
MỘT NIỀM TIN MỚI
Nửa
tháng sau, vua Suddhodana thỉnh Bụt tới thọ trai trong hoàng cung để vua và
hoàng gia lại có cơ duyên được nghe Bụt thuyết pháp. Lần này vua chỉ mời Bụt và
đại đức Sariputta chứ không mời tăng đoàn, Vua cũng không mời vị tân khách nào
cả. Trong không khí gia đình, Bụt đã giảng dạy về cách theo dõi hơi thở, quán
chiếu các cảm thọ, phương pháp đi thiền hành và ngồi thiền tọa. Người dạy dỗ
rất kỹ về cách thức quán chiếu để duy trì chánh niệm và an trú trong chánh
niệm. Yasodhara, Rahula, Nanda và Sundari Nanda cũng có mặt trong buổi thuyết
pháp này. Rahula đặc biệt có cảm tình với thầy Sariputta. Cậu rất ưa đứng gần thầy
và nắm lấy tay thầy.
Khi Bụt
đứng dậy ra về, mọi người đều muốn đưa người ra tới cổng Nam.
Bụt trao
bình bát cho em là Nanda cầm và chắp tay búp sen chào mọi người.
Nanda ôm
bát, đợi Bụt chào xong thì trả bát lại, nhưng Bụt không lấy lại bất.
Vì thế
Nanda mang bát đi theo Bụt về tới tu viện.
Về tới
tu viện, Bụt bảo Nanda ở lại chơi và sinh hoạt năm bảy hôm tại đây.
Vừa yêu
vừa kính Bụt, Nanda vâng lời. Thấy nếp sống ở đây rất thanh tịnh và thoải mái,
vị hoàng tử trẻ đem lòng mến mộ. Một hôm Bụt hỏi Nanda có muốn xuất gia theo
Bụt tu học một thời gian không. Nanda đáp có. Bụt bảo thầy Sariputta làm lễ
xuất gia cho hoàng tử.
Việc
xuất gia của Nanda, Bụt đã có bàn trước với phụ vương. Vua cũng đồng ý với Bụt
rằng tuy Nanda đủ thông minh và rất hiền lành, chàng vẫn chưa có đủ nhận thức
độc lập và tính cương quyết cần có của một nhà chính trị. Bụt nói với vua có
thể cho Nanda đi theo tu học và gần gũi với Bụt một thời gian để Bụt có thể rèn
luyện cho chàng những đức tính cần thiết. Vua đã đồng ý với Bụt.
Nanda
xuất gia được một tháng thì bắt đầu nhớ vị hôn thê của mình là tiểu thư
Yanapada Kalyani. Thầy có thể che dấu nỗi buồn, nhưng Bụt đã thấy hết. Bụt nói
với thầy:
- Kẻ nam
nhi muốn thực hiện chí nguyện lớn thì phải vượt qua được những tình cảm dung thường.
Em phải quyết tâm học đạo và rèn luyện bản thân thì sau này mới có cơ giúp ích
được cho đời.
Rồi Bụt
dặn đại đức Sariputta sắp đặt để thầy Nanda khỏi đi khất thực về khu phố của
tiểu thư Kalyanu. Khi Nanda biết điều này, thầy vừa oán Bụt mà cũng vừa thương
Bụt. Thầy thầm bảo là ông anh mình không có cái gì là không biết. Ông ấy nhìn
thấu tận đáy tâm can của mình.
Rahula
thấy chú được xuất gia ở suốt ngày với Bụt thì ham lắm. Cậu phân bì với mẹ.
Yasodhara vuốt đầu con, bảo rằng phải lớn lên ít nhất là bằng chú Nanda thì mới
được đi xuất gia. Rahula hỏi mẹ làm sao để có thể lớn mau, Yasodhara bảo cậu
phải ăn uống cho đàng hoàng và tập thể dục mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều.
Rahula đã được mẹ dạy gọi Bụt bằng thầy. Bà nhớ hôm đầu tiên Rahula được thấy
Bụt từ trên lầu cao, bà đã chỉ Bụt và nói với con: “Cái ông thầy tu ấy là cha
con đó. Con chạy xuống chào cha con đi và bảo cha con trao gia tài lại cho
con”. Từ hôm ấy, Rahula cứ quen gọi Bụt là “ông thầy tu ơi”. Yasodhara nghe
được. Bà bật cười, gọi Rahula lại và bảo:
- Con
đừng gọi Bụt là “ông thầy tu ơi”. Con phải gọi Bụt là “thầy ơi”.
Từ đó,
Rahula mới dùng tiếng “thầy ơi” để gọi Bụt.
Có một
hôm tăng đoàn đi khất thực rất gần hoàng cung. Yasodhara và Rahula đứng ở trên
lầu. Bà trông thấy Bụt giữa đám các vị khất sĩ. Rahula cũng trông thấy người.
Yasodhara nói với con:
- Con
chạy xuống với Bụt đi, và lần này nhớ xin cho được gia tài của người.
Rahula
chạy xuống lầu. Cậu rất thương mẹ nhưng cũng rất thương Bụt.
Ngày nào
cậu cũng được ở với mẹ suốt ngày, nhưng cậu chưa từng được ở với Bụt suốt một
ngày nào. Cậu ao ước được như chú là hoàng thái tử Nanda, hiện đang được sống
suốt ngày bên cạnh Bụt. Cậu chạy mau lắm, cậu đã xuống tới sân hoàng cung. Cậu
chạy ra cửa Nam và thấy Bụt. Lúc bấy giờ Bụt đã khất thực xong là đang cùng các
vị khất sĩ trong nhóm đi thành hàng chậm rãi trở về tu viện.
Rahula
chạy thẳng tới một bên Bụt. Thấy Rahula, Bụt đưa một ngón tay trái ra. Bụt nắm
lấy ngón tay ấy rồi đi theo Bụt. Cậu nói:
- Thầy
ơi, đi ở bên thầy mát lắm, và dễ chịu nữa.
Nắng
cuối xuân đã bắt đầu gay gắt. Cậu bé đi bên Bụt vừa được hưởng bóng mát của
người vừa được hưởng tình thương của người.
Đứng
trên lầu cao, Yasodhara thấy hết. Bà biết Rahula được Bụt cho theo về tu viện.
Một lát
sau, Rahula hỏi:
- Thầy
ơi, gia tài của con đâu?
Bụt đáp:
- Về tu
viện thầy sẽ trao cho con.
Trưa ấy
về tới tu viện, đại đức Sariputta chia phần ăn của mình với Rahula, Rahula được
ăn cơm im lặng bên cạnh Bụt và bên cạnh đại đức sa. Rahula lại được gặp chú
Nanda để nhỏng nhẻo. Bụt bảo Rahula ngủ chung phòng với đại đức Sariputta. Thầy
nào cũng cưng quý cậu. Cậu muốn ở luôn tại tu viện. Đại đức Sariputta nói muốn
được ở luôn tu viện thì phải đi tu. Rahula nắm tay thầy Sariputta tới xin Bụt
cho phép đi tu. Bụt gật đầu. Bụt bảo thầy Sariputta cho Rahula được xuất gia.
Đại đức
Sariputta ngạc nhiên. Thầy tưởng là Bụt nói đùa, ai dè Bụt lại nói thật. Thầy
hỏi:
- Thế
Tôn, làm sao mà cho Rahula xuất gia được?
Bụt dạy:
- Thì
cho cháu tập sự xuất gia, thọ giới khu ô sa di, và giao cho cháu phận sự đuổi
quạ trong giờ các thầy ngồi thiền. Quạ ở đây nhiều quá, chúng đến quấy phá các
thầy trong giờ thiền tập khá nhiều.
Thầy
Sariputta xuống tóc cho Rahula và cho cậu thọ tam quy và dạy cho chú bốn giới:
không giết hại, không trộm cắp, không nói dối, không uống rượu.
Thầy lấy
bớt một chiếc ca sa của thầy, cắt ra và may lại thành một chiếc ca sa nhỏ xíu
cho Rahula mặc. Thầy dạy cho Rahula cách khoác y và ôm bát.
Khoác y
và ôm bát vào, Rahula trông giống một vị khất sĩ con con, ai thấy cũng thương,
Rahula được lệnh ngủ chung với thầy Sariputta, đi khất thực và học hỏi với thầy
Sariputta. Từ hôm có Rahula bên mình, thầy ít khi vào thành khất thực. Thầy đưa
Rahula đi khất thực trong những thôn lạc gần tu viện. Theo phép người xuất gia,
ai cũng chỉ được ăn mỗi ngày một bữa trước khi giờ ngọ chấm dứt, nhưng Rahula
còn nhỏ quá, sợ chú tiểu mất sức, thầy Sariputta cho phép chú được ăn một lần
nữa vào buổi chiều. Các vị thí chủ thường nhớ mang sữa và thức ăn để dành cho
chú.
Tin
Rahula đã được cạo đầu mặc áo ca sa làm chú tiểu đã vào tới trong cung điện.
Vua Suddhodana buồn lắm. Từ ngày Rahula đi với Bụt về tu viện, ông nội, bà nội,
và mẹ chú nhớ chú lắm. Họ tưởng chú đi chơi vài hôm rồi về, ai ngờ chú lại ở
trong tu viện và trở thành chú tiểu. Ông bà nội của Rahula không có cháu để
cưng, rất lấy làm buồn khổ, nhưng Yasodhara thì buồn vui lẫn lộn. Tuy nhớ con
quay quắt, nhưng mỗi khi nghĩ đến con đang được gần gũi Bụt, bà cũng thấy ấm áp
trong lòng, bảy năm nay cậu bé đã thiếu cha.
Một buổi
chiều, vua truyền lấy xe cho ngài về tu viện. Hoàng hậu Gotami và bà Yasodhara
cũng được đi vói ngài. Vua được Bụt ra đón tiếp. Nanda và Rahula cũng ra đón
tiếp hoàng gia. Rahula chạy ra đón mẹ. Thầy Sariputta gọi chú lại, bảo chú chỉ
được đi chứ không được chạy. Yasodhara ôm lấy chú tiểu vào lòng. Sau đó, Rahula
lại đi đến với ông nội và bà nội.
Vua làm
lễ Bụt và nói, giọng có vẻ trách móc:
- Thế
Tôn, trẫm đã đau xót vô cùng khi người bỏ nhà đi xuất gia, rồi mới đây, Nanda
cũng bỏ trẫm, bây giờ đến Rahula cũng bỏ trẫm. Như vậy là quá đáng. Thế Tôn,
đối với một người tại gia như trẫm, tình cha con và ông cháu rất nặng. Niềm đau
xa cách cũng như nhát dao cắt vào da. Cắt vào da xong, dao cắt sâu vào da thịt,
cắt sâu vào da thịt rồi, dao lại cắt vào xương và vào tủy. Vậy xin Thế Tôn nghĩ
lại cho. Xin Thế Tôn và các vị đại đức từ nay đừng nhận cho người còn nhỏ tuổi
xuất gia nếu không có sự ưng ý của cha mẹ chúng.
Bụt an
ủi vua, Người thuyết pháp cho vua nghe để vua thấy được rõ thêm sự thực về vô
thường và vô ngã. Người nói đến công phu tu tập tinh tiến hàng ngày như là cửa
ngõ duy nhất thoát ra ngoài khổ nạn. Người nói Nanda và Rahula đang thực sự
sống trong chánh đạo. đó là một điều may mắn và người khuyên vua tinh tiến
trong sự tu tập đạo giải thoát. Tìm được niềm vui chân thật trong nếp sống tỉnh
thức hàng ngày.
Càng
nghe Bụt, vua càng cảm thấy nhẹ nhõm, và cuối cùng vua đã vui lên trở lại. Bà
Gotami và Yasodhara cũng được nghe Bụt nói. Hai người cũng cảm thấy được an ủi
rất nhiều.
Nhân có
đại đức Sariputta ngồi bên, Bụt quay lại nói với thầy:
- Từ nay
trở đi, các vị khất sĩ sẽ không chấp nhận cho trẻ em xuất gia nếu không có sự
đồng ý của phụ huynh các em. Xin đại đức ghi vào quy chế như vậy.
Thấm
thoát mà Bụt và giáo đoàn đã ở lại vương quốc Sakya hơn nửa năm.
Số người
đến xin xuất gia với Bụt hoặc với các vị khất sĩ lớn đã lên tới gần năm trăm
vị. Số cư sĩ tại gia thì đông quá không thể nào đếm cho xiết. Vua Suddhodana đã
dâng cúng cho giáo đoàn một cơ sở mới để làm tu viện. Cơ sở này là cung điện
mùa Hè ngày xưa của thái tử Siddhatta, có vườn cây rất rộng rãi và rất mát, nằm
về phía Bắc kinh đô, đại đức Sariputta sắp đặt để đưa mấy trăm vị khất sĩ về
chủ trì tu viện này. Tăng đoàn đạt được cơ sở vững chắc cho sự hành đạo tại
vương quốc, Bụt sẽ trở về tu viện Trúc Lâm cho kịp mùa an cư, như người đã hứa
với vua Bimbisara và với tăng đoàn ở đấy. Vua Suddhodana biết Bụt sắp ra đi nên
đã thỉnh người vào cung để cúng dường và xin người thuyết pháp. Vua đã mời
hoàng tộc và triều đình đến để nghe Bụt.
Trong
buổi thuyết pháp này, Bụt đã nói về đạo đức và chính trị. Người nói đạo đức có
thể soi sáng cho chính trị và người làm chính trị có thể nương theo đạo đức để
thực hiện công bằng và hạnh phúc trong xã hội. Người nói: “Nếu quý vị biết tu
dưỡng bản thân, mở rộng tầm hiểu biết và lòng từ bi, thì quý vị sẽ tìm ra được
một đường lối giúp nước và trị dân có thể đem lại thái bình và hạnh phúc mà
không cần đến những phương thức bạo động. Quý vị không cần chém giết, không cần
đến những bản án tử hình, không cần đến những biện pháp tra tấn, tù đày và tịch
biên gia sản. Điều này không phải là mộng tưởng mà là một điều có thể thực hiện
được.
Khi
người làm chính trị có đủ hiểu biết và thương yêu thì họ có thể thấy được sự
thật về những người dân đang sống trong nghèo khổ và áp bức.
Thấy
được như thế, nhà chính trị sẽ tìm cách cải thiện guồng máy cai trị, để làm
giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội va để loại trừ sự lạm dụng quyền
thế và sự bóc lộ dân nghèo.
Thưa quý
vị, người làm chính trị phải sống đời gương mẫu. Đừng sống đời giàu sang thái
quá, bởi vì sự giàu sang là bức tường ngăn cách mình với dân chúng. Nên sống
thanh bạch, giản dị, và dùng thì giờ của mình vào việc ích nước lợi dân chứ
đừng mãi mê trong việc hưởng thụ dục lạc. Có như thế, người làm chính trị mới
có được niềm tin của dân chúng. Hễ mình thương dân thì dân sẽ thương mình lại,
do đó, mình có thể thực hiện được con đường chính trị nhân ái của mình. Con
đường chính trị này có thể gọi là con đường đức trị, khác với con đường pháp
trị. Đức trị thì dùng đạo đức nhiều hơn sự trừng phạt. Pháp trị thì dùng sự
trừng phạt nhiều hơn đạo đức. Theo đạo lý Tỉnh Thức, hạnh phúc chân thật có thể
đạt được bằng con đường đức trị”.
Vua
Suddhodana và quần thần lắng nghe Bụt với tất cả sự chú ý. Hoàng thúc
Dronodanaja, chú của Bụt, và là thân sinh của Devadatta, nói:
- Con
đường đức trị mà Bụt nói thật là một con đường rất đẹp, nhưng có lẽ ở đây chỉ
có một mình Bụt là có đủ tư cách và đức độ để thực hiện mà thôi.
Tại sao
Bụt không ở lại Kapilavatthu, tại sao Bụt không nắm lấy giềng mối chính trị ở
vương quốc Sakya này để tạo an lạc và hạnh phúc cho muôn dân?
Vua
Suddhodana cũng nói:
- Tuổi
trẫm đã cao rồi. Nếu Bụt chịu ở lại thì trẫm sẽ thoái vị để Bụt ngồi vào vương
vị. Với đạo đức của Bụt, với uy tín và sự thông minh của người, trẫm tin chắc
là quốc dân sẽ hoàn toàn đứng sau lưng Bụt, và vương quốc sẽ chẳng lao lâu sẽ
trở nên giàu sang và lừng lẫy.
Bụt mỉm
cười, người lặng thinh cúi đầu. Cuối cùng nhìn vua, Bụt nói:
- Phụ
vương, con không còn là người của một gia đình, của một dòng họ hay của một
vương quốc nữa. Bây giờ đây gia đình của con là nhân loại, nhà cửa của con là
trời đất và địa vị của con là một ông thầy tu sống vào hạt cơm bố thí của mọi
người. Con đường mà con đã chọn là con đường của người đạo sĩ chứ không phải là
con đường của nhà chính trị. Con nghĩ là con sẽ phụng sự cho nhân loại được bền
bĩ hơn với tư cách của một người tu.
Hoàng
hậu Gotami và Yasodhara không tiện phát biểu trong một cử tọa như cử tọa hôm
nay, nhưng cả hai điều cảm động gần rơi lệ khi nghe Bụt nói.
Hai
người đều thấy Bụt nói đúng.
Bụt tiếp
tục thuyết giảng cho vua và cho mọi người nghe về năm giới và cách tổ chức hành
trì năm giới trong khung cảnh gia đình và trong xã hội.
Người
nói năm giới có thể được xem như là những nguyên tắc sống có thể đem lại hạnh
phúc trong gia đình và hòa bình trong xã hội. Người giảng cặn kẽ về từng giới
một. Cuối cùng người nói:
- Muốn
có đoàn kết toàn dân, một niềm tin cần được tạo dựng. Những người làm chính trị
nếu thực hành được năm giới thì sẽ tạo được niềm tin lớn trong quốc dân. Với
niềm tin ấy không có công trình gì mà không xây dựng được.
Niềm tin
ấy có thể bảo đảm được hòa bình, hạnh phúc và công bằng xã hội trong vương
quốc. Nếp sống tỉnh thức là nền đạo lý mà chúng ta đang cần đến như một đường
lối và một niềm tin. Giáo lý truyền thống Bà la môn không chứa đựng được đức tự
tin và không bảo đảm được quyền bình đẳng giữa mọi con người. Ta hãy dùng đạo
lý Tỉnh Thức như một niềm tin mới.
Bụt cho
biết người sắp lên đường trở về vương quốc Maghada, nhưng người sẽ còn trở lại
Kapilavatthu. Vua, triều thần và hoàng tộc rất vui khi nghe người nói như vậy.
---o0o---
Chương 38
ÔI! HẠNH PHÚC!
Bụt đã
rời khỏi vương quốc Sakya nhưng người vẫn còn hoằng hóa ở miền Bắc vương quốc
Kosala, Người và khoảng một trăm hai mươi vị khất sĩ đang cư trú ở một công
viên gần thành phố Anuplya của bộ tộc Malla. Đại đức Sariputta vẫn còn ở bên
người. Kaludayi, Nanda và chú tiểu Rahula cũng ở bên người. Trong thời gian Bụt
ở ngoại thành Kapilavatthu, nhiều thanh niên trong hoàng tộc đã đến xin xuất
gia với người, phần lớn là xuất thân từ những gia đình có từ ba người con trai
trở lên. Sau khi Bụt rời Kapilavatthu được nửa tháng, có hai anh em ruột thuộc
giòng họ Sakya cũng muốn đi xuất gia. Nhà của họ giàu lắm. Gia đình có tới ba
cơ sở cư trú, một cho mùa Hè, một cho mùa Mưa, và một cho mùa Đông. Hai anh em
tên là Mahanama và Anuruddha. Thấy nhiều bạn hữu của mình trong hoàng gia đã đi
xuất gia với Bụt, Mahanama cũng muốn được đi xuất gia. Mahanama nghĩ trong gia
đình có hai người con trai thì nên đi xuất gia một người thôi, chàng nhường
quyền xuất gia cho em. Anuruddha đi tìm mẹ để xin phép. Bà mẹ nói.
- Mẹ chỉ
có hai con là niềm vui của mẹ thôi. Nếu một đứa trong các con xuất gia thì mẹ
buồn lắm.
Anuruddha
thưa với mẹ là đã có nhiều thanh niên trong hoàng tộc xuất gia, và nếp sống
xuất gia sẽ đem lại lợi lạc không phải chỉ cho người xuất gia mà cho cả gia
đình và xã hội. Chàng đã được nghe Bụt giảng tại tu viện Nigrodha nhiều lần nên
chàng giảng thuyết về đạo pháp rất hay. Cuối cùng bà mẹ nói:
- Nếu
bạn của con là Baddhiya mà xuất gia, thì mẹ cũng cho con đi xuất gia.
Bà nói
vậy vì bà nghĩ là Baddhiya chẳng bao giờ xuất gia đâu. Baddhiya là người trong
hoàng gia, và chàng có chức vị rất cao, quyền hành và danh vọng rất lớn, khó có
thể bỏ được tất cả để mà đi tu.
Anuruddh
nghe mẹ nói liền tìm tới Baddhiya. Baddhiya làm trấn thủ các tỉnh miền Bắc
vương quốc. Dưới quyền chàng có nhiều đội binh. Dinh thự của chàng có lính gác
bốn phía. Kẻ hầu người hạ tấp nập. Baddhiya tiếp Anuruddha như một thượng
khách. Anuruddha bảo bạn:
- Tôi
muốn đi xuất gia theo học với Bụt, nhưng tôi không xuất gia được, đó là tại vì
anh.
Baddhiya
cười:
- Tại
sao vì tôi mà anh không đi xuất gia được? Tôi cấm anh xuất gia hồi nào? Tôi sẽ
làm đủ mọi cách để anh được xuất gia.
Anuruddha
kể lại đầu đuôi câu chuyện, rồi chàng nói:
- Anh
vừa hứa với tôi là anh sẽ làm đủ mọi cách để tôi có thể đi xuất gia, mà cách
duy nhất là anh cùng đi xuất gia với tôi.
Baddhiya
thấy mình kẹt quá, không phải là chàng không hâm mộ Bụt và đạo lý tỉnh thức.
Chàng cũng đã có ý định sau này sẽ đi xuất gia, nhưng không phải bây giờ. Chàng
nói:
- Bảy
năm nữa tôi sẽ đi xuất gia. Anh cứ đợi tôi.
- Bảy
năm nữa thì lâu quá. Biết tôi có còn sống đến lúc ấy hay không?
Baddhiya
cười:
- Sao
anh bi quan quá như vậy? Nhưng thôi, nếu anh nóng lòng xuất gia thì anh đợi ba
năm nữa vậy.
- Ba năm
cũng còn lâu quá. Anuruddha nói:
- Thôi
thì bảy tháng. Tôi còn phải sắp đặt công việc nhà cửa và trao trả quyền hành.
- Đã
xuất gia thì cần gì phải sắp đặt lâu như thế. Xuất gia là từ bỏ hết để đi theo
con đường xuất trần siêu thoát. Anh đợi lâu như thế lỡ ra anh đổi ý thì sao.
- Anh đã
nói vậy thì bảy hôm nữa tôi sẽ đi với anh. Thôi anh về đi.
Anurudha
mừng rỡ về báo mẹ và anh biết tin này. Bà mẹ không ngờ quan tổng trấn Baddhiya
lại chịu bỏ chức tước và danh vọng một cách dễ dàng như vậy. Bà chợt thấy tầm
cao siêu của đạo lý giải thoát, và bà bằng lòng cho con đi xuất gia.
Anuruddha
rủ thêm được một số các bạn hữu nữa cùng đi xuất gia. Đó là Bhagu, Kimbila,
Devadatta và Ananda. Cả thảy là sáu người, tất cả đều là các vương tử quý phái.
Đúng ngày hẹn, họ gặp nhau tại nhà Devadatta rồi lên đường, Tất cả đều đã là
những chàng trai thành niên, trừ Ananda ra, Ananda mới có mười tám tuổi, nhưng
chàng đã được phép cha là thân vương Dronodanaraja cho phép đi theo anh. Bảy vị
vương tử đi bằng xe tứ mã cho đến khi họ tới một thị trấn nhỏ nằm sát biên giới
Kosala. Họ cho xe trở về và cùng đi bộ tới biên giới. Họ biết Bụt và các vị
khất sĩ tùy tùng đang cư trú ở Anupiya, cách biên giới không xa, Anurauddha đề
nghị mọi người cởi bỏ hết những trang sức trên người và ăn mặc thật đơn giản
trước khi vượt biên. Mọi người tán thành. Họ cởi những xâu chuỗi ngọc và những
chiếc vòng bàng vàng bằng bạc ra và gói lại trong một cái áo. Họ định đi tìm
một người nghèo để tặng tất cả những châu báu đó rồi sẽ tìm đường ra biên giới
sau.
Vừa định
đi vào trong thôn để kiếm một người nghèo thì họ thấy có một quán hớt tóc bên
đường. Cái quán khá tồi tàn: người thợ hớt tóc là một chàng thanh niên trạc
tuổi họ, mặt mày cũng khôi ngô, nhưng ăn mặc rách rưới nghèo nàn. Anuruddha ghé
vào quán. Chàng hỏi tên người thợ hớt tóc.
Anh ta
nói anh tên là Upali. Chàng nói các vị vương tử muốn nhờ anh ta chỉ đường ra
biên giới. Upali bằng lòng.
Upali
đưa các vương tử đến biên giới nước Kosala, Anh ta chào các vị vương tử để trở
về. Anuruddha cám ơn Upali và trao cho Upali một chiếc áo cuốn tròn trong đó có
đầy đồ trang sức châu báu. Chàng nói:
- Upali,
chúng tôi muốn theo Bụt xuất gia. Chúng tôi không cần những thức trang sức châu
báu này. Chúng tôi tặng lại anh. Từng ấy châu báu vàng bạc đủ để anh sống sung
sướng suốt đời.
Các
vương tử chào Upali, và lên đường. Người thọ hớt tóc mở chiếc áo ra.
Vàng
ngọc làm anh ta lóe mắt. Anh ta không tin đây là sự thật. Anh thuộc về giai cấp
hạ tiện trong xã hội. Cha ông của anh đời này sang đời khác đã sống cần cù lam
lũ và chưa bao giờ có được một lạng vàng hay một chiếc cà rá.
Bây giờ
đây anh có một bọc châu báu trong tay. Bỗng nhiên anh cảm thấy lo sợ. Ôm một
bọc châu báu trong người, anh cảm thấy anh mất hết sự an ổn và thảnh thơi. Anh
có thể mất mạng như chơi nếu có người biết anh đang ôm cái gì trong tay.
Upali
suy nghĩ. Anh thấy các vương tử giàu sang đến thế, quyền hành nhiều như thế mà vẫn
bỏ hết để đi xuất gia. Chắc chắn những người này đã nhận thấy nặng nề và nguy
hiểm của giàu sang và của danh vọng. Anh chợt có ý liệng bỏ gói châu báu để đi
theo các vị vương tử, tìm cầu anh lạc và giải thoát. Nghĩ như thế, anh làm
ngay. Anh treo gói áo trên một cành cây gần đó, thầm nhũ rằng ai là người đầu
tiên thấy được gói châu báu này thì gói châu báu này sẽ thuộc về người ấy. Treo
gói áo lên cây xong, anh vượt biên và chạy theo các vị vương tử.
Chỉ một
giờ sau, Upali bắt kịp họ. Các vị vương tử ngạc nhiên thấy Upali chạy theo
mình. Devadatta hỏi:
- Upali,
anh chạy theo chúng chúng tôi làm chi? Gói châu báu anh để đâu?
Upali
thở hổn hển một hồi, rồi kể lại câu chuyện.Chàng nói chàng đã treo gói áo lên
một cành cây và nguyện tặng lại châu báu ấy cho người đầu tiên bắt gặp. Chàng
nói chàng không cảm thấy an ổn với gói châu báu và xin được cùng các vị vương
tử tìm tới Bụt để xuất gia.
Devadatta
cười ha hả:
- Anh
cũng muốn xuất gia như chúng tôi? Anh là ...
Anuruddha
ngắt lời Devadatta:
- Hay
lắm, hay lắm! Chúng tôi rất hân hạnh được anh cùng đi với chúng tôi.
Bụt có
dạy rằng tăng đoàn như là biển cả, và người xuất gia như những con sông. Sông
nào cũng chay ra biển và cũng thành biển. Chúng ta tuy xuất thân từ những giai
cấp khác nhau, nhưng khi đã gia nhập tăng đoàn thì chúng ta sẽ là anh em, không
còn phân biệt giai cấp nữa.
Baddhiya
tán thành ý kiến của Anuruddha. Chàng đưa tay nắm tay người thợ cạo Upali.
Chàng giới thiệu chàng là quan tổng trấn từng tri nhậm các tỉnh miền Bắc của
vương quốc, và chàng giới thiệu các vị vương tử khác với Upali. Upali cúi chào
từng vị với một dáng điệu kính cẩn. Sau đó bảy người lại tiếp tục lên đường.
Ngày hôm
sau họ tới Anupiya. Họ hỏi thăm nơi cư trú của Bụt và tăng đoàn.
Họ được
biết Bụt và tăng đoàn hiện cư trú ở một khu rừng về phía Đông Nam cách thành
phố chừng hai dặm. Bảy người tìm tới nơi này và được gặp Bụt.
Baddhiya
thay mặt cả nhóm trình lên Bụt ý nguyện của họ được theo Bụt xuất gia. Bụt lặng
yên ưng thuận. Baddhiya nói:
- Chúng
con xin Bụt cho Upali được xuất gia trước. Chúng con sẽ lạy Upali như là một vị
sư huynh. Như vậy chúng con có thể trừ khử ý niệm phân biệt và kỳ thị có thể
còn sót lại nơi chúng con.
Bụt khen
ngợi cả bảy người. Bụt cho Upali làm lễ xuất gia trước, và sau đó làm lễ xuất gia
cho sáu người: Baddhiya, Anuruddha, Bhagu, Kimbala, Devadatta và Ananda. Tuy
mới có mười tám tuổi, Ananda cũng được xuất gia, nhưng chàng chỉ được thọ giới
sa di và học theo hạnh khất sĩ. Đúng hai mươi tuổi chàng mới được thọ giới khất
sĩ. Chàng là người trẻ nhất trong tăng đoàn, trừ Rahula. Được gặp lại chú
Ananda, Rahula mừng lắm. Ba hôm sau lễ thọ giới của bảy chàng, Bụt và các vị
khất sĩ rời Anupiya, hướng về Vesali. Tại Vesali, Bụt nghỉ ở rừng Mahavana, Bụt
lưu lại ba hôm ở đây.
Trong
thời gian ấy Bụt có thuyết pháp cho dân chúng, rồi Bụt lại lên đường.
Đi lần
hồi trên mươi hôm nữa, Bụt về tới tu viện Trúc Lâm ở Rajagaha.
Các đại
đức Kassapa, Moggallana, và Kondanna thấy Bụt về rất hoan hỷ.
Đại
chúng trong tu viện đông gần sáu trăm vị, ai cũng tỏ vẻ vui mừng. Vua Bimbisara
nghe Bụt đã về, lập tức tìm tới thăm Bụt. Không khí Trúc Lâm rất sống động và
vui tươi. Mùa Mưa đã gần tới, và các đại đức Kondanna và Kassapa đã chuẩn bị
đầy đủ về mặt tổ chức để đại chúng có thể an cư tu học.
Đây là
mùa an cư thứ ba từ ngày Bụt thành đạo. Mùa thứ nhất, Bụt ở vườn Nai, mùa thứ
hai và mùa thứ ba, Bụt ở tại Trúc Lâm.
Đại đức
Baddhiya, trước kia làm quan tổng trấn miền Bắc vương quốc Sakka, và là người
trong hoàng tộc Sakya, tu học rất tinh tiến. Tại tu viện Trúc Lâm, ông học theo
đại đức Kassapa, chỉ cư trú dưới gốc cây mà không ngủ trong am thất. Ông học
tập rất chuyên cần và sử dụng phần lớn thì giờ của ông vào việc thực tập thiền
quán.
Một đêm
kia trong lúc thực tập thiền tọa dưới một gốc cây, ông bỗng cảm nhận một niềm
vui sướng mà chưa bao giờ ông từng biết tới trong thời gian còn ở nhà. Ông thốt
lên:
- Ôi,
hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!
Lúc ấy
trời đã về khuya. Có một vị khất sĩ ngồi thiền tọa cách ông không xa nghe được
những tiếng ấy. Sáng hôm sau, vị này tới gặp Bụt. Ông thưa với Bụt:
- Thế
Tôn, hồi khuya trong lúc thiền tập, con có nghe khất sĩ Baddhiya thốt lên hai
tiếng “Ôi, hạnh phúc!”, con nghĩ là thầy Baddhiya không cảm thấy thoải mái với
đời sống xuất gia. Có lẽ thầy ấy tiếc nuối những giàu sang và danh vọng khi còn
là cư sĩ. Con xin trình bày để Thế Tôn biết, và để người định liệu.
Bụt gật
đầu.
Trưa hôm
ấy sau khi tăng đoàn đã thọ trai, Bụt thuyết pháp cho đại chúng.
Sau thời
thuyết pháp, Bụt gọi đại đức Baddhiya ra trình diện. Đại chúng có mặt đầy đủ
trong giờ này, không những các vị khất sĩ mà còn có những người đệ tử cư sĩ đã
đến cúng dường và nghe pháp. Bụt hỏi:
-
Baddhiya, hồi khuya trong lúc thiền tọa, thầy có thốt lên “Ôi, hạnh phúc!
Ôi, hạnh
phúc", có đúng như thế không?
Đại đức
Baddhiya chắp tay trả lời:
- Thế
Tôn, hồi đêm quả thật con có thốt lên những tiếng đó.
- Tại
sao xin thầy hãy nói cho đại chúng cùng nghe.
- Thế
Tôn, ngày trước làm tổng trấn, con sống trong giàu sang, phú quý và có nhiều
quyền lực. Đi đâu con cũng có một đội binh theo hầu cận và bảo vệ. Dinh phủ của
con luôn luôn có binh lính cánh gác ngày đêm, bên trong cũng như bên ngoài. Vậy
mà lúc nào con cũng lo lắng, sợ hãi, cảm thấy thiếu an ninh. Bây giờ đây đi một
mình trong rừng, ngồi một mình dưới cội cây trong đêm vắng, vậy mà con không hề
có cảm tưởng nghi ngại và sợ hãi.
Con cảm
thấy có một niềm thảnh thơi và an lạc chưa bao giờ từng có. Thế Tôn, đời sống
xuất gia thật là thoải mái đối với con, con không sợ ai, con không sợ mất gì,
con không có gì để sợ mất, và con sống vui thú như một con nai trong rừng.
Trong thiền định đêm qua con thấy được rất rõ niềm thảnh thơi vui thú đó, cho
nên con đã buột miệng kêu lên hai lần: “Ôi, hạnh phúc!, Ôi, hạnh phúc!"
làm kinh động đến Thế Tôn và các bạn tu của con.
Con xin
thành tâm sám hối.
Bụt ngợi
khen Baddhiya trước mặt đại chúng. Người nói:
- Hay
lắm, khất sĩ Baddhiya. Thầy đang đi những bước vững chải trên con đường tự tại
và vô úy. Niềm an lạc của thầy, cả chư thiên cũng biết ước ao, huống nữa là
người đời.
Giữa mùa
an cư năm ấy, Bụt có độ cho nhiều người xuất gia, trong số đó một nhân tài lỗi
lạc: đó là Mahakassapa, Mahakassapa là con trai một thương gia giàu có vào bậc
nhất ở vương quốc Magadha. Tên cha mẹ đặt của chàng là Pippali. Gia tài của vị
thương gia này chỉ thua có công khố quốc gia mà thôi, trong nước không ai giàu
có bằng ông ta. Mahakassapa đã thành hôn với một thiếu nữ sinh trưởng ở Vesali.
Nàng tên là Bhadra Kapilani. Hai người đã sống với nhau được mười hai năm,
nhưng cả hai đều có chí xuất trần, cả hai đều muốn tìm thầy học đạo. Một buổi
sáng nọ khi thức giấc, Mahakassapa thấy vợ mình đang ngủ say và một cánh tay
nàng buông thỏng từ trên giường xuống tới gần mặt đất. Trong khi đó có một con
rắn độc đang trườn qua dưới gầm giường nàng. Mahakassapa nín thở, không dám
động dậy. Khi con rắn đã bò ra khỏi nhà, chàng tức tốc chỗi dậy đánh thức nàng.
Cả hai
người cùng ngồi chiêm nghiệm về tính cách vô thường của cuộc đời.
Vợ chàng
khuyên chàng nên tức tốc đi tìm thầy học đạo. Nghe nói có Bụt hiện đang hướng
dẫn đại chúng tu học tại Trúc Lâm gần thành Vương Xá, Mahakassapa liền vội vã
đi tìm. Ngay khi mới trông thấy Bụt, chàng biết ngay đây là thầy của mình. Nói
chuyện với Mahakassapa, Bụt nhận thấy đây là một con người lỗi lạc, hiếm có
trên đời, Bụt nhận cho chàng xuất gia, Mahakassapa có trình bày với Bụt về
trường hợp người bạn trăm năm của mình. Bụt bảo chàng cơ duyên chưa thuận lợi
để có thể chấp nhận phụ nữ vào giáo đoàn. Người nói cần đợi thêm ít lâu nữa.
---o0o---
Chương 39
BA LẦN THỨC DẬY TRỜI VẪN CHƯA
Đường
Xưa Mây Trắng - SÁNG Mùa an cư mới chấm dứt được ba hôm, thì có một người
thương gia trẻ tên là Sudatta từ vương quốc Kosala đến thăm Bụt và thỉnh cầu
Bụt về vương quốc của chàng để giảng dạy đạo lý tỉnh thức.
Sudatta
là một thương gia rất giàu có. Chàng cư trú ơ thủ đô Savatthi nơi quốc vương
Pasenadi trị vì. Cả vương quốc Kosala đều biết tiếng chàng, và Suddatta nổi
tiếng là người biết che chở và bênh vực cho những kẻ nghèo khổ và cô độc. Chàng
luôn luôn để ra một phần của gia sản mình để chu cấp cho những kẻ nghèo hèn và
không có thân nhân. Công việc giúp đỡ người khốn khổ này chàng đã làm liên tục
trong nhiều năm và chàng tìm được rất nhiều nguồn vui trong công việc ấy. Người
đồng bào của chàng đã tặng cho chàng cái mỹ hiệu là Anathapindika, có nghĩa là
“người cứu giúp cho kẻ khốn cùng và cô độc”, gọi là Cấp Cô Độc. Để có thể tiếp
tục công việc cứu trợ những kẻ nghèo khổ, Suddatta phải tiếp tục nghề nghiệp
của mình là một thương gia. Chàng hay qua lại nước Magadha để buôn bán và mỗi
khi tới thủ đô Rajagaha, chàng thường cư trú tại nhà của người anh vợ của
chàng, vốn cũng làm nghề buôn bán. Người anh vợ này rất quý mến chàng. Mỗi khi
chàng đến, ông ta làm đủ mọi cách để giúp đỡ chàng và làm cho thời gian cư trú
tại Rajagaha của chàng được dễ chịu. Ông săn sóc chàng từng li từng tí.
Tuy
nhiên, kỳ này Suddatta không được ông anh vợ đặc biệt chú ý tới như những kỳ
trước. Ông bận rộn cắt đặt và sai phái những người ăn người ở trong nhà như là nhà
sắp có đám giỗ hay đám cưới, và đối với chàng em rể giàu có, lần này ông chỉ
chú ý và săn sóc một cách vừa phải thôi. Suddatta lấy làm lạ. Chàng hỏi thì
người anh vợ nói không có đám giỗ mà cũng không có đám cưới nào cả. Cũng không
phải là để rước hoàng gia về nhà thết đãi.
Ông nói:
- Ngày
mai, anh mời Bụt và các vị khất sĩ tới thọ trai.
Nghe nói
đến tiếng Bụt, Suddatta ngạc nhiên. Chàng hỏi lại:
- Anh
nói sao, ngày mai anh thỉnh “Bụt” hả?
- Đúng
rồi ngày mai anh thỉnh Bụt và các vị khất sĩ học trò của người.
- “Bụt”?
nghĩa là “người tỉnh thức"?
- Đúng
rồi. Bụt là người tỉnh thức. Đó là một bậc giác ngộ toàn vẹn. Đó là một con
người thật mầu nhiệm và thật đẹp đẽ. Sáng mai, thế nào em cũng sẽ được gặp
người.
Danh từ
Bụt gây nên trong tâm tư Suddatta biết bao nhiêu nguồn cảm hứng.
Chàng
bắt ông anh vợ ngồi xuống và nói thêm cho chàng nghe về con người giác ngộ này.
Ông anh vợ chàng kể rằng anh đã được trông thấy các vị khất sĩ học trò của đi
khất thực, đã tìm hiểu về Bụt, đã tới nghe Bụt thuyết pháp tại tu viện Trúc Lâm
và đã được người chấp nhận là đệ tử tại gia của người.
Ông cũng
kể là hồi đầu mùa an cư ông đã được Bụt cho phép dựng thêm những chiếc nhà nhỏ
lợp lá làm chỗ che mưa nắng cho các vị khất sĩ. Trong một ngày, ông đã cho dựng
luôn sáu mươi căn nhà như thế rải rác trong khuôn viên của tu viện Trúc Lâm.
Không
biết vì một duyên cớ thâm sâu nào đó mà Suddatta đem lòng thương mến Bụt sau
khi mới nghe nói đến danh hiệu của người. Suốt đêm đó Suddatta không ngủ yên
giấc. Chàng cứ mong cho trời sáng để có thể đi viếng Bụt tại tu viện Trúc Lâm
dù chàng biết hôm nay Bụt và giáo đoàn của người sẽ tới thọ trai tại nhà ông
anh vợ. Ba lần chợt tỉnh trong đêm là ba lần chàng tưởng trời đã sáng, nhưng
trời vẫn chưa sáng. Cuối cùng, Suddatta, chỗi dậy, trời chưa sáng, nhưng chàng
nhất quyết ra đìm Bụt. Chàng mặc áo, mang giày và mở cửa ra đi một mình. Trời
khuya còn đầy sương và lạnh.
Qua cổng
Sivaka, chàng hướng về phía tu viện Trúc Lâm. Trời còn tối lắm, nhưng khi chàng
vào tới cổng tu viện thì dáng cây dáng lá đã bắt đầu hiện rõ. Suddatta nóng
lòng muốn gặp Bụt nhưng trong tâm còn e ngại. Chàng nói một mình để trấn tĩnh:
“Suddatta, đừng e ngại”. Lúc ấy Bụt đã thức, và người đang đi thiền hành ngoài
trời ngay phía trước mặt chàng mà chàng không biết. Bụt gọi:
“Suddatta".
Suddatta
giật mình. Tiếng gọi đến từ phía trước. Chàng ngửng nhìn lên thì thấy dáng một
người đang đi tới. Linh tính báo cho chàng biết rằng đó là Bụt. Bụt đã gọi tên
chàng. Chàng đang đi tới với Bụt và Bụt đang đi tới với chàng. Suddatta bước
tới một bước nữa và chắp tay cúi đầu làm lễ Bụt.
Bụt đỡ
Suddatta dậy và cầm tay chàng đưa về tịnh thất của người. Tới nơi chàng được
Bụt mời ngồi. Chàng hỏi thăm Bụt có ngủ ngon không. Người nói người ngủ rất
ngon. Suddatta tự giới thiệu mình và kẻ cho Bụt nghe chuyện chàng thức dậy ba
lần trong đêm và cứ tưởng trời đã sáng. Chàng xin Bụt dạy cho chàng về đạo lý.
Và Bụt bắt đầu giảng dạy cho chàng về trí tuệ và từ bi.
Suddatta
rất sung sướng. Chàng lạy xuống xin Bụt nhận chàng làm đệ tử.
Bụt lặng
yên chấp nhận. Chàng lại thỉnh Bụt và giáo đoàn ngày mai tới thọ trai tại nhà
người anh vợ của chàng. Bụt cười:
- Hôm
nay thầy và các vị khất sĩ sẽ tới đây thọ trai rồi. Không lý ngày mai cũng tới
đây nữa sao?
Suddatta
khẩn khoản:
- Ngày
hôm nay là anh con thỉnh cầu Bụt. Ngày mai người thỉnh cầu Bụt và và các vị
khất sĩ lại là con. Con tiếc không có nhà cửa riêng ở đây để có thể thỉnh cầu
Bụt và các thầy. Xin Bụt từ bi chấp nhận cho con.
Bụt mỉm
cười nhận lời Suddatta. Chàng sung sướng làm bái biệt ngài. Trời đã sáng hẳn.
Chàng phải về để giúp ông anh vợ chuẩn bị công cuộc đón tiếp Bụt và giáo đoàn.
Trưa hôm
ấy, tại nhà ông anh vợ. Suddatta lại được nghe Bụt thuyết pháp.
Niềm hân
hoan của chàng như không có bến có bờ. Tiễn Bụt và giáo đoàn về xong, Suddatta
bắt đầu chuẩn bị lo lễ cúng dường ngày mai. Ông anh vợ hết sức giúp đõ chàng.
Ông nói:
-
Suddatta, ở đây dượng là khách chứ không phải là chủ. Thôi để anh đứng ra đài
thọ lễ cúng dường ngày mai cho.
Suddatta
không chịu. Chàng muốn tự mình thiết lễ cúng dường. Chàng nhất quyết đài thọ
mọi phí tổn, nhưng chàng bằng lòng để cho gia đình ông anh vợ tiếp tay với sự
nấu nướng và dọn dẹp.
Ngày
mai, sau lễ cúng dường, Suddatta lại được nghe Bụt thuyết pháp. Lòng chàng nở
ra như một đóa hoa. Sau khi Bụt đã nói xong pháp thoại, chàng quỳ xuống thỉnh
nguyện:
- Lạy
Bụt, hầu hết dân chúng nước Kosala chúng con chưa có cơ duyên tiếp đón Bụt và
giáo đoàn tôn quý của người để được học hỏi về đạo lý tỉnh thức.
Con cầu
mong Bụt chấp nhận lời mời của con về cư trú và giảng dạy tại kinh đô Savathi
trong một thời gian. Chúng con xin Bụt rủ lòng thương xót dân chúng của vương
quốc Kosala.
Bụt nói
với Suddatta là người sẽ về đàm luận với các vị đệ tử lớn của người về chuyện
này và sẽ trả lời chàng sau. Sau đó Bụt và giáo đoàn trở về tu viện.
Mấy hôm
sau tới tu viện, Suddatta được Bụt cho biết là người đã chấp nhận việc đi hoằng
pháp tại vương quốc Kosala. Người hỏi Suddatta xem ở gần thủ đô Savathi có chỗ
cư trú cho một giáo đoàn đông đảo không. Suddatta bạch rằng chàng sẽ lo liệu
chu toàn về việc cư trú của giáo đoàn. Suddatta còn thỉnh Bụt cho phép một vị
cao đệ của Bụt là đại đức Sariputta về thủ đô Savathi một lần với chàng để
chuẩn bị cho công cuộc hoằng pháp của Bụt.
Bụt hỏi
ý Sariputta thì thầy bằng lòng.
Một tuần
lễ sau đó, Suddatta tới tu viện từ giã Bụt cùng giáo đoàn, đồng thời rước đại
đức Sariputta cùng lên đường về thủ đô.
Hai
người hướng về phương Bắc, vượt sông Hằng và đi lên thành Vesali.
Tại
Vesali, hai người được bà Ambapali rước về cư trú và nghỉ ngơi tại vườn Xoài
trong hai hôm. Đại đức Sariputta có cho nữ phật tử Ambapali biết là Bụt cùng
giáo đoàn sẽ mở một chuyến đi hoằng pháp tại vương quốc Kosala và cũng sẽ ghé
qua thành phố Vesali này. Ambapali rất vui mừng. Bà hỏi thăm đại đức xem chừng
nào Bụt sẽ ghé ngang qua để bà có thể chuẩn bị đón tiếp Bụt và giáo đoàn. Đại
đức nói là trong khoảng sáu tháng. Bà tỏ ý rất hoan hỷ được tiếp đón thầy
Sariputta và cư sĩ Suddatta. Bà ngõ lời khen ngợi vị trưởng giả trẻ tuổi này về
công trình cứu tế xã hội của chàng và khuyến khích chàng trong công việc tổ
chức chuyến đi hoằng pháp sắp đến của Bụt.
Từ giã
Ambapali, hai người hướng về phía Tây Bắc, đi trên tả ngạn dòng sông Aciravati.
Đây là lần đầu Suddatta đi bộ trên một quãng đường dài như thế. Chàng không thể
dùng xe ngựa bởi vì chàng phải cùng đi bộ với đại đức Sariputta. Đến đâu chàng
cũng báo tin là trong vòng sáu tháng Bụt và giáo đoàn sẽ đi qua và mọi người
nên chuẩn bị để đón tiếp.
“Bụt là
một bậc tỉnh thức vừa xuất hiện trên cõi đời. Bà con cô bác hãy thành tâm chuẩn
bị để đón tiếp người và giáo đoàn cao quý của người".
Vương
quốc Kosala là một nước hùng mạnh không kém gì vương quốc Magadha. Biên giới
miền Nam của vương quốc là sông Hằng. Đất đai của vương quốc trải dài tới miền
Bắc cho đến những ngọn đồi sát chân dãy Hy Mã Lạp Sơn. Dân chúng ở vương quốc
Kosala không mấy ai là không nghe đến Suddatta. Ai cũng gọi chàng là trưởng giả
Cấp Cô Độc, Anathapindika, người chu cấp cho những kẻ bần cùng và cô độc. Khi
chàng mở lời ca tụng bậc giác ngộ, ai cũng tin ngay lời chàng. Ai cũng ước ao
được thấy mặt Bụt và giáo đoàn của người. Đại đức Sariputta sáng nào cũng ghé
vào các thôn xóm để khất thực, và Suddatta thường đi theo người, Suddatta
thường lấy cơ hội tiếp xúc này để nói cho đồng bào chàng nghe về Bụt và về giáo
đoàn các vị khất sĩ.
Đi như
thế được non một tháng thì hai người về tới Savathi. Đại đức Sariputta được
Suddatta mời về nhà để cúng dường. Chàng ân cần giới thiệu đại đức với gia đình
chàng và cầu xin đại đức thuyết pháp cho mọi người nghe. Thân phụ, thân mẫu và
nội trợ của chàng đều xin phát nguyện thọ trì ba sự quay về nương tựa và năm
giới. Nội trợ của Suddatta tên là Punnalakkhana, dáng người đoan trang và thùy
mị. Nàng đã có bốn đứa con với Suddatta. Cả bốn đều còn nhỏ tuổi, ba đứa đầu là
con gái và đứa chót là con trai. Đứa lớn tên là Subhadha chị, đứa kế tên là
Subgadha em, đứa áp út tên là Sumagadha, cậu con trai tên là Rala.
Đại đức
Sariputta bắt đầu đi hành hóa trong thủ đô Savathi. Buổi chiều và ban đêm, thầy
về cư trú tại một khu rừng thưa gần bờ sông. Trong khi đó Suddatta đi tìm một
nơi khả dĩ có thể làm chỗ cư trú thuận tiện cho Bụt và giáo đoàn trong chuyến
hoằng pháp quan trọng sắp đến.
---o0o---
Chương 40
BAO NHIÊU TẤC ĐẤT BẤY NHIÊU TẤC
Đường
Xưa Mây Trắng - VÀNG Suddatta đi xem xét nhiều nơi nhưng chưa có nơi nào đẹp đẽ
và thanh tịnh bằng khu lâm viên của thái tử Jeta nằm sát thủ đô Savathi. Chàng
nghĩ nếu có được khu lâm viên này làm cơ sở lưu trú và hành đạo của Bụt và giáo
đoàn thì đạo lý tỉnh thức sẽ được truyền bá sâu rộng trong vương quốc.
Suddatta
tìm đến thái tử Jeta xin gặp. Hôm ấy trong dinh thự của thái tử có mặt một vị
văn quan trong triều mà Suddatta cũng có quen biết. Sau khi chào hỏi thái tử và
vị văn quan, Suddatta trình bày ước muốn của mình và xin thái tử nhượng lại cho
chàng khu vườn của thái tử để làm cơ sở tu học và hoằng pháp cho Bụt. Thái tử
Jeta mới có hai mươi tuổi. Khu vườn này là của vua Pasenadi ban cho chàng năm
ngoái. Thái tử nhìn vị văn quan rồi nhìn Suddatta nói:
- Khu
vườn ấy là của phụ vương tôi cho tôi, và tôi quý nó như vàng. Nếu ông có đủ
vàng lá đem trải đầy khu vườn thì tôi sẽ nhường nó lại cho ông.
Thái tử
Jeta nói nửa đùa nửa thật nhưng thương gia trẻ tuổi lại không cho đó là chuyện
đùa. Chàng nói:
- Được
rồi, tôi sẽ theo điều kiện của thái tử đặt ra. Sáng mai, tôi sẽ cho chở vàng
tới.
Thái tử
Jeta giật mình:
- Tôi
nói đùa đó mà, tôi không bán khu vườn của tôi đâu. Ông đừng chở vàng tới.
Nhưng
Suddatta vẫn nghiêm trang:
- Thưa
thái tử, ngài là một bậc vương giả, ngài đã nói ra lời nào thì chắc lời ấy
không thể bị xóa bỏ.
Rồi
Suddatta quay sang hỏi vị văn quan đang ngồi uống nước với thái tử:
- Thưa
đại nhân, có phải đúng như vậy không?
Vị văn
quan gật đầu. Ông ta xoay về phía thái tử Jeta:
- Vị
thương gia Anathapindika này nói đúng, thưa điện hạ, đã không ra giá thì thôi,
một khi đã đưa giá cả thì ta không có quyền không bán.
Thái tử
Jeta đành nhượng bộ, Tuy nhiên chàng hy vọng rằng Suddatta không có đủ vàng.
Thái tử chưa kịp nói gì thêm thì Suddatta đã đứng dậy chắp tay tạ ơn và cáo
biệt. Ngay sáng hôm sau, chàng cho người chở vàng tới lót khu vườn.
Thái tử
Jeta chứng kiến cảnh tượng lót vàng này và rất lấy làm kinh ngạc.
Thái tử
biết đây không phải là một chuyện mua bán tầm thường. Không ai bỏ ra một số
vàng lớn như thế để mà mua một khu vườn giải trí. Bụt và giáo đoàn của người
chắc chắn là những nhân vật lỗi lạc lắm cho nên người thương gia này mới phát
tâm dũng mãnh như thế này được. Nghĩ thế, thái tử tới gần Suddatta và hỏi thăm
chàng về Bụt. Mắt vị thương gia sáng lên.
Chàng kể
cho cho thái tử nghe về con người của Bụt, về đại cương giáo lý của người và về
giáo đoàn các vị khất sĩ. Chàng lại hứa ngày mai sẽ đến mời thái tử đi thăm
viếng đại đức Sariputta, một vị cao đệ của Bụt, hiện đang có mặt tại thủ đô.
Nghe Suddatta nói, thái tử Jeta cũng cảm thấy hứng khởi trong lòng. Lúc bấy giờ
người của Suddatta đã chở vàng được ba chuyến và đã lót được khoảng hai phần ba
khu vườn. Khi chiếc xe sắp đi chuyến thứ tư thì thái tử Jeta đưa tay ngăn lại.
Thái tử nói với Suddatta:
- Thôi,
ông lót từng ấy vàng đủ rồi. Phần đất còn lại là phần tôi hiến tặng cho Bụt và
giáo đoàn. Tôi cũng muốn góp phần vào công trình lớn lao và đẹp đẽ của ông. Tôi
nói như thế này, ông nghe có được không nhé: cứ xem như là ông cúng đất, còn
tôi thì cúng cây cho tu viện. Sau này có ai hỏi thì ta có thể nói rằng tu viện
này tên là “Vườn Anathapindika với cây của Jeta”.
Ông chịu
không?
Suddatta
rất hoan hỷ. Chàng hân hoan thấy thái tư Jeta chịu đóng góp vào công cuộc hoằng
pháp lớn lao này. Chiều hôm sau, chàng đến rước thái tử đi thăm đại đức
Sariputta, để thái tử được thấy nhân cách của thầy và được nghe thuyết pháp.
Sau đó, cả ba người cùng đi đến khu vườn mà Suddatta vẫn gọi là Jetavana, dù
chàng đã đứng tên làm địa chủ. Suddatta hỏi ý kiến thầy Sariputta và thái tử
Jeta về kế hoạch xây dựng cư xá, thiền đường, nhà giảng và phòng tắm. Chàng
muốn dựng một mái tam quan trước cổng tu viện trên khoảng đất của thái tử Jeta
cúng dường để kỷ niệm và cũng để làm vui lòng thái tử. Thầy Sariputta đã đưa ra
nhiều chỉ dẫn rất quý báu về việc xây dựng cư xá, thiền đường, nhà giảng và
phòng tắm, bởi vì thầy biết rất tường tận về những nhu yếu của các sinh hoạt tu
viện. Một nơi êm mát được chỉ định để làm am lá cho Bụt. Những con đường được
vạch ra, và những giếng nước được bắt đầu đào. Sariputta khẩn khoản yêu cầu đại
đức Sariputta cư trú ngay tại Jetavana để giúp chàng điều động công việc xây
cất những tiện nghi tu viện. Có những buổi sáng gia đình Suddatta mang thức ăn
lên để cúng dường đại đức. Vào những hôm này đai đức không đi khất thực, còn
vào những buổi khác, đại đức thường mặc áo mang bát đi khất thực trang nghiêm
trong thành phố. Dân chúng thủ đô dần dần biết tới đại đức, và từ câu chuyện
Suddatta lót vàng mua đất Jetavana đã được truyền đi khắp nơi. Ai cũng biết
rằng vị thương gia trẻ Anathapindika đã mua đất của thái tử và đang xây cất tu
viện cho một giáo đoàn sẽ từ Magadha tới. Thỉnh thoảng vào những buổi chiều,
đại đức Sariputta thuyết pháp tại Jetavana và dân chúng thủ đô đã bắt đầu đi
nghe khá đông, Bụt vẫn chưa tới mà đạo của Bụt đã được dân chúng hâm mộ.
Bốn
tháng sau, khi công cuộc xây cất đã gần hoàn tất, đại đức Sariputta lên đường
trở về Rajagaha đón Bụt.
Buổi
sáng khi đại đức Sariputta về tới Vesali, thầy thấy bóng dáng rất nhiều chiếc
áo vàng trong thành phố. Hỏi ra thầy biết là Bụt và trên năm trăm vị khất sĩ đã
tới Vesali trước đó mấy hôm. Hiện Bụt đang cư trú trong Rừng Lớn. Sariputta lập
tức tìm về giảng đường thăm Bụt. Bụt cho thầy biết là nữ cư sĩ Ambapali vừa mới
tới thỉnh Bụt và giáo đoàn tới thọ trai ngày mai tại vườn Xoài của bà. Người
hỏi thăm về cuộc hoằng hóa của thầy ở Savatthi.
Sau khi
nghe Sariputta kể lại những gì đã xảy ra tại thủ đô vương quốc Kosala, Bụt cho
thầy biết rằng hiện các đại đức Kondanna và Uruvela Kassapa đang hướng dẫn đại
chúng tu học tại Trúc Lâm và tất cả các vị khất sĩ hành đạo trong vương quốc
Magadha đã được Bụt thông báo nên y chỉ vào hai thầy ấy.
Trong số
năm trăm vị khất sĩ đi theo Bụt, hai trăm vị sẽ ở lại hành đạo tại tiểu bang
Videha và tại Vesali, còn ba trăm vị sẽ theo Bụt qua Kosala. Mọi việc đều đã
được các thầy phụ tá sắp đặt chu đáo. Bụt cho biết ngày mốt Bụt sẽ rời Vesali
để lên đường đi Savatthi và người bảo thầy Sariputta cùng đi với người.
Được
cúng dường Bụt và giáo đoàn khất sĩ tại vườn Xoài của mình.
Ambapali
rất lấy làm mãn nguyện. Bà chỉ tiếc cậu con trai của bà là Jivaka đã không có ở
nhà để thừa tiếp Bụt và giáo đoàn. Cậu đang theo học ngành y khoa gần thủ đô
Rajagaha. Ngày hôm qua, sau khi tới thỉnh Bụt ra về, bà gặp một số các vương tử
Licchavi ở giữa đường. Các vị vương tử này là những người có quyền thế vào bậc
nhất ở Vesali. Họ đi trên những chiếc xe song mã trang sức cực kỳ lộng lẫy. Họ
đón đường bà. Chiếc song mã của bà phải ngừng lại. Họ hỏi bà đi đâu. Ambapali
trả lời bà vừa đi thỉnh Bụt và giáo đoàn ngày mai về dùng cơm trưa. Các vị
vương tử đề nghị bà hủy bỏ việc mời Bụt đi và chỉ nên mời họ. Họ nói:
- Nếu
nàng chịu mời chúng tôi, chúng tôi sẽ trả giá bữa cơm ngày mai là một trăm ngàn
đồng vàng.
Theo ý
các vị vương tử, mời các ông thầy tu thì chẳng có ích lợi và vui vẻ gì.
Ambapali
trả lời:
- Quý vị
vương tử chưa biết Bụt nên mới nói như thế. Tôi đã mời Bụt và giáo đoàn của
người vào ngày mai rồi. Quý vị vương tử có cho tôi cả thành Vesali cùng tất cả
đất đai vao quanh thành, tôi cũng không đánh đổi bữa cơm ngày mai cho các vị,
đừng nói là các vị trả cho tôi một trăm ngàn đồng vàng. Thôi tôi xin phép quý
vị được về nhà sớm để lo cho cuộc đón tiếp ngày mai.
Các
vương tử Licchavi bắt buộc phải tránh đường cho bà đi. Ambapali đâu có biết
rằng sau khi tránh đường cho bà đi, họ đã rủ nhau tìm đến Bụt để xem ông thầy
tu này là ai mà Ambapali kính trọng đến thế. Họ tìm đến Rừng Đại Lâm. Họ đậu xe
ở ven rừng và đi bộ vào.
Bụt biết
đây là những thanh niên có nhiều hạt giống từ bi và trí tuệ. Người mời họ ngồi
và kể chuyện cho họ nghe. Người kể cho họ nghe về thân thế và lịch trình tu đạo
của người. Rồi người nói về đạo lý diệt khổ, và lý tưởng giải thoát. Người biết
họ cũng thuộc về giai cấp Ksatriya, cũng thuộc về hoàng tộc như người. Nhìn họ,
người thấy hình ảnh của người ngày xưa.
Câu
chuyện người nói vì thế rất có vẻ thân mật.
Sau khi
được nghe Bụt thuyết pháp, các vị vương tử Licchavi bừng tĩnh. Họ thấy được họ.
Họ thấy sự hưởng thụ giàu sang và quyền bính không đủ để đem lại cho họ hạnh
phúc. Họ tìm thấy lý tưởng cho tuổi trẻ họ. Tất cả đều xin nguyện làm học trò
tại gia của Bụt. Họ ngõ lời thỉnh Bụt ngày mai đến thọ trai. Bụt mỉm cười:
- Ngày
mai tôi đã được Ambapali mời rồi.
Các vị
vương tử cũng mỉm cười. Họ nhớ lại cuộc đối đáp giữa họ và Ambapali trước đó.
Một vị nói:
- Vậy
thì chúng con xin thỉnh Bụt vào ngày mốt.
Bụt mỉm
cười chấp thuận.
Tại lễ
cúng dường tổ chức ở vườn Xoài. Ambapali đã mời các thân hữu của bà đến để nghe
Bụt thuyết pháp. Một số các vương tử Licchavi cũng đã được mời tham dự buổi lễ
này.
Ngày hôm
sau, Bụt với trên một trăm vị khất sĩ tới dự lễ trai tăng tại trú sở các vương
tử Licchavi. Bụt và các vị khất sĩ được đón tiếp rất long trọng.
Các thức
ăn được cúng dường tuy là những thức ăn chay nhưng đều là những thức trân quý
vào bậc nhất. Các loại trái cây như mít, xoài, chuối, và hồng táo đều đã được
hái từ vườn cây của các vương tử. Thọ trai xong, Bụt giảng cho mọi người nghe
về giáo nghĩa duyên sinh và con đường của tám sự hành trì chân chính. Bài giảng
của ngài làm rung động tâm can của người nghe. Mười hai vị vương tử đã cầu Bụt
cho được xuất gia. Bụt vui lòng chấp nhận họ. Trong số những người được xuất
gia hôm ấy có Otthaddha và Sunakhatta, hai vị vương có ảnh hưởng lớn trong bộ
tộc Licchavi.
Cuối
buổi cúng dường, các vị vương tử trong bộ tộc Licchavi khẩn khoản thỉnh Bụt và
giáo đoàn sang năm về an cư tại Vesali. Họ hứa sẽ cất tu viện và giảng đường
trong khu Rừng Lớn để có chỗ an cư cho Bụt và hàng trăm vị khất sĩ. Bụt chấp
thuận lời thỉnh cầu này.
Sáng hôm
sau, nữ cư sĩ Ambapali đến viếng Bụt rất sớm. Bà ngõ ý muốn Bụt nhận vườn Xoài
của bà như một phẩm vật cúng dường của bà cho giáo đoàn khất sĩ. Bụt nhận lời.
Sau đó, Bụt cùng Sariputta và tăng đoàn lên đường đi về thủ đô Savatthi.
---o0o---
MỤC LỤC
Đường
xưa mây trắng (Chương 1 – 20)
Đường
xưa mây trắng (Chương 21 – 40)
Đường xưa mây trắng (Chương 41 – 80)
Đường xưa mây trắng (Chương 61 – 81 end)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét