Chương 41
AI CÓ THẤY MẸ TÔI Ở ĐÂU KHÔNG?
Đường về
Savatthi đối với đại đức Sariputta đã trở nên quen thuộc. Trên con đường này
thầy và cư sĩ Anathapindika đã gây được nhiều niềm tin nơi dân chúng đối với
Bụt và giáo đoàn của người. Lần này Bụt đi tới đâu là được dân chúng tiếp đón
niềm nỡ tới đó. Trên tả ngạn con sông Aciravati, có nhiều khu rừng mát mẻ, nơi
ấy Bụt và giáo đoàn khất sĩ có thể nghỉ ngơi mỗi tối. Đoàn người chia làm ba
nhóm, nhóm của Bụt đi đầu, có thầy Sariputta hướng dẫn, nhóm thứ hai do đại đức
Assaji cầm đầu, nhóm thứ ba có đại đức Moggallana chăm sóc. Các đoàn khất sĩ đi
rất trang nghiêm, khi khất thực cũng như lúc đi trên đường rất dài. Dân chúng
các thôn xóm ven sông thỉnh thoảng được nghe pháp thoại của Bụt hay trên một bờ
sông. Ngày tới Savatthi, Bụt và giáo đoàn được hướng dẫn về thẳng Kỳ Viên tức
là tu viện Jetavana. Thấy trung tâm tu học được xây dựng và trang bị khéo léo
và chu tất. Bụt nhìn Suddatta và ngỏ lời khen ngợi. Suddatta rất sung sướng,
Chàng thưa với Bụt rằng đó cũng là nhờ ý kiến và công trình của đại đức
Sariputta và thái tử Jeta.
Chú tiểu
Rahula, năm nay đã hai mươi hai tuổi. Theo nguyên tắc chú phải thân cận với đại
đức Sariputta để học hỏi với thầy, nhưng sáu tháng nay vì thầy Sariputta vắng
mặt cho nên chú đã được giao lại cho đại đức Moggallana. Về tới tu viện
Jetavana, chú lại được theo hầu thầy Sariputta như cũ.
Hoàng
thái tử Jeta và cư sĩ Suddatta thiết kế một lễ cúng dường ngay tại tu viện mới,
ngay sau ngày giáo đoàn tới Savatthi. Dân chúng quanh vùng được mời tới chiều
hôm ấy để nghe Bụt thuyết pháp. Đã nghe nói tới Bụt và giáo đoàn từ nhiều tháng
rồi cho nên hôm ấy dân chúng thủ đô về tu viện rất đông. Bụt đã nói về bốn sự
thật và con đường tám sự hành trì chân chính.
Trong số
những ngồi nghe Bụt có cả hoàng hậu Mallika, phu nhân của quốc vương Pasenadi
và công chúa Vajiri. Hoàng hậu và công chúa đã tới do lời mời của thái tử Jeta.
Thái tử đã có lòng hâm mộ Bụt từ ngày biết đại đức Sariputta, và chàng đã nói
nhiều về Bụt với mẹ và em gái. Công chúa mới lên mười sáu.
Nghe
thuyết pháp xong, hoàng hậu và công chúa có cảm tình ngay với Bụt.
Cả hai
người thấy tâm hồn như mở ra. Cả hai đều muốn xin làm đệ tử Bụt, nhưng chưa
dám. Hoàng hậu tự nhủ là phải có sự đồng ý của vua mới có thể đến Bụt xin quy
y. Hoàng hậu Mallika biết thế nào trong tương lai vua Pasenadi cũng có cảm tình
với Bụt, em gái của vua hiện giờ là chánh hậu của vua Bimbisara nước Magadha,
đã quy y với Bụt từ ba năm nay.
Trong số
những người đến nghe Bụt thuyết pháp hôm ấy cũng có nhiều nhân vật quan trọng
thuộc các giáo phái tôn giáo đang thịnh hành ở Savatthi. Họ đến vì tò mò hơn là
vì tìm học. Có người nghe Bụt xong chợt thấy tâm hồn cởi mở. Có người nghe Bụt
xong thì thấy người là một thế lực tranh chấp đáng ngại, nhưng ai nấy đều công
nhận rằng sự xuất hiện của Bụt tại thành Savatthi này là một biến cố rất trọng
đại trong lịch sử tư tưởng và tôn giáo ở vương quốc Kosala.
Hôm ấy
sau khi lễ cúng dường và buổi thuyết pháp đã hoàn mãn, cư sĩ Suddatta trân
trọng tới quỳ trước Bụt và bạch với người:
- Con và
gia đình con cùng tất cả các bạn hữu kính dâng tu viện Jetavana này lên cho Bụt
và giáo đoàn. Mong Bụt và giáo đoàn chấp nhận cho chúng con.
Bụt nói:
-
Suddatta, công đức của quý vị thật to lớn. Giáo đoàn khất sĩ nhờ có cơ sở này
mà có nơi tránh mưa, tránh nắng, thú hoang, rắn rết và muỗi mòng. Đây là một cơ
sở tu học rất thuận lợi cho các vị khất sĩ đến từ bốn phương, trong hiện tại
cũng như trong tương lai. Quý vị đã hết lòng hộ trì chánh pháp, tôi mong là quý
vị sẽ giữ vững chí hướng trên con đường tu tập.
Sáng hôm
sau, Bụt và giáo đoàn khất sĩ ôm bát và đi vào thành khất thực.
Đại đức
Sariputta đã chia các vị khất sĩ thành hai mươi đoàn khất thực, và mỗi đoàn
mười lăm vị. Sự có mặt của các chiếc áo vàng trong thành phố đã khiến cho dân
chúng nói nhiều tới tu viện Jetavana. Phong thái nghiêm trang, và lặng lẽ của
các vị khất sĩ đã làm cho dân chúng thủ đô mến phục tăng đoàn.
Cứ mỗi
bảy hôm thì lại có một buổi thuyết pháp tại tu viện Jetavana, những buổi thuyết
pháp này do Bụt chủ trì. Dân chúng đến dự rất đông. Chỉ trong vòng mười hôm
quốc vương Koala và vua Pasenadi đã biết đến sự có mặt của Bụt. Tuy bận rộn
công việc triều chính vua cũng đã có dịp ngồi nghe các vị cận thần nói về ngôi
tu viện mới và về giáo đoàn khất sĩ từ vương quốc Magadha mới tới.
Trong
một bữa cơm hoàng gia, vua đem chuyện giáo đoàn của Bụt ra nói, hoàng hậu
Mallika cho vua biết là thái tử Jeta có đóng góp và việc xây dựng tu viện. Vua
cho đòi thái tử đến và hỏi về Bụt. Thái tử Jeta thực lòng tâu vua về những gì
mình nghe thấy. Thái tử nói là nếu được vua cho phép, thái tử sẽ xin quy y làm
học trò tại gia của Bụt.
Vua
pasenadi không tin là một người trẻ tuổi như Bụt mà đã chứng đạt được quả vị
giác ngộ và giải thoát cao tột như lời đồn đãi. Theo lời thái tử thì Bụt chỉ mới
có ba mươi chín tuổi. Ba mươi chín tuổi là tuổi của vua. Vua nghĩ đức độ của
Bụt làm sao cao bằng đức độ của những bậc lãnh tụ tôn giáo lớn tuổi như Purana
Kassapa, Makkhali Gosala, Nigantha Nathaputta và Sanjana Belatthiputta. Lòng
vua nửa tin nửa ngờ. Vua nghĩ thầm là khi nào có cơ hội vua sẽ tìm tới thăm Bụt
để tìm hiểu trực tiếp con người mà cả hoàng hậu Mallika cả thái tử Jeta đều tỏ
lòng cảm mến và kính phục.
Mùa Mưa
sắp tới, Bụt quyết định sẽ cùng đại chúng an cư tại tu viện Jetavana, đã có
kinh nghiệm từ những mùa kết hạ trước tại tu viện Trúc Lâm, năm nay các thầy
phụ tá cho Bụt tổ chức mùa an cư rất dễ dàng và chu đáo. Số người mới xuất gia
tại Savatthi đã lên tới sáu mươi vị. Suddatta đã đem tới cho tu viện rất nhiều
bạn hữu, những người này rất sốt sắng trong việc tổ chức cúng dường và bảo trợ
cho những sinh hoạt tu học tại tu viện.
Một buổi
chiều nọ, Bụt tiếp một người đàn ông còn trẻ nhưng mặt mũi bơ phờ. Được Bụt hỏi
thăm, người này nói là đứa con trai độc nhất của ông ta mới chết. Suốt mấy ngày
nay, ông ta cứ ra ngoài bãi tha ma, vừa khóc vừa kêu lên: “Con ơi, bây giờ con
ở đâu?”, ông ta không thiết gì đến ăn uống và ngủ nghỉ. Bụt nói:
- Đời là
như thế đó, này ông bạn. Hễ có thương là có khổ.
Người
đàn ông không chấp nhận lời của Bụt. Ông ta phản đối.
- Thầy
nói sai rồi, thương không làm cho người ta khổ, thương chỉ đem lại cho người ta
hạnh phúc và niềm vui mà thôi!
Nói
xong, người ấy bất mãn đứng dậy và bỏ đi, không cho Bụt có cơ hội giải thích
thêm về lời người vừa nói. Ông ta đi lang thang một hồi thì gặp một toán người
đang xúm nhau đánh bạc. Ông ta ngồi xuống tham dự và nhân tiện kẻ lại cho bọn
người nghe về cuộc gặp gỡ vừa rồi với Bụt. Những người đàn ông đang cờ bạc với
nhau đều đồng ý với ông ta, cho rằng lời Bụt nói là sai. “Thương làm sao mà lại
đem tới sầu khổ và thất vọng cho được. Thương chỉ đem tới hạnh phúc và niềm vui
mà thôi! Anh nói đúng đấy, ông sa môn Gotama nói sai rồi”.
Câu
chuyện này được truyền ra và chẳng mấy chốc đã trở nên đề tài bàn tán sôi nổi
của những giáo phái ở thủ đô Savatthi. Nhiều vị lãnh tụ giáo phái cũng cho rằng
Bụt có một quan niệm sai lầm về thương yêu, và rốt cuộc câu chuyện được truyền
đến tai quốc vương Pasenadi.
Chiều
hôm ấy, trong bữa cơm gia đình, vua nói vói hoàng hậu:
- Cái vị
sa môn mà người ta thường gọi là Bụt ấy có thể không phải là người giỏi.
Hoàng
hậu hỏi:
- Tại
sao hoàng thượng nói như vậy? Ai đã chê sa môn Gotama?
- Sáng
nay ta có nghe các quan trong triều bàn tán về sa môn Gotama. Họ nói rằng theo
sa môn Gotama, càng thương nhiều thì càng lo lắng, sầu khổ và thất vọng nhiều
mà thôi.
Hoàng
hậu Mallika tâu vua:
- Nếu sa
môn Gotama đã nói như thế thì chắc đó là sự thật.
Vua
Pasenadi không bằng lòng. Vua nói:
- Hoàng
hậu đừng nên nói thế. Mình phải biết suy xét chứ. Đừng làm như một em bé hễ
thầy giáo nói điều gì thì cứ cho ngay điều ấy là đúng.
Hoàng
hậu im lặng không nói gì. Bà biết là vua chưa có cảm tình với Bụt.
Sáng hôm
sau bà nhờ một người Bà la môn tâm phúc là Nalijangha tới viếng Bụt và hỏi xem
có thật là người đã nói rằng “thương là nguồn gốc của lo lắng, sầu khổ và thất
vọng” không? Bà dặn là nếu Bụt có nói như thế thì hãy xin Bụt giải nghĩa thêm
cho rõ ràng và phải ghi nhớ hết những điều người dạy để về thuật lại cho bà.
Nalijangha
tới thăm Bụt và được Bụt kể cho mấy câu chuyện chứng tỏ rằng thương là khổ. Bụt
nói:
- Tại
Savatthi này tôi nghe nói một người thiếu nữ vừa mất mẹ. Cô ta đau khổ quá đến
phát điên, cả ngày cứ đi ngoài đường gặp ai cũng hỏi: ông có gặp mẹ tôi đâu
không? Bà có thấy mẹ tôi đâu không? Cũng tại Savatthi, tôi lại mới nghe nói có
hai thanh niên nam nữ yêu nhau, nhưng gia đình cô lại ép gã người con gái cho
một chàng trai mà cô ta không yêu. Do đó mà hai người yêu nhau phải rủ nhau tự
tử, nghĩ rằng chỉ có cái chết mới kết hợp họ với nhau được. Nội hai câu chuyện
này cũng có thể chứng tỏ rằng thương là khổ”.
Nalijangha
về thuật lại những câu chuyện ấy cho hoàng hậu Mallika nghe.
Một hôm
nhân lúc vua Pasenadi rảnh rỗi, hoàng hậu hỏi vua:
- Bệ hạ
nghĩ thế nào, công chúa Vajiri có phải là người bệ hạ thương yêu và cưng chiều
nhất hay không?
- Đúng
như vậy, ta thương yêu và cưng chiều con gái ta nhất.
- Vậy
nếu có gì không may xảy ra cho công chúa Vajiri thì bệ hạ có lo lắng, sầu khổ
và thất vọng không?
Vua
Pasenadi giật mình. Vua thấy rằng trong cái thương, có những mầm mống của lo
lắng, sầu khổ và thất vọng. Vua tự nhiên mất hết an lạc. Câu nói của Bụt chứa
đựng một sự thật phũ phàng làm cho vua ngẩn ngơ. Vua nói:
- Hôm
nào có dịp trẫm cũng sẽ đến thăm viếng viếng sa môn Gotama.
Nghe vua
nói như thế, hoàng hậu rất vui mừng. Bà tin rằng không được gặp Bụt thì thôi,
chứ nếu được gặp Bụt thế nào vua cũng sẽ có cảm tình vơi Bụt.
---o0o---
Chương 42
KHÔNG HIỂU BIẾT THÌ KHÔNG THỂ
Đường
Xưa Mây Trắng - THƯƠNG YÊU Vua Pasenadi đến thăm Bụt một mình, không có hoàng
hậu và công chúa đi theo. Vua cũng không đem theo vị văn quan hay võ quan nào.
Ngài để xe và thị vệ ngoài cổng tu viện Jetavan và đi bộ vào một mình. Vua được
Bụt tiếp trước chiếc am lá của người. Sau khi an vị và trao đổi những lời thăm
hỏi, vua hỏi Bụt một cách trực tiếp:
- Sa môn
Gotama, người ta thường ca ngợi ngài là Bụt, là đã đạt tới quả vị giác ngộ cao
nhất. Trẫm băn khoăn tự hỏi: tuổi của ngài còn nhỏ, năm tu của ngài cũng còn
ít, thế mà tại sao ngài lại đạt tới thành quả đó được? Trẫm đã nghe nói đến
những vị đạo cao đức trọng như Puruna Kassapa, như Makkhali Gosala, như
Nigantha Nathaputta, như Sanjaya Belatthiputta ...
những vị
này là người người tu lâu năm, tuổi tác đều lớn, tại sao họ không tự nhận họ là
bậc giác ngộ hoàn toàn? Lại còn những vị như Pakudha Kaccayana và Ajita
Kesakambali nữa. Ngài có nghe nói đến những vị ấy không?
Bụt ôn
tồn:
- Đại
vương, tôi có nghe nói tới các vị ấy và có vị tôi cũng đã từng được gặp.
Đại
vương, sự tỉnh thức không tùy thuộc vào tuổi tác, và năm tháng không quyết định
được sự có mặt của giác ngộ. Đại vương, có những cái bé nhỏ mà ta không nên
khinh thường: một vị vương tử bé, một con rắn con, một đốm lửa nhỏ và một nhà
tu trẻ. Vị vương tử tuy bé nhưng cũng có vương tính của một đức vua như bệ hạ
bậy giờ, một con rắn nhỏ có thể làm ta mất mạng trong chốc lát. Một đốm lửa
hồng có thể làm thiêu rụi một khu rừng hay một thành phố lớn và một nhà tu trẻ
có thể đạt tới quả vị giác ngộ hoàn toàn. Đại vương! Người khôn ngoan không bao
giờ khinh thường một một vương tử bé, một con rắn nhỏ, một đốm lửa hồng và một
nhà tu trẻ.
Vua
Pasenadi nhìn Bụt kinh ngạc. Người ngồi trước mặt vua đã nói với vua những điều
trên một cách điềm đạm. Những điều Bụt nói không hàm chứa một hào ly mặc cảm
nào. Vua bắt đầu có đức tin nơi Bụt. Vua hỏi Bụt về điều mà vua còn thắc mắc và
chưa giải quyết được xong xuôi:
- Sa môn
Gotama, có người nói rằng ngài chủ trương không nên thương yêu, bởi vì càng
thương nhiều thì càng lo lắng nhiều, càng thương nhiều thì càng sầu khổ nhiều, càng
thương nhiều thì càng thất vọng nhiều. Trẫm nghĩ rằng điều đó có thể đúng,
nhưng lòng trẫm vẫn không yên. Trẫm nghĩ nếu không có thương yêu thì cuộc đời
sẽ khô khan và vô vị lắm. Xin ngài giải giùm những nghi nan ấy cho trẫm.
Bụt nhìn
vua:
- Đại
vương, câu hỏi của ngài rất hay, và nhiều người sẽ được khai sáng nhờ câu hỏi
này. Tiếng thương yêu có nhiều nghĩa, ta phải xét cho kỹ về bản chất của từng
loại thương yêu. Cuộc đời cần đến đến sự thương yêu, nhưng không phải là thứ
thương yêu dựa trên căn bản của dục vọng, của đam mê và vướng mắc, của phân
biệt và kỳ thị. Đại vương, có một thứ tình thương mà cuộc đời rất cần đến, đó
là lòng từ bi. Từ là maitri, còn bi là karuna.
Đại
vương, tình thương mà người đời thường nói tới là tình thương giữa cha mẹ và
con cái, giữa vợ và chồng, giữa những người cùng trong họ hàng, cùng thân tộc,
cùng giai cấp hoặc cùng quốc gia. Vì tình thương ấy còn dựa vào ý niệm “tôi” và
“của tôi” cho nên bản chất của nó còn là sự vướng mắc và phân biệt. Người ta
chỉ muốn thương cha của mình, thương mẹ của mình, thương chồng của mình, thương
vợ của mình, thương con của mình, thương cháu của mình, thương họ hàng của
mình, thương đất nước của mình, cho nên người ta còn vướng mắc và phân biệt.
Vướng mắc cho nên lo lắng về những bất trắc có thể xảy đến dù chúng chưa xảy
đến, vướng mắc cho nên phải gánh chịu sầu đau và thất vọng mỗi khi có những bất
trắc xảy đến. Phân biệt cho nên có thái độ nghi kỵ, hờ hững và ghét bỏ đối với
những người mình không thương. Vướng mắc và phân biệt đều là những nguyên nhân
của khổ đau, khổ đau cho mình và cho người. Đại vương, thứ tình thương mà muôn
loài đang khao khát là lòng từ bi. Từ là thứ tình thương có thể đem đến an vui
cho kẻ khác, bi là thứ tình thương có thể làm vơi đi những khổ đau của kẻ khác.
Từ và bi là thứ tình thương không có điều kiện, không bắt buộc và không đòi hỏi
bất cứ một sự đền đáp nào. Trong từ bi, người được thương không phải chỉ là cha
ta, mẹ ta, vợ ta, chồng ta, con ta, huyết thống ta, giai cấp ta ... Kẻ được
thương là tất cả mọi người và mọi loài. Trong từ và bi không có sự phân biệt ta
và không ta, của ta và của không của ta. Vì không phân biệt nên không có vướng
mắc. Từ và Bi chỉ đem lại niềm vui và làm giảm đi nổi khổ; Từ và Bi không gây
lo lắng sầu khổ và thất vọng.
Thiếu từ
bi, cuộc đời sẽ khô khan, khổ đau và buồn chán như đại vương nói.
Có từ
bi, cuộc đời sẽ có an lạc, hạnh phúc và tươi vui. Đại vương, ngài là bậc nhân
chủ cầm đầu của cả một nước, dân chúng vương quốc ngài sẽ được thấm nhuần ân
đức ngài nếu ngài tu tập được tâm Từ và tâm Bi.
Vua cúi
đầu suy nghĩ một lúc. Sau đó vua ngửng lên bỏi Bụt:
- Trẫm
có một gia đình để coi sóc, có một vương quốc phải chăm lo. Nếu trẫm không
thương yêu gia đình của trẫm và dân chúng trong vương quốc của trẫm thì làm sao
trẫm có thể coi sóc và chăm lo cho họ được? Xin Bụt soi sáng điểm này cho trẫm.
- Cố
nhiên là đại vương phải thương yêu gia đình hoàng gia và phải thương yêu dân
chúng của vương quốc. Nhưng tình thương yêu của đại vương có thể vượt khỏi phạm
vi gia đình và vương quốc. Đại vương thương yêu và chăm sóc cho các hoàng tử và
công chúa. Điều đó không ngăn cản việc đại vương có thể thương yêu và chăm sóc
cho tất cả những người trẻ khác trong vương quốc như là thương yêu và chăm sóc
chính con trai và con gái của đại vương. Nếu đại vương làm được như vậy thì
tình thương hạn hẹp trở thành tình thương rộng lớn, và đột nhiên tất cả những
người trẻ tuổi trong vương quốc đều trở nên con trai và con gái của đại vương.
Đó đích thực là tâm từ bi. Đây không phải là một điều quá lý tưởng. Đây là một
điều con người có thể thực hiện được nhất là khi con người ấy có trong tay
những phương tiện như đại vương. Nếu đại vương phát được nguyện lớn thì đại
vương chắc chắn có thể làm được điều này.
- Nhưng
còn những người trẻ tuổi trong các vương quốc khác?
- Không
có gì ngăn cản đại vương thương yêu những người trẻ tuổi trong các vương quốc
khác như con trai và con gái của ngài, dù những người này không nằm trong vùng
cai trị của đại vương. Không phải vì thương yêu dân chúng của quốc gia mình mà
mình không thể thương yêu dân chúng của các quốc gia khác.
- Thương
yêu như thế nào? Họ có nằm dưới quyền cai trị của mình đâu?
Bụt nhìn
vua:
- Sự
giàu mạnh và an ổn của một quốc gia không phải được tạo nên bởi sự nghèo hèn và
loạn lạc của những quốc gia khác. Đại vương, nền hòa bình và thịnh vượng lâu
dài của một quốc gia chỉ có thể được xây dựng trên sự hòa hiếu giữa các quốc
gia và ý hướng về một nền thịnh vượng chung. Nếu đại vương thực sự muốn cho
vương quốc Kosala có hòa bình và những người trai trẻ trong vương quốc không
phải xông pha nơi lửa đạn thì đại vương cũng phải giữ gìn làm sao cho các vương
quốc kế cận cũng có hòa bình và để những trai trẻ các xứ đó cũng khỏi phải xông
pha trong vòng lửa đạn.
Chính
sách ngoại giao và kinh tế của đại vương phải thực sự đi theo con đường của tâm
từ bi thì đại vương mới có thể làm được chuyện này. Như vậy trong khi đại vương
thương yêu và chăm sóc cho quốc gia Kosala, đại vương cũng chăm sóc cho các
vương quốc khác như Magadha, Sasi, Videha, Sakya và Koliya.
Đại
vương, mới năm ngoái đây, sau khi về thăm gia đình và vương quốc Sakya, tôi và
nhiều vị khất sĩ có tới du hóa ở Arannakutila, thuộc lãnh thổ của quý quốc, sát
chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ở đó tôi đã suy nghiệm về một chính sách trị nước căn
cứ trên nguyên tắc bất bạo động. Tôi thấy các vị quốc vương rất có thể cai trị
nghiêm minh, đem lại an hòa và hạnh phúc của muôn dân mà không cần sử dụng đến
những biện pháp bạo động như chinh phạt, xử tử, giam hãm, tù đày v.v... Tôi đã
nói những điều này với phụ vương tôi, vua Suddhodana. Nhân tiện đây tôi cũng
muốn xác định điều đó với đại vương. Làm nhà chính trị giỏi, đại vương có thể
trị nước mà không cần đến những phương thức bạo động, nếu ngài biết un đúc và
nuôi dưỡng Từ Bi.
Vua thốt
lên:
- Thật
là kỳ diệu! Thật là kỳ diệu! Chưa bao giờ trẫm được nghe những lời giáo huấn
mới lạ và sâu sắc như thế! Ngài thật là một bậc tôn quý trên đời!
Những
điều Bụt dạy, trẫm xin lĩnh giáo để về chiêm nghiệm, bởi vì trẫm biết những lời
dạy ấy có những chiều sâu cần phải khám phá. Bây giờ trẫm xin hỏi ngài một câu
hỏi thật đơn giản. Thói thường, thì tình thương của người đời bao giờ cũng ẩn
chứa ý niệm phân biệt, và ít nhiều cũng mang tính chất đam mê và vướng mắc.
Theo Bụt thì thứ tình thương có thể gây nên lo lắng, sầu khổ, và thất vọng. Vậy
nếu không thương như thế thì ta phải thương làm sao? Ví dụ như trẫm đây, trẫm
phải thương con cái của trẫm như thế nào để tránh được những lo lắng, sầu khổ
và thất vọng?
- Không
ai cấm cản chúng ta thương yêu, nhưng ta phải biết quán sát để thấy được bản
chất của tình thương chúng ta.Tình thương theo lẽ thì phải làm cho người được
thương yêu có an lạc và hạnh phúc, nhưng nếu chỉ là đam mê, là ích kỷ, là ý chí
chiếm hữu thì tình thương này không thực sự là tình thương, tình thương này
không làm cho người được thương có an lạc và hạnh phúc.
Trái lại
nó làm cho kẻ kia cảm thấy tù túng, lệ thuộc, mất hết tự do, mất hết phẩm cách
của một con người có tự do. Tình thương trong trường hợp này chỉ là một tù
ngục. Nếu người được thương không có hạnh phúc, nếu người ấy không chấp nhận
cái nhà tù của sự chiếm hữu thì tình thương kia sẽ dần dần biến thành sự ghét
bỏ và hận thù.
Đại
vương biết không, tại kinh đô Savatthi này cách đây chỉ có mười hôm, một chuyện
thương tâm đã xảy ra chỉ vì tình thương không được thỏa mãn đã biến thành hận
thù. Có một bà mẹ cảm thấy mất mát khi đứa con trai duy nhất của bà đem lòng
thương yêu một cô thiếu nữ và sau đó cưới cô ấy về làm vợ. Bà mẹ kia thay vì
thấy rằng mình có thêm một đứa con, lại cảm thấy rằng mình đã mất một đứa con,
và cho rằng con trai mình đã phản bội tình thương của mình. Nghĩ như thế, hận
thù nảy sinh trong tâm bà. Một hôm bà đã bỏ thuốc độc vào thức ăn, và cả con
trai lẫn con dâu đều chết vì ngộ độc.
Đại
vương! Trong đạo lý giác ngộ, thương yêu phải đi đôi với hiểu biết, thương yêu
chính là hiểu biết. Nếu không hiểu biết thì không thể thương yêu, vợ chồng
không hiểu nhau thì không thể thương nhau, anh em không hiểu nhau thì không thể
thương nhau. Muốn cho một người nào có hạnh phúc, mình phải tìm hiểu cho được
những ước vọng và những khổ đau của chính người ấy. Hiểu được rồì mình mới có
thể làm mọi cách để cho người ấy bớt khổ đau và có hạnh phúc. Như vậy mới gọi
là tình thương chân thật, còn nếu mình chỉ muốn kẻ kia làm theo ý mình, và
không biết gì đến những khổ đau và những nhu cầu chân thực của người ấy thì đó
không phải là thương. Đó chỉ là ước muốn chiếm hữu hoặc ước muốn thỏa mãn ý
nguyện của mình, cho dù đó là ý nguyện muốn cho người kia sung sướng.
Đại
vương! Dân chúng trong vương quốc Kosala có những đau khổ và những ước vọng của
họ. Nếu đại vương thực sự hiểu thấu những đau khổ và những ước vọng ấy thì đại
vương sẽ thực sự thương yêu được họ. Các quan chức trong triều cũng có những
đau khổ và những ước vọng của họ. Nếu đại vương thực sự thấu hiểu những đau khổ
và ước vọng ấy, đại vương có thể làm cho họ sung sưóng và họ sẽ suốt đời trung
thành với đại vương. Hoàng hậu, các thái tử và công chúa, mỗi người đều cũng có
những đau khổ và những ước vọng của mình; nếu đại vương thực sự thấu hiểu được những
đau khổ và những ước vọng ấy, đại vương cũng sẽ làm cho họ sung sướng, và khi
mọi người được sung sướng và an lạc thì chính đại vương cũng sẽ được sung sướng
và an lạc. Đó là nghĩa thương yêu trong đạo lý tỉnh thức.
Vua
Pasenadi cảm thấy xúc động. Chưa có một vị đạo sĩ hay một vị Bà la môn nào đã
chiếu rọi ánh sáng vào các ngõ ngách tâm tư của vua và làm cho vua thấy hiểu
được tâm mình một cách rõ ràng như thế. Vị sa môn, vua nghĩ là một bảo vật quý
giá không lường của vương quốc, xứng đáng làm thầy của ta. Vua cúi đầu suy
nghĩ. Một lát sau, vua ngửng mặt nhìn Bụt:
- Trẫm
cảm ơn ngài đã soi sáng nhiều cho trẫm, nhưng còn một điều này nữa, trẫm còn
thắc mắc. Ngài đã nói rằng tình thương có đam mê và vướng mắc thường có tác
dụng gây khổ đau và thất vọng, trong khi thương theo đạo lý từ bi tuy không ích
kỷ và không vụ lợi nhưng cũng vẫn đem lại khổ đau và thất vọng như thường. Trẫm
cũng thương dân, nhưng mỗi khi thấy dân chịu khổ đau vì những thiên tai như bão
tố lụt lội, dịch lệ ... thì trẫm vẫn cảm thấy khổ đau và thất vọng, mà trẫm
nghĩ ngài cũng thế, mỗi khi thấy người khác khổ đau vì bệnh hoạn, chết chóc,
ngài cũng không thể không khổ đau.
- Câu
hỏi của đại vương rất hay; nhờ câu hỏi này mà ngài có thể hiểu sâu thêm về bản
chất của từ bi. Trước hết, đại vương nên biết rằng những khổ đau do thứ tình
thương có bản chất đam mê và vướng mắc đem lại thì nặng nề và to lớn gấp muôn
vạn lần những khổ đau mà lòng từ bi đã làm phát khởi trong lòng ta. Kế đó, đại
vương phải phân biệt hai loại khổ đau: một loại khổ đau hoàn toàn vô ích và chỉ
có công dụng tàn phá cơ thể và tâm hồn người, một loại khổ đau nuôi dưỡng được
lòng từ bi, ý thức trách nhiệm và đưa tới ý chí hành động diệt khổ. Thứ tình
thương có bản chất đam mê và vướng mắc vì được nuôi dưỡng trong tham đắm và si
mê nên chỉ có thể đem lại những phiền não khổ đau làm tàn phá con người, trong
khi từ bi chỉ nuôi dưỡng xót thương cho hành động cứu khổ. Đại vương! sự xót
thương rất cần cho con người. Đó là một niềm đau có ích. Không biết xót thương
thì con người không thể là con người, vì vậy những khổ đau do lòng xót thương
đem lại là những khổ đau cần thiết và có lợi lớn.
Sau nửa,
đại vương nên biết là từ bi là hoa trái của sự hiểu biết. Tu tập theo đạo lý
tỉnh thức là để chứng ngộ được thực tướng của sự sống. Thực tướng ấy là vô
thường. Một vật đều vô thường, vô ngã vì vậy không vật nào là không có ngày
phải tàn hoại. Thấy được tự tính vô thường của vạn vật, người tu có một cái
nhìn điềm đạm và trầm tĩnh, vì vậy những vô thường xảy đến không làm xáo động được
tâm mình. Cũng vì vậy niềm xót thương do lòng từ bi nuôi dưỡng không bao giờ có
tính cách nặng nề và chua cay của những đau khổ thế tục. Trái lại, niềm xót
thương này còn đem đến sức mạnh cho người tu đạo.
Đại
vương! Hôm nay đại vương đã nghe khái quát về đạo lý giải thoát. Một hôm khác,
tôi sẽ giảng giải thêm cho đại vương về đạo lý này.
Với tâm
hồn tràn đầy sự biết ơn, quốc vương Pasenadi đứng dậy từ tạ Bụt.
Vua tự
nhủ là một ngày nào đó vua sẽ xin Bụt nhận vua làm đệ tử. Vua biết hoàng hậu
Mallika, thái tử Jeta và công chúa Vajiri đều đã có cảm tình sâu đậm với Bụt,
và vua nghĩ hôm nào cả gia đình hoàng gia sẽ đến xin quy y làm đệ tử cùng một
lần. Vua cũng biết là gái mình, công chúa Kosaladevi, chánh hậu của quốc vương
Bimbisala, cũng như chính quốc vương Bimbisara, em rể của mình, cũng đã từ lâu
quy y Tam Bảo.
Chiều
hôm ấy, hoàng hậu Mallika và công chúa Vajiri đột nhiên thấy vua trở nên rất
ngọt nào và thầm lặng. Hoàng hậu và công chúa biết đó là hiệu quả của cuộc gặp
gỡ giữa vua và Bụt. Tuy nhiên cả hai đều không đá động tới việc này. Họ rất
muốn vua kể lại cho họ nghe về cuộc gặp gỡ mà họ biết là rất kỳ thú ấy, nhưng
cả hai người đều mặc nhiên đồng ý rằng họ phải đợi tới một dịp khác.
---o0o---
Chương 43
MÁU AI CŨNG ĐỎ, NƯỚC MẮT AI CŨNG
Đường Xưa
Mây Trắng - MẶN Tuy quốc vương Paessi chưa chính thức quy y với Bụt, nhưng cuộc
viếng thăm của vua tại tu viện Jetavana đã được mọi giới trong vương quốc bàn
tán đến và đã đem lại ảnh hưởng không nhỏ cho giáo đoàn của Bụt tại kinh đô
Savatthi. Một số các vị lãnh tụ của các giáo phái tại thủ đô, lâu nay đã từng
được quốc vương kính nể và bảo trợ, bắt đầu có mặc cảm là bị bỏ rơi.
Họ nhìn
tu viện Jetavana với con mắt không có thiện cảm.
Tuy
nhiên giới trí thức và tuổi trẻ tìm tới tu viện Jetavana càng lúc càng đông.
Ngay trong mùa an cư, trên một trăm năm mươi thanh niên đã xin được xuất gia và
đã được thầy Sariputta cho làm lễ xuống tóc. Đại chúng tu học rất tinh tấn
trong ba tháng an cư này, và cứ bảy hôm hay tám hôm một lần, tại tu việc có tổ
chức thuyết pháp. Thấy quốc vương Pasenadi chuyên cần đi cúng dường và nghe
thuyết pháp một số quan chức trong triều cũng bắt chước vua. Một số đã làm như
thế từ tấm lòng thành thực ngưỡng mộ bậc thầy giác ngộ, còn một số đã làm như
thế để cho vua vui lòng.
Mùa an cư
được kết thúc bằng một lễ cúng dường lớn. Vua và triều thần đã nghe theo lời
Bụt tổ chức một pháp hội, cúng dường thực phẩm và y dược cho mọi giới xuất gia,
và chẩn tế cho những gia đình nghèo khổ nhất ở thủ đô và trong vương quốc. Sau
khi lễ này hoàn mãn, vua và hoàng hậu đều xin quy y với Bụt.
Sau mùa
an cư, Bụt và giáo đoàn chia nhau đi hành hóa tại các vùng lân cận ở thủ đô
Savatthi. Số người được tiếp xúc với Bụt và với giáo đoàn càng ngày càng đông.
Một hôm nọ, trong khi đi khất thực ở một xóm ven đô nằm bên tả ngạn sông Hằng,
Bụt gặp một người gánh phân. Người này thuộc về giai cấp hạ tiện. Anh tên là
Sunita, Sunita đã từng nghe nói về Bụt và giáo đoàn khất sĩ, nhưng đây là lần
đầu tiên anh được trông thấy Bụt và giáo đoàn. Sunita lúng túng. Anh biết anh
đang ăn mặc dơ dáy, người anh hôi hám và trên vai anh đang gánh một gánh phân
người. Sunita vội vã tránh đường và tìm lối đi xuống bờ sông, nhưng từ xa Bụt
đã trông thấy Sunita.
Người
quyết tâm độ người gánh phân này. Thấy Sunita tìm lối đi xuống bờ sông, Người
cũng tìm lối đi xuống bờ sông để đón đường chàng. Thấy Bụt làm như thế, thầy
Sariputta cũng bỏ hàng ngũ của mình đi theo Bụt. Thầy Meghiuya, thị giả của Bụt
thấy thế cũng bước theo đại đức Sariputta. Tất cả các vị khất sĩ khác tuy vẫn
còn đứng trong hàng ngũ, nhưng đều nhất loạt dừng lại im lặng quan sát.
Sunita
luống cuống. Chàng đặt gánh phân xuống, dáo dác nhìn. Phía trên đường thì các
vị khất sĩ áo ca sa vàng rựng đang đứng đầy cả đường, phía dưới này thì Bụt và
hai vị khất sĩ đang tiến tới và đi về phía mình. Chẳng biết làm sao, Sunita
liền lội xuống nước, đứng chắp hai tay lại.
Lúc bấy
giờ, từ dãy nhà bên sông, dân chúng đã đổ ra đứng nhìn khá nhiều.
Từ già
trẻ trai gái, không ai biết chuyện đang xảy ra, Sunita vì sợ làm ô uế giáo đoàn
đã tìm cách tránh xuống bờ nước, nhưng chàng đã bị Bụt chặn đường. Chàng nghĩ
giáo đoàn này gồm toàn các giới quý phái và làm ô uế giáo đoàn là một tội rất
lớn không nào tha thứ được. Tuy chàng đã lội xuống sông, nước ngập tới đầu gối,
nhưng gánh phân của chàng vẫn còn để phía trên bờ nước. Chàng hy vọng Bụt và
hai vị khất sĩ vì thế mà trở lên phía đường trên trở lại.
Nhưng
Bụt không trở lên, người đi tới bờ nước, gần chỗ Sunita đứng, người nói với
chàng:
- Này
anh bạn, anh lên trên này để chúng tôi nói chuyện.
Sunita
chắp hai tay vái lia lịa:
- Bạch
đại đức, con không dám! Bạch đại đức, con không dám!
- Tại
sao? Bụt dịu dàng hỏi.
- Con là
người thuộc giai cấp hạ tiên, con sợ làm ô uế ngài và giáo đoàn của ngài.
Bụt ôn
tồn:
- Chúng
tôi đã đi tu rồi, chúng tôi không còn phân biệt giai cấp. Bạn cũng là người như
tất cả chúng tôi. Chúng tôi không sợ bị ô uế đâu. Chỉ có tham dục, sân hận, và
si mê mới làm ô uế được chúng ta, chứ một con người dễ thương như bạn thì chỉ
cho chúng tôi thêm niềm vui mà thôi. Bạn tên là gì?
- Bạch
ngài, con tên là Sunita.
-
Sunita, bạn có muốn xuất gia làm khất sĩ như chúng tôi không?
- Con
không dám.
- Tại
sao bạn không dám?
- Tại vì
con thuộc giới hạ tiện ngoại cấp.
- Tôi đã
nói người đi tu không còn phân biệt giai cấp. Sunita! Trong đạo lý tỉnh thức và
trong giáo đoàn khất sĩ, không có sự phân biệt giai cấp. Bạn hãy nghe đây. Nước
trong các dòng sông như sông Ganga, sông Yamuno, sông Actravati, sông Sarabhu,
sông Mahi, sông Rohini v.v... một khi đã chảy ra biển cả rồi thì đều trở nên
biển cả mà không còn giữ lại cá tính và danh hiệu riêng biệt của mình. Cũng như
vậy, người đi xuất gia dù xuất thân từ giới quyền qúy Khattiya hoặc giới Bà la
môn Brahma, hoặc các giới Vessa và Suddha, hoặc không thuộc giai cấp nào, khi đã
vào trong giáo đoàn để tu học theo đạo lý tỉnh thức thì đều phải từ bỏ giai cấp
và chủng tộc của mình để trở nên một người khất sĩ. Sunita, nếu bạn muốn, bạn
có thể trở thành một vị khất sĩ như chúng tôi.
Sunita
hân hoan vô cùng, chàng chắp hai tay trên trán, thưa:
- Lạy
Bụt, chưa có ai nói với con một lời dễ thương như là người đã nói.
Ngày hôm
nay là ngày hạnh phúc nhất của đời con. Con sẽ rất sung sướng nếu Bụt cho con
dự vào hàng ngũ những người xuất gia trong đạo lý của người. Nếu Bụt chấp nhận
con, con sẽ đem hết lòng thành để theo người!
Bụt trao
bình bát cho thầy Meghiya. Người bước xuống bờ hồ và đưa tay cho Sunita bảo
chàng nắm lấy. Rồi người bảo thầy Sariputta:
-
Sariputta! Thầy giúp tôi một tay. Chúng ta tắm gội sạch sẽ cho Sunita và cho
Sunita xuất gia ngay tại đây, trên bờ nước này.
Đại đức
Sariputta mỉm cười. Thầy đặt bình bát của thầy trên bờ sông và bước xuống giúp
Bụt. Sunita không cảm thấy thoải mái lắm khi được Bụt và thầy Sariputta kỳ cọ
và tắm rửa, nhưng chàng không dám làm phật lòng hai người. Bụt bảo thầy thị giả
lên tìm đại đức Ananda để xin một chiếc y khoác ngoài, và người làm lễ xuất gia
cho Sunita ngay trên bờ sông. Làm lễ xuất gia xong, Sunita được giao cho đại
đức Sariputta. Đại đức đưa vị khất sĩ mới về tu viện Jetavana, trong khi Bụt và
giáo đoàn tiếp tục trên con đường khất thực.
Tất cả
những gì xảy ra bên bờ sông hôm ấy dân chúng địa phương đều đã được chứng kiến.
Tin Bụt thâu nhận Sunita một người làm nghề hót phân, một người thuộc giai cấp
hạ tiện vào trong giáo đoàn khất sĩ bắt đầu được loan truyền các giới ở thủ đô,
nhất là giới tôn giáo, và đã gây xúc động lớn.
Chưa bao
giờ ở vương quốc Kosala này mà một người trong giới ngoại cấp nhu Sunita lại
được đón nhận và đưa vào hàng ngũ của những nhà lãnh đạp tinh thần. Có những
người lên án Bụt, cho rằng sa môn Gotama bất chấp truyền thống và tập tục xã
hội. Có người đi xa hơn, cho là Bụt có ý gây đảo lộn trật tự xã hội với mục
đích phá rối sự trị an trong nước.
Những
bàn tán xôn xao này được vọng về tu viện Jetavana do các giới nam nữ cư sĩ cũng
có mà do các vị khất sĩ về thuật lại cũng có. Các vị đại đức lớn như Sariputta,
Mahakassapa, Mahamoggallana và Anuruddha đã tìm cơ hội gặp Bụt để bàn về cách
đối trị lại những phản ứng của vác giới ở thủ đô về vụ khất sĩ Sunita. Bụt bảo
các thầy:
- Quý vị
biết rằng sớm muộn gì chúng ta cũng phải chấp nhận vào giáo đoàn những thiện
nam nữ trong giới ngoại cấp, bởi vì giáo nghĩa của chúng ta là giáo nghĩa bình
đẳng, không chấp nhận được sự phân chia giai cấp. Ta đã gặp khó khăn bây giờ,
nhưng nếu ta vượt thắng được thì ta sẽ mở được cánh cửa chưa từng được mở ra
trong lịch sử, và các thế hệ mai sau này sẽ được thừa hưởng công đức. Chúng ta
phải có can đảm.
Thầy
Moggallana bạch:
- Can
đảm thì chúng con có đủ. Chúng con cũng có đủ kiên nhẫn nữa, nhưng làm thế nào
để dư luận bớt xôn xao thì công trình vào đời hành đạo của các huynh đệ khất sĩ
mới đỡ phần nặng nhọc.
Thầy
Sariputta đề nghị:
- Điều
quan trọng nhất là giáo đoàn tu học cho tinh tấn. Con sẽ nổ lực giúp đỡ và
hướng dẫn cho khất sĩ Sunita. Sự thành công của Sunita sẽ là bằng chứng hùng
mạnh nhất để bênh vực chúng ta. Huynh đệ chúng ta cũng cần học cách giải thích
cho quần chúng mỗi khi tiếp xúc vói họ để cho họ hiểu được chân nghĩa bình đẳng
của con đường Bụt dạy. Lạy Bụt, nếu đức tôn qúy trên đời có cách thức gì hay
hơn nữa thì xin người chỉ dạy chúng con.
Bụt để
tay lên vai Sariputta:
- Những
điều thầy nói đó rất đúng với ý của tôi. Chúng ta cứ như thế mà hành trì.
Chừng
một tháng sau, sự đồn đãi về Sunita tới được tai quốc vương Pasenadi. Một số
các vị lãnh đạo các giáo phái tại thủ đô đã đến xin yết kiến vua. Vốn sẵn có
lòng thành kính đối với tất cả các bậc lãnh tụ tôn giáo, vua Pasenadi đã tiếp
kiến họ và sau khi nghe mọi người nói chuyện vua cũng cảm thấy hoang mang, dù
rằng vua có cảm tình nồng hậu với Bụt. Vua hứa hẹn với các vị lãnh đạo tôn giáo
ấy là sẽ suy xét về vấn đề này. Rồi một hôm vua bảo xa giá đưa ngài tới tu viện
Kỳ viên.
Xe ngừng
trước cổng tu viện, vua một mình đi bộ vào. Bóng các vị khất sĩ áo vàng thấp
thoáng sau những hàng cây xanh mát trong khuôn viên tu viện.
Đã quen
thuộc với con đường nhỏ dẫn tới tịnh thất của Bụt, vua cứ một mình đi, không
cần hỏi thăm. Thỉnh thoảng trên đường đi, vua gặp một vị khất sĩ. Mỗi lần như
thế, vua đều đứng lại chắp tay và cúi đầu. Vị khất sĩ nào cũng đứng lại chắp
tay đáp lễ. Vua nhận thấy vị nào cũng có dáng điệu trầm lặng, thong dong, không
vội vã, và vua bỗng nhiên cảm thấy đức tin của vua nơi Bụt lớn mạnh bội phần.
Nửa đường vào tịnh thất, vua gặp một vị khất sĩ đang thuyết pháp trên một phiến
đá, vây quanh vị khất sĩ này có chừng mười mấy vị khất sĩ khác và khoảng độ ba
bốn mươi người cư sĩ áo trắng. Cảnh tượng rất đẹp đẽ. Phiến đá nằm dưới gốc cây
thông lớn xòe lá che mát cả một vùng. Vị khất sĩ đang ngồi thuyết pháp kia tuổi
chưa tới bốn mươi nhưng phong thái của ông đoan nghiêm và sáng rỡ. Những người
ngồi và đứng quanh ông đang hết sức chăm chú nghe ông nói. Vua dừng lại để nghe
và cảm thấy thích thú. Định ngồi xuống để nghe cho hết bài thuyết pháp nhưng
vua chợt nhớ ra rằng mình đã tới đây với một chủ đích, cho nên ngài phải bỏ đi.
Vua nghĩ bụng là trong chuyến về ngài sẽ ghé lại để cùng đàm đạo với vị khất sĩ
ấy.
Bụt ra
đón vua ngoài ngõ trúc phía trước tịnh xá và mời vua vào, Bụt mời vua ngồi,
cũng vẫn trên những chiếc ghế tre như hôm hai người gặp nhau lần đầu. Sau khi
trao đổi những lời thăm hỏi, vua hỏi Bụt vị khất sĩ đang thuyết pháp trên phiến
đá dưới gốc thông già là ai. Bụt mỉm cười, nói:
- Đó là
thầy Sunita xuất thân từ giới ngoại cấp, trước làm nghề đổ thùng. Đại vương
thấy vị khất sĩ ấy thế nào?
Vua giật
mình, thì ra vị khất sĩ có tướng mạo đoan nghiêm và sáng rỡ kia vốn là người đổ
thùng Sunita. Nếu Bụt không nói thì vua không thể nào đoán ra được. Vua còn
chưa biết nói gì thì Bụt đã nói:
- Vị khất
sĩ Sunita từ ngày xuất gia đến nay đã tu học rất tinh tiến. Đó là một con người
thẳng thắn, thành thật, thông minh và có chí nguyện lớn. Mới được tu học chưa
đầy ba tháng mà thấy ấy đã nổi tiếng là người có đạo hạnh và phong thái thanh
cao. Đại vương có muốn gặp gỡ và cúng dường cho vị khất sĩ rất xứng đáng ấy hay
không?
Vua
thành thật đáp:
- Trẫm
rất sẵn sàng gặp gỡ và cúng dường y áo và thức ăn cho vị khất sĩ Sunita. Thế
Tôn! Giáo pháp của ngài thật là thâm diệu! Trẫm chưa thấy một vị đạo sư nào có
cái nhìn và tầm tay mở rộng như ngài. Thế Tôn! Có lẽ không một người nào, một
loài nào hay một vật nào mà không được dự vào giáo pháp thâm diệu của ngài.
Trẫm đã đến đây vơi một mục đích là hỏi ngài tại sao ngài lại chấp nhận một
người trong giai cấp hạ tiện vào trong giáo đoàn cao quý của người, nhưng trẫm
đã được thấy, được nghe, và đã được hiểu. Trẫm không phải hỏi ngài nữa. Trẫm
xin cúi lạy trước Thế Tôn!
Vua đứng
dậy chắp tay định lạy xuống, Bụt cũng đứng dậy. Người kéo tay vua mời vua ngồi
trở lại trên chõng tre. Người cũng ngồi lại trên chõng tre.
Nhìn
vua, Bụt nói:
- Đại
vương! Trong đạo lý giải thoát, không cósựụ phân biệt giai cấp mà chúng tính.
Trước con mắt người giác ngộ, tất cả mọi chúng sinh đều bình đẳng. Máu ai cũng
đỏ, nước mắt ai cũng mặn, tất cả chúng ta đều là con người. Ta phải tìm cách để
mọi người có cơ hội đồng đều và vươn tới và thực hiện hoài bão của mình cũng
như hoàn thành nhân phẩm của mình, vì vậy cho nên tôi đã đón nhận Sunita vào
giáo đoàn khất sĩ.
Vua chắp
tay:
- Trẫm
đã hiểu, con đường của Thế Tôn đi là một con đường có nhiều chông gai. Trẫm
biết là trên con đường ấy người sẽ gặp nhiều khó khăn và trở ngại, nhưng trẫm
cũng biết là người có đủ hùng lực để vượt qua những trở ngại đó. Riêng trẫm,
trẫm sẽ làm hết sức mình để yểm trợ cho chánh pháp.
Vua từ
giã Bụt, nhưng khi ra đến tảng đá nằm dưới cội tùng già, vua không thấy vị khất
sĩ và thính chúng của người nữa. Mọi người đã giải tán, vua chỉ gặp trên đường
những vị khất sĩ đang chậm rãi đi thiền hành.
---o0o---
Chương 44
TỨ ĐẠI TAN RÃ RỒI TỨ ĐẠI LẠI KẾT HỢP
Một hôm
Bụt được thầy Meghiya cho biết là đại đức Nanda, em cùng cha khác mẹ với Bụt,
không cảm thấy thoải mái và hạnh phúc trong đời sống xuất gia. Thầy Nanda có
tâm sự với thầy là thầy nhớ người yêu cũ ở thành Kapilavatthu quá. “Sư huynh
biết không, thầy Nanda nói, tôi còn nhớ hôm tôi cầm bình bát theo Bụt đi về tu
viện Nigrodha, công nương Janapada Kalyani đã nhìn tôi và nói: điện hạ đi mau
mà về nhé, em chờ điện hạ. Tôi nhớ rất rõ mái tóc mượt như nhung được vắt một
phần sau cái vai thon nhỏ của nàng. Hình ảnh này hay hiện về với tôi mỗi khi
tôi ngồi thiền, mà mỗi khi hình ảnh đó hiện về là tôi cảm thấy xốn xang và thao
thức; mỗi lúc như thế này tôi thấy tôi không có hạnh phúc khi sống đời sống
xuất gia”.
Chiều
ngày hôm sau, Bụt rủ Nanda đi thiền hành chung với người. Ra khỏi vườn Kỳ Đà,
hai người đi về phía một thôn trang hẻo lánh, họ đi tới một cái hồ và cùng ngồi
xuống trên một phiến đá bên hồ. Nước hồ trong vắt, một đàn vịt bơi lội thảnh
thơi dưới hồ. Ở những lùm cây phía trên, chim chóc ca hát vang lừng, Bụt nói
Nanda:
- Các
thầy có nói là em không được hạnh phúc trong đời sống xuất gia, có phải vậy
không?
Thầy
Nanda im lặng. Một lát sau, Bụt hỏi:
- Hay là
em muốn trở về Kapilavatthu tập sự làm chính trị để sau này thay thế cho phụ
vương?
Nanda
vội đáp:
- Không,
em đã nói là em không thích làm chính trị. Em biết em không có khả năng làm
chính trị, vì vậy em cũng đã nói là em không thích làm vua.
- Vậy
tại sao em lại không có hạnh phúc khi sống đời sống xuất gia?
Nanda
lại giữ sự im lặng.
- Hay là
em nhớ cô Kalyani?
Thầy
Nanda đỏ mặt, nhưng thầy vẫn không nói gì.
Bụt bảo:
- Này
Nanda, ở xứ Kosala này cũng có rất nhiều cô thiếu nữ mà nhan sắc còn mặn mà hơn
cả cô Kalyani của em. Em còn nhớ hôm dự trai tăng ở trong cung vua Pasenadi
không? Theo em, các cô thiếu nữ tiếp tân hôm ấy có đẹp bằng Kalyani không?
Nanda tỏ
ý không bằng lòng:
- Có thể
là trong số các cô ấy, có nhiều cô đẹp hơn Kalyani, nhưng mà em chỉ lưu luyến
Kalyani mà thôi. Ở trên đời chỉ có một Kalyani thôi.
- Nanda,
luyến ái là một trong những trở ngại lớn cho sự tu tập. Sắc đẹp của phụ nữ cũng
chóng tàn như sác đẹp của một bông hồng. Em đã biết trên lý thuyết rằng cuộc
đời là vô thường. Em phải thật sự quán chiếu tự tánh vô thường của vạn vật. Này
em nhìn xem.
Theo
ngón tay Bụt, Nanda nhìn lên thì thấy một bà lão đang chống gậy đi qua ngõ
trúc. Bà lão còn mạnh khỏe, nhưng da trên mặt bà đã nhăn nhúm lại.
- Bà già
này hồi trẻ chắc chắn là người có nhan sắc. Nhan sắc Kalyani rồi cũng sẽ tàn tạ
trong vòng vài mươi năm. Trong khi đó sự nghiệp giác ngộ của em có thể đem lại
ánh sáng và an lạc từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nanda,
em hãy nhìn lên đôi khỉ đang đong đưa trên cành cây kia. Em hãy để ý tới con
khỉ cái, em có thể nghĩ rằng với một cái miệng nhọn như thế và một cái đít đỏ
như thế, con khỉ đó không đẹp đẽ gì, nhưng đối với con khỉ đực ngồi một bên thì
đó là một con khỉ cái đẹp nhất trên đời. Đối với nó, con khỉ cái là độc nhất,
và nó có thể sẵn sàng để chết vì con khỉ cái kia. Em có biết rằng ...
Nanda
ngắt lời Bụt:
- Thôi
xin Bụt đừng nói nữa. Em đã hiểu rồi, em hứa từ nay sẽ tinh tiến tu học.
- Vậy
thì tốt lắm, em phải thực tập trở lại phép quán niệm hơi thở cho chuyên cần mỗi
ngày, rồi em sẽ tập quán chiếu thân thể, quán chiếu cảm giác, quán chiếu tâm ý
và cuối cùng quán chiếu các pháp. Các pháp chính là đối tượng của tâm ý. Phải
quán chiếu để thấy cho được quá trình sinh khởi, tồn tại và hoại diệt của mọi
hiện tượng, từ thân thể qua cảm giác đến tâm tư và các pháp. Có gì không hiểu
em có thể đến hỏi lại ta, hoặc nếu ta không có đó thì em có thể hỏi thầy
Sariputta. Nanda! Nên nhớ rằng hạnh phúc của giải thoát mới là thứ hạnh phúc
chân thật, không tùy thuộc vào điều kiện, không bao giờ bị tàn hoại. Em phải
đạt cho được thứ hạnh phúc ấy.
Trời đã
chiều, Bụt đứng dậy, và đưa thầy Nanda về tu viện.
Tu viện
Jetavana đã tạo được nền nếp tu học vững chãi. Số lượng các thầy khất sĩ ở lại
tu học đã lên tới năm trăm vị. Mùa mưa năm sau, Bụt về an cư tại Vesali. Địa
điểm an cư là Rừng Lớn, nơi ấy có một tòa giảng đường hai tầng có nóc nhọn gọi
là giảng đường Kutagara và một số các tăng đường rải rác trong rừng. Tất cả
những ngôi nhà này đều đã được các vương tử trong bộ tộc Licchavi vận động xây
cất trong năm vừa qua để làm chỗ tu học cho Bụt và các vị khất sĩ. Hầu hết cây
trong rừng đều là cây sala. Mùa an cư năm nay, các vương tử Licchavi là những
người đứng ra bảo trợ. Ambapali đã rất sốt sắng đóng góp phần mình vào việc xây
cất và bảo trợ khóa tu. Nhiều vị khất sĩ hành đạo rải rác trong vương quốc
Magadha và cả ở vương quốc Sakya nghe Bụt về an cư tại giảng đường Trùng Các
cũng đã tìm về kịp thời để được cùng an cư với Bụt. Số lượng các vị khất sĩ an
cư năm nay lên tới sáu trăm vị. Từ vương quốc Magdha, nhiều vị nhân sĩ và cư sĩ
nghe nói Bụt an cư tại đây cũng đã tìm tới để được thân cận và học hỏi trong ba
tháng với Bụt. Họ tìm chỗ cư trú trong đô thị Vesali để thỉnh thoảng có thể vào
tu viện Trùng Các để cúng dường và nghe pháp.
Một buổi
sáng đầu thu khi mùa an cư vừa chấm dứt, có tin từ Kapilavatthu báo về là quốc
vương Suddhodana bệnh nặng. Ngài sắp từ trần. Chính vua đã cho người đi triệu
Bụt về để được thấy Bụt lần chót. Sứ giả là hoàng thân Mahanama. Hoàng thân xin
Bụt dùng phương tiện xe ngựa về tới quê hương cho kịp giờ trước giờ vua băng
hà. Bụt nhận lời. Ngưòi bảo Anuruddha, Nanda, Ananda, và Rahula cùng lên xe với
người. Bụt khởi hành ngay buổi trưa hôm ấy. Các vương tử từ Licchavi và ca
nương Ambapali cũng có cơ hội để tiễn đưa người, nhưng hàng trăm vị khất sĩ đã
ra tiễn ở cửa tu viện Trùng Các. Sau khi Bụt đi rồi, trên hai trăm vị khất sĩ
cũng khởi hành đi về miền Bắc, nhắm hướng Kapilavatthu. Họ muốn có mặt bên Bụt
trong lễ trà tỳ của quốc vương Suddhadana, phụ thân của người. Trong số các vị
này có mặt tất cả các vương tử Sakya đã đi xuất gia theo Bụt.
Gia đình
hoàng gia đón Bụt ngay ở cổng hoàng cung. Lệnh bà Mahapajapati đưa Bụt ngay vào
tâm điện. Thầy Bụt, vua tươi tỉnh hẳn lên. Ngồi bên giường ngự, Bụt đưa hai tay
ra nắm lấy bàn tay vua. Vua đã già yếu: năm nay ngài đã tám mươi hai tuổi. Bụt
nói:
- Phụ
vương hãy thở thật nhẹ, thật dài và mỉm cười. Không có gì quan trọng cho bằng
hơi thở của phụ vương lúc này. Nanda, Rahula, Anuruddha và con cũng thở theo
phụ vương.
Vua nhìn
Bụt, nhìn Nanda, nhìn Rahula, nhìn Ananda, nhìn hoàng hậu Gotami, nhìn công
nương Yasodhara. Ngài mỉm cười, rồi ngài thở theo lời Bụt dạy. Không ai dám
khóc lóc trong lúc này. Ai cũng nghe lời Bụt, theo dõi hơi thở của mình. Một
lát sau, vua nhìn Bụt nói:
- Bây
giờ ta thấy được rõ ràng cuộc đời là vô thường, và con người muốn có hạnh phúc,
thì không nên tham đắm vào vòng ái dục. Hạnh phúc là một cuộc sống thanh thản,
bình dị và có tự do.
Hoàng
hậu Gotami nói với Bụt:
- Mấy
tháng nay, hoàng thượng sống rất thanh thản. Ngài đã thật sự làm theo lời Bụt
dạy. Thế Tôn! Những lời Bụt dạy đã chyển hóa được nếp sống của nhiều người ở
đây. Hoàng thượng là một trong những người đã được thấm nhuần nhiều nhất lời
giáo huấn của Bụt.
Vẫn cầm
tay vua trong tay mình, Bụt khai thị:
- Phụ
vương hãy nhìn con, nhìn Nanda, nhìn Rahula. Phụ vương hãy nhìn cấy cối màu
xanh qua các cửa sổ. Sự sống còn tiếp tục. Sự sống vẫn còn thì phụ vương vẫn
còn. Phụ vương vẫn còn tiếp tục sống trong con, trong Nanda, trong Rahula,
trong tất cả mọi loài. Sắc thân hiện thời là do tứ đại kết hợp. Tứ đại tan rã
rồi kết hợp hoài hoài. Phụ vương đừng có vì sự tan rã của một thân tứ đại mà
nghĩ rằng sự sống chết có thể ràng buộc được ta. Sắc thân của Rahula đây cũng
là sắc thân của phụ vương vậy.
Bụt ra
hiệu cho Rahula lại gần và bảo Rahula nắm lấy tay của ông nội trong hai tay
mình. Một nụ cười rất tươi nở trên môi của vị quốc vương sắp băng hà. Vua đã
hiểu được lời nói của Bụt. Vua có vẻ không còn sợ sự sống chết nữa.
Bên
giường ngự lúc đó, các vị cận thần cũng đều có mặt. Một lúc sau, vua ra hiệu
cho các vị cận thần lại gần. Vua nói với họ:
- Các
khanh, có thể là trong thời gian cùng làm việc nước, trẫm đã có làm những điều
lầm lỗi khiến các khanh phiền lòng. Trước khi nhắm mắt, trẫm muốn các khanh tha
thứ cho trẫm.
Giọng
vua yếu ớt, các quan đều khóc. Hoàng thân Mahanama, quỳ xuống bên gối, tâu:
- Tâu bệ
hạ, bệ hạ là một ông vua có đức khoan dung và công bình lớn nhất trên đời. Các
quan trong triều không ai có lòng oán trách bệ hạ.
Vua nói:
- Nhân
có đủ mọi người ở đây, xin Bụt và các quan sắp xếp việc cử người thay thế cho
trẫm để trị nước. Trẫm tin nơi sự sáng suốt của Bụt và của mọi người.
Mahanama
tâu:
- Thần
xin đề nghị hoàng thái tử Nanda cởi bỏ áo tu, lên ngôi và chấp chính.
Đó là
giải pháp đẹp đẽ nhất theo thần. Trăm họ sẽ được an lòng khi chính thái tử đông
cung đảm trách nhiệm này. Riêng thần, thần sẽ đem hết cuộc đời của thần để phụ
tá hết lòng cho thái tử.
Đại đức
Nanda nhìn về phía Bụt cầu cứu. Hoàng hậu Gotami cũng nhìn về phía Bụt. Bụt
lặng lẽ nói:
- Nếu
phụ vương, các quan và mọi người muốn tôi phát biểu ý kiến thì tôi xin nói thế
này. Em Nanda không có khiếu về chính trị và không muốn làm chính trị. Em còn
phải tu học nhiều thêm mới có đủ các đức kiên trì và dũng cảm. Rahula thì còn
bé quá, năm nay cháu mới có mười lăm tuổi. Tôi thấy hoàng thân Mahanama hiện là
người xứng đáng nhất để lên ngôi cửu ngũ. Ai cũng biết hoàng thân là một người
có chí khí lớn. Hoàng thân lại là một người có lòng từ bi, có nhiều hiểu biết
và có nhiều kinh nghiệm về chính sự.
Hoàng
thân đã làm phụ tá cho phụ vương trên sáu năm rồi. Tôi nghĩ là hoàng thân nên
vì hoàng gia và vì dân tộc mà đứng ra lãnh trách nhiệm khó khăn và nặng nề này.
Mahanama
chắp tay thối thác:
- Con sợ
tài đức kém cõi không cáng đáng nổi việc lớn. Xin hoàng thượng, xin Bụt và các
vị cận thần xét lại mà cử người xứng đáng hơn.
Một vài
vị đại thần đứng lên phát biếu ý kiến. Người nào cũng tán đồng đề nghị của Bụt,
cho đó là một đề nghị thiết thực và thông minh. Cuối cùng tất cả các quan đều
một lòng một dạ thỉnh cầu hoàng thân Mahanama đứng lên chấp chính. Vua gật đầu,
ngài gọi Mahanama tới bên giường ngự. Cầm tay Mahanama, vua nói:
- Các
quan đã tín nhiệm khanh, Bụt cũng tín nhiệm khanh, khanh là con cháu của trẫm.
Trẫm rất sung sướng được khanh chấp nhận trách vụ nối tiếp trẫm để mà an lòng
trăm họ.
Mahanama
phủ phục lạy xuống để vâng mệnh.
Vua hoan
hỷ nhìn mọi người:
- Trẫm
rất an lòng mà nhắm mắt. Trẫm rất vui được gặp Bụt trước khi từ giã cõi đời.
Lòng trẫm thanh thản lắm, trẫm không luyến tiếc gì, cũng không ân hận gì, trẫm
mong Bụt để tâm nâng đỡ cho Mahanama và hướng dẫn cho Mahanama trong những bước
đầu. Đạo đức của Bụt sẽ khiến cho đất nước và trăm họ an lành.
Giọng
của vua càng lúc càng yếu. Bụt ngồi xuống gần bên giường ngự.
Người
cầm tay vua:
- Con
xin hứa là sẽ nâng đỡ cho Mahanama. Xin phụ vương yên lòng. Con sẽ ở lại dây
một thời gian, cho đến khi nào mọi việc được an bài và tình thế hoàn toàn ổn
định.
Vua mỉm
cười yếu ớt, nhưng vẻ mặt của ngài an hòa và mãn nguyện. Rồi ngài nhắm mắt qua
đời.
Hoàng
hậu Gotami là công nưong Yasodhara khóc lên thành tiếng. Các quan cũng khóc
rống lên. Bụt vuốt mắt cho vua, đặt hai tay vua lại cho ngay ngắn và đứng dậy.
Người ra hiệu cho mọi người nín khóc, và bảo mọi người theo dõi hơi thở để hộ
niệm cho vua. Cuối cùng, người đề nghị mọi người ra hội ý với nhau ở phòng
ngoài về việc tổ chức tang lễ.
Lễ trà
tỳ của quốc vương Suddhodana được tổ chức bảy hôm sau đó. Các thầy Bà la môn ở
thủ đô và từ các tỉnh về tham dự trên một ngàn vị. Đặc biệt trong lễ trà tỳ này
là sự có mặt của gần năm trăm vị tu sĩ của một giáo đoàn mới, đó là giáo đoàn
khất sĩ. Tất cả các vị khất sĩ đều khoác ca sa màu cam.
Ngoài
kinh lễ cổ truyền của đạo Bà la môn lại có kinh lễ của giáo đoàn mới.
Các vị
khất sĩ đã trì tụng Kinh Bốn Sự Thật, Kinh Lửa, Kinh Vô Thường, Kinh Nhân Duyên
và sau hết là Ba Lời Quay Về Nương Tựa. Kinh Tụng toàn bàng tiếng Magadha, ngôn
ngữ miền Đông lưu vực sông Ganga, nên tất cả quần chúng tham dự đều nghe và
hiểu rõ.
Bụt đứng
lên đi ba vòng quanh hỏa đàn rồi tự tay châm lửa cho hỏa đàn.
Trước
khi châm lửa, người nói:
- Sinh,
già, bệnh và chết là những gì phải xảy đến cho tất cả mọi người.
Chúng ta
phải nghĩ đến sinh, già, bệnh và chết trong đời sống hàng ngày để đừng bị chìm
đắm trong dục vọng, để sống an lạc, thảnh thơi và làm cho cuộc đời chung quanh
bớt khổ. Sinh, già, bệnh và chết cũng là lý thường nhiên. Người đạt đạo có thể
đạt tới trạng thái thản nhiên trước sinh, già, bệnh,và chết. Trong tự tính của
vạn pháp, không có gì sinh, không có gì diệt, không có gì còn, không có gì mất,
không có gì thêm, không có gì bớt.
Hỏa đàn
bốc cháy phần phật. Có tiếng chiêng tiếng trống hòa lẫn với tiếng tụng kinh
trầm bỗng. Dân chúng Kapilavatthu tới lễ trà tỳ rất đông. Họ biết hôm nay chính
Bụt sẽ châm lửa cho hỏa đàn.
Sau lễ
đăng quang của Mahnama, Bụt còn ở lại giáo hóa một thời gian ba tháng tại
Kapilavatthu. Một hôm, thái hậu Mahapajapati Gotami đến tu viện Nigrodha viếng
Bụt để cúng dường mấy chiếc ca sa và cầu xin được xuất gia để làm một vị nữ
khất sĩ.
Bà nói:
- Bạch
Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho phép phái nữ được đi xuất gia thì trong thiên hạ sẽ có
những kẻ được thừa hưởng ân huệ từ bi của người lắm. Thế Tôn, trong hàng vương
tử có nhiều vị đã đi xuất gia theo học với Bụt. Trong số đó, có vị đã từng có
gia đình, phu nhân của các vị cũng rất ước ao được học theo giáo pháp của Bụt
với tư cách của những người xuất gia. Tôi cũng muốn xin Thế Tôn cho tôi được
xuất gia. Đó là niềm vui lớn nhất mà tôi mong mỏi, sau khi thượng hoàng đã từ
bỏ cuộc đời.
Bụt lặng
thinh, một lát sau, người nói:
- Không
được đâu, lệnh bà Gotami.
Bà
Pajapati cầu khẩn:
- Tôi
biết đây là một điều khó cho đức Thế Tôn, Thế Tôn chấp thuận cho người nữ xuất
gia thì thế nào cũng có sự chống đối trong xã hội, nhưng tôi nghĩ là Bụt sẽ
không e ngại gì sự chống đối đó.
Bụt lại
lặng thinh, rồi người nói:
- Tại
Rajagala cũng đã có những người phụ nữ muốn xin xuất gia, nhung con nói rằng
chưa đến lúc. Con thấy hiện chưa có đủ điều kiện để nhận cho người nữ xuất gia.
Ba lần
thỉnh cầu, ba lần Bụt không chấp thuận. Hoàng hậu Gotami buồn bã giã từ Bụt. Bà
trở về cung và than thở với lệnh bà Yasodhara. Mấy hôm sau, Bụt lên đường trở
về Vesali. Tới Vesali, người cư trú tại tu viện Trùng Các.
Trong
khi đó, bà Gotami đi tập hợp những người phụ nữ có ý chí xuất gia lại, trong đó
có cả những thanh nữ muốn theo gương nam giới đi xuất gia.
Những
thiếu nữ này chưa từng lập gia đình. Hầu hết đều thuộc về bộ tộc Sakya. Bà
Gotami nói với họ:
- Tôi
biết chắc rằng trong tinh thần đạo pháp tỉnh thức, mọi người đều bình đẳng, bởi
vì ai cũng có khả năng giác ngộ và giải thoát. Chính Bụt đã nói điều này. Người
đã nhận vào giáo đoàn cao quý những người thuộc giai cấp hạ tiện, thì không có
lý nào người lại kỳ thị phái nữ. Người nữ cũng là người, người nữ cũng có thể
đạt tới giác ngộ và giải thoát. Vậy thì không có lý do gì mà chúng ta lại không
được đối xử bình đẳng, tôi đề nghị là chúng ta nên tự ý xuống tóc, cởi bỏ mọi
đồ trang sức và khoác y vàng lên người.
Rồi
chúng ta cũng bỏ hết guốc dép và đi bộ về thành Vesali để xin được xuất gia.
Trước hết chúng ta phải chứng tỏ quyết tâm của chúng ta, và sau đó chúng ta
phải chứng tỏ khả năng của chúng ta. Chúng ta phải chứng tỏ cho Bụt và mọi
người thấy rằng chúng ta cũng có thể từ bỏ xa hoa, sống đời đơn giản của kẻ
không nhà không cửa, có thể đi chân đất hàng trăm dặm và có thể đi xin ăn mà
sống. Nếu không làm như vậy được thì không bao giờ chúng ta hy vọng có thể được
chấp nhận và giáo đoàn. Muốn được chấp nhận, chúng ta phải được công nhận trước
đã.
Mọi
người trong cuộc họp đều phấn khởi khi nghe bà Gotami nói. Họ thấy nơi bà một
vị lãnh đạo thực sự của phái nữ. Yasodhara cũng có mặt trong buổi họp. Bà mỉm
cười, đã từ lâu, bà biết tính khí của thái hậu Gotami. Thái hậu Gotami là người
không thối tâm bất cứ trước một trở lực nào. Những năm cùng làm việc với bà để
giúp cho kẻ nghèo đói, Yasodhara đã thấy rõ điều đó.
Tất cả
mọi người trong buổi họp đã quyết định làm theo đề nghị của lệnh bà Gotami. Họ
hẹn ngày giờ hành động. Bà Gotami nói với Yasodhara :
- Gopa,
con hãy thong thả, đừng đi theo ta trong chuyến này, không có con kỳ này, tình
trạng có thể ít khó khăn hơn, chừng nào ta thành công con sẽ đi theo sau cũng
không muộn.
Gopa hội
ý, bà mỉm cười nhìn hoàng hậu.
---o0o---
Chương 45
CÁNH CỬA PHƯƠNG TIỆN
Một buổi
sáng khi đi ra hồ lấy nưóc, đại đức Ananda gặp lệnh bà Gotami và khoảng năm
mươi người phụ nữ đứng phía bên ngoài tịnh xá của Bụt, người nào cũng đã xuống
tóc, người nào cũng khoác y vàng, và bàn chân người nào cũng sưng vù và chảy
máu. Ban đầu, thầy tưởng đó là một nhóm khất sĩ, nhưng nhìn kỹ lại thầy mới
biết là không phải. Ngạc nhiên đến cực độ, thầy tới hỏi bà Gotami:
- Trời
ơi, lệnh bà đi đâu mà mới sáng tinh sương đã thấy đứng ở đây, chân cẳng tại sao
sung trầy và chảy máu? và còn các công nương nữa ...
Bà
Gotami nói:
- Đại
đức Ananda, chúng tôi đã xuống tóc, đã bỏ hết đồ trang sức, đã từ bỏ hết mọi
tiện nghi vật chất trong cuộc đời. Chúng tôi đã đi bộ từ Kapilavatthu tới đây,
từ hơn mười lăm hôm nay và đã xin ăn dọc đường. Chúng tôi muốn chứng tỏ rằng
chúng tôi cũng có khả năng sống đời sống của người xuất gia được. Đại đức
Ananda, xin đại đức bạch giùm với Bụt cách nào để chị em chúng tôi được chấp
nhận vào giới xuất gia.
Ananda
nói:
- Lệnh
bà và các công nương hãy cứ đứng chờ đây. Tôi sẽ vào thưa ngay với Bụt. Tôi hứa
sẽ làm hết sức của tôi.
Đại đức
vào trong tịnh xá khi Bụt mới thay áo xong. Đại đức Nagita hiện là thị giả của
người cũng có mặt trong tịnh thất. Thầy bạch với Bụt những điều mà thầy vừa
trông thấy và nghe thấy. Bụt im lặng. Một hồi sau, thầy hỏi Bụt:
- Thế
Tôn, người nữ xuất gia và tu hành theo chính pháp thì có thể chứng ngộ được
những quả vị như Nhập Lưu, Nhất Hoàn, Bất Hoàn hay A La Hán không?
Bụt nói:
- Được
chứ.
- Vậy
thì tại sao Bụt không cho người nữ xuất gia? Thế Tôn, lệnh bà Gotami là người
đã chăm sóc và nuôi nấng Bụt ngay từ khi Bụt mới sinh ra, và thương yêu Bụt
không khác gì một người mẹ đẻ. Lệnh bà đã xuống tóc, đã cởi bỏ hết mọi trang
sức, đã đi chân đất từ thành Kapilavatthu về tới đây.
Lệnh bà
muốn chứng tỏ rằng những gì đàn ông làm được thì người đàn bà cũng có thể làm
được. Xin Bụt từ bi cho lệnh bà được xuất gia trong giáo pháp của người.
Bụt lặng
thinh, một lát sau, người bảo thầy Nagita đi tìm các đại đức Sariputta,
Moggallana, Anuruddha, Bhaddiya, Kimbala, và Mahakassapa và mời họ đến cho
người thỉnh ý.
Bụt và
các vị đệ tử phụ tá hội ý khá lâu. Bụt nói không Bụt kỳ thị người nữ, nhưng
người chưa nghĩ ra được cách thức chấp nhận những nữ vào trong giáo đoàn mà
không tạo ra những trở ngại trong nội bộ cũng như từ bên ngoài. Sau một hồi trao
đổi ý kiến, đại đức Sariputta nói:
- Lệnh
bà Gotami lâu nay là một người có quyền hành và ảnh hưởng rất lớn trong hoàng
tộc cũng như ngoài xã hội, theo như lời đại đức Bhaddhiya đã nói. Nếu ta không
có một pháp chế quy định sự phân biệt nam nữ và quyền hạn cho rõ rệt thì sau
này có thể có những rắc rối xảy ra. Ta cần có một pháp chế như thế. Pháp chế
này đồng thời cũng là để giảm thiểu những phản ứng bên ngoài của một xã hội đã
ngàn đời có tính cách trọng nam khinh nữ. Tôi đề nghị một pháp chế tám điểm như
sau:
Thứ
nhất, một vị nữ khất sĩ -bhikkhuni- phải luôn luôn cung kính chào hỏi một vị
nam khất sĩ -bhikkhu- dù vị nữ khất sĩ này tuổi đời lớn hơn và tuổi tu cũng lớn
hơn vị nam khất sĩ.
Thứ hai,
các vị nữ khất sĩ phải tìm về an cư mỗi năm ở những trung tâm nào có đoàn thể
nam khất sĩ để nương tựa và học hỏi.
Thứ ba,
cứ mỗi tháng hai kỳ, giới nữ khất sĩ phải cử người đi thỉnh chúng nam khất sĩ
chỉ định ngày bố tát uposatha và cử người đến thăm viếng, giáo huấn và khích lệ
việc tu học của nữ chúng.
Thứ tư,
vào ngày kết thúc mùa an cư, vị nữ khất sĩ phải dự lễ tự tứ và cầu chỉ giáo về
sự tu học của mình, không những ở trung tâm nữ khất sĩ của mình mà còn ở trung
tâm của vị nam khất sĩ nữa.
Thứ năm,
khi phạm giới, vị nữ khất sĩ phải sám hối trước cả hai chúng nam và nữ.
Thứ sáu,
những người nữ, sau thời gian tập sự xuất gia, phải cầu xuất gia thọ đại giới
trước cả hai chúng nam và nữ.
Thứ bảy,
một vị nữ khất sĩ không được nói hành và chỉ trích một vị nam khất sĩ.
Thứ tám,
vị nữ khất sĩ không được phép giảng dạy cho đoàn thể các vị nam khất sĩ.
Đại đức
Moggallana cười:
- Tám
điều này rõ rệt là có kỳ thị người nữ rồi, sao lại nói là không kỳ thị?
Đại đức
Sariputta đáp:
- Tám
điều này được đưa ra với mục đích chính là mở được cửa cho giới phụ nữ đi vào
giáo đoàn. Mục đích của nó không phải là kỳ thị, mà là chấm dứt sự kỳ thị. Điều
cốt yếu là người phụ nữ được xuất gia, sư huynh không thấy điều đó sao?
Đại đức
Moggallana mỉm cười gật đầu, tỏ vẻ thông cảm sâu xa với bạn. Đại đức Bhaddhiya
góp ý:
- Tôi thấy
pháp chế “Bát kính” rất cần thiết. Lệnh bà Gotami là một người có quyền hành
lớn, lại là mẹ của đức Thế Tôn. Nếu không có pháp chế “Bát kính” thì bà sẽ
không thấy được ranh giới quyền hạn của bà, và sẽ không có ai có khả năng điều
chỉnh bà ngoài Bụt.
Bụt bảo
Ananda:
-
Ananda, thầy hãy ra bảo cho lệnh bà Mahapajapati biết tin này. Thầy nói rằng
nếu lệnh bà chấp nhận tám điều gọi là “Bát Kính Pháp” vừa nói thì lệnh bà sẽ
được phép xuất gia.
Lúc
Ananda ra thì mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, nhưng bà Goatmi và các vị công
nương vẫn còn đứng chờ ngoài ngõ. Sau khi nghe nội dung “Bát Kính Pháp”, bà
Gotami nói:
- Đại
đức Ananda, xin đại đức bạch với đức Thế Tôn rằng, khi một cô gái xinh đẹp và
trẻ trung mới tắm và gội đầu bằng nước thơm, mà sẵn có người ta đem tới cho
vành hoa kết bằng hoa sen hoặc bằng hoa hồng thơm ngát, thì cô gái sẽ sung
sướng đưa hai tay đón nhận và để trên đầu mình; cũng như thế, tôi rất sung
sướng chấp nhận pháp chế “tám sự cung kính” và hành trì theo suốt đời, nêu tôi
được phép xuất gia.
Đại đức
Ananda hoan hỷ vào báo tin này với Bụt. Trong số các vị công nương đi theo, có
người nhìn đức bà Gotami có ý như dò hỏi. Bà mỉm cười nói:
- Các em
đừng e ngại, điều quan trọng nhất là chúng ta được xuất gia làm nữ khất sĩ.
Những điều trong “Bát Kính Pháp” không phải là những trở ngại cho sự tu học của
chúng ta, mà chính là cửa ngõ để chúng ta đi vào.
Năm mươi
mốt người nữ được làm lễ xuất gia ngay trong ngày hôm đó. Đại đức Sariputta sắp
đặt để các vị này có ngay một trung tâm tạm cư. Nữ cư sĩ Ambapali vui lòng để
cho các vị nữ khất sĩ được sử dụng vườn Xoài của bà để làm chốn tu học. Đại đức
Sariputta cũng được Bụt ủy thác việc dạy các vị nữ khất sĩ những phép tắc hành
trì sơ đẳng của đời sống xuất gia.
Sau đó
tám hôm, nữ khất sĩ Mahapajapati tới xin tham vấn Bụt, bà thưa:
- Thế
Tôn, xin người từ bi dạy cho tôi vắn tắt cách hành trì để tôi có thể tiến mau
trên đường giải thoát.
Bụt nói:
- Nữ
khất sĩ Mahapajapati! Điều quan yếu nhất là phải nắm lấy tâm ý của mình. Phải
học phương pháp theo dõi hơi thở và quán niệm về bốn lãnh vực thân thể, cảm thọ
tâm ý và đối tượng tâm ý. Quán niệm như thế nào để càng ngày càng thấy phát
triển nơi mình các đức khiêm nhường, thanh thản, buông bỏ, thanh bần và an lạc.
Khi những phẩm chất ấy của tâm ý được phát triển, mình có thể an tâm là mình
đang đi trên con đường chánh pháp, con đường tỉnh thức và giác ngộ.
Nữ khất
sĩ Mahapajapati rất hoan hỷ, bà từ giã Bụt và trở về với các vị nữ khất sĩ đồng
tu. Bà dự tính sẽ thiết lập một trung tâm tu học cho ni chúng ngay tại Vesali
này để có thể được gần gũi và học hỏi với Bụt và với các vị đệ tử lớn của
người, ít nhất là trong thời gian Bụt còn lưu trú tại đây. Bà lại có ý nguyện
trở về Kapilavatthu để mở một trung tâm tu học cho ni chúng ngay tại quê hương
mình. Ngay hôm đó, bà nhờ người về báo tin mừng cho công nương Yasodhara tại
Kapilavatthu, Bà biết rằng tin nữ giới được chấp thuận vào giáo đoàn khất sĩ sẽ
nổ tung ra như một tiếng sét và sẽ có rất nhiều phản ứng trong xã hội. Người ta
sẽ kên án và công kích Bụt cùng giáo đoàn.
Bụt và
giáo đoàn sẽ gặp những khó khăn không thể nào lường trước được.
Nghĩ đến
đó, bà thấy một niềm biết ơn tràn ngập tâm tưởng bà. Bà thấy rõ pháp chế “Bát
Kính” không phải là những điều kỳ thị nữ giới mà lại là những phương tiện bảo
vệ và che chở cho giáo đoàn trong đó có nữ giới. Bà tin rằng trong tương lai,
khi sự kiện nữ giới được xuất gia đã trở nên một sự thực rồi thì pháp chế “Bát
Kính” sẽ không còn cần thiết nữa.
Từ hôm
có ni chúng, giáo đoàn của Bụt bắt đầu được gọi là một giáo đoàn bốn chúng:
chúng nam khất sĩ, (bikkhu), chúng nữ khất sĩ (bikkhuni), giới nam cư sĩ
(upasaka) và giới nữ cư sĩ (upasika).
Ni
trưởng Mahapajapati đã suy nghĩ kỹ về cách phục sức của giới nữ khất sĩ.
Bà đã
trình với Bụt ý kiến của mình và đã được Bụt chấp thuận. Các vị nam khất sĩ
thường chỉ vận ba thứ: một tấm antaravasaka, gọi là an đà hội, là quần dưới,
một tấm uttarasanga, gọi là uất đa la tăng, là áo mặc bên trên và một tấm
sanghati, gọi là tăng già lê, là chiếc áo khoác bên ngoài. Các vị nữ khất sĩ,
ngoài ba tấm ấy, còn được phép vận thêm hai tấm khác: một là samkaksika, dùng
để thắt ngang hông và hai là kusulaka, dùng như một chiếc váy.
Ngoài y
và bát, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ có quyền làm sở hữu chủ của một cái quạt
để che đầu khi trời nắng, một chiếc lọc nước uống, một cây kim và một ít chỉ để
khâu vá lại xiêm y, một cái tăm xỉa răng, và một chiếc dao cạo để cạo tóc và
râu, mỗi tháng hai lần.
---o0o---
Chương 46
NẮM LÁ SIMSAPA
Tu viện
Trúc Lâm (Venuvana) ở Rajagaha, tu viện Trùng Các (Kutagarasala) ở Vesali và tu
viện Kỳ Đà Cấp Cô Độc (Jetavana) ở Savathi đã trở nên ba trung tâm hành đạo và
hoằng pháp lớn. Các vị khất sĩ đã tạo lập những trung tâm tu học khác rải rác
trong các vương quốc Magadha, Kosala và những vương quốc nhỏ kế cận. Hình bóng
những vị khất sĩ áo vàng khoan thai và tĩnh lặng xuất hiện khắp nơi. Đạo lý
tỉnh thức đã được truyền bá đi mọi nơi chỉ sau sáu năm hành hóa của Bụt. Mùa an
cư thứ sáu, Bụt cư trú trên núi Makula. Mùa an cư thứ bảy người ẩn cư một mình
trên núi ở Samkasya, mãi trên vùng thượng lưu sông Ganga. Mùa an cư thứ tám
người cư trú tại Sumsumaragira ở xứ Bhagga và vào mùa an cư thứ chín người về
cư trú tại Kosambi. Kosambi là một thị trấn thuộc vương quốc Vamsa nằm trên tả
ngạn sông Jamuna, nơi đây đã có một trung tâm tu học quan trọng. Tu viện nằm
trong một khu vườn ở Rừng Lớn gọi là Ghosira.
Vào mùa
an cư thứ chín các thầy lớn như Mahakassapa, Mahamoggallana , Sariputta và
Mahakaccana không có mặt bên Bụt ở tu viện Ghosira tại Kosambi, nhưng thầy
Ananda vẫn được kề cận Bụt. Chú Rahula cũng không có mặt, vì chú phải theo học
với thầy Sariputta. Các khu rừng quanh tu viện đầy những cây simsapa, và Bụt ưa
vào tĩnh tọa trong rừng vào những buổi trưa khi trời nắng gắt. Một buổi chiều
từ rừng về, Bụt cầm trong tay một nắm lá simsapa. Người đưa nắm lá lên và hỏi
các vị khất sĩ có mặt:
- Các vị
khất sĩ! Lá trong tay tôi nhiều hay lá trong rừng nhiều?
Các vị
khất sĩ đáp:
- Lá
trong tay Bụt thì ít mà lá trong rừng thì nhiều.
Bụt nói:
- Cũng
như thế đó, các vị khất sĩ! Những điều tôi biết do sự thực chứng thì nhiều,
nhưng những điều tôi đem ra dạy quý vị thì ít. Tại sao thế? Tôi chỉ muốn trình
bày cho quý vị những gì thực sự có ích lợi cho công trình tu tập của quý vị mà
thôi ...
Bụt nói
như thế, vì độ ấy trong giới các vị khất sĩ có nhiều người có khuynh hướng muốn
đi vào những vấn đề siêu hình không thiết thực mấy đối với sự tu học. Mấy tháng
trước ở Savathi, Bụt đã khuyên thầy Malunkyaputta về việc không nên để tâm trí
vướng bận vào những vấn đề không thiết yếu cho sự tu học. Thầy Malunkyaputta
lúc đó thường hay hỏi Bụt những câu hỏi thuộc phạm vi siêu hình, nhưng Bụt từ
chối không trả lời. Ví dụ thầy hỏi: Vũ trụ này là hữu biên hay vô biên? Hữu hạn
hay vô hạn. Một hôm thầy không chịu đựng sự im lặng của Bụt được nữa. Thầy
quyết định đi gặp Bụt để ép Bụt phải trả lời những câu hỏi của thầy. Thầy tự
bảo là lần này nếu Bụt từ chối thì thầy sẽ xin xả giới không tu theo người nữa.
Thầy đi gặp Bụt và nói:
“Nếu Thế
Tôn chịu trả lời những câu hỏi của con thì con sẽ nguyện tiếp tục theo học với
người. Nếu không, con sẽ xin từ bỏ giáo đoàn khất sĩ. Nếu quả thật người biết
vũ trụ là hữu biên hay vô biên, thì xin người cứ nói ra, còn nếu người không
biết thì người cứ nói thẳng là người không biết”.
Bụt nhìn
thầy Malunkyaputta:
- Hồi
thầy xin đi xuất gia, tôi có hứa với thầy là sẽ giảng giải cho thầy về những
câu hỏi như thế không? Tôi có nói: “Này Malunkyaputta, anh cứ xuất gia đi, rồi
tôi sẽ dạy cho anh về những vấn đề siêu hình” không?
- Bạch
Thế Tôn , không.
- Vậy
sao bây giờ thầy lại đặt điều kiện với tôi? Alunkyaputta! Ví như có một người
nọ bị trúng một mũi tên có tẩm thuốc độc. Bà con mời ông thầy thuốc tới để nhổ
mũi tên ra, bôi thuốc vào và cho uống thuốc trừ độc, nhưng người bị trúng tên
không cho ông thầy thuốc đụng vào vết thương mình.
Người ấy
nói: “Khoan đã, trước khi chữa trị tôi muốn biết ai là kẻ đã bắn mũi tên này,
tên họ người đó là gì, mấy tuổi, ở đâu, làm nghề nghiệp gì, thuộc giai cấp nào,
vì cớ sao mà bắn tôi. Tôi cũng muốn biết loại cung bắn này là loại cung nào và
chất độc nó dùng là thứ chất độc lấy từ đâu”.
Malunkyaputta,
người bị thương sẽ chết trước khi anh ta tìm hiểu được hết những điều đó. Người
đi xuất gia cũng vậy, những điều mà người xuất gia phải biết và phải hành là
những điều căn bản mà tôi đã và đang dạy các thầy, còn những điều khác vì không
có ích lợi thực tế cho sự tu học và hành trì để đi đến giải thoát cho nên tôi
không nói tới.
Này
Malunkyaputta, thầy phải biết điều này: dù vũ trụ là hữu biên hay vô biên, hữu
hạn hay vô hạn thì thầy cũng phải công nhận điều này: có những đau khổ trong
cuộc đời, những đau khổ đó có nguyên do và ta có thể quán chiếu các nguyên do
ấy mà tìm cách làm cho cuộc đời bớt khổ. Những điều tôi dạy quý thầy có thể
giúp quý thầy đạt tới sự buông bỏ, vô dục, thanh tịnh và giải thoát, còn những
điều không thiết thực cho việc tu học thì tôi từ chối không nói tới.
Đại đức
Malunkyaputta nghe Bụt nói rất lấy làm hối hận. Thầy đã xin sám hối Bụt về tội
đã dám ra điều kiện cho người.
Bụt
thường khuyến khích các vị khất sĩ gia công tu học và tránh những cuộc luận đàm
có tính cách lý thuyết suông. Người gọi những lý thuyết suông không ích lợi gì
cho sự tu học lấy là hý luận. Trong số các thầy ở Kosambi, có những thầy rất ưa
hý luận và cũng vì lẽ ấy Bụt đã đem tặng cho họ một nắm lá simsapa.
Tại
Kosambi, có một thí chủ lớn tên là Ghostra. Vị thí chủ này đã cúng dường rừng
cây của mình để làm tu viện cho tăng đoàn, gọi là tu viện Ghostra. Ngoài ra ông
còn bảo trợ thành lập thêm hai trung tâm tu học cho các vị khất sĩ nữa: đó là
tu viện Kukuta và tu viện Pavarikambavana. Tu viện thứ tư trong vùng là tu viện
Badarika.
Quốc
vương Udayana không có cảm tình nhiều với Bụt, nhưng thái tử Bodhi trị vì xứ
Bhanga lại là một người sùng kính Bụt đúng mức. Tại xứ Bhanga Bụt và giáo đoàn
đã từng được thái tử Bhhodi đón tiếp rất nồng hậu.
Tại
Kosambi, cũng như tại các trung tâm tu học khác, có một số các vị kinh sư,
nghĩa là những thầy chuyên về sự giảng dạy và ôn tụng các lời Bụt dạy.
Những
lời Bụt dạy trong gần mười năm qua được kết tập và ôn tụng dưới những đề mục
gọi là sutra. Sutra là kinh. Ví dụ kinh Chuyển Pháp Luân là bài giải đầu tiên
mà Bụt nói tại vườn Nai phía Bắc thành phố Baranasi cho năm vị khất sĩ đầu. Các
kinh như kinh Vô Ngã Tướng, kinh Nhân Duyên, kinh Bát Chánh Đạo đều được học
thuộc lòng và được ôn tụng mỗi nửa tháng. Ngoài các vị kinh sư còn có các vị
luật sư, chuyên lo trì tụng về giới luật. Người tập sự xuất gia thì có giới
luật của người xuất gia. Những những chưa đến tuổi hai mươi như chú Rahula thì
chưa được thọ giới khất sĩ, mà chỉ được thọ giới sa di.
Năm ấy ở
Kosambi đã xảy ra một vụ tranh chấp giữa một vị kinh sư và một vị luật sư tại
tu viện Ghostra. Nguyên do vụ tranh chấp thật là bé nhỏ nhưng vì lòng tự ái của
một số các thầy khất sĩ mà vụ tranh chấp đã gây nên chia rẽ trầm trọng trong
đại chúng. Vị kinh sư này vì vô ý đã không đổ nước trong chậu sau khi sử dụng.
Vị luật sư cho đó là phạm luật. Vị kinh sư nghĩ là vì không cố tình cho nên
mình không có lỗi. Nguyên do vụ tranh chấp chỉ có thế, nhưng đệ tử của hai vị
ai cũng bênh vực thầy mình và nói bên đối phương và sai lầm. Cuộc tranh chấp vì
thế mà leo thang. Bên này bắt đầu nói bên kia là vu khống. Bên kia bắt đầu nói
bên này là vọng ngữ. Cuối cùng vị luật sư tuyên bố giữa đại chúng là vị kinh sư
phạm giới, và nếu không sám hối thì vị này sẽ không được phép tham dự các buổi
bố tát tụng giới hàng nửa tháng.
Tình
trạng trở nên căng thẳng. Hai bên nói qua nói lại. Những lời qua lại này cũng
tai hại như những mũi tên độc. Các vị khất sĩ chia thành hai phe. Cũng may là
có một số các vị khất sĩ không chịu theo phe nào. Họ than thở với nhau: “Chết
mất, chết mất! thế nào cũng có chia rẽ trầm trọng trong giáo đoàn".
Trong
khi đó, Bụt vẫn chưa hay biết gì, tuy người đang an cư ở một tịnh xá sát bên tu
viện. Một số các vị khất sĩ đi tìm Bụt và trình lên người hiện tình của đại
chúng, và cầu Bụt can thiệp. Bụt liền đi tìm vị luật sư. Người nói:
- Chúng
ta không nên quá tin ở quan điểm riêng của chúng ta. Chúng ta phải lắng nghe và
tìm hiểu quan điểm của người bên kia. Chúng ta phải làm mọi cách để tránh sự
chia rẽ trong đại chúng.
Rồi Bụt
đi tìm vị kinh sư. Người cũng nói với vị kinh sư những lời mà người đã nói vị
luật sư, hy vọng hai người sẽ đi tới hòa giải. Sau đó người trở về tịnh xá.
Nhưng
cuộc can thiệp của Bụt không có hiệu quả. Cả hai bên vì lời qua lẽ lại đều đã
bị thưong tích trầm trọng. Các vị khất sĩ đứng ở giữa không đủ sức để giàn xếp
một cuộc hòa giải. Nội vụ được chuyền tới tai giới đệ tử tại gia và chẳng bao
lâu các giáo phái bên ngoài đều biết tới. Uy tín của đoàn thể khất sĩ bị thương
tổn nặng. Đại đức Nagita thị giả của Bụt thấy thế, không chịu nổi nửa. Thầy lại
đem nội vụ trình lên Bụt và cầu cứu Bụt tới can thiệp một lần nữa.
Bụt
khoác áo và tới thẳng thính đường của tu viện. Người bảo đại đức Nagita thỉnh
chuông triệu tập đại chúng. Khi mọi người đã tụ họp đầy đủ, Bụt nói:
- Xin
các thầy hãy chấm dứt việc tranh chấp và cãi cọ. Xin quý thầy hãy chấm dứt tình
trạng chia rẽ trong nội bộ giáo đoàn. Xin trở về với sự tu học.
Nếu
chúng ta tu học thật sự thì chúng ta không còn là nạn nhân của tự ái, giận hờn
và chia rẽ nữa.
Một vị
khất sĩ đứng lên, bạch:
- Thế
Tôn, xin Thế Tôn đứng ra ngoài vụ tranh chấp này. Xin người cứ an trú trong
niềm vui tịnh lạc của thiền định. Đây không phải là việc của người.
Chúng
tôi đã lớn: chúng tôi có thể tự mình giải quyết vụ này được, không cần đến Thế
Tôn.
Vị khất
sĩ nói xong, mọi người đều im lặng. Bụt cũng im lặng. Một lát sau, người đứng
dậy, rời bỏ thính đường. Người trở về tịnh xá lấy bình bát và áo, rồi người một
mình đi vào Kosambi để khất thực. Khất thực xong, người vào rừng một mình để
thọ trai. Thọ trai xong người đứng dậy, ôm y bát từ bỏ thành phố Kosambi, hướng
về phía bờ sông mà đi. Không ai được phép đi theo người, kể cả thầy thị giả, kể
cả đại đức Ananda.
Bụt đi
lần hồi tới thị trấn Balakalonakaragama. Tại đây người gặp một vị đệ tử là đại
đức Bhagu. Thấy Bụt, đại đức rất vui mừng, đại đức rước Bụt vào một cụm rừng,
mời Bụt ngồi rồi đi tìm nước và khăn cho Bụt rửa mặt và tay chân. Bụt hỏi thăm
về sự tu học của thầy Bhagu. Thầy nói thầy rất an lạc ở đây, dù thầy ở có một
mình. Bụt nói:
- Ở một
mình đôi khi mà khỏe hơn là ở với nhiều người.
Sau khi
giảng dạy thêm giáo lý và khích lệ đại đức Bhagu về sự tu học, Bụt từ giã thầy
để đi về phía công viên Đông Trúc cách đó không xá. Bước vào công viên, Bụt bị
người cai vườn ngăn lại, ông ta nói:
- Sa
môn, ông đừng đi vào trong công viên, sợ làm rộn các vị đang tu hành trong ấy.
Bụt chưa
biết nói sao thì từ trong công viên đại đức Anuruddha đi ta. Thầy vái chào Bụt
và nói người cai vườn:
- Đó là
thầy của chúng tôi đấy, xin ông cứ để cho người vào.
Rồi đại
đức đưa Bụt vào phía trong công viên. Ở đây, Bụt gặp thêm hai vị khất sĩ khác:
đại đức Nandiya và đại đức Kimbila. Hai người được gặp Bụt rất mừng. Thầy Nandiya
nâng bát cho Bụt, còn thầy Kimbila thì nâng áo sanghati của người. Họ sắp chỗ
ngồi cho Bụt bên một bụi tre vàng. Họ đem nước và khăn tới cho Bụt rửa mặt và
rửa chân. Rồi cả ba thầy chắp tay làm lễ Bụt. Bụt bao ba thầy ngồi xuống bên
cạnh:
Người
hỏi:
- Các
thầy ở đây có được an tịnh không? Sự tu học có thuận lợi không? Việc khất thực
hành hóa có dễ dàng không?
Thầy
Anuruddha đáp:
- Bạch
thầy, chúng con ở đây rất an ổn. Ở đây khung cảnh rất an tịnh. Việc khất thực
và hành hóa cũng dễ dàng. Chúng con đã đạt được nhiều tiến bộ trong sự tu học.
Bụt hỏi:
- Các
thầy có thương mến nhau và hòa hợp với nhau không?
- Thưa
Thế Tôn, chúng con rất thương mến nhau. Chúng con hòa hợp với nhau một cách dễ
dàng như nước với sữa. Riêng con, được sống với hai huynh Kimbila, và Nandiya
là một điều may mắn lớn cho đời con. Con trân quý tình bằng hữu này lắm. Mỗi
khi con nói hay con làm một điều gì, dù là khi hai huynh không có mặt, con cũng
nghĩ đến hai huynh. Con tự hỏi con: nói như thế và làm như thế thì hai huynh có
vừa ý không? Nếu con có một chút nghi ngờ rằng lời nói và việc làm ấy có thể
làm cho hai vị phật ý là con nhất định không nói và không làm. Thưa Thế Tôn,
chúng con tuy là ba người mà cũng như là một.
Bụt gật
đầu ưng ý. Người nhìn hai thầy kia. Thầy Kimbila nói với Bụt:
- Điều
sư huynh Anuruddha nói đó là sự thật. Chúng con rất hòa hợp với nhau và rất
thương mến nhau.
Thầy
Nandiya nói:
- Chúng
con biết chia xẻ cho nhau đồng đều mọi thứ. Từ chỗ ăn ngủ cho đến kiến thức và
kinh nghiệm, chúng con đều sẵn lòng chia xẻ cho nhau.
Bụt
khen:
- Tốt
lắm! Tôi rất hài lòng khi thấy các thầy ăn ở với nhau như vậy. Có sự hòa hợp
đó, một đoàn thể tu học mới thật sự là một đoàn thể tu học. Các thầy đã thật sự
tỉnh thức cho nên quý thầy mới thực hiện được sư hòa hợp đó.
Bụt ở
lại với ba thầy một tháng. Người nhận xét như sau:
Buổi
sáng sau giờ thiền tọa, ba thầy cùng đi khất thực một lần. Khất thực xong, vị
nào về trước thì đi sắp đặt chỗ ngồi đi lấy nước uống, nước rửa và một cái chậu
sạch để sẵn tại đó. Xong rồi vị ấy mới đi rửa mặt, rửa chân, và ngồi xuống để
quán niệm và thọ trai. Trước khi thọ trai, vị ấy san bớt thức ăn trong bát vào
chiếc chậu sạch. Thức ăn này là để dành cho vị khất sĩ nào không xin được đủ
một phần ăn. Khi các vị kia về, thì nước rửa và nước uống đã có sẵn. Họ khì
phải đi xách nước. Họ chỉ cần ngồi xuống rửa tay, rửa mặt và rửa chân trước khi
ngồi xuống thọ trai. Sau khi thọ trai và uống nước, cả ba người cùng đi dọn
dẹp. Nếu thức ăn trong chậu còn dư, họ đem đổ ở một khoảng đất không có cây cỏ,
hoặc đổ xuống nước nơi không có loài vật nào đang sống. Họ cùng rửa và cùng úp
các chậu lại. Ai thấy bình nước uống hết nước thì đi lấy thêm. Ai thấy vại nước
rửa lưng đi thì đi xách nước thêm. Ai thấy cầu tiêu không được sạch thì đi chùi
rửa. Việc gì cần hai hoặc ba người mới làm nổi thì họ đâu vai chung sức lại. Họ
không cần bàn cãi gì hết về công việc hàng ngày. Cứ mỗi năm ngày họ ngồi lại
một lần để cùng học hỏi giáo lý và trao đổi kinh nghiệm tu tập.
Trước
khi từ giã ba thầy, Bụt nói:
- Các
thầy, bản chất của một tăng đoàn (sangha) là sự hòa hợp. Theo tôi, ta có thể
minh định sự hòa hợp như sau:
- Thứ
nhất là thân hòa đồng trú, nghĩa là cùng chia xẻ vói nhau một trung tâm tu học,
một khu rừng hay một mái nhà.
- Thứ
hai là lợi hòa đồng quân, nghĩa là cùng chia xẻ với nhau đồng đều những tiện
nghi của cuộc sống.
- Thứ ba
là giới hòa đồng tu, nghĩa là cùng hành trì với nhau những giới và những luật
đã được truyền thọ và ban hành.
- Thứ tư
là khẩu hòa vô tránh, nghĩa là chỉ sử dụng thứ ngôn ngữ hòa hợp, tránh tất cả
những lời nói có thể gây ra sự xích mích và tranh cãi.
- Thứ
năm là kiến hòa đồng giải, nghĩa là trao đổi và chia xẻ những hiểu biết và
những kiến thức với nhau, không dấu diếm cái hiểu biết cho riêng mình, để cho
mọi người cùng được học hiểu.
- Thứ
sáu là ý hòa đồng duyệt, nghĩa là các ý kiến khác nhau phải được tổng hợp lại,
và không ai có thể bắt buộc mọi người khác phải làm theo ý kiến riêng của mình
như thế để tạo nên sự vui vẻ hòa hợp trong đoàn thể.
Các vị
khất sĩ! Từ nay về sau, chúng ta phải lấy sáu nguyên tắc hòa hợp này mà sống
với nhau.
Ba vị
đại đức hoan hỷ tiếp nhận lời nhận của Bụt. Từ giã ba thầy, Bụt lên đường. Bảy
ngày sau, người tới Parileyyaka, Bụt đi vào rừng Rakkhita, và tìm thấy một cây
sala cành lá sum suê. Người đặt y bát xuống và ngồi nghĩ dưới gốc cây đẹp đẽ
này. Bụt có ý định muốn ở lại một mình tại đây trong mùa an cư sắp tới.
---o0o---
Chương 47
CỨ THEO CHÁNH PHÁP MÀ HÀNH TRÌ
Dưới cây
sala, người cảm thấy có nhiều an lạc và thoải mái. Đây là một khu rừng xanh tốt,
có đồi, có suối lại có hồ. Sống một mình, Bụt thấy dễ chịu hơn khi có đông đảo
đệ tử. Ở Kosambi, hiện giờ nhiều vị khất sĩ đang sống trong phiền não, và phiền
não lan tới cả giới đệ tử tại gia. Người cảm thấy buồn vì chính đệ tử của người
cũng không chịu nghe lời người khuyên bảo.
Người
biết đó là sự buồn giận đang che mất tâm trí họ.
Trong
rừng Rakkhita, Bụt gặp rất nhiều loài thú vật. Có cả một đàn voi nữa.
Con voi
mẹ vốn là một con voi chúa thường hay đem những con voi khác và đàn voi con
xuống tắm dưới hồ. Nó dạy cho những con voi con uống nước, ăn cỏ và ăn những
cây bông súng. Bụt nhìn con voi mẹ dạy đàn voi con ăn những cây bông súng. Nó
lấy vòi nhổ một đám bông súng, khỏa những cây bông súng để rửa ở mặt nước cho
bùn đất trôi đi rồi mới đưa vào miệng. Các con voi con tập một hồi rồi cũng làm
được như con voi mẹ.
Mấy con
voi coi này rất có cảm tình với Bụt. Voi và Bụt rất thân cận và yêu mến nhau.
Có khi voi mẹ hái cả trái cây để cúng dường Bụt. Bụt ưa vuốt đầu những con voi
con và đưa chúng xuống bờ hồ. Con voi chúa thường dùng tiếng rống để triệu tập
đàn voi và những con voi con. Tiếng rú của con voi chúa rất là oai vệ. Bụt đã
học và bắt chước được tiếng rú này Có một lần sau khi con voi chúa rú lên tiếng
rú oai vệ của nó, Bụt cũng bắt chước rú lên, con voi chúa nghe tiếng rú lập tức
nhìn về phía Bụt, và nó tới trước Bụt rồi quỳ hai chân trước xuống, Bụt vuốt ve
và đỡ nó dậy.
Bụt ở
lại an cư tại đây. Đây là mùa an cư thứ mười của Bụt sau ngày thành đạo. Đây là
lần thứ hai người an cư một mình. Suốt này người ở trong rừng.
Chỉ buổi
sáng vào giờ khất thực người mới rời khỏi khu rừng xanh tốt của người để đi vào
tụ lạc mà thôi.
Sau mùa
an cư, Bụt từ giã đàn voi và khu rừng xinh đẹp. Người đi về hướng Đông Bắc. Nửa
tháng sau người về tới tu viện Cấp Cô Độc ở Savatthi. Đại đức Sariputta thấy
Bụt về mừng lắm. Rahula cũng có mặt tại đó. Nhiều vị đại đệ tử cũng có mặt tại
đó: các đại đức Mahamoggallana, Mahkassapa, Mahakunda, Upali, Mahakotthiya,
Mahakappina, Mahakunda, Revata, và Devadatta ... Các đại đức Anuruddha,
Kimbila, Nandiya từ công viêng Rừng Trúc ở Karagama cũng đã về tới. Ni sư
Gotami cũng có mặt tại Savatthi.
Thấy Bụt
ai nấy đều mừng rỡ.
Bước vào
tịnh xá, Bụt gặp thầy Ananda đang sắp đặt và quét dọn lại tịnh xá.
Một năm
và bốn tháng trời, Bụt đã vắng mặt tại đây. Thấy Bụt, đại đức Ananda mừng quá.
Thầy buông chổi vái chào Bụt, Bụt hỏi thăm thầy về tình trạng ở Kosambi. Thầy
nói:
- Sau
khi Bụt bỏ đi, một số huynh đệ đến tìm con và nói: “Này sư huynh, Thế Tôn đã bỏ
đi rồi, người đi một mình. Tại sao sư huynh không tìm theo Bụt để làm thị giả
cho người. Nếu sư huynh không đi thì chúng tôi đi vậy”.
Con trả
lời: “Nếu Bụt đi mà không cho ai biết mà cũng không từ giã huynh đệ chúng ta,
đó là vì người muốn đi một mình. Chúng ta không nên làm phiền người". Sau
đó khoảng sáu tháng, một số huynh đệ lại tới nói với con: “Này sư huynh, lâu
nay chúng mình không được nghe Thế Tôn dạy bảo, không được nghe giáo pháp trực
tiếp từ miệng của bậc thầy nói ra. Chúng ta nên đi tìm người”. Chúng con đã lên
đường tìm Bụt nhưng không được gặp.
Không ai
biết Bụt ở đâu. Cuối cùng chúng con tìm về Savatthi. Về tới đây chúng con cũng
không thấy Bụt. Chúng con tự bảo nên kiên nhẫn chờ Bụt tại đây. Thế nào người
cũng về. Thế nào người cũng không bỏ các đệ tử xứng đáng của người.
- Khi
thầy rời Kosambi, tình trạng như thế nào? Các vị khất sĩ còn cãi cọ nhau nhiều
không?
- Thế
Tôn, hồi ấy tình trạng còn căng thẳng lắm. Căng thẳng hơn này Thế Tôn ra đi
nhiều, không bên nào chịu thua bên nào. Không khí thật là khó thở. Mỗi lần đi
vào thành phố khất thực là chúng con lại bị giới cư sĩ hỏi nhau về vụ tranh
chấp. Chúng con nói: “Có nhiều vị khất sĩ đứng ngoài vụ tranh chấp. Xin quý vị
biết cho điều đó”, và đó là điều duy nhất mà chúng con có thể làm. Dần dần giới
cư sĩ bắt đầu phản ứng. Họ tìm tới tu viện và nói với các vị khất sĩ trong vụ
tranh chấp: “Quý thầy đã không nghe lời Bụt để cho Bụt phải buồn lòng mà bỏ đi.
Quý thầy có trách nhiệm rất lớn. Giới tại gia của chúng tôi đã mất rất nhiều
niềm tin. Xin quý thầy xét lại”. Thưa Thế Tôn, ban đầu thì các thầy không chú ý
tới lời cảnh cáo của giới tại gia, nhưng sau đó, giới tại gia cương quyết bảo
nhau không cúng dường cho các vị có mặt trong cuộc tranh chấp. Hỏi tại sao
không cúng dường tăng bảo, họ trả lời: “Quý vị không xứng đáng với Bụt, bởi vì
quý vị không có sự hòa hợp. Nếu quý vị nghe lời Bụt mà hòa giải được với nhau,
rồi sau đó đi tìm Bụt để sám hối, thì chúng tôi sẽ khôi phục được niềm tin. Lúc
đó chúng tôi mới hành trì lại phép cúng dường với tất cả tâm thành của chúng
tôi được".
Thưa Thế
Tôn, giới tại gia ở Kosambi cương quyết lắm. Họ nói thì họ làm.
Ngày rời
Kosambi, con nghe nói là hai bên định ngày tập hợp để đi tới sự hòa giải. Con
nghĩ là họ sẽ hòa giải được và sớm muộn gì họ cũng tìm về tới đây để xin sám
hối với Bụt.
Bụt nói:
-
Ananda, đưa chổi đây để tôi dọn dẹp tiếp cho. Thầy hãy đi kiếm đại đức
Sariputta về để tôi nói chuyện.
Ananda
đi rồi, Bụt lấy chổi quét tịnh xá. Người làm công việc này một cách thong thả
và thoải mái. Rồi người bắc một chiếc ghế ra ngoài sân ngồi. Tu viện Cấp Cô Độc
quả là một nơi đẹp đẽ. Cây cối xanh tươi và chim chóc ca hát vang lừng cả bốn
mặt. Người ngồi chơi một lát thì đại đức Sariputta tới.
Hai thầy
trò ngồi bên nhau im lặng một hồi lâu. Rồi Bụt nói cho đại đức nghe điều người
đang quan tâm. Bụt bảo: phải làm mọi cách để những cuộc cãi cọ vô nghĩa lý đừng
xảy ra ở trung tâm tu học xinh đẹp này. Hai người bàn bạc với nhau khá lâu.
Một buôi
chiều nọ, đại đức Sariputta được báo tin là các thầy ở Kosambi đang lục tục kéo
về. Họ đông tới cả mấy trăm người. Họ còn ở dưới phố, chưa lên tới tu viện.
Thầy đi tìm Bụt và hỏi người:
- Thế
Tôn, con nghe là các huynh đệ tử Kosambi đã về đến và sắp tới nơi rồi. Chúng
con phải tiếp xử với họ như thế nào?
- Thì cư
tiếp xử đúng chánh pháp.
- Lạy
Bụt, đúng chính pháp nghĩa là sao, xin người dạy cho.
- Thầy
mà cũng còn hỏi một câu như thế sao?
Đại đức
Sariputta im lặng. Vào lúc đó, các thầy Moggallana, Kassapa, Kaccana, Kotthiya,
Kappina và Anuruddha tìm tới tịnh thất của Bụt. Các thầy hỏi:
- Lạy
Bụt, các huynh đệ sắp về tới. Chúng con phải tiếp xử với họ như thế nào?
- Thì
các vị cứ tiếp xử đúng như chính pháp.
Các thầy
đưa mắt nhìn đại đức Sariputta. Đại đức chỉ mỉm cười, Bụt nhìn những vị đệ tử
lớn của người. Rồi người nói chậm rãi:
- Phải
lắng tai nghe cả hai bên, phải đừng có thành kiến với bên nào hết.
Những
điều giới mình nghe từ một phía, mình phải trầm tĩnh xét đoán, xem cái gì đúng
với chánh pháp và cái gì không đúng với chánh pháp. Chánh pháp là những gì tôi
đã trình bày như là con đường đưa đến an lạc và giải thoát, những điều mà chính
tôi, tôi đang làm theo. Không phải chánh pháp là những gì tôi đã khuyên răn
không nên làm và chính tôi, tôi không bao giờ làm. Khi quý vị biết được cái gì
là chánh và cái gì là không chánh ở mỗi bên thì quý vị có thể giúp đỡ họ trong
công việc hòa giải.
Vừa lúc
ấy các vị thí chủ lớn của tu viện do cư sĩ Anathapindika lãnh đạo cũng tìm tới
tịnh thất. Họ hỏi:
- Thế
Tôn, những vị khất sĩ ở Kosambi sắp tới. Chúng con phải đối xử như thế nào?
Chúng con nên cúng dường hay không nên cúng dường? Nếu cúng dường thì Bụt dạy
nên cúng dường phía bên nào?
Bụt mỉm
cười:
- Nên
cúng dường cả hai bên, và nên tỏ lòng yểm trợ và tán thành mỗi khi có người nói
lên những điều đúng với chánh pháp.
Lúc đó,
thầy Ananda xuất hiện. Thầy báo tin cho đại đức Sariputta biết là hiện các thầy
Kosambi đã về tới cổng tu viện đầy đủ. Tất cả đang đứng chờ bên ngoài tu viện
vì chưa dám đi vào. Đại đức Sariputta hướng về phía Bụt:
- Lạy
Bụt, các anh em của con từ Kosambi đã tới. Con có nên mở cửa cho họ vào không?
Bụt nói:
- Nên mở
cửa cho họ vào.
Sariputta
bạch tiếp:
- Rồi
con sẽ giải quyết thế nào về sự cư trú của họ.
- Cho
hai phe ở riêng ra hai bên.
- Lạy
Bụt, có thể là không đủ chỗ cư trú riêng cho tất cả mọi người.
- Nếu
vậy thì chịu khó ở chật chật hơn một chút. Tuy nhiên, đừng nên để ai phải ngủ ở
ngoài trời, nhất là các thầy lớn.
- Còn về
thực phẩm và thuốc men?
- Thực
phẩm và thuốc men thì cũng được phân phát cúng dường đồng đều như nhau.
Theo
lệnh của đại đức Sariputta, các thầy tri khách mở cửa đón tiếp các vị khất sĩ
từ Kosambi tới. Các vị được chia chỗ ở và những những tiện nghi cư trú theo
đúng như lời Bụt dạy. Tất cả mọi việc đều được diễn tiến trong im lặng.
Sáng
ngày hôm sau, tất cả các vị mới đến đều được lệnh cho đi khất thực, nhưng trước
khi họ đi, thầy Sariputta đã chia họ thành từng toán và chỉ định đi từng địa
phương khác nhau theo tinh thần lời Bụt dặn. Buổi chiều, các thầy ngỏ ý muốn
đại đức Sariputta dàn xếp cho họ được làm lễ sám hối Bụt.
Đại đức
nói:
- Theo
sự hiểu biết của tôi thì việc sám hối với Bụt không phải là việc căn bản. Việc
căn bản là các thầy đạt được sự hòa giải. Với sự hòa giải đó như một thành quả,
lễ sám hối mới có ý nghĩa và mới có bản chất chân thực.
Tối hôm
ấy, vị kinh sư chủ chốt của sự bất phục tùng tìm tới vị luật sư thù nghịch.
Thầy chắp tay lại và làm lễ vị này. Thầy quỳ xuống và tác bạch:
- Bạch
đại đức, tôi xin công nhận là tôi đã phạm giới, và sự kết tội của đại đức vào
mùa hè năm ngoái là đúng luật. Tôi sẵn sàng sám hối trước đại chúng, để được
trở lại tình trạng giới thể thanh tịnh.
Vị kinh
sư làm được như vậy vì thầy không thấy có một nẻo thoát nào khác cho giáo đoàn
khất sĩ. Ông sẵng hy sinh tự ái để đem lại hòa khí cho giáo đoàn. Biết thế, vị
luật sư liền phản ứng một cách mau lẹ. Ông cũng quỳ xuống trước vị kinh sư. Ông
nói:
- Tôi
cũng xin sám hối với đại đức là tôi đã thiếu khiêm nhượng và thiếu khéo léo
trong vụ này. Xin đại đức từ bi chứng minh cho tấm lòng thành khẩn của tôi.
Ngay
buổi tối hôm đó, lễ phát độ của vị kinh sư được tổ chức, và vị kinh sư khôi
phục được giới thể thanh tịnh. Ai nấy đều thở phào, nhất là các vị khất sĩ từ
Kosambi đến, trong số đó có nhiều thầy chưa bao giờ có dính líu đến cuộc tranh
chấp.
Bụt được
báo tin này vào lúc nửa đêm. Chính đại đức Sariputta đem tin này tới cho người.
Người chỉ gật đầu không nói năng gì. Cuộc tranh chấp đã chấm dứt, nhưng vết
thương vẫn còn. Phải một thời gian nữa thì vết thương mới có thể lành hẳn.
---o0o---
Chương 48
RƠM PHỦ LÊN BÙN
Theo đề
nghị của đại đức Mahakassapa, một cuộc hội họp được tổ chức tại giảng đường Kỳ
Viên, quy tụ những vị đệ tử lớn của Bụt và cả những vị đã từng là chủ chốt
trong vụ tranh chấp ở Kosambi. Mục đích của buổi họp là để rút tỉa kinh nghiệm
và đề ra những nguyên tắc ngăn ngừa những cuộc tranh chấp có thể xảy ra trong
giáo đoàn. Đại đức Kahakasapa làm chủ tọa buổi họp.
Mở đầu
buổi họp, thầy Anuruddha được đại đức Mahakassapa yêu cầu trùng tuyên lại những
điều mà thầy đã được nghe Bụt dạy tại công viên Đông Trúc về sáu nguyên tắc
sống chung hòa hợp. Thầy Anuruddha lập lại với đầy đủ chi tiết sáu nguyên tắc
ấy mà thầy gọi là pháp chế Lục Hòa. Đại đức Moggallana rất mừng sau khi được
nghe pháp chế này. Thầy đề nghị tất cả các vị khất sĩ nên học thuộc lòng sáu
nguyên tắc sống chung hòa hợp.
Thầy
nói:
- Sáu
nguyên tắc này cũng cần được học thuộc lòng để đem phổ biến tới các trung tâm
tu học khác.
Sau bốn
hôm góp ý và thảo luận, các thầy đã thiết lập được bảy phương pháp để dập tắt
các cuộc tranh chấp. Họ gọi đó là thất diệt tránh pháp
(Saptadhikarana-samatha), và họ đem đệ trình lên Bụt. Thất diệt tránh pháp được
xem như là những phương pháp đưa tới sự hòa giải, được trình bày như sau:
Thứ nhất
là hiện tiền tỳ ni (samukha-vinaya). Theo nguyên tắc này, tất cả những phát
biểu về cuộc tranh chấp được nói ra trong đại chúng, với sự có mặt của hai phía
tranh chấp. Tránh tất cả những sự phát biểu và bàn bạc riêng tư, những phát
biểu thường có tác dụng tuyên truyền cho một bên và do đó có tác dụng gây thêm
nứt rạn và hận thù.
Thứ hai
là ức niệm tỳ ni (sati-vinaya). Ức niệm tức là nhớ lại. Trong buổi họp có sự
hiện diện của cả hai phiá tranh chấp, các đương sự phải hồi tưởng lại những gì
đã thực sự xảy ra và tuần tự trình bày tất cả những điều đó theo trí nhớ của
mình, với tất cả những chi tiết, và nếu có thì đưa ra những bằng chứng xác
thực. Đại chúng sẽ im lặng lắng nghe hai bên để có đủ mọi dữ kiện mà thẩm sát
vấn đề.
Thứ ba
là bất si tỳ ni (Amudha-vinaya). Bất si có nghĩa là không cứng đầu, không ngu
dốt hoặc tâm trí không bình thường. Trong buổi họp mặt có sự hiện diện của cả
hai phía tranh chấp, đại chúng trông chờ các đương sự bày tỏ thiện chí hòa giải
của mình với tất cả khả năng của mình. Thái độ ngoan cố được xem như là một
điểm tiêu cực căn bản. Trong trường hợp đương sự nêu lên lý do là vì mình ngu
dốt không biết, hoặc vì mình tâm trí bất thường cho nên đã vô tình phạm vào quy
luật thì đại chúng phải nương vào đó để giảm luật án cho đẹp lòng đôi bên.
Thứ tư
là tự ngôn tỳ ni (tatsvabhaisya-vinaya). Tự ngôn là tự mình nói ra, tự mình
công nhận sự vô ý, sự vụng về hoặc sự yếu đuối của mình, không cần sự hạch hỏi
của đối phương hay của đại chúng. Trong buổi họp mặt có sự hiện diện của cả hai
phía tranh chấp, đại chúng trông đợi mỗi bên tự nói ra những nhược điểm của
mình, dù là những điểm nhỏ nhặt nhất. Tự nhận lỗi mình tức là khởi sự cho một
cuộc xuống thang tranh chấp, điều này sẽ khuyến khích đối phương cũng làm như
vậy, để cuối cùng thiện chí của cả hai bên sẽ đủ sức đưa tới hòa giải.
Thứ năm
là đa ngữ tỳ ni (pratijnakaraka-viaya). Đa ngữ là lấy biểu quyết bằng đa số.
Sau khi đã nghe hết tất cả hai bên và đã chứng kiến nổ lực và thiện chí của hai
bên, đại chúng sẽ biểu quyết bằng đa số.
Thứ sáu
là tội xứ sở tỳ ni (yadbhuyasikya-vinaya). Án lệnh tối hậu về tội tướng và cách
thức hối cải được đưa ra để đại chúng quyết định bằng phương pháp bạch tứ yết
ma (jnapticaturbin-karmavacana), nghĩa là phương pháp đọc lớn bản án và hỏi ba
lần. Nếu trong ba lần này mà tất cả đều im lặng và không ai lên tiếng phản đối
thì bản án lệnh có hiệu lực. Cố nhiên là các đương sự chỉ có thể tuân hành chứ
không có quyền phản đối, bởi vì cả hai bên từ lúc bắt đầu đã phát nguyện tin
tưởng vào phán quyết của đại tăng.
Thứ bảy
là thảo phú địa tỳ ni (trnastaraka-vinaya). Thảo phú địa nghĩa là rơm cỏ phủ
lên đất sình lầy. Trong buổi họp mặt có sự hiện diện của cả hai phía tranh
chấp, hai vị trưởng lão đức độ được chỉ định để bảo trợ cho hai phía. Các vị
này thường được đại chúng tôn kính và nghe lời. Các ngài ngồi chăm chú nghe,
rất ít nói, nhưng mỗi khi nói là có ảnh hưởng rất lớn. Tiếng nói của các vị
trưởng lão này nhằm hàn gắn những vết thương, kêu gọi thiện chí hòa giải và tha
thứ, cũng như phủ rơm cỏ lên trên mặt đất sình lầy để mọi người bước lên mà
không bị lấm chân. Ca hai phía sẽ nghe lời các vị mà bỏ qua đi những điều không
đáng kể, mất đi sự gay gắt, và đại chúng cũng đi đến một bản án lệnh nhẹ nhàng
làm mát lòng cả hai bên.
Bảy
phương pháp dập tắt tranh chấp được các vị đệ tử lớn đem trình lên Bụt. Bụt rất
vui lòng. Người tỏ ý khen ngợi các thầy và đồng ý đưa bảy điều này vào giới
luật.
Bụt ở
lại tu viện Jetava trong sáu tháng nữa, sau đó người về Rajagaha. Trên đường
về. người đã ghé lại thăm cây bồ đề. Người cũng đã ghé lại xóm Hạ làng Uruvela
để thăm mấy anh em Svastika. Svastika bây giờ đã thành một chàng trai cao lớn.
Svastika đã hai mươi mốt tuổi. Nhớ lời hứa năm xưa, Bụt đã ghé lại để độ chú,
đưa chú về Rajagaha. Ở đây chú đã được xuất gia và đã được làm quen với chú
Rahula.
---o0o---
Chương 49
CON HÃY HỌC HẠNH CỦA ĐẤT
Vị khất
sĩ trẻ Svastika nghe hai thầy Assaji va Ananda kể về công trình hành đạo của
Bụt trong mười năm qua một cách say mê. Ngồi với chú, có ni sư Gotami và chú
Rahula. Tuy đã biết và đã được chứng kiến nhiều việc xảy ra, nhưng chú Rahula
cũng tỏ vẻ thích thú khi nghe các đại đức thuật lại. Thầy Ananda có trí nhớ rất
dị thường, thầy đã nhắc rất nhiều chuyện mà thầy Assaji quên không nói tới.
Svastika cảm thấy một niềm biết ơn sâu xa đối với các thầy Assaji và Ananda,
với ni sư Gotami và với chú Rahula. Nếu không có bốn vị này làm sao chú được
dịp nghe kể từng ấy chuyện về đời của Bụt. Chú hy vọng từ đây về sau sẽ được
thân cận Bụt để được sống và chứng kiến những gì xảy đến trong đời người và
cũng để được học hỏi trực tiếp từ người.
Tuy xuất
thân là một chú bé chăn trâu, Svastika cũng có đôi chút học thức và chữ nghĩa.
Đây là nhờ công trình của chị Sujata con gái của ông hương cả trong làng
Uruvela. Chị đã dạy Svastika từ năm chú mười một tuổi. Mấy năm gần đây chú
không được học với chị nữa, bởi vì chú đã lớn. Svastika được chị báo tin là chị
sắp đi lấy chồng, và vì chồng chị cư trú ở Nadika, nên chị cũng sẽ rời bỏ
Uruvela để về Nadika vào cuối năm nay. Svastika lớn hơn Rahula tới ba tuổi,
nhưng chú cảm thấy chú phải học rất nhiều điều từ chú Rahula. Phong cách của
Rahula rất thanh tao, đã là giòng giống vương giả, Rahula lại được thực tập gần
tám năm trời trong nếp sống tĩnh lặng và uy nghi cho nên so với Rahula,
Svastika thấy mình còn thô tháo nhiều lắm. Chú ý thức được điều đó nên chú hết
sức cố gắng, thầy Sariputta đã giao cho Rahula chỉ bảo cho chú những phép tắc
liên hệ tới việc mặc áo, ôm bát, đi, đứng, nằm, ngồi, đi vào thôn lạc, khất
thực, ăn cơm, rửa bát, nghe pháp ...
Có tất
cả bốn mươi lăm điều mà chú phải học thuộc và làm theo. Những điều này gọi là
uy nghi và tế hạnh. Vị xuất gia nào làm đúng theo những điều này thì tự khắc có
phong thái uy nghi và trầm lặng của một vị khất sĩ.
Trên
nguyên tắc, Svastika là một vị khất sĩ -bhikkhu- trong khi Rahula chỉ mới là
một vị sa di -samanera-. Đúng hai mươi tuổi, Rahula mới được thọ giới khất sĩ.
Giới luật của sa di có mười điều: không sát sinh, không trộm cướp, không dâm
dục, không nói dối, không uống rượu, không trang điểm, cài hoa và xức dầu thơm
không nằm và ngồi trên những giuờng ghế cao, sang và rộng lớn, không ca vũ,
không sử dụng tiền bạc và không ăn sau giờ mặt trời đứng bóng. Bốn mươi lăm
điều uy nghi và tế hạnh tuy thuộc về giới luật của một vị khất sĩ nhưng Rahula
cũng phải học và hành trì, bởi vì Rahula đang tập sự để được thọ giới khất sĩ.
Khất sĩ có tới một trăm hai mươi giới, trong đó có bốn mươi lăm điều uy nghi tế
hạnh. Theo chú Rahula, nói thì số lượng các giới điều khất sĩ sẽ tăng lên với
thời gian, và có ngày giới này có thể sẽ tăng lên hai trăm giới, hoặc hơn thế
nữa.
Theo chú
Rahula kể lại thì trong những năm đầu, các vị khất sĩ sống không cần giới luật
gì hết mà trong giáo đoàn vẫn chẳng có vấn đề đáng tiếc nào xảy ra. Lễ xuất gia
thật đơn giản: chỉ cần quỳ dưới chân Bụt hoặc dưới chân một vị khất sĩ để đọc
lên ba câu Quay Về Nương Tựa là đã chính thức thành người xuất gia. Bây giờ
đây, xuất gia thì phải phát nguyện tiếp nhận và hành trì giới luật. Số lượng
người xuất gia đã trở nên dông đảo. Đông đảo cho nên có những thành phần không
tự mình cảnh giác được và phải cần đến những kỷ luật và phép tắc để chế ngự. Những
phép tắc này gọi là giới và luật.
Chú
Rahula kể rằng người phạm giới đầu tiên là thầy Sudina, và chính vì thầy
Sundina mà Bụt khởi sự áp dụng việc hành trì giới luật. Thầy Sudina trước khi
đi xuất gia đã có thành lập gia đình rồi, và lúc ấy còn cư trú tại làng Kalanda
gần thành phố Vesali. Được nghe Bụt thuyết pháp ở giảng đưòng Trùng Các, Sudina
xin đi xuất gia. Một thời gian sau đó, thầy Sudina có dịp ghé về làng Kalanda.
Gia đình thầy ngỏ ý muốn thỉnh thầy về thọ trai ngày mai. Thầy nhận lời. Ngày
mai lại, sau khi thọ trai, thầy được gia đình yêu cầu hoàn tục để chăm lo sự
nghiệp và cửa nhà. Thầy không bằng lòng.
Gia đình
than phiền rằng thầy là con một, thầy đi tu thì không còn ai nối dõi, và sản
nghiệp sẽ rơi vào tay người khác. Gia đình thầy giàu có lắm. Cuối cùng mẹ thầy
đề nghị nếu thầy cương quyết không hoàn tục thì ít nhất thầy cũng phải để lại
một đứa con. Nể lời mẹ, và cũng vì lý do giáo đoàn chưa có pháp chế giới luật,
thầy nhận lời. Mẹ thầy sau đó sắp đặt để cho thầy gặp lại người vợ cũ. Cuộc gặp
gỡ này xay ra trong rừng Mahavana.
Sau đó,
người vợ cũ của thầy có thai. Đứa con trai sinh ra được ông bà nội đặt tên là
Bijaka, có nghĩa là hạt giống. Rồi sau đó thầy Sudina vị các bạn gọi đùa là “Ba
của Hạt Giống”. Bắt đầu có sự gièm pha trong quần chúng.
Việc này
tới tai Bụt. Người triệu tập các vị khất sĩ lại, thầy Sudina bị Bụt khiển
trách. Giới luật được chế tác bắt đầu từ đó. Mỗi khi có một vị khất sĩ làm một
việc gì trái với tinh thần của đạo lý giác ngộ và giải thoát thì giáo đoàn lại
được tập họp và một điều luật mới được ghi vào giới bản. Giới bản này được gọi
là Patimokkha.
Ngày
Svastika thọ giới, giới bản đã lên tới một trăm hai chục điều. Bốn giới đầu là
bốn giới căn bản, phạm vào một trong bốn điều là tự động mất giới thể, không còn
được công nhận là một vị khất sĩ nữa. Nếu phạm vào những điều khác thì còn có
thể sám hối.
Bốn giới
đầu gọi là trọng giới: không dâm dục, không trộm cướp, không sát hại, không
tuyên bố mình có thực chứng đạo quả khi mình chưa có thực chứng đạo quả. Bốn
giới này gọi là bốn giới parajika: vị khất sĩ nào phạm vào thì không còn là một
vị khất sĩ nữa, cũng như khi một cây cau bị chặt ngọn thì không thể nào mọc lên
lại được.
Chú
Rahula cho biết là Bụt dạy chú rất nghiêm, dù chú biết Bụt thương chú lắm. Từ
năm chú mười ba tuổi, chú đã xin được ăn uống theo các thầy khất sĩ, nghĩa là
không ăn sau giờ mặt trời đứng bóng nữa. Hồi chú mười một tuổi, có một lần chú
đã lỡ nói dối với đại đức Sariputta. Chú đã nói dối chỉ vì sợ thầy Sariputta
mắng về một vụ ham chơi thôi, nhưng rốt cuộc vì nói dối một lần mà phải nói dối
liên tiếp tới bốn lần, sợ tội nói dối lòi ra, nhưng rốt cuộc thì vụ nói dối
cũng lòi ra như thường, Bụt hay được chuyện này và Bụt đã dạy dỗ chú thật kỹ
lưỡng về vấn đề nói dối. Hồi ấy Bụt ở tịnh xá Trúc Lâm, và hai thầy trò
Sariputta thì ở lại vườn Ambalatthika, Rahula thấy Bụt tới liền đi bắc ghế cho
Bụt ngồi và lấy thau đi múc nước cho Bụt rửa chân.
Trong
khi Bụt rửa chân Rahula được thầy Sariputta cho phép ngồi xuống một bên thầy,
gần Bụt.
Rửa chân
xong, Bụt đổ nước đi, nhưng người còn giữ lại một ít nước trong chậu, rồi người
nhìn Rahula hỏi:
- Này
Rahula, nước trong chậu nhiều hay ít?
- Lạy
Bụt, nước trong chậu còn rất ít.
- Con
nên biết đó, Rahula. Những người nói dối thì căn lành không còn lại bao nhiêu,
ít như nước trong chậu này.
Rahula
nín thinh. Bụt lại đổ hết nước trong chậu đi và hỏi:
-
Rahula, con có thấy ta đã đổ hết nước trong chậu đi rồi không?
- Con có
thấy.
- Đối
với những người tiếp tục nói dối, thì thiện căn sẽ mất hết như chiếc chậu không
có nước này.
Bụt lật
úp chậu lại. Người hỏi:
-
Rahula, con có thấy cái chậu bị úp lại không?
- Lạy
Bụt, con có thấy.
- Nếu ta
không tu tập chánh ngữ, nhân cách ta cũng sẽ bị đảo lộn như cái chậu này.
Bụt nói:
-
Rahula, cho nên không nên bao giờ nói dối, dù là để đùa cợt. Con có biết một
tấm gương là để dùng làm gì không?
- Lạy
Bụt, tấm gương dùng để soi mặt mình.
- Cũng
vậy đó Rahula, con phải quán sát hành động, tư tưởng và lời nói của con như
người soi gương vậy.
Nghe
Rahula kể, chú Svastika ý thức được tầm quan trọng của hạnh nói năng chân thực.
Chú nhớ hồi bé chú đã từng nói dối bố, và mẹ, và có một lần chú đã nói dối với
chị Sujata, nhưng may mắn làm sao, chú chưa từng nói dối Bụt lần nào. Chú có
cảm tưởng không thể nói dối Bụt được. Nói dối Bụt thì thế nào người cũng biết.
Chú thầm nghĩ: ta phải dứt khoát từ bỏ lời nói không chân thực, không những ta
không được nói dối Bụt, ta cũng không được nói dối với bất cứ ai, dù người đó
là một em bé. Có như thế ta mới chuộc được lỗi lầm hồi ta còn ấu thơ. Có như
thế ta mới đền đáp được ơn đức của Bụt, với lại đã thọ giới rồi thì phải hành
trì giới cho thật nghiêm chỉnh.
Mỗi
tháng hai lần vào ngày trăng tròn và ngày trăng mới, tất cả các vị khất sĩ tập
họp để bố tát và tụng giới. Các giới điều đề được tuyên đọc, và đại chúng được
hỏi có vi phạm các giới ấy hay không. Nếu đại chúng giữ im lặng tức là không có
ai vi phạm, nếu có ai vi phạm thì vị ấy đứng dậy phát lộ để sám hối. Trừ những
lỗi parajika mà người phạm vào thì tự động bị tản xuất, những lỗi khác đều có
thể sám hối được.
Có nhiều
hôm Svastika cũng được đi khất thực trong đoàn của Bụt, có cả Rahula và đại đức
Sariputta. Mùa an cư ấy Bụt lại cư trú ở Ekanala, một khu đồi núi về phía Nam
thủ đô Rajagaha. Một buổi sáng, đi khất thực ngang qua cánh đồng ở làng
Ekanala, Bụt và các vị khất sĩ bị một nông dân chận đường. Nông dân này tên là
Bharadvaja, ông là một nhà triệu phú, ông có hàng ngàn mẫu ruộng, đây là mùa
cày ruộng, ông đang đốc thúc dân cày đi cày. Có hàng trăm trăm người đang cày
ruộng cho ông trong ngày hôm đó.
Chận
đường Bụt và các vị khất sĩ, ông nói:
- Chúng
tôi là nông dân, chúng tôi phải cày sâu cuốc bẫm, bỏ phân, chăm bón và gặt hái
mới có được gạo ăn, còn các vị không làm gì cả, không sản xuất gì hết mà các vị
cũng ăn. Các vị không có ích lợi gì cho đời cả. Các vị không cày, không cuốc,
không gieo trồng, không bỏ phân, không chăm bón, không gặt hái ...
Bụt bảo
Bharadvaja:
- Có
chứ, chúng tôi cũng có cày, cuốc, gieo trồng, bỏ phân chăm bón và gặt hái.
- Cày
của quý vị đâu, cuốc của quý vị đâu, bò của các vị đâu, hạt giống của các vị
đâu? Các vị chăm bón cái gì, săn sóc cái gì, gặt hái cái gì?
Bụt nói:
- Hạt
giống của chúng tôi là niềm tin. Đất của chúng tôi là chân tâm. Cày của chúng
tôi là chánh niệm. Bò của chúng tôi là sự tinh tiến. Mùa màng của chúng tôi là
sự hiểu biết và thương yêu. Điền chủ! Nếu không có niềm tin, sự hiểu biết và
lòng thương yêu thì cuộc đời sẽ khô cằn và đau khổ lắm.
Chúng
tôi cũng gieo trồng và cũng gặt hái như điền chủ.
Vị chủ
ruộng Bhadvaja rất thích thú được nghe lời Bụt nói. Ông truyền gia nhân đem
thức ăn trưa dành cho ông ta tới để cúng dường Bụt. Thức ăn là cơm gạo thơm nấu
với sữa. Bụt từ chối. Người nói:
- Tôi
thuyết pháp không phải với mục đích là được cúng dường. Các vị khất sĩ không
đổi giáo pháp với phẩm vật cúng dường. Nếu điền chủ muốn cúng dường, xin để đến
một hôm khác.
Vị điền
chủ rất cảm phục. Ông lạy xuống và xin được quy y với Bụt.
Được
chứng kiến cuộc gặp gỡ này giữa Bụt và ông chủ ruộng Bharadvaja, Svastika thấy
rằng nếu được thân cận Bụt chú sẽ học hỏi được rất nhiều, và chú rất mong được
đi theo Bụt suốt đời. Chú biết rằng có cả hàng ngàn vị khất sĩ tuy là học trò
của Bụt mà không được thân cận Bụt như chú, như Rahula và các thầy phụ tá Bụt
như Sariputta, Moggallana và Anaruddha Sau mùa an cư, Bụt lại đi hành hóa về
phương Tây Bắc, và cuối mùa thu năm ấy Bụt tới Savatthi. Một buổi sáng, trong
khi cầm bát đi khất thực sau lưng Bụt, Rahula đánh mất chánh niệm. Tuy vẫn đi
như mọi người, tâm chú lại nghĩ đến chuyện khác. Chú nhìn Bụt phía trước và tự
hỏi ngày xưa Bụt không đi tu thì không biết bây giờ Bụt đang làm gì và mình
đang làm gì.
Chú đã
nghe kể lại là khi Bụt mới sinh, có ông thầy Bà la môn tiên đoán rằng khi lớn
lên Bụt sẽ đi tu và nếu không đi tu thì sẽ trở nên một vị chuyển luân thánh
vương, nghĩa là một vị vua có quyền hạn trên tất cả các vị vua trên hoàn vũ.
Đời sống của một vị chuyển luân thánh vương ra sao, và nếu Bụt bây giờ làm
chuyển luân thánh vương thì chú đang làm gì? Trí óc vơ vẫn nghĩ như thế, bước
chân, hơi thở và dáng đi của chú cũng còn an trú trong uy nghi nữa. Lạ quá, Bụt
đi phía trước mà người cảm thấy được những điều đó. Bụt biết là chú mất chánh
niệm, người dừng bước và quay trở lại.
Tất cả
các vị khất sĩ cũng dừng bước, Bụt bảo Rahula:
- Này
Rahula, con có theo dõi hơi thở và duy trì chánh niệm không?
Rahula
cúi đầu im lặng.
Bụt dạy:
- Muốn
an trú trong chánh niệm thì phải duy trì hơi thở có ý thức. Trong khi đi khất
thực, ta phải thực tập thiền quán. Ta có thể quán sát về tính cách vô thường và
vô ngã của những yếu tố tạo nên muôn loại. Những yếu tố đó là sắc, thân, cảm
thọ, tri giác, tâm ý và nhận thức. Nếu ta duy trì hơi thở có ý thức thì ta có
thể tiếp tục việc thiền quán ngay trong khi ta đi khất thực, và ta sẽ không bị
rơi vào tình trạng thất niệm.
Nói
xong, Bụt quay lại và tiếp tục đi. Đưọc sách tấn, tất cả mọi người đều nắm lấy
hơi thở và duy trì chánh niệm. Nhưng một lúc sau đó, Rahula tách ra khỏi hàng
ngũ các vị khất sĩ, chú tìm đến một cụm rừng bên đường và ngồi xuống dưới một
gốc cây.
Thấy
thế, Svastika cũng rời hàng ngũ và đi theo Rahula. Thấy chú tới gần, Rahula
nói:
- Chú cứ
đi khất thực với các thầy đi, Tôi không có tâm nào mà đi khất thực nữa. Tôi mới
bị Bụt rầy la trước đại chúng là đánh mất chánh niệm. Tôi phải dành cả ngày hôm
nay để thực tập thiền quán. Tôi xấu hổ lắm.
Biết
không làm gì hơn được, Svastika từ giã Rahula và trở lại nhập đoàn với các vị
khất sĩ.
Trên
đường về đại đức Sariputta đã cùng Svastika ghé lại cụm rừng để đón Rahula về
tu viện. Svastika chia xẻ phần ăn của mình xin được vào bát của Rahula. Sau giờ
thọ trai, thầy Sariputta bảo Rahula đi gặp Bụt. Svastika xin được đi theo:
Biết tâm
ý của Rahula đã đến lúc có thể tiếp nhận giáo lý giải thoát. Bụt dạy:
- Này
Rahula, con học theo hạnh của đất. Dù người ta đổ và rải lên những thứ tinh
sạch và đẹp đẽ như hoa, nước thơm, sữa thơm, hoặc người ta đổ lên đất những thứ
dơ dáy hôi hám như phân, nước tiểu và máu mủ, hoặc người ta khạc nhổ xuống đất
thì đất cũng tiếp nhận tất cả những thứ ấy một cách thản nhiên, không vui vẻ
mừng rỡ mà cũng không chán ghét tủi nhục. Cũng như thế, khi những cảm thọ khoái
lạc hoặc buồn khổ phát sinh, con đừng để cho chúng làm nhiễu loạn tâm con và
chiếm cứ lòng con.
Con hãy
học theo hạnh của nước. Khi người ta giặt rửa những thứ dơ bẩn trong nước, nước
cũng không vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Con lại nên
học hạnh của lửa. Lửa đốt cháy mọi thứ, kể ca những thứ dơ bẩn, vậy mà lửa cũng
không vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Con lại cũng nên
học hạnh của không khí. Không khí thổi đi các thứ mùi, mà vẫn không cảm thấy
tủi nhục, buồn khổ và chán chường.
Rahula,
con hãy tu tập lòng Từ để đối trị giận hờn. Lòng Từ là lòng thương yêu được
thực hiện bằng cách đem lại niềm vui cho kẻ khác. Từ là thứ tình thương không
có điều kiện và không chờ đợi sự đền trả. Con hãy tu tập lòng Bi để đối trị tàn
ác. Lòng Bi là lòng thương yêu được thực hiện bằng cách làm vơi đi sự khổ đau
nơi người khác. Bi cũng là thứ tình thương không có điều kiện và cũng không chờ
đợi sự đền trả. Con lại phải tu tập lòng Hỷ để đối trị ganh ghét. Lòng Hỷ là
lòng vui phát sinh từ khả năng vui theo cái vui của người khác và niềm ước ao
làm sao cho kẻ khác được an vui, mong cho kẻ khác được thành công và hạnh phúc.
Con lại nên tu tập lòng Xả để đối trị kỳ thị và vướng mắc. Lòng Xả là tâm niệm
thanh thoát và cởi mở đạt được do sự nhận thức về tính cách tương quan bình
đẳng giữa mọi loài; cái này như thế này vì cái kia như thế kia, mình và người
không phải là hai thực thể riêng biệt, không nên ghét bỏ cái này để đi nắm bắt
một cái khác.
Rahula,
Từ, Bi, Hỷ và Xả là bốn tâm tư lớn, rộng rãi không có bờ bến và cũng đẹp đẽ
không cùng, đó gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Tu tập theo phép này thì mình trở nên
một nguồn suối mát đem lại sinh lực và niềm vui cho tất cả vũ trụ.
Rahula,
con lại phải quán chiếu về vô thường để phá trừ ảo tưởng về cái “ta”. Con phải
quán chiếu về tính sinh diệt và thành hoại của thân thể để hiểu sâu về sống
chết và để thoát ly tham dục, và nhất là con phải tập quán niệm hơi thở. Quán
niệm hơi thở sẽ đem lại nhiều thành quả lợi lạc lớn.
Ngồi kề
Rahula, được nghe tất cả những điều Bụt dạy, Svastika sung sướng vô cùng. Đây
là lần đầu tiên chú được nhe những lời thâm sâu như vậy trực tiếp từ miệng Bụt.
Chú đã học thuộc lòng trên mười kinh, trong đó có những kinh căn bản như Kinh
Chuyển Pháp Luân và Kinh Vô Ngã Tướng mà Bụt nói ở vườn Nai Isipatana, nhưng
chú chưa thấy thấm thía mùi vị đạo của đại pháp như hôm nay. Có lẽ vì những
kinh đó chú không được nghe trực tiếp từ miệng Bụt. Kinh đầu tiên mà chú nghe
trực tiếp từ miệng Bụt là Kinh Chăn Trâu, chú đã thuộc lòng, nhưng hồi Bụt nói
kinh ấy, chú còn đang mới quá, tâm trí chưa đủ chín chắn để cảm nhận lấy tất cả
những cái hay. Chú tự hẹn là những lúc rãnh rỗi chú sẽ ôn tụng lại các kinh đó
bằng nhận thức mới của mình để có thể thâm nhập được nghĩa lý sâu xa trong ấy.
Suy nghĩ
tới đó thì Svastika lại nghe tiếng Bụt cất lên. Bụt bắt đầu dạy Rahula về
phương pháp thở. Svastika và Rahula đã từng học phép quán niệm hơi thở rồi và
cũng đã thực tập, nhưng đây là lần đầu hai người được Bụt dạy trực tiếp về phép
tu này. Bụt dạy rằng tác dụng đầu tiên của hơi thở có ý thức là chấm dứt tạp
niệm và phát khởi chánh niệm. Mỗi khi thở vào ta biết là đang thở vào, mỗi khi
thở ra, ta biết rằng ta đang thở ra, đó là hơi thở có ý thức. Trong lúc thở như
thế ta để tâm nơi hơi thở và chỉ để tâm nơi hơi thở mà thôi. Làm như vậy lập
tức ta chấm dứt ngay được những tạp niệm, nghĩa là chấm dứt những suy nghĩ viễn
vông, những suy nghĩ đã không ích lợi mà còn làm cho tâm ta loạn động, Một
không những tạp niệm được cắt đứt thì tâm ta an trú trong chánh niệm. Ta biết
ta đang thở, ta biết ta đang tỉnh thức, ta không bị tạp niệm bao vây và dẫn
dắt. Chỉ cần một hơi thở thôi, ta đã có thể thiết lập trạng thái tỉnh thức
trong ta. Trạng thái tỉnh thức ấy là chất Bụt sẵn có trong mọi người.
Bụt dạy:
thở một hơi dài mình biết là mình thở một hơi dài, thở một hơi ngắn mình biết
là mình thở một hơi ngắn. Như vậy có nghĩa là mình ý thức được trọn vẹn hơi thở
của mình. Duy trì ý thức và hơi thở, ta thiết lập được định tâm. Lúc bấy giờ ta
mới nương theo hơi thở để quán chiếu thân thể ta, cảm giác ta, tâm ý ta và mọi
sự vật trong ta và ngoài ta. Các sự vật ấy gọi là các pháp (sarvadharma).
Svastika
tin chắc rằng sau buổi giảng này, chú sẽ thành công rất dễ dàng trong việc thực
tập quán niệm về hơi thở. Bụt đã tận tình dạy chú và dạy Rahula: lời dạy của
người rất đơn giản mà cũng rất sâu sắc. Sau khi lạy ta Bụt, chú và Rahula cùng
rủ nhau ra bờ hồ. Hai người lặp lại với nhau những lời Bụt dạy để cùng ghi nhớ
cho kỹ mà thực tập.
---o0o---
Chương 50
MỘT VÓC CÁM RANG
Mùa an
cư năm sau, Bụt cư trú ở Vejanra. Khóa an cư năm đó có tất cả là năm trăm thầy
tham dự. Hai đại đức lớn là Sariputta và Moggallana làm phụ tá cho Bụt trong
khóa an cư này.
Vào giữa
mùa an cư, trời rất nóng, không muốn ở trong tịnh xá của người nữa, suốt ngày
Bụt ra ngồi dưới cây nimba cành lá xanh tốt che mát cả một vùng. Bụt thọ trai,
nói pháp thoại, ngồi thiền và trải chiếu nằm ngủ ngay dưới gốc cây này. Vào
tháng thứ ba của mùa an cư, các vị khất sĩ than thở với nhau là thức ăn xin
được mỗi ngày càng lúc càng hiếm. Có nhiều thầy đi khất thực về với chiếc bát
không. Hỏi thăm, Bụt biết rằng năm nay ở đây mất mùa, và kho lúa dự trữ của
chính quyền địa phương sắp cạn. Dân chúng địa phương đói và chính quyền phải
phát thẻ cứu trợ thực phẩm. Dân chúng không có ăn thì làm gì có để cúng dường.
Số lượng năm trăm vị khất sĩ là một số lượng lớn quá, chính Bụt cũng có hôm
phải mang bát không về. Có nhiều hôm người chỉ sống bằng nước trong và hơi thở.
Nhiều vị khất sĩ thiếu ăn ốm đi trông thấy. Đại đức Moggallana đề nghị với Bụt
là giáo đoàn nên di cư về Uttarakuru ở miền Nam để tiếp tục mùa an cư vì ở đó
không có nạn đói. Bụt không chấp nhận. Người nói:
- Không
nên làm thế, Moggallana. Có phải chỉ có một mình mình đói mà thôi đâu. Cả dân
chúng đều đói, chỉ trừ những nhà giàu, nếu ta vì đói mà bỏ đi thì ta không chia
xẻ được những khó khăn và thông cảm được với dân chúng ở đây. Moggallana, chúng
ta nên ở lại đây cho đến hết mùa an cư.
Người
thỉnh Bụt về Vejanra an cư là một thí chủ Bà la môn giàu có đã từng được nghe
Bụt thuyết pháp, tên là Agnidatta, nhưng ông này bận rộn với việc đi đây đi đó
để buôn bán cho nên không thấy được tình trạng của giáo đoàn. Một hôm đại đức
Moggallana chỉ cho Bụt thấy một vùng cây cỏ xanh tươi gần nơi trung tâm tu học
và thưa với Bụt:
- Lạy
thầy, con nghĩ là nếu cây cối xanh tốt như vậy là vì ở dưới đất có nhiều chất
dinh dưỡng. Con xin đề nghị là chúng ta lật đất lên, lấy phần đất mềm và bổ
dưỡng ở dưới, hòa tan trong nước và uống lấy nước ấy cho có chất bổ dưỡng.
Bụt đáp:
- Không
nên làm như thế, Moggallana. Hồi tu ở núi Dangsitri, tôi cũng đã có làm như thế
mà không thấy có công hiệu gì. Với lại có bao nhiêu sinh vật đang sống bình an
dưới mặt đất, không bị sức nóng và ánh sáng mặt trời làm khô chết. Nếu ta lật
đất lại thì biết bao nhiêu loài sẽ bị hy sinh, trong đó kể cả các loại cây cỏ
đang tốt tươi.
Nghe Bụt
nói thế, thầy Mogallana im lặng không dám nói nữa.
Theo
thường lệ thì khi đi khất thực về, các thầy chia bớt phần mình xin được vào
những chiếc chậu đặt ở giữa trai đường để những vị nào không xin được có thể
đến lấy, nhưng cả mươi hôm nay chẳng có hôm nào Svastika thấy được một chiếc
bánh chapati hay một hạt cơm trong các chậu đó. Lý do là nếu thầy nào xin được
một ít thức ăn thì thức ăn ấy cũng không đủ cho thầy ấy sử dụng, nói gì đến
chuyện chia xẻ. Rahula có tâm sự với Svastika là khi đi khất thực về, các thầy
lớn có cơ hội được cúng dường hơn là các thầy nhỏ.
Svastika
cũng đồng ý như vậy. Svastika nói với bạn:
- Không
hiểu tại sao độ rày vừa thọ trai xong thì một lát sau đã thấy đói. Từ trước đến
giờ có bao giờ chú thấy như thế không?
Rahula
công nhận Svastika nói đúng. Chú nghĩ có lẽ thời buổi đói kém nó sinh ra như
vậy. Rahula đang vào tuổi lớn. Ăn đủ mà nhiều đêm còn thấy đói, huống hồ bây
giờ có ngày chẳng có hạt cơm hay một trái ổi để vào trong bụng.
Một hôm,
sau khi đi khất thực về, đại đức Ananda đi kiếm một cái om đất, rồi bắc om lên
trên một cái bếp ngoài trời. Cái bếp được dựng bằng ba cục đá. Đại đức nhặt các
cành củi khô và loay hoay nhóm lửa. Thấy lạ, chú Svastika tới gần. Chú nói:
- Thầy
để con nhúm bếp cho.
Svastika
nhúm bếp tài hơn thầy Ananda nhiều. Trong chốc lát, lửa đã cháy bùng lên. Đại
đức Ananda trịnh trọng lấy bát ra. Trong bát có một thứ gì giống như mạt cưa.
Thầy đổ tất cả vào trong chiếc om đất. Thầy nói với Svastika:
- Đây là
cám. Chúng ta rang cám này cho thơm rồi đem dâng cho Bụt thay cơm trưa.
Trong
khi Svastika dùng hai que củi nhỏ để trộn cám trong nồi rang, đại đức Ananda kể
cho chú nghe rằng có một người lái buôn ngựa từ miền Bắc xuống đem theo năm
trăm con ngựa. Hiện ông ta đang ở Vejanra. Ông ta đã có dịp làm quen với các vị
khất sĩ áo vàng, ông ta biết về tình trạng đói kém ở đây và biết rằng các vị
khất sĩ cũng đang đói. Sáng hôm nay, ông gặp đại đức Ananda ở cổng chuồng ngựa.
Ông ta nhắn với đại đức là hôm nào không xin được thức ăn cúng dường, các vị có
thể ghé chuồng ngựa và mỗi vị sẽ nhận lãnh vào bát một vóc cám để ăn chỡ đói.
Nghe nói thế, đại đức Ananda liền ngõ ý là ông có thể cúng dường cho Bụt và cho
thầy hai phần cám để ăn cho đỡ đói. Nghe nói thế, đại đức Ananda liền ngõ ý là
ông có thể cúng dường cho Bụt và cho thầy hai phần cám, bởi vì hôm nay chưa có
ai đặt vào bát thầy. Ngưòi chủ ngựa đưa thầy vào và vốc hai vốc cám cúng dường,
một vốc cho Bụt và một vốc cho thầy. Thầy hứa sẽ báo tin mừng này cho các vị
khất sĩ biết và thầy có ý định đem rang cám này lên cho thơm trước khi dâng
Bụt.
Cám đã
thơm, thầy Ananda trút cám trở lại vào bát. Thầy rủ Svastika đi với thầy về
phía cây nimba. Thầy dâng cám lên Bụt, Bụt hỏi thầy và Svastika có gì ăn chưa.
Svastika bạch là sáng nay chú đã xin được hai củ khoai nhỏ.
Thầy
Ananda nói là thầy đã có phần cám của thầy. Bụt bảo hai người ngồi xuống bên
người. Cả hai vâng lệnh. Họ ngồi xuống, trang nghiêm mở nắp bình bát ra.
Svastika cầm của khoai trên tay, quán niệm, rồi chú ngửng đầu lên, Bụt đang bốc
cám trong tay và ăn ngon lành. Chú nhìn mà muốn ứa nước mắt.
Sau buổi
pháp thoại chiều hôm đó, đại đức Ananda báo tin cho đại chúng biết về lời
nguyện cúng dường cám của người chủ ngựa. Thầy thêm là chỉ khi nào hoàn toàn
không xin được thức ăn, các vị khất sĩ mới nên ghé tới chuồng ngựa. Thầy nói có
cả thảy năm trăm con ngựa, và số lượng cám được cúng dường sẽ được lấy bớt ra
từ phần ăn của ngựa.
Đêm nay
có trăng, đại đức Sariputta đến thăm Bụt dưới cây nimba. Thầy được Bụt mời ngồi
trên một tọa cụ gần đấy, thầy hỏi Bụt:
- Thế
tôn, đạo lý thức tỉnh mà Thế Tôn dạy thật là mầu nhiệm. Đạo lý này chuyển đổi
cả sự sống của những ai được có cơ hội nghe, hiểu và làm theo.
Thế Tôn!
Làm thế nào để đạo lý này được tiếp nối sau khi người đã trăm tuổi.
-
Sariputta, nếu các vị khất sĩ thông hiểu kinh kệ thực hành theo những pháp môn
được chỉ dẫn trong các kinh kệ đó và nhất là biết chấp hành giới luật cho
nghiêm chỉnh thì đạo lý giác ngộ có thể tiếp nối nhiều trăm năm, có thể là cả
ngàn năm về sau.
- Thế
Tôn, con thấy số lượng các huynh đệ thông thuộc kinh điển rất đông và hầu hết đều
chuyên cần ôn tụng kinh kệ. Con nghĩ rằng nêu thế hệ người xuất gia tiếp tục
học hỏi và trì tụng đều đều như thế thì giáo huấn của Bụt có thể truyền về rất
xa trong tương lai.
- Nhưng
truyền tụng kinh điển chưa đủ. Cần phải thực tập theo các pháp môn chỉ bày
trong kinh điển nữa, và nhất là phải nghiêm trì giới luật. Này Sariputta, nếu
các vị khất sĩ không nghiêm trì giới luật thì chánh pháp sẽ không được trường
tồn. Chánh pháp sẽ mai một rất sớm.
- Vậy
con xin thỉnh cầu Bụt thiết chế và ban hành giới luật để làm mẫu mực ngàn đời
cho nếp sống xuất gia.
- Chưa
được đâu, Sariputta. Giới luật không thể được thiết chế đầy đủ trong một ngày
và từ một người. Vào những năm đầu của giáo đoàn, chúng ta chưa có một giới
luật nào hết, nhưng từ từ vì những vụng dại và lỗi lầm của các phần tử trong
giáo đoàn mà một số các giới điều đã được thiết chế nên.
Số lượng
các điều, như thầy biết, hiện đã lên tới trên một trăm hai mươi khoản. Số lượng
này sẽ tăng lên nữa với thời gian. Những giới chưa thiết chế mình không thể
thiết chế trước được. Bây giờ đây chúng ta biết là các điều khoản giới luật vẫn
chưa đầy đủ, và vì vậy chúng ta sẽ phải đợi một thời gian. Khi thấy các giới
điều đã đầy đủ, lúc đó chúng ta sẽ ban hành giới luật cụ túc. Sariputta, số
lượng các giới điều, theo tôi thấy sẽ lên tới ít nhất là hai trăm.
Ngày tự
tứ đã tới, vị thí chủ giàu có bảo trợ cho mùa an cư đã từ phương xa trở về.
Nghe nói các vị khất sĩ nhiều người bị đói trong mùa an cư, ông ta rất lấy làm
hối hận. Ông tổ chức một buổi trai tăng thật long trọng tại nhà. Sau khi cúng
dường cơm nước, ông còn cúng dường cho Bụt và các vị khất sĩ mỗi người một áo
ca sa. Sau buổi thuyết pháp, Bụt và các vị khất sĩ từ giã ông và đi về miền
Nam.
Con
đường về miền Nam thật đẹp. Bụt và đoàn khất sĩ đi thành từng chặng.
Ngày đi,
đêm nghỉ, buổi sáng thiền tọa trước giờ khất thực. Trưa thọ trai và nghỉ trong
rừng. Buổi chiều tiếp tục đi. Gặp những nơi cần giáo hoá, Bụt và các vị khất sĩ
ở lại nhiều hôm. Buổi tối các thầy học hỏi và ôn tụng kinh điển trước giờ tọa thiền.
Sau thiền tọa là nghỉ ngơi.
Một buổi
chiều nọ, Svastika gặp trên đường đi mấy em bé chăn trâu đang lùa trâu về. Chú
dừng lại để nói chuyện. Svastika nghĩ đến thời niên thiếu của mình. Đột nhiên
chú nhớ tới các em chú quá. Chứ nhờ thằng Rupak, chú nhớ con Bala, và nhất là
chú nhớ con Bhima, em út của chú. Niềm nhớ quặn lên trong lòng chú. Chú không
biết rõ là đã đi tu thì còn có quyền nghĩ tới gia đình của mình hay không. Chú
định một hôm nào hỏi Bụt hoặc là hỏi thầy Ananda. Theo chú biết thì chú Rahula
có nhiều lúc cũng nhớ mẹ lắm. Chính Rahula đã tâm sự với chú như vậy.
Tuy đã
hai mươi tuổi, Svastika vẫn còn cảm thấy gần gũi với bọn trẻ, hơn là với người
lớn. Chú ưa quấn quít bên cạnh Rahula. Rahula cũng cảm thấy thoải mái khi gần
gũi chú. Hai người đã có dịp tâm sự. Chú đã từng kể cho Rahula nghe về cuộc đời
mình như một em bé chăn trâu. Rahula chưa bao giờ từng được ngồi trên một con
trâu. Nghe nói con trâu hiền lắm, Rahula vẫn chưa tin được. Chú nói với Rahula
rằng con trâu là một con vật thuộc loại hiền nhất trong các loài động vật, dù
hình tướng của nó to lớn có thể làm cho nít ở thành phố e ngại. Chú nói đã
nhiều lần chú ngằm ngửa thoải mái trên lưng trâu trên con đường từ bên sông về
nhà. Trong khi chú nhìn trời xanh, mây trắng và đàn chim bay lượn, thì con trâu
cứ chầm chậm đưa chủ về nhà; các con trâu khác đều đi theo một cách ngoan
ngoãn. Có khi năm ngửa trên mình trâu, chú còn thổi sáo nữa. Lưng trâu rất ấm
và cũng rất êm. Chú lại kể về những trò chơi chú từng chơi chung với bọn trẻ
giữ trâu trong xóm. Rahula nghe chú kể rất lấy làm ưa thích. Rahula đã ở trong
cung điện trong suốt thời gian ấy, và Rahula đã có bao giờ được chơi đùa theo
cách đó đâu. Rahula đã từng ngõ ý muốn được ngồi trên lưng trâu một phen.
Svastika
hứa là sẽ tìm cách giúp cho Rahula toại nguyện. Chính Svastika mà cũng con muốn
trở về ngồi trên lưng trâu, huống chi là Rahula. Nhưng tình thế khó khăn lắm,
đã làm khất sĩ mà còn muốn chơi đùa ngồi trên lưng trâu như bọn mục đồng, điều
này không dễ. Svastika tính thầm là có dịp đi hành hóa gần quê nhà, chú sẽ xin
Bụt cho chú ghé về thăm các em, rồi chú cũng sẽ xin Bụt cho phép Rahula cùng đi
với chú. Rahula đã từng gặp các em của chú rồi. Về thăm các em, chú sẽ bảo
Rupak tập cho Rahula cỡi trâu trên bờ ruộng, gần dòng Neranjara. Ở đấy vắng vẻ
không có ai nhìn đến; chú cũng sẽ cởi áo khất sĩ và cũng cỡi trâu như ngày xưa.
Ít nhất là trong một buổi chiều.
Mùa an
cư năm tới, Bụt cư trú trên núi đá Calika. Đây là Hạ thứ mười ba kể từ ngày Bụt
thành đạo. Năm nay thầy Meghiga được làm thị giả cho Bụt.
Một hôm
thầy Meghiga thú thật với Bụt là là có khi ngồi một mình trong rừng vắng, thầy
thấy những tư tưởng tạp loạn và ái dục nổi dậy trong tâm.
Thầy
thường nhớ Bụt dạy là vị khất sĩ phải biết sống một mình để có thì giờ và cơ
hội mà thực tập thiền quán, nhưng khi ở một mình thầy lại gặp những chướng ngại
khác chỗi dậy từ trong tâm.
Bụt dạy
thầy rằng biết sống một mình không có nghĩa là sống không có đạo bạn. Gần gũi
bạn bè mà chỉ để chuyện trò phù phiếm, điều ấy không có lợi cho sự tu tập và
làm mất hết thì giờ, nhưng gần gũi bạn hữu để nâng đỡ và chỉ dẫn nhau trong
việc thực tập là một điều cần thiết. Vị khất sĩ nên sống trong một đoàn thể, để
được nâng đỡ và khuyến khích, đó là ý nghĩa của những tiếng quay về nương tựa
Tăng (Sangham saranam gacchami).
Bụt dạy
đại đức Meghiga:
- Người
khất sĩ cần hội đủ năm điều kiện. Thứ nhất là có thiện hữu trí thức, tức là
những bạn đồng tu có trí tuệ và đạo hạnh đủ để hướng dẫn mình. Thứ hai là phải
có giới luật để giúp mình an trú trong chánh niệm. Thứ ba là phải có cơ hội học
hỏi giáo pháp. Thứ tư là phải chuyên cần. Thứ năm phải có sự hiểu biết. Bốn
điều kiện sau cũng có liên hệ nhiều tới điều kiện thứ nhất là có thiện hữu trí
thức.
Meghiga,
muốn điều phục ái dục, sân hận và si mê, thầy phải thường xuyên thực tập cửu
tưởng quán, từ bi quán, vô thường quán và tùy tức quán. Bốn phép quán này có
công năng đưa đến giải thoát và giác ngộ.
Cửu
tưởng quán là quán chiếu về quá trình tàn hoại của cơ thể, thấy được quá trình
hủy diệt của một thân thể từ khi tắt thở cho đến khi xương cốt tan thành tro
bụi. Quá trình này có cả thảy là chín giai đoạn, cho nên gọi là cửu tưởng quán.
Cửu tưởng quán có thể giúp ta đối trị ái dục. Từ bi quán là quán chiếu về những
nguyên nhân đã đưa tới tâm niệm giận dữ của mình, trong đó có những nguyên nhân
thuộc tâm lý của mình, và những nguyên nhân xa gần đã khiến người khác nói năng
và hành động thế nào để mình nổi cơn giận dữ. Từ bi quán giúp ta đối trị sân
hận. Vô thường quán là quán chiếu quá trình sinh diệt của vạn pháp; phép quán
này có công năng diệt trừ si mê.
Tùy tức
quán là theo dõi hơi thở và nuôi dưỡng chánh niệm; phép quán này có công năng
đối trị loạn tâm. Nếu thầy thường xuyên thực tập bốn phép quán ấy, thầy sẽ đạt
tới trạng thái tự do của tâm ý.
---o0o---
Chương 51
KHO TÀNG CỦA CÁI THẤY
Mãn mùa
an cư, Bụt lên đường, hướng về Savatthi. Svastika và Rahula được phép tùy tùng
người. Đây là lần đầu Svastika được đến tu viện Jetavana. Tu viện rất đẹp và
đầy đủ mọi tiện nghi cho sự tu học. Khung cảnh đã tươi mát mà không khí lại đầm
ấm. Thấy Svastika, thầy nào cũng mỉm cười. Ai cũng biết là do vị khất sĩ trẻ
này mà Bụt đã nói kinh Chăn Trâu. Svastika nhận thấy rằng trong một hoàn cảnh
thuận tiện cho sự tu học như thế này chắc chắn chú sẽ đạt được nhiều tiến bộ.
Chú hiểu tại sao Tăng cũng quan trọng như Bụt và Pháp. Tăng là đoàn thể của
những người cùng đi trên con đường tỉnh thức, và ta phải tìm về nương tựa Tăng
để được nâng đỡ và hướng dẫn.
Cũng như
ta đã tìm về nương tựa Bụt và Pháp.
Năm nay,
vị sa di Rahula được hai mươi tuổi. Chú được đại đức Sariputta làm lễ trao giới
khất sĩ. Cả tu viện đều vui mừng. Đại đức đã dạy chú thật chu đáo nhiều ngày
trước ngày chú thọ giới. Chú Svastika cũng được hân hạnh dự nghe những lời giáo
huấn này.
Sau khi
Rahula được thọ giới khất sĩ. Bụt đã để thì giờ đặc biệt dạy cho chú về các
công phu thiền quán, Svastika cũng được dự thính các buổi dạy. Bụt dạy Rahula
quán chiếu về sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, về sáu đối tượng
của giác quan là hình sắc, âm thanh, mùi vị, xúc chạm và ý niệm, và về sáu thức
là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và ý thức. Người dạy
Rahula quán chiếu về tự tính vô thường của mười tám hiện tượng đó mà người gọi
là thập bát giới. Mười tám hiện tượng gồm có sáu căn, sáu trần và sáu thức. Căn
tức là cơ quan cảm giác, trần là đối tượng của các cơ quan đó, và thức là những
nhận thức phát sinh ra từ sự xúc chạm giữa căn và trần. Phép quán này gọi là
giới phân biệt quán. Bụt dạy quán chiếu căn, trần và thức để thấy tất cả các
hiện tượng này đều nương vào nhau mà có mặt, để thấy được tự tính vô thường và
duyên sinh của chúng.
Một khi
đã thấy như thế thì hành giả chứng đắc được tính cách vô ngã và thoát ly được
sinh tử. Bụt dạy thầy khất sĩ trẻ Rahula thật kỹ lưỡng về đạo lý vô ngã. Bụt
nói:
- Này
Rahula, trong năm uẩn là thân thể, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức,
không có gì bất biến để có thể gọi là ngã cả. Thân thể này không phải là ngã.
Thân thể này cũng không phải là ngã sở, nghĩa là vật sỡ hữu của ngã.
Ngã
không nằm trong thân thể, thân thể cũng không nằm trong ngã.
Có ba
loại kiến chấp về ngã. Kiến chấp đầu là cho rằng thân thể này là ngã.
Hoặc cảm
thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức này là ngã. Kiến chấp này gọi là ngã chấp.
Khi nói tới thân thể này không phải là ngã, người ta có thể rơi vào kiến chấp
thứ hai, cho rằng ngã là một cái gì riêng biệt với thân thể, và thân thể chỉ là
một vật sở hữu của ngã. Kiến chấp thứ hai này gọi là dị ngã chấp. Kiến chấp thứ
ba cho rằng trong thân thể có ngã và trong ngã có thân thể, hai không là hai mà
cũng không là một, cái này nằm trong cái kia. Kiến chấp này gọi là tương tại
chấp.
Rahula,
quán vô ngã là phải nhìn sâu vào lòng năm uẩn để thấy năm uẩn không phải là
ngã, không phải là dị ngã, cũng không phải là tương tại. Vượt được ba kiến chấp
này rồi mới thực sự chứng nghiệm được tự tính vô ngã của vạn pháp.
Tại tu
viện Cấp Cô Độc này có một thầy tên là Thera. Svastika nhận xét rằng thầy này
ít ưa nói chuyện với ai, và đi đâu cũng đi một mình, làm gì cũng làm một mình.
Đại đức Thera không làm phật lòng ai, cũng không phạm vào giới điều nào, nhưng
thầy sống có vẻ lẻ loi và không thật sư hòa hợp với đại chúng, Svastika đã có
lần tới gần thầy để gợi chuyện nhưng thầy cũng tránh đi. Mọi người đặt tên cho
thầy là “người ưa sống một mình”. Svastika biết rằng Bụt thường khuyến khích
các thầy tránh tụ họp chuyện trò, tránh những buổi nhàn đàm vô ích để có thì
giờ sống một mình mà thiền quán, nhưng chú cảm thấy cách sống của thầy Thera
không thật sự là cách sống mà Bụt muốn. Một buổi chiều, nhân có cơ hội,
Svastika đem chuyện này trình bày lên Bụt.
Ngày mai
lại, trong giờ pháp thoại, Bụt gọi đại đức Thera lên và hỏi:
- Thầy
là người ưa sống một mình, làm cái gì cũng ưa làm một mình và tránh sự chung
đụng với các thầy khác, có phải vậy không?
Đại đức
đáp:
- Bạch
Thế Tôn, đúng như vậy. Thế Tôn thường dạy người khất sĩ nên biết độc cư, nghĩa
là nên sống một mình.
Quay lại
đại chúng, Bụt nói:
- Các vị
khất sĩ, tôi muốn dạy cho các vị thế nào là thật sự biết sống một mình.
Người
thật sự biết sống một mình là người biết an trú trong chánh niệm.
Người ấy
ý thức được những gì đang xảy ra trong thể, trong cảm giác, trong tâm ý và nơi
những đối tượng của tâm ý. Người ấy biết quán chiếu sự sống trong giờ phút hiện
tại, không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, vì quá khứ thì không còn
mà tương lai thì chưa tới. Sự sống chỉ có mặt trong giờ phút hiện tại. Nếu ta
bỏ giờ phút hiện tại, ta đánh mất sự sống.
Này các
vị, thế nào là tìm về quá khứ? Tìm về quá khứ ở đây có nghĩa là tự đánh mất mình
trong quá khứ, trôi dạt trong quá khứ trên những đợt sóng tư duy: trong quá khứ
hình thể ta từng như thế đó, cảm thọ ta từng như thế đó, địa vị ta từng như thế
đó, hạnh phúc ta từng như thế đó, hạnh phúc ta từng như thế đó ... Phát khởi
lên những tư duy như thế và bị ràng buộc bởi những gì thuộc về quá khứ, đó là
tìm về quá khứ.
Này các
vị, thế nào là tưởng tới tương lai? Tưởng tới tương lai ở đây có nghĩa là tự
đánh mất mình trong tương lai, trôi dạt trong tương lai, trên những đợt sóng tư
duy, lo sợ hoặc mơ tưởng: trong tương lai, hình thể ta sẽ được hay sẽ bị như
thế đó, cảm thọ ta sẽ được hay bị như thế đó, hạnh phúc ta sẽ được như thế đó,
khổ đau ta sẽ bị như thế đó ... Phát khởi lên những tư duy như thế và bị ràng
buộc bởi những ước mơ hoặc lo sợ về tương lai ... đó là tưởng tới tương lai.
Này các
vị, trở về giây phút hiện tại là để tiếp xúc với sụ sống và để quán chiếu sự
sống. Nếu không tiếp xúc thì không thể quán chiếu. Chánh niệm giúp ta trở về
hiện tại, tiếp xúc với hiện tại và quán chiếu sự sống trong hiện tại. Trở về
hiện tại không có nghĩa là tự đánh mất mình trong những đam mê hoặc sầu khổ về
hiện tại. Nếu bị ràng buộc bởi những đam mê và sầu khổ về những gì đang xảy ra
trong hiện tại thì sự sống cũng không có mặt. Sự sống không có mặt vì chánh
niệm không có mặt.
Này các
vị khất sĩ, người biết sống một mình là người biết an trú trong hiện tại, dù
người ấy đang ngồi giữa đám đông. Một người ngồi trong rừng sâu mà nếu không có
chánh niệm, nếu bị những con ma quá khứ và tương lai lôi cuốn và ám ảnh thì
người ấy vẫn không phải là người biết sống một mình.
Rồi Bụt
đọc cho các thầy nghe một bài kệ:
"Đừng
tìm về quá khứ Đừng tưởng tới tương lai Quá khứ đã không còn Tương lai thì chưa
tới Hãy quán chiếu sự sống Trong giờ phút hiện tại Kẻ thức giả an trú Vững chãi
và thảnh thơi Phải tinh tiến hôm nay Bỗng ngày mai không kịp Cái chết đến bất
ngờ Không thể nào mặc cả Người nào biết an trú Đêm ngày trong chánh niệm Thì
Mâu Ni gọi là Ngưòi Biết Sống Một Mình.
Đọc xong
bài kệ, Bụt cảm ơn đại đức Thera và bảo thầy đi xuống. Người không trực tiếp
khen hay chê thầy. Nhưng chắc chắn là lần này đại đức thật sự hiểu được ý Bụt.
Trong
buổi pháp đàm hôm đó, Svastika nghe các thầy lớn nói rằng những lời dạy của Bụt
hôm đó rất là quan trọng, mọi người cần phải ghi nhớ. Đại đức Ananda trùng
tuyên một lần nữa những điều Bụt nói cho mọi người nghe.
Thầy đọc
lại bài kệ của Bụt một cách trôi chảy và thông suốt. Svastika lấy làm lạ. Hình
như thầy Ananda nhớ hết những lời Bụt nói không sót một tiếng nào. Cách nói,
lời nói, và cú pháp giống hệt như khi Bụt nói. Khi đại đức Ananda trùng tuyên
xong lời Bụt, đại đức Mahakaccana đứng lên nói:
- Ta hãy
nên lấy lời Bụt dạy hôm nay làm thành một kinh văn. Thưa các huynh đệ, tôi xin
đề nghị gọi kinh này là kinh Bhaddekaratta nghĩa là kinh Người Biết Sống Một
Mình, và cũng xin đề nghị tất cả các huynh đệ học thuộc lòng để hành trì. Ít
nhất mỗi người trong chúng ta đều phải học thuộc lòng bài kệ.
Đại đức
Mahakassapa đứng dậy tán đồng ý kiến ấy.
Sáng hôm
sau, trong khi đi khất thực, Bụt gặp một bọn trẻ con đang tụ họp với nhau chơi
đùa. Các thiếu nhi này đang hành hạ những con cua nhỏ mà chúng bắt được dưới
ruộng. Một đứa trong bọn chúng lấy ngón tay trỏ của bàn tay trái đè lưng một
con của bàn tay trái xuống. Với tay phải, nó bẻ một càng của con cua. Bọn trẻ
reo hò vang dậy. Đứa kia thích chí, bẻ gãy một cái càng cua khác. Bọn trẻ lại
vỗ tay hò reo. Chúng chơi như vậy cho đến khi tất cả hai càng và tám chân của
con cua đề bị bẻ gãy hết. Rốt cuộc chúng liệng con của xuống ruộng và đi bắt
một con khác để chơi.
Thấy Bụt
và các thầy tới, bọn chúng ngửng đầu lên rồi lại cúi xuống chơi trò hành hạ mấy
con cua. Chúng tàn ác mà không biết là chúng tàn ác. Bụt bảo bọn trẻ ngừng tay.
Người nói:
- Này
các con, nếu các con bị trặc chân tay hay gãy tay thì các con có đau không?
- Bạch
thầy, có, bọn trẻ trả lời.
- Con
cua bị các con bẻ gãy càng và gãy chân cũng đau đớn như thế đó. Các con có biết
không?
Bọn trẻ
nín bặt.
Bụt nói
tiếp:
- Con
cua cũng biết ăn uống, con cua cũng có cha, mẹ, anh và chị của nó như là các
con vậy. Các con làm khổ con cua như thế thì các con cũng làm khổ luôn cả cha
mẹ và anh chị nó. Các con hãy suy nghĩ đi.
Bọn trẻ
tỏ vẻ hối hận. Lúc bấy giờ thấy Bụt và các thầy xúm quanh một bọn trẻ, những
người qua lại gần đấy cũng ghé lại xem. Nhân cơ hội này Bụt dạy cả trẻ em lẫn
người lớn về lòng từ bi. Người nói:
- Chúng
ta phải làm sao để cho tất cả mọi loài đều cảm thấy có an ổn và có niềm vui
trong sự sống. Chúng ta phải bảo vệ sự sống cho nhau và đem niềm vui cho nhau.
Tất cả mọi loài, dù lớn, dù nhỏ, dù đi bằng hai chân hay đi bằng bốn chân, dù
bò trên mặt đất hay bay trên hư không hoặc bơi lội trong nước cũng đều có quyền
sống. Chúng ta không nên đem tâm hận thù nhau, sát hại nhau. Chúng ta nên che
chở cho nhau.
Này các
con, cũng như một bà mẹ đem thân mạng che chở cho đứa con yêu duy nhất của
mình, mỗi người trong chúng ta phải mở lòng ra để đón nhận và che chở cho tất
cả các loài có sinh mệnh. Lòng thương của chúng ta phải bao trùm tất cả mọi
loài sinh vật đang có mặt trên, dưới, trong, ngoài và chung quanh ta. Trong khi
đi, đứng, nằm, ngồi, trái tim ta phải mang theo tình thương đó, và ta hãy an
trú đêm ngày trong tình thương đó.
Dạy
xong, Bụt rủ bọn trẻ cũng đem thả những con cua còn lại xuống ruộng, rồi người
cùng các vị khất sĩ tiếp nối con đường đi khất thực.
Svastika
biết Bụt rất chú tâm đến việc hướng dẫn trẻ em nên chú bàn với chú Rahula tổ
chức những buổi tập hợp thiếu nhi tại tu viện Jetavana để các em có dịp được
học hỏi với Bụt. Với sự cộng tác của những người cư sĩ trẻ thường hay đến tu
viện nghe Pháp, nhất là với bốn người con của cư sĩ Sudatta. Svastika và Rahula
thường quy tụ các em thiếu nhi trong vùng về chùa mỗi tháng một lần. Cư sĩ
Sudatta có bốn người con: Subhada chị, Subhada em, Sumana và Kala. Kala là con
trai duy nhất của cư sĩ. Ban đầu Kala không có vẻ hăng hái lắm, nhưng vì mến
Svastika nên cậu từ từ dấn thân vào việc tu học. Công chúa Vajiri con quốc
vương Pasenadi cũng yểm trợ đắc lực cho việc giáo dục thiếu nhi này. Một buổi
chiều rằm, công chúa rủ bọn trẻ đem hoa lên tận tịnh xá dâng Bụt. Mỗi em cầm
trong tay những cành hoa hái được trong vườn nhà của mình. Có em đã hái được cả
những cành hoa dại trên đường đến tu viện. Công chúa Vajiri ôm theo một bó sen
đã hái được ngay trong hồ sen vườn Thượng Uyển. Khi lên tới tịnh xá thì công
chúa và bọn trẻ được biết Bụt đã ra giảng đường, Đã đến giờ người nói pháp
thoại. Pháp thoại hôm nay được nói chung cho cả hai giới xuất gia và tại gia.
Các em thiếu nhi rủ nhau cùng lên pháp đường. Thấy thiếu nhi tới, các thầy và
các vị cư sĩ đều nhường lối cho các em đi. Bụt đã ngồi trên pháp tòa. Tất cả
các em thiếu nhi được công chúa Vajiri hướng dẫn đã lên dâng những bông hoa của
mình hái được trên chiếc bàn nhỏ đặt trước mặt Bụt rồi cúi đầu xá Bụt. Bụt mỉm
cười đáp lễ các em và bảo tất cả đi xuống tìm chỗ ngồi phía trước đại chúng.
Buổi
pháp thoại hôm đó thật là đặc biệt. Đợi các thiếu nhi ngồi xuống yên ổn. Bụt
mới đứng dậy. Người cầm lấy một bông sen đưa lên trước mặt đại chúng, không nói
năng gì. Tất cả đại chúng đều im phăng phắc. Không ai hiểu Bụt muốn nói gì bằng
cử chỉ ấy. Một lát sau, Bụt đưa mắt quan sát đại chúng rồi mỉm cười. Người lên
tiếng:
- Tôi có
con mắt của chánh pháp, kho tàng của cái thấy mầu nhiệm và tôi đã trao lại cho
Mahakassapa.
Mọi người
đổ dồn hai mắt về đại đức Kassapa. Nụ cười chưa tắt trên môi đại đức. Mắt thầy
vẫn nhìn lên Bụt. Mọi người lại nhìn lên Bụt. Bụt đang nhìn bông hoa và mỉm
cười.
Svastika
không hiểu gì hết và nghĩ rằng có nhiều người cũng ngẩn ngơ như chú. Chú biết
điều quan trọng nhất trong lúc này là giữ chánh niệm và chú bắt đầu theo dõi
hơi thở theo phương pháp đã được học với Bụt.
Chú thấy
bông hoa Bụt cầm trên tay là một bông sen trắng đang vào lúc hé nở. Bàn tay Bụt
cầm đóa sen trong một dáng điệu thanh tao và trang trọng, ngón tay cái và ngón
tay trỏ kẹp cuống hoa vào giữa, và cuống hoa nằm xuôi ép theo lòng bàn tay.
Chính bàn tay Bụt cũng xinh đẹp như một bông hoa, và đóa sen trắng phía trên,
tinh khiết và mầu nhiệm, cũng có vẻ như là một bàn tay khác của người. Svastika
cảm nhận được cái đẹp tinh khiết và trang trọng mà không cần suy tư tìm hiểu.
Bất giác chú cũng mỉm miệng cười.
Bỗng Bụt
cất tiếng nói. Tiếng của ngài trong, ấm và sang sảng:
- Đại
chúng, bông hoa này là một thực tại mầu nhiệm. Khi tôi cầm nó đưa lên trước đại
chúng, tất cả chúng ta đều có cơ hội tiếp xúc với bông hoa. Cơ hội ấy là một cơ
hội đồng đều. Tiếp xúc được với bông hoa là tiếp xúc được với thực tại mầu
nhiệm, tiếp xúc với sự sống.
Mahakassapa
đã mỉm cười trước tiên vì Mahakassapa đã tiếp xúc được với bông hoa trước tiên.
Trong đại chúng đây, có những vị không tiếp xúc được với bông hoa, đó là vì
trong tâm của quý vị còn có những chướng ngại.
Có những
vị đang đặt câu hỏi: vì cớ gì mà sa môn Gotama hôm nay đưa cành hoa lên? Vì tâm
các vị ấy đang bận rộn về những ý tưởng, cho nên các vị ấy không tiếp xúc được
với bông hoa.
Đại
chúng, đắm chìm trong suy tư là một trong những nguyên do khiến ta không tiếp
xúc được với thực tại.
Trong
trường họp đang bị lo lắng, phiền muộn, giận hờn hay ghen ghét chế ngự, ta cũng
mất cơ hội tiếp xúc với thực tại mầu nhiệm.
Đại
chúng! Bông hoa trong tay tôi có thể chỉ thật sự có mặt đối với những ai biết
an trú, trong chánh niệm nơi giờ phút hiện tại. Nếu quý vị không trở về an trú
trong giờ phút hiện tại thì bông hoa có mặt cũng như không.
Có những
người đi ngang qua rừng cây trầm hương mà không thấy được một cây trầm hương.
Có những người đi qua sự sống mà không tiếp xúc được với sự sống. Đại chúng! Sự
sống chứa chất khổ đau mà sự sống cũng đầy những mầu nhiệm. Quý vị phải tinh
cần và tỉnh thức để tiếp xúc với những khổ đau và những mầu nhiệm ấy của sự
sống.
Nhưng
tiếp xúc với khổ đau không có nghĩa là tự đánh mất mình trong khổ đau và tiếp
xúc với mầu nhiệm không có nghĩa là tự đánh mất mình trong mầu nhiệm. Tiếp xúc
là để thực sự chứng nghiệm sự sống và quán chiếu sự sống, ta sẽ thấy được tự
tính duyên khởi và vô thường của sự sống, do đó ta sẽ không đánh mất ta trong
tham đắm, trong giận hờn và trong mê muội. Ta sẽ thưòng xuyên an trú trong tự
do và giải thoát.
Svastika
rất sung sướng. Chú hiểu được lời Bụt dạy. Chú hài lòng lắm khi nhớ ra rằng chú
đã mỉm cười khi tay Bụt còn cầm bông hoa đưa lên. Đại đức Mahakassapa mỉm cười
trước vì đại đức là một đệ tử lớn của Bụt, đứng về hàng thầy của chú. Chú làm
sao tự so sánh mình với đại đức, cũng như với các vị cao đệ khác của Bụt như
các thầy Sariputta, Moggallana, Assaji v.v...
Năm nay
chú chỉ mới hai mươi bốn tuổi.
---o0o---
Chương 52
PHƯỚC ĐIỀN Y
Năm sau,
Svastika được theo Bụt về an cư ở tu viện Nigrodha sát bên thành Kapilavatthu
quê hương của Bụt. Bụt đã về quê trước mùa an cư bởi vì người nghe nói có sự
xích mích và tranh chấp giữa hai nước Sakya và Koliya. Sakya là quê nội của Bụt
và Koliya là quê ngoại của người. Hoàng hậu Mahamaya và công chúa Yasodhara đều
có gốc gác từ Koliya. Hai nước đã chống nhau vì dòng sông Rohini. Số là năm ấy
trời không có mưa mà cả hai bên đều thiếu nước tưới ruộng. Mực nước sông Rohini
cũng rất thấp.
Nước
không đủ cho cả hai bên dùng, mà bên nào cũng muốn đắp đập dẫn hết nước sông về
phía mình. Ban đầu chỉ là lời qua tiếng lại giữa nông dân hai phía. Sau đó thì
có xung đột và đấm đá, rồi dân vệ và cảnh sát hai bên nhập cuộc. Cuối cùng là
binh đội hai nước dàn trận hai phía bờ sông. Tình thế trở nên gay cấn và nguy
hiểm.
Bụt muốn
biết nguyên do của cuộc tranh chấp. Hỏi các vị tướng chỉ huy quân đội, Bụt được
cho họ biết là vì phía bên kia khinh người, xâm phạm tài sản và tính mạng bên
này. Hỏi các nhà chính trị, họ cũng trả lời tương tợ.
Không ai
nói cho Bụt nghe do thật sự của cuộc tranh chấp. Mãi đến khi Bụt nói chuyện với
các nông dân nghèo, người mới biết nguyên do thật sự của cuộc tranh chấp là
nước tưới.
Vốn có
liên hệ thân tộc sâu xa với cả hai dòng họ Sakya và Koliya, Bụt sắp đặt được
một cuộc gặp gỡ giữa các vị quốc vương, một bên là quốc vương Mahanama, một là
quốc vương Suppabuddha. Người xin với hai vị quốc vương thảo luận để đi đến một
cuộc hòa giải. Người nói rằng trong một cuộc chiến tranh, ai cũng là người thua
cuộc, dù là thua nhiều hay thua ít. Bụt hỏi:
- Các vị
đại vương, nước sông quý hơn hay mạng người quý hơn?
Vua nào
cũng trả lời là mạng người là quý hơn, mạng người là vô giá. Bụt nói:
- Các vị
đại vương, nước tưới là đầu mối của cuộc tranh chấp giữa hai nước, nhưng nếu
không có lòng tự ái và sự căm giận thì sự tranh chấp về nước tưới sẽ không đủ
để đưa tới một cuộc chiến tranh. Các vị đại vương! Chúng ta phải xét lại tâm ý
chúng ta. Chúng ta đừng vì lòng tự ái và sự căm giận lẫn nhau mà làm tổn phí
máu xương của dân chúng hai nước.
Buông bỏ
tự ái và giận hờn là chúng ta tháo gỡ được guồng máy chiến tranh.
Giải
quyết vấn đề tranh chấp về nước tưới không khó. Chúng ta chỉ cần ngồi lại
thương thuyết với nhau. Có bao nhiêu nước trong dòng Rohini thì ta chia cho cả
hai phía, dù nước không đủ cho cả hai bên. Chúng ta sẽ tìm ra giải pháp để bên
nào cũng được thừa hưởng đồng đều số lượng nước tưới.
Do sự
can thiệp của Bụt mà hai bên đã đi tới một sự thỏa thuận về vấn đề nước tưới và
thiết lập liên lạc ngoại giao thân tình như cũ. Quốc vương Mahanama khẩn khoản
xin Bụt lưu lại trong một mùa an cư ở vương quốc Sakya. Bụt nhận lời. Đây là
mùa an cư thứ mười lăm sau ngày thành đạo của Bụt.
Sau mùa
an cư ở Kapilavatthu. Bụt trở về miền Nam. Mùa an cư thứ mười sáu, người cư trú
tại Alavi. Mùa an cư thứ mười bảy, người về tu viện Trúc Lâm. Mùa an cư thứ
mười tám, người ở Koliya. Mùa an cư thứ mười chín, người lại trở về Rajagaha.
Tại
Rajagaha, từ mấy năm nay, Bụt ưa cư trú trên núi Gijjhakuta, một ngọn núi đá có
hình dáng chim thứu nên cũng được gọi là Thứu Sơn. Vua Bimbisara thường hay đến
viếng Bụt và nghe pháp trên núi này. Vua đã cho xây bậc đá từ chân núi lên tới
tịnh xá của Bụt. Mấy cái thung lũng nhỏ đã được vua cho san bằng. Vua lại cho
bắc cầu qua mấy thác nước. Xa giá tới chân núi, vua đi bộ lên theo các bậc đá.
Gần tịnh xá có một tảng đá lớn bằng cả mấy tòa nhà. Tịnh thất của Bụt được xây
bằng đá lấy ngay tại chỗ. Phía Đông Bắc tịnh xá, có một dòng suối chảy qua khe
đá. Bụt thường giặt áo ca sa trên dòng suối này và phơi áo trên một phiến đá
khá lớn bên suối. Ngồi trước tịnh xá, vào những ngày quang đãng, Bụt thấy được
cả kinh đô Rahajaga, Bụt rất ưa ngồi ngắm mặt trời lặn từ điểm nhìn này. Cảnh
tượng mặt trời lặn ở đây thật huy hoàng và diễm lệ. Các đại đức lớn như
Sariputta, Uruvela Kassapa, Moggallana, Upali, Devadatta và Ananda đều có tịnh
xá riêng trên núi Linh Thứu. Trong vùng lân cận thủ đô Rajagaha đã có tới mười
tám cơ sở tu học quan trọng của tăng đoàn. Ngoài tu viện Trúc Lâm (Venuvana) và
núi Linh Thứu (Gijjhakuta), còn có những trung tâm nổi tiếng khác, trong đó nổi
bật nhất là Vaibharavana, Sarpasundikapragbhara, Saptaparnaguha và
Indrasailaguha. Hai nơi sau là hai động đá lớn.
Gần núi
Linh Thứu, có tịnh xá của một vị y sĩ trẻ nổi tiếng tên là Jivaka. Vị y sĩ này
là một trong những đệ tử tại gia thân cận nhất của Bụt. Jivaka là con của vua
Bimbisara và của bà mệnh phụ Ambapali. Chàng học thuốc từ năm mười bốn tuổi tại
Taksassila. Năm mười lăm tuổi, chàng đã được mẹ tới đón, đưa về tu viện Trúc
Lâm để viếng Bụt. Năm nay Jivaka đã hai mưới sáu tuổi. Tốt nghiệp ngành y từ
năm hai mươi ba tuổi. Jivaka đã trở nên một lương y nổi tiếng sau khi chữa lành
cho nhiều người đã từng mắc những chứng bệnh hiểm nghèo. Jivaka cũng đã từng
chữa bệnh cho vua Bimbisara.
Từ mấy
năm nay, Jivaka thường lui tới tu viện Trúc Lâm và núi Linh Thứu để chăm sóc
sức khỏe của Bụt và của các vị khất sĩ. Vào đầu mùa lạnh, Jivaka cổ động các
bạn cúng dường thêm y áo cho các vị khất sĩ để họ đắp mà ngủ ban đêm. Jivaka
cũng đã cúng dường Bụt một bộ y. Vị lương y này không những lưu tâm đến việc
trị bệnh mà còn lưu tâm đến việc ngừa bệnh nữa. Ông đề nghị với Bụt một số biện
pháp vệ sinh cần được áp dụng cho các vị khất sĩ. Mỗi thầy nên có một dụng cụ
lọc nước để uống, và nước lấy từ ao hồ thì nên được đun sôi. Y áo mỗi bảy ngày
phải được giặt ít nhất một lần. Nhà tắm cần được dựng thêm trong tu viện. Thức
ăn hôm nay không nên dành lại cho ngày hôm sau. Tất cả những điều Jivaka đề
nghị, Bụt đều chấp nhận.
Cúng
dường ca sa đã trở nên một hành động rất phổ thông trong dân chúng.
Có một
hôm Bụt thấy một vị khất sĩ trở về tu viện trên vai nặng trĩu cả y áo.
Bụt hỏi:
- Thầy
có bao nhiêu chiếc y tất cả?
- Lạy
Bụt, con được cúng dường tất cả tới tám chiếc y.
- Thầy
cần dùng nhiều y đến thế sao?
- Lạy
Bụt, con không cần dùng nhiều y như thế, tại vì người ta cúng dường nên con
phải nhận.
- Theo
thầy thì mỗi vị khất sĩ cần có bao nhiêu chiếc y là đủ?
- Lạy
đức Thế Tôn, con nghĩ ba chiếc y là đủ cho mỗi người. Ngồi thiền trong rừng
lạnh hoặc ngủ nghỉ ban đêm dưới gốc cây mà có được ba y thì đã là đủ ấm.
Bụt nói:
- Tôi
cũng nghĩ như thầy vậy. Khi nào lạnh lắm tôi cũng chỉ cần tới chiếc y thứ ba.
Từ rày về sau, mỗi vị khất sĩ chỉ có quyền có một cái bình bát và ba chiếc y ca
sa mà thôi. Nếu được cúng dường thêm quý vị nên từ chối.
Vị khất
sĩ bái tạ Bụt và đi về tăng xá của mình.
Có một
hôm khác đứng trên một ngọn đồi. Bụt chỉ những thửa ruộng nối nhau chạy dài đến
chân trời và nói với đại đức Ananda:
-
Ananda, thầy có thấy những thửa ruộng lúa chín vàng được chia thành từng ô chạy
dài tới chân trời không? Đẹp quá! Tại sao ta không đề nghị may áo ca sa cho các
vị khất sĩ theo kiểu mẫu này?
Ananda
bạch:
- Ý của
Thế Tôn thật hay. Áo ca sa may theo hình dáng những thửa ruộng như thế này thì
đẹp biết bao nhiêu. Con từng nghe Thế Tôn nói một vị khất sĩ tu học nghiêm
chỉnh là một thứ đất ruộng rất tốt trên đó ta có thể gieo những hạt giống phước
đức cho hiện tại và tương lai. Cúng dường, học hỏi và tu tập theo vị khất sĩ ấy
tức là gieo những hạt giống phước đức vậy. Nếu Thế Tôn cho phép, con sẽ bố cáo
với đại chúng về cách thức may y trong tương lai và sẽ gọi kiểu y này là phước
điền y.
Bụt mỉm
cười. Người gật đầu ưng thuận.
Mùa an
cư năm sau. Bụt cư trú tại tu viện Jetavana ở thủ đô nước Kosala.
Cư sĩ
Suddata đã thân hành về Rajagaha thỉnh người. Cư sĩ nhắc là đã từ lâu Bụt không
an cư tại Jetavana. Đây là mùa an cư thứ hai mươi của Bụt sau ngày người thành
đạo. Năm nay Bụt đã năm mươi lăm tuổi. Được tin Bụt về an cư tại Savatthi, quốc
vương Pasenadi mừng rỡ. Vua đem cả gia đình hoàng gia tới viếng Bụt. Đi theo
vua có thứ hậu Vrsabhasatriya và hai người con của thứ hậu là thái tử Vidudabha
và công chúa Vajna. Thứ hậu là người dòng Sakya. Sau ngày được gặp Bụt và trở
nên đệ tử của người, quốc vương Pasenadi đã gửi một phái đoàn qua vương quốc Sakya
để xin cưới một người trong hoàng gia làm thứ hậu. Vương quốc đã tuyển chọn vị
công nương xinh đẹp Vrsabhasatriya để gã cho vua. Công nương là con gái của
hoàng thúc Mahanama. Trong suốt mùa an cư, vua không bỏ một pháp thoại nào của
Bụt mà không đến nghe. Người đến nghe pháp càng ngày càng đông. Trong số những
vị đệ tử mới có nữ cư sĩ Visakha, được xem như là nữ thí chủ lớn nhất của tu
viện. Thấy các vị khất sĩ tại tu viện quá đông đảo, bà phát tâm đem khu vườn
rộng rãi và xanh tốt của bà ở phía Đông thành phố Savathi cúng dường cho Bụt và
cho giáo đoàn. Khu đất này đẹp không thua gì vườn cây Jeta, nhưng diện tích thì
hẹp hơn. Với sự hợp sức của các bạn, bà Visakha đã xây dựng được nhiều tăng xá
và thiền đường trong khu đất.
Khi tu
viện mới được hoàn thành, đại đức Sariputta đề nghị đặt tên là tu viện Đông
Viên (Purvarama). Giảng đường ở trung tâm tu viện được đặt tên là Lộc Mẫu
Đường, Lộc Mẫu Đường là biệt hiệu của nữ cư sĩ Visakha, Lộc (Migarai) là tên
con trai lớn của bà.
Nữ cư sĩ
Visakha sinh trưởng ở Bhaddhya trong vương quốc Anga. Cô là con gái của nhà
triệu phú Dhananjaya. Lớn lên cô lấy chồng ở Savathi.
Chồng cô
cũng là một triệu phú. Hai cha con đều là đệ tử trong giáo phái Nigantha
Nataputta; hai người vốn không có cảm tình với Bụt và giáo đoàn khất sĩ, nhưng
nhờ đức hạnh và sự đằm thắm của Visakha mà hai người dần dần có cảm tình với
Bụt và sau đó không lâu đều trở nên đệ tử của Bụt. Bà Visakha thường hay đi
chùa với một người bạn gái tên là Suppiya. Bà phát nguyện với Bụt là sẽ thường
xuyên cúng dường thuốc men cho bất cứ vị khất sĩ và nữ khất sĩ nào đến Savatthi
mà bị đau ốm, sẽ cúng dường áo ca sa và khăn tắm cho tất cả các vị khất sĩ và
nữ khất sĩ nào đến an cư tại Savatthi.
Bà cũng
đã triệt để ủng hộ ni sư Mahapajapati trong việc thiết lập và trang bị một
trung tâm tu học cho các vị nữ khất sĩ bên hữu ngạn sông Ganga gần sát thủ đô
Savatthi. Bà là người hộ trì rất đắc lực cho các vị nữ khất sĩ, không những về
phương diện vật chất mà còn trên phương diện tinh thần nữa. Bà đã từng can thiệp
và hóa giải những vụ xích mích xảy ra giữa ni chúng trong nữ tu viện.
Trong
một buổi pháp đàm tại giảng đường Lộc Mẫu, các vị cao đệ của Bụt đã đi tới
quyết định quan trọng sau nhiều giờ đàm luận, quyết nghị đầu là đề nghị thầy
Ananda làm thị giả thường xuyên cho Bụt. Đề nghị thứ hai là từ nay về sau, cứ
tới mùa an cư thì thỉnh Bụt trở về Savathi.
Đề nghị
đầu là do đại đức Sariputta đưa ra. Đại đức nói:
- Sư
huynh Ananda là người có trí nhớ bền bĩ nhất trong chúng ta. Trí nhớ của sư
huynh thật là lạ lùng, trên trần gian này không ai bì kịp. Mỗi khi Bụt dạy điều
gì mà có mặt sư huynh Ananda thì những lời Bụt dạy không rơi rớt đi đâu cả. Khi
trùng tuyên lại những điều Bụt dạy thì sư huynh Ananda trùng tuyên không sót
một câu hoặc một tiếng, vì vậy, nếu được làm thị giả cho Bụt, sư huynh sẽ có
dịp nghe hết những điều Bụt nói, dù là nói cho một đám đông hoặc là nói cho một
người, và sư huynh sẽ ghi nhận được những điều đó. Lời dạy nào của Bụt cũng quý
hóa không cùng, do đấy chúng ta phải làm đủ mọi cách để gặt hái và bảo trì tất
cả những điều người giáo huấn. Trong hai mươi năm qua, chúng ta đã dại dột để
rơi rớt và mất mát rất nhiều điều Bụt dạy. Vậy sư huynh Ananda nên vì chúng ta
và vì các thế hệ tương lai mà nhận lấy trách nhiệm làm thị giả cho Bụt.
Các vị
khất sĩ có mặt trong buổi họp đều tán đồng ý kiến của đại đức Sariputta. Đại
đức Ananda có vẻ ngần ngại. Đại đức nói:
- Tôi
thấy có nhiều điều bất tiện nếu các sư huynh cử tôi làm thị giả cho Bụt.
Không
chắc rằng Bụt đã bằng lòng cho tôi làm thị giả, nếu chịu khó nhận xét, chắc các
sư huynh cũng đã thấy rằng Bụt đã rất cẩn thận để khỏi mang tiếng là có con mắt
đặc biệt với những người trong thân tộc Sakya. Đối với nữ khất sĩ Mahapajapati,
vốn là dì mẫu của người mà người cũng rất cứng rắn, còn Rahula thì từ ngày được
làm sa di, không bao giờ chú được ngủ trong tịnh xá của Bụt hay ngồi ăn cơm
riêng với Bụt. Tôi cũng thế, tôi cũng không bao giờ được Bụt cho thân cận một
cách quá đáng, với lại tôi cũng không dám thân cận với Bụt một cách quá đáng.
Tôi cũng ngại các huynh đệ nói ra nói vào, cho là tôi thóc mách, và cho rằng vì
tôi thóc mách cho nên Bụt mới thỉnh thoảng gọi các huynh đệ lên để mà răn dạy.
Nói tới
đó, đại đức ngửng lên nhìn đại đức Sariputta:
- Đối
với sư huynh Sariputta, Bụt có một cái nhìn đặc biệt, bởi vì sư huynh là người
thông minh và tài giỏi vào bậc nhất trong số chúng ta. Sư huynh đã là một người
phụ tá rất đắc lực cho Bụt trong việc dạy dỗ cũng như trong việc tổ chức, và cố
nhiên là Bụt có đặt niềm tin lớn nơi sư huynh. Cũng vì vậy mà sư huynh đã bị
nhiều huynh đệ ghen ghét. Tôi thấy khi quyết định có điều gì, Bụt thưòng hỏi ý
kiến của nhiều người, chứ không phải là chỉ hỏi ý kiến một sư huynh Sariputta.
Vậy mà có những huynh đệ dám nói là những quyết định ấy là những quyết định của
Sariputta chứ không phải thật sự là những quyết định của Bụt. Làm như Bụt là
người không có trí óc suy xét để đi tới được những quyết định quan trọng. Tôi
thấy đó là một tội tăng thượng mạn rất lớn. Tôi ngần ngừ không muốn vâng lời
các sư huynh là vì thế.
Đại đức
Sariputta cười:
- Tôi
thì tôi không ngại khi có huynh đệ nào hiểu lầm tôi mà tỏ vẻ ganh ghét.
Tôi nghĩ
là khi nhận thấy điều gì thật sự có lợi lạc, mình phải có can đảm làm theo; dù
ai nói ngửa nói nghiêng mình cũng không nên vì vậy mà thối chí. Sư huynh
Ananda! Chúng tôi biết sư huynh là người có ý tứ lắm, nhưng chúng tôi nghĩ là
nếu sư huynh không nhận lời yêu cầu của anh em thì đạo pháp sẽ rất bị thiệt
thòi, cho thế hệ hiện tại và nhiều thế hệ về sau.
Đại đức
Ananda im lặng hồi lâu không nói gì. Cuối cùng thầy lên tiếng:
- Tôi sẽ
vâng lời các sư huynh để làm thị giả thường xuyên cho Bụt, nếu các sư huynh có
thể bạch với người chấp nhận những điều mà tôi yêu cầu sau đây. Thứ nhất là xin
Bụt đừng cho tôi y áo mà người ta cúng dường người.
Thứ hai
là xin Bụt đừng cho tôi những thức ăn mà người ta đem đến cúng dường người. Thứ
ba là xin Bụt đừng cho tôi ở cùng trong một tịnh thất với người. Thứ tư là xin
Bụt đừng cho tôi đi theo khi có một thí chủ thỉnh người thọ trai. Thứ năm là
xin Bụt biết là Bụt có thể cùng đi với tôi khi tôi được một thí chủ thỉnh tới
thọ trai. Thứ sáu là xin Bụt cho tôi có quyền tiến dẫn hoặc từ chối những người
muốn được diện kiến vói người. Thứ bảy là con Bụt cho tôi được hỏi lại người
mỗi khi có điều gì người nói mà tôi chưa hiểu. Thứ tám là xin Bụt lặp lại cho
tôi đại ý những bài pháp thoại mà vì bất đắc dĩ tôi không có mặt để nghe.
Đại đức
Upali góp ý:
- Những
điều sư huynh Ananda đưa ra đều là chính đáng, tôi chắc những điều ấy sẽ được
Bụt chấp nhận. Duy có điều thứ tư tôi thấy chưa ổn, nếu sư huynh không đi theo
Bụt khi có thí chủ thỉnh Bụt tới thọ trai thì làm sao sư huynh được nghe những
lời Bụt dạy vị thí chủ? Sư huynh không được nghe thì làm sao sư huynh có thể
trùng tuyên lại những lời ấy cho chúng tôi nghe, trong trường hợp những lời ấy
là những lời mới lạ rất quý báu? Tôi đề nghị như sau: mỗi khi Bụt được cung
thỉnh, ngoài sư huynh ra, nên có một huynh đệ khác cùng đi, như vậy sư huynh
tránh được miệng thế gian là nhờ nương vào Bụt mà sư huynh thường có thức ăn ngon.
Ananda
cười:
- Điều
sư huynh nói đó cũng chưa ổn. Trong trường hợp thí chủ chỉ đủ sức cúng dường
cho hai người mà thôi thì sao?
- Thì
hôm ấy Bụt và hai sư huynh ăn ít lại một chút chứ sao.
Các thầy
cùng cười rộ lên một cách vui vẻ. Vấn đề thị giả giải quyết xong, các thầy bàn
tới chuyện thỉnh Bụt an cư hàng năm tại Savatthi. Savatthi hiện có tới hai tu
viện lớn cho nam giới, tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc và tu viện Lộc Mẫu. Ngoài ra
còn có một tu viện cho ni giới. Nên lấy Savatthi làm căn cứ hành đạo. Ở những
vương quốc lân cận ai muốn gặp Bụt mà không biết người ở đâu thì cứ về Savatthi
trước mùa an cư là tự khắc được gặp. Đó là cơ hội đồng đều cho tất cả mọi
người. Các vị khất sĩ và nữ khất sĩ từ các quốc gia khác có thể tới Savatthi an
cư mà không gặp trở ngại, vì các đại thí chủ lớn như Anathapindika và Visakha
đã phát nguyện cung cấp thực phẩm, thuốc men, y áo và chỗ cư trú cho bất cứ vị
khách tăng nào tới đây. Sau khi kết thúc buổi pháp đàm, các thầy cũng đi đến
tìm Bụt tại tịnh thất của người để trình bày những ý kiến đã được tổng hợp
được. Bụt chấp nhận hai đề nghị của các vị cao đệ một cách hoan hỷ.
---o0o---
Chương 53
AN TRÚ TRONG HIỆN TẠI
Mùa Xuân
năm sau, tại Kammassadhamma thủ phủ xứ Kuru thuộc vùng Tây Bắc, Bụt nói kinh
Niệm Xứ (Satipatthanasutta) cho một thính chúng khất sĩ trên ba trăm người. Đây
là một kinh rất quan trọng cho công phu tu tập thiền quán. Bụt nói phép quán
niệm xứ này là con đường có thể giúp mọi người đạt tới sự thanh tịnh hóa thân
tâm, vượt khỏi sầu não, diệt được khổ ưu, thành tựu được hiểu biết lớn và đạt
tới tự do hoàn toàn. Nghe Bụt dạy xong kinh này, đại đức Sariputta đã nói với
đại chúng rằng đây là một trong những kinh văn quan trọng vào bậc nhất, và đề
nghị tất cả các vị khất sĩ và nữ khất sĩ ôn tụng kinh này cho thuộc lòng để mà
hành trì theo.
Ngay tối
hôm ấy, đại đức Ananda trùng tuyên lại từng lời từng tiếng những điều Bụt dạy.
Niệm Xứ là an trú trong chánh niệm. Theo phép tu này người hành giả ý thức được
những gì đang xảy ra trong các lĩnh vực thân thể, cảm giác, tâm ý và đối tượng
tâm ý mình. Ý thức ấy tức là chánh niệm. Bốn lĩnh vực ấy là bốn lĩnh vực quán
niệm.
Trong
lĩnh vực thứ nhất là thân thể, người hành giả quán niệm về hơi thở của mình, về
bốn tư thế của thân thể mình là đi, đứng, nằm, ngồi, về những động tác của thân
thể mình như đi tới, đi lui, nhìn, mặc áo, ăn, uống, đại tiểu tiện, nói chuyện,
giặt áo ... về những bộ phận của cơ thể như tóc, lông, răng, gân, xương, thận,
tủy, ruột, nước miếng, mồ hôi, v.v... về những yếu tố tạo nên cơ thể như nước, sức
nóng, không khí, vật thể ... và về sự tàn hoại của một tử thi từ khi nó trương
phồng lên cho đến khi xương cốt tan thành tro bụi. Quán niệm về thân thể bằng
cách phát khởi ý thức về những hiện tượng thuộc về thân thể. Ví dụ khi đang thở
vào, hành giả biết là mình đang thở vào; khi đang thở ra, hành giả biết là mình
đang thở ra; khi đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh, hành giả biết là
mình đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh. Khi đi, hành giả biết là mình
đi, khi ngồi xuống, hành giả biết là mình đang ngồi xuống. Khi làm những động
tác như mặc áo, uống nước, hành giả biết là mình đang mặc áo, uống nước v.v...
Như vậy
công phu quán niệm về thân thể không phải chỉ được thực hiện trong lúc ngồi
thiền mà phải được thực hiện suốt ngày, ngay cả những lúc đi khất thực, ăn cơm
và rửa bát.
Trong
lĩnh vực thứ hai là cảm giác, người hành giả quán niệm về những cảm giác đang
phát sinh, tồn tại hoặc tàn hoại nơi mình, những cảm giác dễ chịu (lạc thọ),
khó chịu (khổ thọ) và những cảm giác trung tính (xả thọ). Những cảm thọ ấy có
thể có nguồn gốc sinh lý hay tâm lý. Quán niệm cảm giác bằng cách phát khởi ý
thức về sự phát sinh, tồn tại và hoại diệt của những cảm giác ấy. Ví dụ khi
đang bị nhức răng, hành giả biết là mình đang bị nhức răng, khi đang sung sướng
vì được một người khác khen ngợi, hành giả biết là mình đang sung sướng vì được
một người khác khen ngợi. Hành giả còn quán chiếu để an tịnh hóa những cảm giác
của mình và để thấy rõ nguồn gốc phát sinh của mọi cảm giác. Công phu quán niệm
về cảm giác, do đó cũng không phải chỉ được thực hiện trong lúc ngồi thiền,
trái lại, đây là một công phu được thực hiện suốt ngày.
Trong
lĩnh vực thứ ba là tâm ý, người hành giả quán niệm về những trạng thái tâm lý
đang có mặt. Khi có tham dục, biết là có tham dục, khi không có tham dục, biết
là không có tham dục. Khi có giận hờn, lầm lạc, biết là có giận hờn hay lầm
lạc, khi không có giận hờn hay lầm lạc thì biết không có giận hờn hay lầm lạc.
Khi tâm ý tập trung hay tán loạn, thì biết là có tập trung hay tán loạn. Những
lúc tâm ý mở rộng, khép kín, có giới hạn, cố định hay có giải thoát thì hành
giả liền biết; không có thì cũng liền biết. Nói tóm lại, hành giả nhận diện và
có ý thức về tất cả những trạng thái tâm ý có mặt trong giờ phút hiện tại.
Trong
lĩnh vực thứ tư là đối tượng tâm ý, người hành giả quán niệm về năm trạng thái
chướng ngại của giải thoát (tham đắm, giận hờn, hôn trầm, kích thích và nghi
ngờ) mỗi khi chúng có mặt; về năm yếu tố cấu tạo nên con người gọi là năm uẩn
(thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức); về sáu giác quan và đối
tượng của chúng; về bảy yếu tố giác ngộ (chánh niệm, trạch pháp, tinh tiến, hỷ
lạc, khinh an, định và hành xả) và về bốn sự thật là khổ đau, nguyên do của khổ
đau, sự giải thoát khổ đau và con đường thực hiện giải thoát. Tất cả những thứ
ấy đều là đối tượng của tâm ý. Vạn pháp đều bao hàm trong những đối tượng ấy.
Bụt chỉ
dạy cặn kẽ về từng phép quán niệm trong cả bốn lĩnh vực. Người dạy tinh chuyên
hành trì phép quán này trong bảy năm thì chắc chắn sẽ đạt được giải thoát.
Người lại nói: có người có thể đạt tới giải thoát trong bảy tháng, hoặc nội
trong bảy ngày, nhờ hành trì phép quán niệm này.
Trong
một buổi pháp đàm, đại đức Assaji cho biết đây không phải là lần đầu Bụt dạy về
bốn phép lĩnh vực quán niệm. Người đã dạy nhiều lần phép này rồi, nhưng đây là
lần đầu tiên người tổng hợp lại những gì người đã dạy về phép tu trong một bài
giảng thật đầy đủ, thật cặn kẽ. Đại đức cũng đồng ý với đại đức Sariputta là
kinh này cần được tất cả các vị khất sĩ học thuộc lòng để tụng đọc và hành trì.
Trở về
tu viện Jetavana vào cuối xuân năm ấy. Bụt độ được một tên sát nhân nổi tiếng
tên là Angulumala. Một buổi sáng đi vào thành Savatthi khất thực, Bụt có cảm
tưởng đay là một thành phố chết. Ngoài đường không có bóng người qua lại. Hai
bên đường không có nhà nào mở cửa. Đứng hồi lâu trước một căn nhà nơi đó người
đã từng được cúng dường, Bụt thấy cửa nhà hé mở, người gia chủ chạy ra mời Bụt
vào. Vào tới nhà, người gia chủ khép cửa và cài then lại. Người ấy mời Bụt
ngồi, và đề nghị với Bụt ở lại thọ trai, đừng nên đi khất thực nữa:
- Bạch
sa môn, đi ra đường hôm nay nguy hiểm lắm. Người ta cho biết tên sát nhân
Angulimala đã xuất hiện trong thành phố. Nghe nói nó đã hạ sát rất nhiều người
ở nhiều thành phố, và sau khi hạ sát, nó lại còn chặt ngón tay của người ta để
xâu thành một tràng chuỗi và đeo nó vào cổ. Cũng vì vậy cho nên người ta đã đặt
cho nó cái tên Angulimala. Con nghe đồn rằng nếu Angulimala giết được đủ một
trăm người và có được một trăm lóng tay đeo vào cổ thì nó sẽ thành tựu được một
quyền lực bùa chú ghê gớm lắm. Có một điều lạ là nó giết người mà không cướp
giật của cải của bất cứ ai. Con nghe nói là vua Pasenadi đã cho điều động quân
đội và cảnh sát bao vây và truy nã nó.
Bụt hỏi:
- Tại
sao chỉ có một tên sát nhân mà chính quyền phải huy động cả binh đội và cảnh
sát như thế?
- Bạch
sa môn Gotama, tên sát nhân này ghê gớm lắm. Võ nghệ nó rất cao cường, có khi
ba bốn người đàn ông gặp nó giữa đường cũng không đủ sức đối địch lại nó. Một
số bị nó hạ sát và số còn lại phải bỏ chạy tán loạn.
Angulimala
thường trú ẩn trong rừng Jalini. Lâu nay không ai dám đi qua rừng này cũng vì
thế. Có lần một toán cảnh sát địa phương có trang bị đủ khí giới đã đi vào rừng
để lùng bắt Angulimala. Toán này có đến hai mươi người. Trong số đó chỉ có hai
người sống sót trở về. Cũng vì vậy khi nghe tin nó xuất hiện trong thành phố,
dân chúng đều kinh hoàng. Không ai buôn bán làm ăn gì được.
Bụt cám
ơn vị gia chủ đã cho người biết về Angulimala và từ giã ra đi.
Người
này có ngăn cản Bụt nhưng không được. Bụt nói Bụt phải thực hành phép trì bát
khất thực như mọi hôm, để giữ vững niềm tin của mọi người.
Đang đi
thong thả trong chánh niệm, Bụt bỗng nghe tiếng chân một người chạy đuổi theo ở
phía sau. Bụt biết đó là Angulimala đang chạy theo mình, nhưng Bụt không hốt
hoảng. Người vẫn đi từng bước chậm rãi, an nhiên, ý thức được gì đang xảy ra
trong tâm ý và trong hoàn cảnh của mình, và người nghe tiếng của Angulimala gọi
người từ phía sau lưng vọng tới:
- Ông sa
môn! Dừng lại!
Bụt
không đứng lại. Bụt vẫn chậm rãi đi. Tiếng bước chân của Angulimala cho Bụt
biết là Angulimala đã ngừng chạy mà chỉ còn rảo bước theo Bụt.
Tuy đã
năm mươi sáu tuổi nhưng thính giác và thị giác Bụt còn bén nhạy lắm và sức khỏe
của Bụt vẫn đầy đủ. Trong tay Bụt chỉ có một chiếc bình bát mà thôi. Người mỉm
cười nhớ lại ngày xưa trong các võ đường, khi còn là thái tử, người là võ sinh
nhanh nhẹn nhất, và chưa ai chạm được vào người. Bụt biết Angulimala đã đuổi
kịp người, và Angulimala thế nào cũng có đeo khí giới, nhưng người vẫn ung dung
bước.
Angulimala
đã rượt kịp Bụt và hiện đang đi ngang hàng với Bụt. Bụt nghe anh ta nói:
- Ta đã
bảo ông dừng lại, tại sao ông cứ tiếp tục đi mà không chịu dừng?
Bụt vừa
đi vừa đáp:
-
Angulimala, ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có anh mới chưa chịu dừng lại mà
thôi.
Angulimala,
giật mình. Angulimala nín thinh không nói thêm gì được bởi vì anh ta quá ngạc
nhiên. Ông sa môn này nói cái gì lạ thế. Ông ta đã dừng lại đâu nào. Rõ ràng là
chân ông ta vẫn còn bước đi, vậy mà ông ta lại nói rằng ông ta đã dừng lại. Ta
phải hỏi cho ra mới được. Nghĩ như vậy, Angulimala phóng tới phía trước, đứng
chận đường đi của Bụt. Bụt dừng lại. Người đưa mắt nhìn Angulimala. Mắt ngài
chiếu sáng như những ngôi sao. Angulimala chưa bao giờ thấy ai trầm tĩnh như
thế, uy nghiêm như thế và thản nhiên đến thế. Thường thường ai gặp Angulimala
thì nếu không sợ hãi bỏ chạy cũng mất đi ít nhiều bình tĩnh. Vậy mà ông thầy tu
này lại xem mình như một kẻ không ra gì. Hoặc giả ông ta chưa biết mình là ai
cho nên ông ta không biết sợ chăng? Không đúng, bởi vì ông ta đã gọi ngay tên
Angulimala khi trả lời câu hỏi của mình. Vậy thì ông ta biết mình là ai rồi.
Biết mình là một tên sát nhân ghê gớm, vậy mà vẫn giữ được sự điềm đạm, ung
dung không hề tỏ một vẻ gì sợ hãi, lại còn nhìn mình bằng một con mắt thật hiền
hòa.
Angulimala
cảm thấy mình không đối đầu được cái nhìn của Bụt. Anh ta cất tiếng hỏi:
- Sa
môn, hồi nãy ông nói ông đã dừng lại rồi, trong khi chân ông vẫn bước, điều đó
có nghĩa là sao? Ông lại nói rằng tôi chưa chịu dừng lại, điều này có nghĩa là
gì? Ông nói cho tôi nghe đi.
Bụt bảo:
-
Angulimala, những hành động có thể gây đau khổ cho các loài chúng sanh, ta đã
dừng lại, và dừng lại tự lâu rồi. Ta đã học được hạnh bảo vệ sự sống, không
những của con người mà còn của tất cả các loài sinh vật. Angulimala, trong các
loài sinh vật, kể cả loài người, loài nào cũng muốn sống, sợ chết; vì vậy ta
phải có lòng thương, đem tình thương ấy mà bảo vệ sự sống của muôn loài.
Angulimal
la lớn như hét vào tai Bụt:
- Nhưng loài
người có ai thương ta đâu, tại sao ta phải thương loài người?
Loài
người là một loài độc ác, gian trá, phản bội, ta muốn tiêu diệt cho hết mới
thỏa được niềm uất hận của ta.
Bụt dịu
dàng:
-
Angulimala, ta biết rằng anh đã từng khổ đau, va ta biết những kẻ đã làm khổ
anh là những con người. Angulimala, con người quả có khi rất là độc ác.
Ác độc
vì si mê, vì hận thù, vì tham dục, vì ganh tị, nhưng con lại có khi rất hiểu
biết và rất từ bi, Anh đã từng gặp một vị khất sĩ nào chưa? Vị khất sĩ nào cũng
đã phát nguyện bảo vệ sự sống cho mọi người và mọi loài, vị khất sĩ nào cũng đã
phát nguyện diệt trừ tham dục, hận thù và si mê. Ta biết có nhiều người không
phải là khất sĩ, nhưng vẫn sống theo nếp sống hiểu biết và thương yêu đó.
Angulimala! Anh đừng vơ đũa cả nắm, ở đời có người ác, nhưng cũng có người
hiền. Đạo lý của ta có công năng chuyển hóa kẻ ác ra kẻ hiền. Hận thù là con
đường nên tránh. Anh đang đi trên con đường ấy.
Nên dừng
lại đi thôi. Hãy chọn con đường của tha thứ, của hiểu biết và của tình thương
mà đi.
Angulimala
bị thu hút trong giọng nói đầm ấm mà đầy tình thưong của vị sa môn. Gan ruột
anh như bị ai xé nát và xát muối vào. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên mà anh cảm
thấy ấm áp trong lòng. Người đang đứng trước mặt anh thật sự là vì thương anh
mà nói. Nơi con người này quả không có hận thù, quả không có sợ hãi, không có
sự khinh ghét. Người này đã có thể nhìn mình như nhìn một con người. Hay chính
người này là sa môn Gotama, là người mà thiên hạ đã ca tụng và tôn xưng là Bụt?
Chắc là đúng như vậy rồi.
Chắc là
hôm nay mình gặp người ấy rồi. Angulimala hỏi:
- Thầy
có phải là sa môn Gotama đó không?
Bụt gật
đầu.
Angulimala
nói:
- Rất
tiếc, thầy gặp tôi quá muộn. Tôi đã đi quá xa trên con đường này rồi, bây giờ
có muốn dừng lại cũng không được.
Bụt bảo:
- Đừng
nói thế, Angulimala, làm một việc lành thì không bao giờ muộn cả.
- Việc
lành gì đâu nào?
- Dừng
lại trên con đường hận thù và bạo động là việc lành lớn nhất trên tất cả các
việc lành. Angulimala! Biển khổ tuy mông mênh, nhưng quay đầu lại là tự khắc
thấy được bờ bến.
- Sa môn
Gotama ơi! Bây giờ tôi có muốn quay đầu về cũng không còn kịp nữa. Người ta sẽ
không để cho tôi yên.
Bụt đưa
tay ra nắm lấy tay Angulimala. Người nói:
-
Angulimala, ta sẽ bảo vệ cho anh, nếu anh phát nguyện cải tà quy chánh và từ
nay siêng năng học đạo, sám hối lỗi lầm và bắt đầu làm những công việc phục vụ
cho người. Ta thấy anh là kẻ thông minh, anh đã hiểu được điều ta muốn nói. Thế
nào anh cũng thành công trong bước đường hướng thiện.
Angulimala
quỳ xuống trước mặt Bụt. Anh đưa tay cởi lưỡi dao to bản đeo bên lưng, nâng nó
lên trên hai tay rồi đặt nó xuống đất, rồi Angulimala sụp lạy sát đất dưới chân
Bụt, ôm mặt mà khóc nức nở. Một hồi lâu, anh nói:
- Con
xin nguyện từ đây hối cải, bỏ ác làm lành, quyết tâm theo Bụt để học hạnh từ
bi. Cúi xin Bụt chấp nhận con làm đệ tử của người.
Vừa lúc
ấy các đại đức Sariputta, Ananda, Upali, Kimbila và nhiều vị khất sĩ khác xuất
hiện. Họ bao vây quanh Bụt và Angulimala. Thấy Bụt an lành và Angulimala đã quy
y, mọi người đều lấy làm mừng rỡ. Bụt dạy Ananda:
-
Ananda, hãy đưa cho ta một bộ y áo. Upali, đại đức hãy làm lễ xuống tóc cho
Angulimala ngay tại đây. Sariputta thầy hãy ghé vào nhà trước mặt mượn con dao
cạo tóc.
Ngay tại
chỗ, Angulimala được làm lễ thế phát, đọc ba lời quay về nương tựa, tiếp nhận
các giới pháp do đại đức Upali trao truyền. Lễ thế phát cử hành xong, mọi người
lập tức theo Bụt trở về tu viện Jetavana.
Trong
mười hôm liên tiếp, Angulimala được đại đức Upali hướng dẫn về giới luật và đại
đức Sariputta chỉ dạy về giáo lý và những phép thiền tọa, khất thực, thiền
hành. Angulimala nổ lực học hỏi và thực tập như chưa có ai từng học hỏi và thực
tập như vậy. Nửa tháng sau, khi đến thăm Angulimala tại tăng xá, Bụt cũng phải
ngạc nhiên. Angulimala đã hoàn toàn lột xác. Bây giờ đây Angulimala đã trở nên
một vị khất sĩ có tướng tụng và dung mạo rất uy nghi và đẹp đẽ. Bây giờ trong
tu viện ai cũng gọi Angulimala là đại đức Ahimsaka. Tên này vốn là tên thật của
Angulimala ngày trước, có nghĩa là bất bạo động hay bất hại. Svastika nghĩ rằng
danh hiệu này rất hạp với vị đại đức mới, bởi vì theo Svastika ngoài Bụt không
ai có vẻ hiền lành như thầy Ahimsaka bây giờ.
Sáng hôm
sau, Bụt đi vào thành Savatthi khất thực với khoảng năm mươi vị khất sĩ, trong
đó có đại đức Ahimsaka. Vừa đến cửa thành, Bụt gặp vua Pasenadi và các tướng
lãnh đang điều động quân đội và cảnh sát. Quốc vương cũng đang mặc quân phục
như các vị chỉ huy quân đội khác, lưng đeo trường kiếm, ngồi trên lưng ngựa.
Thấy Bụt, vua xuống ngựa, tiến đến vái chào, Bụt hỏi:
- Đại
vương! Có biến cố gì mà đại vương và các vị tướng soái phải điều động quân đội
để đánh dẹp? Có nước láng giềng nào đang gây hấn ở biên giới chăng?
Vua đáp:
- Thế
Tôn! Không có nước láng giềng nào định đến đánh chiếm Kosala cả.
Trẫm
điều động quân đội và cảnh sát là để vây bắt tên sát nhân Angulimala.
Tên
tướng cướp này ghê gớm lắm. Chưa có một lực lượng nào đã có thể vây bắt và
trừng trị được nó. Trẫm được báo cáo là Angulimala đã xuất hiện trại thủ đô
Savatthi từ hơn nửa tháng nay. Dân chúng thủ đô đang mất tinh thần mà các lực
lượng cảnh sát vẫn chưa tìm ra được nó.
Bụt hỏi:
- Tên
sát nhân Angulimala lợi hại đến thế sao?
Vua đáp:
- Thế
Tôn chưa biết, chứ Angulimala là một mối họa lớn cho mọi người.
Trẫm
phải tìm đủ cách để bắt giết cho được nó. Angulimala là một tên sát nhân vô
cùng nguy hiểm.
Bụt hỏi:
- Nhưng
giả dụ tên sát nhân đó cải tà quy chánh, phát nguyện suốt đời giữ giới không
sát sinh, sống đời xuất gia đạm bạc, tôn trọng sự sống của muôn người và của
mọi loài chúng sanh khác, thì bệ hạ có cần tìm bắt giết nó nữa không?
- Thưa
Thế Tôn! Nếu Angulimala mà theo Bụt xuất gia, giữ giới bất sát, sống đời phạm
hạnh thanh cao như các vị khất sĩ ở đây thì trẫm vui mừng xiết bao! Không những
trẫm đã không bắt giết mà còn tới đảnh lễ và cúng dường y áo, thực phẩm và
thuốc men cho, y như trẫm đã từng cúng dường Thế Tôn và các vị đại đức ở tu
viện Jetavana vậy, nhưng chuyện này chắc chẳng bao giờ xảy ra đâu, bạch Thế
Tôn!
Bụt đưa
tay chỉ vào đại đức Ahimsaka đứng sát sau lưng người và nói với vua:
- Đại
vương, đây là Angulimala đã được trao truyền giới pháp xuất gia và đã trở nên
một vị khất sĩ sống đời phạm hạnh từ nửa tháng nay.
Quốc
vương Pasenadi sợ dựng tóc gáy. Bụt nói:
- Đại
vương đừng sợ, khất sĩ Angulimala bây giờ hiền hơn cục đất. Bây giờ mọi người
gọi vị khất sĩ này là đại đức Ahimsaka.
Vua nhìn
đại đức Ahimsaka trong một giây, và từ từ tiến tới trước mặt đại đức. Vua chắp
tay xá thầy. Vua hỏi:
- Bạch
đại đức, ngài xuất thân từ gia đình nào? Thân phụ ngài tên gì?
- Tâu
đại vương, thân phụ tôi tên là Gagga, thân mẫu tôi tên là Mantan!.
- Xin
đại đức Gagga Mantanniputta nhận nơi đây niềm thành kính của trẫm và xin đại
đức cho phép trẫm cúng dường ngài y áo, thực phẩm và thuốc men.
Đại đức
Ahimsaka đáp lễ:
- Tâu
đại vương, tôi đã có đủ ba y áo; thực phẩm thì mỗi ngày đều có thí chủ cúng
dường trong giờ đi khất thực, còn thuốc men thì hiện giờ tôi không cần đến, xin
tạ ơn đại vương.
Vua cúi
đầu chào đại đức một lần nữa rồi trở về đứng trước mặt Bụt. Vua làm lễ Bụt và
nói:
- Bạch
đức Thế Tôn, đạo đức của người thật là mầu nhiệm. Thế Tôn dập tắt được những gì
rất khó dập tắt, an ổn được những gì rất khó an ổn, điều phục được những gì rất
khó điều phục. Những gì không giải quyết được bằng binh lực và bạo dộng, Thế
Tôn đã giải quyết được bằng đức độ của người. Trẫm xin ghi ơn đức Thế Tôn, bây
giờ trẫm xin từ giã.
Vua từ
giã Bụt và các vị khất sĩ. Ngay sáng hôm đóm các đơn vị quân đội và cảnh sát
được lệnh trở về vị trí cũ.
---o0o---
Chương 54
THẢN NHIÊN TRƯỚC CUỘC THỊNH SUY
Chỉ
trong vài hôm dân chúng ở thủ đô đều hay tin là Angulimala đã được chế ngự, và
ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm, nhưng điều người ta bàn tán đến nhiều nhất là
việc Angulimala đã cải tà qui chính, xuất gia theo Bụt. Câu chuyện này được
truyền ra trong xứ và còn truyền ra những xứ khác. Uy tín của Bụt và của giáo
đoàn khất sĩ lên rất cao, ở đâu và lúc nào các vị khất sĩ cũng nhìn bằng con
mắt kính trọng.
Uy thế
của giáo đoàn còn lên cao hơn nữa khi mọi người thấy số trí thức và thanh niên
từ các giáo phái từ bỏ giáo phái mình để theo Bụt càng ngày càng đông. Câu
chuyện cư sĩ Upali thuộc giáo phái Nigantha bỏ giáo phái này để theo Bụt là một
trong những đề tài đàm luận sôi nổi nhất trong giới tôn giáo và triết học ở
Magadha và ở Kosala.
Upali là
một người cư sĩ giàu có và thông minh vào bậc nhất ở miền Bắc nước Magadha. Ông
là người thí chủ lớn nhất của giáo pháo Nigantha mà người lãnh đạo là giáo chủ
Nataputta. Giáo phái này gồm toàn những du sĩ lõa hình, có rất đông quần chúng
tín mộ. Lúc ấy là mùa Xuân, Bụt cư trú trong vườn Xoài Pavarika tại Nalanda,
miền Bắc nước Magadha. Một hôm du sĩ lõa hình Digha Tappasi, một cao đệ của
giáo chủ Nataputta, nhân đi khất thực ở Nalanda, đã ghé vào thăm Bụt để đàm
luận về đạo lý. Bụt hỏi thăm và được vị du sĩ này cho biết rằng giáo phái
Nigantha chỉ dùng danh từ tội báo (dandani) mà không dùng danh từ hành nghiệp
(karmani). Được hỏi về bản chất của tội báo, Digha Tappasi cho biết là có ba
loại: thân tội, khẩu tội, và ý tội.
Được hỏi
loại nào nặng nhất và căn bản nhất, du sĩ nói:
- Tội
của thân là nặng nhất, và là căn bản nhất.
Bụt cho
biết trong đạo lý của người, ý nghiệp là quan trọng nhất, tại vì ý là căn bản,
du sĩ Tappasi buộc Bụt phải lập lại điều này ba lần để Bụt không thể chối cãi,
và sau đó kiếu từ ra về.
Gặp lại
giáo chủ Nataputta, du sĩ kể lại những chi tiết của cuộc đàm thoại.
Nataputta
cười lớn và nói:
- Sa môn
Gotama đã lầm lẫn nghiêm trọng. Tội trong tâm ý và nơi lời nói chưa phải là tội
lớn. Chính những tội do thân thể gây nên một cách cụ thể mới là quan trọng, và
có ảnh hưởng lâu dài. Du sĩ Tappasi! Thầy đã nắm được yếu chỉ của đạo pháp ta.
Trong
buổi đàm đạo giữa Nataputta và Tappasi còn có mặt một số người cư sĩ, trong đó
có vị trưởng giả trí thức Upali và các bạn của ông ta (từ thành phố Balaka đến.
Nghe tới đây, Upali xin tình nguyện đi thăm Bụt để nói cho Bụt biết là vị sa
môn này đã thấy sai khi cho rằng ý nghiệp có tính cách căn bản hơn thân nghiệp
và khẩu nghiệp. Giáo chủ Nataputta rất muốn cho Upali đi, nhưng du sĩ Tappasi e
ngại. Ông sợ Upali sẽ bị Bụt chinh phục, nhưng giáo chủ Nataputta co đức tin
lớn nơi Upali. Ông nói:
- Đừng
sợ cư sĩ Upali sẽ trở nên đệ tử của sa môn Gotama. Sa môn Gotama, trái lại có
thể trở nên đệ tử của Upali cũng chưa biết chừng.
Du sĩ
Tappasi cố ngăn nhưng không được. Upali đến thăm Bụt và cuộc đàm đạo giữa hai
người rất là hào hùng. Đây là lần đầu tiên nhà trí thức này được gặp Bụt. Trong
bảy ví dụ liên tiếp. Bụt chỉ cho Upali thấy ý tội là căn bản.
Bụt biết
các du sĩ lõa hình phái Nigantha là những người có trì giới không sát sinh và
biết giữ gìn không dẫm đạp lên trên các loại côn trùng. Bụt khen ngợi điều này.
Nhưng người hỏi Upali:
- Nếu
không cố ý mà dẫm đạp lên các loại côn trùng thì có phạm tội không?
Upali
trả lời:
- Giáo
chủ Nataputta bảo rằng nếu không cố tình giết thì không phạm tội.
Bụt cười
và nói:
- Như
vậy thì giáo chủ Natputta công nhận ý tội là căn bản rồi; nói thân tội là căn
bản sao được nữa?
Upali
rất khâm phục đức độ và tuệ giác của Bụt. Ông thưa với Bụt là ngay từ đầu Bụt
đưa ra, ông đã thấy giáo chủ giáo phái Nigantha là sai, nhưng ông vẫn cứ gạn
hỏi để Bụt giảng giải thêm nữa. Nghe đến đâu, ông càng thấy sáng và cuối cùng
ông lạy Bụt xin Bụt cho ông làm đệ tử.
Bụt nói:
- Upali,
hãy nghĩ cho thật kỹ, Một người trí thức có tầm vóc như ông không thể quyết
định một cách vội vã được. Hãy suy nghĩ cho thật chín chắn.
Upali
lại quý mến Bụt hơn vì câu nói vừa rồi của Bụt. Câu nói đó chứng tỏ Bụt không
ham có thêm đệ tử, dù là một đệ tử có uy tín lớn trong giới nhân sĩ như ông.
Không một vị giáo chủ nào khi nghe Upali xin vào đạo mà lại còn bảo Upali nên
suy nghĩ cho chín chắn như vị sa môn này. Upali nói:
- Thế
Tôn, con đã suy nghĩ chín chắn lắm rồi. Xin Bụt cho con quay về nương tựa Bụt,
nương tựa Pháp và nương tựa Tăng. Con rất mừng đã tìm thấy nền đạo lý chân
chính, con rất mừng đã tìm thấy Bụt.
Bụt nói:
- Cư sĩ
Upali, lâu nay ông là một trong những người bảo trì đắc lực nhất cho các thầy
du sĩ phái Nigantha. Vậy đừng vì theo tôi mà châm dứt việc cúng dường các thầy
bên đó.
Upali
bạch:
- Thế
Tôn thật là cao cả. Thế Tôn thật là rộng lượng. Giáo chủ phái Nigantha không
được như Thế Tôn đâu.
Nghe tin
Upali đã theo Bụt, du sĩ Tappasi đến báo cho giáo chủ Nataputta.
Vị này
không tin, Cả hai tìm tới nhà Upali và được chính Upali cho biết sự thực.
Uy tín
của Bụt và giáo đoàn khất sĩ lên cao, nền đạo lý mới đã chinh phục được lòng
người trong hai nước lớn và trong các nước kế cận. Có nhiều vị khất sĩ tỏ vẻ
vui mừng khi báo tin này về Savatthi lên Bụt. Bụt nói:
- Đáng
mừng hay không là ở chỗ các thầy có tu học tinh tiến hay không.
Chúng ta
không nên vui buồn theo sự thịnh suy. Chúng ta phải học thái độ thản nhiên
trước cái suy cũng như trước cái thịnh.
Một buổi
sáng, trong khi Bụt và các thầy khất sĩ đang chuẩn bị lên đường đi khất thực
thì có một toán cảnh sát vào tu viện Jetavana. Họ cho biết là được lệnh đi tìm
một người đàn bà mất tích. Các thầy ai cũng ngạc nhiên, không biết tại sao đi
tìm một người đàn bà mất tích mà lại tới tu viện nam giới vào một buổi sớm mai.
Đại đức Bhaddiya hỏi người bị mất tích là ai. Cảnh sát bảo là nữ du sĩ Sundari.
Sundari là một tiểu ni xinh đẹp của một giáo phái lớn có cơ sở ở Savatthi. Mấy
tháng nay cô thường hay đến tu viện để nghe thuyết pháp. Nói là để học hỏi thêm
về các tông giáo khác. Các thầy bảo với cảnh sát là hiện cô không có ở đây.
Nhưng các vị cảnh sát bảo là đã được lệnh khám xét kỹ lưỡng, Sau một hồi tìm
kiếm, họ phát giác được tử thi của tiểu ni Sundari chôn cất sơ sài trong đất tu
viện, không xa tịnh thất của Bụt là mấy.
Không ai
hiểu được tại sao cô Sundari chết và tại sao thi hài của cô lại bị chôn ở đất
tu viện. Sau khi cảnh sát đưa xác Sundari đi, Bụt bảo các thầy cứ đi khất thực
như thường lệ, người bảo:
- Quý vị
hãy hết lòng an trú trong chánh niệm.
Ngày hôm
đó, giáo phái của tiểu ni Sundari tổ chức rước thi hài cô đi ngang qua nhiều
đường phố để tụng niệm. Thỉnh thoảng họ dừng lại để khóc kể.
Quần
chúng thấy thế xúm lại gần. Họ phân bua:
- Bà con
cô bác có thấy không? Xác của tiểu ni Sundari đó! Họ chôn trong đất của tu viện
Jetavana! Bà con nghĩ có chán ngán không? Họ xưng là con cháu dòng họ Sakya, là
những người tu theo phạm hạnh; họ nói từ bi hỷ xả, thế mà họ hãm hiếp người ta
đến chết rồi chôn dấu người ta đi cho mất tích!
Bà con
cô bác nghĩ sao?
Dân
chúng ở Savatthi rất hoang mang. Ngay trong số những người đã được trực tiếp
biết Bụt và các vị khất sĩ mà cũng có người cảm thấy niềm tin lung lay. Những
người có tin vững chải nơi Bụt và nới các vị khất sĩ thì nghĩ rằng đây là một
vụ vu khống. Tuy nhiên họ cũng đau khổ không kém. Các giáo phái chống đối Bụt
nhân cơ hội này ráo riết tuyên truyền để triệt hạ uy tín của giáo đoàn khất sĩ.
Đến đâu cũng nghe người ta bàn tán về vụ này. Các vị khất sĩ tới đâu cũng bị
chất vấn ráo riết. Họ cố giữ thái độ trầm tĩnh và an trú trong chánh niệm như
Bụt đã căn dặn, nhưng đối với các vị khất sĩ mới tu và còn non yếu, việc đương
đầu với quần chúng trong vụ tiếng tăm này là một điều cực kỳ khó khăn. Họ cảm
thấy tủi hổ. Nhiều khi họ không muốn đi vào thành phố để khất thực nữa.
Bụt biết
được tâm trạng của các vị khất sĩ này. Một buổi chiều tại giảng đường, người
nói:
- Những
chuyện oan ức như thế này có thể xảy ra bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào. Quý vị
khất sĩ đừng cảm thấy tủi hổ. Quý vị chỉ nên cảm thấy tủi hổ khi mình không
sống đời sống phạm hạnh cho xứng đáng mà thôi. Nếu giới luật được nghiêm trì,
nếu đời sống phạm hạnh không có tỳ vết, thì không việc gì các thầy phải tủi hổ.
Dư luận phát sinh, dư luận tồn tại rồi dư luận sẽ tiêu diệt. Ngày mai đi khất
thực mà có người hỏi, quý vị cứ thẳng thắn trả lời: “Người nào gây nhân thì
người ấy sẽ chịu quả”. Và chỉ cần nói từng ấy thôi là đủ.
Nghe Bụt
nói thế, các thầy cảm thấy được an ủi rất nhiều.
Trong
khi đó nữ cư sĩ Visakha rất khổ đau. Bà có đức tin trọn vẹn nơi Bụt và nơi giáo
đoàn. Bà biết đây là một vụ vu khống để bôi nhọ Bụt và giáo đoàn khất sĩ. Ngay
từ hôm nghe được tin này, bà lập tức đi tìm cư sĩ Sudatta. Hai người đàm luận
rất lâu, và cuối cùng họ đồng ý là phải cho người đi bí mật dò la để tìm ra thủ
phạm của vụ bôi nhọ. Cư sĩ Sudatta đề nghị phải có người giả trang đi thám
thính ngay cả trong nội bộ giáo phái du sĩ của tiểu ni Sundari. Hai người đến
thăm thái tử Jeta để nhờ thái tử giúp một tay trong việc này.
Chỉ
trong vòng bảy hôm, thám tử đã tìm ra được thủ phạm giết người. Sau khi nhận
tiền thù lao, hai tên giết người này đã đi ăn nhậu với nhau để chia nhau số
tiền được thưởng. Trong cơn say họ đã cãi lộn với nhau và tiết lộ những điều bí
mật. Cảnh sát hoàng gia đã được phái tới bắt họ. Các thủ phạm đã thú nhận tất
cả tội lỗi và kể tên những vị lãnh đạo tôn giáo đã thuê họ giết cô Sundari và
chôn dấu tử thi cô gần tịnh thất của Bụt.
Vua
Pasenadi tới tu viện Jetavan thăm Bụt sau khi được báo cáo về tin này.
Vua tỏ ý
mừng cho Bụt và cho giáo đoàn vừa thoát được một tai nạn. Bụt cho vua biết là
hận thù và ganh ghét có thể làm cho con người mù quáng, và xin vua giảm tội cho
các phạm nhân. Người nói những vụ như thế này có thể xảy ra trong tương lai nếu
con người không vượt thắng được hận thù và ganh ghét.
Chỉ
trong vòng hai hôm sau là tất cả dân chúng trong thủ đô biết được sự thật về âm
mưu bôi nhọ Bụt và giáo đoàn khất sĩ. Dân chúng thủ đô bắt đầu nhìn các vị khất
sĩ trở lại bằng con mắt thán phục và nhiều kính nể.
---o0o---
Chương 55
ÁNH MAI VỪA TỎ RẠNG
Một hôm
Bụt và thầy Ananda đi thăm một tu viện nhỏ ở ngoại thành. Hai người tới tu viện
vào giờ các thầy đi khất thực vắng. Trong khi đi một vòng ở khuôn viên tu viện,
hai người nghe có tiếng rên là trong một am nhỏ. Bước vào am, Bụt thấy một vị
khất sĩ bị ốm đang nằm rên trong xó nhà. Trong am rất hôi hám, Bụt tiến tới
hỏi:
- Khất
sĩ, thầy bị đau ra sao?
- Thưa
Thế Tôn, con bị kiết.
- Không
có ai săn sóc cho thầy sao?
- Các
huynh đệ đi khất thực hết rồi có ai ở nhà đâu? Với lại ban đầu cũng có mấy
huynh đệ tới săn sóc, nhưng con thấy mình không làm được lợi ích gì cho các
huynh đệ mà cứ bắt các huynh đệ săn sóc cho mình thì tội chết, cho nên con nói
với các huynh đừng tới nữa.
Bụt bảo
thầy Ananda:
- Ananda,
đi kiếm ít nước, chúng ta sẽ rửa ráy cho thầy khất sĩ này.
Sau khi
Ananda đi lấy nước về, hai thầy trò tắm rửa và mặc áo sạch cho vị khất sĩ. Rồi
hai người đặt thầy lên giường. Xong xuôi, Bụt và Ananda đi quét rửa trong am
cho hết mùi hôi hám và đem áo quần ra giặt và phơi. Lúc ấy các vị khất sĩ đi
khất thực đã tuần tự trở về. Đại đức Ananda xin họ đi nấu nước sôi va kiếm
thuốc men cho thầy khất sĩ bị kiết.
Các vị
khất sĩ , vị khất sĩ ngoài tịnh thất kia đau bệnh gì vậy?
- Bạch
đức Thế Tôn, thầy ấy bị kiết.
- Có ai
săn sóc cho thầy ấy không?
- Bạch
đức Thế Tôn, ban đầu thì chúng con có săn sóc, nhưng sau đó thầy ấy ngại không
cho chúng con săn sóc nữa.
- Này
các vị khất sĩ! Chúng ta đã đi tu và chúng ta không còn được cha mẹ hoặc bà con
săn sóc cho chúng ta mỗi khi đau ốm như khi còn ở nhà nữa.
Vậy nếu
chúng ta không săn sóc cho nhau thì ai sẽ săn sóc cho chúng ta?
Chúng ta
phải săn sóc cho nhau, mỗi khi có ai bị đau ốm, dù người ấy là thầy hay bạn hay
học trò thì chúng ta cũng phải săn sóc tận tình cho đến khi người ấy bình phục
hoàn toàn. Này các vị khất sĩ! Nếu tôi bị đau ốm thì quý vị có săn sóc cho tôi
không?
- Bạch
đức Thế Tôn, chúng con chắc chắn sẽ săn sóc cho Thế Tôn.
- Vậy
thì từ nay, khi có vị nào bị ốm đau thì quý vị hãy săn sóc cho đến khi bình
phục. Săn sóc cho vị ấy tức là chăm sóc cho chính tôi vậy.
Các vị
khất sĩ có mặt đều chắp tay cúi đầu, vâng theo lời Bụt dạy.
Mùa hạ
năm sau, Bụt an cư tại tu viện Lộc Mẫu ở Savatthi. Năm nay tại Savatthi, ni sư
Mahapajapati cũng lãnh đạo một ni chúng đông đảo an cư tại tu viện của các vị
nữ khất sĩ. Phụ tá ni sư có ni sư Khema. Ni sư Khemma ngày xưa vốn là một vị
quý phi của vua Bimbisara nước Magadha. Cách đây hai mươi năm, bà đã được quy y
làm học trò tại gia của Bụt. Bà vốn là người thông minh, nhưng có tính tự hào,
nhờ được gặp Bụt và nghe Bụt thuyết pháp nên bà tỉnh ngộ và bắt đầu học phép
khiêm cung. Sau bốn năm tu học với tính cách một cư sĩ tại gia, bà đã xin Bụt
xuất gia và gia nhập ni chúng do ni sư Mahapajapati lãnh đạo. Bà tu học rất
tinh tiến, và trong những năm gần đây đã trở nên một trong những vị lãnh đạo
quan trọng của ni chúng. Nữ cư sĩ Visakha thường cùng các con đi cúng dường và
nghe pháp ở nữ tu viện này. Nam cư sĩ Sudatta cũng đã được bà mời nhiều lần tới
cúng dường và nghe pháp. Tại đây cư sĩ đã được gặp nữ khất sĩ Khema, nữ khất sĩ
Dhammadinna, nữ khất sĩ Utpalavanna và nữ khất sĩ Palacara. Bà Visakha được
biết tường tận về cuộc đời của các vị nữ khất sĩ này và bà đã kể cho ông
Sudatta nghe lại những điều bà biết.
Một hôm đến
ni viện với một người bạn nam giới cũng có tên là Visakha, cư sĩ Sudatta được
gặp nữ khất sĩ Dhammadinna. Vị nữ khất sĩ này là một trong những vị giảng sư
nổi tiếng nhất của ni viện. Hai người đã được học hỏi đạo lý với vị ni sư này.
Ni sư đã giảng giải cho cả hai vị cư sĩ rất rành rẽ về những yếu tố tạo nên con
người là năm uẩn, tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức, và về con đường của tám
sự hành trì chân chính gọi là bát chánh đạo.
Cư sĩ
Visakha rất ngạc nhiên khi thấy kiến thức thâm uyên của ni sư về đạo lý tỉnh
thức. Ông về tu viện Kỳ Thọ và đem tất cả những điều ni sư giảng dạy bạch lại
với Bụt, Bụt nói:
-
Visakha, nếu ông hỏi ta, thì ta cũng sẽ trả lời như nữ khất sĩ Dhammadinna
không khác. Ông nên biết là qua bài pháp mà ông được nghe, nữ khất sĩ
Dhammadinna đã nắm rất vững đạo pháp giải thoát và giác ngộ.
Nói
xong, Bụt quay lại đại đức Ananda và bảo:
-
Ananda, thầy nên trùng tuyên lại cho đại chúng nghe bài pháp của ni sư
Dhammadinna. Bài pháp này là một bài pháp quan trọng.
Bên cạnh
ni sư Dhammadinna, còn có ni sư Bhaddha Kapilani là một vị nữ khất sĩ cũng nổi
tiếng thông tuệ về giáo lý. Hai ni sư này thường được các giới cư sĩ thỉnh cầu
đến thuyết pháp tại nhiều địa điểm trong xứ.
Câu
chuyện về nữ khất sĩ Patacara là một câu chuyện rất thương tâm; Patacara là con
gái một người rất giàu có ở Savatthi. Bố mẹ của Patacara giữ con kỹ lắm, không
bao giờ cho con gái đi ra ngoài đường. Cả ngày Patacara bị nhốt trong nhà và vì
thế không được gặp ai. Đến tuổi dậy thì, cô đem lòng thương một người con trai
giúp việc trong nhà. Bố mẹ của cô hoàn toàn không hay biết gì về điều này. Họ
sắp đặt để gã cô cho một chành trai, con của một nhà phú hộ khác. Hoảng kinh,
cô bàn tính với người yêu bỏ nhà đi trốn. Rạng sáng ngày cưới, cô hóa trang làm
con ở đi gánh nước và thoát ra khỏi nhà. Qua bến đò, cô gặp người yêu. Hai
người đi trốn đến một nơi thật xa và cưới nhau. Ăn ở với nhau được ba năm thì
cô có mang. Gần đến ngày sinh con, cô đòi chồng đưa về nhà cha mẹ để sinh, theo
tục lệ xứ cô. Chồng cô sợ ông bà nhà phú hộ lắm, nhưng vì vợ cương quyết quá
nên anh bất đắc dĩ phải đưa vợ về. Nhưng khi về đến nửa đường thì cô lâm bồn và
sinh được một cháu bé con trai. Việc trở về nhà cha mẹ vì thế không còn cần
thiết nữa.
Hai vợ
chồng liền quay về nơi sinh sống cũ.
Hai năm
sau, cô lại có mang, và cô lại ép chồng đưa cô về quê để sinh đẻ.
Nhưng
lần này họ rủi ro quá. Giữa đường họ gặp một trận bão lớn. Cô lại muốn lâm bồn.
Người chồng bảo vợ ngồi xuống bên đường chờ đợi, để anh ta vào rừng đốn cây bẻ
lá về che thành một túp lều tạm, Patacara đợi mãi không thấy chồng về. Nửa đêm
cô sinh ra một đứa bé con trai, trong lúc trời vẫn mưa vẫn gió. Sáng hôm sau,
khi bão tạnh, Patacara tay ôm đứa be sơ sinh tay dắt đứa bé chưa đầy ba tuổi đi
vào rừng tìm chồng. Cô thấy chồng nằm chết trong rừng. Hôm qua trong khi đốn
củi, anh ta đã bị một con rắn độc cắn và nằm chết ngay tại chỗ, Patacara khóc
than thảm thiết, rồi cô ẵm dắt con ra đi, tìm về nhà cha mẹ. Cô đi mãi cho đến
khi gặp một dòng sông.
Mực nước
sông lên cao vì mưa gió đã kéo dài hơn một đêm một ngày.
Không
biết làm sao, cô mới đặn đứa con ba tuổi đứng chờ cô bên này sông để cô ẵm đứa
bé sơ sinh sang bên kia sông trước. Bằng hai tay, cô nâng đứa bé lên quá đầu và
lội qua sông. Tới giữa dòng, một con chim ưng sà xuống và cắp đứa bé bay đi.
Patacara hoảng hốt la lớn lên để con chim ưng sợ mà buông đứa bé. Ai ngờ tiếng
kêu của co vọng tới sang bờ phía sau, và em bé ba tuổi, tưởng mẹ gọi mình, vội
vã lội xuống nước chạy theo. Con chim ưng cắp đứa bé sơ sinh bay xa rồi, Patacara
không làm gì được nữa. Ngoái nhìn lại bờ bên nọ cô thấy đứa con trai ba tuổi
của cô đã lội xuống nước. Hoảng kinh, Patacara la lên và nhoài mình trở về bờ
bên nọ để cứu con, nhưng chậm mất rồi, đứa bé đã bị dòng nước cuốn đi mất.
Qua tới
bờ bên kia, Patcara kiệt sức. Cô không còn khóc được nữa. Cô nằm trên bờ sông
lâu lắm mới lấy lại được chút sức lực. Rồi cô tìm đường lần hồi về Savatthi.
Về tới
Savatthi cô được tin là ngôi nhà của cha mẹ cô đã bị trận bão ngày hôm kia xô
ngã và cả bố lẫn mẹ của cô đều bị đè chết trong ngôi nhà sụp đổ.
Ngày hôm
cô về tới là ngày người ta đưa xác ông bà lên giàn hỏa.
Chưa bao
giờ mà nhiều biến cố khổ đau dồn về một lúc trên một con người như thế. Patcara
ngã qụy bên lề đường. Cô không còn muốn sống nữa.
Những
người qua đường ghé lại thăm hỏi và đưa cô về tu viện Jetavana gặp Bụt. Bụt nhờ
các vị nữ cư sĩ đưa Patacara đi tắm rửa và lấy áo quần khô và sạch cho Patacara
mặc. Rồi người ngồi chăm chú nghe Patacara kể lại chuyện mình. Bụt an ủi:
- Con đã
gặp quá nhiều tai nạn và rủi ro. Nhưng cuộc đời không phải chỉ có khổ đau và
tai nạn. Con hãy học theo pháp giác ngộ để có thể mỉm cười với chính những khổ
đau của mình và để tạo an lạc cho hiện tại và cho tương lai.
Patacara
lạy Bụt xin quy y với người. Bụt cho vời ni sư Maha japati tới.
Người
gửi gắm Patacara cho ni sư. Chiều hôm đó, Patcara theo ni sư về ni viện. Sau
một thời gian tập sự, Patacara được thọ giới làm nữ khất sĩ.
Patacara
được ni trưởng và các ni sư trong viện thương yêu lắm. Sau mấy năm tu học,
Patacara đã tìm lại được nụ cười. Một hôm trong khi múc nước rửa chân, thấy
những dòng nước theo hai chân chảy xuống và thấm vào lòng đất, nữ khất sĩ
Patacara ngộ được lý vô thường. Suốt mấy đêm liền, cô thực tập thiền quán bằng
hình ảnh ấy. Một buổi sáng nọ, Patacara chứng nghiệm được nguyên tắc sinh diệt.
Cô đọc lên mấy câu thơ:
Hôm nọ
đang rửa chân Tôi thấy dòng nước chảy Nước thấm vào lòng đất Tôi hỏi: nước về
đâu?
Thiền
quán trong tĩnh lặng Tôi nắm giữ thân tâm Như một con tuấn mã Tôi quán sát lục
trần Ngồi nhìn ngọn đèn dầu Tôi đi vào phép quán Thời khắc trôi qua mau Lửa đèn
còn chiếu sáng Lấy cây tăm khêu bấc Tôi dìm bấc xuống dầu Ánh đèn bỗng phụt tắt
Tất cả chìm đêm sâu Ngọn lửa về Niết bàn Nhưng hồn tôi chợt sáng Tâm được cởi
trói rồi Ánh mai vừa tỏa rạng.
Nữ khất
sĩ Patacara được gặp ni trưởng Mahajapati sáng hôm ấy. Cô trình lên bà bài thơ
và rất được bà khen ngợi.
Nữ khất
sĩ Uppalavanna được xuất gia là nhờ công tiến dẫn của đại đức Moggallana. Vị ni
sư có dung quang rất mỹ lệ, dù bà đã cạo đầu mặc áo khất sĩ. Bà tu học tinh
tiến lắm và cũng là một trong những người phụ tá giỏi của ni trưởng Pajapati.
Một hôm
đi qua công viên thành phố, đại đức Moggallana gặp người thiếu phụ nhan sắc mặn
mà đang đứng chặn đường người. Đó là Uppalavanna, lúc ấy là một hoa khôi trong
giới thương nữ. Người đời gọi cô là Liên Hoa Sắc vì cô có sắc đẹp và sư tươi
mát của một bông hoa sen xanh. Đại đức Moggallana nhìn thẳng vào mặt người phụ
nữ này và biết ngay đây là một người mà tâm hồn chứa chất rất nhiều u uẩn khổ
đau. Đại đức nói:
- Cô có
hình dáng xinh đẹp, cô lại có bề ngoài trang phục lộng lẫy, nhưng tôi biết bên
trong cô là một người đầy khổ đau và mặc cảm. Nghiệp chướng cô nặng nề lắm và
cô đang càng ngày càng sa vào con đường lầy lội. Cô nên thức tỉnh càng sớm càng
hay.
Uppalavanna
hoảng kinh thấy vị khất sĩ nhìn thấu nội tâm mình, nhưng cô vẫn giữ vẻ bình
thản. Cô nói:
- Có thể
là đại đức nói đúng, nhưng tôi không có con đường nào khác hơn.
Thầy
Moggallana nói:
- Tại
sao cô lại bi quan như thế? Dù quá khứ có sao đi nữa, ta vẫn có thể chuyển
hướng và xây dựng cho tương lai. Áo quần dơ bẩn thì ta dùng nước sông để giặt
giũ. Thân thể dơ bẩn thì ta tắm gội. Tâm tư vẫn đục và chán chường thì ta lấy
nước giải thoát mà gạn lọc. Bụt dạy: ai cũng có khả năng tỉnh thức và thanh
tịnh hóa thân tâm của mình.
Uppalavanna
sa nước mắt:
- Nhưng
cuộc đời của con đầy dẫy tội lỗi, con sợ Bụt cũng không cứu được con nữa là đại
đức.
Vị khất
sĩ mỉm cười:
- Không
sao đâu, cô cứ kể tự sự cho tôi nghe đi.
Uppalavanna
thuật lại rằng nàng là con gái của một nhà triệu phú. Nàng lấy chồng năm mười
sáu tuổi. Sau ngày cha chồng nàng mất, mẹ chồng của nàng lại ăn nằm với chính
chồng của nàng. Lúc đó Uppalavanna đã sinh được một đứa con gái. Chứng kiến
cảnh loạn luân ấy, cô bỏ nhà ra đi, bỏ luôn đứa con gái lại. Mấy năm sau, cô
gặp một thương gia và được ông này cưới làm vợ. Một thời gian sau, cô nghe nói
chồng cô có mua về một nàng hầu và đem giấu diếm ở một ngôi nhà cách biệt ngoài
thành phố. Cô tìm đến đánh ghen thì phát giác ra rằng đó chính là con gái năm
xưa của cô.
Đau xót
vô cùng, cô đem lòng thù hận trời đất và con người. Cô không còn tin được ai và
thương được ai nữa. Cô theo nghề kỹ nữ. Cô chỉ cần tiền bạc, đồ trang sức và
một nếp sống vật chất dư dã. Nên cô đã có ý định chinh phục cả những vị khất
sĩ, đó là vì cô muốn trả thù con người và chửi thẳng vào mặt cái đạo đức giả
của con người.
Nói tới
đó, Liên Hoa Sắc úp mặt trong hai tay và khóc. Đợi Uppalavanna khóc cho thỏa
thuê xong, đại đức Moggallana mới bắt đầu dạy đạo cho cô.
Rồi thầy
đưa cô về gặp Bụt. Bụt an ủi Uppalavanna và cho phép cô đi về ni viện tập sự tu
học dưới sự hướng dẫn của ni sư Gotami. Chỉ trong vòng bốn năm, Uppalavanna đã trở
nên một vị ni sư gương mẫu.
---o0o---
Chương 56
TRÙNG SINH ÂN NẶNG
Thỉnh
thoảng Bụt hoặc các vị đệ tử lớn của người lại tới thăm và nói pháp thoại tại
ni viện. Mỗi tháng một lần các vị nữ khất sĩ cũng được tới nghe pháp ở tu viện
Jetavana hoặc ở giảng đường Lộc Mẫu. Năm nay theo lời yêu cầu của đại đức
Sariputta, Bụt cho kéo dài mùa an cư thêm một tháng. Lễ tự tứ sẽ được cử hành
vào ngày trăng tròn tháng Kattika, thay vì vào ngày trăng tròn tháng Assayuja
như những năm khác. Ý của đại đức Sariputta là nếu Bụt kéo dài mùa an cư thêm
một tháng thì các vị khất sĩ và nữ khất sĩ đang an cư tại các trung tâm tu học
khác trong nước và ở các nước lân cận, sau khi làm lễ tự tứ cuối ba tháng an cư
của họ, có thể tìm về Savatthi để được gặp Bụt.
Tin Bụt
sẽ kéo dài mùa an cư năm nay thêm một tháng đã được chuyền đi các nơi rất mau
chóng, vì vậy sau lễ tự tứ các thầy và các ni cô từ các địa phương lục tục tìm
về thăm Bụt rất đông. Các vị thí chủ lớn như Sudatta, Visakha và Malika đã tìm
mọi cách để cung cấp phương tiện cư trú và thực phẩm cho cả ngàn vị khách tăng
từ các nơi dồn đến. Vào cuối tháng Kattika, số lượng các vị khất sĩ và nữ khất
sĩ tại thủ đô Savatthi đã lên tới ba ngàn vị.
Thấm
thoát mà ngày trăng tròn tháng Kattika đã đến. Hoa Kumudi nở rộ khắp nơi,
Kumudi là một thứ sen trắng thường hay nở rộ vào tiết này nên ngày trăng tròn
tháng Kattika cũng được gọi là ngày hoa Kumudi.
Đêm ấy
trăng sáng vằng vặc. Bụt ngồi ở ngoài trời, có cả ba ngàn vị đệ tử xuất gia.
Hương sen từ hồ bay lên thoang thoảng. Mấy ngàn vị khất sĩ ngồi bao quanh Bụt
im lặng. Người nói người rất bằng lòng thấy được thực chất của sự tu học nơi
các vị khất sĩ và nữ khất sĩ. Rồi nhân cơ hội này, người nói Kinh Quán Niệm Hơi
Thở.
Đúng ra
thì vị khất sĩ nào cũng đã được học về phép quán niệm hơi thở, và Bụt đã nhiều
lần dạy về pháp môn này, nhưng đây là lần đầu mà đa số các vị xuất gia có mặt
được nghe Bụt giảng dạy trực tiếp về phép quán niệm hơi thở. Đây cũng là lần
đầu Bụt tổng hợp những điều đã từng dạy về pháp môn này và đúc kết lại trong
một bài giảng. Biết trước rằng kinh này sẽ phải được trùng tuyên để tất cả học
thuộc mà hành trì, đại đức Ananda lắng nghe và ghi nhận tất cả những tiếng và
những lời Bụt dạy.
Có mặt
trong buổi tụ họp hôm nay có cả ni sư Yasodhara mẹ của đại đức Rahula và ni sư
Sundari Nanda cô của đại đức và là em gái của Bụt. Hai vị này đã xuất gia dưới
sự hướng dẫn của ni sư Gotami và trong những năm qua đã tu học tại một ni viện
miền ngoại ô phía Bắc thành Kapilavatthu; ni viện này cũng đã do ni sư Gotami
sáng lập. Sáu tháng sau khi bà Pajapati được xuất gia, Yasodhara đã xin được
xuất gia và gia nhập vào ni chúng.
Chỉ
trong trong vòng một năm, ni sư Yasodhara đã trở nên một vị phụ tá đắc lực cho
ni sư Gotami. Từ những năm Bụt bắt đầu an cư tại tu viện Cấp Cô Độc, ni chúng
đã tổ chức an cư ở thủ đô Savatthi để được thừa hưởng sự giáo huấn của Bụt và
của các vị đại đệ tử. Hoàng hậu Malika và nữ cư sĩ Visakha đã tận lực ủng hộ ni
chúng trong việc thành lập tu viện cho phái nữ.
Hai năm
đầu, ni chúng được phép sử dụng vườn thượng uyển để làm trung tâm an cư. Đến
năm thứ ba họ mới lập được tu viện riêng biệt. Biết mình tuổi đã cao, ni sư
Gotami nổ lực đào luyện những vị lãnh đạo ni chúng trong giới những ni sư trẻ
tuổi. Ni sư Yasodhara là một trong những vị lãnh đạo ni chúng xuất sắc. Cũng
xuất gia một lượt với bà, còn có các ni sư Sela, Vimala, Soma. Mutta và
Nanduttara. Tất cả các vị ấy đều có mặt hôm nay tại tu viện Lộc Mẫu. Đại đức
Rahula đã giới thiệu ni sư Yasodhara và ni sư Sundari Nanda với đại đức
Svastika. Đại đức Svastika rất kính mến hai người này; đại đức đã từng được
nghe bạn nói nhiều về họ.
Bụt dạy:
- Này các
vị khất sĩ, phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục,
sẽ đem lại những thành quả lớn. Do quán niệm hơi thở qúy vị có thể thành tựu
phép quán Tứ Niệm Xứ và phép quán Thất Giác Chi, tức là bảy yếu tố giác ngộ, và
đạt tới trí tuệ và giải thoát.
Hơi thở
thứ nhất: thở vào một hơi dài, ta biết ta đang thở vào một hơi dài.
Thở ra
một hơi dài, ta biết ta đang thở ra một hơi dài.
Hơi thở
thứ hai: thở vào một hơi ngắn, ta biết ta đang thở vào một hơi ngắn.
Thở ra
một hơi ngắn, ta biết ta đang thở ra một hơi ngắn.
Hai hơi
thở này nhằm mục đích cắt ngang những thất niệm và suy tư vẫn vơ vô ích, đồng
thời làm phát khởi chánh niệm và tiếp xúc được với sự sống trong giờ phút hiện
tại. Thất niệm là sự quên lãng, là sự vắng mặt của chánh niệm. Hơi thở có ý
thức đưa ta trở về với ta và với sự sống.
Hơi thở
thứ ba: ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta. Ta đang thở ra và có ý
thức về toàn thân ta.
Hơi thở
này là để quán niệm về thân thể và để tiếp xúc với thân thể của chính mình. Ý
thức về thân thể như một tổng thể và ý thức về các bộ phận trong cơ thể để thấy
được những mầu nhiệm về sự có mặt và về quá trình sinh diệt của thân thể.
Hơi thở
thứ tư: ta đang thở vào và làm cho toàn thân ta an tịnh. Ta đang thở ra và làm
cho toàn thân ta an tịnh.
Hơi thở
này là để thực hiện sự an tịnh trong cơ thể và cũng là để đạt tới trạng thái
thân tâm nhất như trong đó thân tâm và hơi thở trở nên một hợp thể mầu nhiệm.
Hơi thở
thứ năm: ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui. Ta đang thở ra và cảm thấy mừng
vui.
Hơi thở
thứ sáu: ta đang thở vào và cảm thấy an lạc. Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc.
Với hai
hơi thở này hành giả đi sang lãnh vực cảm thọ. Hai hơi thở này tạo ra sự an lạc
cho thân tâm để nuôi dưỡng thân tâm. Nhờ chấm dứt vọng tưởng và quên lãng, hành
giả trở về với bản thân, tỉnh thức trong giây phút hiện tại, cho nên niềm vui
mừng và sự an lạc phát sinh. Hành giả an trú trong sự sống mầu nhiệm và được
nềm sự tịnh lạc của chánh niệm. Nhờ tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm, hành giả
biến những cảm thọ không khổ không vui (gọi là xả thọ) thành những lạc thọ. Hai
hơi thở này đem tới những lạc thọ ấy.
Hơi thở
thứ bảy: ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Ta
đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta an tịnh.
Hơi thở
thứ tám: ta đang thở vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta an tịnh. Ta
đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta an tịnh.
Hai hơi
thở này là để quán chiếu, tất cả những cảm thọ đang xảy ra trong ta, dù đó là
lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ; và để làm cho an tịnh những cảm thọ ấy. Những hoạt
động tâm ý tức là những cảm thọ. Có ý thức về những cảm thọ và quán chiếu về
gốc rễ và bản chất của những cảm thọ ấy, ta điều phục được chúng và làm cho
chúng trở nên an tịnh, dù đó là những khổ thọ từ tham dục, giận hờn và ganh
ghét phát sinh.
Hơi thở
thứ chín: ta đang thở vào và có ý thức về tâm ý ta. Ta đang thở ra và có ý thức
về tâm ý ta.
Hơi thở
thứ mười: ta đang thở vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc. Ta đang thở ra và làm
cho tâm ý ta hoan lạc.
Hơi thở
thứ mười một: ta đang thở vào và thu nhiếp tâm ta vào định. Ta đang thở ra và
thu nhiếp tâm ta vào định.
Hơi thở
thứ mười hai: ta đang thở vào và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do. Ta
đang thở ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do.
Với bốn
hơi thở này hành giả đi sang lãnh vực thứ ba là tâm ý. Hơi thở thứ chín nhằm nhận
diện tất cả những hoạt động của tâm ý như tri giác, tư duy, phân biệt, vui,
buồn, nghi kỵ v.v... Nhận diện để thấy được sự vận hành của những hoạt động tâm
ý, và khi đã nhận diện rồi, hành giả thu nhiếp tâm ý, làm cho tâm ý lắng lại và
cảm thấy an lạc trong trạng thái tâm ý lắng đọng này. Đó là tác dụng của hơi
thở thứ mười và thứ mười một. Hơi thở thứ mười hai nhằm tháo gỡ những chỗ kẹt
của tâm ý. Nhờ quán chiếu mà ta thấy được nguồn gốc của tâm ý và do đó ta tháo
gỡ được những chỗ kẹt ấy.
Hơi thở
thứ mười ba: ta đang thở vào và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp. Ta đang
thở ra và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp.
Hơi thở
thứ mười bốn: ta đang thở vào và quán chiếu về giải thoát. Ta đang thở ra và
quán chiếu về giải thoát.
Hơi thở
thứ mười sáu: ta đang thở vào và quán chiếu về sự buông bỏ. Ta đang thở ra và
quán chiếu về sự buông bỏ.
Với bốn
hơi thở này, người hành giả bước sang lãnh vực đối tượng của tâm thức, và chú
tâm quán sát thực tướng của vạn pháp. Trước hết là quán về tự tính vô thường
của vạn pháp. Vì vô thường cho nên tất cả sẽ đi đến tàn hoại.
Biết rõ
tướng trạng vô thường là tàn hoại của vạn pháp, hành giả không còn bị những
sinh diệt thành hoại của vạn pháp trói buộc nữa, do đó hành giả có thể buông bỏ
và đi đến giải thoát. Buông bỏ không có nghĩa là ghét bỏ và chạy trốn. Buông bỏ
có nghĩa là buông bỏ sự vướng mắc và đam mê, không bị ràng buộc và khổ đau vì
sanh diệt thành hoại của của các pháp nữa. Một khi đạt được giải thoát và buông
bỏ, hành giả sống an lạc trong cuộc đời mà không có gì trong cuộc đời có thể
ràng buộc hành giả.
Bụt đã
dạy phép hành trì mười sáu hơi thở trong quá trình quán chiếu thân thể, cảm
thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Người còn dạy áp dụng mười sáu hơi thở này trong
công phu tu tập bảy yếu tố giác ngộ là chánh niệm, quyết trạch về vạn pháp,
tinh tiến, hỷ lạc, khinh an, định và hành xả. Bảy pháp này được gọi là Thất
Giác Chi.
Đại đức
Svastika đã từng được nghe Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm. Bây giờ đại đức lại
được nghe Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Đại đức nhận thấy rằng nhờ Kinh Quán Niệm Hơi
Thở này mà đại đức hiểu được Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm một cách sâu sắc hơn.
Hai kinh này, theo đại đức, có thể bổ túc cho nhau, và theo đại đức, đây là
những kinh căn bản nhất của công trình thiền tập.
Gần ba
ngàn vị khất sĩ và nữ khất sĩ đêm ấy được nghe kinh này đều lấy làm sung sướng.
Đại đức Svastika thầm cám ơn đại đức Sariputta đã sắp đặt để có được buổi tụ
tập trong đêm trăng mầu nhiệm này.
Một hôm
đại đức Ahimsaka đi khất thực về tới tu viện, bước đi khập khiểng và mặt mũi
đầy cả máu me. Svastika trông thấy liền chạy tới đỡ đại đức. Đại đức Ahimsaka
nhờ thầy đưa vào yết kiến Bụt. Hôm nay trong khi đi khất thực ở thành phố, đại
đức bị một nhóm người nhận ra đại đức chính là Angulimala ngày xưa. Họ đã đến
vây quanh và tấn công đại đức. Ahimsaka chắp hai tay thành búp sen, tuyệt đối
không chống trả, để cho họ tha hồ đánh đạp, nhóm người ấy đã đánh đại đức trẹo
cả chân và hộc cả máu mồm máu mũi.
Thấy
Ahimsaka trong tình huống ấy, Bụt liền đi ngay ra đỡ thầy. Người bảo Ananda đi
lấy một chậu nước và một chiếc khăn mặt để người lau máu cho thầy, và người bảo
Svastika đi hái lá dâu để dịt vào những vết thương trên cơ thể thầy.
Đại đức
Ahimsak không hề rên rỉ, dù thầy đau lắm. Bụt nói:
- Hãy cố
gắng chịu đựng đi Ahimsaka! Những đau khổ hôm nay có thể rửa sạch được những đau
khổ của ngày qua. Chịu đựng khổ đau trong tình thương và trong tỉnh thức là một
thứ tịnh thủy mầu nhiệm có thể xoá bỏ tất cả oán thù trong muôn kiếp.
Bụt nói:
-
Ahimsaka, áo ca sa của thầy đã bị xé rách tả tơi, còn bình bát của thầy đâu?
- Bạch
đức Thế Tôn, họ đã đập vỡ bình bát của con ra hàng trăm mảnh rồi.
Bụt nói:
- Thôi
để tôi nhờ thầy Ananda đi tìm cho thầy một chiếc y sanghati khác và một cái
bình bát khác.
Vừa dịt
thuốc dấu vào những vết thương của thầy Ahimsaka, Svastika vừa thấy rằng đây là
một tâm gương toàn vẹn của tinh thần bất bạo động. Thầy Ahimsaka kể cho
Svastika nghe rằng trước đây một hôm đang đi khất thực thầy gặp một thiếu phụ
nghèo đang lâm bồn ngay dưới một cội cây ở chốn lâm viên. Thiếu phụ đau đớn vô
cùng mà vẫn không sinh nở được. Đại đức xúc động la lên: khổ quá! khổ quá! Và
chạy nhanh về báo cáo với Bụt. Bụt nói:
- Thầy
hãy chạy ngay tới thiếu phụ và chú nguyện cho người đàn bà ấy.
Thầy
nói: “Này cô, từ ngày sinh ra cho đến nay, tôi chưa từng có cố ý phạm đến sinh
mạng của một loài nào. Nguyện rằng nhờ sự thật ấy mà cô sinh cháu được bình
an”.
Ahimsaka
la lên:
- Con
nói như thế là nói dối! Sự thật là con đã cố ý phạm đến sinh mạng của nhiều
người từ khi con sinh ra.
Bụt bảo:
- Vậy
thì thầy nói: “Này cô, từ ngay tôi được sinh ra trong giáo pháp giác ngộ, tôi
chưa bao giờ cố ý phạm đến sinh mạng của loài nào. Nguyện rằng nhờ sự thực ấy
mà cô sinh cháu được bình an”.
Lập tức
thầy Ahimsaka chạy về khu lâm viên và nói với người thiếu phụ đúng theo lời Bụt
chỉ dạy. Chỉ một vài phút sau đó, thiếu phụ sinh được em bé bình an.
Từ ngày
ấy về sau, công phu tu học của thầy Ahimsaka càng ngày càng tinh tiến. Thầy
được Bụt khen ngợi. Cho đến ngày hôm nay ...
---o0o---
Chương 57
CHIẾC BÈ ĐƯA NGƯỜI
Mùa Đông
năm ấy trong khi Bụt nhập thất gần giảng đường Trùng Các ở Vesali, có mấy vị
khất sĩ rủ nhau tự sát ngay trong tu viện. Sau thời hạn nhập thất Bụt được báo
tin náy. Người hỏi nguyên do, Các thầy trả lời là các vị khất sĩ ấy vi quán sát
tính vô thường và tàn hoại của thân thể cho nên đã sinh lòng chán ghét thân thể
và không muốn sống nữa. Bụt cho triệu tập tất cả các vị khất sĩ trong tu viện
lại. Người nói:
- Các vị
khất sĩ, quán vô thường là để thấy được tự tính chân thực của vạn pháp và đừng
bị vạn pháp thao túng và làm cho khổ đau. Quán tính tàn hoại của thân thể cũng
có mục đích ấy. Người ta không đạt tới giải thoát và tự do bằng các trốn chạy
vạn pháp. Người ta chỉ đạt tới giải thoát và và tự do bằng cách thấy được thực
tính của vạn pháp. Có một vài người trong quý vị đã không hiểu được đều đó và
đã tìm con đường dại dột của sự trốn chạy và đã phạm vào giới sát.
Này các
vị! Người giải thoát là người không kẹt vào sự tham đắm mà cũng không kẹt vào
vào chán ghét. Tham đắm và chán ghét đều là những sợi giây ràng buộc. Người tự
do là người vượt thoát cả tham đắm lẫn chán ghét. Do sự vượt thoát đó, người ấy
an trú trong tịnh lạc. Niềm hạnh phúc của người đó không thể nào đo lường được.
Những cố chấp về vô thường và vô ngã cũng không có mặt nơi người ấy. Này các vị
khất sĩ! Các vị hãy học và hành theo giáo lý tôi dạy một cách thông minh và
trong tinh thần phá chấp.
Về lại
Savatthi, Bụt lại có dịp đạy các vị khất sĩ thêm về vấn đề phá chấp.
Tại
Savatthi có một vị khất sĩ tên là Arittha cũng đã vì không hiểu được chân ý của
lời Bụt dạy mà bị kẹt vào những cố chấp.
Trước
đại chúng các vị khất sĩ tại tu viện Jetavana. Bụt dạy:
“Hiểu
giáo pháp một cách sai lạc, người ta có thể đi vào cố chấp, từ cố chấp người ta
đi sâu vào sai lầm, gây đau khổ cho mình và cho người.
Này các
vị! Hãy nghe, hiểu và hành giáo pháp một cách thông minh. Như thế giáo pháp mới
đưa đến một lợi ích thiết thực. Một người bắt rắn giỏi biết cách dùng một cái
cây có nạng và chận vào phía cổ của con rắn và cuối cùng nắm bắt được rắn ở chỗ
cổ của nó. Nếu không biết bắt rắn mà nắm lấy rắn ở lưng hay ở đuôi thì người có
thể bị rắn quay lại cắn tay. Học hỏi giáo lý, cũng phải học hỏi thông minh như
là bắt rắn vậy.
Này các
vị! Giáo lý là phương tiện chỉ bày chân lý, đừng chấp phương tiện là chân lý.
Ngón tay chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng. Không có ngón tay ấy thì quý vị
không biết hướng của mặt trăng, nhưng nếu quý vị nhận lầm ngón tay là mặt
trăng, thì vĩnh viễn quý vị không thấy được mặt trăng.
Giáo lý
là chiếc bè đưa người sang sông. Chiếc bè rất cần thiết, nhưng chiếc bè không
phải là bờ bên kia. Một người thông minh khi sang tới bờ bên kia rồi không bao
giờ dại dột đội chiếc bè lên đầu mà đi. Này quý vị! Giáo pháp tôi dạy là chiếc
bè đưa quý vị vượt qua bờ sinh tử. Quý vị phải sử dụng chiếc bè để qua bờ sinh
tử mà không nên nắm giữ chiếc bè. Quý vị cần hiểu rõ ví dụ này để đừng bị kẹt
vào giáo pháp, để có khả năng buông bỏ được giáo pháp. Này quý vị! Giáo pháp
còn cần được buông, huống hồ là giáo pháp hiểu sai. Giáo pháp hiểu sai không
phải là giáo pháp.
Này quý
vị, tất cả những giáo pháp mà quý vị đã học như tứ diệu đế, bát chánh đạo, tứ
niệm xứ, thất giác chi, vô thường, vô ngã, khổ, không, vô tướng, vô tác ... tất
cả những giáo pháp quý vị phải học hỏi và thực tập một cách thông minh và khôn
khéo. Hãy sử dụng những giáo pháp ấy để đi tới giải thoát, nhưng đừng bị kẹt
vào những giáo pháp ấy”.
Trung
tâm tu học của ni chúng tại Savatthi đã có đến năm trăm vị nữ khất sĩ.
Trung
tâm này thường thỉnh Bụt và các vị cao đức từ Jetavana tới giảng dạy.
Đại đức
Ananda được Bụt giao cho trách nhiệm công cử các vị giảng sư cho ni chúng. Một
hôm đại đức đề cử đại đức Bhanda. Đại đức Bhanda là người có thật tu, có chứng
đắc, nhưng đại đức không rành về chuyện diễn giảng, nhưng đã được chỉ định, đại
đức phải vâng lời. Ngày hôm sau, sau khi đi khất thực, đại đức ghé vào một cụm
rừng để thọ trai. Thọ trai xong, đại đức đi về phía nữ tu viện. Đại đức được
các ni sư đón tiếp niềm nở. Ni sư Gotami thỉnh đại đức lên pháp tọa.
Lên pháp
tọa, đại đức Bhanda chỉ đọc vỏn vẹn một bài kệ:
An trú
trong tĩnh mặc Thấy Pháp, trở về nguồn Không hận thù bạo động Niềm an lạc trào
tuôn Điều phục được kiêu mạn Sống an hòa chân thật Vượt ra ngoài ái nhiễm Là
niềm vui lớn nhất.
Đọc xong
bài kệ, đại đức im lặng đi vào đại định. Bài thuyết pháp của đại đức chỉ có mấy
chục tiếng nhưng đạo phong của đại đức Bhanda đã làm cho các ni sư hoan hỷ. Một
số các vị ni sư còn trẻ thấy bài thuyết pháp ngắn quá, liền bạch với vi sư
Gotami xin đại đức nói thêm. Ni sư Gotami chiều họ, tiến lên làm lễ đại đức
Bhanda và chuyển lời thỉnh cầu của các ni sư trẻ. Nhưng đại đức chỉ lập lại một
lần nữa bài kệ trên rồi bước xuống pháp tọa.
Câu
chuyện này mấy hôm sau được trình lên Bụt. Có vị đề nghị là nếu cần cử vị giảng
sư cho ni chúng thì nên cử những vị có biện tài nhiều hơn đại đức Bhanda. Bụt
dạy: thực chứng là điều căn bản nhất. Vị giảng sư có thể ít dạy bằng lời nhưng
dạy nhiều bằng đạo phong của mình, và người căn dặn là vị giảng sư cho ni chúng
phải được công cử bởi đại chúng.
Một buổi
trưa đi khất thực về, Bụt không thấy Ananda đâu cả. Người hỏi đại đức Rahula
xem thầy có biết thầy Ananda ở đâu không. Rahula trả lời là không biết. Một vị
khất sĩ cho biết là thầy thấy thầy Ananda đi khất thực ở một xóm nghèo trong
giới những người hạ tiện không giai cấp. Thầy lại nói lâu nay thầy vẫn thấy đại
đức Ananda lui tới xóm ấy để khất thực. Nghe nói thế, Bụt nhờ vị khất sĩ này đi
tìm thầy Ananda.
Vị đại
đức đi hỏi thăm và tìm được thầy Ananda về. Đại đức cũng đem về theo những vị
thí chủ của thầy Ananda. Đó là cô Prakriti và bà mẹ của cô.
Thầy
Ananda đã được mời lại thọ trai tại nhà này, và hai mẹ con đã tìm cách lưu thầy
ở lại. Bà mẹ của Prakriti đã cho thầy uống một thứ nước lá cây lạ khiến đầu óc
thầy choáng váng, tay chân thầy như bủn rủn và thầy không còn đủ sức đứng dậy
ra về nữa.
Lúc ấy
Bụt đang nói pháp thoại cho các vị khất sĩ. Đại đức Ananda thuật lại cho Bụt
nghe là cô Prakriti đã đem lòng thương đại đức, và đại đức đã tìm mọi các giảng
giải để cô từ bỏ mối tình tuyệt vọng đó đi, nhưng đại đức chưa thành công. Đại
đức cầu xin Bụt giúp đỡ đại đức.
Theo
thầy Ananda kể thì một hôm trên đường đi khất thực về, cảm thấy khát nước, thầy
đã ghé vào một cái giếng trong xóm để giải khát. Hôm ấy chỉ có một mình cô
Prakriti đang múc nước ngoài giếng. Prakriti tuy là một cô gái thuộc dòng hạ
tiện, nhưng nhan sắc rất mặn mà. Thầy Ananda ngỏ ý xin cô nước uống. Cô không
dám đứa nước cho thầy, nói rằng cô thuộc về ngoại cấp, không có quyền cúng
dường nước cho thầy, sợ làm ô uế thầy. Ananda bảo:
- Tôi
đâu cần xin địa vị hay giai cấp trong xã hội. Tôi chỉ cần xin nước uống thôi.
Cô cứ cho tôi uống nước đi, đừng sợ.
Prakriti
liền đưa nước cho thầy Ananda uống. Cô chưa thấy một người đàn ông nào đẹp
trai, hiền hậu và ăn nói dịu dàng như thầy. Từ giờ phút đó cô đem lòng thương
thầy. Tối đến cô không ngủ được, cứ nằm nghĩ đến thầy.
Cô
thường ra giếng nước ngồi đợi hàng giờ, mong mỏi được gặp thầy cho đỡ bớt nổi
nhớ niềm thương.
Prakriti
đã từng bàn với mẹ mời thầy Ananda về nhà thọ trai mấy lần. Thầy đã nhận lời
tới thọ trai tại đây hai lần, nhưng sau đó thấy được niềm đam mê của cô nên
thầy đã tránh và đã từ chối. Cô Prakriti đau khổ vì tình, người cô càng ngày
càng ốm xanh đi. Bà mẹ hỏi mãi, cô mới thú thật là cô yêu thầy Ananda và muốn
thầy Ananda ra đời để cưới cô. Bà mẹ la cô, mói đó chỉ là cuồng vọng, nhưng cô
nhất quyết nói rằng nếu không lấy được thầy Ananda thì cô sẽ chết. Cuối cùng bà
mẹ của cô, vốn thuộc về dòng Matanga có biết ít nhiều về bùa chú và ma thuật,
đã tìm cách cho thầy uống nước một thứ là lạ để cho thầy mất minh mẫn mà đáp
lại mối tình nồng nhiệt của con gái mình.
Sáng hôm
nay bà đã đón đường thầy, và cầu khẩn thầy ghé nhà thọ trai một lần chót. Thầy
đinh ninh hôm nay sẽ có cơ hội giảng rõ cho hai mẹ con về đạo lý để họ buông bỏ
thầy, nhưng chưa kịp làm việc ấy thì thầy đã uống nhằm thứ nước trà quái đản
kia. Uống xong thầy biết ngay là mình cần phải ngồi lại để thực hành phép quán
niệm hơi thở. Thầy ngồi yên trong tư thế kiết già như thế rất lâu, dùng khí
công để giải tỏa chất ma tuý cho đến khi được Bụt phái người đến triệu về.
Bụt gọi
Prakriti tới gần. Người hỏi, giọng rất hiền lành:
- Con
thương thầy Ananda lắm phải không?
Prakriti
bạch:
- Con
thương thầy Ananda lắm.
- Con
thương cái gì nơi thầy Ananda? Con thương hai mắt, cái mũi hay là cái miệng của
thầy?
- Con
thưong hết những gì nơi thầy Ananda. Mắt con cũng thương, mũi con cũng thưong,
miệng con cũng thương, giọng nói con cũng thương, dáng đi con cũng thương. Bạch
sa môn, con thương hết tất cả những gì nơi thầy ấy.
- Ngoài
hai con mắt, cái mũi, cái miệng, giọng nói, dáng đi và cái nhìn, thầy Ananda có
nhiều cái đẹp khác mà ta nghĩ là con chưa biết và con chưa thương.
- Bạch
sa môn, ví dụ như cái gì?
- Ví dụ
như lòng thương của thầy Ananda, con có biết thầy Ananda thương gì không?
- Con
không biết. Con chỉ biết là thầy Ananda không thương con.
- Con
lầm rồi. Thầy Ananda có thương con, nhưng không thương theo kiểu con muốn thầy
Ananda thương. Con biết không, thầy Ananda thương cuộc sống giải thoát, tự do
và an lạc. Do sự giải thoát và tự do mà thầy Ananda thường mỉm cười và thầy
thương được mọi người và mọi loài, và thầy muốn đem đạo lý giải thoát để dạy
cho mọi người, để mọi người có thể có tự do và an lạc như thầy. Thầy Ananda
thương lý tưởng giải thoát của thầy, thầy ấy cũng thương mọi người và mọi loài,
vì tình thương ấy đi đôi với giáo pháp giác ngộ và giải thoát cho nên thầy
Ananda tuy thương mà không bị sầu khổ và thất vọng như con thương. Nếu con thật
sự thương thầy Ananda, thì con cũng thương cái tình thương ấy của thầy, để cho
thầy có thể tiếp tục sống đời sống phạm hạnh giải thoát và tiếp tục soi sáng
được cho mọi người. Nếu con biết thương như thế thì con đâu có bị sầu khổ và
thất vọng. Sở dĩ con thất vọng và sầu khổ vì con chỉ muốn chiếm thầy Ananda cho
riêng một mình con. Tình thương ấy ích kỷ. Con phải học thương như thầy Ananda
thương mới được.
Prakriti
ngước lên nhìn Bụt:
- Bạch
sa môn, con phải học thương như thế nào?
- Thương
như thế nào để con có hạnh phúc mà thầy Ananda cũng có hạnh phúc. Thầy Ananda
như một cơn gió mát. Nếu con cố ý nhốt cơn gió mát ấy lại trong cái ngục tù của
tình thương nhỏ bé thì cơn gió mát ấy sẽ chết và không ai được hưởng sự mát mẻ
của nó, trong đó có cả con. Vậy con thương một ngọn gió mát như thế nào thì con
cũng thương thầy Ananda như thế đó.
Prakriti,
nếu con biết thương thì chính con, con cũng có thể trở thành một cơn gió mát.
Làm dịu đi nổi nóng bức của bao nhiêu người.
- Bạch
sa môn, xin người chỉ dạy cho con.
- Con có
thể làm như đại đức Ananda, con có thể sống cuộc sống giải thoát an lạc như
thầy và con cũng có thể đem niềm vui tới cho mọi người như thầy. Con có thể
xuất gia tu học như thầy Ananda.
- Thật
như thế hả, bạch sa môn? Con có thể đi xuất gia hả? Con là người hạ tiện, không
có giai cấp ...
- Điều
đó, ở trong giáo đoàn khất sĩ không có ai nghĩ tới cả. Trong giáo đoàn ta, có
những vị khất sĩ xuất thân từ giới ngoại cấp. Đại đức Sunita mà quốc vương
Panesadi rất trọng vọng đó là một người xuất thân từ giới ngoại cấp.
Nếu con
xuất gia tu học thì con sẽ là vị nữ khất sĩ đầu tiên xuất thân từ giới không có
giai cấp. Nếu con bằng lòng, ta sẽ nhờ ni sư Khema làm lễ thế phát cho con.
Prakriti
sung sướng lạy xuống. Cô cầu Bụt cho cô được xuất gia tu học. Bụt phú thác
Prakriti cho ni sư Khema, hôm ấy cũng có mặt trong buổi pháp thoại.
Ni sư
Khema đưa Prakritit đi rồi. Bụt nhìn Ananda rồi bảo đại chúng:
- Các vị
khất sĩ, giới thể của thầy Ananda còn nguyên vẹn, nhưng tôi muốn các vị cẩn
thận hơn trong lúc giao tiếp. Nếu chúng ta luôn an trú trong chánh niệm thì
chúng ta có thể thấy được rất sớm những gì đã và đang xảy ra trong ta và chung
quanh ta. Nếu thấy được sớm, ta sẽ sớm có những biện pháp để đối trị và tiếp xử
với hoàn cảnh. Trường hợp của Ananda chỉ là trường hợp của định lực còn non
yếu. Thực hiện chánh niệm trong từng giây phút của đời sống hàng ngày đó là
phương cách nuôi dưỡng định lực hay nhất. Một khi định lực đã vững mạnh thì cái
thấy của ta sẽ sáng và hành động của ta sẽ kịp thời. Định và tuệ đi với nhau,
định và tuệ bao hàm nhau, định và tuệ là một.
Các vị
khất sĩ! Đối với giới phụ nữ, các vị nên tạp quán sát như sau. Với những người
lớn tuổi, ta xem họ như mẹ, hoặc như chị của chính ta, với những người nhỏ tuổi
hơn, ta xem họ như em hoặc như con của chính ta.
Những vị
khất sĩ còn nhỏ tuổi mới bước vào đường đạo nên cẩn thận hơn nữa trong lúc tiếp
xử với phụ nữ. Sự dịu dàng của người phụ nữ có thể đưa đến những trở ngại của
sự tu học. Hãy hạn chế sự tiếp xúc. Cần tiếp xúc mới tiếp xúc, khi tiếp xúc chỉ
nên trao đổi những lời thật sự cần thiết có liên hệ tới sự học hỏi và hành trì
giáo pháp.
Được Bụt
chỉ dạy cặn kẽ, các thầy khất sĩ đều hoan hỷ phụng hành.
---o0o---
Chương 58
CON GÁI ĐẮT GIÁ HƠN CON TRAI
Một hôm
nọ đi khất thực qua một xóm nghèo Bụt gặp một đám thiếu nhi đang chơi giữa
đường. Các bé đang xúm nhau xây một thành phố bằng đất và cát. Chúng xây thành
vua, kho lúa, nhà cửa và đào một con sông chảy qua thành phố. Bọn nhỏ đông có
đến mười lăm đứa. Bụt và đoàn khất sĩ dừng lại. Một em bé, chừng như là đầu đàn
của tất cả bọn nhỏ, nói:
- Có Bụt
và các vị khất sĩ đi ngang qua thành phố chúng ta Chúng ta phải cúng dường
người và các vị đệ tử của người mới được.
Bọn trẻ
nhao nhao hỏi:
- Chúng
ta lấy gì mà cúng dường Bụt? Người lớn mới có thể cúng dường chứ chúng ta là
con nít mà cúng dường sao được?
Em bé
kia trả lời:
- Tại
sao chúng ta lại không có thể cúng dường? Này các bạn, trong kho lẫm nội thành
có bao nhiêu là thóc lúa. Chúng ta hãy lấy thóc lúa trong kho ra mà cúng dường
Bụt và tăng đoàn.
Bọn nhỏ
reo hò vang dậy. Chúng moi bụi cát trong kho lúa của chúng ra và đặt bụi cát đó
trên một chiếc lá bàng. Em bé đầu đàn nâng chiếc lá bàng có đựng bụi đất trên
hai tay, quỳ xuống trước Bụt và dâng lên Bụt những đất bụi ấy. Bọn trẻ đều bắt
chước quỳ xuống, hướng về Bụt và tăng đoàn mà chắp tay. Em bé đầu đàn nói:
- Dân chúng
trong thành phố chúng con kính dâng lên Bụt và tăng đoàn chút ít lúa gạo trong
kho lẫm của chúng con. Xin Bụt và tăng đoàn nhận cho.
Bụt mỉm
cười. Người đưa tay xoa đầu em bé và nói:
Cám ơn
các con đã cúng dường lúa gạo cho Bụt và cho các thầy khất sĩ. Các con dễ
thương lắm.
Rồi
người xoay lại nói với thầy Ananda:
Ananda,
thầy hãy nhận lấy bụi đất trong chiếc lá bàng này rồi đem về hòa với nước và
trét lên vách đất của tịnh thất ta.
Thầy
Ananda lĩnh mệnh, thu nhận vật cúng dường của các bé. Bọn trẻ mời Bụt ngồi trên
một tảng dá dưới một cột cây đa, rồi tất cả kéo tới quây quần xung quanh Bụt.
Ananda và các vị khất sĩ cũng xúm lại gần.
Bụt kể
cho bọn trẻ nghe chuyện tiền thân Visvantara. Kiếp xưa, thái tử Visvantara là
một người giàu lòng thưong, luôn luôn bố thí tất cả những gì mình có cho những
người nghèo khổ túng thiếu, không tiếc bất cứ một vật gì. Thái tử có một người
vợ tên là Madri rất hiền thục và đảm đang. Nàng biết niềm vui của chàng là cứu
giúp kẻ thiếu thốn và vì vậy nàng không bao giờ tỏ vẻ nuối tiếc một thứ gì mà
chồng đem cho. Hai người sinh được hai đứa con, một đứa trai tên là Jalin và
một đứa gái tên là Krishnajina. Vào những năm đói kém hoàng tử được phép vua
cha cho lấy lương thực và vải vóc trong kho để phát tặng cho những người đói
rét. Các kho lẫm vì thế cạn dần. Một vài vị quan trong triều thấy thế tìm cách
chận thái tử lại. Một hôm họ tâu vua là thái tử làm sạt nghiệp quốc gia và nhân
dịp thái tử lỡ cho mất của triều đình một con voi quý, họ đề nghị đày thái tử
tới một nơi hẻo lánh trên núi Jayatura để thái tử học sống cuộc đời nghèo khổ
và đạm bạc. Bị áp lực của các quan, vua cha nghe lời. Vợ chồng và hai đứa con
vì vậy phải lên đường đi đày biệt xứ.
Giữa
đường có người nghèo ghé tới xin bố thí. Thái tử cởi chiếc áo quý đang mặc mà
cho. Khi có những người nghèo khác tới xin, vợ thái tử cởi chiếc áo đẹp bên
ngoài của nàng, và khi có những nghèo khác tới nữa. Jalin và Krshjina lại cởi
áo và những đồ trang sức để tặng. Đi mới được hai phần ba đường mà thái tử và
gia đình đã cho hết tất cả những gì có giá có thể bán được để mua gạo. Cuối
cùng, họ phải cho luôn chiếc xe và hai con ngựa.
Thái tử
ẵm Jalin, Madri ẳm Krishjina; họ đành lòng đi bộ tới xứ Jayatura để sống thời
gian lưu đày của mình. Không còn của cải gì nhưng họ vẫn vui, vẫn hát, vì lòng
họ thanh thản. Họ biết họ đã cho người khác những niềm vui.
Thái tử
và vợ đi mãi dến khi chân họ rướm máu và chai đi thì mới tơi nơi.
Đó là
một ngọn núi và những khu rừng rậm. Leo lên núi họ tìm thấy một túp lều bỏ
không. Túp lều mà chắc ngày xưa đã có một vị đạo sĩ cư trú để tu hành. Hai vợ
chồng sửa sang quét dọn túp lều, bứt tranh bứt lá lót giường cho bốn người, và
nghĩ đến việc đi tìm thực phẩm. Hai người người đi tìm các loại trái cây và các
loại rau lá mọc hoang trong rừng có thể ăn được. Hai đứa bé cũng được dạy dỗ
cách đi tìm trái cây, hái rau, giặt áo và phơi áo bên bờ suối, gieo hạt và làm
vườn. Ngoài ra các bé còn được học chữ nữa. Họ dùng lá kè và viết chữ bằng một
cái gai nhọn.
Họ sống
đơn giản như thế trên núi được ba năm, và cuộc sống rất vui tươi, nhưng có một
hôm nọ, trong khi Visvantara và Madri đang đi hái trái cây trong rừng thì ở nhà
có người tới bắt cóc mất hai đứa trẻ. Khi về nhà không thấy hai con, hai vợ
chồng hoảng hốt đi tìm. Họ đi khắp núi rừng và khi không thấy con, họ tìm về
phố chợ. Hai tháng trôi qua nhưng họ vẫn không tìm được con. Họ trở về túp lều
một lần nữa, hy vọng các con đi đâu lạc đã trở về. Về tới nhà, họ gặp sứ giả
của vua cha. Vua cha triệu hai vợ chồng về.
Sứ giả
cho biết là Jalin và Krishnajina đã về tới trong hoàng cung và đang sống với
ông nội.
Hai
người mừng rỡ hỏi thăm. Sứ giả nói:
- Một
hôm nọ có người đem bán hai đứa bé ngoài chợ kinh đô. Có một bà mệnh phụ đi chợ
nhận ra hai đứa này là con của thái tử Vivvantara. Bà liền về báo cho chồng
biết. Vị quan này tức tốc ra chợ. Ông bảo người kia rằng nếu đem hai đứa trẻ
vào cung bán thì sẽ được giá rất cao, và ông tiến dẫn người bán vào cung.
Thấy hai
đứa nhỏ, dù áo quần tả tơi và mặt mày lem luốc, vua cha cũng giật mình nhận ra
cháu mình. Vua bàng hoàng. Lòng nhớ thương con cháu sống dậy mãnh liệt nơi vua.
Vua truyền:
- Nhà
ngươi tìm được hai này ở đâu thế? Bán mỗi đứa bao nhiêu?
Người
kia chưa kịp tâu bày gì thì vị đại thần đã lên tiếng:
- Tâu
hoàng thượng, đứa con gái bán giá một ngàn lượng vàng và một ngàn con bò, còn
đứa trai bán giá một trăm lượng vàng và một trăm con bò.
Mọi
người, kể cả hai đứa trẻ, đều ngạc nhiên. Vua hỏi:
- Tại sao
con gái lại bán đắt hơn con trai? Vị đại thần nói:
- Vì
hoàng thượng quý con gái hơn con trai. Các công chúa không bao giờ bị hoàng
thượng trừng phạt và la rầy, cả đến những cung nhân trong cung cấm cũng được
đối dãi thật tử tế. Hoàng thượng chỉ có một đứa con trai duy nhất mà hoàng
thượng lại đày lên núi xa ở với cọp beo, phải đi hái trái rừng để ăn và để nuôi
con. Như vậy con gái không đắt hơn con trai là gì?
Vua rơi
nước mắt:
- Thôi
khanh đừng nói nữa, trẫm đã hiểu rõ rồi.
Vua hỏi
người kia gặp hai đứa trẻ ở đâu. Người kia trả lời là đã mua chuộc hai được hai
đứa bé từ một miền núi xa xăm. Vua ban tiền bạc cho người ấy và ra lệnh cho
người này cộng tác với thám tử của vua truy nã người đã bắt cóc trẻ em đem đi
bán.
Rồi vua
gọi hai cháu lên và ôm vào lòng. Vua hỏi thăm về cuộc sống trên núi. Sau đó,
vua lập tức ban chiếu chỉ triệu vợ chồng thái tử về.
Từ đó về
sau, vua rất cưng chiều thái tử và còn làm hết sức mình để giúp thái tử có thêm
lúa gạo và vải vóc để chia tặng cho những người nghèo khổ.
Bọn trẻ
em nghe Bụt kể chuyện một cách say mê. Bụt nói:
- Thái
tử Visvantara tìm thấy niềm vui khi chia xẻ những gì mình có với những kẻ khác.
Này các con, hồi nãy các con chỉ cho ta một ít bụi đất trong kho lẫm của các
con mà ta cũng đã rất vui rồi. Các con nên biết: mỗi ngày ta có thể đem lại
niềm vui cho kẻ khác bằng cách tặng cho kẻ ấy một món quà.
Món quá
ấy không cần phải mua. Khi các con hái một hông hoa bên bờ ruộng đem về tặng
cho cha mẹ là các con đã cho cha mẹ các con một niềm vui rồi. Nói một câu hiếu
thuận hoặc dễ thương cũng là một món quà quý giá. Ôm lấy cha mẹ mà nói rằng
mình rất thương quý cha mẹ đã làm lụng khó nhọc để nuôi mình, đó cũng là một
tặng phẩm rất quý. Một cái nhìn, một sự săn sóc nhỏ nhặt cũng đưa tới những
niềm vui. Đối với cô bác và bạn bè, các con cũng có thể làm cho họ vui bằng
những tặng phẩm như thế. Bây giờ ta với các thầy phải từ giã các con để tiếp
tục đi khất thực, nhưng ta sẽ nhớ mãi những bụi đất mà các con đã tặng cho ta
trong ngày hôm nay.
Bọn
thiếu nhi rất sung sướng được gặp Bụt ngày hôm ấy. Chúng bàn nhau sẽ rủ các bạn
tới tu viện Jetavana để thỉnh thoảng được nghe Bụt và các thầy kể chuyện.
Mùa nắng
năm sau, Bụt về Rajagaha. Thăm hỏi và đạy dỗ đại chúng ở đây xong, người lên núi
Linh Thứu. Y sĩ Jivaka được tin Bụt về Linh Thứu liền lên núi thăm người. Rồi
Jivaka thỉnh Bụt về vườn Xoài của ông dăm bữa.
Bụt nhận
lời. Thầy Ananda cũng đi theo Bụt.
Y sĩ có
một vườn Xoài rất mát mẻ và xum xuê. Xoài ở đây đã lên tới năm thứ tám. Jivaka
đã dựng một tịnht thất nhỏ để Bụt ở. Hàng ngày ông đem thức ăn chay của ông tự
tay nấu để cúng dường Bụt. Ông xin Bụt nghỉ ngơi ít hôm đừng đi khất thực để có
dịp bồi bổ lại sức khỏe. Ông lại đem thuốc bổ đến để cúng dường Bụt. Thuốc bổ
này gồm toàn rễ cây, lá cây, và trái cây.
Một hôm
ngồi với Bụt trong vườn Xoài, Jivaka hỏi:
- Lạy
Bụt, có người đồn đãi rằng các vị khất sĩ được phép Bụt cho ăn mặn.
Họ còn
nói: sa môn Gotama cho phép giết thú vật, để làm thức ăn cúng dường ông ta và
các vị khất sĩ học trò của ông. Có người than thở: vì sa môn Gotama mà dân
chúng phải sát hại sinh vật để làm thức ăn cho ông và cho đệ tử ông. Bạch Thế
Tôn, con thầy những lời đồn đãi này không đúng, nhưng con muốn nghe Thế Tôn
trực tiếp nói về điều này:
Bụt nói:
- Này
Jivaka, những ai nói rằng thầy cho phép giết sinh vật để làm thực phẩm cho thầy
và cho các vị khất sĩ, những người ấy đã không nói đúng sự thật. Jivaka, thầy
đã từng nói rõ nhiều lần: nếu một vị khất sĩ thấy người ta giết thú vật để làm
thực phẩm cúng dường mình, vị khất sĩ ấy phải từ chối không được ăn. Nếu không
thấy mà chỉ nghe nói rằng người ta đã vì mình mà giết thú vật thì vị khất sĩ
cũng phải từ chối không được tiếp nhận thực phẩm, và hơn thế nữa, dù không thấy
không nghe nhưng một khi đã nghi rằng người ta có vì mình mà giết thú vật thi
vị khất sĩ cũng phải từ chối không được ăn.
Jivaka,
theo phép khất thực, người ta cho thức ăn gì thì phải nhận thức ăn ấy, nhưng
trong trường hợp đã thấy đã nghe và đã nghi rằng người ta đã vì mình mà sát hại
thú vật thì vị khất sĩ có quyền từ chối và phải từ chối. Như thế mới nuôi dưỡng
và bảo vệ được lòng từ bi của mình. Jivaka, những thí chủ nào Bụt, biết Pháp và
biết Tăng thì mỗi khi sửa soạn vật thực cúng dường họ đều dùng những thức ăn
chay tịnh. Trong trường hợp họ không có sẵn các món chay họ mới chia xẻ cho các
thầy khất sĩ món mặn họ sẵn có mà thôi.
Những
người lần đầu tiên cúng dường các vị khất sĩ cũng không biết rằng các thầy ưa
thức ăn chay hơn thức ăn mặn cho nên cũng chỉ cúng dường và san sẽ những thức
ăn họ sẵn có. Trong trường hợp này, các vị khất sĩ có thể thọ dụng thức ăn mặn,
để khỏi phụ lòng thí chủ và cũng để thí chủ có dịp kết duyên từ từ với đạo giải
thoát.
Jivaka,
một mai kia, khi tất cả thiên hạ đều biết rằng các vị khất sĩ không ăn thịt thú
vật bị giết vì họ thì thiên hạ sẽ không cúng dường thịt cho các vị khất sĩ nữa.
Lúc ấy các vị khất sĩ sẽ ăn chay hoàn toàn.
Jivaka
biện bạch:
- Con
thấy ăn chay làm cho cơ thể nhẹ nhàng và ít bệnh hơn ăn mặn. Thế Tôn, từ mười
năm nay, con đã ăn chay. Con nghĩ rằng ăn chay vừa được khỏe mạnh vừa nuôi
dưỡng được lòng từ bi. Hôm nay con rất vui mừng được thầy chỉ dạy rõ ràng về
việc ấy.
Jivaka
cũng tỏ ý khen ngợi Bụt về pháp chế không ăn sau giờ ngọ và không ăn những thúc
ăn cất giữ từ ngày hôm qua, trừ trong mùa lạnh. Ông thấy những điều này rất hợp
với phép vệ sinh. Không ăn buổi chiều và buổi đêm thì vừa cảm thấy nhẹ nhàng
vừa có thêm thì giờ tu tập. Thức ăn để lại ngày hôm sau có thể bị hư và làm độc
hại cơ thể, nếu trời nóng quá.
Bụt khen
ngợi Jivaka và ngỏ lời mời ông một hôm nào về tu viện nói cho các vị khất sĩ
nghe về các phép vệ sinh của đời sống hàng ngày.
---o0o---
Chương 59
NHẢY CAO MẤY CŨNG RƠI LẠI VÀO
Đường
Xưa Mây Trắng - TRONG LƯỚI Vườn Xoài của y sĩ Jivaka rất rộng rãi và thanh
tịnh. Rải rác trong vưòn có những tịnh thất nhỏ của các vị nữ khất sĩ. Buổi
chiều ấy, có một vị nữ khất sĩ trẻ tên là Subha đến xin tham vấn Bụt. Hồi sáng
cô đã bị một thanh niên đón đường và suýt bị thanh niên ấy xâm phạm đến tiết
hạnh. Ni cô xin Bụt đặt ra một pháp chế để bảo đảm thêm sự an ninh cho giới nữ
khất sĩ. Bụt hỏi đầu đuôi câu chuyện. Ni cô thuật lại với tất cả chi tiết.
Hôm qua
đi khất thực về ngang một khu hẻo lánh, Subha bị một thanh niên đón đường. Biết
là mình đang lâm vào tình trạng khó khăn, ni cô theo dõi hơi thở để duy trì sự
bình tĩnh. Nhìn thẳng vào người thanh niên, cô hỏi:
- Thưa
ông, tôi đâu có làm điều gì lầm lỗi mà ông lại chặn đường tôi? Tôi chỉ là một
người xuất gia tu hành theo giáo pháp của Bụt. Tại sao ông lại ngăn không cho
tôi đi về tu viện?
Người
kia nói:
- Cô còn
trẻ và đẹp lắm. Tại sao cô lại đi hủy hoại đời mình bằng cách cạo đầu, mặc áo
vàng và sống như những người tu khổ hạnh? Này ni cô, đáng lý cái thân hình xinh
đẹp của cô phải được khoác lên một chiếc sari lụa mua từ Kasi.Tôi chưa thấy ai
xinh đẹp bằng cô. Tôi muốn cho cô nếm mùi dục lạc của thân xác. Cô đi với tôi
đi.
Subha
vẫn bình tĩnh:
- Ông
đừng có nói bậy. Người tu hành đã quyết tìm niềm vui nơi cuộc sống giải thoát
và giác ngộ. Năm thứ dục lạc chỉ đưa tới tội lỗi và khổ đau. Ông hãy tránh
đường cho tôi đi. Tôi sẽ rất cảm ơn sự hiểu biết của ông.
Người
thanh niên kia nói:
- Cô có
hai con mắt rất đẹp Tôi chưa thấy người đàn bà nào có đôi mắt đẹp như cô. Tôi
dại gì mà để cô đi. Thôi cô hãy đi với tôi.
Và người
thanh niên đưa tay ra định nắm lấy cô.
Subha
lùi lại một bước. Cô nói:
- Này
ông kia, ông đừng chạm tới tôi. Ông đừng chạm tới một người tu phạm hạnh. Tôi
đã chán ngấy đời sống dục vọng và hận thù cho nên tôi muốn đi tu. Ông nói tôi
có hai con mắt đẹp. Thôi để tôi móc hai con mắt của tôi đưa cho ông. Thà rằng
tôi mù còn hơn là để ông chạm tới.
Subha
nói với giọng cương quyết. Người thanh niên kia nao núng. Anh ta biết vị ni cô
này có thể nói và làm ngay. Anh ta lùi lại một bước.
Subha
tấn công thêm:
- Ông
đừng vì dục vọng là tạo nên tội ác. Ông không biết đức vua Bimbusara đã ra lệnh
trừng phạt nặng nề những kẻ phạm pháp hay sao.
Chính
tôi, tôi đã chứng kiến những tội phạm bị hành xử. Nếu ông không tỉnh táo, nếu
ông xâm phạm tới phạm hạnh, và sanh mạng của tôi, ông cũng sẽ bị bắt và hành xử
như những tội phạm ấy.
Người
thanh niên tỉnh ngộ. Anh ta hình dung ra được cảnh khổ do dục vọng điên cuồng
gây ra. Anh ta tránh sang một bên đường cho Subha đi. Rồi anh nói vọng theo:
- Tôi
xin lỗi sư cô. Tôi chúc sư cô tu hành cho tới khi thành đạt.
Subha đi
thẳng, không ngoái nhìn trở lại, lòng dặn lòng sẽ trình lên Bụt trường hợp
mình.
Sau khi
nghe kể chuyện, Bụt khen ngợi niềm quả cảm và sự thông minh của nữ khất sĩ
Subha. Người nói: - Người con gái đi một mình ở nơi vắng vẻ thì nguy hiểm lắm.
Đó là một trong những lý do tại sao ngày xưa tôi đã ngần ngại chưa muốn cho
giới nữ xuất gia. Này Subha! Từ hôm nay trở đi, đi đâu vị nữ khất sĩ cũng không
được đi một mình. Lội qua một dòng sông, đi vào thôn xóm, băng qua một cánh
đồng hay một khu rừng, vị nữ khất sĩ không được đi một mình. Ngủ cũng vậy.
Trong tu viện, trong tịnh xá, trong thôn lạc hay dưới gôc cây, người nữ khất sĩ
không được ngủ một mình. Phải ngủ với một vị nữ khất sĩ khác để có thể bảo vệ
cho nhau.
Rồi Bụt
quay lại nói với thầy Ananda:
- Ananda
thầy nên ghi nhớ điều này và yêu cầu các vị lãnh đạo ni chúng đưa điều này vào
giới luật của các vị nữ khất sĩ.
Rời vườn
Xoài của y sĩ Jivaka, Bụt lên đường đi Nalanda. Cùng đi với người, có rất đông
các vị khất sĩ.
Bụt và
các vị khất sĩ đi lặng lẽ và trang nghiêm; ai nấy đều theo dõi hơi thở và nuôi
dưỡng chánh niệm. Phía sau lưng các vị, có hai thầy trò vị du sĩ Suppiyo cùng
đi. Họ nói chuyện vang lên suốt cả dọc đường. Đệ tử của du sĩ Suppiyo là thanh
niên Bramadatta. Đề tài của câu chuyện là Bụt và giáo pháp của người. Du sĩ
Suppiyo cố ý nói lớn để những vị khất sĩ có thể nghe.
Tất cả
những lời ông nói đều nhắm tới sự kích bác Bụt và giáo pháp của người. Trong
khi đó thì lạ thay, thanh niên Bramadatta lại hết lòng bênh vực cho Bụt và giáo
pháp của người. Branmadatta dùng những lý luận và hình ảnh rất khéo léo để tán
dương Bụt và giáo đoàn của người. Khéo léo đến nổi tất cả các vị khất sĩ đi
trước đó đều có cảm tình với chàng.
Chiều
hôm ấy Bụt ghé vào nghỉ đêm ở Ambalatthika. Ambalatthika là một khu vườn rừng
rất sum suê và tốt đẹp, chỗ nghỉ mát của gia đình hoàng gia.
Vua
Bimbasara đã ngỏ ý là các vị tu sĩ của bất cứ giáo phái nào nếu cần sử dụng
Ambalatthika thì đều có quyền sử dụng để nghỉ ngơi. Đêm đó hai thầy trò du sĩ
Suppiyo cũng nghỉ đêm tại đấy.
Sáng hôm
sau các thầy khất sĩ bàn tán với nhau về thái độ hôm qua của hai thầy trò vị du
sĩ. Bụt nghe được những câu bàn tán ấy. Người bảo:
- Này
các thầy, khi nghe người ta công kích tôi, phỉ báng tôi, công kích và phỉ báng
giáo pháp và giáo đoàn khất sĩ, các thầy đừng buồn, các thầy đừng sinh lòng
công phẫn, tức tối hay phiền muộn. Điều ấy có hại cho các thầy.
Khi nghe
người ta khen ngợi tôi, khen ngợi giáo pháp và giáo đoàn khất sĩ, các thầy cũng
không nên mừng rỡ, thích thú và mãn ý. Điều này cũng có hại cho các thầy. Thái
độ đứng đắn là xét xem những điều công ấy đúng hay sai, đúng ở chỗ nào, sai ở
chỗ nào. Có như thế quý vị mới có dịp học hỏi để đạt được nhiều tiến bộ.
Này các
vị khất sĩ! Phần lớn là những người khen ngợi Bụt, Pháp và Tăng là những người
chỉ thấy được những cái đẹp cái hay nhỏ bé của giáo pháp và giáo đoàn thôi. Như
là nếp sống phạm hạnh, công phu trì giới, đời sống đạm bạc, thái độ thanh thản
của chúng ta. Số người thấy được cái cao siêu mầu nhiệm nhất của giáo pháp mà
đem lời ca ngợi thì ít lắm. Tôi muốn nói đến trí tuệ thực chứng của đạo giác
ngộ. Trí tuệ này siêu việt, mỹ diệu, mầu nhiệm, vượt khỏi tầm tư duy và ngôn
ngữ của người thường. Thấy được, hiểu được và chứng được trí tuệ ấy mới có thể
biết và thấy được giá trị thật của đạo giải thoát.
Này các
vị khất sĩ! Trong thế gian có bao nhiêu chủ thuyết và bao nhiêu luận chấp.
Người ta không ngớt công kích và cải vả nhau vì sự khác biệt của những chủ thuyết
và luận chấp ấy. Các vị khất sĩ, như tôi đã thấy và đã nghe, đã có ít nhất là
sáu mươi luận chấp làm căn bản cho hàng ngàn chủ thuyết hiện giờ có mặt trong
các giới tư tưởng và tôn giáo. Các vị nên biết rằng trước cái thấy của đạo giác
ngộ giải thoát, tất cả sáu mươi hai luận chấp ấy đều có những chỗ kẹt, đều có
những chỗ sai lầm.
Hôm ấy
Bụt nói kinh Phạm Võng. Người phân tích nội dung của cả sáu mươi hai luận chấp
và vạch ra những sai lầm của các luận chấp này. Có mười tám luận chấp về quá
khứ: bốn chủ trương thuyết thường trú, bốn chủ trương thuyết vừa thường trú vừa
vô thường, bốn chủ trương thuyết hữu biên và vô biên, bốn chủ trương thuyết
ngụy biện và hai chủ trương thuyết không có nhân quả. Có bốn mươi bốn luận chấp
về tương lai: mười sáu chủ trương là còn tri giác sau khi chết, tám chủ trương
là không còn tri giác sau khi chết, tám chủ trương là không phải còn cũng không
phải không còn tri giác sau khi chết, bảy chủ trương thuyết đoạn diệt và năm
chủ trương thuyết hiện tại là niết bàn.
Trình bày
xong những sai lầm của sáu mươi hai luận chấp, Bụt nói:
- Một
người đánh có giỏi khi quăng lưới xuống hồ tôm được hết tất cả tôm cá hồ vào
trong cái màn lưới có mắt lưới sít sao, ông ta nhìn những con tôm con cá đang
cố nhảy lên cao để rồi lại rơi mình vào trong lưới, và nói: “dù các ngươi nhảy
cao đến mấy các ngươi cũng vẫn còn nằm trong lưới của ta”.
Ông ta
nói đúng. Hàng trăm hàng ngàn học thuyết đang hiện hành và tranh chấp lăng xăng
trong giới triết học và tôn giáo này đều nằm kẹt trong cái lưới của sáu mươi
hai luận chấp ấy, không thể nào vượt thoát ra nổi. Các vị khất sĩ! Đừng đi vào
trong cái lưới mê hồn ấy để mất hết thì giờ và cơ hội tu tập đạo giải thoát.
Đừng đi vào cái lưới của sự hý luận.
Này các
vị khất sĩ! Tất cả những luận chấp kia đều phát sinh do sự lừa gạt của tri giác
và của cảm thọ. Vì không tu tập chánh niệm, vì không quán chiếu nên người ta
không biết được chân tướng của tri giác và cảm thọ, do đó đã bị tri giác và cảm
thọ lừa gạt. Nếu thấy được nguồn gốc và bản chất của tri giác và cảm thọ, người
ta sẽ thấy được tự tính vô thường và duyên sinh của sự vật, người ta sẽ không
bị vướng vào lưới tham ái, lo âu, và sợ hãi, người ta sẽ không bị vướng vào cái
lưới của sáu mươi hai luận chấp.
Hôm ấy
đại đức Ananda đã nổ lực ghi nhớ hết những lời Bụt dạy. Thầy đi bách bộ và thầm
lặng trùng tuyên lại những lời Bụt nói. Rồi thầy nghĩ: kinh này quan trọng lắm.
Ta sẽ đặt tên kinh này là kinh Phạm Võng. Phạm Võng là cái lưới vĩ đại thu tóm
tất cả những chủ thuyết sai lạc trong cuộc đời.
---o0o---
Chương 60
NGÀY NÀO ĐẦU TÓC CŨNG ƯỚT
Bụt từ
giã vườn Ambalatthika. Người đi đến Nalanda. Sau khi thăm viếng và giáo hóa tại
đây, người đi về Ampa. Ampa là thành phố lớn nhất của xứ Anga; xứ này nằm dưới
quyền bảo hộ của vua Bimbisara nước Magadha.
Dân cư ở
đây đông đúc, ruộng đất ở đây phì nhiêu, cây cỏ ở đây xanh tươi.
Bụt cư
trú trong một khu rừng mát mẻ bên bờ hồ Gaggara. Trong hồ, hoa sen nở thơm
ngát.
Nghe Bụt
tới, dân chúng lũ lượt đến thăm người. Có một người trai trẻ dòng Bà la môn
giàu có tên là Sonadanda, nổi tiếng thông minh xuất chúng tại địa phương này,
cũng có ý muốn đi viếng Bụt. Những người Bà la môn khác cố ý ngăn giữ không cho
ông ta đi, bảo rằng nếu Sonadanda tới thăm sa môn Gotama thì gây uy tín cho vị
sa môn này nhiều quá. Sonadanda mỉm cười trả lời rằng Bụt là nhân vật lỗi lạc,
trên đời chỉ có một, và nếu không đi thăm người thì thật là bỏ phí cơ hội ngàn
năm một thuở. “Ta phải đi để học hỏi chứ. Để biết ta hơn sa môn Gotama ở những
điểm nào và sa môn Gotama hơn ta ở những điểm nào”. Vừa nói, Sonadanda vừa mỉm
cười bí mật.
Nghe
Sonadanda nói vậy hàng trăm người trí thức Bà la môn khác cũng muốn xin đi
theo. Người trí thức này, theo họ nghĩ, sẽ không làm mất mặt giới Bà la môn
trước đám quần chúng đông đảo đến viếng Bụt.
Sonadanda
còn chưa biét mở đầu câu chuyện ra sao cho thông minh, thì Bụt đã ân cần hỏi:
- Các vị
học giả trong giới Bà la môn hãy cho chúng tôi biết đâu là những điều kiện cần
thiết để có thể thật sự là một người Bà la môn chân chính. Quý vị nói đi và nếu
cần thì nên viện dẫn kinh điển của quý vị.
Sonadanda
rất hoan hỷ, một vị Bà la môn đích thực phải có đủ năm điều kiện sau đây: thứ
nhất là phải có dung sắc đẹp đẽ, thứ hai là phải biết kỹ thuật xướng tụng và
chú thuật, thứ ba là phải có huyết thống thuần túy trong bảy đời, thứ tư là
phải có đức hạnh, thư năm là phải có tuệ giác.
Bụt hỏi:
- Trong
năm điều kiện ấy, điều kiện nào là căn bản? Còn điều nào dù là không có thì
người Bà la môn vẫn còn có thể đích thực là một người Bà la môn?
Trả lời
dần theo những câu hỏi của Bụt, Sonadanda đi đến kết luận rằng hai điều kiện
sau chót hai điều kiện căn bản của một vị Bà la môn đích thực, Sonadanda công
nhận rằng các điều kiện dung sắc, kỹ thuật xướng tụng chú thuật và huyết thống
bảy đời không phải là những điều kiện căn bản. Không có ba điều kiện ấy nhưng
nếu có các điều kiện đức hạnh và tuệ giác thì người ta vẫn có thể là một vị Bà
la môn đích thực như thường.
Gần năm
trăm vị Bà la môn có mặt đưa tay phản đối Sonadanda. Họ kết tội Sonadanda đã bị
Bụt dùng hý luận đưa tới chỗ chấp nhận lập trường của Bụt và chối bỏ một điều
kiện mà họ cho là căn bản là điều kiện huyết thống. Họ đã đặt hết niềm tin nơi
sự thông minh và tài mẫn tuệ của Sonadanda mà họ coi như vị lãnh đạo tinh thần
của họ. Nay Sonadanda công nhận lập trường của Bụt thì họ mất mặt biết bao.
Bụt can
thiệp:
- Này
quý vị quan khách! Nếu quý vị có lòng tin nơi người lãnh đạo của quý vị là
Sonadanda, thì quý vị im lặng đi để tôi tiếp tục đối thoại vói ông ta, còn nếu
quý vị không có lòng tin ở ông ta, thì quý vị xin ông ta im lặng đi để tối nói
chuyện với quý vị.
Mọi
người lặng thinh. Sonadanda nói:
- Xin sa
môn Gotama yên lòng. Để tôi xin có đôi lời nói với các bạn tôi.
Rồi
Sonadanda quay lại với năm trăm vị Bà la môn. Ông ta chỉ vào một thanh niên
ngồi hàng đầu và nói:
- Các
bạn có thấy cháu tôi, vị thanh niên Bà la môn tên là Angaka đang ngồi kia
không? Angaka là một người thanh niên tuấn tú, khôi ngô, có phong thái tranh
nhã và thanh cao. Đứng về phương diện dung sắc, trong chúng ta không ai so được
với Angaka, trừ sa môn Gotama ra mà thôi, Angaka lại thông hiểu ba bộ kinh
Veda, thông hiểu văn phạm, ngữ pháp và kỹ thuật xướng tụng và chú thuật; điều
này ai cũng biết. Angaka cũng có huyết thống thanh tịnh, cho đến bảy đời, kể cả
về bên cha lẫn mẹ. Angaka có đủ ba điều kiện là dung sắc, kỹ thuật xướng tụng,
chú thuật và huyết thống thanh tịnh.
Nhưng
giả sử Angaka sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu, thì dung sắc ấy
còn có giá trị gì? Kiến thức Veda và chú thuật còn có giá trị gì?
Thưa các
bạn, hai điều kiện sau mới là hai điều kiện căn bản của một người Bà la môn
đích thực. Đó là giới hạnh và tuệ giác. Đây là sự thực chung cho tất cả chúng
ta chứ không phải là sự thực riêng của sa môn Gotama.
Sonadanda
nói đến đây thì tiếng hoan hô của quần chúng nổi lên vang dậy.
Đợi cho
tiếng hoan hô chấm dứt. Bụt hỏi Sonadanda:
- Nhưng
trong hai điều kiện căn bản kia còn lại là giới hạnh và trí tuệ, ta có thể bỏ
bớt một điều để giữ lại một điều hay không?
- Thưa
sa môn Gotama, không thể được, nhờ giới hạnh tinh nghiêm mà tuệ giác phát
triển, nhờ tuệ giác phát triển mà giới hạnh càng tinh nghiêm. Sa môn Gotama,
cũng như lấy tay để rửa tay, lấy chân để kỳ cọ chân, hai thứ giới hạnh và tuệ
giác nâng đỡ và phát triển lẫn nhau; giới hạnh làm cho tuệ giác thêm sáng và
tuệ giác làm cho giới hạnh thêm thanh tịnh. Giới hạnh và tuệ giác là hai cái
quý nhất trên đời.
Bụt nói:
- Hay
lắm, Sanadanda! Những điều ông nói đúng là sự thực. Giới hạnh và tuệ giác là
hai cái quý nhất trên đời. Ông hãy nói thêm đi. Làm thế nào để phát triển giới
hạnh và tuệ giác đến mức độ cao nhất?
Sonadanda
chắp tay xá Bụt, mỉm cười:
- Bạch
sa môn, xin người chỉ dạy cho. Chúng con chỉ biết nguyên tắc thế thôi. Sa môn
là người có thực tập và có chứng đắc. Xin người giải bày cho chúng con rõ đâu
là những phương pháp có thể giúp ta phát triển giới hạnh và tuệ giác đến mức
viên mãn.
Bụt bắt
đầu dạy đạo giải thoát. Người nói đến nguyên tắc tam học là giới định tuệ. Có
giới thì có định, có định thì có tuệ, có tuệ thì giới thể vững vàng. Giới thể
càng vững thì định lực càng lớn, định lực càng lớn thì tuệ giác càng sâu. Người
nói đến phép quán duyên sinh để phát trừ những kiến chấp về thường, về ngã, để
cắt đứt những sợi dây tham ái, hờn giận, si mê, để đạt tới giải thoát và an
lạc.
Sonadanda
say sưa nghe Bụt nói. Khi Bụt dứt lời, Sonadanda đứng dậy chắp tay:
- Sa môn
Gotama! Con xin cám ơn sa môn đã mở mắt cho con hôm nay.
Những
lời của sa môn nói đã có hiệu lực đưa con ra khỏi vũng lầy tăm tối.
Con xin
được quy y Bụt, quy y Pháp và quy y Tăng để làm một kẻ môn đệ của người. Con
xin kính thỉnh Bụt và giáo đoàn ngày mai tới nhà con thọ trai.
Cuộc đàm
thoại hôm ấy giữa Bụt và giới trí thức trẻ tuổi Bà la môn thật là hào hứng và
đã gây chấn động sâu xa trong mọi giới. Những người trẻ tuổi trong giới Bà la
môn đi theo Bụt rất đông.
Sau đó
ít lâu, một người thanh niên Bà la môn nổi tiếng khác tên là Ambattha và thầy
của anh là Pokkharasadi do một cuộc thăm viếng và đàm đạo với Bụt cũng đã phát
nguyện quy y Tam Bảo. Việc này xảy ra tại một làng Bà la môn tên là làng
Lechanankala trong vương quốc Kosala. Phong trào thanh niên Bà la môn theo Bụt
càng ngày càng lớn. Niềm bực tức của những nhà lãnh đạo Bà la môn và của các
giáo phái cũng vì vậy mà khó tiêu tan đi được.
Tại công
viên Ambalatthika, đại đức Svastika đã có dịp gần gũi đại đức Moggallana để hỏi
thăm về các giáo phái hiện đang thịnh hành nhất và đã được đại đức nói cho nghe
một cách sơ lược về chủ trương của các giáo phái ấy.
Trước
hết là giáo phái của đạo sĩ Purana Kassapa. Phái này chủ trương một thái độ
hoài nghi về luân lý, cho rằng ý niệm về thiện và ác chỉ là nhận thức do thói
quen và tập quán mà có.
Kế đến
là giáo phái của đạo sĩ Makkhali Gosala. Giáo phái này chủ trương thuyết tất
nhiên, cho rằng hành vi và vận mạng con người đều do những quy luật vận hành tự
nhiên sắp đặt và con người không thể làm gì hơn được. Nếu năm trăm hoặc một
ngàn kiếp sau mà con người được giải thoát thì đó cũng là do sự vận hành của tự
nhiên giới, chứ không phải vì nổ lực của con người mà có giải thoát.
Thứ ba
là giáo phái của đạo sĩ Ajita Kesakambati, chủ trương một thuyết duy vật thuần
túy, cho rằng con người là do bốn yếu tố, đất, nước, lửa và không khí tạo
thành, và sau khi chết thì không còn gì nữa. Theo phái này, mục đích của đời
người là hưởng lạc trong khi con người đang còn sống.
Giáo
phái thứ tư do đạo sĩ Pakudha Kaccayana cầm đầu, chủ trương ngược lại thuyết
của giáo phái của đạo sĩ Ajita. Giáo phái này chủ trương thuyết bất diệt, cho
rằng tâm ta cũng như thân ta không bao giờ có thể bị hủy diệt.
Theo
giáo phái này, có bảy yếu tố làm nên con người, đó là đất, nước, lửa, không
khí, khổ, vui, và sinh mạng. Sống và chết chỉ là hiện tượng bên ngoài do sự kết
hợp hay tụ tán của bảy yếu tố ấy tạo nên, trong khi tự thân của bảy yếu tố ấy
là trường cửu và bất diệt.
Giáo
phái thứ năm do đạo sĩ Sanjaya Belatthiputta thành lập. Ngày xưa các đại đức
Sariputta và Maha Moggallana đã từng theo học với đạo sĩ này. Đạo sĩ Sanjaya
dạy thuyết thích ứng, cho rằng chân lý tùy thuộc vào trường hợp, vào không gian
và vào thời gian. Có thể trong trường hợp này, thời gian này này và địa phương
này, một điều nọ có thể là chân lý, nhưng trong trường hợp khác, thời gian khác
và địa phương khác thì điều đó có thể không còn là chân lý. Nhận thức con người
là thước đo của muôn vật.
Giáo
phái thứ sáu là giáo phái của đạo sĩ Nigantha Nataputta. Các đạo sĩ trong giáo
phái này thực hành pháp khổ hạnh cực đoan, không mặc quần áo và giữ giới bất
sát một cách tuyệt đối. Đạo sĩ Nigantha chủ trương một thứ vận mạng luận có
tính cách nhị nguyên, cho mạng (jiva) và phi mạng (ajiva) là nền tảng cho vũ
trụ và sự sống. Thế lực của các du sĩ lõa hình này trong xã hội khá lớn, và với
đoàn khất sĩ của Bụt, các du sĩ lõa hình đã có nhiều liên lạc và tiếp xúc qua
lại. Điểm tương đồng căn bản giữa giáo đoàn du sĩ va giáo đoàn khất sĩ là ý
niệm tôn trọng sự sống, nhưng giữa hai giáo đoàn có nhiều điểm dị biệt. Có
những vị trong giáo đoàn Nigantha đã tỏ vẻ chống đối giáo đoàn khất sĩ. Đại đức
Moggallana thường không chịu đựng được thái độ quá khích của một số các vị du
sĩ lõa hình, và đã không ngần ngại nói lên cảm tưỏng ấy, vì thế, đại đức thường
bị các vị du sĩ lõa hình chống đối kịch liệt.
Về tới
Savatthi, Bụt cư trú ở tu viện Đông Viên, nơi có giảng đường lộc Mẫu. Các giới
đệ tử nghe Bụt về, đến thăm người không ngớt. Một buổi sáng, nữ thí chủ Visakha
tới tìm Bụt, đầu tóc và xiêm y ướt đẫm, Bụt hỏi:
-
Visakh, bà đi đâu về mà đầu tóc và xiêm y ướt đẫm thế này?
- Lạy
đức Thế Tôn, đứa cháu nội của con mới chết. Con buồn quá đi tìm Bụt mà quên
mang theo cả dù, cả nón.
-
Visakh, đứa cháu nội của bà lên mấy tuổi, cháu ốm bệnh gì mà mất?
- Bạch
Thế Tôn, nó mới có ba tuổi, nó bị bệnh thương hàn.
- Tội
nghiệp cháu. Này Visakha, bà có tất cả bao nhiêu con và cháu?
- Bạch
Thế Tôn, con có tới mười sáu đứa con, chín đứa đầu đã lập gia đình, và con đã
có tám đứa cháu, vừa nội vừa ngoại. Bây giờ con chỉ còn có bảy đứa cháu, toàn
là cháu ngoại.
-
Visakha, bà muốn có nhiều cháu lắm phải không?
- Vâng,
bạch đức Thế Tôn, con muốn có thật nhiều con và thật nhiều cháu.
Nhà càng
đông con cháu thì lại càng vui.
- Này
Visakha, nếu con cháu bà nhiều như dân số ở thủ đô Savatthi này thì chắc là bà
vui lắm.
- Vâng,
thưa đức Thế Tôn, con mà có được nhiều con nhiều cháu như dân số ở Savatthi thì
còn gì bằng.
-
Visakha, bà biết mỗi ngày ở thủ đô Savatthi có bao nhiêu người chết không?
- Thưa
Thế Tôn, có ngày thì mười người chết, có ngày thì chín người, tám người, bảy
người hay sáu người, ít nhất là một người. Thế Tôn, ở Savatthi không có ngày
nào là không có người chết.
- Này
Visakha, nếu con cháu bà đông đúc như dân cư ở Savatthi thì ngày nào mà tóc tai
và áo quần của bà lại không ướt đẫm như thế kia?
Visakha
chắp hai tay lại:
- Thôi,
thôi, con không muốn con cháu đông đảo như dân số ở Savatthi nữa đâu. Con hiểu
rồi. Càng thương nhiều thì càng bị ràng buộc nhiều, càng bị ràng buộc nhiều thì
càng khổ đau nhiều. Bụt đã dạy con điều này nhiều lần, mà con cứ quên mãi.
Bụt im
lặng, mỉm cười.
Visakha
nói:
- Thế
Tôn, người thường du hành hóa độ khắp nơi và chỉ về Savathhi vào trước mùa mưa.
Đệ tử chúng con nhiều khi nhớ Bụt, lên tu viện thăm thì ít khi được gặp người.
Mỗi khi chúng con đến, chúng cho nên chỉ biết đi vòng ba lần quanh tịnh thất
của người rồi đi về mà thôi.
Bụt dạy:
-
Visakha, bà nên nhớ rằng việc tu học tinh tiến theo giáo pháp cần thiết hơn
việc thăm viếng. Mỗi khi tới chùa, các vị đều có dịp nghe các vị đại đức thuyết
pháp để học hỏi thêm giáo lý và để đem về thực hành. Giáo pháp ấy chính là thầy
đó. Đừng vì sự vắng mặt của thầy ở tu viện mà xao lãng việc tu học.
Đại đứa
Ananda bạch:
- Con ý
định là sẽ trồng một cây bồ đề ngay trong tu viện. Mỗi khi các vị đến thăm Bụt
mà không có Bụt thì có thể đến thăm và làm lễ cây bồ đề. Như vậy thì cũng như
làm lễ Bụt. Chúng con sẽ đặt một pháp tọa bằng đá dưới gốc bồ đề. Nếu các vị đệ
tử đem hoa tới cúng dường Bụt, các vị có thể dâng hoa trước pháp tọa làm lễ, và
đi nhiễu ba vòng xung quanh cây bồ đề để quán niệm về Bụt.
Bà Visakha
nói:
- Ý kiến
của đại đức rất hay. Nhưng biết lấy cây bồ đề con ở đâu ra mà trồng?
Đại đức
Ananda nói:
- Ta có
thể đến xin hạt của cây bồ đề ở thôn Uruvela, nơi Bụt thành đạo.
Visakha,
bà đừng lo, tôi sẽ phụ trách về việc lấy hạt, ươn hạt và trồng cây bồ đề. Tôi
sẽ trồng một cây ở tu viện và một cây ngay ở đây.
Nữ thí
chủ Visakh đã cảm thấy nhẹ bớt trong lòng. Bà lạy Bụt và đại đức Ananda rồi ra
về.
---o0o---
MỤC LỤC
Đường
xưa mây trắng (Chương 1 – 20)
Đường
xưa mây trắng (Chương 21 – 40)
Đường xưa mây trắng (Chương 41 – 80)
Đường xưa mây trắng (Chương 61 – 81 end)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét