Thép đã tôi thế đấy
Phần thứ hai - Chương I
Nửa đêm.
Chuyến tàu điện cuối cùng kéo lê thân tàu ọp ẹp chạy qua đã được một lúc lâu
rồi. Trăng suông trải lên thành cửa sổ, ánh trăng lọt vào nhà như trải lên mặt
giường một tấm màng xanh, bỏ khoảng còn lại của gian phòng trong bóng tối lờ
mờ. Trên chiếc bàn ở góc phòng, một vầng ánh sáng loe dưới chao đèn. Ri-ta cặm
cụi với tập nhật ký thân thiết.
Đầu bút
chì nhọn nguệch ngoạc trên giấy:
"24
tháng Năm,
Lại thử
ghi lại cảm nghĩ của mình. Thế là bỏ một khoảng trống nữa trong nhật ký. Sáu
tuần qua, không viết một chữ. Đành vậy thôi.
Lấy đâu
ra thời giờ ghi nhật ký thân yêu này được. Giờ này, đêm khuya, mình mới có thời
giờ viết. Không ngủ được. Đồng chí Xê-gan về công tác ở Trung ương. Tin ấy làm
tất cả bọn mình ngao ngán. Xê-gan của chúng mình thật là một người ưu tú. Mãi
bây giờ, mình mới thấy rõ tình thân giữa bọn mình và Xê- gan thật quý vô ngần.
Cố nhiên, Xê-gan đi là nhóm học tập duy vật biện chứng sẽ tan. Hôm qua bọn mình
họp ở nhà anh đến tận khuya để kiểm điểm bước tiến của "các con đỡ
đầu" của chúng mình. Đến dự, có A- kim bí thư Tỉnh đoàn thanh niên, và anh
chàng trưởng phòng quản lý cán bộ Túp-ta đáng ghét. Không thể nào chịu được
hạng người tự phụ "cái gì tôi cũng biết" ấy! Xê-gan thì hớn hở. Người
học trò anh là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin đã đập gãy Túp-ta ra trò về môn lịch sử
Đảng. Phải, hai tháng qua thật đã không phí. Khi có được những kết quả như thế,
người ta chẳng thấy tiếc sức. Có tin Giu-khơ-rai sang công tác ở Ban đặc biệt
của Quân khu. Tại sao thế nhỉ? Mình chẳng biết nữa.
Xê-gan
đã giao phó người học trò của anh cho mình.
Khi chia
tay, anh nói: "Hãy làm cho xong công tác mà tôi đã bắt đầu ở đây nhớ. Đừng
bỏ dở nửa đường. Ri-ta ạ, đối với chị cũng như anh ta, cả hai đều có những điều
học hỏi lẫn nhau được. Chàng thanh niên ấy, chưa bỏ hẳn được tính bồng bột tự
phát. Tình cảm anh ta sôi sục, khiến anh ta không tự chủ được và có thể đẩy anh
ta đi chệch con đường đúng. Ri-ta ạ, theo chỗ tôi hiểu chị, chị sẽ là người
hướng dẫn thích hợp nhất đối với Pa-ven. Chúc chị may mắn. Đừng quên viết thư
về Mát-xcơ-va cho tôi nhé!"
Hôm nay,
Trung ương phái Giác-ki đến làm bí thư mới của Quận đoàn Xô-lô-men-ca. Mình
quen Giác- ki từ hồi ở bộ đội.
Ngày
mai, Đu-ba-va sẽ dẫn Pa-ven đến giới thiệu với mình. Hình dạng anh chàng
Đu-ba-va: vóc người tầm thước, khỏe, bắp thịt nở nang. Vào Đoàn thanh niên cộng
sản từ 1918, vào Đảng từ 1920. Đấy là một trong số ba người đã bị khai trừ ra
khỏi tỉnh đoàn vì thuộc "khối đối lập thợ thuyền". Giúp Đu-ba-va học
tập thật không dễ. Lần nào anh ta cũng phá kế hoạch, phóng ra nhiều câu hỏi
quay mình, làm mình nói lạc ra ngoài đề. Giữa Ôn-ga I-u-rê-nê-va, cô học trò
thứ hai của mình, và anh chàng Đu-ba-va, hay xảy ra cãi nhau. Ngay tối học đầu
tiên, anh ta nhìn Ôn-ga suốt từ đầu đến chân, rồi nhận xét:
- Trang
bị của bà không đủ lệ bộ, bà cụ non ơi! Bà thì phải mặc quần da, mang đinh ba,
đội mũ kiểu Bu-đi-on-ny đeo kiếm vào, chứ ăn mặc như bà thì thật chẳng ra nạc,
cũng chẳng ra mỡ.
Ôn-ga
cũng không chịu lép. Mình phải can họ. Nếu mình không lầm thì Đu-ba-va là bạn
Pa-ven. Thôi, hôm nay ghi thế này đủ rồi. Đi ngủ".
*
Nóng như
thiêu rang khô kiệt mặt đất. Tay vịn bằng sắt
ở cầu bắc vắt ngang qua nhà ga, sờ vào nóng bỏng. Đoàn người dãi nắng mệt lử,
uể oải bước lên cầu Họ không phải là hành khách. Phần đông là dân khu nhà bên
đường sắt qua cầu sang bên phố.
Đứng
trên đầu thang lên cầu, Pa-ven trông thấy Ri-ta. Ri-ta đã tới ga trước Pa-ven
và đang nhìn hành khách xuống tàu.
Đến Cách
Ri-ta vài ba bước, Pa-ven dừng lại. Ri-
ta không trông thấy Pa-ven. Anh đứng ngắm Ri-ta với cặp mắt tò mò khác thường.
Ri-ta mặc áo sơ-mi cộc tay kẻ dọc, bận váy xanh ngắn bằng vải thường, chiếc áo
khoác ngoài bằng da mềm vắt lên vai, đầu không mũ, mớ tóc ngang ngược bao quanh
lấy khuôn mặt rám nắng. Ri-ta đứng hơi ngả đầu về phía sau, nắng chói làm chị
nheo mắt lại. Lần đầu tiên Pa-ven nhìn người bạn và người phụ đạo của mình bằng
cặp mắt ấy, và cũng lần đầu tiên trong đầu anh nảy ra ý nghĩ: Ri-ta không phải
chỉ là ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh đoàn, mà còn là... Giận mình đã có ý nghĩ
"tội lỗi", Pa-ven gọi giật Ri-ta:
- Tôi
đứng suốt một tiếng đồng hồ nhìn Ri-ta, thế mà Ri-ta không trông thấy. Đến lúc
đi rồi, tàu đã vào ga.
Hai
người dẫn nhau đến lối ra ke.
Hôm qua,
Tỉnh đoàn đã cử Ri-ta làm đại biểu đi dự hội nghị của một huyện đoàn. Pa-ven
được cử đi phụ với Ri-ta. Hôm nay thế nào cũng phải lên xe lửa đi cho bằng
được, chuyện đó không phải dễ. Thời buổi hiếm tàu xe đi lại, vào giờ tàu chạy,
nhà ga do một ban xếp người lên tàu rất có uy quyền điều khiển, ai không có
giấy của ban này không được bước ra ke. Tất cả các cửa ra vào đều có người của
ban này đứng chắn. Tàu đầy ắp mà vẫn chỉ mới chở được một phần mười những người
cần đi. Không ai muốn ở lại để chờ ngày nọ qua ngày kia, họa ra mới có một
chuyến tầu khác. Hàng nghìn người vây các lối ra ke, cố chen ra tới những toa
xanh. Nhà ga mấy ngày nay sống trong cảnh bị bao vây thật sự, đôi khi xảy ra ẩu
đả. Pa-ven và Ri-ta định chen ra ke, nhưng không sao len được.
Vốn biết
hết ngõ ngách ra vào, anh liền dẫn người bạn gái đi qua kho chứa hành lý.
Vất vả
lắm, hai người mới đến được toa tàu số bốn. Anh công an đặc biệt, ướt đẫm mồ
hôi đứng trước cửa xe, giữ cho đám đông khỏi chen lên. Anh nhắc đi nhắc lại có
đến trăm lần:
- Tôi
nói với đồng bào là toa chật ních rồi. Còn những chỗ nối toa vào mái tàu, lệnh
trên cấm ngặt không được ai trèo lên cả.
Có những
người hùng hổ xấn đến chỗ anh công an, ấn vào mũi anh những vé do ban xếp người
phát cho họ đi toa số bốn. Trước toa tàu nào cũng có tiếng chửi rủa giận dữ, tiếng
kêu la, xô đẩy nhau. Pa-ven hiểu là lên tàu theo lối thường thì không thể nào
lên được Mà việc thì cần, không đi được thì hội nghị không thành mất.
Pa-ven
kéo Ri-ta ra bên, trình bày kế hoạch hành động của mình. Pa-ven sẽ len vào
trong toa, bỏ cửa kính xuống và kéo Ri-ta lên qua cửa sổ. Không có cách nào
khác.
- Ri-ta
đưa tôi chiếc áo da của Ri-ta, đấy là cái chứng minh thư tốt nhất.
Pa-ven
khoác chiếc áo của Ri-ta lên người, nhét súng ngắn vào túi, cố ý để lòi báng
súng và dây súng ra ngoài. Anh đặt túi lương ăn xuống chân Ri-ta, rồi lại chỗ
toa xe. Pa-ven không nể nang ai, lấy cùi tay chen lấn đám hành khách, với được
thành sắt bậc lên tàu.
- Này,
đồng chí đi đâu?
Pa-ven
ngoảnh lại nhìn người công an béo lùn.
- Tôi là
người của Ban đặc biệt Quân khu. Tôi kiểm tra xem hành khách các đồng chí cho
lên tàu có đủ vé của ban xếp người không. - Giọng Pa-ven không để cho ai mảy
may ngờ vực uy quyền của mình.
Người
công an nhìn túi Pa-ven, lấy tay áo lau mồ hôi trán và nói bằng một giọng hờ
hững:
- Ừ đồng
chí cứ việc vào mà kiểm tra, nếu đồng chí chen vào được.
Pa-ven
chen lách bằng tay, bằng vai và có lúc bằng nắm tay, trườn lên vai người khác,
rướn tay đánh đu lấy giá ghế trên; tiếng la chửi đổ lên đầu anh như mưa đá;
chửi thì chửi, Pa-ven cũng len được vào giữa toa tàu.
"Quỷ
tha ma anh đi đâu mà anh chen gớm thế hở cái nhà anh trời đánh thánh vật
kia!". Một mụ béo phị mắng Pa-ven khi anh giẫm chân lên đầu gối mụ ta. Mụ
đã thu cái thân hình nặng hơn một tạ vào thành ghế dài ở hàng dưới, hai chân
đang kẹp lấy cái bình đựng đầy bơ. Bình đựng nước, hộp đựng sữa, hòm, bao và
thùng ngổn ngang các ghế dài. Không khí ngạt thở.
Đáp lời
chửi rủa của mụ ta, Pa-ven hỏi:
- Bà cho
tôi xem vé của ban xếp người!
Mụ phát
khùng với nhà anh soát vé chẳng ai khiến ai cần đó:
- Cái
gì?
Một cái
đầu du côn từ ghế tầng ba thò xuống, và giọng ồ ồ rống lên:
-
Vát-ca, nó là cái thứ gì mà đến đây nhiễu sự? Mày cho nó một vé vào mõm ấy!
Ngay
trên đầu Pa-ven nhô ra một tên dáng chừng là Vát-ca: người nó lực lưỡng, ngực
đầy lông, giương cặp mắt to như mắt bò mộng nhìn Pa-ven chòng chọc.
- Mày
nhiễu sự cái gì với người đàn bà này? Mày hỏi vé gì?
Từ giá
ghế bên, bốn đôi chân buông thõng xuống. Bốn tên ngồi sát nhau, thi nhau cắn
hạt hướng dương lách tách. Rõ ràng đây là một bọn trộm cắp buôn lậu chợ đen.
Pa-ven không có thời giờ gây chuyện với chúng. Phải đưa Ri-ta vào trong toa đã.
Pa-ven
chỉ tay vào cái hòm gỗ đặt bên cửa sổ, hỏi một công nhân đường sắt đứng tuổi:
- Hòm
này của ai đây?
Bác công
nhân chỉ tay về phía hai cái chân to trùng trục, đi tất màu hạt dẻ:
- Của
nhà chị này!
Phải kéo
cửa kính xuống. Cái hòm chắn mất cửa, không chuyển đi đâu được. Pa-ven nâng hòm
lên và đưa cho chủ nó đang ngồi ở giá ghế trên:
- Đồng
bào giữ cho một chút để tôi mở cửa sổ.
- Cái
nhà anh này sao lại mó vào đồ đạc của người ta?
Rồi mụ
cầu cứu lão bên cạnh.
- Mốt-ca
ơi! Cái nhà anh kia là ai mà đến đây làm nháo cả lên thế!
Tên gọi
Mốt-ca ngồi giá ghế trên, chẳng buồn nhổm dậy, lấy chân đi dép nện vào lưng
Pa-ven:
- Ê đồ
muỗi tép kia! Xéo ngay không ông đập cho vỡ mặt bây giờ!
Pa-ven
nín lặng chịu cái đạp. Anh cắn môi mở cửa và nói với bác công nhân đường sắt:
- Đồng
chí lùi ra cho một chút.
Pa-ven
dẹp một cái thùng ra bên để lấy chỗ, rồi đứng sát ngay cửa sổ. Ri-ta đã chờ ở
ngoài, chị nhanh tay đưa cái túi cho Pa-ven. Pa-ven ném cái túi lên đùi mụ đang
kẹp bình đựng bơ, rồi cúi xuống nắm tay Ri-ta kéo lên. Đồng chí Hồng quân trong
đội tuần tra chưa kịp trông thấy và ngăn việc trái phép đó thì Ri-ta đã ở trong
toa rồi. Đồng chí bộ đội chậm chạp ấy không làm sao được, chỉ còn cách càu nhàu
bỏ đi. Thấy Ri-ta vào, lũ trộm cắp chợ đen nhao nhao lên, làm cho Ri-ta bối rối
và lo ngại. Chị không có chỗ nào đặt chân, đành phải đứng lên mép giá ghế dưới,
tay víu lấy chỗ vịn của giá ghế trên. Lời chửi rủa từ mọi chỗ dồn lại. Giọng ồ
ồ ở phía trên phì ra:
- Rõ
thằng đê mặt, nó đã lên rồi còn tha cả "mèo" lên nữa!
Một tên
ngồi khuất đâu trên cao hết lên: "Mốt-ca! Cậu cho nó dăm quả tống cho tối
mắt đi!"
Mụ mũi
tẹt định đặt cái hòm gỗ lên đầu Pa-ven. Chung quanh toàn những bộ mặt ti tiện,
hằn học. Pa-ven tiếc là Ri-ta có mặt ở đây, nhưng thế nào cũng phải thu xếp cho
có chỗ ngồi.
- Này
anh, cất hộ những bao ở lối đi đi, lấy chỗ cho nữ đồng chí này đứng. - Pa-ven
nói với tên mà người ta gọi là Mốt-ca, nhưng nó đã đáp lại một câu thô tục bần
thỉu làm cho anh sôi cả người lên. Anh cảm thấy tức tối, đau nhức trên mu mắt
phải.
- Được
mày chờ một chút, đồ du côn, mày sẽ biết tay tao - Pa-ven cố nén, nói với tên
lưu manh như vậy, nhưng vừa dứt lời anh bị liền bị một cái đá vào đầu. Bọn
chúng ở bốn chung quanh thét lên ầm ĩ:
-
Vát-ca, cứ nện đi, cho nó nảy đom đóm mắt ra !
Bao
nhiêu giận dữ từ nãy Pa-ven cố nén trong lòng bây giờ bật ra, và trong những
lúc như thế này, cử chỉ của anh bao giờ cũng nhanh và quyết liệt.
- Bọn
đầu cơ chó má, chúng mày tưởng có thể trêu được tao đấy phải không? - Pa-ven,
tay bíu lấy giá ghế thứ hai, đánh đu lên như lò xo và giáng một quả đấm vào cái
mặt đểu giả vênh váo của Vát-ca. Quả đấm mạnh làm tên con buôn đầu cơ ngã bổ
nhào lên đầu những đứa khác, rồi lăn kềnh xuống lối đi.
"Bọn
khốn nạn ! Bỏ ghế, cút ngay không tao bắn chết cả như chó ấy!" Pa-ven giận
dữ quát lên, tay vung khẩu súng ngắn vào mặt bốn tên côn đồ.
Câu
chuyện đã xoay ra chiều hướng khác. Ri-ta chăm chú theo dõi, sẵn sàng nổ súng
vào bất cứ kẻ nào định chạm đến người Pa-ven. Trong nháy mắt ghế dài tầng trên
đã quang hẳn. Lũ gian vội vã chuồn sang toa bên.
- Ri-ta
ngồi đây nhớ, để tôi đi thanh toán với bọn chúng.
Ri-ta
ngăn anh lại:
- Pa-ven
định đi đánh nhau với chúng đấy à?
Pa-ven
nói cho Ri-ta yên tâm:
- Không,
tôi sẽ về ngay.
Pa-ven
lại mở cửa sổ và nhảy xuống thềm nhà ga. Vài phút sau, anh đã có mặt ở phòng
làm việc của Bua-mây-stơ, cục trưởng Cục công an đặc biệt và là người phụ trách
cũ của anh. Đồng chí Bua-mây-stơ là người Lét-tô-ni. Sau khi nghe Pa-ven kể,
đồng chí hạ lệnh cho hành khách ra khỏi toa và kiểm tra lại giấy tờ của mọi
người.
Bua-mây-stơ
lẩm bẩm:
- Tôi
nói y như rằng, tàu vào đến ga là đã đầy ắp bọn con buôn đầu cơ rồi.
Một đội
công an đặc biệt gồm mười người đến kiểm soát toa tàu. Theo thói quen, Pa-ven
giúp việc kiểm tra lại cả chuyến tàu. Tuy thôi công tác ở Cục công an đặc biệt,
Pa-ven vẫn đi lại với các bạn mình ở đấy. Khi còn làm bí thư đoàn thanh niên
đường sắt, anh đã đưa nhiều đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú vào công tác ở
Cục công an đặc biệt. Kiểm tra xong, Pa-
ven về chỗ Ri-ta. Toa tàu bây giờ đầy hành khách mới: những cán bộ đi công tác
và các chiến sĩ Hồng quân.
Trên ghế
tầng ba ở góc toa chỉ đủ chỗ cho Ri-ta thôi. Những bó báo đã choán hết chỗ.
Ri-ta
nói:
- Không
sao, rồi thế nào cũng thu xếp được chỗ ngồi.
Đoàn tàu
chuyển bánh.
Nhìn qua
cửa sổ, hai người lại trông thấy mụ lắm điều lúc nãy ngồi trên đống bao bì.
Tiếng kêu của mụ vẳng lại: "Man-ca ơi, cái bình toong của tao đâu rồi
?".
Ri-ta và
Pa-ven ngồi ở một chỗ hẹp, những bó báo ngăn cách họ với những người bên cạnh.
Hai người giở bánh mì và táo ra ăn một cách ngon lành, vui vẻ ôn lại câu chuyện
chẳng lấy gì làm vui lắm vừa qua.
Xe lửa
bò chậm chạp. Những toa tàu xộc xệch chở quá nặng, chạy lắc lư, bánh xe khô
nghiến ken két và răng rắc, toa rùng mình nảy lên khi bánh lăn qua chỗ đường
sắt nối. Trời nhá nhem, cảnh vật bên ngoài chìm trong màu xanh dày đặc. Rồi đêm
tối giăng màn đen lên những khoang cửa sổ mở toang. Trong toa cũng tối như
bưng.
Ri-ta
mệt mỏi thiu thiu ngủ, đầu gối lên túi dết.
Pa-ven
ngồi hút thuốc lá ở mép ghế, chân buông thõng xuống. Anh cũng mệt nhoài, nhưng
không có chỗ đặt lưng. Gió hiu hiu đưa hơi đêm lạnh mát lọt vào cửa sổ. Tàu lắc
mạnh, Ri-ta sực tỉnh. Nhìn thấy chấm đỏ ở đầu điếu thuốc của Pa-ven, Ri-ta nghĩ
thầm: "Cậu Pa-ven ngồi mãi thế được cho đến sáng đấy. Đích là anh chàng
ngại không muốn làm phiền mình đây". Ri-ta nói giọng thương mến:
"Đồng chí Pa-ven, bỏ những kiểu cách tư sản ấy đi, nằm xuống mà
nghỉ!"
Pa-ven
ngả mình bên cạnh Ri-ta và khoan khoái duỗi cặp giò đã mỏi tê.
"Mai
chúng mình phải làm khối việc. Ngủ đi, ông tướng hay đánh nhau ạ". Cánh
tay Ri-ta ôm chặt lấy người đồng chí một cách tin cậy. Pa-ven cảm thấy làn tóc
Ri-ta áp vào má mình.
Đối với
anh, Ri-ta là thiêng liêng. Một người bạn thân, người đồng chí cùng chung lý
tưởng, giảng viên chính trị của anh. Thế nhưng Ri-ta dù sao cũng vẫn là phụ nữ.
Khi ở gần cầu đường sắt, anh cũng đã lần đầu tiên cảm thấy điều đó, cho nên cái
ôm của người bạn gái hôm nay mới làm lòng anh xúc động đến thế. Pa-ven nghe thấy
hơi thở mạnh và đều của Ri-ta; đôi môi Ri-ta ở đâu đây, gần lắm. Sự gần gũi đó
như thúc giục, khêu gợi Pa-ven tìm đến đôi môi hấp dẫn ấy. Cuối cùng, Pa-ven
phải dùng hết ý chí để nén lòng mình lại.
Hình như
đoán biết tình cảm của Pa-ven, Ri-ta mỉm cười trong tối. Ri-ta đã từng trải qua
niềm sung sướng trong tình yêu say đắm, cũng như nỗi kinh sợ khi tổn thất.
Ri-ta đã yêu hai người bôn-sê-vích, và những viên đạn của bọn Nga trắng đã cướp
mất của Ri-ta cả hai người. Một người to lớn, dũng cảm, tư lệnh một lữ đoàn.
Còn người kia là một thanh niên có đôi mắt trong sáng.
Chẳng
mấy chốc, tiếng bánh xe lăn đã ru ngủ Pa- ven. Mãi đến sáng, tiếng còi tàu rú
lên mới đánh thức anh dậy.
*
Ri-ta
khuya mới về nhà. Trong cuốn nhật ký ít khi mở ra, có ghi thêm mấy đoạn ngắn:
"11
tháng Tám,
Xong hội
nghị, A-kim, Sum-ski và các đồng chí khác đã đi Khác-cốp để dự hội nghị toàn xứ
U-cơ-ren. Mọi công việc hành chính đều trút lên đầu mình. Đu-ba- va và Pa-ven
được đề bạt vào Ban chấp hành Tỉnh đoàn. Từ khi Đu-ba-va được phái đi làm bí
thư Huyện đoàn Pê-séc thì không đến học tối nữa. Anh ta bận quá. Pa-ven còn cố
tiếp tục học, nhưng lúc thì mình không có thời giờ, lúc thì Pa-ven bận đi công
tác. Tình hình ngành đường sắt trở nên nghiêm trọng nên bên ấy phải ra lệnh
động viên thường xuyên. Hôm qua, Giác-ki đến gặp mình tỏ vẻ không bằng lòng, vì
bên mình đã lấy của anh nhiều người, anh ta kêu là số người đó cũng rất cần
thiết đối với bên ấy".
"23
tháng Tám,
Hôm nay,
mình đang đi ngoài hành lang thì thấy Pan-cơ-ra-tốp ,
Pa -ven và một người lạ nữa đứng ở
cửa phòng hành chính. Mình lại gần, nghe tiếng Pa- ven đang kể:
- Ở đấy
toàn những quân đáng ăn đạn. Chúng dám nói: "Các anh không được phép can
thiệp vào quyền hạn sử dụng của chúng tôi. Ở đây là do ủy ban vận chuyển gỗ làm
chủ, chứ chẳng biết có đoàn Côm-xô-môn nào cả". Mồm nó nói thế đấy, các
cậu ạ. Lũ ăn hại nó nấp ở những chỗ ấy đấy chứ ở đâu.
Tiếp đó,
Pa-ven buông lời chửi rủa rất tục, Pan- cơ-ra-tốp nhìn thấy mình, liền máy
Pa-ven. Pa-ven quay lại thấy mình, mặt anh ta tái đi, không dám nhìn thẳng rồi
lỉnh đi ngay. Chắc Pa -ven sẽ tránh đến đây gặp mình một dạo lâu
cho mà xem. Pa-ven biết là mình không tha thứ cho ai hay nói tục".
"27
tháng Tám,
Ban
thường vụ họp kín. Tình hình trở nên phức tạp. Bây giờ thì chưa thể ghi mọi
chuyện vào nhật ký được. Nhỡ lộ bí mật. A-kim ở huyện về, mặt mày buồn bực. Hôm
qua, bên Chê-chê-rếp, bọn chúng lại làm trượt một chuyến xe chở lương thực
xuống chân đường. Có lẽ đến bỏ không ghi nhật ký. Lâu nay chỉ ghi toàn những
mầu chuyện vụn vặt. Đợi Pa-ven. Hôm trước thấy Pa-ven: Pa-ven đang cùng Giác-ki
lập công xã năm người".
*
Đang
giữa trưa ở xưởng máy, người ta gọi Pa-ven đến dây nói. Ri-ta báo cho anh biết
tối nay Ri-ta rỗi rãi có thể giảng cho xong vấn đề đang nói dở: "Nguyên
nhân thất bại của Công xã Pa-ri".
Tối hôm
ấy, Pa-ven đến gần ngôi nhà phố Cơ-rúc U-ni-ve, ngước mắt nhìn lên cửa sổ phòng
Ri-ta có ánh đèn. Pa-ven chạy lên thang gác và như mọi lần, lấy nắm tay đập cửa
và không chờ trả lời, đã bước vào ngay.
Một cán
bộ quân đội đang nằm trên giường Ri-ta; giường này các bạn Ri-ta không một ai
được phép ngồi lên dù chỉ một chốc lát. Khẩu súng ngắn, cái xà-cột và chiếc mũ
đính sao nằm trên bàn. Ri-ta ngồi bên cạnh, tay ôm chặt lấy người đàn ông kia.
Hai người đang nói chuyện gì với nhau, sôi nổi lắm... Pa- ven vào, Ri-ta quay
ra nhìn, mặt hớn hở.
Anh cán
bộ quân đội gỡ tay Ri-ta ra và đứng dậy.
Ri-ta
bắt tay Pa-ven và giới thiệu:
- Đây
là...
Người
đàn ông đó bắt tay Pa-ven rất chặt và đỡ lời Ri-ta:
- Tôi là
Đa-vít Uốt-chi-nô-vích.
Ri-ta
vừa cười vừa nói với Pa-ven:
- Anh ấy
đến bất ngờ quá. Như hòn ngói rơi xuống đầu mình...
Cái bắt
tay của Pa-ven thì lạnh nhạt. Đôi mắt anh ngầm nảy lửa. Anh còn kịp nhận ra
trên tay áo cán bộ quân đội của Đa-vit có bốn gạch.
Ri-ta
chưa nói, thì Pa-ven cướp lời ngay:
- Tôi
chạy đến báo cho Ri-ta biết là hôm nay tôi bận tham gia dỡ gỗ ở ngoài bến. Để
Ri-ta khỏi phải chờ tôi... Hơn nữa, hôm nay Ri-ta lại có khách. Thôi, tôi đi
kẻo anh em đang đợi ở dưới chân thang.
Pa-ven
đến một cách đột ngột và cũng đột ngột biến đi ngay. Tiếng chân anh chạy nhanh
thoăn thoắt xuống cầu thang. Cửa đóng lại kêu đánh rầm một cái. Rồi lại im
phăng phắc.
Trước
cái nhìn ngạc nhiên của Đa-vít, Ri-ta nói một giọng không vững lòng lắm:
- Chắc
anh ấy có chuyện gì đây.
...Dưới
gầm cầu, chiếc đầu tàu thở hồng hộc, lồng ngực rắn chắc của nó phun ra hàng đàn
đom đóm loé vàng. Vòng đom đóm muôn hình, muôn vẻ tung lên và tắt biến đi trong
khói cuộn.
Pa-ven
đứng dựa lưng vào lan can cầu, nhìn những đèn hiệu nhiều màu nhấp nháy trên ngã
ba đường. Anh nhắm mắt lại.
Anh tự
mình mỉa mai hỏi mình:
"Đồng
chí Pa-ven ơi, dù thế nào đi nữa, không hiểu cớ sao đồng chí lại thấy lòng đau
đớn đến như thế khi biết Ri-ta đã có chồng kia chứ? Có khi nào Ri- ta nói với đồng chí
là Ri-ta chưa chồng đâu? Mà dù có nói chăng nữa, thì đã sao? Cớ sao đồng chí
lại bực dọc? Thôi, xin đồng chí thân mến, đồng chí đã chẳng cho là giữa hai
người chỉ có tình bạn, tình đồng chí cùng chung lý tưởng và chỉ có thế thôi đấy
ư? Thế thì cớ sao đồng chí lại...? Và nhỡ người đó không phải là chồng Ri-ta?
Đa-vít Uốt-chi-nô-vích có thể là anh hay là chú Ri-ta... Nếu như thế thì hóa
ra, chàng ngố ạ, anh đã giận oan người ta. Rõ ràng đồng chí cũng chỉ là một đứa
nhỏ nhen như những đứa đàn ông khác. Có phải anh Ri-ta hay không, chuyện đó
cũng dễ biết thôi. Nhưng nếu là anh hay là chú, thì đồng chí sẽ ăn nói với
Ri-ta ra sao về thái độ của mình? Không ! Từ nay trở đi, đừng có đến gặp Ri-ta
nữa!"
(Uốt
chi-nô-vích là tên họ của Ri-ta. Ở Liên Xô, cha con, anh em, chú cháu, vợ chồng
đều lấy một tên họ trùng nhau. Nghe qua tên Đa- vít Uốt chi-nô-vích có thể hiểu
là anh hay chú, và cũng có thể là chồng, cho nên Pa-ven thắc mắc)
Còi tàu
rú lên, ngắt luồng ý nghĩ của Pa-ven. "Muộn rồi. Nghĩ vẩn vơ mãi ! Đã đến
giờ về !".
*
Ở xóm
Xô-lô-men-ca (tên gọi khu công nhân đường sắt ở) năm thanh niên lập nên một
tiểu công xã. Xã viên gồm có Giác-ki, Pa-ven, một thanh niên Tiệp tóc hoe, vui
tính tên là Cơ-la-vi-sếch, Ô-cu-nhép và đồng chí A-chu-khin, bí thư chi đoàn
đoạn đầu máy kiêm nhân viên Ban đặc biệt ngành đường sắt; cách đây không lâu,
đồng chí ấy còn là thợ đốt lò ở xưởng trung tu đầu máy.
Họ kiếm
được một căn phòng, rồi ba ngày liền, cứ đi làm về là họ lau chùi, quét tước,
quét lại vôi. Tiếng xô xách nước loảng xoảng ầm ĩ khiến lắm lúc hàng phố tưởng
là chữa cháy. Họ đóng phản nằm, lấy lá khô ngoài công viên nhồi vào bao làm
đệm. Sang đến ngày thứ tư thì họ treo lên tường bức chân dung Pê- tơ-rốp-ski(
Một cán bộ lâu năm của Đảng hồi đó làm Chủ tịch toàn U-cơ-ren) và một bản đồ lớn.
Gian phòng bóng lộn, trắng tinh.
Giữa hai
cửa sổ gian phòng là giá xếp đầy sách. Hai hòm gỗ không lót bìa dày thay nệm
dùng làm ghế ngồi, hòm nữa to hơn làm tủ. Giữa phòng có kê một bàn bi-a thật
rộng, do các xã viên lấy lưng ra khiêng đến: mặt bàn dạ lót màu xanh đã bị bóc
đi rồi, bàn ấy ban ngày dùng làm bàn viết, ban đêm là giường ngủ của
Cơ-la-vi-sếch. Tất cả của riêng tây của mỗi người đều đem đến đây.
Cơ-la-vi-sếch tính rất tỉ mẩn, đã làm bản kiểm kê tài sản của công xã, định
treo lên tường, nhưng bị anh em phản đối rầm rầm lại thôi. Trong phòng cái gì
cũng thành của chung. Tiền lương tháng, thực phẩm được cấp phát và cả những quà
bà con thân thích gửi cho đều đem chia đều. Chỉ có vũ khí thì được coi là của
riêng mà thôi. Các xã viên nhất trí quyết nghị: ai vi phạm nội quy tài sản công
cộng và bất tín với anh em thì bị khai trừ ra khỏi công xã. Ô-cu-nhép và
Cơ-la-vi-sếch còn nèo ghi thêm: và bị đuổi ra khỏi nhà này.
Hôm ăn
mừng thành lập công xã, tất cả cán bộ Đoàn ở khu phố công nhân đường sắt đều
đến dự. Mượn hàng xóm được một ấm pha chè gộc và cho ra hết cả số đường dự trữ.
Anh chị em làm xong tuần trà thì hát đồng ca vang lên.
Thế gian
này nước mắt tràn đầyĐời chúng ta nhục nhằn, lao khổ.Nhưng rồi nhất định sẽ đến
ngày...
Ta-li-a,
nữ công nhân xưởng thuốc lá, chỉ huy ban đồng ca. Khăn trùm sợi đỏ tuột ra bên
đầu, chị có đôi mắt của trẻ em tinh nghịch. Chưa ai được ghé sát nhìn gần vào
cặp mắt ấy. Cái cười của Ta-li-a làm ai cũng vui lây. Cô thợ làm hộp này nhìn
đời qua tuổi trẻ đang nở hoa, nhìn đời trên bậc thang của tuổi mười tám. Tay Ta-li-a đánh nhịp vung lên và điệp khúc vang như
tiếng kèn đồng.
Bài ca
ta bay xa, bay khắp bốn phươngNgọn cờ ta phấp phới khắp thế gian,Đấy là máu đào
của ta rực cháyIn trên cờ đỏ thắm sáng chói...
Khuya
lắm họ mới chia tay ra về. Tiếng hát chia tay vang lên rộn rã làm mất giấc hàng
phố đang yên ngủ.
Giác-ki
choài tay ra với ống nghe dây nói. Trong phòng đồng chí bí thư phụ trách này,
anh chị em đoàn viên đứng chật, chuyện ồn ào. Giác-ki phải kêu lên:
- Các cậu
ơi! Khẽ một chút, chẳng còn nghe thấy gì cả.
Tiếng
chuyện trò hạ thấp hẳn giọng xuống.
- Tôi
nghe đây. Đồng chí đấy à? Vâng, vâng. Ngay bây giờ. Chương trình họp à? Vẫn vấn
đề ấy: vấn đề dỡ củi ngoài bến? Không, cậu ta không đi công tác đâu cả. Đang ở
đây. Có muốn gọi cậu ta không? Được chờ nhé!
Giác-ki
vẫy gọi Pa-ven:
- Nữ
đồng chí Ri-ta Uốt-chi-nô-vích hỏi cậu.
Và anh
chuyển ống nghe cho Pa-ven.
- Ri-ta
cứ tưởng là Pa-ven không có đấy. May quá, tối nay Ri-ta không bận. Đến nhé. Hôm
trước anh Ri-ta đi qua rẽ vào chơi, anh em đã hai năm nay mới gặp nhau đấy.
Hóa ra
là anh Ri-ta!
Pa-ven
không còn để tai nghe Ri-ta nói những gì nữa. Anh nghĩ đến buổi tối hôm ấy,
nghĩ đến điều mà lòng anh đã quyết định lúc đứng trên cầu. Ừ, ngay hôm nay,
phải đến gặp Ri-ta và tuyên bố cắt đứt. Tình yêu bắt phải nghĩ ngợi nhiều và
gây ra khá là đau đớn cho lòng. Lúc này không phải là lúc nghĩ đến yêu.
Tiếng
bên kia ống nói:
- Sao
thế ? Pa-ven không nghe rõ Ri-ta nói phải không?
- Có
đang nghe. Đồng ý. Họp xong sẽ đến.
Nói rồi,
bỏ ống nói xuống.
*Pa-ven
nhìn thẳng vào mắt bạn, tay bám chặt mép chiếc bàn gỗ sên và nói:
- Chắc
chắn là tôi không thể tiếp tục đến với Ri-
ta được nữa đâu.
Hàng
lông mi dày của người bạn gái đập đập vào nhau. Chiếc bút chì trên tay đang lướt
trên trang giấy bỗng ngừng lại và ngả xuống nằm yên trên cuốn vở để mở.
- Sao
thế ?
- Thời
giờ mỗi lúc một khó thu xếp quá. Ri-ta cũng biết đấy: càng ngày công tác càng
gay. Bỏ học cũng đáng tiếc lắm, nhưng đành phải gác lại...
Pa-ven
cảm thấy lời nói về cuối mình thiếu bề chắc chắn. Anh nghĩ thầm:
"Sao
lại nói quanh thế Ra mi chẳng có can đảm lấy tay đấm thẳng một cái vào trái tim
mi ư?"
Nghĩ
thế, Pa-ven nói tiếp, giọng quả quyết hơn:
- Ngoài
ra, từ lâu đã định nói với Ri-ta là Pa-ven nghe Ri-ta giảng thật ra không hiểu
lắm đâu. Khi học với Xê-gan thì trong đầu nhớ được hết. Còn với Ri-ta thì
Pa-ven học không có kết quả. Cứ mỗi lần nghe Ri-ta giảng xong, Pa-ven lại phải
tìm đến hỏi đồng chí Tô-ca-rếp. Đầu óc Pa-ven chẳng chịu làm việc nữa. Ri-ta nên
tìm một người học trò vào sáng dạ mà giúp thì hơn.
Và
Pa-ven quay đi để tránh cái nhìn chằm chằm của bạn. Anh nói thêm, nhất quyết:
- Cho
nên, chúng ta không nên tiếp tục làm mất thì giờ chung của cả hai người.
Pa-ven
đứng dậy, chân nhẹ nhàng đẩy lùi chiếc ghế, mắt nhìn xuống đầu Ri-ta đang cúi
gục; ánh đèn soi rõ mặt Ri-ta tái nhợt đi. Pa-ven đội mũ cát- két lên đầu:
- Thôi,
từ biệt đồng chí Ri-ta nhớ. Tiếc rằng lâu nay đã làm phiền Ri-ta. Đáng lẽ phải
nói với Ri-ta ngay từ lâu rồi. Đấy là lỗi của Pa-ven.
Ri-ta
đưa tay ra bắt. Vẻ lạnh nhạt không ngờ của Pa-ven làm chị lặng đi. Chị chỉ còn
nói được mấy tiếng:
- Pa-ven
ạ, Ri-ta không oán trách gì Pa-ven hết. Ri-ta đã không làm cho Pa-ven hiểu
Ri-ta, thì Ri-ta đành phải chịu lấy điều xảy ra hôm nay.
Chân
Pa-ven bước ra nặng nề. Anh lặng lẽ khép cửa lại, rồi đi ra. Đến cổng, anh đứng
lại suy nghĩ:
"Có
lẽ nên trở lại chăng? Nói cho Ri-ta hiểu... Nói để làm gì cơ chứ? Để nhận một
lời khinh bỉ đốp vào mặt và lại bước ra cổng như thế này ư? Không!"
Trên các
ngả đường sắt vào nhà kho đoạn đầu máy, những toa tàu xơ xác, những đầu tàu
lạnh ngắt nằm lổng chổng trông y như những bãi tha ma. Gió lùa vào thổi bay mù
mạt cưa trong nhà kho chứa gỗ từ nay bỏ trống không.
Bọn phỉ
của tên O-rơ-lích đang như thú dữ rình mồi quanh thị trấn. Chúng men theo những
khe sâu, men theo các lối mòn trong rừng. Ban ngày lũ phỉ nghỉ chân trong những
bản lân cận, náu mình trong nhà của bọn chủ trại nuôi ong giàu có, đêm đến
chúng mò ra các ngả đường sắt, lấy nanh vuốt cào cấu bóc đi từng mảng đường
ray; khi đã làm xong cái trò ghê tởm ấy, chúng lại bò về thu mình trong sào
huyệt.
Thường
có những chuyến tàu bị lăn nhào xuống chân dốc nền đường, những toa xe bật tung
lên vỡ tan tành, đè bẹp gí những hành khách còn đang ngon giấc; những hạt lúa
mì quý đổ vãi ra mặt đường, trộn lẫn với máu và đất.
Bọn phỉ
tấn công những thị trấn thanh bình trong tổng. Đàn gà mái hoảng sợ, kêu quang
quác, chạy túa ra khắp ngả. Một tiếng súng nổ vang trước ngôi nhà trắng của trụ
sở Xô-viết tổng, nghe như những cành khô kêu răng rắc dưới chân người. Bọn phỉ
cưỡi những con ngựa béo tốt, chạy sục sạo khắp bản làng, gặp người là chém
ngay. Chúng vung kiếm vun vút, chém như bổ củi. Súng nổ thưa thớt: chúng còn để
dành đạn.
Lũ phỉ
hiện ra rất nhanh, rồi cũng biến đi rất nhanh. Bọn chúng có tai mắt rình mò
khắp nơi. Những cặp mắt cú vọ ấy đã nhìn như xoáy vào trụ sở Xô-viết tổng mà
lão thầy tu và bọn cu-lắc thường rình mò. Có những đường dây liên lạc vô hình
từ đấy đến tận đám rừng rậm. Đạn dược, những súc thịt lợn tươi, những chai rượu
mạnh xanh xanh đều được lén lút chở vào đấy. Cả tin tức cũng thậm thụt thì thầm
truyền đến tai những tên tiểu đầu lĩnh, rồi qua một mạng lưới thông tin phức
tạp hơn, đến tận tai tên trùm O-rơ-lích.
Đám phỉ
này tất cả chỉ gồm vẻn vẹn độ hai ba trăm tay chuyên môn chặt đầu người, nhưng
chia ra đến mấy toán hoạt động cùng một lúc ở hai ba huyện. Ta vẫn chưa tóm
được chúng vì không sao theo dõi được chúng. Ban đêm, nó làm phỉ, ban ngày nó
lại khoác áo nông dân hiền lành, loay hoay làm lụng ở sân, cho ngựa ăn và kéo
tẩu thuốc. Đứng trước thềm nhà chúng nhếch mép cười thầm, đưa mắt lấm lét nhìn
theo những đội kỵ binh tuần tra đi lùng dõi chúng.
Pu-dư-rếp-ski
lâu nay mất cả nghỉ, mất cả ngủ: đồng chí đã chỉ huy cả trung đoàn của mình phi
ngựa lùng khắp ba huyện. Đồng chí không biết mệt, kiên tâm lùng riết lũ giặc,
đôi khi đã nắm được đuôi của bọn chúng.
Trong
vòng một tháng tên phỉ O-rơ-lích phải rút bọn lâu la của nó ra khỏi hai huyện.
Nó bị ép trong một vòng vây khép chặt đang giãy giụa.
Trong
thành phố, dòng đời cứ trôi xuôi như thường lệ. Khắp năm khu chợ người lúc nhúc
đông nghìn nghịt, tiếng huyên náo rào rào, ầm ĩ. Hai xu hướng ngự trị ở nơi
đây: kẻ bán muốn bán giá cắt cổ, người mua muốn mua giá hời nhất. Bọn bịp bợm
đủ loại tha hồ mà trổ tài đánh xoáy. Có đến hàng trăm dứa lùi lùi rình mò như
một đàn rệp, cử chỉ nhanh thoăn thoắt, cứ nhìn mắt chúng, người ta có thể biết
được đủ mọi tính tình, trừ bản chất làm ăn lương thiện. Cả lũ cặn bã của thành
phố đều tụ tập ở đây như bu vào một đống phân với mục đích duy nhất:
"xoay" của những ai lớ ngớ mới đến. Những chuyến tàu thưa chạy đến
như khạc ra bên đường hàng đám người tay xách, lưng đeo nặng trĩu những bao với
bị. Bọn họ đều đi đến các ngả chợ này.
Chiều
tối, chợ nào cũng vắng tanh. Những phố buôn bán, những dãy cửa hàng tối om,
trông chẳng khác gì những phố hoang. Họa hoằn mới có những tay cứng bóng vía
ban đêm dám mạo hiểm đi vào khu phố chết này, nơi đây mỗi căn phố lặng ngắt đều
như có quân bất lương nấp sẵn và sắp sửa xồ ra hăm dọa. Đêm đêm lại hay có
tiếng súng nổ đánh đẹt một cái nghe như tiếng búa đập vào mảnh tôn, rồi có
tiếng người kêu ú ớ, máu sặc trong họng. Và chờ cho đến lúc mấy anh công an ở
các đồn gần đấy cùng chạy đến (họ không dám đi từng người một) thì ngoài cái
xác người còn đang giãy chết ra chẳng còn thấy bóng một ai. Bọn giết người đã
đi xa rồi và tiếng nổ làm những người còn đi chơi đêm lánh cho xa khu phố chợ.
Phía trước là rạp chiếu bóng "Ô-ri-ông" ánh điện dãi trên đường phố
và vỉa hè, công chúng đang chen chúc nhau ở đấy.
Trong
rạp máy chiếu phim lẹt xẹt. Trên màn ảnh, những cặp tình nhân bất hạnh giết lẫn
nhau, và mỗi lần phim đứt, người xem lại la ó dữ dội.
Ở khu
trung tâm và ở các ngoại ô, cuộc sống xem ra như không đi chệch vết xe cũ, và
ngay ở Tỉnh ủy, nơi đầu não của chính quyền cách mạng này, mọi sự vẫn trôi theo
dòng thường lệ. Song đấy chỉ là vẻ yên tĩnh bề ngoài.
Cơn bão
táp đang chín mùi, sắp nổ ra giữa thành phố.
Có nhiều
kẻ biết cơn bão táp sắp đến: chúng là những kẻ từ các nơi kéo lên tỉnh, giấu
không kín khẩu súng trường trong tà áo dài nông dân. Chúng còn là những đứa giả
dạng làm bọn con buôn đầu cơ lương thực ngồi trên mái các toa xe lửa đến đây,
đáng lẽ đi tới chợ, lại mang những bao bị ấy đến những địa chỉ mà chúng nhớ như
in trong óc.
Bọn
chúng thì biết rõ, còn các xóm thợ và ngay cả những người bôn-sê-vích thì lại
không hay gì về cơn giông tố đang kéo đến gần.
Trong
thành phố, chỉ có năm người bôn-sê-vích là nắm vững tình hình chuẩn bị làm loạn
của lũ phản động.
Tàn quân
Pết-lu-ra bị Hồng quân đuổi chạy sang nước Ba Lan trắng đã câu kết chặt chẽ với
các phái đoàn nước ngoài ở Vác-xô-vi, chuẩn bị tham gia vào cuộc nổi loạn đã dự
định.
Số tàn
dư của các trung đoàn Pết-lu-ra được bí mật lập thành đội xung kích.
Bọn đầu
sỏ phiến loạn của chúng cũng có bộ phận ở Sê-pê-tốp ca nữa, gồm bốn mươi bảy
tên, phần lớn là những tên tích cực phản cách mạng mà trước đây ủy ban đặc biệt
địa phương vì cả tin, nên đã tha bổng chúng.
Tổ chức
này đo lão cố Vát-xi-li, lão chuẩn úy Vin- ních và lão võ quan của bọn
Pết-lu-ra là Cu-mên-cơ cầm đầu. Hai đứa con gái lão cố, em và bố tên Vin- ních
và cả lão Xa-mô-tư-nha đã len lỏi được vào ủy ban hành chính sở tại làm chân
thư ký chép công văn, tiến hành do thám lượm tin cho chúng.
Bọn
phiến loạn đã quyết định trong đêm khởi sự sẽ ném lựu đạn vào phân đồn công an
biên phòng đặc biệt, đánh tháo tù và nếu có thể được thì chiếm nhà ga.
Giữa khu
phố lớn, trung tâm của cuộc nổi loạn sắp tới chúng đang hết sức bí mật tập
trung bọn sĩ quan lại. Trong khi đó thì bầy thổ phỉ cũng tụ tập ở những khu
rừng lân cận ngoại ô. Từ những khu rừng ấy, chúng phái những tay chân tin cậy
của chúng sang Ru-ma-ni và đến tận nơi báo cáo với đích thân Pết-lu-ra.
*Giu-khơ-rai
làm việc ở ủy ban đặc biệt quân khu chống phản cách mạng. Đêm này nữa là sáu
đêm ròng anh thức trắng chưa hề nhắm mắt lấy một phút. Anh là một trong năm
người bôn- sê-vích biết rõ mọi chuyện. Giu-khơ-rai có cảm giác như người đi săn
đã dõi thấy vết chân con thú dữ giữa lúc nó sắp nhảy xổ ra cắn.
(Ủy ban
đặc biệt, một cơ quan vừa là công an, vừa là tình báo còn được gọi là công an
đặc biệt nữa)
Song
biết mà không thể kêu lên, không thể báo động được. Phải đập chết con ác thú.
Có đập chết tươi nó, mới có thể yên ổn làm ăn được, đi đâu khỏi phải nơm nớp
nhìn từng bụi rậm. Cần nhất đừng làm cho con thú dữ kia kinh động. Trong trận
tử chiến này, chiến sĩ phải có trí sáng suốt, lòng kiên tĩnh và cánh tay vững
mạnh mới đảm bảo được thắng lợi.
Ngày ấy,
giờ ấy sắp đến nơi rồi.
Tại một
nơi nào đó ở thành phố, trong ngóc ngách của tổ chức bí mật của chúng, bọn
chúng đã họp kín với nhau quyết định: đêm mai.
Nhưng
năm người bôn-sê-vích biết chuyện đã trù tính chặn trước. Không, phải ra tay
ngay hôm nay, ngay đêm nay.
Lúc tối,
một chuyến xe lửa bọc sắt lặng lẽ không kéo còi, từ từ chạy ra khỏi nhà ga, và
xe vừa ra khỏi, cổng lớn nhà kho khép ngay lại, im ắng như không.
Các
đường dây điện báo trực tiếp hối hả truyền những bức mật điện; những hàng chữ
số đó bay đến đâu là bộ đội biên phòng ở đấy quên cả ngủ, tróc cho tiệt ổ thú
dữ.
A-kim
gọi dây nói cho Giác-ki.
- Các
hội nghị chi bộ đã triệu tập xong chưa? Thế nào? Tốt. Đồng chí cùng với đồng
chí bí thư Đảng ủy khu phố lại họp ngay nhớ. Vấn đề tiếp tế củi thế mà trầm
trọng hơn ta tưởng đấy. Đến đây ta sẽ bàn - Giác-ki nghe xong câu nói nhanh,
với giọng quả quyết của A-kim, vừa đặt ống nói xuống vừa càu nhàu:
- Vẫn
vấn đề củi. Còn là điên đầu với nó.
Hai
người bí thư Đảng và Đoàn từ trong chiếc xe của anh lái Lít-kê bước ra. Lên đến
tầng hai, họ hiểu ngay không phải vấn đề củi.
Một khẩu
súng máy "Mác-xim" nằm trên bàn giấy đồng chí phụ trách. Các chiến sĩ
súng máy của đơn vị đặc công đang tíu tít chung quanh. Ngoài hành lang, những
đảng viên và đoàn viên trung kiên của thành phố lặng lẽ đứng gác. Trong phòng
làm việc của đồng chí bí thư Tỉnh ủy, cuộc họp bất thường của ban thường vụ sắp
sửa kết thúc.
Đường
dây từ ngoài phố mắc qua cửa sổ con nối với hai máy nói kiểu dùng khi hành
quân.
Người ta
thì thầm nói chuyện với nhau. Giác-ki gặp A-kim, Ri-ta và Mi-khai-lô ở trong phòng.
Ri-ta mặc quân phục, như hồi còn làm chính trị viên đại đội: mũ Bu-đi-on-ny,
váy ka-ki, thắt lưng đeo súng "Mô-de" nặng trĩu.
Giác-ki
sửng sốt hỏi:
- Thế
này nghĩa là thế nào?
Ri-ta
nói cho anh biết:
- Tập
báo động đấy, Giác-ki ạ. Chốc nữa, tất cả sẽ đến khu phố đồng chí. Có hiệu lệnh
là tập hợp ở Trường Lục quân thứ năm. Anh chị em họp chi bộ xong thì cứ đến
thẳng đấy ngay. Chủ yếu là tập hợp thế nào cho không ai để ý đến mình.
Im lặng
bao trùm khu rừng "Học sinh quân".
(Thời
trước ở đây có trường "Học sinh quân" của chính phủ Nga hoàng nên gọi
là rừng "Học sinh quân")
Hàng cây
sên đại thụ đứng yên không lay động. Mặt nước ao tù phủ đầy những mảng bèo đang
yên ngủ. Những lối đi rộng kín cỏ. Giữa rừng, sau bức tường trắng cao là những
tòa nhà của trường "Học sinh quân" trước kia, ngày nay là Trường Lục
quân thứ năm của Hồng quân. Đêm đã khuya. Từng nhà trên không thắp đèn sáng.
Đứng ngoài trông vào có vẻ tịch mịch lắm. Ai qua đây cũng tưởng trong mấy tòa
nhà này mọi người đang ngủ say. Song nếu ngủ thì tại sao hai cánh cửa đúc bằng
gang nặng trình trịch lại mở toang ra và ngoài của có hai đống đứng lù lù như
hai con cóc khổng lồ thế ? Người ở khắp các ngả trong khu công nhân đường sắt
kéo đến đều biết rằng có báo động đêm thì trong trường chẳng ai ngủ đâu. Từ
những cuộc họp chi bộ Đảng, sau khi được nghe chỉ thị vắn tắt, họ liền đi thẳng
đến đây, lẳng lặng, không trò chuyện. Họ đi từng người một hay từng đội, nhưng
không quá ba người, trong túi người nào cũng có chứng minh thư trên đề
"Đảng cộng sản bôn-sê-vích" hoặc "Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-
ren". Có chìa một trong hai giấy chứng nhận đó mới qua được hai cánh cửa
đúc bằng gang này.
Trong
phòng họp lớn, người đã đông. Gian phòng này thắp đèn sáng. Vải bạt che kín các
cửa sổ. Những người bôn-sê-vích họp mặt ở đây nói đùa nhau rằng cách tập báo
động này có vẻ công thức. Họ thản nhiên hút thuốc như không có chuyện gì xảy
ra. Không ai cảm thấy có biến cả. Ai cũng tưởng tập hợp lại như thế chỉ là để
kiểm tra tinh thần kỷ luật của các đơn vị công tác đặc biệt mà thôi. Song những
cựu chiến binh dày kinh nghiệm hơn, vừa bước chân vào cổng trường Lục quân, đã
cảm thấy ngay có một cái gì hoàn toàn không phải là tập báo động cả. Mọi việc
đều tiến hành một cách quá lặng lẽ. Theo tiếng hô khe khẽ, từng trung đội học
viên sĩ quan im lặng xếp thành hàng ngũ , và súng máy xách tay, họ tiến ra
ngoài đường. Ở ngoài nhìn vào, không một ngôi nhà nào có chút ánh đèn.
Pa-ven
đến gần Đu-ba-va, khẽ hỏi:
- Có gì
nghiêm trọng không, Đu-ba-va?
Đu-ba-va
đang ngồi ở thành cửa sổ, cạnh một cô con gái mà Pa-ven chỉ mới thoáng gặp ở
nhà Giác-ki hôm kia. Nghe hỏi, Đu-ba-va vỗ vai Pa-ven nói đùa:
- Thế ra
cậu lo mất hồn rồi à? Chẳng ngại gì đâu! Rồi chúng mình sẽ dạy cậu đánh nhau.
À, cậu không quen cô này hay sao? - Đu-ba-va hất đầu chỉ về phía thiếu nữ kia:
- Đây là cô An-na. Họ gì, mình không biết, còn chức vụ: phụ trách cơ sở tuyên
truyền.
Thiếu nữ
nghe lời giới thiệu tinh nghịch của Đu- ba-va, đưa mắt nhìn kỹ Pa-ven. Cô vuốt
lại mái tóc tuột ra ngoài khăn quàng màu hoa cà.
Cặp mắt
cô bạn mới bắt gặp mắt Pa-ven. Nhìn nhau không nói mấy giây. Đôi mắt cô bạn đen
xanh, ánh lên, hơi kiêu kỳ dưới hàng mi dày mượt. Pa-ven quay sang nhìn
Đu-ba-va. Cảm thấy mặt mình đỏ lên, Pa-
ven bực mình cau mày và cố nhếch mép mỉm cười, hỏi cô bạn mới:
- Vậy
thì trong hai đồng chí, ai là người đang tuyên truyền thuyết phục ai?
Giữa lúc
ấy, trong phòng họp có tiếng ồn ào. Đại đội trưởng trèo lên ghế, hô lớn:
- Các
đảng viên cộng sản thuộc đại đội thứ nhất! Sắp đội ngũ trong phòng này ! Mau lên,
các đồng chí, mau lên !
Vừa lúc
ấy, Giu-khơ-rai, đồng chí chủ tịch Ban chấp hành tỉnh và A-kim bước vào. Cả ba
vừa mới tới đây. Gian phòng chật ních người đứng sắp thành hàng. Đồng chí chủ
tịch bước lên chỗ đặt khẩu súng máy thường ngày dùng để tập, giơ tay lên, cất
tiếng nói:
- Các
đồng chí, hôm nay chúng ta họp nhau ở đây vì một công việc rất khẩn trương.
Việc đó đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao. Bây giờ thì tôi có thể nói ra
điều mà hôm qua chưa thể nói được, vì đấy là một bí mật quân sự quan trọng. Đêm
mai, trong thành phố này và các thành phố khác của U-cơ-ren sẽ nổ ra cuộc nổi
loạn của bọn phản cách mạng. Thành phố đã đầy rẫy bọn võ quan trắng. Lũ phỉ đã
tập trung quanh thành. Một bộ phận của bọn phiến loạn ấy đã chui vào tiểu đoàn
thiết giáp của ta làm chân lái xe. Ủy ban đặc biệt của ta đã khám phá ra vụ này
và hôm nay, chúng tôi huy động tất cả tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản
tới đây để vũ trang đi dẹp phiến loạn. Tiểu đoàn cộng sản thứ nhất và thứ hai
sẽ cùng phối hợp hành động với các đơn vị học sinh sĩ quan và Ban đặc biệt đã
từng quen chiến đấu. Học viên sĩ quan đã đi trước rồi. Giờ đến lượt các đồng
chí. Các đồng chí có mười lăm phút để nhận vũ khí và xếp đội ngũ cho xong. Đồng
chí Giu-khơ-rai đây sẽ chỉ huy chiến đấu. Các đội trưởng sẽ nhận chỉ thị cụ thể
ở đồng chí Giu-khơ-rai. Tôi thiết tưởng không cần nói nhiều với tiểu đoàn cộng
sản ta đây về tính chất nghiêm trọng của giờ phút này. Cuộc phiến loạn sắp nổ
ngày mai, chúng ta phải bóp chết nó ngay hôm nay.
Mười lăm
phút sau, toàn tiểu đoàn đã vũ trang đầy đủ đội ngũ chỉnh tề đứng trong sân
trường. Giu-khơ-rai đưa mắt nhìn những hàng người đứng im.
Đứng
trước, cách hàng ba bước, hai người nai nịt gọn gàng: tiểu đoàn trưởng
Mê-nhay-lô, vóc người to lớn, vốn làm nghề thợ đúc ở U-ran, và bên cạnh là
A-kim làm chính ủy. Bên trái, những trung đội thuộc đại đội thứ nhất. Trước đại
đội hai bước là đồng chí đại đội trưởng và đồng chí chính trị viên. Sau lưng
họ, những hàng quân im lặng của tiểu đoàn cộng sản. Ba trăm tay súng.
Giu-khơ-rai
ra hiệu lệnh:
- Đến
giờ rồi! Tiến lên, bước!
Ba trăm
chiến sĩ tiến bước vào các ngả phố vắng tanh.
Thành
phố đang ngủ yên.
Tiểu
đoàn dừng chân tại phố Lơ-vốp, ngay chỗ đối diện với phố Đi-cai. Bắt đầu hành
động từ địa điểm này.
Các khối
nhà đều bị bao vây một cách lặng lẽ. Cơ quan tham mưu đóng ngay trên thềm một
cửa hiệu. Một chiếc ô-tô từ khu trung tâm đổ xuống, xuôi dọc con đường Lơ-vốp,
đèn pha rọi lên hè phố. Chiếc xe đỗ xịch trước cơ quan tham mưu.
Anh
thanh niên Guy-gô, con trai Lít-kê, lẩn này lái xe đưa cha tới. Cha anh là tư
lệnh đơn vị bảo vệ thành phố. Ông nhảy xuống đường nói với con mấy câu vắn tắt
bằng tiếng Lét-tô-ni. Chiếc xe lại nhảy chồm lên phía trước và trong nháy mắt
đã biến vào lối rẽ sang phố Đơ-ni-tơ-rép. Guy-gô mắt nhìn không chớp, hai tay
như gắn chặt vào tay lái, ngoặt sang phải, ngoặt sang trái.
Cái tính
lái xe táo bạo của Guy-gô thế mà cũng có lúc được việc! Chẳng ai còn có ý muốn
bắt phạt giam anh hai đêm vì cái tội cầm lái điên cuồng này nữa.
Và
Guy-gô bay khắp phố phường như một trận cuồng phong.
Guy-gô
đưa Giu-khơ-rai thoắt từ đầu này thành phố, trong nháy mắt đã vụt đến đầu kia
thành phố, làm cho Giu-khơ-rai cũng phải khen:
- Guy-gô
ạ, nếu đêm nay không chẹt phải ai thì mai cậu sẽ được thưởng một chiếc đồng hồ
vàng.
Guy-gô
mừng quýnh, đáp lại bằng giọng Lét-tô- ni lơ lớ của anh:
- Em thì
cứ tưởng là em đến phải ngồi tù mười ngày vì cái tội lái bạt mạng này mất.
Những
đòn đầu tiên nhằm giáng vào tổng hành dinh bọn phiến loạn. Những tên bị bắt và
những tài liệu thu được đưa ngay đến Ban đặc biệt.
Trên phố
Di-cai, ở ngõ cũng mang cái tên lạ lùng ấy tại nhà số 1 có một đứa tên là
Xuy-béc. Căn nhà nó ở có cửa sổ nhìn ra một khu vườn, vườn này chỉ cách có bức
tường ngăn với ngôi nhà trước kia là nhà tu kín. Lúc quân ta đến thì căn nhà
không có ai ở đấy. Láng giềng nói là hôm ấy Xuy-béc không về nhà. Khám trong
nhà thì thấy có một hòm lựu đạn cùng với bản danh sách có kèm địa chỉ. Đồng chí
Lít-kê hạ lệnh phục kích sẵn ở những địa chỉ ấy, còn mình thì đứng lại bên bàn
một phút xét qua những tài liệu tìm được.
Người
đứng gác ở trong công viên là một học viên sĩ quan trẻ tuổi. Cậu ta trông thấy
rõ cửa sổ có ánh sáng. Đứng ở trong góc này, có một mình thôi, chẳng thú tí
nào; cậu thấy ngài ngại. Người ta ra lệnh cho cậu gác bức tường bao phủ khu
vườn. Nhưng từ chỗ tường đến chỗ ánh sáng yên ổn ở cửa sổ kia còn xa lắm. Hơn
nữa, mặt trăng quái ác kia lại cứ bị mây che mờ luôn. Trong bóng tối, bụi cây
nào cũng như có người trong ấy. Cậu học viên sĩ quan lấy lưỡi lê dò dẫm quanh
mình: chẳng có gì cả.
"Sao
lại đặt mình gác ở đây? Tường cao thế thì ai mà leo vào được kia chứ. Thôi mình
lại gần cửa sổ ngó vào xem cái đã !". Nghĩ thế, cậu ta nhìn đầu tường cao
chót vót một lần nữa, rồi bước khỏi góc tối sặc mùi ẩm mốc ấy. Cậu dừng lại bên
cửa sổ một lát. Đồng chí Lít-kê thu nhặt nhanh những giấy tờ và định bước ra
khỏi phòng. Giữa lúc đó trên đầu tường hiện ra một bóng đen. Bóng đen đó từ
trên tường nhìn thấy rõ người đứng gác trước cửa sổ và cả người đang đứng ở
trong phòng. Nhẹn như một con mèo, nó chuyền sang một ngọn cây rồi bò xuống
đất, rón rén đến chỗ anh lính gác, tay nó vung lên và anh học viên sĩ quan quỵ
xuống. Lưỡi đoản kiếm cắm phập vào cổ người gác lút đến tận cán.
Tiếng
súng nổ giữa khu vườn đập vào tai các chiến sĩ đang vây quanh khu phố như một
luồng điện giật.
Sáu
người lộp cộp chạy đến.
Đồng chí
Lít-kê đã chết, xác ngã trong chiếc ghế bành, đầu đẫm máu gục trên bàn. Kính
cửa sổ vỡ toang. Kẻ địch không có thời giờ lấy lại tài liệu.
Tiếng nổ
tới tấp vang lên ở chân tường khu nhà tu kín. Hung thủ đã nhảy ra phố và chuồn
về khoảng đất trống ở đường Lu-ki-an, vừa chạy hắn vừa bắn trở lại. Nhưng thoát
sao được: một viên đạn của ta đã bắn theo trúng.
Khám xét
suốt đêm. Hàng trăm người không có tên trong danh sách hộ khẩu, nhưng có vũ khí
và những tài liệu khả nghi trong người, đã bị giải đến Ban đặc biệt, ở đây có
bộ phận chuyên môn tra xét.
Ở một
vài chỗ bọn phiến loạn đã dùng vũ trang kháng cự. Ở phố Gi-liên, đồng chí
An-tô-sa bị chúng bắn chết giữa lúc ta đang khám xét một nhà.
Tiểu
đoàn Xô-lô-men-ca đêm ấy mất đi năm chiến sĩ. Ban đặc biệt mất đồng chí Lit-kê,
lão đồng chí bôn-sê-vích, người lính gác trung thành và mẫn cán của nước cộng
hòa.
Âm mưu
phiến loạn đã bị chặn đứng.
Cũng đêm
ấy Ở Sê-pê-tốp-ca, lão cố Vát-xi-li, hai con gái và cả bè lũ nhà hắn đã bị bắt.
Tình thế
nguy ngập đã dịu dần.
Song một
kẻ thù mới lại đe dọa thành phố : thiếu củi, đường xe lửa bị tê liệt, và tiếp
sau đó là giặc đói và giặc rét.
Bánh mì
và củi sẽ quyết định tất cả.
Thép đã tôi thế đấy
Chương II
Như cơn
gió lốc, tin ghê gớm ập vào thành phố nhỏ này: "Nga hoàng đã bị đánh đổ
rồi!"
Hàng phố
không ai dám tin là thật.
Nhưng
rồi một hôm, có một chuyến tàu rẽ bão tuyết từ từ vào ga này. Hai sinh viên
súng khoác vai áo ca-pốt vội vã từ trên tàu bước xuống, cùng với một đơn vị
quân cách mạng, tay áo đeo băng đỏ. Họ bắt lũ sen đầm, lão quan năm già và tên
trưởng đồn. Khi ấy hàng phố mới tin là chuyện có thật. Dân đổ ra đường đen ngòm
trên tuyết trắng, hàng nghìn người kéo về phía quảng trường thành phố.
Người ta
háo hức lắng nghe những tiếng mới: tự do, bình đẳng, bác ái.
Rồi
những ngày náo nhiệt, sôi nổi, đầy xúc động và hân hoan qua đi. Lại bắt đầu im
lặng, chỉ có khác là ở tòa thị sảnh, nơi bọn men-sê-vích và bọn đảng Bun (Đảng
Xã hội Do-thái) đóng trụ sở có treo lá cờ đỏ. Thay đổi chỉ có thế thôi. Còn đâu
lại vào đấy như cũ.
Vào cuối
đông, một trung đoàn vệ binh kỵ mã đến đóng đồn trong thành phố. Sáng sáng, họ
kéo từng trung đội lên ga chộp lính từ mặt trận Tây Nam đào ngũ trốn về.
Bọn vệ
binh kỵ mã, đứa nào vóc người cũng béo tốt mặt mày nở nang. Lũ quan thì phần
nhiều là bọn hoàng thân, bá tước, vai đeo ngù kim tuyến, quần có đường viền chỉ
bạc, y như thời Nga hoàng, dường như chẳng có cách mạng nào xảy ra.
Đối với
Pa-ven, Cơ-lim-ca và Xéc-gây con nhà Bơ- ru-giắc, dường như cũng chẳng có gì là
thay đổi cả. Bọn chủ vẫn là bọn chủ cũ. Nhưng đến tháng Mười Một mưa dầm thì
xảy ra chuyện gì khang khác. Có một lớp người mới đến khuấy đảo ngoài nhà ga,
những người này phần lớn mới rời bỏ hầm hố ngoài mặt trận trở về. Họ mang tên
kỳ lạ là "bôn-sê-vích".
Cái tên
nghe chắc nịch và làm tin tưởng. Tên ấy từ đâu mà có? Chẳng ai biết cả.
Bọn vệ
binh kỵ mã khó mà cản được binh lính đào ngũ. Các cửa kính ở nhà ga thường bị
vỡ luôn vì súng nổ ngày một nhiều. Binh lính bỏ mặt trận từng khối đông nghịt
kéo về. Khi vệ binh ra chặn, thác người mặc áo xám này liền rút lưỡi lê chống
cự lại. Sang đầu tháng Chạp thì có đến hàng chuyến tàu lính đảo ngũ lũ lượt đổ
về.
Vệ binh
vây lấy nhà ga, tưởng đứng chắn đấy mà ngăn được thác người đang đổ về. Nhưng
bọn vệ binh đã bị hàng loạt súng máy quạt vào mặt. Những người từ trên tàu đổ
xuống đã từng xông pha quen với cái chết.
Những
chiến sĩ mặc áo xám dồn bọn vệ binh vào trong phố, rồi lại trở ra ga, lên xe
đi. Từ dạo ấy những đoàn xe từ mặt trận cứ nối tiếp nhau đổ về.
*
Mùa xuân
1918. Ngày hôm ấy, ba người bạn trẻ vừa đánh bài liên hồi kỳ trận ở nhà Xéc-gây
chán, rồi tạt vào nhà Pa-ven, ngả lưng trên bãi cỏ. Buồn quá, mọi trò chơi lâu
nay đều thấy chán ngấy cả rồi. Đang nghĩ xem làm cách gì hơn cho qua ngày, thì
nghe có tiếng vó ngựa lộp cộp gõ trên đường phố. Một người đi ngựa hiện ra. Con
ngựa nhảy phắt một cái qua rãnh cạnh đường, sát bờ rào thấp quanh vườn. Người
đi ngựa vẫy roi ra hiệu cho Pa-ven và Cơ-lim-ca:
- Này,
các cậu bé ơi, lại đây cho tôi nhờ tí !
Pa-ven
và Cơ-lim-ca nhảy bổ ra bờ rào. Người đi ngựa mình đầy bụi; bụi đường trường
đóng dày trên mũ cát-két đội hất về đằng sau, bụi chen vào kẽ những nếp quân
phục. Một khẩu súng ngắn nặng và hai quả lựu đạn Đức đeo ở đây lưng to bản.
- Các
cậu làm ơn cho xin hụm nước.
Trong
khi Pa-ven chạy về nhà lấy nước, người lạ mặt hỏi Xéc-gây:
- Tỉnh
nhà giờ trong tay ai, hở cậu em?
Xéc gây
đang trố mắt chòng chọc nhìn người ấy, nghe hỏi thì vội vàng trả lời ngay, háo
hức kể hết tin tức:
- Đã hai
tuần nay, chẳng có chính quyền nào ở đây cả. Chính quyền của chúng tôi là dân
phố tổ chức tự vệ lấy. Đêm, dân hàng phố thay phiên nhau đi gác, hết đội này
đến đội khác. Còn anh là ai thế hở anh? - Đến lượt Xéc-gây hỏi lại.
Người đi
ngựa tủm tỉm trả lời:
- Cậu
hỏi làm gì? Còn bé mà đã muốn biết nhiều thế thì chóng già đi đấy, cậu em ạ!
Vừa lúc
ấy, Pa-ven hai tay cầm ca nước từ trong nhà chạy ra.
Người đi
ngựa tu ừng ực một hơi hết ca nước, trả ca lại cho Pa-ven, rồi giật cương tế
ngựa phi về phía rừng thông.
Pa-ven
lấy làm lạ quay hỏi Cơ-lim-ca:
- Người
ấy là ai thế ?
Cơ
lim-ca nhún vai đáp:
- Tao
biết đâu đấy.
Ngay lúc
ấy, Xéc-gây, giọng quyết đoán, nói với hai bạn ý kiến của mình về vấn đề chính
trị này:
- Chắc
lại sẽ có đảo chính nữa. Thảo nào tối qua nhà lão Lê-sinh-ski kéo nhau đi sạch.
Mà hễ bọn giàu đã cuốn gói tếch, tức là quân du kích sắp đến rồi...
Xéc-gây
kết luận chí lý quá khiến cho cả Pa-ven lẫn Cơ-lim-ca đều cho là phải ngay.
Ba thiếu
niên còn bàn luận chưa xong thì tiếng vó ngựa giòn giã lại vang lên dọc đường
phố. Cả ba chạy bổ ra hàng rào.
Từ cánh
rừng nhỏ vòng sau nhà người chánh kiểm lâm, người và xe súng đổ ra đường cái.
Gần sát lại phía đàng này có chừng mười lăm tay kỵ mã, súng đặt ngang yên ngựa.
Hai người đi đầu thì một người đã có tuổi mặc áo va-rơ màu ka-ki, có thắt dây
lưng, ngực đeo ống nhòm. Bên cạnh là người đi ngựa mà lũ trẻ gặp ban nãy. Trên
áo va-rơ của người đứng tuổi có đính băng đỏ.
Xéc gây
lấy khuỷu tay hích Pa-ven, đắc chí:
- Mày
bảo tao nói có đúng không? Trông xem cái băng đỏ kia có phải là du kích không
nào. Nói sai thì mắt tao nổ con ngươi. Đúng là du kích...
Và Xéc
gây thích chí thét lên, nhảy qua hàng rào, nhẹ như chim trong chớp mắt đã ra
đến phố.
Hai bạn chạy
theo sau. Cả ba đứng trên vỉa hè, nhìn những đoàn người mới đến.
Đoàn
người cưỡi ngựa lại gần. Người cưỡi ngựa đi đầu nhận ra ba thiếu niên, gật đầu
chào, rồi lấy roi ngựa chỉ tòa nhà của Lê-sinh-ski, cất tiếng hỏi:
- Ai ở
nhà đó thế, các em?
- Lão
thầy kiện Lê-sinh-ski đấy.
Pa-ven
vừa tung tăng chạy theo ngựa vừa kể:
- Lão ta
đã chuồn đi hôm qua rồi. Chắc lão ta sợ các anh...
Người có
tuổi mỉm cười:
- Em
biết chúng ta là ai mới được?
Pa-ven
chỉ mẩu băng đỏ đáp:
- Cái gì
đây? Anh bảo mắt em không trông thấy cái này hay sao?
Hàng phố
tủa ra đường, tò mò nhìn bộ đội đi vào phố. Ba cậu bạn vẫn đứng nguyên ở vỉa
hè, mải mê ngắm những người du kích đỏ mệt nhọc, bụi bám đầy người.
Đến khi
khẩu đại bác độc nhất của đơn vị đã kéo qua, lăn ầm ầm trên đường đá, những xe
súng máy đã diễu đi hết, lũ trẻ lại chạy theo các anh du kích đến mãi tận trung
tâm thành phố, bộ đội bắt đầu đóng quân, cả ba mới chịu rủ nhau ai về nhà nấy.
Bộ tham
mưu đơn vị đóng ở biệt thự nhà Lê-sinh- ski. Tối đến, trong phòng khách lớn,
bốn người ngồi quanh một chiếc bàn to, chân bàn chạm trổ, họ là ba cán bộ chỉ
huy và người thủ trưởng đơn vị, đồng chí Bun-ga-cốp, một người đã có tuổi, tóc
hoa râm. Bun-ga-cốp trải tấm bản đồ vùng này lên bàn, đưa ngón tay chỉ dẫn, vừa
lấy móng tay vạch lên các đường sá vừa quay nói với người có gò má cao, răng
bàn cuốc ngồi trước mặt:
- Đồng
chí Ê-ma-sên-cơ, đồng chí bảo chúng ta nên dàn quân đánh ở đây à? Tôi thì tôi
nghĩ rằng sáng mai ta cứ phải rút lui nữa. Đáng lẽ tốt hơn hết là đi ngay đêm nay,
song quân ta mệt lắm rồi. Nhiệm vụ của chúng ta là rút được về tận Ca-da-chin
trước khi quân Đức đến. Sức ta thế này đem ra chọi thì là chuyện thật buồn
cười... Chỉ vẻn vẹn có một khẩu đại bác với ba mươi viên đạn, hai trăm lưỡi lê,
sáu mươi thanh kiếm; đồng chí tưởng là lực lượng ghê lắm đấy chắc!... Quân Đức
tiến, thế mạnh như dòng suối thép trút xuống. Ta chỉ có thể chiến đấu khi nào
phối hợp được với những đơn vị đỏ khác cũng đang rút như ta. Với lại, các đồng
chí ạ, chúng ta không nên quên rằng ngoài quân Đức ra thì trên đường ta đi còn
nhiều bọn phỉ phản cách mạng đang rình nện ta nữa. Ý kiến tôi là rút lui ngay
sáng sớm mai và trước khi rút, cho sập cái cầu sau ga. Quân Đức có chữa cũng
phải mất hai ba ngày. Thế là mũi tiến quân theo dọc đường sắt của chúng sẽ tạm
thời bị cản lại.
Bun-ga-cốp
hỏi tất cả những người ngồi dự họp:
- Các
đồng chí nghĩ thế nào? Ta quyết định đi thôi.
Stơ-ru-cốp,
ngồi bên cạnh Bun-ga-cốp, nhằn nhằn cắn môi, nhìn bản đồ rồi nhìn Bun-ga-cốp,
khó khăn lắm mới nói được những tiếng chưa ra khỏi cổ họng đã muốn tắc lại:
- Tôi
thì tôi... tán... tán thành ý kiến Bun-ga-cốp...
Người
trẻ nhất, mặc áo khoác công nhân, cũng đồng ý:
-
Bun-ga-cốp bàn có lý.
Chỉ có
Ê-ma-sên-cơ, người đi ngựa mà ban ngày bọn Pa-ven đã gặp, là lắc đầu, phản đối:
- Nếu
thế thì tập hợp nên toán quân này làm quái gì? Lập nó ra để mà cứ rút hoài
trước bọn Đức, không dám đánh chác gì cả à? Theo tôi, phải choảng nhau với
chúng ở đây. Chạy mãi chán lắm rồi. Nếu chỉ một mình tôi, thì tôi đánh ngay tại
đây.
Rồi đẩy
ghế đánh sầm một cái, anh đứng phắt dậy và đi đi lại lại trong phòng.
Bun-ga-cốp nhìn anh tỏ vẻ không tán thành.
- Đánh
phải đánh cho có mưu, có mẹo. Ê-ma-sên- cơ ạ. Chứ còn ném quân ta vào chỗ nhất
định tan tác, bị tiêu diệt thì chúng ta không thể nào làm được. Với lại làm như
thế thì là ngốc quá. Địch có cả một sư đoàn có trọng pháo, thiết giáp đuổi theo
sau ta. Chúng ta không phải là con nít, đồng chí Ê-ma-sên-cơ ạ.
Rồi quay
nói với những người khác. Bun-ga-cốp kết luận:
- Thế là
đã quyết định: sáng mai ta rút.
Bun-ga-cốp
lại tiếp tục:
- Vấn đề
tiếp theo là vấn đề liên lạc. Vì đơn vị ta rút sau cùng, nên nhiệm vụ ta phải
tổ chức công tác ở sau lưng địch. Ở đây có ngã tư đường xe lửa quan trọng,
thành phố nhỏ, nhưng có hai ga. Ta cần chọn một đồng chí nào chắc chắn, tin
cậy, ở lại đây công tác. Các đồng chí đề cử người đi.
Ê-ma-sên-cơ
vừa đi lại gần bàn, vừa nói:
- Theo
tôi, đồng chí lính thủy Giu-khơ-rai cần ở lại đây. Thứ nhất, đồng chí ấy là
người địa phương. Thứ hai, đồng chí ấy có nghề thợ nguội và hiểu cơ điện, có
thể xin được vào làm máy điện. Giu-khơ-rai lại không đi cùng đơn vị ta vào đây,
mãi đêm nay mới đến cho nên không lộ. Một tay thông minh, chín chắn như thế sẽ
làm công việc chạy. Theo tôi, đấy là người rất hợp với công tác này.
Bun-ga-cốp
gật đầu:
- Đúng
lắm, đồng chí Ê-ma-sên-cơ ạ. Tôi đồng ý với đồng chí.
Nói rồi
quay lại hỏi những người khác:
- Không
ai có ý kiến khác chứ ? Không. Vậy thông qua vấn đề này. Chúng ta để lại cho
đồng chí Giu- khơ-rai đủ tiền và tất cả giấy tờ cần thiết cho công tác. Sang
vấn đề thứ ba là vấn đề cuối cùng. Đó là vấn đề giải quyết kho súng ở thành phố
này. Ở đây, có kho súng hai vạn khẩu từ thời chiến tranh Nga hoàng còn lại.
Hiện để ở nhà một nông dân, nhưng không ai nhớ là có kho súng ấy. Chủ nhà đã
báo cáo với tôi ông ta muốn đẩy đi. Lẽ tất nhiên không thể để kho súng này vào
tay bọn Đức được. Tôi có ý kiến là phải đốt đi. Đốt ngay bây giờ. Sáng là phải
xong hết. Song chỉ ngại một điều: kho này ở mãi tít đầu tỉnh, giữa những khu
nhà của nông dân nghèo. Đốt thì lửa có thể cháy lan sang nhà dân.
Stơ-ru-cốp
người sây sát đầy sẹo, râu tua tủa tám ngày chưa cạo, xua tay phản đối:
- Sao...
sao... sao lại đốt? Tôi... tôi có ý kiến là đem phát... phát súng cho dân.
Bun-ga-cốp
quay phắt lại:
- Anh
nói đem phát cho dân?
Ê-ma-sên-cơ
thích chí kêu lên:
- Phải!
Hay lắm! Chia súng cho công nhân và tất cả những ai muốn lấy cũng cho. Ý kiến
cừ đấy. Chia cho dân để ít ra cũng làm bà con có gì trong tay để cọ nhau với
quân Đức, nếu chúng bóp chặt quá. Mà thế nào dân đây cũng bị chúng kẹp rất chặt
rồi. Kẹp quá không chịu được, là giở súng ra. Ý kiến Stơ-ru- cốp chia súng cho
dân là đúng lắm. Cũng nên chia một phần về nông thôn nữa. Ai chứ nông dân nghèo
thì họ sẽ cất kỹ lắm. Nếu bọn Đức định giở trò trưng thu, bòn vét thóc lúa thì
lúc ấy, những "củ" súng này sẽ lợi hại ra phết.
Bun-ga-cốp
bật cười. Đồng chí nói:
- Ừ thì
chia súng hay thật, nhưng giặc đến thế nào cũng ra lệnh nộp súng. Thế rồi ai
cũng đem nộp cả cho nó.
Ê-ma-sên-cơ
phản đối lại:
- Không,
không phải ai cũng đem nộp cả đâu ! Có người nộp, nhưng cũng có người giữ lại.
Bun-ga-cốp
đưa mắt hỏi mọi người. Anh công nhân trẻ bênh vực ý kiến của Ê-ma-sên- cơ và
Stơ-ru-cốp:
- Nên
phát súng cho dân. Nên phát.
- Thế
thì phát súng. Thông qua, - Bun-ga-cốp gật đầu đồng ý, rồi đứng lên nói tiếp: -
Thế là mọi vấn đề đều xong. Bây giờ chúng ta có thể nghỉ đến sáng. Khi nào
Giu-khơ-rai tới, bảo anh ta đến gặp tôi. Tôi sẽ nói chuyện với anh ta. Còn đồng
chí Ê-ma-sên-cơ, đồng chí hãy đi kiểm tra các trạm gác xem.
Mọi
người ra về, Bun-ga-cốp cũng đi sang phòng ngủ của nhà chủ ở cạnh phòng khách,
trải áo ca-pốt lên nệm giường, rồi ngả lưng xuống.
*
Sớm hôm
sau, Pa-ven ở nhà máy điện ra về. Đã một năm rồi, cậu làm phụ chân đất lò ở nhà
máy này.
Vừa ra
khỏi nhà máy Pa-ven thấy ngay hàng phố nhộn nhịp lạ thường, người gặp mỗi lúc
một nhiều, mỗi người đều vác một, hai hoặc đến ba khẩu súng. Pa-ven không hiểu
ra làm sao cả, rảo bước về nhà. Đến gần biệt thự Lê-sinh-ski , Pa -ven
thấy những người kỵ binh đỏ anh quen hôm qua đang lên ngựa.
Pa-ven
nhảy bổ vào nhà, rửa mặt mũi qua loa, hỏi mẹ, biết A-rơ-chom không có nhà, liền
nhảy tót ra cửa, ba chân bốn cảng, tất tưởi chạy sang đầu đằng kia thành phố
đến nhà Xéc-gây là con người phụ thợ máy xe lửa. Bố cậu ta có một căn nhà nhỏ
và mấu đất con. Xéc-gây không ở nhà. Bà mẹ mặt đầy và trắng, người đẫy đà, nhìn
Pa-ven lộ vẻ không bằng lòng:
- Chỉ có
ma quỉ biết nó đi đằng nào. Bảnh mắt ra đã chạy rồi, thật như thằng bị động, bị
dại. Hình như là người ta phát súng gì đấy. Chắc là nó đang ở đó. Cả lũ chúng
mày đều đáng đánh đòn tất, đồ còn thò lò mũi mà đã thích trò đánh nhau. Chúng
bay lêu lổng quá chừng rồi. Cấm sao bảo được. Một tí tuổi đầu, chưa cao hơn cái
vại nước mà đã chực mó vào chuyện súng với ống. Mày gặp thằng hại cơm ấy thì
bảo nó cho tao: nó mà mang một viên đạn về cái nhà này thì tao chém đầu đi. Nó
nhặt đủ thứ về để tội vạ chúng tao chịu. Còn mày nữa, mày cũng định chạy đến
đấy phải không?
Dọc
đường, gặp một người đàn ông, mang hai vai hai khẩu súng, Pa-ven sán đến hỏi
ngay:
- Bác
lấy súng ở đâu đấy, bảo cháu với?
- Ở trên
phố Véc-khô-vi-na kia. Họ đang phát.
Pa-ven
ba chân bốn cẳng, cắm cổ chạy như bay. Vừa chạy qua hai phố thì đụng ngay vào
một thằng bé con đang è cổ vác một khẩu súng trường nặng trịch có lắp lưỡi lê.
Pa-ven hỏi nó:
- Mày vớ
được ở đâu đấy?
- Anh bộ
đội phát ở trước cửa trường học ấy. Nhưng giờ thì chẳng còn gì đâu, người ta
lấy hết rồi. Phát suốt đêm rồi còn gì. Giờ đến chỉ còn hòm không.
Và nó
vênh mặt khoe:
- Tao
lấy chiếc này là chiếc thứ hai.
Tin ấy
làm cho Pa-ven nghe đến rụng rời: "Mình thật khỉ, đáng lẽ chạy thẳng đến
đó ngay lại còn rẽ về nhà. Thế là nhỡ tàu rồi".
Bỗng
chợt nghĩ ra điều gì, Pa-ven quay phắt trở lại nhảy ba bước đuổi theo thằng bé
kia, ra sức giằng lấy súng ở tay nó và nói giọng rất trịch thượng:
- Mày đã
có một khẩu, đủ rồi. Khẩu này để tao.
Ban ngày
ban mặt mà bị cướp trên tay, thằng bé hầm hầm xông vào Pa-ven, nhưng Pa-ven đã
lùi lại rất nhanh, chĩa lưỡi lê ra, thét lên:
- Lùi
lại, không ông đâm ngay!
Thằng bé
kia ức quá phát khóc và vừa bỏ chạy, vừa chửi cho hả giận. Còn Pa-ven thì thỏa
chí quá, rồi phi một mạch về nhà. Cậu nhảy qua rào, chạy thẳng xuống nhà dưới,
giấu khẩu súng cướp được lên mái nhà, rồi bước lên nhà trên, vừa đi vừa vui vẻ
huýt sáo.
*
Những
buổi tối mùa hè vùng U-cơ-ren, ở những thị trấn nhỏ như Sê-pê-tốp-ca này thật
là đẹp. Trung tâm là phố xá nhỏ và ngay ngoại ô đã là thôn quê rồi.
Những
buổi tối mùa hè êm đềm này, tất cả thanh niên ở đây đều kéo ra đường chơi. Con
trai con gái túm năm tụm ba hay từng đôi, ngồi trên thềm nhà, trong vườn, đứng
ở giậu cây, hay ngồi ngoài đường, trên những thanh gỗ xếp đống sắp làm nhà.
Tiếng cười tiếng hát vang lên khắp nơi.
Khí trời
ban đêm run rẩy, ngào ngạt mùi hoa thơm. Trên vòm trời cao thăm thẳm, sao lấp
lánh trông y như những con đom đóm. Vào những lúc như thế này, tiếng nói, tiếng
hát vọng đi xa lắm...
Pa-ven
mê đàn gió (ác-coóc đê ông). Cậu trìu mến bế chiếc đàn vào lòng tỳ lên gối,
ngón tay nhẹ nhàng lướt trên hàng phím, lên xuống nhanh thoăn thoắt; tiếng đàn
gấp đổ hồi. Những tiếng trầm ngân dài và đàn cất lên một khúc nhạc say sưa chan
chứa nhiệt tình và huyết khí.
Hộp đàn
mở ra rồi kéo vào, uốn khúc như sóng lượn. Nghe tiếng nhạc, chân không thể
không cuốn vào bước nhảy. Không chịu được, chân ai ai cũng giậm giật, cựa quậy.
Tiếng đàn rộn lên hơi thở nóng hổi: sống trên đời mới thú làm sao!
Tối nay
càng vui hơn mọi tối. Đám thanh niên thích cười đùa đã tụ tập nhau trên đống gỗ
xếp gần nhà Pa-ven. Tiếng Ga-lốt-sơ-ca, cô gái nhà hàng xóm, nói to nhất. Giọng
cô rất ấm, rất trầm và mượt như nhung. Người con gái ông thợ làm đá ấy vốn
thích nhảy, thích hát với những gã con trai.
Pa-ven
thì hơi kiềng cô ta. Vì cô bạo mồm bạo miệng lắm. Cô đang ngồi ngay cạnh
Pa-ven, cùng trên một tấm gỗ, tay ôm lấy ngang lưng Pa-ven, khít chặt vào lòng
và cười sằng sặc:
- Hãy
nghe tôi nói, tay đàn cừ khôi của tôi ơi! Thật đen đủi cho tôi là cậu còn măng
sữa quá. Không thì cậu đã thành người chồng xinh xinh của tôi rồi. Tôi rất cảm
những tay chơi nhạc. Gặp con nhà nhạc là lòng tôi say mê mềm nhũn ra.
Pa-ven
thẹn đỏ chín mặt; may mà trời tối, không ai thấy mình xấu hổ. Pa-ven muốn lủi
xa cô gái tinh nghịch, song Ga-lốt-sơ-ca ghì khỏe, giữ chặt lại.
Cô ta
cười nhí nhảnh:
- Mình
đừng chạy, mình yêu mình quý của em. Rõ chồng gì chồng lạ thế này!
Pa-ven
cảm thấy vai mình ép vào cặp vú xinh rắn chắc của Ga-lốt-sơ-ca, cậu thấy ngài
ngại và trong người rạo rực thế nào ấy. Chung quanh là tiếng cười ngặt nghẽo
vang động cả phố xá vốn im lìm.
Pa-ven
lấy tay đẩy vai Ga-lốt-sơ-ca để gỡ ra, miệng nói:
- Chị xê
ra chứ chị! Làm người ta không kéo đàn được nữa.
Và mọi
người lại cười ầm lên, nói đùa, nói giỡn, chọc Pa-ven.
Ma-ru-xi-a
chêm vào:
- Pa-ven
chơi cho chúng mình một bài nào thật buồn, thật não nuột tâm hồn.
Và từ từ
chiếc đàn lại kéo giãn ra, ngón tay nhẹ nhàng lướt trên phím. Đàn chơi khúc
nhạc quen thuộc mà ai cũng thích. Nhạc vừa cất lên, Ga-lốt-sơ-ca hát trước.
Ma-ru-xi-a và tất cả mọi người cùng hát theo:
Đoàn
người kéo gheVề chốn quê nhà,Thú vị làm saoÊm ái làm saoĐược ca lên tiếng thở
than...
Tiếng
hát của tuổi trẻ cất vang lên, vọng đi xa đến tận khu rừng.
Bỗng có
tiếng gọi: "Páp-ca!".
Đấy là
tiếng A-rơ-chom.
Pa-ven
gấp đàn gió lại, gài dây vào:
- Có
người gọi, tôi phải về đây!
Ma-ru-xi-a
khẩn khoản nài Pa-ven rốn lại:
- Ngồi
lại chơi một tí nữa, rồi hãy về cũng còn kịp chán.
- Thôi,
để đến mai. Bây giờ phải về, anh tôi gọi.
Pa-ven
vụt qua phố chạy về nhà.
Mở cửa
bước vào, Pa-ven thấy ngồi ở bàn với anh A-rơ-chom có bác Rô-man cùng làm một
chỗ với anh và một người thứ ba nữa mà Pa-ven không quen, Pa- ven hỏi anh: "Anh gọi em?"
A-rơ-chom
hất hàm về phía Pa-ven và nói với người lạ mặt:
- Thằng
em tôi đấy!
Người lạ
mặt chìa bàn tay gân guốc ra bắt tay Pa-ven.
A-rơ-chom
nói với em:
- Pa-ven
này, mày nói ở sở là mày làm người thợ máy bị ốm có phải không? Mai mày thử hỏi
xem sở nó có lấy người biết máy vào thay chân không nhé. Nếu họ cần người thì
chạy về nhà bảo tao.
Người lạ
mặt ngắt lời:
- Thôi,
để ngày mai tôi cùng đi với cậu em. Tôi sẽ tự nói thẳng với chủ.
Pa-ven
bây giờ đã hiểu ra tại sao anh gọi mình về:
- Nhà
máy nó đang cần thợ lắp máy điện thật, các anh ạ. Vì bác Stăng-cô-vích vẫn làm
bị ốm, phải nghỉ, cho nên hôm nay cái máy không chạy được. Bác ta bị thương
hàn. Chính chủ phải xuống đứng máy hai lần. Họ đang tìm người thay mà chưa có.
Có một mình người đốt lò thôi, họ không dám cho máy chạy.
Người lạ
mặt nói: "Nếu vậy thì việc chu rồi" và anh quay lại phía Pa-ven:
- Mai
anh sẽ đến đón em cùng đi đến sở nhé.
- Vâng
Pa-ven
bắt gặp cặp mắt bác ta: cặp mắt màu tro, bình tĩnh, nhìn thẳng vào Pa-ven không
chớp, khiến cậu hơi chùn. Chiếc áo bác ta màu xám, cúc cài suốt, kéo căng bó
lấy cái lưng rộng, chắc nịch, chiếc áo trông chật cứng. Bác ta vai và đầu khít
nhau, cổ như cổ trâu, thân hình vạm vỡ, sức khỏe có dư như một cây gỗ sến cổ
thụ rắn rỏi và bám chắc rễ.
Khi tiễn
chân bác ta, A-rơ-chom nói:
- Anh
Giu-khơ-rai, việc thế là tạm ổn, anh nhỉ. Mai mời anh lại đi với em nó đến sở
và lo việc ấy cho xong.
*
Bộ đội
đỏ đi được ba hôm thì quân Đức kéo vào thành phố. Lúc chúng đến, một hồi còi xe
lửa rú lên ở nhà ga mấy hôm nay vốn bỏ trống. Tin lan khắp tỉnh: Quân Đức đến!
Phố xá
rối lên như một tổ kiến bị động, tuy từ lâu dân phố đã biết thế nào bọn Đức
cũng kéo đến. Biết vậy nhưng sao cũng chẳng ai muốn tin cả. Thế mà bọn giặc Đức
đáng ghê sợ ấy hôm nay chẳng còn đâu xa nữa, chúng đã ở ngay trong phố rồi.
Dân phố
nem nép sau hàng rào nhà mình đứng nhìn, không dám bước chân ra đường.
Bọn Đức
hành quân làm hai hàng dọc, cứ men theo rìa đường mà đi để mặt phố vắng không
người. Chúng mặc quần áo xanh sẫm, tay lăm lăm chĩa súng ra đằng trước, lưỡi lê
to bản như dao, cắm vào đầu súng, mũ sắt nặng trịch úp sụp lấy đầu, ba-lô đi
trận nặng trĩu vai. Chúng đi từ ga vào phố, hàng quân dài liên miên, mắt chúng
gờm gờm có vẻ sẵn sàng dập tắt mọi sức kháng cự, tuy chẳng ai nghĩ đến kháng cự
chúng cả.
Hai tên
sĩ quan đi đầu, súng ngắn kiểu Mô-de trong tay. Giữa đường phố là tên trùm hội
tề đội mũ lông, mặc quần áo U-cơ-ren màu xanh, đi theo chúng làm phiên dịch.
Lính Đức
xếp hàng thành đội hình vuông vắn trong quảng trường trung tâm thành phố. Tiếng
trống nổi lên. Một đám nhỏ dân phố đã hơi hoàn hồn, tụ tập nhau lại. Đứng trên
bậc cửa một hiệu bào chế, tên trùm hội tề đọc to bản mệnh lệnh của tên quan tư
Coóc-phơ, tư lệnh quân quản thành phố.
BỐ CÁO
DÂN CHÚNG
Điều thứ
nhất. - Bản chức ra lệnh cho toàn thể dân phố trong vòng hai mươi bốn tiếng
đồng hồ phải đem nộp hết vũ khí, cả súng lẫn kiếm và dao găm. Ai trái lệnh sẽ
bị xử bắn.
Điều thứ
hai. - Nay hạ lệnh giới nghiêm thành phố. Từ tám giờ tối trở đi, cấm ngặt không
được đi lại ngoài đường.
Tư lệnh
quân quản thành phốKý tên: thiếu tá COÓC-PHƠ
Bộ tư
lệnh giặc Đức chiếm tòa thị sảnh vốn trước là trụ sở của Xô-viết công nhân lúc
mới khởi nghĩa. Ngoài cửa có tên lính gác không đội mũ sắt mà đội mũ lưỡi trai
có phù hiệu con điều hâu to tướng. Sân gần nhà thì lấy làm nơi chứa vũ khí dân
đem nộp.
Suốt
ngày, có những người vì sợ tội tử hình nên đem súng nộp. Người lớn không ló mặt
ra, thiếu niên và con trẻ mang súng đến nộp. Bọn Đức không bắt giữ ai lại.
Ai không
muốn đến kho nộp súng thì thừa lúc đêm tối, vứt phứa ra đường cái. Sáng hôm sau,
lính Đức đi tuần nhặt đưa lên xe chở về bộ tư lệnh.
Đến một
giờ trưa hết hạn nộp súng, bọn lính Đức kiểm kê số súng đã thu được là một vạn
bốn nghìn khẩu. Thế là thiếu đâu sáu nghìn khẩu không nộp cho bọn Đức. Chúng
liền tức tốc đi khám xét hàng loạt nhà dân, nhưng kết quả chẳng có mấy.
Tang
tảng sáng hôm sau, có hai người thợ xe lửa bị chúng bắn chết gần nghĩa địa
Do-thái ở ngoài thành phố. Chúng đã khám thấy súng trong nhà các anh.
Nghe đọc
bản bố cáo xong, A-rơ-chom cấp tốc trở về nhà. Gặp Pa-ven ngoài sân, anh liền
nắm lấy vai em, khẽ hỏi gặng:
- Mày có
rước khẩu nào ở kho súng về nhà không?
Pa-ven
chực không nói ra, song không bụng nào nói dối anh được, bèn thú thật hết cả.
Hai anh
em đi xuống nhà dưới. A-rơ-chom với lấy khẩu súng giấu trên xà nhà, tháo
quy-lát và lưỡi lê ra, rồi nắm chắc nòng súng giáng mạnh vào cột rào. Báng súng
gẫy tan, A-rơ-chom ném ra ngoài bãi hoang, còn quy-lát và lưỡi lê thì quẳng vào
chuồng xí.
Làm xong
đâu đấy, A-rơ-chom quay lại bảo em:
- Mày
không còn bé bỏng gì nữa, Pa-ven ạ. Mày phải hiểu là không đùa với súng được
đâu. Tao nói thật cho mày biết: chớ có mang gì về nhà. Mang về thì có thể mất
mạng đấy. Đừng làm gì che mắt tao, không rồi cứ mang về, nhỡ nó khám thấy ở nhà
này thì nó bắn tao trước tiên. Chứ mày là lỏi con, nó chẳng thèm đụng đến đâu.
Thời buổi này là thời buổi chó má, mày hiểu chưa?
Pa-ven
hứa không dám mang gì về nhà nữa.
Lúc hai
anh em vừa đi qua sân vào nhà thì thấy có xe ngựa đỗ trước cổng nhà
Lê-sinh-ski. Lão thầy kiện, vợ nó và hai đứa con - Nen-ly và Vích-to - bước
xuống xe.
- Lũ quạ
đã dẫn xác về rồi kìa! Lại sắp sửa giở giói, lên mặt! Quỷ tha ma bắt chúng mày
đi!
A-rơ-chom
nói lầm bẩm một cách hằn học và bước vào nhà.
Suốt
ngày, Pa-ven ngẩn ngơ tiếc khẩu súng. Giữa lúc ấy thì bạn nối khố của Pa-ven là
Xéc-gây đang ra sức hì hục lấy mai đào đất ở chân tường một cái nhà cũ bỏ
hoang. Cuối cùng, đào được một cái hố. Xéc-gây đặt vào hố ba khẩu súng mới
nguyên quấn giẻ bao kín. Đấy là ba khẩu súng cậu lĩnh được lúc người ta phát.
Cậu không muốn đem nộp cho bọn Đức. Thao thức suốt một đêm trường không phải là
để chốc lát bỏ mất món của vừa được ấy.
Lấp hố
xong, Xéc-gây dận dận đất, rồi kéo một đống rác cũ phủ lên. Xem xét lại kỹ càng
công việc mình vừa làm đâu đấy, thấy đã vừa ý rồi, cậu lật mũ lưỡi trai ra và
lau mồ hôi trán: "Bây giờ ông cho tha hồ chúng mày tìm. Mà có thấy nữa thì
đây là nhà vô chủ. Mình giấu không ai biết, không ai trông thấy!"
*
Pa-ven
dần dần quen thân với người thợ lắp máy dáng dấp bề ngoài có vẻ nghiêm khắc ấy.
Đến một tháng rồi, hai người cùng làm với nhau ở sở máy điện.
Giu-khơ-rai
chỉ bảo cho cậu bé phụ đốt lò hiểu máy phát điện chạy như thế nào và rèn nghề
cho cậu.
Người
thủy thủ xem chừng rất ưa chú bé linh lợi. Những ngày nghỉ, Giu-khơ-rai thường
năng lại chơi nhà A-rơ-chom.
Người
lính thủy chín chắn, trầm ngâm này chăm chú kiên nhẫn nghe hết chuyện kể về
tình cảnh gia đình này, nhất là khi bà mẹ than phiền về tính nghịch ngợm của
Pa-ven. Anh biết từ từ khuyên giải, làm bà cụ quên mọi nỗi bực bội và lại phấn
chấn trong lòng.
Một hôm,
gặp Pa-ven ở sân sở máy điện, giữa những đống củi gỗ, Giu-khơ-rai nắm lại và
mỉm cười nói:
- Bu em
kể chuyện là em thích đánh nhau lắm, "thằng cháu nhà tôi tính nó hung hăng
như con gà sống". - Giu-khơ-rai cười một cách độ lượng: - Kể thích đánh
nhau cũng chẳng có hại gì. Song phải biết là mình cần đánh ai, và tại sao phải
đánh.
Không
hiểu anh ấy nói đùa hay nói thật, Pa-ven cãi lại:
- Em
chẳng có đánh nhau lung tung đâu, anh ạ. Bao giờ cũng có lẽ phải em mới đánh.
Bỗng
người lính thủy hỏi đột ngột:
- Em có
muốn anh dạy em đánh nhau đúng võ không?
Pa-ven
sửng sốt hỏi lại:
- Thế
nào gọi là đánh đúng võ?
- Rồi em
sẽ biết.
Và
Pa-ven lần đầu tiên trong đời chăm chú theo một bài học ngắn về quyền Anh.
Học môn
này cũng hắc lắm, song Pa-ven mau thông lạ lùng. Bao nhiêu lần cậu bị quả đấm
của Giu-khơ- rai giáng cho ngã bổ ngửa ra đất. Song Pa -ven
không vì thế mà nản, học rất chăm và rất chịu khó.
Một ngày
rất oi bức, Pa-ven vừa ở nhà Cơ-lim-ca về đang đi đi lại lại trong nhà. Không biết
làm gì, Pa-ven định trèo lên nóc chòi ở góc vườn, khuất sau nhà, ngồi chơi. Chỗ
này Pa-ven vẫn thường thích đến. Tạt qua sân, vụt vào vườn, đến một cái chuồng
xây bằng ván xếp, cậu theo bậc gỗ leo lên mái nhà. Luồn qua những cành cây anh
đào phủ um tùm trên nóc, Pa-ven trườn ra giữa mái, nằm bò ra phơi nắng.
Cổng
chòi một bên trông ra vườn nhà Lê-sinh-ski, chỉ bò ra mép mái là nhìn rõ tất cả
khu vườn và chái bên nhà bọn lính Đức đóng, Pa-ven thò đầu ra và thấy khoảng
sân lớn có xe ngựa đỗ. Cậu trông rõ cả tên lính hầu đang chải quần áo cho thằng
quan hai Đức đóng ở nhà Lê-sinh-ski. Pa-ven đã nhiều lần thấy mặt tên trung úy
này ở cổng nhà lão Lê-sinh-ski.
Lão quan
béo ụt ịt, má đỏ, mép có tí râu vểnh xén ngắn. Lão mang kính kẹp ở mũi, đội mũ
cát-két có vành sơn bóng. Pa-ven biết lão ta ở buồng bên có cửa sổ trông ra
vườn; nằm trên mái nhà, nhìn vào buồng lão rõ mồn một.
Lão quan
ngồi vào bàn viết lách, viết xong rồi thì cầm lá thư đi ra. Lão đưa phong thư
cho tên lính hầu, rồi bước vào lối vườn đi đến gần hàng giậu sắt. Đến chỗ giàn
cây, lão ta dừng lại nói chuyện với ai. Té ra là con Nen-ly nhà lão Lê-sinh-ski
ở bụi cây đi ra. Lão khoác tay nó bước lại cổng, rồi cả hai đứa cùng đi ra phố.
Pa-ven
đã theo dõi từng li, từng tí cả cái cảnh đó, sắp thiu thiu ngủ thì chợt thấy
thằng lính hầu bước vào buồng tên quan. Nó treo bộ quần áo của tên quan lên
mắc, mở cửa sổ trước vườn, dọn buồng xong, rồi trở ra khép cửa lớn lại. Ngay
sau đó, Pa-ven thấy nó đến trước chuồng ngựa.
Qua cửa
sổ bỏ ngỏ, Pa-ven nhìn rõ cả gian buồng. Trên bàn có chiếc thắt lưng da và một
vật gì sang sáng nữa. Vật gì thế?
Pa-ven
tò mò, háo hức muốn biết quá, bèn từ mái nhà chuyền sang cây anh đào và tụt
xuống vườn nhà lão Lê-sinh-ski. Cậu cúi rạp người xuống, chạy lom khom mấy bước
thì tới khung cửa sổ bỏ ngỏ. Nhìn vào thì té ra trên bàn là cái dây da có quai
đeo kiếm và cái bao để mở trong có khẩu súng ngắn mười hai phát rất choáng kiểu
"Man-li-khe".
Pa-ven
nghẹn thở. Trù trừ một lát, đấu tranh trong đầu đến mấy giây, nhưng rồi cậu đâm
bạo gan một cách lạ lùng, nhoài người lên thành cửa sổ, vớ lấy bao da, móc khẩu
súng mới tinh, bóng lộn màu nước thép ngả nâu, rồi nhảy tót ra vườn ngay. Ngó
nhìn chung quanh, bốn bề không có ai, cậu cẩn thận nhét súng vào túi quần và
chạy vụt qua vườn đến cây anh đào. Pa-ven trèo lên mái nhà thoăn thoắt, nhanh
như khỉ. Quay lại nhìn: tên lính hầu vẫn bình thản nói chuyện với tên bồi ngựa.
Trong vườn vẫn yên tĩnh... Pa-ven từ trên mái nhà tụt xuống và chạy biến vào
nhà.
Mẹ đang
bận làm cơm dưới bếp không để ý gì đến con.
Vớ ở sau
chiếc hòm một mảnh giẻ lớn, nhét vào túi, Pa-ven lẻn ra cửa, băng qua vườn, rồi
leo qua hàng rào, ra đường cái đưa thẳng đến rừng. Khi chạy, khẩu súng nằm
trong túi quần thích vào đùi đau điếng người, Pa-ven cứ một tay giữ khẩu súng,
cắm cổ phóng như bay tới chỗ lò gạch cũ bỏ hoang.
Cậu chạy
nhanh quá, chân chỉ hơi bén đất, gió vù vù bên tai.
Chỗ lò
gạch cũ này vắng tanh vắng ngắt. Mái nhà bằng gỗ nhiều chỗ xiêu vẹo, những đống
gạch vỡ và những lò hoang tàn, đượm vẻ buồn tênh. Cỏ dại mọc lút khắp nơi. Chỉ
có tay ba bọn Pa-ven là thỉnh thoảng đến đây chơi thôi. Pa-ven biết nhiều ngóc
ngách có thể giấu của quý vừa mới vớ được.
Đi vào
chỗ lỗ sạt ở ngang lò, Pa-ven ngoái nhìn lại cẩn thận xem có ai theo mình
không, nhưng đường vắng tanh. Chỉ có tiếng thông reo nhè nhẹ, gió vờn cuốn từng
cơn bụi ngoài đường cái. Mùi nhựa thông bốc lên thơm phức.
Pa-ven
đặt khẩu súng bọc giẻ vào một góc tận đáy lò rồi lấy gạch cũ chồng lên thành
tháp cao ngọn.
Khi ra,
Pa-ven còn lấy gạch tọng kín cửa lò lại, nhìn kỹ để nhớ dấu gạch xếp, rồi trở
ra đường cái, thủng thẳng bước về.
Đầu gối
Pa-ven hơi run.
"Chuyện
này rồi sẽ ra sao nhỉ?" Pa-ven nghĩ thầm thế, tim thắt lại, lo lắng.
Pa-ven
đến sở rất sớm để tránh khỏi có mặt ở nhà.
Cậu lấy
chìa khóa ở người gác cổng mở cửa lớn buồng máy. Cậu lau chùi tấm lưới sắt
trong lò, đổ nước vào nồi súp-de và đốt lửa. Vừa làm, cậu vừa nghĩ ngợi:
"Không biết lúc này ở biệt thự Lê-sinh-ski ra sao nhỉ?".
Khoảng
mười một giờ trưa, Giu-khơ-rai đến tìm Pa-ven, kéo ra sân, và hỏi nhỏ:
- Tại
sao hôm nay chúng nó đến khám nhà em thế ?
Pa-ven
giật nảy mình, lo sợ:
- Khám
nhà em à?
Sau một
lát im lặng, Giu-khơ-rai nói thêm:
- Ừ,
chuyện chẳng lành. Em có biết nó khám gì thế không?
Pa-ven
biết rõ vì sao chúng khám, song không dám nói đến việc lấy trộm súng với
Giu-khơ-rai. Lo run người, Pa-ven hỏi thêm:
- Anh
A-rơ-chom em có bị bắt không, anh?
- Không
ai bị bắt cả, nhưng chúng lục lọi tứ tung khắp nhà.
Nghe nói
thế, Pa-ven cũng thấy nhẹ người hơn, song vẫn còn lo. Mấy phút trôi qua, Pa-ven
và Giu- khơ-rai mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình. Pa-ven biết nguyên
nhân tại sao nhà mình bị khám, cho nên càng lo lắng đến kết quả có thể xảy ra.
Còn Giu-khơ-rai không biết chuyện đó nên càng ra sức đề phòng.
Giu-khơ-rai
nghĩ bụng: "Quái thật! Có lẽ chúng nó đã đánh hơi được gì về mình chắc?
A-rơ-chom có biết gì về mình đâu. Vậy thì tại sao nó lại nhè đúng nhà cậu ta mà
khám. Phải dè chừng, cẩn thận hơn nữa mới được".
Hai
người lặng lẽ rời nhau về chỗ làm của mình.
Trước đấy
một lúc, bên biệt thự nhà Lê-sinh-ski ầm ĩ cả lên.
Lão quan
hai không thấy súng, gọi tên lính hầu vào hỏi. Khi đã biết là súng bị mất rồi,
thì thằng quan, vốn là người xử sự lịch thiệp, kiềm chế được mình, hôm nay cũng
không nén được nữa, đánh túi bụi vào mang tai tên lính. Y ngã giúi xuống, lóp
ngóp bò dậy, đứng nem nép, tay sờ mép quần, mắt chớp chớp, cúi đầu chờ trận đòn
khác.
Lão thầy
kiện Lê-sinh-ski bị gọi đến hỏi cũng cáu lắm và xin lỗi tên quan hai rối rít:
nó rất khổ tâm vì chuyện bực mình này đã xảy ra trong nhà nó.
Thằng
Vích-to, con trai lão, có mặt ở đấy, liền đoán phỏng ngay là có thể bọn hàng
xóm lấy cắp súng, nhất là thằng bé du côn Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa- ghin lại
càng đáng nghi lắm. Lão bố vội hót với tên quan hai ý kiến của con, cho nên lão
quan lập tức ra lệnh gọi một đội tuần tra đi khám.
Cuộc
khám xét chẳng kết quả gì. Câu chuyện lấy súng làm cho Pa-ven tin rằng ngay cả
những việc làm rất liều đôi khi cũng vẫn trôi chảy.
Thép đã tôi thế đấy
Chương III
Tô-nhi-a
đứng trước cửa sổ mở rộng. Cô đưa cặp mắt chán ngán nhìn xuống vườn nhà, nhìn
những cây bạch dương quanh vườn mảnh dẻ rung rinh trong gió nhẹ. Cái vườn trông
quen thuộc quá. Cô khó mà tưởng được mình xa nhà thế mà đã một năm rồi. Cô có
cảm tưởng như mình mới từ giã những nơi quen biết từ thuở bé này chỉ mới hôm
qua thôi và sáng nay lại đi tàu sớm trở về nhà.
Không có
gì thay đổi cả: những khóm dâu tây vẫn tỉa xén kỹ, lối đi trong vườn vẫn thẳng
tắp, như lấy thước mà kẻ, hai bên vẫn trồng giống hoa tử lan mà mẹ Tô-nhi-a rất
ưa. Chỗ nào cũng nhìn thấy bàn tay thích bày vẽ rởm của nhà kiểm lâm uyên bác.
Và Tô- nhi-a nhìn những lối đi kẻ thẳng sạch trơn quá ấy thấy chán mắt.
Tô-nhi-a
lấy quyển truyện đọc dở, mở cửa thông ra hàng hiên, đi qua vườn, đẩy cánh cửa
nhỏ có quét sơn, rồi lững thững đi về phía hồ nhà ga gần cột chứa nước.
Qua cái
cầu nhỏ, cô đi ra đường cái đẹp như một lối đi trong vườn. Bên phải là hồ,
quanh bờ trồng dương liễu và một vườn thùy liễu rậm rạp. Bên trái bắt đầu khu
rừng.
Tô-nhi-a
định đến chỗ mỏ đá cũ, nhưng, chợt nhìn thấy một chiếc cần câu đang rung rung
mé dưới một lùm cây ven hồ, cô liền dừng bước.
Leo lên
đứng níu một cây liễu cong, cô lấy tay vạch cành liễu ra thì thấy một cậu da
mặt rám nắng, chân đi đất quần xắn quá đầu gối. Bên cạnh có một hộp đựng mồi
bằng sắt tây gỉ. Cậu ta mải câu cá, không để ý đến Tô-nhi-a đang nhìn chằm chặp
vào mình:
- Ở đây
cũng có cá cơ à?
Pa-ven
bực mình quay lại.
Một cô
gái không quen biết, đứng níu lấy thân cây liễu đang cúi sát xuống mặt nước. Cô
ta mặc áo trắng kiểu lính thủy, cổ viền xanh có vạch trắng, váy ngắn màu xám
sáng, tất kẻ sọc khít vào đôi gót chân thon nhỏ rám nắng, giày xinh xinh màu
hung. Làn tóc màu hạt dẻ tết thành búi trong chiếc mũ cói to vành.
Tay
Pa-ven cấm cần câu hơi run lên, cái phao bằng lông ngỗng chúi đầu một cái, làm
nổi nhũng làn sóng khoanh tròn chạy tỏa ra trên mặt nước gờn gợn. Tiếng ai ở
phía sau kêu lên hồi hộp:
- Cắn
câu rồi ! Anh trông, cá cắn câu...
Pa-ven
luống cuống giật mạnh cần câu. Nước bắn tung tóe mà chỉ thấy lưỡi câu quay quay
với cái mồi không.
"Chà
! Bữa nay đi câu xúi quầy. Quỷ xui con bé đến ám mình !" Pa-ven phát cáu
nghĩ vậy, và để giấu nỗi lúng túng, cậu lại ném câu ra xa, giữa hai đám bèo tai
trâu, chính chỗ ấy lại không nên ném câu vào vì lưỡi câu dễ mắc vào rễ cây.
Pa-ven
không buồn quay lại, môi mím chặt, nói càu nhàu về phía cô gái đang ngồi ở trên
kia:
- Cô
đứng trên nói léo nhéo cái gì thế ? Làm chạy hết cá của người ta.
Câu trả
lời đốp ngay xuống có vẻ chế giễu:
- Nhưng
cá nó chạy từ lâu rồi. Cái bộ anh câu thế cũng đủ làm nó chạy hết. Với ai lại
đi câu cá giữa trưa như thế này? Không biết câu cũng đòi câu!
Từ nãy
đến giờ Pa-ven cũng định giữ mồm giữ miệng cho lịch sự, song bây giờ không nhịn
được nữa. Cậu đứng vùng dậy, kéo sụp mũ xuống trán, tính cậu hễ cáu là làm như
thế, rồi cố chọn những tiếng nhã nhặn nhất:
- Cô làm
ơn ra chỗ khác đứng cho ạ.
Mắt
Tô-nhi-a hơi nheo lại, thoáng nụ cười tinh nghịch:
- Tôi
làm rầy anh lắm có phải không?
Giọng
nói nghe không có vẻ chế nhạo nữa mà thân mật muốn làm lành. Pa-ven đang sắp
sửa nói cục cằn với "cô ả" không biết từ đâu đến này, nghe cô ta nói
thế cũng khống cáu được nữa.
- Thôi,
cô muốn xem thì cứ xem, chỗ rộng ai muốn đứng đâu thì đứng.
Pa-ven
ngồi xuống, và lại nhìn phao. Bấy giờ phao cứ quanh quẩn trong đám bèo: chắc là
mồi móc vào rễ bèo rồi. Cậu do dự không dám kéo lên.
"Nếu
mắc thì không còn cách nào rút về nữa. Chắc con bé kia thế nào cũng sẽ lại cười
mình. Mình chỉ mong nó xéo đi cho rảnh".
Pa-ven
nghĩ bụng thế. Nhưng Tô-nhi-a đã ngồi gọn trên thân liễu cong đang lắc lư, đặt
sách lên gối, rồi bắt đầu chăm chú nhìn cậu bé mắt đen, da rám nắng kia. Cậu ta
đã tiếp đón cô chẳng niềm nở mấy và bây giờ lại làm ra bộ không chú ý gì đến cô
cả.
Pa-ven nhìn
xuống mặt nước, thấy in rõ bóng người con gái đang ngồi. Cô ta cứ đọc sách còn
Pa-ven từ từ gỡ dây câu bướng bỉnh về. Chiếc phao chìm dưới nước: dây mắc rễ
kéo không ra. "Lưỡi câu khốn kiếp lại mắc mất rồi?". Pa-ven liếc nhìn
thấy dưới mặt nước hơi gợn sóng có bóng người mỉm cười chế nhạo.
Hai gã
thanh niên, học trò lớp bảy, đi qua cầu, cạnh cột nước. Một đứa là con lão kỹ
sư quản đốc sở đầu máy xe lửa tên là Xu-khác-cô; hắn năm nay mười bảy tuổi, to
xác nhưng ngô nghê và nổi tiếng vì tính đểu giả. Tóc hắn hơi vàng hoe, mặt đầy
tàn nhang. Ở trường, bạn bè thường gọi chế hắn là thằng "Sua- ca rỗ
mặt". Đi bên cạnh hắn là thằng Vích-to, con lão Lê-sinh-ski, õng ẹo y như
con gái. Thằng Xu-khác- cô tay cầm một chiếc cần câu rất sang, miệng phì phèo
thuốc lá. Hắn ghé vào tai thằng Vích-to vừa nói, vừa nháy:
- Tao
vẫn bảo mày là con bé nó ngon như một thứ nho hộp ấy, ở đây cấm con nào bì với
nó được. Rất lãng mạn nhớ. Nó học lớp sáu ở Ki-ép. Hiện về nghỉ hè ở nhà ông cụ
làm chánh kiểm lâm. Bạn chơi với con Li-da em gái tao. Tao đã gửi cho nó một
mẩu thư, văn rất kêu. Đại khái: "Yêu em say đắm, anh tha thiết chờ đợi thư
em trả lời". Tao lại nhét vào đấy mấy câu thơ thuổng được ở một bài thơ
của thi sĩ Nát-xôn rất ăn giọng, mày ạ.
Vích-to
tò mò hỏi:
- Thế
rồi kết quả ra sao?
Xu-khác-cô
hơi lúng túng, đáp:
- Ừ, nó
cũng làm cao, màu mè bảo tao "đừng viết thư làm gì cho phí giấy".
Song con gái đứa nào mới đầu chẳng thế. Mày không lo. Cái khoản yêu này thì tao
cáo già. Song tao cũng chẳng thiết mất thì giờ tán tỉnh nhũng nhẵng mãi làm
quái gì. Tối đi vào xóm xưởng sửa chữa tàu chơi gái thú hơn. Vứt ra ba rúp là
có một con nhan sắc làm rỏ dãi ra rồi. Mà nó lại chẳng có đủng đỉnh làm cao gì
cả? Tao vẫn đi chơi với lão Van-ca Chi-khô-nốp đấy. Lão ta làm đốc công xe lửa
ấy mà, mày có biết không?
Vích-to
bĩu môi có vẻ khinh bỉ:
- Mày
cũng đi chơi trò nhơ bẩn ấy, hở Sua-ca?
Xu-khác-cô
nhằn nhằn mẩu thuốc lá, rồi buông giọng mỉa mai:
- Xin
ông đừng làm bộ, làm tịch nữa. Ông tưởng con không biết ông để thời giờ của ông
làm gì đấy...
Vích-to
ngắt lời hỏi:
- Thôi,
thế mày giới thiệu tao với con bé kia nhá?
- Tất
nhiên, ta lại nhanh không nó đi mất. Sáng hôm qua nó cũng đi câu ở đây.
Hai
thằng lại gần Tô-nhi-a. Xu-khác-cô rút điếu thuốc đang ngậm ra, gập người lại
cúi chào:
- Chào
cô Tô-nhi-a Tu-ma-nô-va ạ. Cô ra đây câu cá?
Tô-nhi-a
đáp lại:
- Không,
tôi chỉ xem người ta câu thôi.
- Cô
chưa biết anh Vích-to Lê-sinh-ski nhỉ. - Xu- khác-cô vừa hấp tấp nói vừa cầm
tay Vích-to. - Xin giới thiệu đây là anh bạn tôi, Vích-to con cụ Lê-sinh-ski.
Vích-to
ngượng ngùng chìa tay ra bắt tay Tô-nhi-a.
Xu
khác-cô cố bắt chuyện:
- Sao
hôm nay cô không đi câu?
Tô-nhi-a
trả lời:
- Tôi
không mang cần câu đi.
Xu
khác-cô vội nói:
- Cô để
tôi đi kiếm một cái nữa cô dùng. Giờ mời cô tạm lấy cần câu của tôi, tôi xin đi
kiếm cái khác về ngay.
Xu-khác-cô
đã giữ được lời hứa giới thiệu Vích-to với Tô-nhi-a và bây giờ định bày mẹo để
Vích-to ở lại một mình với Tô-nhi-a. Nhưng Tô-nhi-a trả lời:
- Thôi
anh ạ, ta sẽ làm phiền người khác. Ở đây đã có người câu rồi.
Xu
khác-cô hỏi ngay:
- Phiền
ai cơ? À, thằng nhãi ấy ư? - Mãi bây giờ hắn mới nhìn ra Pa-ven đang ngồi câu ở
bụi cây. - Chà ! Thằng ấy để tôi ra đuổi nó cút đi ngay trong nháy mắt.
Tô-nhi-a
chưa kịp ngăn lại, thì Xu-khác-cô đã chạy xuống chỗ Pa-ven đang câu. Hắn bảo
Pa-ven:
- Thằng
kia, cuốn cần câu của mày xéo ngay, đi!
Thấy
Pa-ven vẫn cứ ngồi yên tiếp tục câu, nó lại quát thêm:
- Đi,
đứng lên ngay, cút mau!
Pa-ven
ngẩng đầu lên nhìn Xu-khác-cô, cái nhìn chẳng lành gì.
- Im
mồm! Làm gì mà nhắng lên thế?
Thằng
kia phát khùng lên:
- Cái
gì, mày lại dám lôi thôi với ông à? Đồ ăn mày! Xéo!
Nói rồi
nó lấy mũi giày đá hất tung hộp mồi của Pa-ven rơi tõm xuống hồ. Nước bắn tung
tóe lên cả mặt Tô-nhi-a. Tô-nhi-a kêu lên:
- Anh
Xu-khác-cô ơi! Anh bất lịch sự thế mà không biết thẹn à?
Pa-ven
đứng phắt dậy. Cậu biết hắn là con lão quản đốc sở đầu máy xe lửa. A-rơ-chom
làm việc dưới quyền bố nó. Nếu bây giờ mình động đến đồ mặt bệu này thì nó sẽ
mách bố nó và việc này thế nào cũng sẽ lôi thôi đến anh A-rơ-chom. Đấy là lý do
duy nhất làm Pa-ven nén được giận không xô lại ngay.
Xu-khác-cô
sợ Pa-ven choảng mình, liền xông lại lấy hai tay túm ngực Pa-ven đẩy xuống hồ.
Pa-ven loạng choạng người khoa tay lên trời, bị giúi về phía sau, nhưng lại
đứng vững được ngay.
Xu-khác-cô
lớn hơn Pa-ven hai tuổi, nổi tiếng là tay ngổ ngáo thích đánh nhau.
Bị huých
vào ngực, Pa-ven nổi xung lên:
- À, mày
định chơi nhau phải không? Được ông cho mày biết tay ngay!
Pa-ven
thoi cho nó một quả đấm tay phải vào giữa mặt và không để nó kịp hoàn hồn đã
túm ngay áo nó, lôi đi kéo xệch xuống nước.
Xu-khác-cô
bị dìm xuống hồ ngập nước đến đầu gối, đôi giày bóng loáng và cái quần bảnh ướt
sũng. Hắn cố hết sức gỡ khỏi hai tay Pa-ven siết chặt. Nhưng Pa -ven
đã đẩy nó ngã xuống nước, rồi nhảy tót lên bờ.
Xu-khác-cô
tức điên người, hầm hầm xông lên, chực xé Pa-ven ra từng mảnh.
Pa-ven
quay lại nhanh như cắt đối phó với kẻ thù.
Anh sực
nhớ đến bài quyền của Giu-khơ-rai dạy: "Xuống tấn chân trái, hơi duỗi chân
phải, không phải chỉ đấm bằng sức tay, mà lấy cả sức người, nhè quai hàm mà đấm
móc lên".
Ră...ă...ắc..c
!...
Tiếng
răng rập vào nhau, Xu-khác-cô bị tống vào quai hàm và cắn phải lưỡi đau điếng
người, kêu ôi ối, tay chới với và lăn phịch xuống nước.
Trên bờ
Tô-nhi-a cười ngặt nghẽo, vỗ tay reo lên:
- Hoan
hô ! Hoan hô! Đánh cừ thật!
Pa-ven
nắm lấy cần câu, giật mạnh, giằng chiếc lưỡi câu còn mắc, rồi nhảy tót lên
đường cái.
Đi khỏi,
Pa-ven còn nghe tiếng thằng Vích-to nói với Tô-nhi-a:
- Nó là
thằng Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa-ghin, đồ du côn có tiếng !
Mối lo
ngại bao trùm lấy khu nhà ga. Tin đồn truyền đi rằng: thợ xe lửa trên đường sắt
này đã bắt đầu bãi công. Bãi công bắt đầu từ công nhân đoạn đầu máy thuộc ga
lớn bên cạnh. Bọn Đức bắt hai người thợ máy bị tình nghi mang truyền đơn kêu
gọi đấu tranh. Những anh em công nhân có gia đình ở nông thôn thì căm phẫn sôi
sục vì bọn Đức tịch thu lương thực và bọn đại địa chủ đã theo giặc trở về chiếm
lại ấp trại cũ của chúng.
Ở nông
thôn, bọn cảnh binh thuộc giống Cô-dắc quý phái của bọn đầu lĩnh Nga trắng quất
roi ngựa lên lưng nông dân. Trong vùng này đã có đến chục đội du kích nông dân
do những đảng viên bôn-sê- vích tổ chức.
Giu-khơ-rai
đã không để phí thời giờ. Từ ngày đến ở thành phố này, anh đã làm được một khối
công tác lớn. Anh đã quen được với nhiều công nhân xe lửa, thường đến dự các
tối vui của những thợ trẻ và đã tổ chức được một nhóm trung kiện gồm những thợ
nguội sở đầu máy xe lửa và thợ xẻ máy cưa. Anh đã thử dò cả A-rơ-chom, hỏi đến
thái độ anh ta đối với Đảng bôn-sê-vích và hoạt động.của Đảng. Người thợ nguội
lực lưỡng ấy đã trả lời anh ấy rằng:
"Anh
Giu-khơ-rai ạ, về tất cả mớ đảng phái đó, tôi không hiểu gì lắm. Nhưng nếu cần
giúp đỡ một tay, tôi luôn luôn sẵn sàng. Anh có thể tin ở tôi".
Giu-khơ-rai
cho A-rơ-chom trả lời thế cũng được rồi: anh biết A-rơ-chom là người có cảm
tình đối với Đảng và nếu đã nói thì làm. Nhưng cũng thấy rõ là anh ta giác ngộ
chưa chín đến mức độ có thể kết nạp vào Đảng được. Giu-khơ-rai nghĩ thầm:
"Không hề gì, trong lúc phong trào như thế này, cậu ấy rồi sẽ đến với
Đảng".
Giu-khơ-rai
thôi việc ở sở máy điện, sang làm ở sở đầu máy xe lửa. Làm ở đây thuận tiện cho
hoạt động hơn. Vì ở sở điện thì xa phong trào đường sắt quá.
Xe đi
lại trên đường sắt dạo này rất dồn dập. Bọn Đức chở về Đức hàng nghìn toa đủ
các thứ chúng cướp bóc được ở U-cơ-ren: lúa mì, lúa mạch, gia súc....
Thật
không ai ngờ, bọn vệ binh nguỵ ập đến bắt Pô-nô-ma-rên-cơ, người làm điện báo
ngoài ga. Chúng đánh đập dã man bác ta ở bộ chỉ huy Đức. Chắc vì thế mà bác đã
khai ra công tác tuyên truyền ở sở đầu máy xe lửa do Rô-man Xi-đô-ren-cô, một
người bạn của A-rơ-chom phụ trách.
Hai tên
Đức và một thằng ngụy phó tư lệnh quân quản nhà ga, người U-cơ-ren, ập đến bắt
Rô-man giữa lúc anh đang làm việc. Một tên lính ngụy sấn đến bàn nguội của
Rô-man, chẳng nói chẳng rằng, quất roi vào mặt anh. Nó quát:
- Thằng
khốn kia, đi theo chúng ông ngay! Cứ đến đấy rồi sẽ nói chuyện. - Nó nhếch
miệng nhăn răng một cách thảm hại, rồi nắm lấy tay áo Rô-man: Cứ đến chỗ chúng
ông rồi tha hồ mà "tuyên truyền"!
A-rơ-chom
đang làm việc ở bàn bên cạnh, thấy vậy nên bỏ giũa xuống bàn; thân hình cao lớn
của anh sấn đến chỗ tên ngụy. Cố nén nỗi tức giận, giọng anh bật ra như gầm
lên:
- Sao
mày dám đánh người ta, hở đồ chó?
Tên ngụy
lùi lại, mở bao da, rút súng ngắn. Tên lính Đức thấp lũn cũn, trật súng khỏi
vai, nhằm anh, lên quy-lát lách cách, và sủa lên:
- Đứng
lại!
Nó lăm
lăm chĩa súng, đợi anh nhúc nhích là bắn liền.
Người
thợ cao lớn đứng ngây ra bất lực trước tên lính Đức loắt choắt. Không thể làm
gì được nó.
Chúng
bắt cả hai đi. Một giờ sau, A-rơ-chom được tha, còn Rô-man thì bị nhốt vào hầm
giam.
Chỉ mươi
phút sau, cả sở đầu máy bỏ việc, công nhân tập trung ở vườn hoa nhà ga. Thợ bẻ
ghi và các thợ khác làm việc ở các kho vật liệu cũng hưởng ứng theo. Phẫn nộ
đến cùng cực. Người ta đưa ra yêu sách - do một người nào đó thảo ra - đòi thả
ngay Rô-man và Pô-nô-ma-rên-cơ.
Lòng căm
phẫn càng tăng khi tên ngụy lúc nãy dẫn một lũ vệ binh phi ngựa đến vườn hoa. Tay nó khoa khẩu súng ngắn dọa dẫm.
- Nếu
các ngươi không trở lại làm việc, chúng tao sẽ bắt giam hết ngay lập tức bây
giờ. Sẽ cho nhiều đứa úp mặt vào tường ăn đạn.
Nhưng
tiếng la hò giận dữ của công nhân làm nó phải đánh bài chuồn ra phía nhà ga.
Tên tư lệnh quân quản nhà ga gọi điện báo về. Từ trong thành phố đã có
cam-nhông chở đầy lính Đức chạy như bay, lao tới.
Công
nhân bắt đầu giải tán, ai về nhà nấy. Tất cả mọi người đều bỏ việc, ngay cả các
bạn ký ga cũng bãi công. Công việc của Giu-khơ-rai đã mang lại kết quả: đây là
cuộc đấu tranh đầu tiên có tính chất quần chúng ở nhà ga xe lửa.
Bọn Đức
đặt trọng liên trên thềm nhà ga. Khẩu súng ghếch nòng chồm chỗm như một con chó
săn. Một tên cai Đức quỳ bên cạnh, một tay để sẵn lên quy- lát.
Nhà ga
vắng tanh.
Đêm ấy
bắt đầu bắt bớ. A-rơ-chom cũng bị bắt. Giu-khơ-rai không ngủ ở nhà, nên chúng
không tìm thấy anh.
Bọn
chúng dồn người bị bắt vào một nhà kho chứa hàng rộng thênh thang và chúng đặt
điều kiện cuối cùng: hoặc là tiếp tục đi làm, hoặc là ra tòa án quân sự.
Suốt dọc
con đường sắt này hầu hết công nhân xe lửa đều bãi công. Suốt hăm bốn tiếng
đồng hồ, không có chuyến tàu nào chạy. Cách nhà ga một trăm hai mươi cây số có
xảy ra đánh nhau với một đội du kích mạnh, đội này đã cắt mất đường và phá các
cầu rồi.
Đêm có
một đoàn tàu chở lính Đức kéo đến ga. Nhưng tàu vừa đến nơi thì thợ máy, ét và
người đốt lò đều bỏ trốn khỏi đầu.máy rồi. Thế mà ngoài chuyến tàu này lại còn
hai chuyến tầu nữa cũng chờ đến lượt khởi hành.
Cánh cửa
sổ đầu máy xe lửa nặng trịch mở ra, tên quan hai Đức tư lệnh quân quản nhà ga,
tên tư lệnh phó và một toán Đức bước vào.
Tên tư
lệnh phó gọi: "Những tên sau đây: A rơ- chom Ca-rơ-sa-ghin,
Pô-len-tốp-ski, Bơ-ru-giắc có nhiệm vụ lái chuyến xe lửa này đi. Nếu từ chối,
bắn ngay tại chỗ. Có đi không?"
Ba người
thợ buồn rầu cúi đầu. Một toán lính Đức chĩa lưỡi lê kèm họ đến đầu máy, tên tư
lệnh phó đã quay sang chỉ định người lái, ét và đốt lò cho chuyến tàu đi sau.
*
Đầu tàu
xe lửa giận dữ phì phì chuyển mình, bắn tung tóe như mưa những tia lửa sáng,
vừa thở hồng hộc, vừa lướt trên đường ray, lao nhanh như xoáy vào khoảng đêm
dày đặc. A-rơ-chom đổ đầy than vào lò, lấy chân đá cửa lò sập lại, với cái ấm
ngắn vòi ở ngăn tủ, tu một ngụm nước, rồi quay ra hỏi người thợ máy già
Pô-len-tốp-ski:
- Ta
đành chở chúng nó đi sao, bố già?
Người
thợ già tức tối chớp chớp đôi mắt dưới nếp lông mày rũ xuống:
- Bị gí
lưỡi lê vào lưng, không chở chúng nó đi cũng không được.
Bơ-ru-giắc
vừa liếc mắt nhìn về phía tên lính Đức ngồi gác ở toa than, vừa đề nghị:
- Bỏ cả
đấy rồi chuồn khỏi xe là hơn cả.
A-rơ-chom
lẩm bẩm:
- Tôi
cũng nghĩ thế, song kia kìa còn thằng chó Đức đằng sau lưng.
Bơ-ru-giắc
ló đầu ra cửa sổ, giọng kéo dài:
- Ừ..
Pô-len-tốp-ski
lại gần A-rơ-chom thì thầm:
- Ta
không thể nào chở chúng đi được, chú hiểu chứ? Đang đánh nhau ngoài ấy, du kích
đã phá đường. Mà ta nỡ nào lại dẫn lũ chó này trong chốc lát đến thịt anh em.
Chú phải biết, ngay thời còn Nga hoàng, tôi cũng không bao giờ chịu chở lính
đến trong khi anh em ta bãi công. Huống chi là ngày nay, ngần này tuổi đầu, tôi
lại đi làm việc ấy. Chở quân chúng nó đi đàn áp anh em mình là một cái nhục
mang suốt đời, đến chết chưa hết nhục. Kíp thợ máy trước đã bỏ chạy được. Họ
liều mạng thật, nhưng họ vẫn cứ chạy đấy. Chúng ta còn mặt mũi nào mà chở
chuyến xe này đi được, chú mày nghĩ sao?
- Đồng ý
với bố già lắm, song còn thằng chó chết kia thì bố tính thế nào? - A-rơ-chom
đưa mắt chỉ tên lính Đức.
Ông lão
thợ máy cau mày lấy khăn thấm mồ hôi trán, cặp mắt nẩy lửa nhìn chằm chặp vào
chiếc ma- nô-mét (áp kế, một thứ máy đo sức đẩy của hơi trong đầu máy xe lửa)
như hy vọng tìm ra lối thoạt trước cảnh bí đang giày vò mình. Nghĩ mãi không
ra, người thợ già thất vọng phát bẳn, văng ra một câu chửi rủa.
A-rơ-chom
lại vớ lấy ấm nước tu. Cả hai người cùng nghĩ như nhau, song không ai dám ngỏ ý
trước. A- rơ-chom bỗng nhớ đến câu mà Giu-khơ-rai đã có lần hỏi anh: "Anh
thấy Đảng bôn-sê-vích và tư tưởng cộng sản thế nào?"
Và
A-rơ-chom đã trả lời câu hỏi ấy: "Tôi lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ. Anh
có thể tin ở tôi...".
"Và
bây giờ cách ta đang giúp mới quý chứ ! Ta chở bọn Đức đi đàn áp anh
em...".
Pô-len-tốp-ski
cúi xuống hòm dụng cụ, ghé sát vào A-rơ-chom dằn từng tiếng:
- Thằng
gác kia, phải tiêu nó, chú hiểu không?
A-rơ-chom
rùng mình. Pô-len-tốp-ski nghiến răng nói thêm:
- Không
có cách nào khác. Đập chết nói đi, vứt máy điều hơi và các dụng cụ vào lò, hãm
xe chạy chậm và nhảy xuống chuồn.
Như cất
được gánh nặng khỏi vai, A-rơ-chom nói:
- Được.
A-rơ-chom
ghé sát vào Bơ-ru-giắc và cho biết quyết định ấy.
Bơ-ru-giắc
không trả lời ngay. Người nào cũng đang đứng trước một mối nguy lớn. Cả ba đều
có gia đình ở nhà. Gia đình ông già Pô-len-tốp-ski lại đông người: vợ con cả
thảy chín nhân mạng. Song cả ba đều hiểu rằng không thể nào chở chúng nó đi được.
Bơ-ru-giắc
nói:
- Còn gì
nữa! Tôi đồng ý. Nhưng trong ba chúng ta, người nào sẽ...
Bơ-ru-giắc
không dám nói hết câu, nhưng A-rơ- chom thoáng nghe đã hiểu ngay.
A-rơ-chom
quay lại phía ông già đang loay hoay bên cái máy điều hơi, gật đầu ra hiệu như
muốn báo .tin Bơ-ru-giắc cũng cùng ý kiến đó; nhưng, ngay lúc ấy, lòng bứt rứt
vì một vấn đề chưa giải quyết, anh nhích lại gần ông già Pô-len-tốp-ski:
- Bây
giờ ta làm thế nào hở cụ?
Cụ
Pô-len-tốp-ski nhìn A-rơ-chom:
- Chú
khởi sự đi, chú khỏe nhất trong bọn. Cầm lấy xà beng gõ vào sọ nó, cắc một cái
là xong thôi.
Ông cụ
không giấu nổi được hồi hộp.
A-
rơ-chom cau mày:
- Cháu
không làm được đâu, cụ ạ. Tay cháu nó sẽ không
làm sao mà nhấc lên được đâu. Nghĩ cho cùng thì thằng lính này cũng chẳng có
tội tình gì. Cả nó nữa cũng chỉ vì lưỡi lê gí vào sau lưng mà phải đi thôi.
Mắt ông
già long lên trong bóng tối:
- Chú
bảo nó không có tội? Thế thì chúng ta lái chuyến xe này cũng có phải lỗi ở
chúng ta đâu. Chúng ta cũng chỉ vì bị nó bức mà phải lái xe ở đây thôi. Chúng
ta chở bọn đi đàn áp. Và nói như chú, bọn ấy cũng vô tội tất và bọn vô tội ấy
sẽ đi bắn xả vào anh em du kích. Thế ra anh em du kích mình là những kẻ có tội
đấy chắc? Chú to xác mà bụng dạ y như bụng dạ chim sẻ. Trông chú ai chả bảo chú
khỏe như gấu, thế mà chẳng có gan làm, anh em cậy ở chú...
- Được.
- A-rơ-chom nói khàn khàn và tay cầm lấy xà beng. Nhưng Pô-len-tốp-ski đã rỉ
tai: "Không, để xà beng cho tôi. Tôi dùng chắc hơn. Chú cầm cái xẻng rồi
leo lên xúc than ở toa hắt xuống. Lúc cần đến thì cho tên lính Đức một nhát
xẻng. Còn tôi cầm xà beng thì giả tảng như đi đập những cục than to vậy".
Bơ-ru-giắc
gật đầu:
- Cụ nói
phải - Rồi bác ta ra đứng trước cái máy điều hơi.
Tên lính
Đức đội mũ chào mào dạ chóp đỏ, đang ngồi ở mép toa than phì phèo hút thuốc lá,
súng kẹp vào đầu gối, thỉnh thoảng mới đưa mắt nhìn những người thợ đang loay
hoay trên đầu tàu.
Khi
A-rơ-chom đã trèo lên xúc than, tên lính gác cũng chẳng để ý gì cả. Đến lúc ông
già Pô-len-tốp- ski giả đò lấy xà beng hất những tảng than to ở thành toa vào
trong, ra hiệu bảo hắn lùi lại, hắn ngoan ngoãn lùi xuống, nép mình vào cửa
buồng thợ máy để cho ông già rộng chỗ làm.
Tiếng xà
beng choang vào sọ tên Đức đánh cắc một cái, nghe khô và gọn, làm A-rơ-chom và
Bơ-ru- giắc giật thót mình như người phải bỏng. Xác tên giặc đổ vật ra lối đi
như một bao than.
Chiếc mũ
chào mào màu dạ xám chẳng mấy chốc hoen đẫm máu đỏ. Đầu súng đánh vào thành toa
kêu đến choang một tiếng.
- Thôi,
thế là xong. - ông già Pô-len-tốp-ski ném cái xà beng xuống, miệng lẩm bẩm thế,
người rung lên, ông nói thêm: - Bây giờ chúng ta không thể lái lùi lại được
nữa.
Giọng
ông cụ vỡ ra, nhưng để phá tan cái im lặng quá nặng nề trùm lên mọi người, ông
liền kêu to lên:
- Thôi,
tháo máy điều hơi đi. Tháo đi! Nhanh tay lên !
Mười
phút sau, mọi việc xong xuôi, con tàu không lái chạy chậm dần.
Những
bóng đen cây cối bên đường đang hiện lên sừng sững trong khoảng sáng của ánh
đèn tàu bỗng nhiên chìm nghỉm trong bóng đêm mù mịt. Đèn pha ở đầu tàu cố rọi
vào bóng tối song chỉ còn loe ra được vài thước chung quanh. Con tàu như đã
kiệt sức, trút hơi thở tàn, mỗi lúc một chậm lại.
"Nhảy
xuống đi chứ!" Tiếng ông già Pô-len-tốp-ski vang lên đằng sau A-rơ-chom.
Anh buông tay vịn. Thân hình to lớn của anh văng ra phía trước. Chân chạm đất
và mặt đất như chuội bắn đi. Anh theo đà còn loạng choạng chạy thêm hai bước,
rồi ngã lăn kềnh ra đất.
Hai bóng
người nữa từ hai bậc nhảy xuống, lướt theo sau anh.
*
Cảnh nhà
Bơ-ru-giắc không được vui. Bác Bơ-ru- giắc gái, mẹ Xê-ri-ô-gia những lo mà rạc
người đi vì bốn hôm nay, không nhận được tin gì của bác trai. Bác chỉ biết
chồng mình bị Đức bắt đi làm kíp xe với anh A-rơ-chom và cụ Pô-len-tốp-ski. Hôm
qua lại có ba thằng cảnh binh nguy đến sừng sộ nạt hỏi và chửi rủa. Thấy thế,
bác lo lắng, mang máng đoán chắc có chuyện gì chẳng lành đây. Sốt ruột quá, bọn
vệ binh vừa đi khỏi, bác lấy khăn choàng đầu sang bên nhà bà cụ đẻ ra A-rơ-chom
may ra hỏi thăm được tin tức gì về chồng mình.
Va-li-a
đang dọn dẹp dưới bếp, thấy mẹ sắp đi, hỏi mẹ:
- U đi
đâu có xa không, u?
Mắt bác
đỏ hoe, giàn giụa, nhìn con gái lớn, trả lời:
- U sang
nhà bà cụ Ca-rơ-sa-ghin. May ra có tin gì của thầy. Hễ thằng Xéc-gây về, bảo nó
đảo qua nhà bà cụ Pô-len-tốp-ski hỏi thăm xem.
Va-li-a
hai tay trìu mến ôm lấy mẹ, tiễn ra cửa, lựa lời an ủi:
- U đừng
lo, u ạ!
Bà cụ
Ca-rơ-sa-ghin bao giờ thấy bác Bơ-ru-giắc gái sang chơi cũng tiếp rất mặn mà.
Cả hai bà đều tưởng người nọ hỏi thăm người kia được tin tức mới, nhưng qua mấy
câu vào chuyện, cả hai cùng thất vọng như nhau.
Đêm qua,
nó cũng khám nhà Ca-rơ-sa-ghin.
Chúng
sục tìm A-rơ-chom. Khi bỏ đi, chúng còn ra lệnh cho bà cụ Ca-rơ-sa-ghin hễ thấy
con về phải lên đồn báo ngay.
Bà cụ
lấy làm lo sợ việc bọn lính tuần cảnh nguy đến sục ban đêm như thế. Lúc ấy, chỉ
có một mình bà ở nhà. Pa-ven làm ca đêm ở sở điện.
Sáng hôm
sau, Pa-ven về nhà rất sớm. Khi nghe mẹ kể chuyện đêm qua cảnh binh đến khám và
sục tìm A-rơ-chom , Pa -ven hết sức lo ngại cho số phận anh
A-rơ-chom. Tuy tính tình hai người khác nhau, A-rơ-chom bề ngoài lại hay bốp
chát, song hai anh em yêu quý nhau lắm. Quý nhau một cách nghiêm khắc, không
mơn trớn mà cũng chẳng cắn nói ra lộ liễu và Pa-ven tự mình thấy rõ nếu anh cần
đến thì có phải hy sinh thế nào cũng không quản, không do dự.
Không
nghỉ một phút, Pa-ven chạy ngay ra sở đầu máy xe lửa, tìm Giu-khơ-rai, song
không thấy anh đâu cả. Những anh em thợ Pa-ven quen cũng không biết tin gì về
ba người. Nhà Pô-len-tốp-ski cũng tuyệt không biết tin gì về ông cụ. Pa-ven
chạy sang nhà ông cụ, đến sân gặp ngay người con trai út là Bô-rít cho biết nhà
anh ta cũng bị khám. Nó sục tìm cụ Pô-len-tốp-ski.
Pa-ven
trở về nhà với mẹ, không được mảy may tin tức gì cả. Người mệt mỏi, anh uể oải
nhoài xuống giường và chốc lát đã ngủ thiếp đi giấc ngủ chập chờn, thấp tha, thấp
thỏm.
Có tiếng
gõ cửa, Va-li-a quay ra hỏi: "Ai đấy?" và nâng then cài.
Cửa mở,
Cơ-lim-ca Mác-chen-cô thò cái đầu bù tóc đỏ hung vào. Mặt đỏ bừng, hơi thở hổn
hển, chắc là vừa chạy rất nhanh lại đây.
- Bà cụ
có nhà không?
- Không,
vừa đi xong.
- Đi đâu
có biết không?
- Sang
nhà bà cụ Ca-rơ-sa-ghin thì phải.
Cơ-lim-ca
chực quay chạy đi, thì Va-li-a níu tay áo giữ lại.
Cơ-lim-ca
nhìn Va-li-a, vẻ do dự:
- À, tôi
tìm bà cụ có tí việc.
- Việc
gì thế, anh? - Va-li-a lắc tay Cơ-lim-ca hỏi gặng. - Nói đi mau lên, con gấu
con lông đỏ hung nói đi, không em sốt ruột lắm rồi. - Giọng Va-li-a nói như ra
lệnh.
Cơ
lim-ca liền quên mất lời dặn đi dặn lại của Giu- khơ-rai đã bảo cậu nhất thiết
phải đưa thư này đến tận tay bác Bơ-ru-giắc gái và tuyệt đối giữ bí mật. Cậu ta
thò ngay vào túi móc ra một mảnh giấy dầu mỡ lem luốc chìa cho Va-li-a. Đối với
cô bé tóc vàng em gái Xéc-gây này, Cơ-lim-ca không thể từ chối một điều gì vì
có bao giờ cậu ta hoàn toàn xác định được tình cảm của mình đối với cô bé rất
kháu ấy đâu. Nói thật ra thì cậu bé phụ bếp vốn tính khiêm tốn, không rỉ răng
nói với ai là mình mến Va-li-a, ngay đối với bản thân, cậu cũng không dám thú
thật điều đó.
Va-li-a
đưa mắt đọc bức thư ngắn:
"Nhà,
nhà đừng lo. Đây bình yên cả. Chúng tôi vẫn còn sống, vẫn yên ổn. Sau sẽ biết
rõ đầu đuôi. Nói cho bà con yên tâm. Xem xong hủy ngay. BƠ-RU-GIẮC"
Đọc xong
thư, Va-li-a bổ đến bên Cơ-lim-ca:
- Gấu
con lông đỏ của em, anh lấy thư này ở đâu ra thế anh, anh bảo cho em biết với?
Anh nói đi anh, ai đưa cho anh bức thư này.
Va-li-a
lắc người cậu ta rất mạnh. Và cậu bé khốn khổ, đang say như điếu đổ không sao
cưỡng được, lại phạm khuyết điểm lần thứ hai:
- Anh
Giu-khơ-rai đưa cho tôi ở ngoài ga.
Song lại
nhớ ra không được nói, cậu ta nói vớt lại:
- Nhưng
anh ấy bảo phải giữ bí mật, không được đưa mảnh giấy cho bất cứ người nào khác.
Va-li-a
cười đáp:
- Được
được em không nói lộ với ai đâu. Giờ thì anh chạy sang nhà Pa-ven tìm mẹ em bên
ấy. - Rồi cô lấy tay khẽ đẩy vào lưng Cơ-lim-ca.
Nháy mắt
đã thấy cái đầu tóc hung của Cơ-lim- ca thoáng biến sau cổng hàng rào.
Ba người
thợ vẫn chưa ai về cả. Buổi tối Giu-khơ- rai đến chơi nhà Ca-rơ-sa-ghin kể cho
bà cụ nghe tất cả câu chuyện xảy ra trên chuyến xe lửa. Bà cụ hoảng sợ,
Giu-khơ-rai hết lời khuyên giải, nói rằng ba người giờ tạm lánh ở một vùng quê
xa, ở nhờ nhà chú ruột Bơ-ru-giắc, yên ổn lắm. Bây giờ về ngay không lợi, song
không lâu lắm đâu, vì quân Đức đang bị nguy khốn to rồi, tình hình sẽ biến
chuyển.
Việc xảy
ra làm cho ba gia đình đã thân càng thêm thân. Họa hoằn có thư gửi về, cả ba
nhà cùng vui mừng đọc. Song nhà nào nhà ấy, vì vắng người lớn, ngày càng thấy
tẻ lạnh và im lìm.
Một hôm,
ra vẻ như bất chợt rẽ vào thăm nhà bà cụ Pô-len-tốp-ski, Giu-khơ-rai đưa tiền
cho bà cụ:
- Bà mẹ
ạ, ông cụ gửi về đây, nhưng bà mẹ đừng nói hở với ai nhé!
Bà lão
cảm kích nắm lấy tay Giu-khơ-rai:
- Cảm ơn
bác lắm! Ông nhà tôi bị nạn, nhà cửa túng quá. Không còn đồng nào đong gạo cho
các cháu ăn nữa.
Sự thật,
tiền ấy lấy ở số tiền quỹ hoạt động do Bun-ga-cốp để lại.
Trên
đường từ nhà bà cụ Pô-len-tốp-ski về sở đầu máy xe lửa, Giu-khơ-rai vừa bước
vừa suy nghĩ, lòng những cảm phục:
"Được
được. Ta thử xem rồi sẽ ra sao. Bãi công tuy đã thất bại, anh em công nhân bị
chúng dọa bắn, tuy đành phải chịu vào làm, song ngọn lửa đấu tranh đã nhóm lên,
chúng không thể nào dập tắt được nữa. Còn như cánh ba người kia thì thật là can
đảm, thật cừ. Đúng con nhà vô sản".
*
Ba người
thợ lánh nạn ở một khu cách biệt bên ngoài làng Vô-rô-bi-ô-va, trong một lò rèn
cũ nhỏ bé, vách ám khói quay lưng ra đường cái. Cụ Pô-len-tốp- ski đang đứng
trước cửa lò lửa bốc phần phật. Ánh lửa chói lòa làm mắt cụ nheo lại. Tay cụ cầm cái kìm dài, lật đi lật lại cục sắt đã nung
đỏ.
A-rơ-chom
đang thụt cái bễ thổi lửa treo vào xà ngang. Pô-len-tốp-ski cười hiền lành,
rung rung bộ râu. Người thợ máy già nói:
- Thời
buổi này, tay thợ về vùng quê chẳng chết đói đâu. Lúc nào cũng có việc làm,
muốn việc là có ngay. Đấy, cứ làm ở đây lấy một hai tuần nữa xem, có gạo thịt
gửi về cho trẻ mỏ ở nhà chứ chẳng chơi. Chú thấy đấy, ở nông thôn, họ quý thợ
rèn lắm. Cánh ta ở đây ăn thật chẳng khác gì tư sản, chẳng mấy chốc sườn nung
núc mỡ cho mà xem. - Cụ cười hì hì, rồi tiếp: - Còn bác Bơ-ru-giắc thì xem
chừng lại càng gắn chặt với bà con nông dân lắm. Tay
ấy đã cắm chặt vào đất nhà ông chú ruột rồi. Mà thế cũng phải, chỉ có lão đây
và chú mày là không có lấy tấc đất cắm dùi, chúng mình chỉ độc có lưng trần với
hai bàn tay trắng, thật đúng như người ta nói là vô sản mạt đời, hì hì. Chứ bác
Bơ-ru-giắc thì người bác chia làm đôi: một chân đứng trên đầu máy xe lửa, còn
chân kia thì lại đứng ở nông thôn. - Lấy kìm đụng vào cục sắt cháy đỏ, giọng
trở nên nghiêm nghị; ông cụ trầm ngâm nói thêm: - Nói thật chứ, cảnh chúng ta
nguy lắm đấy chú ạ! Bọn Đức không cuốn gói đi sớm thì cánh mình phải lo chuồn
trước sang vừng Ê-ca-chi- ri-nô-sláp hay sang Rô-stốp đi thôi, kẻo chúng nó tóm
được thì sẽ bị treo cổ, đầu không tới trời, chân không tới đất mất, chắc chắn
là như thế.
A-rơ-chom
lẩm bẩm:
- Cháu
cũng nghĩ thế bố già ạ.
- Không
biết nhà chúng mình ra sao? Chắc là người nhà bị bọn ngụy đến làm rầy rà lắm
đấy?
- Chứ
sao nữa bố già! Ta đã mó tay vào việc thì đành bỏ mặc nhà cửa thôi.
Cụ
Pô-len-tốp-ski rút trong lò ra cục sắt nungđã xanh biếc và nhanh tay đặt lên
đe.
- Chú
mày đập đi.
A-rơ-chom
vớ lấy chiếc búa tạ dựng bên đe, vung mạnh quá đầu rồi quai xuống. Tia lửa rào
rào bắn tung tóe, làm những xó tối lò rèn bỗng lóe sáng lên trong chốc lát.
Cụ già
lật đi lật lại cục sắt cháy đỏ chìa cho A- rơ-chom nện búa. Miếng sắt ngoan
ngoãn dẹt mỏng ra như cục sáp ong mềm. Đêm tối đưa hơi gió ấm vào cổng mở toang
cửa lò rèn.
*
Mặt hồ
bao la thăm thẳm. Rặng thông cuốn lấy quanh hồ, ngọn thông đường bệ lắc lư, gật
gù trước gió.
Nhìn
thông, Tô-nhi-a nghĩ thầm: "Y như những người thật". Cô ngả mình trên
khoảng cỏ xanh, giữa bờ sỏi đá. Trên cao là rừng thông già trấn ngự, phía dưới,
ở chân mỏm đá dốc đâm dọc thẳng xuống nước là mặt hồ. Bóng đá in thêm màu sẫm
lên mặt nước ven bờ thăm thẳm.
Đây là
nơi Tô-nhi-a ưa đến ngồi chơi. Cách đấy một dặm đường, trong những thung sâu bỏ
hoang, giữa những mỏ đá cũ, trước kia có những dòng suối tuôn ra, và ngày nay
đã thành ba cái hồ thông nước. Ở phía dưới, gần bờ có tiếng vỗ nước bì bõm đâu
đây. Tô-nhi-a ngẩng nhìn, lấy tay vạch cành lá thì thấy một thân hình mềm mại
nâu bóng đang bơi rất khỏe từ bờ ra giữa hồ. Cái lưng rám nắng và mớ tóc nâu hì
hụp như con rái cá đang rẽ nước bơi lên, lúc ngụp vào nước, lúc nhào lên vùng
vẫy, mệt rồi thì nằm ngửa phơi nắng, đôi mắt nhắm nghiền cho khỏi chói, hai tay
vòng lại, người hơi khom khom không động đậy.
Tô-nhi-a
buông cành lá, mỉm cười, tự nhạo mình:
- Mình
khỉ thật, sao lại nhìn người ta tắm.
Và
Tô-nhi-a cầm sách đọc.
Mải xem
cuốn sách của Vích-to Lê-sinh-ski cho mượn, Tô-nhi-a không để ý có bóng người vừa
leo qua bờ sỏi giữa gò đất và rặng thông. Bỗng đâu, một hòn sỏi theo chân người
vừa leo rơi vào cuốn sách. Tô- nhi-a giật mình ngẩng đầu lên, Pa-ven đứng ngay
trước mặt cô, ngạc nhiên và ngượng ngùng vì cuộc gặp gỡ bất ngờ này.
Nhìn
thấy tóc Pa-ven ướt, Tô-nhi-a đoán: "Ra người tắm ấy là anh ta".
Pa-ven
lúc ấy cũng nhận ra người con gái hôm xưa.
- Cô đấy
à? Tôi có làm cô hãi không? Tôi không biết cô ngồi đây.
Nói rồi,
Pa-ven vịn tay vào bờ sỏi, định bỏ đi.
- Không
sao đâu, anh ạ. Nếu anh không bận, mời anh ngồi chơi, ta nói chuyện.
Pa-ven
ngạc nhiên nhìn Tô-nhi-a:
- Ta nói
chuyện? Chuyện gì mới được?
Tô-nhi-a
mỉm cười:
- Sao
anh cứ đứng thế ? Ghế đây, mời anh ngồi.
Tô-nhi-a
chỉ cho Pa-ven một tảng đá và hỏi Pa-ven:
- Tên
anh là gì nhỉ?
- Páp-ca
Ca-rơ-sa-ghin. (Páp-ca cũng là Pa-ven, nhưng gọi tục và thân)
- Còn
tôi là Tô-nhi-a. Thế là chúng ta quen nhau rồi nhớ.
Pa-ven
luống cuống vò mũ cát-két.
Tô-nhi-a
phá sự im lặng:
- Tên
anh là Páp-ca à? Sao lại gọi là Páp-ca? Gọi thế không đẹp. Gọi là Pa-ven hay
hơn. Tôi sẽ gọi anh là Pa-ven đấy. Anh có hay đến đây... - Ý Tô-nhi-a muốn nói
"có hay đến đây tắm không?" nhưng ngại không muốn để Pa-ven biết mình
đã trông thấy anh ta tắm nên nói trệch đi: - Anh có hay đến đây chơi không?
- Không,
cũng tùy, thỉnh thoảng có lúc nào rỗi mới đến.
- Thế
anh đi làm à?
- Tôi là
thợ đốt lò ở sở điện.
Tô-nhi-a
bỗng hỏi bất ngờ:
- Ai dạy
anh đánh võ mà anh đánh giỏi thế, hở anh?
Pa-ven
phật ý, càu nhàu:
- Tôi
đánh nhau thì việc gì đến cô mà cô hỏi?
Tô-nhi-a
cảm thấy Pa-ven không bằng lòng câu hỏi của mình, vội nói:
- Đừng
giận, anh Pa-ven ạ. Tôi muốn biết lắm chứ. Đánh như anh đánh hôm trước, thật là
tay võ. Anh đánh ác lắm.
Và
Tô-nhi-a phá lên cười. Pa ven hỏi lại:
- Ra cô
thương hại cái thằng nhắng ấy à?
- Có
đâu, trái lại thế nữa. Xu-khác-cô ăn đấm thế là đáng đời lắm. Tôi thấy anh đánh
hắn, tôi thích lắm. Tôi nghe người ta nói anh hay đánh nhau lắm thì phải.
Pa-ven
bị chạm nọc, hỏi lại:
- Ai bảo
cô thế ?
-
Vích-to con nhà Lê-sinh-ski bảo là anh chuyên môn đi đánh nhau.
Pa-ven
sa sầm nét mặt:
-
Vích-to là một thằng đểu, một tên công tử bột chỉ được cái õng ẹo. Tôi tha
không tát cho nó vỡ mặt là phúc. Hôm nọ tôi nghe rõ nó đặt điều về tôi với cô,
song tôi không thèm đánh nó cho bẩn tay.
Tô-nhi-a
can:
- Sao
anh Pa-ven ăn nói cục thế ? Thế không tốt đâu !
Pa-ven
phát cáu: "Mình rõ vớ vẩn, tự nhiên lại đi bắt chuyện với con nhóc con này
làm gì? Con bé gớm thật, lại đi bắt bẻ lời ăn tiếng nói của mình. Nó toàn lên
mặt dạy mình: lúc thì nó không thích tên là "Páp- ca", lúc thì bảo là
"đừng ăn nói cục".
Tô-nhi-a
hỏi:
- Sao
anh lại ghét Vích-to đến thế ?
- Bởi vì
nó là một con tiểu thư mặc quần áo đàn ông, nó là con cưng nhà quý tộc, một
công tử bột, chứ không phải là thanh niên. Trông cái mặt nó thườn thượt như đứa
không hồn. Gặp những đứa như thế, tôi ngứa tay lắm. Nó con nhà giàu, nó chỉ
chực trèo lên đầu lên cổ người ta. Nó tưởng nó muốn làm gì người khác cũng
được. Tôi đây thì tôi nhổ toẹt vào cái giàu của nó. Nó cứ đụng đến tôi thì nó
biết tay tôi. Những quân ấy phải dạy chúng bằng quả đấm này mới được. - Giọng
Pa-ven đầy giận dữ.
Tô-nhi-a
tiếc là đã nhắc đến tên Vích-to trong câu chuyện. Cậu này chắc có chuyện gì lôi
thôi từ cũ với anh chàng Vích-to õng ẹo đây. Tô-nhi-a xoay ra cố lái vào câu
chuyện từ tốn hơn, hỏi thăm gia đình, công ăn việc làm của Pa-ven.
Pa-ven
không những bớt giận mà còn quên cả muốn đi ngay và cứ thế vui chuyện trả lời
Tô-nhi-a rất tỉ mỉ.
Tô-nhi-a
nói:
- Sao
anh không tiếp tục đi học nữa?
- Tôi bị
đuổi học.
- Sao
lại bị đuổi thế anh?
Pa-ven
đỏ tai:
- Tại
tôi nghịch ném thuốc lá vào bột làm bánh của lão cố dạy tôi học, nên lão ấy
đuổi không cho học nữa. Lão cố ấy là một tên hiểm ác. Nó làm cho đời tôi khốn
khổ.
Và
Pa-ven kể tất cả đầu đuôi câu chuyện.
Tô-nhi-a
tò mò chăm chú nghe. Pa-ven quên cả nỗi ngượng ngừng ban đầu, kể cho Tô-nhi-a
nghe như kể cho một cô bạn quen đã từ lâu. Pa-ven kể đến việc anh A-rơ-chom đi
lái chuyến xe không về. Câu chuyện thân mật, sôi nổi. Đôi trẻ không nghĩ gì đến
thời gian trôi đi, đã mấy tiếng đồng hồ rồi. Bỗng Pa -ven
giật nảy mình, đứng phắt dậy:
- Chết
thật! Đến giờ tôi phải đi làm rồi. Tôi mải chuyện quá. Đáng lẽ bây giờ là lúc
tôi phải đốt lò. Ông cụ thợ cả chắc giờ đang chửi om sòm. - Rồi lo lắng, Pa-ven
nói vội: - Thôi, chào cô, giờ tôi phải chạy như phi thân đến xưởng ngay lập tức
mới được.
Tô-nhi-a
cũng đứng dậy ngay, khoác áo vào người:
- Tôi
cũng đến giờ phải đi đây. Vậy ta cùng đi.
- Không,
tôi vội, phải chạy, cô không theo kịp được.
- Anh
tưởng thế? Chúng ta cùng chạy, thi xem ai nhanh.
Pa-ven
đưa mắt nhìn Tô-nhi-a có vẻ khinh thường :
- Thi à?
Cô thi thế nào được với tôi!
- Rồi
xem. Giờ ta hãy ra khỏi đây đã.
Pa-ven
nhảy qua hòn đá, chìa tay cho Tô-nhi-a, và cả hai cùng chạy ra con đường cái
rộng phẳng tới nhà ga.
Tô-nhi-a
dừng lại giữa đường:
- Nào,
giờ chúng ta chạy nhé! Một, hai, ba. Đố anh bắt được đấy.
Và
Tô-nhi-a chạy tít lên như gió lốc. Đôi đế giày xinh nhỏ bay nhanh trông như
cánh bướm, gió thổi tung tà áo xanh. Pa-ven vụt đuổi theo. "Mình sẽ đuổi
kịp trong nháy mắt" - Pa-ven nghĩ thế, và cắm cổ đuổi theo tà áo dài. Thế
mà chạy đến tận đầu đường, gần tới nhà ga mới đuổi kịp. Đang đà chạy, Pa-ven
chạm vào người Tô-nhi-a và nắm lấy vai cô. Vừa thở gấp Pa-ven vừa kêu lên mừng
rỡ!
- Thế là
bắt được con chim nhỏ rồi nhé!
- Bỏ ra,
đau anh!
Hai
người cùng thở gấp, tim cùng đập mạnh. Cuộc chạy say sưa, Tô-nhi-a mệt quá, như
vô tình, trong giây phút, nép mình vào bạn; một giây phút thôi, nhưng cũng đủ
làm cho Pa-ven cảm thấy Tô-nhi-a trở nên gần gũi. Chỉ chốc lát thoáng qua nhưng
Pa- ven sẽ
nhớ mãi.
Tô-nhi-a
gỡ tay Pa-ven.
- Xưa
nay Tô-nhi-a chạy không ai đuổi kịp cơ, anh ạ.
Hai
người chia tay nhau, Pa-ven tay vẫn vẫy mũ cát-két rảo bước chạy đến nhà máy.
Người thợ cả Đa-ni-lô đang loay hoay bên lò lửa thấy Pa-ven mở cửa vào liền
quay lại đùng đùng gắt:
- Mày
không để chậm nữa hãy đến! Định để tao phải đi đốt hầu thay mày đấy hẳn?
- Thưa
bố, chỉ một thoáng là con làm lò cháy đâu vào đấy thôi.
Rồi
Pa-ven cặm cụi khuân củi cho vào lò.
Nửa đêm
hôm ấy, vào lúc người thợ cả đất lò Đa- ni-lô đã yên giấc trên chồng củi, tiếng
ngáy khò khò như kéo gỗ, sau khi đã cho dầu mỡ vào máy xong, rửa tay đâu đấy,
Pa-ven mở ô kẻo lấy tập thứ sáu mươi hai truyện Giu-dép-pe Ga-ri-ban-đi (Một
lãnh tụ cách mạng dân chủ nổi tiếng của nhằn dân Ý hồi thế kỷ 19) ra đọc. Pa-
ven mê mải đọc cuốn truyện kể những bước mạo hiểm liên miên của Ga-ri-ban-đi,
người thủ lĩnh thần kỳ đảng "Áo đỏ" xứ Náp-lơ.
Tập
truyện có câu: "Nàng ngước đôi mắt nhung xanh biếc nhìn chàng công
tước..." Pa-ven chợt nhớ: "Tô-nhi-a cũng có đôi mắt xanh biếc. Cô bé
ngộ thật, không giống bọn con gái nhà giàu khác tí nào. Mà lại chạy nhanh như
quỷ sứ nữa".
Mơ màng
nhớ lại buổi gặp gỡ ban trưa, Pa-ven chẳng để ý gì đến tiếng máy lúc ấy rung
lên ầm ĩ mỗi lúc một mạnh; hơi nhiều quá làm bánh xe quay tít điên loạn, rung
chuyển cả sàn bê-tông bệ máy.
Pa-ven
vội nhìn vào ma-nô-mét: Kim đã chỉ quá vạch đỏ bao nhiêu là độ rồi.
- Khỉ
thật ! - Pa-ven rời ô kéo chạy bổ đến chỗ cái tay vặn hơi, quay hai vòng. Tiếng
xìn xịt phụt ra từ trong ống khói sau thành lò. Pa-ven kéo tay vặn xuống, mắc
dây cua-roa vào bánh xe đẩy ống bơm.
Pa-ven
ngước nhìn Đa-ni-lô. May quá, ông cụ già ngủ say như chết, mồm há hốc, mũi ngáy
rống lên như sấm.
Nửa phút
sau, kim đồng hồ ma-nô-mét lại trở lại chỗ bình thường của nó.
*
Sau khi
chia tay Pa-ven, Tô-nhi-a đi về nhà. Cô nghĩ mãi đến cuộc gặp gỡ vừa qua với
người thiếu niên có đôi mắt đen kia. Tự cô cũng không hiểu sao, cuộc gặp gỡ đã
làm cô thích thú.
"Ở
con người anh ta có biết bao lửa sống và chí gan góc! Ừ mà anh ấy chẳng thô bạo
như mình đã tưởng. Dù sao thì anh ấy hoàn toàn chẳng giống chút nào với bọn học
sinh thò lò mũi xanh..."
Anh ta
xuất thân từ một loại người khác, từ tầng lớp mà xưa nay Tô-nhi-a chưa có dịp
sống gần.
Tô-nhi-a
nghĩ thầm: "Mình có thể bảo anh ta được, và sẽ là một tình bạn hay
hay".
Đến gần
nhà, Tô-nhi-a đã trông thấy Li-da con nhà Xu-khác-cô, Nen-ly và Vích-to, con
nhà Lê-sinh- ski, cả ba đang ngồi trong vườn. Vích-to đang đọc sách. Tô-nhi-a
biết là họ đang chờ mình.
Cô đến
chào mọi người, rồi ngồi xuống ghế. Đang tán gẫu những chuyện tủn mủn thì
Vích-to ngồi lại gần Tô-nhi-a nhỏ nhẹ hỏi:
- Cô đã
đọc cuốn tiểu thuyết ấy chưa?
- À,
cuốn tiểu thuyết ấy à? - Tô-nhi-a bỗng thốt lên: - À, tôi đã...
Cô suýt
nói ra là đã để quên cuốn truyện ở bờ hồ.
Vích-to
chăm chú nhìn cô:
- Cô có
thích cuốn tiểu thuyết đó không?
Tô-nhi-a
khẽ lấy đầu mũi giày chậm chạp vạch đi vạch lại vẽ nhằng nhịt trên mặt đường
cát, suy nghĩ một lát, rồi ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào Vích-to:
- Không,
tôi đã bắt đầu đọc một cuốn tiểu thuyết khác, hay hơn cuốn tiểu thuyết anh cho
mượn.
- À ra
thế. - Giọng Vích-to kéo dài, có vẻ bực mình.
Hắn hỏi:
- Thế
tác giả là ai?
Mắt
Tô-nhi-a bừng sáng lên, nhìn Vích-to có vẻ chế giễu:
- Chẳng
là ai cả...
Giữa lúc
đó, mẹ Tô-nhi-a đứng ở hiên gọi:
-
Tô-nhi-a ơi! Con mời khách vào trong nhà ngồi chơi. Trà đã pha rồi.
Tô-nhi-a
khoác tay hai bạn gái vào nhà. Còn Vích- to đi sau, suy nghĩ lung về những lời
Tô-nhi-a vừa nói, không hiểu ý ra sao.
*
Tình cảm
đầu tiên, chưa kịp nhận ra rõ, nhưng đã từ từ len vào đời người thiếu niên làm
nghề đất lò lúc nào không biết, tình cảm ấy sao mà mới mẻ, sao mà bồi hồi, khó
hiểu. Tình cảm ấy đến làm xáo động hẳn tâm hồn cậu thiếu niên vốn tính tinh
nghịch và bướng bỉnh.
Tô-nhi-a
là con gái người chánh sở kiểm lâm, mà chánh sở kiểm lâm đối với Pa-ven cũng
cùng một giuộc với lão luật sư Lê-sinh-ski.
Lớn lên
trong nghèo khổ và đói rách, Pa-ven có một thái độ thù địch với những kẻ mà
mình cho là bọn giàu có. Cho nên anh thận trọng và dè chừng ngẫm về tình cảm
mới chớm trong lòng. Anh không xem Tô-nhi-a như Ga-li-na, con gái người thợ đá.
Ga- li-na là một người bạn con nhà bình dân, giản dị và dễ thông cảm. Còn
Tô-nhi-a thì Pa-ven ngại lắm, anh sẵn sàng đối phó quyết liệt với bất cứ sự chế
giễu và khinh bỉ nào của người con gái đẹp và có học thức ấy.
Đến một
tuần nay, Pa-ven khống gặp lại cô gái con người chánh kiểm lâm. Cho nên hôm nay
anh mới định ra bờ hồ hôm nọ, trên đường đi, anh chủ tâm lượn qua trước nhà cô
ta, hy vọng may ra gặp. Đang thủng thẳng bước men hàng rào khu nhà cô, Pa-ven
thấy ngay cổ chiếc áo lính thủy quen thuộc thấp thoáng ở tận cuối khu vườn.
Pa-ven nhặt một quả thông bên hàng rào, nhằm ném vào chiếc áo trắng.
Tô-nhi-a
quay phắt lại. Trông thấy Pa-ven, cô chạy ra hàng rào. Cô tươi cười vui sướng
chìa tay ra bắt và reo lên mừng rỡ:
- Anh
đến đây rồi! Anh đi đâu từ bấy đến nay ? Em có trở lại chỗ hồ nơi cuốn sách để
quên, cứ tưởng là anh sẽ lại đến đấy. Anh vào trong này chơi.
Pa-ven
lắc đầu từ chối:
- Pa-ven
không vào đâu.
Tô-nhi-a
ngạc nhiên cau mày:
- Tại
sao vậy?
- Có thể
cậu cô sẽ không bằng lòng đâu. Vì tôi cô sẽ lại bị mắng mất. Thế nào cậu cô
cũng mắng cô sao lại đưa thằng rách rưới, chân đi đất này vào nhà.
Tô-nhi-a
nổi giận:
- Anh rõ
vớ vẩn, anh Pa-ven ạ. Anh vào ngay đi xem nào. Cậu em không khi nào nói gì đâu.
Anh cứ vào mà xem. Vào đi anh.
Tô-nhi-a
chạy ra mở cổng. Pa-ven dáng không tự nhiên ngần ngại bước theo Tô-nhi-a. Hai
người ngồi chơi ở chiếc bàn tròn chôn hẳn xuống vườn.
Tô-nhi-a
hỏi:
- Anh có
thích đọc sách không?
Pa-ven
đã bạo lên:
- Có.
Thích ghê lắm.
- Thế
trong các sách đã đọc, anh thích quyển gì nhất?
Pa-ven
nghĩ một lát rồi trả lời.
- Truyện
Giu-dép-pa Ga-ri-ban-đi.
- Đọc là
Giu-dép-pe G-ri-ban-di chứ! - Tô-nhi-a chữa lại. - Anh thích quyển ấy lắm à?
- Thích
chứ. Tôi đọc lẻ từng kỳ. Sáu mươi tám kỳ rồi, không sót kỳ nào, mỗi lần lĩnh
lương, tôi mua năm số liền. Như Ga-ri-ban-đi mới thật là một con người! - Giọng
Pa-ven đầy vẻ thán phục. - Anh hùng thật ! Tôi hiểu lắm, đấy là một anh hùng
chân chính. Ga-ri-ban-đi đã bao lần đánh nhau với quân thù và bao giờ cũng
thắng chúng. Lại đi khắp bao nhiêu nước. Chà, giá ông ta còn sống đến bây giờ,
tôi sẽ tìm đến xin theo ngay. ông ta mộ toàn công nhân vào đảng và chỉ vì những
người nghèo mà chiến đấu thôi.
- Anh có
muốn lên xem tủ sách của em không? Lên em mở tủ ra anh xem.
Tô-nhi-a
nói, rồi dắt tay Pa-ven đi. Nhưng
Pa -ven cương quyết chối từ:
- Không,
không, tôi chẳng vào nhà đâu.
- Sao
anh khó bảo thế. Hay anh sợ, phải không?
Pa-ven
nhìn xuống đôi bàn chân không giày chẳng lấy gì làm sạch lắm, và gãi tai:
-
Tô-nhi-a có chắc là cậu mợ Tô-nhi-a không đuổi tôi ra cửa không?
Tô-nhi-a
giận dỗi:
- Anh
đừng có nói thế nữa, không thì em giận thật đấy.
-
Tô-nhi-a cho thế là lạ à? Như nhà Lê-sinh-ski chẳng hạn, họ có để tôi vào nhà
đâu. Đối với công nhân, nhà lão chỉ tiếp dưới bếp thôi. Hôm nọ tôi có việc sang
bên ấy, con Nen-ly nó cũng chẳng để cho bước vào nhà nữa. Trời biết được nó sợ
cái gì, chắc là nó sợ chân tôi lấm, đi vào làm bẩn thảm nhà nó, - Pa-ven mỉm
cười.
- Thôi,
chúng ta vào đi - Tô-nhi-a nắm vai Pa-ven thân mật đẩy lên hiên nhà.
Tô-nhi-a
dẫn Pa-ven đi qua buồng ăn đến một phòng rộng có kê một cái tủ bằng gỗ sến rất
lớn. Tô-nhi- a mở toang cửa tủ ra, và Pa-ven trông thấy có đến vài trăm cuốn
sách xếp thành hàng đâu ra đấy. Sách nhiều quá làm Pa-ven mê tít.
- Giờ
chúng ta chọn quyển nào hay anh mang về xem, nhưng anh phải hứa đến luôn để
mượn những quyển khác nữa cơ, anh nhé?
Pa-ven
vui thích gật đầu:
- Sách
thì tôi thú lắm.
Hai
người ở chơi với nhau rất vui, suốt mấy tiếng đồng hồ. Tô-nhi-a đưa Pa-ven ra
chào mợ. Gặp mẹ Tô-nhi- a, Pa-ven cũng chẳng thấy ghê gớm như mình tưởng, anh
cũng thấy mến bà ta.
Tô-nhi-a
đưa Pa-ven lên buồng mình, cho Pa-ven xem sách học của cô. Ở bàn chải đầu có
một cái gương. Dẫn Pa-ven ra trước gương, Tô-nhi-a vừa cười vừa nói:
- Sao
tóc anh để rối bù thế? Anh không bao giờ cắt tóc và chải đầu có phải không?
Pa-ven
ngượng nghịu nói chữa:
- Dài
quá tôi mới cạo trọc đi thôi. Chứ còn làm thế nào nữa?
Tô-nhi-a
vừa cười vừa lấy lược thưa nhanh tay chải qua mái tóc rối bời của Pa-ven. Cô
nhìn Pa-ven và nói:
- Bây
giờ có phải khác rồi không nào? Tóc anh phải đi húi cho nó đẹp chứ. Lúc nãy,
trông đầu anh y như đầu con sói rừng ấy.
Tô-nhi-a
liếc nhìn cái áo sơ-mi bạc phếch, chiếc quần cộc đã mòn dũng của Pa-ven có ý
không bằng lòng nhưng không nói gì cả.
Pa-ven
bắt gặp cái nhìn đó và cảm thấy ngượng về cách ăn mặc của mình.
Khi chia
tay nhau, Tô-nhi-a còn mời Pa-ven lại chơi luôn, và cô đã làm cho Pa-ven phải
hứa là.hai ngày nữa sẽ đến rủ Tô-nhi-a đi câu.
Pa-ven
nhảy tót qua cửa sổ ra vườn: anh không muốn đi qua nhà ngoài một lần nữa, sợ
lại gặp phải mẹ Tô-nhi-a.
*
Vắng
A-rơ-chom, nhà Ca-rơ-sa-ghin túng tợn: lương Pa-ven không đủ chi dùng.
Bà mẹ
đành bàn với con: có lẽ bà lại nên đi làm chăng? Cũng được dịp là nhà
Lê-sinh-ski đang cần người nấu bếp. Nhưng
Pa -ven gạt đi ngay:
- Không,
mẹ ạ, con sẽ xoay ra việc làm thêm: Ở sở máy cưa đang mượn người xếp gỗ phiến.
Con sẽ xin làm nửa buổi, kiếm thêm thì hai mẹ con tiêu cũng vừa. Còn mẹ thì cứ
nghỉ ở nhà. Để mẹ đi làm, anh A-rơ-chom về sẽ mắng con. Anh sẽ bảo: "Mày
không xoay xở được cho mẹ hay sao mà để mẹ phải đi hầu hạ người ta mãi thế
?"
Bà mẹ
thì bảo là bà cần phải đi làm, nhưng Pa-
ven khăng khăng không nghe nên bà đành chịu thôi.
Ngay
ngày hôm sau. Pa-ven đã đến làm ở sở máy cưa: đem các phiến gỗ mới cưa còn ướt
xếp ra phơi cho khô. Ở đây anh gặp nhiều bạn quen như Mi-sơ- ca Lép-súc là bạn
học cùng trường trước đây và Va- ni-a Cu-lê-sốp, Pa-ven cùng với Mi-sa đồng ý
với nhau hai người làm chung một phần việc. Tiền lương cũng kha khá. Ban ngày
Pa-ven làm ở sở máy cưa, chiều đến lại chạy tới nhà máy điện.
Làm được
mười hôm, Pa-ven mang về cho mẹ một món tiền. Khi đưa tiền cho mẹ, Pa-ven
ngượng ngùng di chân trên đất, trù trừ mãi mới dám nói:
- Mẹ ơi,
mẹ có thể may cho con một chiếc áo xa- tanh xanh không mẹ? Như chiếc áo năm
ngoái của con ấy mà. May thì tốn mất độ nửa số tiền này, nhưng con còn kiếm
được nữa, mẹ đừng lo. - Rồi Pa-ven nói thêm như để xin lỗi vì đã đòi hỏi mẹ
nhiều quá: - Mẹ xem đây, cái áo con đang mặc tàng quá rồi.
- Được
được, con ạ, mẹ sẽ mua ngay vải hôm nay rồi mai mẹ sẽ cắt áo cho con. Ừ, phải
đấy, con chẳng có chiếc áo mới nào.
Mẹ già
nhìn con trìu mến.
*
Pa-ven
dừng lại bên hiệu cắt tóc, thò tay vào túi, sờ lại đồng tiền rúp trong túi, rồi
mới dám bước vào. Thợ cắt tóc là một chàng hóm hỉnh chỉ ghế bành cho khách.
- Mời
cậu ngồi.
Ngồi lọt
thỏm vào chiếc ghế bành, Pa-ven ngắm vào gương thấy vẻ mặt mình lúng túng ngơ
ngơ ngác ngác.
- Húi
trọc phải không cậu? - Người thợ cắt tóc hỏi.
- Vâng,
à không phải. Bác hớt tóc cho tôi. Hớt thế này là húi kiểu gì bác nhỉ? - Tay Pa-ven luống cuống ra hiệu.
- Được
được tôi hiểu rồi. - Người thợ cạo mỉm cười.
Mười lăm
phút sau, Pa-ven đi ra, mồ hôi nhễ nhại, nhưng đầu tóc mới húi, chải lược trông
chỉnh lắm. Người thợ cắt tóc phải khó nhọc mất nhiều thời giờ với mớ tóc bờm
khó bảo đó, nhưng nước lã và răng lược cuối cùng đã thắng.
Ra
đường, Pa-ven trút hơi thở dài, đội chụp mũ cát-két xuống tận mắt nghĩ bụng:
"Mẹ mình trông thấy đầu mới sẽ nói thế nào nhỉ?"
*
Pa-ven
không đến rủ đi câu cá như đã hứa, làm Tô-nhi-a bực mình lắm.
"Cái
anh chàng đốt lò này chẳng lịch sự chút nào cả!" - Tô-nhi-a lấy làm bực
dọc, song mãi không gặp lại Pa-ven, Tô-nhi-a cảm thấy buồn.
Cô sắp
đi dạo chơi thì mẹ mở cửa vào, báo tin: "Tô- nhi-a, có khách tìm con. Mẹ
mời vào nhé?"
Pa-ven
đứng ở cửa. Thoạt nhìn, Tô-nhi-a cũng không nhận được ra ngay.
Pa-ven
diện áo xa-tanh xanh mới tinh, quần đen, đôi giày đánh xi bóng lộn và nhất là
tóc mới cắt gọn gàng, không xù lên như hôm nào, làm Tô-nhi-a chú ý ngay. Tóc
không rối bù như trước nữa, cậu bé đốt lò mắt đen bây giờ trông khác hẳn.
Tô-nhi-a
đã chực thốt ra nỗi sửng sốt của mình. Nhưng không muốn làm cho Pa-ven đã
ngượng ra mặt lại phải bối rối thêm, nên cô làm bộ như không để ý đến sự thay
đổi rõ rệt đó.
Tô-nhi-a
trách ngay Pa-ven:
- Sao
anh không đến rủ đi câu? Anh giữ lời hứa thế đấy? Anh không biết xấu hổ à?
Mấy ngày
nay Pa-ven làm thêm ở sở máy cưa, nên không đến được.
Pa-ven
không dám nói cho Tô-nhi-a biết rằng để sắm áo quần này, mấy ngày nay Pa-ven đã
phải cặm cụi làm đến mệt lử. Nhưng Tô-nhi-a nghe qua đã tự đoán ra ngay và mọi
nỗi bực dọc với Pa-ven đã biến đi đâu hết cả:
- Ta ra
hồ chơi đi.
Hai
người đi ra vườn rồi bước ra đường cái. Và
Pa- ven kể cho Tô-nhi-a nghe như
kể cho người bạn thân nhất câu chuyện bí mật về khẩu súng lấy cắp được của lão
quan hai. Rồi anh hứa hôm nào sẽ dẫn Tô- nhi-a vào tận rừng sâu tập bắn. Bất
chợt, Pa-ven buột mồm gọi Tô-nhi-a bằng "em":
- Nhưng
em nhớ, chuyện anh kể, em đừng nói lộ với ai, kẻo hại anh đấy.
Tô-nhi-a
nghiêm trang hứa:
- Em sẽ
không bao giờ lộ với ai để hại anh đâu, anh ạ !
Thép đã tôi thế đấy
Chương IV
Lửa đấu
tranh giai cấp gay gắt, ác liệt, bốc cháy cả vùng U-cơ-ren này. Số người cầm
súng đánh nhau mỗi ngày một đông, và mỗi lần xung đột lại đẻ ra thêm những
người chiến đấu mới.
Đối với
người dân, cuộc đời êm đềm năm xưa đã chìm xa vào dĩ vãng.
Giờ đang
đùng đùng bão táp, ình oàng tiếng đại bác làm rung chuyển những căn nhà nhỏ ọp
ẹp. Và người dân ép mình vào tường hầm ẩm ướt hay rúc xuống những hào trú ẩn
đào vội.
Bọn thổ
phỉ dưới trướng Pết-lu-ra đủ màu sắc, đủ xu hướng như nước lũ tràn về vùng này:
quan lớn, quan nhỏ, đủ các thứ đầu lĩnh kiểu Gô-lúp, Ác-khan- ghen, An-ghên,
Goóc-di và hằng hà sa số môn phái thổ phỉ khác.
Bọn quan
cũ của Nga hoàng, bọn xã hội cách mạng tả phái, hữu phái xứ U-cơ-ren, bất cứ
tên anh chị nào có gan rủ được, một tụi lưu manh giết người nữa theo, là tự
xưng ngay làm đầu lĩnh; đôi khi chúng còn kéo cờ vàng xanh da trời, hiệu cờ của
quân Pết-lu-ra và cướp lấy chính quyền, tùy tài tùy sức mà chiếm lấy phạm vi
tác oai tác quái.
Tên
"đầu lĩnh trưởng" Pết-lu-ra mộ quân lập những trung đoàn, sư đoàn của
nó chính từ đám thổ phỉ ô hợp ấy được bọn cu-lắc và các trung đoàn người Ga-
li-xi thuộc quân đoàn xung kích của tên đầu lĩnh Cô- nô-van nhập bọn vào thêm.
Giữa đám bùn nhơ những quân phản cách mạng và bọn cu-lắc, nổi bùng lên những
đơn vị du kích đỏ, và đất chuyển dưới hàng trăm ngàn móng ngựa sắt, đất chuyển
dưới những bánh xe bò chở súng liên thanh và những chuyến xe lửa chở pháo binh.
Vào
tháng Tư của năm 1919 rối bời này, người thường dân ngơ ngác bị nhiều phen kinh
hoàng chết khiếp, cứ sớm mai ngủ dậy, chưa kịp dụi mắt, đã hé mở cửa sổ nhà
mình, ghé sang lo lắng hỏi người hàng xóm dậy trước:
- Bác
Áp-tô-nom Pê-tờ-rô-vích này, chính quyền tỉnh mình hôm nay về quân nào nhỉ?
Áp-tô-nom
Pê-tờ-rô-vích vừa xốc quần đùi, vừa lấm lét nhòm chung quanh xem có ai không
rồi nói thì thào:
- Không
biết, bác A-pha-nắt Ki-ri-lô-vích ạ. Đêm qua có quân nào kéo vào ấy. Đợi tý
xem. Nếu quân này mà hành người Do-thái thì đúng cánh Pết-lu-ra rồi. Nếu phải
bộ đội "các đồng chí" về thì gặp cái, nghe cách ăn nói là biết ngay
thôi. Tôi cũng đang đứng đây rình xem là bọn nào để còn tính treo ảnh gì trong
nhà cho tiện, tránh mọi chuyện lôi thôi vào mình. Hôm nọ, bác Ghê-ra-xim, láng
giềng nhà tôi, lầm một tí mà bị một vố. Nhìn chưa rõ trắng đen đã vội treo ảnh
Lê-nin lên, tưởng lầm là cách mạng đã về. Thì vớ ngay ba thằng ngụy ập vào. Bác
tính, ba thằng quân Pết-lu-ra vừa nhìn thấy ảnh đó là xô vào bác ta ngay, cứ
roi ngựa nện lấy nện để. Bị đến hai mươi roi. Chúng nói: "Đồ chó, cái thằng
cộng sản kia. Ông sẽ róc da xẻo thịt mày chết tươi ngay". Bác ấy cố kêu
xin, cố phân trần với chúng, song vô hiệu.
Trông
thấy từng toán lính có súng đi ngoài đường, hàng phố đóng sập cửa sổ, tránh mặt
trốn trong nhà.Tai họa đã đến quá nhanh...
Anh em
công nhân thì nghiến răng cau mày, căm tức nhìn lá cờ màu vàng xanh da trời của
bọn côn đồ dưới trướng Pết-lu-ra. Anh em công nhân, lực lượng còn yếu, không
sao chống nổi cơn sóng bài chủng sô- vanh (chỉ tinh thần vị chủng mù quáng, hẹp
hòi ) bột phát đó, chỉ trỗi lên mỗi khi có bộ đội đỏ bị quân cờ vàng xanh da
trời bao vây, ép phải đánh về chọc sâu vào thành như một mũi dùi xoáy vào thân
cây. Lá cờ ruột thịt đỏ chói phấp phới trên nóc tòa thị sảnh, một ngày, hai
ngày, nhưng rồi bộ đội lại rút đi, và tình hình trở lại nhá nhem, tranh tối
tranh sáng.
Hiện
nay, lão quan năm Gô-lúp đang làm chúa ngự trị trong thành này. Lão ta là
"vinh dự và kiêu hãnh" của sư đoàn tả ngạn sông Đơ-nhi-ép.
Hôm qua
đám quân gồm hai ngàn tên giết người của lão thắng thế kéo vào thành phố. Lão
quan năm đi đầu cưỡi con ngựa giống tốt mã. Nắng tháng Tư đã nóng mà lão vẫn
khoác áo bành-tô của người vùng Cô-ca-dơ, đội mũ lông xứ Da-pô-rô có đính huy
hiệu màu tía, mình mặc quân phục kiểu Séc-kết, lưng đeo đủ bộ: dao găm và kiếm
nạm bạc.
Lão quan
năm trông bảnh trai, lông mày đen, da mặt tái, hơi rám vàng vì lão hay uống
rượu say be bét. Miệng lão ngậm cái píp. Trước cách mạng, lão làm chuyên gia
nông học trong những đồn điền trồng củ cải đường của nhà máy làm đường. Cuộc
đời ấy mờ tẻ lắm ! Bì sao được với danh vọng đầu lĩnh này. Và anh chàng chuyên
gia nông học ngoi lên mặt những dòng nước đục ngầu đang tràn ngập ngựa xứ này.
Giờ đây lão ta đường đường là quan nắm đầu lĩnh Gô-lúp.
Rạp hát
độc nhất của thành phố đã được trang hoàng để mở dạ hội chào mừng bọn mới đến.
Tất cả
"tinh hoa" của giới thượng lưu trí thức thuộc phái Pết-lu-ra đều có
mặt: đám giáo học người U-cơ- ren; hai con gái lão cố : con A-nhi-a xinh đẹp và
em nó là Di-na, lũ bà nhỏ, bà lớn sở tại, tất cả đám đầy tớ cũ của lão bá tước
Pô-tô-ski ngày trước, một dúm tiểu tư sản xưng danh là phái "Cô-dắc tự
do", bọn xã hội cách mạng hậu sinh của xứ U-cơ-ren.
Rạp chật
ních. Mặc quần áo địa phương U-cơ-ren sặc sỡ thêu hoa, vòng cổ, dải băng đủ màu
sắc, các mụ giáo học, hai con gái lão cố, những mụ trưởng giả được cả một lũ sĩ
quan bâu lại, bọn này đeo "cựa gà" lẻng xẻng trông hệt như những bức
tranh cổ tả những người cô-dắc Da-pô-rô.
Nhạc
binh của trung đoàn đang vang lên inh ỏi. Trên sân khấu hối hả chuẩn bị diễn
tích Na-da Stô-đô-li-a.
Điện
không có, người ta đã báo đến bộ tham mưu cho lão quan năm biết, lão định thân
chinh đến dự buổi dạ hội này cho thêm phần long trọng. Cho nên nghe báo không
có điện lão đủng đỉnh hất hàm ra lệnh cho tên quan hầu là Pa-lê-nứt; tên này
còn có tên là lão một Pô-li-an-xép.
- Phải
có điện. Mày muốn chết thì chết, nhưng phải tìm cho kỹ được một thằng thợ điện
và bắt nó chữa cho máy điện chạy.
- Thưa
đại tá, xin tuân lệnh.
Pa-lê-nứt
không chết và đã tìm được thợ điện. Hai tiếng đồng hồ sau, mấy tên lính ngụy
dẫn Pa- ven đến nhà máy điện. Hai bác thợ lắp máy và thợ chữa xe máy cũng bị
điệu đến cùng với Pa-ven. Tên quan hầu nói cộc lốc: "Nếu bây giờ tối không
có điện, tao sẽ treo cổ tuốt ba đứa bay". Nó vừa nói vừa chỉ tay lên xà
nhà bằng sắt.
Lý lẽ
cộc lốc ấy đã có hiệu quả: đúng thời hạn hắn định, điện lại sáng.
Giữa lúc
dạ hội đang náo nhiệt, thì lão quan năm đi vào. Lão đi với con đào của lão là
con gái nhà hàng lão trọ. Đứa con gái ngực nở núng na núng nính, tóc đen nhạt
như màu lúa mạch.
Bố nó là
lão chủ quán giàu sụ cho nó đi học ly- xê (trung học) ở tỉnh lỵ. Khi con bé và
lão quan đã lên ngồi trên ghế danh dự ngay trước sân khấu thì lão quan năm ra
hiệu cho phép bắt đầu. Màn kéo lên ngay. Người xem còn nhìn thấy lưng lão đạo
diễn chạy vội vào buồng trò.
Giữa lúc
trên sân khấu đang diễn kịch, bọn sĩ quan cùng với đào của chúng ra căn hàng ăn
uống thả cửa với nhau, nốc những thứ rượu mạnh mà tên quan hầu Pa-lê-nứt vét
khắp mọi nơi về, chén những món thịt chúng tịch thu của dân; đến cuối chầu kịch
thì cả lũ chúng nó đã chếnh choáng hơi men rồi.
Tên quan
hầu nhảy lên sân khấu, điệu bộ như đóng kịch tuyên bố :
- Thưa
các quý ông, quý bà, sắp sửa bắt đầu khiêu vũ.
Mọi
người vỗ tay hoan nghênh, rồi đi ra khỏi phòng cho bọn lính ngụy dẹp ghế lấy
chỗ nhảy.
Nửa giờ
sau là trong rạp đã nhảy loạn lên rồi. Khoái chí, bọn sĩ quan của Pết-lu-ra mặt
bừng bừng như lửa, say sưa nhảy những mục khó nhất của vũ Cô- dắc với lũ sư tử
cái địa phương má nóng đỏ ửng. Tiếng chân giậm ình ịch làm rung chuyển cả tường
rạp hát cũ đã mọt.
Cùng lúc
ấy, ở mé cối xay lúa một đội kỵ binh tiến vào thành phố. Vọng gác của quân
Gô-lúp đóng ở đầu tỉnh trông thấy hốt hoảng vớ vội lấy súng máy. Tiếng quy-lát
lách cách. Tiếng thét lên trong đêm tối:
- Ai?
Đứng lại!
Hai bóng
đen nổi lên trong đêm tối, một tên lại gần lũ lính gác, giọng ồm ồm trả lơi:
- Đây là
đầu lĩnh Pa-vơ-lúc và quân của Người. Các người có phải quân của Gô-lúp không?
Tên đội
trưởng ngụy tiến ra trả lời:
- Vâng.
Pa-vơ-lúc
hỏi:
- Quân
của ta đóng ở đâu được?
- Dạ, để
tôi xin gọi điện thoại về bộ tham mưu hỏi xem. - Tên đội trưởng đáp lại, rồi
tiến vào căn nhà bên đường. Một lát, hắn chạy lại ra lệnh cho bọn lính gác.
- Quân
bay dẹp súng máy bố trí trên đường cái để cho quan đầu lĩnh ngài đi.
Pa-vơ-lúc
giật cương ngựa đi và dừng lại trước rạp hát sáng choang, quanh rạp người đang
đi lại nhộn nhịp.
Hắn quay
lại nới với tên quan ba phụ tá đứng bên cạnh:
- A, a,
ở đây họ chơi vui nhỉ. Ta xuống ngựa vào chơi cái đã. Thế nào bọn mình cũng
quắp được một vài con mái khau kháu đi. Trong ấy chắc không thiếu giống.
Sta-lơ-cô này, ngươi thu xếp chỗ cho quân lính ở nhớ. Còn ta thì dừng lại đây
cùng với bọn vệ binh của ta.
Nói rồi,
hắn nhảy xuống đất đến phịch một cái, làm con ngựa cũng phải loạng choạng không
đứng vững.
Đến cửa
rạp hát, hai tên lính Pết-lu-ra vác súng đứng gác, chặn lại hỏi:
- Ngài
cho xem giấy mời.
Pa-vơ-lúc
khinh khỉnh nhìn bọn lính gác, lấy vai ẩy một thằng ra bên. Mười hai tên hộ vệ
cũng ẩy bọn gác và đi theo tên đầu lĩnh bước vào. Ngựa của chúng đã buộc cả
ngoài hàng rào.
Bọn mới
đến bị để ý ngay, nhất là thân hình đồ sộ của Pa-vơ-lúc. Hắn mặc áo sĩ quan
bằng nỉ tốt, quần xanh như quần vệ binh, đầu hắn đội mũ lông cao lêu nghêu.
Khẩu Mô-de đeo vắt qua vai, lựu đạn tay thò ra khỏi túi.
- Ai thế
nhỉ? - Tiếng hỏi nhau thì thào trong đám người đứng vây quanh bọn đang nhảy
nhót. Tên phó của Gô-lúp đang nhẩy rất ham mê điệu Bão tuyết mê cuồng. Hắn nhảy
với con gái lớn của lão cố, con này quay tít chẳng giữ ý tứ gì cả, váy tốc lên
xòe ra, khiến bọn Pa-vơ-lúc nhìn thấy cả quần đùi lụa bóng. Chúng trố mắt nhìn
đầy vẻ khoái trá.
Pa-vơ-lúc
lấy vai rẽ đám đông bước vào chính giữa vòng nhảy.
Cặp mắt
đục ngầu dán mãi vào chân con gái lão cố, hắn thè lưỡi liếm cặp môi héo, rồi đi
qua vòng nhảy đến chỗ dàn nhạc, giơ roi ngựa ra lệnh:
- Chơi
bài vũ khúc Cô-dắc !
Tên nhạc
trưởng chẳng để ý gì đến mệnh lệnh của hắn.
Pa-vơ-lúc
liền vung tay quất roi ngựa vào lưng nhạc trưởng làm hắn nảy người lên như bị
chó cắn.
Nhạc im
bặt, cả rạp lặng đi.
Con gái
lão chủ quán căm tức lắm, cánh tay kẹp chặt khuỷu tay lão quan năm Gô-lúp:
- Thật
là đểu cáng! Mình đừng để cho chúng nó láo thế được.
Gô-lúp
nặng nề đứng dậy, lấy chân đẩy chiếc ghế trước mặt, tiến lên ba bước, đến gần
Pa-vơ-lúc mặt sát mặt. Lão ta nhận ra Pa-vơ-lúc ngay từ đầu. Lão có mối hiềm
thù cũ với Pa-vơ-lúc, tay kình địch tranh chấp với lão ngôi chúa tể vùng này.
Mới cách
đây một tuần, Pa-vơ-lúc cũng đã chơi khăm lão một vố rất cay.
Giữa lúc
đang kịch chiến với một trung đoàn đỏ, một trung đoàn đã nhiều lần làm cho quân
Gô-lúp khốn đốn, dáng lẽ phải đưa quân đánh tập hậu vào quân bôn-sê-vích,
Pa-vơ-lúc lại bỏ mặc Gô-lúp, quay ra ập vào một thị trấn. Bộ đội đỏ đóng ở đấy
có mấy đồn nhỏ, Pa-vơ-lúc dồn họ ra khỏi thị trấn không khó lắm. Lấy xong thị
trấn, liền bố trí lính gác ngăn bọn Gô-lúp, rồi cho quân vào tổ chức ăn cướp
đàng hoàng. Lẽ tất nhiên, chúng càn dân Do-thái, làm đúng y như một tên bộ hạ
"chính tông" của Pết-lu-ra thường làm vậy.
Trong
khi ấy thì bộ đội đỏ thừa cơ khuýp cánh quân sườn bên phải của Gô-lúp, nện tơi
bời rồi rút mất.
Vậy mà
quân kiêu kỳ vị kỷ ấy hôm nay lại ngang nhiên kéo bừa vào rạp hát này và trước
mặt lão, đường đường là một vị quan năm đầu lĩnh, dám giơ roi đánh người nhạc
trưởng của lão. Không, không thể để cho hắn làm như thế được. Gô-lúp biết nếu
không trị ngay lập tức tên đầu lĩnh ngạo mạn này, thì còn gì là uy tín của lão
đối với quân lính trong trung đoàn nữa.
Trong
mấy giây đồng hồ, hai đứa lặng lẽ gườm mắt nhìn nhau, không nói.
Một tay
nắm chắc đốc kiếm, một tay sờ vào khẩu súng trong túi, Gô-lúp quát lên:
- Ai cho
phép ngươi dám đánh người của tao, đồ khốn nạn !
Tay
Pa-vơ-lúc cũng lần đến bao da khẩu Mô-de.
- Xin
ngài hãy từ từ, tướng quân Gô-lúp ạ ! Nếu không thì ngài có thể lộn bật đế giày
đấy thôi. Xin ngài đừng trêu vào tôi, kẻo tôi không nén giận được đâu.
Những
lời ấy càng làm cho Gô-lúp tức trào lên cổ. Hắn ra lệnh:
- Quân
đâu, tống cổ chúng nó khỏi đây cho ta, quật vào mặt chúng nó! Cho mỗi đứa hai
mươi nhăm roi đòn cho nhừ tử chúng nó ra!
Lũ sĩ
quan Cô-dắc như một đàn chó chạy xô lại, ập vào vây kín lấy bọn Pa-vơ-lúc.
Một
tiếng súng nổ giòn tan, như tiếng bóng đèn giáng mạnh xuống đất. Quân hai bên
quần nhau như bầy chó dữ cắn lộn. Hai bên cùng điên tiết lên cả, lấy kiếm đâm
nhau, nắm lấy tóc nhau, bóp cổ nhau. Đám phụ nữ sợ xanh mắt, rú lên thất thanh
như tiếng lợn bột, lủi ra xa bọn đàn ông đang cấu xé nhau.
Mấy phút
sau, bọn Pa-vơ-lúc bị tước hết vũ khí, ăn đòn nhừ tử, bị đẩy ra sân, rồi bị vứt
ra đường.
Pa-vơ-lúc
trong lúc loạn đả bị tuột mất cả mũ lông, mặt mày bê bết máu tím, vũ khí bị
tước sạch. Hắn tức lộn ruột, nhảy lên ngựa cùng bộ hạ phi đi thẳng.
Thế là
hỏng mất cả buổi dạ hội rồi. Sau chuyện vừa xảy ra, chẳng ai còn bụng dạ nào mà
đú đởn nữa. Phụ nữ nhất định không chịu ở lại nhảy, nằng nặc đòi dẫn về nhà.
Thấy thế, Gô-lúp phát khùng lên. Hắn ra lệnh:
- Gác
lấy cửa, cấm không cho ai ra ngoài.
Tên quan
hầu hối hả vâng lệnh. Mọi người kêu ca phản đối, Gô-lúp cứ một mực bắt ở lại:
- Thưa
quý bà, quý ông, ta sẽ nhảy đến sáng. Tôi xin nhảy trước bài "van"
đầu đây.
Nhạc lại
nổi lên, song nhạc chơi chẳng được mấy chốc. Lão quan năm ôm con gái lão cố
chưa kịp đi hết một vòng thì lính gác đã đâm bổ vào rạp hát kêu lên:
- Quân
Pa-vơ-lúc đã vây rạp hát.
Cửa sổ
nhìn xuống đường ở gần sân khấu bị bắn vỡ toang kính rơi tung tóe. Ngay chỗ vỡ
há hốc ấy, một khẩu liên thanh thò mõm vào, miệng súng dõi theo những bóng
người khiếp đảm đang chạy tán loạn. Để tránh nòng súng ghê sợ, mọi người chạy
dồn vào giữa rạp hát. Tên quan hầu của Gô-lúp rút súng bắn vào bóng đèn điện
nghìn nến, tiếng nổ như bom, mảnh vỡ tóe ra như mưa rơi rắc lên đầu mọi người.
Tối om
om. Bên ngoài có tiếng thét vào: "Đi ra ngoài sân tất cả"! Và tiếng
la mắng, tiếng chửi rủa nhao nhao lên.
Tiếng rú
thất kinh, mê dại của phụ nữ, tiếng ra lệnh giận dữ của lão Gô-lúp đang tất tả
trong phòng, lồng lộn quát tháo ra lệnh, định tập hợp lũ sĩ quan đã mất vía,
tiếng súng, tiếng kêu inh ỏi ngoài sân hòa thành một thứ ồn ào náo động ở ngoài
như chợ vỡ. Không ai để ý là Pa-lê-nứt đã chuồn ra cửa sau trông ra một phố
vắng, chạy như gió về ban tham mưu trung đoàn.
Nửa giờ
sau, hai bên đánh nhau ra trò, chiến trận dàn ra giữa phố. Có tiếng súng nổ
giòn liên tiếp phá tan yên tĩnh ban đêm, tiếng liên thanh vang rền không ngớt.
Dân phố rất đỗi kinh ngạc, vội vàng tụt khỏi giường ngủ yên ấm, chạy ra dán mắt
vào cửa sổ nhìn.
Dần dần
tiếng súng im đi, chỉ còn ngoài mé ngoại ô xa, có tiếng liên thanh vang lên như
chó sủa.
Đánh
nhau ngớt dần. Sáng rồi...
Tin dữ
vang đi khắp thành phố : người ta đồn sắp sửa có cuộc càn Do-thái. Tin đồn ấy
chui vào tận những túp lều Do-thái thấp lè tè, cửa sổ ti hí, bám cheo leo trên
bờ dốc bẩn của rãnh nước đổ ra sông. Trong những chiếc hộp gọi là nhà ấy, dân
nghèo Do-thái sống chen chúc, khổ sở.
Ở nhà in
mà Xéc-gây làm đã được hai năm, phần lớn anh em thợ sắp chữ và thợ máy đều là
người Do- thái. Xéc-gây thân với anh em như bà con trong nhà. Mà tất cả thợ in
là một nhà thật. Họ đoàn kết nhau lại chống lão chủ Bơ-lum-tanh giàu sụ, vênh
váo. Giữa chủ và thợ là một cuộc đấu tranh không ngừng. Lão Bơ-lum-tanh chỉ tìm
cách bòn rút cho nhiều sức lao động của thợ, mà tiền lương thì trả ít nhất. Cho
nên, nhà in thường có khi đóng cửa hàng tuần lễ: thợ in bãi công. Anh em thợ
tất cả mười bốn người. Xéc-gây ít tuổi nhất, cũng phải làm mười hai tiếng một
ngày, quay máy in quần quật.
Hôm ấy
Xéc-gây để ý thấy anh em có vẻ lo lắng, xôn xao. Đã mấy tháng nay, tình hình
nguy ngập, nhà in không có việc làm đều, làm xong món hàng này lại phải đợi món
hàng khác. Hiện đang in bản hiệu triệu của "đầu lĩnh trưởng".
Bác thợ
sắp chữ Mên-đen kéo Xéc-gây ra một góc, cặp mắt buồn rầu của bác nhìn Xéc-gây
hỏi:
- Chú có
biết sắp có càn dân Do-thái ở đây không?
Chú bé
nhìn bác ta, ngơ ngác:
- Không,
em không biết gì cả.
Bàn tay
khô đét, vàng khè của Mên-đen để lên vai Xéc gây và nói đầy tin cẩn như cha nói
với con:
- Nó
định càn thật đấy. Nó sẽ hành hạ dân Do- thái. Anh hỏi chú nhé, chú có lòng
giúp anh em trong lúc hoạn nạn này không?
- Nhất
định là giúp chứ! Cháu giúp được gì, cháu xin giúp ngay. Xin bác cứ nói đi.
Anh em
thợ cũng lắng tai nghe câu chuyện.
- Chú
thảo lắm Xê-ri-ô-gia ạ. Anh em chúng tôi tin ở chú. Ông cụ đẻ ra chú cũng là
dân thợ nhà ta cả. Chú chạy ngay về nhà nhé, nói với cụ xem có nhận cho mấy
người già với đàn bà con gái trốn tạm lại đằng nhà không. Chúng tôi sẽ chọn
trước những người sang lánh bên ấy. Rồi nói thêm với nhà xem có còn nhà ai lánh
được nữa nhé. Hiện nay bọn phỉ ấy chưa dám đụng đến người Nga. Chú chạy nhanh
về hỏi ngay hộ, gấp lắm rồi.
- Được
bác cứ tin ở cháu ! Cháu chạy sang hỏi cả nhà Pa-ven và Cơ-lim-ca nữa. Chắc nhà
chúng nó cũng không từ chối đâu.
Xéc-gây
xăm xăm chạy đi, nhưng Mên-đen thốt nhiên lo ngại níu lại hỏi thêm:
- Hãy
gượm một chút, Pa-ven với Cơ-lim-ca là người thế nào? Chú có hiểu bụng họ không?
Xéc gây
gật đầu chắc chắn:
- Bọn nó
thế nào ư? Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa-ghin đối với cháu như anh em ruột vậy. Anh
của Pa-ven là thợ máy.
Mên-đen
yên tâm:
- À, nhà
Ca-rơ-sa-ghin anh có biết. Trước cùng thuê chung một nhà. Có thể nhờ vả được
đấy. Thôi chú đi, chóng về trả lời cho biết nhé.
Xéc-gây
nhảy một bước ra đến đường.
*
Sau khi
bọn Gô-lúp đánh nhau với bọn Pa-vơ-lúc được hai hôm thì mở ra cuộc càn Do-thái.
Pa-vơ-lúc
thua bị đánh bật ra ngoài, liền chiếm lĩnh thị trấn bên cạnh. Trong trận đánh
nhau đêm ấy mỗi bên thiệt chừng hai chục mạng.
Xác lính
chết đưa vội đến nghĩa địa, chôn ngay hôm ấy, đám tang không kèn, không trống.
Vì chết như thế chẳng vinh gì. Hai thằng đầu lĩnh cắn nhau như hai con chó dại
đầu đường, làm chết oan lính, nếu tang lễ linh đình thì cũng bất tiện. Kể thì
Pa- lê-nứt cũng muốn chôn cất ầm ĩ để kết tội Pa-vơ-lúc là giặc đỏ; song uỷ ban
xã hội cách mạng, do lão cố Vát-xi-li cầm đầu không tán thành làm như thế.
Chuyện
đánh nhau đêm trước gây bất mãn sâu sắc trong cả đơn vị Gô-lúp, nhất là đại đội
vệ sĩ lại càng ấm ức, vì chúng bị sứt mẻ nhất. Để dẹp mối bất bình đó và lấy
lại tinh thần cho lính, thằng quan hầu Pa-lê-nứt đề nghị với chủ tướng cho mở
"một chầu tươi". Đấy là tiếng lóng chúng trâng tráo dùng để gọi cái
thú nhơ bẩn đi càn Do-thái. Lão quan năm sắp cưới con gái lão chủ hàng cơm,
cũng chẳng muốn làm náo động thành phố làm gì, song Pa-lê-nứt tán mãi để lão
thấy là phải làm như thế cho lính tráng đỡ bất mãn, nên cuối cùng lão đồng ý.
Thật ra
trận càn này cũng làm cho lão quan năm ngài ngại vì lão mới vào Đảng xã hội
cách mạng. Vả lại bọn không ưa lão có thể rêu rao lắm chuyện chẳng hay: họ sẽ
tung dư luận là lão khát máu Do-thái và thể nào cũng lại ton hót với "đầu
lĩnh trưởng" để làm mất uy tín của lão. Nhưng hiện thời Gô-lúp cũng có lệ
thuộc chặt gì vào "đầu lĩnh trưởng" Pết-lu-ra đâu mà sợ, vì lão tự
kiếm chác lấy để nuôi quân mình, thua được lão chịu cả kia mà. Với lại
"đầu lĩnh trưởng" cũng hiểu chán bộ hạ mình thế nào rồi. Hắn đâu có
ảo tưởng như là người của hắn có nhân, có đức. Chính hắn nhiều lần cũng ra lệnh
cho bộ hạ tịch thu được bao nhiêu thì phải trích một phần gửi lên bộ chỉ huy
tiêu dùng, chứ còn nói ai nữa. Còn như tiếng đồn là khát máu Do-thái thì đã hẳn
rồi, về khoản ấy danh của Gô-lúp đã vang lừng: chẳng cần thêm thắt gì lắm, đã
thành tích chán.
Trận càn
bắt đầu lúc mờ sáng.
Một làn
sương mờ xám ngoét bao phủ thành phố nhỏ. Phố xá vắng tanh. Đường phố chi chít
như một mớ dây vải ướt quấn quanh những khu phố của dân Do-thái mọc lên lộn
xộn, và đang im lìm như chết. Những cửa sổ nhỏ đóng kín mít, màn che cửa buông
xuống hết, trông những khung cửa như những con mắt người mù.
Đứng
ngoài nhìn vào, người ta thấy những khu phố Do-thái dường như đang còn ngủ
trưa, say lắm, nhưng thật ra bên trong không ai dám ngủ. Nhà nào nhà ấy đang
chờ tai họa giáng xuống. Người nào cũng ăn mặc quần áo sẵn sàng rồi, quây quần
trong một căn buồng hẹp, chỉ có những trẻ thơ chưa biết gì mới còn ngủ yên được
trên tay mẹ mà thôi.
Sáng hôm
ấy, tên đội trưởng vệ sĩ là Xa-lô-mư-ga, da bánh mật, má có sẹo thâm thâm - vết
tích một nhát kiếm cũ - lên lay mãi tên quan hầu Pa-lê-nứt.
Tên quan
hầu Pa-lê-nứt nặng nhọc thức giấc. Nó còn đắm đuối trong giấc mơ kỳ quặc: con
quỷ gù và nhăn như bị cả đêm ám ảnh bây giờ vẫn lấy móng sắc cào cấu cổ họng
nó. Nhưng khi ngóc dậy, đầu đau nhức thì hắn mới hiểu: té ra con quỷ ấy là
thằng Xa- lô-mư-ga đang lay đầu hắn. Xa-lô-mư-ga lắc vai tên quan hầu:
- Dậy đi
thôi, ông thần dịch ơi! Muộn lắm rồi. Đến giờ bắt đầu rồi. Không uống say thêm
nữa vào!
Pa-lê-nứt
bấy giờ đã tỉnh hẳn, ngồi nhổm dậy; cơn nhức đầu làm hắn nhăn mặt, hắn nhổ bãi
nước bọt đắng sè.
- Bắt
đầu cái gì? - Hắn trố mắt ngây dại nhìn tên đội trưởng vệ sĩ.
- Còn
cái gì nữa? Cái việc tróc bọn Do-thái chứ cái gì nữa. Mày lú lấp rồi sao?
Thật
tình, Pa-lê-nứt đã quên khuấy mất cả rồi. Ngày hôm qua, hắn uống rượu chay với
Gô-lúp ở dưới ấp. Gô-lúp đem con vợ chưa cưới và lũ bạn rượu của nó về dưới ấy
suất thời gian càn này.
Gô-lúp
thấy mình vắng mặt trong suốt thời gian càn là rất tiện.
Sau này
có sao có thể đổ cho cấp dưới hiểu lầm lệnh trên trong khi chủ tướng vắng mặt.
Còn Pa-lê- nứt ở nhà sẽ tha hồ làm tất cả mọi chuyện một cách có ý thức hẳn
hoi. Chà, cái món "chầu tươi" ấy thì Pa-lê-nứt là tay thạo có tiếng.
Pa-lê-nứt
múc một thùng nước giội lên đầu, thùng nước làm nó tỉnh rượu hẳn. Nó đến ngay
ban tham mưu, đi đi, lại lại, ra các mệnh lệnh.
Đại đội
vệ sĩ đã lên ngựa. Tên quan hầu tính cẩn thận đã ra lệnh cho lính đứng gác ngăn
xóm thợ và nhà ga với trên phố, để tránh mọi phiền phức có thể xảy ra.
Trong
vườn nhà Lê-sinh-ski đặt một khẩu súng máy chõ ra đường cái. Nhỡ công nhân có
định ập vào cứu thì sẵn sàng quạt đạn chì này.
Chuẩn bị
xong đâu đấy, tên quan hầu và Xa-lô- mư-ga lên ngựa. Khi quân sắp sửa tiến thì
Pa-lê-nứt mới chợt nhớ ra:
- Dừng
lại, tí nữa thì quên... Đánh hai xe ngựa đi theo: ta phải chuẩn bị đồ mừng đại
tá lấy vợ. Hô ! hô ! hô...Chiến lợi phẩm hạng nhất thì biếu chủ tướng như
thường lệ. Còn tù binh giống cái hạng nhất thì về ta, phó quan của người. Ha,
ha, ha... Mày hiểu rồi chứ, thằng đầu gỗ kia?
Tiếng
"đầu gỗ" chỉ Xa-lô-mư-ga.
Mắt vàng
ệch của tên này sáng lên:
- Rồi ai
cũng có phần cả!
Bọn
chúng tiến ra đường. Đi đầu là Pa-lê-nứt và Xa-lô-mư-ga, tiếp theo sau là lũ vệ
sĩ đi lộn xộn, không hàng ngũ.
Sương
sớm tan hẳn rồi. Đến trước nhà hai tầng, có tấm biển hoen gỉ đề "Phúc, cửa
hàng tạp hóa và quần áo", Pa-lê-nứt ghìm cương ngựa lại. Con ngựa cái lông
xám của nó chân rất thon, cuồng cẳng gõ móng lên vỉa hè. Pa-lê-nứt nhảy xuống
đất ra lệnh:
- Nào,
nhờ trời phù hộ, ta bắt đầu từ đây đi thôi.
Nó lại
nói thêm với bọn cưỡi ngựa đang đứng bao lấy xung quanh nó:
- Xuống
cả đi thôi, bắt đầu biểu diễn rồi. Nghe ta nói, quân bay, giờ có gặp Do-thái
cũng đừng bập vào sọ vội: thong thả, rồi hẵng hay. Còn như đối với đàn bà con
gái, nếu không thật muốn quá, ta cố kìm lại nhớ, để đến tối.
Một tên
vệ sĩ nhe bộ răng bàn cuốc ra hỏi lại:
- Cấp
trên nói kìm lại thế nào cơ? Nhỡ bên kia nó bằng lòng mê đi thì sao?
Nghe tên
quân kia nói thế, cả lũ chúng nó cười như phá. Pa-lê-nứt nhìn tên quân ấy có vẻ
khen ngợi:
-
Chuyện! Nếu bên kia nó bằng lòng thì cứ việc! Còn ai mà có quyền cấm chú được
nữa.
Nói rồi,
nó đến trước hiệu buôn, lấy chân đá mạnh vào cửa đóng kín, cánh cửa gỗ sến cả
tấm không rung chuyển một tí nào.
Không
vào lối này được, tên quan hầu quay ra góc nhà đi lại cửa bên vào nhà ở của lão
chủ. Tay hắn nắm đốc kiếm. Theo sau là Xa-lô-mư-ga.
Trong
nhà có ba người. Họ đã nghe rõ tiếng móng ngựa lộp cộp trên vỉa hè, song đến
khi nghe tiếng ngựa đứng giậm chân mãi ngoài cửa, tiếng bọn lính qua tường vọng
vào trong, thì cả ba đều bay hết hồn vía, đứng ngây ra như chết.
Lão Phúc
giàu sụ đã cùng vợ con bỏ thành phố này đi, chuồn khỏi đây từ hôm qua. Hắn giao
nhà cửa lại cho người ở là Ri-va trông nom. Ri-va là một cô gái mười chín tuổi,
tính hiền, ít nói và nhẫn nhục. Muốn cho Ri-va ở nhà vắng một mình đỡ sợ, lão
bảo cô đưa cả bố mẹ già đến ở. Cả ba người phải trông nhà cho đến khi lão về.
Ri-va
chực không nhận, song lão nhà buôn quỷ quyệt đó lại dỗ ngon, dỗ ngọt cô con ở
dễ bảo: chắc đâu đã có càn. Với lại có gì mà sợ mới được: nghèo thì ai người ta
lấy gì của mình. Rồi lão còn làm ra bộ nhân đức, hứa với Ri-va hôm nào lão về
sẽ thưởng cho chiếc áo mới.
Cả ba
đều lo lắng, nghe ngóng, cố bám lấy hy vọng: nào bọn lính có lẽ sắp sửa bỏ chỗ
này đi xa, nào có thể chính là chúng lầm, có thể chúng không dừng lại ở trước
cửa nhà này đâu, chẳng qua là tại mình nghe lẫn đấy thôi. Nhưng, như để đập vỡ
tan tành những hy vọng đó, tiếng đập thình thình nện vào cửa.
Nghe
thấy tiếng giày đá vào cửa, ông cụ Bê-sắc, bố đẻ Ri-va, tóc bạc phơ, mắt xanh
hốt hoảng như một đứa trẻ thơ khiếp sợ, đứng bên cửa nhà ngoài, cất tiếng lâm
râm cầu nguyện. Ông cụ sùng đạo, mê man cầu xin Thượng đế tối linh phù hộ, cầu
Thượng đế che chở cho, để quỹ dữ không gieo tai giáng họa xuống nhà này. Bà cụ,
đứng nép bên cạnh, tiếng lâm râm cầu kinh của ông cụ làm bà không nhận ra ngay
được những tiếng chân người đang bước tới gần.
Ri-va
thì trốn vào buồng trong cùng, nấp sau một cái tủ gỗ sến lớn.
Một tiếng
đập mạnh, dữ dội, giáng vào cửa làm hai ông bà già run bắn người.
- Mở
cửa! - Tiếng đập cửa nữa ầm ầm, dữ hơn, rồi có tiếng chửi rủa điên giận.
Nhưng
tay ông bà già không còn đủ sức nâng then cài nữa. Thế là báng súng từ bên
ngoài nện chan chát vào ván cửa. Cánh cửa rung lên bần bật, rồi vỡ toang ra.
Lính cầm
súng ập vào nhà, sục sạo các xó. Chúng lại lấy báng súng phá cửa ra nhà ngoài,
rồi đi ra nâng then cài mở cửa chính.
Bắt đầu
cướp phá vơ vét.
Xa-lô-mư-ga
đánh về nhà Gô-lúp hai xe ngựa đầy vải vóc, giày dép và nhiều thứ hàng khác;
khi nó trở lại nhà hàng Phúc, thì nghe một tiếng rú ghê rợn.
Để cho
quân lính lục lọi ngoài hàng, Pa-lê-nứt đi vào buồng trong. Mắt nó xanh lè và
sắc nhìn chòng chọc vào ba người Do-thái khốn nạn, rồi nói với vợ chồng ông
già:
- Cút !
Cả hai
ông bà già không nhúc nhích.
Pa-lê-nứt
bước lên một bước, từ từ rút kiếm ra khỏi vỏ.
- Mẹ !
Mẹ ơi !... - Tiếng Ri-va rú lên như xé. Tiếng rú ghê rợn mà Xa-lô-mư-ga nghe
thấy chính là tiếng rú đó.
Bọn lính
nghe thấy tiếng rú chạy vào thì Pa-lê- nứt quay lại, chỉ vào hai ông bà già, ra
lệnh cộc lốc cho bọn lính:
- Tống
cổ hai vợ chồng thằng già này đi!
Khi quân
lính đã đẩy được hai vợ chồng ông cụ đi rồi, hắn bảo Xa-lô-mư-ga:
- Mày
hãy đợi ngoài ấy đã, ta có tí chuyện cần nói với con bé này.
Nghe
tiếng kêu của con gái, ông lão Bê-sắc xô lại phía cửa thì bị ngay một quả tống
vào ngực đến uỵch một cái, khuỵu người vào tường. Ông lão bị đau nghẹn sằng
sặc. Bà cụ thường lành như bụt, lúc ấy chồm lên như con sói dữ vồ lấy thằng Xa-lô-mư-ga.
- Buông
cho tao vào, chúng mày làm gì thế?
Bà cụ cố
sức xông vào cửa, Xa-lô-mư-ga không tài nào gỡ được ngón tay bà cụ cứ nắm riết
lấy áo hắn. Ông cụ Bê-sắc hồi lại chạy đến cứu vợ.
- Để
chúng tao vào, để chúng tao vào, ối trời đất ơi! Con tôi !
Hai vợ
chồng ông lão xúm vào đầy được Xa-lô-mư- ga ra ngoài cửa. Tên giặc nổi xung,
rút báng súng ngắn nện vào đầu bạc của ông già làm cụ Bê-sắc ngã lăn ra đất,
không kêu được một tiếng.
Trong
buồng, tiếng Ri-va kêu thét lên.
Bị chúng
kéo tuột ra ngoài đường, bà cụ căm uất như điên như dại, tiếng bà la trời thảm
thiết và kêu cứu tuyệt vọng vang inh cả phố xá.
Trong
nhà tiếng kêu đã tắt. Pa-lê-nứt ở buồng nhốt Ri-va bước ra, Xa-lô-mư- ga lúc đó
đã sờ tay vào quả đấm mở cửa, đến lượt hắn chực vào, nhưng Pa-lê-nứt nắm tay
hắn lại, quay mặt đi nói:
- Thôi,
đừng vào nữa. Nó đi đời nhà ma rồi; tao đã lấy gối phủ lên mặt nó.
Pa-lê-nứt
bước qua xác ông cụ Bê-sắc, chân hắn nhúng vào một vũng máu đặc sệt và đen
ngòm.
- Mẹ
kiếp! Tiền đầu bất lợi!
Miệng
lẩm bầm thế, hắn bước ra.
Quân của
hắn lặng lẽ kéo đi ra sau, và sàn nhà, bậc cửa bê bết những vết giày dính máu
đỏ lòm.
Khắp cả
thành phố đâu cũng có cướp phá. Bọn hung hãn tranh cướp nhau mồi ăn, thộp lấy
cổ họng nhau như một lũ chó sói. Đây đó, lưỡi kiếm tuốt ra khỏi vỏ lóe sáng
khoa lên trời.
Những
thùng rượu bằng gỗ sến, to tướng từ trong nhà hàng rượu lăn ra mặt đường cái.
Rồi bọn
cướp xông vào phá các nhà.
Không ai
chống cự lại. Chúng ập vào các buồng vội lục lọi mọi xó, lúc đi ra thì nặng
trĩu tay những của cải cướp bóc được, để lại hàng đống bừa bãi những giẻ rách,
những gối và những đệm rách tứ tung, lông rơi lả tả. Ngày đầu mới chỉ có hai
người chết: cha con Ri-va! Nhưng đêm đến, tai họa chết chóc mới ghê người hơn
nữa.
Đến chập
tối, tất cả toán quân đủ loài thú dữ này, đứa nào cũng say máu và say rượu. Bọn
lính của Pết- lu ra đầu óc chuếnh choáng hơi men, đã mất cả lương tri rồi, chỉ
chở đêm tối đến.
Bóng tối
xuống, chúng càng được thả tay hơn. Trong đêm tối càng dễ bóp chết mạng con
người. Bọn sói lang cũng ưa bóng tối để dễ cắn xé những người đang hấp hối.
Nhiều
người không bao giờ quên được hai đêm và ba ngày khủng khiếp ấy. Bao nhiêu cuộc
đời đã bị thương tổn, tan vỡ, bao nhiêu mái tóc xanh đã bạc đi rất nhanh trong
những giờ đẫm máu này, bao nhiêu nước mắt đã tuôn rơi ! Và có ai thấu cho
chăng: những người còn sống sót có sung sướng hơn đâu! Sung sướng làm sao được
khi tâm hồn bị trống trải, khi lòng bị nỗi nhục nhã chưa từng có đến giày vò
ghê gớm, tâm tư phiền muộn, tiếc thương những người thân đã mất đi không bao
giờ trở lại nữa. Trong các ngõ chật chội của xóm Do-thái, những tấm thân còn
trẻ của những người con gái đau thương nằm trơ trơ, hai tay duỗi hất ngược,
mình bị đâm, bị chém, bị hành tội, vẫn còn nguyên dấu quằn quại trong cơn giãy
giụa, kháng cự.
Mãi ở
tận ngoài bờ sông, trong căn nhà nhỏ của người thợ rèn Na-um, bọn hùm beo háu
mồi chực hiếp chị vợ anh Na-um, mới gặp phải sức kháng cự dữ nhất. Anh thợ rèn
Na-um đang sức trai hăm bốn tuổi, to như lực sĩ, bắp thịt rắn như thép quen
quai búa sắt đâu có chịu để vợ mình bị nhục.
Trong
cuộc xô xát ngắn ngủi và khủng khiếp, hai chiếc sọ ngụy binh băng đi, vỡ ra
từng mảnh như một quả dưa hấu thối. Na-um bừng bừng khí uất của kẻ đằng nào
cũng chết, đánh rất dữ để cứu mạng mình và cả mạng vợ nữa. Anh giằng lấy súng
bắn lại hồi lâu, tiếng súng giòn giã nhằm vào phía bờ sông có quân lính Gô-lúp
thấy nguy đang chạy đến cứu. Na-um bắn hết đạn, viên cuối cùng gửi vào ngực vợ
còn mình thì lắp lưới lê vào súng xông thẳng lên trước cái chết. Đạn giặc bắn
như mưa. Na-um vừa bước ra thềm đã ngã, tấm thân cao lớn rơi phịch xuống đất.
Người ta
thấy mặt bọn phú nông béo núc ở vùng quê gần đấy dắt xe đến. Ngựa của chúng béo
tốt. Chúng chất lên xe tất cả những thứ gì chúng thích mắt, chở đi vội vội vàng
vàng. Con cái hoặc bà con chúng là ngụy binh cho đầu lĩnh Gô-lúp, giúp chúng
chất hàng lên xe. Chúng chở về, rồi lại hối hả đánh xe ra, làm hai, ba chuyến
nữa.
Xéc-gây
cùng với cha vừa đưa một nửa số anh em thợ in đi ẩn, nhường cho họ hầm nhà và
gác xép. Đi qua vườn để trở về nhà. Xéc-gây trông thấy một người đang chạy trên
đường.
Đấy là
một ông cụ Do-thái vừa chạy vừa thở hổn hển, tay vung vầy, đầu không mũ, người
lóng nga lóng ngóng trong chiếc áo dài lòng thòng và vá chằng vá đụp, mặt tái
mét vì khiếp sợ. Đằng sau là một tên lính Pết-lu-ra cưỡi con ngựa xám phóng
theo. Nó đã đuổi tới gần, người nó chực cúi xuống chém. Nghe tiếng vó ngựa lóc
cóc sau lưng, cụ giơ tay lên như để tự vệ. Xéc-gây liền nhảy bổ ra đường phố,
xông ra trước con ngựa, lấy người mình che đỡ cho ông cụ già:
- Không
được đụng vào cụ già, đồ ăn cướp, đồ chó!
Tên lính
ngụy đang đà tay không muốn kìm lại, liền trở sống kiếm đập vào mái đầu trẻ
vàng hoe.
Thép đã tôi thế đấy
Chương V
Quân đỏ
mạnh mẽ đánh lui các đơn vị của "đầu lĩnh trưởng" Pết-lu-ra. Trung
đoàn Gô-lúp lại bị gọi ra trận. Ở thành phố Sê-pê-tốp-ca chỉ còn một số nhỏ
quân làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương và tên giám binh ở lại mà thôi.
Dân phố
đã bắt đầu cựa quậy, đi lại. Đồng bào Do- thái lợi dụng lúc tạm yên, chôn cất
người nhà bị nạn. Trong những túp lều tàn của xóm Do-thái, cuộc sống đã trở
lại.
Những
buổi tối yên tĩnh, tiếng súng nổ ì ầm thoáng vọng lại như những dịp sấm. Chắc
là đang đánh nhau dữ ở đâu gần đây.
Thợ xe
lửa bỏ nhà ga bò về thôn quê kiếm việc làm.
Trường
học đóng cửa.
Trong
thành phố, tuyên bố thiết quân luật.
*
Đêm tối
như mực, ảm đạm, ghê rợn.
Những
đêm như thế này, mắt sáng có mở to cũng không nhìn thấy gì, đi đâu phải sờ
soạng, mò mẫm như người mù, sẩy chân một tí là rơi tõm xuống hố rãnh.
Dân phố
biết thời buổi này ngồi nhà không thắp đèn là hơn cả. Có ánh lửa trong nhà có
thể làm cho nhiều kẻ mò đến quấy rầy. Thà chịu tối còn yên thân hơn. Nhưng có
những người ngồi yên không đành, thì họ cứ đi cho thích cẳng, dân phố chẳng có
việc gì dính dáng đến họ. Dân không đi đâu làm gì. Chắc chắn như vậy, chẳng ai
dại gì đi ra đường lúc này.
Vậy mà
vào một đêm cũng tối như thế này, có người lần bước đi.
Đến nhà
Ca-rơ-sa-ghin, người ấy thận trọng gõ khẽ vào khung cửa sổ. Thấy không ai trả
lời, người ấy gõ lần nữa, mạnh hơn và gấp hơn.
Pa-ven
đang nằm mê thấy một con vật lạ lùng, không giống người, đang chĩa súng máy vào
anh; anh định chạy, nhưng chạy đi đâu được, tiếng súng máy cứ nổ lạch cạch, lạ
lùng, ghê rợn.
Tiếng gõ
lanh canh vào cửa kính đang giục mở cửa gấp.
Pa-ven
từ trên giường nhảy xuống, men lại gần cửa sổ nhìn xem ai gõ. Nhưng ngoài bóng
đen lờ mờ thấp thoáng sau cửa kính, cậu không nhìn rõ là ai.
Pa-ven ở
nhà một mình. Mẹ sang chơi bên nhà chị gái có chồng làm thợ máy ở xưởng làm
đường. Còn anh A-rơ-chom thì đi làm ở lò rèn thị trấn bên, quai búa để kiếm ăn.
"Chắc
là A-rơ-chom gõ cửa chứ không ai nữa". Pa- ven định mở cửa, cậu nói vọng vào bóng
tối: "Ai đấy?"
Bóng đen
cử động sau cửa kính. Tiếng trả lời khàn khàn khe khẽ:
- Anh
đây mà! Giu-khơ-rai đây.
Hai bàn
tay bám lên thành cửa sổ, Giu-khơ-rai đã nhô đầu vào ngang mặt Pa-ven.
Giu-khơ-rai thì thào:
- Anh
định đến ngủ nhờ nhà em một đêm. Có được không, em?
Pa-ven
vồn vã đáp lại:
- Anh
hỏi hay thật, nhất định là được chứ, anh trèo qua cửa sổ mà vào.
Thân
hình lực lưỡng của Giu-khơ-rai luồn qua khung cửa vào nhà. Anh đóng cửa sổ lại,
không đi vào ngay, còn đứng bên cửa nhìn ta, tai vểnh lên nghe ngóng.
Mãi khi
bóng trăng từ sau đám mây ló ra, soi rõ đường phố, anh chăm chú nhìn đường phố
vắng tanh, không có ai, mới quay lại nói với Pa-ven:
- Vào
thế này có làm mất giấc của mẹ không, em? Chắc mẹ đang ngủ?
Pa-ven
nói cho Giu-khơ-rai biết cậu ở nhà một mình. người lính thủy bấy giờ mới thấy
thoải mái và nói to hơn:
- Em
thấy đấy, từ hôm nổ ra bãi công, bọn chó không rời anh một bước, chúng nó muốn
đập chúng ta sau những việc vừa xảy ra ngoài ga dạo nọ. Nếu anh em công nhân
đoàn kết hơn, thì trong khi chúng nó càn đồng bào Do-thái, ta có thể sửa cho
chúng một mẻ... Nhưng em hiểu không, bà con mình còn chưa dám nhảy vào lửa,
chưa dám vùng lên. Cho nên thất bại. Bây giờ chúng lùng bắt anh. Hai lần chúng
đã ập đến định chộp anh. Hôm nay tí nữa anh bị chúng vớ được. Anh đi về nhà,
trèo tường sau vào như mọi lần. Anh còn đang dừng chân một lát ở gần nhà chứa
xe thì thấy ngay một lưỡi lê lù lù: một thằng đứng rình nấp sau thân cây trong
vườn. Thế là anh chuồn thẳng, đến nhà em đây. Anh tính thả neo ở đây vài ngày.
Em thấy không có gì trở ngại chứ? Không à? Thế thì hay lắm.
Giu-khơ-rai
vừa cởi đôi giày bết bùn vừa thở lấy lại sức.
Giu-khơ-rai
tới đây, Pa-ven lấy làm mừng lắm. Những ngày gần đây, sở máy điện nghỉ việc. Ở
nhà vắng vẻ một mình, Pa-ven cũng thấy chán.
Hai anh
em đi ngủ. Pa-ven nằm là ngủ ngáy, còn Giu-khơ-rai thì hút thuốc lá mãi. Rồi
anh đứng dậy, khẽ rón rén chân không, mò đến gần cửa sổ. Anh nhìn ra đường phố
hồi lâu. Không thấy gì, anh lại trở vào giường và mệt quá ngủ thiếp đi. Bàn tay
anh luồn dưới gối đặt lên một khẩu súng ngắn nặng. Hơi nóng của bàn tay làm ấm
cả khẩu súng.
*
Cái đêm
Giu-khơ-rai đến bất ngờ và tám ngày sau sống chung với anh thật có ảnh hưởng
rất lớn đối với Pa-ven. Lần đầu tiên, Pa-ven được nghe người thuỷ thủ nói nhiều
điều mới lạ, quan trọng vô cùng làm tâm hồn anh hết sức khích động. Những ngày
vừa qua thật là quyết định cho tương lai cậu công nhân đốt lò trẻ tuổi.
Người
lính thủy ẩn tại đây, bị quân thù giăng bẫy mai phục ở hai đầu, anh tranh thủ
lúc bất đắc dĩ phải nằm im này, truyền cho chàng thanh niên háo hức lắng nghe
anh nói tất cả ngọn lửa giận dữ và lòng căm thù bốc cháy của mình đối với bọn
phản động mang cờ vàng xanh đang bóp nghẹt miền này.
Giu-khơ-rai
nói rõ ràng dễ hiểu; lời nói giản dị, đi thẳng vào lòng. Ở Giu-khơ-rai, không
một mảy may hoang mang, do dự. Anh biết rõ và tin chắc con đường mình theo, và
Pa-ven bây giờ mới hiểu tất cả một mớ đảng phái mang tên rất kêu ấy, từ
"xã hội cách mạng" đến "xã hội dân chủ", "xã hội Ba
Lan", gồm toàn những kẻ thù hiểm độc của giai cấp công nhân. Chỉ có một
chính đảng cách mạng duy nhất, kiên quyết chiến đấu chống bọn giàu có áp bức,
đấy là Đảng bôn-sê-vích.
Trước
kia, Pa-ven thấy tất cả những điều ấy rối như bòng bong.
Và bây
giờ, có người vạch ra cho cậu bé đốt lò trẻ tuổi thấy rõ sự thật tàn nhẫn của
cuộc đời, người đó là một người cương nghị, một đảng viên bôn-sê-vích trung
kiên, một thủy thủ trên biển Ban-tích, nước da rám màu gió biển, một người đã
vào Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga (Tiền thân của Đảng Cộng sản Liên Xô) từ
năm 1915; Pa-ven lắng nghe Giu-khơ-rai, nói nhìn anh với cặp mắt thán phục.
- Này em
ạ ! Khi anh còn bé, anh cũng gần giống như em. Anh có sức khỏe mà không biết
làm gì. Bản chất anh bướng bỉnh, hung hăng. Gia đình anh nghèo khổ Hễ cứ nhìn
bọn con nhà giàu, ăn no, mặc diện là lòng anh căm ghét sôi lên. Nhiều khi anh
choảng chúng không tiếc tay, song không đi đến đâu, mà chỉ tổ ăn vọt của ông cụ
đẻ ra anh. Em ạ, một thân một mình chiến đấu chẳng tài nào thay đổi được cuộc
đời. Em Pa-ven, em đủ điều kiện để trở nên một chiến sĩ trung thành chiến đấu
cho sự nghiệp công nhân ta. Nhưng chỉ hiềm em còn non quá, về ý thức đấu tranh
giai cấp, em rất lờ mờ. Anh sẽ chỉ cho em con đường chân chính vì anh biết em
có thể thành người. Anh không chịu được những cậu cả ù ì, bụ sữa. Lúc này đây,
lửa cách mạng đã nung nấu thế gian. Những người nô lệ đã vùng dậy và họ phải
đạp phăng cuộc đời cũ Nhưng muốn thế, phải có một lớp người tương thân, tương
ái và dũng cảm, không phải những đứa con cưng rúc bọc mẹ, mà là những tay chắc
chắn, để đến giờ quật nhau thì không như loài gián sợ ánh sáng lẩn trốn vào khe
vách, mà là biết xông ra đập không thương tiếc.
Nói đến
đây, Giu-khơ-rai nắm tay đấm xuống bàn.
Anh đứng
dậy đút tay vào túi quần, cau mày, đi đi lại lại trong phòng.
Cảnh nằm
im không hoạt động đối với Giu-khơ- rai nặng nề khó chịu. Anh thấy mình ở lại
thị trấn này thêm nữa vô ích, nên đã quyết định vượt qua mặt trận về bắt liên
lạc với các đơn vị đỏ.
Trong
thành phố hiện còn lại một nhóm chín đảng viên có trách nhiệm tiếp tục gây cơ
sở.
Giu-khơ-rai
bực tức nghĩ thầm:
"Không
có ta, các đồng chí cũng sẽ làm được, ta không thể nào ngồi bó tay như thế này.
Ta đã mất ở đây mười tháng trời, cũng đủ rồi".
Một hôm
Pa-ven hỏi Giu-khơ-rai:
- Anh
Giu-khơ-rai, anh là ai thế hở anh?
Giu-khơ-rai
tay đút túi, đứng dậy. Anh chưa hiểu ngay ý câu hỏi ra sao:
- Sao,
em không biết anh là ai ư?
Pa-ven
khẽ đáp lại:
- Em cho
anh là một người bôn-sê-vích hay là một người cộng sản.
Giu-khơ-rai
bật cười, đấm tay vào ngực rộng bị bó chặt trong chiếc may ô lính thủy kẻ dọc:
- Đúng
thế, em ạ. Đúng, cũng như hai tiếng bôn- sê-vích và cộng sản nghĩa chỉ là một
mà thôi. - Và nghiêm nét mặt, anh nói tiếp:
- Nhưng,
em đã biết thế thì phải nhớ đừng nói hở điều đó với ai, nếu em không muốn chúng
nó móc ruột anh. Em hiểu chứ?
Pa-ven
giọng quả quyết, đáp lại:
- Vâng,
em hiểu.
Ngoài
sân có tiếng nói giòn giã; một bọn người không gõ cửa cứ xồng xộc vào.
Giu-khơ-rai sờ tay vào túi định rút súng ngắn, nhưng lại thôi ngay. Bước vào
nhà là Xéc-gây, xanh và gầy hơn trước, đầu quấn băng, cùng đi với Va-li-a và
Cơ-lim-ca.
- Chào
cậu ạ! - Xéc-gây vừa cười vừa bắt tay Pa- ven. - Ba chúng mình đến thăm cậu.
Va-li-a không dám để tớ đi đâu một mình, cô ấy sợ. Còn Cơ-lim- ca không dám để
Va-li-a đi đâu một mình, cậu ấy cũng sợ nốt. Cậu ta tuy tóc đỏ hoe, mà khôn ra
phết đấy.
Va-li-a
lấy tay bịt mồm anh, cười nói:
- Anh
đến ba hoa. Từ sáng giờ anh ấy cứ trêu mãi, làm anh Cơ-lim-ca đến khổ.
Cơ-lim-ca
cười hồn nhiên, để lộ hàm răng trắng nhởn:
- Em
trách làm gì người ốm ! Sọ cậu ấy bị nó nện vỡ rồi, nên cậu ấy nói lung tung
đấy mà.
Cả bọn
cười ầm lên. Xéc-gây bị thương vì kiếm phang vào đầu, chưa khỏi hẳn. Cậu ngồi
lên giường Pa-ven. Câu chuyện giữa mấy người bạn liền nở như ngô rang. Xéc-gây
xưa nay vốn tính vui nhộn, bây giờ trở nên trầm lặng. Anh kể lại cho
Giu-khơ-rai nghe chuyện tên lính ngụy đánh mình.
Giu-khơ-rai
quen biết tất cả bọn trẻ đó. Anh cũng đã từng nhiều lần đến nhà Bơ-ru-giắc. Anh
mến đám thanh niên công nhân ấy. Họ chưa tìm được đường đi trong cơn giông tố
của đấu tranh, nhưng họ đã tỏ rõ những khát vọng của giai cấp mình. Và anh chăm
chú nghe ba thiếu niên kể chuyện, mỗi người trong bọn họ đã giấu các gia đình
Do-thái trong nhà mình để cứu giúp đồng bào Do-thái qua khỏi trận càn. Và đêm
ấy, Giu-khơ-rai nói rất nhiều về Lê-nin, về những người bôn-sê-vích, giúp cho
đám thanh niên hiểu rõ hơn những sự việc đang xảy ra.
Đến tận
khuya, Pa-ven mới tiễn ba bạn ra về.
Cứ tối
tối Giu-khơ-rai thường đi vắng, tận đêm khuya mới về. Trước khi rời bỏ nơi này,
anh đến gặp các đồng chí ở lại hoạt động để bàn về công tác phải làm sau khi
anh rút đi nơi khác.
Đêm ấy,
Giu-khơ-rai đi không thấy trở về. Sáng ngủ dậy, Pa-ven thấy giường Giu-khơ-rai
chăn đệm vẫn nguyên không có ai nằm.
Pa-ven
linh tính thấy lo lo, sợ xảy ra chuyện không hay, bèn khoác vội áo đi ra.
Pa-ven đóng cửa và giấu chìa khóa vào một chỗ mà Giu-khơ-rai đã biết, rồi đi
thẳng đến nhà Cơ-lim-ca hỏi thăm xem có biết gì về Giu-khơ-rai không. Mẹ
Cơ-lim-ca, người đẫy đà, khuôn mặt to hơi rỗ, đang giặt quần áo, nghe Pa-ven
hỏi Giu-khơ-rai thì tru tréo lên:
- Mày
tưởng tao không có việc gì làm, suốt ngày chỉ canh nhà bác Giu-khơ-rai cho mày
đấy chắc? Chỉ tại cái bác khập khiễng ấy mà nhà bà cụ Dô-du-li- kha bị khám xét
tung cả lên. Không hiểu mày cần gì bác ta mà mày cứ quấn lấy bác ấy? Mày không
đánh bạn với người ta được. Rõ khéo được một lũ Cơ- lim-ca, nhà bác ta với
mày... - Vừa nói, bà vừa vò mạnh thêm đống quần áo đang giặt.
Bà mẹ
Cơ-lim-ca vốn là người đàn bà lắm điều, ăn nói chua ngoa.
Từ nhà
Cơ-lim-ca, Pa-ven lại tạt sang nhà Xéc-gây nói cho bạn biết mối lo lắng của
mình. Nghe Pa-ven kể, Va-li-a nói xen vào:
- Gì mà
anh cứ cuống lên thế. Có thể anh ấy nấn ná ở lại chơi nhà ai quen. - Nhưng
giọng Va-li-a tỏ ra cũng không tin điều mình nói lắm.
Nhà
Xéc-gây cố nài anh ở lại ăn cơm, nhưng Pa-ven chẳng còn bụng nào ở lại được,
anh cảm ơn rồi ra về.
Về gần
đến nhà, Pa-ven ước thầm sẽ thấy Giu-khơ-rai.
Cửa nhà
vẫn khóa như cũ. Pa-ven đứng sững trước cửa, lòng nặng trình trịch chẳng buồn
bước vào căn nhà vắng.
Anh đứng
ngoài sân suy nghĩ một lúc, rồi không hiểu nghĩ sao, đi xuống nhà dưới. Anh
trèo lên xà nhà, vuốt mạng nhện dính ở mặt, từ một góc kín, rút ra khẩu súng
ngắn Man-li-khe bọc giẻ nặng trĩu. Khẩu súng lủng lẳng trong túi, Pa-ven bước
ra cửa đi lên nhà ga.
Chạy
khắp mọi nơi, không được tin gì về Giu-khơ- rai cả.
Trên
đường về, qua biệt thự quen thuộc nhà người chánh kiểm lâm, Pa-ven chậm bước
lại. Một mối hy vọng mơ hồ làm anh ngước nhìn lên cửa sổ, nhưng vườn và nhà đều
vắng không một bóng người. Khi đi qua rồi, Pa-ven còn ngoái lại, nhìn một lần
nữa các lối đi trong vườn phủ đầy lá khô màu gỉ sắt. Cảnh vườn thật hoang vắng,
hiu quạnh, chắc cả nhà đi vắng xa, không ai trông coi. Cảnh tượng im lìm, vắng
ngắt của tòa nhà cổ càng gợi mối buồn của Pa-ven.
Pa-ven
và Tô-nhi-a vừa giận nhau một trận găng nhất từ trước đến nay. Câu chuyện xảy
ra bất ngờ, đã gần tháng nay rồi.
Thủng
thẳng đi xuống phố, tay đút túi quần, anh vừa đi vừa nhớ lại chuyện giận nhau
với Tô-nhi-a hôm trước.
Một hôm
đang đi ngoài phố tình cờ gặp nhau, Tô- nhi-a mời Pa-ven đến chơi nhà.
- Chiều
mai cậu mợ em đến nhà bác Bon-san-ski ăn cỗ. Em ở nhà một mình. Đến chơi với
em, anh Pa- vơ-lu sa nhớ, chúng mình sẽ cùng nhau đọc cuốn truyện hay lắm,
truyện Xa-sơ-ca Gi-gu-lếp của An- đơ rê-ép. Em đã xem truyện ấy rồi, nhưng em
thích đọc lại với anh, anh ở chơi cả tối thì vui lắm. Anh đến chứ? (Pa-vơ-lu-sa
cũng là tên Pa-ven, nhưng gọi rất thân mật)
Dưới
vành mũ nhỏ màu trắng phủ lấy mái tóc nâu dày màu hạt dẻ, cặp mắt to của
Tô-nhi-a nhìn Pa-ven chờ đợi trả lời.
- Đồng
ý, anh sẽ đến.
Và họ
chia tay nhau. Pa-ven rảo bước đến nhà máy. Suốt ngày hôm ấy, anh cứ nghĩ mãi
đến cả một buổi tối sẽ được ở chơi với Tô-nhi-a, hai người sẽ ở bên nhau. Nghĩ
thế, anh cảm thấy hình như ngọn lửa cháy càng sáng hơn và củi nổ lách tách vui
hơn.
Tối đến,
khi Pa-ven gõ cửa chính, Tô-nhi-a mở cửa, nói hơi lúng túng:
- Em có
khách. Họ tự nhiên đến, chứ em không mời. Nhưng anh cứ vào, anh Pa-vơ-lu-sa ạ.
Pa-ven
quay ra cửa, chực bước đi, Tô-nhi-a nắm lấy tay áo anh:
- Anh cứ
vào, anh ạ. Họ được quen anh cũng tốt cho họ.
Rồi
Tô-nhi-a khoác tay dẫn Pa-ven qua nhà ăn đến phòng mình. Vào đến nơi, Tô-nhi-a
mỉm cười giới thiệu với bọn thanh niên nam nữ đang ngồi đó:
- Chưa
quen nhau phải không? Đây là anh Pa- ven Ca-rơ-sa-ghin, bạn tôi.
Bọn ấy
có ba người, đang ngồi ở quanh chiếc bàn tròn kê giữa phòng. Li-da, em gái
Xu-khác-cô, nữ sinh rất kháu, da ngăm ngăm, miệng xinh xinh có vẻ hay làm nũng,
mái tóc chải uốn đỏm dáng. Rồi đến một anh chàng mà Pa-ven không biết là ai,
người dong dỏng, mặc áo đen lịch sự, tóc chải bóng mượt, mắt xám, có cái nhìn
đầy vẻ chán chường. Người ngồi giữa là Vích-to Lê-sinh-ski, diện bộ quần áo học
sinh rất bảnh. Chính hắn là người Pa-ven trông thấy trước tiên, khi Tô-nhi-a
vừa hé cửa.
Hắn cũng
nhận ra Pa-ven ngay. Đôi lông. mày nhỏ, cong của hắn rướn lên, tỏ vẻ ngạc
nhiên.
Pa-ven
lặng lẽ dừng ở cửa một lát, mắt gườm gườm nhìn thằng Vích-to. Tô-nhi-a muốn phá
sự im lặng không khéo đó của Pa-ven, liền mời anh vào và quay lại giới thiệu
với Li-da:
- Li-da,
làm quen đi.
Li-da
đứng lên tò mò nhìn Pa-ven.
Pa-ven
đột nhiên quay phắt lại và bước nhanh qua căn phòng ăn nằm trong cảnh tranh tối
tranh sáng, anh đi thẳng ra cửa. Tô-nhi-a đuổi theo đến hiên nắm lấy vai
Pa-ven, giọng xúc động:
- Sao
anh lại bỏ đi? Em chủ ý muốn mời anh vào để chúng nó được làm quen với anh cơ
mà!
Nhưng
Pa-ven gỡ tay Tô-nhi-a ra, trả lời xẵng:
- Thôi
cô không cần đem tôi ra bêu trước mặt những quân ấy. Tôi không có việc gì phải
dây với chúng nó. Có lẽ cô thích chơi với bọn chúng, côn tôi thì tôi chí ghét.
Nếu biết trước cô thân với lũ ấy, tôi đã chẳng bao giờ đến đây đâu.
Tô-nhi-a
cố nén giận, ngắt lời Pa:ven:
- Tại
sao anh lại ăn nói với em như thế? Em chưa từng hỏi anh chơi thân với ai, ai
hay đến thăm anh.
Pa-ven
vừa bước xuống thềm ra vườn, vừa nói dỗi:
- Thôi,
cô cứ việc giữ lấy bọn bạn ấy của cô. Còn tôi thì tôi không đến đây nữa đâu.
Nói rồi,
Pa-ven chạy ra hàng rào.
Từ ngày
ấy đến giờ, Pa-ven chẳng có lần nào gặp lại Tô-nhi-a nữa. Những ngày giặc càn
Do-thái, Pa- ven và người thợ điện cùng làm với anh bận tìm chỗ cho gia đình
đồng bào Do-thái ẩn ở sở điện, vì mải việc nên cũng quên cả câu chuyện giận
nhau với Tô- nhi-a hôm trước. Hôm nay Pa-ven chừng như muốn gặp lại Tô-nhi-a.
Giu-khơ-rai
thì biến đâu mất, về nhà thì chỉ thấy vắng vẻ, trơ trọi một mình. Điều đó làm
cho Pa-ven rất khổ. Dải đường màu xám còn ướt bùn lầy của tuyết tan mùa xuân,
lồi lõm ổ gà đầy một thứ nước đục màu nâu, chạy ngoặt sang bên phải.
Ở phía
sau căn nhà nhô ra đường cái, tường loang lổ róc hết vữa, hai phố gặp nhau.
Đến ngã
tư, chỗ cái quán đổ nát, cửa đã sập còn mang tấm biển treo ngược "Đây bán
nước suối", Vích- to Lê-sinh-ski chia tay Li-da.
Nắm bàn
tay Li-da trong tay mình, Vích-to nhìn người yêu tình tứ:
- Thế
nào cũng đến chứ em? Đừng sai hẹn nhớ !
Li-da
giọng lẳng lơ, đáp lại:
- Em sẽ
đến! Em sẽ đến! Anh đợi nhé!
Cô ta
bước đi còn nheo đôi mắt nâu màu hạt dẻ, lẳng và hứa hẹn, cười tình với
Vích-to.
Li-da đi
chưa được mười bước thì thấy hai người đàn ông từ chỗ ngoặt bước ra phố lớn.
Một người ra dáng thợ đi trước, người đẫy, ngực rộng, áo vét-tông mặc ngoài
phanh ra để lộ chiếc áo may-ô lính thủy kẻ sọc, mũ cát-két đen đội sụp xuống
trán, một bên mắt sưng húp tím bầm.
Người ấy
bước vững chắc, chân xỏ giày da vàng không cổ, đi hơi khập khiễng.
Sau
người ấy là một tên lính ngụy Pết-lu-ra đi cách ba bước. Hắn mặc toàn đồ xanh
xám, mang hai bao đạn ở dây lưng, lưỡi lê cắm đầu súng chĩa thẳng vào lưng
người đi trước.
Hai con
mắt ti hí của tên ngụy, từ dưới vành mũ lông, nhìn chòng chọc vào gáy người bị
áp giải. Râu mép hắn vàng khè thuốc lá, vểnh ra như lông dím.
Li-da đi
chậm lại, tạt sang hè phố bên kia, Pa-ven lúc ấy đi sau cô ta cũng đang bước ra
con đường này.
Khi quay
sang bên phải để về nhà, Pa-ven cũng trông thấy hai người đàn ông đang đi.
Pa-ven
kinh ngạc, chân anh như đóng đinh xuống đất không bước được nữa: Pa-ven nhận
ngay ra Giu- khơ-rai.
"Anh
ấy không về té ra vì thế !".
Giu-khơ-rai
đi lại gần. Tim Pa-ven đập đổ hồi: ý nghĩ dồn dập rối lên trong đầu, khó mà
trấn tĩnh được khó mà nhớ được mình nghĩ gì. Thời giờ để suy nghĩ gấp quá. Một
điều rõ ràng là Giu-khơ-rai đã bị bắt.
Nhìn hai
người đi lại gần, mọi thứ tình cảm quay cuồng như cơn gió lốc làm Pa-ven bối
rối.
"Làm
gì bây giờ?"
Đến phút
cuối cùng, Pa-ven chợt nhớ ra trong túi có khẩu súng ngắn. - "Để cho hai
người vừa đi qua mặt mình, bắn vào lưng thằng nguy thì Giu-khơ-rai sẽ
thoát" - Anh quyết định ngay tức khắc làm cho luồng ý nghĩ không còn quay
cuồng nữa. Hàm răng anh nghiến chặt như cắn vào nhau. Mới hôm qua chứ nào đã
lâu gì, Giu-khơ-rai chẳng đã nói với mình: " Nhưng muốn thế, phải có một
lớp người tương thân, tương ái và dũng cảm!...".
Pa-ven
ngoái ra đằng sau, liếc mắt nhìn rất nhanh. Đường vào thành phố vắng vẻ. Không
một bóng người. Trước mặt có bóng dáng thướt tha của một cô con gái mặc áo
bành-tô ngắn mùa xuân đi rảo bước. Thứ người đó không ngại lắm. Pa-ven đứng
lại, không nhìn thấy phố ngang rẽ ra đường này. Chỉ thấy đằng xa, trên con
đường ra ga, có mấy bóng người thấp thoáng.
Pa-ven
tránh ra tận mép đường. Đến cách nhau vài bước thì Giu-khơ-rai trông thấy
Pa-ven.
Anh
ngước mắt nhìn Pa-ven, đôi lông mày rậm nảy lên. Giu-khơ-rai nhận ra Pa-ven và
sửng sốt nên đi chậm lại. Lưỡi lê của tên nguy binh thúc vào sau lưng, giọng
hắn quát the thé:
- Đi mau
lên không có ông cho một báng súng bây giờ.
Giu-khơ-rai
bước dài ra. Anh muốn nói gì với Pa- ven, nhưng lại thôi và vẫy tay một cái như
ra hiệu chào biệt.
Sợ tên
lính nguy râu hoe chú ý, Pa-ven để cho Giu- khơ-rai đi qua, rồi quay lảng sang
bên, làm như mình dửng dưng chẳng để ý gì đến chuyện đang xảy ra trước mắt.
Một ý
nghĩ lo lắng như xoáy vào óc Pa-ven: "Nhỡ ra bắn trượt, đạn có thể trúng
anh Giu-khơ-rai..."
Song
thằng lính ngụy đã bước đến kề ngay bên mình rồi còn suy nghĩ làm sao được nữa?
Và
chuyện đã xảy ra như sau: khi tên ngụy đi lên ngang mặt, Pa-ven xông ngay vào
nó, nắm lấy khẩu súng, giúi mạnh xuống đất.
Lưỡi lê
siết vào lề đường kêu rít lên.
Tên ngụy
bị đánh bất ngờ, bàng hoàng mất một lúc nhưng rồi hồi ngay lại được, hắn lấy
hết sức giằng lại khẩu súng. Pa-ven đè cả người, giữ chịt lấy khẩu súng. Đụng
phải cò, súng nổ, đạn bắn vào lề đường bật lên một tiếng chối tai và băng sang
rãnh bên đường.
Nghe
tiếng súng, Giu-khơ-rai nhảy sang bên và quay lại. Tên lính ngụy hết sức gỡ
khẩu súng ở tay Pa-ven ra. Hắn xoay xoay khẩu súng, vặn tay Pa- ven. Nhưng
Pa-ven vẫn giữ chặt. Hắn nổi khùng lên tức sùi bọt mép, quật Pa-ven ngã xuống
đất. Nhưng vẫn không ăn thua, không gỡ được khẩu súng. Pa- ven ngã xuống, kéo
thằng ngụy ngã theo. Trong giờ phút này, không sức gì trên đời có thể khiến
Pa-ven buông khẩu súng ra được.
Nhảy hai
bước, Giu-khơ-rai đã đến kề bên.
Một quả
đấm nặng như chì vung lên hình vòng cung, giáng xuống đầu tên lính ngụy. Một
giây sau, nó đã phải buông Pa-ven ra; bị bồi luôn hai quả trời giáng nữa vào
mặt, thân hình nó, như cái bị nặng, ngã lăn kềnh xuống hố rãnh bên đường cái.
Cũng đôi
cánh tay rắn chắc của Giu-khơ-rai đã nâng Pa-ven từ dưới đất đứng dậy.
Vích-to
rời ngã tư một quãng, vừa đi vừa huýt sáo bài "như lông chim trước gió
lòng người đẹp thường dễ đổi thay". Vích-to hãy còn xúc động vì buổi gặp
gỡ Li-da và lời cô ta hẹn hôm sau sẽ tìm nhau ở gần chỗ nhà máy bỏ không.
Trong
đám những tay chim gái thành thần ở trường có nhiều tiếng đồn đại về Li-da.
Người ta nói cô ấy về món yêu đương thì bạo lắm.
Cái
thằng Xôm-ca trơ tráo và tự phụ, cũng đã có hôm khoe với Vích-to là lơn được
con bé rồi. Tuy Vích- to cũng chẳng tin mồm thằng Xôm-ca lắm, nhưng vẫn định
bụng mai thử xem những điều hắn nói có đúng không, bởi vì dù sao Li-da cũng là
một miếng mồi xinh, đầy sức quyến rũ.
"Nếu
con bé đến thật thì mình phải tỏ ra bạo dạn mới được. Nghe nói con bé cũng dễ
để cho hôn. Và nếu con nhà Xôm-ca không bịp mình thì..." - Dòng ý nghĩ của
Vích-to bỗng bị đứt quãng: hai tên lính Pết-lu-ra đi qua, Vích-to né người
tránh. Một tên đi con ngựa cụt đuôi, tay lắc lắc cái thùng múc nước bằng vải
bạt, chắc hắn cho ngựa đi uống nước. Còn thằng kia mặc áo ngắn, quần xanh lụng
thụng tay đặt lên đầu gối thằng đi ngựa, miệng đang kể cho nó nghe một câu
chuyện bông phèng.
Vích-to
sắp bước đi, một tiếng nổ bất thình lình vang lên ngoài đường làm hắn đứng dừng
lại. Ngoảnh lại Vích-to thấy tên lính thứ nhất quất ngựa lồng lên, phi tới chỗ
có tiếng nổ. Thằng kia thì lấy tay đỡ kiếm chạy theo sau nó.
Vích-to
cũng chạy theo chúng, ra đến gần đầu phố thì lại nghe thấy một tiếng nổ nữa. Từ
chỗ ngoặt, thằng đi ngựa lúc nãy bất thình lình chạy trở ra phía Vích-to, hắn
lấy gót chân và lấy cả cái thùng thúc vào mình ngựa; đến trại, vừa nhảy vào
khỏi cổng, hắn đã la báo ngay cho bọn lính đang đứng ở sân:
- Các
cậu ơi! Súng đâu ra ngay, chúng nó thịt một anh em mình ngoài kia!
Chốc lát
đã có nhiều đứa từ trong sân chạy xổ ra, vừa chạy vừa lên quy-lát lách cách.
Chúng
tóm lấy Vích-to.
Trên
đường, người đứng xúm đông, trong đó có cả Vích-to và Li-da. Li-da bị giữ lại
để làm chứng.
Li-da sợ
quá đã đứng sững ngay tại chỗ, khi Giu- khơ-rai và Pa-ven chạy ngang qua mặt
cô. Cô ngạc nhiên nhận ra người đánh tên lính Pết-lu-ra lại chính là thiếu niên
mà hôm nào Tô-nhi-a có ý muốn giới thiệu với mình.
Người nọ
theo sau người kia, nhảy qua hàng rào một biệt thự, và liền ngay lúc đó, có một
tên lính đi ngựa phi ra đường phố. Thấy Giu-khơ-rai vác súng chạy, còn tên lính
đi áp giải thì đang cố sức bò dậy, tên đi ngựa liền thúc ngựa về phía hàng rào
biệt thự đó.
Giu-khơ-rai
quay lại, kề súng vào vai, bắn tên lính đi ngựa, làm tên này phải quay ngựa lùi
lại.
Khẽ nhúc
nhích cặp môi sưng vều, tên ngụy đi áp giải kể lại đầu đuôi câu chuyện. Thằng
lính đi ngựa nghe xong mắng:
- Làm
thế nào mà mày để thằng tù nó chuồn ngay dưới mũi, hở đồ ngu như lợn? Mày sẽ
biết tội mày, hai mươi nhăm roi vào mông đít.
Bực
mình, tên lính áp giải cũng cãi lại:
- Mày
thì ma lanh lắm đấy! Để cho nó chuồn dưới mũi ! Ai mà biết được có quân khốn
nạn nó từ đằng sau xông vào tao như ma hiện, ma vật ấy.
Li-da
cũng bị hỏi cung. Cô khai y như tên lính, song giấu không nói rằng mình biết
người hành hung là ai. Tất cả mọi người có mặt đều bị dẫn về đồn giám binh và
đến tối tên giám binh ra lệnh thả họ ra.
Tên giám
binh ngỏ ý muốn tự mình đưa Li-da về tận nhà, nhưng cố ta từ chối. Miệng tên
này sặc mùi rượu vốt-ca và ý của hắn ta chẳng có tử tế gì.
Vích-to
đưa Li-da về.
Đường về
nhà ga còn xa, Vích-to khoác tay Li-da vừa đi vừa mừng thầm, có chuyện xảy ra
mới có dịp may thế này.
Khi gần
đến nhà, Li-da hỏi:
- Anh có
biết ai cứu người tù không?
- Li-da
bảo tôi làm sao mà biết được.
- Anh có
nhớ tối hôm nào Tô-nhi-a giới thiệu với chúng mình một thiếu niên?
Vích-to
đứng dừng lại, sửng sốt:
- Pa-ven
Ca-rơ-sa-ghin chứ gì?
- Đúng,
tôi mang máng nhớ hình như tên anh ta là Ca-rơ-sa-ghin thì phải. Anh nhớ chứ,
hôm ấy anh chàng trông thấy chúng mình là lỉnh đi ngay, đến lạ. Chính anh ta
đấy.
Vích-to
kinh ngạc:
- Li-da
không trông nhầm chứ?
- Không,
Li-da nhớ kỹ nét mặt anh ta lắm.
- Thế
sao Li-da không khai với ông giám binh.
Li-da
nổi giận:
- Anh
cho tôi lại có thể đi làm cái việc khốn nạn ấy ư?
- Cô cho
thế là khốn nạn à? Chỉ tên kẻ hành hung người lính áp giải theo cô là khốn nạn
sao?
- Thế
theo anh là chính trực hay sao? Anh quên mất những việc chúng làm. Anh không
biết ở trường ta có biết bao bạn học sinh Do-thái vì chúng mà mồ côi cha mẹ.
Vậy mà anh lại còn muốn tôi đi tố cáo Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin nữa ư? Thôi, cảm ơn
anh, không ngờ anh là người như thế !
Vích-to
có tưởng đâu Li-da trả lời như vậy. Hắn không muốn gây chuyện với Li-da, nên
tìm cách nói lảng sang chuyện khác:
- Li-da
đừng giận, tôi nói đùa đấy thôi. Tôi không biết tính Li-da nguyên tắc như thế
đấy.
Li-da
đáp gọn lỏn:
- Lối
đùa của anh khó ngửi lắm.
Đến
trước nhà Li-da Xu-khác-cô, khi chia tay bạn, Vích-to hỏi:
- Mai
Li-da đến chứ?
Vích-to
chỉ nghe thấy câu trả lời lửng lơ:
- Tôi
không biết.
Trên
đường về phố, Vích-to suy tính: "Ồ! Nếu cô ả cho là bất chính thì thưa cô
tôi lại hoàn toàn nghĩ khác. Tất nhiên về phần riêng mình, đứa nào bắt đứa nào
và đứa nào cứu đứa nào thoát, mình chẳng cần biết làm quái gì".
Vích-to
Lê-sinh-ski vốn dòng dõi quý tộc Ba Lan, nên ghét bọn Pết-lu-ra và quân đỏ như
nhau cả. Dù thế nào ngày một, ngày hai đây, quân lê dương Ba Lan cũng kéo vào
và sẽ lập lại chính quyền chân chính, thật sự của quý tộc Ba Lan. Song cơ hội
này dù sao cũng là dịp có thể làm tiêu đời thằng nhãi Pa-ven. Chúng sẽ vặn cổ
nó ngay cho mà xem.
Vích-to
một mình ở lại Sê-pê-tốp-ca, trọ nhà bà thím là vợ người phó giám đốc xưởng
đường. Còn bố mẹ nó và em gái nó là con Nen-ly thì đã đến ở Vác- xô-vi từ lâu.
Bố Vích-to hiện đang giữ một chức vụ quan trọng bên ấy.
Cửa nhà
giấy của đồn giám binh vẫn mở.
Vích-to
bước vào, được một lúc rồi đi ra với bốn tên lính Pết-lu-ra. Bọn lính theo
Vích-to đi về phía nhà Pa-ven.
Vích-to
chỉ tay vào cửa sổ có đèn sáng nói khẽ:
- Nhà nó
đây rồi.
Hắn
ngoảnh lại phía tên quan hai đứng cạnh, hỏi:
- Tôi có
thể về được chứ ạ!
- Vâng
cậu về, bọn tôi đủ tóm cổ được nó rồi. Một lần nữa, xin cảm ơn cậu.
Vích-to
rảo bước chuồn thẳng.
*
Chúng
đánh vào lưng Pa-ven một roi nữa, rồi ném vào buồng giam. Hai tay anh giơ lên
chạm phải tường của gian buồng tối om. Anh sờ soạng thấy một chỗ giống như
chiếc bục gỗ, liền ngồi xuống, người kiệt sức đau như dần.
Pa-ven
bị bắt giữa lúc không ngờ nhất. "Sao bọn Pết-lu-ra lại biết được là anh
nhỉ? Không ai trông thấy anh cơ mà! Chúng sẽ làm gì anh không biết? Không hiểu
anh Giu-khơ-rai đâu".
Hai
người chia tay nhau ở nhà Cơ-lim-ca, Pa-ven đến nhà Xéc-gây, còn Giu-khơ-rai
thì chờ đến tối là trốn khỏi thành phố.
Pa-ven
nghĩ thầm: "May mà mình giấu khẩu súng lên tổ quạ rồi, chứ không chúng
khám thấy thì tiêu đời. Nhưng mà sao chúng lại biết là mình được nhỉ?"
Điều không tài nào đoán ra được ấy cứ giày vò Pa- ven mãi.
Bọn lính
Pết-lu-ra khám xét nhà Pa-ven chẳng kiếm chác được gì bở cả. Bộ cánh diện và
chiếc đàn gió thì anh A-rơ-chom đã mang xuống làng. Cái rương của mẹ thì mẹ đã
mang đi, thành thử bọn lính lục lọi mãi khắp nơi mà chẳng vớ được gì nhiều.
Nhưng
Pa-ven không bao giờ quên được đoạn đường bị đánh từ nhà đến đồn. Đêm tối như
bưng lấy mắt. Trời nặng trĩu mây. Đòn đánh không tiếc tay, bị đá vào sườn, bị
đạp vào lưng túi bụi, mạng sườn bị thụi cái nào ra cái ấy, Pa-ven tối tăm mặt
mũi đi như người mất hồn mất trí.
Ngoài
cửa buồng giam, có tiếng người nói. Buồng bên cạnh là chỗ lính gác. Dưới gầm
cửa có vệt sáng làm Pa-ven chú ý, Pa-ven đứng dậy lấy tay sờ soạng men theo
tường, lần đi khắp buồng giam. Đối diện với cái bục, Pa-ven sờ thấy cửa sổ,
chấn song có răng cưa chắc chắn. Pa-ven thử lấy tay lay, nhưng chấn song bằng
sắt chắc lắm. Buồng giam này có vẻ như trước đây là kho chứa hàng.
Pa-ven
mò lại cửa, đứng nghe ngóng động tĩnh một phút, rồi khẽ ấn quả đấm. Cánh cửa
kêu lên ken két đến ác. Pa-ven phát cáu "Mẹ kiếp ! Chúng chẳng chịu cho
dầu".
Pa-ven
nhìn qua khe cửa hở, thấy trên mép bục có đôi bàn chân bẩn, ngón chân khoằm
khoằm chìa ra. Pa-ven lại vặn quả đấm, nhưng cửa lại kêu to hơn. Trên bục, có
một bóng người đầu rối bù, mặt ngái ngủ, ngồi nhổm dậy, gãi đầu rối rít, miệng
phun ra một thôi một hồi những lời tục tĩu; khi đã ề à chửi tục chán rồi, hắn
sờ lên khẩu súng dựng ngay đầu bục, nói lạnh như tiền:
- Đóng
ngay cửa lại! Còn dám nhìn ông lần nữa thì ông cho ăn luôn phát đạn.
Pa-ven
ấn cửa lại. Phòng bên tiếng cười rộ lên.
Đêm ấy,
Pa-ven nghĩ lung lắm. Lần đầu định góp sức vào cuộc chiến đấu đã gặp sự không
may rồi. Mới bước đầu đã bị chúng tóm được và nhốt vào đây, như chuột mắc bẫy.
Anh vẫn
ngồi, thiu thiu một giấc, nửa ngủ nửa mê: hình ảnh mẹ hiện ra, khuôn mặt gầy
gầy, dăn deo, đôi mắt thân quý yêu dấu. Một ý nghĩ thoáng qua: "May mà mẹ
không có nhà, mẹ có nhà thì thật phiền lòng mẹ".
Ánh sáng
lờ mờ chiếu qua cửa sổ in lên nền nhà một khung vuông màu xám.
Bóng tối
lùi dần. Sắp sáng rồi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét