QUỶ CỐC TỬ CUỐN SÁCH LẠ KỲ XƯA NAY
Quỷ Cốc
tử vừa là hiệu của Quỷ Cốc, đồng thời cũng là tên gọi của một cuốn sách
Con
người kỳ lạ bao nhiêu thì cuốn sách cũng kỳ lạ bấy nhiêu! Gọi là thiên cổ kỳ
thư
Quỷ Cốc
tử là một cuốn sách chân hay nguỵ? Thật hay giả?
Chân tức
là chính tay Quỷ Cốc viết. Giả là người đời sau viết và gán cho Quỷ Cốc
Cuộc
tranh luận cũng đã tốn rất nhiều giấy mực và không ngừng nghỉ. Hàng trăm cuốn
sách nghiên cứu, mỗi cuốn sách đều nêu giả thuyết khác nhau nhưng quy về ba giả
thuyết chính:
Cuốn Quỷ
Cốc tử là do Quỷ Cốc viết (Trung hưng thư mục, Đàm thư chí…)
Cuốn Quỷ
Cốc tử là do Tô Tần, đại đệ tử của Quỷ Cốc viết (Tân Dường thư, Nghệ văn chí…)
Cuốn
sách này do ngừơi đời Lục triều là Ngụy Trát viết và gán cho Quỷ cốc (Cổ nguỵ
kim thư khảo). Gọi là nguỵ thư
Mỗi tác
giả đều đưa ra nhiều chứng cứ để bênh vực cho giả thuyết của mình. Cuộc tranh
luận chắc vẫn còn sôi nổi. Ngừơi ta chỉ chờ môn khảo cổ làm trọng tài, khi tìm
ra được chứng liệu xác thực
II. Tứ đại gia chú giải
Cuốn Quỷ
Cốc tử được nhiều học giả quan tâm và chú giải rất sớm. Nhưng có bốn người nổi
tiếng, gọi tứ đại gia về chú giải
1. Lạc
Phong là ngừơi chú giải cuốn Quỷ Cốc tử sớm nhất trong lịch sử.
Không rõ
niên đại nhưng người ta ước tính vào thời Nguỵ -Tấn
2. Hoàng
Phủ Thuỵ khoảng 215-282
3. Doãn
Tri Chương, không rõ năm sinh
4. Đào
Hoằng Cảnh khoảng vào năm 452-536
III. Quyển và chương mục
Sự phân
chia quyển và, thiên, chương mục cũng khá phức tạp
Theo các
nhà nghiên cứu thì cách phân chia của Đào Hoằng Cảnh là tương đối hợp lý. Gồm
ba quyển, thượng, trung và hạ
1. Quyển
thượng có 4 thiên: Bãi hạp, Phản ứng, Nội kiện, Đê
2. Quyển
trung gồm 8 thiên: Phi kiềm, Ngỗ hợp, Suỷ, Ma, Quyền, Mưu, Quyết, Phù ngôn
3. Quyển
hạ gồm hai phần: Bản kinh âm phù và Trung kinh (Trì khu)
Riêng
trong sách này được chia làm 13 chương. Gồm 47 mưu kế. Phần bản Kinh âm phù và
Trung kinh gọi là Trì khu được tóm lược ở phần giới thiệu chung
LỜI NÓI ĐẦU
Quỷ Cốc
Tử (Gui Guzi-鬼谷子) là nhân vật trong
lịch sử cổ đại Trung Quốc. Họ tên không rõ ràng con người ông được người đời
sau hư cấu nên mang tính huyền bí, theo sách Đông Chu Liệt Quốc thế kỷ 1 TCN
tên ông là Vương Hủ, người đời Tấn Bình Công Trung Quốc, là bạn thân của Tôn Tử
và Mặc Địch. Ông là một nhà tư tưởng, nhà truyền giáo, có rất nhiều học trò
theo học, trong số đó có nhiều người trở nên nổi tiếng thời Xuân Thu Chiến
Quốc. Bốn học trò được nổi tiếng hay được nhắc đến là Tôn Tẫn người nước Tề,
Bàng Quyên và Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần người Lạc Dương (kinh đô nhà
Chu)
Theo các
sách sử, ông là người thông thạo pháp thuật, kiến thức sâu rộng, sau khi về ở
ẩn, ông sống trong một hang núi gọi là "Quỷ Cốc" (hang quỉ), bởi chỗ
đó núi cao, rừng rậm, âm khí nặng nề, không phải chỗ cho người ở. Tên "Quỷ
Cốc Tử" do ông tự đặt ra cho mình. Người đời thường gọi ông là Quỷ Cốc
tiên sinh. ông sống thọ và được coi là ông tổ của các thuật tướng số, bói toán,
phong thuỷ ...
QUỶ CỐC
TỬ là tên của 1 nhân vật kỳ lạ, đồng thời là tên 1 cuốn sách lạ kỳ nhất xưa nay
trong lịch sử TRUNG QUỐC. Gọi là Thiên cổ kỳ nhân. Thiên cổ kỳ thư.
QUỶ CỐC
TỬ là nhân vật kỳ lạ ! Tên tuổi, thân thế, hành tung của QUỶ CỐC được bao phủ
bởi những truyền thuyết đậm sắc thần thoại, hư ảo. Ông là 1 người đa tài, môn
gì cũng hay, đứng đầu nhiều môn học thuật : Âm Dương gia, Tung Hoành gia; 1 nhà
thần toán giang hồ; 1 chính trị gia lỗi lạc, lục thao tam lược gồm tài &
cũng là 1 Thần Y nổi tiếng. Ông có 4 đệ tử nổi danh kim cổ: Võ là TÔN TẪN, BÀNG
QUYÊN; Văn là TÔ TẦN, TRƯƠNG NGHI đã tung hoành ngang dọc, tham dự cuộc tranh
hùng dữ dội của 7 nước thời Chiến quốc.
QUỶ CỐC
TỬ là 1 cuốn sách kỳ lạ ! Chứa đầy mưu kế kỳ lạ, quỷ khốc thần kinh, dành cho
các bậc đế vương tu thân, cai trị đất nước 1 cách thông minh. Các biện sĩ, kỳ
sĩ, mưu sĩ thuyết phục thiên hạ để tiến thân. Các nhà quân sự, tướng lĩnh quyết
thắng trên chiến trường. Những người lãnh đạo thành công trong việc hiểu người
,dùng người để gây dựng sự nghiệp. Những người bình thường dùng để phòng thân,
sắp xếp việc nhà, đối nhân xử thế & làm ăn, buôn bán, kinh doanh
Có trăm
mưu ngàn kế nhưng cuốn sách này quy về 1 lý là đánh vào lòng người, có người
gọi mưu kế là Tâm thuật đấu pháp, là dùng mưu kế chống lại 36 mưu kế lưu hành
xưa nay trong thiên hạ. Trải qua 2000 năm, cuốn sách đã được nhiều học giả
chuyên tâm chú giải, trong đó có 4 người nổi tiếng là :
NHẠC
PHONG, HOÀNG PHỦ THỤY, DOÃN TRI CHƯƠNG & ĐÀO HOẰNG CẢNH. QUỶ CỐC TỬ và cuốn
sách của ông đã gây nhiều tranh luận sôi nổi bất tận của nhiều nhà nghiên cứu
xưa và nay. Đại văn hào LIỄU TÔNG NGUYÊN cũng rất hăng hái nhập cuộc. Đại thi
hào LÝ BẠCH ngày xưa cũng từng làm thơ ca ngợi TÔ TẦN đệ tử của QUỶ CỐC.
Gần đây,
1 nhà xuất bản TRUNG QUỐC đã chọn lọc, hệ thống các công trình nghiên cứu thành
sách gọi là QUỶ CỐC TỬ toàn thư. Cuốn sách đã nêu ra 47 mưu kế, khai thác trong
sách của QUỶ CỐC, áp dụng thành công trong nhiều lĩnh vực. Mỗi mưu kế có dẫn
chứng, minh họa bằng nhũng tiểu truyện hấp dẫn, thú vị trong các tác phẩm nổi
tiếng như Sử ký TƯ MÃ THIÊN, Tả truyện, Chiến Quốc sách, Đông Châu Liệt quốc,
Tam Quốc chí.....
QUỶ CỐC TỬ_con người kỳ lạ nhất xưa nay
1. Kỳ lạ là tên ông được nhiều sách vở nhắc
đến nhưng rất ngắn gọn, nhiều giả thiết thú vị
Nhiều
cuốn sách như : Sử ký, Tô Tần liệt truyện, Trương Nghi liệt truyện, Phong tục
thông nghĩa...đều đề cập đến tên QUỶ CỐC , nhung rất ngắn gọn.
VD : Tô
Tần người Lạc Dương học với QUỶ CỐC hoặc Trương Nghi người nước Ngụy cùng với
Tô Tần học với QUỶ CỐC
Tên QUỶ
CỐC cũng được các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều giả thiết :
Theo
Dông Châu Liệt Quốc, QUỶ CỐC là tên của cái hang ở đất Dương Thành thược địa
phận nhà Chu. Chỗ ấy núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề, không có người ở. Trong
núi ấy có người ẩn sĩ đặt hiệu cho mình là QUỶ CỐC.
Theo Hán
thư nghệ văn chí, chữ QUỶ được giải thích : Quỷ là u hiển, u là ẩn, hiển là lộ.
Có sách
giải thích là QUY, dựa vào câu QUỶ CỐC trả lời TRƯƠNG NGHI & TÔ TẦN : Ngô
tử vu sơn cốc. Thế luận vị dư QUY CỐC dã.
Theo
truyền thuyết dân gian, mẹ của QUỶ CỐC ăn nhằm thức ăn đựng trong cái chén làm
bằng xương quỷ nên gọi là QUỶ CỐT
Thường
thì người ta gọi ông là QUỶ CỐC TỬ. TỬ là thầy, chữ này xuất hiện đời Tần, tỏ ý
kính trọng.
Có
thuyết thì nêu danh tính đầy đủ hơn 1 chút : QUỶ CỐC TỬ là 1 tung hoành gia
thời đại Chiến Quốc. Ông họ VƯƠNG, tên HỦ, tự là DANH LỢI, dân gian gọi là
VƯƠNG THIỀN lão tổ
Hầu như
nhiều nhà nghiên cứu đồng ý với thuyết này và thường dùng để dẫn khi viết về
QUỶ CỐC.
2. Thân thế QUỶ CỐC có nhiều truyền thuyết,
đậm màu sắc thần thoại
Truyền
thuyết dân gian cho rằng, mẹ QUỶ CỐC ăn nhằm thức ăn đựng trong cái bát bằng
xương quỷ, thụ thai và mang thai đến....3 năm 6 tháng mới sinh
ra ông
(?! ). Bà mẹ sinh xong thì mất, ông được con cọp già cho bú mớm nuôi nấng. Ngày
đêm theo cọp đi kiếm ăn nên rất tinh ma quỷ quái, chuyên dạy cho người ăn nói
khoa trương và mưu kế.
Ban đầu
ông không biết chữ nhưng đã sáng tạo ra được 60 Giáp Tý để đoán vận mệnh và
thuật bói toán,gọi là Vô tự đại thư, quyển sách lớn không chữ.
Nên
người đời rất khâm phục gọi ông là QUỷ CỐC thần sinh.
PHÙNG
MỘNG LONG, tác giả Đông Châu Liệt Quốc cho rằng : QUỶ CỐC tiên sinh là 1 ẩn sĩ
thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy môn học vấn không mấy người theo kịp.
Đó là :
- Số Học
, nhật nguyệt tượng vĩ đều thu ở bàn tay, xem việc trước, đoán việc sau nói gì
cũng linh nghiệm.
- Binh
học , lục thao tam lược biến hóa vô cùng, bày trận hành binh, quỷ thần không
biết.
- Du
thuyết học, nhớ rộng nghe nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn
miệng khôn đương.
- Xuất
Thế Học, giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc
đạo thành Tiên.
Có
thuyết cho rằng QUỶ CỐC là bạn thân của MẶC ĐỊCH, 1 lý thuyết gia của chủ nghĩa
kiêm ái, tức là yêu thương tất cả mọi người
QUỶ CỐC
cũng từng gặp LÃO TỬ, người đời tôn là Thái Thượng Lão Quân, ở Hàm Cốc
3. Sinh ở thời đại cá lớn nuốt cá bé quyết
liệt
Các nhà
nghiên cứu xác định QUỶ CỐC sống trong khoảng cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc và
đầu Chiến Quốc thời đại
- Xuân Thu
thời đại (770-476 trước CN): thời kỳ nhà Chu suy yếu, các chư hầu, các địa
phương cát cứ mỗi nơi. Lúc này có khoảng 140 nước. Các nước lớn thôn tính dần
các nước nhỏ.
- Chiến
Quốc thời đại (475-221 trước CN) : thời kỳ chỉ còn 7 nước, ba nước mới thành
lập là : Hàn, Ngụy, Triệu; bốn nước cũ là Tần, tề, Sở và Yên.
Ngay
thống kê trên cũng đủ thấy 1 thời đại nhiễu nhương, chiến tranh ác liệt, cá lốn
nuốt cá bé, trên 100 nước nhỏ bị tiêu diệt, còn lại 7 nước tranh hùng, để rồi
còn 1 nước. Đó là nước Tần.
4. Có bốn đệ tử lớn tung hoành ngang dọc một
thời
Cũng
theo truyền thuyết, QUỶ CỐC đã thu nhận rất nhiều học trò. Học trò rất đông, ai
đến học thì học,ai muốn bỏ đi thì bỏ đi. Tùy theo tư chất từng người để dạy, ai
muốn học thuật gì thì truyền thụ thuật ấy.
Chắc vì
thế, những học trò sau khi xuống núi hành nghề, truyền đạo, viết sách, phong
ông làm Tổ sư hoặc là người sáng lập ra các học phái : Âm Dương gia, Tung Hoành
gia, Chính trị gia, Du Thuyết gia
Trong số
học trò của QUỶ CỐC có 4 người nổi tiếng là TÔN TẪN, người nước TỀ; BÀNG QUYÊN,
TRƯƠNG NGHI, người nước NGỤY; TÔ TẦN, người LẠC DƯƠNG.
TÔN TẪN,
BÀNG QUYÊN học binh pháp. TRƯƠNG NGHI, TÔ TẦN học nghề Du thuyết. So sức học
thì TÔN TẪN giỏi hơn BÀNG QUYÊN ; TÔ TẦN tự cho sức học của mình không bằng
TRƯƠNG NGHI.
- BÀNG
QUYÊN được cử làm nguyên soái nước NGỤY, lấn các nước nhỏ như Vệ , Tống, đánh
bại được quân Tề. Vua các nước Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ thường phải đến chầu vua
nước NGỤY
Xét cho
cùng BÀNG QUYÊN là người tài giỏi nhưng vì ghen tài trở nên độc ác, chặt chân
đày ải TÔN TẪN.
Lập được
công lao sinh chủ quan, cho mình là thiên hạ vô địch nên bị bại dưới tay TÔN
TẪN.
- TÔN
TẪN, sau khi thoát nạn BÀNG QUYÊN, theo ĐIỀN KỴ, nước TỀ. TÔN TẪN giúp TỀ UY
VƯƠNG đánh NGỤY để cứu TRIỆU, giết chết BÀNG QUYÊN ở Mả Lăng, buộc nước NGỤY
phải thần phục nước TỀ.
- TÔ TẦN,
được ca ngợi là 1 mưu lược gia bậc nhất về hợp tung của thời Chiến Quốc. TÔ TẦN
không ngại xa xôi đến xin học QUỶ CỐC. Học xong, TÔ TẦN đã đến các nước CHÂU,
TẦN, TRIỆU...nhưng không được dùng.
Đành
phải quay về, quần áo rách bươm, người tiều tụy xơ xác. Thấy vậy vợ không thèm
chào, chị dâu không nấu cơm cho ăn.
TÔ TẦN
phải đem sách của QUỶ CỐC ra học, lấy dùi đâm vế để khỏi ngủ gật, thêm 1 năm
nữa. Sau đó, lên đường đến nước YÊN. Theo sử sách nước YÊN là 1 nước yếu nhất
giửa các cường quốc. TÔ TẦN được vua YÊN tin dùng , và đề xướng thuyết hợp
tung, liên kết 6 nước ( TỀ, SỞ, TRIỆU, HÀN, NGỤY và YÊN ) để chống TẦN. Bấy giờ
TÔ TẦN làm Tướng quốc 3 nước YÊN-TRIỆU-TỀ. Tên tuổi TÔ TẦN nổi danh khắp chư
hầu. Tài hùng biện của TÔ TẦN như nước chảy có thể làm đổ cả thành cao ngàn
trượng, làm gãy cả địa thế xung yếu dài hàng trăm xích
- TRƯƠNG
NGHI, cũng học với QUỶ CỐC. sau khi xuống núi đi du thuyết chư hầu. Có lần
TRƯƠNG NGHI uống rượu với Tướng Quốc nước SỞ, bị nghi ngờ trộm ngọc. Bọn thuộc
hạ của Tướng Quốc đánh cho 1 trận la lết, TRƯƠNG NGHI không nhận tội. Về đến
nhà, vợ chì chiết vì do học du thuyết mà mang họa vào thân. TRƯƠNG NGHI chỉ hỏi
lưỡi mình còn không. Vợ tức cười, đáp còn. TRƯƠNG NGHI nói: Thế là đủ !
Chứng tỏ
ông tin vào miệng lưỡi và tài hùng biện của mình như thế nào !
TRƯƠNG
NGHI đến cầu cạnh TÔ TẦN, bị TÔ TẦN lừa, buộc phải vào TẦN dùng thuyết liên
hoành để thuyết TẦN HUỆ VƯƠNG, và ông được tin dùng. TRƯƠNG NGHI góp phần giúp
nước TẦN cường thịnh, mở mang đất đai, làm cho nước SỞ suy yếu, dọn đường cho
việc thống nhất TRUNG QUỐC.
TÔN TẪN,
BÀNG QUYÊN, TÔ TẦN, TRƯƠNG NGHI được xem là tứ đại đệ tử của QUỶ CỐC. Bốn người
đã từng làm mưa làm gió trong 1 thời Chiến Quốc.
QUỶ CỐC TỬ-cuốn sách lạ kỳ xưa nay
1. QUỶ CỐC TỬ, 1 cuốn sách giáo khoa đặc sắc
của nhiều môn học
- Về tâm
lý, sách cho rằng dù trăm phương ngàn kế cũng đều qui về tâm lý con người, đánh
vào trúng tâm lý, sở thích, dục vọng của con người thì thành công.
Vd :
người giàu có thì thích địa vị . Kẻ dũng cảm , cương cường dọa dẫm họ là điều
vô nghĩa, khích bác họ thì mới thành công. Người uyên bác thích lý luận, nói
nhiều....kẻ trí tuệ thấp thì hay bị lừa. Kẻ bần cùng thì dễ bị mê hoặc bởi lợi lộc.......
- Về
ngôn ngữ, nghe người ta nói có thể hiểu được sự buồn, vui, giận, ghét của người
đối thoại. Nghe âm thanh, ngôn ngữ âm nhạc, có thể biết được nhân cách của
người sáng tạo và sự hưng suy của 1 nước.
- Về
hùng biện, nếu sử dụng thành thạo, xảo diệu thuật đóng mở( bãi hạp ) thì không
chỉ thuyết phục được người 1 nước mà còn thuyết phục được cả thiên hạ.
_Về quân
sự, thì chính binh không bằng kỳ binh. Phải chế ngự được kẻ thù, phải ra tay
trước. Lấy tám lạng đè bẹp được ngàn cân. Có khi không cần đánh mà thắng. Lợi
dụng địa hình để đánh địch. Dùng vàng bạc để làm tan rã hàng ngũ địch. Cắt lực
lượng địch, phân tán địch, làm cho địch mỏi mệt, dũng khí địch tiêu tan.
2. Cuốn sách lắm mưu nhiều kế
Cái kỳ
lạ nhất của cuốn sách QUỶ CỐC TỬ là chứa lắm mưu nhiều kế, quỷ khốc thần kinh,
thiên biến vạn hóa & dùng mãi không hết.
Thông
thường người ta xa lánh những người mưu kế thủ đoạn. Các từ ngữ mưu kế, thủ
đoạn bị lên án, ngộ nhận vì do những kẻ ác tâm, gọi là lang hổ chi tâm, lòng
lang dạ sói, thi hành để đạt mục đích xấu. Vậy mưu kế là gì?
Thực
chất mưu kế, thủ đoạn, kế hoạch sản sinh từ đời sống thực tiễn của con người :
Một
người thợ săn mướn bẫy thú phải đánh động, gõ vào vật liệu gì đó, đá chẳng hạn,
để thú hoảng sợ chạy ra và tóm lấy. Đó là kế Đầu thạch vấn lộ.
Cây gãy
vì côn trùng đục khoét, bức tường đổ là do rạn nứt lâu ngày. Đó là nguyên tắc
của sách hư khích, kẻ hở ; sản sinh ra kế ly gián, phản gián. Con hổ trước khi
vồ mồi thì thu mình lại để lấy thế và nhảy ra. Đó là kế Dĩ khuất cầu thân, co
để duỗi.
Con thỏ
thấy hổ quá mạnh, co chân chạy. Là kế Bất tiến nhi thối, không tiến thì lùi.
Chạy để bảo toàn tính mạng là thượng sách !
Thực tế,
có căm ghét mưu kế cũng không thể bỏ được.Vì sao?
Vì nguồn
gốc của mưu kế sản sinh từ đời sống, do đó, người ta căm ghét xa lánh nó cũng
không thể được, nó vẫn tồn tại 1 cách khách quan trong cuộc sống hàng
ngày.Nhiều mưu kế trở thành bản năng, phản ứng tự nhiên, mà đôi khi người ta
cũng không nghĩ đó là mưu kế nữa.
Một
chàng trai muốn tán tỉnh 1 cô gái, hé mở cho cô ta biết mình là con nhà gia
thế, thông minh học giỏi, sẽ chung tình trước sau như một > Tức là anh chàng
đang sử dụng 1 lúc 2 thủ đoạn : Bãi hạp (úp úp mở mở) và Hư trương thanh thế
(phô trương).
Muốn
giúp 1 người sa cơ lỡ vận có công ăn việc làm, bạn đã giới thiệu với người khác
là người này rất tài giỏi, trung thành, tận tâm. Tức là bạn đang sử dụng chiêu
Vô trung sinh hữu (từ không thành có).
Bạn
không thích nghe tiết mục quảng cáo nhưng vẫn thuộc lòng lời giới thiệu 1 cách
rành rẽ. Bạn đang vướng vào kế Chúng khẩu luyện kim (nói mãi phải tin ) của các
nhà kinh doanh.
........Bạn
không thích mưu kế nhưng bạn cũng phải dùng. Không ưa nhưng
cũng
phải ứng phó. Không muốn nhưng vẫn bị vây bởi giữa muôn trùng mưu kế.
3. Cuốn sách chứa vạn tâm linh và chìa khóa
vàng
_ Đáng
quý là cái tâm của tác giả đối với nhân dân.
Tác giả
khuyên các Vua chúa phải dùng con mắt của nhân dân ( thiên hạ ) để nhìn, dùng
tai của nhân dân để nghe, lấy cái tâm của mình để che chở cho nhân dân và lấy cái
tâm của nhân dân để mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Mắt như vậy được gọi là
thiên lý nhãn. Tai như vậy gọi là thuận phong nhĩ. Tâm được như vậy gọi là vạn
linh tâm.
Chứng tỏ
tác giả rất khổ công và dùng cả cái tâm của mình để viết sách, gửi gắm ước mơ vào
từng trang sách.Đó là mong nhân dân được hạnh phúc, no ấm và được giáo hóa
thành những người văn minh.
- Cái
quý nữa là luôn cầu tiến bộ.
Sách của
QUỶ CỐC TỬ cho rằng phản là hiểu quá khứ , ứng là hiểu hiện tại. Có biết quá
khứ mới hiểu hiện
tại, có
hiểu hiện tại mới biết tương lai. Cái gì không còn thích hợp thì bỏ, cái gì còn
thích hợp thì gìn giữ và áp dụng.
Hiểu
mình là trí, hiểu người là sáng suốt. Có sáng suốt mới có trí, có trí mới có sự
sáng suốt.
Ôn cố
tri tân, ôn cũ biết mới ; tri kỷ tri bĩ, biết người biết ta ; đấy là chìa khóa
vàng mở cánh cửa đời sống của người thông minh.
Chương 1 :
THUẬT MỞ ĐÓNG
(BÃI HẠP CHI THUẬT )
Bãi là
mở, hạp là đóng. Thuật bãi hạp là thuật đóng mở, mở đóng, đóng mở.....Bãi là
hành động tích cực.
Hạp là
hành động tiêu cực.
Thuật
bãi hạp căn bản dưa trên nguyên lý Âm Dương. 2 khí này là chủ tể của vạn vật,
có khi khí Âm mạnh, có khi khi Dương mạnh; có khi mềm yếu, nhu nhược, có lúc
cứng rắn, cương cường; có khi bộc lộ, khai mở, có lúc ẩn tàng, che dấu; có khi
nhanh chóng, khẩn trương, có lúc chậm chạp, ung dung....
Dương
khí truy cầu Âm khí và Âm khí truy cầu Dương khí. Âm khí phát triển đến cực
điểm thì thành Dương khí. Dương khí phát triển cực điểm thì phát triển thành Âm
khí.
Khi gặp
Dương khí (thời cơ, thuận lợi ) thì tiến lên ; gặp Âm khí 9ba6t1 lợi ) thì thu
tàng, ẩn dấu, ngưng lại.
Thuật
bãi hạp được thực hiện qua 4 kế :
- Cương
nhu tương tế nghĩa là Trong nhu có cương, trong cương có nhu.
- Sơ nhi
bất lậu ............ Tuyệt đối bí mật.
- Dĩ
khuất cầu thân ........... co để duỗi.
- Tiên
đả hậu ma ........... Trước đánh sau bắt.
1/ CƯƠNG NHU TƯƠNG TẾ: TRONG NHU CÓ CƯƠNG,
TRONG CƯƠNG CÓ NHU
Cương
nhu tương tế là trong cương có nhu, trong nhu có cương. Trong dương có âm,
trong âm có dương.
Đóng mở,
mở đóng...biến hóa vô cùng.
Muốn
thực hiện kế này phải thẩm định đối phương : Có hay không, hư hay thực, lợi và
hại trước sau. Hiểu rõ ý chí của đối phương, tùy tâm lý, dục vọng của đối
phương mà thuyết phục.
Thí dụ : Ưa nói khích không ưa thuyết phục
Sau khi
Tào Tháo lấy được Kinh Châu , TUÂN DU hiến kế là huy động đại quân ra oai để
làm cho TÔN QUYỀN sợ phải đầu hàng.
THÁO
nghe theo kế, lập tức hịch sai sứ sang Giang Đông, 1 mặt điểm quân mã,quân bộ
và quân thủy,cả thảy 83 vạn, lại nói thăng lên những 100 vạn quân. Thủy lục đều
tiến, quân thuyền quân kỵ cùng đi ; theo dọc bờ sông Trường Giang kéo đến. Phía
Tây nối liền với đất Kinh Giáp,phía Đông tiếp giáp Kỳ Hoàng,doanh trại nối nhau
dài hơn 300 dặm.
* * *
Nói về
Giang đông, TÔN QUYỀN đang đóng quân ở Sài Tang, được tin đại quân TÀO THÁO đến
Tương Dương.
LƯU TÔN
đã ra hàng, mà quân TÀO sớm khuya đi gấp đường lấy Giang Lăng. QUYỀN bèn họp
các mưu sĩ lại bàn kế phòng thủ.
LỖ TÚC
nói :
_Kinh
châu tiếp giáp nước ta,giang sơn hiểm trở,nhân dân giàu có, nếu chiếm được đất
ấy thì đủ để xây nghiệp đế vương. Nay LƯU BIỂU mới chết, LƯU BỊ mới thua, tôi
xin phụng mạng sang Giang Hạ viếng tang, nhân tiện bảo LƯU BỊ phủ dụ các tướng
của LƯU BIỂU, đồng tâm hiệp lực với ta để phá TÀO THÁO, nếu BỊ vui lòng nghe
theo thì việc lớn phải xong.
QUYỀN
đồng ý, lập tức sai LỖ TÚC đem lễ vật sang Giang Hạ viếng tang.
* * *
HUYỀN
ĐỨC đến GIANG HẠ cùng KHỔNG MINH và LƯU KỲ bàn việc.
KHỔNG
MINH nói :
- TÀO
THÁO thế to lắm,khó lòng địch nổi,không bằng ta sang nhờ TÔN QUYỀN ở Giang Đông
làm ứng viện. Nam Bắc giữ miếng với nhau, ta ở giửa kiếm lợi, có gì mà chẳng
được.
HUYỀN
ĐỨC nói :
- Giang
đông lắm mưu thần giỏi, nhìn xa thấy rộng, sao họ chịu dung nạp ta?
KHỔNG
MINH cười đáp rằng :
- Nay
TÀO THÁO dàn quân trăm vạn, chiếm cứ Giang Hán; tất nhiên Giang Đông phải cho
người lại đây dò hư thực thế nào.Nhược bằng có sứ đến,tôi xin mượn 1 cánh buồm
thuận gió đến thẳng Giang đông chỉ 3 tấc lưỡi làm cho 2 quân Nam Bắc thôn tính
lẫn nhau. Nếu quân Nam được ta cùng đánh TÀO THÁO, lấy đất Kinh Châu.Nếu quân
Bắc được , ta thừa thế tính lấy Giang Nam cũng nên.
HUYỀN
ĐỨC nói :
- Kế ấy
rất hay, nhưng làm thế nào khiến cho Giang Đông sai người đến đây được?
Vừa nói
dứt lời, có tin báo rằng :
- TÔN
QUYỀN ở Giang Đông sai người lại viếng tang, thuyền đã ghé bờ.
KHỔNG
MINH cười nói :
- Việc
to chắc xong.
* * *
Biết LỖ
TÚC sắp đến KHỔNG MINH dặn HUYỀN ĐỨC rằng :
- Hễ LỖ
TÚC hỏi việc động tĩnh của TÀO THÁO thì Chúa công nói 1 mực không biết. Hễ nói
đến 2-3 lần thì Chúa công bảo hắn hỏi GIA CÁT LƯỢNG.
Bàn định
xong xuơi bèn sai người đón LỖ TÚC vào. TÚC vào viếng tang xong, LƯU KỲ nhận đồ
phúng rồi mời TÚC đến gặp HUYỀN ĐỨC. HUYỀN ĐỨC rước vào nhà trong uống rượu.
TÚC nói :
- Lâu
nay, nghe thấy đại danh Hoàng Thúc nhưng chưa có dịp nào được bái kiến, nay
được gặp thực là hân hạnh.
Mới đây
Hoàng Thúc đánh nhau với TÀO THÁO, tất biết rõ tình hình. Dám hỏi quân TÀO THÁO
ước độ bao nhiêu?
HUYỀN
ĐỨC đáp :
- Tôi
binh mọn tướng ít, THÁO đến là chạy, có biết gì đến tình hình bên ấy thế nào.
TÚC nói
:
- Tôi
nghe Hoàng Thúc dùng mưu của KHỔNG MINH 2 phen đánh hỏa công làm cho TÀO THÁO
kinh hồn lạc phách , sao Hoàng Thúc lại bảo là không biết?
HUYỀN
ĐỨC nói ;
- Họa
chăng hỏi KHỔNG MINH thì biết đươc rõ.
TÚC nói
:
- KHỔNG
MINH đâu, xin cho được gặp 1 chút. HUYỀN ĐỨC sai mời KHỔNG MINH ra. TÚC vái
chào rồi hỏi :
_Xưa nay
vẫn mộ tài đức tiên sinh, chưa được bái kiến bao giờ. Nay may mắn được gặp, xin
cho biết việc an nguy ngày nay.
KHỔNG
MINH nói :
_Mưu
gian của TÀO THÁO tôi đã biết cả, chỉ giận sức mình chưa đủ, nên còn tạm lánh
đó thôi.
TÚC lai
hỏi :
_Hoàng
thúc nay định ở đây hay đi đâu?
KHỔNG
MINH đáp :
_Sứ quân
tôi có quen Thái thú NGÔ THẦN ở Thương Ngô, nay sắp đến đó nhờ. TÚC nói ;
_NGÔ
THẦN lương khan binh ít, giữ mình còn chẳng nổi, cho ai nhờ được !
KHỔNG
MINH nói ;
_Chổ ấy
tôi cũng biết không ở lâu được. Nay hãy nương tạm, rồi sẽ liệu kế khác.
TÚC nói
:
_TÔn
tướng quân tôi hùng cứ 6 quận, binh giỏi lương nhiều, lại kính hiền trọng sĩ,
anh hùng miền Giang Đông nhiều người quy phục. Nay xin hiến ông 1 kế. Chi bằng
tiên sinh sai người tâm phúc sang liên kết với Đông Ngô để cùng mưu toan việc
lớn.
KHỔNG
MINH nói :
_LƯU sứ
quân và TÔn tướng quân xưa nay không quen nhau, sợ uổng mất lời.Vả lại, không
có ai tâm phúc có thể sai đi được.
TÚC nói
:
_Lệnh
huynh GIA CÁT CẨN hiện đương làm tham mưu ở Giang Đông, đêm nagy2 mong được gặp
lệnh tiên sinh. Tuy tôi không có tài, xin cùng tiên sinh vào ra mắt TÔN tướng
quân để bàn việc lớn.
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ KHỔNG
MINH là thầy ta, rời ta 1 lúc không xong, đi thế nào được?TÚC cố nài 3-4 lần,
HUYỀN ĐỨC cứ giả vờ không nghe, KHỔNG MINH nói :
_Việc đã
kíp rồi, tôi xin phụng mệnh đi 1 chuyến.
HUYỀN
ĐỨC bấy giờ mới đồng ý
Sau khi
dùng miệng lưỡi bẻ bọn mưu sĩ Giang Đông xong KHỔNG MINH mới được gặp TÔN
QUYỀN.
Thi lễ
xong, QUYỀN mời KHỔNG MINH ngồi. Các quan văn võ sắp hàng 2 bên.
LỖ TÚC
đứng bên cạnh chỉ đợi xem KHỔNG MINH nói với QUYỀN thế nào. KHỔNG MINH giải bày
ý kiến của LƯU BỊ, rồi liếc mắt nhìn TÔN QUYỀN thấy QUYỀN mắt biếc râu đỏ,
tướng mạo đường bệ, liền nghĩ thầm rằng: "Người này tướng mạo khác thường,
chỉ ưa nói khích không ưa thuyết phục; đợi khi nào hỏi, bấy giờ ta sẽ khích cho
mấy câu là xong".
Khi tả
hữu dâng trà xong, TÔN QUYỀN nói :
_ tôi
thường nghe LỖ TỬ KÍNH nói đến tài của túc hạ, nay may được gặp, xin túc hạ có
điều gì hay chỉ bảo cho
KHỔNG
MINH đáp :
_Tôi vô
tài ít học. Không dám để Ngài hỏi.
QUYỀN
nói :
_Túc hạ
mới rời Tân Dã, giúp LƯU DỰ CHÂU đánh nhau với TÀO THÁO, tất biết tình hình bên
THÁO thế nào?
KHỔNG
MINH đáp :
_LƯU DỰ
CHÂU binh đơn, tướng ít, thành Tân Dã nhỏ lại không có lương, đâu dám chống
nhau với TÀO THÁO?
QUYỀN
lại hỏi :
_Quân
THÁO nhiều hay ít?
KHỔNG
MINH nói :
_Cả quân
mã, quân bộ và quân thủy, ước được hơn trăm vạn.
QUYỀN
trố mắt ngạc nhiên hỏi :
_Ông nói
dối ta chăng?
KHỔNG
MINH đáp :
_Không
dám dối đâu : TÀO THÁO ở Duyện Châu đã có 20 vạn; bình xong VIÊN THIỆU , lại
thêm được năm sáu mươi vạn; quân mới mộ ở Trung Nguyên được ba bốn mươi vạn.
Tính ra có kém gì 150 vạn. Thế mà LƯỢNG nói có 100 vạn là vì sợ người Giang
Đông mất vía đó thôi !
LỖ TÚC
đứng cạnh , nghe nói tái mặt lại, đưa mắt cho KHỔNG MINH.
KHỔNG
MINH cứ lờ đi.
QUYỀN
lại hỏi :
_Chiến
tướng của TÀO THÁO nhiều hay ít?
KHỔNG
MINH nói :
_Những
mưu sĩ lắm mưu nhiều trí và những tướng đấu tài đánh giỏi ít ra cũng được vài
nghìn.
QUYỀN
lại hỏi :
_Nay TÀO
THÁO đã bình được Kinh, Sở còn tham vọng gì nữa không?
KHỔNG
MINH đáp :
_TÀO
THÁO hiện nay hạ trại kín ven sông, sắm sửa thuyền bè, chẳng lấy Giang Đông thì
lấy đâu.
QUYỀN
lại hỏi :
_Đối với
âm mưu của TÀO THÁO , nên đánh hay không, xin túc hạ quyết định giúp ta 1 lời.
KHỔNG
MINH nói :
_LƯỢNG
tôi có 1 lời , nhưng chỉ sợ tướng quân không chịu nghe thôi.
QUYỀN
nói :
_Xin cho
nghe lời cao kiến.
KHỔNG
MINH nói :
_Trước
kia thiên hạ đại loạn, nên tướng quân phải dấy binh ở Giang Đông, LƯU DỰ CHÂU
tụ quân ở Hán Nam, để cùng tranh giành với TÀO THÁO.
Nay THÁO
đã dẹp xong nạn lớn, tình hình sắp ổn định xong. Vừa đây THÁO lại phá được Kinh
Châu, uy danh lừng bốn bể. Bây giờ, dẫu có anh hùng cũng không có đất dụng
võ,cho nên LƯU DỰ CHÂU phải trốn tránh đến đây .
Vậy xin
tướng công liệu mà tính toán công việc.Nếu tướng quân có thể lấy quân Ngô,Việt
mà chống TÀO được,thì nên sớm cự tuyệt nó đi.
Nếu
không muốn thế, sao không theo ngay lời các mưu sĩ đã bàn, thu quân mã, xếp áo
giáp lại, rồi ngoảnh mặt về Bắc mà hàng?
TÔN
QUYỀN chưa kịp đáp, KHỔNG MINH lại nói rằng
_Tướng
quân ngoài mặt thì giả tiếng phục tùng nhưng trong bụng vẫn còn ngờ vực. Việc
kíp rồi mà không quyết đoán thì vạ đến nơi rồi đó !
TÔN
QUYỀN lại hỏi :
_Nếu quả
như lời ông, thì sao LƯU DỰ CHÂU không hàng TÀO đi?
KHỔNG
MINH đáp :
_Ngày
xưa ĐIỀN HOÀNH là 1 tráng sĩ nước TỀ còn biết giữ lễ nghĩa không chịu
nhục,huống chi LƯU DỰ CHÂU là tôn thân nhà Hán, anh hùng lừng lẫy trên đời, kẻ
sĩ đều trông mong. Việc không xong là bởi trời, có đâu lại chịu luồn cúi người
ta?!
TÔN
QUYỀN nghe KHỔNG MINH nói xong, nét mặt hầm hầm, rủ áo đứng dậy, lui vào nhà
sau. Các quan cũng tủm tỉm cười và giải tán.
LỖ TÚC
trách KHỔNG MINH rằng :
_Sao
tiên sinh lại nói thế? May mà chủ tôi rộng lượng, không nỡ trách ngay, chứ như
lời tiên sinh vừa nói là khinh miệt chủ tôi lắm đấy !
KHỔNG
MINH ngẩng mặt cười, nói :
_Sao
không có lượng bao dung thế? Ta đã có được mẹo phá TÀO THÁO, vì không hỏi tới,
nên tôi không nói đó thôi.
TÚC nói
:
_Nếu quả
tiên sinh có mẹo hay, tôi xin mời chủ tôi ra để tiên sinh dạy cho.
KHỔNG
MINH nói :
_Quân
trăm vạn TÀO THÁO, ta coi như đàn kiến, chỉ giơ tay 1 cái là tan ra như cám cả
!
TÚC nghe
nói, liền vào nhà sau gặp TÔN QUYỀN. QUYỀN lúc ấy còn bực, ngoảnh lại bảo LỖ
TÚC rằng :
_ KHỔNG
MINH khinh ta quá chừng !
TÚC nói
:
_Tôi cũng
đã trách KHỔNG MINH , KHỔNG MINH cười và trách lại rằng Chúa công không có
lượng dung người,cho nên KHỔNG MINH có mẹo phá TÀO cũng không muốn nói ra cho
biết. Xin Chúa công thử hỏi KHỔNG MINH xem thế nào?
QUYỀN
bèn lập tức nguôi giận làm vui nói :
_À, thế
ra KHỔNG MINH vẫn có mẹo hay, nên nói khích ta. Ta 1 lúc nghĩ nông cạn, tí nữa
làm lỡ mất việc to.
Lập tức
cùng LỖ TÚC lại ra triều đường, mời KHỔNG MINH vào nói chuyện.
QUYỀN
xin lỗi KHỔNG MINH rằng :
_vừa rồi
tôi trót lỡ lời, xin tiên sinh tha lỗi cho.
KHỔNG
MINH cũng tạ lại rằng :
_LƯỢNG
tôi nói năng lỗ mãng, xin tướng quân cũng thứ tội cho.
QUYỀN
mời ngay KHỔNG MINH vào nhà sau, làm tiệc khoản đãi. Được vài tuần rượu, QUYỀN
hỏi rằng :
_TÀO THÁO
vốn chỉ ghét LÃ BỐ, LƯU BIỂU, VIÊN THIỆU, VIÊN THUẬT, LƯU DỰ CHÂU với tôi mà
thôi. Nay đã trừ được cả,duy chỉ còn DỰ CHÂU với tôi.
Tôi
không thể đem cả nước Ngô dâng cho người ta được. Kế của tôi đã quyết, nhưng
phi LƯU DỰ CHÂU giúp cho thì không ai đương nổi TÀO THÁO bây giờ. Mà LƯU DỰ
CHÂU vừa mới thua trận, làm thế nào mà chống lại nạn này?
KHỔNG
MINH nói :
_DỰ CHÂU
mới thua nhưng QUAN VÂN TRƯỜNG còn thống lĩnh hàng vạn tinh binh, LƯU KỲ ở
Giang Hạ cũng có chừng vạn quân sĩ.
Quân TÀO
từ xa đến, tất cũng mỏi mệt ; mới đây lại đuổi DỰ CHÂU , quân khinh kỵ đi 300
dặm 1 ngày, khác nào nỏ cứng đã giương lên đuối sức, chưa chắc đã bắn thủng
được mảnh lụa mỏng.
Vả lại
ngươi phương Bắc không quen đánh thủy ; quân dân ở Kinh Châu gặp thế bí phải
phục TÀO , chứ không phải tự nguyện. Nay tướng quân thật muốn đồng tâm hiệp lực
với DỰ CHÂU , thì làm gì không phá được TÀO THÁO.
Quân TÀO
mà bị phá, tất phải kéo về Bắc, thì thế Kinh, Ngô lại mạnh mà hình thành thế
chân vạc được. Cơ hội được thua lúc này, xin tướng quân hãy nghĩ cho kỹ mà
quyết đi !
QUYỀN
mừng lắm , nói :
_Mấy lời
của tiên sinh thật đã làm sáng mắt cho tôi. Ý tôi đã quyết, không còn hồ nghi
gì nữa.
Ngay hôm
ấy, QUYỀN bàn bạc cất quân để cùng đi phá TÀO THÁO.
LẠM BÀN :
Xem thí
dụ trên, ta thấy rõ 3 thế lực 3 mưu kế chính :
_TÀO
THÁO dùng kế hư trương thanh thế, dàn quân 83 vạn còn nói thăng, nói quá lên,
buộc TÔN QUYỀN sợ hãi mà hàng.
_TÔN
QUYỀN chưa biết rõ thực lực của TÀO THÁO , 1 mặt phòng bị, 1 mặt muốn nhờ LƯU
BỊ liên kết với tướng tá của LƯU BIỂU. Nội bộ TÔN QUYỀN chia làm 2 phe chủ
chiến và chủ hòa đang bàn luận sôi nổi, nên QUYỀN chưa dám đưa ra chính kiến.
_LƯU BỊ,
KHỔNG MINH dùng cách tọa sơn quan hổ đấu, nhìn 2 cọp đánh nhau để hưởng lợi.
KHỔNG MINH nói rõ ý đồ đó với LƯU BỊ : Nếu quân Nam được, cùng đánh TÀO THÁO
lấy Kinh Châu. Nếu quân Bắc được, thừa thế lấy Giang Nam.
KHỔNG
MINH VÀ THUẬT CƯƠNG NHU TƯƠNG TẾ :
KHỔNG
MINH muốn gặp LỖ TÚC để sang Giang Nam, dặn LƯU BỊ nếu TÚC hỏi quân tình TÀO
THÁO thì nói không biết để TÚC gặp KHỔNG MINH........đóng để mở.
LƯU BỊ,
KHỔNG MINH đóng rất giỏi vỡ kịch này. LƯU BỊ thực tình muốn KHỔNG MINH sang
Giang đông liên quân với TÔN QUYỀN nhưng vẫn giả vờ là không muốn rời KHỔNG
MINH.............lại đóng để mở.
Sang đến
Giang Đông, thấy tướng TÔN QUYỀN là người cương cường, không khuất phục, KHỔNG
MINH khiêu khích, hư trương thanh thế, nói TÀO THÁO là quân nhiều tướng giỏi,
thuyết TÔN QUYỀN đầu hàng nhục nhã.....lại là đóng để đối phương bộc lộ tính
khí.
Khi TÔN
QUYỀN tức giận là bộc lộ ý chí không muốn hàng TÀO, KHỔNG MINH lại hé mẹo diệt
trăm vạn quân TÀO như diệt kiến với LỖ TÚC........là cách mở để TÔN QUYỀN lọt
vào.
Gặp TÔN
QUYỀN lần này, KHỔNG MINH mới mở bộc lộ hết kế sách đánh TÀO với TÔN QUYỀN. TÔN
QUYỀN vững tâm liên minh với LƯU BỊ.
2. SƠ NHI BẤT LẬU: TUYỆT ĐỐI BÍ MẬT.
Sơ nhi
bất lậu tựa như bình rượu đậy kín, không để giọt nào chảy ra ngoài.
Có nghĩa
là giữ tuyệt đối bí mật.
Một
trong những kế sách lớn của thuật bãi hạp, đóng mở, ứng dụng vào quân sự. Khi
mở thì kỹ càng, toàn vẹn, khi đóng thì giữ gìn tuyệt đối bí mật.
Việc
dùng binh phải giữ bí mật, nếu lộ bí mật thì đối phương đề phòng hoặc tương kế
tựu kế tìm cách phản công.
Khi nội
bộ tướng lĩnh có người làm phản, đem bí mật quân sự tiết lộ cho đối phương
biết, lúc đó phải tùy cơ ứng biến thật giỏi mới bảo toàn được lực lượng và thủ
thắng.
THÍ DỤ :
Mượn tiếng.
QUẢN DI
NGÔ nói với TỀ HOÀN CÔNG :
_ Mấy
năm nay ta cứu nước YÊN, giúp nước LỖ, đắp thành cho nước HÌNH và VỆ, chư hầu 1
lòng tin phục chính là lúc có thể dùng quân chư hầu ; để cứu TRỊNH thì không gì
bằng đánh SỞ , nếu ta đánh SỞ tất phải hội quân chư hầu lại.
TỀ HOÀN
CÔNG nói :
_ Ta hội
quân chư hầu thì nước SỞ tất biết mà phòng bị , ta khó mà đánh
được.
QUẢN DI
NGÔ nói :
_ Nước
SÁI có lỗi với Chúa công, ta muốn đánh đã lâu, mà SỞ tiếp giáp với SÁI. Nay ta
mượn tiếng đi đánh
SÁI,
nhân tiện đem quân đánh SỞ thì SỞ không biết mà phòng bị.
****
Để tiến
đánh nước SỞ, 1 mặt TỀ HOÀN CÔNG mật ước với các nước GIANG, HOÀNG, LỖ; 1 mặt
muốn cắt vây cánh nước SỞ nên viết thư sai vua nước Từ đem quân đánh nước THƯ.
Nước Từ đánh thư xong, TỀ HOÀN CÔNG bảo vua TỪ đóng quân ở kinh đô nước THƯ
phòng sự nguy cấp. Bấy giờ SỞ đem quân đánh nước TRỊNH.
TRỊNH
VĂN CÔNG xin giảng hòa cho dân khỏi khổ.
Quan đại
phu KHỔNG THÚC can:
_ Tề sắp đánh SỞ là vì nước ta đó, nên gắng đợi.
TRỊNH
VĂN CÔNG sai người cáo cấp với TỀ HOÀN CÔNG. TỀ HOÀN CÔNG cho TRỊNH phao tin
quân TỀ sang cứu TRỊNH khiến cho Sở không dám tiến binh, rồi cho 1 toán quân
hội với chư hầu đánh SỞ, cho QUẢN DI NGÔ làm đại tướng. Lại sai THỤ ĐIÊU đem
quân đánh nước SÁI.
Nước SÁI
vẫn cậy thế SỞ không phòng bị. Khi quân TỀ đến mới chống giữ. THỤ ĐIÊU diễu
quân dưới chân thành nước SÁI. SÁI hầu biết rõ THỤ ĐIÊU là kẻ tiểu nhân, sai
đem vàng lụa lễ THỤ ĐIÊU. THỤ ĐIÊU nhận lễ và cho biết TỀ HOÀN CÔNG sẽ còn đánh
SỞ và các nước sẽ phá hũy kinh thành nước SÁI.
SÁI hầu
sợ hãi trốn sang SỞ, dân SÁi bỏ chạy cả.
SÁI hầu
đến SỞ gặp SỞ THÀNH VƯƠNG , biết rõ mưu kế TỀ HOÀN CÔNG ,sai quân sĩ phòng giữ
các nơi, triệu ĐẤU CHƯƠNG ở TRỊNH về.
*****
Khi TỀ
HOÀN CÔNG cử đại binh sang SỞ. Đến biên giới nước SỞ thấy 1 người mũ áo chỉnh
tề, đứng ở bên đường, khúm núm cúi chào :
_ Chẳng
hay có phải tôi được tiếp kiến TỀ hầu không ạ? tôi là sứ thần nước SỞ chờ ngài
đã lâu lắm rồi.
Nguyên
người ấy tên là KHUẤT HOÀN , là 1 quý tộc nước SỞ, làm quan Đại Phu, bấy giờ
phụng mệnh SỞ THÀNH VƯƠNG ra thương thuyết với quân nước TỀ.
TỀ HOÀN
CÔNG hỏi QUẢN DI NGÔ rằng :
_Sao
người nước SỞ lại biết trước là ta đem quân tới đây?
QUẢN DI
NGÔ nói :
_ Tất là
có người nào đem mưu kế cúa ta tiết lộ cho người SỞ biết. Nhưng nay họ đã sai
sứ đến đây, là có ý muốn bày tỏ điều gì đó, tôi xin lấy đại nghĩa mà trách quở
người ấy khiến cho hắn xấu hổ thì có lẽ không cần phải đánh mà tự khắc họ phải
phục.
Nói
xong, QUẢN DI NGÔ ra tiếp kiến KHUẤT HOÀN. 2 người chấp tay vái chào nhau.
KHUẤT HOÀN nói:
_ Chúa
công tôi nghe tin quý quốc đem quân tới đây, vậy có sai tôi ra để thưa với quý
quốc rằng, TỀ và SỞ nước nào làm chủ nước ấy,nước Tề ở Bắc Hải,nước Sở ở Nam
Hải,trâu ngựa không đánh hơi nhau được. Chẳng hay vì cớ gì mà quý quốc lại đi
vào đất nước chúng tôi, xin quý quốc ngỏ lời cho biết.
QUẢN DI
NGÔ nói :
_ Ngày
xưa, vua THÀNH VƯƠNG nhà Chu phong cho tiên quân là THÁI CÔNG ở nước TỀ, có dặn
1 câu rằng. Các nước chư hầu, nước nào không theo mệnh thiên tử nhà Chu, thì
tiên quân ta được quyền đem quân đi đánh dẹp. từ khi nhà Chu thiên sang Đông
Đô, các nước chư hầu tiếm quyền Chúa Công ta lại phụng mệnh làm bá chủ.
Nước SỞ
nhà ngươi theo lệ mỗi năm phải cống cho thiên tử nhà Chu 1 bó cỏ mao để dùng về
việc cúng tế,thế mà dám bỏ liều không cống, bởi vậy ta phải đến đây để đòi. Vả
lại vua CHIÊU VƯƠNG nhà Chu ngày trước đi sang địa giới nước SỞ mà không thấy
trở về, ấy cũng là bởi cớ nước SỞ ; người còn nói gì?!
KHUẤT
HOÀN nói :
_ Từ khi
nhà Chu suy yếu, các nước chư hầu đều bỏ lễ triều cống, chẳng riêng gì nước SỞ
tôi. Tuy vậy, về việc cống cỏ bao mao, thì Chúa Công tôi cũng xin chịu lỗi ;
còn về việc vua CHIÊU VƯƠNG không trở về là vì cớ đắm thuyền. xin quý quốc cứ
hỏi người ở ngoài bờ sông thì khắc biết ; Chúa Công tôi không dám nhận lỗi ấy.
Vậy tôi xin về nói lại với Chúa Công tôi.
Nói xong
liền quay xe trở về. QUẢN DI NGÔ bảo TỀ HOÀN CÔNG rằng :
_ Người
nước SỞ còn quật cường lắm, chưa có thể lấy miệng lưỡi mà khuất phục được, ta
phải tiến quân lên để ra uy mới được.
Nói
xong, truyền cho các nước đều tiến quân đến đóng ở đất Kinh Địa. SỞ THÀNH VƯƠNG
cho TỬ VĂN làm đại tướng, đem quân ra đóng ở đất Hán Nam. TỬ VĂN nói với SỞ
THÀNH VƯƠNG rằng :
_ QUẢN
DI NGÔ là 1 người giỏi binh pháp, nay đem quân các nước đến đây, tất là đã có
mưu kế vạn toàn rồi, ta nên sai sứ đi 1 lần nữa để dò xem mạnh yếu thế nào, bấy
giờ hoặc đánh hoặc hòa, ta sẽ tùy liệu.
SỞ THÀNH
VƯƠNG nói :
_ Bây
giờ biết sai ai được?
TỬ VĂN
nói :
_ KHUẤT
HOÀN đã biết mặt QUẢN DI NGÔ thì nên sai đi lần nữa.
KHUẤT
HOÀN nói :
_ Lần
trước tôi đã nhận cái lỗi không cống cỏ bao mao. Nếu Đại vương muốn giảng hòa
thì tôi xin gắng đi, để gỡ mối lôi thôi cho 2 nước. còn như muốn đánh , thì xin
sai người nào hơn tôi mới đi được.
SỞ THÀNH
VƯƠNG nói :
_Hoặc
đánh hoặc hòa, ta cho ngươi được tùy thương thuyết.
KHUẤT
HOÀN phụng mệnh SỞ THÀNH VƯƠNG , lại đến chỗ quân TỀ đóng, xin vào yết kiến TỀ
HOÀN CÔNG.
QUẢN DI
NGÔ nói với TỀ HOÀN CÔNG rằng :
_ Nước
Sở lại cho sứ đến, tất là xin giảng hòa, Chúa Công nên tiếp đãi cho
tử tế.
KHUẤT
HOÀN vào yết kiến TỀ HOÀN CÔNG , sụp lạy 2 lạy. TỀ HOÀN CÔNG đáp lễ lại rất tử
tế, rồi hỏi xem ý nuốn thế nào?
KHUẤT
HOÀN nói :
_ Chúa
Công tôi vì cớ không cống cỏ bao mao, để quý quốc phải đem quân tới đây, Chúa
Công tôi biết tội lắm rồi ; nếu quý quốc chịu rút quân khỏi 1 xá, thì Chúa Công
tôi há không dám vâng mệnh.
TỀ HOÀN
CÔNG nói :
_ Nếu
Đại Phu biết khuyên quốc quân giữ trọn chức phận, khiến cho ta có thể tâu lại
với thiên tử được, thì ta còn đợi gì nữa mà chẳng rút quân.
KHUẤT
HOÀN về nói với SỞ THÀNH VƯƠNG rằng :
_ Tôi
nói với TỀ hầu, TỀ hầu đã chịu rút quân rồi. Tôi lại có hẹn với TỀ hầu xin đem
cống cỏ bao mao, vậy Đại Vương chớ có thất tín.
SỞ THÀNH
VƯƠNG lại sai người đ0i do thám xem chư hầu đã rút quân về chưa. Quân sĩ về báo
rằng:
_Quân
các nước rút ra ngoài 30 dặm , đóng tại đất Thiệu Lăng.
SỞ THÀNH
VƯƠNG nói :
_ TỀ hầu
đã chịu rút quân, thế là có ý sợ ta !
Nói xong
, lại toan bỏ không cống cỏ bao mao nữa.
TỬ VĂN
nói :
_ Vua 8
nước chư hầu còn không nỡ thất tín với 1 kẻ thường dân , thế mà Đại Vương lại
muốn cho 1 kẻ thường dân thất tín với Vua các nước sao?
SỞ THÀNH
VƯƠNG nín lặng , không nói gì cả , rồi sai KHUẤT HOÀN đem mấy xe vàng lụa đến
đất Thiệu Lăng để khao quân chư hầu. Lại sai sửa soạn sẵn 1 xe cỏ bao mao , đem
đến trình với TỀ HOÀN CÔNG để rồi sai sứ vào cống thiên
LẠM BÀN :
a/. Mục
tiêu của TỀ HOÀN CÔNG và QUẢN DI NGÔ là đánh SỞ nhưng mượn cớ là đánh SÁI để SỞ
không phòng bị, thừa cơ đánh úp.
b/. Việc
chuẩn bị đánh nước SÁI và nước SỞ của TỀ HOÀN CÔNG và
QUẢN DI
NGÔ rất hoàn bị :
_ giảng
hòa, liên minh, mật ước với các nước GIANG, HOÀNG, THƯ và
LỖ.
_ chặt
bớt vây cánh của SỞ là nước TỪ, đánh nước SÁI.
_ cầm
chân quân SỞ bằng cách phao tin cứu TRỊNH.
c/. Bí
mật bị tiết lộ.
THỤ ĐIÊU
đã tham vàng bạc và tiết lộ bí mật quân sự cho SÁI biết, SÁI báo với SỞ và SỞ
đã phòng bị.
QUẢN DI
NGÔ nhanh chóng hiểu rằng mưu kế của TỀ đánh SỞ đã bại lộ, nên 1 mặt tiến quân
để dọa dẫm, 1 mặt tiến hành thủ đoạn ngoại giao để cho SỞ cầu hòa. Tùy cơ ứng
biến rất tài tình.
d/. Kết
cục , 1 chuyến xuất quân của TỀ HOÀN CÔNG và QUẢN DI NGÔ : Nước SÁi không phòng
bị chỉ dựa dẫm vào nước SỞ nên đã bại trận, nước TỪ bị nước THƯ thôn tính, nước
TRỊNH được cứu, nước SỞ cầu hòa.
e/. Vai
trò của KHUẤT HOÀN cũng khá nổi bật, báo cho TỀ biết là SỞ đã biết mưu kế của
Tề, ngăn TỀ tiến công. Dùng ngoại giao để Sở khỏi lâm vào cuộc chiến. Cũng là
cách tương kế tựu kế.
3. Ĩ
KHUẤT CẦU THÂN : CO ĐỂ DUỖI.
Dĩ khuất
cầu thân là co mình lại để lấy thế duỗi ra. Tượng như con Rồng, cuộn thì ngắn
vươn thì dài, như con Hổ thu mình để vươn ra chụp con mồi, như con cáo rút cổ
lại để nhảy ra cắn người.
Là những
thuật giả bệnh, giả sắp chết ,giả điên...để lừa đối phương.Đối phương tưởng là
vô hại, chủ quan không phòng bị, từ đó tung đòn ác hiểm để tiêu diệt.
Kế này
dựa trên đạo lý có Âm Dương, Dương động thì hành động, Âm ngưng thì thu tàng,
Dương động thì xuất, tùy theo Âm mà nhập. Khi chưa gặp thời cơ, cơ hội, cần lui
thì lui; khi gặp thời cơ, cơ hội, cần tiến thì tiến.
Lui thì
thanh tĩnh nhẹ nhàng, tiến thì nhanh ồ ạt. Lui như Rồng ẩn vực sâu.
Tiến như
Hổ lao xuống núi.
THÍ DỤ :
A_ TƯỞNG ĐÃ CHẾT.
BÀNG
QUYÊN và TÔN TẪN là bạn đồng môn, cùng học với QUỶ CỐC. BÀNG QUYÊN sợ TÔN TẪN
giỏi hơn mình, sẽ tranh giành ảnh hưởng và địa vị của mình ở NGỤY,bèn tìm cách
hại TÔN TẪN.
_ Đại
Vương giận lắm, muốn xử cực hình, tiểu đệ phải kêu mãi và hết sức bảo đảm, mừng
cho đại huynh được toàn tính mệnh, nhưng đại huynh phải chặt chân và thích chữ
vào mặt, đó là theo pháp luật nhà NGỤY, không phải là tiểu đệ không hết sức kêu
xin.
TÔN TẪN
nói :
_Tiên
sinh đã nói dẫu TÔN TẪN này có bị tàn hại nhưng không phải là đại hung, nay
được toàn mệnh như thế này là nhờ ơn đại huynh, TẪN này không dám quên ơn báo.
BÀNG
QUYÊN bèn sai đao phủ trói TÔN TẪN lại , chặt bỏ 2 xương bánh chè ở đầu gối.
TẪN kêu rú lên 1 tiếng rồi ngã lăn ra không biết gì,hồi lâu mới tỉnh; kẻ hành
hình lại dùng kim châm vào mặt TẪN 4 chữ:tư thông ngoại quốc,rồi lấy mực bôi
vào.
BÀNG
QUYÊN giả ý kêu khóc, lấy thuốc rịt đầu gối, dùng lụa quấn bọc, sai người kiệu
ra thư quán, dùng lời nói ngon ngọt để yên ủi.
Chừng
hơn 1 tháng vết đau đã liền, nhưng vì mất 2 xương bánh chè, 2 chân yếu đuối
không đi lại được, chỉ xếp vòng tròn mà ngồi. TÔN TẪN đã trở thành phế nhân,
mỗi ngày chịu ơn BÀNG QUYÊN cung phụng 3 bữa, lấy làm buồn.
BÀNG
QUYÊN bèn nhờ TÔN TẪN truyền bảo cho những bài của QUỶ CỐC tiên sinh chú giải
binh pháp TÔN TỬ, TẪN khẳng khái nhận lời. QUYÊN đưa thẻ tre nhờ TẪN viết ra.
TẪN viết
10 phần chưa được 1,QUYÊN sai 1 người hầu là THÀNH NHI ở hầu hạ bên cạnh TẪN.
Tên này thấy TẪN vô tội bị oan có ý thương xót.
1 hôm
bỗng QUYÊN cho gọi nó đến hỏi TẪN mỗi ngày viết được mấy bản, nó nói vì TẪN bị
chặt chân, ngồi rất khó khăn,nên mỗi ngày chỉ viết được 2-3 bản.QUYÊN nổi giận
nói rằng :
_Viết
chậm thế thì biết bao giờ cho xong, mày phải thúc giục luôn cho ta.
THÀNH
NHI lui ra hỏi tên hầu cận BÀNG QUYÊN rằng:
_Quân sư
nhờ TÔN TẪN viết, sao thúc giục như thế?
Tên hầu
cận nói :
_Mày
không biết , quân sư đối với TÔN TẪN bề ngoài thì làm ra thương xót nhưng trong
lòng thực ghen ghét, sở dĩ còn giữ toàn tính mệnh cho TÔN TẪN là vì muốn TÔN
quân truyền bảo binh thư cho, chờ khi viết xong, sẽ không cho ăn uống nữa để
TÔN quân phải chết đói, đó là việc kín, mày chớ nên tiết lộ.
THÀNH
NHI biết thế, về mật báo cho TÔN TẪN biết, TẪN cả sợ, nghĩ thầm : BÀNG QUYÊN đã
bất nghĩa như thế, há có nên truyền bảo cho binh pháp? Lại nghĩ đến mình không
chịu viết, tất nó sẽ nổi giận giết ngay.
Nghĩ mãi
muốn cầu kế thoát thân,sực nhớ khi ra đi QUỶ CỐC tiên sinh có trao cho 1 cái
cẩm nang, dặn khi nào nguy cấp quá thì mở ra xem, nay chính là lúc nên mở ra.
Bèn mở cái cẩm nang ra xem, đó là 1 bức lụa vàng, ở trong đó viết 3 chữ : Cách
giả điên. TẪN nghĩ bụng : Hóa ra là như vậy.
Buổi
chiều hôm ấy, khi mâm cơm mới bưng lên, TẪN cầm đũa chực ăn, bỗng làm ra dáng
mê man và nôn ọe hồi lâu rồi nổi giận, giương mắt hét to lên rằng:
_Mày sao
dùng thuốc độc hại ta?
Rồi vứt
chai lọ xuống đất, lấy những thẻ gỗ đã viết rồi ném vào lửa đốt bỏ, miệng cứ
lảm nhảm chửi mắng mãi không thôi.
THÀNH
NHI không biết TÔN TẪN giả cách, vội đi báo BÀNG QUYÊN.
Ngày hôm
sau QUYÊN đến xem, thấy TẪN đờm dãi đầy mặt, phục xuống đất cười khà khà, bỗng
lại khóc òa lên. QUYÊN hỏi :
_Đại
huynh làm sao mà cười , làm sao mà khóc như thế?
TẪN nói
:
Ta cười
là cười vua NGỤY muốn hại mệnh ta, ta có 10 vạn thiên binh giúp sức,làm gì được
ta !Ta khóc là khóc cho nước NGỤY không có TÔN TẪN không có ai làm đại tướng !
Nói rồi
giương mắt nhìn QUYÊN, rồi cứ dập đầu mà lạy hoài, miệng nói xin
QUỶ CỐC
tiên sinh cứu mạng. QUYÊN nói :
_Tôi là
BÀNG QUYÊN đây đại huynh chớ nhận lầm !
TẪN cứ
nắm chặt lấy áo QUYÊN không chịu buông, miệng cứ kêu tiên sinh cứu mệnh. QUYÊN
sai người giằng ra , hỏi THÀNH NHI :
_TÔN tử
phát bênh bao lâu rồi?
THÀNH
NHI nói phát tự ban đêm. QUYÊN lên xe về phủ, trong lòng nghi hoặc, sợ TÔN TẪN
giả cách điên, muốn thử xem thật giả, bèn sai người đặt vào trong chuồng lợn,
đầy dẫy những phân, TẪN xỏa tóc úp mặt mà nằm sấp xuống. QUYÊN lại sai người
mang cơm rượu đến nói dối rằng :
_Tôi
thương tiên sinh bị chặt chân gọi là tỏ lòng kính mến, nguyên súy không biết
đâu .
TẪN biết
mưu gian của QUYÊN , trợn mắt mắng rằng :
_ Mày
lại đem thuốc độc hại ta à ?
Nói rồi
đổ rượu vất cơm xuống đất, tên kia lại nhặt đống cơm cho chó ăn, và lấy phân
chó và cục bùn đưa cho, TẪN cầm lấy ăn ngay .
Tên kia
về báo QUYÊN, QUYÊN chắc là TẪN điên rồ thật, không lấy làm lo, từ đó thả lỏng
TÔN TẪN , mặc cho ra vào .
TẪN hoặc
sớm đi chiều về lại cứ nằm ở chuồng lợn, hoặc đi mà không về, nằm đất nằm cát ở
đường chợ ; hoặc cười nói hoặc kêu khóc . Nhiều người biết TÔN là khách khanh,
thương hại TẪN bị tàn phế đều cho ăn uống . TẪN hoặc ăn hoặc không ăn, nói lảm
nhảm luôn mồm, không ai biết là TẪN giả cách điên cả.
Tuy vậy,
BÀNG QUYÊN vẩn còn lấy làm lo , hạ lệnh cho địa phương cứ mỗi sáng phải đến
trình báo xem TẪN ở đâu .
Bấy giờ,
MẶC ĐỊCH sang chơi nước Tề ở nhà ĐIỀN KỴ . Có người học trò là CẦM HOẠT mới ở
nước Ngụy đến . MẶC ĐỊCH hỏi thăm TÔN TẪN ở nước Ngụy có đắc ý hay không .
CẦM HOẠT
đem việc TÔN TẪN bị chặt chân thuật lại cho MẶC ĐỊCH nghe. MẶC ĐỊCH nói :
_ Ta vốn
muốn tiến cử hắn, ngờ đâu thành ra hại hắn.
MẶC ĐỊCH
bèn đem tài học của TÔN TẪN và việc BÀNG QUYÊN ghen ghét nói với ĐIỀN KỴ . ĐIỀN
KỴ vào tâu ngay với Uy Vương xin đem quân đón TÔN TẪN về nước. ĐIỀN KỴ nói :
_BÀNG
QUYÊN đã không muốn cho TẪN làm quan ở nước Ngụy thì khi nào lại muốn cho TẪN
làm quan ở nước Tề . Muốn đón phải như thế, như thế...mới được.
Uy Vương
bèn sai THUẦN VU KHÔN mượn tiếng sang Ngụy dâng trà, CẦM HOẠT giả làm người hầu
đi theo. Sang đến ngụy, THUẦN VU KHÔN vào chầu Huệ vương rồi ra ở ngoài nhà
trạm.
CẦM HOẠT
thấy TẪN điên, không cùng nói chuyện, nửa đêm mới lén đến thăm. TẪN dựa lưng
vào thành giếng mà ngồi. Thấy HOẠT chỉ giương mắt nhìn mà không nói. CẦM HOẠT
ứa nước mắt nói rằng :
_TÔN TẪN
khổ đến thế ư? Có biết CẦM HOẠT này không? Thầy tôi có kể nỗi oan cho Vua Tề,
Vua Tề rất thương mến, nay sai ông THUẦN VU đến đây, không phải vì việc dâng
trà mà thực là muốn đem TÔN khanh về Tề báo cái thù chặt chân đó thôi.
TÔN TẪN
chảy nước mắt như mưa, hồi lâu mới nói rằng:
_ Tôi
vẫn chắc chết rấp ở ngoài rãnh, không ngờ ngày nay lại có cơ hội này.
Nhưng
BÀNg QUYÊN vẫn ngờ vực lắm, khơng thể đem tôi đi lọt đâu.
CẦM HOẠT
nói :
_ tôi đã
có kế rồi, TÔN khanh không phải quá lo, chờ khi nào tôi đi, tôi sẽ đến đón
nhưng xin cứ gặp nhau ở đây, chớ dời đi nơi khác.
Hôm sau,
Huệ Vương khoản đãi THẦN VU KHÔN , biết KHÔN là người biện luận giỏi, nên tặng
vàng lụa rất nhiều , KHÔN từ tạ Huệ Vương chực đi, BÀNG QUYÊN lại đặt rượu ở
Trường Đình để tiễn hành
Đêm
trước, CẦM HOẠT đã đem TÔN TẪN giấu trong 1 cái xe phủ kín, đem quần áo của TẪN
mặc cho đầy tớ là VƯƠNG NGHĨA mặc, bù đầu xỏa tóc, lấy bùn đất bôi vào mặt giả
làm TÔN TẪN, địa phương cứ thế mà báo, nên BÀNG QUYÊN không ngờ.
THUẦN VU
KHÔN từ biệt BÀNG QUYÊN , bảo CẦM HOẠT cho xe đi trước và giục đi cho thật
nhanh,còn mình thì đi áp hậu.
Mấy ngày
sau VƯƠNG NGHĨA cũng tìm được sách thoát thân, chạy theo.
Quan địa
phương thấy những quần áo bẩn thỉu quăng bỏ trên mặt đất, không thấy TÔN TẪN
đâu, liền đi báo BÀNG QUYÊN, QUYÊN nghi là TẪN nhảy xuống giếng tự tử, sai
người mò vớt không thấy, lại cho đi dò hỏi khắp nơi cũng không thấy tung tích
TẪN đâu, nhưng sợ Ngụy Vương trách hỏi, bèn tâu TÔN TẪN chết đuối , cũng không
ngờ TÔN TẪn đã về nước Tề rồi.
Sau này
TÔN TẪN làm tướng quốc nước Tề, đã phục binh giết BÀNG QUYÊN tại Mã Lăng.
Thí dụ :
B _ Con ngựa hèn tham nắm đậu
TƯ MÃ Ý,
TÀO SẢNG phò thái tử TÀO PHƯƠNG lên ngôi hoàng đế. TÀO PHƯƠNG tự là LAN KHANH ,
nguyên là con nuôi TÀO TUẤN , chuyện bí mật ở trong cung , không ai biết do đâu
mà đến.
TÀO
PHƯƠNG lên ngôi, tôn tên thụy cha là MINH ĐẾ , táng ở Cao Bình; tôn QUÁCH hoàng
hậu làm thái hậu;đổi niên hiệu là Chính thủy. SẢNG rất trọng vọng TƯ MÃ Ý ,
phàm việc gì to đều hỏi Ý trước.
SẢNG tên
tự là BÁ CHIÊU , tự thuở nhỏ ra vào trong cung. MINH ĐẾ thấy người cẩn thận,
đem lòng yêu mến lắm.SẢNG có 500 khách môn hạ ; trong đó có 5 người ưa chuộng
thói phù hoa là HÀ YẾN, ĐẶNG DƯƠNG, LÝ THẮNG,ĐINH BẬT, TẤT PHẠM.
Lại có
quan đại tư nông là HOÀN PHẠM, tự NGUYÊN TẮC , có nhiều mưu trí, người ta khen
là trí nang ( túi khôn ). Mấy người ấy đều được TÀO SẢNG tin dùng.
HÀ YẾN
nói với TÀO SẢNG rằng :
_ Đại
quyền của chủ công, chớ cho người khác được can thiệp đến mà để lo về sau.
SẢNG nói
:
_Tư Mã
công cùng với ta chịu lời tiên đế thác cô, nỡ nào ta bỏ nghĩa ấy.
YẾN nói
:
_ khi
xưa tiên công cùng với TRỌNG ĐẠT đánh THỤC, nhiều khi bị hắn lấn át, nhân thế
mà chết. Chủ công sao không xét việc đó?
SẢNG
nghĩ ra, cùng với các quan thương nghị, rồi vào tâu với Ngụy Chủ rằng :
TƯ MÃ Ý
công cao đức nặng, nên gia chức làm Thái Phó.
PHƯƠNG
nghe lời.Từ đó binh quyền về cả tay TÀO SẢNG. SẢNG sai em là TÀO HI làm
Trung
lĩnh quân, TÀO HUẤN làm Võ vệ tướng quân, TÀO NGẠN làm Tản kỵ thường thị. Mỗi
người 3000 ngự lâm quân, tùy tiện ra vào chốn cung cấm. Lại dùng HÀ YẾN, ĐẶNG
DƯƠNG,ĐINH BẬT làm thượng thư, TẤT PHẠM làm Tư lệ hiệu úy, LÝ THẮNG làm Hà Nam
doãn. Năm người ấy ngày đêm bàn việc với TÀO SẢNG. Bởi thế tân khách nhà TÀO
SẢNG mỗi ngày một nhiều.
TƯ MÃ Ý
thấy vậy, thác có bệnh không ra đến ngoài. Hai con cũng từ chức về nhà.
TÀO SẢNG
mỗi ngày cùng với bọn HÀ YẾN uống rượu làm vui. Phàm các đồ dùng , áo sống,
không khác gì của triều đình. những đồ quý báu các nơi tiến cống, trước hết
chọn đồ quý nhất lấy làm của riêng, còn thừa mới nồp vào cung.
Trong
phủ chứa rất nhiều con gái đẹp. Quan hoàng môn là TRƯƠNG ĐƯƠNG xiểm nịnh TÀO
SẢNG , kén lấy 18 nàng hầu của Tiên Đế , đưa vào trong phủ. SẢNG lại kén ba bốn
chục con gái nhà tử tế, biết hát múa lập ra 1 đội nữ nhạc trong phủ. Lại dựng
lên lầu cao gác chạm ; đúc các đồ vàng bạc ; dùng hơn 100 thợ khéo , ngày đêm
chế tạo đồ dùng.
TÀO SẢNG
thường hay cùng với bọn HÀ YẾN , ĐẶNG DƯƠNG ra ngoài săn bắn. Em là TÀO HI can
rằng :
- Uy
quyền của anh to lắm, mà cứ hay đi chơi săn bắn, nếu có người mưu hại thì làm
thế nào ?
SẢNG
mắng rằng :
_ Binh
quyền ở trong tay ta, còn sợ gì ai nữa?
Tư nông
là HOÀN PHẠM cũng can , nhưng SẢNG cũng không nghe.
Bấy giờ
Ngụy chủ TÀO PHƯƠNG đổi năm Chính Thủy thứ 10 là năm Gia Bình thứ nhất. TÀO
SẢNG 1 mực chuyên quyền. không biết bệnh TRỌNG ĐẠT hư thực ra làm sao.
Bữa ấy,
nhân Ngụy Chủ cho LÝ THẮNG ra làm Thứ sử ở Kinh Châu. SẢNG cho LÝ THẮNG đến từ
TRỌNG ĐẠT , nhân để dò xem ý tứ thế nào. LÝ THẮNG đến phủ Thái Phó, có lính
canh cửa vào báo với TƯ MÃ Ý. Ý bảo với 2 con rằng :
_ Đây là
TÀO SẢNG sai đến dò xem bệnh ta thực hay giả đây.
Lập tức
bỏ mũ, để tóc rũ rượi, trèo lên giường ngồi dựa vào cái chăn và sai 2 nàng hầu
nâng đỡ ; rồi mới sai mời LÝ THẮNG vào phủ.
LÝ THẮNG
đến trước giường , lạy nói rằng :
_ Lâu
nay không được hầu Thái Phó, không ngờ ngài yếu đau thế này ! Nay thiên tử sai
tôi làm thứ sử Kinh Châu, xin đến đây kạy từ Thái Phó.
Ý giả
điếc , đáp rằng :
_ Tinh
châu gần phương bắc, ra đó giữ gìn cho khéo.
THẮNG
nói :
_ Tôi
được cử làm Thứ sử Kinh Châu, không phải Tinh Châu.
Ý cười
nói :
_ Ngươi
ở Tinh Châu lại à?
THẮNG
nói :
_ Kinh
Châu ở Hán Thượng.
Ý lại
cười ha hả mà rằng :
_ Ngươi
ở Kinh Châu lại đây à?
THẮNG
nói :
_Thái
Phó sao ngài yếu đến thế?
Tả hữu
nói :
_ Thái
Phó điếc đấy !
THẮNG
mượn bút giấy viết mấy chữ đệ lên.
Ý xem
xong cười rằng :
_ Ta lâu
nay mệt lắm , tai điếc nghe không rõ. Chuyến này có đi thì phải giữ gìn !
Nói đoạn
, lấy tay trỏ vào mồm , ra hiệu muốn uống nước. Thị tỳ dâng chén nước nóng. Ý
hớp miệng vào chén nước , nước đổ ra ướt cả vạt áo. Ý ậm ự trong cổ, làm ra
tiếng nghẹn, rồi nói rằng :
_ Ta suy
nhược lắm , sớm tối chưa biết chết lúc nào. Ta có 2 con chẳng ra gì, nhờ người
dạy bảo đỡ cho ta. Ngươi có về ra mắt đại tướng quân, nhờ nói giùm với tướng
quân trông nom đỡ 2 con cho ta, thì may lắm.
Nói
đoạn, nằm lăn ra bên giường, thở hồng hộc 1 lúc.
LÝ THẮNG
cáo từ TRỌNG ĐẠT , về ra mắt TÀO SẢNG , thuật hết cả tình hình như thế
SẢNG mừng,
nói :
_ Lão
này chết thì ta không lo gì nữa !
TƯ MÃ Ý
thấy LÝ THẮNG đi rồi, đứng dậy bảo với 2 con rằng :
_ LÝ
THẮNG chuyến này về báo tin , TÀO SẢNG tất không nghi ta nữa ; đợi khi nào y ra
thành săn bắn, thì mới thực hiện ý đồ được.
Không
mấy bữa. TÀO SẢNG mời Ngụy Chủ TÀO PHƯƠNG ra yết lăng Cao Bình , tế tự Tiên Đế
. Quan viên lớn nhỏ theo cả ra.
SẢNG dẫn
3 anh em và bọn tâm phúc HÀ YẾN cùng quân ngự lâm, hộ giá ra thành.
Tư nông
là HOÀN PHẠM can rằng :
_ Chủ
công coi giữ quân cấm binh, không nên anh em cùng đi cả ; phỏng trong thành có
biến , thì làm thế nào?
SẢNG cầm
roi ngựa quật vào HOÀN PHẠM , mắng rằng :
_ Ai dám
làm loạn , chớ có nói càn !
********
Đây nói
TƯ MÃ Ý , nghe tin TÀO SẢNG dẫn 3 anh em và bọn tâm phúc , cúng quân ngự lâm
theo cả Ngụy Chủ ra thành , yết lăng vua Minh Đế , nhân thể đi săn. Ý mừng lắm,
lập tức vào nơi công đường, sai Tư Đồ là CAO NHƯ lĩnh chức đại tướng quân ,
trước hết đến giữ dinh TÀO SẢNG. Lại sai Thái Bộc là VƯƠNG QUAN , quyền chức
trung lĩnh quân, giữ dinh TÀO HI.
Ý dẫn
các quan vào hậu cung tâu với Quách thái hậu việc TÀO SẢNG bỏ lời tiên đế thác
cô, gian tà loạn nước , xin trị tội.
Quách
thái hậu thất kinh , nói :
_ thiên
tử ra ngoài chưa về, thì làm thế nào?
Ý tâu
rằng :
_ Tôi đã
dâng biểu tâu với thiên tử, có mẹo giết được gian thần, thái hậu chớ
ngại.
Thái hậu
sợ hãi, phải theo lời. Ý sai Thái Úy là TƯỞNG TẾ , thượng thư lệnh là TƯ MÃ PHU
cùng với mình viết biểu, phái hoàng môn mang ra ngoài thành tâu với Ngụy Chủ. Ý
tự dẫn đại quân giữ kho khí giới.
HOÀN
PHẠM được xem như là mưu sĩ , túi khôn của TÀO SẢNG , nghe có biến tìm cách
chạy ra cửa thành. Có người bảo với TƯ MÃ Ý. Ý giật mình nói :
_ Túi
khôn lọt ra mất rồi thì làm thế nào?
TƯỞNG TẾ
nói :
_ Ngựa
hèn tham nắm đậu trong chuồng , dù có túi khôn, cũng không dùng được.
Ý gọi
HỨA DOÃN, TRẦN THÁI đến bảo rằng :
_ Hai
ngươi ra gặp TÀO SẢNG , nói Thái Phó không có bụng nào hại đâu, chỉ muốn tước
bớt binh quyền của anh em họ đấy thôi.
HỨA ,
TRẦN 2 người đi liền.
Lại đòi
quan Điện trung hiệu úy là DOÃN ĐẠI MỤC đến, sai TƯỞNG TẾ viết thư, cho ĐẠI MỤC
cầm ra đưa cho TÀO SẢNG. Ý dặn rằng :
_ Ngươi
thân thiết với TÀO SẢNG , nên giúp việc này. Ngươi có ra mắt TÀO SẢNG , thì nói
rằng ta với TƯỞNG TẾ trỏ sông Lạc Thủy ăn thề, chỉ vì việc binh quyền, chớ
không có bụng nào cả.
DOÃN ĐẠI
MỤC vâng lệnh đi ra.
********
Nói về
TÀO SẢNG đang mãi săn bắn, huýt chó thả chim. Chợt có tin báo trong thành nổi
loạn, Thái phó có biểu văn đưa đến.SẢNG giật nảy mình, suýt nữa ngã ngựa. Quan
hoàng môn dâng biểu quỳ trước mặt thiên tử. SẢNG tiếp lấy tờ biểu mở ra, sai
cận thần d0oc5 lên vua nghe.
Biểu
rằng :
Chinh
Tây đại tướng quân thái phó thần là TƯ MÃ Ý, rất sợ hãi, cúi đầu kính dâng biểu
lên bệ hạ : Thần tự khi đánh liêu Đông trở về, tiên đế giao phó bệ hạ cho Tần
Vương và bọn thần, bên giường ngự, cầm tay thần, gắn bó dặn dò việc sau. Nay
đại tướng quân TÀO SẢNG bỏ lời cố mệnh, loạn phép nhà nước, trong thì tiếm
pháp, ngoài thì chuyên quyền , dung hoàng môn là TRƯƠNG ĐƯƠNG làm đô giám, cùng
nhau tư thông, để ngấp nghé ngôi báu,làm cho lìa cách 2 cung,tàn hại trong tình
cốt nhục. Thiên hạ nôn nao, mang lòng sợ hãi. Đó không phải là ý của tiên đế
bảo bệ hạ và dặn thần như thế. Thần tuy già yếu, dám đâu quên lời xưa. Thái úy
thần là TẾ, thượng thư thần là PHU cũng nghĩ rằng TÀO SẢNG không có bụng tôn
vua, không nên cho anh em y được giữ binh quyền túc vệ trong cung nữa. Vì thế ,
thần tâu với hoàng thái hậu, thái hậu sai thần tấu biểu với bệ hạ để ra lệnh.
Vậy thần dâng biểu này, xin bắt SẢNg , HI , HUẤN phải bãi binh đi mà về nhà,
không được để xa giá bệ hạ ở lâu ngoài thành. Nếu chậm trễ, xin án quân pháp mà
trị tội. Thần phải gượng bệnh đem quân ra đóng trên cầu Lạc Thủy, để coi xét
việc bất thường. Vì vậy bày tỏ, xin được soi xét.
Ngụy Chủ
TÀO PHƯƠNG nghe xong,bảo với TÀO SẢNG rằng :
_ Thái
phó nói vậy , ngươi khu xử làm sao?
TÀO SẢNG
cuống cả người lại, bảo với 2 anh em rằng :
_ Lam
thế nào bây giờ?
HI nói :
_ Em đã
can mãi anh,anh chẳng nghe cho, mới đến nỗi này. TƯ MÃ Ý quỷ quyệt vô cùng,
KHỔNG MINH còn không đánh nổi, huống chi anh em chúng ta ! Chi bằng tự trói
mình về chịu lỗi, cầu khỏi cái chết là hơn !
Một lát,
tham quân TÂN TỆ, TƯ MÃ LỖ CHI đến. SẢNG hỏi chuyện. Hai người nói :
_ Trong
thành vây kín như rào sắt, thái phó đem quân đóng trên cầu sông Lạc, không tài
nào mà về được đâu. Nên định kế lớn đi !
Đang nói
thì tư nông là HOÀN PHẠM tế ngựa chạy đến. PHẠM nói :
_ Thái
phó đã khởi biến rồi , tướng quân sao không rước thiên tử ra Hứa Đô, cất quân
ngoài mà đánh TƯ MÃ Ý ?
SẢNG nói
:
_ Cả nhà
ta ở trong thành , sao nên đi nơi khác mà cầu cứu?
PHẠM nói :
_ Thất
phu đương lúc nạn, còn muốn cầu sống. Nay chủ công theo với thiên tử, hiệu lệnh
thiên hạ, đâu chẳng phải nghe , sao lại đâm đầu về đất chết làm chi?
SẢNG
nghe nói phân vân chưa quyết, chỉ ứa nước mắt khóc.
PHẠM lại
nói :
_ Tự đây
ra Hứa Đô , chẳng qua nửa đêm thì đến nơi. Lương thảo trong thành, đủ chi được
vài năm. Vả lại quân mã trại riêng của chủ công, ở ngay Quan Nam gần đây, gọi 1
tiếng là đến. Ấn đại tư mã tôi đã mang ra đây, chụ công nên làm cho kịp đi, nếu
chậm thì việc hỏng mất.
SẢNG nói
:
_ các
ngươi chớ thôi thúc lắm, để ta nghĩ kỹ xem đã !
Được 1
lát , thị trung HỨA DOÃN , thượng thư lệnh TRẦN THÁI đến. Hai người nói :
_ Thái
phó chỉ vì việc tướng quân quyền to quá, muốn tước bớt binh quyền đi, chớ không
có bụng gì đâu. Tướng quân nên về ngay trong thành cho sớm.
SẢNG nín
lặng chẳng nói gì , 1 lát , lại có DOÃN ĐẠI MỤC đến nói :
_ Thái
phó trỏ sông Lạc phát lời thề, tịnh không có bụng nào. Có thư của TƯỞNG thái úy
ở đây. tướng quân nên bỏ binh quyền, về ngay tướng phủ cho.
SẢNG tin
là thực.
HOÀN
PHẠM lại nói ;
_ Việc
đã cấp rồi, chớ nghe người ta nói mà đâm vào đất chết !
Đêm hôm
ấy, TÀO SẢNG vẫn không quyết bề nào, tay cầm thanh gươm thở ngắn thở dài cho
đến sáng, lúc nào cũng nước mắt chảy vòng quanh mà vẫn hồ nghi không biết nghĩ
ra sao.
HOÀN
PHẠM vào trướng giục rằng :
_ Chủ
công nghĩ suốt cả đêm, mà vẫn chưa quyết ư?
SẢNG vất
thanh gươm xuống than rằng :
_ Bụng
ta không muốn cất quân, ta tình nguyện bỏ quân, chỉ làm 1 tên phú ông là đủ.
PHẠM khóc ầm lên, ra trướng nói :
_ TÀO TỬ
ĐAN khoe mình trí mưu, nay được 3 con đụt như chó lợn cả.
HỨA
DOÃN, TRẦN THÁI xui SẢNG nộp ấn thụ trước cho TƯ MÃ Ý. SẢNG sai đem ấn thụ đưa
ra. Chủ bộ là DƯƠNG TỐNG giằng lại ấn thụ, khóc rằng :
_ Hôm
nay chủ công bỏ binh quyền, tự trói xin hàng, không tránh khỏi chết ở chợ cửa
đông đâu.
SẢNG nói
:
_ Thái
phó tất không thất tín với ta !
Bởi thế,
TÀO SẢNG đem ấn thụ đưa cho HỨA, TRẦN 2 người mang về trước, giao nộp TƯ MÃ Ý.
Quân sĩ thấy không có tướng ấn, lẻ tẻ tan mất cả. Thủ hạ TÀO SẢNG chỉ còn mấy
người, đi theo về đến Phù kiều.
TƯ MÃ Ý
cho 3 anh em TÀO SẢNG hãy về nhà riêng, còn các quan đi theo thì tống giam chờ
sắc chỉ.
Anh em
TÀO SẢNG khi vào đến thành,không còn 1 người nào theo hầu.
HOÀN
PHẠM về đến cầu, TƯ MÃ Ý ngồi trên ngựa trỏ roi mà rằng :
_ HOÀN
đại phu cớ sao lại thế?
HOÀN
PHẠM cúi mặt xuống không nói gi, rồi đi vào thành.
TƯ MÃ Ý
rước xa giá nhổ trại về Lạc Dương.Ba anh em TÀO SẢNG về đến nhà, TƯ MÃ Ý dùng
khóa to khóa cửa lại, sai 800 dân phu vây giữ.
TÀO SẢNG
trong bụng lo buồn. Hi nói :
_ Trong
nhà ta thiếu lương ăn, anh thử viết thư đưa cho Thái phó vay lương.
Nếu y
đem đỡ cho ta, thì tất không nỡ hại nhau.
SẢNG
liền viết thư sai người cầm đến. TƯ MÃ Ý xem thư, cho người vận 100 hộc lương
vào phủ TÀO SẢNG.
SẢNG
mừng nói :
_TƯ MÃ
CÔNG hẳn không bụng nào nỡ hại ta !
Từ đó
không lo gì nữa.
TƯ MÃ Ý
trước hết bắt TRƯƠNG ĐƯƠNG tống ngục tra hỏi. ĐƯƠNG xưng ra bọn HÀ YẾN,ĐẶNG
DƯƠNG, LÝ THẮNG , TẤT PHẠM, ĐINH BẬT năm người đồng mưu phản nghịch. Ý lấy khẩu
cung , rồi sai bắt bọn HÀ YẾN tra hỏi minh bạch , cả bọn cùng xưng là trong 3
tháng nữa thì làm phản. Ý sai đòng gông ráo cả lại.
Tướng
giữ cửa thành là TƯ PHIÊN tố cáo HOÀN PHẠM trá xưng phụng chiếu ra thành, nói
là thái phó làm phản.
Ý nói :
_ Vu cho
người làm phản , tội cũng như làm phản.
Liền sai
bắt cả bọn HOÀN PHẠM bỏ ngục. Rồi bắt 3 anh em TÀO SẢNG và các người phạm tội,
cùng cả 3 họ điệu ra ngoài chợ chém sạch. Bao nhiêu của cải tịch thu bỏ kho làm
của công.
LẠM BÀN :
1/. ngay
cả KHỔNG MINH cũng kiêng mặt TƯ MÃ Ý , rõ ràng TÀO SẢNG không phải là đối thủ
của Ý
2/. TÀO
SẢNG danh vọng đã lên đến cực điểm : Nắm hết binh quyền , cao sang , xa
hoa...chủ quan không hiểu được âm mưu TƯ MÃ Ý , thiếu phòng bị, lại còn cao
hứng kéo quân ra khỏi hang ổ để săn bắn.
Khi gặp
nguy biến,nhu nhược sợ chết,không nghe lời mưu sĩ, thiếu quyết đoán.
Đúng như
lời TƯỞNG TẾ : Con ngựa hèn tham nắm đậu trong chuồng, có túi khôn cũng không
dùng được.
Khi đắc
thế khoác lác la mắng cấp dưới, tiền hô hậu ủng, lúc thất bại run rẩy khóc lóc,
bọn tay chân thuộc hạ lãng ra. Chịu nhục xin gạo ăn để cầu sống, ảo tưởng kẻ
thù sẽ tha mạng nhưng kết cuc cũng bị chém giửa chợ.
3/.Ngoạn
mục là TƯ MÃ Ý cáo quan, giả bệnh,giả nghễnh ngãng, yếu đuối như sắp chết, còn
trối trăn...nhưng khi có cơ hội thì sáng suốt sắp đặt đâu vào đấy, cướp lại
được binh quyền địa vị.
Thủ đoạn
chính trị thật ghê gớm. 1 màn kịch giả bệnh, giả sắp chết, thay đổi, khuynh đảo
cả 1 thế lực của 1 triều đình.
4/. Đáng
buồn là HOÀN PHẠM được gọi là túi khôn chẳng khôn chút nào, khi biết SẢNG đụt
như chó lợn thì quá muộn.
5/. Quỷ
Cốc còn cho rằng âm thì thối tàng, không hành động. Lẽ thường thì Âm cực điểm
sẽ chuyển hóa thành Dương, đó là thời cơ nhanh chóng hành động.
6/. Bàn
về kế này người ta cho rằng bắt chước 1 loài cá gọi là mê ngư, cá sống trong
bùn.Khi mặt nước có biến động rúc nhanh xuống bùn bất động; nhịn ăn hàng năm,
sáu tháng ; người ta không phát hiện được nên nó sống sót va sống rất lâu.
4/.TIÊN
ĐẢ HẬU MA : Trước đánh sau bắt
Tiên đả
hậu ma là trước đánh sau bắt. ví như muốn bắt cá, trước là khuấy lên cho đục
nước làm cho cá mất phương hướng, sau đó là mò bắt cá.
Dựa vào
nguyên lý Âm Dương, đóng mở để quan sát, thẩm định ; đo lường lực lượng, khả
năng ; kỹ năng, kỹ xảo ; sở trường, sở đoản của đối phương.
Muốn
đánh bại 1 đạo quân thì làm cho đạo quân ấy mệt mõi, tiêu tan ý chí sau đó mới
tiến quân.
Muốn
thôn tính 1 nước thì phải làm cho nước đó rối loạn, vua không phân biệt được
phải trái,chính tà,trung nịnh,quần thần và nhân dân mất niềm tin.
Muốn cho
1 nước thần phục mình phải cắt đứt chỗ dựa của nước đó. Ví dụ A : DIỆT MẦM SỰ
TRÁO TRỞ
Nước
TRỊNH khi theo SỞ lúc theo TẤN, lúc theo SỞ . TẤN ĐIỆU CÔNG giận lắm, hỏi các
quan đại phu rằng :
_ Người
nước TRỊNH phản phúc, quân ta đến thì theo, quân ta về lại phản, nay muốn cho
người nước TRỊNH 1 lòng theo ta thì nên dùng kế gì ?
TUÂN
DINH hiến kế rằng :
_ Nước
TẤN ta không thu phục được nước TRỊNh là vì người nước SỞ cố sức mà tranh nước
TRỊNh với ta.
Nay muốn
thu phục được nước TRỊNH thì tất phải đối địch với SỞ , mà muốn làm cho SỞ khốn
đốn thì nên tìm kế dĩ dật đãi lao,lấy khoẻ mà đánh mỏi mệt.
TẤN ĐIỆU
CÔNG nói :
_ Thế
nào là dĩ dật đãi lao ?
TUÂN
DINH nói :
_ Quân
nước mình không nên dùng luôn , dùng luôn thì người mình nhọc ; quân chư hầu
không nên điều động luôn, điều động luôn thì chư hầu oán. Trong nhọc mà ngoài
oán, cứ như thế thì không bao giờ thắng được SỞ.
Tôi xin
đem quân ta chia ra làm 3 đạo , mỗi đạo quân có mấy nước chư hầu phụ thuộc vào
, thay đổi nhau mà đối địch với quân SỞ , SỞ tiến thì ta lui , SỞ lui thì ta
tiến , đem 1 đạo quân của nước ta mà làm cho cả nước SỞ không lúc nảo được yên ,
như thế thì nước SỞ khốn quẩn, bấy giờ nước TRỊNH tất phải 1 lòng theo ta.
Khi xuất
quân TUÂN DINH truyền lệnh rằng :
_ Ba đạo
quân cứ thay phiên nhau đánh TRỊNH , hễ TRỊNH chịu giảng hòa thì lại rút về
ngay , nhất thiết không được giao chiến với quân SỞ.
Quả
nhiên sau này , TRỊNH không dám phản bội nước TẤN.
LẠM BÀN :
1/. Sở
dĩ nước TRỊNH tại sao sớm đầu tối đánh là do nước SỞ ủng hộ,lôi kéo.SỞ là chỗ
dựa của TRỊNH , SỞ biến loạn thì không bảo vệ được TRỊNH , buộc TRỊNh phải cầu
hòa với TẤN.
2/.
Trước đánh SỞ ( tiên đả ) làm cho nước SỞ mỏi mệt. Sau mới bắt ( hậu ma ) TRỊNH
chui vào rọ cầu hòa.
3/. Kế
này còn có tên gọi khác là dĩ dật đãi lao ,lấy sự nghĩ ngơi, khoẻ mạnh đánh
người mỏi mệt. Làm tiêu hao nhuệ khí , sức lực của đối phương , đợi đối phương
tinh thần sa sút , rối loạn thì tiến đánh.
Với kế
này , thời Đông Tấn, TẠ HUYỀN _ tướng nước Tấn _ đã đánh tan tác 90 vạn quân
của BỐ KIÊN_tướng nước TẦN _ tại sông Phì Thủy.
Ví dụ B
: TIÊU TAN DŨNG KHÍ
TRANG
CÔNG và TÀO QUỆ đi trên 1 chiếc binh xa ra trận đánh nhau với quân Tề tại
Trường Thược.
TRANG
CÔNG chuẩn bị đánh trống trận ra lệnh công kích ,TÀO QUỆ nói :
_ Chưa
đến lúc , chưa được hạ lệnh xuất kích .
Quân Tề
đánh 3 lần trống trận , TÀO QUỆ nói :
_ Có thể
đánh trống trận và phát lệnh công kích rồi !
Quân Tề thua trận tan rã , TRANG CÔNG chuẩn bị
truy kích , TÀO QUỆ
nói :
_ Chậm 1
chút.
TÀO QUỆ
xuống xe kiểm tra dấu vết binh xa của quân Tề , leo lên thành xe nhìn ra nơi xa
xa , rồi nói rằng :
_ Được
rồi !
Thế là
TRANG CÔNG hạ lệnh truy kích quân Tề.
LỜI BÀN
CỦA TÀO QUỆ :
Sau khi
đánh thắng trận. TRANG CÔNG hỏi TÀO QUỆ vì sao làm như vậy , TÀO QUỆ trả lời :
_Về việc
đánh nhau cần phải có dũng khí . Lần thứ nhất đánh trống trận để lấy dũng khí
quân đội . Đánh trống trận lần thứ hai thì dũng khí đang hăng sẽ tàn lụi dần .
Đến lần trống trận thứ ba thì dũng khí quân đội sẽ mất hết. Dũng khí của quân
Tề xuống hết, trái lại, dũng khí của quân ta tràn đầy cho nên chúng ta đánh bại
được quân Tề . Nước lớn là khó dự liệu ; e rằng họ giả vờ tháo chạy rồi nằm lại
mai phục . Tôi xuống xe xem thấy vết xe của quân Tề rất lộn xộn , leo lên cao
thấy quân kỳ của họ cái nằm ngang cái nằm dọc, nên tôi phán đoán rằng không
phải quân Tề giả bộ tháo chạy để dụ chúng ta, nên mới bắt đầu hạ lệnh truy đuổi
chúng.
CHƯƠNG HAI :
SÁCH
PHẢN ỨNG (PHẢN ỨNG CHI SÁCH)
1/. Ngày
xưa, người ta săn muông thú trước là giăng bẫy ,bủa lưới, sau đó người ta ném
đá hay đánh vào đá hoặc 1 vật gì đó , làm cho muông thú hoảng sợ , phản ứng ,
chạy ra khỏi hang ổ , nơi ẩn nấp và sa vào lưới.
Do đó,
có thành ngữ đầu thạch vấn lộ , ném đá hỏi đường. Là đánh động sau đó quan sát
phản ứng, thăm dò động tĩnh của đối phương và từ đó ra tay hành động.
2/.
Thuật phản ứng dựa trên cơ sở động và tĩnh của Âm Dương ; trên quy luật đồng
thanh thì hô ứng ; cùng 1 đạo, cùng 1 đường lối thì đồng quy với nhau, cùng quy
về 1 mối ( đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu ).
3/.Thuật
phản ứng được áp dụng trên nhiều lĩnh vực :
a_Dùng
để ôn chuyện cũ hiểu chuyện mới, ôn cố tri tân :
Phản là
biết quá khứ, Ứng là biết hiện tại.
Những gì
hợp với hiện tại thì giữ gìn và ứng dụng ; cái gì không còn thích hợp với hiện
tại thì loại trừ.
Phải tìm
hiểu quá khứ mới hiểu được hiện tại , hiểu được hiện tại mới biết được tương lai.
b_Dùng
để hiểu mình , hiểu người :
Muốn
hiểu rõ người khác thì trước hết phải tự hiểu chính mình. Hiểu người là trí ,
hiểu mình là sáng suốt. Có sáng suốt mới sinh ra trí, và có trí mới sinh ra sự
sáng suốt.
c_Về
phương diện ngoại giao, du thuyết và hành động :
Muốn đối
phương nói thì ta phải im lặng , muốn đối phương duỗi thì ta phải co , muốn đối
phương cao thì ta phải thấp , muốn đối phương thu lại thì ta phải phóng ra.
d_Trong
đối thoại :
Khi đối
phương phát ngôn ta nên lắng nghe và lưu ý , xét kỹ về thái độ , sự tình , đạo
lý , sách lược . Thái độ là vui , buồn, giận , ghét....
Lý luận
là chỗ nào hợp lý,chỗ nào không hợp lý .Sự tình chỗ nào là thật ,chỗ nào là giả
Đạo lý ,
sách lược thì đâu là sự tương đồng, đâu là sự không tương đồng.
e_ Về
hùng biện và tranh luận :
Dựa vào
quy luật đồng thanh hô ứng, tạo sự hô ứng giửa ta với người đối thoại . Thu hút
đối phương vào cuộc tranh luận , đối thoại như nam châm thu hút sắt, như móc
mồi cho cá cắn câu, giăng lưới để săn bắt muông thú. Mục đích dẫn dụ đối phương
nói lên sự thật, bộc lộ ý chí, xu hướng và cuối cùng đối phương phải theo sách
lược đường lối do ta đề xướng.
4/. khi
sử dụng thuật phản ứng :
Phải cực
kỳ thuần thục, chính xác như Hậu Nghệ bắn tên; tự nhiên, linh động như cá bơi
lội trong nước thì mới thành công.
Như đã
nói: Dương gọi là quân đạo hoặc là thiên đạo ,tượng hình tròn .Âm gọi là thần
đạo hoặc quân đạo hoặc địa đạo, tượng hình vuông.
Sau khi
dùng thiên đạo để phát hiện , dẫn dụ đối phương thì dùng địa đạo để phụng sự
cho thiên đạo.
5/. Thuật
phản ứng gồm có các mưu kế :
_ Dĩ giả
cầu chân (lấy giả làm thật)
_Đầu
thạch vấn lộ (ném đá hỏi đường)
_ Dĩ
tĩnh chế động (lấy tịnh chế động)
_ Giả si
bất điên (giả ngu nhưng không điên)
KẾ THỨ
NHẤT: DĨ GIẢ CẦU CHÂN (lấy giả làm thật)
Dĩ giả
cầu chân là lấy chuyện giả làm chuyện thật để đánh vào tâm lý của đối phương
kích động đối phương.
Kế này
dựa trên nguyên tắc đồng thanh tương ứng hoặc còn gọi là đồng thanh tương hô
thực lý đồng quy.
Xét cho
cùng ai cũng có danh dự, quyền lợi, cuộc sống riêng. khi quyền lợi, danh dự ,
cuộc sống riêng bị xúc phạm , hoặc đe dọa nặng nề thì dễ dàng phản ứng bộc lộ
cá tính, quyết tâm bảo vệ danh dự, quyền lợi và cuộc sống của mình.
THÍ DỤ A
: MỘT NỀN ĐỒNG TƯỚC
Trong
việc liên kết với LƯU BỊ để đánh TÀO , Ngô Quốc thái thấy TÔN QUYỀN nghi hoặc
không quyết, mới bảo :
_Khi hấp
hối mẹ con dặn phải theo lời di chúc của BÁ PHÙ , là phàm công việc trong nước
không quyết định thì hỏi TRƯƠNG CHIÊU , việc bên ngoài không quyết định được
thì hỏi CHU DU. Nay sao không cho mời CHU DU về mà hỏi.
QUYỀN
mừng lắm , lập tức sai sứ ra Phiên Dương mời CHU DU về bàn
việc.
*****
Chiều
hôm ấy được tin LỖ TÚC đưa KHỔNG MINH đến , Du ra tận cửa đón vào. Thi lễ xong
, chia ngôi chủ khách ngồi chơi , TÚC hỏi CHU DU rằng :
_ Nay
TÀO THÁO huy động lực lượng lấn chiếm miền Nam , hòa với đánh chỉ có 2 con
đường. Chúa Công chưa quyết định , cốt đợi tướng quân. Ý kiến tướng quân thế
nào?
DU nói :
_ TÀO
THÁO mượn tiếng thiên tử , thì không nên kháng cự ; vả lại thế TÀO to lắm ,
chưa dễ địch nổi. Đánh thì tất thua , mà hàng thì dễ yên. Ý ta đã quyết, ngày
mai ta vào hầu Chúa Công xin sai sứ đi hàng TÀO.
LỖ TÚC
ngạc nhiên nói :
_ Ông
nói lầm rồi ! Cơ nghiệp Giang Đông đã trải qua 3 đời rồi, sao 1 chốc để vào tay
người khác? TÔN BÁ PHÙ trước đã dặn phàm công việc ngoài phó thác cho tướng
quân .
Chính
lúc này phải trông cậy vào tướng quân giữ sao cho cơ nghiệp Đông Ngô vững như
núi Thái Sơn. Chẳng dè tướng quân cũng theo lời mấy đứa...hèn nhát đó sao?
DU nói :
_Sáu
quận Giang Đông , nhân dân đông đúc biết bao. Nay nếu bị nạn binh đao tất quy
oán cho ta , nên ta nhất định xin hàng.
LỖ TÚC
nói :
_ Không
thể được. Tướng quân là bậc đại anh hùng , Đông Ngô là nơi hiểm trở, vị tất TÀO
THÁO đã làm mưa làm gió gì được !
Hai
người cùng tranh luận, KHỔNG MINH chỉ thu tay cười mát. DU hỏi:
_ Tiên
sinh có việc gì mà phải cười ?
KHỔNG
MINH đáp :
_ Tôi có
cười gì đâu , chỉ cười TỬ KÍNH không thức thời.
TÚC hỏi
;
_ Sao
tiên sinh bảo tôi không thức thời ?
KHỔNG
MINH đáp :
_CÔNG
CẨN hàng TÀO rất hợp lẽ.
DU nói :
_ KHỔNG
MINH là người thức thời, tất 1 lòng như ta.
TÚC nói
:
_ KHỔNG
MINH ! Sao ông lại nói thế ?
KHỔNG
MINH đáp :
_ THÁO
rất giỏi việc dùng binh , thiên hạ không ai địch nổi. Trước chỉ có LÃ BỐ , VIÊN
THIỆU , VIÊN THUẬT , LƯU BIỂU là dám chống cự . Mấy người ấy đều bị giết cả
rồi, thiên hạ không còn ai nữa ! Chỉ có LƯU DỰ CHÂU là không thức thời , mới
dám gượng gạo chống lại , nay thân cô thế cô ở đất Giang Hạ , mất còn chưa hiểu
ra sao? Tướng quân quyết kế hàng TÀO , để bảo toàn vợ con, phú quý ; còn như
vận nước đổi thay, phó mặc trời có chi đáng tiếc !
LỖ TÚC
giận lắm nói :
_ Ngươi
muốn cho chủ ta uốn gối chịu nhục với lũ giặc nước à?
KHỔNG
MINH nói :
_ Ta có
1 kế không cần đến khiêng dê gánh rượu , không phải nộp nước dâng ấn ; không
cần phải thân sang sông ; chỉ sai sứ với chiếc thuyền nhẹ đưa 2 người sang sông
mà thôi. TÀO THÁO mà được 2 người ấy , thì lập tức trăm vạn quân cũng cởi giáp
, cuốn cờ rút lui ngay.
DU hỏi :
_ Dùng 2
người nào mà lui được quân TÀO ?
KHỔNG
MINH nói :
_ Đất
Giang Đông mà bỏ 2 người ấy bất quá như cây to rụng cái lá , kho lớn mất 1 hạt
thóc . Nhưng TÀO THÁO được 2 người ấy , lập tức sẽ cuốn cờ cởi giáp , vui mừng
rút lui ngay.
DU lại
hỏi :
_ Hai
người nào ?
KHỔNG
MINH nói :
_ Khi
tôi còn ở Long Trung , nghe tin TÀO THÁO mới dựng cái đài ở trên sông Chương Hà,
gọi là đài Đồng Tước, trang hoàng lịch sự, rồi kén những con gái đẹp trong
thiên hạ nhốt đầy trong đó .
THÁO vốn
là đồ hiếu sắc, biết bên Giang Đông ông Kiếu Công có 2 người con gái, con lớn
là ĐẠI KIỀU, con nhỏ là TIỂU KIỀU. Hai người đều nhan sắc chim sa cá lặn, hoa
nhường nguyệt thẹn. THÁO từng thề rằng: Một là ta thề đạp bằng 4 bể, dựng nên
nghiệp hoàng đế; Hai là lấy được 2 chị em nàng KIỀU ở Giang Đông, đem về đài
Đồng Tước để vui tuổi già, thì dẫu chết cũng không tiếc gì đời nữa !
Nay sao
không tìm Kiều Công , đem nghìn vàng mua lấy 2 người con gái rồi sai người mang
dâng cho TÀO THÁO. THÁO mãn nguyện tất rút quân về . Đó cũng là kế PHẠM LÃI
dâng TÂY THI cho NGÔ VƯƠNG , sao không kíp làm đi?
DU hỏi :
_ Có gì
làm chứng về việc TÀO THÁO muốn được 2 nàng KIỀU không ?
KHỔNG
MINH nói :
_ Con
nhỏ TÀO THÁO là TÀO THỰC , tự là TỬ KIẾN, có tài đặt bút thành văn. THÁO sai
làm 1 bài phú, gọi là phú đài Đồng Tước. Ý chính trong bài phú ấy , chỉ nói về
nhà TÀO nếu làm thiên tử thì sẽ lấy cho kỳ được 2 nàng KIỀU.
DU hỏi :
_ Ông có
nhớ bài phú ấy không ?
KHỔNG
MINH nói :
_ Tôi
thích lời văn hoa mỹ của bài ấy , nên cũng thuộc .
DU hỏi :
_ Xin
thử đọc cho nghe.
KHỔNG
MINH đọc luôn bài phú , trong bài có mấy câu:
Lập song
đài ư tả hữu hề !
Hữu Ngọc
Long dữ Kim Phụng ;
Lãm nhị
KIỀU ư Đông Nam hề !
Lạc
chiêu tịch chí dữ cộng
tạm dịch
:
Dựng 2
đài bên trái bên phải
Có đài
Ngọc Long, có đài Kim Phụng
Nhốt 2
nàng KIỀU bên Đông Nam
Để sớm
chiều cùng vui vầy.
CHU DU
nghe xong mấy câu ấy, đỏ mặt tía tai ,đứng phắt dậy trỏ tay về phương Bắc mà
mắng rằng :
_ Thằng
giặc TÀO này khinh ta quá chừng !
KHỔNG
MINH vội ngăn lại :
_ Ngày
xưa chúa rợ Hung Nô hay xâm lấn bờ cõi , thiên tử nhà Hán còn phải đem công
chúa gả cho nó , để cầu hòa , nay tướng quân tiếc làm chi hai con gái thường
dân ấy ?
DU nói :
_ Ông
chưa rõ : ĐẠI KIỀU là vợ TÔN BÁ PHÙ , TIỂU KIỀU là vợ DU đó .
KHỔNG
MINH giả vờ sợ sệt nói :
_ Tôi
thật vô tình , nói năng lỗ mỗ, tội thật đáng chết ! đáng chết !
CHU DU
nói :
_ Ta thề
cùng thằng giặc già một còn một mất !
KHỔNG
MINH nói :
_ Tướng
quân nên nghĩ cho chín , kẻo hối về sau .
DU nói :
_ Ta đã
vâng lời TÔN BÁ PHÙ ủy thác, có lẽ đâu hạ mình mà hàng TÀO.Vừa rồi ta nói như
thế, là thử lòng nhau đó thôi. Từ khi ta ở Phiên Duông về đây, vẫn có chủ
trương đánh miền Bắc. Dù dao kề đầu cũng không lay được. Xin KHỔNG MINH giùp ta
1 tay, cùng phá giặc TÀO.
KHỔNG
MINH nói :
_ Nếu
ngài không bỏ LƯỢNG , thì LƯỢNG xin đem hết lòng khuyển mã , sớm tối vâng lời
sai khiến .
DU nói :
_ Ngày
mai ta vào yết kiến Chúa Công, sẽ bàn ngay việc cất quân .
KHỔNG
MINH và LỖ TÚC từ biệt CHU DU ra về .
LẠM BÀN: Đây là cuộc gặp gỡ lần đầu hai kỳ
tài thời Tam Quốc :GIA CÁT LƯỢNG và CHU DU.
1/. DU
định muốn đánh nhưng chưa rõ lực lượng của TÀO THÁO , dấu ý nghĩ của mình nói
hàng TÀO để thăm dò ý kiến của KHỔNG MINH ( thuật đóng mở ).
KHỔNG
MINH tương kế tựu kế, dùng thuật đóng mở, khuyên CHU DU hàng , cố ý xem thường
CHU DU không bằng những anh hùng hào kiệt của thời ấy , DU không phải là địch
thủ của TÀO.
2/. Lồng
trong thuật úp mở là thuật lấy giả làm thật, để đánh vào tâm lý
CHU DU
qua những bước khá rõ :
Cố tình
đổi " nhị kiều" ( kiều là cầu ) ra " nhị KIỀU " ( ĐẠI KIỀU,
TIỂU KIỀU )
Cố tình
không biết ĐẠI KIỀU là vợ TÔN BÁ PHÙ , TIỂU KIỀU là vợ CHU DU.
Là 1 đại
anh hùng tất nhiên CHU DU không thể bị xem thường , khinh miệt khi nghe TÀO
THÁO muốn bắt vợ mình về nhốt ở Đồng Tước để hưởng lạc.
Danh dự
bị xúc phạm, đời sống riêng tư bị đe dọa cho nên tức khí xung thiên, vô hình
trung lọt vào bẫy của KHỔNG MINH .
KHỔNG
MINH còn bồi thêm 1 đòn tâm lý nữa bằng cách hỏi CHU DU :
Tướng
quân nghĩ cho chín để khỏi hối về sau.
Thế là
DU bày tỏ luôn ý định của mình , không còn úp mở : Vừa rồi ta nói thế, là thử
lòng nhau đó thôi.
3/. Từ
những bậc anh hùng đến những người bình thường ai cũng có lòng tự trọng , tự
tôn , và tự ái cá nhân, có gia đình vợ con , quyền lợi riêng tư. Khi lòng tự
trọng , tự ái, tự tôn bị chà đạp, vợ con gia đình bị xâm phạm, quyền lợi bị
tước đoạt , tất nhiên có sự phản ứng , căm giận . Từ đó tìm cách chống lại hoặc
trả thù.
4/. Sự
giả dối, lừa dối của KHỔNG MINH được che đậy dưới lớp vỏ khôn khéo thật lợ hại,
cộng với cơn giận của CHU DU thì ngọn lửa chiến tranh Nam Bắc bắt đầu bùng cháy
.
5/. Kế
dĩ giả cầu chân tương tự kế khích tướng . Khích động lòng người,chọc giận, chọc
tức làm cho người ta tự ái đem hết sức lực ra để ganh đua hoặc tìm cách trả thù
Ví dụ:
TÔ TẦN choc tức TRƯƠNG NGHI để TRƯƠNG NGHI tìm cách vào đất TẦN.
ĐỘ
THƯỢNG đời Hán tự đốt trại mình để khích động lòng quân sĩ. THÍ DỤ B : KHI VÀNG
BẠC THÀNH TRO
ĐỘ
THƯỢNG muốn dẹp 2 tên cướp , thế lực khá mạnh , ẩn trong rừng sâu lá PHAN HỒNG
và PHỐC DƯƠNG , nhưng lâu ngày không thể nào đánh dẹp được.
Quân
lính của ĐỘ THƯỢNG trong thời gian hành quân , ai nấy cũng vơ vét được 1 số
vàng bạc của cải cất dấu trong trại ; lương thực khá dồi dào, lại thêm hàng
ngày săn bắn kiếm được nhiều muông thú nên đời sống đầy đủ, ít ai nghĩ đến
chuyện đánh giặc.
Một hôm
quân sĩ theo lệ vào rừng săn bắn , ĐỘ THƯỢNG lén tự đốt sạch cả doanh trại và
phao tin là quân của 2 tên cướp PHAN HỒNG và PHỐC DƯƠNG đột nhập tấn công.
Quân
lính ĐỘ THƯỢNG săn về thấy của cải , vàng bạc lương thực thành đống tro , ai
nấy đều tức giận.
Biết là
lòng căm giận của binh sĩ lên cao , ĐỘ THƯỢNG ra lệnh xuất kích.
Quân ĐỘ
THƯỢNG hăng hái sục sạo truy lùng.
Bị tấn
công bất ngờ và táo bạo , bọn cướp không kịp trở tay, bị đánh tan tác.
PHAN
HỒNG và PHỐC DƯƠNG chết trong đám loạn quân.
KẾ THỨ
HAI : ĐẦU THẠCH VẤN LỘ (ném đá hỏi đường).
Đầu
thạch vấn lộ tượng như là ném đá hỏi đường. Trước là ném đá, sau đó là nghe
ngóng sự động tĩnh, và cuối cùng là đi đến quyết định hành động cho thích hợp
với hoàn cảnh.
THÍ DỤ A
: GIÁ CÁI ĐẦU GIỬA CHỢ.
Từ đời
TỀ TUYÊN VƯƠNG , TÔ TẦN được trọng dụng nên bọn tả hữ quý thích có nhiều người
ghen ghét , đến đời MÂN VƯƠNG vẫn tin yêu TÔ TẦN.
Nhưng từ
lúc MÂN VƯƠNG không nghe kế TÔ TẦN nữa, mà nghe kế của MẠNH THƯỜNG QUÂN ,đã có
lòng ghen ghét TÔ TẦN , 1 tráng sĩ giắt đồ nhọn sắc lẻn vào đâm TÔ TẦN ở trong
triều.
TÔ TẦN
bị đâm thủng bụng , lấy tay bịt lại chạy tới kêu với MÂN VƯƠNG. MÂN VƯƠNG sai
bắt hung thủ đã chạy thoát. TÔ TẦN nói :
_ Sau
khi hạ thần đã chết , xin đại vương chém đầu hạ thần , cho người rao lên ở
ngoài chợ rằng TÔ TẦN vì nước YÊN đến làm phản gián TỀ , nay may đã giết chết được
TÔ TẦN rồi, có người nào biết được việc kín của TÔ TẦN đến tố cáo , sẽ thưởng
cho ngàn vàng , như vậy có thể bắt được hung thủ. Nói xong , rút mủi nhọn ở
trong bụng ra ,máu chảy đầy đất mà chết.
MÂN
VƯƠNG nghe theo lời TÔ TẦN chém đầu TÔ TẦN đem hiệu lệnh ở trong chợ , bỗng có
người đi qua dưới cái đầu , thấy có treo thưởng , liền khoe với mọi người rằng
:
_ Kẻ
giết TÔ TẦN là tôi đây !
Thị lại
bèn bắt trói lại, dẫn vào nộp MÂN VƯƠNG , vua sai đem tra tấn , quả nhiên ra
được người chủ mưu , trị tội tru diệt mất vài nhà.
LẠM BÀN :
1/. TÔ
TẦN biết sau khi mình chết không dùng kế chặt đầu treo giửa chợ với tội phản
gián cho TỀ, thì sẽ không bao giờ tìm ra hung thủ. Là thủ đoạn đầu thạch. Khi
có người tự khoe mình giết TÔ TẦN để lãnh thưởng thì thủ phạm đã lộ ra , tượng
như hỏi ra đường.
2/.
Tương tự kế này là kế Đả thảo kinh xà , đập vào cỏ làm cho rắn sợ phải bò từ
trong hang ra. Là cách dẫn dụ cho rắn ra khỏi động. Trong khi nghi hoặc không
thấy rõ đối phương , thì đánh vào cỏ , tức là hành động do thám trinh sát , đe
dọa , dẫn dụ...buộc đối phương kinh sợ phải lộ diện
THÍ DỤ B
: TÁM LẠNG GẶP NỬA CÂN
CHU DU
muốn lấy lại Kinh Châu nẩy ra 1 kế , nói với LỖ TÚC :
_ LƯU BỊ
chết vợ tất nhiên phải lấy vợ khác. Chúa công có cô em gái can trường lắm ,luôn
có vài trăm thị tỳ cắp gươm hầu bên cạnh. Trong phòng bày la liệt đủ thứ vũ khí
, ngay đàn ông cũng không giỏi bằng.
Ta dâng
thư lên Chúa công xin cho người sang Kinh Châu làm mối, dụ LƯU BỊ sang đính hôn
rồi lừa hắn đến Nam Từ , không gả người cho mà bắt giam lại. Đoạn sai người đến
đòi Kinh Châu đánh đổi LƯU BỊ. Khi nào lấy được kinh Châu ta lại liệu. Như thế
TỬ KÍNH không phải lo gì nữa !
LỖ TÚC
bái tạ.
CHU DU
viết thư,chọn thuyền tốc hành đưa LỖ TÚC sang Nam Từ ra mắt
TÔN
QUYỀN.
Đến nơi,
trước hết TÚC trình bày việc Kinh Châu, và đưa tờ văn tự lên.
QUYỀN
nói :
_ Sao
ngươi hồ đồ thế? cái thứ văn tự này dùng được việc gì ?
TÚC nói
:
_ Đô đốc
có thư đệ trình , bảo dùng kế đó thì sẽ lấy lại được Kinh Châu.
QUYỀN
xem xong , gật đầu mừng thầm , nghĩ bụng :
_ Ai có
thể đi được nhỉ ?
Rồi sực
nhớ ra , QUYỀN nói :
_ Chỉ có
LÃ PHẠM mới làm nổi việc này.
Liền cho
gọi LÃ PHẠM vào, bảo rằng :
_ Ta
nghe LƯU HUYỀN ĐỨC mới góa vợ , ta có người em gái , muốn kén y làm rễ, kết
thân với nhau, đồng tâm phá TÀO , để giúp nhà Hán.
Ngoài TỬ
HÀNH ra, không ai có thể làm mối được, mong người sang ngay Kinh Châu cho ta !
LÃ PHẠM
vâng mệnh, thu xếp thuyền bè mang theo mấy tên tùy tùng thẳng tới Kinh Châu.
*****
Lại nói
, HUYỀN ĐỨC từ khi mất CAM phu nhân , ngày đêm buồn rầu.
Một hôm,
đang ngồi nói chuyện với KHỔNG MINH , sực có tin báo Đông Ngô sai
LÃ PHẠM
đến.
KHỔNG
MINH cười nói :
_ Đây
lại là mưu mô gì của CHU DU về chuyện Kinh Châu thôi ! Tôi ngồi nghe ở sau bình
phong. Sứ giả có nói việc gì, Chúa công cứ việc nhận lời và giữ họ nghĩ ngơi ở
nhà khách , rồi sau sẽ hay.
HUYỀN
ĐỨC cho mời LÃ PHẠM vào .
Chào hỏi
xong, trà nước đâu đấy , HUYỀN ĐỨC hỏi :
_ TỬ
HÀNH lại đây chắc có việc gì dạy bảo ?
PHẠM nói
:
_ Tôi
nghe Hoàng Thúc thất ngẫu , nay có 1 nơi xứng đáng lắm , nên mạnh dạn sang đây
làm mối , chưa biết ý Hoàng Thúc thế nào ?
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ Nửa
đời góa vợ là 1 sự rất không may , nay nấm mồ còn chưa xanh cỏ , sao dám vội
bàn chuyện lấy vợ khác ?
PHẠM nói
:
_ Người
ta có vợ , như nhà có kèo , không nên nửa chừng bỏ đạo nhân luân.
Chúa
công tôi có 1 cô em gái có nhan sắc , lại hiền hậu , có thể nâng khăn sửa túi
đỡ ngài được.
Nếu 2
nhà kết thân Tần , Tấn với nhau, thì giặc TÀO chắc không dám nhìn ngó đến phía
đông nam này nữa.
Việc này
công tư đều vẹn cả , xin Hoàng Thúc chớ ngại ! Song Ngô Quốc
Thái tôi
yêu thương cô gái út lắm , không muốn gả chồng xa , chỉ muốn mời
Hoàng
Thúc sang Đông Ngô làm lễ thành thân.
HUYỀN ĐỨC hỏi :
_ Việc
này Ngô Hầu có biết không ?
PHẠM đáp
:
_ Chưa
bẩm với Ngô Hầu , có đâu tôi dám đến đây.
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ Ta đã
nửa đời người , đầu tóc hoa râm, em gái Ngô Hầu đang độ son trẻ , e không xứng
đôi phải lứa.
_ Em Ngô
Hầu tuy là con gái , nhưng chí khí hơn cả nam nhi. Cô ấy thường nói
:"Không phải người anh hùng nhất thiên hạ , ta không thèm lấy ".
Hoàng Thúc tiếng tăm lừng lẫy cả 4 bể , chính là thục nữ sánh với người quân tử
,có ngại gì tuổi nhiều hay ít ?
HUYỀN
ĐỨC nói ;
_ Vậy
ông hãy ở chơi đây , đến mai sẽ xin nói lại.
Hôm ấy ,
HUYỀN ĐỨC mở tiệc khoản đãi LÃ PHẠM , rồi lưu lại nhà khách. Đến tối HUYỀN ĐỨC
bàn với KHỔNG MINH. KHỔNG MINH nói :
_ Ý tứ
của họ thế nào , tôi đã biết cả rồi. Tôi vừa bói Dịch được 1 quẻ đại cát. Chúa
công cứ nhận lời đi. Mai nên sai TÔN CÀN đi theo LÃ PHẠM sang thưa chuyện với
Ngô Hầu ; hứa hẹn xong rồi ta sẽ chọn ngày sang cưới.
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ CHU DU
lập mưu muốn hại ta , sao ta lại đem mình vào nơi nguy hiểm ?
KHỔNG
MINH cười , nói :
_ CHU DU
tuy giỏi dùng mưu , nhưng che sao được mắt tôi. Tôi chỉ dùng 1 chút mẹo nhỏ ,
khiến CHU DU không thò được ngón gì , mà em gái Ngô Hầu lại về tay Chúa công ,
Kinh Châu cũng vững như bàn thạch.
HUYỀN
ĐỨC vẫn còn hoài nghi ; KHỔNG MINH sai ngay TÔN CÀN cứ việc sang Giang Nam nói
việc hôn nhân, TÔN CÀN vâng mệnh cùng đi với LÃ PHẠM sang ra mắt TÔN QUYỀN
QUYỀN
nói :
_ Ta
muốn gả em gái cho HUYỀN ĐỨC , chớ không có bụng dạ nào khác.
TÔN CÀN
lạy tạ , về thưa chuyện lại với HUYỀN ĐỨC , nói Ngô hầu chỉ mong Chúa công sang
làm lễ thành hôn, HUYỀN ĐỨC ngại ngùng không muốn đi. KHỔNG MINH nói :
_ Tôi đã
định sẵn 3 kế , việc này phi TỬ LONG đi không xong !
Bèn gọi
TỬ LONG đến cạnh, ghé tai dặn rằng :
_ Ngươi
bảo vệ Chúa công sang Đông Ngô, nên nhận lấy 3 cẩm nang này, trong đó có 3 kế
rất hay, cứ theo thứ tự mà làm.
Nói đoạn,
đưa 3 cẩm nang cho VÂN giấu kỹ trong người. Đoạn KHỔNG MINH sai người sang Đông
Ngô dâng lễ cưới trước, lễ vật đầy đủ không thiếu gì.
Tháng 10
mùa Đông, năm Kiến An thứ 14, HUYỀN ĐỨC cùng với TRIỆU VÂN, TÔN CÀN thu xếp
chục chiếc thuyền tốc hành, mang theo 500 quân sĩ, dời Kinh Châu sang Nam Từ.
Mọi việc ở Kinh Châu đều giao cho KHỔNG MINH trông coi.
HUYỀN
ĐỨC trong lòng áy náy không yên. Khi thuyền đã đến Nam Từ, VÂN tự nhủ :
_ Quân
sư trao cho 3 kế hay , dặn cứ thứ tự làm theo , nay đã đến đây , phải mở túi
thứ nhất ra xem mới được !
VÂN bèn
mở túi thứ nhất ra xem. Xem xong , VÂN gọi 500 quân sĩ , dặn bảo các việc. Lại
nói với HUYỀN ĐỨC vào ra mắt KIỀU quốc lão trước. Cụ này nguyên là cha 2 nàng
KIỀU,nhà ở Nam Từ.
HUYỀN
ĐỨC mang dê và rượu vào bái kiến Quốc lão, thuật lại việc LÃ PHẠM sang làm mối
TÔN phu nhân. 500 quân sĩ , người áo thắm , kẻ quần điều , tấp nập ra phố mua
bán đồ vật , nói toáng lên rằng HUYỀN ĐỨC vào làm rễ Đông Ngô. Mọi người trong
thành đều biết chuyện cả.
TÔN
QUYỀN thấy HUYỀN ĐỨC đã đến , sai LÃ PHẠM ra đón tiếp , mời đến nhà khách nghỉ
ngơi.
Đây nói
KIỀU Quốc lão gặp HUYỀN ĐỨC xong , vào ngay trong cung chúc mừng Ngô Quốc Thái.
Quốc
Thái hỏi :
_ Có
việc gì mà mừng?
KIỀU
Quốc lão đáp :
_ Cô em
đã gả cho HUYỀN ĐỨC làm phu nhân, nay chàng rễ đã sang đây rồi, sao còn giấu
tôi ?
Quốc
Thái ngạc nhiên nói :
_ Quả
thật tôi không biết gì hết !
Lập tức
1 mặt Quốc Thái cho gọi Ngô Hầu lại hỏi xem hư thực ra sao, 1 mặt cho người ra
phố xá nghe ngóng tình hình
Mọi
người đều nói rằng :
_ Quả có
việc ấy thực ! Chàng rễ mới đã nghĩ ở nhà khách , 500 quân sĩ đi theo đang tíu
tít mua sắm dê lợn , hoa quả để sửa lễ kết hôn. Bên nhà gái là LÃ PHẠM , bên
nhà trai thì TÔN CÀN , hai người làm mối , hiện đã ở cả nơi nhà khách tiếp đãi
nhau.
Quốc
Thái giật mình. Một lát, TÔN QUYỀN vào, Quốc Thái cứ đấm bụng khóc ầm lên.
QUYỀN hỏi :
_ sao
thân mẫu phiền não thế?
Quốc
Thái nói :
_ Mày
thật không coi tao ra gì nữa rồi ! Khi chị ta lâm chung, dặn mày những câu gì ?
QUYỀN
thất kinh , hỏi :
_ Mẫu
thân có điều gì cứ cho con biết , sao lại khổ sở như vậy ?
Quốc
Thái nói :
_ Trai
khôn dựng vợ, gái lớn gả chồng, vẫn là lẽ thường xưa nay. Tao là mẹ mày , có
việc gì cũng phải nói với tao trước mới phải chứ ! Nay mày đem em gả cho LƯU
HUYỀN ĐỨC, sao mày lại giấu tao? Con gái phải quyền ở tao chớ?
QUYỀN
giật mình , hỏi :
_ Mẫu
thân nghe chuyện ấy ở đâu vậy ?
_ Trừ
khi không làm thì mới không biết thôi. Nay trăm họ trong thành , ai ai cũng
biết cả , mày lại còn giấu diếm gì?
KIỀU
Quốc lão nói :
_ Lão
biết việc này đã mấy hôm nay rồi , nay vào mừng đấy !
QUYỀN
nói :
_ Không
phải đâu ! Đó là kế của CHU DU , vì muốn lấy Kinh Châu, cho nên mượn tiếng như
thế , cốt lừa LƯU BỊ đến đây , bắt giam lại , đổi lấy Kinh Châu , nếu không
nghe thì giết đi. Đó là mưu kế chớ không phải là sự thật !
Quốc
Thái nổi giận , mắng CHU DU rằng :
_ Ngươi
làm đại đô đốc 6 quận, 81 châu, không nghĩ được 1 mưu gì để lấy Kinh Châu mà
phải mượn tiếng con gái bà, dùng kế mỹ nhân?
LƯU BỊ
bị giết, con bà chưa chồng, mà té ra mang tiếng góa bụa, còn ai lấy nữa, có
phải lỡ cả 1 đời con gái bà không? Thế cũng đòi lập mưu với mẹo !
KIỀU
Quốc lão nói :
_ Nếu
dùng kế ấy, dù có lấy lại được Kinh Châu , cũng bị thiên hạ chê cười !
TÔN
QUYỀN ngồi im thin thít. Quốc Thái thì cứ chửi mắng CHU DU không ngớt miệng.
KIỀU Quốc lão can rằng :
_ Việc
đã lỡ thế này rồi, nhưng xét LƯU HUYỀN ĐỨC cũng là tôn thân nhà Hán, chi bằng
gả đi, kẻo mang tiếng xấu.
QUYỀN
nói :
_ E
không vừa đôi phải lứa.
KIỀU
Quốc lão nói :
_ LƯU
Hoàng thúc là hào kiệt đời nay, nếu kén được người rễ ấy cũng xứng đáng , không
nhục gì cô em đâu !
Quốc
Thái nói :
_ Ta
chưa biết mặt LƯU Hoàng Thúc ra sao , ngày mai mời đến chùa Cam Lộ cho ta xem
mặt. Nếu không vừa ý ta thì mặc cho bọn ngươi muốn làm thế nào thì làm. Nếu vừa
ý thì ta gả quách con ta cho Hoàng Thúc cũng được.
TÔN
QUYỀN vốn là người chí hiếu , thấy mẹ nói thế, liền vâng lời, trở ra gọi LÃ
PHẠM bảo :
_ Ngày
mai mở 1 yến tiệc ở nhà phương trượng chùa Cam Lộ , để Quốc Thái xem mặt LƯU
BỊ.
LÃ PHẠM
nói :
_ Sao
không sai GIẢ HOA phục sẵn 300 quân đao phủ ở 2 bên hành lang. Hễ thấy Quốc
Thái có ý không bằng lòng , thì nổi 1 tiếng hiệu cho quân phục đổ ra mà trói
LƯU BỊ lại.
QUYỀN y
lời , bảo GIẢ HOA sắp sẵn mọi việc đâu vào đấy , chỉ chờ xem ý Quốc Thái ra sao
thôi.
Lại nói
, KIỀU Quốc lão từ biệt Quốc Thái trở về , sai người báo tin cho
HUYỀN
ĐỨC :
_ Ngày
mai , Ngô Hầu và Quốc Thái thân đến gặp mặt vậy phải để ý cẩn
thận !
HUYỀN
ĐỨC bàn với TÔN CÀN và KIỀU Quốc lão , đến trước chùa Cam Lộ , vào nhà phương
trượng ngồi chơi. TÔN QUYỀN dẫn 1 ban mưu sĩ cùng đến, sai LÃ PHẠM ra nhà khách
mời HUYỀN ĐỨC.
HUYỀN
ĐỨC mặc áo giáp nhỏ ở trong, ngoài khoác cẩm bào. Các tùy tùng đeo kiếm đi theo
, lên ngựa thẳng tới chùa Cam Lộ.TRIỆU VÂN mặc áo giáp, nai nịt gọn ghẽ , dẫn
500 quân bảo vệ. HUYỀN ĐỨC đến cửa chùa xuống ngựa vào ra mắt TÔN QUYỀN trước.
QUYỀN thấy HUYỀN ĐỨC diện mạo phi thường đã có ý sợ.
Hai bên
chào hỏi nhau rồi , vào nhà phương trượng ra mắt Quốc Thái. Quốc
Thái
thấy HUYỀN ĐỨC mừng lắm , nói với KIỀU Quốc lão :
_ người
này thật đáng rễ ta lắm !
Quốc lão
nói ;
_ HUYỀN
ĐỨC có dáng như rồng như phượng, uy nghi đường bệ. Vả lại nhân nghĩa dội khắp
thiên hạ. Quốc Thái được rễ hiền như thế , thật đáng chúc mừng !
HUYỀN
ĐỨC lạy tạ , cùng ăn yến ở trong nhà phương trượng. Một lát, TỬ LONG đeo gươm
đi vào , đứng bên cạnh HUYỀN ĐỨC. Quốc Thái hỏi người nào? HUYỀN ĐỨC bẩm :
_ Đó là
TRIỆU VÂN ở Thường Sơn.
Quốc
Thái nói :
_ Có
phải là tướng cứu được A ĐẨU ở trận Đương Dương Trường Bản đó không?
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ Bẩm
chính phải !
Quốc
Thái khen :
_ Thế
mới thực là tướng quân !
Nói rồi
ban cho TRIỆU VÂN 1 cốc rượu. VÂN bảo HUYỀN ĐỨC rằng :
_ Tôi
vừa đi xem xét ngoài hành lang , thấy có quân đao phủ mai phục trong phòng ,
tất nhiên có chuyện chẳng lành ; Chúa công nên kêu với Quốc Thái.
HUYỀN
ĐỨC liền đến quỳ trước mặt Quốc Thái , khóc mà nói rằng :
_ Quốc
Thái nhược bằng muốn giết LƯU BỊ , thì BỊ xin ra đây để chịu chết !
Quốc
Thái hỏi :
_ Sao
lại thế?
HUYỀN
ĐỨC thưa :
_ Quân
đao phủ mai phục 2 bên hành lang, không có ý giết BỊ thì để làm gì?
Quốc
Thái nổi giận mắng TÔN QUYỀN rằng :
_ Nay
HUYỀN ĐỨC đã là rễ ta , thì cũng như con ta , sao dám phục quân để mưu hại ?
QUYỀN
chối không biết , gọi LÃ PHẠM ra hỏi. PHẠM lại đổ lỗi cho GIẢ HOA. HOA cũng nín
lặng. Quốc Thái sai tả hữu lôi ra chém. HUYỀN ĐỨC can rằng :
_ Trong
việc vui mừng không nên chém đại tướng. Nếu chém thì việc kết thân sẽ bất lợi.
BỊ này khó ở đây hầu hạ Quốc Thái.
KIỀU
Quốc lão cũng khuyên can. Quốc Thái mới mắng đuổi GIẢ HOA.
Quân đao
phủ tên nào tên nấy ôm đầu lủi thủi đi ra.
LẠM BÀN :
CHU DU
dùng các kế chính :
1/. Mỹ
nhân kế, gả em TÔN QUYỀN cho LƯU BỊ.
2/. Điệu hổ ly sơn , dụ LƯU BỊ rời Kinh Châu ,
sang Đông Ngô , nhân đó bắt giam làm con tin để đòi lại Kinh Châu.
3/. Đánh
rắn dập đầu , quyết giết tên đầu não là LƯU BỊ.
KHỔNG
MINH áp dụng các kế chính :
1/. Đầu
thạch vấn lộ hoặc đả thảo kinh xà , cho người mang dê và rượu vào bái kiến Quốc
lão để KIỀU Quốc lão báo cho Quốc Thái biết , là hang ổ của TÔN QUYỀN , CHU DU.
Đưa Quốc Thái và KIỀU Quốc lão vào cuộc.
2/.Phô
trương thanh thế cho 500 quân lính, kẻ áo thắm , người quần điều tấp nập mua
sắm để mọi người trong thành đều biết việc LƯU BỊ làm rễ Đông Ngô.
3/. Từ 2
kế trên dẫn đến kế thứ 3 là giả thành thật , Dĩ giả cầu chân ,chuyện đám cưới
giả thành đám cưới thật.
KẾ THỨ 3
: DĨ TĨNH CHẾ ĐỘNG ( lấy tịnh chế động )
Dĩ tĩnh
chế động là lấy cái tĩnh khống chế cái động.
Nguyên
tắc của kế lấy tĩnh chế động là muốn duỗi thì phải co , muốn cao thì phải thấp
, muốn người khác nói thì phải im lặng ,muốn bắt thì thả ra. Lạt có mềm thì
buộc mới chặt.
Tĩnh là
Âm , là con mái , là ở dưới ; động là Dương , là con trống , là ở trên.
Âm có
thể chế được Dương.
Kẻ cương
cường hành động thường bộc lộ yếu điểm.
Bình
tĩnh quan sát đợi cho đối phương hành động và lộ ra yếu điểm thì có thể chế ngự
được.
Tĩnh
cũng có nghĩa là bình tĩnh thì mới tỉnh táo, không bị mê hoặc tâm trí bởi sự
náo động ,tranh chấp.
THÍ DỤ A
: TÔI ĐÃ TRÚNG KẾ RỒI .
TÔ TẦN
lúc đó đã thuyết phục được vua Triệu và 5 nước kia ( Tề, Sở , Yên , Hàn , Ngụy
) , đã kết thành khối hợp tung. Nhưng sợ Tần đánh các nước này , dùng võ lực
làm hỏng mất tung ước. TÔ TẦN muốn đặt 1 người bên cạnh vua Tần để ghìm lái vua
Tần; nhưng thấy không ai làm nổi việc ấy, bèn cho người mớm ý cho TRƯƠNG NGHI
rằng :
_ Xưa,
ông thân với TÔ TẦN lắm. Hiện TÔ TẦN đã có địa vị, nắm quyền binh trong tay,
sao ông không đến nhờ ông ấy giúp đỡ, kiếm đường cho ông thực hiện ý nguyện?
TRƯƠNG
NGHI bèn sang Triệu,dâng thư xin yết kiến TÔ TẦN. TÔ TẦN dặn người canh cửa
không cho TRƯƠNG NGHI vào và cũng không để cho đi, bắt chờ đợi cả mấy ngày rồi
mới tiếp.
Lúc tiếp
lại bắt ngồi dưới thềm và cho ăn như cho lũ con đòi đầy tớ. Còn trách móc , bảo
:
_ Tài
năng như anh mà chịu nước ấy ! Làm gì tôi chả giúp anh nên giàu nên sang , song
thật ra anh không đáng cho tôi giúp.
Rồi
thoái thác và để mặc cho TRƯƠNG NGHI đi.
TRƯƠNG
NGHI đến thăm TÔ TẦN , lòng vẫn chắc mẩm rằng mình là chỗ bạn cũ thì thế nào
cũng được giúp đỡ. Ai ngờ giúp đỡ đâu chưa thấy , chỉ thấy bị làm nhục. NGHI
nghĩ bụng : Chư hầu chả có nước nào mình thờ được , chỉ có mỗi nước Tần là có
thể làm cho Triệu khốn đốn mà thôi. TRƯƠNG NGHI bèn đến nước Tần.
TÔ TẦN
làm nhục TRƯƠNG NGHI rồi nói với viên xá nhân của mình :
_ TRƯƠNG
NGHI là bậc hiền sĩ trong thiên hạ , ta có phần không bằng ông ấy. Ta đắc dụng
trước chả qua là nhờ may đó thôi. Cái người có thể cầm quyền ở Tần được là
TRƯƠNG NGHI , chỉ có mỗi TRƯƠNG NGHI thôi. Có điều là ông ấy nghèo quá , không
có tiền lo lót để giới thiệu ( cho vào yết kiến Tần Vương ). Ta sợ ông ấy hám
cái lợi nhỏ mà lỡ việc , cho nên mới tìm cách cho ông ấy đến gặp ta để ta làm
cho ông ấy nhục mà phẫn chí. Ông hãy ngầm giúp ông ấy hộ ta.
Rồi TÔ
TẦN tâu Triệu Vương , xin xuất vàng lụa , ngựa xe và cho người ngầm theo TRƯƠNG
NGHI , trọ cùng với TRƯƠNG NGHI 1 quán. Dần dà , người này lân la làm thân với
TRƯƠNG NGHI , giúp TRƯƠNG NGHI ngựa xe , tiền bạc , cần cái gì , giúp cái đó ,
mà không cho biết những cái đó từ đâu ra. Nhờ vậy, TRƯƠNG NGHI được yết kiến Tần
Huệ Vương. Huệ Vương dùng TRƯƠNG NGHI làm khách khanh , cùng TRƯƠNG NGHI bàn
định kế hoạch đánh các nước chư hầu. Bấy giờ viên xá nhân của TÔ TẦN cho theo
giúp TRƯƠNG NGHI mới cáo biệt TRƯƠNG NGHI. TRƯƠNG NGHI nói :
_ Nhờ
ông , tôi mới được hiển đạt. Tôi sắp sửa đền ơn ông, tại sao ông lại đi?
Viên xá
nhân nói :
_ Tôi không biết ông. Người biết ông là Ngài
TÔ. Ngài TÔ sợ Tần đánh Triệu làm hỏng kế hoạch hợp tung , và cho rằng trừ ông
ra , không ai nắm nổi quyền hành ở Tần , cho nên mới chọc tức ông, rồi sai tôi
ngầm giúp ông tiền bạc , tất cả đều là kế hoạch của Ngài TÔ. Nay ông đã đắc
dụng , tôi xin được về báo tin cho Ngài TÔ rõ.
TRƯƠNG
NGHI nói :
_ Trời
ơi ! Thì ra tôi trúng kế TÔ TẦN mà không biết. Rõ ràng tôi không bằng TÔ TẦN .
Vả lại tôi vừa mới cầm quyền, làm sao tính chuyện đánh Triệu được ? Ông hãy cảm
ơn Ngài TÔ hộ tôi. Ngài TÔ còn sống ngày nào thì tôi chả dám nói năng gì đâu.
Vả chăng Ngài TÔ còn thì TRƯƠNFG NGHI này còn có tài chi !
LẠM BÀN :
1/. TÔ
TẦN muốn Tần không đánh các nước phá thế hợp tung, phải có người kềm giữ bên
cạnh vua Tần , tức là tĩnh chế động. Là lạt mềm buộc chặt.
TÔ TẦN
tìm cách kích bác , hạ nhục TRƯƠNG NGHI , để TRƯƠNG NGHI tức giận vào đất Tần
tìm cơ hội trả thù TÔ TẦN . Là muốn bắt thì phải thả cũng là kế khích tướng.
2/. Có
người cho rằng TÔ TẦN và TRƯƠNG NGHI là 2 tay lái buôn chính trị giỏi của thời
Xuân Thu Chiến Quốc.
Cùng học
với QUỶ CỐC , nhưng xét ra tình đồng học của TÔ TẦN đối với TRƯƠNG NGHI tốt hơn
BÀNG QUYÊN đối với TÔN TẪN.
THÍ DỤ B
: ĐƯỢC VOI ĐÒI TIÊN.
Đầu đời
nhà Hán , MẠO ĐỐN nước Hung Nô vừa xưng Vương. Vua nước Đông Hồ muốn thăm dò
thực lực , bèn sai sứ thần đến đòi MẠO ĐỐN dâng ngựa thiên lý.
MẠO ĐỐN
họp quần thần thương nghị. Có người tâu :
_ Cả
nước chỉ có con ngựa thiên lý , không thể dâng cho người khác.
MẠO ĐỐN
nói :
_ Ta với
nước Đông Hồ là nước láng giềng , vì một con ngựa mà mất đi tình nghĩa là không
nên.
Nói xong
giao ngựa cho sứ giả đem về.
Mười
ngày sau , Đông Hồ sai sứ giả đến đòi MẠO ĐỐN dâng Hoàng Hậu.
MẠO ĐỐN
lại hỏi quần thần. Ai nấy đều tức giận nói :
_ Vua
Đông Hồ thật là láo xược , muốn lấy cả Hoàng Hậu nước ta . Trước là chém đầu sứ
giả , sau là cất quân đi trị tội.
MẠO ĐỐN
từ tốn nói :
_ Vua
Đông Hồ đã thích vợ ta , thì dâng cho ông ấy. Không vì 1 người đàn bà mà mất
tình nghĩa lân bang.
Nói xong
lại giao Hoàng Hậu đưa về Đông Hồ.
Chưa
được mấy tháng , sứ thần lại sang đòi MẠO ĐỐN phần đất biên giới của 2 nước.
MẠO ĐỐN
lại họp triều thần . Mọi người tranh cãi , kẻ thì bảo cắt đất , người thì bảo
là không nên.
MẠO ĐỐN
đứng dậy dõng dạc phán :
_ Đất
đai là gốc của 1 nước , làm sao có thể cho được ?
Nói xong
thét tả hữu lôi sứ thần ra chém đầu.
Sáng hôm
sau , MẠO ĐỐN khoác chiến bào , gióng trống , tiến quân ào ạt vào Đông Hồ ,
quân Đông Hồ không kịp trở tay , đại bại.
MẠO ĐỐN
xông thẳng vào điện giết chết Vua Đông Hồ , tiêu diệt nước
này.
LẠM BÀN :
1/. Vua
Đông Hồ được voi đòi tiên , được ngựa thiên lý , đòi Hoàng Hậu , được Hoàng Hậu
nước người lại còn đòi đất đai. Láo xược , hiếp người , gây chiến quá đáng.
Cái dỡ
là gây chiến nhưng không phòng bị người phàn công. Cuối cùng , ngựa không được
cưỡi , người đẹp không được sống chung , thân bị giết , nước bị tiêu diệt.
2/. MẠO
ĐỐN là người bình tĩnh , kiên nhẫn và nhịn nhục hiếm có.
MẠO ĐỐN
thỏa mãn những đòi hỏi của đối phương , kể cả những đòi hỏi vô lý là bắt dâng
cả vợ , làm cho đối phương chủ quan , không phòng bị .
Khi đối
phương thỏa mãn được những đòi hỏi , sinh ra kiêu mạn chủ quan , bộc lộ yếu
điểm thì MẠO ĐỐN nhanh chóng hành động , ào ạt xuất quân , thanh toán kẻ thù
nhanh gọn. Như hổ đói thu mình rồi lao xuống núi vồ mồi.
KẾ THỨ
TƯ : GIẢ SI BẤT ĐIÊN ( giả ngu si nhưng không điên )
Giả si
bất điên là giả kẻ tầm thường , ngu dại , hồ đồ để che dấu mưu mô , mục đích
của mình , qua mắt đối phương. Ẩn kín sâu xa , im lặng như sấm sét tự dấu mình
trong mây những ngày Đông giá rét.
Người
muốn thực hiện kế này phải hết sức bình tĩnh ,tự hạ thấp mình , nghe ngóng ,
quan sát lời nói , sự việc của đối phương và biết lợi dụng những điều kiện hoàn
cảnh khách quan để che giấu ý tưởng.
THÍ DỤ A
: TÔI LÀ NGƯỜI TRẦN MẮT THỊT.
HUYỀN
ĐỨC sau khi nhận chiếu chỉ trừ TÀO THÁO , sợ THÁO nghi mình mưu đồ gì , bèn làm
1 vườn rau ở sau nhà ngày ngày vun xới tưới tắm , để làm cách che mắt cho THÁO
khỏi ngờ.
QUAN,
TRƯƠNG thấy vậy hỏi rằng :
_ Anh
không lưu tâm đến việc lớn thiên hạ , học làm chi cái việc của kẻ tiểu nhân
này?
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ Hai em
đâu biết ý anh !
Hai
người từ đó không dám nói gì nữa.
Một hôm
, QUAN VŨ , TRƯƠNG PHI cùng đi chơi vắng , HUYỀN ĐỨC đang lom khom tưới rau ,
bỗng thấy HỨA CHỮ và TRƯƠNG LIÊU dẫn vài chục người vào vườn , nói rằng :
_ Thừa
tướng sai chúng tôi đến mời Sứ quân đến ngay phủ.
HUYỀN
ĐỨC giật mình , hỏi :
_ Việc
gì khẩn cấp thế hai ông ?
HỨA CHỮ
thưa :
_ Hai
chúng tôi thấy sai thì vâng mệnh đi mời , chớ không được biết chuyện
chi.
HUYỀN
ĐỨC theo hai người vào phủ yết kiến TÀO THÁO. THÁO cười nói rằng :
_ HUYỀN
ĐỨC độ rày làm việc lớn lao đấy nhỉ !
HUYỀN
ĐỨC sợ tái mặt , THÁO cầm tay HUYỀN ĐỨC dắt vào vườn ở sau nhà , nói rằng :
_ HUYỀN
ĐỨC học làm vườn , chắc không phải là việc dễ dàng ?
HUYỀN
ĐỨC bấy giờ mới vững dạ , đáp rằng :
_ Không
có việc gì , làm để tiêu khiền đó thôi.
THÁO nói
:
_ Vừa
rồi thấy trên cành mai có quả xanh , sức nhớ khi đánh TRƯƠNG TÚ , đi đường
không có nước , tướng sĩ khát rát cả cuống họng. Bấy giờ ta nghĩ ra 1 kế , cầm
roi trỏ hảo nói rằng : trước mắt có rừng mơ. Quân sĩ nghe nói đến mơ , ai cũng
ứa nước dãi , đỡ được khát nước. Nay có mơ thật , nay hái xuống mà thưởng. Vả
lại , rượu nấu vừa chín , cho nên mời Sứ quân đến tiểu đình uống rượu.
HUYỀN
ĐỨC bấy giờ trấn tĩnh lại được , theo đến tiểu đình , đã thấy bày mâm bát ,
giửa bàn bày 1 dĩa mơ xanh, 1 bình rượu nóng.
Hai
người đối diện , ăn uống vui vẻ. Lúc rượu ngà say , chợt thấy mây đen mù mịt
,cơn mưa to sắp kéo đến.
Quân hầu
trỏ lên trời bẩm :
_ Có vòi
Rồng lấy nước.
THÁO và
HUYỀN ĐỨC cùng dựa bao lơn ngắm xem , THÁO hỏi :
_ Sứ
quân có biết Rồng biến hóa thế nào không ?
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ Tôi
chưa được tường .
THÁO nói
:
_ Rồng
lúc thì to,lúc thì nhỏ , lúc thì bay,lúc thì nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù ,
lúc nhỏ thì thu hình ẩn bóng, khi bay ra thì liệng trong trời đất, khi ẩn thì
lẩn núp ở dưới sóng.
Nay đang
mùa Xuân , Rồng gặp thời biến hóa , cũng như người ta lúc đắc chí , tung hoành
trong bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời vậy. HUYỀN ĐỨC nay đã đi khắp 4
phương , bao nhiêu anh hùng đời nay hẳn đã biết cả , xin thử nói cho nghe.
HUYỀN
ĐỨC thưa :
_ BỊ này
người trần mắt thịt , biết đâu được anh hùng .
THÁO nói
:
_ HUYỀN
ĐỨC không nên nhún mình quá !
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ BỊ nay
nhờ ơn Thừa tướng làm quan trong triều , anh hùng trong thiên hạ thực không
được biết.
THÁO nói
:
_ Đã
đành không biết mặt , nhưng cũng có nghe tiếng chứ ?
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ VIÊN
THUẬT ở Hoài Nam , binh lương nhiều , có thể cho là anh hùng được chăng ?
THÁO
cười nói :
_ Xương
khô trong mả , chỉ nay mai là ta bắt được !
HUYỀN
ĐỨC lại nói :
_ Anh
VIÊN THUẬT là VIÊN THIỆU ở Hà Bắc ,bốn làm tam công ,có nhiều đầy tớ cũ ;
hiện nay
như con hổ dữ hùng cứ Quý Châu ; bộ hạ nhiều tay tài giỏi , có thể là anh hùng
được chăng ?
THÁO lại
cười nói :
_ VIÊN
THIỆU ngoài mặt mạnh bạo , trong bụng nhút nhát , thích mưu mẹo mà không quyết
đoán , làm việc lớn mà lo đến bản thân , thấy lợi nhỏ thì lại quên mình , không
thể gọi là anh hùng được !
HUYỀN
ĐỨC nói ;
_ Có một
người nổi tiếng trong đám kẻ tuấn kiệt , uy danh khắp cả chín châu là LƯU CẢNH
THĂNG , có thể cho là anh hùng được chăng ?
THÁO lại
cười nói :
_ LƯU
BIỂU có hư danh nhưng không có thực tài , không phải là anh hùng.
HUYỀN
ĐỨC lại nói :
_ Có một
người sức lực đương khoẻ , đứng đầu xứ Giang Đông là TÔN BÁ PHÙ , hẳn là anh
hùng.
THÁO nói
:
_SÁCH
nhờ danh tiếng của bố , không phải là anh hùng.
HUYỀN
ĐỨC lại hỏi :
_ LƯU
QUÝ NGỌC ở Ích Châu có phải là anh hùng không ?
THÁO nói
:
_ LƯU
CHƯƠNG tuy là tôn thất , nhưng chỉ là con chó giữ nhà , sao gọi là anh hùng
được ?
HUYỀN
ĐỨC lại nói :
_ Như
bọn TRƯƠNG TÚ , TRƯƠNG LỖ và HÀN TOẠI thì thế nào ?
THÁO vỗ
tay cười to :
_ Lũ
tiểu nhân nhung nhúc ấy thì nói làm gì !
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ Ngoài
những người ấy ra , BỊ thực không còn biết ai nữa.
THÁO nói
:
_ Anh
hùng là người trong bụng có chí lớn , có mưu cao ,có tài bao trùm được cả vũ
trụ có chí nuốt cả trời đất kia.
HUYỀN
ĐỨC mới hỏi :
_ Ai có
thể xúng đáng được như thế ?
TÀO THÁO
lấy tay trỏ vào HUYỀN ĐỨC , rồi lại trỏ vào mình nói rằng :
_ Anh
hùng thiên hạ bây giờ chỉ có Sứ quân và THÁO mà thôi.
HUYỀN
ĐỨC nghe nói ,giật nẩy mình ! Thìa , đôi đũa đương cầm ở tay , rơi xuống đất
Giửa lúc
bấy giờ , cơn mưa u ám , có một tiếng sét thực dữ. LƯU BỊ từ từ cúi xuống nhặt
đũa và thìa , nói tảng rằng :
_ Gớm
ghê ! tiếng sét dữ quá !
THÁO
cười hỏi rằng :
_ Trượng
phu cũng sợ sấm à ?
HUYỀN
ĐỨC nói :
_ Đức
Thánh ngày xưa lúc gặp sấm dữ gió to cũng đổi sắc mặt , huống chi là tôi đây
sao lại không sợ ?
HUYỀN
ĐỨC đã che đậy được hết cả việc giật mình đánh rơi cả thìa đũa khi nghe THÁO
gọi mình là anh hùng.
THÁO
thấy thế không ngờ gì HUYỀN ĐỨC nữa.
LẠM BÀN :
1/. THÁO
muốn khơi gợi bàn về thời thế luận anh hùng để cho LƯU BỊ bộc lộ quan điểm và
chí hướng của mình. LƯU BỊ thì cố gắng che đậy , né tránh.
Khi TÀO
THÁO chỉ thẳng vào LƯU BỊ.cho LƯU BỊ là anh hùng thời nay thì LƯU BỊ rất lúng
túng , may nhờ tiếng sét mà trấn tĩnh lại được. LƯU BỊ còn giả làm vườn tưới
rau làm cho THÁO lầm BỊ là kẻ tầm thường không có mưu đồ sâu xa.
2/. Hai
mưu kế đối chọi nhau , TÀO THÁO ứng dụng đầu thạch vấn lộ. LƯU BỊ dụng kế giả
si bất điên nhưng xem ra LƯU BỊ đóng kịch khéo hơn vì ở trong hoàn cảnh thập tử
nhất sinh
Đóng
kịch không tỉnh táo , không nhập vai , không khéo thì bị trừ khử ngay.
3/. Nếu
theo hình tượng thì LƯU BỊ như con Rồng lẩn khuất dưới vực sâu , ẩn náu chờ
thời
4/. LÃO
TỬ dạy người ta : Biết như con trống mà như con mái. Thông thường , khoe thông
minh , khoe tài thì dễ ; giấu tài , giấu sự thông minh thì rất khó.
THÍ DỤ B
: CON CHIM BA NĂM KHÔNG BAY , KHÔNG HÓT
Thời Tề
Uy Vương , nhà Vua thích câu đố , tiếng lóng , ham mê khoái lạc , rượu uống
thâu đêm ,chẳng còn để ý chính sự , nhất thiết phó thác cho các quan khanh, đại
phu. Trong thì bách quan hoang loạn , ngoài thì chư hầu cùng xâm lấn , quốc gia
nguy vong trong vòng sớm tối. Các quan thân cận chẳng ai dám can. THUẦN VU KHÔN
dùng lời bóng gió tâu rằng :
_ Trong
nước có một con chim lớn , đậu ở sân nhà Đại Vương ba năm cũng chẳng bay , cũng
chẳng hót. Đại Vương có biết con chim đó là chim gì không ?
Vua nói
:
_ Con
chim đó không bay thì thôi , đã bay thì bay vút tận trời , không hót thì thôi ,
đã hót thì mọi người phải kinh ngạc.
Và cho
triệu 72 viên huyện trưởng về triều , thưởng 1 viên ( TỨC MẶC đại phu ) , giết
1 viên ( A đại phu ) , ào ạt xuất quân. Chư hầu hoảng sợ , đều trả lại hết đất
đai đã lấn của Tề. Uy danh Tề uy Vương lừng lẫy trong 36 năm.
LẠM BÀN :
1/. Có
sách dẫn là Sở Trang Vương , khi lên ngôi còn quá trẻ , ông để cho triều thần
nắm quyền.
2/.
Trong 3 năm giả bộ ăn chơi , hư hỏng nhưng thực chất để quan sát tình hình ,
đợi thời cơ chín muồi mới hành động , lấy lại những gì đã mất.
CHƯƠNG 4
:
NỘI KIỆN
CHI SÁCH (KẾ SÁCH VẸN TOÀN)
NỘI là
tự trình bày ý kiến , kế hoạch , mưu kế của mình . KIỆN là bao quát kế hoạch ,
mưu kế của mình cho thuộc hạ , cho bạn đồng liêu hoặc với 1 người náo đó.
Nói
chung NỘI KIỆN là 1 kế hoạch , 1 kế mưu được suy nghĩ trước , chuẩn bị chu đáo
trong 1 hoàn cảnh nhất định. KIỆN cũng có nghĩa là kiên định với sách lược của
mình ( Ví dụ như : KHỔNG MINH chưa ra khỏi lều tranh đã nêu ra quyết sách chia
ba thiên hạ , theo thế chân vạc , cả đời thực hiện kế sách này )
Muốn
thực hiện sách nội kiện phải biết mối quan hệ và phương thức kết hợp giửa người
với người , giửa nhà Vua với bề tôi.
1/.Xét
mối quan hệ giửa người với người hoặc giửa Vua với bề tôi rất phức tạp , không
chỉ xét phiếm diện bên ngoài để xét đoán.
Đôi khi
tuy bề ngoài có vẻ xa cách nhưng thật sự là thân mật , bên ngoài có vẻ thân mật
nhưng thật sự lại xa xôi nhạt nhẽo.
Bề tôi ở
cạnh Vua nhưng mưu kế sách lược không hợp thì không được dùng.
Dù xa
xôi vạn dặm nhưng mưu kế tương hợp với nhau vẫn được tin dùng.
Xa mà
thân với Vua là do Âm đức ( đạo đức , tài năng ) , gần mà không được tin dùng
là do chí hướng khác nhau , đạo lý không hợp nhau.
Thân
hoặc sơ , gần hoặc xa , mưu kế được tin dùng hoặc không được tin dùng phần
nhiều là do ở phương thức kết hợp.
2/.Trong
mối quan hệ Vua tôi có nhiều phương thức kết hợp : Do đạo đức mà kết hợp ; do
bè đảng mà kết hợp ; do địa vị , tiền tài , vật chất , nữ sắc mà kết hợp.
Do đạo
đức mà kết hợp , thì tuy là thần tử nhưng là thầy của Vua. Do bè đảng kết hợp ,
tuy phận thần tử nhưng lại là bạn bè của Vua. Do địa vị , tiền tài , vật chất ,
nữ sắc... kết hợp là sự kết hợp của Vua bất minh , bạo ngược với bọn bề tôi xu
nịnh.
3/. Khi
đã hiểu rõ được mối quan hệ và phương thức kết hợp của đối phương thì dễ dàng
trong việc thuyết phục đối phương. Như muốn vào thì vào , muốn ra thì ra , muốn
thân thì thân , muốn sơ thì sơ , muốn thành tựu thì thành tựu...
Tương tự
như loài nhện , loại này rất yêu con , nhưng muốn đi thì đi muốn đến thì đến.
Khi đi không hẹn giờ ngày , khi về không báo trước , 1 mình đi 1 mình đến , độc
vãng độc lai , tùy theo lòng mình mong muốn , tùy tâm sở dục.
4/.Người
du thuyết không được trọng dụng cũng có nhiều nguyên nhân : Do chí hướng bất
đồng và đạo lý khác nhau giửa người du thuyết với người được du thuyết. Do
chính sách , biện pháp của người du thuyết không thích hợp với tình hình của
nước đó.
Do không
tìm hiểu đối phương nên không thuyết phục khống chế được đối phương. Vì thế
người ta nói : Không đồng loại với nhau chỉ thấy cái nghịch lại với nhau. Không
chiếm được cảm tình của đối phương thì không thu lượm được gì cả.
5/. An
định nhân dân tinh thành hợp tác : Đạo lý của việc trị dân là giúp dân lập
nghiệp , sống trong an bình. Muốn vậy Vua tôi phải có hợp tác tinh thành. Có
tinh thành hợp tác thì mới an định được dân sinh.
Bản thân
mưu sĩ phải củng cố đạo đức , lễ nghĩa , nghiên cứu và khảo chứng mưu kế , tìm
hiểu sự thành tựu và không thành tựu , sự ích lợi và sự tổn hại của đất nước ,
của nhân dân.
6/. Cách
trị loạn : Một nước nếu Vua hôn ám , không lo quốc gia chính sự , thần dân phân
tán mà không hay biết. Đối nội theo ý chủ quan của mình , đối ngoại không chú ý
đến thời cuộc. Không chiêu nạp trọng dụng nhân tài , không lắng nghe ý kiến của
mưu sĩ. Tất yếu là loạn lạc sẽ xảy ra.
Nếu
trong lúc đất nước nguy nan , mưu sĩ được trọng dụng trước hết là phải đối phó
, bài trừ sự hư ngụy , giả dối , đồng thời chăm lo đến việc giáo hóa nhân dân
và nuôi dưỡng vạn vật.
7/. Sách
nợi kiện có 3 kế :
_ Tấn
tài , Sở dụng ( người tài của Tấn dùng ở Sở )
_ Tiến
ngôn mật quyết ( bí quyết hiến kế )
_ Tùy
tâm sở dục ( tùy tâm lý và dục vọng )
KẾ THỨ
NHẤT : TẤN TÀI SỞ DỤNG ( người tài nước Tấn dùng ở Sở )
Tấn tài
Sở dụng là chỉ người tài nước này được nước khác nể trọng , hoặc đem tài của
mình ra áp dụng ở nước khác.
Xa mà
được nể trọng, thân mật là do Âm đức (tài năng , đức độ), gần mà không thân là
do chí hướng không hợp nhau.
Muốn
thực hiện kế này phải hiểu rõ các nhân tài , mưu sĩ của nước đối phương . Đối
đáp phải linh hoạt tài tình , ngẩng cao đầu , nâng cao uy tín của mình.
THÍ DỤ :
ĐI SỨ NƯỚC CHÓ CHUI LỖ CHÓ.
Chư hầu
thấy nước Sở cường thịnh đều có ý sợ hãi , sai sứ đến triều cống.
Quan đại
phu nước Tề là Án Anh ( tên tự là Bình Trọng ) phụng mệnh Tề Cảnh
Công
sang sứ nước Sở.
Sở Linh
Vương bảo triều thần rằng :
_ Án Anh mình không đầy 5 thước mà chư hầu đều
khen là người giỏi. Nay các nước chỉ có Sở ta là cường thịnh hơn cả , ta muốn
là cho Án Anh sĩ nhục để nâng cao uy nước Sở , các ngươi nghĩ xem có kế gì?
Quan
thái tễ là Viên Khải Cương mật tâu rằng :
_ Án Anh
là người có tài ứng đối , tất phải dùng nhiều cách mới sĩ nhục được hắn.
Viên
Khải Cương liền đem mưu kế nói với Sở Linh Vương. Sở Linh Vương nghe lời.
Đêm hôm
ấy , Viên Khải Cương đem quân ra khoét 1 cái lỗ nhỏ ở bên cửa Đông vừa vặn độ 5
thước , rồi truyền cho quân canh cửa đợi khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt
cửa lại rồi bảo chui qua cái lỗ nhỏ ấy mà vào.
Được 1
lúc , Án Anh mặc áo cừu rách , đi cái xe xấu và con ngựa gầy đến. Đến cửa Đông
, thấy cổng thành đóng liền dừng xe lại , sai người gọi cửa , quân canh cửa trỏ
vào cái lỗ nhỏ ở bên cạnh mà bảo Án Anh rằng :
_ Ngài
đi qua cái chỗ ấy , cũng rộng rãi chán , cần gì phải mở cửa !
Án Anh
nói :
_ Đó là
chỗ chó chui , chứ không phải chỗ nguồi đi. Có sang sứ nước chó thì mới vào cửa
chó , chứ sang sứ nước người thì tất phải đi cửa người.
Quân canh
cửa đem lời nói ấy phi báo với Sở Linh Vương. Sở Linh Vưong
nói :
_ Ta
tính bỡn hắn , ai ngờ lại bị hắn bỡn lại !
Nói xong
, truyền mở cửa thành cho Án Anh vào.
Án ANh
vào trong thành , thấy có 1 toán xa kỵ , người nào cũng to lớn lực lưỡng và rậm
râu , tay cầm 1 ngọn giáo thật dài , trông như vị thiên thần , đến đón Án Anh ,
có ý muốn tỏ rõ Án Anh là người thấp lùn bé nhỏ. Án Anh nói :
_ Ta
sang sứ hôm nay là vì việc giao hiếu , chứ không phải là muốn gây chiến tranh ,
dùng làm chi những kẻ vũ sĩ ấy !
Án Anh
nói xong bảo vũ sĩ đứng ra 1 bên , rồi giục xe thẳng tới cửa triều.
Ngoài
cửa triều có hơn 10 viên quan , đều mũ cao áo dài, đứng sắp hàng 2 dãy. Án Anh
xuống xe , chắp tay vái chào.
Trong
hàng các quan , có 1 viên trẻ tuổi hỏi Án Anh rằng
_ Ngài
có phải là Án Bình Trọng , người ở đất Di Duy đó không ?
Án Anh
nhìn xem ai thì tức là Đấu Vi Quý , tên gọi Đấu Thành Nhiên , hiện đang làm
quan giáo doãn. Án Anh đáp rằng :
_ Phải ,
chính tôi đó ! Chẳng hay ngài định dạy điều gì ?
Đấu
Thành Nhiên nói :
_ Nước
Tề , kể từ đời Thái Công thuở xưa , vốn là 1 nước cường thịnh , sao từ khi Hoàn
Công mất đi rồi , tronmg nước nhiễu loạn , tranh cướp lẫn nhau , hết bị Tấn
đánh , lại bị Tống đánh. Vua Tề ngày nay cũng chẳng kém gì Hoàn Công , mà cái
hiền đức của ngài phỏng có thua gì Quản Trọng , sao ngài không biết giúp Vua Tề
để chấn hưng cơ nghiệp cũ , mà chịu cúi đầu thờ nước lớn như nô bộc , thật tôi
không hiểu ra làm sao !
Án Anh
đáp rằng ;
_ Có
biết thời thế mới gọi là tuấn kiệt , có thông cơ biến mới gọi là anh hào. Từ
khi nhà Chu suy , Tề và Tấn làm chủ ở Nam Man , dẫu bởi có nhân tài , nhưng
chẳng qua cũng là do khí vận. Kìa như Tấn Tương Công và Tần Mục Công cường
thịnh biết bao mà sau cũng phải hèn yếu ; nước Sở từ khi Vua Trang Vương mất đi,
cũng thường bị quân Tấn và quân Ngô đến đánh , cứ gì 1 nước Tề ! Chúa Công tôi
hiểu lẽ ấy , cho nên vẫn luyện tập quân mã để đợi thời ; nay sai tôi sang đây
là theo lễ giao hiếu với lân quốc , sao gọi là nô bộc được?
Ngài có
phải dòng dõi Tử Văn đó không? Tử Văn khi xưa là 1 bậc danh thần nước Sở , biết
thời thế , thông cơ biến , mà sao lời nói của ngài nghe trái với Tử Văn nhiều
lắm !
Đấu
Thành Nhiên thẹn đỏ mặt lên , cúi đầu lui ra.
Được 1
lúc , trong hàng bên tả lại có người hỏi Án Anh rằng :
_ Án
Bình Trọng tự phụ là người biết thời thế , thông cơ biến , nhưng trong khi Thôi
Trữ và Khánh Phong nổi loạn , thì triều thần nước Tề từ Giải Cử trở xuống , bao
nhiêu người tử tiết , Trần Văn Tử cũng bỏ cả cơ nghiệp mà đi. Ngài là thế gia
nước Tề , đã không dám đánh giặc , cũng không biết tử tiết , còn bo bo giữ lấy
danh vị làm chi !
Án Anh
nhìn xem ai thì tức là quan thượng đại phu nước Sở , tên gọi Dương Mang , tên
tự là Tử Hà. Án Anh đáp rằng :
_ Người
có tiết lớn thì không cần những điều nhỏ mọn , người biết lo xa thì không nghĩ
đến những sự tầm thường. Ông Vua vì nước mà chết thì bề tôi nên chết theo , nay
Vua Trang Công tôi không phải vì nước mà chết , những người chết theo toàn là
vì tình riêng, tôi dẫu hèn mạt có đâu dám liều chết để mua lấy cái hư danh ấy !
Vả bề tôi gặp lúc trong nước có nạn không thể làm gì được thì mới nên bỏ đi ,
tôi không đi là để lập Vua mới mà giữ lấy nước , chứ có phải là vì tham danh vị
đâu ? Huống chi là việc biến loạn , nước nào chẳng có , ngài chắc các quan
triều thần nước Sở đều là những người 1 lòng tử tiết cả hay sao? Sao ngài chỉ
biết trách người mà không biết trách mình?
Dương
Mang nín lặng không đáp lại được nữa. Bỗng thấy trong hàng bên hữu lại có 1
người ra hỏi Án Anh rằng :
_ Ngài
muốn nói là ngài muốn lập Vua mới để giữ lấy nước , câu nói ấy có ý khoe khoang
quá ! Trong khi họ Thôi và họ Khanh giết lẫn nhau , họ Trần và họ Bào tranh
quyền nhau , chẳng thấy ngài có mưu kế gì lạ cả , nếu quả ngài có lòng báo quốc
thì sao lại như thế !
Án Anh
cười mà nói rằng :
_ Ngài
biết điều ấy , nhưng chưa biết điều khác ! Lúc bấy giờ , tôi ở liền bên cạnh
Chúa Công , tôi bày mưu kế để giữ yên nước nhà , những kẻ bàng quang tài nào
biết rõ được?
Trong
hàng bên tả lại có 1 người ra bảo Án Anh rằng ;
_ Đại
trượng phu gặp thời , đã có đại tài lược , tất có đại qui mô ! Tôi xem ra thì
ngài khó mà tránh khỏi được cái tiếng bỉ lận !
Án Anh
nhìn xem ai thì là quan thái tể nước Sở tên gọi Viên Khải Cương.
Án Anh
nói :
_ Tại
sao ngài lại biết là tôi bỉ lận ?
Viên
Khải Cương nói :
_ Thân
danh ngài làm tướng quốc thì mũ áo và xe ngựa , tưởng cũng nên trang sức để tỏ
cái ân huệ của Vua , cớ sao lại mặc áo cừu rách , cưỡi con ngựa gầy mà đi sứ
nước ngoài như vậy , chẳng lẽ lương ăn không đủ hay sao? Tôi nghe nói cái áo
cừu của ngài may từ thuở bé , đã 30 năm nay không thay ; mà mỗi khi tế lễ ,
ngài dùng con lợn nhỏ quá , đến nỗi vai lợn không chật mâm , như thế không phải
bỉ lận là gì?
Án Anh
vỗ tay cười rầm lên mà nói rằng :
_ Sao
kiến thức của ngài thiển cận như vậy? Tôi từ khi làm tướng quốc đến giờ , suốt
trong họ hàng nhà tôi đều được mặc áo đẹp, ăn miếng ngon , không ai phải đói
rét ; những người hàn sĩ nhờ tôi mà được ấm no , cả thẩy đến hơn 70 nhà , thế
thì muốn tỏ cái ân huệ của Vua , còn gì bằng điều ấy !
Án Anh
nói chưa dứt lời thì trong hàng bên hữu lại thấy có 1 người trỏ tay vào mặt Án
Anh mà vừa cười vừa nói :
_ Tôi
nghe nói Vua Thành Thang mình cao 9 thước là bậc hiền vương , Tử Tang sức địch
muôn người là bậc danh tướng. Nay ngài mình thấp không đầy 5 thước , sức yếu
không trói nổi 1 con gà , chỉ nghề bẻo lẻo mồm miệng , tự phụ là tài giỏi , tôi
tưởng nên lấy làm xấu hổ lắm mới phải !
Án Anh
nhìn xem ai thì tức là cháu công tử Chân , tên gọi Nang Ngõa , tên tự là Tử
Thường , hiện đang làm chức xa hữu. Án Anh tủm tỉm cười mà đáp rằng :
_ Tôi
nghe nói cái quả cân dẫu nhỏ , bao giờ cũng đè được nghìn cân ; cái chèo dẫu
dài , bao giờ cũng ngâm ở dưới nước. Trương Địch người cao mà bị giết ở lỗ ,
Nam Cung Trường vạn sức khoẻ mà bị giết ở Tống ; túc hạ mình dài sức khoẻ , có
lẽ cũng giống 2 người ấy. Tôi biết thân không có tài cán gì , nhưng hỏi gì thì
phải nói , sao ngài lại chê là bẻo lẻo mồm miệng ?
Nang
Ngõa không biết nói thế nào nữa. Bỗng nghe báo có quan lệnh doãn và Viễn Bãi
đến. Các quan đều sắp hàng đứng đợi. Ngũ Cử mời Án Anh vào triều , rồi bảo các
quan đại phu rằng :
_ Án
Bình Trọng là hiền sĩ nước Tề , sao các ngài lại nói quá như vậy ?
Được 1
lúc Sở Linh Vương ra ngự triều. Ngũ Cử đưa Án Anh vào yết kiến.
Sở Linh
Vương trông thấy Án Anh liền hỏi rằng :
_ Nước
Tề quả thật không có nguồi hay sao?
Án Anh
nói :
_ Người
nước Tề tôi , hà hơi thì thành ra mây , vẩy mồ hôi thì thành ra mưa , đi thì
phải chen vai , đứng thì phải chen chân , sao gọi là thiếu người?
Sở Linh
Vương nói :
_ Thế
thì sao lại sai tiểu nhân sang sứ nước ta ?
Án Anh
nói :
_ Nước
tôi vẫn có lệ : Người hiền sang sứ nước hiền , người ngu sang sứ nước ngu , đại
nhân sang sứ đại quốc , tiểu nhân sang sứ tiểu quốc. Tôi là tiểu nhân , bất tài
bất lực , vậy mới phụng mệnh sang sứ nước Sở.
Sở Linh
Vương nghe nói có ý hổ thẹn , nhưng trong lòng lấy làm lạ.
Gặp bấy
giờ có người ở ngoại thành đem dâng hợp hoan quất ( quýt ). Sở Linh Vương cầm
đưa một quả , Án Anh cầm ăn cả vỏ.
Sở Linh
Vương vỗ tay cười rầm lên mà bảo rằng :
_ Người
nước Tề dễ thường không ăn quýt bao giờ ! Cớ sao lại không bóc vỏ?
Án Anh
nói :
_ Cú
theo trong lễ thì Vua đưa cho quả gì , bề tôi cũng không được bóc vỏ mà quẳng
đi. Nay đại vương không truyền cho bóc vỏ , nên tôi phải ăn cả.
Sở Linh
Vương bất giác kính phục , mời ngồi uống rượu.
Được 1
lúc , có 3-4 vũ sĩ giải 1 tên tù đi qua dưới thềm. Sở Linh Vương nói :
_ Tên tù
ấy người ở đâu?
Vũ sĩ
tâu :
_ Người
nước Tề.
Sở Linh
Vương hỏi :
_ Phạm
tội gì?
Vũ sĩ
tâu :
_ Tội ăn
trộm.
Sở Linh
Vương ngoảnh lại bảo Án Anh rằng :
_ Người
nước Tề dễ thường quen tính ăn trộm hay sao?
Án Anh
biết là Sở Linh Vương cố ý bày ra chuyện ấy để chế nhạo mình , mới đáp lại rằng
:
_ Tôi
nghe nói giống quýt ở xứ Giang Nam vốn ngọt , đem sang trồng ở xứ Giang Bắc thì
hóa ra chua , là tại thổ nghi không giống nhau. Nay người nước Tề , khi ở nước
Tề thì không ăn trộm , khi sang Sở thì hóa ra ăn trộm , thế là tại thổ nghi
nước Sở , chứ có tại gì người nước Tề !
Sở Linh
Vương nín lặng hồi lâu rồi nói rằng :
_ Ta
định chế nhạo nhà ngươi , chẳng ngờ lại bị nhà ngươi chế nhạo ! Bèn tiếp đãi Án
Anh rất trọng thể cho đến khi về nước Tề LẠM BÀN :
1/. Sở
Vương ỷ mình là nước lớn , cường thịnh , cố ý bày mưu sĩ nhục Án Anh , sứ nước
Tề.
Án Anh
biết rõ gốc gác từng mưu sĩ của nước Sở , kiến thức lại rộng rãi , ứng đối như
nước chảy phá được các mưu kế và sự chế nhạo của Vua Sở , làm cho Vua Sở kính
nể.
2/. Tư
Mã Thiên hết lời khen ngợi Án Tử :
Giả sử
Án Tử mà còn , tôi tuy cầm roi ngựa cho ông , xin cũng vui lòng.
KẾ THỨ
HAI : TIẾN NGÔN MẬT QUYẾT ( bí quyết của việc hiến kế )
Tiến
ngôn mật quyết là bí quyết của việc du thuyết , thuyết phục hoặc can gián nhà
Vua.
Nhiều
người du thuyết , can gián thất bại thậm chí thệt thân , do 1 phần không nắm
vững bí quyết.
Quan hệ
Vua tôi là quan hệ trên và dưới , có thân và có sơ. Gần mà không thân thì mưu
kế chưa chắc được dùng, lời can gián không được nghe , có khi đưa ra mưu kế
hoặc lời can gián còn hại cho bản thân.
Theo qui
luật vật cùng loại thì hô ứng , không đồng loại thì không hô ứng với nhau.
Tương tự
, con người thường chủ quan , cảm tính và thiên kiến. Không đồng tình với ý mình
thì cho là trái. không hợp với tâm lý tình cảm của mình thì cho là nghịch.
Người can gián , du thuyết hiểu đạo lý này thì thành công không nắm vững thì
thất bại.
THÍ DỤ A
: LUỘC CHO ĐỦ SỐ 28 :
Vua Tần
( Tần Thủy Hoàng ) ghét và giam thái hậu , ai can ngăn thì giết.
Có người
ở Thương Châu tên là Mao Tiêu , nhân đến chơi Hàm Dương , ở nhà trọ , nghe
người ta nói đến việc ấy. Mao Tiêu căm tức nói rằng :
_ Con mà
giam mẹ thì còn Trời Đất nào nữa !
Rồi bảo
chủ trọ cho nước nóng để tắm gội , sớm hôm sau sẽ vào can Vua Tần. Người trong
nhà trọ can rằng :
_ Hai
mươi bảy người kia là bề tôi thân tín của nhà Vua thế mà can không được còn bị
giết liền tay , huống gì nhà ngươi !
Mao Tiêu
nói :
_ Chỉ có
27 người nhà Vua không nghe , nếu có người can nữa thì Vua Tần nghe cũng không
biết chừng !
Những
người cùng ở nhà trọ cười và cho là ngu. Sáng hôm sau , vào trống canh năm Mao
Tiêu gọi chủ trọ lấy cơm ăn thật no để đi.
Chủ trọ
nắm áo giữ lại không được. Ai nấy cho rằng Mao Tiêu sẽ chết nên lấy hành lý của
Mao Tiêu chia nhau.
Mao Tiêu
đi đến cửa khuyết , phục vào đống thây kêu to:
_ Tôi là
khách nước Tề tên là Mao Tiêu xin dâng lời can Đại Vương.
Vua Tần
sai nội thị ra hỏi là can việc gì , có dính dáng đến việc của Thái hậu không ?
Mao Tiêu
nói :
_ Tôi
chính vì việc ấy mà đến !
Nội thị
vào tâu. Vua Tần nói :
_ Ngươi
nên chỉ đống thây ở dưới cửa cho người ấy biết!
Nội thị
ra bảo với Mao Tiêu :
_ Ông có
thấy thây chồng chất không ? Sao không sợ chết ư ?
Mao Tiêu
nói :
_ Tôi
nghe trên trời có 28 sao giáng xuống đất thì làm chính nhân. Nay số chết đã 27
người rồi , còn thiếu 1. Tôi đến đây muốn chết cho đủ số. Xưa nay , ai là không
chết , tôi đây lại sợ chết ư ?
Nội thị
vào tâu . Vua Tần cả giận nói :
_ Tên
cuồng này dám trái lệnh cấm của ta !
Rồi sai
đặt chảo nước sôi để sẵn , nói rằng :
_ Ta sẽ
luộc sống tên này , để hắn không được chết vào đống thây cho đủ số 28.
Nói xong
Vua Tần chống gươm ngồi , lông mày trợn ngược , giận sôi bọt mép , chỉ đợi Mao
Tiêu vào là luộc.
Mao Tiêu
cố tình đi rón rén . Nội thị giục. Mao Tiêu nói :
_ Tôi
đến trước mặt Vua thì phải chết ngay , hoãn cho tôi chốc lát thì có hại gì ?
Nội thị
thương tình dắt vào trong. Mao Tiêu đi đến dưới thềm dập đầu lạy 2 lạy , nói :
_ Tôi
nghe nói : Kẻ sống không kiêng nói đến cái chết , kẻ có nước không kiêng nói chuyện
mất nước. Kiêng nói cái chết cũng không làm cho mình sống lại được, kiêng nói
mất nước cũng không làm cho nước còn. Cái kế sách mất còn , sống chết đức minh
chủ cần phải biết. Chẳng hay Đại Vương có muốn nghe không ?
Vua tần
hơi dịu :
_ Người
có kế gì cứ nói ta nghe !
Mao Tiêu
nói :
_ Kẻ
trung thần không tiến lời nói a dua thì đấng minh chủ không làm việc cường bạo.
Vua làm việc cuồng bạo mà bề tôi không nói là bề tôi bất trung. Bề tôi có lời
ngay thẳng mà Vua không nghe là phụ lòng bề tôi. Đại Vương có việc làm trái đạo
trời mà không tự biết , kẻ bề tôi hèn mọn này có lời ngay thẳng trái tai mà Vua
lại không muốn nghe. Cho nên tôi e rằng nước Tần từ nay nguy mất !
Vua tần
dịu hẳn , hỏi :
_ Nhà
ngươi định nói việc gì , ta bằng lòng nghe.
Mao Tiêu
hỏi :
_ Có
phải ngày nay Đại Vương đang quan tâm đến việc khắp thiên hạ đó không ?
Vua Tần nói ;
_ Phải !
Mao Tiêu
nói :
_ Thiên
hạ sở dĩ tôn Tần không phải chỉ vì sợ oai lực Đại Vương , mà vì cho rằng Đại
Vương là hùng chủ cả thiên hạ và cả trung thần , hiền sĩ đều hợp ở triều đình
vậy.
Nay Đại
Vương phanh thây giả phụ là bất nhân , đập chết 2 em là bất nghĩa , đày mẹ ở
cung Hoắc Dương là bất hiếu . Giết hại người can ngăn bỏ thây dưới cửa khuyết ,
thực không khác gì Vua Kiệt , Vua Trụ ! Quan tâm đến việc toàn thiên hạ mà làm
những việc như thế thì làm sao thiên hạ phục ?
Xưa kia
Vua Thuấn hết lòng thờ bà mẹ cay nghiệt hết đạo mà được làm Vua.
Vua kiệt
giết Bàng Long , Vua Trụ giết Tỷ Can mà thiên hạ đều làm phản cả .
Tôi tự
biết là tất chết nhưng e rằng sau khi tôi chết sẽ không còn ai dám nói nữa ,
lời nguyền rủa ngày càng thêm , những người trung mưu không dám bày tỏ , lúc ấy
trong ngoài lìa tan , chư hầu làm phản. Tiếc thay Đế nghiệp Tần gần thành mà tự
Đại Vương làm cho hỏng đi.
Tôi nói
hết rồi xin chịu luộc.
Mao Tiêu
nói xong lập tức đứng dậy , cởi áo chực nhảy vào chảo nước sôi.
Vua Tần
vội chạy xuống , tay trái nắm lấy Mao Tiêu , tay phải truyền tả hữu cất chảo
nước.
Mao Tiêu
nói :
_ Đại
Vương đã yết bảng cấm người can , không luộc tôi thì ai sợ ?
Vua Tần
lại sai cất bảng , sai tả hữu đưa áo cho Mao Tiêu mặc , mời ngồi và nói :
_ Những
người can trước chỉ kể tội quả nhân , chưa hề nói rõ cái lẽ còn mất. Nay Trời
sai tiên sinh đến , mở sự ngu tối cho quả nhân. Quả nhân xin theo đúng như lời.
THÍ DỤ B
; MỘT CHỖ KHÔNG THỂ DUNG 2 CON CHIM.
Nước hàn
có công tử Phi giỏi về môn học hình danh (pháp luật) , thấy nước hàn suy thoái
, mấy lần dâng thư lên Vua Hàn , Vua đều không dùng.
Đến lúc
quân Tần đánh Hàn , Vua Hàn sợ. Nhân đó công tử Phi muốn sang Tần mong được Vua
Tần dùng , xin Vua Hàn cho mình đi sứ để cầu hòa.
Phi đến
Hàm Dương yết kiến Vua Tần , nói Hàn xin nộp đất làm phiên
thuộc.
Vua Tần
vui mừng. Phi nhân đó nói rằng :
_ Tôi có
kế phá được tung ước các nước , hoàn thành được mưu kiêm tính của Tần. Đại Vương
dùng kế của tôi, nếu không thu phục được các nước thì xin chém tôi , đem rao
khắp nơi để làm gương cho những kẻ bề tôi bất trung.
Rồi đem
dâng những bộ sách của mình như Thuyết nan , Cô phẫn , Ngũ đô , Thuyết lâm ,
tất cả hơn 10 vạn chữ. Vua Tần xem xong lấy là hay , muốn dùng Phi làm khách
khanh cùng bàn việc nước.
Lý Tư
ghen tài , gièm rằng :
_ Các
công tử chư hầu đều thân với người thân của mình , có đâu lại để cho người khác
lợi dụng. Tần đánh Hàn , Vua Hàn sợ sai Phi và Tần , biết đâu Hàn chẳng dùng kế
phản gián , vậy không nên dùng.
Vua Tần
nói :
_ Vậy
thì đuổi đi hay sao ?
Lý Tư
nói :
_ Xưa
công tử Vô Kỵ nước Ngụy , công tử Bình Nguyên nước Triệu đã từng ở Tần. Tần
không dùng thả cho về nước , sau lại hại Tần. Phi có tài chi bằng giết đi để
cắt vây cánh nước Hàn.
Vua Tần
bèn giam Hàn Phi ở Hàm Dương. Khi sắp bị đem đi giết , Hàn Phi
hỏi :
_ Ta có
tội gì ?
Tên coi
ngục nói :
_ Một
chỗ không thể dung được 2 con chim. Đời bây giờ người có tài nếu không dùng thì
tất đem giết chết , cứ gì phải có tội ?
Hàn Phi
bèn khẳng khái ngâm thơ , đêm ấy lấy giải mũ tự thắt cổ THÍ DỤ C : CÁCH ĐỐI ĐÃI
VỚI NGƯỜI SẼ LÀM THỊT MÌNH.
Một hôm
, Vua Tần cùng Lý Tư bàn việc , khen tài Hàn Phi , ngỏ ý tiếc Hàn Phi đã chết.
Lý Tư
nói :
_ Tôi
xin tiến cử một người họ Úy tên Liêu , người ở Đại Lương , tinh thông binh pháp
, tài gấp 10 Hàn Phi.
Vua Tần
hỏi :
_ Người
ấy ở đâu ?
Lý Tư
nói :
_ Hiện
nay người ấy ở Hàm Dương , nhưng người này rất tự phụ , không thể lấy lễ bề tôi
mà dùng được.
Vua Tần
bèn cho đi mời theo lễ tân khách.
Úy Liêu
đến , thấy Vua Tần chỉ vái dài không lạy. Vua Tần đáp lễ gọi là
Tiên
Sinh. Úy Liêu nói :
_ Đối
với 1 nước mạnh như Tần , hễ các nước lìa nhau thì dễ lấy hết , hợp lại với
nhau thì khó đánh. Đại Vương cần nghĩ đến điều này.
Vua Tần
hỏi :
_ Muốn
cho các nước lìa nhau thì Tiên Sinh có kế gì không ?
Úy Liêu
nói :
_ Nay
việc cá nước đều do bọn hào thần quyết định , mà bọn này không phải là người
trung trí cả , chẳng qua cốt để có nhiều tiền của để vui chơi.
Nếu Đại
Vương không tiếc tiền của trong kho , đem đút lót cho bọn hào thần các nước ấy
, làm rối cái mưu của họ , thì chỉ mất ước 30 vạn cân vàng có thể lấy được hết
các nước.
Vua Tần
bằng lòng lắm , tôn Úy Liêu làm thượng khách , cho ăn mặc như mình và thường
đến quán xá quỳ xin dạy bảo.
Úy Liêu
nghĩ : Xét kỹ Vua Tần mũi to , mắt dài , ngực ưỡn , tiếng như gầm. Là người tàn
khắc ít ân. Lúc có việc thì chịu khuất với người , lúc xong việc thì khinh bỏ
người.
Nay
thiên hạ chưa thống nhất nên chịu khuất thân với bọn áo vải , nếu đắc chí thì
người trong thiên hạ đều sẽ bị làm thịt cả thôi !
Một đêm
Úy Liêu bỗng bỏ đi. Kẻ coi quán vội báo với Vua Tần.
Vua Tần
tưởng như mất cánh tay , vội vã sai người đuổi theo mời lại.
Rồi cùng
Úy Liêu lập lời thề , bái làm Thái úy , chủ việc binh , các đệ tử của Úy Liêu
đều được làm Đại phu.
Vua Tần
trích nhiều tiền kho sai các sứ giả đi đến các nước xem bề tôi hiện cầm quyền ,
được nhà Vua yêu mến , đút lót nhiều tiền để nắm tình hình.
Vua Tần
lại hỏi Úy Liêu nên kiêm tính nước nào trước , nước nào sau.
Úy Liêu
đáp :
_ Hàn yếu
dễ đánh ,nên đánh trước. Thứ đến Triệu và Ngụy. Đã thôn tính được ba nước ấy
thì đem quân đánh Sở. Sở mất thì Tề không còn.
LẠM BÀN :
ba người du thuyếtVua Tần , Mao Tiêu và úy Liêu thì thành công , còn Hàn Phi
thì thất bại và bị giết.
1/. Mao
Tiêu giả muốn chết cho đủ số nhưng lại sống và được trọng vọng. Bí quyết can
giàn của Mao Tiêu như Vua Tần đã nhận định " những người can trước chỉ kể
tội quả nhân chưa hề nói cái lẽ còn mất ". Người ta có lỗi , kể lỗi để cho
người ta sửa đổi chưa phải là thượng sách , còn chuốc họa vào thân như 27 người
can gián Vua Tần. Cho người ta thấy sự lợi hại của việc nhận lỗi và tìm cách
chuộc lỗi là điều quan trọng . Làm cho người có lỗi thấy : khi chuộc lỗi thì
tăng thêm uy tín , thu phục được những người khác trong thiên hạ. Tất nhiên
người ta phải nghe theo.
2/. Úy
Liêu thì rất mực khôn khéo , mới gặp Vua Tần đã đánh trúng tâm lý , ước muốn
của nhà Vua là làm sao đánh bại thôn tính các nước , nên được Vua Tần trọng
vọng ngay.
Nhưng sợ
Vua Tần không thi hành kế sách của mình , nếu có thi hành thì sau khi các nước
bị đánh bại cũng sẽ chết dưới tay Vua Tần. Do đó tìm cách bỏ đi. Vua Tần mời
lại , lập lời thề , tức là mưu kế mình sẽ được dùng , mạng sống được bảo đảm ,
lúc ấy mới tung thêm các sách lược còn lại.
3/. Hàn Phi du thuyết thất bại do nhiều lẽ :
_ Thứ
nhất là người nước Hàn , nước đang thù địch với Tần.
_ Thứ
hai , mặc dù rất giỏi nhưng đưa ra 1 mớ sách vở , phải đọc nghiền ngẫm mới thấy
cái hay cái dỡ. Thực chất Vua Tần chỉ cần kế sách được trình bày ngắn gọn , có
thể thực hiện được ngay như kiểu Úy Liêu. nếu Hàn Phi nói ngay sách lược thì
chưa chắc Lý Tư đã có thì giờ gièm pha và hãm hại được. Bệnh giấy tờ , sách vỡ
cũng đã tham gia vào tội sát thân của Hàn Phi.
_ Thứ ba
, như người coi ngục đã nói : Một chỗ không dung được 2 con chim. Đời bây giờ ,
người tài không dùng được thì đem giết , cứ gì phải có tội !
Chắc
trước khi vào Tần , Hàn Phi không lường bên cạnh Vua Tần không còn chỗ cho mình
, vì đã có Lý Tư. Ưu điểm của người tài là làm những việc ích quốc lợi dân ,
nhưng khuyết điểm của người tài là khi đã ghen ghét thì gièm pha nhau , giết
hại nhau bằng lý luận , dẫn chứng chặt chẽ , độc địa , giết ngưới như không.
Cho về thì thêm vây cánh cho kẻ thù , dùng thì sợ phản gián ; người bị gièm chỉ
có 1 con đường duy nhất là....đi về phía nấm mồ ! Thường người tài hay muốn độc
tôn , 1 minh 1 chợ , 1 mình 1 cõi , tha hồ thao túng chính trường choc trời
khuấy nước thiên hạ. Chính vì vậy , Chu Du đã từng hộc máu và than thở : "
Trời đã sinh
Du sao
còn sinh ra Lượng ".
4/.
Người ta vì nghề can gián , du thuyết Vua chúa hoặc là nghề làm tham mưu , quân
sư như vuốt vảy rồng. Tương truyền ai vuốt thuận theo chiều vảy rồng thì sống,
nếu vuốt theo chiều nghịch vảy rồng thì bị cắt chảy máu mà chết.
5/. Có
người cho rằng , xưa nay kẻ sĩ , mưu sĩ , thường là kẻ làm thuê cho Vua chúa.
Nghề làm thuê này rất bấp bênh nguy hiểm. Khi đã thôn tính xong nước địch , săn
hết thỏ thì chó săn bị thịt thôi. Tương tự như câu chuyện sau :
THÍ DỤ D
: CÒN THỪA BỐN THUẬT ĐEM XUỐNG ÂM PHỦ.
Văn Chủng
tâu với Việt Vương Câu Tiễn :
_ Tôi
nghe nói : Con chim bay ở trên mây cao chỉ chết vì miếng ăn ngon. Con cá lặn ở
vực sâu chỉ chết vì mồi thơm. Nay Chúa công muốn báo thù nước Ngô thì phải tìm
xem Ngô thích cái gì thì mới có thể trị nổi.
Câu Tiễn
nói :
_ Dẫu
tìm được điều họ thích nhưng làm thế nào để trị nổi họ ?
Văn
Chủng nói :
Tôi nghĩ cách phá Ngô có 7 kế :
1/. Chịu
tốn của cải làm cho Vua tôi nước Ngô bằng lòng
2/. Lấy
giá đắt mua thóc để làm nước Ngô thiếu lương thực.
3/. Đem
mỹ nữ sang dâng nước Ngô làm Vua Ngô bị mê hoặc.
4/. Đem
thợ khéo , gỗ tốt sang dâng để Ngô làm cung thất tổn hại tiền của.
5/. Dùng
kẻ mưu thần để làm cho nước Ngô loạn
6/. Hại
kẻ trung thức làm cho nước Ngô thế cô
7/. Tích
của , luyện quân để đợi địch suy yếu.
Sau khi
thôn tính được nước Ngô , Câu Tiễn lo Văn Chủng có tài làm phản. Một hôm , Ngô
Phù Sai đến thăm Văn Chủng. Văn Chủng giả bệnh. Câu Tiễn cởi thanh kiếm ra ,
ngồi xuống và hỏi Văn Chủng :
_ ta
nghe người chí sĩ không lo cái thân mình chết mà lo cái đạo của mình không thi
hành được. Nhà ngươi có bảy thuật ta mới thi hành có ba đã diệt được nước Ngô ;
còn thừa bốn thuật nhà ngươi định dùng để làm gì ?
Văn
Chủng nói :
_ Tôi
cũng không biết dùng để làm gì !
Câu Tiễn
nói :
_ Hay
nhà ngươi đem bốn thuật ấy mà mưu hộ cho tiền nhân nước Việt ở dưới âm phủ ,
phỏng có nên chăng ?
Câu Tiễn
nói xong lên xe về , bỏ lại thanh kiếm. Văn Chủng lấy xem chính là thanh kiếm
của Ngô Phù Sai đưa cho Ngũ Viên tự tử khi trước
Văn
Chủng vừa than thở vừa cười , rồi rút gươm tự vẫn. Câu Tiễn nghe tin mừng lắm
đem chôn Văn Chủng ở Ngọa Long Sơn.
LẠM BÀN :
1/. Hai
người phò tá Câu Tiễn lúc hoạn nạn là Phạm Lãi và Văn Chủng.
Thôn
tính xong nước Ngô , Phạm Lãi xin từ quan và viết thư khuyên Văn Chủng :
"Vua
Ngô có nói giống thỏ hết thì chó săn tất bị giết mỗ , địch quốc đã diệt thì mưu
thần chẳng còn . Ngài không nhớ hay sao? Vua Việt môi dài , mỏ quạ là
người
nhẫn tâm mà ghét kẻ có công. Cùng ở lúc hoạn nạn thì được chứ cùng lúc an lạc
thì không được. Nếu Ngài không đi tất có tai vạ."
Phạm Lãi
cao bay xa chạy nên không gặp tai họa , Văn Chủng chần chừ không quyết nên mang
họa vào thân.
2/. Biết
người và rút lui đúng lúc cũng là mưu kế phòng thân , bảo toàn thân danh và
mạng sống của nghề mưu sĩ.
KẾ THỨ
BA : TÙY TÂM SỞ DỤC ( tùy lòng ham muốn )
Tùy tâm
sở dục tức là tùy theo lòng ham muốn , không nên đem cái ham muốn của mình áp
đặt cho người. Tùy theo sở thích ham muốn của người thì thành công. Áp đặt sở
thích ham muốn của mình cho người thì không thành công.
Muốn
thực hiện kế này , phải biết rõ sự kết hợp giửa người với người : Vì đạo đức ,
vì chí hướng , vì của cải...
Biết
được sự kết hợp này thì muốn vào thì vào , muốn ra thì ra , muốn gần thì gần ,
muốn xa thì xa , muốn được thì được , muốn mất thì mất...nói cách khác là thực
hiện mưu kế 1 cách dễ dàng.
THÍ DỤ A
: GIÁ NGƯỜI THẤP HAY CAO.
Tô Tần ,
Trương Nghi từ khi từ tạ Quỷ Cốc Tiên sinh xuống núi , Trương Nghi thì về nước
Ngụy , Tô Tần thì về Lộc Dương.
Ở nhà
Tần còn có mẹ già , 1 anh 2 em , anh mất sớm , chỉ còn người chị dâu ở góa , 2
em là Tô Đại , Tô Lệ. Mấy năm cách mặt , ngày nay gặp lại , cả nhà ai nấy đều
vui mừng. Vài ngày sau, Tô Tần muốn đi chơi các nước , mới xin mẹ già cho bán
gia tài để làm hành phí , mẹ già , chị dâu hết sức can ngăn , nói rằng :
_ Quý Tử
không chịu cày cấy , buôn bán làm ăn , chỉ muốn đem mấy tấc lưỡi để kiếm giàu
sang , bỏ cái nghiệp đã thành cầu cái lợi chưa được , sau này nghèo túng còn
hối sao được ?
Tô Đại ,
Tô Lệ cũng nói rằng :
_ Anh
nếu giỏi thuật du thuyết , sao không đến thuyết ngay Chu Vương , cũng có thể
thành danh được ở bản hương , cần gì phải đi đâu xa ?
**********
Tô Tần
bị cả nhà ngăn trở , bèn đến xin yết kiến Chu Hiến Vương , bày tỏ cái thuật tự
cường , Vương mời lại ở quán xá ; tả hữu đều biết Tô Tần vốn con nhà làm ruộng
, ngờ chỉ là người nói hão huyền , không có thực dụng , không chịu cất nhắc với
Chu Hiến Vương.
Tô Tần
lưu lại quán xá đến hơn 1 năm trời không thể tiến thân được , bực tức bỏ về nhà
, bán hết gia sản được 100 dật hoàng kim , may được 1 cái áo lông điêu màu đen
, sắm sửa xe ngựa , có đủ kẻ hầu người hạ , rồi du lịch các nước ,xem hình thể
núi sông và phong tục nhân dân , rõ hết các điều lợi hại trong thiên hạ. Như
thế đến vài năm , mà vẫn chưa gặp Vua nào biết dùng ; Tô Tần nghe nói Vệ Ưởng
được phong làm Thương quân , được Tần Hiếu Công tin dùng lắm , bèn đi sang Hàm
Dương , nhưng đến nơi thì tần Hiếu Công đã mất , Thương Quân cũng chết , bèn
xin vào yết kiến Huệ Văn Vương.
Huệ Văn
Vương cho triệu Tần vào trong điện hỏi rằng :
_ Tiên
sinh không quản ngàn dặm xa xôi mà đến tệ ấp , chẳng hay có điều gì dạy bảo quả
nhân ?
Tô Tần
thưa rằng :
_ Tôi
nghe nói Đại Vương đòi chư hầu cắt đất để hiến cho nước Tần , ấy có phải muốn
ngồi yên mà kềm chế thiên hạ chăng ?
Huệ
Vương nopi1 :
_ Phải !
Tần nói
:
_ Đại
Vương Đông có Hàm Cốc , Hoàng Hà ; Tây có Hán Trung ; Nam có Ba Thục ;Bắc có Hồ
Lạc ; bốn mặt đều thiên hiểm ; đồng ruộng tốt có ngàn dặm , quân lính giỏi có
trăm vạn. Trên có cái Đức của Đại Vương , dưới có ức triệu sĩ dân , dựa vào đó
, tôi xin hiến mưu ra sức làm cho Đại Vương kiêm tính được chư hầu , thống nhất
thiên hạ thay nhà Chu mà xưng Đế dễ như trở bàn tay. Có lẽ nào cứ khoanh tay
ngồi yên mà thành sự được ?
Huệ Văn
Vương vừa mới giết Thương Ưởng xong , trong lòng vẫn ghét những tay du thuyết ,
bèn từ chối rằng :
_ Quả
nhân nghe nói lông cánh chưa đủ thì không thể bay cao. Những lời nói của tiên
sinh , tiếc rằng quả nhân ngày nay chưa đủ sức làm , vậy xin đợi vài năm nữa ,
binh lực đủ , bấy giờ sẽ bàn đến việc ấy.
Tô Tần
lui ra , lại đem cái thuật của tam vương ngũ bá dùng công mà chiếm được thiên
hạ chép thành 1 cuốn sách dày , cộng hơn 10 vạn chữ , hôm sau đem dâng Tần
Vương , Tần Vương cũng có xem , nhưng tuyệt nhiên không có ý lưu Tô Tần lại.
Tô Tần
lại đến yết kiến Tướng quốc Công Tôn Diễn , ông này có lòng ghen tài , không
chịu dẫn tiến.
Tô Tần ở
lại nước Tần hơn 1 năm , trăm dật hoàng kim đều đã dùng hết , chiếc áo lông
điêu màu đen cũng rách mướp , không còn biết xoay vào đâu , phải bán xe ngựa và
đầy tớ lấy tiền làm lộ phí , rồi quẩy khăn gói đi bộ về nhà.
Mẹ già
thấy bộ Tô Tần lúng túng thì đem lời mắng nhiếc ; vợ đang dệt cửi trông thấy cứ
ngồi yên , chẳng chạy ra chào hỏi ; Tần đói quá , xin chị dâu cho cơm ăn , chị
dâu chối là nhà không có củi , không chịu nấu cơm cho ăn.
Tần chảy
nước mắt nói rằng :
_ Người
ta mà nghèo hèn thì vợ không coi là chồng , chị dâu không còn coi là em , mẹ
không còn coi là con nữa. Đó là cái tội của ta !
**********
Rồi lục
tìm trong hòm sách , được quyển Thái Công Âm Phù , sực nhớ rằng Quỷ Cốc có nói
du thuyết không gặp , chỉ nên đọc cuốn sách này , tự khắc có tiến ích. Bèn đóng
cửa xem sách , suy tìm nghĩa kín cho bằng được , ngày đêm không nghĩ ; đêm mỏi
mệt quá muốn ngủ , thì tự cầm dùi đâm vào đùi máu chảy khắp chân. Khi hiểu hết
nghĩa lý tinh vi trong sách , lại xem hình thế các nước , xem xét kỹ càng , như
thế trong 1 năm , đại thế thiên hạ như được nắm trong bàn tay , liền tự an ủi
rằng :
_ Tần
này với sức học như thế , nay đem ra mà du thuyết với Vua các nước , há lại
chẳng thấy được ngôi khanh tướng , làm nên giàu sang ư ?
Tần bèn
bảo 2 em là Đại , Lệ rằng :
_ Sự học
của ta đã thành , có thể lấy giàu sang như bỡn , các em nên giúp ta món tiền
hành lý để ta du thuyết các nước , nếu có ngày xuất thân ta sẽ dắt các em.
Lại lấy
quyển Âm Phù giảng giải cho 2 em. Đại , Lệ cũng đều hiểu biết , nên giúp cho
Tần món tiền hành lý.
Tần từ
biệt mẹ , vợ và chị dâu , muốn đi sang nước Tần nhưng lại nghĩ rằng : Ngày nay
trong bảy nước chỉ có nước Tần là mạnh hơn cả , có thể giúp nên đế nghiệp ,
nhưng trước kia Vua Tần đã không chịu dùng ta , nay lại đến , nếu lại như trước
, thì còn mặt mũi nào trở về làng cũ nữa ? Bèn nghĩ 1 kế làm cho các nước
đồng
lòng hợp sức với nhau để nước Tần trở nên cô thế. Nghĩ vậy bèn sang nước Triệu.
Bấy giờ
Triệu Túc Hầu ở ngôi , em trai là Công Tử Thành là Tướng Quốc , gọi là Phụng
Dương , Phụng Dương quân không thích nghe.
***********
Tần bèn
bỏ Triệu sang Yên , xin vào yết kiến Yên Văn Công , nhưng những người tả hữu
chẳng ai giúp : Ở hơn 1 năm tiền lương đã cạn , phải nhịn đói ở nhà trọ , người
trong nhà trọ động lòng thương , cho vay 100 dồng tiền , Tần nhờ đó mà có cái
ăn. Bỗng gặp lúc Yên Văn Công đi chơi , Tần phủ phục bên đường. Văn Công hỏi họ
tên , biết là Tô Tần , mừng mà nói rằng :
_ Nghe
nói tiên sinh năm trước dâng 1 tập thư 10 vạn chữ cho Vua Tần , quả nhân lòng
hâm mộ , tiếc vì không được tập thư ấy , nay tiên sinh hạ cố đến , thực là may
cho nước Yên lắm !
Nói rồi
quay xe về triều , cho triệu Tần vào , cúi đầu mà xin lời dạy bảo.Tô
Tần tâu
rằng :
_ Đại
Vương ở trong hàng Chiến Quốc , đất vuông hai nghìn dặm , binh giáp vài mươi
vạn , xe 600 cỗ , ngựa 6000 con , nhưng so với Trung Nguyên thì không bằng một
nửa ; vậy mà tai không nghe tiếng ngựa sắt giáo vàng , mắt không thấy cái nguy
đổ xe chém tướng , được yên ổn như thế này Đại Vương có biết vì cớ gì không ?
Yên Văn
Công nói :
_ Quả
nhân không biết.
Tần lại
nói :
_ Nước
Yên sở dĩ không bị binh đao là nhờ có nước Triệu đứng che , Đại Vương không
biết kết giao với nước Triệu gần mà lại cắt đất để nịnh nước Tần xa chẳng là
dại lắm ư !
Yên Văn
Công nói :
_ Vậy
thì làm thế nào ?
Tần thưa
rằng :
_ Cứ như
ý ngu này , chi bằng kết thân với Triệu rồi kết liên với các nước , cùng nhau
hợp sức chống Tần , đó là cái yên trăm đời đó !
Yên Văn
Công nói :
_ Tiên
sinh muốn dùng kế hợp tung để yên nước Yên , đó là sở nguyện của quả nhân nhưng
sợ chư hầu không cùng lòng thì sao ?
Tần nói
:
_ Tôi
dẫu bất tài , xin diện kiến chư hầu để định tung ước.
Yên Văn
Công cả mừng , giúp vàng bạc và xe ngựa , sai tráng sĩ đưa Tần sang Triệu.
Bấy giờ
Phụng Dương quân Triệu Thành đã mất , Triệu Túc hầu nghe nước
Yên đưa
khách đến , bèn xuống thềm đón , nói rằng :
_ Thượng
khách hạ cố đến đây , có điều gì dạy bảo quả nhân ?
Tô Tần
tâu rằng :
_ Tôi
nghe nói hiền sĩ trong thiên hạ đều ngưỡng mộ cái đức của quân hầu và muốn bày
tỏ tâm phúc , chỉ vì Phụng Dương quân là người ghen ghét tài năng , cho nên
những du sĩ đều dừng chân không tiến , cuốn lưỡi không nói , nay Phụng Dương
quân đã mất , nên tôi mới đến dâng tấm ngu trung.
Tôi nghe
: Giữ nước không gì bằng yên dân , yên dân không gì bằng chọn nước mà giao
hiếu. Nay các nước ở Sơn Đông chỉ có Triệu là mạnh , đất rộng hơn hai nghìn dặm
, quân lính có vài mươi vạn , xe nghìn cỗ , ngựa vạn con , thóc đủ dùng trong
vài năm , Tần ghét nhất là Triệu , vậy mà không dám đánh Triệu là sợ có Hàn ,
Ngụy đánh úp ở đàng sau.
Cho nên
làm phên giậu phía nam cho nước Triệu là Hàn , Ngụy ; nhưng hai nước ấy không
có núi sông hiểm trở , một ngày kia quân Tần đánh lấn 2 nước , hai nước đầu
hàng thì họa sẽ đến nước Triệu ngay . Tôi thường xem xét địa đồ thấy đất đai
các nước hơn Tần ngàn dặm , quân sĩ các nước cũng nhiều gấp 10 Tần , nếu 6 nước
cùng hợp làm 1 , cùng nhằm về phía tây , thì phá Tần chẳng khó gì.
Nay nước
Tần hiếp bách các nước , bắt các nước cắt đất để cầu hòa. Không vì cớ gì mà cắt
đất đó là tự mình phá mình. Mình phá người và mình bị phá , trong 2 điều đó ,
điều nào là hơn.
Theo như
ý tôi , chi bằng ước với Vua các nước đến hợp ở Hằng Thủy , cùng nhau ăn thề ,
kết làm anh em , Tần đánh 1 nước thì 5 nước cùng cứu ; nếu nước nào trái lời thề
, thì các nước cùng đánh. Tần dẫu cường bạo , khi nào dám đem 1 nước cô thế để
tranh được , thua với cả thiên hạ ?
Triệu
Túc hầu nói :
_ Quả
nhân tuổi trẻ , nhận việc nước chưa được mấy năm , chưa hề được nghe diệu kế ,
nay thượng khách muốn hợp chư hầu để cự Tần , quả nhân xin 1 lòng nghe theo .
Rồi giao
ngay Tướng Ấn cho Tô tần , ban cho 1 tòa nhà lớn , lại cho trăm cỗ xe , nghìn
dật hoàng kim , trăm đôi bạch bích , gấm vóc nghìn tấm , cử là Tung Ước trưởng.
Tô Tần
đi sang nước Hàn , vào yết kiến Tuyên Huệ Công nói rằng :
_ Nước
Hàn rộng hơn 900 dặm , có vài mươi vạn quân , những cung nỏ cứng ở trong thiên
hạ , đều ở nước Hàn mà ra cả. Nay Đại Vương thờ Tần , tất Tần đòi cắt đất làm
tin , sang năm sẽ lại đòi nữa , đất cát của Hàn có hạn mà lòng tham của Tần vô
cùng ; hai ba lần Hàn phải cắt đất thì đất Hàn hết mất.
Tục ngữ
có nói : Thà làm đầu gà chớ làm đuôi trâu. Đại Vương có đức hiền , lại có` quân
mạnh mà chịu cái tiếng đuôi trâu , tôi lấy làm xấu hổ lắm !
Tuyên
Huệ Vương nói :
_ Quả
nhân xin đem cả nước mà nghe lời dạy của tiên sinh , theo thư ước của Triệu đã
định.
Rồi cũng
tặng Tô Tần trăm dật hoàng kim. Tô Tần lại lần lượt đi đến các nước Ngụy , Sở ,
Tề , đến nước nào cũng nói các lẽ lợi hại của nước ấy , kết cục bảo nên cùng
liên hợp cho mạnh sức để chống lại Tần. Vua nước nào cũng lấy làm phải và xin
theo như kế hợp tung của Tô Tần. Tần liền về báo với Triệu Túc Hầu.
***********
Khi Tần
đi qua Lạc Dương ,các nước đều sai sứ đi tiễn, nghi trượng cờ quạt, tiền hô hậu
ủng, xe ngựa và xe chở đồ nặng liên tiếp đến 20 dặm không hết, uy nghi không
khác gì đấng Vương giả; đi dọc đường, các quan viên đều ra lạy chào.
Chu Hiến
Vương nghe Tô Tần sắp đến , sai người quét dọn đường sá sạch sẽ và bày cung
trướng ở ngoài châu thành để đón.
Bà mẹ
già của Tần cũng chống gậy đi ra đường xem , 2 em trai , chị dâu và vợ tần đều
nghiêng mắt không dám trông lên , mphu4 phục cả ở ngoài bãi để đón.
Tô Tần
ngồi ở trong xe , hỏi chị dâu rằng :
- Trước
kia chị không nấu cơm cho tôi ăn , sao ngày nay lại cung kính quá như thế ?
Người
chị dâu nói :
- Tôi
thấy Quý Tử ngày nay ngôi cao và tiền nhiều , nên tôi kính sợ.
Tô Tần
ngậm ngùi than rằng :
- Tình
đới xem giá lạnh , giá người thành thấp cao , ta ngày nay mới biết sự giàu sang
là cần có lắm !
LẠM BÀN
:
1/. Qua
đoạn trích từ Vua chúa đến thứ dân mỗi người có mỗi sở thích khác
nhau:
mẹ, anh em, vợ của Tô Tần thích Tần học buôn bán cày ruộng, thích giàu có cao
sang. Tô Tần thì thích làm nghề du thuyết, làm khanh làm tướng.
Cùng 1
kế sách của Tô Tần, Vua Tần đọc không thích , Vua Yên đọc lại thích thú.
2/. Mối
quan hệ cũng khác nhau: Giửa Tô Tần với vợ , chị dâu , anh em không chỉ là ruột
thịt mà còn có sự quan hệ của danh vọng tiền bạc. Vì vậy Tô Tần mới ngậm ngùi
than: Tình đời giá lạnh, giá người thấp cao...
3/. Sự
liên minh của các nước là do lợi lộc.
Tô Tần
đã đánh trúng vào tâm lý hám lợi của các Vua chúa. Có người cho rằng hợp tung
liên hoành lấy lợi lộc làm đầu. Liên kết với nhau là do lợi lộc. Tan rã cũng do
vàng bạc. Thuyết dĩ lợi vi tiên, chữ lợi làm đầu đời nào cũng có, nhưng có lẽ
thời chiến quốc là thịnh hành và náo nhiệt nhất.
Có nước
vừa uống máu ăn thề liên minh với nhau , nhưng máu chưa khô thì đã bội ước. đám
mưu sĩ hợp bàn với nhau để chống liên minh của nước khác chẳng qua là kiếm danh
vọng lợi lộc. Khi bị vàng bạc chi phối, há miệng mắc quai, thì ai đi đường nấy.
4/. Xét
cho cùng, sở thích của con người tạo sức mạnh. Biết đánh trúng vào sở thích của
1 cá nhân cũng là 1 mưu kế.
THÍ DỤ B : LƯỠI CÒN LÀ ĐỦ .
Trương
Nghi du thuyết bị tướng nước Sở nghi ăn cắp ngọc đánh cho gần chết. Về được
nhà, vợ nhiếc mắng:
- Hừ !
Không đọc sách, không du thuyết thì đâu có cái nhục này !
Trương
Nghi bảo vợ :
_ Thử
xem lưỡi ta còn hay mất ?
Người vợ
cười đáp :
_ Còn
đấy !
Trương
Nghi nói :
_ Thế là
đủ !
LẠM BÀN
:
Xét Tô
Tần và Trương Nghi chí hướng , sở thích đọc sách , làm nghề du thuyết giống
nhau.
Xét về 2
bà vợ , thì vợ Trương Nghi có vẻ vui tính , xởi lởi hơn vợ Tô Tần.
CHƯƠNG BỐN :
HƯ KHÍCH CHI SÁCH
(SÁCH LƯỢC TÌM KẺ HỞ )
Hư khích
là vết nứt , khe hở , kẽ hở. Là sách lược tìm ra vết nứt , khe hở , kẽ hở ,
hoặc tạo ra sự rạn nứt , chia rẽ trong nội bộ hàng ngũ đối phương . Kẽ hở càng
to , sự rạn nứt , chia rẽ càng lớn thì đối phương càng suy yếu , nhân đó mà
thôn tính.
Nói cách
khác là tìm cách ly gián nội bộ đối phương , được áp dụng trong ngoại giao và
quân sự.
1/. Theo
qui luật vạn vật sinh rồi diệt , con người có hợp thì có tan. Trong quá trình
sinh diệt hợp tan tất nhiên là sẽ sinh ra vết rạn,vết nứt. Nếu không quan sát ,
nghiên cứu thì khó phát hiện được vết rạn và vết nứt.
2/.
Thông thường sự rạn nứt , chia rẽ được biểu hiện : Thiên hạ không có minh chủ ,
đạo đức của các chư hầu suy đồi. Những bậc thánh nhân , những người trung lương
lui về thoái ẩn , bọn tiểu nhân đắc chí ngênh ngang.
Kỷ cương
đất nước tan rã . Nhân dân kết bè , kết đảng công kích sát phạt lẫn nhau , chém
giết nhau , nhiều người không chốn nương thân. Gia đình cha con ly tán , vợ
chồng bất hòa.
3/. Vì
thế trong việc trị nước luôn luôn quan sát , nghiên cứu , nếu có vết rạn nứt ,
hiện tượng chia rẽ manh nha thì phải tìm cách ngăn chận , đề kháng , nếu cần
phải trấn áp và tiêu diệt , không để sự nứt rạn chia rẽ ngày càng phát triển.
4/. Sách
lược này có 4 kế :
_ Làm
cho đối phương nghi ngờ nhau _ Công bố nghi vấn.
_ Khoảng
giửa hư và thực _ Hư thực chi gian.
_ Sắc
đẹp phụ nữ nguy hiểm như dao kiếm _ Nữ sắc như dao.
_ Thấy
trước sự việc Kiến ngự tri trước.
KẾ THỨ NHẤT:
CÔNG BỐ NGHI VẤN (làm cho đối phương nghi ngờ nhau).
Công bố
nghi vấn là làm cho đối phương nghi ngờ lẫn nhau, nghi kỵ và chia rẽ. Là phân
quyền để chuyên quyền. Phá vỡ sự liên kết, liên minh của đối phương và củng cố
thêm lực lượng liên minh, liên kết của mình để đánh bại đối phương.
Trong
gia đình vợ chồng nghi ngờ nhau thì tan rã. Trong 1 nước nghi ngờ thần tử thì
không còn sức mạnh.
THÍ DỤ A: SỨC MẠNH CỦA VÀNG
Hán, Sở tranh hùng; Sở tấn công gấp, phá đường
vận lương của Hán, vây Hán Vương ở Vinh Dương. Đôi bên giằng co mãi, Hán Vương
lấy làm lo, xin cắt đất từ Vinh Dương trở về Tây để cầu hòa. Hạng Vương không
nghe. Hán Vương nói với Trần Bình:
- Thiên
hạ rối bời , bao giờ mới yên ?
Trần
Bình nói :
- Hạng
Vương là người lễ độ và yêu người, những kẻ sĩ tiết tháo và hiếu lễ về với ông
ta thì nhiều. Nhưng khi luận công phong tước thì ông ta lại tỏ ra hẹp hòi, cho
nên nhiều người không tán thành.
Đại
Vương đây thì khinh mạn, sống sượng, những kẻ sĩ tiết tháo không tới giúp,
nhưng Đại Vương phong thưởng rộng rãi, chính vì vậy mà những kẻ sĩ ngoan độn,
ham lợi, vô sĩ phần nhiều xu phụ Đại Vương.
Nếu Đại
Vương bỏ được cả 2 sở đoản mà thái thủ được cả 2 sở trường thì việc bình định
thiên hạ cũng dễ và lẹ. Nhưng Đại Vương khinh người quá đỗi, không thu dụng
được những kẻ sĩ tiết tháo. Về phía Sở, vẫn có thể có mầm loạn. Đám bầy tôi
trung trực của Hạng Vương bất quá chỉ có mấy người, đại khái như Á Phụ, Chung
Li Muội, Long Thư , Chu Ân.
Nếu Đại
Vương chịu bỏ ra vài vạn cân vàng để thi hành kế phản gián, ly khai Vua tôi họ
với nhau , làm cho họ ngờ vực lẫn nhau, thì Hạng Vương vốn là người đa nghi va
tin lời gièm pha, trong nội bộ họ tất sẽ xảy ra cái việc chém giết lẫn nhau.
Thừa
dịp, Hán sẽ cất quân tấn công, và việc phá tan Sở là việc chắc chắn.
*********
Hán
Vương cho là phải, bỏ ra bốn vạn cân vàng , giao cho Trần Bình tùy ý sử dụng,
muốn làm gì thì làm , không cần tính toán.
Tung
vàng ra phản gián quân Sở rồi, Trần Bình công khai tuyên bố rằng những tướng
lãnh của Sở như bọn Chung Li Muội lập được nhiều công trạng mà vẫn không được
chia đất, phong Vương, cho nên họ muốn hợp lực với nhà Hán mà diệt họ Hạng để
được phong Vương, cùng chia đất Sở.
Quả
nhiên, Hạng vương không tin bọn Chung Li Muội nữa. Sinh nghi rồi, Hạng Vương
sai sứ sang Hán. Hán Vương đãi sứ bằng cỗ thái lao. Lúc tiếp kiến sứ giả, Hán
Vương giả vờ kinh ngạc, nói :
- Ta ngỡ
là sứ giả của Á Phụ (tức Phạm Tăng), hóa ra sứ giả của Hạng Vương.
Rồi cho
bưng mâm cỗ thái lao đi mà chỉ thết sứ giả của Sở 1 bữa cơm rau tồi tệ, sứ giả
về báo cáo hết với Sở Vương. Quả nhiên Sở Vương ngờ vực Á Phụ. Á Phụ muốn tấn
công , hạ gấp thành Vinh Dương, Hạng Vương không tin, không chịu nghe. Biết bị
Hạng Vương ngờ, Á Phụ giận nói :
- Việc
thiên hạ êm đẹp lắm rồi, xin Đại Vương tự lo liệu lấy, cho phép nắm xương tàn
này được rút lui.
Á Phụ ra
đi, chưa tới Bành Thành thì lên hậu bối, chết.
Trần
Bình cho 2000 đàn bà con gái đang đêm theo cửa Đông thành Vinh Dương kéo ra.
Quân Sở được dịp vây đánh. Trần Bình bèn cùng Hán Vương đang đêm theo cửa Tây
ra thoát thành Vinh Dương. Vào Hàm Cốc thu thập tàn quân , Hán Vương lại tiến
sang Đông...
Theo kỳ
kế của Trần Bình , rốt cuộc Hán diệt xong Sở.
LẠM BÀN :
1/. Tình
hình của Hán , Lưu Bang , rất nguy ngập , bị bao vây , bị cắt đường vận lương ,
giảng hòa Sở lại không chịu. Nhưng Lưu Bang thoát hiểm , tranh được thiên hạ là
nhờ kế của Trần Bình.
2/. Trần
Bình phân tích ưu khuyết về cá tính, sở trường sở đoản của Lưu Bang và Hạng Vũ,
vừa phân tích về liên minh của 2 bên, và đưa ra kế ly gián.
Một
khuyết điểm nghiêm trọng nhất của Hạng Vũ là keo kiệt và đa nghi, đã làm cho
Hạng Vũ mất Chung Li Muội và phạm Tăng, bỏ lỡ cơ hội bắt Lưu Bang. Rơi vào thế
thả hổ về rừng, thả rồng ra bể, dẫn đến bi kịch trận Cai Hạ.
3/. Có
người cho rằng Lưu Bang là tên vô lại , lưu manh , nhưng ưu điểm của Lưu Bang
là biết nghe lời mưu sĩ , kể cả những lời nói thẳng về sở đoản và khuyết điểm
của mình như lời Trần Bình.
Lưu Bang
hơn người là biết kềm chế cá tính của mình. Ví dụ khi nghe Hàn Tín không đem
quân cứu viện còn đòi xưng Vương , Lưu Bang tức giận chửi toáng lên. trần Bình
đá nhẹ vào chân. Thế là Lưu Bang đổi giận làm vui phong Hàn Tín làm Vua. Sau
khi lấy được thiên hạ lừa cơ hội bắt và luộc Hàn Tín. Tín chỉ có việc than trời
trách đất.
4/. Kế
này còn gọi là kế phản gián. Binh pháp chia ra nhiều loại : nhân gián , nội
gián , phản gián , tử gián , sinh gián.
a/ Nhân
gián là dùng người bản xứ làm gián điệp.
b/ Nội
gián là mua chuộc quan chức nước đối phương cung cấp tình hình.
c/ Phản
gián thu phục gián điệp của địch để làm việc cho mình.
d/ Tử
gián là cố tạo nguồn tin, tiết lộ bí mật của mình cho địch biết. Khi địch phát
hiện không phải là tin thật có thể giết kẻ đưa tin.
e/. Sinh
gián là lợi dụng 1 số người có thể tự do ra vào đất địch để nắm tin tức.
Trong
mối liên kết của con người có nhiều hình thức vì nhân nghĩa, vì cùng mục đích,
nhưng cũng không ít người liên kết với nhau vì quyền lợi. Căn bản của thuật
phản gián hoặc công bố nghi vấn là đánh vào lòng hám lợi của con người. Lợi lóa
mắt sẽ quên hết nghĩa.
Bốn vạn
cân vàng làm chia rẽ Vua tôi của Hạng Vũ không phải là đắt , để sau này nuốt
chửng cả đất của Sở Vương.
Trong
lịch sử không ai coi thường và khinh bĩ lòng hám lợi, tham vàng của bọn mưu sĩ
bằng Phạm Tuy, ông so sánh họ với đàn chó và miếng xương.
THÍ DỤ B : ĐÀN CHÓ VÀ MIẾNG XƯƠNG
Mưu sĩ
các chư hầu tụ tập ở nước Triệu , bàn việc hợp tung muốn liên kết nhau để đánh
nước Tần. Vua tần có ý sợ . Tướng Tần là Ứng Hầu Phạm nói :
_ Đại
vương hà tất phải lo , để thần đi làm tan rã bọn họ. Nước Tần không có oán thù
gì với các mưu sĩ chư hầu. Họ tụ tập nhau để đối p[hó với Tần chẳng qua hòng
kiếm chút vinh hoa phú quý mà thôi. Đại Vương có thấy đàn chó của Đại Vương
không ?
Con nằm
, con đứng , con ngồi im 1 chỗ , chúng không hề tranh giành nhau. Nhưng nếu Đại
Vương vất miếng xương , chúng sẽ tranh giành , cắn xé nhau chí tử.
Thế là
Vua Tần sai Đường Miêu dẫn đội nhạc đem theo 5000 lạng vàng , đóng quân ở Võ An
ngày ngày đãi bọn mưu sĩ.
Đường
Miêu chưa tiêu hết 3000 lạng vàng mưu sĩ các chư hầu đã cãi cọ tranh giành nhau
, không còn ai bàn đến chuyện hợp tung đánh Tần.
KẾ THỨ
HAI : HƯ THỰC CHI GIAN ( kẽ hở giửa hư và thực )
Hư thực
chi gian tức là kẽ hở giửa hư và thực. Trong khoảnh khắc làm cho đối phương
không phân biệt đâu là thực đâu là hư , đâm ra lúng túng , hoang mang.
Khi đối
phương hoang mang , lúng túng thì bộc lộ yếu điểm , thừa cơ đánh vào yếu điểm
thì địch thất bại.
Kế này
dựa trên nguyên tắc vận động sinh diệt , hợp ly của vạn vật. Trong quá trình
vận động thì sẽ sinh ra kẽ hở.
THÍ DỤ :
TÊN KHÔNG RỜI DÂY CUNG MÀ CHẾT NGƯỜI .
Đấu Việt
Tiêu và Dưỡng Do Cơ , hai người bắn cung rất giỏi , thách đấu ở bên bờ sông ,
mỗi người bắn ba phát , ai may thì sống ai chết thì chịu.
Đấu Việt
Tiêu đứng ở nhịp cầu bên kia , giương cung bắn ngay 1 phát , tưởng rằng Dưỡng
Do Cơ sẽ lộn cổ xuống sông mà chết. Không ngờ Dưỡng Do Cơ tay cầm đốc cung gạt
1 cái , mũi tên rơi xuống sông.
Dưỡng Do
Cơ lại quát to :
_ Bắn
nữa đi ! Bắn nữa đi !
Đấu Việt
Tiêu giương cung nhằm thẳng vào Dưỡng Do Cơ bắn luôn 1 phát nữa. Dưỡng Do Cơ
ngồi sụp xuống , mũi tên vút qua đầu bay thẳng. Đấu Việt Tiêu nói :
_ Nhà
ngươi nói tránh là không giỏi , sao còn ngồi sụp xuống , không phải là trượng
phu !
Dưỡng Do
Cơ nói :
_ Quan
lệnh doãn bắn 1 phát nữa , đến phát này thì tôi không dám tránh .
Đấu Việt
Tiêu nghĩ thầm : Phát này chắc trúng.
Dưỡng Do
Cơ đứng vững 2 chân , không cựa quậy. Chờ mũi tên đến há mồm cắn chặt mũi tên.
Đấu Việt
Tiêu bắn hết 3 mũi tên không giết được Dưỡng Do Cơ nên rất sợ hãi , nhưng trót
đã giao ước phải đứng cho Dưỡng Do Cơ bắn trả.
Dưỡng Do
Cơ giả cách giương cung bắn nhưng tay vẫn giử nguyên lấy tên.
Đấu Việt
Tiêu nghe tiếng dây cung nghiêng mình né tránh về phía trái.
Dưỡng Do
CƠ lại giương cung , Đấu Việt Tiêu lại né tránh về phía phải.
Thừa cơ
Đấu Việt Tiêu né tránh Dưỡng Do Cơ buông tên, mũi tên xuyên qua sọ. Đấu Việt
Tiêu chết tại trận.
LẠM BÀN :
1/. Về
nghề bắn tên bách phát bách trúng , chưa chắc Dưỡng Do Cơ đã hơn Đấu Việt Tiêu.
Đấu Việt
Tiêu tốn hết 3 mũi tên không hạ được Dưỡng Do Cơ vì Đấu Việt Tiêu chỉ ỷ vào tài
bắn , không áp dụng mưu kế.
Dưỡng Do
Cơ vừa có nghề bắn tên vừa ứng dụng mưu kế thực hư , hư thực , thực thực , hư
hư...làm cho đối phương hoang mang , lúng túng , không biết đâu mà né tránh.
Chỉ cần 1 mũi tên để kết liễu Đấu Việt Tiêu. Mưu kế gắn liền với sở trường thì
sức mạnh tăng lên gấp bội.
2/. Mưu
kế làm cho đối phương không phân biệt đâu là thật , đâu là giả quả là lợi hại.
Khi đã không phân biệt được thực giả thì có kẽ hở , nhằm vào kẽ hở ấy mà đánh
thì giành được thắng lợi. Ai trúng mũi tên độc hiểm này cũng phải chuộc lấy
thất bại không chỉ 1 mình Đấu Việt Tiêu.
3/. Dùng
quân không thể không yếm trá , lừa dối , trong cuộc đấu sinh tử cũng không thể
trách Dưỡng Do Cơ là không phải kẻ trượng phu. Đấu Việt Tiêu có tài năng nhưng
không có mưu kế cũng phải chịu chết.
4/. Con
người có kẻ thích yên tĩnh , có kẻ thích hành động , có người hám danh , có kẻ
hám lợi , có người chính trực , có kẻ xiểm nịnh , có người thích nơi sáng láng
, có kẻ thích u tối.
Muốn
thắng đối phương phải biết yếu điểm của đối phương và đánh vào yếu điểm của đối
phương.
KẾ THỨ
BA : NỮ SẮC NHƯ ĐAO ( sắc đẹp phụ nữ như đao kiếm )
Sắc đẹp
của người phụ nữ nguy hiểm như đao kiếm , có thể giết chết người ta.
Kế này
dựa vào nguyên tắc từ những vết nứt rạn. Mỗi ngày rạn nứt một chút, ngày qua
ngày vết rạn lớn hơn , và cứ thế đến một lúc nào đó sẽ vỡ nát.
Con
người có sự cố kết bên trong , có thể dùng sắc đẹp hoắc tiền tài để phá vỡ sự
cố kết ấy.
THÍ DỤ A
: NẾU LÀ VỢ NGƯơI , NGƯƠI CÓ ĐEM CHO NGƯỜI KHÁC KHÔNG ?
Vương
Doãn quỳ xuống trước mặt Điêu Thuyền nói :
_ Hiện
nay trăm họ như treo ngược , vua tôi ngất ngưởng như trứng chồng, thật nguy cấp,
phi con không ai cứu được. tặc thần Đổng Trác sắp cướp ngôi vua. Văn vũ trong
triều không ai nghĩ được kế gì. Đổng Trác có một thằng con nuôi là Lã Bố, sức
khoẻ lạ thường. Ta xem hai đứa cùng là tuồng hiếu sắc. Nat ta dùng một kế liên
hoàn : Trước đem con gả cho Lã Bố, sau đem dâng cho Đổng Trác. Con ở trong tùy cơ
lập kế li gián hại bố con nó, xui khiến thế nào cho Lã Bố giết Đổng Trác để trừ
kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Đó là sức con, con nghĩ thế nào
?
Thuyền
thưa :
_ Con
xin thưa, dẫu chết con cũng không từ. Xin đem ngay con dâng cho nó, con sẽ lập
mưu ở trong. Doãn nói:
_ Việc
này nếu tiết lộ họ nhà ta sẽ chết hết !
Thuyền
thưa rằng :
_ Xin
cha chớ lo. Nếu con không báo đền được nghĩa lớn, con sẽ chết dưới muôn ngàn
ngọn giáo.
Doãn lạy
tạ.
*****
Hôm sau,
Doãn sai người đem ngọc minh châu xưa nay vẫn cất kỹ một nơi, gọi thợ khéo làm
một cỗ mũ vàng , mật sai người đem biếu Lã Bố.
Bố mừng
rỡ, thân đến nhà Doãn tạ ơn.
Doãn làm
sẵn của NGON VẬT LẠ ĐỢI BỐ ĐẾN. DOÃN RA ĐÓN RƯỚC VÀO HẬU ĐƯỜNG, MỜI NGỒI LÊN
TRÊN.
Bố nói :
_ Tôi là
một tiểu tướng ở trong phủ, Tư Dồ là đại thần trong triều, sao lại quá tôn kính
như vậy ?
Doãn nói
:
_ Nay
thiên hạ không có ai là anh hùng. Tôi chỉ thấy duy tướng quân mà thôi. Tôi tỏ
lòng tôn kính không phải là tôn kính cái chức tước của tướng quân, mà là tôn
kính cái tài của tướng quân đó.
Bố mừng
lắm.
Doãn
khẩn khoản mời rượu khen lấy khen để mãi cái đức của Đổng thái sư và cái tài Lã
Bố.
Bố cười
vang và uống rượu thỏa thích. Bấy giờ Doãn mới đuổi đầy tớ lui ra, chỉ để vài
người tý thiếp đứng hầu rượu.
Khi Bố
đã ngà ngà say, Doãn mới truyền rằng :
_ Gọi con
em nó ra đây !
Một lát
hai thị tỳ dìu Điêu Thuyền thật lộng lẫy bước ra. Lã Bố trông thấy giật mình
hỏi :
_ Người
nào vậy ?
Doãn nói
:
_ Đó là
con gái nhỏ của lão , tên Điêu Thuyền. Lão nay được ơn tướng quân có lòng hạ cố
mà coi như chỗ chí thân, nên lão sai nó ra để chào tướng quân.
Nói xong,
liền sai Điêu Thuyền bưng chén rượu mời.
Thuyền
nâng rượu mời Lã Bố. Hai bên nhìn nhau đầu mày cuối mắt.
Vương
Doãn giả say , nói :
_ Con
mời tướng quân uống vài chén con nhé ! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân
đấy !
Bố mời
Thuyền ngồi, Thuyền giả cách thẹn thùng , muốn lui vào. Doãn nói:
_ Tướng
quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại.
Thuyền
khép nép , ngồi bên cạnh Doãn.
Lã Bố
nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài vài chén.
Doãn mới
trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lã Bố rằng :
_ Lão
vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tỳ thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ
cố thướng đến không ?
Bố nghe
nói vội vàng đứng dậy , ra ngoài chiếu , tạ mà nói rằng :
_ Nếu
được như thế , tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu.
Doãn nói
:
- Nay
mai xin chọn ngày lành tháng tốt , đưa nó đến phủ tướng quân.
Lã Bố
mừng hớn hở , đưa mắt nhin Điêu Thuyền. Điêu Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp
lại.
Một chốc
tiệc tan , Doãn nói :
- Lão
phu muốn mời tướng quân nghỉ lại đây chơi , nhưng sợ thái sư sinh nghi.
Bố hai
ba lần tạ đi tạ lại, rồi lui về.
*****
Được vài
hôm, Vương Doãn ở trong triều gặp Đổng Trác, nhân không có Lã Bố ở đấy bèn thụp
xuống đất lạy, nói rằng :
- Tôi
muốn rước Thái sư quá bước lại nhà tôi xơi chén rượu, nhưng không biết Thái sư
có lòng hạ cố chăng ?
Trác nói
:
- Được
quan Tư Đồ mời, tôi xin đến ngay.
Doãn lạy
tạ, về nhà trang hoàng nhà cửa lịch sự, bày đủ các sơn hào hải vị; giửa gian
sảnh, kê một cái sạp; gấm, vóc rải cả xuống đất; trong ngoài trướng rủ màn che.
Buổi
trưa hôm sau, Đổng Trác đến. Doãn mặc áo đại trào ra đón, lạy hai lạy rồi mới vào.
Trác
xuống xe, tả hữu hơn một trăm người vác kích đi thẳng vào nhà, đứng xếp thành
hai hàng.
Doãn
xuống dưới thềm lạy hai lạy. Trác sai người dắt Doãn lên ngồi bên cạnh.
Doãn nói
:
- Công
đức Thái sư to lắm ! Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng!
Trác
mừng lắm. Doãn sai tấu nhạc và dâng rượu, rất là cung kính.
Đến
chiều Trác uống rượu đã say, Doãn mời Trác vào nhà trong. Trác quát giáp sĩ lui
ra. Doãn bưng một chén rượu, mừng Trác rằng :
- Chúng
tôi thuở nhỏ có học thiên văn, đêm xem tượng trời, thấy khí số nhà Hán đã hết.
Thái sư công đức đã vang lừng cả thiên hạ.
Ngày xưa
, vua Thuấn nối ngôi Nghiêu , vua Vũ nối ngôi cho vua Thuấn.
Thế là
hợp lòng trời và lòng người lắm.
Trác nói
:
_ Ta có
đâu dám mong như thế !
Doãn nói
:
_ Xưa
nay người có đạo thay người vô đạo , người không có đức nhường người có đức ,
có gì là không đúng.
Trác
cười và nói rằng :
_ Nếu
mệnh trời về ta , Tư Đồ phải làm nguyên huân.
Doãn lạy
tạ.
Bấy giờ
đèn nến đốt sáng choang , chỉ có mấy đứa hầu gái đứng hầu rượu và dâng thức ăn.
Doãn nói
:
_ Phường
nhạc không đáng đem ra cung phụng Thái sư. Nay có một con hát của nhà , xin
Thái sư cho phép được gọi ra hầu.
Trác nói
:
_ Hay
lắm !
Doãn mới
sai kéo bức màn ra , đàn sáo vang lừng , Điêu Thuyền đứng ở ngoài mành lượn múa
dịu dàng , ở ngoài trông vào thực là ngoạn mục.
Điêu
Thuyền múa xong , Trác gọi lại gần.
Điêu
Thuyền ở ngoài thềm đi vào , lạy hai lạy.
Trác
thấy Điêu Thuyền dung nhan xinh đẹp bèn hỏi Doãn :
_ Con bé
này là thế nào ?
Vương
Doãn thưa :
_ Bẩm ,
nó là con hát ở phủ , tên là Điêu Thuyền.
Trác hỏi
:
_ Biết
hát không ?
Doãn sai
Diêu Thuyền gõ nhịp hát một bài.
Đổng
Trác khen nức nở.
Doãn sai
Thuyền dâng rượu. Trác hỏi :
- Xuân
xanh năm nay bao nhiêu ?
Thuyền
thưa :
- Tuổi
tiện thiếp vừa đôi tám.
Trác
cười nói rằng :
- Thật
là người chốn thần tiên.
Doãn
đứng dậy thưa rằng :
- Chúng
tôi có ý muốn đem dâng lên Thái sư , không biết Thái sư có nhận cho không ?
Đổng Trác
nói :
- Ơn ấy
ta biết lấy gì báo lại.
Doãn nói
:
- Nếu nó
được hầu hạ Thái sư thì thực phúc to cho tôi lắm.
Trác cảm
ơn hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Điêu Thuyền đến tướng phủ.
Trác
đứng dậy cáo từ. Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về.
Doãn cưỡi
ngựa về đến nửa đường, trông thấy hai bên đường có đèn đỏ, ở giữa là Lã Bố,
cưỡi ngựa cầm kích đi lại. Lúc Vương Doãn đến. Bố dừng ngựa, một tay lấy áo
Vương Doãn rồi hỏi to rằng:
-Tư Đồ
đã gả Điêu Thuyền cho ta, nay lại đem Điêu Thuyền dâng cho thái sư, sao lại đùa
như thế ?
Doãn vội
vàng ngăn Lã Bố lại, nói rằng:
-Nói
chuyện ở đây không tiện, xin ngài hãy quá bước lại nhà lão phu.
Bố theo
Doãn về. Hai người dắt nhau vào nhà trong. Chào hỏi xong Doãn
nói:
-Sao
tướng quân lại trách lão? Bố nói:
-Có
người nói với ta rằng tư đồ dùng xe đưa Điêu Thuyền vào tận tướng phủ, là cớ
làm sao?
Doãn
thưa:
-Rõ khổ,
tướng quân không biết ! Hôm qua ở triều, thái sư bảo tôi rằng: "Ta có một
việc phải đến nhà ngươi". Vậy tôi có sửa soạn tiệc nhỏ đón tiếp. Trong khi
uống rượu, thái sư hỏi: "Ta nghe người có con gái tên là Điêu Thuyền, đã
gả cho con ta là Lã Phụng Tiên. Có thực không? Đem con lão ra đây cho ta
coi!" Tôi không dám không vâng lệnh, phải gọi Điêu Thuyền ra lạy bố chồng,
thái sư lại truyền rằng: "Hôm nay tốt ngày, để ta đem Điêu Thuyền về cho
Phụng Tiên."
Tướng
quân nghĩ xem thái sư thân hành đến nơi truyền bảo, lão phu sao dám cản trở!
Lã Bố
nói:
-Quan tư
đồ không có lỗi gì, tôi trót nghĩ lầm.Ngày mai tôi xim mang roi đến chịu tôi.
Doãn lại
nói:
-Con tôi
có ít nữ trang. Khi nào nó về phủ tướng quân, tôi sẽ mang đến. Lã Bố tạ rồi về.
Sáng hôm
sau, Bố về nhà nghe ngóng, chẳng thấy tin tức gì bèn sang tướng phủ vào thẳng
nhà trong hỏi tin những người hầu.
Một
người thưa:
-Đêm qua
thái sư cùng nghỉ với người hầu mới, bây giờ chưa dậy. Bố giận lắm, lẻn vào sau
buồng nằm của Đổng Trác để dò xem.
Bấy giờ
Điêu Thuyền đã dậy rồi đang ngồi trong cửa sổ chải đầu, chợt trông xuống ao
trước cửa sổ thấy bóng người cao lớn, đầu đội mũ bịt tóc, biết ngay là Lã Bố,
Điêu Thuyền cố ý chau mày làm ra dáng buồn bã, tay cầm khăn thi thoảng nâng lên
lau nước mắt.
Lã Bố
đứng nhìn hồi lâu rồi trở ra, một lát lại vào.
Đổng
Trác ngồi ở trung đường, thấy bố đến, hỏi rằng:
-Ở ngoài
có việc gì chứ? Bố thưa:
-Không!
Rồi đứng
hầu một bên. Trác ăn cơm. bố liếc mắt dòm trộm. Thấy trong rèm có người con gái
đi đi lại lại hơi thò nửa mặt ngoảnh ra ngoài liếc mắt đưa tình. Bố biết là
Điêu Thuyền tâm thần mê mẩn. Trác nhìn thấy dáng điệu của Bố như vậy trong lòng
nghi hoặc liền bảo rằng:
-Phụng
tiên không có việc gì hãy lui ra ! Lã Bố bực bỏ ra.
Trác từ
khi được Điêu Thuyền hơn một tháng trời không coi gì đến việc quan. Một bữa
Trác hơi khó ở, Điêu Thuyền hết lòng hầu hạ, mặc áo không lúc nào cởi đai, cố ý
chiều chuộng. Trác lại càng yêu quý hơn nữa.
Một hôm,
Lã Bố vào thăm gặp lúc Đổng Trác đang ngủ, Điêu Thuyền đứng ở sau giường thò
nửa người ra, trông thấy bố lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Đổng Trác
và luôn luôn gạt nước mắt.
Bố cảm
thấy ruột như nát ra thành từng mảnh.
Trác
nằm, hai mắt lim dim, thấy Lã Bố nhìn chòng chọc về phía sau chỗ mình nằm, quay
lại thì thấy Điêu Thuyền đứng ở sau giường. Trác nổi giận mắng Bố rằng:
- Mày
dám ghẹo vợ yêu của tao à?
Bèn sai
tả hữu đuổi Lã Bố ra và từ nay cấm vào nhà trong. Lã Bố tức giận trở về, đi
đường gặp Lí Nho, kể lại đầu đuôi.
Nho lập
tức vào ra mắt Đổng Trác, nói rằng:
-Thái sư
muốn lấy thiên hạ, sao lại vì một việc nhỏ mọn mà trách mắng Lã Ôn Hầu. Nếu y
thay lòng đổi dạ, việc lớn hỏng mất.
Trác
hỏi:
-Bây giờ
nên làm thế nào? Nho nói :
-Sớm mai
gọi y vào, cho vàng lụa, dùng lời ngọt ngào an ủi y thì sẽ không có việc gì xảy
ra nữa.
Trác
nghe lời, hôm sau cho gọi Lã Bố vào nhà trong bảo rằng:
-Hôm qua
trong cơn đau yếu, tinh thần hoảng hốt ta có nói mấy câu, nhà ngươi đừng để
bụng.
Nói rồi,
sai đưa cho Lã Bố mười cân vàng và hai mươi tấm gấm.
Bố lạy
tạ rồi ra về, nhưng từ lúc ấy tuy đứng hầu ở bên đổng Trác, mà ruột gan lúc nào
cũng vơ vẩn xung quanh Điêu Thuyền.
Khi Trác
đã khỏi bệnh, vào triều bàn việc, Bố vẫn cầm kích đi theo.
Một bữa,
Trác đang ngồi bàn việc với vua Hiến Đế, Bố vác kích lẻn ra cửa sau, lên ngựa
chạy đến tướng phủ, buộc ngựa ở cửa phủ, cầm kích vào thẳng hậu đường để tìm
Điêu Thuyền.
Thuyền
bảo:
-Hãy ra
vườn sau bên đình Phượng Nghi đợi thiếp!
Bố vác
kích đi trước, đứng bên bao lơn ở dưới đình chờ một hồi lâu, thấy Điêu Thuyền
rẽ hoa gạt liễu đi đến, chẳng khác gì tiên trên cung trăng. Thuyền sụt sìu khóc
bảo Bố rằng:
-Tiện
thiếp tuy không phải Vương tư đồ sinh ra, nhưng tư đồ coi thiếp như con đẻ. Từ
khi gặp tướng quân được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn
nguyện lắm.
Ngờ đâu
thái sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận không chết ngay được,
chỉ vì chưa gặp được tướng quân để từ giã lần cuối cùng, cho nên còn nhịn nhục
sống đến bây giờ. Nay mai được gặp nhau, thế là hả rồi. Tấm thân nhơ nhuốc này
không xứng đáng thờ người anh hùng, thiếp xin chết ở trước mặt chàng để tỏ rõ
tấm lòng thiếp!
Điêu
Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống.
Lã Bố
vội vàng ôm ngay lấy Điêu Thuyền, khóc nói rằng:
-Lòng
nàg tôi biết đã lâu, chỉ hiềm chưa được nói với nhau đấy thôi!
Điêu
Thuyền gạt tay Lã Bố ra, nói rằng:
-Kiếp
này thiếp không được làm vợ chàng, xin hẹn để kiếp sau!
Lã Bố
nói:
-Nếu
kiếp này không lấy được nàng, tôi không phải là người anh hùng nữa.
Điêu
Thuyền nói:
-Thiếp
coi một ngày dài bằng một năm, xin chàng thương mà cứu vớt.
Bố nói:
-Tôi lên
đến đây, sợ thằng giặc già nó nghi, tôi phải đi ngay.
Thuyền
lôi vạt áo Lã Bố lại nói rằng:
-Chàng
còn sợ thằng giặc già như thế, thiếp này không còn mong ngày nào được trông
thấy trời và đất nữa!
Bố dừng
lại nói rằng:
-Đừng
vội vàng, Để tôi nghĩ cách đã.
Nói rồi
vác kích định đi ra.
Điêu
Thuyền níu lại nói rằng:
-Khi tôi
ở chốn buồng the đã được nghe tiếng tướng quân, lừng danh như sấm rót vào tai,
tưởng rằng ở đời này chỉ có một người như thế chớ không có hai. Ai ngờ tướng
quân lại chịu dưới quyền áp chế của người khác!
Nói rồi,
nước mắt chảy xuống như mưa.
Lã Bố
thẹn đỏ cả mặt, dựa kích một chỗ, quay lại ôm lấy Điêu Thuyền, dỗ dành an ủi. Hai
người quấn quýt không nỡ buông nhau ra.
Đổng
Trác ở trên điện, bỗng ngoảnh lại không thấy Lã Bố trong bụng nghi ngay, vội
vàng xin cáo từ lên xe về phủ.
Thấy
ngựa của Bố buộc trước sử phủ. Trác bèn hỏi lính canh cửa. Lính canh nói:
-Ôn Hầu
vào nhà sau.
Trác
mắng quân canh cửa, đi thẳng ngay vào hậu đường, không thấy Lã Bố, Trác gọi
Điêu Thuyền cũng không thấy thưa.
Trác hỏi
người hầu gái. Người hầu gái thưa:
-Điêu
Thuyền ở trong vườn sau ngắm hoa.
Trác vào
vườn sau tìm, thấy Lã Bố và Điêu Thuyền đang nói chuyện với nhau ở bên đình
Phượng Nghi, hoạ kích dựng một bên.
Trác
giận quát to một tiếng.
Bố thấy
Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy.
Trác vớ
ngay lấy ngọn hoạ kích đuổi theo. Bố chạy nhanh, Trác béo phục phịch, Đuổi
không kịp, bèn cầm kích ném theo Lã Bố. Bố gạt rơi xuống đất.
Trác
nhặt kích lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa, Trác đuổi ra tận cửa vườn, thì một
người xăm xăm chạy đến, đâm sầm ngay vào Đổng Trác. Trác ngã quay xuống đất.
Người đi
va vào đổng Trác, tức là Lí Nho.
Nho thấy
Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện.
Trác hỏi
Lí Nho:
-Ngươi
đến đây làm gì? Lí Nho thưa:
-Tôi
chợt qua cửa phủ, thấy nói thái sư giận đi vào vườn sau tìm Lã Bố, tôi vội vàng
chạy vào, thì gặp Lã Bố chạy ra, kêu lên rằng:"thái sư giết ta". Bởi
thế tôi hấp tấp vào đây để can ngăn thái sư, chẳng may chạm phải thái sư, thật
đáng tội chết!
Trác
nói:
-Không
thể tha được thằng nghich tặc đấy! Nó dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta cũng
giết chết nó mới nghe.
Lí Nho
can rằng:
-Thái sư
không nghĩ cho chín; ngày xưa vua Trang Vương nước Sở, trong bữa tiệc Dứt dải
mũ đã tha tội cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu, đến sau bị binh nhà
Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết thoát được.
Nay Điêu
Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lã Bố là một mãnh tướng tâm phúc của
thái sư, nếu thái sư nhân dịp này đem Điêu Thuyền cho Bố, chắc Bố cảm ơn lắm
lấy chết báo lại. Thái sư nên suy đi nghĩ lại.
Trác
nghĩ ngợi hồi lâu nói rằng:
-Ngươi
nói cũng phải, để ta nghĩ kĩ xem.
Lí Nho
từ tạ rồi ra.
Trác vào
ngay hậu đường gọi Điêu Thuyền ra hỏi rằng:
-Sao mày
tưu tình với Lã Bố?
Điêu
Thuyền khóc thưa rằng:
-Thiếp
đang đứng xem hoa, bỗng Lã Bố đột ngột ở đâu đến. Thiếp vội vàng toan tránh ra.
Bố nói: "tôi là con thái sư, việc gì phải tránh" Rồi y cầm kích ép
thiếp đến đình Phượng Nghi.
Thiếp
thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tới mình thiếp, định đâm đầu xuống ao sen
tự vẫn, nhưng lại bị y ôm chặt lấy. Đang lúc giằng co không biết sống chết thế
nào, may có thái sư chạy lại cứu được tính mệnh.
Trác lại
hỏi:
- Nay ta
đem mày gả cho nó, mày có thuận không?
Điêu
Thuyền giật mình, khóc rằng:
-Thiếp
đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thiếp thà chết chứ không
chịu được nhục này!
Bèn rút
ngay thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn.
Trác vội
vàng giành lấy thanh gươm, ôm chặt lấy Điêu Thuyền và nói rằng:
- Ta nói
bỡn đấy mà!
Thuyền
nằm ngả vào lòng Trác bưng mặt khóc rằng:
-Đây hẳn
là mẹo của Lí Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên nho mới bày ra
mẹo này, không kể gì đến thể diện của thái sư và tính mệnh của tiện thiếp,
thiếp phải xả thịt chúng nó ra.
Trác
nói:
- Sao ta
nỡ bỏ nàng.
Điêu
Thuyền lại nói:
-Thái sư
dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lã Bố hãm hại.
Trác dỗ
dành Điêu Thuyền rồi nói rằng:
-Ngày
mai chúng ta về Mi Ổ, cùng hưởng sung sướng, đừng lo gì nữa. Lúc ấy, Thuyền mới
lau nước mắt lạy tạ.
Hôm sau,
Lí Nho vào ra mắt. nói rằng:
-Hôm nay
tốt ngày thái sư nên đem Điêu Thuyền gả cho Lã Bố.
Trác
nói:
-Chuyện
ấy ta đã nghĩ rồi, Lã Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha
tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố, thế là
được rồi!
Nho nói
:
-Thái sư
đừng bị mê hoặc vì một người đàn bà.
Trác nổi
giận đổi sắc mặt mắng rằng:
-Thế thì
vợ mày, mày có đem cho nó không? Việc Điêu Thuyền cấm được nói động đến nữa,
còn nói tao sẽ chém đầu.
Lí nho
trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng:
-Lũ
chúng ta chết cả về tay người đàn bà!
Ngày hôm
ấy Đổng Trác hạ lệnh về Mi Ổ, trăm quan đều đi tống tiễn.
Điêu
Thuyền ngồi ở trong xe, xa trông thấy Lã Bố đứng ở trong đám đông người, mắt
nhìn vào trong xe. Thuyền giả cách che mặt ra dáng đau khổ bi thảm. Xe đã đi
xa.
Lã Bố
còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù than tiếc bực dọc. Chợt
nghe sau lưng có người hỏi rằng:
-Ôn Hầu
sao không theo thái sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở? Bố quay đầu lại
xem ai, thì ra là Tư Đồ Vương Doãn.
Chào hỏi
xong, Doãn nói:
-Tôi mấy
bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa gặp tướng quân. Bữa nay thái sư
về Mi Ổ, nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin hỏi tướng
quân làm sao lại đứng đây thở than?
Bố nói:
-Chỉ vì
con gái ông đấy!
Doãn giả
cách thất kinh hỏi rằng:
-Từ hôm
đấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à? Bố nói:
-Thằng
giặc già ấy lấy làm thiếp của nó đã lâu rồi!
Doãn lại
giả cách thất kinh:
- Không
ngờ lại như thế!
Bố bèn
đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe. Vương Doãn mặt ngửa lên trời,
châm dẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì.
Mãi hồi
lâu, Doãn mới nói rằng:
-Không
ngờ thái sư lại làm cái việc cầm thú ấy. Rồi kéo tay Lã Bố, nói rằng:
-Xin
tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện.
Bố theo
Doãn về, Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản
đãi.
Bố lại
đem việc gặp Điêu Thuyền ở đình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn Nghe.
Doãn
nói:
-Thái sư
làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho,
nhưng người ta không chê cười thái sư đâu mà chỉ chê cười tướng quân và tôi
thôi. Tôi gì yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh hùng
tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này.
Bố nghe
nói, cơn giận Bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to.
Doãn vội
vàng nói rằng:
-Lão
trót lỡ lời! Xin tướng quân nguôi giận! Bố nói:
-Ta thề
giết chết thằng giặc già ấy để rửa nhục! Doãn vội vàng lấy tay bưng miệng Bố
can rằng:
Tướng
quân chớ nói, nhỡ ra có liên luỵ đến lão.
Bố nói:
-Đại
trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ nào cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ người
khác mãi ru!
Doãn nói
thêm một câu rằng:
-Tài như
tướng quân thì thái sư làm sao có thể kìm hãm được. Bố lại nói:
-Tôi
muốn giết thằng giặc già ấy, nhưng lại ngại rằng còn vướng tình cha con, sợ
người sau chê cười chăng?
Doãn tủm
tỉm cười nói rằng:
-Tướng
quân họ Lã, mà thái sư thì họ Đổng, thử hỏi lúc thái sư cầm kích lao tướng quân
ở đình Phượng Nghi, liệu có còn tình cha con không?
Bố hăng
hái đứng lên nói rằng:
- Nếu tư
đồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm.
Doãn
thấy Lã Bố quyết tâm giết Trác bèn bảo Bố rằng?
-Giúp
nhà Hán, tướng quân mới là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu tướng
quân giúp Đổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời.
Bố đứng
dậy lạy Vương Doãn nói rằng:
-Ý tôi
đã quyết rồi. Tư đồ không nên nghĩ nữa. Doãn nói:
-Tôi sợ
việc không xong thì vạ to.
Bố liền
rút con dao đeo ở mình, Đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề. Doãn quỳ
xuống lạy tạ, nói rằng:
-Hương
hoả nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết
lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng
quân biết.
Bố khẳng
khái nhận lời rồi trở ra.
Doãn lập
tức mời quan bộc sạ là Sĩ Tôn Thụy, quan tư lệ hiệu uý là Hoàng Uyển đến để bàn
việc ấy.
Thụy
nói:
-Nay vua
mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến Mi Ổ mời Trác vào đây để bàn việc
nước. Một mặt lấy mật chiếu cảu thiên tử trao cho Lã Bố, sai phục quân trong
cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ giết đi. Chước ấy là hơn cả.
Uyển
nói:
-Nhưng
có ai dám đi mời không? Thụy nói:
-Có quan
kị đô uý Lí Túc là người cùng quận với Lã Bố, vì Trác không thăng chức cho, vẫn
mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ.
Doãn cho
là phải bèn mời Lã Bố đến bàn bạc.
Bố nói:
-Ngày
xưa xui ta giết Đình Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta chém
ngay trước.
Các quan
mật sai mời Lí Túc đến. Bố bảo Túc:
-Xưa ông
xui tôi giết Định Kiến Dương để về với Đổng Trác. Nay Đổng Trác trên dối thiên
tử, dưới hại sinh linh, tội ác nhiều, cả người và thần đều giận. Vậy ông hãy
mang chiếu thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh giết nó đi, cố giúp
nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa dĩ, ông tính thế nào?
Túc nói:
-Tôi
cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lồng. Nay tướng
quân đã có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng?
Nói đoạn
Túc bẻ một cái tên ra thề.
Doãn
nói:
- Ông
làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng.
Hôm sau
Túc dẫn vài mươi tên kị mã đến Mi Ổ, sai người báo tin, Lí Túc vào lạy, Trác
nói:
- Thiên
tử có chiếu gì?
Túc
thưa:
-Thiên
tử vừa mệt khỏi, muốn hội văn vũ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho thái sư,
nên sai tôi cầm chiếu này đến đây.
Trác
hỏi:
-Ý Vương
Doãn thế nào?
Túc
thưa:
-Vương
tư đồ đã sai người đấp đền thụ thiên, chỉ mong đợi thái sư về. Trác mừng rỡ nói
rằng:
-Thảo
nào đêm qua ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có
tin mừng. Dịp này không nên bỏ lỡ.
Bèn sai
bốn tướng tâm phúc là Lí Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba nghìn quân
phi hùng giữ Mi Ổ rồi ngay hôm ấy sắp xe về kinh.
Trác
ngoảnh lại bảo Lí Túc:
-Hễ ta
làm vua thì cho ngươi làm chức chấp kim ngô.
Túc lạy
tạ xưng thần.
Trác lên
xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng.
Khi Đổng
Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rước, duy có Lí Nho cáo bệnh ở nhà
không ra đón.
Trác đến
tướng phủ, Lã Bố vào mừngTrác nói;
-Hễ ta
làm vua, Phụng tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ. Bố lạy tạ rồi nghỉ
ngay ở dưới trướng.
Đêm hôm
ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong gió đưa tiếng vào tận
màn.
Tiếng
hát nghe thực ai oán.
Trác
nghe thấy mới hỏi Lí Túc:
- Trẻ
hát như thế, hay dở thế nào?
Túc
thưa:
-Thế
nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Đổng sắp lên.
Mờ mờ
sáng hôm sau Trác sai bày nghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong
triều. Bỗng thấy một đạo nhân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài trên
buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu.
Trác lại
hỏi Lí Túc:
-Người
ấy làm như thế là ý thế nào? Túc nói:
-Nó là
một thằng rồ.
Rồi bảo
tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi.
Trác vào
đến triều, các quan đều mặc áo chào, đứng đón cả hai bên đường.
Lí Túc
cầm thanh bảo kiếm, vịn xe Đổng Trác đẩy đi.
Đến cửa
bắc dịch, Quân sĩ đều bị ngăn cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được
đẩy xe đi vào.
Trác vào
khỏi cửa, thấy bọ Vương Doãn đều cầm gươm đứng ở cửa điện, sợ hỏi Lí Túc:
-Họ cầm
gươm là ý gì?
Lí Túc
không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào.
Vương
Doãn bây giờ mới thét to lên rằng:
-Phản
tặc đã đến đây, võ sĩ đâu?
Hai bên
hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm kẻ vác đao cùng đổ xô lại đâm Đổng
Trác.
Trác mặc
áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, nã xuống xe, Trác
gọi to lên rằng:
-Con ta
Phụng Tiên đâu?
Lã Bố
đứng đăng sau, nghe thấy gọi đến tên, bèn thét lên một tiếng rồi chạy ra nói
rằng:
- Nay ta
vâng chiếu vua giết thằng giặc này!
Một ngọn
kích đâm trúng ngay cổ họng Đổng Trác. Lí Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách
lên.
*LẠM BÀN:
1.Phương
Tây có câu: Lấy lửa thử vàng, lấy vàng thử đàn bà và lấy đàn bà thử đàn ông.
Một tiểu thuyết gia phương đông cho rằng: Đàn ông là đất, đàn bà là nước. Đất
gặp nước tất nhão ra. Lại có câu: Anh hùng cũng khó qua ải mĩ nhân. Những câu
trên đều nói đến sức mạnh quyến rũ của người phụ nữ.
Những
chính trị gia thương lợi dụng sắc đẹp của người phụ nữ để mê hoặc đối phương,
gọi là mĩ nhân kế. Kế này thường được phối hợp với các kế khác như phản gián,
mua chuộc... nên còn gọi là liên hoàn kế.
Liên
hoàn kế tái diễn nhiều lần trong lịch sử: Câu Tiễn dâng Tây Thi cho Ngô Phù
Sai. Hoàng hậu của Thái Tông, nhà Thanh dùng mĩ nhân kế thu phuc Hông Thừa Trù
là một người cương trực tài sĩ của nhà Minh... nhưng câu chuyện có nhiều tình
tiế và nhiều kịch tính vẫn là đoạn trích trên.
2.Người
ta thường nói người ngoài cuộc là người sáng suốt, người trong cuộc thường tối
tăm. Lã Bố, Đổng Trác là người trong cuộc đã bị Điêu Thuyền mê hoặc. Hai người
càng ngày càng lọt sâu vào kế liên hoàn của Vương Doãn.
Lí Nho
là người ngoài cuộc, đã can ngăn Đổng Trác, bị Trác hỏi dồn một câu chết người
, cứng họng: thế thì vợ mày, mày có đem cho nó không?
Lí Nho
chỉ có việc than trời: Lũ chúng ta chết cả về tay người đàn bà! Than thì than,
biết chết cũng không tránh khỏi.
Câu Tiễn
chịu nhục cúi đầu nếm phân thử bệnh cho Phù Sai. Ngũ Viên can gián cho rằng,
Câu Tiễn cúi đầu nếm phân cho kẻ thù thì cũng có thể ngẩng đầu ăn gan kẻ thù
được.
Phù sai
trách, hỏi Ngũ Viên: Ngươi có thể nếm phân đoán bệnh cho ta được không?
Ngũ Viên
không trả lời được.
Những
câu hỏi như Đổng Trác, Ngô Phù sai dồn thuộc hạ của mình vào chỗ bí, tưởng như
lí sự của mình là đúng, đòn trí tuệ cao siêu. Nhưng thực ra là những câu tự huỷ
mình, câu hỏi mất người trung thành dẫn đến mất quyền, mất nước, mất mạng.
3 Mối quan hệ giữa Đổng Trác với Lã Bố gọi là
cha con nhưng thực chất dựa trên quyền lực và quyền lợi. Đổng Trác dựa vào sức
mạnh của Lã Bố. Lã Bố dựa vào quyền lực của Đổng Trác.
Điêu
Thuyền chen vào giữa mối quan hệ này làm cho tình cha co sứt mẻ, sự kết hợp giữa
quyền lực và sức mạnh ngày càng rạn nứt và cuối cùng thì tan rã.
B. SỨC MẠNH CỦA ĐÀN NGỰA CÁI.
Thời
chiến quốc, tướng nuớc Triệu là Lí Mục trấn ở Nhạn Môn Quan để đánh Hung nô.
Thế trận dằng dai.
Hàng
ngày quân Hung nô lùa ngựa ra sông tắm.
Lí mục
thấy vậy, nghĩ ra một kế, đem tất cả ngựa cái buộc ở bên này sông. Nghe tiếng
ngựa cái hí đàn nhựa của quân Hung Nô bỏ chạy rào rào qua sông. Lí mục cho lùa
ngựa cái vào thành.
Quân
Hung Nô mất ngựa rất tức giận vượt sông đánh Lí Mục. Lí Mục cho phục binh đánh
tan tác quân Hung Nô.
Kế thứ
năm: BIẾT TRƯỚC THỜI THẾ (Kiến ngự tri trước) Kiến ngự tri trước là dự đoán
thời thế, suy việc lợi hại. quyền biến.
Nguyên
tắc của kế này là dựa vào sự hợp li, quy luật tự nhiên của vạn vật. Sự li hợp
người bình thường có thể gần mà không thấy xa mà không biết. Chỉ người nhìn xa
trông rộng, lo xa, mới thấy và biết được.
Trong
đấu tranh phải thấy được thế, lực của ta và địch. Ta yếu thì hoà hoãn, làm cho
mình mạnh lên và chờ cho địch suy yếu.
Là lặng
lẽ hành động khi chưa ai chú ý và nhìn thấy nhưng khi thời cơ chín muồi là lập
tức hành động làm nên chuyện lớn.
ĐỢI THỜI CƠ CHÍN MUỒI
Thái
Công nói với Võ Vương:
-Trước
kia, nhà Thương còn mạnh, lão thần từng nói với Văn Vương( cha của Võ Vương):
Một vị minh quân trước lo tu dưỡng đạo đức, phải chiêu hiền đãi sĩ, phải thi ân
với nhân dân, làm cho đất nước cường thịnh. Mặt khác phải quan sát sự xấu tốt
của đạo trời, chờ thiên tai xảy ra, nhân hoạ xảy ra đối với nhà Thương, thì mới
chinh pạt nhà Thương được.
Nay, Trụ
Vương đã cho xây nhục lâm tửu trì( rừng thịt, ao rượu) để hưởng lạc, đắm say
tửu sắc. Tạo những cực hình như bào lạc( cột lửa để đốt tội nhân), Sài bồn( bồn
đựng bọ cạp để trừng trị tội nhân). Mổ tim trung thần là Tỉ Can, đuổi anh là Vi
Tử. Trong triều bọn dua nịnh áp đảo người triung lương. Quan lại các nơi tuỳ
tiện giết người, coi thường luật pháp. Đồng ruộng bỏ hoang. Lòng dân oán giận.
Các nước lân bang cùng đứng lên chống lại, nhà Thương phải điều động quân đi
đánh dẹp. Tức là kinh thành trống rỗng. Ngày diệt vong của nhà thương đã đến,
chúng ta nên cùng với các nước chư hầu cất quân đi để phạt Trụ.
Võ Vương
nghe theo.
Cuối
cùng Võ Vương thắng, giết Trụ Vương, lập nên nhà Chu.
*lạm bàn:
1.Thời
Văn Vương, triều Thương còn mạnh, đất đai rộng lớn, quân đội còn hùng hậu. Lúc
ấy , Võ Vương đất hẹp, quân ít. So về thực lực, một trời một vực, Võ Vương chưa
thể tranh hùng với vua Trụ.
Võ Vương
nghe lời Thái Công, một mặt chiêu hiền đãi sĩ, làm cho dân giầu nước mạnh, quân
đội hùng mạnh, liên kết với chư hầu. Một mặt đợi nhà Thương suy yế, Võ Vương
mới ra quân.
2.Thái
Công cho rằng: Một đất nước muốn trường tồn là khi sống trong cảnh yên vui phải
nghĩ đến lúc nguy cấp. Một nhà vua có thể hưởng được phúc lâu dài là khi vui vẻ
phải nghĩ dến lúc phải buồn lo.
Sở dĩ
Trụ Vương mất nước là chỉ biết sự trường tồn không nghĩ đến hoạ diệt vong. Nhà
vua chỉ biết vui chơi thoả thích không nghĩ đến lúc tai hoạ giáng xuống.
Chương năm.
TỰ DO VÀ KIỀM CHẾ.
(phi
kiềm chi thuật)
1.Phi là
tự do. Kiềm là kiềm chế, khống chế. Nghĩa chung là tự do và kiềm chế, khống
chế.
Đối
phương có cảm giác tự do nhưng thực sự bị kiềm chế. Mục đích của sách phi kiềm
là trói buộc chi phối đối phương. Nói về hình tượng như dùng lưỡi câu để kiềm
chế con cá.
2.Muốn
thực hiện kế sách phi kiềm phải lập thế và tạo thế. Còn gọi là độ quyền, lượng
năng (đo lường quyền lực và lượng năng lực) của mình cũng như của đối phương,
từ đó mới định kế an nguy.
Muốn lập
thế để chi phối trói buộc một quốc gia phải quan sát thiên thời thịnh hay suy,
đất đai rộng hay hẹp; địa hình sông núi hiểm trở hay thuận lợi?
Tài sản
của dân chúng giàu hay nghèo, nhiều hay ít.
Mối quan
hệ của nước đó với các chư hầu lân bang, nước nào thân, nước nào không thân,
nước nào xa, nước nào gần.
Muốn chi
phối trói buộc một người thì phải quan sát tài năng sức vóc, khí thế: ai là thù
ai là bạn của người đó. Đối với người này cần dung nạp hay không dung nạp, cần
thổ lộ hay giấu giếm ý định tình cảm của mình?
3.Muốn
trói buộc kiềm chế một cá nhân, một nhóm, một nước, trước hết quan sát đông
tây; ngó nam ngó bắc; nhìn ngang nhìn dọc; trông ngược trông xuôi. Sau đó tìm
cách trói buộc và chi phối.
4.Sách
này được vận dụng vào trong việc chiêu nạp, thử thách phân loại và trọng dụng
nhân tài trong thiên hạ.
Theo
người xưa, có sáu cách thử thách nhân tài là nhân, nghĩa, trung, tín, dũng,
trí.
-Tạo
điều kiện cho họ trở nên giàu có. Khi giàu có họ vẫn tuân thủ lễ giáo, luật
pháp. Là người nhân.
-Ban cho
họ địa vị. Có địa vị mà không kiêu ngạo vênh vang. Là người có
nghĩa.
-Giao
cho họ nhiệm vụ trọng đại. Khi thực hiện kiên quyết hoàn thành, không thay đổi
ý chí. Là người trung.
-Giao
cho họ xử lí vấn đề. Khi xử lí không dối trên lừa dưới. Là người tín.
-Giao
cho họ việc nguy hiểm nhưng họ vẫn không tỏ ra e ngại, sợ sệt. Là người dũng.
-Giao
cho họ xử lí những việc có sự chuyển biến bất ngờ. Nếu họ ứng phó một cách bình
tĩnh. Đó là người trí.
Kế thứ
nhất: KÍN KẼ CHU ĐÁO (Xuyết nhi bất thất)
Xuyết
nhi bất thất là chu đoá, kín kẽ, không có kẽ hở khi thực hiện một chuỗi mưu kế
liên tiếp vào nhau.
Muốn
thực hiện kế này phải đo lường trí tuệ, tài năng, tài lực, khí thế của đối
phương làm then chốt từ đó tìm cách kiềm chế đối phương.
A. CHƯA CÓ MỚI ĐÃ NỚI CŨ.
Vua Tần
muốn chia rẽ Tề, Sở bèn triệu Trương Nghi hỏi kế, Nghi tâu rằng:
-Tôi xin
đem ba tấc lưỡi, đi sang Sở, thừa cơ tiến lời, khiến cho vua Sở phải tuyệt Tề
mà thân với Tần.
Vua Tần
liền cho Nghi đi. Nghi biết vua Sở có một người bầy tôi yêu là Ngân Thượng, hầu
luôn bên mình, nói gì vua Sở cũng nghe, bèn đem nhiều vàng bạc kết giao với
thượng rồi mới vào yết kiến Hoài vương. Hoài vương vốn trọng tiềng Trương Nghi,
thân ra đón vào, mời ngồi mà hỏi rằng:
-Tiên
sinh hạ cố đến nước tôi chẳng hay có gì dạy bảo? Nghi nói:
-Tôi lại
đây, chỉ muốn nói giao tình hai nước Tần, Sở mà thôi.
Hoài
vương noi:
-Quả
nhân nào phải không muốn kết giao với Tần, chỉ vì Tần cứ lấn đánh mãi không
thôpi, nên không dám cầu thân vậy.
Trương
Nghi nói:
-Trong
thiên hạ ngày nay tuy có bảy nước, nhưng gọi là nước lớn chỉ có Sở, Tề, và Tần
thôi. Tần đông hợp với tề thì Tề mạnh, nam hợp với Sở mà không phải ở Tề. Ấy là
cớ làm sao? Chỉ vì Tề là nước hôn quân mà lại phụ Tần quá lắm. Vua Tần muốn thờ
đại vương, mà chính Nghi này cũng muốn làm kẻ tôi đòi hèn hạ của đại vương, thế
mà đại vương lại giao hiếu với Tề, thực là trái ý muốn chúa công tôi. Nếu đại
vương có thể đóng cửa quan mà tuyệt giao với Tề, thì chúa công tôi đem sáu trăm
dặm đất Thương Ô mà Thương quân đã lấy của Sở trước kia, trả lại cho Sở, đem
con gái làm tì thiếp để hầu hạ đại vương; Tần, Sở đời đời làm thông gia, để
cùng chống chọi với chư hầu. Có mấy lời xin đại vương thu nạp cho.
Hoài
vương vui mừng lắm, nói rằng
- Nếu
Tần chịu đem đất cũ mà trả cho sở, thì quả nhân tiếc gì Tề?
Quần
thần đều cho là nước Sở sẽ lấy lại được đất cũ đồng thanh chúc mừng, chỉ có một
người đứng ra tâu rằng:
-Không
nên! Không nên! Cứ như ý tôi việc ấy đáng buồn chứ không đáng
vui
-Quả
nhân không phí một mũi tên, chỉ ngồi yên mà được sáu trăm dặm đất, làm sao nhà
ngươi lại bảo là đáng buồn?
Trần
Chẩn nói:
-Đại
vương cho là có thể tin được Trương Nghi chăng?
Hoài
Vương cười nói:
- Sao
lại không tin?
Chẩn
nói:
-Tần
phải trọng Sở là vì có Tề, nay nếu tuyệt giao với Tề, thì Sở chỉ còn
đứng một
mình; Tần còn trọng gì cái nước đứng một mình ấy mà cắt sáu trăm dặm đất đem
cho nữa.
Đó là
quỷ kế của Trương Nghi. Đại vương tuyệt giao với Tề rồi Trương Nghi sẽ phụ đại
vương mà không cho đất, bấy giờ Tề lại oán đại vương mà quay theo Tần. Tề, Tần
hợp lại đánh Sở, thì Sở tất mất, vì thế nên tôi nói là đáng buồn.
Chi bằng
đại vương trước hãy sai sứ sang Tần nhận lấy đất, được đất rồi bấy giờ sẽ tuyệt
giao với Tề cũng chưa muộn.
Khuất
Bình cũng nói rằng:
-Trần
Chẩn nói phải đạo đấy. Trương Nghi là một đứa tiểu nhân pghản phúc, quyết không
nên tin.
Ngận
Thượng nói:
- Không
tuyệt giao với Tề đi thì khi nào Tần lại chịu trả đất lại cho ta.
Hoài
Vương lắc đầu mà nói:
-Chắc
không khi nào Trương Nghi lại phụ quả nhân, Trần tử đừng mở mồm nói nữa, chờ
xem quả nhân nhận đất!
Bèn giao
tướng ấn cho Trương Nghi, ban cho trăm dật hoàng kim, mười con ngựa tốt, hạ
lệnh cho tướng giữ Bắc Quan không được thông với Tề, một mặt sai Hầu Sửu theo
Trương Nghi vào Tần nhận đất.
Trương
Nghi dọc đường cùng Hầu Sửu uống rượu nói chuyện, vui như anh em. Khi gần đến
Hàm Dương, Trương Nghi giả làm say rượu, lỡ chân ngã xuống dưới xe. Tả hữu vội
đỡ dậy. Nghi nói:
- Ta bị thương
ống chân, phải kịp chữa ngay!.
Rồi sang
cái xe khác đi vào thành trước, tâu với vua Tần, lưu Hầu Sửu ở quán dịch, còn
Nghi thì đóng cửa dưỡng bệnh không vào triều.
Hầu Sửu
xin vào yết kiến vua Tần không được, cứ như thế đến ba tháng, Sửu bèn dâng thư
lên vua Tần, thuật lời Trương Nghi hứa cho đất, vua Tần viết thư đáp rằng nếu
Nghi đã có ước, thì vua Tần tất phải làm theo như lời, nhưng nghe nóiỉơ và Tề
vẫn chưa tuyệt giao với nhau mà Tần sợ bị Sở lừa, tất phải đợi Trương Nghi hỏi
rõ đầu đuôi , mới có thể tin được.
Hầu sửu
đi lại mãi nhà Trương Nghi mà Nghi vẫn không ra mặt, bèn sai người đem lời của
vua Tần về báo vua Sở. Vua Sở nói:
-Tần còn
bảo Sở chưa tuyệt hẳn với Tề ư?
Bèn sai
dũng sĩ Tống Di mượn đường nước Tống, lại mượn binh phù của Tống thẳng đến bờ
cõi nước Tề, mắng nhiếc. Mân vương cả giận, bèn sai sứ sang Tần xin cùng Tần
hợp binh đánh Sở.
Trương
nghi nghe sứ Tề đến, cho là kế đã thành, bèn nói là đã khỏi bệnh vào triều, gặp
Hầu Sửu ở cửa triều, cố ý lấy làm lạ hỏi:
-Tướng
quân sao chưa nhận được đất mà lẩn quẩn ở đây?
Sửu nói:
-Vua Tần
chỉ đợi tướng quốc khỏi bệnh mới quyết định, nay may tướng quốc đã khỏi, xin
vào nói với đại vương, sớm định địa giới, cho tôi được về phúc mệnh chúa công
tôi.
Trương
Nghi nói:
-Việc ấy
cần gì phải nói với vua Tần! Nghi này đã nói là có sáu dặm đất là đất ăn lộc
riêng của Nghi này, xin tình nguyện đem dâng vua Sở đó thôi!
Sửu nói:
-Tôi
vâng mệnh chúa công tôi, nói là sáu trăm dặm đất Thương Ô kia, chứ chưa nghe
nói đến sáu dặm đất ấy.
Nghi
nói:
-Có lẽ
vua Sở nghe lầm chăng? Đất của Tần là nhờ có trăm trận đánh mới được, một thước
một tấc chưa dễ đã đem cho người, phương chi những sáu trăm dặm.
Sửu lập
tức về báo vua Sở, vua Sở cả giận nói rằng:
-Trương
Nghi quả là đứa tiểu nhân phản phúc, ta bắt được, tất phải giết chết, ăn thịt
nó mới hả lòng!
Bèn
truyền chỉ đem quân đánh Tần. Khách khanh là Trần Chẩn nói:
- Ngày
nay tôi có thể mở mồm mà nói được không?
Hoài
vương nói:
-Quả
nhân không nghe lời nói của tiên sinh, nên bị tên giáo giặc đánh lừa, vậy ngày
nay tiên sinh còn có diệu kế gì?
Trần
Chẩn nói:
-Nay đại
vương đã không được nước Tề giúp sức nữa, mà lại đánh Tần, thì e không lợi, chi
bằng cắt hai thành để đút cho Tần, hợp binh đánh Tề thì dù có mất đất với Tần,
còn có thể lấy đất ở Tề được.
Hoài
vương nói:
-Lừa dối
Sở là Tần, chứ Tề có tội gì! Nếu ta hợp quân với Tần mà đánh Tề, thì người sẽ
cười ta!
Rồi lập
tức cử Khuất Cái làm đại tướng. Bàng Hầu Sửu làm phó, đem mười vạn quân đi đánh
Tần.
Vua Tần
sai Nguỵ Chương làm tướng, Cam Mậu làm phó, đem mười vạn quân chống đánh, lại
sai người sang Tề trưng binh, tướng Tề là Khuông Chương cũng đem quân trợ
chiến. Khuất Cái dẫu khoẻ, nhưng không địch lại được quân hai nước, đánh luôn
mấy trận đều thua.
Quân Tần
. Rề đuổi theo đến Đan Dương, Khuất Cái họp toàn quân lại đánh, bị Cam Mậu chém
chết; quân lính bị giết hơn tám vạn người, bọ danh tướng như Bàng Hầu Sửu chết
trận hơn bảy mười người, sáu trăm dặm đất Hán Trung đều mất.
Nghe tin
ấy, cả nước Sở đều chấn động. Hàn, Ngụy nghẻơ thua, cũng mưu đánh Sở, vua Sở cả
sợ, bèn sai Khuất Bình sang Tề tạ tội, sai Trần Chẩn sang Tần dâng hai thành để
cầu hoà.
Ngụy
Chương sai người về thỉnh mệnh vua Tần, vua Tần nói:
-Quả
nhân muốn được đất Kiềm Trung, vậy xin đem đất Thương Ô để đổi, nếu Sở bằng
lòng thì có thể bãi binh được!
Nguỵ
chương đem lời vua Tần nói cho vua Sở biết, vua Sở nói:
-Quả
nhân không muốn được đất, chỉ muốn được Trương Nghi để ăn thịt mới hả lòng. Nếu
thượng quốc đem Trương Nghi giao cho Sở, thì quả nhân tình nguyện dâng đất Kiềm
Trung để tạ ơn.
B. NƯỚC
MẮT TRỊNH TỤ
Các cận
thần vốn ghen ghét Trương Nghi đều nói đem một người mà đổi được vài trăm dặm
đất còn gì lợi bằng. Vua Tần nói:
-Trương
Nghi là người bề tôi chân tay của ta, ta thà chẳng được đất chứ không chịu bỏ
Trương Nghi.
Nghi tự
xin vua Tần cho mình đi. Vua Tần nói:
-Vua Sở
đang căm giận đợi tiên sinh đến, nếu tiên sinh sang đó tất bị giết, quả nhân
không nỡ để tiên sinh đi.
Nghi
nói:
-Giết
một tôi mà Tần được cả đất Kiềm Trung thì tôi đi chết cũng vẻ vang rồi! Mà chưa
cắc tôi đã chết đâu.
Vua Tần
nói:
-Tiên
sinh có kế gì thoát nói cho trẫm nghe nào? Nghi nói:
-Vua Sở
có một vị phu nhân vừa đẹp vừa khôn ngoan được vua yêu quý, nói gì cũng nghe
theo.
Vua Sở
lại có một bề tôi được sùng ái tên là Ngận Thượng, biết chiều Trịnh Tụ, trong
ngoài thông đông với nhau. Hạ thần quen thân với Ngận Thượng, chắc hắn có thể
che chở cho, không đến nỗi chết.
Đại
vương chỉ hạ lệnh cho Ngụy Chương đóng quân ở Hán Trung làm thế tiến thủ, vua
Sở tất không dám giết hại thần.
Vua Tần
cho Nghi đi.
Nghi đến
nước Sở, Hoài vương sai bắt giam rồi sau sẽ giết.
Trương
Nghi ngầm sai người đem lễ đến lót với Ngận Thượng.
Ngận
Thượng nói với Trịnh Tụ rằng:
-Hỏng
rồi, phu nhân không còn một mình giữ được tình yêu của đại vương nữa rồi. Làm
thế nào bây giờ?
Trịnh Tụ
hỏi cớ gì. Ngận Thượng nói:
- Tần
không biết vua Sở căm thù Trương Nghi cho nên sai sứ sang Sở nay nghe vua Sở
muốn giết Nghi, Tần sẽ trả đất và gả con gái cho vua Sở, dùng gái đẹp hát hay
làm kẻ theo hầu để chuộc tội cho Trương nghi. Con gái Tần đến thì vua Sở tất
yêu quý. Phu nhân dẫu chuyên giữ lòng yêu còn được chăng?
Trịnh Tụ
cả sợ hỏi rằng:
-Nhà
ngươi có kế gì có thể ngăn việc ấy? Ngận Thượng nói:
-Phu
nhân cứ làm như không biết chuyện ấy, đem các điều lợi hại nói với đại vương
tha cho Trương Nghi về Tần.
Trịnh Tụ
theo lời, nửa đêm khóc lóc với vua Sở và nói rằng:
-Đại
vương muốn đem đất đổi lấy Trương Nghi. Đất chưa cắt mà Nghi đã đến đó là Tần
có lễ với đại vương. Quân Tần chỉ đánh có một trận mà lấy được cả đất Hán Trung
có cái thế nuốt nước Sở. Nếu giết Trương Nghi để chọc tức Tần tất Tần sẽ đem
quân đánh Sở vợ chồng ta sẽ không còn ở với nhau được nữa. Thiếp nghĩ vậy nên
lòng đau như cắt đã không ăn uống gì mấy ngày liền. Vả lại làm bề tôi phải vì
chủ mình, Trương Nghi là kẻ trí sĩ trong thiên hạ làm tướng nước Tần đã lâu thì
phải mưu ích lợi cho Tần, đó là lẽ tất nhiêu không có gì lạ! Nếu đại vương hậu
đãi Trương Nghi, Nghi cũng sẽ thờ Sở như thờ Tần vậy.
Hoài
Vương nói:
-Phu
nhân chớ lo, việc đó để quả nhân định liệu. Ngận Thượng lại nhân dịp nói rằng:
-Giết
một Trương Nghi không có hại cho Tần mà lại mất vài trăm dặm đất Kiềm Trung,
chi bằng tha cho Trương Nghi để làm chỗ hoà hảo với Tần sau này.
Ý Hoài
vương cũng tiếc đất không muốn đem cho Tần bèn tha Trương Nghi và đãi đằng rất
hậu.
Trương
Nghi đem cái lợi theo Tần nói với Hoài vương.
Hoài
vương bèn sai Trương Nghi về Tần để nối tình giao hảo giữa hai nước.
LẠM BÀN
1.Trương
Nghi nhờ đút lót thân quen và nắm vững Ngận Thượng. Ngận
Thượng
lại biết chiều chuộng Trịnh Tụ mà Trịnh Tụ là người sùng ái của Hoài vương.
Ngận Thượng và Trịnh Tụ, trong ngoài thông đồng nên đã chi phối, trói buộc,
khống chế được Hoài Vương, theo sự giật dây của Trương Nghi.
Hoài
vương như con rối dưới sự điều khiển của Trương Nghi, dẫn đến chỗ vừa mất nước
liên minh là Tề; lại bại trận, mất đất. Muốn ăn thịt Trương Nghi cho hả giận
nhưng con mồi Trương Nghi cũng vuột mất.
2.Mưu kế
của Trương Nghi trong ngoài, trước sau, ngược xuôi, tiến thoái, từ việc lớn đến
việc nỏ sắp đặt lớp lang kín kẽ và chu đáo làm cho đối phương không lường được,
Vì thế đi vào chỗ chết nhưng vẫn tìm ra được đường sống.
Kế thứ
hai: BIẾN KHÔNG THÀNH CÓ(Vô trung sinh hữu)
Vô trung
sinh hữu là biến không thành có. Mặt nước không có gió nhưng vẫn gợn sóng, nổi
sóng.
Khéo bịa
đặt, dựng chuyện, nguỵ tạo mê hoặc đối phương tin là thật.
Nguyên
lí của kế này là dựa vào sự biến hoá của sự vật từ âm sang dương, âm cực thì
dương sinh. Là giai đoạn chuyển tiếp từ giả sang thật.
Muốn
thực hiện kế vô trung sinh hữu thì gợi ý đối phương nói lên ý hướng, hi vọng,
ham muốn của mình, sau đó tìm cách kiềm chế khống chế đối phương.
A. TRƯƠNG NGHI TRỔ TÀI LÀM TIỀN
Trương
Nghi tới nước Sở, phải chịu nghèo khổ, kẻ tả hữu giận, đòi về.
Trương
Nghi bảo họ:
-Anh em
thấy áo mão rách cả mà đòi về chứ gì. Hãy đợi đó , vì anh em tôi vào yết kiến
vua Sở (Hoài vương) đã.
Lúc đó
bà Nam Hậu (hoàng hậu) và nàng Trịnh Tụ (ái phi) đều được vua sùng ái. Trương
Nghi vào yết kiến vua Sở, vua Sở không vui. Trương Nghi nói:
- Đại
vương không dùng tôi, tôi lên phương bắc yết kiến vua Tấn. Vua Sở đáp:
- Được!
-Đại
vương có cần món gì ở Tấn không?
-Hoàng
kim, châu ngọc, sừng tê, ngà voi đều sản xuất ở Sở, quả nhân không cần món gì ở
Tấn cả.
-Thì ra
đại vương không hiếu sắc nhỉ?
-Sao
vậy?
Trương
Nghi đáp:
-Bọn con
gái nước Trịnh, nước Chu, thoa phấn tô mày rồi đứng bên đường, ai không biết mà
thấy họ thì tưởng là tiên nữ.
Vua Sở
nói:
-Sở là
nước hẻo lánh, thô lậu, chưa từng trông thấy con gái trung nguyên dẹp tới vậy;
sao chỉ có quả nhân là không hiếu sắc?
Nói rồi
tặng Trương Nghi châu ngọc.
Bà Nam
Hậu và Trịnh Tụ nghe tin đó, đâm hoảng. Nam Hậu sai người nói với Trương Nghi:
-Thiếp
nghe nói tướng quân qua Tấn. Vừa may có được ngàn cân vàng đây, xin tặng bọ tả
hữu của tướng quân để họ chi tiêu vào việc mua cỏ, lúa cho ngựa.
Trịnh Tụ
cũng tặng năm trăm cân vàng.
Trương
Nghi vào từ biệt vua Sở:
-Quan
san cách trở, giao thông bất tiện, không biết bao giờ mới được tái ngộ, xin đại
vương cho tôi một chén rượu.
Vua nói:
-Được.
Rồi bày
rượu đãi Trương Nghi, Trương Nghi lại xin được gặp mặt Trịnh Tụ.
Vừa thấy
Trịnh Tụ, Trương Nghi vội vàng quỳ xuống tạ lỗi vua Sở. Cho rằng vì chưa gặp
mặt Trịnh Tụ nên nói gái nước Tấn đẹp, nay gặp được rồi quả là Trịnh Tụ đẹp
nhất trần đời, không gái nước nào sánh kịp. Vua Sở rất hài lòng.
LẠM BÀN
1.Trương
Nghi dựa vào tâm lí háo sắc, ưa nịnh bợ của Sở Hoài Vương và tâm lí ghen tuông
của Trịnh Tụ để bịa chuyện bày kế, làm cho Hoài vương và Trịnh Tụ tưởng thật.
2.Trương
Nghi xoay tiền cả hai bên vua Sở và Trịnh Tụ thật khéo. Bỡn cợt Sở Hoài Vương
nhưng vua Sở không giận. Vì ai cũng muốn được người khen, người yêu của mình
đẹp nhất thế gian. Xoay tiền Trịnh Tụ nhưng Trịnh Tụ chấp nhận vì mình muốn
được khen và được sùng ái.
3.Xét về
phương diện nào đó Trương Nghi không phải là kẻ tốt lành. Đói ăn vụng túng làm
liều nhưng làm liều và lừa gạt như Trương Nghi cũng rất độc đáo.
B. THẦY PHÙ THUỶ GIÚP THẦY LANG.
Đời
Thanh, có thầy lang tên là Diệp Thiên Sĩ, tay nghề khá giỏi, đạo đức không đến
nỗi nào nhưng con bênh vắng tanh trông thật thảm hại.
Trong
tình cảnh khốn khó, Diệp Thiên Sĩ nẩy ra một kế, đến cầu cứu Trương Thiên Sư,
vốn làm nghề phù thuỷ có tiếng tăm.
Không
biết hai người trao đổi những gì.
Một hôm,
trên phố đông, người ta thấy Trương Thiên Sư bước xuống kiệu, cung kính vái
chào Diệp Thiên Sĩ.
Mọi
người rất ngạc nhiên hỏi Trương Thiên Sư.
Trương
trả lời:
-Đó là
vị thầy thuốc tài giỏi của trời sai xuống cho nên ta phải xuống kiệu cung kính
vái chào.
Từ đó,
một đồn mười, mười đồn trăm, con bệnh khắp nơi nườm nượp tìm đến thầy lang Diệp
Thiên Sĩ để chữa bệnh.
LẠM BÀN
Diệp
Thiên Sĩ dựa vào tiếng tăm của Trương Thiên Sư để kiếm sống. Trương Thiên Sư
muốn cho Diệp Thiên Sĩ nổi tiếng bằng mẹo nhỏ biến không thành có. Người này
dựng chuyện, nguỵ tạo tâng bốc người kia để đánh vào tâm lí dễ tin của người
đời.
Trong
đời sống hoặc trên thương trường chuyện này không phải là hiếm.
C. QUAN CÔNG ĂN NHẦM MÔNG NGỰA.
Ăn mông
ngựa, ám chỉ người thích nịnh bợ. Dân gian lưu truyền câu chuyện hài hước thú
vị:
một hôm,
trời đang hội họp. Quan Công uy nghi đứng canh cửa. Đột nhiên có một anh chàng
xin vào chốn thiên đình.
Quan
Công hỏi người ấy làm nghề gì và lên thiên đình để làm gì?
Người ấy
trả lời chuyên bán mông ngựa và lên thiên đình để gạ bán cho các thiên binh
thiên tướng. v.v..
Quan
Công giận dữ cho rằng thiên đình không ai cần thứ đó. Ông doạ dẫm nếu không
nhanh chóng cút xéo thì sẽ cho một nhát thanh long đao.
Anh
chàng bán mông ngựa nhỏ nhẹ:
-Ngài là
bậc thánh nhân, tất nhiên không thích món mông ngựa nhưng chắc rằng sẽ có thiên
binh thiên tướng thích.
Ngài là
người có lòng độ lượng, thương người. Tào tháo là kẻ thù mà ngài còn tha chết ở
Hoa Dung lộ. Huống gì tôi chỉ là con sâu cái kiến, sao ngài không mở lòng cho
tôi vào trong đó một phen.
Quan
Công thấy thế mủi lòng bèn cho người bán mông ngựa vào cửa.
Một lát,
người ấy trở ra. Quan Công hỏi:
-Ngươi
có gạ bán được cho ai không?
Người
kia đáp:
-Trên
cõi đời này tôi chỉ gại được một người. Quan Công tò mò hỏi:
-Ai vậy?
Người
kia nhỏ nhẹ đáp:
-Thưa,
người đó chính là ngài.
Lúc đấy
Quan Công hiểu ra nhưng không làm gì được anh chàng bán mông ngựa.
LẠM BÀN
Rõ ràng
nghề nịnh bợ, khéo bịa chuyện có thể lừa được cả bậc thánh và lọt qua cả cửa
thiên đình. Kẻ khéo nịnh bợ có thể luồn lách qua nhiều cửa, thậm chí luồn thật
sâu và leo lên cao.
Kế thứ
ba: NỤ CƯỜI DẤU ĐAO KIẾM (Tiếu lí tàng đao)
Tiếu lí
tàng đao là trong nụ cười thường thì: Bên ngoài nói cười nhưng bên ẩn dấu đao
kiếm. Theo cách nói thông trong nham hiểm giết người không dao.
Người sử
dụng kế này bên ngoài đối xử tốt với đối phương, làm ra vẻ rộng lượng, tha thứ
nhưng bên trong âm mưu dùng nhân vật thứ ba hoặc lực lượng thứ ba khống chế,
tiêu diệt đối phương.
A. CHÊ
VUA HÔI HÁM
Vua Sở
có vị phu nhân tên Trịnh Tụ, vừa đẹp vừa khôn ngoan, được vua yêu quý.
Vua Sở
lại mới yêu một mĩ nhân khác. Trịnh Tụ bảo mĩ nhân ấy rằng:
-Đại
vương rất ghét người nào thở hơi vào mình, vậy khi hầu vua phải giữ ý bịt mũi
lại.
Mỹ nhân
ấy làm theo lời Trịnh Tụ.
Vua Sở
hỏi Trịnh Tụ rằng:
-Mĩ nhân
hễ trông thấy quả nhân là bịt mũi lại là cớ làm sao? Trịnh Tụ nói:
-Đó là
nó hiềm đại vương thân thể hôi hám, cho nên phải bịt mũi để không hít phải!
Vua Sở
giận quá, sai xẻo mũi mĩ nhân đi. Từ đó Trịnh Tụ lại càng được vua Sở yêu quý.
LẠM BÀN
1.Trịnh
Tụ che dấu sự ghen tức của mình thật khéo và áp dụng kế tiếu lí tàng đao thật
tinh vi.
Mưu kế
bản chất là cây dao hai lưỡi, nếu được ứng dụng vào việc trừ gian diẹt ác thì
rất tốt. Nếu gặp bọn bàng môn tà đạo ứng dụng vào viêvj trả thù cá nhân thì rất
nguy hiểm.
2.Kế
tiếu lí tàng đao tương tự như kế mượn dao giết người được các nhà chính trị
thời xưa áp dụng khá phổ biến: Thời chiến quốc, Phí Vô Cực mượn tay Nang Ngoả
giết Khước Uyển. THời Tam quốc Tào Tháo mượn tay Lưu Biểu giết Nễ Hành. Lí do
Nễ Hành dám cởi truồng chửi Tào Tháo. Tháo nén giận không giét vì sợ chốc lấy
tiếng không chiêu hiền đãi sĩ, sợ thiên hạ chê không có lượng dung người.
B. DANH SĨ THIÊN HẠ CỞI TRUÔNG ĐÁNH TRỐNG
Nễ Hành
đến, lễ xong, Tháo không mời ngồi. Hành ngửa mặt lên trời than rằng:
-Trời
rộng thế này, sao không có một người nào! Tháo nói:
-Thủ hạ
ta vài mười người đều là anh hùng đời nay, sao bảo là không có người?
Hành
nói:
- Xin
cho biết
Tháo
đáp:
-Tuân
Úc, Tuân Du, Quách Gia, Trình Dục có nhiều mưu trí, dẫu có Tiêu Hà, Trần Bình
ngày xưa vị tất đã bằng.
Trương
Liêu, Hứa Chử, Lí Điển, Nhạc Tiến sức khoẻ không ai địch nổi, dù Xầm Bành, Mã
Vũ ngày xưa chưa thấm vào đâu.
Lã Kiền,
Mãn Sủng làm tùng sự; Vu Cấm, Từ Hoảng làm tiên phong; Hạ Hầu Đôn là bậc kì tài
trong thiên hạ; Tào Hồng là phúc tướng trên đời. Sao dám bảo là không có người?
Hành
cười đáp:
-Ông lầm
rồi! những nhân vật ấy tôi biết cả: Tuân Úc nên sai đi viếng tang thăm bệnh;
Tuân Du nên sai đi giữ mả coi mồ; Trình Dục nên cho đứng gác cửa ngõ; Quách Gia
nên để bình phú ngâm thơ.
Trương
Liêu cho đi đánh trống khua chiêng; Hứa Chử cho đi chăn trâu dắt ngựa; Nhác
Tiến cho đi nhận thư đọc chiếu; Lã Kiền nên để mài dao đúc gươm; Mãn Sủng nên
để uống rượu ăn dấm; Vu Cấm thì được việc khiêng ván đắp tường; Từ Hoảng thì
giỏi về mổ lợn giết chó; Hạ Hầu Đôn thì gọi là tướng quân có đủ chân đủ tay;
Tào Hồng thì gọi là thái thú vòi tiền: còn những đồ kia là đồ giá áo túi cơm,
thùng rượu bị thịt cả!
Tháo
giận hỏi:
- Mày có
tài gì?
Hành
đáp:
-Thiên
văn, địa lí thứ gì không biết; tam giáo, cửu lưu không thứ gì không hiểu; trên
có thể giúp nhà vua làm được bậc Nghiêu, Thuấn; dưới có thể sánh đạo đức với
bậc Khổng, Nhan. Ta nào thèm bàn chuyện với hạng người tầm thường đâu!
Bấy giờ
Trương Liêu đứng bên cạnh, tuốt gươm toan chém Nễ Hành, Tào Tháo nói:
-Ta đang
thiếu một cổ lại, người đánh trống, nay mai trong triều có việc yến hạ nên sai
Hành sung vào chức ấy.
Hôm sau,
Tháo mở yến tiệc trên sảnh đường thết các tân khách. Hành mặc áo cũ đi vào đánh
ba hồi trống, theo khúc Ngư Dương( khúc nhạc bi thương, bi đát), âm điệu tiêu
tao lắm, trầm bổng nhịp nhàng như tiếng thạch. Những người ăn cảm thương chảy
nước mắt.
Tả hữu
quát rằng:
- Sao
không thay áo?
Hành cởi
tuột quần áo, khoả thân đứng dậy, khách ngồi ai cũng che mặt.
Hành lại
khoan thai mặc quần áo, sắc mặt không thay đổi. Tháo mắng:
-Trên
chỗ miếu đường sao được vô lễ? Hành nói:
-Dối vua
lừa trên mới gọi là vô lễ. Ta lộ cái hình hài của cha mẹ sinh ra là để tỏ cái
thân thể thanh bạch của ta đây!
Tháo
hỏi:
-Mày
thanh bach thì ai dơ ai đục?
Hành
đáp:
-Mày
không biết người hiền, người ngu là mắt đục; không học thi thư, là mồm đục;
không nghe lời trung là tai đục; không hiểu chuyện xưa nay là thân đục; không
dung các chư hầu là bụng đục; thường muốn cướp ngôi là ruột đục.
Tao là
danh sĩ thiên hạ, mày dùng làm cổ lại khác gì Dương Hoá khinh đức Khổng Tử,
Tang Thương chê thầy Mạnh Tử. Mày muốn dựng nghiệp vương bá mà khinh người thế
à?
Bấy giờ
Khổng Dung cũng ngồi ở đó, sợ Tháo giết Nễ Hành, khoan thai tiến lên nói:
-Nay cho
ngươi sang Kinh Châu, nếu dụ được Lưu Biểu quy hàng ta sẽ dùng ngươi vào chức
công khanh.
Nễ Hành
đến Kinh Châu vào yết kiến Lưu Biểu, miệng tuy khen ngợi đức tốt nhưng vẫn có ý
trào phúng. Biểu không bằng lòng, sai đến Giang Hạ gặp Hoàng Tổ.
Có người
hỏi Biểu rằng:
- Nễ
Hành dám xấc đùa cợt chúa công, sao chúa công không giết đi
Biểu
nói:
-Nễ Hành
nhiều lần làm nhục Tào Tháo. Tháo không giết sợ mất lòng thiên hạ cho nên mới
sai hắn đến đay có ý mượn tay ta giết hắn để cho ta mang tiếng hại người hiền.
Bởi vậy ta sai Hành đến gặp Hoàng Tổ, cho Tháo biết ta chẳng dại gì đâu!
Hoàng Tổ
và Nễ Hành cùng uống rượu, hai người đều say. Tổ hỏi Hành:
-Người ở
Hứa Đô có biết ai là người khá?
Hành
đáp:
-Có bé
nhớn là Khổng Văn Cử, thằng bé con là Dương Đức Tổ, ngoài hai đứa ấy không còn
đứa nào nữa!
Tổ hỏi:
-Như ta
đây thì thế nào?
Hành
đáp:
-Người
như tượng thần trong miếu tuy được người ta cúng tế nhưng chẳng thiêng liêng
gì!
Tổ giận
nói:
-Mày bảo
tao là tượng gỗ à? Rồi sai đem chém Nễ Hành.
Khi Nễ
Hành chết, Lưu Biểu thương hại sai mai táng trên bãi Anh Võ
LỜI BÀN CỦA TÀO THÁO VÀ NGƯỜI ĐỜI SAU:
Tào Tháo
nghe tin cười nói: Gươm lưỡi kẻ hủ nho, mình lại giết mình.
Người
đời sau chê Hoàng Tổ bụng dại hẹp hòi và ngậm ngùi:
Đến nay
qua viếng châu Anh Võ
Chỉ thấy
vô tình nước chảy xuôi!
47 Quỷ kế gồm có:
1.Trong
nhu có cương, trong cương có nhu
2.Tuyệt
đối bí mật
3.Co để
duỗi
4.Trước
đánh sau bắt
5.Lấy
giả làm thật
6.Ném đá
hỏi đường
7.Lấy
tính chế động
8.Giả
nhưng không điên
9.Người
tài của Tấn dùng ở Sở
10.Bí
quyết hiến kế
11.Tuỳ
lòng ham muốn
12.Làm
cho đối phương nghi ngờ nhau
13.Kẻ hở
giữa hư và thực
14.Sắc
đẹp phụ nữ nguy hiểm như dao kiếm
15.Biết
trước thời thế
16.Kín
kẽ, chu đáo
17.Biến
không thành có
18.Nụ
cười dấu đao kiếm
19.Không
tiến thì thối
20.Một
mũi tên trúng năm con
21.Thiên
mệnh ràng buộc
22.Mưu
kế không thể lửng lơ
23.Thẩm
định thời cơ, đo lường thế lực
24.Xuất
đầu lộ diện
25.Liệu
địch như thần
26.Quanh
co, khuất lấp
27.Không
đánh mà thắng
28.Không
cự mà tuyệt
29.Thả
mồi sâu, câu cá lớn
30.Kiêu
mưa gọi gió
31.Lấy
thắng trí
32.Không
ngại nói thẳng
33.Nói
mãi phải tin
34.Chính
không bằng kì
35.Khống
chế địch trước
36.Mức
độ thân sơ
37.Xa
bang giao, gần tiến đánh
38.Giải
mối nghi ngờ
39.Đã
quyết thì không nên thay đổi
40.Quyết
đoán then chốt
41.Có
thưởng có phạt
42.Gương
sang thường soi
43.Trời,
đất và người
44.Giải
cứu hiềm nghi
45.Trước
lễ sau binh
46.Sự
hưng suy qua lễ nhạc
47. Chết
để sau sống
Âm Phù
Kinh 陰 符 經
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ bình chú
Hoàng Đế
Tựa
Âm Phù
Kinh là một quyển sách rất nhỏ của Đạo Lão, tương truyền là do Hoàng Đế
(2697-2597) viết. Nhưng có nhiều học giả không công nhận như vậy.
Trình
Chính Thúc (Trình Di, Trình Y Xuyên, 1033-1107) cho rằng sách này được viết vào
thời Ân (1766-1154) hay thời Chu (1122-255).
Chu Hi
(Chu Nguyên Hối, 1130-1200) cho rằng Lý Thuyên, một đạo sĩ đời vua Đường Huyền
Tông
(713-755) đã ngụy tạo ra.
Chu Hi
soạn Âm Phù khảo dị.
Thiệu
Khang Tiết (1011-1077) cho rằng Âm Phù Kinh được viết ra vào đời Chiến Quốc.
Đạo tạng
có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc
Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên.
Trương
Quả Lão (một vị trong Bát Tiên đời Đường) cũng có viết Âm Phù Kinh và có dẫn Y
Doãn, Thái Công, Chư Cát Lượng, Lý Thuyên.
Lại có
bản do 11 người chú: Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc, Trương Lương, Chư Cát Lượng,
Lý Thuần Phong, Lý Thuyên, Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh.
- Thạch
Đại Dương Nhân Sơn, một người rất giỏi về Đạo Phật, chú Âm Phù theo Phật.
- Lý Gia
Du giỏi Dịch giảng Âm Phù theo Dịch.
- Đơn
Chân Nhân, Khấu Trương, Trương Quả Lão, Lý Thuyên là các Đạo Gia nên bình Âm
Phù theo Lão.
Trịnh
Tiều Nghệ Văn cho biết trước sau có 38 bộ Âm Phù Kinh biên soạn thành 51 quyển.
Như vậy
mỗi người chú Âm Phù một cách. Binh gia giải theo Binh Gia, Đạo Gia giải theo
Đạo Gia, Phật Gia giải theo Phật Gia. Nhưng Âm Phù Kinh vẫn là Âm Phù Kinh.
(Xem Vô
Tích Hoàng Nguyên Bính tiên thích, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, Tựa)
Tại sao
một quyển sách chỉ vẻn vẹn có ba bốn trăm chữ mà được nhiều học giả mê thích
như vậy?
Thưa vì
nó đưa ra một học thuyết quá hay: Đó là hãy bắt trước Trời mà hành sự thì muôn
việc đều hay. (Quan Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi hành tận hĩ. 觀 天 之 道 執 天 之 行. 盡 矣.)
Trung
Hoa Đạo giáo Đại Từ Điển viết:
«Thánh
Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi
cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các
đắc kỳ nghi...»/
«Thánh
nhân xem Trời, bắt chước Trời hành sự, nếu việc Trời việc người ăn khớp với
nhau, làm gì cũng hợp đạo Trời, không làm gì sai trái với tự nhiên, thì trị
nước hay tu thân đều tốt đẹp.» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo
Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm.) Xưa nay chỉ có ăn ở theo đúng cơ Trời, thời
Trời, là hay, là tốt mà ít ai nhận thấy./
Chúng ta
thấy ngày có mặt trời, đêm có mặt trăng. Mà mặt trời thời hằng cửu, bất biến,
mặt trăng thì tròn khuyết biến thiên. Mặt trời là Thái Cực, mặt trăng là Âm
Dương. Trăng có tròn có khuyết, con người có khi tốt có khi xấu, nhưng lúc
chung cuộc phải tiến tới viên mãn như trăng ngày rằm, như mặt trời chính Ngọ.
Chu kỳ mặt trăng gồm đủ 64 quẻ Dịch mà chúng ta không thấy.//
Mỗi chớp
mắt, mở mắt của chúng ta, mỗi một ngày một đêm, mỗi một tháng, mỗi một năm cũng
gồm đủ 64 quẻ Dịch. Như vậy rõ ràng là Trời muốn chúng ta sống theo đúng tự
nhiên, thì mọi sự sẽ chu toàn.
Ngay quẻ
Kiền đã dạy chúng ta phải bắt chước Trời mà hành sự.
Đại
Tượng quẻ Kiền viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健. 君 子 以 自 強
不 息:
Trời cao
mạnh mẽ xoay vần,
Nên
người quân tử quyết tâm tự cường.
(Không
hề ngưng nghỉ triển dương)
Câu thứ
4 của Âm Phù Kinh cũng hết sức hay:
Thiên
Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã.
(天性人也,人心機也.立天之道以定人也.)
Thiên
Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời để xác định (xem) con người
(tiến bộ đến đâu.)
Đọc Âm
Phù Kinh, tôi mới thấy rõ, Con người chính là Trời (Thiên Tính Nhân dã), còn
Con người chỉ là Cái máy. Lập ra đạo Trời, cho thấy đâu là Đạo Người rốt ráo.
Đạo Con
Người thật ra là đạo tự nhiên bất biến. Con người sinh ra không phải là để khổ
đau, mà chính là để luôn luôn sung sướng. Con người sinh ra cốt là để nhìn thấy
trong mình, ngoài mình, đâu đâu cũng là Chân Thiện Mỹ. Con người hiện chưa được
vậy, là vì quá ích kỷ và con u mê dốt nát mà thôi.
Gần cuối
sách, Âm Phù Kinh lại dạy bài học thứ ba:
Thị cố
quân tử tri tự nhiên chi Đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi.
(是故君知自然之道不可違,因而制之.)
Cho nên
người quân tử không thể đi sai Đạo tự nhiên. Chỉ có thể nhân đó biến chế mà
thôi. Xưa nay, người ta thường chống đối với tự nhiên, thích chinh phục thiên
nhiên. (Going against Nature, conquering Nature).
Nhưng
cũng có người cho rằng cần phải tìm hiểu Tự Nhiên, Hiểu Tự Nhiên là Cứu Rỗi
mình (Knowledge of Nature, as a way of Salvation), và chủ trương Theo Thiên
Nhiên (Following the way of Nature).
Cũng có
người chủ trương theo tự nhiên là chết, đi ngược tự nhiên mới được trường sinh.
(Thuận tắc tử, nghịch tắc Tiên).
Biến chế
Tự Nhiên Âu Châu dịch là Manipulation of Nature. (Xem Science and Civilisation
in China, Vol. V, Joseph Needham, Index, nơi chữ Nature, tr. 541)
Tôi
tuyệt đối chủ trương ta không thể sống ngược với Thiên Nhiên được, nhưng phải
nương theo Thiên Nhiên mà sống. Nếu dạy người đi ngược chiều hướng này là làm
hại người mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn chấp nhận lời trên của Âm Phù Kinh.
Câu
Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên trong các sách luyện đơn là cốt dạy con người đi
sâu vào phía Tâm Linh, chứ đừng để Tâm Thần phát tán ra ngoại cảnh, nhất là khi
về già. Nghịch đây không phải là đi ngược Thiên Nhiên.
* Chiều
đi từ quẻ Phục cho tới quẻ Kiền thường được gọi là Chiều Nghịch. Chiều đi từ
quẻ Cấu cho tới quẻ Khôn là chiều Thuận. Thuận là Thuận của phàm nhân; Nghịch
là Thuận của Thánh Tiên.
Âm Phù
Kinh chủ trương: Bắt chước Trời mà hành sự, theo đúng cơ trời mà biến hóa, như
vậy để cầu trường sinh. hay làm cho nước giàu dân mạnh, hay làm cho binh cường
tướng mạnh để chiến thắng, tất cả đều là một nguyên tắc. (Quan Thiên chi đạo,
chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng.)
(Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332)
Âm Phù
Kinh là: «Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.» (Âm Phù Kinh là sách Thánh
Nhân thay Trời dạy huyền cơ Đạo Lý.)
Thánh
Nhân dụng tâm hết sức thâm trầm, thấy được Thiên Tính Bản Nhiên của mình, rồi
theo đúng cơ vi, sống hợp nhất với lẽ Tự Nhiên. Nhìn vào lòng mình, theo đúng
cơ vi Trời Đất, hiểu thế là hiểu rõ Âm Phù Kinh.
«Thánh
Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến
thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý. Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm
phù chi nghĩa tận hĩ.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332)
Thần
Trời Đất với Thần trong ta là Một, nên khi hoạt động thời in như thần, khi tĩnh
lặng thì có đủ Thần trong mình, mình và Thái Không là Một, mình với vạn hữu là bạn,
Thể Tính của mình và Thể Tính của trời đất không có gì khác biệt, thế gọi là
Đắc Đạo.
«Thiên
Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ
Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị
Đắc Đạo.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332)
Âm Phù
Kinh dạy ta lẽ Thiên Đạo và Nhân Tâm ám hợp với nhau, và muốn ta sống đúng theo
Trời.
«Thiên
Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động.» (Trung Hoa Đạo
Giáo Đại
Từ Điển, tr. 333)
Âm Phù
Kinh xưa nay chỉ có hơn 300 chữ hay hơn 400 chữ. (SĐD, tr.333)
Cộng
thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phách thêm
Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (SĐD, tr.333)
Âm Phù
Kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau.
Và giải
Âm là Âm, Phù là Phù Hợp. (SĐD, tr. 333)
Âm Phù
Kinh đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành
Tính. (SĐD, tr. 334)
«Vạn vật
hữu hình viết Âm, Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự
Nhiên chi Đạo viết Kinh.» Lại nói: «Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã,
Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn
chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (SĐD, tr. 334)
Tôi dịch
Âm Phù Kinh vì thấy một quyển sách nhỏ bé như vậy mà sao lại có nhiều danh nhân
bình giải như thế.
Tôi thấy
những người như Lý Thuyên đời vua Đường Huyền Tông, ưa thích Đạo từ nhỏ, mới
đầu Ông có được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Ông đọc cả ngàn lần mà vẫn không
hiểu được thâm ý. Theo truyền thuyết thì Ông đã tới Ly Sơn và đã được một bà cụ
dạy cho huyền nghĩa Âm Phù, Ông mới hiểu ý nghĩa Âm Phù. Sau đó Ông viết: Hoàng
Đế Âm Phù Kinh Sớ, 3 quyển, Thái Bạch Âm Kinh, 10 quyển, Ly Sơn Lão Mẫu truyền
Âm Phù huyền nghĩa, 1 quyển. Ông làm quan giữ chức Giang Lăng Tiết Độ Sứ phó
Ngự Sử Trung Thừa. Ông là người có mưu lược, sau đó vào danh sơn qui ẩn, phục
khí, tịch cốc, thanh tâm tu đạo, không rõ chết ra sao. Ông còn viết thêm ít
sách khác. (Xem Du Tấn, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 97)
Tựa của
Lưu Nhất Minh
Âm Phù
Kinh chỉ có hơn 300 chữ, lời của nó sâu nhiệm, ý nghĩa nó tinh vi. Nó sinh ra
Hỗn Độn, phá vỡ Hồng Mông, diễn xuất những điều bí mật của Tạo Hóa, triển khai
những điều bí ẩn của Tính Mệnh. đó là một quyển Chân kinh, dạy Tu Đạo hay nhất.
Lục Long Mông đời Đường cho rằng Hoàng Đế đã chép ra sách này.
Trần
Uyên đời Tống rằng Hoàng Đế đã được Quảng Thành Tử truyền cho.
Chu Hi
cũng cho rằng sách là do Hoàng Đế viết.
Thiệu
Khang Tiết cho rằng sách được chép vào thời Chiến Quốc.
Trình Y
Xuyên cho rằng sách được chép vào thời Thương Mạt hoặc Chu Mạt, mỗi người một
ý. Tôi lý luận như sau: Thế gian đều cho là Hoàng Đế đã viết ra sách này, và
xưa nay đều gọi là Âm Phù Kinh. Như vậy là do Hoàng Đế đã viết ra, đến đời
Đường Ngu, Hạ Thương thì nó được truyền sâu rộng.
Hoặc là
Hoàng Đế soạn tác, rồi sách được truyền miệng. Các bậc Thành Chân Tiên Lữ mới
viết thành sách đem ra truyền tụng, điều đó cũng khó mà quyết định. Theo truyền
thuyết thế gian thì sách là do Hoàng Đế viết ra, điều đó cũng có thể lắm.
Tuy
nhiên sách này truyền thụ từ lâu và có nhiều chỗ sai ngoa, khổ nỗi không có bản
nào là chính bản, chữ nghĩa lầm lẫn quá nhiều. Có người cho rằng Ly Sơn Lão Mỗ
có 100 chữ giải thích kinh này. Thật là làm cho Thánh Đạo bị vấn loạn. Y như
người mù lại dắt người mù.
Lại có
người cho rằng sách này đã được Y Doãn, Lữ Đồng Tân, Trương Quả Lão, Trương Tử
Phòng, Khổng Minh chú. Thật là chuyện lừa bịp thiên hạ.
Từ đó
thấy mắt cá tưởng là Chân Châu, thấy nai tưởng ngựa, không còn biết được Chân
Kinh Diệu Chỉ.
Năm Càn
Long thứ 44, tức là năm Kỷ Hợi (1779), tôi viết sách này ở Nam Đài. Dùng tất cả
các bản chú thích của Chư Gia, hiệu chính từng chữ, từng câu, thuật lại đại ý,
tảo tà cứu chính, đả phá mọi cuồng ngôn loạn ngữ, các bậc cao minh có thể tự
mình biện giải.
Âm Phù
Kinh 陰 符 經
Thượng
Thiên
Âm là
Ám. Phù là Hợp. Kinh là Thường Hằng.
Con
người phải sống phù hợp với Đại Đạo. Đó là chân lý hằng cửu.
Nếu ta
sống phù hợp Thiên Đạo, thì Thiên Nhân sẽ hợp nhất. Nhất động nhất tĩnh đều là
Thiên cơ. Và con người chính là Trời vậy.
Âm Phù
có 3 thiên, và ý nghĩa ba chữ Âm Phù Kinh đều bàng bạc trong đó.
Hoàng Đế
Công Tôn Hiên Viên trứ.
Hoàng Đế
là vị vua kế vị Thần Nông. Tên là Công Tôn. Sinh ra ở Hiên Viên. Ông đã viết ra
quyển sách này.Trương Quả Lão. Dương Văn Hội, Lý Thuyên đều nói là do Hoàng Đế
viết.
1. Quan
Thiên Chi Đạo, chấp Thiên chi hành, tận hĩ.
觀天之道,執天之行,盡矣.
Hãy bắt
chước Trời mà hành sự thì muôn việc đều hay.
Đạo Trời
là Vô Vi, là Trí Trung, Trí Hòa. Đạo Trời là Vô Thanh, Vô Xú, không tiếng không
hơi.
Cho nên
chấp Thiên chi hành là chủ tể tại Ngã.
Lưu Nhất
Minh chú rằng:
«Tính
Mệnh chi Đạo là Thiên Đạo. Mà Thiên Đạo là đạo Âm Dương.
«Thế nào
là Quan Thiên: Quan Thiên là Cách Vật Trí Tri, là biết trong mình có Trời; quan
thiên là cực thâm nghiên cơ, là nghiên cứu tường tận cơ trời; quan Thiên là Tâm
tri thần hội, là được Trời ứng hợp vào tâm; quan thiên là biết hồi quang phản
chiếu, là biết đi sâu vào lòng mình; quan thiên là nhìn cho rõ ràng không mảy
may dối trá, tà ngụy.
«Thế nào
là Chấp Thiên chi hành: Chấp Thiên chi hành là Chuyên Tâm trí chí, là dồn hết
tâm lực vào chuyện thực hành theo Trời; Chấp Thiên là làm theo đúng mực không
thái quá, không bất cập; Chấp Thiên là dồn hết tâm lực vào chuyện bắt chước
Trời, chuyện theo Trời; Chấp thiên là càng ngày càng tiến bộ; chấp Thiên là
trước sau như một.
«Quan
thiên chi Đạo là Đạo Vô Vi, là Đốn Ngộ, để liễu Tính của mình, biết mình có
Tính Trời.
Chấp
Thiên đó là cái học Hữu Vi, cái học Tiệm tu, cốt để Liễu Mệnh.
«Vừa
biết Quan, vừa biết Chấp là biết dùng cái Đạo Âm Dương, theo phép thê gian để
siêu xuất thế gian, chu toàn Tính Mệnh song tu, sau đó quên cả Tâm lẫn Pháp,
siêu xuất Thiên Địa vĩnh cửu trường tồn.
«Chỉ hai
câu trên đã là thang trời giúp ta thành tiên thành Phật, đó chính là cái Đạo
của Thánh Hiền. Ngoài ra chỉ là Bàng Môn tả Đạo mà thôi.» (Xem Lưu Nhất Minh,
Âm Phù Kinh.)
2. Thiên
hữu Ngũ tặc, kiến chi giả xương.
天有五賊,見之者昌.
Ngũ tặc
là Ngũ Hành, là Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Trời dùng Âm Dương Ngũ Hành để sinh vạn
vật, người nhân Âm Dương Ngũ Hành mà sinh trưởng. Nhưng khi Ngũ Hành đã xuống
Hậu thiên thì không còn hòa hợp mà lại sinh khắc lẫn nhau. Mộc coi Kim là tặc
hại, Kim coi Hỏa là tặc hại, Hỏa coi Thủy là tặc hại; Thủy coi Thổ là tặc hại;
Thổ coi Mộc là tặc hại.
Tuy
nhiên Ngũ Hành cũng còn có Điên Đảo Ngũ Hành. Chiều này Đạo Lão gọi là Nghịch
Thi Tạo Hóa, Điên Đảo Ngũ Hành.
Ta thấy:
Kim vốn khắc Mộc, nhưng Mộc nhờ Kim mà trở thành Khí Cụ; Mộc vốn khắc Thổ,
nhưng Thổ nhờ mộc mà sinh Vinh; Thổ bản khắc Thủy, nhưng Thủy nhờ Thổ mà không
chảy lai láng; Thủy vốn khắc Hỏa, nhưng Hỏa nhờ Thủy mà không bị Khô Táo; Hỏa
vốn khắc Kim nhưng Kim nhờ Hỏa mà trở nên Sáng Láng. Hiểu được như vậy, thì Ngũ
Tặc sẽ thành Ngũ Bảo, và Ngũ Hành chỉ còn là Nhất Khí, sẽ Hoàn Nguyên Phản Bản,
Hiểu vậy chẳng Vinh Xương hay sao?
3. Ngũ
Tặc tại Tâm, thi hành ư Thiên, Vũ Trụ tại hồ thủ, vạn hóa sinh hồ thân.
五賊在心,施行於天,宇宙在乎手,萬化生乎身.
Con
người bẩm thụ khí Ngũ Hành trong thân, nhưng Tâm mới chính là chủ của Thân,
Thân chỉ là nhà ở của Tâm. Cho nên ngũ hành thật sự là ở nơi tâm. Mà Tâm thì
lại phân ra Nhân Tâm (lòng người) và Đạo Tâm (lòng Đạo, lòng Trời).
Nếu Nhân
Tâm mà làm chủ, thì Ngũ tặc sẽ phát ra thành Ngũ Vật là: Hỉ Nộ Ai Lạc Dục.
Nếu Đạo
Tâm mà làm chủ, thì Ngũ tặc sẽ biến thành Ngũ Đức là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín. Nếu hiểu đầu đuôi Ngũ Hành là như vậy, thì sẽ để cho Đạo Tâm chỉ huy để
mỗi ngày mỗi tiến, tiến mãi tới Trời. Như vậy Vũ Trụ tuy lớn nhưng không thoát
khỏi lòng bàn tay ta, Vạn vật biến hóa cũng không ra ngoài Thân ta. Chúng ta sẽ
toản thốc Ngũ Hành, Hợp Hòa Tứ Tượng, và chuyện Liễu Tính, Liễu Mệnh cũng không
khó. (Xem Lưu Nhất Minh, Âm Phù Kinh.)
4. Thiên
Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã.
天性人也,人心機也.立天之道,以定人也.
Thiên
Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời, để xác định (xem) con người
(tiến bộ đến đâu.)
Thiên
Tính là Tính Chân Như, là Chân Tâm, là Đạo Tâm. Nó không hay, không biết, theo
đúng luật Trời. (Bất thức, bất tri, thuận đế chi tắc) Nó chính là Con Người.
Nhân Tâm
là Khí Chất Chi Tính, là Tri Thức chi Tính. Nó chính là Cơ Tâm. Vì nó mà con
người có sinh, có tử.
Thiên
tính là Bản Thể con người. Nhân tâm là mọi hiện tượng sinh lý, tâm lý nơi con
người. Tính là Thiên cơ, là Thiên Đạo. Nhân Tâm là Nhân cơ, là Nhân Đạo. Con
người phải theo Thiên Cơ, nếu theo Nhân cơ thì sẽ bị diệt vong.
Cho nên
Thánh Nhân quan Thiên Đạo, chấp Thiên hành, Trung Lập bất ỷ, Tịch nhiên bất
động, cảm nhi toại thông (Hệ Từ Thượng, Chương X, Tiết 4). Tu Chân Tính hay
Thiên Địa chi Tính, biến hóa khí chất chi tính; theo Thiên Đạo để định Nhân
Tâm, không để cho có một chút khách khí tồn tại trong lòng.
Nhân Tâm
phải tiến tới hoàn thiện như sách Đại Học đã viết.
5. Thiên
phát sát cơ, di tinh dịch tú. Địa phát sát cơ, long xà khởi lục. Nhân phát sát
cơ, thiên địa phản phúc. Thiên nhân hợp phát, vạn hóa định hĩ.
天發殺機,移星易宿.地發殺機,龍蛇起陸.人發殺機,天地反覆.天人合發,萬化定 矣.
Trời nổi
sát cơ, sao rời vật đổi. Đất nổi sát cơ, rồng rắn hiện ra trên mặt đất. Người
nổi sát cơ, đất trời điên đảo. Trời người hợp phát, vạn sự ổn định.
Sát cơ
là âm khí súc tụ, sẽ làm tổn thương mọi sự. Chúng ta đă chứng kiến các thiên
tai, địa họa, các trận chiến tranh tàn khốc, và đã thấy chúng ta bị thương tổn
ra sao.
Tất cả
những họa hại, là do chúng ta đi ngược đạo Trời. Nếu như Trời Người hợp phát,
thì mọi sự sẽ hanh thông, khang thái.
Theo
đúng đường trời, Trung Dung gọi là Trí Trung Hòa, thiên đia vị yên, vạn vật dục
yên. Đoạn này sẽ dễ hiểu hơn, nếu hiểu là phải có một cuộc sống hòa hài với
thiên nhiên, một nếp sống an lạc trong một cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp, thanh
tịnh và đầy thẩm mỹ và đạo vị. Tóm lại chúng ta không được chống thiên nhiên,
không được tự do khai thác các loài động vật nghĩa là không được bắn giết thú
rừng và muông chim bừa bãi, không đực phá hoại các loài thực vật như phá rừng,
đốn cây tùy tiện, vì giữa muôn loài vốn đã có một thế quân bằng.
Người
xưa vì thế săn bắn có mùa, đốn cây có lúc.
6. Tính
hữu xảo chuyết, khả dĩ phục tàng.
性有巧拙,可以伏藏.
Tính có
khéo vụng, có thể dấu đi không dùng.
Tính con
người, thì ai cũng Thiện. Nhưng con người thụ khí Âm Dương nên thành hình. Vì
bẩm khí Âm Dương nên con người có thanh trọc. Bẩm được Thanh Khí là những người
khéo. Bẩm phải Trọc Khí là những người vụng. Xảo là những người có cơ mưu,
Chuyết là những người si bần.
Xảo
chuyết đều là Khí Chất chi Tính, không phải là Thiên Địa chi tính. Nếu theo Nhân
Tâm là theo Khí Chất chi Tính; Còn những bậc Tu Chân chi Đạo là những người
theo Đạo Tâm, theo thiên địa chi tính, dùng tiên thiên hóa hậu thiên, nên không
cần dùng đến Xảo, Chuyết. (Lưu Nhất Minh)
Chu Hi
chú: Thánh Nhân chi Tâm dữ Thiên Địa tham đồng, Chúng nhân không được vậy là vì
có khéo có vụng. Biết dấu Xảo Chuyết, thì chỉ còn thấy Xảo. (Vô Tích Hoàng
Nguyên Bính, Âm Phù Kinh Chân Thuyên)
Âm Phù
Kinh phát Ẩn chú: Diệu Trí vô trụ thì gọi là Xảo, Nghiệp Thức tạp nhiễm thì gọi
là Chuyết. Xảo Chuyết đều do Tâm, còn Tính con người là Bản Thể. Trí mà hiện
thời Nghiệp Thức ẩn, Thức mà sinh thì Diệu trí tàng. (Vô Tích Hoàng Nguyên
Bính, Âm Phù Kinh Chân Thuyên) Tóm lại, Tính là Thiên Đạo, là Đạo Tâm, Nhân Tâm
là Xảo Chuyết. Muốn Định Thiên, Lập Nhân là phải theo Tính Trời mà quên đi Tính
người.
7. Cửu
khiếu chi tà, tại hồ tam yếu. Khả dĩ Động Tĩnh.
九竅之邪在乎三要.可以動靜.
Cửu
khiếu (Người có Cửu Khiếu: Trên 7, dưới 2) mà có tà khí là do nơi Ba Khiếu quan
trọng.
Phải
biết Động Tĩnh.
Tà khí
xâm nhập vào con người là do nơi Thất Khiếu. Ba khiếu quan trọng trong con
người là Mắt, Tai, Mồm.
Tai nghe
Âm Thanh thì Tinh giao, Mắt nhìn mầu sắc, thì Thần chạy, Mồm nói nhiều thì Khí
tán. Tinh Khí Thần mà đã bị thương, thì toàn thân sẽ suy bại, tính mệnh rồi ra
cũng sẽ táng vong. Nếu con người biết thu thị, phản thính, hi ngôn, bế khẩu,
tùy chỉ hư vô, khiến cho nội niệm bất xuất, ngoại niệm bất nhập, tinh khí thần
tam phẩm đại dược sẽ ngưng kết không tan.
Các
khiếu tùy ý động tĩnh, động tĩnh là Thiên Cơ, không phải là Nhân Cơ, như vậy
thì tà khí làm sao mà không bị tiêu Diệt? (Lưu Nhất Minh).
8. Hỏa
sinh ư Mộc, họa phát tất khắc. Gian sinh ư quốc, thời động tất hội. Tri chi tu
luyện vị chi Thánh Nhân.
火生於木,禍發必克.姦生於國,時動必潰.知之修鍊,謂之聖人.
Hỏa là
Tà Tâm; Mộc là Tính. Gian là những gì âm ác. Quốc là thân con người. Lửa mà
cháy thì Mộc sẽ bị tai họa. Thế là Mộc khắc. Tà sinh ư Tâm, tà phát thì tâm bị
họa, và tính sẽ loạn.
Trong
nước mà có kẻ gian manh, gian manh quấy động, thì nước sẽ bị diệt vong, tan rã.
Cũng
một lẽ,
nếu Âm tàng ư thân, Âm mà thịnh thì Thân vị suy bại, tính mệnh sẽ bị khuynh
đảo.
Nếu biết
tiềm tâm tu luyện, quan Thiên đạo, chấp Thiên hành, biết hàng phục thân tâm,
biết bảo
vệ tính
mệnh, thì Tính Mệnh sẽ không bị Hậu Thiên Ngũ hành câu chấp. Nếu không là thánh
nhân thì
ai làm được chuyện đó. (Lưu Nhất Minh)
Tóm lại,
người tu luyện phải biết hàng phục vọng tâm, giữ gìn Thiên Tính.
Trung
Thiên
9. Thiên
sinh, Thiên sát, Đạo chi lý dã.
天生天殺,道之理也.
Thiên
đạo là Âm Dương. Dương chủ Sinh, Âm chủ Sát. Có Âm thì phải có Dương. Có sinh thì
phải có Sát. Đó là lẽ trời. Cho nên Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm Đông tàng.
Thiên địa tuần hoàn, chung nhi phục thủy.
Như vậy,
nói đúng ra thì đất trời có 2 bộ mặt: Hằng và Biến. Hằng là Bất Biến. Biến là
Tuần Hoàn, Sinh Sát.
Biết
vậy, mới siêu xuất Tuần Hoàn được.
10. Thiên
địa vạn vật chi đạo, vạn vật Nhân chi đạo, Nhân vạn vật chi đạo. Tam Đạo ký
nghi, Tam tài ký an, cố viết thực kỳ thời bách hài lý. Động kỳ cơ vạn hóa an.
天地萬物之盜,萬物人之盜,人萬物之盜.三盜既宜,三才既安,故曰食其時百骸理,動其機萬化安.
Trời là
thủy tổ muôn vật, đất sinh ra muôn vật. Đã sinh ra muôn vật, thì cũng có thể
sát muôn vật, cho nên nói trời đất là đạo chích muôn vật.
Có vạn
vật nên cũng có con người. Con người thấy cảnh sinh tình, tư tình túng dục làm
hao tán thần khí của mình. Nhỏ rồi lớn, lớn rồi già, già rồi chết, cho nên nói
vạn vật là đạo chích của con người.
Con
người là Vạn Vật chi linh, vạn vật tuy ăn trộm được Khí con người, nhưng con
người ăn được tinh hoa vạn vật, con người mượn khí muôn vật mà sinh, cho nên
con người là đạo chích của muôn vật.
Ai cũng
là đạo chích của ai, nên ai cũng thỏa mãn. Tam đạo ký nghi cho nên Thiên Nhân
hợp đức và tịnh hành. không phản bội nhau. Thế là Tam Tài ký yên,
Tam tài
đã yên, Đạo khí thường tồn, cho nên vạn vật không khuất phục được ta, tạo hóa
không câu chấp được ta.
Cái bí
nhiệm là làm gì cũng phải đúng thời, không trước, không sau, không đón, không
đưa, không thái quá, không bất cập. Đại yếu là không làm hỏng thời, không làm
sai máy. Cho nên nói: Ăn phải thời, toàn thân chỉnh, máy chốt động, vạn hóa an.
Thực kỳ
thời là hấp thụ được Tiên Thiên chi khí. Động kỳ cơ, là tùy cơ mà nữu chuyển
được guồng máy sinh sát.
Thực kỳ
thời, là làm tiêu ma dược Hậu Thiên chi khí, cho nên bách hài được toàn vẹn, và
con người không bị thương tổn.
Động kỳ
cơ, là hồi phục được Tiên Thiên chi khí, và vạn vật an, cho nên có thể sống
lâu.
Chữ
thời, chữ cơ thật là khó giải. Đại khái thì Thời là Thiên Thời, Cơ là Thiên Cơ.
(Lưu Nhất Minh)
Trung
Dung chú: Ngô chi tâm chính, Thiên Địa chi tâm diệc chính. Ngô chi khí thuận,
tắc thiên địa chi khí diệc thuận.
Lê Quí
Đôn bình luận về lẽ Thiên Nhân hợp nhất như sau:
«Tâm con
người rất rộng lớn, trên thông với Trời, giữa hiểu được quỉ thần, dưới quan sát
được vạn vật. Giữ tâm mình cho chính trực, sẽ biết đạo lý, biết đạo lý sẽ biết
được cơ vi của trời đất; biết được cơ vi, sẽ có ứng dụng; ứng dụng được, sẽ đạt
quyền năng. Vận mệnh là do con người làm ra, chứ vận mệnh không chế ngự được
con người, lẽ Thiên Nhân hợp nhất cũng không vượt quá lẽ này.»
(Nhân
tâm trí đại, thượng khả dĩ thông thiên, trung khả dĩ trắc quỉ thần, hạ khả dĩ
sát vạn vật. Chính tâm nhi hậu năng tri đạo, tri đạo nhi hậu năng kiến cơ, kiến
cơ nhi hậu năng thành dụng, thành dụng nhi hậu nang đạt quyền. Vận mệnh do nhân
chế, phi năng chế nhân, Thiên nhân hợp Nhất chi lý, bất quá ư thử.) (Tập San
Đại Đạo phổ thông, số 20, tháng 8/2002, tr. 172)
Âm Phù
Kinh khảo dị của Chu Hi chú: Thiên Địa vạn vật chủ ư nhân, nhân năng thực Thiên
Địa
chi
thời, tắc bách hài lý hỉ, động thiên địa chi cơ, tắc vạn vật an hỉ. Thời già:
Xuân thu tảo vãn dã, Cơ giả Sinh Sát Trưởng Dưỡng dã. (Vô Tích Hoàng Nguyên
Bính, Âm Phù Kinh Chân Thuyên.)
Bách hài
lý, vạn vật an là Chấp Thiên chi hành,. (Vô Tích Hoàng Nguyên Bính, Âm Phù Kinh
Chân Thuyên).
Tóm lại
nếu con người theo đúng Thiên Lý thì moị sự sẽ An Vui. Trị Bình do đó mà sinh.
11. Nhân
tri kỳ Thần chi thần, bất tri bất thần chi sở dĩ Thần.
人知其神之神,不知不神之所以神.
Xưa nay
người ta thường coi Chiêu Chiêu Linh Linh chi Thức Thần là Bản Lai chi Nguyên
Thần, cho nên Chước Không, Chấp Tướng, thiên kỳ, bách quái, đến già cũng không
thành tựu được gì, thế rồi chết đi. Họ đâu có biết rằng biết Thức Thần thì chỉ
là mới biết Hậu Thiên chi Thần, chứ chưa biết Tiên Thiên Chi Thần.
Nguyên
Thần ấy mới là Cái Thần Hậu Thiên chứ chưa phải là Thần Tiên Thiên. Nó phi sắc,
phi không, chí Vô nhưng hàm chí hữu, chí hư nhưng hàm chí thật, thảo nào mà con
người chỉ biết có Hậu Thiên chi Thần, nên cam chịu luân chuyển. Chỉ có Tiên
Thiên chi Thần mới bảo trì được Tính Mệnh của ta. Thảo nào mà khi vạn vật ăn
cắp khí lực ta thì ta đâu có biết. (Lưu Nhất Minh)
12. Nhật
nguyệt hữu số, đại tiểu hữu định, thánh công sinh yên, thần minh xuất yên. Kỳ
đạo cơ dã, thiên hạ mạc năng kiến, mạc năng tri. Quân tử đắc chi cố cùng, tiểu
nhân đắc chi, khinh mệnh.
日月有數,大小有定,聖功生焉,神明出焉.其盜機也,天下莫能見,莫能知.君子得之固窮,小人得之輕命.
Tháng
ngày có số, lớn nhỏ đã định. Thánh công sinh và Thần minh hiện. Ăn cắp là Cơ
vi, không nhìn thấy không trông thấy. Quân tử có được thì giữ lấy, tiểu nhân
được thì liều thân.
Con
người ăn cắp được năng khí của Thiên Địa vạn vật, vì Thiên Địa Vạn vật có định
số. Còn thiên Địa vạn vật không ăn cắp được năng khí của con người là vì Đạo
Thánh Nhân thì vô hình vô tượng.
Mặt
trời, mặt trăng tuy cao nhưng có độ số để suy ra. Mặt trời đi một vòng trời mất
một năm, sinh ra Xuân Hạ Thu Đông. Mặt trăng đi một vòng trời mất một tháng, có
doanh hư, sóc vọng. Lớn là Dương, Nhỏ là Âm. Dương cực thì sinh Âm, Âm cực thì
sinh Dương; Đại vãng thì Tiều lai, Tiểu vãng thời Đại lai, cứ vậy tuần hoàn,
nhất định như vậy. Thánh nhân do thế suy ra lẽ Âm Dương tiêu tức của trời đất,
chỉ dụng công vào trong một giờ, lấy được Khí Hồng Mông vị phán của Trời Đất
làm Đan Mẫu, đoạt được số Doanh Hư của Trời Đất đề lập Mệnh Cơ, trước Trời mà
Trời không trách, sau Trời để theo Trời, thánh công do đó sinh, thần minh do đó
hiện, cái Công cái Sáng ấy chính là Đạo Cơ vậy. Tuy là quỉ thần cũng không biết
đâu mà suy đoán, như vậy thì người làm sao đoán được?
Thiên hạ
làm sao mà thấy làm sao mà biết, như nếu thấy được, biết được, cũng không sao
trộm được. Thế mới là Thánh, thế mới là Thần, thế mới là Đạo.Nếu không phải là
trung thần, hiếu tử, đại hiền, đại đức thì không thể biết. Nếu không phải là
liệt sĩ, trượng phu, coi vạn hữu là không, thì không thể nào thi hành cho có
kết quả. Đó là Đạo Đức chân chính. Quân tử được ý, quên lời, đại trí như ngu,
người khéo nhất lại có vẻ như vụng nhất. Nếu chưa đạt tới liễu Tính Liễu Mệnh,
thì không giám tiết lộ bí quyết; cố cùng như kẻ ngu si.
Đến như
những kẻ tiểu nhân bạc phước, vừa mới hưởng được chút hương vị trên đời đã tự
mãn, tự túc, không biết tự trọng ; không có mà tưởng như có, hư không mà tưởng
là đầy đặn, thế là những hạng người chẳng những vô ích mà còn có hại cho xã
hội.
Âm Phù
Kinh phát ẩn chú: Nhật nguyệt có số, đó là Thời. Đại tiểu hữu định, là Phương.
Cát
Huyền trong Âm Phù Kinh thập Chân tập giải có lời tụng:
Hiền
nhân cùng lý hợp hư vô,
Đắc ngộ
Kiền KhônTạo Hóa Lô.
Hạ sĩ
chỉ tranh danh dữ lợi,
Giao
nguyên khưu chủng thị Tiền Đồ.
Hiền
nhân cùng lý hợp Hư Vô,
Hiểu
được Kiền Khôn Tạo Hóa lô.
Hạ Sĩ
chỉ tranh danh và lợi,
Rồi ra
táng mạng ấy Tiền đồ.
Hoàng đế
nói: Tinh thần vào được cửa. Bách hài sẽ phản côn, và cái ta sẽ không còn. (Vô
Tích Hoàng Nguyên Bính, Âm Phù Kinh Chân Thuyên).
Hạ Thiên
13. Cổ
giả thiện thính, lung giả thiện thị. Tuyệt lợi nhất nguyên, dụng sư thập bội.
Tam phản trú dạ, dụng sư vạn bội.
瞽者善聽,聾者善視.絕利一源,用師十倍.三返晝夜,用師萬倍.
Người mù
nghe giỏi, người điếc thấy tinh. Quên lợi một phần, sẽ mạnh gấp trăm. Ngày đêm
tu luyện sẽ mạnh gấp vạn.
Cho nên
nhắm mắt, nghe sẽ rõ hơn. Bịt tai, thấy sẽ rõ hơn. Thanh Tĩnh kinh viết: Chúng
sinh không biết chân đạo, là vì có vọng tâm. Vì có vọng tâm, nên khiến thần
kinh sợ. Thần kinh nên bám víu vật chất. Bám víu vật chất nên nổi tham cầu. Đã
tham cầu nên sinh phiền não. Phiền não, vọng tưởng làm ưu khổ thân tâm, làm cho
mình bị trầm luân khổ ải, không biết được chân đạo.
Vọng
tưởng, tham cầu là nguồn lợi lộc, nếu con người gạt bỏ được tham cầu, thì vạn
hữu thành không, tư lự sẽ giảm thiểu, cho nên ngồi vận công đạo dẫn sẽ thấy gia
tăng công lực. Nếu như suốt ngày lo Tồn Thành, Khử Vọng, thì rốt cuộc sẽ tới
được chỗ Chí Thiện, Vô Ác.
14. Tâm
sinh ư vật, tử ư vật. Cơ tại mục.
心生於物,死於物.機在目.
Trong
con người Tâm là Chủ, mắt là cửa vào Tâm. Tâm đây là Bản Lai Chân Tâm, không
không, đỗng đỗng, vô ngã, vô tâm, vô vật, đồng thể với Thái Hư. Nó chính là Đạo
Tâm, là Tâm Chân Như của nhà Phật. Nó bất sinh bất diệt.
Tâm mà
có sinh có diệt là cái Tâm Thịt, là Nhân tâm.
Vật là
vật dục. Ta không thấy Tâm, nhân vật nên nó hiện. Ta thấy vật, nên thấy tâm;
không có Vật thì Tâm không hiện. Cái Tâm này vì vật mà có sinh tử: Vật sinh thì
nó sinh; vật tử thì nó tử. Con mắt là cửa của Tâm. Nó chiêu vời đạo chích vào.
Mắt thấy gì, tâm liền hay biết. Cho nên mắt là động cơ làm cho Tâm sống chết.
Cho nên động cơ thật là ở nơi mắt.
Nếu con
người biết phản quan nội chiếu, thì ngoại vật sẽ hết đường vào, sẽ không còn
làm ta sinh tử, thì sinh tử còn theo lối nào mà vào.
Chu Hi
chú: Tâm do vật mới thấy, thế là Sinh ư vật, Tâm vì trục vật mà chết, thế là Tử
ư vật. Tâm tiếp được vật là nhờ Cửu Khiếu, nhất là nhờ Mắt. (Vô Tích Hoàng
Nguyên Bính, Âm Phù Kinh Chân Thuyên).
15. Thiên
chi vô ân, nhi đại ân sinh. Tấn lôi, liệt phong, mạc bất xuẩn nhiên. Chí lạc
tính dư, chí tĩnh tính khiêm.
天之無恩而大恩生.迅雷列風萬不蠢然.至樂性噢,至靜性兼.
Trời đối
với vạn vật, tưởng là Vô Ân, nhưng thực ra đã sinh ra vạn vật thực là Đại Ân
vậy. Nhờ phong vũ, lôi đình nên vạn vật tự nhiên sinh xuất. Thế là Chí lạc, thế
là Chí Tĩnh. Tất cả đều vô tâm, tự nhiên.
16. Thiên
chi chí tư, dụng chi chí công. Cầm chi chế tại khí.
天之至私,用之至公.禽之制在氣.
Thiên
đạo thời vô tượng, vô hình, coi muôn loài là một; cho nên chí tư. Bốn mùa vần
xoay, làm cho vận vật nảy sinh, cho nên chí công.
Chỉ dùng
một khí mà cầm giữ, kiềm chế muôn vật. Làm cho vạn vật từ Nhất Bản tán vạn thù,
rồi lại từ Vạn thù qui nhất Bản. Nên thực ra không có gì là Công, không có gì
là Tư. Chỉ có một khí tuần hoàn mà thôi.
17. Sinh
giả, tử chi căn. Tử giả, sinh chi căn. Ân sinh ư hại, hại sinh ư ân.
生者死之根.死者生之根.恩生於害,害生於恩.
Thiên
đạo sinh vật, một khí thượng hạ. Thượng là Dương, hạ là Âm. Dương là Sinh là
Ân, Âm là Tử, là Hại.
Đã có
sinh, thời có Tử; đã có tử, ắt có sinh. Cái nọ là gốc sinh cái kia. Có Ân thời
có Hại, có Hại thời có Ân.
Nếu con
người biết tìm cái sống trong cái chết, thì sẽ được trường sinh bất tử; nếu
biết tìm cái Ân trong cái hại, thì sẽ được cái Ân và sẽ Vô Hại. Ra khỏi cái này
mà vào cái kia, phải cho cẩn thận. (Lưu Nhất Minh).
18. Ngu
nhân dĩ Thiên Địa văn lý thánh. Ngã dĩ thời vật văn lý triết.
愚人以時文理聖.我以時物文理哲.
Ngu Nhân
không biết gì về sinh tử, ân hại. Đó là bí mật tạo hóa tuần hoàn. Thiên văn dạy
ta Tượng; Địa lý dạy ta Hình. Biết cái gì hiển lộ ra bên ngoài, cái gì thấy
được, biết được, không phải là Thánh.
Cái gì
vô hình, vô tượng của Trời Vật đó là cái mà Thần hiển lộ bên trong, nó không
thể thấy, không thể biết, cái đó gọi là Triết lý của Trời Đất.
Cho nên
vật có khi Sinh có khi Tử. Lúc đáng sinh thì sinh, lúc đáng tử thời tử. Sinh là
Ân, Tử là Hại. Tất cả là do Thời Vận, đều là do Thiên Đạo, Thần Đạo vận chuyển.
Thiên
Địa thần đạo ấy không thể thấy, không thể biết. Biết được nó là nhờ Vật. Nhìn
thấy vạn vật sinh tử có thời, thì thấy được cái minh triết của Trời Đất.
19. Nhân
dĩ ngu ngu thánh nhân, Ngã dĩ bất ngu ngu thánh nhân. Nhân dĩ kỳ kỳ thánh nhân,
Ngã dĩ bất kỳ kỳ thánh nhân.
人以愚虞聖人,我以不愚虞聖人.人以奇期聖人我以不奇期聖人.
Người
thường cho rằng thánh nhân là những người ngu. Ta không nghĩ như vậy. Người
thường cho rằng thánh nhân là những người kỳ dị. Ta không nghĩ như vậy.
Đạo tính
mệnh bắt đầu từ Hữu Tác thì không ai biết. Khi nó tới Vô Vi thì người ta mới
biết.
Xưa nay
Chân Thượng thánh nhân lúc tu Hữu Tác, thì thường dấu bớt vẻ sáng, thường
chuyết thông, hủy trí, thao quang, dưỡng hối, Thái Dược trong Hư Vô (Hoảng Hốt
Tra Minh chi Hương), Hành Hỏa Hầu trong Vô Thức Vô tri chi địa. Để hết Tâm Trí
vào Hư Vô, để cho Thần Minh vận chuyển, như vậy quỉ thần làm sao mà dò biết được?
người làm sao mà biết được? Cái bí quyết này ai mà biết được, cho nên thường
nhân không hiểu nổi thánh nhân. Thánh Nhân như một nhà buôn lớn, khéo cất giấu
hàng hóa. Tưởng như không có, mà thực sự là có.
Các Ngài
đâu phải là kẻ ngu?
Khi đã
tới giai đoạn Vô Vi, thì các Ngài Hòa Quang, Đồng Trần, tích công luyện đức,
cực vãng tri lai, thần thông quảng đại, trí tuệ vô biên. Cho nên có người cho
rằng các ngài là những con người kỳ dị. Có biết đâu rằng các ngài chỉ đem cái
Chân Thường để Ứng Vật, chứ chẳng có gì là kỳ dị.
Các Ngài
là những bậc Tham Thiên Địa chi hóa dục, và có đức phối Thiên Địa. (Lưu Nhất
Minh)
20. Trầm
thủy, nhập hỏa, tự thủ diệt vong.
沉水入火,自取滅亡.
Những
tật xấu của con người như tham lam, keo kiệt, ân ái đó là những vực thẳm. Tửu
sắc tài khí thì như là những lò lửa. Thường nhân không biết gì về Thiên Đạo,
Tạo Hóa; không biết gì cái học Tính Mệnh của Thánh Nhân lấy giả làm chân, lấy
khổ làm vui, nên tự hại, dìm mình trong vực thẳm mà không biết, nhập vào lò lửa
mà không hay. Thế là tự chuốc lấy diệt vong, còn trách ai được?
21. Tự
nhiên chi Đạo, tĩnh, cố Thiên Địa vạn vật sinh. Thiên địa chi Đạo tẩm, cố Âm
Dương thắng, Âm Dương tương thôi nhi biến hóa thuận hĩ.
自然之道靜,故天地萬物生.天地之道浸.故陰陽勝,陰陽相摧而變化順矣.
Đại Đạo
vô hình, sinh Thiên Địa vạn vật, Đại Đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn vật. Vô
hình, vô danh là Đạo tự nhiên, chí tĩnh. Tĩnh là máy sinh ra động, tĩnh cực rồi
động, và vạn vật từ đó mà sinh ra. Một sinh ra Thiên Địa, nên Thiên Đạo là Đạo
Tự Nhiên. Nên Đạo Thiên Địa thấm nhuần từ từ, đó cũng là ý nghĩa của Tự Nhiên.
Vì tẩm nhuận tự nhiên, nên động không lìa tĩnh, tĩnh không lìa động. Một động
một tĩnh lấy nhau làm căn cơ, cho nên Âm Dương thắng. Động là Dương, Tĩnh là
Âm, Động cực rồi Tĩnh, Tĩnh cực rồi Động, Âm cực sinh Dương, Dương cực sinh Âm.
Âm Dương đun đẩy lẫn nhau sinh ra tứ thời, làm cho Vạn Vật sinh thành, hoặc
biến hoặc hóa, thuận theo tự nhiên, không có tâm ý gì trong đó. Cho nên tất cả
là do tự nhiên chi Đạo, vô hình vô danh, biến hóa vạn sự, nên biến hóa không
bao giờ cùng.
22. Thánh
nhân tri tự nhiên chi đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi. Chí tĩnh chi Đạo luật
lịch sở bất năng khế. Viên hữu kỳ khí, thị sinh vạn tượng, bát quái, Giáp Tí
thần cơ, Quỉ tàng, Âm Dương tương thắng chi thuật, chiêu chiêu hồ, tiến ư tượng
hĩ.
聖人知自然之道不可違,因而制之.至靜之道律歷所不能契.爰有其氣,是生萬象八卦甲子,神機鬼藏,陰陽相勝之術,昭昭乎,進於相矣.
Thánh
Nhân là những người «Dữ Thiên Địa hợp kỳ Đức», vì các Ngài dữ Thiên Địa hợp kỳ
Đức, nên đi đúng đường lối trời đất, chỉ nhân đó biến chế đôi chút, cho nên các
Ngài dữ Thiên Địa đồng đức.
Thế nào
là Đạo Tự Nhiên: Thưa là Đạo phi sắc, phi không, chí vô nhi hàm chí hữu, chí hư
nhi hàm chí thực, hữu vô kiêm cai, hư thực tịnh ứng. Cho nên nói nó là Vô thì
nó là Hư Vô Nhất Khí, Vô Thanh Vô Xú. Nó là Đạo, hết sức là Tĩnh cho nên số của
luật lịch không thể khế hợp với nó được. Luật lịch chỉ khế hợp được với hữu
hình, không khế hợp được với Vô Hình, vì nó chí tĩnh nên vô hình vậy. Như vậy
luật lịch làm sao khế hợp với nó được. Tín Lăng Sư nói: Hữu vật tiên Thiên Địa,
Vô danh bản tịch liêu, chính là vì vậy.
Nói nó
là Hữu, thì nó chính là Khí Dụng. Nói nó là Kỳ Khí, Thần Khí vậy. Thần khí thì
«Diệu vạn vật», cho nên sum la vạn tượng, bát quái tương đãng, Giáp Tí tuần
hoàn, Thần thì Thân cơ, Quỉ thì Khuất Tàng. Bao dung vạn sự. Tín Lăng Sư gọi
thế là: «Năng vi vạn vật chủ, bất trục tứ thời điêu» là vì vậy.
Tĩnh Đạo
là Vô Danh Thiên Địa chi thủy, Thần Khí là Hữu Danh Vạn vật chi mẫu.
Lão tử
nói: «Vô Dục dĩ quan kỳ Diệu. Quan kỳ Diệu là Quan kỳ Thủy vậy. Hữu Dục dĩ quan
kỳ Kiếu, quan kỳ Kiếu, là Quan kỳ Mẫu.»
Không có
Hữu thì Vô không thành, không có Quan Kiếu thì không có quan diệu.
Quan
Diệu chi Đạo là Vạn Vật giai Không, Vô Tác, vô Vi.
Quan
Kiếu là Âm Dương biến hóa, hữu tu hữu chứng.
Thánh
nhân không đi ngược Thiên nhiên chi Đạo, chỉ Nhân nhi chế chi mà thôi.
Quan
Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi Hành là từ Hậu Thiên trở về Tiên Thiên, từ trong
Sát Cơ
đoạt lấy
Sinh Cơ, Điên Đảo Ngũ Hành, Nghịch Thi Tạo Hóa, lấy Âm Dưỡng Dương, lấy Dương
hóa Âm. Dương Kiện, Âm Thuận, Âm Dương hỗn hợp. Từ quan Kiếu cho tới Quan Diệu,
từ Thần Khí nhập vào chí tĩnh, từ miễn cưỡng đi vaò Tự Nhiên, thế là Hữu Vô
Nhất Trí, công lực vẹn toàn.
Dùng
thuật Âm Dương tương thắng để vượt lên trên Sắc Tượng.
Nên biết
Thuật này không phải Thuật tầm thường. Xưa Hoàng Đế cưỡi rồng lên trời, Trương
Cát Hứa siêu phàm nhập thánh, người xưa đem cả nhà cửa lên Trời có 800, bay
thẳng lên Trời có tới 3000, đều nhờ Đạo này mà thành.
Âm Phù
Kinh chỉ có hơn ba trăm chữ, mỗi dòng đều là Cam Lô, mỗi chữ đều là châu ngọc,
dạy ta con đường Tính Mệnh Bất Tử, dạy ta con đường tu chân của Vạn Thế.
Thế là
lộ hết Thiên Cơ, Đan Kinh Tử Thư dù ví dụ muôn vàn cũng chỉ là dạy Âm Dương
Tương Thắng chi thuật.
Người có
chí thấy được Kinh này, nên thành tâm đọc tụng, nên cầu sư học quyết. Có thể sẽ
Đại Giác, Đại Ngộ, hãy cố thực hành sẽ thấy ứng hợp với các lời Sấm. (Lưu Nhất
Minh)
Thư mục Âm Phù kinh
1.- Lưu
Nhất Minh, Âm Phù Kinh chú
2.- Vô
Tích Hoàng Nguyên Bính, Âm Phù Kinh Chân Thuyên.
3.- Thái
Công đẳng chú (17 người chú giải).
4.- Thất
gia chú (7 người chú)
5.- Lý
Thuyên chú.
6.-
Trương Quả chú.
7.- Viên
Thục Chân chú.
8.-Tiêu
Chân Tể chú.
9.-
Hoàng Cư Chân chú.
10.-
Trầm Á Phu chú.
11.-
Nhiệm Chiếu Nhất chú.
12.-
Kiển Xương Thìn chú.
13.- Đỗ
Quang Đình chú.
14.- Lục
Điền chú.
15.- Lý
Tịnh Âm Phù Cơ.
16.- Âm
Phu Thái Vô Truyện.
17.-
Đướng Vi Hồng, Âm Phù Chính Nghĩa.
18.- Lý
Thuyên Diệu Nghĩa. (Li Sơn Mẫu truyện)
19.-
Trương Quả, Âm Phù Biện Mệnh Luận,.
20.-
Huyền giải tiên sinh, Âm Phù Huyền Đàm
21.- Đỗ
Quang Đình, Âm Phù Kinh
22.- Cát
Hồng, Âm Phù Thập Đức Kinh
23.-
Viên Thục Chân, Âm Phù Kinh Sớ.
24.-
Thái Huyền Tử, Âm Phù Kinh Tụng.
25.- Vô
Vi Tử, Âm Phù Kinh
26.-
Trương bân Khanh, Âm Phù Sớ.
27.-Trương
Lỗ, Âm Phù Huyền Nghĩa. 28.- Phí Trường Phòng, Âm Phù Đợn Kinh.
29.- Ly
Sơn Mẫu chú, Âm Phù Đơn Kinh,
30.- Âm
Phù Kinh Tự.
31.-, Âm
Phù Ngũ tặc nghĩa.
32.- Âm
Phù Tiểu Giải.
33.- Âm
Phù Đơn Kinh Giải.
Từ số 2,
đến số 33 là theo Tống, Cao Tự Tôn tử trong sách Vô Tích Hoàng Nguyên Bính, Âm
Phù Kinh Chân Thuyên, tr.23.
Âm Phù
được Đường Quả Lão, Y Doãn, Thái Công Vọng, Chư Cát Lượng, Phạm Lãi, Quỉ Cốc
Tử, Trương Lương, Lý Thuyên v. v... chú.
Cũng có
người cho sách này đã được 11 người chú giải, thay vì 7 người như trên. Đó là:
Thái
Công,
Phạm Lãi (525-455) Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong (602-670 Đường),
Lý Thuyên (Đời Đường Huyền Tông), Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh.
Ý nghĩa
kinh sách đạo Lão Âm phù kinh
Khoảng
23 quyển khác nhau.
«Thánh
Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi
cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các
đắc kỳ nghi...» (Hoàng Đế
Âm Phù
Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm)
Sách này
được Đường Quả Lão, Y Doãn, Thái Công Vọng, Chư Cát Lượng, Phạm Lãi, Quỉ Cốc
Tử, Trương Lương, Lý Thuyên v. v... chú.
Cũng có
người cho sách này đã được 11 người chú gỉai, thay vì 7 người như trên.
Đó là:
Thái Công, Phạm Lãi (525- 455) Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong
(602-670 Đường), Lý Thuyên (Đời Đường Huyền Tông), Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt,
Lý Thịnh.
Đều chủ
trương Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an
dân, cường binh chiến thắng. (sđd, tr.332)
Âm Phù Kinh là:
«Thánh
Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.»
«Thánh
Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến
thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý.»
Chiếu
chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hỉ. (332)
Thiên
Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ
Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc
Đạo
Thế là
Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động (333)
Âm Phù
Kinh xưa nay chỉ có 300 chữ hay 400 chữ. (333)
Cộng
thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phach thêm
Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (333)
Âm Phù
kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau.
Và giải
Âm là Ám, Phù là Phù Hợp. (333)
Đề cao
thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (334)
«Vạn vật
hữu hình viết Âm. Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự
Nhiên chi Đạo viết Kinh” Lại nói: Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã,
Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn
chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (334)
Thanh
Tĩnh Kinh (10 kinh)
Chủ
Trương các bộ Thanh Tĩnh Kinh là đề cao Thanh Tĩnh.
Đó là
học thuyết của Đỗ Quang Đình (Đường Mạt), của Bạch Ngọc Thiềm (Nam Tống), của
Hầu Thiện Uyên (Kim Nguyên), của Lý Đạo Thuần (Nguyên Mạt, Minh sơ), Vương Đạo
Uyên (Nguyên Mạt Minh Sơ).
Đại chỉ
dĩ Thanh Tĩnh vi bản, khuyến nhân trừng tâm khiển dục, không vô thường tịch,
nải chí tịch vô sở tịch, tắc thể hợp vu Đạo.
«Thanh
giả Nguyên (Thần) dã, Tĩnh giả Khí dã, Kinh tắc Pháp dã, nhất tắc vi thánh nhân
chi linh lộ; nhị tắc thần tiên chi thê đắng.» (335)
«Bất
chấp Không vi không, bất chước Hữu vi Hữu.» (335)
Dung hợp
đạo, thiền, dĩ trừng tâm, khiển dục, thanh tĩnh thường tịch vi tông chỉ. (335)
Thái
Thượng lão quân thường thanh tĩnh kinh chú. (Bạch Ngọc Thiềm). (335)
Thái
Thượng lão quân thanh tĩnh tâm kinh dĩ Thanh Tĩnh vi tông, hấp thụ Phật giáo
không tịch tư tưởng, dĩ minh Đạo Gia thanh tĩnh vô vi chi diệu. Nhận vi nhân
tâm bất tĩnh, giai nhân kỳ dục khiên lụy, Nhược vô kỳ dục, tắc tâm tự tĩnh nhi
thần bất nhiễu, tắc thường thanh tĩnh, thường thanh tĩnh tắc năng thể hợp vu
đạo (335)
Thanh
tĩnh chi pháp, tẩy địch tâm cấu, sử nội ngoại giai tịnh, hoàn nguyên phản bản,
phục Ngã Thái Hư, đắc đạo tự nhiên, vĩnh vô lưu chuyển. (336)
Thái
Thượng Lão Quân Nội Thị Kinh.
Vị Nhân
Tâm bản lai thanh tĩnh, nhân nhiễm Lục Tình nhi nhập Khổ Hải. Tâm nhược thanh
tĩnh,
tắc vạn
họa bất sinh. Cố tu đạo tức thoại tu tâm, kỳ yếu tại Nôi Thị Kỷ Thân, trùng ký
tâm dã.
Nội thị
chi pháp, tiên tư vạn vật chi trung, nhân tối tôn quí. Mạc vọng nhiễm chư trần,
tái diệt
lụic
thức, lục dục, hư tâm vô tâm, địng tâm an tâm, tĩnh tâm chính tâm, thanh tâm
tịnh tâm, tâm
tĩng
thần định, dĩ chí vu loạn tưởng vô khởi, tà tâm bất sâm, chu thân cập vật, bế
mục tư tầm,
biểu lý
hư tịch, thần đạo vi thâm. (335)
Thái
Thượng Xích văn Đỗng cổ kinh chú.
Nhận tu
chân dưỡng tính chi Đạo, nhận vi vô động vô vi thi vạn vật chi bản, bất thị bất
thính vi chúng diệu chi môn, dưỡng kỳ vô tượng, thủ kỳ vô thể, tắc khả trường
sinh, ... tu Đạo giả ưng bão Nguyên Thủ Nhất, thanh tĩnh vô vi, qui căn phục
lệnh. Thái Thượng Xích văn Đỗng cổ Chân kinh chú.
Chú văn
viết: Hướng Bất động trung động, vô vi trung vi, nội vong hình thể, ngoại vong
thanh xác, dưỡng kỳ vô tượng, thủ kỳ vô thể, toàn kỳ bản chân, siêu xuất hư vô
chi ngoại, thị vi tối thượng nhất thừa, vô thượng khả thượng, cố viết vô
thượng.
Hựu vân
PHẢN BẢN QUI CĂN, nhập hồ Vô Gián, tắc không khí hoán nhiên, tắc hồ thiên địa,
quang
minh phổ chiếu, cố viết Xích văn.
Tam luận
huyền chỉ.
Tu tâm
khế Đạo, kiến tính thành Chân.
Đại Đạo
tự nhiên vô vi, ... Đạo Tâm Tính tam giả vi nhất. Tức tâm thị Đạo, Tâm chi dữ
Đạo, nhất Tính nhi nhiên.Cố tu Đạo chi yếu tại vu Tu Tâm Kiến Tính, thanh tĩnh
vô vi, khiển trệ phá chấp.
Nhân hữu
vi nhi đạt vô vi, nhân hữu sinh nhi đạt vô sinh, vô vi tự nhiên, thị vị Đại Đạo
diệu dụng. (340)
Tham
Đồng Khế.
Khế hợp:
Đại Dịch, Hoàng Lão, Lô Hỏa thành một.
Tuổi thọ
của các đạo sĩ
Các Đạo
Sĩ xưa nay đều chủ trương Tu Luyện để Trường Sinh Bất Tử. Nhưng nghiên cứu tuổi
thọ các Ngài. chỉ thấy vài vị sống hơn 100 tuổi (Thạch Hạnh Lâm, Vương Thường
Nguyệt), vài vị sống trên 90 (Trương Bá Đoan, Lưu Nhất Minh) vài vị sống trên
80 (Lục Tiềm Hư, Huỳnh Nguyên Cát), còn thì cũng sống 60, 70 không hơn gì ai.
Như vậy, bất quá là các ngài có thể diên niên, có thể sống lâu thêm ít năm mà
thôi.
Sau đây,
là tên tuổi các đạo sĩ qua các thời đại:
Nam
Tông: Tu mệnh
Lưu thao
(Lưu Hải Thiềm) truyền đạo năm 911.
Trương
Bá Đoan (984-1082): 96 tuổi.
Thạch
Hạnh Lâm (1022-1158): 136 tuổi.
Tiết Đạo
Quang
Trần Nê
Hoàn (?-1213)
Bạch
Ngọc Thiềm (1194-1229): 35 tuổi ?
Bành Hạc
Lâm (Bành Tỉ)
Bắc Tông: Tu Tính
Vương
trùng Dương. (1112-1170): 58 tuổi.
Khưu Xử
Cơ (1148-1227): 79 tuổi.
Lưu Xử
Huyền (1146-1203): 57 tuổi.
Mã Ngọc
(1123-1183): 60 tuổi.
Đàm Xử
Đoan (1123-1195): 62 tuổi.
Hách Đại
Thông (1140-1212): 72 tuổi.
Vương Xử
Nhất (1142-1217): 75 tuổi.
Tôn Bất
Nhị (1114-1182): 63 tuổi.
Lưu Nhất
Minh (1724-1821): 97 tuổi. Long Môn Phái.
Đông
Phái.
Lục Tiềm
Hư, Lục Tây Tinh (1520- 1606): 86 tuổi.
Tây
Phái.
Lý Hàm
Hư (Lý Tây Nguyệt)
Trung
Phái.
Lý Đạo
Thuần đời Nguyên.
Huỳnh
Nguyên Cát (1271-1355): 84 tuổi.
Xét về
tuổi thọ, các môn phái nói trên cũng không phải đã đạt được số tuổi lý tưởng.
Cuối đời
Hán (206-220), Ngụy Bá Dương nhân theo Long Hổ Kinh, lại rút tỉa tư tưởng Kinh
Dịch,
Hoàng Lão, mà soạn ra bộ Tham Đồng Khế, đã hệ thống hóa khoa Luyện Nội Đơn, vì
thế Ông được tôn xưng là Vạn Cổ Đơn Kinh chi tổ.
Ông phân
biệt Luyện Đơn với các phương thuật như Âm đạo, Thực Khí, Bộ Đẩu, Tế Lễ v.v...
Mà ông cho là «những chuyện Nghịch thiên cơ, vi phản lại Đạo Giáo» (Bội nghịch
thất khu cơ, tiền khước vi Hoàng Lão), là Bàng Môn tả đạo,
Chủ
trương Tham Đồng Khế là đem triết học Chu Dịch, hợp nhất với Triết Học Lão
Trang, là học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất, và phải tuân hành các định luật vận
chuyển, biến hóa của trời đất, và cũng phải biết hòa hợp Âm Dương, đoạt tạo hóa
chi công, và phản bản hoàn nguyên, phục qui ư Hư Vô Chi Đạo.
Như vậy
muốn luyện đơn, phải biết căn bản con người. Mà bản thể con ngưởi là Thái Cực,
Âm Dương là Tinh Khí Thần (Hồn Phách) là Âm Dương, là Dược Vật của Đơn Kinh,
hay Kiền Khôn. Kiền Khôn mà phân ly, thì thành Vũ Trụ, Kiền Khôn mà hợp nhất
thì thành Thái Cực. Hòa Hợp Âm Dương chính là «Nghịch Luyện Qui Nguyên».
Từ Ngụy
Bá Dương, cho đến đời Nguỵ Tấn (220-313), thì khoa ngoại đơn với các phép phục
thực, phục khí thịnh hành, còn khoa nội đơn thì chỉ có một số người tu tập. Mãi
đến thời Trung Đường, khoa luyện đơn vói mấy đạo sĩ danh tiếng như Trương Quả
(Trương Quả Lão trong bát tiên) và La công Viễn, đời Đường Huyền Tông (713-755)
mới làm cho khoa nội đơn tinh tiến. Thời Vãn Đường (841-905) và thời Ngũ Đại
(907-960) khoa Ngoại đơn với chủ trương Phục Thực Thành Tiên bị thất bại, nên
khoa nội đơn mới thịnh hành.
Lúc ấy
có những danh nhân như Hán Chung Li (Cuối đời Hán, thày của Lữ Đồng Tân), Lữ
Đồng Tân (780-?) Thi Kiên Ngô (đỗ Tiến Sĩ năm 815), Thôi Hi Phạm (đời Đường),
Bành Hiểu (?-955, đời Ngũ Đại (907-1119), Lưu Hải Thiềm (Lưu Thao đời Ngũ Đại),
Trần Đoàn (891-989 Ngũ Đại, Tống Sơ) Trương Vô Mộng (Ngũ Đại mạt, Bắc Tống).
Tôi quí
chủ trương của Trương Vô Mộng. Ông dạy: Người nuốn vào chơi cửa Huyền Tẩn, phải
bão phác
thủ Nhất, phải tĩnh định cho tới chỗ rốt ráo, để trở về Nhất. Nhất và Đạo là
cái gì hết
sức tự
nhiên, vì thế mới nói: Chí Thần thì vô phương, chí Đạo thì vô thể, có Vô Vi mới
làm được
mọi sự
(Du Huyền Tẩn chi môn giả... qui hồ Bão Phác thủ tĩnh, tĩnh chi phục tĩnh, dĩ
chí vu
Nhất...
Nhất chi dữ Đạo, cái tự nhiên nhi nhiên yên, thị dĩ Chí Thần vô phương, chí Đạo
vô thể,
vô vi
nhi vô bất vi... Trung Hoa Đạo Giáo đại từ điển tr, 112)
Cho nên,
Nhiếp Tình (Âm) Qui Tính (Dương) thì là Phản Bản Hoàn Nguyên, là Đơn thành. Hán
Chung Ly cũng chủ trương như Tham Đồng Khế, coi con người là một Tiểu Thiên
Địa, và theo học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất, nếu biết nghịch luyện sẽ phản bản
hoàn nguyên và Đơn sẽ thành.
Thời Vãn
Đường là thời Tam Giáo hợp lưu, nên Thiền Học ảnh hưởng vào Đạo Lão rất nhiều.
Căn Bản
của Tu Đạo là Vô Niệm.
Căn Bản
của Phật Giáo là Chân Không.
Phật
Giáo nói: Tuyệt niệm, vô tưởng chính là Chân Niệm. Chân Niệm chính là Chân
Không, mà Chân Không là siêu thoát...
Lữ Đồng
Tân cũng chủ trương Thiền Đạo Dung Hợp. Tục truyền sau khi Ông gặp Thiền Sư
Hoàng Long Hối Cơ, Ông khâm phục Thiền Tông và chủ xướng Thiền Đạo Song Dung.
Chủ trương của sách Sao Hào Ca là: Tính Mệnh Song Tu. Mà Tu Tính là Minh Tâm Kiến
Tính của Thiền. Thế tức là Thiền Học và Nội Đơn Song Tu.
Chủ
trương Tính Mệnh Song Tu và Thiền Đạo Tương Dung của Lã Đồng Tân là căn bản
luyện đơn sau này. Các môn phái luyện Đơn thời Bắc Tống đều chủ trương theo Lữ
Đồng Tân.
Đến
Trương Bá Đoan (984- 1082) đời Tống Thần Tông, thì Đơn Đạo đã thành thục.
Trương Bá Đoan viết quyển Ngộ Chân Thiên và Thiền Tông Thi Kệ cũng chủ trương
Minh Tâm Kiến Tính, và cũng chịu ảnh hưởng Tham Đồng Khế. Trương Bá Đoan viết:
Nếu muốn kết hợp với chí Đạo, thì phải biết bản tâm mình (Dục thể phù chí Đạo
giả, mạc nhược minh hồ bản tâm). Thiền tông gọi Qui Căn phản Bản là trở về với
cứu cánh không tịch chi Bản Nguyên.
Vương
Trùng Dương, trong tập Kim Đơn Thi, gọi Qui Nguyên Phản Bản, hay được Kim Đan
là:
Bản lai
Chân Tính viết Kim Đan.
Ngoài
chủ trương Minh Tâm Kiến Tính, còn chủ trương Tĩnh Định. Mà Tĩnh Định thì Thiền
Tông gọi là Vô Niệm Hành.
Các đơn
gia chú trọng 2 phương diện: Một là Tu Tính và Tu Mệnh. Có người chủ trương Tu
Tính trước, tu mệnh sau; có người chủ trương Tu Mệnh trước, tu Tính sau, có
người chủ trương Tính Mệnh Song Tu v.v...
Hai là
Thanh Tu và Song Tu. Người thì chủ trương Âm Dương sẵn có trong con người, cho
nên chủ trương Nhất Kỷ Thanh Tu; có người cho rằng Âm Dương riêng rẽ nơi Nam
Nữ, nên đề xướng Nam Nữ Song Tu. Những chủ trương sai biệt đó đã chia thành Ngũ
Phái ở Trung Hoa (Nam Bắc, Trung, Tây, Đông Phái).
Nam Tông
Phái chỉ những đơn gia theo chân Trương Bá Đoan.
Phái này
chủ trương: Tiên Mệnh, Hậu Tính theo truyền thống nội đan mà luyện Tinh hóa
Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hoàn hư, lại thâm cứu Thiền Học, và muốn
Liễu Triệt Tính Nguyên.
Về
phương thức Tu Hành lại chia thành Thanh Tu và Song Tu hai phái.
Thanh Tu
là phái của Bạch Ngọc Thiềm (1194-1229). Bach Ngọc Thiềm theo tôn chỉ của
Trương Bá Đoan, và giảng Đơn Đạo rõ ràng. Dạy Bế Tức (Nhịn Thở), dạy Tĩnh Định,
dạy Vong Tâm, dạy tìm Chân Tâm, Nguyên Tính, và Chân Ý. Dạy dùng Chân Ý luyện
hóa Tinh Khí Thần.
Bạch
Ngọc Thiềm dùng một chữ Vong (忘)
để luyện Tinh Khí Thần. Vong Hình Dưỡng Khí,
Vong Khí
Dưỡng Thần, Vong Thần Dưỡng Hư. Chia toàn bộ công phu Tu Luyện thành: Thái Thủ,
Kết Đơn, Phanh Luyện, Cố Tế, Vũ Hỏa, Văn Hỏa, Mộc Dục, Đơn Sa, Quá Quan, Ôn
Dưỡng, Phòng Nguy, Công Phu, Giao Cấu, Bất Hoàn, Thánh Thai, Cửu Chuyển, Hoán
Đỉnh. Phái Song Tu là của Lưu Vĩnh Niên và các môn sinh là Ông Bảo Quang, Nhược
Nhất Tử, Trần Chí Hư (1290-?) chủ trương Chân Diên phải lấy bên phái nữ, còn
các phép tu khác cũng giống Thanh Tu phái.
Bắc Tông
Phái là do Vương Triết (Vương Trùng Dương) sáng lập. Phái của Ông còn có tên là
Toàn
Chân Phái. Ông có 7 đệ tử, ai cũng có môn phái riêng. Ông chủ trương Tiên Tính
Hậu
Mệnh,
Trừ Tình Khứ Dục, Toát Tâm Thủ Niệm, Minh Tâm Kiến Tính. Bắc Tông chủ trương
Thanh
Tu, đề xướng xuất gia, khổ hạnh, cấm dục.
Từ đời
nhà Nguyên Bắc Tông dung nhiếp Nam Tông và Lý Học. Cuối đời Minh, thì có Ngũ
Thủ Dương (1574-1644), đời Thanh có Lưu Nhất Minh (1734-1821), Mẫn Nhất Đắc
(1758-1836) xiển minh đơn đạo một cách rõ ràng.
Ngũ Thủ
Dương viết bộ Tiên Phật Hợp Tông ngữ lục, và bộ Thiên Tiên Chính Lý Trực Luận
sáng lập Ngũ Liễu Phái.
Lưu Nhất
Minh là truyền nhân Long Môn Phái đời thứ 11. Mẫn Nhất Đắc cũng là truyền nhân
Long Môn Phái đời 11. Ông viết rất nhiều.
Đầu đời
Thanh còn có Vương Thường Nguyệt (1522- 1680), 159 tuổi, cũng thuộc Long Môn Phái,
rất nổi tiếng.
Trung
Phái tổng hợp Nam Bắc Phái, do Lý Đạo Thuần chủ xướng. Lý Đạo Thuần giảng giáo
vào thời Tống mạt, Nguyên sơ.
Học Trò
Bạch Ngọc Thiềm, Ông đề cao chữ Trung. Mục đóich của Ông là Trí trung Hòa vi
nhất thân, thế là thành Tiên vậy. Trung tức là Huyền Quan Nhất Khiếu; Phật gia
gọi là Bản Lai Diện Mục; Đạo gia gọi là Niệm Đầu bất khởi xứ; Nho gia gọi là:
Hỉ nộ chi vị phát; Doãn Chân Nhân sư đệ gọi là Tính Mệnh chi căn, hay Vô Cực
chi Chân Trung; Huỳnh Nguyên Cát gọi là Hoàng Trung trực thấu; Dịch Kinh gọi là
Hoàng Trung thông lý. Đó chính là Giáo Ngoại biệt truyền. Chủ trương của môn
phái này rất hay và rất cao.
Doãn
Chân Nhân sư đệ và Huỳnh Nguyên Cát (1271- 1355) cũng thuộc Trung Phái.
Đông
Phái, do Lục Tây Tinh, (Lục Tiềm Hư) (1520- 1606) sáng tạo đời Minh.
Tên Lục
Tây Tinh, tự Trường Canh, hiệu Tiềm Hư.
Thủa nhỏ
học Nho, nhiều lần thi Hương không đỗ, bèn đi tu, lập môn phái riêng. Vì hoạt
động tại vùng Giang, Triết nên xưng là Đông Phái.
Đông
phái kỳ thực là một chi nhánh của Nam Tông, lấy Ngộ Chân Thiên làm căn bản. Gọi
Khảm là
Chân Khí, là Diên, là con gái, là Nguyệt. Gọi Ly là Chân Tinh, là Hống, là con
trai, là Nhật. Như vậy, đơn đạo chẳng qua là Âm Dương mà thôi. Đó là thuyết Thủ
Khảm Điền Ly. Như vậy, phái này chủ trương Âm Dương Nam Nữ song tu. Phái này
chủ trương: Đồng loại tương hợp nhi thành, trúc phá trúc bổ, Nhân phá nhân bổ.
Có sách
ghi khi Ông ẩn cư trong núi, Lữ Đồng Tân hiện ra và trú ở Bách Hải Thảo Đường
của Ông 20 ngày và truyền thụ cho Ông đơn quyết. Ông tu luyện thêm 20 năm. Đến
năm 1564, thì giác ngộ.
Ông viết
nhiều sách: như Kim Đơn tựu chính thiên, như Chu Dịch Tham Đồng Khế trắc sớ,
Nam Hoa phụ mặc, Lăng Nghiêm kinh Thuyết Ước v.v...
Ông chủ
trương Nam Hoa Kinh tổ thuật Đạo Đức Kinh, và cũng chính là Phật Gia Bất Nhị
Pháp Môn, và coi Lão Thích là một nhà.
Ông cũng
chính là tác giả bộ Phong Thần Diễn Nghĩa.
Tây Phái
do Lý Tây Nguyệt (Lý Hàm Hư) sáng lập đời vua Hàm Phong nhà Thanh (1851).
Môn phái
này hoạt động tại Tứ Xuyên.
Tự xưng
đã được Trương Tam Phong (đời Nguyên và đời Minh) và Lữ Đồng Tân (đời Đường)
truyền đạo. Như vậy Trương Tam Phong và Lữ Đồng Tân đã chết từ lâu.
Về tu
luyện, Lý Hàm Hư chủ trương Thanh Tĩnh tuyệt đối, nhưng đi vào chi tiết rất
nhiều, không giản dị như Đông Phái. Ông viết nhiều sách như Đạo Khiếu Đàm, Tam
Xa Bí Chỉ. v.v...
(Viết
theo bài Nội đơn, trong Trung Quốc Đạo giáo, đệ Tam Quyển, tr. 330-336, Trung
Quốc Đạo Giáo, Đệ Nhất quyển, Khanh Hi Thái, Đông Phương Xuất Bản Trung Tâm và
Trung Hoa Đạo Giáo Đại từ Điển, Hồ Hoài Sâm).
Lý Thiết Quải - Tranh Tề Bạch Thạch
Quỷ Cốc
Tử truyện
Đất nọ
có một chỗ tên là Quỷ cốc (hang quỷ) vì chỗ ấy núi cao rừng rậm, âm khí nặng
nề, không phải là chổ có người ở. Trong núi có một ẩn sĩ tự đặt hiệu là Quỷ Cốc
tử. Quỷ cốc tử ở trong hang núi này ngày ngày tu luyện môn kỹ xảo video, kỹ
thuật làm phim 3D trên máy tính. Học trò ông có những bậc tài danh như Tôn Tẩn,
Bàng Quyên, Trương Nghi, Tô Tần.
Sau khi
tu luyện môn võ công làm phim 3D thành tài, Bàng Quyên xuống núi lập nghiệp. Bộ
phim ngắn 3D đầu tiên của chàng được post lên YouTube và tạo nên thành công
vang dội. Cộng đồng mạng xem và khen nức nở. Một tờ báo vội tới phỏng vấn và
giới thiệu Bàng Quyên lên mặt báo.
Điều
đáng tiếc là trong toàn bộ nội dung bài phỏng vấn, Bàng Quyên ca ngợi hết lời
về... chính mình và sản phẩm của mình mà không nhắc nhở gì đến tên sư phụ là
Quỷ Cốc Tử. Ngay cả trong phần cuối phim, cũng chẳng hề có những lời cảm ơn
kiểu như Special thanks to Quỷ Cốc tiên sinh.
Hai Ẩu
là bạn tâm giao của Quỷ Cốc Tử, thuở ông còn hướng dẫn cho Bàng Quyên làm video
clip đó thỉnh thoảng vẫn gửi cho Hai Ẩu coi chơi, vì vậy biết chắc rằng công
lao của ông trong sản phẩm ấy rất lớn. Cám cảnh tình đời, Hai Ẩu ngao du lên
hang quỷ để chuyện trò cùng Quỷ Cốc Tử.
Tóc dài
tới mông, râu dài tới... háng, Quỷ Cốc Tử vân du ra trò chuyện cùng Hai Ẩu. Cà
hai ngồi uống cà phê cốc (chú ý: cà phê cốc chớ không phải cà phê cóc).
Hai Ẩu
hỏi: Đệ tử quên nghĩa ân sư vậy tiên sinh có rầu không?
Quỷ Cốc
Tử nhâm nhi ly cà phê, nói: Rầu thì cũng có rầu đôi chút, nhưng chẳng đáng bận
tâm, hiền hữu ạ!
Ông uống
một ngụm cà phê rồi nói tiếp: Không hẳn là Bàng Quyên vong ân đâu, mà là y giấu
nghề. Y sợ rằng khi cho biết tên ta, biết địa chỉ thì mọi người sẽ tìm đến học.
Y sợ rằng người khác sẽ giỏi hơn y đó mà. Chính thế mà ta vẫn còn giữ Tôn Tẩn ở
đây, sợ khi Tôn xuống núi, giỏi hơn Bàng thì Bàng sẽ hãm hại Tôn đó.
Hai Ẩu
ngạc nhiên, hỏi: Có chuyện đó sao?
Quỷ Cốc
Tử đáp: Có chứ. Như hai gã Trương Nghi, Tô Tần chẳng hạn, chúng là bạn của
nhau. Tô Tần tìm đến Quỷ Cốc học trước, thế mà khi Trương Nghi hỏi địa chỉ và
số điện thoại của ta để tìm học thì y nhất quyết không cho vì sợ... cạnh tranh
nghề nghiệp!
Hai Ẩu
bất bình, nói: Thời buổi công nghệ thông tin này rồi mà còn giấu nghề theo cái
kiểu đó thì vớ vẩn quá. Nếu không công bố thông tin liên lạc với tiên sinh thì
lấy đâu học trò cho tiên sinh dạy, lấy đâu ra tiền học phí để tiên sinh uống cà
phê?
Rồi Hai
Ẩu ngạc nhiên hỏi lại: Ủa mà tiên sinh tài giỏi vậy sao không chịu quảng cáo gì
hết trơn hết trọi vậy? Thiếu gì cách quảng cáo, PR? Thậm chí, chỉ cần tiên sinh
tạo một trang web hay tham gia một mạng xã hội nào đó, đưa thông tin liên lạc
của mình lên đó thì khi mọi người Gu-gồ một phát sẽ ra thông tin về tiên sinh
ngay. Bọn đệ tử ấy làm sao giấu được? Thôi được rồi, nếu tiên sinh không khoái
chơi mạng thì ngày mai tại hạ sẽ đưa địa chỉ, số điện thoại của tiên sinh lên
báo eChip, mọi người sẽ lũ lượt kéo đến đây thọ giáo tiên sinh!
Quỷ Cốc
Tử bật cười sang sảng: Hiền hữu ơi, ta ẩn cư như thế cũng có lý do
chứ!
Thứ
nhất, ta có một thân một mình, đệ tử kéo tới nhiều quá ta dạy đâu xuể? Dạy
không xuể thì dạy kém. Trò kém thì mất tiếng thầy!
Thứ hai,
biệt danh của ta là Quỷ Cốc Tử, đặc trưng thương hiệu của ta chính là bí ẩn,
quỷ khốc thần sầu. Chính cái trò bí ẩn hành tung ấy càng làm tôn thương hiệu
của ta đó, hiền hữu ạ!
Tới đây,
Hai Ẩu mới à lên một tiếng: Ra là vậy! Hóa ra làm thương hiệu cũng có nhiều
cách, đâu phải chỉ một cách là quảng cáo ào ào!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét