Thái Kế Toại
Tôi phải
viết về Hữu Loan theo kiểu mô tả tiểu sử của ông, bởi vì tiểu sử của ông không
phức tạp nhưng các sự việc sai số nhiều quá. Giữa ngay lời kể của ông và người
thân qua các thời kỳ, giữa các nhà báo với nhau. Không ai chịu xem xét sự sai
số đó. Hữu Loan thì không có thói quen ghi chép, viết nhật kí. Ông ỷ nại vào
trí nhớ nhưng đến khi được giải tỏa thì ông đã già, trí nhớ không thể chính
xác. Đến nay thì ông và hầu hết nhân chứng cũng
mất đã lâu.
Tôi đã
phải rất vất vả so sánh nhiều nguồn tư liệu khác nhau tính toán sắp xếp một
cách hợp lí các sự kiện trong cuộc đời của ông. Tất nhiên là niên biểu này chưa
thể hoàn thiện. Mong gia đình ông, các con cháu, bạn bè văn nghệ sĩ vong niên,
có thể giúp cho sự đính chính quý báu.
Nhà thơ
Hữu Loan sinh năm 2-4-1916 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa. Có nguồn nói ông sinh năm 1914.
Thưở nhỏ
ông học ở quê.
Khoảng
từ năm 1932 được gia đình cho lên thị xã Thanh Hóa học thành chung.
Sau đó
đi dạy học và tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã
Thanh Hóa (nay là Tp.Thanh Hóa).
Năm 1941 ông ra thi tú tài ở Hà Nội. Đỗ tú tài
bán phần. Cùng khóa có những người như
Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện …
Tú Loan dạy Pháp văn ở Thanh Hóa
1936-1940
Vừa dạy học vừa làm gia sư cho nhà ông Lê Đỗ Kỳ Chánh thanh tra Nông Lâm Đông
Dương, ĐBQH khóa I Thanh Hóa.
Bà Đái
Thị Ngọc Chất phu nhân Chánh thanh tra Lê Đỗ Kỳ có em trai là văn sĩ Tchya tức nhà văn, nhà thơ Đái Đức
Tuấn. Hiện ở làng Ngọc Diêm, Quảng
Chính, Quảng Xương có sinh phần của ông trên đó có tấm bia đề Thi sĩ văn sĩ Đái
Đức Tuấn. Tự Mai Nguyệt bút hiệu Tchya. Mất ngày 8/8/1968 tức 15/7 Mậu Thân.
Hữu Loan
dạy học cho 3 người con trai của ông bà Lê Đỗ Kỳ là Lê Hữu Khôi, Lê Đỗ Nguyên (
tức Phạm Hồng Cư ), Lê Đỗ An ( tức Nguyễn Tiên Phong ).
1943 Về
quê Nga Sơn hoạt động Việt Minh.
1944 bị
Nhật bắt nhưng vì không có bằng chứng kết tội nên được thả.
1945
Tham gia tổ chức cướp chính quyền ở Nga Sơn.Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa
huyện Nga sơn
Sau
8-1945 ông tham gia chính quyền Thanh Hóa. Ủy viên Ủy ban kháng chiến tỉnh phụ
trách 4 ty Giáo dục, Tuyên truyền, Công chính, Thương chính… tương đương Phó
chủ tịch tỉnh.
1946 Bỏ
về quê lần 1.
Lý do :
Thời ấy, Hữu Loan nằm trong ban vận động quyên góp ủng hộ cách mạng Tuần lễ
vàng. Người dân đóng góp vàng bạc rất nhiều nhưng có người trong bộ phận quản
lý có dấu hiệu biển thủ, Hữu Loan đã thẳng thừng lên tiếng rồi chỉ mặt từng
người dẫn đến bất đồng.
1946
Tham gia bộ đội Chiến khu 4. Lúc này chưa có sư đoàn 304, chỉ có một số trung
đoàn thuộc Chiến khu 4 ở Thanh Hóa. Hữu Loan phụ trách báo Chiến sỹ CK 4. Đúng
ra đến năm 25/1/1948, Chiến khu 4 đổi
thành Liên khu 4. Ngày 03/6/1957, mới thành lập Quân khu 4 bao gồm 6 tỉnh:
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Ông Hoàng
Tuấn ghi rằng ông đi bộ đội năm 1947.
Có thể
suy ra nếu ông vào thẳng quân đội thì có thể chức vụ cao hơn. Trong tất cả các nguồn
tin về ông không có nói đến ông vào đảng năm nào. Có lần ông có nói đến việc
ông ra khỏi đảng, bỏ đảng.
Viết Đèo
Cả năm 1946 trong chuyến ông đi công tác với một đơn vị Nam tiến của Quân khu
4. Nếu số năm sáng tác bài thơ Đèo Cả là chính xác thì ông phải đi bộ đội năm
1946.
Cùng ở
báo Chiến sĩ còn có nhà thơ Vũ Cao và nhà văn Nguyễn Đình Tiên. Hồi ức của nhà
thơ Vũ Cao:
“Tôi gặp Hữu Loan từ những ngày đầu kháng
chiến chống Pháp. Anh phụ trách tờ báo ‘Chiến sĩ” của Quân khu bốn, còn Nguyễn
Đình Tiên và tôi lo bài vở. Hồi đó chưa có những chức danh Tổng biên tập, Biên
tập viên như bây giờ, cần việc gì thì chúng tôi cứ phân nhau mà làm. Hữu Loan
là một tính cách đặc biệt, rất mạnh mẽ nhưng cũng rất đa cảm. Anh dễ rơi nước
mắt trước một cảnh khổ cực, nhưng cũng dễ giận dữ trước những điều làm anh bất
bình. Có lần anh quát Nguyễn Đình Tiên khiến Tiên phải bỏ chạy ra bờ sông Lam.
Và cũng có lần anh quát tôi suốt buổi khiến tôi mất ăn một bữa. Nhưng Tiên và
tôi không bao giờ oán trách anh, phần vì
anh lớn tuổi hơn bọn tôi, phần vì chúng tôi hiểu anh chỉ nóng nảy lúc
đó, sau lại cười vui, độ lượng. Nhưng chúng tôi không sống chung với anh được
lâu. Sau đại hội văn nghệ toàn quân lần thứ nhất, Tiên và tôi lên Việt Bắc, còn
anh ở lại quân khu”.
Nhà văn Nguyễn Đình Tiên là cậu họ bà Ninh,
người đã thuyết phục Hữu Loan đáp lại thịnh tình của bà Kỳ muốn tác thành ông
cho bà Ninh
1948
Cưới bà Lê Đỗ Thị Ninh con gái ông bà Lê Đỗ Kỳ tại trang ấp Thị Long. Bà Ninh
sinh năm 1932, biết và yêu mến Hữu Loan từ lúc bà còn nhỏ tuổi đang dạy học ba
người anh trai của bà. Lúc cưới Hữu Loan đang đóng tại Thọ Xuân, Thanh Hóa.
29-4-
1948 Bà Ninh bị chết đuối khi đi giặt áo ngoài sông Chuồng ở Thị Long nơi có
trang trại của gia đình, mộ bà Ninh hiện
nay nằm trong khu nghĩa trang của họ Lê Đỗ làng Định Hòa thuộc phường Đông
Cương thành phố Thanh Hóa. Tấm bia ghi: "Mộ chí bà Lê Thị Ninh, đời thứ
18, sinh năm 1932, tạ thế 29-4-1949".
Có chỗ Hữu Loan nói bà mất ngày
29-5-1948 âm lịch.
Nhà thơ
Vũ Cao sau này kể lại: “Hôm ấy ngồi trong một quán nhỏ ở Thanh Hóa, anh báo cho
tôi biết cái tin đột ngột: Lê Đỗ Thị Ninh vừa mất. Bàn tay anh cầm cốc nước run
lên bần bật, nước bắn tung tóe xuống bàn, mặt anh tái xanh…”
1949 Sau
Hội nghị văn nghệ toàn quân Vũ Cao và Nguyễn Đình Tiên về Việt Bắc.
“1949
Viết Màu tím hoa sim khi đang dự chỉnh huấn ở Nghệ An. Ông viết liền một mạch,
xong trong vòng hai tiếng đồng hồ, gần như hoàn chỉnh luôn, sau này ông chỉ sửa
thêm rất ít. Nó là một phần của cuộc đời Hữu Loan, mà có thể lại là phần đẹp và
buồn nhất, nên cho dù ông viết rất thật, rất mộc mạc, nói như Vũ Bằng là “không
có gọt rũa, không có văn chương gì cả”, hay như Vũ Cao “không có chữ nghĩa gì
cả”, nhưng lại có sức lay động tột cùng và có sức sống mãnh liệt. ngay cả trong
những giai đoạn mà tác giả và tác phẩm không được thừa nhận.”
Một hôm
Hữu Loan đi vắng, Vũ Tiến Đức, biên tập viên cũ của ông ở báo Chiến Sĩ, tình cờ
thấy bài thơ, bèn cầm về đọc cho bà Ngọc Chất – mẹ Lê Đỗ Thị Ninh – nghe, sau
đó là bè bạn rồi nhanh chóng được lan truyền rộng rãi vì thơ hay.
Hữu Loan cho biết. Bài thơ được truyền miệng
trong bộ đội nhưng ông bị lãnh đạo đơn vị phê phán vì tình cảm riêng tư làm ảnh
hưởng đến tinh thần chiến đấu của anh em chiến sĩ.
Tại sao
có hiện tượng Màu tím hoa sim? Bài thơ là bước lội ngược dòng hi hữu trong nền
văn học kháng chiến, đường lối văn học của Đảng cộng sản không cho phép tồn tại
bất cứ tác phẩm nào có biểu hiện khó hiểu, ủy mị. Màu tím hoa sim là chuyện
thật và cũng không phải không phổ biến, không điển hình, chỉ có điều nó không được
nói lên, nhất là với một cán bộ quân đội như Hữu Loan. Chính câu chuyện tình bi
thảm của ông có sức tác động mạnh mẽ vì
nó không có màu sắc ý thức hệ, không phải bi kịch ý thức hệ mà lên án bản chất
của chiến tranh mang lại bi kịch cho bất kỳ con người nào. Vì vậy bài thơ có
sức lan tỏa trong toàn cõi Việt nam, làm xúc động bất kỳ ai dù ở chiến tuyến
nào. Sau đó nhiều nhạc sỹ ở miền Nam đã phổ nhạc bài thơ là vì thế.
Ngay sau
khi ra đời Màu tím hoa sim được truyền miệng trong bộ đội đã bị coi là nguy hiểm
vì nó làm ảnh hưởng đến ý chí chiến đấu quân đội. Có thể đã có sự can thiệp của
các cấp chỉ huy và sự va chạm đã khiến tác giả bất mãn. Vì thế cho đến thời kỳ
đổi mới chưa có tuyển tập thơ Việt Nam
hiện đại nào dưới danh nghĩa nhà nước chọn in bài thơ . Tuy vậy bài thơ vẫn có
sức sống mạnh mẽ, da diết trong lòng dân chúng.
3-1950
Chuyển sang Sư đoàn 304 vừa mới thành lập tại Thanh Hóa. Trưởng ban tuyên huấn
cấp Chính trị viên tiểu đoàn Sư đoàn 304
1950
Tướng Nguyễn Sơn đi Trung Quốc. Lê Chưởng về làm Chính ủy sư đoàn 304 (05-1951
- 09-1955)
1951 Bỏ về quê lần 2. Có chỗ ông nói đến mâu
thuẫn với Lê Chưởng và Hoàng Minh Thảo. Cũng có việc bài thơ khóc vợ của ông bị
lãnh đạo đơn vị phê phán, không chấp nhận.
1952 Dạy
học. Gặp bà Nhu. Bà Nhu sinh năm 1935. Anh bà Nhu học ông Hữu Loan. Có tài liệu
nói rằng ông dạy học cho trường tư thục nay là Trường THPT Mai Anh Tuấn, huyện
Nga Sơn, do anh trai bà Nhu thành lập.
1953
Cưới bà Phạm Thị Nhu.
Ông kể
với phóng viên:
“Trong
một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một
gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông
địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của
tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ.
Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay
mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng
trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi,
một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng
tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở
hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến
chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được
tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo
cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ,
nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc
lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông
bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao
vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh
của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi
giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách
rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót,
nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ
đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể
lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói
rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về
ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày
mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về
làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.”
1954
Sinh con đầu Nguyễn Hữu Cương
Cuối
1954 Được gọi ra Hà Nội làm tạp chí Văn Nghệ Hội VNVN. Có tài liệu nói ông làm
trưởng ban biên tập. Nhưng trong tài liệu chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam
về báo Văn ngệ các giai đoạn từ 1954-1958 danh sách Thư ký tòa soạn và Ban Biên
tập không có tên ông.
1955 Đưa
vợ con ra HN. Bà Nhu làm ở nhà máy Dệt kim Đông Xuân. Đẻ thêm hai con gái ở Hà
Nội.
1955 .
Cùng 22 văn nghệ sĩ đi Cải cách ruộng đất. Viết Hoa Lúa để tặng bà Nhu.
1956
Nguyễn Bính in Màu tím hoa sim lần đầu tiên trên báo Trăm Hoa. Tiếp theo in (
Nhà xuất bản Văn Nghệ ) Hoa lúa, có chuyện Xuân Diệu biết Hoa lúa trước do Bạch
Diệp cùng đoàn CCRĐ rất thích gửi về nhưng cho là ủy mị không in trên báo Văn
nghệ.
In Đèo
Cả, Những làng đi qua và Hoa lúa trong Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1956. Đây là
tuyển tập thơ đầu tiên sau hòa bình có đầy đủ các anh tài của nhóm Nhân Văn –
Giai Phẩm. Sau này cho đến trước đổi mới họ đã bị gạt ra khỏi các tuyển thơ
Việt Nam.
Không có
bài trên tập thơ Cửa Biển của Trần Dần, Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Đạt
Không có
bài trên Giai Phẩm mùa Xuân của Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán, Văn
Cao, Sỹ Ngọc, Nguyễn Sáng,
8- 1956
In Bài Đêm trên Giai Phẩm Mùa Thu tập 1. Bài thơ này ca ngợi cuộc sống Hà Nội
mới sau giải phóng.
Những đêm Hà Nội ngày xưa
Trằn
trọc
Không
yên
…
Đêm Hà
Nội
Ngày nay
Như em
nhỏ nằm tròn
Ru trong
nôi chế độ
Những
đèn dài đại lộ
Như
những tràng hoa đêm
Nở long
lanh
Trong
giấc ngủ
Bình yên
Ngã Tư
Sở, Cống Vọng, Khâm Thiên
Nằm ngủ
Những
đêm
Giữa
tình cảm lớn
Gió đêm
về
Thơm hoa
rừng, lúa ruộng
Đặt bàn
tay
Lên
những cửa ô nghèo
Khi
chúng ta về
Ánh sáng
Đã về
theo
(6-56)
9-1956
Viết và in Những thằng nịnh hót trên Giai Phẩm Mùa Thu tập 2. Một bài thơ gây
ấn tượng mạnh mẽ trong Nhân Văn - Giai Phẩm.
Một điều
đau xót
Trong
chế độ chúng ta
Trong
chế độ dân chủ cộng hoà
Những
thằng nịnh còn
thênh
thang
đất sống
Không
quần chùng, áo thụng
Không
thang đàn bà
Nhưng
còn
thang
lưng
thang
lưỡi
Những
mồm
không
tanh tưởi
Ngậm vòi
đu đủ
Trợn mắt
Phùng
mang
Thổi vào
rốn cấp trên
“Dạ, dạ,
thưa anh…
Dạ, dạ,
em, em…”
Gãi cổ
Gãi tai:
… anh
quên ngủ
quên ăn
nhiều
quá!
Anh vì
nước
vì dân
hơn tất
cả
từ trước
đến nay
Chân xoa
và xoa
tay,
Hít
thượng cấp
vú thơm
như mùi
mít
…..
Những ai
không
nịnh hót
Đi, mang
cao
liêm sỉ
con người
Chúng
gieo hoạ gieo tai
Kiểm
thảo
hạ tằng
Còn quy
là phản động!
Có người
đã chết
oan
vì chúng
Vẫn
thiết tha yêu chế độ
đến hơi
thở cuối cùng
Nguy
hiểm thay,
Thật khó
mà trông:
Chúng nó
nguỵ trang
Bằng tổ
chức
bằng
quan điểm nhân dân
bằng lập
trường
chính
sách
Chúng nó
còn
thằng nào
Là chế
độ ta
chưa sạch
Phải làm
tổng vệ sinh
cho kỳ
hết
mọi
thằng
Những
người
đã đánh
bại
xâm lăng
Đỏ bừng
mặt
vì những
tên
quốc xỉ
Ngay
giữa những thời nô lệ
Là người
chúng ta
không ai
biết
cúi đầu.
9-1956
In bài
Tâm sự Thủ đô trên báo Trăm Hoa số 8, 12-1956. Không có vấn đề gì phức tạp.
Không có
bài trên GPMT tập 3
10-1956
In truyện ngắn Lộn sòng trên Giai Phẩm Mùa Đông tập 1. Viết về một giáo viên cơ
hội, xảo trá lợi dụng danh nghĩa đảng viên, chiếm quyền bí thư chi bộ, gài bẫy,
hãm hại các đồng nghiệp lương thiện. Đó là một truyện ngắn có chủ đề rõ ràng
nhưng chưa xuất sắc so với các truyện, kịch khác trên Nhân Văn- Giai Phẩm của
Trần Duy, Trần Dần, Thụy An, Phan Khôi, Hoàng Tích Linh, Chu Ngọc, Thanh Châu…
Hữu Loan
không có bài trên 5 số báo Nhân Văn
Viết Tục
Đèo Cả, đến năm 1983 mới viết xong.
11-1956
viết thơ Nguyễn Sơn
In Ôm
Tết vào lòng 12-1956 Nguồn: Giai phẩm, NXB Văn nghệ, Hà Nội, xuân 1957. Không
có vấn đề gì phức tạp.
Tháng
11-1957 In Đánh đồn đêm 30 Tết trên Sách
Tết 1957, Nhà xuất bản Minh Đức. Số báo cuối cùng của nhóm Nhân Văn – Giai
phẩm. Không có vấn đề gì.
Trong Từ
điển Văn học bộ mới do NXB Thế Giới in tháng 11năm 2003 mục từ Hữu Loan trang 680 Văn Tâm viết ông
làm Tổng biên tập các tập Giai Phẩm. Trong các tài liệu về nhân Văn –Giai Phẩm
không có tài liệu nào viết như vậy.
4-1957
Ông dự Đại hội thành lập Hội nhà văn Việt Nam, trở thành một trong những hội
viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam.
In một
bài thơ Thử trên báo Văn số 27 ngày 15 tháng 11-1957
Trong 2
năm 1957-1958 Hữu Loan trải qua các cuộc kiểm điểm căng thẳng trong nội bộ tạp
chí Văn Nghệ của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Vì có bài tham gia
báo Giai Phẩm,nhất là bài Cũng những thằng nịnh hót tên ông bị chỉ trích trên
một số bài báo, tham luận tham gia đấu tố Nhân Văn - Giai Phẩm.
1958 Ông
viết đơn xin nghỉ việc. Ông và gia đình nói rằng từ lúc viết đơn đến lúc bỏ về
ông chờ mất 2 năm. Nhà văn Nguyễn Tuân lúc đó là Phó Chủ tịch cơ quan muốn giữ
ông ở lại nhưng ông quyết bỏ về.
1959
Theo ông Trần Duy người chứng kiến cảnh buổi sáng ông Hữu Loan cùng gia đình
dùng xe ba gác chở đồ từ Khu tập thể nhà cán bộ Hội Văn Nghệ Việt nam ở 51 Trần
Hưng Đạo ra ga Hàng Cỏ lên tàu hỏa về quê.
Một
nguồn báo hải ngoại nói ông Hữu Loan ‘’Bỏ về quê lần thứ 3 sau khi phong trào
Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải vào trại cải
tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương.’’là không đúng. Hữu Loan
không bị kỷ luật, ông bị phê bình, khiển trách. Tạp chí Văn Nghệ nơi ông làm
việc là cơ quan ngôn luận của Hội Văn Nghệ Việt nam còn là một trong những
thành trì văn nghệ chống NVGP.
Tại sao
với tính cách cương cường như vậy mà Hữu Loan tham gia phong trào NVGP chậm và
với một vị trí khiêm tốn. Bài thơ làm ông nổi tiếng từ trước đó Màu tím hoa sim
như là một ngoại lệ của chủ nghĩa nhân đạo trong đời sống và văn học kháng
chiến. Có thể là Hữu Loan với vị trí công tác ở đơn vị xa trung tâm văn nghệ
Việt Bắc như Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Văn Cao, Trần Duy… hoặc không ở cơ quan
văn nghệ đầu não của quân đội như Trần Dần, Hoàng Cầm, , Phùng Quán, Trần Công,
Tử Phác,... Có thể do việc bài thơ Màu tím hoa sim bị phê phán, do ý kiến phê
bình ông đăng bài trên Giai Phẩm và Trăm Hoa, đặc biệt bài Cũng những thằng
nịnh hót mà ông tức mình muốn bỏ cơ quan, bỏ môi trường văn nghệ phức tạp ở Hà
Nội để về quê sinh sống.
Môi
trường văn nghệ Hà Nội từ đầu năm 1957 và năm 1958 hết sức phức tạp. Báo chí
Nhân Văn – Giai Phẩm và báo chí, nhà xuất bản tư nhân đã bị dẹp bỏ. Các cuộc
đấu tố, bắt bớ xảy ra liên tục khắp các
cơ quan, báo chí. Khung cảnh bi hài bao trùm văn nghệ sỹ, tố giác, tố cáo, lừa
thày, phản bạn, nhân cách con người phơi bày hết xấu xa đốn mạt không còn cái
gì là cao thượng, cao quý của văn chương nghệ thuật nữa. Trường hợp như Hữu
Loan ngoài việc phải chứng kiến thực trạng văn nghệ ông còn mất cảm hứng sáng
tác và có sáng tác cũng không được xuất hiện trên mặt báo. Từ tháng 4-1957 Tạp
chí Văn Nghệ của ông đã chuyển dạng tạp chí chuyên về lý luận phê bình và từ
tháng 6-1958 ông Hoài Thanh đã thay ông Nguyễn Đình Thi là Thư ký tòa soạn. Chắc
hẳn người phụ trách mới vốn là một trong những tiên phong chống Nhân Văn – Giai
phẩm sẽ là nỗi khó chịu cho Hữu Loan.
Tháng
5-1958 sau khi báo Văn bị đình bản, báo Văn Học, 25-5-1958 tuần báo mới của Hội
Nhà văn đã được thành lập nhưng Hữu Loan cũng không được điều động về. Trong
danh sách đi thực tế và trợ cấp sáng tác của hội Nhà văn cũng không thấy tên
ông.
Khoảng
giữa năm 1959 Hữu Loan mới rời Hà Nội. Vì người con thứ ba, con gái là Nguyễn
Thị Hà tuổi mậu Tuất 1958 đẻ ở làng Ngọc Hà. Trong mấy năm Hữu Loan đã có 3
người con nhỏ, đó cũng là một gánh nặng đối ông và bà Nhu.
Từ 1959
đến 1987 ông tự kiếm sống và nuôi vợ con bằng bằng nghề thồ đá, vác đá.
“Con người từ nhỏ đã gánh nặng hai bồ chữ trên
vai chẳng biết gì ngoài viết lách và làm thơ ấy, do mưu sinh đã tự biến mình
thành người lao động chẳng khác gì khổ sai - đi thồ đá, vác đá ở núi Vân Hoàn -
để nuôi 12 miệng ăn. Có lẽ câu tục ngữ bán mặt cho đất bán lưng cho trời còn
chưa đủ để lột tả hết những tận cùng quẫn bách và u uẩn mà ông đã trải qua. Ông
đã dùng hai vai mình để vác đá, mỗi ngày trên 5 tạ đá. Theo cách tính bình
quân, trong suốt 30 năm ông đã mang trên mình gần 5000 tấn đá. Nhưng cái sức
nặng nghìn cân ấy không làm ông đau bằng những ám ảnh nội tâm mà dư luận một
thời bủa vây ông và gia đình.”
"Tôi
đẩy xe đi
đá nặng
dốc dài
Dốc
chang chang trên nắng dưới người
Nắng
chảy ròng ròng từ lưng trần từ râu không cạo".
Năm 1982
viết Ái hoa và nấm độc. Là bài thơ dài. Mới chỉ trích trên tạp chí Sông Hương
số 32 năm 1988 ba trang chưa in lại ở đâu. Những đoạn thơ này lên án chiến
tranh, lên án chủ nghĩa cuồng tín, ca ngợi khát vọng hòa bình của loài người.
Trên đất
lành
nếu đem hạt cỏ ta tung
sẽ mọc ngay
xanh rì
mùa cỏ
Nếu đem
gieo ré đó
bón phân gì đi nữa
cũng không
thành
tấm thơm
(thu
hoạch dù bội hơn
bông nhiều và hạt
mẩy)
Rặt nòi
là như vậy
hay
nòi nào thì giống nấy
*
Vào
không gian mênh mông
nếu ta tung hoa lành
gió lên
mùa hương
ngát...
Năm
1986:
Đại hội ĐCSVN lần thứ VI với đường lối đổi
mới, cởi trói cho VHNT.
Trần Độ được cử làm Trưởng ban Văn hóa văn
nghệ trung ương.
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp gỡ văn nghệ
sĩ, trí thức tiêu biểu, với lời
phát
biểu nổi tiếng: Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu. Trong buổi này có một số
người đặt vấn đề xem xét lại vụ Nhân Văn – Giai Phẩm.
Nghị quyết 05 Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt
Nam : Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật và văn
hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển
lên một bước mới.
Công an và các ban ngành liên quan tiến hành
làm chính sách cho các đối tượng NVGP. Tác giả được Bộ Công an giao viết báo
cáo về tình hình các đối tượng NVGP và đề xuất phương hướng giải quyết chế độ
chính sách.
Phục hồi hội tịch cho Trần Duy, Trần Dần,
Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt, Phùng Quán. Giải quyết chế độ lương hưu cho
Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung.
Cuối
1986 Ông Thái Kế Toại A25 BCA trực tiếp về Thái Bình giải tỏa cho ông Nguyễn
Hữu Đang
A25 Bộ
Công an làm việc với Công an Thanh Hóa về phục hồi chế độ cho Hữu Loan (
GồmTổng Cục Phó kiêm Cục Trưởng A25 Nguyễn Quang Phòng, Phó trưởng phòng ANVH
Thái kế Toại với Phó GĐAN Công an Thanh Hóa, Trưởng phòng PA25 Thanh Hóa- anh
Chung ). Công an Thanh Hóa bãi bỏ các biện pháp theo dõi nhà thơ Hữu Loan tiến
hành bàn với Hội Văn học nghệ thuật và các cơ quan chức năng Thanh Hóa phục hồi
quyền công dân cho ông Hữu Loan.
1987 Bà
LĐK mất tại HN.
“Gia
đình "nàng thơ" Mầu tím hoa sim cho biết Hữu Loan luôn thương, kính
và biết ơn người mẹ vợ Đái Thị Ngọc Chất.
Tuy
nhiên, có lẽ vì hai bên "có khác nhau" nên ít liên lạc. Đến khi người
mẹ mất ở Hà Nội, gia đình ông cũng không báo.
Khi biết
tin, Hữu Loan đã làm đôi câu đối vừa thể hiện dâng mẹ, vừa ẩn ý trách cứ.
Rể khôn
đền, gái ngắn phận sao đền, ơn cứu, ơn mang, ơn đoán, giữa một tương lai nhân
cách.
Sống khó
gặp, chết vì sao không gặp, khóc nguồn, khóc núi, khóc ai cùng đương đại loạn
thiên lương.”
Ông Lê
Đỗ Bình người em bà Ninh cho nhà báo Thái Lộc- Sơn Lâm biết như vậy.
Theo tác
giả thời điểm đó có thể Vấn đề Nhân văn – Giai Phẩm vẫn còn là một rào cản quan
hệ hai bên. Suốt một thời gian dài ông không gặp lại được bà Kỳ. Dù rằng cá
nhân ông Lê Đỗ Bình vẫn có quan hệ thân thiết với Hữu Loan. Ông cho biết:
“Ông nhớ
mãi Hữu Loan hồi đó "suốt ngày đọc sách, rồi đi ra đi vào, viết lách làm
thơ. Thỉnh thoảng anh đưa tôi đi về mấy xóm chài xem họ xúc tép, làm cá. Cái
thời cơm gạo khó khăn, hai anh em ăn toàn khoai lang".
Sau đó
không lâu, khi Hữu Loan đang làm báo Văn Nghệ, ông Bình cũng tìm đến nhà anh rể
gần Văn Miếu - Quốc Tử Giám ở lại 2 tuần để chờ một người anh từ chiến khu trở
về.
Năm
1985, ông Bình lại về thăm anh rể ở Vân Hoàn, giai đoạn bài thơ Mầu tím hoa sim
"đã công khai, nổi tiếng như cồn". Ông kể: "Anh Loan bảo tôi:
"Người ta sẽ đến đây tìm mộ nàng thơ Mầu tím hoa sim. Tôi muốn đưa mộ bà
Ninh về Vân Hoàn này".
Tôi trả
lời anh rằng chị gái đã bị di dời nhiều lần, nay đã mồ yên mả đẹp. Vả lại anh
bây giờ đã yên bề gia thất, mười người con sum vầy, có người chăm sóc. Đưa chị
về đây cũng cô quạnh lắm, chẳng nên chút nào".
Năm
1987:
Hoàng
Cầm in tập thơ trở lại đầu tiên Mưa Thuận Thành, NXB Văn hóa.
Phùng
Quán in trở lại tên công khai đầu tiên trên báo Quảng Nam- Đà Nẵng Trường ca
Cây Cà.
Tháng
11-1987 sau gần 30 năm Hữu Loan tái ngộ Hà Nội. Tác giả gặp Hữu Loan tại nhà
ông Hoàng Tuấn. Ông Tuấn giới thiệu là chú em họ. Sau này con trai út của Hữu
Loan nói hai người là con già con dì. Cũng thời gian này ông Thái Kế Toại đang
làm các thủ tục giải tỏa cho ông Nguyễn Hữu Đang, có lần đã nhờ ông Hoàng Tuấn
chữa bệnh cho ông Đang, đã có trong bài Chuyện giải tỏa cho ông Nguyễn Hữu
Đang.
Năm
1988:
Tháng
1-1988 Hữu Loan đi miền Nam. Thăm Tp HCM và các tỉnh Nam Bộ.
Văn Cao
xuất bản tập thơ Lá, NXB Tác phẩm mới, với sự ủy nhiệm cho các thi hữu đàn em
Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo tuyển chọn biên tập.
Nguyễn Hữu Đang được chuyển lên Hà Nội, được
cấp nhà.
5 -1988
Tạp chí Langbian số 3 in chùm thơ Hữu Loan ( Đèo Cả, Tục Đèo Cả ). Mở đầu cho
việc in trở lại các tác phẩm của Hữu Loan. Trong số này có Đề cương đề dẫn văn
học của Nguyên Ngọc. Bùi Minh Quốc đang làm Chủ tịch Hội VHNT Lâm Đồng và phụ
trách tạp chí. Ngay sau đó tạp chí bị đình bản.
Tháng
6-1988 viết bài thơ Chuyện tôi về tại Đà Lạt, như là tổng kết lại cuộc đời của
ông.
- Kính
chào anh Hữu Loan
anh Từ
Thức Nga Sơn
ba mươi
năm về động Hoa Vàng!
Đấy là
câu chào tôi
ở trụ sở
Hội Nhà văn Bình Trị Thiên
của
Hoàng Phủ Ngọc Tường
….
Ba mươi
năm là theo ý riêng mình
ở một
chính thể không ai được
có thái
độ thứ ba
ba mươi
năm khắp nước
bạn bè
run sợ
tò mò vô
vàn
nhưng
đến thăm
đến thăm
thì đều
nơm nớp
sợ liên
quan
chỉ biết
rằng
cái tên
Hữu Loan
đã đi
vào truyền thuyết
vậy thì
những
chuyện xung quanh
Hữu Loan
là có
thật
hay là
thêu dệt
…
Ba mươi
năm không phải chuyện
một sớm
một chiều
một ngày
tù đã dài
như thế
kỷ
đấy là
tù trong ngục tối
không
nghe thấy gì
không
nhìn thấy gì
khác vô
cùng với tù
ngoài
đời, tù giữa chợ
lúc nào
cũng phải chứng kiến
phải
thấy
phải
nghe
một thứ
tội hình
tâm lý
chiến
lăng trì
hoặc
không cho vợ đi chợ
hoặc
không cho mình đi thồ
hoặc
tháng mấy lần
phải lên
Huyện Công An
bắt làm lại
làm đi
nhai lại
nhai đi
thứ tự
thuật mớ đời
một
trong những kiểu vân vân
người
làm tội sống người
….
tai hoạ
lớn nhất của các quốc gia là liên tiếp dắt dây
những
sai lầm lịch sử
những
sai lầm được
đội
vương miện
mặc long
bào
được vừa
tung, vừa thổi
rất cao
lên tầm
siêu vũ trụ
Người
chịu kiếp kiếp đời đời
trâu
ngựa
vẫn là
người dân đen
nhất là
người phụ nữ
vốn dĩ
hiền lành và nông nổi
dễ tin
Hỡi
những sử gia
của các
dân tộc khắp miền
phải
đánh giá lại
thế nào
là cứu tinh nhân loại
thế nào
là cứu nước cứu dân
và phải
đặt những tiêu chuẩn nào
để được
tôn thờ là
anh hùng
dân tộc.
Thế là
tôi đã làm được
cho họ
chán tôi
làm họ
chán họ mới là
cái khó
nhưng
việc này hình như
không
phải việc người
mà là
việc của quỷ thần
Họ chán
tôi nên
tôi được
đi thồ quanh quẩn
huyện
nhà
Họ giữ
đăng ký xe
cho tôi
khỏi đi xa
vì họ sợ
tôi còn thích làm
chính
trị
Không bị
quấy rầy
tôi thồ
liền
không
ngày nào nghỉ
nên đã
mua được xe cải tiến
trung
quốc cho mấy thằng
con trai
cùng đi làm trâu
thồ như
bố
và đứa
con gái bé đi học
đã có xe
phượng hoàng nữ
Họ chán
tôi nên
tôi được
tí teo dễ thở
Nhưng họ
chưa chán họ
Cái ác
càng ngày vẫn còn
Thấy
mình là muôn
trượng
đỉnh cao
bắt đứng
lại
thời
gian
và quát
tháo trăng sao
dưới
chân đang
Đất sụt
Tháng
6-88
Trong
thời gian ở Đà Lạt, Hữu Loan có ghi vào sổ tay của nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự Phó
TBT Tạp chí Langbian mấy câu thơ sau:
“…Tôi là cây
gỗ
vuông
chành
chạnh
suốt đời
đã làm thất bại
mọi âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc thế nào
thì long lóc
Chân
tính
đấy
hỡi Rìu, Bào
Phó – Mộc”
(Chuyện
Di Tề)
Tháng 7
– 1988, số 32 tạp chí Sông Hương lần đầu tiên in thơ Hoàng Cầm ( Lá diêu bông,
Theo đuổi, Về với ta) và Hữu Loan ( Phương gió, Nguyễn Sơn, Ái hoa và nấm độc
). Ngoài ra còn có bản nhạc phổ thơ Màu tím hoa sim của Bùi Công Huân, tiểu
thuyết Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập cây bút cấp tiến mới nổi
và thơ Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình của Trần Vàng Sao.
1989 Kỳ
đại hội Hội nhà văn lần thứ tư, ông cũng ra Hà Nội. Hữu Loan là hội viên sáng
lập Hội Nhà văn Việt Nam, nhưng ông đã ngưng sinh hoạt Hội từ năm 1959. Hoàng Cầm, Trần Dần, Hoàng Yến,
Lê Đạt, Phùng Quán, Phan Vũ… cũng bỏ sinh hoạt như ông nhưng nay đã về dự đại
hội vì trước đó đã gửi thư yêu cầu đến Ban Chấp hành Hội Nhà văn và Ban Chấp
hành xét cho sinh hoạt trở lại.
Còn Hữu
Loan không gửi thư cho Ban Chấp hành, vì thế mà không có giấy mời. Ban Chấp
hành biết chuyện nhưng ban trù bị bận trăm công nghìn việc nên không thể giải
quyết hội tịch cho ông, nhất là ông chưa có thư yêu cầu.
1990 NXBHNV in Màu tím hoa sim chỉ
có 10 bài thơ. Tập thơ dày 92 trang, khổ 13 x 19cm, chỉ có10 bài thơ của Hữu
Loan: Ngày mai, Màu tím hoa sim, Những làng đi qua, Hoa lúa, Phương gió, Tò he,
Nếu anh không đi, Đèo Cả, Quách Xuân Kỳ, Yên Mô; phần còn lại là những ghi chép
bởi Vũ Cao, Nguyễn Sĩ Đạt, Ngô Văn Phú, Đào Bích Nguyên. Kỷ yếu Nhà văn Việt
Nam hiện đại xuất bản năm 1992 in trong mục Hữu Loan MTHS xuất bản năm 1989.
Sau này,
có thêm 7 bài thơ khác của ông được tìm thấy, bao gồm: Tình thủ đô, Khóc Nguyễn
Sơn, Thánh mẫu hài đồng, Chuyện tôi về, Cùng những thằng nịnh hót, Đêm, Ôm Tết
vào lòng. Như vậy, tất cả những sáng tác của Hữu Loan (không tính những bài thơ
dịch) vỏn vẹn chưa tới 20 bài.
Thanh
Hóa Làm chế độ cho Nguyễn Hữu Loan. Lương chuyên viên 3. Ông Nguyễn Văn Túy Phó
Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hóa xác minh.
Năm
1988, Hữu Loan đi thành phố Hồ Chí Minh, rồi ghé Lâm Đồng, Long An, Đồng Tháp,
An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bà Rịa, Phan Thiết, Nha Trang, Buôn Ma
Thuột, Pleiku, Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Quảng Nam - Đà Nẵng, Huế, Đồng Hới, Hà
Tĩnh. Cùng Bùi Minh Quốc và Tiêu dao Bảo Cự mở chuyến đi xuyên Việt lấy chữ ký
kiến nghị về việc kỷ luật Bùi Minh Quốc và tạp chí Langbian.
Năm
1990, ông quay lại Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh.
1991
Viết Thánh Mẫu hài đồng tưởng nhớ bà Lê Đỗ Thị Ninh sau 42 năm ngày cưới.
Em ngả
cánh tay còn nhiều
ngấn sữa
Cho ta
làm gối gối đầu
đêm tân
hôn
Sao lại
không chính là tay ta
đỡ trước
lấy vai nàng
Ta râu
ria như râu thép gai
như
xương chổi
Gân guốc
sù xì phong sương
như một
gốc cây rừng
Ta lo
lắng sợ tay nàng gãy
Tay nàng
mảnh mai như một
nhánh
huệ trong bình!
Nhưng lạ
thay
nàng ghì
đầu ta như
chẳng hề
hấn chuyện gì!
Chỉ có
chuyện là
ta thấy
ta càng lúc
càng
thêm nhỏ bé trong
vào ngực
măng tơ
Chà dụi
Rúc tìm
Tham lam
Cuống
quýt
Ngẩn ngơ
như một
hài nhi
khát
mẹ
Nàng
càng riết chặt
ta càng
thấy bé
Vòng tay
nàng đánh đai
Nàng thì
thào thổn thức
bên tai
- Anh
của em!
- Anh vô
cùng lớn của em!
Nhưng
trái lại
Anh đang
rất bé.
Nàng:
- Anh ơi
anh!
Ta:
- Mẹ ơi
mẹ!
Bằng một
giọng học nói
Hài nhi
bập bẹ
(trong
hơi thở trộn nhau
bốc men)
- Tôi
đối thoại hay là
vô thức
nói.
*
Sau đêm
ấy là
em đi
đi
mãi!
Em đi
tím đất chiều hoang
Ta như
mất mẹ khóc
tang
hai
lần!
*
Xin kính
cẩn hôn chân
Tất cả
những đấng gái Việt Nam
Đã sớm
mang chất
mẹ
loài
người.
*
Em trong
mẹ
Mẹ trong
em
em
ngôi
thánh
mẫu
hài đồng
Năm 1995, ông tiếp tục thăm lại Hà Nội. Dự Đại
hội Hội Nhà văn Việt nam lần thứ 5.
Hội VHNT
TH trao giải cho Màu Tím Hoa Sim
Thanh
Hóa làm nhà cho Hữu Loan
“Cám
cảnh túng khó, khoảng năm 1990 Hội Văn nghệ Thanh Hóa đã quyên góp được chừng
20 triệu đồng có ý in giúp Hữu Loan tập thơ bán lấy tiền hỗ trợ. Nhưng về Vân
Hoàn thấy căn nhà quá dột nát, họ chuyển hướng xây nhà cho cụ.
Hội cử
người sang gặp lãnh đạo Tỉnh ủy Thanh Hóa xin thêm 20 triệu đồng, nói để in thơ
cho Hữu Loan nhưng thực chất bù tiền làm nhà. Vị phó bí thư tỉnh ủy lúc ấy đã
"quyết" những 22 triệu nên ngôi nhà tình nghĩa (nay còn thấy) mới
được tiến hành.
Người
trực tiếp lo việc này là ông Nguyễn Văn Túy, kể: "Chúng tôi phải đấu dịu
là tiền do anh em trong hội văn nghệ quý mến góp lại, cụ mới đồng ý".
Ban đầu
thi sĩ Mầu tím hoa sim đưa ý tưởng làm nhà giữa ao, trên mấy trụ bêtông rồi bắc
cầu sang để trồng sen tỏa hương. Nhưng ông Túy bảo tiền chỉ đủ dựng mấy cái cọc
và tấm lát cầu nên ông mới đồng ý theo bản vẽ do một kiến trúc sư chuẩn bị từ
trước.
Hồi đó
việc xây nhà "quy mô" ở Nga Sơn là cả vấn đề lớn, bởi "vài cọng
thép, mấy bao ximăng chở đi ngoài đường cũng phải có giấy phép".
Cũng may
nhờ có giấy phép cấp trên và những người thực hiện trong vai cán bộ cấp tỉnh
lẫn ý kiến từ trên tác động mà công việc tiến hành thuận tiện. Kể cả việc mở
mới lối đi cho xe chở vật liệu ngay sau đình”
Hữu Loan
mất ngày18 tháng 3, 2010 tại quê nhà. Trong lễ tang nhà thơ Hữu Thỉnh Chủ tịch
HNVVN đọc điếu văn.
8-2-2007
Giải thưởng nhà nước về VHNT ( ký đặc cách ) cho Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt,
Phùng Quán. Trước đó 1996 Văn Cao đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT lần
thứ nhất do Hội Nhạc sĩ đề nghị. Năm 2001 Quang Dũng, Trần Huyền Trân, Yến Lan,
Phạm Kỳ Nam đã được trao Giải thưởng Nhà nước về VHNT. Cho đến nay ở các lĩnh
vực khác các ông Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Tư Nghiêm,
Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về
VHNT, nhiều ông khác trong danh sách bị phê phán trong vụ NVGP đã được trao
GTNN về VHNT.
3-2012
GTNN cho Hữu Loan. Hữu Loan cũng đã được đề nghị tương đối sớm nhưng lý do chậm
là vì đúng vào thời điểm đó ông đã trả lời phỏng vấn báo hải ngoại và được Tạp
chí Khởi hành trao giải thưởng.
Năm
2007, nguyệt san Khởi Hành (do nhà thơ Viên Linh chủ nhiệm kiêm chủ bút, trụ sở
chính hiện đặt tại Litle Saigon, quận Cam, California, USA) trao giải "Văn
chương toàn sự nghiệp" đến nhà thơ Hữu Loan. Giải thưởng trị giá 5.000
USD, gồm 3.000 USD hiện kim và 2.000 USD nhằm ấn hành tập thơ.
Ngày
18-5-2013 bà Phạm Thị Nhu mất.
Các con
của Hữu Loan
1.Nguyễn
Hữu Cương (sửa xe máy). 2. Nguyễn Thị Hương (giáo viên THCS); 3. Nguyễn Thị Hà
(buôn bán); 4. Nguyễn Hữu Vũ (thợ cơ khí); 5. Nguyễn Hữu Lập (tài xế); 6.
Nguyễn Thị Chung (làm ruộng); 7. Nguyễn Thị Dinh (hoạ sĩ); 8. Nguyễn Hữu Đán
(kiến trúc sư); 9. Nguyễn Thị Ứng (thợ may); 10. Nguyễn Thị Triêu (thợ cơ khí).
Anh em
bà Lê Đỗ Thị Ninh
Anh đầu
Lê Đỗ Khôi (liệt sĩ trong trận Điện Biên Phủ), anh kế Lê Đỗ Nguyên (tức trung
tướng Phạm Hồng Cư) và Lê Đỗ An (nguyên Phó Ban Dân vận Trung ương Đảng Nguyễn
Tiên Phong).
Các em
là Lê Đỗ Khang, Lê Đỗ Bình, Lê Đỗ Thái và “em chưa biết nói” là Lê Thị Như Ý
(lúc ấy chưa đầy 2 tuổi, đang là giáo viên về hưu ở Hà Nội)
LỜI CUỐI
Trong
cuộc kháng chiến 9 năm phạm vi công tác, làm việc của Hữu Loan chỉ ở một địa
phương xa Việt Bắc. Ông cũng không ở những cơ quan đầu não văn nghệ trung ương
hoặc đầu não chính trị quân đội. Ông cũng không phải là thủ lĩnh của Phong trào
Nhân Văn Giai Phẩm. Bài viết và tần số xuất hiện từ Hữu Loan cũng không nhiều
như những Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, PhùngQuán…
Hơn 30
năm sống ẩn dật quê Nga Sơn ông không tham gia đời sống văn nghệ, không đi ra
khỏi Thanh Hóa. Màu tím hoa sim không được phổ biến công khai trên sách báo.
Nhiều bạn bè, công chúng không có tin tức về ông.
Chỉ từ
khi đất nước đổi mới, được giải tỏa, trở lại sinh hoạt bình thường trong đời
sống văn nghệ Hữu Loan mới được phổ biến tác phẩm của mình, công chúng mới được
đọc Hữu Loan từ Đèo Cả, Màu tím hoa sim tới những bài thơ mới nhất viết sau đổi
mới.
Vậy thì
tại sao từ khi trở lại văn đàn Hữu Loan được công chúng yêu mến với một tình
cảm kỳ lạ và nồng nhiệt như vậy. Có lẽ câu trả lời là ở cuộc đời ông, như những
gánh đá mà ông đã gánh quá ư đau đớn, cực khổ, ở mối tình bất hủ của ông với bà
Lê Đỗ Thị Ninh, ở cái Màu tim hoa sim – một màu sắc đặc biệt ông đã mang vào
nền văn chương kháng chiến, ở tiếng thét phẫn nộ chửi những thằng nịnh hót
trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, ở tinh thần tuẫn nạn khí khái quyết liệt
của ông trước bất công, cường quyền, không màng danh lợi. Thật hiếm có một kẻ
sĩ như thế trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Ông đã
tự phác họa chân dung mình ở một đoạn trong bài Chuyện tôi về :
“Chuyện
Hữu Loan là chuyện
Một vạn
chín trăm năm mươi ngày gấp hơn
mười lần
chuyện Ba Tư
vô cùng
căng thẳng
Giữa hai
bên
một bên
là chính quyền có
đủ thứ
nhân dân
quân đội
nhân dân
tòa án
nhân dân
nhà tù
nhân dân
và nhất
là
cuồng
tín nhân dân
thứ bản
năng ăn sống
nuốt
tươi
ăn lông
ở lỗ nguyên thủy
được huy
động đến
tột cùng
sẳn sàng
hủy
cũng như
tự hủy
một bên
nữa là
một
người tay không
với
nguyện vọng
vô cùng
thiết tha
được làm
người lương thiện
nói
thẳng
nói thật
bọn ác
bọn bịp
thì chỉ
tên vạch mặt
người
nhân thì
xin thờ
như
Thuấn Nghiêu”
Hà Nội
mùa Covid 2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét