XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2020

Thép đã tôi thế đấy-Phần I (Chương I-V)



Thép đã tôi thế đấy không phải là một tác phẩm văn học chỉ nhìn đời mà viết. Tác giả sống nó rồi mới viết nó. Nhân vật trung tâm Pa-ven chính là tác giả: Nhi-ca-lai A-xtơ-rốp- xki. Là một chiến sĩ cách mạng tháng Mười, ông đã sống một cách nồng cháy nhất, như nhân vật Pa-ven của ông. Cũng không phải một cuốn tiểu thuyết tự thuật thường vì hứng thú hay lợi ích cá nhân mà viết. A-xtơ-rốp-xki viết Thép đã tôi thế đấy trên giường bệnh, trong khi bại liệt và mù, bệnh tật tàn phá chín phần mười cơ thể. Chưa bao giờ có một nhà văn sáng tác trong những điều kiện gian khổ như vậy. Trong lòng người viết phải có một nhiệt độ cảm hứng nồng nàn không biết bao nhiêu mà kể. Nguồn cảm hứng ấy là sức mạnh tinh thần của người chiến sĩ cách mạng bị tàn phế, đau đớn đến cùng cực, không chịu nằm đợi chết, không thể chịu được xa rời chiến đấu, do đó phấn đấu trở thành một nhà văn và viết nên cuốn sách này. Càng yêu cuốn sách, càng kính trọng nhà văn, càng tôn quí phẩm chất của con người cách mạng.

Thép đã tôi thế đấy có một địa vị đặc biệt trong lịch sử văn học Liên Xô và nền văn học tiên tiến thế giới. Cách mạng tháng Mười thắng lợi, cuộc chiến đấu vĩ đại chưa từng có bao giờ của nhân dân lao động trên một dải đất Liên bang Xô Viết rộng lớn hàng ngày đề ra và đòi hỏi không biết bao nhiêu là anh hùng. Nhân dân Liên Xô, nhân loại tiến bộ chờ đợi văn học phản ánh và đào sâu cho mình hình ảnh con người anh hùng mới ấy. Lần đầu tiên trong văn học, N. A- xtơ-rốp-xki thu gọn được hình ảnh con người mới trong nhân vật Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Pa-ven không những khác hẳn với những anh hùng của các thời đại trước. Khác hẳn với những tác phẩm văn nghệ của những năm đầu cách mạng, thường ca ngợi lòng dũng cảm vô tổ chức, tả sức mạnh tràn trề, lớn khỏe của quần chúng như một sức mạnh bột phát, tự nhiên. Thép đã tôi thế đấy cho ta thấy từng con người trong một quần chúng rộng lớn nẩy nở như thế nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Thép đã tôi thế đấy ghi lại cả một quá trình tôi thép, bước đường gian khổ trưởng thành của thế hệ thanh niên Xô viết đầu tiên.

Thép ở đây là Pa-ven, là Xê-ri-ô-gia, là Va-li-a, là Giác ky, cả một lớp thanh niên lao động, vừa lớn lên thì gặp ngay cách mạng, ý thức giai cấp và tuổi trẻ bừng lên trong bão táp của phong trào. Lò ngàn độ nóng tôi rèn họ là cuộc đấu tranh thật trường kỳ gian khổ, thật là tự lực cánh sinh của cách mạng tháng Mười. Người thợ vĩ đại tôi rèn thép ấy là Đảng cộng sản, ngọn cờ và bộ tham mưu của cách mạng. Đảng lần lượt lãnh đạo chiến tranh, đảm bảo cung cấp, tổ chức vận tải, xây dựng đường sắt, trấn áp tàn dư phản cách mạng, tổ chức lực lượng nhân dân rộng lớn và thiết lập chính quyền cách mạng vững mạnh, lãnh đạo phục hồi sản xuất và kiến thiết, dắt dẫn nhân dân đi vào một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - chưa từng có bao giờ. Trong đấu tranh vũ trang cũng như công tác xây dựng, Đảng tập dần thói quen cho Pa-ven chiến thắng. Pa-ven từng bước một trưởng thành, trở nên một chiến sĩ cách mạng già dặn. Bệnh tật mười chết một sống là trận thử thách cuối cùng. Pa-ven là thép đã tôi rồi nên đã thắng, toàn thắng.
*
Cuốn sách của N. A-xtơ-rốp-xki trả lời chúng ta: "Thế nào là thép đã tôi?" Đồng chí Liêu Thừa Chi, chủ tịch Liên đoàn thanh niên dân chủ Trung Quốc, vào năm 1950, viết: "Vì ngọn cờ của chúng ta mà xung phong, mà bất khuất trước quân thù, những việc đó tương đối chưa phải là hết sức khó khăn. Rất khó khăn như Pa-ven, còn sống phút nào cũng đều là quên mình, chỉ nghĩ đến công tác, đến Đảng, đến nhân dân, đến sự nghiệp của giai cấp vô sản, kiên quyết phấn đấu đến cùng, đó mới là việc khó mà làm được thì đáng quí nhất".

Đọc Thép đã tôi thế đấy trước hết truyền cho chúng ta lỏng ham sống và ham chiến đấu. Đấy là bản chất giai cấp của Pa-ven. Đấy là bản chất thanh niên của Pa-ven. Đấy là phẩm chất cách mạng mà Đảng và đấu tranh thực tế đã xây dựng cho anh. Không phải ngọn lửa rơm sốc nổi hay cái ngang tàng rởm của chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Một tinh thần ham sống và ham chiến đấu có nghĩa lý nhất, có cơ sở nhất. Không gì mạnh bằng lòng tin tưởng của Pa-ven ở những mục đích chiến đấu của mình. Pa-ven say mê đem toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, hy sinh cá nhân của mình một cách nồng nhiệt lãng mạn, không bao giờ do dự, không hề tính toán, tất cả vì sự nghiệp giai cấp, vì hạnh phúc nhân loại. Không hiểu mục đích đấu tranh của Pa-ven, đảng tính đấu tranh của Pa-ven thì chỉ cảm thấy đời Pa-ven đau khổ. Không, Pa-ven không cảm thấy đau khổ, Pa-ven chỉ nghĩ đến khắc phục thống khổ. Pa-ven luôn luôn vui sướng vì anh luôn luôn đấu tranh và luôn luôn thắng lợi. Đó là chủ nghĩa lạc quan của Pa-ven. Đó là sức mạnh, đó là hạnh phúc của Pa-ven.

Thép đã tôi thế đấy là một khúc ca tươi đẹp của đời sống. Mỗi trang sách như cuốn thêm máu chảy trong người đọc, nâng cao thêm nhiệt tình cách mạng, thúc giục chiến đấu, thúc giục công tác.

Thép đã tôi thế đấy giải quyết cho chúng ta nhiều vấn đề nhân sinh quan mới, dạy chúng ta biết yêu biết ghét một cách chính xác và sâu mạnh, khơi lên ở chúng ta những tình cảm lớn, xây dựng cho chúng ta một quan niệm về tình yêu trong sáng. Thép đã tôi thế đấy còn là một kho báu kinh nghiệm công tác cách mạng rất thực tế để nhìn cho sáng hơn nhiều vấn đề mới mà cuộc sống đề ra cho mỗi tập thể và mỗi con người, để thực hiện "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".
*
Nhà văn Xô Viết I-ly-a Ê-ren-bua gọi Thép đã đã tôi thế đấy là "thánh kinh mới" của thanh niên Xô Viết. Bà mẹ của nữ anh hùng Dôi-a đã từng cổ vũ cả một thế hệ thanh niên thế giới chống phát xít trong đại chiến thế giới lần thứ hai, cho biết: "Thép đã tôi thế đấy là sách gối đầu của con tôi".

Cuốn sách được nhiều người đọc nhất ở Liên Xô trong thời kỳ kháng chiến chống Đức. Rất nhiều chứng cớ cụ thể tỏ ra là nó đã nêu gương sáng cho muôn vạn Pa-ven mới. Giữa đại hội anh hùng chiến đấu Trung Quốc năm 1950, đồng chí Trương Minh, một chiến sĩ giải phóng quân có nhiều thành tích, kiêm một nhà văn bộ đội trẻ, phát biểu: "Đọc Thép đã tôi thế đấy đã để lại một ảnh hưởng sâu sắc cho đời cách mạng và văn nghệ của tôi. Những sách như Thép đã tôi thế đấy nâng cao tinh thần chiến đấu và phẩm chất con người". Ở nhiều nước dân chủ nhân dân, Thép đã tôi thế đấy được coi là một tài liệu học tập của Đoàn thanh niên. Trên báo Tiền phong của thanh niên Pháp đã đăng đi đăng lại nhiều lần cuốn tiểu thuyết Pa-ven ấy. Thanh niên thế giới yêu mến Pa-ven người anh đi trước của tất cả chúng ta, người anh thuộc thế hệ cách mạng tháng Mười, thế hệ mở đường gian khổ nhất, anh dũng nhất và vẻ vang nhất.

Ở nước ta, trong cuộc đấu tranh yêu nước lâu dài, phần lớn thanh niên Việt Nam đã được trải qua nhiều cảnh ngộ mà Pa-ven đã sống. Năm năm chống phát xít Nhật - Pháp, chín năm chống xâm lược Pháp - Mỹ, một thế hệ thanh niên đông đảo nhất đã chọn con đường của Pa-ven. Nhiều anh chị em của chúng ta đã nếm tra tấn, khủng bố của nhà tù đế quốc Trong những vùng sau lưng địch, nhiều đồng chí và bạn thân của chúng ta hy sinh bất khuất trước quân thù như Va-li-a. Trên các chiến trường Việt Nam, biết bao Xê-ri-ô- gia đã bỏ mình và hàng vạn Giắc-ky sinh sôi nẩy nở. Dưới sự lãnh đạo của Hồ chủ tịch và Đảng lao động Việt Nam, chúng ta sống những chiến đấu của Pa-ven, những gian khổ của Pa-ven, cùng do một tình cảm cách mạng như Pa-ven mà phấn đấu. Cả một thế hệ thanh niên Cách mạng tháng 8 lớn lên trong kháng chiến, lớn lên cùng với chế độ dân chủ cộng hòa. Chúng ta cảm thấy Pa-ven rất gần với mình. Thép đã tôi thế đấy gợi ý cho chúng ta đòi hỏi nền văn nghệ trẻ mới của nước nhà phản ánh và đào sâu nhiều hơn nữa hình ảnh con người anh hùng mới Việt Nam. Và trong khi chờ đợi, hình ảnh Pa-ven lúc này giúp chúng ta nhìn rõ chúng ta hơn, sống lại những kinh nghiệm đã qua, củng cố và bồi bổ bài học của thực tế cách mạng, sống mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh vẻ vang và còn nhiều gian khổ ngày nay, càng hăng hái, càng dũng cảm, tiếp tục những chiến đấu của Pa-ven, phát huy những thắng lợi của Pa-ven, làm sáng tinh thần của Pa-ven hơn nữa.

Bản dịch tác phẩm lớn này, về căn bản không đầy đủ, trong phương pháp còn nhiều thiết sót. Đầy lòng yêu mến và trân trọng với A-xtơ-rốp-xki, chúng tôi tự lấy làm chưa thỏa mãn về công việc mình làm. Chỉ dám mong góp phần nhỏ mọn phục vụ nhu cầu đọc sách ngày một lớn của bạn đọc trẻ tuổi nước nhà.

Bạn đọc trẻ tuổi đang giở trang sách này, xin giới thiệu với bạn anh Pa-ven, người bạn thân, người đồng chí đi trước của chúng ta.

Thép đã tôi thế đấy
Phần thứ nhất - Chương I

- Những đứa nào đến nhà tao đọc bài trước hôm nghi lễ, đứng dậy!

Người mặc áo dài cố đạo lừ mắt quát học trò. Mặt hắn phị mỡ, cổ đeo cây thập tự to sù.

Cặp mắt ti hí mà dữ nhìn chòng chọc vào sáu đứa trò con, bốn trai và hai gái, vừa đứng nhổm dậy. Mấy đứa trẻ khiếp sợ ngước mắt lấm lét nhìn hắn. Hắn chỉ tay về phía các trò gái, ra lệnh:

- Những con bé kia, cho ngồi xuống.

Mấy trò gái trút hơi thở dài ngồi xuống. Cặp mắt lươn của lão cố Vát-xi-li vẫn nhìn chằm chặp vào mấy đứa trò trai còn đứng đấy:

- Lại gần cha nào, các con ngoan của cha.

Hắn xô ghế, đứng lên, sấn đến chỗ mấy đứa nhỏ đang nép vào nhau.

- Bọn mày đứa nào hút thuốc, hở đồ nhãi?

Cả bốn lí nhí trả lời:

- Thưa cha, chúng con không ai hút thuốc ạ.

Lão cố đỏ mặt tía tai.

- Không hút thuốc à, đồ khốn nạn! Vậy thì đứa nào ném thuốc lá vào bột làm bánh thánh? Không đứa nào hút à? Được, để tao xem. Lật túi ra! Mau lên ! Tao bảo: Lật túi ra!

Ba đứa bắt đầu móc hết đồ lề trong túi bày ra mặt bàn. Lão cố khám từng li từng tí vải lót túi, cố tìm một vết tích thuốc lá còn sót lại. Không thấy gì, lão quay ra hỏi đứa thứ tư, một thằng bé mắt đen mặc áo khoác xám và quần xanh có vá ở đầu gối:

- Còn thằng này, tại sao mày cứ đứng như phỗng thế hả?

Thằng bé, mắt nhìn đầy vẻ căm tức, càu nhàu trả lời: - Thưa cha, quần con không có túi. Và tay nó sờ vào đường chỉ ở nẹp quần.

- À, à mày bảo mày không có túi hả? Mày ngỡ tao không biết đứa nào tinh nghịch làm hỏng bột của tao phải không? Lần này nữa, mày tưởng tao vẫn cứ để cho mày học ở đây đấy chắc? Không, ôn con ơi, việc này tao không để cho mày yên đâu. Hôm nọ, mẹ mày lạy van mãi, tao mới làm phúc không đuổi mày. Nhưng lần này thì hết cách rồi. Cút khỏi lớp!

Và lão tàn nhẫn xách tai đứa bé, tống ra ngoài hiên.

Cả lớp khiếp đảm ngồi im thin thít. Không ai hiểu tại sao thằng Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa-ghin lại bị đuổi ra khỏi trường như thế. Chỉ có một mình Xéc-gây con nhà Bơ-ru-giắc, bạn thân của Pa-ven, là đã trông thấy Pa-ven ném dúm thuốc mộc vào bột làm bánh thánh của lão cố, trong bếp nhà lão ta, hôm bọn sáu trò chưa thuộc bài phải đến nhà lão đọc bài đứng đợi lão ta ở đấy.

Pa-ven bị đuổi, ngồi ở bậc cuối thềm lớp học, vẻ mặt suy nghĩ. Về nhà biết nói làm sao bây giờ? Nói thế nào với mẹ được? Mẹ chăm lo cho từng li từng tí mẹ vất vả đầu tắt mặt tối, nấu bếp hầu hạ nhà lão thanh tra sở thuế.

Pa-ven nghẹn ngào trong cổ họng.

"Làm thế nào bây giờ? Chỉ tại lão cố trời đánh kia cả ! Mình không thể nào không tương thuốc lá vào bột của lão ta. Chính Xéc-gây xui mình: "Cứ nhét vào đi cho đáng đời đồ súc vật nhơ bẩn đó". Thế là mình nhét vào. Xéc-gây thì nó chẳng làm sao đâu, còn mình, chắc chắn là bị đuổi".

Từ lâu, Pa-ven ghét cay ghét đắng lão cố, mà lão ta thì trù Pa-ven ra mặt. Một hôm vì đánh nhau với thằng Mi-sa Lép-súc, Pa-ven đã bị lão phạt giam ở lớp và không được ăn cơm chiều. Hôm đi phạt, vì không có người trông, sợ nó ngồi một mình trong lớp lại nghịch, lão cố nhét Pa-ven vào lớp học trò lớn, ngồi ở hàng ghế cuối lớp đệ nhị.

Thầy giáo lớp đệ nhị, người bé nhỏ, khô đét, mặc áo vét-tông đen, đang giảng về trái đất và các vì sao trên trời. Pa-ven há miệng ngồi nghe, rất lấy làm lạ. Ra trái đất đã có từ hàng triệu năm nay và các vì sao trên trời hóa ra cũng giống trái đất. Pa-ven thấy kỳ lạ quá, những muốn đứng lên thưa với thầy: "Điều thầy nói thật khác hẳn thánh sử" . Nhưng Pa-ven không dám hỏi, sợ bị phạt.

Pa-ven vốn rất cừ về môn thánh sử, bao giờ cũng được lão cố cho điểm nhất. Cậu thuộc làu làu kinh truyện Sấm truyền cũ và Sấm truyền mới, nhớ hết mọi chuyện trong kinh Sáng-thế-kỷ. Từ hôm nghe thầy giáo giảng ngược hẳn với thánh kinh, Pa-ven không yên dạ một tí nào, định bụng mang chuyện ấy hỏi lại lão cố Vát-xi-li, thì gặp ngay hôm sau học bài về kinh thánh. Lão cố vừa đặt mình xuống ghế là Pa-ven giơ tay liền. Được phép nói, Pa-ven đứng dậy:

- Thưa cha, sao thầy giáo lớp trên nói là trái đất có hàng triệu năm nay mà kinh thánh thì lại dạy Chúa Lời sinh ra trái đất này mới có năm nghìn...

Pa-ven chưa kịp nói hết thì tiếng quát của lão cố đã rít lên ngắt lời:

- Mày nói sao, thằng khốn nạn? Mày học lời Chúa phán truyền như thế đấy phải không?

Và Pa-ven chưa kịp mở miệng thì lão cố đã xông ngay đến, xách hai tai Pa-ven, dập đầu cậu ta vào tường. Một phút sau cậu bé bị đòn đau hết vía và bị vứt ra ngoài hiên.

Về nhà, Pa-ven cũng bị mẹ đánh một trận nên thân.

Hôm sau, mẹ đến trường van nài lão cố, xin được cho Pa-ven lại vào học. Từ hôm ấy, Pa-ven mang lòng căm thù lão cố hết sức. Thù và sợ. Xưa nay cậu không để ai làm nhục mình. Cậu không quên được trận đòn oan ức ấy. Căm giận uất người mà cố nén.

Cậu đã phải chịu nhiều nỗi bực nữa vì lão cố Vát- xi-li: lão thường kiếm cớ rất nhỏ đuổi Pa-ven ra cửa; có khi hàng tuần lễ bắt Pa-ven ngồi ở góc lớp quay mặt vào tường. Lão lại thôi không gọi Pa-ven đọc bài ở lớp. Cho nên, trước ngày nghỉ lễ Phục sinh vừa qua, Pa-ven mới phải nhập bọn với những trò kém đến nhà lão đọc gộp tất cả bài để lấy điểm học kỳ ba tháng. Được dịp, Pa-ven mới nảy ra trò tinh nghịch : ném thuốc lá vào bột làm bánh thánh trong bếp nhà lão ta.

Tuy không ai nhìn thấy, nhưng lão cố vẫn đoán biết ngay đứa nào nghịch rồi.

...Giờ ra chơi, trẻ con ùa ra sân và quây lấy Pa- ven. Pa-ven sa sầm nét mặt, cau mày đứng yên. Xéc- gây ở lại trong lớp: cậu thấy mình cũng có can dự đến chuyện này, song không làm thế nào để cứu bạn được.

Ông đốc Ê-phơ-rê-ma ngó đầu ra cửa sổ. Giọng nói to của ông ta làm Pa-ven giật nảy mình. Ông quát lên:

- Đưa thằng Pa-ven lên đây ngay!

Trống ngực đánh thình thịch, Pa-ven đi lên buồng họp của các thầy giáo.
*
Lão chủ hàng cơm ngoài ga, người đứng tuổi, mặt tái ngắt, mắt lợn luộc, liếc nhìn Pa-ven đứng nép vào bên mẹ.

- Nó lên mấy?

Bà mẹ đáp:

- Cháu mười hai.

- Được, để nó ở lại đây làm. Công nó thì tám rúp một tháng, cộng với ngày nào đi làm thì được cơm nuôi nữa. Cách một ngày làm một ngày, tính mỗi ngày làm hai mươi bốn tiếng liền. Và coi chừng nhất là nó đừng có nảy tính ăn cắp.

Bà mẹ hốt hoảng trả lời:

- Xin ông đừng lo, cháu không có tính tắt mắt đâu ạ. Tôi xin cam đoan với ông như vậy.

- Thôi được. Cho nó vào làm ngay hôm nay.

Nói rồi quay sang phía mụ hầu bàn đứng cạnh, đằng sau quầy rượu, lão ta bảo:

- Mụ Di-na đâu? Dẫn nó vào chỗ rửa bát, nói với con Phơ-rô-xi-a giao cho nó làm thay phần việc của con Gơ-ri-sa.

Mụ bán hàng bỏ con dao đang thái giò sấy xuống, gật đầu ra hiệu cho Pa-ven, rồi bước qua phòng, đi đến cửa ngách vào chỗ rửa bát. Pa-ven đi theo mụ Di-na. Mẹ Pa-ven cũng rảo bước theo con, rỉ tai dặn vội mấy lời:

- Chăm mà làm con nhé! Đừng để mẹ mang tai mang tiếng.

Bà mẹ buồn rầu nhìn theo con, rồi bước ra cửa. Trong buồng rửa bát, công việc tất tả. Trên bàn, đĩa chất đống, dao dĩa ngổn ngang. Những người đàn bà, khăn lau vắt qua vai, lau lau chùi chùi đĩa và dao dĩa.

Một đứa nhỏ tóc rối bờm xờm, không lớn hơn Pa- ven mấy, đang loay hoay đun hai ấm tướng nước.

Gian nhà ngùn ngụt hơi nước từ chậu nước nóng rửa bát đĩa tỏa lên. Thoạt vào, Pa-ven đã không thể nào nhìn rõ được mặt từng người đàn bà đang làm. Cậu ngơ ngác, không biết đứng vào đâu, làm ăn ra sao. Mụ Di-na lại gần một chị rửa bát, kéo vai nói:

- Phơ-rô-xi-a, đây một chú bồi phụ mới vào, thay chân rửa bát của con Gơ-ri-sa. Mày chỉ bảo cho nó làm.

Rồi quay lại phía Pa-ven và chỉ vào người tên gọi là Phơ-rô-xi-a ấy, mụ Di-na nói thêm:

- Con này trông về rửa bát, nó bảo gì mày phải nghe theo.

Dứt lời, mụ Di-na quay gót trở ra ngoài quầy hàng.

- Vâng.

Pa-ven khẽ đáp lại và đưa mắt hỏi Phơ-rô-xi-a. Phơ-rô-xi-a lấy khàn lau mồ hôi trán, nhìn Pa-ven từ đầu đến chân như để tính xem cậu bé làm được gì rồi vừa xắn lại một bên tay ảo đã tuột xuống dưới khuỷu tay, vừa nói với Pa-ven, giọng thanh thanh, dễ nghe:

- Việc của em chẳng có gì khó cả. Em nom thùng nước này, em đun nhỏ lửa, trông sao cho lúc nào thùng nước cũng đầy nước sôi. Em chẻ củi nữa, rồi đến nom thêm cả hai ấm nước chè cũng là việc của em. Sau này khi nào cần thì lau thêm dao dĩa và đi đổ rác. Cũng khối việc, đủ làm bở hơi tai đấy, em ạ.

Phơ-rô-xi-a nói giọng vùng Cô-stơ-rôm hay kéo dài vần a; giọng nói, sắc mặt đỏ hây hây và cái mũi cao nhọn của cô làm Pa-ven cũng thấy vui vui. "Cô này ngó bộ cũng không dữ đâu"; - Pa-ven nghĩ bụng thế, rồi mạnh dạn mở miệng hỏi:

- Cô bảo cháu bây giờ phải làm gì trước?

Cả bếp phì cười. Tiếng cười phá lên làm át cả những lời cuối câu của Pa-ven.

- Ha ha ha!... Phơ-rô-xi-a mới vớ được cháu gọi bằng cô.

- Ha ha!

Chính Phơ-rô-xi-a cười to hơn mọi người. Thì ra hơi nước bốc mù lên làm Pa-ven không trông rõ mặt cô ta. Phơ-rô-xi-a mới xấp xỉ mười tám tuổi thôi.

Ngượng quá, Pa-ven quay hỏi thằng bé cùng làm.

- Bây giờ mình phải làm gì trước, hở cậu?

Nó đã không trả lời, lại trêu Pa-ven thêm:

- Hỏi cô mày ấy, tao biết đâu đấy. Tao có ở đây đâu - Nói rồi, nó chạy ra cửa, vào trong bếp mất.

Một bà rửa bát đã có tuổi lên tiếng:

- Mày lại đây giúp tao một tay lau dĩa. Các người lạ thật, thằng bé nó nói, có gì mà cười. Đây này, giữ lấy.

Bà vừa nói vừa đưa cho Pa-ven chiếc khăn lau.

- Lấy răng cắn một đầu khăn, lấy tay kéo đầu kia ra cho thẳng. Tay này cầm dĩa, cọ đi cọ lại. Cốt nhất đừng để giắt bẩn ở kẽ dĩa. Để giắt bẩn thì khốn đấy, không phải chuyện chơi đâu. Các ông khách ăn họ nhìn kỹ lắm, họ mà thấy dĩa bẩn thì vạ vào thân đấy, con ạ! Bà chủ sẽ cho mày ra khỏi cửa ngay lập tức.

Pa-ven ngạc nhiên:

- Sao lại có bà chủ nữa à? Ở đây chỉ thấy ông chủ nhận cháu vào làm thôi cơ mà.

Bà già rửa bát phì cười:

- Ông chủ ở đây chỉ là một thứ bù nhìn thôi, con ạ. Bà ta mới là chủ đứng đầu trông coi ở đây. Hôm nay bà ta không đến. Mày cứ làm rồi sẽ thấy.

Cửa mở, ba người bồi bàn đi vào, mỗi người bê một chồng đĩa bẩn. Một lão, mặt bạnh vuông, mắt lé, vai rộng, nói bô bô:

- Trong bếp nhanh tay lên chứ! Chuyến tàu trưa sắp đến rồi, mà sao trong này làm rù rờ thế.

Nhìn thấy chú bé Pa-ven, hắn hỏi:

- Đứa nào thế này?

- Em nó mới vào làm. - Phơ-rô-xi-a trả lời.

- À ! Mới vào này - Lão bồi bàn đập bàn tay nặng trịch của hắn lên vai Pa-ven, ẩy cậu về phía mấy lò đun nước, lên giọng: - Nước lúc nào cũng phải có sẵn. Thế mà mày thử trông xem, một lò tắt ngấm, lò kia thì lửa cũng sắp lụi. Hôm nay ông hãy tha cho mày. Mai còn như thế, ông tống vào miệng. Hiểu chưa?

Không nói nửa lời, Pa-ven quay lại lò đun nước. Thế là bắt đầu cuộc đời đi làm. Chưa bao giờ Pa- ven chăm việc như ngày đầu tiên đi làm này. Pa-ven đã hiểu: đây không còn như ở nhà nữa. Ở nhà, mẹ bảo còn có thể không nghe. Chứ ở đây, lão mắt lé nó đã nói trắng ra rồi: không nghe thì nó vả cho vào mặt thật.

Nồi nấu nước chè to phình như cái vại, đổ bồn thùng nước mới gọi là đầy. Không có quạt lò, Pa-ven tháo chiếc giày ống quặp vào ống thông hơi, thổi lửa. Tia lửa từ các lò bay ra tung tóe. Cả ngày cứ quanh quẩn với những xách nước đổ vào nồi, đổ nước rửa bát, trông lò rồi lại tãi mấy khăn ướt lau bát ra hơ trên ấm nước nóng hỏng, làm mọi việc người ta sai. Đêm đã khuya lắm Pa-ven mới lần xuống bếp, người mỏi nhừ.

Bà rửa bát A-ni-xi-a nhìn ra cửa, vừa khuất bóng Pa-ven, chép miệng nói:

- Thằng bé mới lạ chứ! Làm quần quật suốt ngày, tất ta tất tưởi như bị ma vật. Còn bé thế mà đã phải đi làm chắc cũng phải vì thế nào đây.

Phơ-rô-xi-a ngắt lời:

- Thằng bé khá đáo để, làm ăn chẳng phải kèm gì cả.

Mụ Lu-sa bẻ lại:

- Cứ để yên rồi xem, chẳng chán ngay đấy. Đứa nào cũng thế, mới làm bao giờ chẳng chăm...

Đến bảy giờ sáng, Pa-ven mới hết tội khổ sai, người rã rời sau một đêm mất ngủ và chạy đi chạy lại luôn chân. Thằng bé đến đổi ca, dáng người dong dỏng, má bánh đúc, hai con mắt xấc, nhìn thao láo.

Ngó xem đâu vào đấy cả rồi và thấy hai nồi nước vẫn đang nóng sôi, nó thọc tay vào túi quần, chét một bãi nước bọt tướng, nhổ toẹt một cái, rồi trợn lòng trắng mắt lên nhìn Pa-ven, nói giọng trịch thượng:

- Ê thằng nhóc! Sáng mai, sáu giờ đến thay tao.

Pa-ven ngạc nhiên hỏi lại:

- Sao lại sáu? Bảy giờ người ta mới đổi ca cơ mà?

- Người ta khác, mày khác. Tao bảo mày đến sáu giờ thì mày cứ đến sáu giờ. Nếu mày cãi lại tao thì tao đập vỡ mặt mày ra. Liệu hồn, nhóc bọ, mới vào mà đã đòi lên mặt.

Những chị rửa bát đã tan tầm, chăm chú nhìn hai đứa bé cãi nhau. Giọng xấc xược, thái độ ngang ngược của thằng bé kia làm Pa-ven tức đến tận cổ. Cậu tiến lại gần nó, chực giã ngay, song lại ghìm được, sợ ngày đầu đi làm đã lôi thôi thì có khi bị đuổi. Pa-ven sa sầm nét mặt, nén giận nói:

- Này, từ từ chứ, đừng chọc vào tao mà bỏng tay đấy, con ạ! Mai đúng bảy giờ tao mới đến. Còn muốn chơi nhau, tao chẳng lép vế đâu. Muốn thử thì tao chẳng kiêng đâu nhớ.

Thằng kia không ngờ Pa-ven cứng thế, nên chịu lép. Nó sửng sốt nhìn Pa-ven lúc ấy đã nổi gân mặt, rồi lùi lại phía cái chậu, lẩm bẩm:

- Được, rồi xem ai biết tay ai.

Ngày đầu tiên đi làm thế là không xảy ra chuyện gì, Pa-ven yên trí ra về, lòng khoan khoái như một người đã làm đầy đủ bổn phận, có quyền được nghỉ. Bây giờ đi làm rồi, không ai còn dám bảo mình là ăn không ngồi rồi nữa.

Mặt trời ban mai uể oải ló ra khỏi tòa nhà máy cưa. Căn nhà Pa-ven lụp xụp hiện dần ra trong sương sớm. Nhà đây rồi, ngay sau biệt thự nhà của Lê- sinh-ski.

Miệng huýt sáo, chân bước rào, Pa-ven nghĩ thầm: "Mẹ chắc đã dậy rồi và mình thì đi làm về. Thôi thì bị đuổi học thế cũng chẳng khổ lắm. Có được nó cho vào học lại thì cũng đến bị lão cố trời đánh làm mình điêu đứng không sống yên được. Giờ thì ông cóc cần !"

Đang nghĩ lan man thì đến nhà. Pa-ven mở cửa, rồi sực nhớ: "Còn thằng bé tóc hoe kia, mày sẽ biết tay ông, ông nhất định sẽ cho mày vỡ quai hàm".

Mẹ đang loay hoay đun nước ở sân. Thấy bóng con, bà hỏi một cách lo âu:

- Sao, công việc thế nào con, có khá không?

- Khá lắm, mẹ ạ.

Thấy mẹ như có chuyện gì muốn báo cho mình biết, Pa-ven hiểu ngay: ngó vào cửa sổ mở rộng, cậu đã nhìn thấy cái lưng rộng của A-rơ-chom.

Bối rối, Pa-ven hỏi mẹ:

- Anh A-rơ-chom đã về đấy, hở mẹ?

- Ừ, về tối qua và ở hẳn nhà. Anh con sẽ về làm ở sở đầu máy xe lửa.

Pa-ven mở cửa, không còn đủ tự tin nữa.

Thân hình to lớn ngồi bên bàn, lưng quay về phía Pa-ven, bỗng ngoảnh lại, cặp mắt nghiêm khắc của anh, dưới đôi lông mày đen rậm, nhìn Pa-ven chằm chằm.

- À, tay nghịch thuốc lá đã về đấy à! Chào cậu!

Nói chuyện với anh xem chừng chẳng êm ái chút nào đâu.

Pa-ven nghĩ thầm: "Anh biết tất cả rồi, ông ấy bực lên thể nào cũng tế cho một mẻ. Có khi còn nện cho nữa".

Pa-ven vẫn hơi sợ anh.

Nhưng A-rơ-chom không có vẻ gì muốn đánh em cả. Ngồi trên ghế đẩu, tay tỳ lên bàn, anh chỉ nhìn em không rời mắt. Cái nhìn không ra vẻ nhạo mà cũng không ra vẻ ghét, Pa-ven không biết đằng nào mà đoán.

Tiếng anh phá không khí yên lặng nặng nề:

- Hình như mày đã học xong cả rồi thì phải, mọi thứ khoa học đều tinh thông, nên bây giờ mày bắt đầu chuyển về khoa rửa bát.

Pa-ven nhìn chằm chặp vào kẽ sàn gỗ, mắt như dán vào mũ một chiếc đinh đâm trồi lên. Nhưng A- rơ-chom đã đứng lên đi vào bếp.

"Lần này thì thoát nạn rồi", - Pa-ven thở dài nhẹ nhõm.

Đến tối, ba mẹ con ngồi uống nước. Anh A-rơ-chom mới từ tốn hỏi lại câu chuyện xảy ra ở lớp học. Pa- ven kể lại tất cả.

Giọng mẹ buồn rầu:

- Mày còn ít tuổi đã ngỗ ngược thế thì lớn lên làm gì được, hở con? - Rồi mẹ than phiền: - Biết làm sao với nó được? Cả nhà nó chẳng giống tính ai. Trời ơi, con tội, con nợ, nó làm khổ tôi bao nhiêu lần rồi.

Anh A-rơ-chom đẩy cái chén không ra, nói với Pa-ven:

- Nghe anh nói đây, cơ sự đã như thế ta không nhắc đến nữa. Nhưng từ nay em phải thận trọng, nghĩ đến làm ăn, đừng có tơ tưởng đến trò nghịch ngợm. Chịu khó mà làm. Nếu còn lung tung bị đuổi nữa thì tao sẽ sửa cho một trận hết đường chui. Hãy nhớ lấy. Mày làm tội mẹ thế đã đủ rồi. Quỷ quái! Đến đâu là gây sự đến đấy, ở chỗ nào cũng làm mang tai mang tiếng. Bây giờ thì phải thôi hẳn. Nếu làm ăn được, sang năm sẽ xin cho vào học nghề trong sở đầu máy, không có cứ ở trong bếp hàng cơm mãi với đống bát đĩa nhếch thì chẳng đời nào ra hồn con người được. Phải học lấy một nghề. Bây giờ thì còn bé quá, chưa đủ tuổi, một năm nữa sẽ xin cho mày vào, chắc người ta sẽ nhận. Còn tao đã được đổi về đây làm rồi. Mẹ sẽ thôi không đi làm nữa. Không để cho mẹ cứ phải cúi lưng trước những quân khốn nạn ấy mãi. Còn mày phải mở mắt ra, mày phải thành người mới được.

Anh nói xong, đứng dậy, với chiếc áo vắt ở lưng ghế khoác lên người và nói với mẹ:

- Con đi có việc độ một tiếng sẽ về.

Thân hình cao lớn, anh đi qua cửa phải cúi đầu xuống. Ra đến sân, anh nói vọng vào:

- Tao có mang về cho mày con dao và đôi giày. Nói mẹ đưa cho.

Hàng cơm nhà ga dọn hàng suốt ngày đêm, không lúc nào nghỉ.

Ga này có đường xe lửa đi sáu ngả. Nhà ga lúc nào cũng chật ních người, chỉ yên tĩnh độ hai, ba tiếng ban đêm, giữa hai chuyến tàu. Hàng trăm chuyến tàu quân sự tránh nhau ở đây, từ mặt trận về, hoặc đi ra mặt trận. Từ ngoài ấy, tàu chở về những con người tàn phế, thương tật đầy mình. Ra mặt trận, thì nó lại đưa đi lớp lớp thịt tươi mặc binh phục xám, những người lính không tên không tuổi.

Pa-ven làm ở hàng cơm này đã hai năm ròng. Xó bếp và chỗ rửa bát, đó là tất cả những gì Pa-ven đã thấy trong hai năm trời nay. Trong hầm rộng này, hơn hai chục người làm lụng bận tíu tít cả ngày. Mươi người bồi bàn chạy đi chạy lại từ ngoài hàng vào bếp.

Lương Pa-ven bây giờ không phải là tám rúp nữa, mà lên mười rúp rồi. Hai năm đi làm, người lớn lên, chắc ra, và nếm mùi đủ thứ công việc. Làm chân phụ bếp, người bị khói hun nửa năm trời, rồi lại bị tống ra làm chân rửa bát. Lão bếp chủ đuổi Pa-ven ra. Lão ta rất có quyền thế, chẳng ưa gì thằng bé cứng đầu cứng cổ mà lão cho là nó có thể lấy dao ghè vào răng lão, nếu lão động đến người nó. Pa-ven chỉ được cái dai sức làm quần quật, chứ không cũng bị tống ra cửa từ lâu rồi. Pa-ven làm không biết mệt, về mặt làm ăn chịu khó thì không ai bì kịp được.

Đến giờ khách ăn đông thì Pa-ven làm hăng ra trò. Hàng chồng khay bát đĩa trên tay, cứ ba chân bốn cẳng nhảy hàng bốn, năm bậc thang một, từ dưới chỗ rửa bát lên bếp, rồi lại từ bếp xuống chỗ rửa bát.

Đêm đến, khách ăn vãn, bọn bồi bàn tụ tập nhau ở dưới nhà, vào gian buồng xép cạnh bếp. Chúng thò cỗ bài ra, chơi canh bạc lớn, sát phạt nhau chí tử. Nhiều lần Pa-ven trông thấy chúng xỉa ra hàng đống giấy bạc. Pa-ven trông thấy chúng có nhiều tiền như thế chẳng lấy làm lạ. Pa-ven biết mỗi tên bồi bàn ấy vớ được mỗi ngày ba bốn chục bạc "tiền diêm thuốc" khách cho, người dăm hào, kẻ một đồng. Có tiền là chúng rượu, chè, cờ bạc. Pa-ven thấy rất ghét bọn chúng. Cậu nghĩ: "Quân khốn nạn! Anh A-rơ-chom mình, thợ nguội hạng nhất, mà cũng chỉ có bốn mươi tám rúp một tháng; mình thì mười rúp. Đồ chó chỉ có việc bày bàn mà vớ bở thế! Sẵn tiền lại nốc rượu hay nướng vào bài bạc".

Pa-ven xem bọn bồi bàn cũng như bọn chủ hàng, là lũ người xa lạ đáng ghét. "Bọn chó má ấy ở đây thì làm đầy tớ, cúi luồn thiên hạ, nhưng vợ con chúng nó ra phố thì phè phỡn như bọn nhà giàu?". Đôi khi chúng dắt vợ con đến, con chúng nó diện đồng phục học trò trung học, vợ chúng nó béo phị mỡ. Pa-ven nghĩ thầm: "Mấy thằng sắp bàn cho người ta ăn, có khi còn nhiều tiền hơn khách hàng chúng hầu đấy!". Pa-ven cũng chẳng lạ gì nữa, cả những chuyện thường xảy ra ban đêm trong các xó bếp, và các buồng xép hàng cơm. Không người đàn bà rửa bát, hay đơm món ăn nào còn làm lâu được, nếu dám từ chối không chịu bán thân lấy vài đồng rúp cho bất cứ kẻ nào có quyền thế ở đây.

Pa-ven đã nhìn sâu vào cặn đáy cuộc đời. Cậu thấy như mình nhìn vào một cái hố bẩn, mùi bùn đen cặn bã bốc lên trong khi cậu đang tuổi khao khát những chuyện mới lạ, những chuyện chưa từng biết đến. A- rơ-chom không làm thế nào xin cho Pa-ven vào học việc trong sở đầu máy xe lửa được. Người ta không lấy trẻ dưới mười lăm tuổi. Pa-ven thì chờ mong ngày thoát khỏi hàng cơm. Tòa nhà đồ sộ của sở đầu máy bằng đá ám khói thật có sức hấp dẫn đối với Pa-ven.

Pa-ven thường theo anh đi kiểm tra các toa tàu.

Cậu cố tìm ra việc làm giúp anh. Từ khi Phơ-rô-xi-a bị đuổi đi, cuộc đời càng buồn tẻ. Vắng mặt người con gái lúc nào cũng vui cũng cười, Pa-ven càng cảm thấy sâu sắc thêm tình thân giữa cậu và Phơ-rô-xi-a khăng khít biết nhường nào. Mỗi sáng, vào buồng rửa bát, không thấy Phơ-rô-xi- a, mà chỉ nghe toàn những lời la, tiếng chửi của những mụ tản cư mới vào làm, Pa-ven cảm thấy sao mà trống trải, cô đơn quá.

Vào giờ vãn việc lúc đêm khuya, Pa-ven xếp nốt củi vào lò và ngồi xổm trước cửa bếp, chớp mắt nhìn ngọn lửa, hơi ấm dễ chịu. Trong buồng rửa bát chẳng còn ai. Bất giác Pa-ven lại nghĩ đến chuyện Phơ-rô- xi-a. Cái cảnh trông thấy hôm trước, hôm nay nhớ lại rõ mồn một.

Hôm ấy cũng vào giờ này. Đêm khuya, Pa-ven lần cầu thang xuống bếp. Đến chỗ ngoặt, Pa-ven tò mò leo lên đống củi để ngó vào buồng xép xem bọn đánh bạc. Canh bạc đang gay go. Dê-li-va-nốp ngồi cầm cái, đang cay cú, mặt đỏ nhừ.

Có tiếng chân người ở cầu thang. Pa-ven quay lại: lão bồi bàn mắt lé Pơ-rô-khô-sơ-ca từ trên đi xuống. Pa ven vội vàng chui xuống gầm cầu thang chờ cho lão đi khuất vào bếp.

Pơ-rô-khô-sơ-ca đã đi khỏi chỗ ngoặt, Pa-ven nhìn thấy rõ cái lưng rộng và cái đầu to của hắn. Trên cầu thang còn có tiếng chân nhẹ của ai chạy gấp: tiếng ai quen quen:

- Bác Pơ-rô-khô-sơ-ca, cho tôi hỏi tí!

Pơ-rô-khô-sơ-ca dừng chân, quay lại, ngước mắt lên, miệng càu nhàu:

- Hỏi gì?

Tiếng chân trên cầu thang bước xuống nữa, Pa- ven nhận ra Phơ-rô-xi-a. Phơ-rô-xi-a nắm lấy tay áo lão bồi bàn, giọng thất thanh, hổn hển:

- Bác Pơ-rô-khô-sơ-ca, tiền lão quan hai đưa cho bác đâu cả rồi?

Pơ-rô-khô-sơ-ca giật tay lại, sừng sộ:

- Cái gì? Tiền à? Thế tao không đưa cho mày là gì?

- Nhưng hắn đưa cho bác những ba trăm cơ mà?

Phơ-rô-xi-a, nghẹn ngào, giọng nói run lên bần bật. Pơ-rô-khô-sơ-ca cười gằn:

- Mày nói sao, ba trăm à? Thưa bà, thế bà định xơi cả ba trăm sao? Bà không thấy là đồ rửa bát mà đòi cả ba trăm thì hơi đắt một tí hay sao? Tao cho mày năm chục là phúc rồi. Mày tưởng ngủ với mày khoái lắm đấy. Lắm bà lớn lịch sự hơn mày nhiều, lại có học hẳn hoi cũng chẳng dám đòi bằng ấy. Mày phải cảm ơn tao mới phải, ngủ một đêm với người ta mà lại còn được xơi năm chục nữa. Đừng tưởng tao là thằng ngốc. Thôi, tao thí cho thêm độ hai chục nữa. Chỉ có thế thôi, con ạ ! Nếu mày không là đồ ngốc, thì cứ thế mà làm ăn, tao sẽ che chở cho.

Nói xong, lão bồi bàn quay phắt đi, chuồn vào bếp.

- Đồ ba que, đồ khốn nạn! - Phơ-rô-xi-a chửi vào mặt nó, và gục đầu lên đống củi khóc nức nở.

Tâm hồn Pa-ven bàng hoàng, xáo động không sao tả xiết. Đứng trong bóng tối nghe hết câu chuyện, và thấy Phơ-rô-xi-a khóc nấc, đầu đập vào thanh củi, tay ghì chặt lấy cột thang sắt, Pa-ven không để lộ ra mình đứng ở đó. Một ý nghĩ rất rõ nảy ra trong óc Pa-ven: "Cả Phơ-rô-xi-a nữa cũng bị chúng bắt làm tiền, bọn khốn nạn! Phơ-rô-xi-a ! Phơ-rô-xi-a ơi !". Từ đấy lòng căm ghét của Pa-ven đối với lão bồi bàn càng lắng sâu xuống mãnh liệt thêm, mà chung quanh càng trở nên ghê tởm, đáng thù ghét: "Mình khỏe thì mình nện chết thằng súc sinh ấy ngay. Tiếc thay mình không to khỏe như anh A-rơ-chom?".

Tia lửa trong lò bốc lên và tắt đi, lập lòe, cuồn cuộn thành hình xoáy ốc xanh lơ, ngọn lửa rung rung lóe đỏ lên; nhìn lửa, Pa-ven cảm thấy như có ai thè lưỡi ra chế nhạo mình.

Gian nhà yên lặng, chỉ có tiếng củi nổ lép bép và tiếng rỏ giọt đều đều ở vòi nước.

Bếp vắng ngắt, không một ai; bếp chủ và các bếp phụ đã vào buồng móc áo nằm ngủ rồi. Yên tĩnh được ba tiếng đồng hồ. Vào giờ này, chú phụ bếp Cơ-lim- ca thường lên chơi với Pa-ven. Nó treo cái xoong cuối cùng đã đánh bóng nhoáng, rồi chùi tay, nhảy lên với Pa-ven. Đến nơi, nó thấy Pa-ven đang ngồi xổm trước lò để ngỏ. Bóng Cơ-lim-ca lù lù trên tường. Pa- ven nhận ra ngay cái bóng người đầu rối bù này. Cậu không ngoảnh lại, nói với Cơ-lim-ca:

- Ngồi xuống đây, Cơ-lim-ca !

Cơ-lim-ca leo lên đống củi nằm, nhìn Pa-ven đang lặng lẽ ngồi, vừa nói vừa cười:

- Cậu làm phù thủy gọi lửa lên đấy à?

Cơ lim-ca thôi cười ngay, vì thấy đôi mắt sáng to của bạn buồn rầu rời đống lửa quay ra nhìn mình. Trong đôi mắt bạn, lần đầu tiên Cơ-lim-ca thấy chứa đựng một nỗi buồn u uất.

- Pa-ven ơi! Hôm nay trông cậu thế nào ấy...

Lặng một lát, Cơ-lim-ca hỏi tiếp:

- Có chuyện gì thế, hở Pa-ven?

Pa-ven đứng dậy, lại ngồi bên bạn, giọng nói khe khẽ:

- Chẳng có chuyện gì cả. Mình chỉ thấy chán ngấy cuộc đời này lắm, Cơ-lim-ca ạ !

Đôi bàn tay Pa-ven vẫn để thõng trên đầu gối bỗng nắm chặt lại. Cơ-lim-ca chống khuỷu tay nhổm lên hỏi tiếp:

- Hôm nay cậu gặp chuyện gì mà sinh ra chán vậy?

- Nào phải mãi đến nay mới sinh ra chán đâu! Ngay từ hôm mới vào làm là mình đã chán rồi. Cậu thử nghĩ xem. Mình còng lưng làm như lạc đà, mà đứa nào thích miệng, thích tay cũng mắng với vả vào răng mình được.. Bị đánh, bị mắng, chẳng ai bênh mình. Bọn chủ thuê tớ và cậu đến đây làm, thế mà bất cứ đứa nào có thế lực ở đây cũng có quyền đánh chúng mình. Mình chạy ba chân bốn cẳng, làm bở hơi tai rồi, mà không thể nào vừa ý tất cả mọi đứa được. Mình đã cố làm để không ai kêu được, vậy mà vẫn có lúc chậm chân chưa kịp hầu đứa nào, thì bị nó nện cho ngay...

Cơ lim-ca sợ quá, can bạn:

- Nói khẽ chứ mày, khẽ chứ không lỡ có đứa nào vào nghe thấy.

Pa-ven chồm lên:

- Nghe thấy thì đã sao? Đứa nào có nghe thấy tao cũng cóc sợ, đằng nào tao cũng đi khỏi đây cơ mà, thà đi quét tuyết ngoài đường sắt, còn hơn chúi đầu trong xó nhà mồ này ăn ở với quân đểu giả. Thằng nào túi cũng đẫy bạc. Chúng nó coi chúng mình như trâu, như chó. Con gái ở đây thì chúng muốn làm gì cũng được. Nếu gặp người nào tử tế cưỡng lại thì chúng nó tống ngay ra cửa. Mà họ ra cửa thì mày bảo họ biết đi đâu được? Bọn chúng nó tính thâm thật: khi cho đàn bà vào làm, chúng chọn toàn người tản cư, không cửa không nhà, chết đói đến nơi cả. Họ vào làm cốt kiếm lấy mẩu bánh qua ngày, Ở đây, ít ra cũng còn có ăn. Cho nên chúng nó bắt họ làm gì họ cũng phải làm...

Pa-ven nói, giọng đầy phẫn nộ đến nỗi làm Cơ- lim-ca sợ có người nghe hết chuyện, phải nhảy xuống đóng cửa lại. Pa-ven vẫn nói như trút hết nỗi uất ức trong lòng:

- Còn đằng ấy, Cơ-lim-ca ạ, chúng nó nện cậu mà cậu cứ im thin thít. Tớ không hiểu sao cậu lại im được như thế.

Pa-ven mệt quá, ngồi phịch xuống ghế đẩu bên bàn, hai tay ôm lấy đầu, dáng điệu mệt lả. Cơ-lim- ca đùn củi vào lò và cũng ngồi lại gần bàn. Cậu hỏi Pa-ven:

- Đêm nay ta không đọc gì à?

Pa-ven trả lời:

- Không có sách. Hàng sách đóng cửa rồi.

Cơ lim-ca ngạc nhiên:

- Sao? Hôm nay là ngày lễ à?

Pa-ven đáp:

- Cảnh sát đã tóm người bán sách đi rồi. Nghe đâu bọn chúng tìm thấy có cái gì ở nhà ông ta.

- Chúng bắt ông ta rồi à? Vì sao vậy?

- Tớ nghe người ta nói ông ta bị bắt vì chuyện chính trị.

Càng sửng sốt, Cơ-lim-ca nhìn Pa-ven:

- Chính trị nghĩa là gì hở cậu?

Pa-ven nhún vai nói:

- Trời biết được! Nghe người ta nói hình như ai chống Nga hoàng thì gọi là chính trị thì phải.

Cơ-lim-ca giật nảy mình sợ sệt:

- Thế có người dám chống Nga hoàng cơ à?

Pa-ven đáp:

- Mình chẳng biết nữa.

Hai người đang nói chuyện thì cửa mở, mụ Gơ-la- sa, mặt còn ngái ngủ, bước vào buồng rửa bát:

- Lũ nhóc chúng mày sao chưa đi ngủ? Tàu chưa đến, có thể nhắm mắt được một tiếng đấy. Pa-ven, đi ngủ thôi, để tao trông lửa cho.

Chuyện bất ngờ xảy ra, kết thúc quãng đời đi làm ở hàng cơm của Pa-ven sớm hơn cậu ta đã tưởng.

Vào một ngày tháng Giêng giá rét, Pa-ven vừa tan tầm đã định về, nhưng thằng bé làm thay vẫn chưa chịu đến cho. Pa-ven đến trình mụ chủ xin về, nhưng mụ ta không cho về. Mặc dù mệt lử, Pa-ven vẫn phải làm liền hôm nữa thay cho thằng bé kia. Tối đến thì đã kiệt sức. Trong lúc nghỉ đêm, Pa-ven còn phải xách nước đổ đầy mấy nồi và đun sôi cho kịp chuyến tàu ba giờ sáng.

Pa-ven mở vòi, nước tắc không chảy. Rồi quên không khóa máy lại, Pa-ven ngả lưng trên đống củi, và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Mấy phút sau, nước lên ùng ục trong vòi, nước chảy đầy cả mặt thùng chứa nước, tràn ra sàn buồng rửa bát vào lúc này thường rất vắng vẻ không có ai. Nước cứ chảy mãi, lênh láng, ngập sàn, rồi theo kẽ cửa rỉ ra ngoài các phòng khác. Nước như suối chảy ngầm dưới những bọc hàng và va-li của hành khách lúc ấy đang ngủ. Không ai biết, mãi đến lúc nước làm ướt sũng một người khách ngủ dưới đất, người này choàng tỉnh dậy, la lên. Mọi người thức dậy, người nào người ấy nháo nhào chạy bổ đến chỗ hành lý của mình. Nhốn nháo cả lên.

Nước vẫn cứ chảy ập vào.

Pơ-rô-khô-sơ-ca đang dọn bàn ăn bên phòng thứ hai, thấy khách kêu náo động, vội nhảy qua những vũng nước, ba chân bốn cẳng chạy ra, đùng đùng mở toang cửa. Nước từ lâu bị cửa chắn ứ lại được dịp chảy ồ vào phòng như thác lũ.

Tiếng kêu la nổi lên càng dữ dội. Các bồi bàn trực nhật chạy ùa vào buồng rửa bát. Pơ-rô-khô-sơ-ca nhảy bổ tới Pa-ven còn đang ngủ say. Hắn đấm đá như mưa lên đầu thằng bé; Pa-ven tối mày tối mặt, người đau nhừ.

Bị đòn giữa lúc còn đang ngái ngủ. Pa-ven không hiểu đầu đuôi ra sao. Mắt nảy đom đóm, người nhừ đòn đau nhức nhối, cậu thất thểu lê gót về nhà.

Sáng hôm sau, A-rơ-chơm đi làm về thấy em đau, anh sa sầm nét mặt và cau mày, hỏi Pa-ven về câu chuyện đêm qua.

Pa-ven kể lại tất cả, A-rơ-chom hỏi:

- Đứa nào đánh mày?

- Lão Pơ-rô-khô-sơ-ca.

- Thôi được. Nằm yên đấy.

A-rơ-chom lấy áo da khoác lên người, chẳng nói chẳng rằng đi ra khỏi nhà.

*

Một người thợ lạ mặt đến hàng cơm nhà ga hỏi mụ Gơ-la-sa:

- Tôi muốn gặp bác bồi bàn Pơ-rô-khô-sơ-ca.

Mụ trả lời:

- Ông đợi bác ấy một tí, bác ấy sắp về đấy.

Người lạ mặt to lớn đứng dựa lưng ngáng lấy khung cửa:

- Được tôi đứng đợi đây.

Pơ-rô-khô-sơ-ca bê một chồng bát đĩa cao ngất, lấy chân ẩy cửa bước vào buồng rửa bát.

- Kìa, bác ta về kia!

A-rơ-chom tiến đến, bàn tay nặng như chì của anh túm lấy vai lão bồi bàn, nhìn thẳng vào mắt hắn, hỏi:

- Tại sao mày lại đánh thằng Pa-ven em tao?

Lão bồi bàn cố gỡ tay A-rơ-chom ra, nhưng một quả đấm trời giáng đánh hắn ngã lăn xuống sàn nhà.

Hắn lóp ngóp định bò dậy thì một quả đấm nữa, ghê hơn, làm hắn nằm chết gí như đóng đinh xuống sàn. Các mụ rửa bát hốt hoảng, vội lánh xa.

A-rơ-chom quay gót, thản nhiên bước ra cửa, Pơ- rô-khô-sơ-ca mặt đầm đìa máu, đau quá, nằm giãy trên sàn.

Tối hôm ấy, ở nhà chờ mãi không thấy A-rơ-chom đi làm về. Mẹ đi hỏi thăm: thì ra A-rơ-chom bị bắt giam ở bóp rồi.

Sáu ngày sau, A-rơ-chom được tha về nhà. Lúc ấy, mẹ đã ngủ rồi, A-rơ-chom đến bên giường Pa-ven nằm và trìu mến hỏi:

- Em có đỡ không?

Nói rồi, anh ngồi xuống cạnh Pa-ven: "Em đừng buồn, ở đời còn nhiều nỗi cay cực hơn thế nữa cơ, em ạ !". Im lặng một lát, A-rơ-chom nói thêm: "Không sao cả em sẽ đi làm ở nhà máy điện. Anh đã xin cho em. Em vào đấy làm học lấy một nghề".

Hai bàn tay Pa-ven siết chặt lấy bàn tay to tướng của anh.

Thép đã tôi thế đấy
Chương II

Như cơn gió lốc, tin ghê gớm ập vào thành phố nhỏ này: "Nga hoàng đã bị đánh đổ rồi!"

Hàng phố không ai dám tin là thật.

Nhưng rồi một hôm, có một chuyến tàu rẽ bão tuyết từ từ vào ga này. Hai sinh viên súng khoác vai áo ca-pốt vội vã từ trên tàu bước xuống, cùng với một đơn vị quân cách mạng, tay áo đeo băng đỏ. Họ bắt lũ sen đầm, lão quan năm già và tên trưởng đồn. Khi ấy hàng phố mới tin là chuyện có thật. Dân đổ ra đường đen ngòm trên tuyết trắng, hàng nghìn người kéo về phía quảng trường thành phố.

Người ta háo hức lắng nghe những tiếng mới: tự do, bình đẳng, bác ái.

Rồi những ngày náo nhiệt, sôi nổi, đầy xúc động và hân hoan qua đi. Lại bắt đầu im lặng, chỉ có khác là ở tòa thị sảnh, nơi bọn men-sê-vích và bọn đảng Bun (Đảng Xã hội Do-thái) đóng trụ sở có treo lá cờ đỏ. Thay đổi chỉ có thế thôi. Còn đâu lại vào đấy như cũ.

Vào cuối đông, một trung đoàn vệ binh kỵ mã đến đóng đồn trong thành phố. Sáng sáng, họ kéo từng trung đội lên ga chộp lính từ mặt trận Tây Nam đào ngũ trốn về.

Bọn vệ binh kỵ mã, đứa nào vóc người cũng béo tốt mặt mày nở nang. Lũ quan thì phần nhiều là bọn hoàng thân, bá tước, vai đeo ngù kim tuyến, quần có đường viền chỉ bạc, y như thời Nga hoàng, dường như chẳng có cách mạng nào xảy ra.

Đối với Pa-ven, Cơ-lim-ca và Xéc-gây con nhà Bơ- ru-giắc, dường như cũng chẳng có gì là thay đổi cả. Bọn chủ vẫn là bọn chủ cũ. Nhưng đến tháng Mười Một mưa dầm thì xảy ra chuyện gì khang khác. Có một lớp người mới đến khuấy đảo ngoài nhà ga, những người này phần lớn mới rời bỏ hầm hố ngoài mặt trận trở về. Họ mang tên kỳ lạ là "bôn-sê-vích".

Cái tên nghe chắc nịch và làm tin tưởng. Tên ấy từ đâu mà có? Chẳng ai biết cả.

Bọn vệ binh kỵ mã khó mà cản được binh lính đào ngũ. Các cửa kính ở nhà ga thường bị vỡ luôn vì súng nổ ngày một nhiều. Binh lính bỏ mặt trận từng khối đông nghịt kéo về. Khi vệ binh ra chặn, thác người mặc áo xám này liền rút lưỡi lê chống cự lại. Sang đầu tháng Chạp thì có đến hàng chuyến tàu lính đảo ngũ lũ lượt đổ về.

Vệ binh vây lấy nhà ga, tưởng đứng chắn đấy mà ngăn được thác người đang đổ về. Nhưng bọn vệ binh đã bị hàng loạt súng máy quạt vào mặt. Những người từ trên tàu đổ xuống đã từng xông pha quen với cái chết.

Những chiến sĩ mặc áo xám dồn bọn vệ binh vào trong phố, rồi lại trở ra ga, lên xe đi. Từ dạo ấy những đoàn xe từ mặt trận cứ nối tiếp nhau đổ về.
*
Mùa xuân 1918. Ngày hôm ấy, ba người bạn trẻ vừa đánh bài liên hồi kỳ trận ở nhà Xéc-gây chán, rồi tạt vào nhà Pa-ven, ngả lưng trên bãi cỏ. Buồn quá, mọi trò chơi lâu nay đều thấy chán ngấy cả rồi. Đang nghĩ xem làm cách gì hơn cho qua ngày, thì nghe có tiếng vó ngựa lộp cộp gõ trên đường phố. Một người đi ngựa hiện ra. Con ngựa nhảy phắt một cái qua rãnh cạnh đường, sát bờ rào thấp quanh vườn. Người đi ngựa vẫy roi ra hiệu cho Pa-ven và Cơ-lim-ca:

- Này, các cậu bé ơi, lại đây cho tôi nhờ tí !

Pa-ven và Cơ-lim-ca nhảy bổ ra bờ rào. Người đi ngựa mình đầy bụi; bụi đường trường đóng dày trên mũ cát-két đội hất về đằng sau, bụi chen vào kẽ những nếp quân phục. Một khẩu súng ngắn nặng và hai quả lựu đạn Đức đeo ở đây lưng to bản.

- Các cậu làm ơn cho xin hụm nước.

Trong khi Pa-ven chạy về nhà lấy nước, người lạ mặt hỏi Xéc-gây:

- Tỉnh nhà giờ trong tay ai, hở cậu em?

Xéc gây đang trố mắt chòng chọc nhìn người ấy, nghe hỏi thì vội vàng trả lời ngay, háo hức kể hết tin tức:

- Đã hai tuần nay, chẳng có chính quyền nào ở đây cả. Chính quyền của chúng tôi là dân phố tổ chức tự vệ lấy. Đêm, dân hàng phố thay phiên nhau đi gác, hết đội này đến đội khác. Còn anh là ai thế hở anh? - Đến lượt Xéc-gây hỏi lại.

Người đi ngựa tủm tỉm trả lời:

- Cậu hỏi làm gì? Còn bé mà đã muốn biết nhiều thế thì chóng già đi đấy, cậu em ạ!

Vừa lúc ấy, Pa-ven hai tay cầm ca nước từ trong nhà chạy ra.

Người đi ngựa tu ừng ực một hơi hết ca nước, trả ca lại cho Pa-ven, rồi giật cương tế ngựa phi về phía rừng thông.

Pa-ven lấy làm lạ quay hỏi Cơ-lim-ca:

- Người ấy là ai thế ?

Cơ lim-ca nhún vai đáp:

- Tao biết đâu đấy.

Ngay lúc ấy, Xéc-gây, giọng quyết đoán, nói với hai bạn ý kiến của mình về vấn đề chính trị này:

- Chắc lại sẽ có đảo chính nữa. Thảo nào tối qua nhà lão Lê-sinh-ski kéo nhau đi sạch. Mà hễ bọn giàu đã cuốn gói tếch, tức là quân du kích sắp đến rồi...

Xéc-gây kết luận chí lý quá khiến cho cả Pa-ven lẫn Cơ-lim-ca đều cho là phải ngay.

Ba thiếu niên còn bàn luận chưa xong thì tiếng vó ngựa giòn giã lại vang lên dọc đường phố. Cả ba chạy bổ ra hàng rào.

Từ cánh rừng nhỏ vòng sau nhà người chánh kiểm lâm, người và xe súng đổ ra đường cái. Gần sát lại phía đàng này có chừng mười lăm tay kỵ mã, súng đặt ngang yên ngựa. Hai người đi đầu thì một người đã có tuổi mặc áo va-rơ màu ka-ki, có thắt dây lưng, ngực đeo ống nhòm. Bên cạnh là người đi ngựa mà lũ trẻ gặp ban nãy. Trên áo va-rơ của người đứng tuổi có đính băng đỏ.

Xéc gây lấy khuỷu tay hích Pa-ven, đắc chí:

- Mày bảo tao nói có đúng không? Trông xem cái băng đỏ kia có phải là du kích không nào. Nói sai thì mắt tao nổ con ngươi. Đúng là du kích...

Và Xéc gây thích chí thét lên, nhảy qua hàng rào, nhẹ như chim trong chớp mắt đã ra đến phố.

Hai bạn chạy theo sau. Cả ba đứng trên vỉa hè, nhìn những đoàn người mới đến.

Đoàn người cưỡi ngựa lại gần. Người cưỡi ngựa đi đầu nhận ra ba thiếu niên, gật đầu chào, rồi lấy roi ngựa chỉ tòa nhà của Lê-sinh-ski, cất tiếng hỏi:

- Ai ở nhà đó thế, các em?

- Lão thầy kiện Lê-sinh-ski đấy.

Pa-ven vừa tung tăng chạy theo ngựa vừa kể:

- Lão ta đã chuồn đi hôm qua rồi. Chắc lão ta sợ các anh...

Người có tuổi mỉm cười:

- Em biết chúng ta là ai mới được?

Pa-ven chỉ mẩu băng đỏ đáp:

- Cái gì đây? Anh bảo mắt em không trông thấy cái này hay sao?

Hàng phố tủa ra đường, tò mò nhìn bộ đội đi vào phố. Ba cậu bạn vẫn đứng nguyên ở vỉa hè, mải mê ngắm những người du kích đỏ mệt nhọc, bụi bám đầy người.

Đến khi khẩu đại bác độc nhất của đơn vị đã kéo qua, lăn ầm ầm trên đường đá, những xe súng máy đã diễu đi hết, lũ trẻ lại chạy theo các anh du kích đến mãi tận trung tâm thành phố, bộ đội bắt đầu đóng quân, cả ba mới chịu rủ nhau ai về nhà nấy.

Bộ tham mưu đơn vị đóng ở biệt thự nhà Lê-sinh- ski. Tối đến, trong phòng khách lớn, bốn người ngồi quanh một chiếc bàn to, chân bàn chạm trổ, họ là ba cán bộ chỉ huy và người thủ trưởng đơn vị, đồng chí Bun-ga-cốp, một người đã có tuổi, tóc hoa râm. Bun-ga-cốp trải tấm bản đồ vùng này lên bàn, đưa ngón tay chỉ dẫn, vừa lấy móng tay vạch lên các đường sá vừa quay nói với người có gò má cao, răng bàn cuốc ngồi trước mặt:

- Đồng chí Ê-ma-sên-cơ, đồng chí bảo chúng ta nên dàn quân đánh ở đây à? Tôi thì tôi nghĩ rằng sáng mai ta cứ phải rút lui nữa. Đáng lẽ tốt hơn hết là đi ngay đêm nay, song quân ta mệt lắm rồi. Nhiệm vụ của chúng ta là rút được về tận Ca-da-chin trước khi quân Đức đến. Sức ta thế này đem ra chọi thì là chuyện thật buồn cười... Chỉ vẻn vẹn có một khẩu đại bác với ba mươi viên đạn, hai trăm lưỡi lê, sáu mươi thanh kiếm; đồng chí tưởng là lực lượng ghê lắm đấy chắc!... Quân Đức tiến, thế mạnh như dòng suối thép trút xuống. Ta chỉ có thể chiến đấu khi nào phối hợp được với những đơn vị đỏ khác cũng đang rút như ta. Với lại, các đồng chí ạ, chúng ta không nên quên rằng ngoài quân Đức ra thì trên đường ta đi còn nhiều bọn phỉ phản cách mạng đang rình nện ta nữa. Ý kiến tôi là rút lui ngay sáng sớm mai và trước khi rút, cho sập cái cầu sau ga. Quân Đức có chữa cũng phải mất hai ba ngày. Thế là mũi tiến quân theo dọc đường sắt của chúng sẽ tạm thời bị cản lại.

Bun-ga-cốp hỏi tất cả những người ngồi dự họp:

- Các đồng chí nghĩ thế nào? Ta quyết định đi thôi.

Stơ-ru-cốp, ngồi bên cạnh Bun-ga-cốp, nhằn nhằn cắn môi, nhìn bản đồ rồi nhìn Bun-ga-cốp, khó khăn lắm mới nói được những tiếng chưa ra khỏi cổ họng đã muốn tắc lại:

- Tôi thì tôi... tán... tán thành ý kiến Bun-ga-cốp...

Người trẻ nhất, mặc áo khoác công nhân, cũng đồng ý:

- Bun-ga-cốp bàn có lý.

Chỉ có Ê-ma-sên-cơ, người đi ngựa mà ban ngày bọn Pa-ven đã gặp, là lắc đầu, phản đối:

- Nếu thế thì tập hợp nên toán quân này làm quái gì? Lập nó ra để mà cứ rút hoài trước bọn Đức, không dám đánh chác gì cả à? Theo tôi, phải choảng nhau với chúng ở đây. Chạy mãi chán lắm rồi. Nếu chỉ một mình tôi, thì tôi đánh ngay tại đây.

Rồi đẩy ghế đánh sầm một cái, anh đứng phắt dậy và đi đi lại lại trong phòng. Bun-ga-cốp nhìn anh tỏ vẻ không tán thành.

- Đánh phải đánh cho có mưu, có mẹo. Ê-ma-sên- cơ ạ. Chứ còn ném quân ta vào chỗ nhất định tan tác, bị tiêu diệt thì chúng ta không thể nào làm được. Với lại làm như thế thì là ngốc quá. Địch có cả một sư đoàn có trọng pháo, thiết giáp đuổi theo sau ta. Chúng ta không phải là con nít, đồng chí Ê-ma-sên-cơ ạ.

Rồi quay nói với những người khác. Bun-ga-cốp kết luận:

- Thế là đã quyết định: sáng mai ta rút.

Bun-ga-cốp lại tiếp tục:

- Vấn đề tiếp theo là vấn đề liên lạc. Vì đơn vị ta rút sau cùng, nên nhiệm vụ ta phải tổ chức công tác ở sau lưng địch. Ở đây có ngã tư đường xe lửa quan trọng, thành phố nhỏ, nhưng có hai ga. Ta cần chọn một đồng chí nào chắc chắn, tin cậy, ở lại đây công tác. Các đồng chí đề cử người đi.

Ê-ma-sên-cơ vừa đi lại gần bàn, vừa nói:

- Theo tôi, đồng chí lính thủy Giu-khơ-rai cần ở lại đây. Thứ nhất, đồng chí ấy là người địa phương. Thứ hai, đồng chí ấy có nghề thợ nguội và hiểu cơ điện, có thể xin được vào làm máy điện. Giu-khơ-rai lại không đi cùng đơn vị ta vào đây, mãi đêm nay mới đến cho nên không lộ. Một tay thông minh, chín chắn như thế sẽ làm công việc chạy. Theo tôi, đấy là người rất hợp với công tác này.

Bun-ga-cốp gật đầu:

- Đúng lắm, đồng chí Ê-ma-sên-cơ ạ. Tôi đồng ý với đồng chí.

Nói rồi quay lại hỏi những người khác:

- Không ai có ý kiến khác chứ ? Không. Vậy thông qua vấn đề này. Chúng ta để lại cho đồng chí Giu- khơ-rai đủ tiền và tất cả giấy tờ cần thiết cho công tác. Sang vấn đề thứ ba là vấn đề cuối cùng. Đó là vấn đề giải quyết kho súng ở thành phố này. Ở đây, có kho súng hai vạn khẩu từ thời chiến tranh Nga hoàng còn lại. Hiện để ở nhà một nông dân, nhưng không ai nhớ là có kho súng ấy. Chủ nhà đã báo cáo với tôi ông ta muốn đẩy đi. Lẽ tất nhiên không thể để kho súng này vào tay bọn Đức được. Tôi có ý kiến là phải đốt đi. Đốt ngay bây giờ. Sáng là phải xong hết. Song chỉ ngại một điều: kho này ở mãi tít đầu tỉnh, giữa những khu nhà của nông dân nghèo. Đốt thì lửa có thể cháy lan sang nhà dân.

Stơ-ru-cốp người sây sát đầy sẹo, râu tua tủa tám ngày chưa cạo, xua tay phản đối:

- Sao... sao... sao lại đốt? Tôi... tôi có ý kiến là đem phát... phát súng cho dân.

Bun-ga-cốp quay phắt lại:

- Anh nói đem phát cho dân?

Ê-ma-sên-cơ thích chí kêu lên:

- Phải! Hay lắm! Chia súng cho công nhân và tất cả những ai muốn lấy cũng cho. Ý kiến cừ đấy. Chia cho dân để ít ra cũng làm bà con có gì trong tay để cọ nhau với quân Đức, nếu chúng bóp chặt quá. Mà thế nào dân đây cũng bị chúng kẹp rất chặt rồi. Kẹp quá không chịu được, là giở súng ra. Ý kiến Stơ-ru- cốp chia súng cho dân là đúng lắm. Cũng nên chia một phần về nông thôn nữa. Ai chứ nông dân nghèo thì họ sẽ cất kỹ lắm. Nếu bọn Đức định giở trò trưng thu, bòn vét thóc lúa thì lúc ấy, những "củ" súng này sẽ lợi hại ra phết.

Bun-ga-cốp bật cười. Đồng chí nói:

- Ừ thì chia súng hay thật, nhưng giặc đến thế nào cũng ra lệnh nộp súng. Thế rồi ai cũng đem nộp cả cho nó.

Ê-ma-sên-cơ phản đối lại:

- Không, không phải ai cũng đem nộp cả đâu ! Có người nộp, nhưng cũng có người giữ lại.

Bun-ga-cốp đưa mắt hỏi mọi người. Anh công nhân trẻ bênh vực ý kiến của Ê-ma-sên- cơ và Stơ-ru-cốp:

- Nên phát súng cho dân. Nên phát.

- Thế thì phát súng. Thông qua, - Bun-ga-cốp gật đầu đồng ý, rồi đứng lên nói tiếp: - Thế là mọi vấn đề đều xong. Bây giờ chúng ta có thể nghỉ đến sáng. Khi nào Giu-khơ-rai tới, bảo anh ta đến gặp tôi. Tôi sẽ nói chuyện với anh ta. Còn đồng chí Ê-ma-sên-cơ, đồng chí hãy đi kiểm tra các trạm gác xem.

Mọi người ra về, Bun-ga-cốp cũng đi sang phòng ngủ của nhà chủ ở cạnh phòng khách, trải áo ca-pốt lên nệm giường, rồi ngả lưng xuống.
*
Sớm hôm sau, Pa-ven ở nhà máy điện ra về. Đã một năm rồi, cậu làm phụ chân đất lò ở nhà máy này.

Vừa ra khỏi nhà máy Pa-ven thấy ngay hàng phố nhộn nhịp lạ thường, người gặp mỗi lúc một nhiều, mỗi người đều vác một, hai hoặc đến ba khẩu súng. Pa-ven không hiểu ra làm sao cả, rảo bước về nhà. Đến gần biệt thự Lê-sinh-ski, Pa-ven thấy những người kỵ binh đỏ anh quen hôm qua đang lên ngựa.

Pa-ven nhảy bổ vào nhà, rửa mặt mũi qua loa, hỏi mẹ, biết A-rơ-chom không có nhà, liền nhảy tót ra cửa, ba chân bốn cảng, tất tưởi chạy sang đầu đằng kia thành phố đến nhà Xéc-gây là con người phụ thợ máy xe lửa. Bố cậu ta có một căn nhà nhỏ và mấu đất con. Xéc-gây không ở nhà. Bà mẹ mặt đầy và trắng, người đẫy đà, nhìn Pa-ven lộ vẻ không bằng lòng:

- Chỉ có ma quỉ biết nó đi đằng nào. Bảnh mắt ra đã chạy rồi, thật như thằng bị động, bị dại. Hình như là người ta phát súng gì đấy. Chắc là nó đang ở đó. Cả lũ chúng mày đều đáng đánh đòn tất, đồ còn thò lò mũi mà đã thích trò đánh nhau. Chúng bay lêu lổng quá chừng rồi. Cấm sao bảo được. Một tí tuổi đầu, chưa cao hơn cái vại nước mà đã chực mó vào chuyện súng với ống. Mày gặp thằng hại cơm ấy thì bảo nó cho tao: nó mà mang một viên đạn về cái nhà này thì tao chém đầu đi. Nó nhặt đủ thứ về để tội vạ chúng tao chịu. Còn mày nữa, mày cũng định chạy đến đấy phải không?

Nhưng Pa-ven không còn nghe những lời đay nghiến của mẹ Xéc-gây nữa, mà đã cắm đầu chạy xa rồi.

Dọc đường, gặp một người đàn ông, mang hai vai hai khẩu súng, Pa-ven sán đến hỏi ngay:

- Bác lấy súng ở đâu đấy, bảo cháu với?

- Ở trên phố Véc-khô-vi-na kia. Họ đang phát.

Pa-ven ba chân bốn cẳng, cắm cổ chạy như bay. Vừa chạy qua hai phố thì đụng ngay vào một thằng bé con đang è cổ vác một khẩu súng trường nặng trịch có lắp lưỡi lê. Pa-ven hỏi nó:

- Mày vớ được ở đâu đấy?

- Anh bộ đội phát ở trước cửa trường học ấy. Nhưng giờ thì chẳng còn gì đâu, người ta lấy hết rồi. Phát suốt đêm rồi còn gì. Giờ đến chỉ còn hòm không.

Và nó vênh mặt khoe:

- Tao lấy chiếc này là chiếc thứ hai.

Tin ấy làm cho Pa-ven nghe đến rụng rời: "Mình thật khỉ, đáng lẽ chạy thẳng đến đó ngay lại còn rẽ về nhà. Thế là nhỡ tàu rồi".

Bỗng chợt nghĩ ra điều gì, Pa-ven quay phắt trở lại nhảy ba bước đuổi theo thằng bé kia, ra sức giằng lấy súng ở tay nó và nói giọng rất trịch thượng:

- Mày đã có một khẩu, đủ rồi. Khẩu này để tao.

Ban ngày ban mặt mà bị cướp trên tay, thằng bé hầm hầm xông vào Pa-ven, nhưng Pa-ven đã lùi lại rất nhanh, chĩa lưỡi lê ra, thét lên:

- Lùi lại, không ông đâm ngay!

Thằng bé kia ức quá phát khóc và vừa bỏ chạy, vừa chửi cho hả giận. Còn Pa-ven thì thỏa chí quá, rồi phi một mạch về nhà. Cậu nhảy qua rào, chạy thẳng xuống nhà dưới, giấu khẩu súng cướp được lên mái nhà, rồi bước lên nhà trên, vừa đi vừa vui vẻ huýt sáo.
*
Những buổi tối mùa hè vùng U-cơ-ren, ở những thị trấn nhỏ như Sê-pê-tốp-ca này thật là đẹp. Trung tâm là phố xá nhỏ và ngay ngoại ô đã là thôn quê rồi.

Những buổi tối mùa hè êm đềm này, tất cả thanh niên ở đây đều kéo ra đường chơi. Con trai con gái túm năm tụm ba hay từng đôi, ngồi trên thềm nhà, trong vườn, đứng ở giậu cây, hay ngồi ngoài đường, trên những thanh gỗ xếp đống sắp làm nhà. Tiếng cười tiếng hát vang lên khắp nơi.

Khí trời ban đêm run rẩy, ngào ngạt mùi hoa thơm. Trên vòm trời cao thăm thẳm, sao lấp lánh trông y như những con đom đóm. Vào những lúc như thế này, tiếng nói, tiếng hát vọng đi xa lắm...

Pa-ven mê đàn gió (ác-coóc đê ông). Cậu trìu mến bế chiếc đàn vào lòng tỳ lên gối, ngón tay nhẹ nhàng lướt trên hàng phím, lên xuống nhanh thoăn thoắt; tiếng đàn gấp đổ hồi. Những tiếng trầm ngân dài và đàn cất lên một khúc nhạc say sưa chan chứa nhiệt tình và huyết khí.

Hộp đàn mở ra rồi kéo vào, uốn khúc như sóng lượn. Nghe tiếng nhạc, chân không thể không cuốn vào bước nhảy. Không chịu được, chân ai ai cũng giậm giật, cựa quậy. Tiếng đàn rộn lên hơi thở nóng hổi: sống trên đời mới thú làm sao!

Tối nay càng vui hơn mọi tối. Đám thanh niên thích cười đùa đã tụ tập nhau trên đống gỗ xếp gần nhà Pa-ven. Tiếng Ga-lốt-sơ-ca, cô gái nhà hàng xóm, nói to nhất. Giọng cô rất ấm, rất trầm và mượt như nhung. Người con gái ông thợ làm đá ấy vốn thích nhảy, thích hát với những gã con trai.

Pa-ven thì hơi kiềng cô ta. Vì cô bạo mồm bạo miệng lắm. Cô đang ngồi ngay cạnh Pa-ven, cùng trên một tấm gỗ, tay ôm lấy ngang lưng Pa-ven, khít chặt vào lòng và cười sằng sặc:

- Hãy nghe tôi nói, tay đàn cừ khôi của tôi ơi! Thật đen đủi cho tôi là cậu còn măng sữa quá. Không thì cậu đã thành người chồng xinh xinh của tôi rồi. Tôi rất cảm những tay chơi nhạc. Gặp con nhà nhạc là lòng tôi say mê mềm nhũn ra.

Pa-ven thẹn đỏ chín mặt; may mà trời tối, không ai thấy mình xấu hổ. Pa-ven muốn lủi xa cô gái tinh nghịch, song Ga-lốt-sơ-ca ghì khỏe, giữ chặt lại.

Cô ta cười nhí nhảnh:

- Mình đừng chạy, mình yêu mình quý của em. Rõ chồng gì chồng lạ thế này!

Pa-ven cảm thấy vai mình ép vào cặp vú xinh rắn chắc của Ga-lốt-sơ-ca, cậu thấy ngài ngại và trong người rạo rực thế nào ấy. Chung quanh là tiếng cười ngặt nghẽo vang động cả phố xá vốn im lìm.

Pa-ven lấy tay đẩy vai Ga-lốt-sơ-ca để gỡ ra, miệng nói:

- Chị xê ra chứ chị! Làm người ta không kéo đàn được nữa.

Và mọi người lại cười ầm lên, nói đùa, nói giỡn, chọc Pa-ven.

Ma-ru-xi-a chêm vào:

- Pa-ven chơi cho chúng mình một bài nào thật buồn, thật não nuột tâm hồn.

Và từ từ chiếc đàn lại kéo giãn ra, ngón tay nhẹ nhàng lướt trên phím. Đàn chơi khúc nhạc quen thuộc mà ai cũng thích. Nhạc vừa cất lên, Ga-lốt-sơ-ca hát trước. Ma-ru-xi-a và tất cả mọi người cùng hát theo:

Đoàn người kéo gheVề chốn quê nhà,Thú vị làm saoÊm ái làm saoĐược ca lên tiếng thở than...

Tiếng hát của tuổi trẻ cất vang lên, vọng đi xa đến tận khu rừng.

Bỗng có tiếng gọi: "Páp-ca!".

Đấy là tiếng A-rơ-chom.

Pa-ven gấp đàn gió lại, gài dây vào:

- Có người gọi, tôi phải về đây!

Ma-ru-xi-a khẩn khoản nài Pa-ven rốn lại:

- Ngồi lại chơi một tí nữa, rồi hãy về cũng còn kịp chán.

Nhưng Pa-ven đang vội.

- Thôi, để đến mai. Bây giờ phải về, anh tôi gọi.

Pa-ven vụt qua phố chạy về nhà.

Mở cửa bước vào, Pa-ven thấy ngồi ở bàn với anh A-rơ-chom có bác Rô-man cùng làm một chỗ với anh và một người thứ ba nữa mà Pa-ven không quen, Pa- ven hỏi anh: "Anh gọi em?"

A-rơ-chom hất hàm về phía Pa-ven và nói với người lạ mặt:

- Thằng em tôi đấy!

Người lạ mặt chìa bàn tay gân guốc ra bắt tay Pa-ven.

A-rơ-chom nói với em:

- Pa-ven này, mày nói ở sở là mày làm người thợ máy bị ốm có phải không? Mai mày thử hỏi xem sở nó có lấy người biết máy vào thay chân không nhé. Nếu họ cần người thì chạy về nhà bảo tao.

Người lạ mặt ngắt lời:

- Thôi, để ngày mai tôi cùng đi với cậu em. Tôi sẽ tự nói thẳng với chủ.

Pa-ven bây giờ đã hiểu ra tại sao anh gọi mình về:

- Nhà máy nó đang cần thợ lắp máy điện thật, các anh ạ. Vì bác Stăng-cô-vích vẫn làm bị ốm, phải nghỉ, cho nên hôm nay cái máy không chạy được. Bác ta bị thương hàn. Chính chủ phải xuống đứng máy hai lần. Họ đang tìm người thay mà chưa có. Có một mình người đốt lò thôi, họ không dám cho máy chạy.

Người lạ mặt nói: "Nếu vậy thì việc chu rồi" và anh quay lại phía Pa-ven:

- Mai anh sẽ đến đón em cùng đi đến sở nhé.

- Vâng

Pa-ven bắt gặp cặp mắt bác ta: cặp mắt màu tro, bình tĩnh, nhìn thẳng vào Pa-ven không chớp, khiến cậu hơi chùn. Chiếc áo bác ta màu xám, cúc cài suốt, kéo căng bó lấy cái lưng rộng, chắc nịch, chiếc áo trông chật cứng. Bác ta vai và đầu khít nhau, cổ như cổ trâu, thân hình vạm vỡ, sức khỏe có dư như một cây gỗ sến cổ thụ rắn rỏi và bám chắc rễ.

Khi tiễn chân bác ta, A-rơ-chom nói:

- Anh Giu-khơ-rai, việc thế là tạm ổn, anh nhỉ. Mai mời anh lại đi với em nó đến sở và lo việc ấy cho xong.
*
Bộ đội đỏ đi được ba hôm thì quân Đức kéo vào thành phố. Lúc chúng đến, một hồi còi xe lửa rú lên ở nhà ga mấy hôm nay vốn bỏ trống. Tin lan khắp tỉnh: Quân Đức đến!

Phố xá rối lên như một tổ kiến bị động, tuy từ lâu dân phố đã biết thế nào bọn Đức cũng kéo đến. Biết vậy nhưng sao cũng chẳng ai muốn tin cả. Thế mà bọn giặc Đức đáng ghê sợ ấy hôm nay chẳng còn đâu xa nữa, chúng đã ở ngay trong phố rồi.

Dân phố nem nép sau hàng rào nhà mình đứng nhìn, không dám bước chân ra đường.

Bọn Đức hành quân làm hai hàng dọc, cứ men theo rìa đường mà đi để mặt phố vắng không người. Chúng mặc quần áo xanh sẫm, tay lăm lăm chĩa súng ra đằng trước, lưỡi lê to bản như dao, cắm vào đầu súng, mũ sắt nặng trịch úp sụp lấy đầu, ba-lô đi trận nặng trĩu vai. Chúng đi từ ga vào phố, hàng quân dài liên miên, mắt chúng gờm gờm có vẻ sẵn sàng dập tắt mọi sức kháng cự, tuy chẳng ai nghĩ đến kháng cự chúng cả.

Hai tên sĩ quan đi đầu, súng ngắn kiểu Mô-de trong tay. Giữa đường phố là tên trùm hội tề đội mũ lông, mặc quần áo U-cơ-ren màu xanh, đi theo chúng làm phiên dịch.

Lính Đức xếp hàng thành đội hình vuông vắn trong quảng trường trung tâm thành phố. Tiếng trống nổi lên. Một đám nhỏ dân phố đã hơi hoàn hồn, tụ tập nhau lại. Đứng trên bậc cửa một hiệu bào chế, tên trùm hội tề đọc to bản mệnh lệnh của tên quan tư Coóc-phơ, tư lệnh quân quản thành phố.

BỐ CÁO DÂN CHÚNG

Điều thứ nhất. - Bản chức ra lệnh cho toàn thể dân phố trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ phải đem nộp hết vũ khí, cả súng lẫn kiếm và dao găm. Ai trái lệnh sẽ bị xử bắn.

Điều thứ hai. - Nay hạ lệnh giới nghiêm thành phố. Từ tám giờ tối trở đi, cấm ngặt không được đi lại ngoài đường.

Tư lệnh quân quản thành phốKý tên: thiếu tá COÓC-PHƠ

Bộ tư lệnh giặc Đức chiếm tòa thị sảnh vốn trước là trụ sở của Xô-viết công nhân lúc mới khởi nghĩa. Ngoài cửa có tên lính gác không đội mũ sắt mà đội mũ lưỡi trai có phù hiệu con điều hâu to tướng. Sân gần nhà thì lấy làm nơi chứa vũ khí dân đem nộp.

Suốt ngày, có những người vì sợ tội tử hình nên đem súng nộp. Người lớn không ló mặt ra, thiếu niên và con trẻ mang súng đến nộp. Bọn Đức không bắt giữ ai lại.

Ai không muốn đến kho nộp súng thì thừa lúc đêm tối, vứt phứa ra đường cái. Sáng hôm sau, lính Đức đi tuần nhặt đưa lên xe chở về bộ tư lệnh.

Đến một giờ trưa hết hạn nộp súng, bọn lính Đức kiểm kê số súng đã thu được là một vạn bốn nghìn khẩu. Thế là thiếu đâu sáu nghìn khẩu không nộp cho bọn Đức. Chúng liền tức tốc đi khám xét hàng loạt nhà dân, nhưng kết quả chẳng có mấy.

Tang tảng sáng hôm sau, có hai người thợ xe lửa bị chúng bắn chết gần nghĩa địa Do-thái ở ngoài thành phố. Chúng đã khám thấy súng trong nhà các anh.

Nghe đọc bản bố cáo xong, A-rơ-chom cấp tốc trở về nhà. Gặp Pa-ven ngoài sân, anh liền nắm lấy vai em, khẽ hỏi gặng:

- Mày có rước khẩu nào ở kho súng về nhà không?

Pa-ven chực không nói ra, song không bụng nào nói dối anh được, bèn thú thật hết cả.

Hai anh em đi xuống nhà dưới. A-rơ-chom với lấy khẩu súng giấu trên xà nhà, tháo quy-lát và lưỡi lê ra, rồi nắm chắc nòng súng giáng mạnh vào cột rào. Báng súng gẫy tan, A-rơ-chom ném ra ngoài bãi hoang, còn quy-lát và lưỡi lê thì quẳng vào chuồng xí.

Làm xong đâu đấy, A-rơ-chom quay lại bảo em:

- Mày không còn bé bỏng gì nữa, Pa-ven ạ. Mày phải hiểu là không đùa với súng được đâu. Tao nói thật cho mày biết: chớ có mang gì về nhà. Mang về thì có thể mất mạng đấy. Đừng làm gì che mắt tao, không rồi cứ mang về, nhỡ nó khám thấy ở nhà này thì nó bắn tao trước tiên. Chứ mày là lỏi con, nó chẳng thèm đụng đến đâu. Thời buổi này là thời buổi chó má, mày hiểu chưa?

Pa-ven hứa không dám mang gì về nhà nữa.

Lúc hai anh em vừa đi qua sân vào nhà thì thấy có xe ngựa đỗ trước cổng nhà Lê-sinh-ski. Lão thầy kiện, vợ nó và hai đứa con - Nen-ly và Vích-to - bước xuống xe.

- Lũ quạ đã dẫn xác về rồi kìa! Lại sắp sửa giở giói, lên mặt! Quỷ tha ma bắt chúng mày đi!

A-rơ-chom nói lầm bẩm một cách hằn học và bước vào nhà.

Suốt ngày, Pa-ven ngẩn ngơ tiếc khẩu súng. Giữa lúc ấy thì bạn nối khố của Pa-ven là Xéc-gây đang ra sức hì hục lấy mai đào đất ở chân tường một cái nhà cũ bỏ hoang. Cuối cùng, đào được một cái hố. Xéc-gây đặt vào hố ba khẩu súng mới nguyên quấn giẻ bao kín. Đấy là ba khẩu súng cậu lĩnh được lúc người ta phát. Cậu không muốn đem nộp cho bọn Đức. Thao thức suốt một đêm trường không phải là để chốc lát bỏ mất món của vừa được ấy.

Lấp hố xong, Xéc-gây dận dận đất, rồi kéo một đống rác cũ phủ lên. Xem xét lại kỹ càng công việc mình vừa làm đâu đấy, thấy đã vừa ý rồi, cậu lật mũ lưỡi trai ra và lau mồ hôi trán: "Bây giờ ông cho tha hồ chúng mày tìm. Mà có thấy nữa thì đây là nhà vô chủ. Mình giấu không ai biết, không ai trông thấy!"
*
Pa-ven dần dần quen thân với người thợ lắp máy dáng dấp bề ngoài có vẻ nghiêm khắc ấy. Đến một tháng rồi, hai người cùng làm với nhau ở sở máy điện.

Giu-khơ-rai chỉ bảo cho cậu bé phụ đốt lò hiểu máy phát điện chạy như thế nào và rèn nghề cho cậu.

Người thủy thủ xem chừng rất ưa chú bé linh lợi. Những ngày nghỉ, Giu-khơ-rai thường năng lại chơi nhà A-rơ-chom.

Người lính thủy chín chắn, trầm ngâm này chăm chú kiên nhẫn nghe hết chuyện kể về tình cảnh gia đình này, nhất là khi bà mẹ than phiền về tính nghịch ngợm của Pa-ven. Anh biết từ từ khuyên giải, làm bà cụ quên mọi nỗi bực bội và lại phấn chấn trong lòng.

Một hôm, gặp Pa-ven ở sân sở máy điện, giữa những đống củi gỗ, Giu-khơ-rai nắm lại và mỉm cười nói:

- Bu em kể chuyện là em thích đánh nhau lắm, "thằng cháu nhà tôi tính nó hung hăng như con gà sống". - Giu-khơ-rai cười một cách độ lượng: - Kể thích đánh nhau cũng chẳng có hại gì. Song phải biết là mình cần đánh ai, và tại sao phải đánh.

Không hiểu anh ấy nói đùa hay nói thật, Pa-ven cãi lại:

- Em chẳng có đánh nhau lung tung đâu, anh ạ. Bao giờ cũng có lẽ phải em mới đánh.

Bỗng người lính thủy hỏi đột ngột:

- Em có muốn anh dạy em đánh nhau đúng võ không?

Pa-ven sửng sốt hỏi lại:

- Thế nào gọi là đánh đúng võ?

- Rồi em sẽ biết.

Và Pa-ven lần đầu tiên trong đời chăm chú theo một bài học ngắn về quyền Anh.

Học môn này cũng hắc lắm, song Pa-ven mau thông lạ lùng. Bao nhiêu lần cậu bị quả đấm của Giu-khơ- rai giáng cho ngã bổ ngửa ra đất. Song Pa-ven không vì thế mà nản, học rất chăm và rất chịu khó.

Một ngày rất oi bức, Pa-ven vừa ở nhà Cơ-lim-ca về đang đi đi lại lại trong nhà. Không biết làm gì, Pa-ven định trèo lên nóc chòi ở góc vườn, khuất sau nhà, ngồi chơi. Chỗ này Pa-ven vẫn thường thích đến. Tạt qua sân, vụt vào vườn, đến một cái chuồng xây bằng ván xếp, cậu theo bậc gỗ leo lên mái nhà. Luồn qua những cành cây anh đào phủ um tùm trên nóc, Pa-ven trườn ra giữa mái, nằm bò ra phơi nắng.

Cổng chòi một bên trông ra vườn nhà Lê-sinh-ski, chỉ bò ra mép mái là nhìn rõ tất cả khu vườn và chái bên nhà bọn lính Đức đóng, Pa-ven thò đầu ra và thấy khoảng sân lớn có xe ngựa đỗ. Cậu trông rõ cả tên lính hầu đang chải quần áo cho thằng quan hai Đức đóng ở nhà Lê-sinh-ski. Pa-ven đã nhiều lần thấy mặt tên trung úy này ở cổng nhà lão Lê-sinh-ski.

Lão quan béo ụt ịt, má đỏ, mép có tí râu vểnh xén ngắn. Lão mang kính kẹp ở mũi, đội mũ cát-két có vành sơn bóng. Pa-ven biết lão ta ở buồng bên có cửa sổ trông ra vườn; nằm trên mái nhà, nhìn vào buồng lão rõ mồn một.

Lão quan ngồi vào bàn viết lách, viết xong rồi thì cầm lá thư đi ra. Lão đưa phong thư cho tên lính hầu, rồi bước vào lối vườn đi đến gần hàng giậu sắt. Đến chỗ giàn cây, lão ta dừng lại nói chuyện với ai. Té ra là con Nen-ly nhà lão Lê-sinh-ski ở bụi cây đi ra. Lão khoác tay nó bước lại cổng, rồi cả hai đứa cùng đi ra phố.

Pa-ven đã theo dõi từng li, từng tí cả cái cảnh đó, sắp thiu thiu ngủ thì chợt thấy thằng lính hầu bước vào buồng tên quan. Nó treo bộ quần áo của tên quan lên mắc, mở cửa sổ trước vườn, dọn buồng xong, rồi trở ra khép cửa lớn lại. Ngay sau đó, Pa-ven thấy nó đến trước chuồng ngựa.

Qua cửa sổ bỏ ngỏ, Pa-ven nhìn rõ cả gian buồng. Trên bàn có chiếc thắt lưng da và một vật gì sang sáng nữa. Vật gì thế?

Pa-ven tò mò, háo hức muốn biết quá, bèn từ mái nhà chuyền sang cây anh đào và tụt xuống vườn nhà lão Lê-sinh-ski. Cậu cúi rạp người xuống, chạy lom khom mấy bước thì tới khung cửa sổ bỏ ngỏ. Nhìn vào thì té ra trên bàn là cái dây da có quai đeo kiếm và cái bao để mở trong có khẩu súng ngắn mười hai phát rất choáng kiểu "Man-li-khe".

Pa-ven nghẹn thở. Trù trừ một lát, đấu tranh trong đầu đến mấy giây, nhưng rồi cậu đâm bạo gan một cách lạ lùng, nhoài người lên thành cửa sổ, vớ lấy bao da, móc khẩu súng mới tinh, bóng lộn màu nước thép ngả nâu, rồi nhảy tót ra vườn ngay. Ngó nhìn chung quanh, bốn bề không có ai, cậu cẩn thận nhét súng vào túi quần và chạy vụt qua vườn đến cây anh đào. Pa-ven trèo lên mái nhà thoăn thoắt, nhanh như khỉ. Quay lại nhìn: tên lính hầu vẫn bình thản nói chuyện với tên bồi ngựa. Trong vườn vẫn yên tĩnh... Pa-ven từ trên mái nhà tụt xuống và chạy biến vào nhà.

Mẹ đang bận làm cơm dưới bếp không để ý gì đến con.

Vớ ở sau chiếc hòm một mảnh giẻ lớn, nhét vào túi, Pa-ven lẻn ra cửa, băng qua vườn, rồi leo qua hàng rào, ra đường cái đưa thẳng đến rừng. Khi chạy, khẩu súng nằm trong túi quần thích vào đùi đau điếng người, Pa-ven cứ một tay giữ khẩu súng, cắm cổ phóng như bay tới chỗ lò gạch cũ bỏ hoang.

Cậu chạy nhanh quá, chân chỉ hơi bén đất, gió vù vù bên tai.

Chỗ lò gạch cũ này vắng tanh vắng ngắt. Mái nhà bằng gỗ nhiều chỗ xiêu vẹo, những đống gạch vỡ và những lò hoang tàn, đượm vẻ buồn tênh. Cỏ dại mọc lút khắp nơi. Chỉ có tay ba bọn Pa-ven là thỉnh thoảng đến đây chơi thôi. Pa-ven biết nhiều ngóc ngách có thể giấu của quý vừa mới vớ được.

Đi vào chỗ lỗ sạt ở ngang lò, Pa-ven ngoái nhìn lại cẩn thận xem có ai theo mình không, nhưng đường vắng tanh. Chỉ có tiếng thông reo nhè nhẹ, gió vờn cuốn từng cơn bụi ngoài đường cái. Mùi nhựa thông bốc lên thơm phức.

Pa-ven đặt khẩu súng bọc giẻ vào một góc tận đáy lò rồi lấy gạch cũ chồng lên thành tháp cao ngọn.

Khi ra, Pa-ven còn lấy gạch tọng kín cửa lò lại, nhìn kỹ để nhớ dấu gạch xếp, rồi trở ra đường cái, thủng thẳng bước về.

Đầu gối Pa-ven hơi run.

"Chuyện này rồi sẽ ra sao nhỉ?" Pa-ven nghĩ thầm thế, tim thắt lại, lo lắng.

Pa-ven đến sở rất sớm để tránh khỏi có mặt ở nhà.

Cậu lấy chìa khóa ở người gác cổng mở cửa lớn buồng máy. Cậu lau chùi tấm lưới sắt trong lò, đổ nước vào nồi súp-de và đốt lửa. Vừa làm, cậu vừa nghĩ ngợi: "Không biết lúc này ở biệt thự Lê-sinh-ski ra sao nhỉ?".

Khoảng mười một giờ trưa, Giu-khơ-rai đến tìm Pa-ven, kéo ra sân, và hỏi nhỏ:

- Tại sao hôm nay chúng nó đến khám nhà em thế ?

Pa-ven giật nảy mình, lo sợ:

- Khám nhà em à?

Sau một lát im lặng, Giu-khơ-rai nói thêm:

- Ừ, chuyện chẳng lành. Em có biết nó khám gì thế không?

Pa-ven biết rõ vì sao chúng khám, song không dám nói đến việc lấy trộm súng với Giu-khơ-rai. Lo run người, Pa-ven hỏi thêm:

- Anh A-rơ-chom em có bị bắt không, anh?

- Không ai bị bắt cả, nhưng chúng lục lọi tứ tung khắp nhà.

Nghe nói thế, Pa-ven cũng thấy nhẹ người hơn, song vẫn còn lo. Mấy phút trôi qua, Pa-ven và Giu- khơ-rai mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình. Pa-ven biết nguyên nhân tại sao nhà mình bị khám, cho nên càng lo lắng đến kết quả có thể xảy ra. Còn Giu-khơ-rai không biết chuyện đó nên càng ra sức đề phòng.

Giu-khơ-rai nghĩ bụng: "Quái thật! Có lẽ chúng nó đã đánh hơi được gì về mình chắc? A-rơ-chom có biết gì về mình đâu. Vậy thì tại sao nó lại nhè đúng nhà cậu ta mà khám. Phải dè chừng, cẩn thận hơn nữa mới được".

Hai người lặng lẽ rời nhau về chỗ làm của mình.

Trước đấy một lúc, bên biệt thự nhà Lê-sinh-ski ầm ĩ cả lên.

Lão quan hai không thấy súng, gọi tên lính hầu vào hỏi. Khi đã biết là súng bị mất rồi, thì thằng quan, vốn là người xử sự lịch thiệp, kiềm chế được mình, hôm nay cũng không nén được nữa, đánh túi bụi vào mang tai tên lính. Y ngã giúi xuống, lóp ngóp bò dậy, đứng nem nép, tay sờ mép quần, mắt chớp chớp, cúi đầu chờ trận đòn khác.

Lão thầy kiện Lê-sinh-ski bị gọi đến hỏi cũng cáu lắm và xin lỗi tên quan hai rối rít: nó rất khổ tâm vì chuyện bực mình này đã xảy ra trong nhà nó.

Thằng Vích-to, con trai lão, có mặt ở đấy, liền đoán phỏng ngay là có thể bọn hàng xóm lấy cắp súng, nhất là thằng bé du côn Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa- ghin lại càng đáng nghi lắm. Lão bố vội hót với tên quan hai ý kiến của con, cho nên lão quan lập tức ra lệnh gọi một đội tuần tra đi khám.

Cuộc khám xét chẳng kết quả gì. Câu chuyện lấy súng làm cho Pa-ven tin rằng ngay cả những việc làm rất liều đôi khi cũng vẫn trôi chảy.

Thép đã tôi thế đấy
Chương III

Tô-nhi-a đứng trước cửa sổ mở rộng. Cô đưa cặp mắt chán ngán nhìn xuống vườn nhà, nhìn những cây bạch dương quanh vườn mảnh dẻ rung rinh trong gió nhẹ. Cái vườn trông quen thuộc quá. Cô khó mà tưởng được mình xa nhà thế mà đã một năm rồi. Cô có cảm tưởng như mình mới từ giã những nơi quen biết từ thuở bé này chỉ mới hôm qua thôi và sáng nay lại đi tàu sớm trở về nhà.

Không có gì thay đổi cả: những khóm dâu tây vẫn tỉa xén kỹ, lối đi trong vườn vẫn thẳng tắp, như lấy thước mà kẻ, hai bên vẫn trồng giống hoa tử lan mà mẹ Tô-nhi-a rất ưa. Chỗ nào cũng nhìn thấy bàn tay thích bày vẽ rởm của nhà kiểm lâm uyên bác. Và Tô- nhi-a nhìn những lối đi kẻ thẳng sạch trơn quá ấy thấy chán mắt.

Tô-nhi-a lấy quyển truyện đọc dở, mở cửa thông ra hàng hiên, đi qua vườn, đẩy cánh cửa nhỏ có quét sơn, rồi lững thững đi về phía hồ nhà ga gần cột chứa nước.

Qua cái cầu nhỏ, cô đi ra đường cái đẹp như một lối đi trong vườn. Bên phải là hồ, quanh bờ trồng dương liễu và một vườn thùy liễu rậm rạp. Bên trái bắt đầu khu rừng.

Tô-nhi-a định đến chỗ mỏ đá cũ, nhưng, chợt nhìn thấy một chiếc cần câu đang rung rung mé dưới một lùm cây ven hồ, cô liền dừng bước.

Leo lên đứng níu một cây liễu cong, cô lấy tay vạch cành liễu ra thì thấy một cậu da mặt rám nắng, chân đi đất quần xắn quá đầu gối. Bên cạnh có một hộp đựng mồi bằng sắt tây gỉ. Cậu ta mải câu cá, không để ý đến Tô-nhi-a đang nhìn chằm chặp vào mình:

- Ở đây cũng có cá cơ à?

Pa-ven bực mình quay lại.

Một cô gái không quen biết, đứng níu lấy thân cây liễu đang cúi sát xuống mặt nước. Cô ta mặc áo trắng kiểu lính thủy, cổ viền xanh có vạch trắng, váy ngắn màu xám sáng, tất kẻ sọc khít vào đôi gót chân thon nhỏ rám nắng, giày xinh xinh màu hung. Làn tóc màu hạt dẻ tết thành búi trong chiếc mũ cói to vành.

Tay Pa-ven cấm cần câu hơi run lên, cái phao bằng lông ngỗng chúi đầu một cái, làm nổi nhũng làn sóng khoanh tròn chạy tỏa ra trên mặt nước gờn gợn. Tiếng ai ở phía sau kêu lên hồi hộp:

- Cắn câu rồi ! Anh trông, cá cắn câu...

Pa-ven luống cuống giật mạnh cần câu. Nước bắn tung tóe mà chỉ thấy lưỡi câu quay quay với cái mồi không.

"Chà ! Bữa nay đi câu xúi quầy. Quỷ xui con bé đến ám mình !" Pa-ven phát cáu nghĩ vậy, và để giấu nỗi lúng túng, cậu lại ném câu ra xa, giữa hai đám bèo tai trâu, chính chỗ ấy lại không nên ném câu vào vì lưỡi câu dễ mắc vào rễ cây.

Pa-ven không buồn quay lại, môi mím chặt, nói càu nhàu về phía cô gái đang ngồi ở trên kia:

- Cô đứng trên nói léo nhéo cái gì thế ? Làm chạy hết cá của người ta.

Câu trả lời đốp ngay xuống có vẻ chế giễu:

- Nhưng cá nó chạy từ lâu rồi. Cái bộ anh câu thế cũng đủ làm nó chạy hết. Với ai lại đi câu cá giữa trưa như thế này? Không biết câu cũng đòi câu!

Từ nãy đến giờ Pa-ven cũng định giữ mồm giữ miệng cho lịch sự, song bây giờ không nhịn được nữa. Cậu đứng vùng dậy, kéo sụp mũ xuống trán, tính cậu hễ cáu là làm như thế, rồi cố chọn những tiếng nhã nhặn nhất:

- Cô làm ơn ra chỗ khác đứng cho ạ.

Mắt Tô-nhi-a hơi nheo lại, thoáng nụ cười tinh nghịch:

- Tôi làm rầy anh lắm có phải không?

Giọng nói nghe không có vẻ chế nhạo nữa mà thân mật muốn làm lành. Pa-ven đang sắp sửa nói cục cằn với "cô ả" không biết từ đâu đến này, nghe cô ta nói thế cũng khống cáu được nữa.

- Thôi, cô muốn xem thì cứ xem, chỗ rộng ai muốn đứng đâu thì đứng.

Pa-ven ngồi xuống, và lại nhìn phao. Bấy giờ phao cứ quanh quẩn trong đám bèo: chắc là mồi móc vào rễ bèo rồi. Cậu do dự không dám kéo lên.

"Nếu mắc thì không còn cách nào rút về nữa. Chắc con bé kia thế nào cũng sẽ lại cười mình. Mình chỉ mong nó xéo đi cho rảnh".

Pa-ven nghĩ bụng thế. Nhưng Tô-nhi-a đã ngồi gọn trên thân liễu cong đang lắc lư, đặt sách lên gối, rồi bắt đầu chăm chú nhìn cậu bé mắt đen, da rám nắng kia. Cậu ta đã tiếp đón cô chẳng niềm nở mấy và bây giờ lại làm ra bộ không chú ý gì đến cô cả.

Pa-ven nhìn xuống mặt nước, thấy in rõ bóng người con gái đang ngồi. Cô ta cứ đọc sách còn Pa-ven từ từ gỡ dây câu bướng bỉnh về. Chiếc phao chìm dưới nước: dây mắc rễ kéo không ra. "Lưỡi câu khốn kiếp lại mắc mất rồi?". Pa-ven liếc nhìn thấy dưới mặt nước hơi gợn sóng có bóng người mỉm cười chế nhạo.

Hai gã thanh niên, học trò lớp bảy, đi qua cầu, cạnh cột nước. Một đứa là con lão kỹ sư quản đốc sở đầu máy xe lửa tên là Xu-khác-cô; hắn năm nay mười bảy tuổi, to xác nhưng ngô nghê và nổi tiếng vì tính đểu giả. Tóc hắn hơi vàng hoe, mặt đầy tàn nhang. Ở trường, bạn bè thường gọi chế hắn là thằng "Sua- ca rỗ mặt". Đi bên cạnh hắn là thằng Vích-to, con lão Lê-sinh-ski, õng ẹo y như con gái. Thằng Xu-khác- cô tay cầm một chiếc cần câu rất sang, miệng phì phèo thuốc lá. Hắn ghé vào tai thằng Vích-to vừa nói, vừa nháy:

- Tao vẫn bảo mày là con bé nó ngon như một thứ nho hộp ấy, ở đây cấm con nào bì với nó được. Rất lãng mạn nhớ. Nó học lớp sáu ở Ki-ép. Hiện về nghỉ hè ở nhà ông cụ làm chánh kiểm lâm. Bạn chơi với con Li-da em gái tao. Tao đã gửi cho nó một mẩu thư, văn rất kêu. Đại khái: "Yêu em say đắm, anh tha thiết chờ đợi thư em trả lời". Tao lại nhét vào đấy mấy câu thơ thuổng được ở một bài thơ của thi sĩ Nát-xôn rất ăn giọng, mày ạ.

Vích-to tò mò hỏi:

- Thế rồi kết quả ra sao?

Xu-khác-cô hơi lúng túng, đáp:

- Ừ, nó cũng làm cao, màu mè bảo tao "đừng viết thư làm gì cho phí giấy". Song con gái đứa nào mới đầu chẳng thế. Mày không lo. Cái khoản yêu này thì tao cáo già. Song tao cũng chẳng thiết mất thì giờ tán tỉnh nhũng nhẵng mãi làm quái gì. Tối đi vào xóm xưởng sửa chữa tàu chơi gái thú hơn. Vứt ra ba rúp là có một con nhan sắc làm rỏ dãi ra rồi. Mà nó lại chẳng có đủng đỉnh làm cao gì cả? Tao vẫn đi chơi với lão Van-ca Chi-khô-nốp đấy. Lão ta làm đốc công xe lửa ấy mà, mày có biết không?

Vích-to bĩu môi có vẻ khinh bỉ:

- Mày cũng đi chơi trò nhơ bẩn ấy, hở Sua-ca?

Xu-khác-cô nhằn nhằn mẩu thuốc lá, rồi buông giọng mỉa mai:

- Xin ông đừng làm bộ, làm tịch nữa. Ông tưởng con không biết ông để thời giờ của ông làm gì đấy...

Vích-to ngắt lời hỏi:

- Thôi, thế mày giới thiệu tao với con bé kia nhá?

- Tất nhiên, ta lại nhanh không nó đi mất. Sáng hôm qua nó cũng đi câu ở đây.

Hai thằng lại gần Tô-nhi-a. Xu-khác-cô rút điếu thuốc đang ngậm ra, gập người lại cúi chào:

- Chào cô Tô-nhi-a Tu-ma-nô-va ạ. Cô ra đây câu cá?

Tô-nhi-a đáp lại:

- Không, tôi chỉ xem người ta câu thôi.

- Cô chưa biết anh Vích-to Lê-sinh-ski nhỉ. - Xu- khác-cô vừa hấp tấp nói vừa cầm tay Vích-to. - Xin giới thiệu đây là anh bạn tôi, Vích-to con cụ Lê-sinh-ski.

Vích-to ngượng ngùng chìa tay ra bắt tay Tô-nhi-a.

Xu khác-cô cố bắt chuyện:

- Sao hôm nay cô không đi câu?

Tô-nhi-a trả lời:

- Tôi không mang cần câu đi.

Xu khác-cô vội nói:

- Cô để tôi đi kiếm một cái nữa cô dùng. Giờ mời cô tạm lấy cần câu của tôi, tôi xin đi kiếm cái khác về ngay.

Xu-khác-cô đã giữ được lời hứa giới thiệu Vích-to với Tô-nhi-a và bây giờ định bày mẹo để Vích-to ở lại một mình với Tô-nhi-a. Nhưng Tô-nhi-a trả lời:

- Thôi anh ạ, ta sẽ làm phiền người khác. Ở đây đã có người câu rồi.

Xu khác-cô hỏi ngay:

- Phiền ai cơ? À, thằng nhãi ấy ư? - Mãi bây giờ hắn mới nhìn ra Pa-ven đang ngồi câu ở bụi cây. - Chà ! Thằng ấy để tôi ra đuổi nó cút đi ngay trong nháy mắt.

Tô-nhi-a chưa kịp ngăn lại, thì Xu-khác-cô đã chạy xuống chỗ Pa-ven đang câu. Hắn bảo Pa-ven:

- Thằng kia, cuốn cần câu của mày xéo ngay, đi!

Thấy Pa-ven vẫn cứ ngồi yên tiếp tục câu, nó lại quát thêm:

- Đi, đứng lên ngay, cút mau!

Pa-ven ngẩng đầu lên nhìn Xu-khác-cô, cái nhìn chẳng lành gì.

- Im mồm! Làm gì mà nhắng lên thế?

Thằng kia phát khùng lên:

- Cái gì, mày lại dám lôi thôi với ông à? Đồ ăn mày! Xéo!

Nói rồi nó lấy mũi giày đá hất tung hộp mồi của Pa-ven rơi tõm xuống hồ. Nước bắn tung tóe lên cả mặt Tô-nhi-a. Tô-nhi-a kêu lên:

- Anh Xu-khác-cô ơi! Anh bất lịch sự thế mà không biết thẹn à?

Pa-ven đứng phắt dậy. Cậu biết hắn là con lão quản đốc sở đầu máy xe lửa. A-rơ-chom làm việc dưới quyền bố nó. Nếu bây giờ mình động đến đồ mặt bệu này thì nó sẽ mách bố nó và việc này thế nào cũng sẽ lôi thôi đến anh A-rơ-chom. Đấy là lý do duy nhất làm Pa-ven nén được giận không xô lại ngay.

Xu-khác-cô sợ Pa-ven choảng mình, liền xông lại lấy hai tay túm ngực Pa-ven đẩy xuống hồ. Pa-ven loạng choạng người khoa tay lên trời, bị giúi về phía sau, nhưng lại đứng vững được ngay.

Xu-khác-cô lớn hơn Pa-ven hai tuổi, nổi tiếng là tay ngổ ngáo thích đánh nhau.

Bị huých vào ngực, Pa-ven nổi xung lên:

- À, mày định chơi nhau phải không? Được ông cho mày biết tay ngay!

Pa-ven thoi cho nó một quả đấm tay phải vào giữa mặt và không để nó kịp hoàn hồn đã túm ngay áo nó, lôi đi kéo xệch xuống nước.

Xu-khác-cô bị dìm xuống hồ ngập nước đến đầu gối, đôi giày bóng loáng và cái quần bảnh ướt sũng. Hắn cố hết sức gỡ khỏi hai tay Pa-ven siết chặt. Nhưng Pa-ven đã đẩy nó ngã xuống nước, rồi nhảy tót lên bờ.

Xu-khác-cô tức điên người, hầm hầm xông lên, chực xé Pa-ven ra từng mảnh.

Pa-ven quay lại nhanh như cắt đối phó với kẻ thù.

Anh sực nhớ đến bài quyền của Giu-khơ-rai dạy: "Xuống tấn chân trái, hơi duỗi chân phải, không phải chỉ đấm bằng sức tay, mà lấy cả sức người, nhè quai hàm mà đấm móc lên".

Ră...ă...ắc..c !...

Tiếng răng rập vào nhau, Xu-khác-cô bị tống vào quai hàm và cắn phải lưỡi đau điếng người, kêu ôi ối, tay chới với và lăn phịch xuống nước.

Trên bờ Tô-nhi-a cười ngặt nghẽo, vỗ tay reo lên:

- Hoan hô ! Hoan hô! Đánh cừ thật!

Pa-ven nắm lấy cần câu, giật mạnh, giằng chiếc lưỡi câu còn mắc, rồi nhảy tót lên đường cái.

Đi khỏi, Pa-ven còn nghe tiếng thằng Vích-to nói với Tô-nhi-a:

- Nó là thằng Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa-ghin, đồ du côn có tiếng !

Mối lo ngại bao trùm lấy khu nhà ga. Tin đồn truyền đi rằng: thợ xe lửa trên đường sắt này đã bắt đầu bãi công. Bãi công bắt đầu từ công nhân đoạn đầu máy thuộc ga lớn bên cạnh. Bọn Đức bắt hai người thợ máy bị tình nghi mang truyền đơn kêu gọi đấu tranh. Những anh em công nhân có gia đình ở nông thôn thì căm phẫn sôi sục vì bọn Đức tịch thu lương thực và bọn đại địa chủ đã theo giặc trở về chiếm lại ấp trại cũ của chúng.

Ở nông thôn, bọn cảnh binh thuộc giống Cô-dắc quý phái của bọn đầu lĩnh Nga trắng quất roi ngựa lên lưng nông dân. Trong vùng này đã có đến chục đội du kích nông dân do những đảng viên bôn-sê- vích tổ chức.

Giu-khơ-rai đã không để phí thời giờ. Từ ngày đến ở thành phố này, anh đã làm được một khối công tác lớn. Anh đã quen được với nhiều công nhân xe lửa, thường đến dự các tối vui của những thợ trẻ và đã tổ chức được một nhóm trung kiện gồm những thợ nguội sở đầu máy xe lửa và thợ xẻ máy cưa. Anh đã thử dò cả A-rơ-chom, hỏi đến thái độ anh ta đối với Đảng bôn-sê-vích và hoạt động.của Đảng. Người thợ nguội lực lưỡng ấy đã trả lời anh ấy rằng:

"Anh Giu-khơ-rai ạ, về tất cả mớ đảng phái đó, tôi không hiểu gì lắm. Nhưng nếu cần giúp đỡ một tay, tôi luôn luôn sẵn sàng. Anh có thể tin ở tôi".

Giu-khơ-rai cho A-rơ-chom trả lời thế cũng được rồi: anh biết A-rơ-chom là người có cảm tình đối với Đảng và nếu đã nói thì làm. Nhưng cũng thấy rõ là anh ta giác ngộ chưa chín đến mức độ có thể kết nạp vào Đảng được. Giu-khơ-rai nghĩ thầm: "Không hề gì, trong lúc phong trào như thế này, cậu ấy rồi sẽ đến với Đảng".

Giu-khơ-rai thôi việc ở sở máy điện, sang làm ở sở đầu máy xe lửa. Làm ở đây thuận tiện cho hoạt động hơn. Vì ở sở điện thì xa phong trào đường sắt quá.

Xe đi lại trên đường sắt dạo này rất dồn dập. Bọn Đức chở về Đức hàng nghìn toa đủ các thứ chúng cướp bóc được ở U-cơ-ren: lúa mì, lúa mạch, gia súc....

Thật không ai ngờ, bọn vệ binh nguỵ ập đến bắt Pô-nô-ma-rên-cơ, người làm điện báo ngoài ga. Chúng đánh đập dã man bác ta ở bộ chỉ huy Đức. Chắc vì thế mà bác đã khai ra công tác tuyên truyền ở sở đầu máy xe lửa do Rô-man Xi-đô-ren-cô, một người bạn của A-rơ-chom phụ trách.

Hai tên Đức và một thằng ngụy phó tư lệnh quân quản nhà ga, người U-cơ-ren, ập đến bắt Rô-man giữa lúc anh đang làm việc. Một tên lính ngụy sấn đến bàn nguội của Rô-man, chẳng nói chẳng rằng, quất roi vào mặt anh. Nó quát:

- Thằng khốn kia, đi theo chúng ông ngay! Cứ đến đấy rồi sẽ nói chuyện. - Nó nhếch miệng nhăn răng một cách thảm hại, rồi nắm lấy tay áo Rô-man: Cứ đến chỗ chúng ông rồi tha hồ mà "tuyên truyền"!

A-rơ-chom đang làm việc ở bàn bên cạnh, thấy vậy nên bỏ giũa xuống bàn; thân hình cao lớn của anh sấn đến chỗ tên ngụy. Cố nén nỗi tức giận, giọng anh bật ra như gầm lên:

- Sao mày dám đánh người ta, hở đồ chó?

Tên ngụy lùi lại, mở bao da, rút súng ngắn. Tên lính Đức thấp lũn cũn, trật súng khỏi vai, nhằm anh, lên quy-lát lách cách, và sủa lên:

- Đứng lại!

Nó lăm lăm chĩa súng, đợi anh nhúc nhích là bắn liền.

Người thợ cao lớn đứng ngây ra bất lực trước tên lính Đức loắt choắt. Không thể làm gì được nó.

Chúng bắt cả hai đi. Một giờ sau, A-rơ-chom được tha, còn Rô-man thì bị nhốt vào hầm giam.

Chỉ mươi phút sau, cả sở đầu máy bỏ việc, công nhân tập trung ở vườn hoa nhà ga. Thợ bẻ ghi và các thợ khác làm việc ở các kho vật liệu cũng hưởng ứng theo. Phẫn nộ đến cùng cực. Người ta đưa ra yêu sách - do một người nào đó thảo ra - đòi thả ngay Rô-man và Pô-nô-ma-rên-cơ.

Lòng căm phẫn càng tăng khi tên ngụy lúc nãy dẫn một lũ vệ binh phi ngựa đến vườn hoa. Tay nó khoa khẩu súng ngắn dọa dẫm.

- Nếu các ngươi không trở lại làm việc, chúng tao sẽ bắt giam hết ngay lập tức bây giờ. Sẽ cho nhiều đứa úp mặt vào tường ăn đạn.

Nhưng tiếng la hò giận dữ của công nhân làm nó phải đánh bài chuồn ra phía nhà ga. Tên tư lệnh quân quản nhà ga gọi điện báo về. Từ trong thành phố đã có cam-nhông chở đầy lính Đức chạy như bay, lao tới.

Công nhân bắt đầu giải tán, ai về nhà nấy. Tất cả mọi người đều bỏ việc, ngay cả các bạn ký ga cũng bãi công. Công việc của Giu-khơ-rai đã mang lại kết quả: đây là cuộc đấu tranh đầu tiên có tính chất quần chúng ở nhà ga xe lửa.

Bọn Đức đặt trọng liên trên thềm nhà ga. Khẩu súng ghếch nòng chồm chỗm như một con chó săn. Một tên cai Đức quỳ bên cạnh, một tay để sẵn lên quy- lát.

Nhà ga vắng tanh.

Đêm ấy bắt đầu bắt bớ. A-rơ-chom cũng bị bắt. Giu-khơ-rai không ngủ ở nhà, nên chúng không tìm thấy anh.

Bọn chúng dồn người bị bắt vào một nhà kho chứa hàng rộng thênh thang và chúng đặt điều kiện cuối cùng: hoặc là tiếp tục đi làm, hoặc là ra tòa án quân sự.

Suốt dọc con đường sắt này hầu hết công nhân xe lửa đều bãi công. Suốt hăm bốn tiếng đồng hồ, không có chuyến tàu nào chạy. Cách nhà ga một trăm hai mươi cây số có xảy ra đánh nhau với một đội du kích mạnh, đội này đã cắt mất đường và phá các cầu rồi.

Đêm có một đoàn tàu chở lính Đức kéo đến ga. Nhưng tàu vừa đến nơi thì thợ máy, ét và người đốt lò đều bỏ trốn khỏi đầu.máy rồi. Thế mà ngoài chuyến tàu này lại còn hai chuyến tầu nữa cũng chờ đến lượt khởi hành.

Cánh cửa sổ đầu máy xe lửa nặng trịch mở ra, tên quan hai Đức tư lệnh quân quản nhà ga, tên tư lệnh phó và một toán Đức bước vào.

Tên tư lệnh phó gọi: "Những tên sau đây: A rơ- chom Ca-rơ-sa-ghin, Pô-len-tốp-ski, Bơ-ru-giắc có nhiệm vụ lái chuyến xe lửa này đi. Nếu từ chối, bắn ngay tại chỗ. Có đi không?"

Ba người thợ buồn rầu cúi đầu. Một toán lính Đức chĩa lưỡi lê kèm họ đến đầu máy, tên tư lệnh phó đã quay sang chỉ định người lái, ét và đốt lò cho chuyến tàu đi sau.
*
Đầu tàu xe lửa giận dữ phì phì chuyển mình, bắn tung tóe như mưa những tia lửa sáng, vừa thở hồng hộc, vừa lướt trên đường ray, lao nhanh như xoáy vào khoảng đêm dày đặc. A-rơ-chom đổ đầy than vào lò, lấy chân đá cửa lò sập lại, với cái ấm ngắn vòi ở ngăn tủ, tu một ngụm nước, rồi quay ra hỏi người thợ máy già Pô-len-tốp-ski:

- Ta đành chở chúng nó đi sao, bố già?

Người thợ già tức tối chớp chớp đôi mắt dưới nếp lông mày rũ xuống:

- Bị gí lưỡi lê vào lưng, không chở chúng nó đi cũng không được.

Bơ-ru-giắc vừa liếc mắt nhìn về phía tên lính Đức ngồi gác ở toa than, vừa đề nghị:

- Bỏ cả đấy rồi chuồn khỏi xe là hơn cả.

A-rơ-chom lẩm bẩm:

- Tôi cũng nghĩ thế, song kia kìa còn thằng chó Đức đằng sau lưng.

Bơ-ru-giắc ló đầu ra cửa sổ, giọng kéo dài:

- Ừ..

Pô-len-tốp-ski lại gần A-rơ-chom thì thầm:

- Ta không thể nào chở chúng đi được, chú hiểu chứ? Đang đánh nhau ngoài ấy, du kích đã phá đường. Mà ta nỡ nào lại dẫn lũ chó này trong chốc lát đến thịt anh em. Chú phải biết, ngay thời còn Nga hoàng, tôi cũng không bao giờ chịu chở lính đến trong khi anh em ta bãi công. Huống chi là ngày nay, ngần này tuổi đầu, tôi lại đi làm việc ấy. Chở quân chúng nó đi đàn áp anh em mình là một cái nhục mang suốt đời, đến chết chưa hết nhục. Kíp thợ máy trước đã bỏ chạy được. Họ liều mạng thật, nhưng họ vẫn cứ chạy đấy. Chúng ta còn mặt mũi nào mà chở chuyến xe này đi được, chú mày nghĩ sao?

- Đồng ý với bố già lắm, song còn thằng chó chết kia thì bố tính thế nào? - A-rơ-chom đưa mắt chỉ tên lính Đức.

Ông lão thợ máy cau mày lấy khăn thấm mồ hôi trán, cặp mắt nẩy lửa nhìn chằm chặp vào chiếc ma- nô-mét (áp kế, một thứ máy đo sức đẩy của hơi trong đầu máy xe lửa) như hy vọng tìm ra lối thoạt trước cảnh bí đang giày vò mình. Nghĩ mãi không ra, người thợ già thất vọng phát bẳn, văng ra một câu chửi rủa.

A-rơ-chom lại vớ lấy ấm nước tu. Cả hai người cùng nghĩ như nhau, song không ai dám ngỏ ý trước. A- rơ-chom bỗng nhớ đến câu mà Giu-khơ-rai đã có lần hỏi anh: "Anh thấy Đảng bôn-sê-vích và tư tưởng cộng sản thế nào?"

Và A-rơ-chom đã trả lời câu hỏi ấy: "Tôi lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ. Anh có thể tin ở tôi...".

"Và bây giờ cách ta đang giúp mới quý chứ ! Ta chở bọn Đức đi đàn áp anh em...".

Pô-len-tốp-ski cúi xuống hòm dụng cụ, ghé sát vào A-rơ-chom dằn từng tiếng:

- Thằng gác kia, phải tiêu nó, chú hiểu không?

A-rơ-chom rùng mình. Pô-len-tốp-ski nghiến răng nói thêm:

- Không có cách nào khác. Đập chết nói đi, vứt máy điều hơi và các dụng cụ vào lò, hãm xe chạy chậm và nhảy xuống chuồn.

Như cất được gánh nặng khỏi vai, A-rơ-chom nói:

- Được.

A-rơ-chom ghé sát vào Bơ-ru-giắc và cho biết quyết định ấy.

Bơ-ru-giắc không trả lời ngay. Người nào cũng đang đứng trước một mối nguy lớn. Cả ba đều có gia đình ở nhà. Gia đình ông già Pô-len-tốp-ski lại đông người: vợ con cả thảy chín nhân mạng. Song cả ba đều hiểu rằng không thể nào chở chúng nó đi được.

Bơ-ru-giắc nói:

- Còn gì nữa! Tôi đồng ý. Nhưng trong ba chúng ta, người nào sẽ...

Bơ-ru-giắc không dám nói hết câu, nhưng A-rơ- chom thoáng nghe đã hiểu ngay.

A-rơ-chom quay lại phía ông già đang loay hoay bên cái máy điều hơi, gật đầu ra hiệu như muốn báo .tin Bơ-ru-giắc cũng cùng ý kiến đó; nhưng, ngay lúc ấy, lòng bứt rứt vì một vấn đề chưa giải quyết, anh nhích lại gần ông già Pô-len-tốp-ski:

- Bây giờ ta làm thế nào hở cụ?

Cụ Pô-len-tốp-ski nhìn A-rơ-chom:

- Chú khởi sự đi, chú khỏe nhất trong bọn. Cầm lấy xà beng gõ vào sọ nó, cắc một cái là xong thôi.

Ông cụ không giấu nổi được hồi hộp.

A- rơ-chom cau mày:

- Cháu không làm được đâu, cụ ạ. Tay cháu nó sẽ không làm sao mà nhấc lên được đâu. Nghĩ cho cùng thì thằng lính này cũng chẳng có tội tình gì. Cả nó nữa cũng chỉ vì lưỡi lê gí vào sau lưng mà phải đi thôi.

Mắt ông già long lên trong bóng tối:

- Chú bảo nó không có tội? Thế thì chúng ta lái chuyến xe này cũng có phải lỗi ở chúng ta đâu. Chúng ta cũng chỉ vì bị nó bức mà phải lái xe ở đây thôi. Chúng ta chở bọn đi đàn áp. Và nói như chú, bọn ấy cũng vô tội tất và bọn vô tội ấy sẽ đi bắn xả vào anh em du kích. Thế ra anh em du kích mình là những kẻ có tội đấy chắc? Chú to xác mà bụng dạ y như bụng dạ chim sẻ. Trông chú ai chả bảo chú khỏe như gấu, thế mà chẳng có gan làm, anh em cậy ở chú...

- Được. - A-rơ-chom nói khàn khàn và tay cầm lấy xà beng. Nhưng Pô-len-tốp-ski đã rỉ tai: "Không, để xà beng cho tôi. Tôi dùng chắc hơn. Chú cầm cái xẻng rồi leo lên xúc than ở toa hắt xuống. Lúc cần đến thì cho tên lính Đức một nhát xẻng. Còn tôi cầm xà beng thì giả tảng như đi đập những cục than to vậy".

Bơ-ru-giắc gật đầu:

- Cụ nói phải - Rồi bác ta ra đứng trước cái máy điều hơi.

Tên lính Đức đội mũ chào mào dạ chóp đỏ, đang ngồi ở mép toa than phì phèo hút thuốc lá, súng kẹp vào đầu gối, thỉnh thoảng mới đưa mắt nhìn những người thợ đang loay hoay trên đầu tàu.

Khi A-rơ-chom đã trèo lên xúc than, tên lính gác cũng chẳng để ý gì cả. Đến lúc ông già Pô-len-tốp- ski giả đò lấy xà beng hất những tảng than to ở thành toa vào trong, ra hiệu bảo hắn lùi lại, hắn ngoan ngoãn lùi xuống, nép mình vào cửa buồng thợ máy để cho ông già rộng chỗ làm.

Tiếng xà beng choang vào sọ tên Đức đánh cắc một cái, nghe khô và gọn, làm A-rơ-chom và Bơ-ru- giắc giật thót mình như người phải bỏng. Xác tên giặc đổ vật ra lối đi như một bao than.

Chiếc mũ chào mào màu dạ xám chẳng mấy chốc hoen đẫm máu đỏ. Đầu súng đánh vào thành toa kêu đến choang một tiếng.

- Thôi, thế là xong. - ông già Pô-len-tốp-ski ném cái xà beng xuống, miệng lẩm bẩm thế, người rung lên, ông nói thêm: - Bây giờ chúng ta không thể lái lùi lại được nữa.

Giọng ông cụ vỡ ra, nhưng để phá tan cái im lặng quá nặng nề trùm lên mọi người, ông liền kêu to lên:

- Thôi, tháo máy điều hơi đi. Tháo đi! Nhanh tay lên !

Mười phút sau, mọi việc xong xuôi, con tàu không lái chạy chậm dần.

Những bóng đen cây cối bên đường đang hiện lên sừng sững trong khoảng sáng của ánh đèn tàu bỗng nhiên chìm nghỉm trong bóng đêm mù mịt. Đèn pha ở đầu tàu cố rọi vào bóng tối song chỉ còn loe ra được vài thước chung quanh. Con tàu như đã kiệt sức, trút hơi thở tàn, mỗi lúc một chậm lại.

"Nhảy xuống đi chứ!" Tiếng ông già Pô-len-tốp-ski vang lên đằng sau A-rơ-chom. Anh buông tay vịn. Thân hình to lớn của anh văng ra phía trước. Chân chạm đất và mặt đất như chuội bắn đi. Anh theo đà còn loạng choạng chạy thêm hai bước, rồi ngã lăn kềnh ra đất.

Hai bóng người nữa từ hai bậc nhảy xuống, lướt theo sau anh.
*
Cảnh nhà Bơ-ru-giắc không được vui. Bác Bơ-ru- giắc gái, mẹ Xê-ri-ô-gia những lo mà rạc người đi vì bốn hôm nay, không nhận được tin gì của bác trai. Bác chỉ biết chồng mình bị Đức bắt đi làm kíp xe với anh A-rơ-chom và cụ Pô-len-tốp-ski. Hôm qua lại có ba thằng cảnh binh nguy đến sừng sộ nạt hỏi và chửi rủa. Thấy thế, bác lo lắng, mang máng đoán chắc có chuyện gì chẳng lành đây. Sốt ruột quá, bọn vệ binh vừa đi khỏi, bác lấy khăn choàng đầu sang bên nhà bà cụ đẻ ra A-rơ-chom may ra hỏi thăm được tin tức gì về chồng mình.

Va-li-a đang dọn dẹp dưới bếp, thấy mẹ sắp đi, hỏi mẹ:

- U đi đâu có xa không, u?

Mắt bác đỏ hoe, giàn giụa, nhìn con gái lớn, trả lời:

- U sang nhà bà cụ Ca-rơ-sa-ghin. May ra có tin gì của thầy. Hễ thằng Xéc-gây về, bảo nó đảo qua nhà bà cụ Pô-len-tốp-ski hỏi thăm xem.

Va-li-a hai tay trìu mến ôm lấy mẹ, tiễn ra cửa, lựa lời an ủi:

- U đừng lo, u ạ!

Bà cụ Ca-rơ-sa-ghin bao giờ thấy bác Bơ-ru-giắc gái sang chơi cũng tiếp rất mặn mà. Cả hai bà đều tưởng người nọ hỏi thăm người kia được tin tức mới, nhưng qua mấy câu vào chuyện, cả hai cùng thất vọng như nhau.

Đêm qua, nó cũng khám nhà Ca-rơ-sa-ghin.

Chúng sục tìm A-rơ-chom. Khi bỏ đi, chúng còn ra lệnh cho bà cụ Ca-rơ-sa-ghin hễ thấy con về phải lên đồn báo ngay.

Bà cụ lấy làm lo sợ việc bọn lính tuần cảnh nguy đến sục ban đêm như thế. Lúc ấy, chỉ có một mình bà ở nhà. Pa-ven làm ca đêm ở sở điện.

Sáng hôm sau, Pa-ven về nhà rất sớm. Khi nghe mẹ kể chuyện đêm qua cảnh binh đến khám và sục tìm A-rơ-chom, Pa-ven hết sức lo ngại cho số phận anh A-rơ-chom. Tuy tính tình hai người khác nhau, A-rơ-chom bề ngoài lại hay bốp chát, song hai anh em yêu quý nhau lắm. Quý nhau một cách nghiêm khắc, không mơn trớn mà cũng chẳng cắn nói ra lộ liễu và Pa-ven tự mình thấy rõ nếu anh cần đến thì có phải hy sinh thế nào cũng không quản, không do dự.

Không nghỉ một phút, Pa-ven chạy ngay ra sở đầu máy xe lửa, tìm Giu-khơ-rai, song không thấy anh đâu cả. Những anh em thợ Pa-ven quen cũng không biết tin gì về ba người. Nhà Pô-len-tốp-ski cũng tuyệt không biết tin gì về ông cụ. Pa-ven chạy sang nhà ông cụ, đến sân gặp ngay người con trai út là Bô-rít cho biết nhà anh ta cũng bị khám. Nó sục tìm cụ Pô-len-tốp-ski.

Pa-ven trở về nhà với mẹ, không được mảy may tin tức gì cả. Người mệt mỏi, anh uể oải nhoài xuống giường và chốc lát đã ngủ thiếp đi giấc ngủ chập chờn, thấp tha, thấp thỏm.

Có tiếng gõ cửa, Va-li-a quay ra hỏi: "Ai đấy?" và nâng then cài.

Cửa mở, Cơ-lim-ca Mác-chen-cô thò cái đầu bù tóc đỏ hung vào. Mặt đỏ bừng, hơi thở hổn hển, chắc là vừa chạy rất nhanh lại đây.

- Bà cụ có nhà không?

- Không, vừa đi xong.

- Đi đâu có biết không?

- Sang nhà bà cụ Ca-rơ-sa-ghin thì phải.

Cơ-lim-ca chực quay chạy đi, thì Va-li-a níu tay áo giữ lại.

Cơ-lim-ca nhìn Va-li-a, vẻ do dự:

- À, tôi tìm bà cụ có tí việc.

- Việc gì thế, anh? - Va-li-a lắc tay Cơ-lim-ca hỏi gặng. - Nói đi mau lên, con gấu con lông đỏ hung nói đi, không em sốt ruột lắm rồi. - Giọng Va-li-a nói như ra lệnh.

Cơ lim-ca liền quên mất lời dặn đi dặn lại của Giu- khơ-rai đã bảo cậu nhất thiết phải đưa thư này đến tận tay bác Bơ-ru-giắc gái và tuyệt đối giữ bí mật. Cậu ta thò ngay vào túi móc ra một mảnh giấy dầu mỡ lem luốc chìa cho Va-li-a. Đối với cô bé tóc vàng em gái Xéc-gây này, Cơ-lim-ca không thể từ chối một điều gì vì có bao giờ cậu ta hoàn toàn xác định được tình cảm của mình đối với cô bé rất kháu ấy đâu. Nói thật ra thì cậu bé phụ bếp vốn tính khiêm tốn, không rỉ răng nói với ai là mình mến Va-li-a, ngay đối với bản thân, cậu cũng không dám thú thật điều đó.

Va-li-a đưa mắt đọc bức thư ngắn:

"Nhà, nhà đừng lo. Đây bình yên cả. Chúng tôi vẫn còn sống, vẫn yên ổn. Sau sẽ biết rõ đầu đuôi. Nói cho bà con yên tâm. Xem xong hủy ngay. BƠ-RU-GIẮC"

Đọc xong thư, Va-li-a bổ đến bên Cơ-lim-ca:

- Gấu con lông đỏ của em, anh lấy thư này ở đâu ra thế anh, anh bảo cho em biết với? Anh nói đi anh, ai đưa cho anh bức thư này.

Va-li-a lắc người cậu ta rất mạnh. Và cậu bé khốn khổ, đang say như điếu đổ không sao cưỡng được, lại phạm khuyết điểm lần thứ hai:

- Anh Giu-khơ-rai đưa cho tôi ở ngoài ga.

Song lại nhớ ra không được nói, cậu ta nói vớt lại:

- Nhưng anh ấy bảo phải giữ bí mật, không được đưa mảnh giấy cho bất cứ người nào khác.

Va-li-a cười đáp:

- Được được em không nói lộ với ai đâu. Giờ thì anh chạy sang nhà Pa-ven tìm mẹ em bên ấy. - Rồi cô lấy tay khẽ đẩy vào lưng Cơ-lim-ca.

Nháy mắt đã thấy cái đầu tóc hung của Cơ-lim- ca thoáng biến sau cổng hàng rào.

Ba người thợ vẫn chưa ai về cả. Buổi tối Giu-khơ- rai đến chơi nhà Ca-rơ-sa-ghin kể cho bà cụ nghe tất cả câu chuyện xảy ra trên chuyến xe lửa. Bà cụ hoảng sợ, Giu-khơ-rai hết lời khuyên giải, nói rằng ba người giờ tạm lánh ở một vùng quê xa, ở nhờ nhà chú ruột Bơ-ru-giắc, yên ổn lắm. Bây giờ về ngay không lợi, song không lâu lắm đâu, vì quân Đức đang bị nguy khốn to rồi, tình hình sẽ biến chuyển.

Việc xảy ra làm cho ba gia đình đã thân càng thêm thân. Họa hoằn có thư gửi về, cả ba nhà cùng vui mừng đọc. Song nhà nào nhà ấy, vì vắng người lớn, ngày càng thấy tẻ lạnh và im lìm.

Một hôm, ra vẻ như bất chợt rẽ vào thăm nhà bà cụ Pô-len-tốp-ski, Giu-khơ-rai đưa tiền cho bà cụ:

- Bà mẹ ạ, ông cụ gửi về đây, nhưng bà mẹ đừng nói hở với ai nhé!

Bà lão cảm kích nắm lấy tay Giu-khơ-rai:

- Cảm ơn bác lắm! Ông nhà tôi bị nạn, nhà cửa túng quá. Không còn đồng nào đong gạo cho các cháu ăn nữa.

Sự thật, tiền ấy lấy ở số tiền quỹ hoạt động do Bun-ga-cốp để lại.

Trên đường từ nhà bà cụ Pô-len-tốp-ski về sở đầu máy xe lửa, Giu-khơ-rai vừa bước vừa suy nghĩ, lòng những cảm phục:

"Được được. Ta thử xem rồi sẽ ra sao. Bãi công tuy đã thất bại, anh em công nhân bị chúng dọa bắn, tuy đành phải chịu vào làm, song ngọn lửa đấu tranh đã nhóm lên, chúng không thể nào dập tắt được nữa. Còn như cánh ba người kia thì thật là can đảm, thật cừ. Đúng con nhà vô sản".
*
Ba người thợ lánh nạn ở một khu cách biệt bên ngoài làng Vô-rô-bi-ô-va, trong một lò rèn cũ nhỏ bé, vách ám khói quay lưng ra đường cái. Cụ Pô-len-tốp- ski đang đứng trước cửa lò lửa bốc phần phật. Ánh lửa chói lòa làm mắt cụ nheo lại. Tay cụ cầm cái kìm dài, lật đi lật lại cục sắt đã nung đỏ.

A-rơ-chom đang thụt cái bễ thổi lửa treo vào xà ngang. Pô-len-tốp-ski cười hiền lành, rung rung bộ râu. Người thợ máy già nói:

- Thời buổi này, tay thợ về vùng quê chẳng chết đói đâu. Lúc nào cũng có việc làm, muốn việc là có ngay. Đấy, cứ làm ở đây lấy một hai tuần nữa xem, có gạo thịt gửi về cho trẻ mỏ ở nhà chứ chẳng chơi. Chú thấy đấy, ở nông thôn, họ quý thợ rèn lắm. Cánh ta ở đây ăn thật chẳng khác gì tư sản, chẳng mấy chốc sườn nung núc mỡ cho mà xem. - Cụ cười hì hì, rồi tiếp: - Còn bác Bơ-ru-giắc thì xem chừng lại càng gắn chặt với bà con nông dân lắm. Tay ấy đã cắm chặt vào đất nhà ông chú ruột rồi. Mà thế cũng phải, chỉ có lão đây và chú mày là không có lấy tấc đất cắm dùi, chúng mình chỉ độc có lưng trần với hai bàn tay trắng, thật đúng như người ta nói là vô sản mạt đời, hì hì. Chứ bác Bơ-ru-giắc thì người bác chia làm đôi: một chân đứng trên đầu máy xe lửa, còn chân kia thì lại đứng ở nông thôn. - Lấy kìm đụng vào cục sắt cháy đỏ, giọng trở nên nghiêm nghị; ông cụ trầm ngâm nói thêm: - Nói thật chứ, cảnh chúng ta nguy lắm đấy chú ạ! Bọn Đức không cuốn gói đi sớm thì cánh mình phải lo chuồn trước sang vừng Ê-ca-chi- ri-nô-sláp hay sang Rô-stốp đi thôi, kẻo chúng nó tóm được thì sẽ bị treo cổ, đầu không tới trời, chân không tới đất mất, chắc chắn là như thế.

A-rơ-chom lẩm bẩm:

- Cháu cũng nghĩ thế bố già ạ.

- Không biết nhà chúng mình ra sao? Chắc là người nhà bị bọn ngụy đến làm rầy rà lắm đấy?

- Chứ sao nữa bố già! Ta đã mó tay vào việc thì đành bỏ mặc nhà cửa thôi.

Cụ Pô-len-tốp-ski rút trong lò ra cục sắt nungđã xanh biếc và nhanh tay đặt lên đe.

- Chú mày đập đi.

A-rơ-chom vớ lấy chiếc búa tạ dựng bên đe, vung mạnh quá đầu rồi quai xuống. Tia lửa rào rào bắn tung tóe, làm những xó tối lò rèn bỗng lóe sáng lên trong chốc lát.

Cụ già lật đi lật lại cục sắt cháy đỏ chìa cho A- rơ-chom nện búa. Miếng sắt ngoan ngoãn dẹt mỏng ra như cục sáp ong mềm. Đêm tối đưa hơi gió ấm vào cổng mở toang cửa lò rèn.
*
Mặt hồ bao la thăm thẳm. Rặng thông cuốn lấy quanh hồ, ngọn thông đường bệ lắc lư, gật gù trước gió.

Nhìn thông, Tô-nhi-a nghĩ thầm: "Y như những người thật". Cô ngả mình trên khoảng cỏ xanh, giữa bờ sỏi đá. Trên cao là rừng thông già trấn ngự, phía dưới, ở chân mỏm đá dốc đâm dọc thẳng xuống nước là mặt hồ. Bóng đá in thêm màu sẫm lên mặt nước ven bờ thăm thẳm.

Đây là nơi Tô-nhi-a ưa đến ngồi chơi. Cách đấy một dặm đường, trong những thung sâu bỏ hoang, giữa những mỏ đá cũ, trước kia có những dòng suối tuôn ra, và ngày nay đã thành ba cái hồ thông nước. Ở phía dưới, gần bờ có tiếng vỗ nước bì bõm đâu đây. Tô-nhi-a ngẩng nhìn, lấy tay vạch cành lá thì thấy một thân hình mềm mại nâu bóng đang bơi rất khỏe từ bờ ra giữa hồ. Cái lưng rám nắng và mớ tóc nâu hì hụp như con rái cá đang rẽ nước bơi lên, lúc ngụp vào nước, lúc nhào lên vùng vẫy, mệt rồi thì nằm ngửa phơi nắng, đôi mắt nhắm nghiền cho khỏi chói, hai tay vòng lại, người hơi khom khom không động đậy.

Tô-nhi-a buông cành lá, mỉm cười, tự nhạo mình:

- Mình khỉ thật, sao lại nhìn người ta tắm.

Và Tô-nhi-a cầm sách đọc.

Mải xem cuốn sách của Vích-to Lê-sinh-ski cho mượn, Tô-nhi-a không để ý có bóng người vừa leo qua bờ sỏi giữa gò đất và rặng thông. Bỗng đâu, một hòn sỏi theo chân người vừa leo rơi vào cuốn sách. Tô- nhi-a giật mình ngẩng đầu lên, Pa-ven đứng ngay trước mặt cô, ngạc nhiên và ngượng ngùng vì cuộc gặp gỡ bất ngờ này.

Nhìn thấy tóc Pa-ven ướt, Tô-nhi-a đoán: "Ra người tắm ấy là anh ta".

Pa-ven lúc ấy cũng nhận ra người con gái hôm xưa.

- Cô đấy à? Tôi có làm cô hãi không? Tôi không biết cô ngồi đây.

Nói rồi, Pa-ven vịn tay vào bờ sỏi, định bỏ đi.

- Không sao đâu, anh ạ. Nếu anh không bận, mời anh ngồi chơi, ta nói chuyện.

Pa-ven ngạc nhiên nhìn Tô-nhi-a:

- Ta nói chuyện? Chuyện gì mới được?

Tô-nhi-a mỉm cười:

- Sao anh cứ đứng thế ? Ghế đây, mời anh ngồi.

Tô-nhi-a chỉ cho Pa-ven một tảng đá và hỏi Pa-ven:

- Tên anh là gì nhỉ?

- Páp-ca Ca-rơ-sa-ghin. (Páp-ca cũng là Pa-ven, nhưng gọi tục và thân)

- Còn tôi là Tô-nhi-a. Thế là chúng ta quen nhau rồi nhớ.

Pa-ven luống cuống vò mũ cát-két.

Tô-nhi-a phá sự im lặng:

- Tên anh là Páp-ca à? Sao lại gọi là Páp-ca? Gọi thế không đẹp. Gọi là Pa-ven hay hơn. Tôi sẽ gọi anh là Pa-ven đấy. Anh có hay đến đây... - Ý Tô-nhi-a muốn nói "có hay đến đây tắm không?" nhưng ngại không muốn để Pa-ven biết mình đã trông thấy anh ta tắm nên nói trệch đi: - Anh có hay đến đây chơi không?

- Không, cũng tùy, thỉnh thoảng có lúc nào rỗi mới đến.

- Thế anh đi làm à?

- Tôi là thợ đốt lò ở sở điện.

Tô-nhi-a bỗng hỏi bất ngờ:

- Ai dạy anh đánh võ mà anh đánh giỏi thế, hở anh?

Pa-ven phật ý, càu nhàu:

- Tôi đánh nhau thì việc gì đến cô mà cô hỏi?

Tô-nhi-a cảm thấy Pa-ven không bằng lòng câu hỏi của mình, vội nói:

- Đừng giận, anh Pa-ven ạ. Tôi muốn biết lắm chứ. Đánh như anh đánh hôm trước, thật là tay võ. Anh đánh ác lắm.

Và Tô-nhi-a phá lên cười. Pa ven hỏi lại:

- Ra cô thương hại cái thằng nhắng ấy à?

- Có đâu, trái lại thế nữa. Xu-khác-cô ăn đấm thế là đáng đời lắm. Tôi thấy anh đánh hắn, tôi thích lắm. Tôi nghe người ta nói anh hay đánh nhau lắm thì phải.

Pa-ven bị chạm nọc, hỏi lại:

- Ai bảo cô thế ?

- Vích-to con nhà Lê-sinh-ski bảo là anh chuyên môn đi đánh nhau.

Pa-ven sa sầm nét mặt:

- Vích-to là một thằng đểu, một tên công tử bột chỉ được cái õng ẹo. Tôi tha không tát cho nó vỡ mặt là phúc. Hôm nọ tôi nghe rõ nó đặt điều về tôi với cô, song tôi không thèm đánh nó cho bẩn tay.

Tô-nhi-a can:

- Sao anh Pa-ven ăn nói cục thế ? Thế không tốt đâu !

Pa-ven phát cáu: "Mình rõ vớ vẩn, tự nhiên lại đi bắt chuyện với con nhóc con này làm gì? Con bé gớm thật, lại đi bắt bẻ lời ăn tiếng nói của mình. Nó toàn lên mặt dạy mình: lúc thì nó không thích tên là "Páp- ca", lúc thì bảo là "đừng ăn nói cục".

Tô-nhi-a hỏi:

- Sao anh lại ghét Vích-to đến thế ?

- Bởi vì nó là một con tiểu thư mặc quần áo đàn ông, nó là con cưng nhà quý tộc, một công tử bột, chứ không phải là thanh niên. Trông cái mặt nó thườn thượt như đứa không hồn. Gặp những đứa như thế, tôi ngứa tay lắm. Nó con nhà giàu, nó chỉ chực trèo lên đầu lên cổ người ta. Nó tưởng nó muốn làm gì người khác cũng được. Tôi đây thì tôi nhổ toẹt vào cái giàu của nó. Nó cứ đụng đến tôi thì nó biết tay tôi. Những quân ấy phải dạy chúng bằng quả đấm này mới được. - Giọng Pa-ven đầy giận dữ.

Tô-nhi-a tiếc là đã nhắc đến tên Vích-to trong câu chuyện. Cậu này chắc có chuyện gì lôi thôi từ cũ với anh chàng Vích-to õng ẹo đây. Tô-nhi-a xoay ra cố lái vào câu chuyện từ tốn hơn, hỏi thăm gia đình, công ăn việc làm của Pa-ven.

Pa-ven không những bớt giận mà còn quên cả muốn đi ngay và cứ thế vui chuyện trả lời Tô-nhi-a rất tỉ mỉ.

Tô-nhi-a nói:

- Sao anh không tiếp tục đi học nữa?

- Tôi bị đuổi học.

- Sao lại bị đuổi thế anh?

Pa-ven đỏ tai:

- Tại tôi nghịch ném thuốc lá vào bột làm bánh của lão cố dạy tôi học, nên lão ấy đuổi không cho học nữa. Lão cố ấy là một tên hiểm ác. Nó làm cho đời tôi khốn khổ.

Và Pa-ven kể tất cả đầu đuôi câu chuyện.

Tô-nhi-a tò mò chăm chú nghe. Pa-ven quên cả nỗi ngượng ngừng ban đầu, kể cho Tô-nhi-a nghe như kể cho một cô bạn quen đã từ lâu. Pa-ven kể đến việc anh A-rơ-chom đi lái chuyến xe không về. Câu chuyện thân mật, sôi nổi. Đôi trẻ không nghĩ gì đến thời gian trôi đi, đã mấy tiếng đồng hồ rồi. Bỗng Pa-ven giật nảy mình, đứng phắt dậy:

- Chết thật! Đến giờ tôi phải đi làm rồi. Tôi mải chuyện quá. Đáng lẽ bây giờ là lúc tôi phải đốt lò. Ông cụ thợ cả chắc giờ đang chửi om sòm. - Rồi lo lắng, Pa-ven nói vội: - Thôi, chào cô, giờ tôi phải chạy như phi thân đến xưởng ngay lập tức mới được.

Tô-nhi-a cũng đứng dậy ngay, khoác áo vào người:

- Tôi cũng đến giờ phải đi đây. Vậy ta cùng đi.

- Không, tôi vội, phải chạy, cô không theo kịp được.

- Anh tưởng thế? Chúng ta cùng chạy, thi xem ai nhanh.

Pa-ven đưa mắt nhìn Tô-nhi-a có vẻ khinh thường :

- Thi à? Cô thi thế nào được với tôi!

- Rồi xem. Giờ ta hãy ra khỏi đây đã.

Pa-ven nhảy qua hòn đá, chìa tay cho Tô-nhi-a, và cả hai cùng chạy ra con đường cái rộng phẳng tới nhà ga.

Tô-nhi-a dừng lại giữa đường:

- Nào, giờ chúng ta chạy nhé! Một, hai, ba. Đố anh bắt được đấy.

Và Tô-nhi-a chạy tít lên như gió lốc. Đôi đế giày xinh nhỏ bay nhanh trông như cánh bướm, gió thổi tung tà áo xanh. Pa-ven vụt đuổi theo. "Mình sẽ đuổi kịp trong nháy mắt" - Pa-ven nghĩ thế, và cắm cổ đuổi theo tà áo dài. Thế mà chạy đến tận đầu đường, gần tới nhà ga mới đuổi kịp. Đang đà chạy, Pa-ven chạm vào người Tô-nhi-a và nắm lấy vai cô. Vừa thở gấp Pa-ven vừa kêu lên mừng rỡ!

- Thế là bắt được con chim nhỏ rồi nhé!

- Bỏ ra, đau anh!

Hai người cùng thở gấp, tim cùng đập mạnh. Cuộc chạy say sưa, Tô-nhi-a mệt quá, như vô tình, trong giây phút, nép mình vào bạn; một giây phút thôi, nhưng cũng đủ làm cho Pa-ven cảm thấy Tô-nhi-a trở nên gần gũi. Chỉ chốc lát thoáng qua nhưng Pa- ven sẽ nhớ mãi.

Tô-nhi-a gỡ tay Pa-ven.

- Xưa nay Tô-nhi-a chạy không ai đuổi kịp cơ, anh ạ.

Hai người chia tay nhau, Pa-ven tay vẫn vẫy mũ cát-két rảo bước chạy đến nhà máy. Người thợ cả Đa-ni-lô đang loay hoay bên lò lửa thấy Pa-ven mở cửa vào liền quay lại đùng đùng gắt:

- Mày không để chậm nữa hãy đến! Định để tao phải đi đốt hầu thay mày đấy hẳn?

Nhưng Pa-ven vui vẻ vỗ vai người thợ cả và nói làm lành:

- Thưa bố, chỉ một thoáng là con làm lò cháy đâu vào đấy thôi.

Rồi Pa-ven cặm cụi khuân củi cho vào lò.

Nửa đêm hôm ấy, vào lúc người thợ cả đất lò Đa- ni-lô đã yên giấc trên chồng củi, tiếng ngáy khò khò như kéo gỗ, sau khi đã cho dầu mỡ vào máy xong, rửa tay đâu đấy, Pa-ven mở ô kẻo lấy tập thứ sáu mươi hai truyện Giu-dép-pe Ga-ri-ban-đi (Một lãnh tụ cách mạng dân chủ nổi tiếng của nhằn dân Ý hồi thế kỷ 19) ra đọc. Pa- ven mê mải đọc cuốn truyện kể những bước mạo hiểm liên miên của Ga-ri-ban-đi, người thủ lĩnh thần kỳ đảng "Áo đỏ" xứ Náp-lơ.

Tập truyện có câu: "Nàng ngước đôi mắt nhung xanh biếc nhìn chàng công tước..." Pa-ven chợt nhớ: "Tô-nhi-a cũng có đôi mắt xanh biếc. Cô bé ngộ thật, không giống bọn con gái nhà giàu khác tí nào. Mà lại chạy nhanh như quỷ sứ nữa".

Mơ màng nhớ lại buổi gặp gỡ ban trưa, Pa-ven chẳng để ý gì đến tiếng máy lúc ấy rung lên ầm ĩ mỗi lúc một mạnh; hơi nhiều quá làm bánh xe quay tít điên loạn, rung chuyển cả sàn bê-tông bệ máy.

Pa-ven vội nhìn vào ma-nô-mét: Kim đã chỉ quá vạch đỏ bao nhiêu là độ rồi.

- Khỉ thật ! - Pa-ven rời ô kéo chạy bổ đến chỗ cái tay vặn hơi, quay hai vòng. Tiếng xìn xịt phụt ra từ trong ống khói sau thành lò. Pa-ven kéo tay vặn xuống, mắc dây cua-roa vào bánh xe đẩy ống bơm.

Pa-ven ngước nhìn Đa-ni-lô. May quá, ông cụ già ngủ say như chết, mồm há hốc, mũi ngáy rống lên như sấm.

Nửa phút sau, kim đồng hồ ma-nô-mét lại trở lại chỗ bình thường của nó.
*
Sau khi chia tay Pa-ven, Tô-nhi-a đi về nhà. Cô nghĩ mãi đến cuộc gặp gỡ vừa qua với người thiếu niên có đôi mắt đen kia. Tự cô cũng không hiểu sao, cuộc gặp gỡ đã làm cô thích thú.

"Ở con người anh ta có biết bao lửa sống và chí gan góc! Ừ mà anh ấy chẳng thô bạo như mình đã tưởng. Dù sao thì anh ấy hoàn toàn chẳng giống chút nào với bọn học sinh thò lò mũi xanh..."

Anh ta xuất thân từ một loại người khác, từ tầng lớp mà xưa nay Tô-nhi-a chưa có dịp sống gần.

Tô-nhi-a nghĩ thầm: "Mình có thể bảo anh ta được, và sẽ là một tình bạn hay hay".

Đến gần nhà, Tô-nhi-a đã trông thấy Li-da con nhà Xu-khác-cô, Nen-ly và Vích-to, con nhà Lê-sinh- ski, cả ba đang ngồi trong vườn. Vích-to đang đọc sách. Tô-nhi-a biết là họ đang chờ mình.

Cô đến chào mọi người, rồi ngồi xuống ghế. Đang tán gẫu những chuyện tủn mủn thì Vích-to ngồi lại gần Tô-nhi-a nhỏ nhẹ hỏi:

- Cô đã đọc cuốn tiểu thuyết ấy chưa?

- À, cuốn tiểu thuyết ấy à? - Tô-nhi-a bỗng thốt lên: - À, tôi đã...

Cô suýt nói ra là đã để quên cuốn truyện ở bờ hồ.

Vích-to chăm chú nhìn cô:

- Cô có thích cuốn tiểu thuyết đó không?

Tô-nhi-a khẽ lấy đầu mũi giày chậm chạp vạch đi vạch lại vẽ nhằng nhịt trên mặt đường cát, suy nghĩ một lát, rồi ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào Vích-to:

- Không, tôi đã bắt đầu đọc một cuốn tiểu thuyết khác, hay hơn cuốn tiểu thuyết anh cho mượn.

- À ra thế. - Giọng Vích-to kéo dài, có vẻ bực mình.

Hắn hỏi:

- Thế tác giả là ai?

Mắt Tô-nhi-a bừng sáng lên, nhìn Vích-to có vẻ chế giễu:

- Chẳng là ai cả...

Giữa lúc đó, mẹ Tô-nhi-a đứng ở hiên gọi:

- Tô-nhi-a ơi! Con mời khách vào trong nhà ngồi chơi. Trà đã pha rồi.

Tô-nhi-a khoác tay hai bạn gái vào nhà. Còn Vích- to đi sau, suy nghĩ lung về những lời Tô-nhi-a vừa nói, không hiểu ý ra sao.
*
Tình cảm đầu tiên, chưa kịp nhận ra rõ, nhưng đã từ từ len vào đời người thiếu niên làm nghề đất lò lúc nào không biết, tình cảm ấy sao mà mới mẻ, sao mà bồi hồi, khó hiểu. Tình cảm ấy đến làm xáo động hẳn tâm hồn cậu thiếu niên vốn tính tinh nghịch và bướng bỉnh.

Tô-nhi-a là con gái người chánh sở kiểm lâm, mà chánh sở kiểm lâm đối với Pa-ven cũng cùng một giuộc với lão luật sư Lê-sinh-ski.

Lớn lên trong nghèo khổ và đói rách, Pa-ven có một thái độ thù địch với những kẻ mà mình cho là bọn giàu có. Cho nên anh thận trọng và dè chừng ngẫm về tình cảm mới chớm trong lòng. Anh không xem Tô-nhi-a như Ga-li-na, con gái người thợ đá. Ga- li-na là một người bạn con nhà bình dân, giản dị và dễ thông cảm. Còn Tô-nhi-a thì Pa-ven ngại lắm, anh sẵn sàng đối phó quyết liệt với bất cứ sự chế giễu và khinh bỉ nào của người con gái đẹp và có học thức ấy.

Đến một tuần nay, Pa-ven khống gặp lại cô gái con người chánh kiểm lâm. Cho nên hôm nay anh mới định ra bờ hồ hôm nọ, trên đường đi, anh chủ tâm lượn qua trước nhà cô ta, hy vọng may ra gặp. Đang thủng thẳng bước men hàng rào khu nhà cô, Pa-ven thấy ngay cổ chiếc áo lính thủy quen thuộc thấp thoáng ở tận cuối khu vườn. Pa-ven nhặt một quả thông bên hàng rào, nhằm ném vào chiếc áo trắng.

Tô-nhi-a quay phắt lại. Trông thấy Pa-ven, cô chạy ra hàng rào. Cô tươi cười vui sướng chìa tay ra bắt và reo lên mừng rỡ:

- Anh đến đây rồi! Anh đi đâu từ bấy đến nay ? Em có trở lại chỗ hồ nơi cuốn sách để quên, cứ tưởng là anh sẽ lại đến đấy. Anh vào trong này chơi.

Pa-ven lắc đầu từ chối:

- Pa-ven không vào đâu.

Tô-nhi-a ngạc nhiên cau mày:

- Tại sao vậy?

- Có thể cậu cô sẽ không bằng lòng đâu. Vì tôi cô sẽ lại bị mắng mất. Thế nào cậu cô cũng mắng cô sao lại đưa thằng rách rưới, chân đi đất này vào nhà.

Tô-nhi-a nổi giận:

- Anh rõ vớ vẩn, anh Pa-ven ạ. Anh vào ngay đi xem nào. Cậu em không khi nào nói gì đâu. Anh cứ vào mà xem. Vào đi anh.

Tô-nhi-a chạy ra mở cổng. Pa-ven dáng không tự nhiên ngần ngại bước theo Tô-nhi-a. Hai người ngồi chơi ở chiếc bàn tròn chôn hẳn xuống vườn.

Tô-nhi-a hỏi:

- Anh có thích đọc sách không?

Pa-ven đã bạo lên:

- Có. Thích ghê lắm.

- Thế trong các sách đã đọc, anh thích quyển gì nhất?

Pa-ven nghĩ một lát rồi trả lời.

- Truyện Giu-dép-pa Ga-ri-ban-đi.

- Đọc là Giu-dép-pe G-ri-ban-di chứ! - Tô-nhi-a chữa lại. - Anh thích quyển ấy lắm à?

- Thích chứ. Tôi đọc lẻ từng kỳ. Sáu mươi tám kỳ rồi, không sót kỳ nào, mỗi lần lĩnh lương, tôi mua năm số liền. Như Ga-ri-ban-đi mới thật là một con người! - Giọng Pa-ven đầy vẻ thán phục. - Anh hùng thật ! Tôi hiểu lắm, đấy là một anh hùng chân chính. Ga-ri-ban-đi đã bao lần đánh nhau với quân thù và bao giờ cũng thắng chúng. Lại đi khắp bao nhiêu nước. Chà, giá ông ta còn sống đến bây giờ, tôi sẽ tìm đến xin theo ngay. ông ta mộ toàn công nhân vào đảng và chỉ vì những người nghèo mà chiến đấu thôi.

- Anh có muốn lên xem tủ sách của em không? Lên em mở tủ ra anh xem.

Tô-nhi-a nói, rồi dắt tay Pa-ven đi. Nhưng Pa-ven cương quyết chối từ:

- Không, không, tôi chẳng vào nhà đâu.

- Sao anh khó bảo thế. Hay anh sợ, phải không?

Pa-ven nhìn xuống đôi bàn chân không giày chẳng lấy gì làm sạch lắm, và gãi tai:

- Tô-nhi-a có chắc là cậu mợ Tô-nhi-a không đuổi tôi ra cửa không?

Tô-nhi-a giận dỗi:

- Anh đừng có nói thế nữa, không thì em giận thật đấy.

- Tô-nhi-a cho thế là lạ à? Như nhà Lê-sinh-ski chẳng hạn, họ có để tôi vào nhà đâu. Đối với công nhân, nhà lão chỉ tiếp dưới bếp thôi. Hôm nọ tôi có việc sang bên ấy, con Nen-ly nó cũng chẳng để cho bước vào nhà nữa. Trời biết được nó sợ cái gì, chắc là nó sợ chân tôi lấm, đi vào làm bẩn thảm nhà nó, - Pa-ven mỉm cười.

- Thôi, chúng ta vào đi - Tô-nhi-a nắm vai Pa-ven thân mật đẩy lên hiên nhà.

Tô-nhi-a dẫn Pa-ven đi qua buồng ăn đến một phòng rộng có kê một cái tủ bằng gỗ sến rất lớn. Tô-nhi- a mở toang cửa tủ ra, và Pa-ven trông thấy có đến vài trăm cuốn sách xếp thành hàng đâu ra đấy. Sách nhiều quá làm Pa-ven mê tít.

- Giờ chúng ta chọn quyển nào hay anh mang về xem, nhưng anh phải hứa đến luôn để mượn những quyển khác nữa cơ, anh nhé?

Pa-ven vui thích gật đầu:

- Sách thì tôi thú lắm.

Hai người ở chơi với nhau rất vui, suốt mấy tiếng đồng hồ. Tô-nhi-a đưa Pa-ven ra chào mợ. Gặp mẹ Tô-nhi- a, Pa-ven cũng chẳng thấy ghê gớm như mình tưởng, anh cũng thấy mến bà ta.

Tô-nhi-a đưa Pa-ven lên buồng mình, cho Pa-ven xem sách học của cô. Ở bàn chải đầu có một cái gương. Dẫn Pa-ven ra trước gương, Tô-nhi-a vừa cười vừa nói:

- Sao tóc anh để rối bù thế? Anh không bao giờ cắt tóc và chải đầu có phải không?

Pa-ven ngượng nghịu nói chữa:

- Dài quá tôi mới cạo trọc đi thôi. Chứ còn làm thế nào nữa?

Tô-nhi-a vừa cười vừa lấy lược thưa nhanh tay chải qua mái tóc rối bời của Pa-ven. Cô nhìn Pa-ven và nói:

- Bây giờ có phải khác rồi không nào? Tóc anh phải đi húi cho nó đẹp chứ. Lúc nãy, trông đầu anh y như đầu con sói rừng ấy.

Tô-nhi-a liếc nhìn cái áo sơ-mi bạc phếch, chiếc quần cộc đã mòn dũng của Pa-ven có ý không bằng lòng nhưng không nói gì cả.

Pa-ven bắt gặp cái nhìn đó và cảm thấy ngượng về cách ăn mặc của mình.

Khi chia tay nhau, Tô-nhi-a còn mời Pa-ven lại chơi luôn, và cô đã làm cho Pa-ven phải hứa là.hai ngày nữa sẽ đến rủ Tô-nhi-a đi câu.

Pa-ven nhảy tót qua cửa sổ ra vườn: anh không muốn đi qua nhà ngoài một lần nữa, sợ lại gặp phải mẹ Tô-nhi-a.
*
Vắng A-rơ-chom, nhà Ca-rơ-sa-ghin túng tợn: lương Pa-ven không đủ chi dùng.

Bà mẹ đành bàn với con: có lẽ bà lại nên đi làm chăng? Cũng được dịp là nhà Lê-sinh-ski đang cần người nấu bếp. Nhưng Pa-ven gạt đi ngay:

- Không, mẹ ạ, con sẽ xoay ra việc làm thêm: Ở sở máy cưa đang mượn người xếp gỗ phiến. Con sẽ xin làm nửa buổi, kiếm thêm thì hai mẹ con tiêu cũng vừa. Còn mẹ thì cứ nghỉ ở nhà. Để mẹ đi làm, anh A-rơ-chom về sẽ mắng con. Anh sẽ bảo: "Mày không xoay xở được cho mẹ hay sao mà để mẹ phải đi hầu hạ người ta mãi thế ?"

Bà mẹ thì bảo là bà cần phải đi làm, nhưng Pa- ven khăng khăng không nghe nên bà đành chịu thôi.

Ngay ngày hôm sau. Pa-ven đã đến làm ở sở máy cưa: đem các phiến gỗ mới cưa còn ướt xếp ra phơi cho khô. Ở đây anh gặp nhiều bạn quen như Mi-sơ- ca Lép-súc là bạn học cùng trường trước đây và Va- ni-a Cu-lê-sốp, Pa-ven cùng với Mi-sa đồng ý với nhau hai người làm chung một phần việc. Tiền lương cũng kha khá. Ban ngày Pa-ven làm ở sở máy cưa, chiều đến lại chạy tới nhà máy điện.

Làm được mười hôm, Pa-ven mang về cho mẹ một món tiền. Khi đưa tiền cho mẹ, Pa-ven ngượng ngùng di chân trên đất, trù trừ mãi mới dám nói:

- Mẹ ơi, mẹ có thể may cho con một chiếc áo xa- tanh xanh không mẹ? Như chiếc áo năm ngoái của con ấy mà. May thì tốn mất độ nửa số tiền này, nhưng con còn kiếm được nữa, mẹ đừng lo. - Rồi Pa-ven nói thêm như để xin lỗi vì đã đòi hỏi mẹ nhiều quá: - Mẹ xem đây, cái áo con đang mặc tàng quá rồi.

- Được được, con ạ, mẹ sẽ mua ngay vải hôm nay rồi mai mẹ sẽ cắt áo cho con. Ừ, phải đấy, con chẳng có chiếc áo mới nào.

Mẹ già nhìn con trìu mến.
*
Pa-ven dừng lại bên hiệu cắt tóc, thò tay vào túi, sờ lại đồng tiền rúp trong túi, rồi mới dám bước vào. Thợ cắt tóc là một chàng hóm hỉnh chỉ ghế bành cho khách.

- Mời cậu ngồi.

Ngồi lọt thỏm vào chiếc ghế bành, Pa-ven ngắm vào gương thấy vẻ mặt mình lúng túng ngơ ngơ ngác ngác.

- Húi trọc phải không cậu? - Người thợ cắt tóc hỏi.

- Vâng, à không phải. Bác hớt tóc cho tôi. Hớt thế này là húi kiểu gì bác nhỉ? - Tay Pa-ven luống cuống ra hiệu.

- Được được tôi hiểu rồi. - Người thợ cạo mỉm cười.

Mười lăm phút sau, Pa-ven đi ra, mồ hôi nhễ nhại, nhưng đầu tóc mới húi, chải lược trông chỉnh lắm. Người thợ cắt tóc phải khó nhọc mất nhiều thời giờ với mớ tóc bờm khó bảo đó, nhưng nước lã và răng lược cuối cùng đã thắng.

Ra đường, Pa-ven trút hơi thở dài, đội chụp mũ cát-két xuống tận mắt nghĩ bụng: "Mẹ mình trông thấy đầu mới sẽ nói thế nào nhỉ?"
*
Pa-ven không đến rủ đi câu cá như đã hứa, làm Tô-nhi-a bực mình lắm.

"Cái anh chàng đốt lò này chẳng lịch sự chút nào cả!" - Tô-nhi-a lấy làm bực dọc, song mãi không gặp lại Pa-ven, Tô-nhi-a cảm thấy buồn.

Cô sắp đi dạo chơi thì mẹ mở cửa vào, báo tin: "Tô- nhi-a, có khách tìm con. Mẹ mời vào nhé?"

Pa-ven đứng ở cửa. Thoạt nhìn, Tô-nhi-a cũng không nhận được ra ngay.

Pa-ven diện áo xa-tanh xanh mới tinh, quần đen, đôi giày đánh xi bóng lộn và nhất là tóc mới cắt gọn gàng, không xù lên như hôm nào, làm Tô-nhi-a chú ý ngay. Tóc không rối bù như trước nữa, cậu bé đốt lò mắt đen bây giờ trông khác hẳn.

Tô-nhi-a đã chực thốt ra nỗi sửng sốt của mình. Nhưng không muốn làm cho Pa-ven đã ngượng ra mặt lại phải bối rối thêm, nên cô làm bộ như không để ý đến sự thay đổi rõ rệt đó.

Tô-nhi-a trách ngay Pa-ven:

- Sao anh không đến rủ đi câu? Anh giữ lời hứa thế đấy? Anh không biết xấu hổ à?

Mấy ngày nay Pa-ven làm thêm ở sở máy cưa, nên không đến được.

Pa-ven không dám nói cho Tô-nhi-a biết rằng để sắm áo quần này, mấy ngày nay Pa-ven đã phải cặm cụi làm đến mệt lử. Nhưng Tô-nhi-a nghe qua đã tự đoán ra ngay và mọi nỗi bực dọc với Pa-ven đã biến đi đâu hết cả:

- Ta ra hồ chơi đi.

Hai người đi ra vườn rồi bước ra đường cái. Pa- ven kể cho Tô-nhi-a nghe như kể cho người bạn thân nhất câu chuyện bí mật về khẩu súng lấy cắp được của lão quan hai. Rồi anh hứa hôm nào sẽ dẫn Tô- nhi-a vào tận rừng sâu tập bắn. Bất chợt, Pa-ven buột mồm gọi Tô-nhi-a bằng "em":

- Nhưng em nhớ, chuyện anh kể, em đừng nói lộ với ai, kẻo hại anh đấy.

Tô-nhi-a nghiêm trang hứa:

- Em sẽ không bao giờ lộ với ai để hại anh đâu, anh ạ !

Thép đã tôi thế đấy
Chương IV

Lửa đấu tranh giai cấp gay gắt, ác liệt, bốc cháy cả vùng U-cơ-ren này. Số người cầm súng đánh nhau mỗi ngày một đông, và mỗi lần xung đột lại đẻ ra thêm những người chiến đấu mới.

Đối với người dân, cuộc đời êm đềm năm xưa đã chìm xa vào dĩ vãng.

Giờ đang đùng đùng bão táp, ình oàng tiếng đại bác làm rung chuyển những căn nhà nhỏ ọp ẹp. Và người dân ép mình vào tường hầm ẩm ướt hay rúc xuống những hào trú ẩn đào vội.

Bọn thổ phỉ dưới trướng Pết-lu-ra đủ màu sắc, đủ xu hướng như nước lũ tràn về vùng này: quan lớn, quan nhỏ, đủ các thứ đầu lĩnh kiểu Gô-lúp, Ác-khan- ghen, An-ghên, Goóc-di và hằng hà sa số môn phái thổ phỉ khác.

Bọn quan cũ của Nga hoàng, bọn xã hội cách mạng tả phái, hữu phái xứ U-cơ-ren, bất cứ tên anh chị nào có gan rủ được, một tụi lưu manh giết người nữa theo, là tự xưng ngay làm đầu lĩnh; đôi khi chúng còn kéo cờ vàng xanh da trời, hiệu cờ của quân Pết-lu-ra và cướp lấy chính quyền, tùy tài tùy sức mà chiếm lấy phạm vi tác oai tác quái.

Tên "đầu lĩnh trưởng" Pết-lu-ra mộ quân lập những trung đoàn, sư đoàn của nó chính từ đám thổ phỉ ô hợp ấy được bọn cu-lắc và các trung đoàn người Ga- li-xi thuộc quân đoàn xung kích của tên đầu lĩnh Cô- nô-van nhập bọn vào thêm. Giữa đám bùn nhơ những quân phản cách mạng và bọn cu-lắc, nổi bùng lên những đơn vị du kích đỏ, và đất chuyển dưới hàng trăm ngàn móng ngựa sắt, đất chuyển dưới những bánh xe bò chở súng liên thanh và những chuyến xe lửa chở pháo binh.

Vào tháng Tư của năm 1919 rối bời này, người thường dân ngơ ngác bị nhiều phen kinh hoàng chết khiếp, cứ sớm mai ngủ dậy, chưa kịp dụi mắt, đã hé mở cửa sổ nhà mình, ghé sang lo lắng hỏi người hàng xóm dậy trước:

- Bác Áp-tô-nom Pê-tờ-rô-vích này, chính quyền tỉnh mình hôm nay về quân nào nhỉ?

Áp-tô-nom Pê-tờ-rô-vích vừa xốc quần đùi, vừa lấm lét nhòm chung quanh xem có ai không rồi nói thì thào:

- Không biết, bác A-pha-nắt Ki-ri-lô-vích ạ. Đêm qua có quân nào kéo vào ấy. Đợi tý xem. Nếu quân này mà hành người Do-thái thì đúng cánh Pết-lu-ra rồi. Nếu phải bộ đội "các đồng chí" về thì gặp cái, nghe cách ăn nói là biết ngay thôi. Tôi cũng đang đứng đây rình xem là bọn nào để còn tính treo ảnh gì trong nhà cho tiện, tránh mọi chuyện lôi thôi vào mình. Hôm nọ, bác Ghê-ra-xim, láng giềng nhà tôi, lầm một tí mà bị một vố. Nhìn chưa rõ trắng đen đã vội treo ảnh Lê-nin lên, tưởng lầm là cách mạng đã về. Thì vớ ngay ba thằng ngụy ập vào. Bác tính, ba thằng quân Pết-lu-ra vừa nhìn thấy ảnh đó là xô vào bác ta ngay, cứ roi ngựa nện lấy nện để. Bị đến hai mươi roi. Chúng nói: "Đồ chó, cái thằng cộng sản kia. Ông sẽ róc da xẻo thịt mày chết tươi ngay". Bác ấy cố kêu xin, cố phân trần với chúng, song vô hiệu.

Trông thấy từng toán lính có súng đi ngoài đường, hàng phố đóng sập cửa sổ, tránh mặt trốn trong nhà.Tai họa đã đến quá nhanh...

Anh em công nhân thì nghiến răng cau mày, căm tức nhìn lá cờ màu vàng xanh da trời của bọn côn đồ dưới trướng Pết-lu-ra. Anh em công nhân, lực lượng còn yếu, không sao chống nổi cơn sóng bài chủng sô- vanh (chỉ tinh thần vị chủng mù quáng, hẹp hòi ) bột phát đó, chỉ trỗi lên mỗi khi có bộ đội đỏ bị quân cờ vàng xanh da trời bao vây, ép phải đánh về chọc sâu vào thành như một mũi dùi xoáy vào thân cây. Lá cờ ruột thịt đỏ chói phấp phới trên nóc tòa thị sảnh, một ngày, hai ngày, nhưng rồi bộ đội lại rút đi, và tình hình trở lại nhá nhem, tranh tối tranh sáng.

Hiện nay, lão quan năm Gô-lúp đang làm chúa ngự trị trong thành này. Lão ta là "vinh dự và kiêu hãnh" của sư đoàn tả ngạn sông Đơ-nhi-ép.

Hôm qua đám quân gồm hai ngàn tên giết người của lão thắng thế kéo vào thành phố. Lão quan năm đi đầu cưỡi con ngựa giống tốt mã. Nắng tháng Tư đã nóng mà lão vẫn khoác áo bành-tô của người vùng Cô-ca-dơ, đội mũ lông xứ Da-pô-rô có đính huy hiệu màu tía, mình mặc quân phục kiểu Séc-kết, lưng đeo đủ bộ: dao găm và kiếm nạm bạc.

Lão quan năm trông bảnh trai, lông mày đen, da mặt tái, hơi rám vàng vì lão hay uống rượu say be bét. Miệng lão ngậm cái píp. Trước cách mạng, lão làm chuyên gia nông học trong những đồn điền trồng củ cải đường của nhà máy làm đường. Cuộc đời ấy mờ tẻ lắm ! Bì sao được với danh vọng đầu lĩnh này. Và anh chàng chuyên gia nông học ngoi lên mặt những dòng nước đục ngầu đang tràn ngập ngựa xứ này. Giờ đây lão ta đường đường là quan nắm đầu lĩnh Gô-lúp.

Rạp hát độc nhất của thành phố đã được trang hoàng để mở dạ hội chào mừng bọn mới đến.

Tất cả "tinh hoa" của giới thượng lưu trí thức thuộc phái Pết-lu-ra đều có mặt: đám giáo học người U-cơ- ren; hai con gái lão cố : con A-nhi-a xinh đẹp và em nó là Di-na, lũ bà nhỏ, bà lớn sở tại, tất cả đám đầy tớ cũ của lão bá tước Pô-tô-ski ngày trước, một dúm tiểu tư sản xưng danh là phái "Cô-dắc tự do", bọn xã hội cách mạng hậu sinh của xứ U-cơ-ren.

Rạp chật ních. Mặc quần áo địa phương U-cơ-ren sặc sỡ thêu hoa, vòng cổ, dải băng đủ màu sắc, các mụ giáo học, hai con gái lão cố, những mụ trưởng giả được cả một lũ sĩ quan bâu lại, bọn này đeo "cựa gà" lẻng xẻng trông hệt như những bức tranh cổ tả những người cô-dắc Da-pô-rô.

Nhạc binh của trung đoàn đang vang lên inh ỏi. Trên sân khấu hối hả chuẩn bị diễn tích Na-da Stô-đô-li-a.

Điện không có, người ta đã báo đến bộ tham mưu cho lão quan năm biết, lão định thân chinh đến dự buổi dạ hội này cho thêm phần long trọng. Cho nên nghe báo không có điện lão đủng đỉnh hất hàm ra lệnh cho tên quan hầu là Pa-lê-nứt; tên này còn có tên là lão một Pô-li-an-xép.

- Phải có điện. Mày muốn chết thì chết, nhưng phải tìm cho kỹ được một thằng thợ điện và bắt nó chữa cho máy điện chạy.

- Thưa đại tá, xin tuân lệnh.

Pa-lê-nứt không chết và đã tìm được thợ điện. Hai tiếng đồng hồ sau, mấy tên lính ngụy dẫn Pa- ven đến nhà máy điện. Hai bác thợ lắp máy và thợ chữa xe máy cũng bị điệu đến cùng với Pa-ven. Tên quan hầu nói cộc lốc: "Nếu bây giờ tối không có điện, tao sẽ treo cổ tuốt ba đứa bay". Nó vừa nói vừa chỉ tay lên xà nhà bằng sắt.

Lý lẽ cộc lốc ấy đã có hiệu quả: đúng thời hạn hắn định, điện lại sáng.

Giữa lúc dạ hội đang náo nhiệt, thì lão quan năm đi vào. Lão đi với con đào của lão là con gái nhà hàng lão trọ. Đứa con gái ngực nở núng na núng nính, tóc đen nhạt như màu lúa mạch.

Bố nó là lão chủ quán giàu sụ cho nó đi học ly- xê (trung học) ở tỉnh lỵ. Khi con bé và lão quan đã lên ngồi trên ghế danh dự ngay trước sân khấu thì lão quan năm ra hiệu cho phép bắt đầu. Màn kéo lên ngay. Người xem còn nhìn thấy lưng lão đạo diễn chạy vội vào buồng trò.

Giữa lúc trên sân khấu đang diễn kịch, bọn sĩ quan cùng với đào của chúng ra căn hàng ăn uống thả cửa với nhau, nốc những thứ rượu mạnh mà tên quan hầu Pa-lê-nứt vét khắp mọi nơi về, chén những món thịt chúng tịch thu của dân; đến cuối chầu kịch thì cả lũ chúng nó đã chếnh choáng hơi men rồi.

Tên quan hầu nhảy lên sân khấu, điệu bộ như đóng kịch tuyên bố :

- Thưa các quý ông, quý bà, sắp sửa bắt đầu khiêu vũ.

Mọi người vỗ tay hoan nghênh, rồi đi ra khỏi phòng cho bọn lính ngụy dẹp ghế lấy chỗ nhảy.

Nửa giờ sau là trong rạp đã nhảy loạn lên rồi. Khoái chí, bọn sĩ quan của Pết-lu-ra mặt bừng bừng như lửa, say sưa nhảy những mục khó nhất của vũ Cô- dắc với lũ sư tử cái địa phương má nóng đỏ ửng. Tiếng chân giậm ình ịch làm rung chuyển cả tường rạp hát cũ đã mọt.

Cùng lúc ấy, ở mé cối xay lúa một đội kỵ binh tiến vào thành phố. Vọng gác của quân Gô-lúp đóng ở đầu tỉnh trông thấy hốt hoảng vớ vội lấy súng máy. Tiếng quy-lát lách cách. Tiếng thét lên trong đêm tối:

- Ai? Đứng lại!

Hai bóng đen nổi lên trong đêm tối, một tên lại gần lũ lính gác, giọng ồm ồm trả lơi:

- Đây là đầu lĩnh Pa-vơ-lúc và quân của Người. Các người có phải quân của Gô-lúp không?

Tên đội trưởng ngụy tiến ra trả lời:

- Vâng.

Pa-vơ-lúc hỏi:

- Quân của ta đóng ở đâu được?

- Dạ, để tôi xin gọi điện thoại về bộ tham mưu hỏi xem. - Tên đội trưởng đáp lại, rồi tiến vào căn nhà bên đường. Một lát, hắn chạy lại ra lệnh cho bọn lính gác.

- Quân bay dẹp súng máy bố trí trên đường cái để cho quan đầu lĩnh ngài đi.

Pa-vơ-lúc giật cương ngựa đi và dừng lại trước rạp hát sáng choang, quanh rạp người đang đi lại nhộn nhịp.

Hắn quay lại nới với tên quan ba phụ tá đứng bên cạnh:

- A, a, ở đây họ chơi vui nhỉ. Ta xuống ngựa vào chơi cái đã. Thế nào bọn mình cũng quắp được một vài con mái khau kháu đi. Trong ấy chắc không thiếu giống. Sta-lơ-cô này, ngươi thu xếp chỗ cho quân lính ở nhớ. Còn ta thì dừng lại đây cùng với bọn vệ binh của ta.

Nói rồi, hắn nhảy xuống đất đến phịch một cái, làm con ngựa cũng phải loạng choạng không đứng vững.

Đến cửa rạp hát, hai tên lính Pết-lu-ra vác súng đứng gác, chặn lại hỏi:

- Ngài cho xem giấy mời.

Pa-vơ-lúc khinh khỉnh nhìn bọn lính gác, lấy vai ẩy một thằng ra bên. Mười hai tên hộ vệ cũng ẩy bọn gác và đi theo tên đầu lĩnh bước vào. Ngựa của chúng đã buộc cả ngoài hàng rào.

Bọn mới đến bị để ý ngay, nhất là thân hình đồ sộ của Pa-vơ-lúc. Hắn mặc áo sĩ quan bằng nỉ tốt, quần xanh như quần vệ binh, đầu hắn đội mũ lông cao lêu nghêu. Khẩu Mô-de đeo vắt qua vai, lựu đạn tay thò ra khỏi túi.

- Ai thế nhỉ? - Tiếng hỏi nhau thì thào trong đám người đứng vây quanh bọn đang nhảy nhót. Tên phó của Gô-lúp đang nhẩy rất ham mê điệu Bão tuyết mê cuồng. Hắn nhảy với con gái lớn của lão cố, con này quay tít chẳng giữ ý tứ gì cả, váy tốc lên xòe ra, khiến bọn Pa-vơ-lúc nhìn thấy cả quần đùi lụa bóng. Chúng trố mắt nhìn đầy vẻ khoái trá.

Pa-vơ-lúc lấy vai rẽ đám đông bước vào chính giữa vòng nhảy.

Cặp mắt đục ngầu dán mãi vào chân con gái lão cố, hắn thè lưỡi liếm cặp môi héo, rồi đi qua vòng nhảy đến chỗ dàn nhạc, giơ roi ngựa ra lệnh:

- Chơi bài vũ khúc Cô-dắc !

Tên nhạc trưởng chẳng để ý gì đến mệnh lệnh của hắn.

Pa-vơ-lúc liền vung tay quất roi ngựa vào lưng nhạc trưởng làm hắn nảy người lên như bị chó cắn.

Nhạc im bặt, cả rạp lặng đi.

Con gái lão chủ quán căm tức lắm, cánh tay kẹp chặt khuỷu tay lão quan năm Gô-lúp:

- Thật là đểu cáng! Mình đừng để cho chúng nó láo thế được.

Gô-lúp nặng nề đứng dậy, lấy chân đẩy chiếc ghế trước mặt, tiến lên ba bước, đến gần Pa-vơ-lúc mặt sát mặt. Lão ta nhận ra Pa-vơ-lúc ngay từ đầu. Lão có mối hiềm thù cũ với Pa-vơ-lúc, tay kình địch tranh chấp với lão ngôi chúa tể vùng này.

Mới cách đây một tuần, Pa-vơ-lúc cũng đã chơi khăm lão một vố rất cay.

Giữa lúc đang kịch chiến với một trung đoàn đỏ, một trung đoàn đã nhiều lần làm cho quân Gô-lúp khốn đốn, dáng lẽ phải đưa quân đánh tập hậu vào quân bôn-sê-vích, Pa-vơ-lúc lại bỏ mặc Gô-lúp, quay ra ập vào một thị trấn. Bộ đội đỏ đóng ở đấy có mấy đồn nhỏ, Pa-vơ-lúc dồn họ ra khỏi thị trấn không khó lắm. Lấy xong thị trấn, liền bố trí lính gác ngăn bọn Gô-lúp, rồi cho quân vào tổ chức ăn cướp đàng hoàng. Lẽ tất nhiên, chúng càn dân Do-thái, làm đúng y như một tên bộ hạ "chính tông" của Pết-lu-ra thường làm vậy.

Trong khi ấy thì bộ đội đỏ thừa cơ khuýp cánh quân sườn bên phải của Gô-lúp, nện tơi bời rồi rút mất.

Vậy mà quân kiêu kỳ vị kỷ ấy hôm nay lại ngang nhiên kéo bừa vào rạp hát này và trước mặt lão, đường đường là một vị quan năm đầu lĩnh, dám giơ roi đánh người nhạc trưởng của lão. Không, không thể để cho hắn làm như thế được. Gô-lúp biết nếu không trị ngay lập tức tên đầu lĩnh ngạo mạn này, thì còn gì là uy tín của lão đối với quân lính trong trung đoàn nữa.

Trong mấy giây đồng hồ, hai đứa lặng lẽ gườm mắt nhìn nhau, không nói.

Một tay nắm chắc đốc kiếm, một tay sờ vào khẩu súng trong túi, Gô-lúp quát lên:

- Ai cho phép ngươi dám đánh người của tao, đồ khốn nạn !

Tay Pa-vơ-lúc cũng lần đến bao da khẩu Mô-de.

- Xin ngài hãy từ từ, tướng quân Gô-lúp ạ ! Nếu không thì ngài có thể lộn bật đế giày đấy thôi. Xin ngài đừng trêu vào tôi, kẻo tôi không nén giận được đâu.

Những lời ấy càng làm cho Gô-lúp tức trào lên cổ. Hắn ra lệnh:

- Quân đâu, tống cổ chúng nó khỏi đây cho ta, quật vào mặt chúng nó! Cho mỗi đứa hai mươi nhăm roi đòn cho nhừ tử chúng nó ra!

Lũ sĩ quan Cô-dắc như một đàn chó chạy xô lại, ập vào vây kín lấy bọn Pa-vơ-lúc.

Một tiếng súng nổ giòn tan, như tiếng bóng đèn giáng mạnh xuống đất. Quân hai bên quần nhau như bầy chó dữ cắn lộn. Hai bên cùng điên tiết lên cả, lấy kiếm đâm nhau, nắm lấy tóc nhau, bóp cổ nhau. Đám phụ nữ sợ xanh mắt, rú lên thất thanh như tiếng lợn bột, lủi ra xa bọn đàn ông đang cấu xé nhau.

Mấy phút sau, bọn Pa-vơ-lúc bị tước hết vũ khí, ăn đòn nhừ tử, bị đẩy ra sân, rồi bị vứt ra đường.

Pa-vơ-lúc trong lúc loạn đả bị tuột mất cả mũ lông, mặt mày bê bết máu tím, vũ khí bị tước sạch. Hắn tức lộn ruột, nhảy lên ngựa cùng bộ hạ phi đi thẳng.

Thế là hỏng mất cả buổi dạ hội rồi. Sau chuyện vừa xảy ra, chẳng ai còn bụng dạ nào mà đú đởn nữa. Phụ nữ nhất định không chịu ở lại nhảy, nằng nặc đòi dẫn về nhà. Thấy thế, Gô-lúp phát khùng lên. Hắn ra lệnh:

- Gác lấy cửa, cấm không cho ai ra ngoài.

Tên quan hầu hối hả vâng lệnh. Mọi người kêu ca phản đối, Gô-lúp cứ một mực bắt ở lại:

- Thưa quý bà, quý ông, ta sẽ nhảy đến sáng. Tôi xin nhảy trước bài "van" đầu đây.

Nhạc lại nổi lên, song nhạc chơi chẳng được mấy chốc. Lão quan năm ôm con gái lão cố chưa kịp đi hết một vòng thì lính gác đã đâm bổ vào rạp hát kêu lên:

- Quân Pa-vơ-lúc đã vây rạp hát.

Cửa sổ nhìn xuống đường ở gần sân khấu bị bắn vỡ toang kính rơi tung tóe. Ngay chỗ vỡ há hốc ấy, một khẩu liên thanh thò mõm vào, miệng súng dõi theo những bóng người khiếp đảm đang chạy tán loạn. Để tránh nòng súng ghê sợ, mọi người chạy dồn vào giữa rạp hát. Tên quan hầu của Gô-lúp rút súng bắn vào bóng đèn điện nghìn nến, tiếng nổ như bom, mảnh vỡ tóe ra như mưa rơi rắc lên đầu mọi người.

Tối om om. Bên ngoài có tiếng thét vào: "Đi ra ngoài sân tất cả"! Và tiếng la mắng, tiếng chửi rủa nhao nhao lên.

Tiếng rú thất kinh, mê dại của phụ nữ, tiếng ra lệnh giận dữ của lão Gô-lúp đang tất tả trong phòng, lồng lộn quát tháo ra lệnh, định tập hợp lũ sĩ quan đã mất vía, tiếng súng, tiếng kêu inh ỏi ngoài sân hòa thành một thứ ồn ào náo động ở ngoài như chợ vỡ. Không ai để ý là Pa-lê-nứt đã chuồn ra cửa sau trông ra một phố vắng, chạy như gió về ban tham mưu trung đoàn.

Nửa giờ sau, hai bên đánh nhau ra trò, chiến trận dàn ra giữa phố. Có tiếng súng nổ giòn liên tiếp phá tan yên tĩnh ban đêm, tiếng liên thanh vang rền không ngớt. Dân phố rất đỗi kinh ngạc, vội vàng tụt khỏi giường ngủ yên ấm, chạy ra dán mắt vào cửa sổ nhìn.

Dần dần tiếng súng im đi, chỉ còn ngoài mé ngoại ô xa, có tiếng liên thanh vang lên như chó sủa.

Đánh nhau ngớt dần. Sáng rồi...

Tin dữ vang đi khắp thành phố : người ta đồn sắp sửa có cuộc càn Do-thái. Tin đồn ấy chui vào tận những túp lều Do-thái thấp lè tè, cửa sổ ti hí, bám cheo leo trên bờ dốc bẩn của rãnh nước đổ ra sông. Trong những chiếc hộp gọi là nhà ấy, dân nghèo Do-thái sống chen chúc, khổ sở.

Ở nhà in mà Xéc-gây làm đã được hai năm, phần lớn anh em thợ sắp chữ và thợ máy đều là người Do- thái. Xéc-gây thân với anh em như bà con trong nhà. Mà tất cả thợ in là một nhà thật. Họ đoàn kết nhau lại chống lão chủ Bơ-lum-tanh giàu sụ, vênh váo. Giữa chủ và thợ là một cuộc đấu tranh không ngừng. Lão Bơ-lum-tanh chỉ tìm cách bòn rút cho nhiều sức lao động của thợ, mà tiền lương thì trả ít nhất. Cho nên, nhà in thường có khi đóng cửa hàng tuần lễ: thợ in bãi công. Anh em thợ tất cả mười bốn người. Xéc-gây ít tuổi nhất, cũng phải làm mười hai tiếng một ngày, quay máy in quần quật.

Hôm ấy Xéc-gây để ý thấy anh em có vẻ lo lắng, xôn xao. Đã mấy tháng nay, tình hình nguy ngập, nhà in không có việc làm đều, làm xong món hàng này lại phải đợi món hàng khác. Hiện đang in bản hiệu triệu của "đầu lĩnh trưởng".

Bác thợ sắp chữ Mên-đen kéo Xéc-gây ra một góc, cặp mắt buồn rầu của bác nhìn Xéc-gây hỏi:

- Chú có biết sắp có càn dân Do-thái ở đây không?

Chú bé nhìn bác ta, ngơ ngác:

- Không, em không biết gì cả.

Bàn tay khô đét, vàng khè của Mên-đen để lên vai Xéc gây và nói đầy tin cẩn như cha nói với con:

- Nó định càn thật đấy. Nó sẽ hành hạ dân Do- thái. Anh hỏi chú nhé, chú có lòng giúp anh em trong lúc hoạn nạn này không?

- Nhất định là giúp chứ! Cháu giúp được gì, cháu xin giúp ngay. Xin bác cứ nói đi.

Anh em thợ cũng lắng tai nghe câu chuyện.

- Chú thảo lắm Xê-ri-ô-gia ạ. Anh em chúng tôi tin ở chú. Ông cụ đẻ ra chú cũng là dân thợ nhà ta cả. Chú chạy ngay về nhà nhé, nói với cụ xem có nhận cho mấy người già với đàn bà con gái trốn tạm lại đằng nhà không. Chúng tôi sẽ chọn trước những người sang lánh bên ấy. Rồi nói thêm với nhà xem có còn nhà ai lánh được nữa nhé. Hiện nay bọn phỉ ấy chưa dám đụng đến người Nga. Chú chạy nhanh về hỏi ngay hộ, gấp lắm rồi.

- Được bác cứ tin ở cháu ! Cháu chạy sang hỏi cả nhà Pa-ven và Cơ-lim-ca nữa. Chắc nhà chúng nó cũng không từ chối đâu.

Xéc-gây xăm xăm chạy đi, nhưng Mên-đen thốt nhiên lo ngại níu lại hỏi thêm:

- Hãy gượm một chút, Pa-ven với Cơ-lim-ca là người thế nào? Chú có hiểu bụng họ không?

Xéc gây gật đầu chắc chắn:

- Bọn nó thế nào ư? Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa-ghin đối với cháu như anh em ruột vậy. Anh của Pa-ven là thợ máy.

Mên-đen yên tâm:

- À, nhà Ca-rơ-sa-ghin anh có biết. Trước cùng thuê chung một nhà. Có thể nhờ vả được đấy. Thôi chú đi, chóng về trả lời cho biết nhé.

Xéc-gây nhảy một bước ra đến đường.

*

Sau khi bọn Gô-lúp đánh nhau với bọn Pa-vơ-lúc được hai hôm thì mở ra cuộc càn Do-thái.

Pa-vơ-lúc thua bị đánh bật ra ngoài, liền chiếm lĩnh thị trấn bên cạnh. Trong trận đánh nhau đêm ấy mỗi bên thiệt chừng hai chục mạng.

Xác lính chết đưa vội đến nghĩa địa, chôn ngay hôm ấy, đám tang không kèn, không trống. Vì chết như thế chẳng vinh gì. Hai thằng đầu lĩnh cắn nhau như hai con chó dại đầu đường, làm chết oan lính, nếu tang lễ linh đình thì cũng bất tiện. Kể thì Pa- lê-nứt cũng muốn chôn cất ầm ĩ để kết tội Pa-vơ-lúc là giặc đỏ; song uỷ ban xã hội cách mạng, do lão cố Vát-xi-li cầm đầu không tán thành làm như thế.

Chuyện đánh nhau đêm trước gây bất mãn sâu sắc trong cả đơn vị Gô-lúp, nhất là đại đội vệ sĩ lại càng ấm ức, vì chúng bị sứt mẻ nhất. Để dẹp mối bất bình đó và lấy lại tinh thần cho lính, thằng quan hầu Pa-lê-nứt đề nghị với chủ tướng cho mở "một chầu tươi". Đấy là tiếng lóng chúng trâng tráo dùng để gọi cái thú nhơ bẩn đi càn Do-thái. Lão quan năm sắp cưới con gái lão chủ hàng cơm, cũng chẳng muốn làm náo động thành phố làm gì, song Pa-lê-nứt tán mãi để lão thấy là phải làm như thế cho lính tráng đỡ bất mãn, nên cuối cùng lão đồng ý.

Thật ra trận càn này cũng làm cho lão quan năm ngài ngại vì lão mới vào Đảng xã hội cách mạng. Vả lại bọn không ưa lão có thể rêu rao lắm chuyện chẳng hay: họ sẽ tung dư luận là lão khát máu Do-thái và thể nào cũng lại ton hót với "đầu lĩnh trưởng" để làm mất uy tín của lão. Nhưng hiện thời Gô-lúp cũng có lệ thuộc chặt gì vào "đầu lĩnh trưởng" Pết-lu-ra đâu mà sợ, vì lão tự kiếm chác lấy để nuôi quân mình, thua được lão chịu cả kia mà. Với lại "đầu lĩnh trưởng" cũng hiểu chán bộ hạ mình thế nào rồi. Hắn đâu có ảo tưởng như là người của hắn có nhân, có đức. Chính hắn nhiều lần cũng ra lệnh cho bộ hạ tịch thu được bao nhiêu thì phải trích một phần gửi lên bộ chỉ huy tiêu dùng, chứ còn nói ai nữa. Còn như tiếng đồn là khát máu Do-thái thì đã hẳn rồi, về khoản ấy danh của Gô-lúp đã vang lừng: chẳng cần thêm thắt gì lắm, đã thành tích chán.

Trận càn bắt đầu lúc mờ sáng.

Một làn sương mờ xám ngoét bao phủ thành phố nhỏ. Phố xá vắng tanh. Đường phố chi chít như một mớ dây vải ướt quấn quanh những khu phố của dân Do-thái mọc lên lộn xộn, và đang im lìm như chết. Những cửa sổ nhỏ đóng kín mít, màn che cửa buông xuống hết, trông những khung cửa như những con mắt người mù.

Đứng ngoài nhìn vào, người ta thấy những khu phố Do-thái dường như đang còn ngủ trưa, say lắm, nhưng thật ra bên trong không ai dám ngủ. Nhà nào nhà ấy đang chờ tai họa giáng xuống. Người nào cũng ăn mặc quần áo sẵn sàng rồi, quây quần trong một căn buồng hẹp, chỉ có những trẻ thơ chưa biết gì mới còn ngủ yên được trên tay mẹ mà thôi.

Sáng hôm ấy, tên đội trưởng vệ sĩ là Xa-lô-mư-ga, da bánh mật, má có sẹo thâm thâm - vết tích một nhát kiếm cũ - lên lay mãi tên quan hầu Pa-lê-nứt.

Tên quan hầu Pa-lê-nứt nặng nhọc thức giấc. Nó còn đắm đuối trong giấc mơ kỳ quặc: con quỷ gù và nhăn như bị cả đêm ám ảnh bây giờ vẫn lấy móng sắc cào cấu cổ họng nó. Nhưng khi ngóc dậy, đầu đau nhức thì hắn mới hiểu: té ra con quỷ ấy là thằng Xa- lô-mư-ga đang lay đầu hắn. Xa-lô-mư-ga lắc vai tên quan hầu:

- Dậy đi thôi, ông thần dịch ơi! Muộn lắm rồi. Đến giờ bắt đầu rồi. Không uống say thêm nữa vào!

Pa-lê-nứt bấy giờ đã tỉnh hẳn, ngồi nhổm dậy; cơn nhức đầu làm hắn nhăn mặt, hắn nhổ bãi nước bọt đắng sè.

- Bắt đầu cái gì? - Hắn trố mắt ngây dại nhìn tên đội trưởng vệ sĩ.

- Còn cái gì nữa? Cái việc tróc bọn Do-thái chứ cái gì nữa. Mày lú lấp rồi sao?

Thật tình, Pa-lê-nứt đã quên khuấy mất cả rồi. Ngày hôm qua, hắn uống rượu chay với Gô-lúp ở dưới ấp. Gô-lúp đem con vợ chưa cưới và lũ bạn rượu của nó về dưới ấy suất thời gian càn này.

Gô-lúp thấy mình vắng mặt trong suốt thời gian càn là rất tiện.

Sau này có sao có thể đổ cho cấp dưới hiểu lầm lệnh trên trong khi chủ tướng vắng mặt. Còn Pa-lê- nứt ở nhà sẽ tha hồ làm tất cả mọi chuyện một cách có ý thức hẳn hoi. Chà, cái món "chầu tươi" ấy thì Pa-lê-nứt là tay thạo có tiếng.

Pa-lê-nứt múc một thùng nước giội lên đầu, thùng nước làm nó tỉnh rượu hẳn. Nó đến ngay ban tham mưu, đi đi, lại lại, ra các mệnh lệnh.

Đại đội vệ sĩ đã lên ngựa. Tên quan hầu tính cẩn thận đã ra lệnh cho lính đứng gác ngăn xóm thợ và nhà ga với trên phố, để tránh mọi phiền phức có thể xảy ra.

Trong vườn nhà Lê-sinh-ski đặt một khẩu súng máy chõ ra đường cái. Nhỡ công nhân có định ập vào cứu thì sẵn sàng quạt đạn chì này.

Chuẩn bị xong đâu đấy, tên quan hầu và Xa-lô- mư-ga lên ngựa. Khi quân sắp sửa tiến thì Pa-lê-nứt mới chợt nhớ ra:

- Dừng lại, tí nữa thì quên... Đánh hai xe ngựa đi theo: ta phải chuẩn bị đồ mừng đại tá lấy vợ. Hô ! hô ! hô...Chiến lợi phẩm hạng nhất thì biếu chủ tướng như thường lệ. Còn tù binh giống cái hạng nhất thì về ta, phó quan của người. Ha, ha, ha... Mày hiểu rồi chứ, thằng đầu gỗ kia?

Tiếng "đầu gỗ" chỉ Xa-lô-mư-ga.

Mắt vàng ệch của tên này sáng lên:

- Rồi ai cũng có phần cả!

Bọn chúng tiến ra đường. Đi đầu là Pa-lê-nứt và Xa-lô-mư-ga, tiếp theo sau là lũ vệ sĩ đi lộn xộn, không hàng ngũ.

Sương sớm tan hẳn rồi. Đến trước nhà hai tầng, có tấm biển hoen gỉ đề "Phúc, cửa hàng tạp hóa và quần áo", Pa-lê-nứt ghìm cương ngựa lại. Con ngựa cái lông xám của nó chân rất thon, cuồng cẳng gõ móng lên vỉa hè. Pa-lê-nứt nhảy xuống đất ra lệnh:

- Nào, nhờ trời phù hộ, ta bắt đầu từ đây đi thôi.

Nó lại nói thêm với bọn cưỡi ngựa đang đứng bao lấy xung quanh nó:

- Xuống cả đi thôi, bắt đầu biểu diễn rồi. Nghe ta nói, quân bay, giờ có gặp Do-thái cũng đừng bập vào sọ vội: thong thả, rồi hẵng hay. Còn như đối với đàn bà con gái, nếu không thật muốn quá, ta cố kìm lại nhớ, để đến tối.

Một tên vệ sĩ nhe bộ răng bàn cuốc ra hỏi lại:

- Cấp trên nói kìm lại thế nào cơ? Nhỡ bên kia nó bằng lòng mê đi thì sao?

Nghe tên quân kia nói thế, cả lũ chúng nó cười như phá. Pa-lê-nứt nhìn tên quân ấy có vẻ khen ngợi:

- Chuyện! Nếu bên kia nó bằng lòng thì cứ việc! Còn ai mà có quyền cấm chú được nữa.

Nói rồi, nó đến trước hiệu buôn, lấy chân đá mạnh vào cửa đóng kín, cánh cửa gỗ sến cả tấm không rung chuyển một tí nào.

Không vào lối này được, tên quan hầu quay ra góc nhà đi lại cửa bên vào nhà ở của lão chủ. Tay hắn nắm đốc kiếm. Theo sau là Xa-lô-mư-ga.

Trong nhà có ba người. Họ đã nghe rõ tiếng móng ngựa lộp cộp trên vỉa hè, song đến khi nghe tiếng ngựa đứng giậm chân mãi ngoài cửa, tiếng bọn lính qua tường vọng vào trong, thì cả ba đều bay hết hồn vía, đứng ngây ra như chết.

Lão Phúc giàu sụ đã cùng vợ con bỏ thành phố này đi, chuồn khỏi đây từ hôm qua. Hắn giao nhà cửa lại cho người ở là Ri-va trông nom. Ri-va là một cô gái mười chín tuổi, tính hiền, ít nói và nhẫn nhục. Muốn cho Ri-va ở nhà vắng một mình đỡ sợ, lão bảo cô đưa cả bố mẹ già đến ở. Cả ba người phải trông nhà cho đến khi lão về.

Ri-va chực không nhận, song lão nhà buôn quỷ quyệt đó lại dỗ ngon, dỗ ngọt cô con ở dễ bảo: chắc đâu đã có càn. Với lại có gì mà sợ mới được: nghèo thì ai người ta lấy gì của mình. Rồi lão còn làm ra bộ nhân đức, hứa với Ri-va hôm nào lão về sẽ thưởng cho chiếc áo mới.

Cả ba đều lo lắng, nghe ngóng, cố bám lấy hy vọng: nào bọn lính có lẽ sắp sửa bỏ chỗ này đi xa, nào có thể chính là chúng lầm, có thể chúng không dừng lại ở trước cửa nhà này đâu, chẳng qua là tại mình nghe lẫn đấy thôi. Nhưng, như để đập vỡ tan tành những hy vọng đó, tiếng đập thình thình nện vào cửa.

Nghe thấy tiếng giày đá vào cửa, ông cụ Bê-sắc, bố đẻ Ri-va, tóc bạc phơ, mắt xanh hốt hoảng như một đứa trẻ thơ khiếp sợ, đứng bên cửa nhà ngoài, cất tiếng lâm râm cầu nguyện. Ông cụ sùng đạo, mê man cầu xin Thượng đế tối linh phù hộ, cầu Thượng đế che chở cho, để quỹ dữ không gieo tai giáng họa xuống nhà này. Bà cụ, đứng nép bên cạnh, tiếng lâm râm cầu kinh của ông cụ làm bà không nhận ra ngay được những tiếng chân người đang bước tới gần.

Ri-va thì trốn vào buồng trong cùng, nấp sau một cái tủ gỗ sến lớn.

Một tiếng đập mạnh, dữ dội, giáng vào cửa làm hai ông bà già run bắn người.

- Mở cửa! - Tiếng đập cửa nữa ầm ầm, dữ hơn, rồi có tiếng chửi rủa điên giận.

Nhưng tay ông bà già không còn đủ sức nâng then cài nữa. Thế là báng súng từ bên ngoài nện chan chát vào ván cửa. Cánh cửa rung lên bần bật, rồi vỡ toang ra.

Lính cầm súng ập vào nhà, sục sạo các xó. Chúng lại lấy báng súng phá cửa ra nhà ngoài, rồi đi ra nâng then cài mở cửa chính.

Bắt đầu cướp phá vơ vét.

Xa-lô-mư-ga đánh về nhà Gô-lúp hai xe ngựa đầy vải vóc, giày dép và nhiều thứ hàng khác; khi nó trở lại nhà hàng Phúc, thì nghe một tiếng rú ghê rợn.

Để cho quân lính lục lọi ngoài hàng, Pa-lê-nứt đi vào buồng trong. Mắt nó xanh lè và sắc nhìn chòng chọc vào ba người Do-thái khốn nạn, rồi nói với vợ chồng ông già:

- Cút !

Cả hai ông bà già không nhúc nhích.

Pa-lê-nứt bước lên một bước, từ từ rút kiếm ra khỏi vỏ.

- Mẹ ! Mẹ ơi !... - Tiếng Ri-va rú lên như xé. Tiếng rú ghê rợn mà Xa-lô-mư-ga nghe thấy chính là tiếng rú đó.

Bọn lính nghe thấy tiếng rú chạy vào thì Pa-lê- nứt quay lại, chỉ vào hai ông bà già, ra lệnh cộc lốc cho bọn lính:

- Tống cổ hai vợ chồng thằng già này đi!

Khi quân lính đã đẩy được hai vợ chồng ông cụ đi rồi, hắn bảo Xa-lô-mư-ga:

- Mày hãy đợi ngoài ấy đã, ta có tí chuyện cần nói với con bé này.

Nghe tiếng kêu của con gái, ông lão Bê-sắc xô lại phía cửa thì bị ngay một quả tống vào ngực đến uỵch một cái, khuỵu người vào tường. Ông lão bị đau nghẹn sằng sặc. Bà cụ thường lành như bụt, lúc ấy chồm lên như con sói dữ vồ lấy thằng Xa-lô-mư-ga.

- Buông cho tao vào, chúng mày làm gì thế?

Bà cụ cố sức xông vào cửa, Xa-lô-mư-ga không tài nào gỡ được ngón tay bà cụ cứ nắm riết lấy áo hắn. Ông cụ Bê-sắc hồi lại chạy đến cứu vợ.

- Để chúng tao vào, để chúng tao vào, ối trời đất ơi! Con tôi !

Hai vợ chồng ông lão xúm vào đầy được Xa-lô-mư- ga ra ngoài cửa. Tên giặc nổi xung, rút báng súng ngắn nện vào đầu bạc của ông già làm cụ Bê-sắc ngã lăn ra đất, không kêu được một tiếng.

Trong buồng, tiếng Ri-va kêu thét lên.

Bị chúng kéo tuột ra ngoài đường, bà cụ căm uất như điên như dại, tiếng bà la trời thảm thiết và kêu cứu tuyệt vọng vang inh cả phố xá.

Trong nhà tiếng kêu đã tắt. Pa-lê-nứt ở buồng nhốt Ri-va bước ra, Xa-lô-mư- ga lúc đó đã sờ tay vào quả đấm mở cửa, đến lượt hắn chực vào, nhưng Pa-lê-nứt nắm tay hắn lại, quay mặt đi nói:

- Thôi, đừng vào nữa. Nó đi đời nhà ma rồi; tao đã lấy gối phủ lên mặt nó.

Pa-lê-nứt bước qua xác ông cụ Bê-sắc, chân hắn nhúng vào một vũng máu đặc sệt và đen ngòm.

- Mẹ kiếp! Tiền đầu bất lợi!

Miệng lẩm bầm thế, hắn bước ra.

Quân của hắn lặng lẽ kéo đi ra sau, và sàn nhà, bậc cửa bê bết những vết giày dính máu đỏ lòm.

Khắp cả thành phố đâu cũng có cướp phá. Bọn hung hãn tranh cướp nhau mồi ăn, thộp lấy cổ họng nhau như một lũ chó sói. Đây đó, lưỡi kiếm tuốt ra khỏi vỏ lóe sáng khoa lên trời.

Những thùng rượu bằng gỗ sến, to tướng từ trong nhà hàng rượu lăn ra mặt đường cái.

Rồi bọn cướp xông vào phá các nhà.

Không ai chống cự lại. Chúng ập vào các buồng vội lục lọi mọi xó, lúc đi ra thì nặng trĩu tay những của cải cướp bóc được, để lại hàng đống bừa bãi những giẻ rách, những gối và những đệm rách tứ tung, lông rơi lả tả. Ngày đầu mới chỉ có hai người chết: cha con Ri-va! Nhưng đêm đến, tai họa chết chóc mới ghê người hơn nữa.

Đến chập tối, tất cả toán quân đủ loài thú dữ này, đứa nào cũng say máu và say rượu. Bọn lính của Pết- lu ra đầu óc chuếnh choáng hơi men, đã mất cả lương tri rồi, chỉ chở đêm tối đến.

Bóng tối xuống, chúng càng được thả tay hơn. Trong đêm tối càng dễ bóp chết mạng con người. Bọn sói lang cũng ưa bóng tối để dễ cắn xé những người đang hấp hối.

Nhiều người không bao giờ quên được hai đêm và ba ngày khủng khiếp ấy. Bao nhiêu cuộc đời đã bị thương tổn, tan vỡ, bao nhiêu mái tóc xanh đã bạc đi rất nhanh trong những giờ đẫm máu này, bao nhiêu nước mắt đã tuôn rơi ! Và có ai thấu cho chăng: những người còn sống sót có sung sướng hơn đâu! Sung sướng làm sao được khi tâm hồn bị trống trải, khi lòng bị nỗi nhục nhã chưa từng có đến giày vò ghê gớm, tâm tư phiền muộn, tiếc thương những người thân đã mất đi không bao giờ trở lại nữa. Trong các ngõ chật chội của xóm Do-thái, những tấm thân còn trẻ của những người con gái đau thương nằm trơ trơ, hai tay duỗi hất ngược, mình bị đâm, bị chém, bị hành tội, vẫn còn nguyên dấu quằn quại trong cơn giãy giụa, kháng cự.

Mãi ở tận ngoài bờ sông, trong căn nhà nhỏ của người thợ rèn Na-um, bọn hùm beo háu mồi chực hiếp chị vợ anh Na-um, mới gặp phải sức kháng cự dữ nhất. Anh thợ rèn Na-um đang sức trai hăm bốn tuổi, to như lực sĩ, bắp thịt rắn như thép quen quai búa sắt đâu có chịu để vợ mình bị nhục.

Trong cuộc xô xát ngắn ngủi và khủng khiếp, hai chiếc sọ ngụy binh băng đi, vỡ ra từng mảnh như một quả dưa hấu thối. Na-um bừng bừng khí uất của kẻ đằng nào cũng chết, đánh rất dữ để cứu mạng mình và cả mạng vợ nữa. Anh giằng lấy súng bắn lại hồi lâu, tiếng súng giòn giã nhằm vào phía bờ sông có quân lính Gô-lúp thấy nguy đang chạy đến cứu. Na-um bắn hết đạn, viên cuối cùng gửi vào ngực vợ còn mình thì lắp lưới lê vào súng xông thẳng lên trước cái chết. Đạn giặc bắn như mưa. Na-um vừa bước ra thềm đã ngã, tấm thân cao lớn rơi phịch xuống đất.

Người ta thấy mặt bọn phú nông béo núc ở vùng quê gần đấy dắt xe đến. Ngựa của chúng béo tốt. Chúng chất lên xe tất cả những thứ gì chúng thích mắt, chở đi vội vội vàng vàng. Con cái hoặc bà con chúng là ngụy binh cho đầu lĩnh Gô-lúp, giúp chúng chất hàng lên xe. Chúng chở về, rồi lại hối hả đánh xe ra, làm hai, ba chuyến nữa.

Xéc-gây cùng với cha vừa đưa một nửa số anh em thợ in đi ẩn, nhường cho họ hầm nhà và gác xép. Đi qua vườn để trở về nhà. Xéc-gây trông thấy một người đang chạy trên đường.

Đấy là một ông cụ Do-thái vừa chạy vừa thở hổn hển, tay vung vầy, đầu không mũ, người lóng nga lóng ngóng trong chiếc áo dài lòng thòng và vá chằng vá đụp, mặt tái mét vì khiếp sợ. Đằng sau là một tên lính Pết-lu-ra cưỡi con ngựa xám phóng theo. Nó đã đuổi tới gần, người nó chực cúi xuống chém. Nghe tiếng vó ngựa lóc cóc sau lưng, cụ giơ tay lên như để tự vệ. Xéc-gây liền nhảy bổ ra đường phố, xông ra trước con ngựa, lấy người mình che đỡ cho ông cụ già:

- Không được đụng vào cụ già, đồ ăn cướp, đồ chó!

Tên lính ngụy đang đà tay không muốn kìm lại, liền trở sống kiếm đập vào mái đầu trẻ vàng hoe.

Thép đã tôi thế đấy
Chương V

Quân đỏ mạnh mẽ đánh lui các đơn vị của "đầu lĩnh trưởng" Pết-lu-ra. Trung đoàn Gô-lúp lại bị gọi ra trận. Ở thành phố Sê-pê-tốp-ca chỉ còn một số nhỏ quân làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương và tên giám binh ở lại mà thôi.

Dân phố đã bắt đầu cựa quậy, đi lại. Đồng bào Do- thái lợi dụng lúc tạm yên, chôn cất người nhà bị nạn. Trong những túp lều tàn của xóm Do-thái, cuộc sống đã trở lại.

Những buổi tối yên tĩnh, tiếng súng nổ ì ầm thoáng vọng lại như những dịp sấm. Chắc là đang đánh nhau dữ ở đâu gần đây.

Thợ xe lửa bỏ nhà ga bò về thôn quê kiếm việc làm.

Trường học đóng cửa.

Trong thành phố, tuyên bố thiết quân luật.
*
Đêm tối như mực, ảm đạm, ghê rợn.

Những đêm như thế này, mắt sáng có mở to cũng không nhìn thấy gì, đi đâu phải sờ soạng, mò mẫm như người mù, sẩy chân một tí là rơi tõm xuống hố rãnh.

Dân phố biết thời buổi này ngồi nhà không thắp đèn là hơn cả. Có ánh lửa trong nhà có thể làm cho nhiều kẻ mò đến quấy rầy. Thà chịu tối còn yên thân hơn. Nhưng có những người ngồi yên không đành, thì họ cứ đi cho thích cẳng, dân phố chẳng có việc gì dính dáng đến họ. Dân không đi đâu làm gì. Chắc chắn như vậy, chẳng ai dại gì đi ra đường lúc này.

Vậy mà vào một đêm cũng tối như thế này, có người lần bước đi.

Đến nhà Ca-rơ-sa-ghin, người ấy thận trọng gõ khẽ vào khung cửa sổ. Thấy không ai trả lời, người ấy gõ lần nữa, mạnh hơn và gấp hơn.

Pa-ven đang nằm mê thấy một con vật lạ lùng, không giống người, đang chĩa súng máy vào anh; anh định chạy, nhưng chạy đi đâu được, tiếng súng máy cứ nổ lạch cạch, lạ lùng, ghê rợn.

Tiếng gõ lanh canh vào cửa kính đang giục mở cửa gấp.

Pa-ven từ trên giường nhảy xuống, men lại gần cửa sổ nhìn xem ai gõ. Nhưng ngoài bóng đen lờ mờ thấp thoáng sau cửa kính, cậu không nhìn rõ là ai.

Pa-ven ở nhà một mình. Mẹ sang chơi bên nhà chị gái có chồng làm thợ máy ở xưởng làm đường. Còn anh A-rơ-chom thì đi làm ở lò rèn thị trấn bên, quai búa để kiếm ăn.

"Chắc là A-rơ-chom gõ cửa chứ không ai nữa". Pa- ven định mở cửa, cậu nói vọng vào bóng tối: "Ai đấy?"

Bóng đen cử động sau cửa kính. Tiếng trả lời khàn khàn khe khẽ:

- Anh đây mà! Giu-khơ-rai đây.

Hai bàn tay bám lên thành cửa sổ, Giu-khơ-rai đã nhô đầu vào ngang mặt Pa-ven. Giu-khơ-rai thì thào:

- Anh định đến ngủ nhờ nhà em một đêm. Có được không, em?

Pa-ven vồn vã đáp lại:

- Anh hỏi hay thật, nhất định là được chứ, anh trèo qua cửa sổ mà vào.

Thân hình lực lưỡng của Giu-khơ-rai luồn qua khung cửa vào nhà. Anh đóng cửa sổ lại, không đi vào ngay, còn đứng bên cửa nhìn ta, tai vểnh lên nghe ngóng.

Mãi khi bóng trăng từ sau đám mây ló ra, soi rõ đường phố, anh chăm chú nhìn đường phố vắng tanh, không có ai, mới quay lại nói với Pa-ven:

- Vào thế này có làm mất giấc của mẹ không, em? Chắc mẹ đang ngủ?

Pa-ven nói cho Giu-khơ-rai biết cậu ở nhà một mình. người lính thủy bấy giờ mới thấy thoải mái và nói to hơn:

- Em thấy đấy, từ hôm nổ ra bãi công, bọn chó không rời anh một bước, chúng nó muốn đập chúng ta sau những việc vừa xảy ra ngoài ga dạo nọ. Nếu anh em công nhân đoàn kết hơn, thì trong khi chúng nó càn đồng bào Do-thái, ta có thể sửa cho chúng một mẻ... Nhưng em hiểu không, bà con mình còn chưa dám nhảy vào lửa, chưa dám vùng lên. Cho nên thất bại. Bây giờ chúng lùng bắt anh. Hai lần chúng đã ập đến định chộp anh. Hôm nay tí nữa anh bị chúng vớ được. Anh đi về nhà, trèo tường sau vào như mọi lần. Anh còn đang dừng chân một lát ở gần nhà chứa xe thì thấy ngay một lưỡi lê lù lù: một thằng đứng rình nấp sau thân cây trong vườn. Thế là anh chuồn thẳng, đến nhà em đây. Anh tính thả neo ở đây vài ngày. Em thấy không có gì trở ngại chứ? Không à? Thế thì hay lắm.

Giu-khơ-rai vừa cởi đôi giày bết bùn vừa thở lấy lại sức.

Giu-khơ-rai tới đây, Pa-ven lấy làm mừng lắm. Những ngày gần đây, sở máy điện nghỉ việc. Ở nhà vắng vẻ một mình, Pa-ven cũng thấy chán.

Hai anh em đi ngủ. Pa-ven nằm là ngủ ngáy, còn Giu-khơ-rai thì hút thuốc lá mãi. Rồi anh đứng dậy, khẽ rón rén chân không, mò đến gần cửa sổ. Anh nhìn ra đường phố hồi lâu. Không thấy gì, anh lại trở vào giường và mệt quá ngủ thiếp đi. Bàn tay anh luồn dưới gối đặt lên một khẩu súng ngắn nặng. Hơi nóng của bàn tay làm ấm cả khẩu súng.
*
Cái đêm Giu-khơ-rai đến bất ngờ và tám ngày sau sống chung với anh thật có ảnh hưởng rất lớn đối với Pa-ven. Lần đầu tiên, Pa-ven được nghe người thuỷ thủ nói nhiều điều mới lạ, quan trọng vô cùng làm tâm hồn anh hết sức khích động. Những ngày vừa qua thật là quyết định cho tương lai cậu công nhân đốt lò trẻ tuổi.

Người lính thủy ẩn tại đây, bị quân thù giăng bẫy mai phục ở hai đầu, anh tranh thủ lúc bất đắc dĩ phải nằm im này, truyền cho chàng thanh niên háo hức lắng nghe anh nói tất cả ngọn lửa giận dữ và lòng căm thù bốc cháy của mình đối với bọn phản động mang cờ vàng xanh đang bóp nghẹt miền này.

Giu-khơ-rai nói rõ ràng dễ hiểu; lời nói giản dị, đi thẳng vào lòng. Ở Giu-khơ-rai, không một mảy may hoang mang, do dự. Anh biết rõ và tin chắc con đường mình theo, và Pa-ven bây giờ mới hiểu tất cả một mớ đảng phái mang tên rất kêu ấy, từ "xã hội cách mạng" đến "xã hội dân chủ", "xã hội Ba Lan", gồm toàn những kẻ thù hiểm độc của giai cấp công nhân. Chỉ có một chính đảng cách mạng duy nhất, kiên quyết chiến đấu chống bọn giàu có áp bức, đấy là Đảng bôn-sê-vích.

Trước kia, Pa-ven thấy tất cả những điều ấy rối như bòng bong.

Và bây giờ, có người vạch ra cho cậu bé đốt lò trẻ tuổi thấy rõ sự thật tàn nhẫn của cuộc đời, người đó là một người cương nghị, một đảng viên bôn-sê-vích trung kiên, một thủy thủ trên biển Ban-tích, nước da rám màu gió biển, một người đã vào Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga (Tiền thân của Đảng Cộng sản Liên Xô) từ năm 1915; Pa-ven lắng nghe Giu-khơ-rai, nói nhìn anh với cặp mắt thán phục.

- Này em ạ ! Khi anh còn bé, anh cũng gần giống như em. Anh có sức khỏe mà không biết làm gì. Bản chất anh bướng bỉnh, hung hăng. Gia đình anh nghèo khổ Hễ cứ nhìn bọn con nhà giàu, ăn no, mặc diện là lòng anh căm ghét sôi lên. Nhiều khi anh choảng chúng không tiếc tay, song không đi đến đâu, mà chỉ tổ ăn vọt của ông cụ đẻ ra anh. Em ạ, một thân một mình chiến đấu chẳng tài nào thay đổi được cuộc đời. Em Pa-ven, em đủ điều kiện để trở nên một chiến sĩ trung thành chiến đấu cho sự nghiệp công nhân ta. Nhưng chỉ hiềm em còn non quá, về ý thức đấu tranh giai cấp, em rất lờ mờ. Anh sẽ chỉ cho em con đường chân chính vì anh biết em có thể thành người. Anh không chịu được những cậu cả ù ì, bụ sữa. Lúc này đây, lửa cách mạng đã nung nấu thế gian. Những người nô lệ đã vùng dậy và họ phải đạp phăng cuộc đời cũ Nhưng muốn thế, phải có một lớp người tương thân, tương ái và dũng cảm, không phải những đứa con cưng rúc bọc mẹ, mà là những tay chắc chắn, để đến giờ quật nhau thì không như loài gián sợ ánh sáng lẩn trốn vào khe vách, mà là biết xông ra đập không thương tiếc.

Nói đến đây, Giu-khơ-rai nắm tay đấm xuống bàn.

Anh đứng dậy đút tay vào túi quần, cau mày, đi đi lại lại trong phòng.

Cảnh nằm im không hoạt động đối với Giu-khơ- rai nặng nề khó chịu. Anh thấy mình ở lại thị trấn này thêm nữa vô ích, nên đã quyết định vượt qua mặt trận về bắt liên lạc với các đơn vị đỏ.

Trong thành phố hiện còn lại một nhóm chín đảng viên có trách nhiệm tiếp tục gây cơ sở.

Giu-khơ-rai bực tức nghĩ thầm:

"Không có ta, các đồng chí cũng sẽ làm được, ta không thể nào ngồi bó tay như thế này. Ta đã mất ở đây mười tháng trời, cũng đủ rồi".

Một hôm Pa-ven hỏi Giu-khơ-rai:

- Anh Giu-khơ-rai, anh là ai thế hở anh?

Giu-khơ-rai tay đút túi, đứng dậy. Anh chưa hiểu ngay ý câu hỏi ra sao:

- Sao, em không biết anh là ai ư?

Pa-ven khẽ đáp lại:

- Em cho anh là một người bôn-sê-vích hay là một người cộng sản.

Giu-khơ-rai bật cười, đấm tay vào ngực rộng bị bó chặt trong chiếc may ô lính thủy kẻ dọc:

- Đúng thế, em ạ. Đúng, cũng như hai tiếng bôn- sê-vích và cộng sản nghĩa chỉ là một mà thôi. - Và nghiêm nét mặt, anh nói tiếp:

- Nhưng, em đã biết thế thì phải nhớ đừng nói hở điều đó với ai, nếu em không muốn chúng nó móc ruột anh. Em hiểu chứ?

Pa-ven giọng quả quyết, đáp lại:

- Vâng, em hiểu.

Ngoài sân có tiếng nói giòn giã; một bọn người không gõ cửa cứ xồng xộc vào. Giu-khơ-rai sờ tay vào túi định rút súng ngắn, nhưng lại thôi ngay. Bước vào nhà là Xéc-gây, xanh và gầy hơn trước, đầu quấn băng, cùng đi với Va-li-a và Cơ-lim-ca.

- Chào cậu ạ! - Xéc-gây vừa cười vừa bắt tay Pa- ven. - Ba chúng mình đến thăm cậu. Va-li-a không dám để tớ đi đâu một mình, cô ấy sợ. Còn Cơ-lim- ca không dám để Va-li-a đi đâu một mình, cậu ấy cũng sợ nốt. Cậu ta tuy tóc đỏ hoe, mà khôn ra phết đấy.

Va-li-a lấy tay bịt mồm anh, cười nói:

- Anh đến ba hoa. Từ sáng giờ anh ấy cứ trêu mãi, làm anh Cơ-lim-ca đến khổ.

Cơ-lim-ca cười hồn nhiên, để lộ hàm răng trắng nhởn:

- Em trách làm gì người ốm ! Sọ cậu ấy bị nó nện vỡ rồi, nên cậu ấy nói lung tung đấy mà.

Cả bọn cười ầm lên. Xéc-gây bị thương vì kiếm phang vào đầu, chưa khỏi hẳn. Cậu ngồi lên giường Pa-ven. Câu chuyện giữa mấy người bạn liền nở như ngô rang. Xéc-gây xưa nay vốn tính vui nhộn, bây giờ trở nên trầm lặng. Anh kể lại cho Giu-khơ-rai nghe chuyện tên lính ngụy đánh mình.

Giu-khơ-rai quen biết tất cả bọn trẻ đó. Anh cũng đã từng nhiều lần đến nhà Bơ-ru-giắc. Anh mến đám thanh niên công nhân ấy. Họ chưa tìm được đường đi trong cơn giông tố của đấu tranh, nhưng họ đã tỏ rõ những khát vọng của giai cấp mình. Và anh chăm chú nghe ba thiếu niên kể chuyện, mỗi người trong bọn họ đã giấu các gia đình Do-thái trong nhà mình để cứu giúp đồng bào Do-thái qua khỏi trận càn. Và đêm ấy, Giu-khơ-rai nói rất nhiều về Lê-nin, về những người bôn-sê-vích, giúp cho đám thanh niên hiểu rõ hơn những sự việc đang xảy ra.

Đến tận khuya, Pa-ven mới tiễn ba bạn ra về.

Cứ tối tối Giu-khơ-rai thường đi vắng, tận đêm khuya mới về. Trước khi rời bỏ nơi này, anh đến gặp các đồng chí ở lại hoạt động để bàn về công tác phải làm sau khi anh rút đi nơi khác.

Đêm ấy, Giu-khơ-rai đi không thấy trở về. Sáng ngủ dậy, Pa-ven thấy giường Giu-khơ-rai chăn đệm vẫn nguyên không có ai nằm.

Pa-ven linh tính thấy lo lo, sợ xảy ra chuyện không hay, bèn khoác vội áo đi ra. Pa-ven đóng cửa và giấu chìa khóa vào một chỗ mà Giu-khơ-rai đã biết, rồi đi thẳng đến nhà Cơ-lim-ca hỏi thăm xem có biết gì về Giu-khơ-rai không. Mẹ Cơ-lim-ca, người đẫy đà, khuôn mặt to hơi rỗ, đang giặt quần áo, nghe Pa-ven hỏi Giu-khơ-rai thì tru tréo lên:

- Mày tưởng tao không có việc gì làm, suốt ngày chỉ canh nhà bác Giu-khơ-rai cho mày đấy chắc? Chỉ tại cái bác khập khiễng ấy mà nhà bà cụ Dô-du-li- kha bị khám xét tung cả lên. Không hiểu mày cần gì bác ta mà mày cứ quấn lấy bác ấy? Mày không đánh bạn với người ta được. Rõ khéo được một lũ Cơ- lim-ca, nhà bác ta với mày... - Vừa nói, bà vừa vò mạnh thêm đống quần áo đang giặt.

Bà mẹ Cơ-lim-ca vốn là người đàn bà lắm điều, ăn nói chua ngoa.

Từ nhà Cơ-lim-ca, Pa-ven lại tạt sang nhà Xéc-gây nói cho bạn biết mối lo lắng của mình. Nghe Pa-ven kể, Va-li-a nói xen vào:

- Gì mà anh cứ cuống lên thế. Có thể anh ấy nấn ná ở lại chơi nhà ai quen. - Nhưng giọng Va-li-a tỏ ra cũng không tin điều mình nói lắm.

Nhà Xéc-gây cố nài anh ở lại ăn cơm, nhưng Pa-ven chẳng còn bụng nào ở lại được, anh cảm ơn rồi ra về.

Về gần đến nhà, Pa-ven ước thầm sẽ thấy Giu-khơ-rai.

Cửa nhà vẫn khóa như cũ. Pa-ven đứng sững trước cửa, lòng nặng trình trịch chẳng buồn bước vào căn nhà vắng.

Anh đứng ngoài sân suy nghĩ một lúc, rồi không hiểu nghĩ sao, đi xuống nhà dưới. Anh trèo lên xà nhà, vuốt mạng nhện dính ở mặt, từ một góc kín, rút ra khẩu súng ngắn Man-li-khe bọc giẻ nặng trĩu. Khẩu súng lủng lẳng trong túi, Pa-ven bước ra cửa đi lên nhà ga.

Chạy khắp mọi nơi, không được tin gì về Giu-khơ- rai cả.

Trên đường về, qua biệt thự quen thuộc nhà người chánh kiểm lâm, Pa-ven chậm bước lại. Một mối hy vọng mơ hồ làm anh ngước nhìn lên cửa sổ, nhưng vườn và nhà đều vắng không một bóng người. Khi đi qua rồi, Pa-ven còn ngoái lại, nhìn một lần nữa các lối đi trong vườn phủ đầy lá khô màu gỉ sắt. Cảnh vườn thật hoang vắng, hiu quạnh, chắc cả nhà đi vắng xa, không ai trông coi. Cảnh tượng im lìm, vắng ngắt của tòa nhà cổ càng gợi mối buồn của Pa-ven.

Pa-ven và Tô-nhi-a vừa giận nhau một trận găng nhất từ trước đến nay. Câu chuyện xảy ra bất ngờ, đã gần tháng nay rồi.

Thủng thẳng đi xuống phố, tay đút túi quần, anh vừa đi vừa nhớ lại chuyện giận nhau với Tô-nhi-a hôm trước.

Một hôm đang đi ngoài phố tình cờ gặp nhau, Tô- nhi-a mời Pa-ven đến chơi nhà.

- Chiều mai cậu mợ em đến nhà bác Bon-san-ski ăn cỗ. Em ở nhà một mình. Đến chơi với em, anh Pa- vơ-lu sa nhớ, chúng mình sẽ cùng nhau đọc cuốn truyện hay lắm, truyện Xa-sơ-ca Gi-gu-lếp của An- đơ rê-ép. Em đã xem truyện ấy rồi, nhưng em thích đọc lại với anh, anh ở chơi cả tối thì vui lắm. Anh đến chứ? (Pa-vơ-lu-sa cũng là tên Pa-ven, nhưng gọi rất thân mật)

Dưới vành mũ nhỏ màu trắng phủ lấy mái tóc nâu dày màu hạt dẻ, cặp mắt to của Tô-nhi-a nhìn Pa-ven chờ đợi trả lời.

- Đồng ý, anh sẽ đến.

Và họ chia tay nhau. Pa-ven rảo bước đến nhà máy. Suốt ngày hôm ấy, anh cứ nghĩ mãi đến cả một buổi tối sẽ được ở chơi với Tô-nhi-a, hai người sẽ ở bên nhau. Nghĩ thế, anh cảm thấy hình như ngọn lửa cháy càng sáng hơn và củi nổ lách tách vui hơn.

Tối đến, khi Pa-ven gõ cửa chính, Tô-nhi-a mở cửa, nói hơi lúng túng:

- Em có khách. Họ tự nhiên đến, chứ em không mời. Nhưng anh cứ vào, anh Pa-vơ-lu-sa ạ.

Pa-ven quay ra cửa, chực bước đi, Tô-nhi-a nắm lấy tay áo anh:

- Anh cứ vào, anh ạ. Họ được quen anh cũng tốt cho họ.

Rồi Tô-nhi-a khoác tay dẫn Pa-ven qua nhà ăn đến phòng mình. Vào đến nơi, Tô-nhi-a mỉm cười giới thiệu với bọn thanh niên nam nữ đang ngồi đó:

- Chưa quen nhau phải không? Đây là anh Pa- ven Ca-rơ-sa-ghin, bạn tôi.

Bọn ấy có ba người, đang ngồi ở quanh chiếc bàn tròn kê giữa phòng. Li-da, em gái Xu-khác-cô, nữ sinh rất kháu, da ngăm ngăm, miệng xinh xinh có vẻ hay làm nũng, mái tóc chải uốn đỏm dáng. Rồi đến một anh chàng mà Pa-ven không biết là ai, người dong dỏng, mặc áo đen lịch sự, tóc chải bóng mượt, mắt xám, có cái nhìn đầy vẻ chán chường. Người ngồi giữa là Vích-to Lê-sinh-ski, diện bộ quần áo học sinh rất bảnh. Chính hắn là người Pa-ven trông thấy trước tiên, khi Tô-nhi-a vừa hé cửa.

Hắn cũng nhận ra Pa-ven ngay. Đôi lông. mày nhỏ, cong của hắn rướn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên.

Pa-ven lặng lẽ dừng ở cửa một lát, mắt gườm gườm nhìn thằng Vích-to. Tô-nhi-a muốn phá sự im lặng không khéo đó của Pa-ven, liền mời anh vào và quay lại giới thiệu với Li-da:

- Li-da, làm quen đi.

Li-da đứng lên tò mò nhìn Pa-ven.

Pa-ven đột nhiên quay phắt lại và bước nhanh qua căn phòng ăn nằm trong cảnh tranh tối tranh sáng, anh đi thẳng ra cửa. Tô-nhi-a đuổi theo đến hiên nắm lấy vai Pa-ven, giọng xúc động:

- Sao anh lại bỏ đi? Em chủ ý muốn mời anh vào để chúng nó được làm quen với anh cơ mà!

Nhưng Pa-ven gỡ tay Tô-nhi-a ra, trả lời xẵng:

- Thôi cô không cần đem tôi ra bêu trước mặt những quân ấy. Tôi không có việc gì phải dây với chúng nó. Có lẽ cô thích chơi với bọn chúng, côn tôi thì tôi chí ghét. Nếu biết trước cô thân với lũ ấy, tôi đã chẳng bao giờ đến đây đâu.

Tô-nhi-a cố nén giận, ngắt lời Pa:ven:

- Tại sao anh lại ăn nói với em như thế? Em chưa từng hỏi anh chơi thân với ai, ai hay đến thăm anh.

Pa-ven vừa bước xuống thềm ra vườn, vừa nói dỗi:

- Thôi, cô cứ việc giữ lấy bọn bạn ấy của cô. Còn tôi thì tôi không đến đây nữa đâu.

Nói rồi, Pa-ven chạy ra hàng rào.

Từ ngày ấy đến giờ, Pa-ven chẳng có lần nào gặp lại Tô-nhi-a nữa. Những ngày giặc càn Do-thái, Pa- ven và người thợ điện cùng làm với anh bận tìm chỗ cho gia đình đồng bào Do-thái ẩn ở sở điện, vì mải việc nên cũng quên cả câu chuyện giận nhau với Tô- nhi-a hôm trước. Hôm nay Pa-ven chừng như muốn gặp lại Tô-nhi-a.

Giu-khơ-rai thì biến đâu mất, về nhà thì chỉ thấy vắng vẻ, trơ trọi một mình. Điều đó làm cho Pa-ven rất khổ. Dải đường màu xám còn ướt bùn lầy của tuyết tan mùa xuân, lồi lõm ổ gà đầy một thứ nước đục màu nâu, chạy ngoặt sang bên phải.

Ở phía sau căn nhà nhô ra đường cái, tường loang lổ róc hết vữa, hai phố gặp nhau.

Đến ngã tư, chỗ cái quán đổ nát, cửa đã sập còn mang tấm biển treo ngược "Đây bán nước suối", Vích- to Lê-sinh-ski chia tay Li-da.

Nắm bàn tay Li-da trong tay mình, Vích-to nhìn người yêu tình tứ:

- Thế nào cũng đến chứ em? Đừng sai hẹn nhớ !

Li-da giọng lẳng lơ, đáp lại:

- Em sẽ đến! Em sẽ đến! Anh đợi nhé!

Cô ta bước đi còn nheo đôi mắt nâu màu hạt dẻ, lẳng và hứa hẹn, cười tình với Vích-to.

Li-da đi chưa được mười bước thì thấy hai người đàn ông từ chỗ ngoặt bước ra phố lớn. Một người ra dáng thợ đi trước, người đẫy, ngực rộng, áo vét-tông mặc ngoài phanh ra để lộ chiếc áo may-ô lính thủy kẻ sọc, mũ cát-két đen đội sụp xuống trán, một bên mắt sưng húp tím bầm.

Người ấy bước vững chắc, chân xỏ giày da vàng không cổ, đi hơi khập khiễng.

Sau người ấy là một tên lính ngụy Pết-lu-ra đi cách ba bước. Hắn mặc toàn đồ xanh xám, mang hai bao đạn ở dây lưng, lưỡi lê cắm đầu súng chĩa thẳng vào lưng người đi trước.

Hai con mắt ti hí của tên ngụy, từ dưới vành mũ lông, nhìn chòng chọc vào gáy người bị áp giải. Râu mép hắn vàng khè thuốc lá, vểnh ra như lông dím.

Li-da đi chậm lại, tạt sang hè phố bên kia, Pa-ven lúc ấy đi sau cô ta cũng đang bước ra con đường này.

Khi quay sang bên phải để về nhà, Pa-ven cũng trông thấy hai người đàn ông đang đi.

Pa-ven kinh ngạc, chân anh như đóng đinh xuống đất không bước được nữa: Pa-ven nhận ngay ra Giu- khơ-rai.

"Anh ấy không về té ra vì thế !".

Giu-khơ-rai đi lại gần. Tim Pa-ven đập đổ hồi: ý nghĩ dồn dập rối lên trong đầu, khó mà trấn tĩnh được khó mà nhớ được mình nghĩ gì. Thời giờ để suy nghĩ gấp quá. Một điều rõ ràng là Giu-khơ-rai đã bị bắt.

Nhìn hai người đi lại gần, mọi thứ tình cảm quay cuồng như cơn gió lốc làm Pa-ven bối rối.

"Làm gì bây giờ?"

Đến phút cuối cùng, Pa-ven chợt nhớ ra trong túi có khẩu súng ngắn. - "Để cho hai người vừa đi qua mặt mình, bắn vào lưng thằng nguy thì Giu-khơ-rai sẽ thoát" - Anh quyết định ngay tức khắc làm cho luồng ý nghĩ không còn quay cuồng nữa. Hàm răng anh nghiến chặt như cắn vào nhau. Mới hôm qua chứ nào đã lâu gì, Giu-khơ-rai chẳng đã nói với mình: " Nhưng muốn thế, phải có một lớp người tương thân, tương ái và dũng cảm!...".

Pa-ven ngoái ra đằng sau, liếc mắt nhìn rất nhanh. Đường vào thành phố vắng vẻ. Không một bóng người. Trước mặt có bóng dáng thướt tha của một cô con gái mặc áo bành-tô ngắn mùa xuân đi rảo bước. Thứ người đó không ngại lắm. Pa-ven đứng lại, không nhìn thấy phố ngang rẽ ra đường này. Chỉ thấy đằng xa, trên con đường ra ga, có mấy bóng người thấp thoáng.

Pa-ven tránh ra tận mép đường. Đến cách nhau vài bước thì Giu-khơ-rai trông thấy Pa-ven.

Anh ngước mắt nhìn Pa-ven, đôi lông mày rậm nảy lên. Giu-khơ-rai nhận ra Pa-ven và sửng sốt nên đi chậm lại. Lưỡi lê của tên nguy binh thúc vào sau lưng, giọng hắn quát the thé:

- Đi mau lên không có ông cho một báng súng bây giờ.

Giu-khơ-rai bước dài ra. Anh muốn nói gì với Pa- ven, nhưng lại thôi và vẫy tay một cái như ra hiệu chào biệt.

Sợ tên lính nguy râu hoe chú ý, Pa-ven để cho Giu- khơ-rai đi qua, rồi quay lảng sang bên, làm như mình dửng dưng chẳng để ý gì đến chuyện đang xảy ra trước mắt.

Một ý nghĩ lo lắng như xoáy vào óc Pa-ven: "Nhỡ ra bắn trượt, đạn có thể trúng anh Giu-khơ-rai..."

Song thằng lính ngụy đã bước đến kề ngay bên mình rồi còn suy nghĩ làm sao được nữa?

Và chuyện đã xảy ra như sau: khi tên ngụy đi lên ngang mặt, Pa-ven xông ngay vào nó, nắm lấy khẩu súng, giúi mạnh xuống đất.

Lưỡi lê siết vào lề đường kêu rít lên.

Tên ngụy bị đánh bất ngờ, bàng hoàng mất một lúc nhưng rồi hồi ngay lại được, hắn lấy hết sức giằng lại khẩu súng. Pa-ven đè cả người, giữ chịt lấy khẩu súng. Đụng phải cò, súng nổ, đạn bắn vào lề đường bật lên một tiếng chối tai và băng sang rãnh bên đường.

Nghe tiếng súng, Giu-khơ-rai nhảy sang bên và quay lại. Tên lính ngụy hết sức gỡ khẩu súng ở tay Pa-ven ra. Hắn xoay xoay khẩu súng, vặn tay Pa- ven. Nhưng Pa-ven vẫn giữ chặt. Hắn nổi khùng lên tức sùi bọt mép, quật Pa-ven ngã xuống đất. Nhưng vẫn không ăn thua, không gỡ được khẩu súng. Pa- ven ngã xuống, kéo thằng ngụy ngã theo. Trong giờ phút này, không sức gì trên đời có thể khiến Pa-ven buông khẩu súng ra được.

Nhảy hai bước, Giu-khơ-rai đã đến kề bên.

Một quả đấm nặng như chì vung lên hình vòng cung, giáng xuống đầu tên lính ngụy. Một giây sau, nó đã phải buông Pa-ven ra; bị bồi luôn hai quả trời giáng nữa vào mặt, thân hình nó, như cái bị nặng, ngã lăn kềnh xuống hố rãnh bên đường cái.

Cũng đôi cánh tay rắn chắc của Giu-khơ-rai đã nâng Pa-ven từ dưới đất đứng dậy.

Vích-to rời ngã tư một quãng, vừa đi vừa huýt sáo bài "như lông chim trước gió lòng người đẹp thường dễ đổi thay". Vích-to hãy còn xúc động vì buổi gặp gỡ Li-da và lời cô ta hẹn hôm sau sẽ tìm nhau ở gần chỗ nhà máy bỏ không.

Trong đám những tay chim gái thành thần ở trường có nhiều tiếng đồn đại về Li-da. Người ta nói cô ấy về món yêu đương thì bạo lắm.

Cái thằng Xôm-ca trơ tráo và tự phụ, cũng đã có hôm khoe với Vích-to là lơn được con bé rồi. Tuy Vích- to cũng chẳng tin mồm thằng Xôm-ca lắm, nhưng vẫn định bụng mai thử xem những điều hắn nói có đúng không, bởi vì dù sao Li-da cũng là một miếng mồi xinh, đầy sức quyến rũ.

"Nếu con bé đến thật thì mình phải tỏ ra bạo dạn mới được. Nghe nói con bé cũng dễ để cho hôn. Và nếu con nhà Xôm-ca không bịp mình thì..." - Dòng ý nghĩ của Vích-to bỗng bị đứt quãng: hai tên lính Pết-lu-ra đi qua, Vích-to né người tránh. Một tên đi con ngựa cụt đuôi, tay lắc lắc cái thùng múc nước bằng vải bạt, chắc hắn cho ngựa đi uống nước. Còn thằng kia mặc áo ngắn, quần xanh lụng thụng tay đặt lên đầu gối thằng đi ngựa, miệng đang kể cho nó nghe một câu chuyện bông phèng.

Vích-to sắp bước đi, một tiếng nổ bất thình lình vang lên ngoài đường làm hắn đứng dừng lại. Ngoảnh lại Vích-to thấy tên lính thứ nhất quất ngựa lồng lên, phi tới chỗ có tiếng nổ. Thằng kia thì lấy tay đỡ kiếm chạy theo sau nó.

Vích-to cũng chạy theo chúng, ra đến gần đầu phố thì lại nghe thấy một tiếng nổ nữa. Từ chỗ ngoặt, thằng đi ngựa lúc nãy bất thình lình chạy trở ra phía Vích-to, hắn lấy gót chân và lấy cả cái thùng thúc vào mình ngựa; đến trại, vừa nhảy vào khỏi cổng, hắn đã la báo ngay cho bọn lính đang đứng ở sân:

- Các cậu ơi! Súng đâu ra ngay, chúng nó thịt một anh em mình ngoài kia!

Chốc lát đã có nhiều đứa từ trong sân chạy xổ ra, vừa chạy vừa lên quy-lát lách cách.

Chúng tóm lấy Vích-to.

Trên đường, người đứng xúm đông, trong đó có cả Vích-to và Li-da. Li-da bị giữ lại để làm chứng.

Li-da sợ quá đã đứng sững ngay tại chỗ, khi Giu- khơ-rai và Pa-ven chạy ngang qua mặt cô. Cô ngạc nhiên nhận ra người đánh tên lính Pết-lu-ra lại chính là thiếu niên mà hôm nào Tô-nhi-a có ý muốn giới thiệu với mình.

Người nọ theo sau người kia, nhảy qua hàng rào một biệt thự, và liền ngay lúc đó, có một tên lính đi ngựa phi ra đường phố. Thấy Giu-khơ-rai vác súng chạy, còn tên lính đi áp giải thì đang cố sức bò dậy, tên đi ngựa liền thúc ngựa về phía hàng rào biệt thự đó.

Giu-khơ-rai quay lại, kề súng vào vai, bắn tên lính đi ngựa, làm tên này phải quay ngựa lùi lại.

Khẽ nhúc nhích cặp môi sưng vều, tên ngụy đi áp giải kể lại đầu đuôi câu chuyện. Thằng lính đi ngựa nghe xong mắng:

- Làm thế nào mà mày để thằng tù nó chuồn ngay dưới mũi, hở đồ ngu như lợn? Mày sẽ biết tội mày, hai mươi nhăm roi vào mông đít.

Bực mình, tên lính áp giải cũng cãi lại:

- Mày thì ma lanh lắm đấy! Để cho nó chuồn dưới mũi ! Ai mà biết được có quân khốn nạn nó từ đằng sau xông vào tao như ma hiện, ma vật ấy.

Li-da cũng bị hỏi cung. Cô khai y như tên lính, song giấu không nói rằng mình biết người hành hung là ai. Tất cả mọi người có mặt đều bị dẫn về đồn giám binh và đến tối tên giám binh ra lệnh thả họ ra.

Tên giám binh ngỏ ý muốn tự mình đưa Li-da về tận nhà, nhưng cố ta từ chối. Miệng tên này sặc mùi rượu vốt-ca và ý của hắn ta chẳng có tử tế gì.

Vích-to đưa Li-da về.

Đường về nhà ga còn xa, Vích-to khoác tay Li-da vừa đi vừa mừng thầm, có chuyện xảy ra mới có dịp may thế này.

Khi gần đến nhà, Li-da hỏi:

- Anh có biết ai cứu người tù không?

- Li-da bảo tôi làm sao mà biết được.

- Anh có nhớ tối hôm nào Tô-nhi-a giới thiệu với chúng mình một thiếu niên?

Vích-to đứng dừng lại, sửng sốt:

- Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin chứ gì?

- Đúng, tôi mang máng nhớ hình như tên anh ta là Ca-rơ-sa-ghin thì phải. Anh nhớ chứ, hôm ấy anh chàng trông thấy chúng mình là lỉnh đi ngay, đến lạ. Chính anh ta đấy.

Vích-to kinh ngạc:

- Li-da không trông nhầm chứ?

- Không, Li-da nhớ kỹ nét mặt anh ta lắm.

- Thế sao Li-da không khai với ông giám binh.

Li-da nổi giận:

- Anh cho tôi lại có thể đi làm cái việc khốn nạn ấy ư?

- Cô cho thế là khốn nạn à? Chỉ tên kẻ hành hung người lính áp giải theo cô là khốn nạn sao?

- Thế theo anh là chính trực hay sao? Anh quên mất những việc chúng làm. Anh không biết ở trường ta có biết bao bạn học sinh Do-thái vì chúng mà mồ côi cha mẹ. Vậy mà anh lại còn muốn tôi đi tố cáo Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin nữa ư? Thôi, cảm ơn anh, không ngờ anh là người như thế !

Vích-to có tưởng đâu Li-da trả lời như vậy. Hắn không muốn gây chuyện với Li-da, nên tìm cách nói lảng sang chuyện khác:

- Li-da đừng giận, tôi nói đùa đấy thôi. Tôi không biết tính Li-da nguyên tắc như thế đấy.

Li-da đáp gọn lỏn:

- Lối đùa của anh khó ngửi lắm.

Đến trước nhà Li-da Xu-khác-cô, khi chia tay bạn, Vích-to hỏi:

- Mai Li-da đến chứ?

Vích-to chỉ nghe thấy câu trả lời lửng lơ:

- Tôi không biết.

Trên đường về phố, Vích-to suy tính: "Ồ! Nếu cô ả cho là bất chính thì thưa cô tôi lại hoàn toàn nghĩ khác. Tất nhiên về phần riêng mình, đứa nào bắt đứa nào và đứa nào cứu đứa nào thoát, mình chẳng cần biết làm quái gì".

Vích-to Lê-sinh-ski vốn dòng dõi quý tộc Ba Lan, nên ghét bọn Pết-lu-ra và quân đỏ như nhau cả. Dù thế nào ngày một, ngày hai đây, quân lê dương Ba Lan cũng kéo vào và sẽ lập lại chính quyền chân chính, thật sự của quý tộc Ba Lan. Song cơ hội này dù sao cũng là dịp có thể làm tiêu đời thằng nhãi Pa-ven. Chúng sẽ vặn cổ nó ngay cho mà xem.

Vích-to một mình ở lại Sê-pê-tốp-ca, trọ nhà bà thím là vợ người phó giám đốc xưởng đường. Còn bố mẹ nó và em gái nó là con Nen-ly thì đã đến ở Vác- xô-vi từ lâu. Bố Vích-to hiện đang giữ một chức vụ quan trọng bên ấy.

Cửa nhà giấy của đồn giám binh vẫn mở.

Vích-to bước vào, được một lúc rồi đi ra với bốn tên lính Pết-lu-ra. Bọn lính theo Vích-to đi về phía nhà Pa-ven.

Vích-to chỉ tay vào cửa sổ có đèn sáng nói khẽ:

- Nhà nó đây rồi.

Hắn ngoảnh lại phía tên quan hai đứng cạnh, hỏi:

- Tôi có thể về được chứ ạ!

- Vâng cậu về, bọn tôi đủ tóm cổ được nó rồi. Một lần nữa, xin cảm ơn cậu.

Vích-to rảo bước chuồn thẳng.
*
Chúng đánh vào lưng Pa-ven một roi nữa, rồi ném vào buồng giam. Hai tay anh giơ lên chạm phải tường của gian buồng tối om. Anh sờ soạng thấy một chỗ giống như chiếc bục gỗ, liền ngồi xuống, người kiệt sức đau như dần.

Pa-ven bị bắt giữa lúc không ngờ nhất. "Sao bọn Pết-lu-ra lại biết được là anh nhỉ? Không ai trông thấy anh cơ mà! Chúng sẽ làm gì anh không biết? Không hiểu anh Giu-khơ-rai đâu".

Hai người chia tay nhau ở nhà Cơ-lim-ca, Pa-ven đến nhà Xéc-gây, còn Giu-khơ-rai thì chờ đến tối là trốn khỏi thành phố.

Pa-ven nghĩ thầm: "May mà mình giấu khẩu súng lên tổ quạ rồi, chứ không chúng khám thấy thì tiêu đời. Nhưng mà sao chúng lại biết là mình được nhỉ?" Điều không tài nào đoán ra được ấy cứ giày vò Pa- ven mãi.

Bọn lính Pết-lu-ra khám xét nhà Pa-ven chẳng kiếm chác được gì bở cả. Bộ cánh diện và chiếc đàn gió thì anh A-rơ-chom đã mang xuống làng. Cái rương của mẹ thì mẹ đã mang đi, thành thử bọn lính lục lọi mãi khắp nơi mà chẳng vớ được gì nhiều.

Nhưng Pa-ven không bao giờ quên được đoạn đường bị đánh từ nhà đến đồn. Đêm tối như bưng lấy mắt. Trời nặng trĩu mây. Đòn đánh không tiếc tay, bị đá vào sườn, bị đạp vào lưng túi bụi, mạng sườn bị thụi cái nào ra cái ấy, Pa-ven tối tăm mặt mũi đi như người mất hồn mất trí.

Ngoài cửa buồng giam, có tiếng người nói. Buồng bên cạnh là chỗ lính gác. Dưới gầm cửa có vệt sáng làm Pa-ven chú ý, Pa-ven đứng dậy lấy tay sờ soạng men theo tường, lần đi khắp buồng giam. Đối diện với cái bục, Pa-ven sờ thấy cửa sổ, chấn song có răng cưa chắc chắn. Pa-ven thử lấy tay lay, nhưng chấn song bằng sắt chắc lắm. Buồng giam này có vẻ như trước đây là kho chứa hàng.

Pa-ven mò lại cửa, đứng nghe ngóng động tĩnh một phút, rồi khẽ ấn quả đấm. Cánh cửa kêu lên ken két đến ác. Pa-ven phát cáu "Mẹ kiếp ! Chúng chẳng chịu cho dầu".

Pa-ven nhìn qua khe cửa hở, thấy trên mép bục có đôi bàn chân bẩn, ngón chân khoằm khoằm chìa ra. Pa-ven lại vặn quả đấm, nhưng cửa lại kêu to hơn. Trên bục, có một bóng người đầu rối bù, mặt ngái ngủ, ngồi nhổm dậy, gãi đầu rối rít, miệng phun ra một thôi một hồi những lời tục tĩu; khi đã ề à chửi tục chán rồi, hắn sờ lên khẩu súng dựng ngay đầu bục, nói lạnh như tiền:

- Đóng ngay cửa lại! Còn dám nhìn ông lần nữa thì ông cho ăn luôn phát đạn.

Pa-ven ấn cửa lại. Phòng bên tiếng cười rộ lên.

Đêm ấy, Pa-ven nghĩ lung lắm. Lần đầu định góp sức vào cuộc chiến đấu đã gặp sự không may rồi. Mới bước đầu đã bị chúng tóm được và nhốt vào đây, như chuột mắc bẫy.

Anh vẫn ngồi, thiu thiu một giấc, nửa ngủ nửa mê: hình ảnh mẹ hiện ra, khuôn mặt gầy gầy, dăn deo, đôi mắt thân quý yêu dấu. Một ý nghĩ thoáng qua: "May mà mẹ không có nhà, mẹ có nhà thì thật phiền lòng mẹ".

Ánh sáng lờ mờ chiếu qua cửa sổ in lên nền nhà một khung vuông màu xám.

Bóng tối lùi dần. Sắp sáng rồi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét