NHÀ TÙY (581-618)
l. Văn đế (581-604)
Dương Kiên ép vua Bắc Chu nhường
ngôi, lập nên nhà Tùy (tức Tùy Văn đế) và 7 năm sau đã thống nhất được Trung
Quốc một cách dễ dàng: ở Hoa Bắc, người Hồ đã Hoa hóa nhiều rồi mà người Hoa
cũng đã Hồ hóa một phần, nên có vài nơi chống đối lẻ tẻ thì chỉ trong một vài
năm ông đã dẹp xong; còn Hoa Nam tuy tiến bộ về văn hóa mà suy nhược về võ bị,
triều đình lại không được lòng dân và giới đại điền chủ, lại thêm dân chúng vẫn
coi Dương Kiên là người Hoa, nên khi ông đem nửa triệu quân qua sông Dương Tử
thì cả miền Nam qui phục.
Nhưng nhà Tùy rất ngắn ngủi, chỉ
có 2 đời vua, trước sau chỉ được 37 năm, sau khi thống nhất về đất đai, chưa
kịp tổ chức xong xã hội - kinh tế thì đã sụp đổ vì cái tệ xa hoa, bạo ngược như
nhà Tần và Trung Hoa lại phải trải qua một thời loạn lạc sáu, bảy năm nữa; cho
nên chỉ nên coi nhà Tùy là một giao thời, và công của nhà Tùy chỉ là dọn dẹp,
chuẩn bị cho thời thống nhất thực sự ở đời Đường, cũng như nhà Tần đã chuẩn bị
cho nhà Hán. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên sau 8 thế kỉ.
Văn đế không có tài nhưng siêng
năng, dám làm. Ông đã Hồ hóa, là một quân nhân nên rất trọng võ bị, hơi độc
tài, không ưa đạo Khổng, vì thấy các quan lại có Nho học thường không chịu để
ông sai bảo như bọn tướng dưới quyền ông. Ông lại sống khắc khổ như người Hồ,
tới mức keo kiệt nữa, cho rằng các nghi thức tế lễ của Khổng tốn tiền quá, và
bắt quan lại phải sống đạm bạc.
Nhưng nhờ chính sách kinh tế của
ông mà nước thịnh lên.
Cứ sau một thời loạn lạc lâu dài,
các ông vua sáng nghiệp đều dùng biện pháp khuyến nông. Văn đế miễn nhiều thứ
thuế cho dân nghèo, chia đất lại như thời Bắc Tề: mỗi cặp vợ chồng được phát
cho hai chục mẫu để làm, già hoặc chết thì đất trở về triều đình, với 20 mẫu
nữa làm của riêng. Năm nào mất mùa thì miễn thuế. Ông lại lập những nghĩa
sương, kho lúa để phát chẩn cho dân nghèo. Ông bỏ đặc quyền muối.
Thương nghiệp cũng phát triển.
Kinh đô Tràng An là nơi quốc tế mậu dịch. Quảng Châu là nơi hải ngoại mậu dịch.
Giới quí tộc và đại địa chủ, quan
lại ở Nam
bất bình. Một số bị loại ra khỏi chính quyền để tiết kiệm ngân sách, số còn lại
phải giảm mức sống. Vả lại, kinh đô bây giờ ở Tràng An, rất xa; Nam Kinh mất
địa vị, chỉ là một thị trấn thường, làm ăn không phát đạt bằng trước được. Giới
sĩ tộc có dư lúa, phải chở lên miền Bắc bán, phí tổn nặng, ít lời. Bọn bất mãn
đó đứng vào phe thứ tử của Văn đế là Quảng, cùng nhau âm mưu giết Văn đế và
thái tử, để lên ngôi, tức Dạng đế.
2. Dạng đế (605-617)
Tính tình ngược hẳn với cha. Cha
cần kiệm bao nhiêu thì con xa xỉ vô độ bấy nhiêu, lại rất bạo ngược.
Ông ta ghét kinh đô Tràng An, dời
đô lại Lạc Dương. Bắt dân xây cất lại kinh thành, có tháng dùng đến 2 triệu
người, bắt cả vạn đại thương gia cung cấp vật liệu, thực phẩm. Cung điện, vườn
thượng uyển nối tiếp nhau, chu vi tới mấy trăm dặm (mỗi dặm là nửa cây số)! Ông
cho gom góp về đó tất cả những cây cỏ, cầm thú lạ ở mọi nơi. Trong vườn thượng
uyển có biển hồ lớn nhân tạo, nước dẫn từ sông Lạc vào, giữa biển có ba đảo
tiên: Phương Trượng, Bồng Lai, Doanh Châu. Bờ biển cất 16 viện cực kì hoa lệ.
Xe chở gỗ quí từ miền xa lại để
xây cất, nối tiếp nhau cả ngàn dặm. Cứ 10 người làm xâu thì chết tới 4 - 5
người.
Ngoài ra ông lại xây cất 40 li
cung nữa.
Công trình kiến thiết quan trọng
nhất trong đời ông là đào kinh Vận Hà. Một hôm, ông ngỏ ý muốn tuần du phương
Nam, một phần vì thích cảnh thích người ở Giang Đô, một phần vì ông muốn xem
dân tình nơi đó ra sao: dân có thuần không hay mưu tính phản loạn; một viên cận
thần tâu: muốn đi thì phải từ Lạc Dương xuôi dòng Hoàng Hà tới biển rồi theo bờ
biển xuống sông Dương Tử mà mùa đó biển động; tốt hơn cả là đào một con kinh
nối Hoàng Hà với sông Dương Tử, như vậy khỏi sợ sóng gió mà lại được biết dân
tình nhiều nơi, coi được nhiều cảnh đẹp.
Ông đồng ý và tức tốc ra lệnh đào
kinh. Ông bắt tất cả những người đàn ông nào từ 15 tuổi trở lên còn sức lao
động thì phải đi đào kinh hết, hễ trốn thì bị trừng trị nặng. Có sách chép rằng
số người làm xâu lên tới 3,6 triệu; ấy là chưa kể cứ mỗi tổ 5 gia đình phải chỉ
định một người già hoặc một em trai nhỏ, một người đàn bà để đem cơm nước cho
phu đào kinh. Bọn này mang xẻng, cuốc, đồ dùng đi thành hàng, dài tới mấy ngàn
dặm. Bọn người bổ sung tới không ngớt, nhiều như “đàn ong, đàn kiến”. Phải dùng
5.000 lính đốc thúc họ làm. Nhiều người chết vì đuối sức.
Từ thế kỉ thứ III, dân mỗi miền
đã đào những khúc kinh nhỏ nối vài sông rạch để dễ giao thông từ Bắc xuống Nam.
Nhưng tới đời Dạng đế thì mới thực hiện một cách đại qui mô: trong mấy năm đào
gấp ba khúc kinh dài nối liền những khúc nhỏ có từ trước đó. Các đời sau tu bổ,
nối dài thêm, và đến đời Nguyên mới thực hoàn thành: kinh dài trên ngàn cây số
nối Thiên Tân với Hàng Châu, là công trình vĩ đại thứ nhì của Trung Hoa sau Vạn
lí trường thành, lợi hơn đường xe lửa thời nay nhiều, vì thuyền lớn nhỏ qua lại
suốt ngày đêm, chở hàng hóa mà không tốn kém bao nhiêu, lại dùng làm chỗ ở cho
hàng triệu người được, ấy là chưa kể cái lợi về canh nông, làm cho đất đai hai
bên bờ tươi tốt, làng xóm đông đúc. Chỉ đáng trách là Dạng đế làm gấp quá, bất
dân hi sinh đến kiệt lực, và khi đào xong, dân hai bên bờ lại phải điêu đứng về
việc tiếp rước đoàn 50 chiếc long thuyền rất lớn mà chính họ phải góp tiền nhau
đóng.
Chiếc ngự thuyền của ông cao bốn
tầng, dài 200 trượng (theo Lư Chấn Vũ - Tsui Chi dịch là 200 pieds, mỗi pied
khoảng 3,3 tấc ngày nay), có nội điện, một cái cung nhỏ, và hai phòng rộng mênh
mông, một ở bên đông, một ở bên tây, trang sức toán bằng châu ngọc. Hoàng hậu
có một chiếc thuyền riêng, phía sau là thuyền cho các phi tần, vương công, công
chúa, đại thần, cả nhà sư và ni cô nữa... Đoàn thuyền đó dài tới 200 dặm, chắc
chỉ có đoàn thuyền của Cléopâtre trên sông Nil mới sánh nổi.
Nhưng cảnh dưới đây thì Cléopâtre
cũng không tưởng tượng được! Hàng ngàn hàng vạn người đàn ông bận đồ tơ lụa kéo
đoàn thuyền đó để tiếp sức các thủy thủ, và để cho đẹp mắt, cứ khoảng 10 người
đàn ông lại xen một thiếu nữ diễm lệ, y phục rực rỡ, nắm hờ một sợi lụa màu cột
vào dây thừng của bọn đàn ông.
Hai bên bờ, Dạng đế đã cho trồng
rất nhiều cây liễu để có bóng mát. Một đội kị binh cưỡi ngựa phất cờ chạy theo;
dân chúng chen chúc nhau ra coi. Đoàn thuyền qua rồi mà hương còn phảng phất
trong không khí trên cả chục dặm.
Ông vua độc tài mà nghệ sĩ đó rất
thích xây cất cung điện. Ở kinh đô Lạc Dương, vườn Tây Uyển trong cung, chung
quanh trồng toàn thông và liễu cổ thụ, mùa xuân tới, các lối đi trong vườn như
phủ đầy một lớp cánh hoa đào và hoa mai; mùa thu lá rụng hết, ông bắt dân lấy
lụa màu cắt thành lá và cánh hoa, treo lên cành; hễ lụa nhạt màu thì thay lụa
mới.
Nệm yên ngựa đoàn kị binh đi hộ
vệ ông, cánh buồm đoàn long thuyền của ông cũng bằng lụa. Đầu xuân, nhà nào ở
hai bên bờ sông Dương Tử cũng lo cắt lụa để cung cấp cho triều đình. Xa xỉ tới
bực đó!
Dạng đế còn một tật nữa là ham
dùng binh, đánh rợ Đột Quyết, bình nước Lâm Ấp (Chiêm Thành), phá nước Thổ Cốc
Hồn (nay là tỉnh Thanh Hải), bắt các nước đó phải thần phục. Tai hại nhất là
chiến tranh với Triều Tiên.
Phải chuẩn bị tấn công cả bằng
đường bộ lẫn đường biển, rất hao tốn. Ông bắt tất cả các phú gia trong nước bỏ
tiền ra mua ngựa cho đủ số 10 vạn con, sắm binh khí thật tốt; mặt khác phải
đóng 300 chiến hạm, 5 vạn cỗ binh xa; ông trưng dụng mấy triệu người vừa là
binh sĩ, vừa để phục dịch binh sĩ, ba lần xuất quân, hao binh tổn tướng rất
nhiều mà ba lần thất bại.
Do đó mà cùng kiệt sức lực của
dân, trong ngoài đều ta oán, trộm cướp nổi dậy khắp nơi. Trên một chục hào kiệt
chiếm cứ mỗi người một nơi, tự xưng vương, loạn hơn hồi Tần Nhị Thế. Ai cũng
thấy vận của nhà Tùy sắp hết. Triều đình đem quân đi dẹp loạn thì quân lính đào
ngũ theo dân. Trong khi đó Dạng đế vẫn vui thú trong cung, không quan tâm tới
việc nước, bọn cận thần không dám cho ông ta biết sự thực, sợ ông ta nổi giận.
Ngay quan thượng thư bộ binh cũng báo tình hình “rất tốt đẹp, chỉ có những bọn
ăn cướp, bọn giặc cỏ sẽ dẹp được”.
Đã vậy, kẻ cầm quyền lại tàn bạo.
Tướng Vương Thế Sung đi dẹp loạn ở Giang Nam, hứa với loạn quân: sẽ tha hoặc
giảm tội nếu chịu đầu hàng. Ba vạn người ra đầu thú, ông giết hết, không còn
một mạng. Còn Dạng đế thì khi muốn dời Lạc Dương xuống kinh đô miền Nam là
Dương Châu, nhiều tướng khuyên không nên đi, vì ông bỏ Lạc Dương thì miền Bắc
sẽ mất, ông không nghe mà còn chém đầu người nào nói thêm nữa. Tới dân chúng
thấy ông bỏ Lạc Dương cũng sợ, tụ họp nhau trên bờ khóc lóc, năn nỉ ông ở lại,
ông sai lính giết họ.
Trong số mười mấy hào kiệt nổi
loạn, người có tài nhất là Lí Thế Dân. Cha ông là Lí Uyên (dòng dõi Lí Quảng
đời Hán), được phong là Đường quốc công, làm thái thú (thời đó gọi là lưu thú)
Thái Nguyên phủ, một trọng trấn gần biên giới phía Bắc, thuộc tỉnh Sơn Tây ngày
nay. Tính Uyên nhu nhược, đần, trong khi hào kiệt nổi lên khắp nơi thì Uyên vẫn
trung thành với Dạng đế. Thế Dân là con trai thứ của Uyên, giỏi cả văn lẫn võ,
15 tuổi đã cầm quân, 16 tuổi lập được chiến công. Thời đó, có lẽ vì ảnh hưởng
hay di truyền của rợ Hồ, thanh niên Hoa Bắc, trai và gái, có nhiều người rất
thượng võ, 13 tuổi đã thạo cưỡi ngựa, bắn tên. Thế Dân có tài bắn tên bách phát
bách trúng. Thấy tình hình trong nước loạn quá, Thế Dân khuyên cha muốn khỏi bị
chết lây thì đừng theo nhà Tùy nữa mà chiếm Thái Nguyên phủ rồi Tràng An để lập
căn cứ. Uyên mới đầu không nghe, lại còn dọa tố cáo con là phản loạn nữa. Nhưng
Thế Dân hồi đó mới 17 tuổi, giảng lẽ hơn thiệt cho cha, riết rồi cha miễn cưỡng
theo - tính ông ba phải, không tự mình quyết định được gì cả - đem quân đi
chiếm Tràng An (kinh đô cũ) tôn một người cháu nội của Dạng đế mới 13 tuổi lên
làm hoàng đế, còn Dạng đế thì cho làm Thái thượng hoàng. Ông ta đã muốn cướp
ngôi của nhà Tùy rồi đấy, nhưng còn làm từ từ, tiến từng bước một, sợ chết rồi
mang tiếng xấu trong sử.
Năm 617, một viên tướng của Dạng
đế cầm đầu một bọn phản loạn, nửa đêm đột nhập vào cung (ở Giang Đô), sáng sớm
bắt được Dạng đế với đứa con nhỏ nhất, chém ngay đầu đứa bé đó. Khi quân lính
sắp sửa giết luôn cả Dạng đế thì ông ta bảo: “đừng chém ta. Để ta chết với tư
cách một thiên tử. Đưa thuốc độc cho ta uống!”. Muốn cho mau xong, quân lính
thắt cổ ông ngay trên ngai vàng. Nhà Tùy chấm dứt.
Hay tin đó, Lí Uyên mới bắt vị hoàng
đế 13 tuổi ở Tràng An thoái vị và nhường ngôi cho mình. Ông lên ngôi, hiệu là
Đường Cao Tổ, phong cho con trưởng Kiến Thành, làm thái tử; cho Thế Dân làm Tần
vương, và một người em của Thế Dân, Nguyên Cát làm Tề vương. Trong ba người đó,
Thế Dân có tài hơn cả, Nguyên Cát cũng khá, kém nhất là Kiến Thành. Còn một
người con gái giỏi võ nghệ nữa, sau giúp cha và anh được vài việc.
B. NHÀ ĐUỜNG (618-906)
1. Thời thịnh trị: Thái tôn
Dẹp hết loạn
Lí Uyên xưng đế thì các hào kiệt
khác cũng xưng vương, nếu không xưng đế. “Xã hội thời đó là một xã hội mạo
hiểm, đầy những chiến đấu gan dạ và những cuộc chinh phạt phiêu lưu... Người ta
coi vận mạng như cuộc đỏ đen trong một canh bạc lớn mà đấu mưu đấu trí với
nhau.” (Lâm Ngữ đường).
Thế Dân là một trang hào kiệt như
vậy. Khi đã thúc cha nổi loạn, xưng đế mà cha bất lực, thì thanh niên đó phải
chiến thắng các hào kiệt khác mà thống nhất Trung Quốc, đem giang san về cho họ
Lí, và chàng thành công, đã cứu văn minh Trung Hoa khỏi sụp đổ mà còn rực rỡ
hơn nữa. Sử gia nào cũng nhận ra 3 điểm cao nhất của văn minh Trung Hoa là đời
Chu, đời Hán và đời Đường. Danh từ “người Đường” cũng thông dụng như danh từ
“người Hán” để chỉ người Trung Hoa. Chính người Trung Hoa thời gần đây còn thừa
nhận là “thoòng dần” (Đường nhân).
Chàng cưỡi ngựa, bắn cung rất
giỏi, có tài cầm quân, biết lợi dụng thiên thời, địa lợi, mà lại rất can đảm,
luôn luôn tính những việc nguy hiểm nhất, khi tấn công thì như vũ bão, nhất là
biết lựa người và dùng người, không ngại dùng kẻ thù cũ đã đầu hàng mình. Có
lần cha tính giết Lí Tĩnh vì một mối hận riêng nào đó Lí Tĩnh la lên: “Ông muốn
đem thái bình cho quốc gia và cứu nhân dân mà việc đầu tiên của ông là giết một
người vô tội để trả một mối thù riêng!”, Thế Dân thấy vậy, xin cha tha cho Lí
Tĩnh, và sau Lí Tĩnh thành một tướng danh tiếng của nhà Đường. Vì vậy mà các
tướng sĩ đều phục chàng, và mới 18 tuổi, chàng đã nắm hết binh quyền trong tay,
thu phục được nhiều tướng tài, tận tâm với chàng như Lí Tĩnh, Uất Trì Kính Đức,
Tần Thúc Bảo, Lưu Văn Tĩnh...
- Trong những năm 618-620, Thế
Dân bình phục được hết miền Tây Bắc Trung Hoa, thắng một trận lớn ở Sơn Tây.
- Hai năm 620-622, Thế Dân chuyển
quân qua phía Đông, đánh Trịnh Vương là Vương Thế Sung ở Lạc Dương (Đông Kinh),
để tiến tới Sơn Đông. Vương Thế Sung bị vây trong thành mấy tháng, quân dân đều
đói, sai người cầu cứu với Hạ vương là Đậu Kiến Đức. Khi hay tin, Đậu đem 30
vạn quân tới cứu Lạc Dương, các tướng của Thế Dân ngại không chống nổi cả hai
mặt, muốn rút quân vây Lạc Dương về, Thế Dân cương quyết không nghe, chỉ rút
một phần nhỏ (3.500) thôi, còn phần lớn vẫn để lại bao vây Lạc Dương; và dùng
3.500 quân đó với 1 vạn quân trong đồn Tị Thủy ở gần Lạc Dương để chống với 30
vạn quân của Đậu Kiến Đức và nhờ chiến thuật táo bạo, thần tốc, đánh phá những
đoàn tiếp tế lương thực của Đậu, tỉa lần địch, lợi dụng lúc địch mỏi mệt, mà
bất thần tấn công, đại phá được quân của Đậu, bắt sống được Đậu, trói Đậu, đưa
về thành Lạc Dương cho Vương Thế Sung thấy. Vương và Đậu nhìn nhau khóc ròng.
Vương phải đầu hàng. Quân Thế Dân vào chiếm thành, không giết một người dân.
Vậy là chỉ trong một trận mà Thế Dân thắng được hai nước Trịnh và Hạ, làm chủ
được trọn Hoa Bắc. Pitzgerald trong cuốn Li Cho-min, uniricateur de la Chine
(Payot - 1935) cho rằng trận Tị Thủy đó (Tị Thủy là một chi nhánh nhỏ của Hoàng
Hà, gần Lạc Dương) đáng kể là một trong những trận quyết định trong lịch sử thế
giới, vì nhờ trận đó mà nhà Đường mới vững, thống nhất được Trung Quốc, và văn
minh Trung Quốc mới phát triển được rực rỡ.
- Vậy là Thế Dân đã bình định
xong Hoa Bắc. Chỉ còn Hoa Nam.
Hoa Nam
có hai tiểu vương, một làm chủ phía Tây, một làm chủ phía Đông ở Nam Kinh.
Nhà Đường đã chiếm được Tứ Xuyên
ở thượng lưu sông Dương Tử. Thế Dân sai Lí Tĩnh dùng thuyền chở quân, từ Tứ
Xuyên đổ xuống một cách bất ngờ, vua nước Lương ở phía Tây phải đầu hàng. Rồi
thừa thế, quân Lí Tĩnh xuôi dòng chiếm nốt Nam Kinh (622).
Sau đó chỉ còn phải dẹp những bọn
phản loạn nhỏ, và từ năm 625, Trung Quốc lại được hưởng một cảnh thanh bình,
thống nhất dài khoảng 130 năm để phát triển văn minh và nghệ thuật.
Mở mang bờ cõi.
Suốt 3.000 năm, từ đời Chu cho
tới đời Thanh, các dân tộc du mục ở phía Bắc và phía Tây thời nào cũng là cái
họa mà dân tộc Trung Quác phải đề phòng. Hễ Trung Quốc mạnh thì họ thuần phục và
để yên, không quấy phá; lúc nào Trung Quốc yếu thì họ lại vượt Trường thành mà
xâm nhập. Chỉ tới thời cận đại, họ tiến bộ, theo văn minh nông nghiệp, Hán hóa
rồi, không còn là du mục nữa thì Trung Quốc mới được yên.
Vì vậy nhà Đường tuy đã làm chủ
hết Hoa Bắc, vẫn phải đối phó với các rợ Đột Quyết (Thổ Nhĩ Kì). Thời đó có
Đông Đột Quyết, từ sa mạc Qua Bích (Gobi) tới cuối biên giới phía đông của
Trung Hoa, và Tây Đột Quyết ở Trung Á, phía bắc Thiên San. Ngoài ra còn rợ Thổ
Cốc Hồn ở miền Thanh Hải, đông bắc Tây Tạng.
Thế Dân phải đối phó với Đông Đột
Quyết trước hết. Ông cũng dùng chính sách của Hán Võ đế, vừa tấn công vừa dùng
mưu để chia rẽ các bộ lạc lớn ở biên giới, thu phục một số làm phên dậu che chở
Trung Hoa. Năm 626, một Khả hãn[1] (tức vua) Đông Đột Quyết, tên là Đột Lợi,
hiếu chiến, đem quân xâm nhập Trung Hoa, tới sông Vị, cách Tràng An 16 cây số.
Thế Dân phi ngựa tới trại Đột Quyết, chỉ dắt theo sáu viên tướng để điều đình
với Đột Lợi. Nhiều người can đừng mạo hiểm như vậy, ông không nghe, cho rằng
nếu mình tỏ ra khinh thường Đột Quyết thì chúng không dám tấn công mình, vì
chúng ở xa các cánh đồng cỏ, bất lợi cho chúng. Quả nhiên khi thấy ông tới,
tướng Đột Quyết ngạc nhiên, tưởng ông đã đặt nhiều quân phục kích ở chung
quanh, hoảng sợ, xuống ngựa để tiếp ông. Ông quay trở về, chiều phái một sứ giả
đến điều đình với Khả hãn Đột Lợi. Và hôm sau, ông với Đột Lợi, kí một minh ước
trên cầu sông Vị, giết một con ngựa trắng để cúng thần, đúng theo tục Đột
Quyết. Đột Lợi rút quân về và minh ước được tôn trọng một thời gian.
Năm 629, Đột Lợi lại cho quân
cướp phá biên giới, như vậy là xé minh ước. Thế Dân (lúc này đã lên ngôi vua,
hiệu là Thái Tôn) mới sai Lí Tĩnh đem 10 vạn quân vượt Trường thành, tấn công
Đột Quyết tại sào huyệt. Quân Đường đại thắng, giết được 10 vạn quân địch, bắt
được 10 vạn tù binh và vô số ngựa, cừu..., truy kích Khả hãn của họ tới cùng,
bắt được. Trung Hoa sau 4 năm, dẹp được họa ở phía Bắc biên giới, làm chủ được
Nội Mông.
- Còn rợ Thổ Cốc Hồn cũng thường
cướp phá biên giới gần miền ngọn sông Hoàng Hà, ở Cam Túc và Lương Châu. Năm
634, Thế Dân lại sai Lí Tĩnh đi dẹp. Lí Tĩnh chia quân làm 2 đạo, một đạo chính
Lí chỉ huy, tiến lên phía bắc, một đạo do Hầu Quân Tập chỉ huy tiến theo dãy
núi Côn Lôn ở phía Nam. Đạo phía Bắc phá tan quân Thổ Cốc Hồn ở dãy núi
Kokongr; đạo phía Nam
đã làm được một kì công: leo dãy núi Côn Lôn rất cao, không gặp một bóng người,
tuyết phủ quanh năm, người và ngựa đều phải ăn băng và tuyết. Họ thình lình gặp
quân Thổ Cốc Hồn trên bờ một cái hồ tại ngọn sông Hoàng Hà. Quân Thổ Cốc Hồn
hoảng hốt, không ngờ rằng quân Đường vượt được núi như vậy, bỏ chạy; quân Đường
đuổi theo. Tới Thanh Hải, Thổ Cốc Hồn bị quân Lí Tĩnh đón đầu và tận diệt. Khả
hãn của họ bị một tướng làm phản, giết. Một Khả hãn khác lên thay, chịu thuần
phục nhà Đường.
Trận đó làm danh nhà Đường vang
khắp Trung Á. Tây Đột Quyết sợ, cũng xin nộp cống. Nhiều bộ lạc ở phía Bắc, tại
biên giới Ngoại Mông ngày nay, cũng phái sứ giả tới xưng thần. Ba Tư, vài tiểu
quốc ở Ấn Độ, cả những bộ lạc xa xăm ở Tây Bá Lợi Á cũng sợ Trung Hoa, tỏ tình
hòa hảo. Đế quốc Trung Hoa thời này rộng hơn thời Hán. Sức mạnh và uy danh của
Trung Hoa đạt tới mức cao nhất.
Một số nhà truyền giáo Syrie đem
Cảnh giáo (một phái Ki-tô giáo ở Tây Á) vào Tràng An, và lập một giáo đường ở
đó năm 781, hiện nay còn một tấm bia ở Tây An phủ.
Giáo chủ Mahomet (sanh năm 570),
vị sáng lập đạo Hồi Hồi ở Ả Rập, khi đem quân đi chinh phục thế giới, viết thư
cho ba đại đế trên thế giới là Héraclius, vua La Mã, Khosroès, vua Ba Tư và Thế
Dân, vua Trung Hoa, buộc họ phải nhận Hồi giáo, nếu không thì sẽ bị trừng trị.
Hérachus đuổi sứ giả về mà không nhận thư. Khosroès xé bức thư, sứ giả bảo:
“Allah sẽ làm cho đất đai nhà vua tan tành như bức thư đó.”. Chỉ có Thế Dân là
khoáng đạt hơn cả: cho người Ả Rập ở Trung Hoa được cất thánh đường đầu tiên
của họ ở Quảng Châu.
- Chiến tranh Triều Tiên. Triều
Tiên chỉ thần phục Trung Hoa bề ngoài thôi, chứ vẫn âm thầm chống. Tùy Dạng đế
đã đem quân trừng phạt nhưng đại bại. Vào khoảng cuối đời Đường Thái Tôn, Triều
Tiên loạn, một vị đại thần tiếm ngôi, rồi đem quân đánh một nước nhỏ, nước Tân
La, cũng phụ thuộc Trung Hoa. Tân La cầu cứu Đường Thái Tôn. Thái tôn đích thân
đem quân đi đánh Triều Tiên. Cũng dùng cả hải quân lẫn lục quân; một đạo vượt
biển vào gần vàm sông Áp Lục, một đạo theo đường bộ vòng lên phía Bắc, đánh
xuống Liêu Dương. Thắng được nhiều trận lớn, rồi vây thành An Thị ở bán đảo
Liêu Đông, 63 ngày không hạ nổi, quân Đường phải rút về trước khi mùa đông tới.
Chiến tranh đó không đạt được mục
đích là trừng trị loạn thần tiếm ngôi mặc dầu chiếm được Liêu Dương và nhiều
thành khác, bắt được 7 vạn người Triều Tiên đem về làm nô lệ. Theo lệ, 7 vạn nô
lệ đó sẽ chia cho tướng sĩ, nhưng Thái tôn không nỡ, thấy họ khóc lóc thảm
thiết vì cha con vợ chồng phải chia nhau, nên bỏ tiền ra chuộc họ và cho họ
định cư ở Trung Quốc, kiếm việc làm ăn.
Bi kịch giành ngôi
Dựng nên nhà Đường, thống nhất
giang sơn là công của Thế Dân. Thái tử Kiến Thành và Tề Vương Nguyên Cát thấy
cha quí Thế Dân và các tướng đều kính trọng, tuân lệnh Thế Dân, sinh lòng ghen
ghét, sợ Thế Dân sẽ giành ngôi của Kiến Thành, nên ton hót với một ái phi của
Cao Tổ (Lí Uyên), vu cho Thế Dân tội này tội nọ; hơn nữa, họ đã 2 lần mưu sát
Thế Dân mà thất bại (một lần đầu độc trong một bữa tiệc, nhưng Thế Dân chỉ thổ
ra máu mà không chết). Họ tính mưu sát lần nữa, Thế Dân biết được, phải ra tay
trước, cùng với Uất Trì Kính Đức núp trong vườn cấm sau cung, đợi sáng sớm Kiến
Thành và Nguyên Cát vào chầu mà bắn chết. Cao Tổ hay tin ghê gớm đó chỉ lẩm
bẩm: “Ta có ngờ đâu tới nông nổi này. Phải làm gì bây giờ?”. Chính ông ta do
dự, nhu nhược, biết bụng dạ xấu của Kiến Thành mà không ngăn được nên xảy ra bi
kịch ấy. Đó là nhược điểm của chế độ quân chủ phương Đông: hầu hết ông nào cũng
nhiều con, và rất ít ông sáng suốt lựa được người giỏi để truyền ngôi, thành
thử con thường tranh ngôi với nhau.
Vụ đó là một vết đen trong đời
Thế Dân. Chẳng những anh và em ông bị ông giết, mà theo lệ, cả 5 đứa con trai
của anh và 5 đứa con trai của em cũng bị xử tử nữa, sợ sau này chúng trả thù
cho cha!
Kiến Thành chết rồi, Cao tổ
truyền ngôi cho Thế Dân, năm đó 26 tuổi, mà lên làm Thái Thượng hoàng được một
năm rồi chết. Thế Dân lên ngôi (627-650), gần cuối đời, phải thấy cảnh chính
thái tử của ông làm phản ông, muốn giết ông để cướp ngôi. Hắn chắc có dòng máu
rợ Hồ trong huyết quản, không chịu học hành, chỉ thích sống đời du mục, dựng
lều trong vườn cấm, cùng với một bọn lưu manh cướp bóc dân chúng nào cừu, nào
rượu (chứ không chịu mua), đem về nhậu nhẹt, hát những bài hát Hồ. Nhiều đại
thần khuyên Thái tôn truất ngôi thái tử của hắn mà đưa người con khác lên,
nhưng ông không chịu, cứ giữ đúng tôn pháp nhà Chu, chỉ con cả của dòng vợ
chính mới được nối ngôi. Sau hắn nghe lời bạn xúi giục, âm mưu giết cha để cướp
ngôi mà mau được sống theo ý mình. Âm mưu bị lộ, Thái tôn không nỡ giết, chỉ
đày đi Tứ Xuyên, năm sau hắn chết tại đó. Ông đưa Lí Trị lên làm Thái tử, sau
thành Cao tôn. Ông này hiền lương, nhưng nhu nhược, quyền hành vào cả tay Võ
hậu, một người đàn bà dâm loạn mà thông minh, khiến cho nhà Đường nghiêng ngửa
suýt mất.
Chính trị
- Thời nông nghiệp, bất kì dân
tộc nào cũng cho nghề nông là căn bản. Phải tự túc về lương thực trước đã. Ngũ
cốc có dư thì nước mới giàu được, thiếu thì không thể mua của nước ngoài được
vì phương tiện chuyên chở rất khó, dân sẽ đói và sẽ nổi loạn. Cho nên sau một
thời gian loạn lạc, ông vua sáng nghiệp nào cũng nghĩ ngay đến việc ban ruộng
đất cho dân cày, khuyến nông, giảm thuế.
- Cao tổ cũng tố chúc lại triều
đình, sửa đổi quan chế, nhưng công việc này đến thời Thái tôn mới tiến mạnh.
Các sử gia Trung Quốc đều cho Thái tôn là một vĩ nhân, cầm quân đã giỏi mà trị
nước giỏi hơn nữa. Ông hơn Hán Võ đế, sáng suốt mà đại độ, không độc tài. Chỉ
có mỗi một điều ân hận là bắt buộc phải giết anh để lên ngôi.
Đức quí nhất của ông là biết lựa
người, dùng người và nghe lời can gián. Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối là những
kinh tế gia có tài, Ngụy Trưng làm Gián nghị đại phu, Tch ou Souei-liang (?)
làm Thái sử, đều có tư cách cao, dám nói thẳng, chép sự thực.
Ngụy Trưng trước là tay chân của
Thái tử Kiến Thành, vậy mà khi giết Kiến Thành rồi, Thế Dân thấy Nghị Trưng
cương trực, đã không trị tội mà còn thu dụng liền. Nhưng Ngụy Trưng vẫn không
nể Thế Dân, hễ thấy có lỗi thì vạch ra, có lần cương quyết chống đối giữa triều
đình. Thế Dân giận lắm, trở vô cung còn hầm hầm nói với hoàng hậu: “Tên khốn
nạn đó còn sống thì ta không bao giờ làm chủ được. Trước kia ta đã kéo nó từ
dưới bùn lên đấy.” Hoàng hậu hỏi kẻ khốn nạn đó là ai, ông kể lại đầu đuôi cho
bà nghe. Bà làm thinh, lặng lẽ về phòng riêng, lát sau, trở lại với bộ lễ phục
đẹp nhất. Ông ngạc nhiên hỏi, bà đáp: “Thiếp nghe nói một vị minh quân thì luôn
luôn gặp được một bề tôi trung và thành thực. Bệ hạ mới nhận rằng Ngụy Trưng
chính là hạng bề tôi trung và thành thực đó. Vậy bệ hạ là một minh quân, và
thiếp bận lễ phục này để mừng bệ hạ đây.”
Một hôm khác, Thế Dân tò mò muốn
biết viên Thái sử viết gì về mình, viên này đáp: “Thần chép hết ngôn hành của
bệ hạ, cả tốt lẫn xấu, chép đúng để làm gương cho đời sau. Nhưng thần chưa bao
giừ được nghe nói có một vị hoàng đế nào lại đọc những gì Thái sử viết về
mình.” - “Vậy nếu ta làm bậy điều gì, khanh cũng chép sao?” - “Đó là bổn phận
của thần.” Một viên phụ tá của Thái sử nói thêm: “Mà nếu quan Thái sử không
chép thì bọn hạ thần chúng tôi cũng sẽ chép.”
Thế Dân bảo: “Ta rán noi gương
vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ thời xưa, ta lựa người có tài để giúp ta trị
nước, đuổi những kẻ bất tài đi, và không bao giờ nghe những lời nịnh bợ của bọn
tiểu nhân. Nếu ta giữ được 3 điều đó tới chết thì không ai có thể chê ta được.”
Viên Thái sử nói: “Mấy lời bệ hạ vừa thốt cũng sẽ được chép trong sử.”
Khi Cao tổ mới chết, Thái tôn thả
ngay 3.000 cung nữ, cho về với cha mẹ. Đó là lần đầu tiên mà có thể là lần duy
nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Ông tổ chức triều đình, đại khái
cũng theo các thời trước, chỉ thay đổi chi tiết cho hoàn bị hơn. Quyền tập
trung vào vua hết. Vua có ba vị Thái sư, Thái phó, Thái bảo (gọi là tam sư) làm
tối cao cố vấn. Chức họ cao, nhưng không có quyền. Điều hành cơ quan hành chính
là Thượng thư tỉnh gồm 6 bộ: bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình và bộ Công.
Mỗi bộ có một trưởng quan gọi là Thượng thư, một thứ quan là Thị lang. Cũng có
một bộ tựa như bộ thuộc địa để cai trị các lãnh thổ ở xa: Mông Cổ, Tân Cương,
Tây Tạng, v.v..., nhưng không có bộ ngoại giao vì Trung Hoa tự coi là hơn hết
thảy các dân tộc khác, nên việc ngoại giao chỉ là tiếp các sứ thần tới dâng
cống phẩm thôi. Lại có một Ngự sử đài, tức cơ quan giám sát.
Toàn quốc chia làm 10 đạo (như
tỉnh ngày nay); dưới đạo có châu, rồi huyện, hương, lí, thôn.
Các cải cách của Thái tôn về tổ
chức hành chánh tỉnh đáng coi là quan trọng và lâu bền nhất. Nhà Tần đặt ở đầu
mỗi quận một quan văn coi về hành chánh và một quan võ coi về võ bị, quyền
ngang nhau. Nhà Hán bỏ chế độ đó, chỉ dùng quan văn thôi. Nhưng sau đời Hán,
nước loạn lạc, sự cai trị các quận giao cho quan võ do bọn vương hầu cử.
Thái tôn loại lần lần các quan võ
đó, mà đích thân lựa những người có học, có hạnh tốt thay vào. Chế độ tuyển cử
đó có vào đời Tùy, nhưng tổ chức còn sơ sài. Thái tôn theo Tùy, đặt ra khoa
tiến sĩ trọng văn từ, khoa minh kinh trọng sự tinh thông một kinh. Lễ bộ coi
việc khảo thí; người nào đậu rồi, muốn làm quan thì phải thi lại ở bộ Lại, có
đậu mới được bổ dụng. Như văn hào Hàn Dũ (coi ở sau) đậu tiến sĩ mà thì 3 lần ở
bộ Lại đều rớt, phải sống nghèo khổ 10 năm. Cũng có một số con nhà quí tộc, đại
quan liêu, đại địa chủ chẳng cần thi cũng được bổ dụng. Thói thiên vị, bổ dụng
người thân đó thời nào, dân tộc nào cũng có, nhưng ở Trung Hoa vẫn ít hơn.
Các kì thi tổ chức rất nghiêm và
rất công bằng. Thí sinh mà gian lận thì bị trừng trị nặng, giám khảo mà gian
lận thì bị cách chức.
Chế độ thi cử ở nước ta thời
trước theo đúng của Trung Hoa nên tôi không cần chép dài dòng, chỉ nhấn vào
điểm này: không biết từ đời nào Trung Hoa mới chuyên dùng thi phú để tuyển nhân
tài, chứ đời Thái tôn tuy trọng văn từ thật, nhưng không khinh hẳn những môn
ngày nay ta gọi là kĩ thuật hay chuyên môn: toán, luật, sử, thư pháp[2]... Qua
được những môn đó rồi mới tới môn tứ thư, ngũ kinh, thi, văn. (theo Tsui Chi
trong sách đã dẫn, tr. 125, 126).
Chính sách dùng thi cử để lựa
người cai trị dân đó tiến bộ nhất đương thời, học giả phương Tây nào (nhất là
các triết gia Pháp ở thế kỉ XVIII) cũng nhận vậy. Nó rất bình dân, làm cho
quyền hành của giới quí tộc bị thay thế bằng quyền hành của tài năng, trí tuệ.
Có thể nói văn minh Trung Hoa tồn tại được mấy nghìn năm một phần lớn là nhờ
nó.
Đời sau, có lẽ từ nhà Tống, người
ta quá coi trọng thi văn, coi thứ văn tám vế (phú) là cái thước để đo nhân tài,
cứ thuộc nhiều câu sáo là đậu, không cần có thực học, có kiến thức, và cái tệ
đó kéo dài mãi tới cuối đời Thanh trong 8 thế kỉ, chương trình học không làm
cho tư tưởng tiến bộ, mà giai cấp sĩ sa đọa, thành một bọn quan lại cố hữu,
vênh váo, độc tài, thường tham nhũng: có thời một tổ chức bán được tới 2 vạn
bằng cấp, trước khi bị phát giác. Ngô Kính Tử, một tác giả đời Thanh (thế kỉ
XVIII) đã phúng thính lối thi cử đó và mạt sát chế độ quan lại trong bộ Nho lâm
ngoại sử, vậy mà nó vẫn tồn tại đến cách mạng Tân Hợi (1911) rồi mới bị bãi bỏ.
Nhưng những tệ hại kể trên là do người không biết sửa đổi chế độ cho hợp thời,
chứ không do chế độ, vì không có chế độ nào hợp lí hơn là tuyển người theo tài
năng để giao chức vụ. Cho nên cách mạng chỉ bỏ lối dùng văn tám vế thôi mà thay
vào nhiều môn khác, chứ chế độ thi cử cả thế giới đều giữ, không riêng gì Trung
Hoa.
Ngày nay người ta không bắt thí
sinh phải thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh nữa; nhưng thời chế độ quân chủ chuyên
chế, sự học đó có tác dụng tốt. Nó tạo được một hạng sĩ phu có tư cách, nhớ
trách nhiệm của mình đối với vua, với dân, dám can gián vua như Ngụy Trưng,
chịu sống cảnh nghèo để giữ đạo, không sợ chết, sẵn sàng hi sinh khi quốc gia
lâm nguy. Giới đó luôn luôn được quốc gia kính trọng, vua cũng phải nể và triều
đại nào không biết quí họ thì triều đại đó tất sẽ sụp đổ.
Will Durant rất khen chế độ đào
tạo được các sĩ phu đó. Ông viết: “Một xã hội mà nghĩ rằng phải thử dùng vào
việc trị nước những người được đào tạo bằng triết học và cổ điển học, nội điều
đó cũng đáng phục rồi. Chế độ ấy và tất cả nền văn minh làm cơ bản cho nó ngày
nay bị lật đổ, tiêu diệt vì sức mạnh khốc liệt của sự tiến triển và của lịch
sử, điều đó đáng kể là một tai họa cho nhân loại” (sách đã dẫn). Chỗ khác ông
còn bảo “giá Platon biết được chế độ đó chắc phải thích lắm.”
Giáo dục.
Đời Tùy có các cơ quan giáo dục
từ trung ương tới châu, huyện. Thái tôn cũng theo tổ chức đó, lập Sùng văn
quán, Hoàng văn quán ở kinh đô chuyên dạy con quí tộc, đại quan liêu; ngoài ra
lại lập các trường Quốc tử học, Đại học, Tứ môn học: Thư học, Luật học, Toán
học, Đạo học, chủ yếu để đào tạo các chuyên viên, kĩ thuật gia. Ông suy tôn Nho
giáo, khắc kinh và thư của đạo Nho lên bia đá. Ông lại mở Hoằng văn điện chứa 2
vạn quyển sách để học sĩ giảng cứu.
Văn hóa thời ông rất phát đạt.
Các nước Nhật Bản, Cao Li, Thổ Phồn (Tây Tạng), Cao Xương (Tân Cương ngày nay)
đều phái con em qua Tràng An du học. Nhật chịu ảnh hưởng nặng của Trung Hoa, có
thể nói là Hoa hóa, từ thời đó.
Binh chế.
Tráng đinh phải làm lính làng mỗi
năm một tháng. Ở biên cương quân lính phải đóng luôn 3 năm, có thể xin ở lại
nhiều kì; họ thường phục vụ suốt đời dưới quyền một ông tướng.
Cải cách pháp luật.
Thái tôn phỏng theo luật đời Tùy
mà cho soạn một bộ luật mới gồm 12 phần: danh lệ (tức nguyên tắc tổng quát); vệ
cấm (hình pháp về cung điện và các cửa ải); chức chế (về quan lại); hộ hôn (về
hộ tịch, hôn nhân); đạo tặc; đấu tụng; trá ngụy; tạp lục...
Có lệ có thể dùng đồng (để đúc
tiền) mà chuộc tội, ví dụ bị tội đày xa 3.000 dặm thì chuộc bằng 120 cân đồng;
nhưng 10 tội nặng (thập ác) như mưu phản, đại bất kính, bất hiếu... thì không
được chuộc.
Lại có lệ giảm hình hay miễn hình
cho những người trong hoàng tộc, những người tay chân cố cựu của Hoàng đế,
những người có đức hạnh lớn, có tài năng lớn, có công lao lớn, những đại thần
từ tam phẩm trở lên.
Khi Thái tôn mất, thái tử là Cao
tôn lên nối ngôi, ban hành lệnh đại ân xá, thì vị thượng thư bộ Hình tâu rằng
trong toàn quốc chỉ có 50 người bị tù và hai người bị xử tử. Điều đó chúng ta
ngày nay khó tưởng tượng nổi. Sử gia Trung Hoa khen đời Thái tôn thịnh trị như
đời Nghiêu, Thuấn, không phải là ngoa.
Cao tôn (650-684) bất tài, triều
đình lại sinh loạn vì Võ hậu nên chỉ cố duy trì được sự nghiệp của cha, giữ
được uy danh ở nước ngoài: đem quân đánh Thổ Phồn (Tây Tạng) không thắng, phạt
Triều Tiên cũng không thành công, nhưng cũng bắt được một tiểu quốc, Bách Tế,
tại phía Nam Triều Tiên, phía Tây Tân La, phải phụ thuộc Trung Quốc.
2. Võ hậu tiếm ngôi (684-705)
Tư cách Võ hậu
Tính ông (Cao tôn) nhu nhược,
hiếu sắc nên nhà Đường mới thịnh được mấy chục năm, lại bị cái nạn ngoại thích
như nhà Hán, suýt mất vào tay một người đàn bà là Võ thị, như nhà Hán suýt mất
vào tay Lữ thị, khiến nhiều người nghĩ đến luật trùng diễn trong lịch sử và
buồn rằng lịch sử không bao giờ làm một tấm gương sáng cho loài người được.
Võ thị tên là Chiếu, vốn là một
tài nhân - một hạng cung nhân tầm thường - của Thái Tôn. Khi Thái tôn đau, Cao
tôn còn là thái tử, vào hầu, thấy Võ thị có sắc, đã yêu thầm. Thái tôn băng, Võ
thị đi tu. Một hôm Cao tôn đến chùa hành hương, Võ thị trông thấy vua, khóc
lóc; một đóa hoa lê mà đầm đìa giọt mưa thì không gì mê hồn bằng, nên Cao tôn
bất chấp cả đạo hiếu, lời dị nghị của quần thần, quốc dân, cho nàng vào cung
hầu mình, tức là lấy nàng hầu của cha, mang tội loạn luân như loài “hươu nai”
(lời của Lạc Tân Vương, tác giả bài Hịch dẹp Võ Chiếu ).
Nàng đẹp mà lại thông minh, có
học, có tài, có bản lãnh. Tên nàng là Chiếu; nàng đặt ra một lối viết khác: gồm
chữ minh 明
là sáng ở trên, chữ không 空 là trống không ở dưới; chiếu nghĩa là ánh sáng (hoặc mặt trời 日, mặt trăng 月) ở trên rọi
xuống khoảng trống ở dưới[3]. Nàng còn thay đổi cách viết của 18 chữ khác nữa.
Khi nàng đọc bài Hịch dẹp Võ
Chiếu, trong đó Lạc Tân Vương mạt sát nàng thậm tệ, nàng đã không giận, còn
khen Lạc là có tài và trách viên tể tướng đã không biết thu phục (Coi bản dịch
bài Hịch đó trong Cổ văn Trung Quốc của tôi - đời Đường - Trong bản đó, tôi đã
chép lầm Võ Chiếu ra Võ Anh). Đó, trí thông minh, bản lãnh của nàng như vậy,
đàn ông cũng ít ai bằng: có sáng kiến, dám sửa đổi lối viết của cổ nhân, dám
coi thường dư luận của mọi người đương thời. Cao tôn mê nàng và nghe lời nàng
răm rắp là phải.
Mới vào cung được một năm, nàng
đã tìm chuyện vu cho Hoàng hậu, Cao tôn phế hậu và lập nàng lên thay, gọi là Võ
hậu (655). Cao tôn mắc một chứng của mắt, các quan tấu đối, nhiều khi không
thấy rõ, sai nàng tài định, thấy vừa lòng, rồi cho nàng dự triều chính.
Lên ngôi hoàng đế. Nhà Chu.
Từ đó Võ hậu nắm hết chính quyền,
gây phe đảng, tỉa lần những kẻ chống đối bà, nhất là những người trong hoàng
tộc; trong thực tế bà là Hoàng đế chứ không phải Cao tôn nữa. Năm 680, bà phế
thái tử rồi lập người khác, lại phế và lập nữa, như vậy hai ba lần. Khi Cao tôn
băng, vua Trung tôn lên, bà vẫn giữ chính quyền, năm sau bà lại phế nữa, đày
Trung tôn lại Phòng Châu, đưa một người khác lên. Sau cùng năm 690, bà lại phế
vua đó nữa, tự xưng là Tắc Thiên Hoàng đế, đổi quốc hiệu là Chu, phong vương
cho cháu là Võ Tam Tư.
Từ Kính Nghiệp, một viên tư mã cử
binh đánh bà, thua rồi chết. Một vài thân vương cũng đem quân chống bà, cũng bị
giết. Thời này bọn tôn thất và đại thần nhiều người bị hại, mà bà càng tàn ác,
dâm loạn.
Nhưng trong triều cũng có nhiều
người theo bà, vì phục bà minh sát, quyết đoán đúng, có tài trị nước. Trong số
đó có cả những đại thần hiền năng, được trọng vọng như Lâu Sử Đức, Địch Nhân
Kiệt, Tống Cảnh; và bà biết tin dùng những người đó, nên việc chính không rối
loạn, dân chúng vẫn yên ổn làm ăn, coi những vụ lộn xộn ở triều chỉ là việc
riêng của họ Lí.
Địch Nhân Kiệt khi chết, tiến cử
Trương Giản Chi thay mình làm tể tướng. Lúc này Võ Tắc Thiên đã già yếu bệnh
tật, Một thân vương thuyết phục được Trương Giản Chi đem binh vào cung giết
những kẻ sùng bế của bà rồi rước Trung tôn đã bị đày ở Phòng Châu về, lên ngôi
vua. Bà bị truất ngôi nhưng không bị giết, sau chết vì bệnh, như vậy đủ biết
triều đình không oán bà. Năm đó là năm 705, nhà Chu
chấm dứt sau 15 năm thay nhà Đường.
Vi hậu.
Một điểm lạ lùng là Trung tôn tuy
phục lại quốc hiệu là Đường rồi, mà ở triều đình lại diễn lại cái trò của Cao
tôn. Vi thị cũng dự triều chính, lộng quyền, tư thông với Võ Tam Tư, giết hại
bọn tể tướng Trương Giản Chi, rồi lại phế thái tử, giết Trung tôn, lập vua khác
lên: Duệ tôn[4]. Sau cùng Vi hậu và họ hàng họ Võ đều bị tôn thất nhà Đường
giết. Duệ Tôn ở ngôi 3 năm, truyền ngôi cho Huyền tôn, mà làm Thái Thượng
hoàng.
*
Hai phe ở triều đình
Các sử gia Trung Quốc đều cho
những rối loạn trong triều nhà Đường, đánh dấu buổi đầu của thời suy vi, đều do
tội quá ham quyền, tàn bạo, dâm loạn của hai người đàn bà: Võ hậu và Vi hậu.
Người ghét Võ hậu nhất là Lâm Ngữ Đường (Lin Yutang), tác giả cuốn Lady Wu.
Nhưng ai đọc kĩ thời đó tất phải
để ý đến mấy điểm khó hiểu này: Võ hậu tàn bạo, dâm loạn mà sao được nhiều đại
thần tài giỏi hết lòng giúp,
Bà chỉ bị truất ngôi chứ không bị
giết, cháu bà là Võ Tam Tư cũng được sống yên ổn,
Bà bị truất rồi, lại có một nhóm
đại thần ủng hộ Vi hậu, để bà này đóng lại vai trò của Võ hậu, cũng dự triều
chính, tư thông với Võ Tam Tư, người của Võ hậu, rồi lại phế thái tử, giết vua,
lập vua khác.
Cơ hồ đứng sau lưng Võ hậu có cả
một phe đảng chống chính sách của nhà Đường, của họ LÝ. Thời đó người Đột Quyết
hoặc Thác Bạt chiếm được nhiều địa vị quan trọng trong chính quyền, cả trong
quân đội. Giới sĩ tộc gốc ở phía Đông Trung Hoa không ưa họ vì đa số gốc ở phía
Tây. Võ hậu ở trong giai cấp sĩ tộc, được họ ủng hộ, cho nên khi lên ngôi hoàng
đế rồi, việc đầu tiên của bà là dời đô lại Lạc Dương ở phía Đông.
Eberhard còn đưa ra sự kiện này
nữa mà tôi không thấy chép trong các bộ sử khác là sau sáu, bảy chục năm dưới
sự bảo hộ của Trung Quốc, Đột Quyết đã hùng cường lên, thu phục được nhiều bộ
lạc chung quanh, và sau khi Cao tôn chết, đã thành một đế quốc mạnh, muốn tỏ vẻ
ngang hàng với nhà Đường. Năm 698, Khả hãn Đột Quyết không xin cưới công chúa
Trung Hoa nữa, mà yêu cầu Trung Hoa cho một vương tôn qua làm rể Đột Quyết. Võ
Tắc Thiên cho một thân vương nhỏ tuổi trong họ Võ, chứ không phải họ LÝ qua.
Khả hãn Đột Quyết không chịu, buộc Võ Tắc Thiên phải đưa Trung tôn đã bị đày ở
Phòng Châu trở về ngôi, nếu không thì sẽ đem quân qua đánh. Như vậy thì triều
đình nhà Đường đã chia rẽ, có một phe ủng hộ Đột Quyết, nên họ mới ngạo nghễ
như vậy. Họ mới cho quân qua xâm lăng thì Trung tôn đã được trở về ngôi, rồi Võ
hậu chết.
Tóm lại, theo Eberhard, có sự
tranh giành ảnh hưởng giữa hai phe, một phe thân Đột Quyết, một phe chống; phe
này gồm Võ hậu và giai cấp sĩ tộc; khi Võ hậu chết, giai cấp đó lại ủng hộ Vi
hậu.
3. Thời rực rỡ: Huyền tôn.
Một ông vua nghệ sĩ
Thời Thái tôn là thời thịnh trị
nhất, vua quan lo cho dân nhất, đoàn kết nhất, có tài, có đức nhất, dân chúng
sung sướng nhất.
Nhưng nói đến đời Đường thì chúng
ta nghĩ ngay đến Đường Minh Hoàng, và cả thế giới cũng cho đời Minh Hoàng là
rực rỡ nhất của Trung Quốc về đời sống tinh thần (có lẽ cả vật chất nữa). Văn
thơ, ca nhạc, họa, điêu khắc đều đua nhau phát triển trong khoảng 40 năm. Thơ
Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị được dịch ra khắp các ngôn ngữ, những nét chữ tươi
mạnh trên các bức hoành, bức tranh, những tranh sơn thủy màu… thật nhã, nét
thật rõ, những tượng nhỏ bằng ngọc thạch... được trưng bày trong các tàng cổ
viện, các thư viện và được coi là những di sản quí báu của nhân loại, tiêu biểu
cho văn minh và văn hóa Trung Hoa.
Minh Hoàng có lẽ là tên người
đương thời tặng vua Huyền tôn. Thực ra Huyền tôn yêu mĩ nhân, ca hát quá, yêu
thơ văn quá, rất tầm thường về chính trị, không đáng gọi là minh quân; ông chỉ
là một vị hoàng đế rất tài hoa, yêu tất cả cái gì đẹp, có nhiều nghệ sĩ tính,
biết làm thơ, đặt ra ca nhạc, vũ nữa; nghệ sĩ tính đó làm cho đời ông về già
thật bi đát, dân chúng lầm than, quốc gia điêu tàn, và nhà Đường suy luôn, để
rồi sau cùng bị diệt.
Ông lên ngôi năm 713, ở ngôi được
43 năm. Hồi đầu ông siêng năng, trừ bỏ những tệ chính đời Võ hậu, Vi hậu, và
được vài vị đại thần có tài giúp đỡ: Diêu Sùng, Tống Cảnh. Họ ức chế bọn quá
nhiều quyền hành, thường can gián ông và ông cũng chịu nghe lời họ.
Thời đó Thổ Phồn đã mạnh lắm, từ
đời Võ hậu đã thường vào cướp phá biên giới, có khi xâm lấn nữa, triều đình
phải chinh phạt nhiều năm, tốn kém khá nhiều.
Nhưng rồi ông hóa ra chơi bời xa
xỉ, tên hoạn quan Cao Lực Sĩ được ông sủng ái, nắm hết quyền hành trong cung. Ở
triều đình thì ông tin dùng Lý Lâm Phủ, một kẻ vô sở bất vi, tìm cách đưa Dương
Ngọc Hoàn vào hầu ông. Ngọc Hoàn là vợ Thọ vương Mạo, con của ông. Nàng có sắc
đẹp, thông minh, được sủng ái nhất trong cung, làm cho ông say đắm, mắc tội loạn
luân, nặng gần bằng tội của Cao tôn. Người ta gọi nàng là Dương Quí phi và chép
đời nàng rất nhiều trong truyện và tuồng, người thì thương cho cái chết của
nàng, người thì trách nàng gây ra tất cả những cảnh khổ ở cuối đời Huyền tôn.
Điều đó chỉ đúng một phần. Nàng đưa anh ruột, Dương Quốc Trung, vô triều đình
làm hữu tướng, cùng với Lí Lâm Phủ quyết định mọi việc trong nước. Ba người em
gái nàng, đều đẹp, lanh lợi, khôn khéo, với hai người em trai nàng đều được
phong tước, sống một cách đế vương, có dinh thự, ngựa xe.
Kẻ gây họa lớn nhất cho nhà Đường
thời đó là An Lộc Sơn (mẹ là người Đột Quyết, cha là người Hồ) có tài cầm quân
nên được kiêm chức tiết độ sứ (võ quan giữ một miền ở biên cương) hai nơi. Mục
trên tôi đã nói ở triều đình có hai phe, một phe thân Đột Quyết gồm họ Lý (họ
nhà vua), một phe của giới sĩ tộc, chống lại phe trên. Lộc Sơn đứng về phe họ
Lý, đúng hơn là muốn lợi dụng phe đó để mưu đồ riêng cho mình. Hắn xin về làm
quan ở triều để gây thế lực. Hắn khéo phụng sự Lí Lâm Phủ và Dương Quí phi, xin
làm con nuôi Quí phi, tự do ra vào trong cung cấm, có nhiều hành động không
tốt. Dương Quốc Trung ngờ hắn có ý làm phản, tâu với Huyền tôn, ông không nghe.
Khi Lí Lâm Phủ chết, Dương Quốc Trung mưu mô gạt phe họ Lý đi mà nắm hết quyền
hành, như vậy là chống với An Lộc Sơn. Lộc Sơn bèn cử binh làm phản, đem bộ lạc
và quân Khiết Đan, tất cả 15 vạn, từ Phạm Dương (nay ở Tây nam Bắc Kinh) kéo về
Nam, không gặp một sự kháng cự nào cả (vì quân đội các châu quận sau một thế kỉ
hòa bình không biết chiến đấu nữa) chiếm Hà Bắc, Hà Nam, hãm thành Lạc Dương
(755) tự xưng là Yên đế (hoàng đế nước Yên). Một đạo quân của triều đình do
Quách Tử Nghi (người Trung Hoa) và một đạo nữa do một tướng Đột Quyết cầm đầu
xông ra chặn An Lộc Sơn; đạo quân của Quách thắng, còn đạo quân kia có nhiệm vụ
bảo vệ Tây Kinh (Tràng An) thì thua, viên chỉ huy bị bắt. Lộc Sơn chiếm luôn
được Tràng An.
Huyền tôn, Dương Quí phi, Dương
Quốc Trung với 1.000 cấm binh phải bỏ kinh đô chạy trốn vào đất Thục, miền Tứ
Xuyên. Thái tử chạy về phía Tây bắc Thiểm Tây.
Đường vô Thục hiểm trở, bọn cấm
binh chán nản, tới Mã Ngôi, tướng sĩ đều ta oán, không chịu đi nữa. Họ nổi
loạn, giết Dương Quốc Trung và hai người em gái của Quí phi, rồi hăng máu, đòi
chém luôn cả Quí phi nữa, cho rằng mọi sự tại nàng và anh em nàng hết. Huyền
tôn đứt ruột mà không thể cứu nàng được, đành để cấm binh buộc nàng phải tự
treo cổ trên một cành cây bằng một tấm khăn lụa trắng. Thật là một bi kịch chưa
từng thấy trong lịch sử, được Bạch Cư Dị chép lại trong bài Trường hận ca, và
các văn nhân thời sau đưa lên sân khấu.
Đoàn vua tôi nhà Đường lủi thủi
tiến vô Thành Đô (Tứ Xuyên). Từ đó Huyền tôn nhường ngôi cho con mà làm Thái
Thượng hoàng, sống âm thầm cho tới chết.
*
Thái tử lúc đó ở Thiểm Tây, lên
nối ngôi, tức vua Túc tôn, cùng với hai tiết độ sứ trung quân là Quách Tử Nghi
và Lí Quang Bật, luyện binh để dẹp giặc. Ông sai sứ mượn binh của nước Hồi Hột,
sai Quách và Lí điều khiển. May sao, phía giặc chẳng bao lâu có một nội loạn:
Lộc Sơn bị con là Khánh Tự giết, quân của Quách, Lí đại thắng, thừa thế thu
phục lại được hai kinh đô Tràng An và Lạc Dương. Một tướng của giặc là Sử Tư
Minh về hàng, Khánh Tự như cua mất càng, chạy trốn.
Sử Tư Minh được Túc tôn cho làm
tiết độ sứ ở Phạm Dương. Lúc đó Khánh Tự thất thế, xin Tư Minh che chở cho, bị
Tư Minh giết. Thấy thế của mình đã mạnh, Tư Minh tự xưng là hoàng đế nước Đại
Yên, lại đem quân chiếm Lạc Dương, không bao lâu lại bị con là Triều Nghi giết.
Năm 762, Huyền tôn và Túc tôn đều
chết cách nhau ít tháng. Quân cứu viện của Hồi Hột (toàn là kị binh) thắng được
Triều Nghi, lấy lại Lạc Dương. Đại tôn lên ngôi. Loạn An, Sử (tức An Lộc Sơn và
Sử Tư Minh) chấm dứt. Chỉ trong có 7 năm (755-762) mà Trung Quốc bị tàn phá
không tưởng tượng nổi. Sử chép dân số giảm đi tới hơn 2/3, tức 53 triệu xuống
còn 17 triệu[5].
Họa phiên trấn
Từ thời Cao tôn, nhà Đường đã
thường bị các rợ Đột Quyết quấy phá ở biên giới. Tới đời Huyền tôn, phải bỏ
chính sách trung ương tập quyền mà tăng quyền cho các miền biên thùy, đặt ra 10
quan tiết độ sứ để phòng ngự các rợ cho có hiệu quả[6]. Các tiết độ sứ được cấp
nhiều binh lương, lại được giữ quyền dân chính, tài chính, lần lần trở thành
những quân phiệt mạnh mẽ. Thời đó cơ hồ dân tộc Trung Hoa chưa có tinh thần
quốc gia, coi các rợ đã Hán hóa ít nhiều là người Hán, không phân biệt, nghi
kị, mà ngoại nhân nào được triều đình Hán dùng thì cũng tự coi mình là người
Hán. (Trong vụ loạn An - Sử, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh đều là người Hồ, ngoại
nhân, Quách Tử Nghi là người Hán - cả ba đều là Tiết độ sứ - nhiều tướng dưới
quyền Tử Nghi cũng là Hồ).
Họ càng ngày càng lộng quyền, thu
được thuế không nộp về triều đình mà giữ lấy chi tiêu, đặc biệt là để nuôi quân
lính họ tuyển. Có nơi họ truyền chức cho con, không nhận tướng sĩ triều đình;
có nơi lại giết cả chủ trấn mà lên thay mà vẫn được triều đình phong quan tước
cho. Từ 750, trung ương không còn quyền hành gì cả, sinh ra cái nạn “trong nhẹ
ngoài nặng”. Họa An, Sử là một hậu quả của chế độ đó. Để dẹp loạn An, Sử, triều
đình phải nhờ quân Hồi Hột, cởi được họa này thì lại đeo cái họa khác. Quân Hồi
Hột không chịu rút về mà đều ở cả kinh đô, buộc Trung Hoa phải mua ngựa của họ
với một giá đắt và trả bằng tơ lụa. Triều đình phải nuôi chúng, và chúng như
làm chúa tể Tràng An, khi ở thì cướp bóc, khi rút lui thì vơ vét.
Nhưng ngoài việc dẹp loạn cho nhà
Đường, Hồi Hột còn làm cái phên che cho Trung Quốc, ngăn rợ Thổ Phồn. Khi họ bị
nội loạn suy đi, thì Thổ Phồn mạnh lên, làm khổ cho Trung Quốc hơn nữa. Khi Thổ
Phồn vì nội loạn mà suy đi thì rợ Nam Chiếu (ở Vân Nam ngày nay) nổi lên, hãm
Giao Chỉ, vây Thành Đô (Tứ Xuyên), xâm lược hoài. Các tiết độ sứ không hăng hái
diệt họ, chỉ khi nào thấy nguy mới ra quân, rồi kể công với triều đình, binh
phí một, thì họ bắt triều đình phải cung cấp ba, quốc khố càng rỗng.
Họa hoạn quan.
Họa này còn lớn hơn họa phiên
trấn vì nó ở ngay tại triều đình.
Mới đầu nhà Đường thấy cái họa
hoạn quan ở các triều trước, nên không cho chúng dự việc nước. Nhưng từ đời Túc
tôn lại tin dùng hoạn quan; và 2 đời sau, họa phiên trấn càng lớn, Đức tôn
không tin cậy các quan văn võ nữa, chỉ chuyên dùng hoạn quan, cho chúng chủ
quản đạo quân Thần sách, từ đó thế lực chúng mạnh lên, mới đầu chỉ can thiệp
vào việc triều chính, sau quyết định mọi việc. Số hoạn quan lên tới 3.000, vây
cánh của chúng rất lớn, chẳng những các triều thần ở trong tay chúng mà các
tiết độ sứ cũng là môn hạ của chúng nữa.
Khi vua Đại tôn lên ngôi, tên
trùm hoạn quan ra lệnh cho ông: “ông cứ yên ổn ở trong cung cấm, việc ở ngoài
để lão nô này lo liệu cho.” Đại Tôn bất bình những phải nuốt hận.
Chúng phế vua, giết vua, lập vua.
Đa số các vua cuối đời Đường đều do chúng lập nên cả: Kinh tôn, Văn tôn, Võ
tôn, Hi tôn, Chiêu tôn. Một tên hoạn quan vì vậy xưng là “Định sách quốc lão”
(bậc quốc lão quyết định việc nước) và gọi vua là “môn sinh thiên tử”, coi vua
chỉ là hạng môn sinh của nó.
Có một, hai ông vua như Hiến tôn,
Văn tôn, thấy tủi quá, mưu tính với vài đại thần, tìm cách trừ chúng, đều thất
bại. Văn tôn phải than rằng: “Ta không bằng Noãn Vương nhà Chu,
Hiến đế nhà Hán; các ông ấy bị cường thần áp bức, ta bị gia nô áp bức.”
Đúng. Trong số ba triều đại vẻ
vang, văn minh nhất của Trung Quốc: Chu, Hán,
Đường, thì Đường bề ngoài có vẻ rực rỡ nhất, mà bề trong loạn nhất, triều đình
bê bối nhất, rồi mới tới Hán. Bọn hoạn quan hoành hành, giết hại kẻ hiền năng,
bán quan buôn ngục, đục khoét dân chúng, bạo ác không sao kể xiết. Đó là một
vết nhơ của chế độ quân chủ Trung Hoa.
4. Mạt vận của nhà Đường
Nỗi điêu đứng của dân.
Hơn một thế kỉ, từ loạn An, Sử,
dân tộc Trung Hoa chịu đủ tai trời vạ người, nhiều nhất là vạ người. Vua thì xa
xỉ (Hiến tôn cũng giống Huyền tôn), quan lại thì bất lực, tham nhũng, nội chiến
rồi ngoại xâm, hết ngoại xâm thì bị ngoại nhân ức hiếp bóc lột, triều đình còn
bóc lột mạnh hơn ngoại nhân nhiều, vì kho tàng nhà nước trống rỗng, phải tăng
thuế liên miên, giá gạo tăng vọt lên nhất là những năm bị hạn, lụt, giặc giã:
đời Thái tôn chỉ có 3 tiền một đấu, đời Huyền tôn 10 tiền, đời Đại tôn 1.400
tiền, đời Hi tôn 3.000 tiền.
Triều đình tăng thuế nhưng dân
nghèo quá không thâu được phải xoay cách khác: Cướp tài sản của các ngoại nhân
(người Hồ) làm giàu nhờ buôn bán. Bọn thương nhân đó hay tin đem gởi một số lớn
của cải vào các chùa chiền, giáo đường. Muốn cướp những tài sản đó, Võ Tôn, năm
843 cấm tất cả các tôn giáo đã được truyền vào Trung Quốc (coi mục sau), kể cả
Phật giáo lúc đó đã thành quốc giáo. Các tu sĩ phải hoàn tục hết, ăn mặc như
người Trung Hoa, đãi ngộ như người Trung Hoa và chịu pháp luật của triều đình.
Hàng ngàn chùa bị đóng cửa, các tượng Phật phải nộp cho triều đình để đúc tiền.
Đất cát, tiền bạc của nhà chùa bị tịch thu hết, mà số đó rất lớn vì các đại
thương gia, đại điền chủ đã đem gởi vào chùa để khỏi chịu thuế. Phật mà giàu
quá thì cũng bị nạn, huống hồ là thường nhân. Chỉ có những điện của Đạo giáo là
được yên vì giới sĩ tộc có thế lực ở triều đình và trong nước hầu hết theo đạo
đó và đạo Khổng. Đến đời sau, Tuyên tôn, lệnh cấm tôn giáo đó hủy bỏ, có thể vì
Tuyên tôn mộ đạo mà cũng có thể vì chùa chiền và giáo đường đã rỗng không rồi.
Năm 874, vua Hi tôn thấy dân khổ
quá, nổi loạn ở khắp nơi, xuống chiếu tự kể tội mình với quốc dân: tội gây binh
đao, bắt lính khắp nơi, bắt dân chở lương hàng ngàn dặm, đánh thuế xe, thuế
ngựa, bắt dân làm xâu, phải bỏ hoang ruộng đất... Ông còn tự nhận là có tội
giết chóc vơ vét dẫn đến nỗi dân phải tha hương cầu thực, chết đường chết
chợ... Nhưng trễ quá, loạn đã nổi lên khắp nơi rồi.
Loạn Hoàng Sào.
Mới đầu, năm 860, nổi ở Chiết
Giang, đông tới 3 vạn, chỉ vì đói. Triều đình phải ba lộ quân, toàn là lính Hồi
Hột, Thổ Phồn (không dùng lính Hán) đi tiễu trừ, bao vây một thành; nông dân
trong thành, già trẻ trai gái đều chống cự kịch liệt; giữ thành được 3 tháng,
tới khi hết lương thực mới chịu thua.
Năm 862 xảy ra một vụ loạn nữa ở
Từ Châu; năm 868, một vụ nữa ở Quế Châu, triều đình phải cầu cứu với rợ Sa Đà
(Đột Quyết); nghĩa quân uất ức, mắng triều đình là “quốc tặc”, đem rợ vào giết
dân.
Cuộc khởi nghĩa lớn nhất của nông
dân đời Đường xảy ra năm 875, một năm sau bài chiếu của Hi tôn.
Một nông dân, Vương Chi Tiên,
lãnh đạo 1.000 dân, nổi loạn ở Hà Bắc, một miền rất giàu ngũ cốc. Vương được
Hoàng Sào giúp sức. Hoàng thi tiến sĩ rớt, làm nghề buôn muối, rất giàu, viết
văn hay (thảo hịch mạt sát bọn hoạn quan), ăn nói nhã nhặn, cưỡi ngựa giỏi mà
múa gươm cũng rất khéo, rất ghét bọn quan liêu và giới sĩ tộc, được nông dân
quí mến. Vương và Sào đều có tài tổ chức, chẳng bao lâu làm chủ miền Đông Hoa
Bắc. Mấy tiết độ sứ chống lại họ không nổi vì quân lính có cảm tình với nghĩa
quân, không ham chiến đấu. Triều đình lại phải nhờ rợ Sa Đà dẹp hộ. Sa Đà
thắng, Vương bị chém. Hoàng Sào lên cầm đầu nghĩa quân, đưa họ xuống phương
Nam, năm 879 chiếm được Quảng Châu, đốt thị trấn đó. Theo tải liệu của Ả Rập,
có tới 12 vạn ngoại nhân chết trong vụ đó. Nghĩa quân trở lên phương Bắc với
nhiều chiến lợi phẩm, lại bị quân Sa Đà chặn ở phía Nam sông Dương Tử. Nhưng ít lâu sau
Hoàng Sào lại tiến lên Bắc, chiếm được Lạc Dương (880). Vua Hi tôn bỏ kinh đô,
trốn vào Tứ Xuyên, Hoàng Sào bèn chiếm nốt Tràng An, lên ngôi Hoàng đế, quốc
hiệu là Đại Tề. Lần đó là lần đầu tiên một phong trào nông dân do một thương
nhân có học lãnh đạo thắng được giới sĩ tộc đại quan liêu, đại địa chủ.
Hi tôn lại phải cầu cứu với Sa
Đà, do một tướng cũng là Sa Đà chỉ huy. Tướng đó có tài, trung với Hi tôn, được
Hi tôn đặt tên cho là Lí Khắc Dụng. Khắc Dụng tấn công Tràng An, Hoàng Sào cầm
cự được ít lâu, năm 883 thua, bị Sa Đà bắt được, giết. Vậy là cuộc khởi nghĩa
của quân nổi dậy đó kéo dài được non 10 năm, khi dẹp được thì Đông đô Lạc Dương
chỉ còn trên 100 hộ (mỗi hộ trung bình là 5 người).
Sau vụ Hoàng Sào tới vụ nổi loạn
của tiết độ sứ Thái Châu tên là Tần Tôn Quyền, tàn sát, cướp bóc rất tàn nhẫn
trong 5 năm; dân chúng phần thì chết, phần thì tiêu tán, có miền cả ngàn dặm
không có một bóng người. Tần Tôn Quyền sau bị một hàng tướng của Hoàng Sào,
cũng làm tiết độ sứ, tên là Chu Ôn dẹp. Vua đổi tên của Ôn là Toàn Trung.
Nhà Đường chấm dứt
Nhưng Toàn Trung mà lại không
trung. Ít năm sau nhà Đường mất chính vì tay hắn. Sự việc xảy ra rất rất rối,
mỗi sách tóm tắt một khác, chúng ta chỉ cần biết rằng Tràng An không yên, vua
Chiêu tôn phải bỏ cung điện, lại Phượng Tường (Thiểm Tây) nương nhờ tiết độ sứ
Lí Mậu Trinh. Toàn Trung đem binh tới vây, Mậu Trinh và Toàn Trung hòa giải với
nhau rồi đưa vua trở về Tràng An. Tới kinh đô, Toàn Trung giết hết hoạn quan,
được phong là Lương vương. Chẳng bao lâu hắn sai bộ hạ ám sát vua, đưa Ai đế
lên, tự phong làm tướng quốc, rồi ép Ai đế nhường ngôi cho mình. Năm đó (907)
nhà Đường chấm dứt, Toàn Trung thành vua Thái tổ nhà Hậu Lương.
Nhà Đường mất vì chính sách dùng
tiết độ sứ, làm cho ngoài mạnh hơn trong, cán nậng hơn gáo; và cũng vì quá tin
ngoại nhân, quên bài học của Tào Tháo (Tháo dùng quân Hồ để dẹp loạn trong nước
rồi cho họ định cư ở phía Bắc, sau trị họ không nổi) nhờ các rợ Đột Quyết, Hồi
Hột dẹp loạn để bảo vệ ngai vàng cho mình. Ngai vàng tạm giữ thêm được 100 năm
nhưng nước nghèo, dân khổ, còn các rợ thì cậy công, hống hách với dân, chưa
thời nào Trung Hoa suy nhược vua quan bị dân ghét và khinh như cuối đời Đường.
Tổ tiên anh dũng thế, mà cháu chắt mươi đời sau sao tồi tệ thế!
Rợ Ngũ Hồ cuối đời Hán xâm nhập
lần lần vào Trung Quốc, tới thời Nam Bắc triều làm chủ giang san, cuối đời
Đường tuy không chiếm hẳn giang san mà thực sự làm chủ trong nước, các đời sau
còn gây nhiều họa cho người Hán nữa.
5. Kinh tế - Xã hội
Nông
Ở trên tôi đã nói nhà Đường theo
chính sách quân điền của các thời Bắc triều, Tùy; mỗi tráng đinh được phát một
số ruộng (nhiều ít tùy miền và tùy triều đại), không được bán, khi già không
làm được nữa hoặc chết thì trả lại cho triều đình để cấp lại cho người khác;
ngoài ra được giữ một số (thường là 20 mẫu) thời đó gọi là “vĩnh nghiệp” làm
của riêng, có quyền được bán[7]. Họ phải đóng thuế nhẹ thôi, được giữ một số
lúa, vải lụa đủ ăn, đủ mặc, nhưng tráng đinh mỗi năm phải làm xâu 30 ngày và đi
quân dịch một tháng.
Quân điền như vậy chỉ là “quân”
với người nghèo; còn bọn vương công, đại quan liêu có công thì được cấp ruộng
đất nhiều, hằng vạn, ức mẫu.
Chính sách đó có mục đích chiêu
tập những kẻ lưu vong và dễ thu thuế, khác hẳn chủ trương của Vương Mãng đời
Hán: san bằng sự giàu nghèo, ức chế bọn mạnh, không cho thôn tính kẻ yếu. Đời
Đường cũng như đời Tùy, chính sách đó có kết quả tốt trong mấy chục năm đầu:
sản xuất tăng lên, thuế má thu vô nhiều, dân số cũng tăng theo.
Nhưng dân số tăng lên thì không
thể phát cho dân số ruộng như cũ nữa, được bao nhiêu mẫu nữa, mà phải giảm đi.
Giảm tới một mức nào đó, dân không đủ sống thì phải đi nơi nào đất rộng dân
thưa để làm ăn, và như vậy phải bán ruộng vườn của mình đi. Hoặc vì bệnh tật,
trong nhà có người chết mà không đủ tiền lo thuốc thang, ma chay thì cũng phải
bán đất. Bán thì bán cho chùa hoặc đại điền chủ. Bán rồi thì không được cấp đất
nữa, thành dân lưu vong, vô sản, chỉ còn cách làm công cho chùa, cho đại điền
chủ, như vậy không còn tên trong hộ tịch nữa, khỏi phải đóng thuế và triều đình
mất một số thuế. Chùa và đại điền chủ (đa số là đại quan liêu) được miễn thuế,
càng ngày càng giàu thêm, mà triều đình thì càng ngày càng nghèo, tới một lúc
số thu của triều đình kém số thu của hai giới đó. Thế là chế độ quân điền tự
diệt nó: chiêu tập lưu vong được một thời rồi lại tạo ra lưu vong, thu thuế
được một thời rồi lại thất thu. Hoàn toàn thất bại. Tai hại nhất là số dân
trong hộ tịch giảm đi, đã không thu thuế được mà cũng không kêu lính được, quân
đội của triều đình ít hơn quân đội của tư nhân. Các tiết độ sứ từ đời Huyền tôn
trở đi mạnh hơn triều đình chính vì vậy. Mà dân số sau vụ An Lộc Sơn giảm đi
tới 2/3, một phần cũng vì số lưu vong nhiều quá, không còn trong hộ tịch, triều
đình không cách nào làm thống kê được, chứ có lẽ nào dân chết nhiều tới mức đó,
chỉ trong 7 năm, từ 53 triệu xuống 17 triệu (coi tiết Dân số ở dưới).
Vậy chính sách quân điền tưởng là
tốt mà hậu quả lại xấu: dân nghèo càng nghèo thêm, kẻ giàu càng giàu thêm,
ngược hẳn lại chủ trương “quân vô bần” của Khổng Tử. Các nhà cầm quyền tất thấy
điều đó, mà không hiểu tại sao suốt từ đời Nam Bắc triều tới hết đời Đường
không kiếm được một giải pháp nào khác.
Kĩ thuật canh tác đời Đường không
tiến bộ hơn các đời trước, nhưng vì đất đai mở mang thêm ở phương Nam,
lưu vực sông Dương Tử, Tứ Xuyên, nên sự sản xuất cũng tăng theo. Giữa thế kỉ
thứ VIII, thời Huyền tôn chưa bị loạn An Lộc Sơn, số thu nhập của triều đình
khá lớn: (theo Eberhard) trên một triệu tấn lúa để nuôi kinh đô, trả lương quan
liêu; 27 triệu tấm lụa cho triều đình, cung điện và kinh đô; hai triệu quan
tiền (mỗi quan là 1.000 đồng tiền đồng) để trả lương và chi tiêu cho quân đội.
Số đó lớn hơn đời Hán nhiều.
Công
Công nghiệp tiến bộ, toàn là tiểu
công nghiệp.
Đời Thái tôn, người Trung Hoa học
được phép ép mía nấu thành đường của Ấn Độ; học được cách làm rượu nho (bồ đào
tửu) của người Tây Vực truyền vào (Tây Vực trồng được nho); lại học được cách
trồng cây bông vải của Nam Dương, do đó sản xuất được vải.
Nghề nấu muối, chế trà vẫn là
những nguồn lợi lớn. Đời Hán trà còn là xa xỉ phẩm, chỉ nhà giàu mới dùng; đời
Đường trà được trồng nhiều trong vườn, rồi cách chế, pha mới hoàn bị, thói uống
trà mới phổ thông.
Người Trung Hoa đã biết cách sản
xuất đồ sứ từ thế kỷ VI hay VII, nhưng tới đời Đường vẫn chưa chế tạo được thứ
sứ trắng; tuy nhiên kỹ thuật đã tiến bộ lắm, đã nung được nhưng bộ trà (ấm,
chén) khá đẹp.
Đáng kể nhất là sự phát minh nghề
in.
Đời Hán, Thái Luân chế tạo được
giấy; đời Tam Quốc một người dùng muội (khói) cây thông để chế tạo mực[8], có
hai vật đó rồi, người ta nghĩ đến cách in.
Theo Will Duraut (sách đã dẫn)
thì năm 1907, một người Âu, ông Aurel Stein, tìm được ở Đôn Hoàng (miền Tây
Vực, nay là Cam Túc), trong động “Thiên Phật” (ngàn ông Phật), cuốn sách in cổ
nhất hiện nay chúng ta được biết, tức cuốn kinh Kim Cương, trang cuối có mấy
hàng chứ này: “Wang Chich (?) in ngày... (tức ngày 11-5-868) để phát không, vì
nhớ đến công ơn cha mẹ”. Vậy thuật in xuất hiện trước năm đó đã khá lâu; Theo
sách Trung Hoa, Tứ Xuyên là nơi nó phát triển trước nhất, và những cuốn đầu
tiên in bằng mộc bản, đều là kinh; đầu thế kỷ thứ X nó truyền qua các tỉnh miền
Đông và người ta bắt đầu in các kinh của Nho, Lão, nhờ vậy mà đời Tống triết
học được truyền bá rộng, mà trí thức được phục hưng.
Một ứng dụng nữa của thuật in là
giấy bạc. Cũng bắt đầu ở Tứ Xuyên từ thế kỷ thứ X.
Hoạt tự cũng là một phát minh của
Trung Hoa. Vì họ không có tự mẫu, nên phải dùng tới 4 vạn hoạt tự, mới đầu bằng
đất sét, đã xấu lại không bền. Tới cuối thế kỷ XIII, người Triều Tiên chế tạo
được chữ đầu tiên bằng kim loại (đồng đỏ). Phát minh đó truyền qua Nhật Bản rồi
mới trở về Trung Hoa, nhưng ở Trung Hoa mãi tới cuối đời Thanh người ta vẫn
thích in bằng mộc bản hơn. Mặc dầu cách này chậm, người Trung Hoa cũng đưa ra
được thị trường vô số sách. Từ 944 đến 1063, người ta in được mấy trăm bộ đoạn
đại sử (sử chép riêng về một thời đại), mấy ngàn cuốn kinh Phật.
Được phát minh đó kích thích, văn
học Trung Hoa hóa ra phong phú lạ lùng, tiến trước phong trào Phục Hưng ở Ý tới
hai thế kỷ.
Thương
Thương nghiệp rất phát đạt. Có
thời tiền của triều đình đúc không đủ cho dân chúng dùng, hóa hiếm, lên giá,
dân đúc tiền giả. Thương nhân họp nhau thành những hội, phát ra những giấy
chứng nhận rằng một thương nhân nào đó đã ký thác một số tiền nào đó; những
giấy chứng nhận đó được lưu hành như giấy bạc ngày nay. Người ta lại đặt ra một
loại “phi tiền” (tiền bay) như hối phiếu (lettre de change) ngày nay. Một
thương nhân ở Chiết Giang chẳng hạn đem trà lên kinh đô Tràng An bán, lời được
nhiều; mà các quan lại ở Chiết Giang phải chở tiền thuế thu được về nộp kinh
đô. Thương nhân đó gởi tiền cho một viên quan đại diện cho tỉnh mình ở kinh đô
và nhận một biên lai, viên quan đó lấy tiền đó nộp thuế cho tỉnh. Trở lại về
tỉnh mình, thương nhân trình biên lai cho viên quan ở tỉnh mà lấy lại tiền.
Cách đó có lợi cho sự buôn bán.
Về ngoại thương có hai trung tâm
thương mại lớn. Phía Bắc là Tràng An. Ngoài con “đường lụa” mở trở lại nhờ Thái
tôn đặt lại cuộc đô hộ Tây Vực, còn nhiều đường khác thông các nước Tây Á, đưa
đến Ấn Độ, Đông Âu. Nhờ những con đường đó mà ngoại thương phát đạt: Lụa và
ngọc Trung Quốc đổi lấy ngựa của Tây Vực, đà điểu, vũ nữ và những đồ lụa của Ấn
Độ, Ba Tư, Ả Rập. Miền Nam phong phú hơn miền Bắc, có ba khu: 1. Khu hạ lưu
sông Dương Tử nhiều ngũ cốc, và tại đó xuất hiện những lò nung sứ đầu tiên; 2.
Thượng lưu sông Dương Tử có mỏ muối, trà và nghề in (trà đời Đường đã được
thông dụng, Lục Vũ đã viết cuốn Trà kinh chỉ nghệ thuật uống trà; và nhiều
thương nhân làm giàu về trà); 3. Và khu Quảng Châu thịnh nhất nhớ buôn bán với
các nước ngoài bằng đường biển. Thuyền buôn Trung Quốc phía Đông đến Tân La
(Triều Tiên), Nhật Bản, phía Tây qua Ấn Độ, đến vịnh Ba Tư, Hồng Hải, nhờ gió
mùa Tây Nam (gió bấc), ghé Chiêm Thành, Mã Lai, Tích Lan, Ả Rập. Thời đó là
thời vua Haroun Al Rachid trong tập truyện “Ngàn lẻ một đêm”.
Có thể nói đầu đời Đường, Trung
Quốc nắm giữ thương quyền ở châu Á, rồi sau quyền đó mới vào tay người Ả Rập.
Quảng Châu là nơi người ngoại quốc tụ họp đông nhất. Ở trên tôi đã nói Hoàng
Sào năm 867 đốt phá, cướp bóc thị trấn đó, giết tới 12 vạn người Hồi giáo, Do
Thái, Ki Tô giáo... Tài liệu Ả Rập đưa ra con số đó còn nói rõ rằng triều đình
Trung Hoa căn cứ vào số đó để thu thuế. Đầu thế kỷ VIII, Quảng Châu đã có một
ty Thị Bạc để quản lý các thuyền buôn. Bao nhiêu vật lạ: ngà voi, tê giác, san
hô, ngọc trai, đồi mồi, quế, hồi, long não... tụ tập ở đó để chuyển lên miền
Bắc.
Nghề buôn rất phát đạt nên mặc
dầu Trung Hoa có chính sách “ức thương”, có truyền thống coi thường con buôn,
mà trong các giai cấp quý tộc và sĩ tộc cũng không thiếu gì người không trực
tiếp thì gián tiếp “làm ăn” để mau giàu, và một khi “phú địch quốc”, thì có thể
cho cả vua vay tiền, ai mà dám khinh?
Dân số - thị trấn
Ở trên tôi đã nói đầu đời Đường
dân số là 15 triệu, đời Huyền tôn là 53 triệu, sau loạn An Lộc Sơn chỉ còn 17
triệu.
Những con số đó tính theo sổ hộ
tịch triều đình lập để thu thuế, cứ mỗi hộ trung bình có 5 người, nhân số hộ
với 5 thì được số dân. Nhưng có hạn dân quyền quý được miễn thuế, có hạng bần
hàn cũng khỏi phải đóng thuế, lại có hạng lưu vong, có hạn trốn thuế vào ở chùa
hoặc vào làm công trong một đồn điền của một đại điền chủ, những hạng đó đều
không ghi trong hộ tịch, cho nên phép tính trên (nhân số hộ với 5) chỉ cho biết
số người phải đóng thuế chứ không phải số dân. Theo Fitzgerald, số dân 53 triệu
đời Huyền tôn ít nhất phải nhân lên gấp hai, và ông đưa ra con số 130 triệu
(sách Li Che Min đã dẫn). Thuyết của ông có lý và có lẽ tất cả những con số từ
đời Hán đến đời Đường chúng tôi đã đưa ra cũng đều phải nhân lên với hai.
Thị trấn lớn nhất đời Đường là
Tây Kinh Tràng An.
Theo Eberhard thì kinh đô đó có
thời đông tới 2 triệu. Thị trấn chiếm một khu hình chữ nhật, một chiều 9,7 cây
số, một chiều 8,6 cây số, ở phía Đông Nam kinh đô đời Hán. Những chi tiết
đó hợp với bản đồ Trường An (coi trang sau) in trong cuốn Li Che Min của
Fitzgerald. Chắc chắn thị trấn đó lớn nhất Đông Á, có thể lớn nhất thế giới
thời đó nữa.
Nó nằm ở bờ phía Nam sông Vị, gồm ba phần: Phía Bắc là cung điện
với khu thành nội, phía Nam
là khu của dân chúng. Chung quanh có lũy bằng đất.
Khu dân chúng có 11 đại lộ từ
Đông qua Tây và 14 đại lộ từ Bắc tới Nam, tất cả đều thẳng góc với nhau, chia
thành 108 xóm, mỗi xóm lại có một lũy tre đất bao chung quanh với 2 hay 4 cổng,
ban đêm đóng. Những nơi đông đúc nhất là dọc theo đại lộ chính giữa đưa từ Bắc
xuống Nam,
và xóm chợ Đông và Tây, chỗ có cửa hàng và nhà của các thương nhân ngoại quốc.
Có trên ba chục ngôi đền, chùa lớn.
Phía Bắc, ngay trên bờ sông Vị là
một vườn thượng uyển mênh mông, trong đó năm 634 cất thêm một cung nữa, cung
Đại Minh, nơi ở của vua, gồm ba chục lâu đài cách biệt nhau, rải rác trong
vườn. Lâu đài rộng nhất (77,6 mét x 130,4 mét) có một cái nóc lớn chống bằng
164 cột. Trong một góc vườn có sân chơi polo (mã cầu: cưỡi ngựa mà đánh cầu),
trò chơi này người Trung Hoa bắt chước của người Ba Tư.
Phía Bắc sông Vị có khu mộ địa
của hoàng tộc. Mỗi ông vua khi còn sống cho xây trước một cái lăng cho mình.
Những vật khai quật được gần đây
(gương đồng, cây trâm cài tóc, đĩa chén, tượng nhỏ bằng ngọc, đồng...) cho ta
biết được đời sống xa hoa của mỗi hạng người sống trong cung thời đó, từ các
cung phi bó chân (cuối đời Đường tục bó chân đã bắt đầu lan rồi), các vũ nữ,
nhạc công, tới bọn người chơi polo, bọn tôi tớ, bọn giữ ngựa đi những cái ủng
thật rộng, mũi quặm, râu quặm, rõ ràng là gốc ở Tây Vực.
Tràng An thời đó là nơi tụ họp
của đủ các giống người: Nhà sư Ấn Độ, tu sĩ đạo Cảnh giáo, con buôn Samarcande,
quân lính Đột Quyết, sinh viên Nhật Bản…
Dân bốn phương tụ lại: Thư sinh
lên kinh để thi tiến sĩ, người đậu rồi thì đợi bổ dụng; bọn hảo hán đi tìm nhà
quyền quý biết dùng mình; thương gia buôn muối, trà, thuốc bắc, quan lớn ở tỉnh
về kinh để bệ kiến... Cao lâu, tửu điếm, trà thất, kĩ viện mọc lên như nấm, ồn
ào suốt đêm tiếng ca tiếng nhạc.
Cả một xã hội thích ca nhạc, mĩ
nhân và thơ. Con buôn cũng biết làm thơ. Mê thơ nhất có lẽ là kĩ nữ. Một số ít
có thanh, có sắc lại biết làm thơ thì nổi danh khắp nước; không biết làm thơ
thì ít nhất cũng thuộc thơ của danh sĩ đương thời.
Phong trào thích thơ bắt đầu từ
đời Trung tôn. Ông đặt ra lệ thi thơ trong ngày Thượng nguyên (rằm tháng
Giêng). Ngày đó các quan lớn quan nhỏ ở tỉnh, cả thường dân nữa, ai tự thấy
mình có tài làm thơ thì đều đổ xô tới Tràng An để thi hoặc xem người ta thi
thơ. Một đoàn dài do hoàng tộc dẫn đầu và gồm đủ các giới trong xã hội, diễn
qua các đại lộ. Các cô công chúa cưỡi ngựa con, gẩy đàn. Dân chúng bu lại coi.
Vua cho dựng trong vườn thượng uyển một cái đài trang hoàng bằng gấm. Mỗi vị
đại thần phải tới trình một bài thơ mình mới làm để ca tụng triều đại.
Tới đời Huyền tôn, phong trào còn
mạnh hơn nữa. Chính Huyền tôn đón Lí Bạch vào cung để làm thơ, cho nên các công
chúa cũng tranh nhau tiếp đón thi nhân và lầu son gác tía của họ là nơi hội họp
của các nghệ sĩ.
Ngay bọn ca nhi mà cũng hào phóng
xuất tiền ra đặt tiệc đãi thi sĩ Vương Xương Linh, Vương Chi Hoán, Cao Thích.
Họ hãnh diện rằng thuộc được nhiều thơ mà thi sĩ còn hãnh diện hơn nữa, khi thơ
của mình được nhiều nàng ngâm hơn cả, và bạn bè tôn mình là thi thiên tử. Thật
là hoàng kim thời đại của bọn tài tử, giai nhân.
Đại khái đời sống giới phong lưu
ở đô thị như vậy, còn đời sống dân gian thì đọc thơ Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị chúng ta
sẽ biết được ít nhiều.
6. Văn hóa
Triết học - Tôn giáo.
Đời Đường, Nho giáo thích hợp với
chế độ quân chủ, lại được trọng, có lẽ còn hơn đời Tây Hán nữa. Năm 637, vua
Thái tôn tôn Khổng Tử làm Tiên Thánh, Nhan Hồi làm Tiên sư, cùng thờ với Chu
Công ở nhà Thái học. Năm 739, Huyền tôn xuống chiếu truy thụy Khổng Tử là Văn
Tuyên vương. Nhưng Nho học thì lại chỉ thịnh về mặt văn chương và khoa cử, còn
về mặt tư tưởng thì rất sút.
Chỉ hai nhà có chút ít cống hiến
cho đạo Nho là Hàn Dũ và môn sinh của ông, Lí Cao. Khi Hiến tôn rước cốt Phật
về thờ, ông dâng sớ can, lời mạnh mẽ; bị đày đi Triều Châu nội trong một ngày.
Ông chỉ công kích cái hình thức bề ngoài của Phật giáo, đứng về phương diện
chính trị, xã hội mà xét ảnh hưởng tai hại của Phật giáo tới quốc gia: Chùa mọc
lên nhiều quá, điền sản của chùa chiếm tới 1/3 toàn quốc, có tới 2 triệu tăng
ni và không biết bao nhiêu người trốn lính, trốn thuế, gởi thân, gởi của cải
vào chùa, làm cho nước nghèo và yếu đi. Ông đề cao Nho giáo nhưng tư tưởng
không có gì sâu sắc. Trong thiên Nguyên đạo bảo bản nguyên của thế giới là
“đạo”, cái đạo đó biểu hiện trong xã hội là tam cương (ba giềng mối: Vua tôi,
cha con, vợ chồng) và ngũ thường (năm đức quan trọng nhất trong mọi thời: Nhân,
nghĩa, lễ trí, tín). Trong thiên Nguyên tính, ông theo Vương Sung, chia làm ba
hạng: thượng (hoàn toàn thiện), hạ (hoàn toàn ác), trung (có thể hóa thiện, hóa
ác); không có gì mới.
Ông có công đề cao Mạnh tử và
khuyên các học giả chú ý tới sách Đại học. Từ đó người Trung Hoa mới xa Tuân tử
mà gần Mạnh tử (trước Hàn, Mạnh và Tuân được trọng ngang nhau); và tứ thư (Luận
ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Đại học) mới được đặt ngang với ngũ kinh. Rồi tới đời
Tống, các triết gia mới đem Mạnh tử, Đại học ra phân tích, bàn về tính, lí,
cách vật, trí tri. Cho nên người ta bảo Hàn Dũ đã có công mở đường cho Đạo học
đời sau.
Lí Cao chịu ảnh hưởng của Lão,
Phật hơn, viết cuốn Phục tính thư bàn về tính, tình và cách tu dưỡng, kết luận
rằng người ta phải diệt tình để khôi phục lại tính, tức cái đạo. Ông không hề
phản đối Phật giáo như Hàn.
Đạo giáo vẫn chú trọng vào việc
tu nhân, bùa phép và cũng thịnh như các đời trước, và cũng được vua Huyền tôn
và Hiến tôn tôn sùng. Huyền tôn lập Sùng huyền quán và đặt chức huyền học bác
sĩ đề giảng Đạo giáo.
Phật giáo. Một vinh quang lớn của
đời Đường là sự toàn thịnh của Phật giáo, các đời sau không sao theo kịp được.
Toàn thịnh không phải vì có mấy hoàng đế: Võ Tắc Thiên, Hiến tôn, Tuyên tôn
sùng Phật, không phải vì chùa nhiều, tín đồ đông (năm 768, chỉ nội một buổi ở
kinh đô có tới một ngàn người quy y vào chùa) mà vì các vị cao tăng thời đó đã
có công tìm hiểu tư tưởng huyền vi của Ấn Độ, truyền bá đạo Phật ở Đông Á,,
cống hiến được nhiều tư tưởng mới làm giàu cho kho kinh luận của đạo Phật.
Chúng ta đã biết, đời Hán, khi
Phật giáo mới vào Trung Quốc, để truyền bá đạo, các vị sư thấy đạo Lão có vài
điểm giống với Phật giáo mượn một một số từ ngữ và tư tưởng của Lão để thuyết
minh và lí giải Phật giáo, mà việc dịch kinh thời đó không được chính xác.
Tới đời Đông Tấn (đầu thế kỉ V),
Pháp Hiển qua Tây Trúc thỉnh kinh về dịch và từ đó mới có phong trào nghiên cứu
đạo Phật, bỏ hẳn những bản dịch cũ đi mà dịch lại kinh cho đúng nghĩa hơn, chú
thích cho rõ hơn.
Mãi tới đời Tùy, nhất là đời
Đường, mới có phong trào sáng tạo riêng của Phật giáo Trung Hoa, nhờ nhiều ông
vua khuyến khích và nhờ nhiều cao tăng xuất hiện. Kết quả là Phật giáo Trung
Hoa đời Đường thịnh hơn ở Ấn Độ nhiều, có nhiều nét đặc biệt (Đại thừa phát đạt
hơn Tiểu thừa, thiền học phát triển mạnh), lập ra được nhiều tôn truyền bá ở
khắp Đông Á. Đó là một cống hiến của Trung Hoa cho tư tưởng Ấn Độ.
Vị cao tăng có công nhất là Huyền
Trang, rồi tới Nghĩa Tĩnh, cả hai đều qua Tây Trúc thỉnh kinh đem về Trung Quốc
như Pháp Hiển đởi Đông Tấn đầu thế kỉ V, nhưng sự nghiệp lớn hơn nhiều. Pháp
Hiển chỉ ở Tây Trúc có 3 năm, Huyền Trang và Nghĩa Tĩnh đều ở người trên 10
năm, kẻ trên 20 năm.
Huyền Trang sinh năm 602 ở Hà
Nam, năm thứ 3 đời Thái tôn (629), một mình qua sa mạc Qua Bích dài non 500 cây
số, tới nước Cao Xương, được vua nước đó rất trọng, rồi leo núi Thông Lãnh cao
7.200 thước trong dãy Thiên Sơn, tiến theo đường chở lụa tới Thiết Môn Sơn một
nơi vô cùng hiểm trở. Từ đây ông theo hướng Đông Nam qua nhiều nước nhỏ, vòng qua
Đại Tuyết Sơn rồi vào Tây Trúc.
Ông thật là một nhà mạo hiểm, đời
sau không chắc có ai hơn; lại có tinh thần nhận xét của nhà khoa học, ghi rất
kĩ và rất đúng những điều mắt thấy tai nghe ở các nơi ông đi qua. Ông đi một
vòng nước Tây Trúc, coi hết các nơi có di tích của Thích Ca, lại ở hơn một năm
tại chùa Nalanda, một ngôi chùa lớn nhất, đẹp nhất mà cũng là một trường đại
học cổ nhất. Ông tả cảnh chùa đó, giọng bóng bảy như giọng thi sĩ Tràng An. Ông
học hết bộ Du già luận, học thêm triết lí Bà La Môn và Phạn Ngữ, rồi đi chu du
Tây Trúc tìm hiểu thêm các giáo phái khác: Thăm xứ Bengale, tính qua đảo Tích
Lan mà không qua được (coi bản đồ trước).
Tới đâu ông cũng thuyết pháp,
được hoan nghênh, ai cũng muốn lưu ông lại. Lần về ông theo một con đường khác,
ghé nhiều nơi để giảng đạo.
Năm 645 ông tới Tràng An sau khi
xa quê 16 năm, đi gần 30.000 cây số, qua 128 nước, đem về được 657 bộ kinh,
không kể nhiều vật quý khác.
Mới về nước được hơn một tháng,
ông bắt đầu ngay công việc dịch kinh đại quy mô và mải miết làm luôn 19 năm cho
tới khi tắt thở. Ông tổ chức một ban dịch thuật, mời các vị cao tăng thông cả
Hoa ngữ lẫn Phạn ngữ hợp tác. Công việc làm rất có phương pháp và kỹ lưỡng,
soát đi soát lại nhiều lần (coi bài Huyền Trang trong cuốn Ý chí sắc đá của tôi
- Thanh Tân 1971). Ông dịch những kinh khó nhất và chỉ huy việc dịch những kinh
khác. Tới năm 663 ông dịch được 600 quyển.
Ngoài ra ông còn cho hậu thế:
- Bản dịch Đạo Đức kinh ra tiếng
Phạn để giới thiệu triết học Trung Hoa với Ấn Độ.
- Bản dịch Đại thừa khởi tín luận
từ Hoa ngữ ngược về Phạn ngữ. Nguyên bản chữ Phạn của Ấn Độ đã thất lạc từ lâu,
nhưng ở Trung Hoa còn giữ lại được bản chữ Hán. Làm công việc đó ông muốn đền
ơn những tôn sư và bạn thân Ấn đã niềm nở dạy bảo, tiếp đón ông.
- Soạn một cuốn ngữ pháp Phạn,
giản lược mà sáng sủa và đúng.
- Viết bộ Đại Đường Tây Vực kí
gồm 12 quyển chép những điều mắt thấy tai nghe trong chuyến đi thỉnh kinh. Bộ
này chứa những tài liệu rất quý cho các nhà khảo cổ Ấn Độ và Trung Á sau này,
được dịch ra nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Nhật, Đức... và đã giúp các học
giả Ấn sửa lại nhiều điều sai lầm trong lích sử của họ về thế kỉ VII.
- Công việc dịch kinh của ông
chẳng những làm cho đạo Phật phát triển mạnh ở Đông Á mà còn ảnh hưởng lớn đến
ngôn ngữ và văn học Trung Hoa.
- Từ ngữ Trung Hoa đã giàu thêm
được 3,5 vạn tiếng, căn cứ vào bộ Phật giáo đại từ điển, có tiếng dịch âm tiếng
Phạn như Nát bàn, sát na, phù đồ; có tiếng dịch nghĩa tiếng Phạn như vô minh,
nhân duyên, chân nhu... Mà thêm được 3,5 vạn tiếng là thêm được 3,5 vạn ý niệm.
- Văn bạch thoại phát đạt vì lẽ
khi dịch, người ta lựa những tiếng bình dị cho dễ hiểu, do đó dùng bạch thoại
xen với cổ văn; lại thêm vì là kinh để tụng, cho nên phải chú trọng đến âm vận,
và thứ văn đặc biệt đó gọi là biến văn. Do ảnh hưởng của Phạn ngữ, biến văn
không dùng hư từ, đối ngẫu mà rất hay đảo trang.
- Văn nhân Trung Hoa ít tưởng
tượng mà hay thuyết li, nhờ những truyện tân kì trong kinh Phật mà bắt chước
viết những truyện thần quái. Như bộ Sưu thần kí, và những truyện Thủy Hử, Hồng
Lâu Mộng sau này đều chịu ảnh hưởng của các kinh Đại trang nghiêm, Hoa nghiêm,
Niết bàn...
Huyền Trang tịch năm 664, một
triệu người ở Tràng An và tứ xứ đi đưa linh cữu ông.
Nghĩa Tĩnh (631-713) sống ở đời
Cao tôn và Võ Tắc Thiên. Huyền Trang tịch được 6 năm thì vị tăng ở Hà Bắc đó
cũng qua thỉnh kinh ở Tây Trúc, nhưng không theo đường bộ và dùng đường biển
(coi bản đồ trước), ở Tây Trúc 24 năm, năm 695 đem về được 400 bộ kinh nữa. Về
tới Lạc Dương, Võ Tắc Thiên rất mộ đạo đi đón và giúp ông mọi phương tiện để
dịch kinh tới khi chết. Ông còn viết tiểu sử các cao tăng ở thời ông cũng đi
thỉnh kinh, trong có đó có những vị xấu số, chết ở dọc đường.
Các tôn phái. Phật giáo Trung Hoa
là Đại thừa, khác hẳn Ấn, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Miến, là Tiểu thừa.
Việt Nam
cũng vậy. Bắc và Trung không có những khất sĩ bận áo vàng, ôm bình bát đi khất
thực. Trong Nam
càng tiến về miền Tây, nơi có nhiều người gốc Miên, càng thấy nhiều khất sĩ.
Đời Đường, Trung Hoa đã có trên
một chục tôn phái mà chỉ có 2 tôn là tiểu thừa. Trong số những tôn phái kia -
đều là đại thừa - tôi chỉ kể 4 tôn quan trọng nhất:
Thiền tôn do Đạt Ma thiền sư
(cũng gọi là Bồ Đề Đạt Ma) đem từ Ấn qua thời Lương Võ đế (Nam triều) (như
tôi đã nói).
Pháp tướng tôn cũng gọi là Duy
thức tôn, gốc ở Ấn Độ, giáo lí truyền qua Trung Quốc từ thời Lục triều nhưng
đến đời Đường, Huyền Trang mới lập thành một tôn phái, lần lần chiếm được một
địa vị rất quan trọng, có ý vị triết lí sâu sắc.
Hoa nghiêm tôn do hòa thượng Đỗ
Thuận đời Đường sáng lập, căn cứ vào kinh Hoa Nghiêm.
Thiên thai tôn hoàn toàn do Trung
Hoa sáng tạo, sở dĩ có tên đó vì vị sơ tổ của phái đó, Trí Giả đại sư tu ở núi
Thiên Thai.
Ông căn cứ vào Hoa nghiêm kinh, châm chước Trí độ luận, Niết bàn kinh, Đại phẩm
kinh mà lập giáo, đại khái chủ trương điều hòa hai phái “hữu” và “không”.
Độc giả muốn biết đại cương giáo
lí các tôn phái đời Đường, xin coi cuốn thượng (tr.81-87) Đại cương triết học
Trung Quốc của chúng tôi - Cảo Thơm tái bản năm 1970.
*
Tóm lại, có thể nói ở Trung Hoa,
Phật giáo thịnh cực vào đời Đường, mà theo luật tự nhiên, thịnh cực là bắt đầu
suy.
Trước sau có tất cả bốn lần pháp
nạn (đạo Phật bị vua phế, cho là có hại cho văn hóa, quốc gia): Lần đầu ở đời
Bắc Ngụy, triều Võ đế; lần nhì ở đời Bắc Chu, triều Võ đế; lần ba ở đời Đường,
triều Võ tôn; lần thứ tư ở đời Hậu Chu, triều Thế tôn (trong sử gọi là tam Võ,
nhất Tôn pháp nạn); thì lần thứ ba nặng nhất, còn các lần kia, chỉ cấm trong
vài năm mà không triệt để.
Nhà Đường rất khoan dung về tôn
giáo (coi đoạn dưới), vậy mà Võ tôn phải có thái độ cương quyết chỉ vì đoàn
Phật giáo phát sinh ra nhiều tệ hại, gom góp một số lớn đất đai, tài sản (có
sách nói bằng 2/3 tài sản quốc gia), chứa chấp một số tăng, ni chỉ biết trục
lợi, và một số rất đông trốn chúa đi ở chùa; do đó Phật đoàn thành một tổ chức
nguy hại cho quốc gia. Triều đình thu thuế không được, bắt lính cũng không
được.
…
(Thiếu một đoạn)
…
Tác giả có tên tuổi:
Thẩm Kí Tế viết truyện hồ li, sau
được Bồ Tùng Linh mô phỏng trong bộ Liêu trai.
Bạch Hành Giản viết thiên diễm
tình của một danh kĩ.
Lí Công Tá viết truyện Nam
khả kí.
Có tài nhất là Đỗ Quang Đình viết
truyện Cầu nhiệm khách (ông lão râu quăn) mà nhiều người khen là hay nhất đời
Đường, chúng tôi đã dịch theo bản tiếng Anh của Lâm Ngữ Đường và cho vào tập
Mưa (Tiến Bộ, 1969).
Văn dịch
Công việc dịch kinh Phật rất
thịnh ở đời Đường nhờ hai cao tăng Huyền Trang và Nghĩa Tĩnh; công của Huyền
Trang với văn xuôi va ngôn ngữ Trung Quốc rất lớn (ở trên).
b. Thơ
Cái vinh quang lớn nhất của đời
Đường là thơ, nó hoàn toàn là của Trung Hoa chứ không mượn của Ấn Độ như vinh
quang Phật giáo, nó có thể gần bằng cái vinh quang về triết học đời Xuân Thu -
Chiến Quốc và được khắp thế giới khen như triết học Tiên Tần. Thơ Lí Bạch, Đỗ
Phủ, Bạch Cư Dị được mọi nước từ Đông qua Tây dịch đi dịch lại, mỗi ngày một
nghiên cứu thêm.
Thơ Đường có một thể đặc biệt,
một hình thức rất lạ không giống thơ một dân tộc nào cả: thể thơ luật.
Phần trên chúng tôi đã nói Thẩm
Ước thời Nam Triều nghiên cứu về âm thanh, tìm ra được những bệnh về âm vận
trong thơ. Thi sĩ thời sơ Đường châm chước luật của họ Thẩm và lần lần thơ luật
thành hình: Từ số câu số tiếng, số vần, cách gieo vần, cách đối, cách bố cục
(phá, thừa, luận, kết) đều theo những qui tắc nghiêm chỉnh; kết quả là mỗi bài
thơ 8 câu, mỗi câu bảy chữ là một khối nhỏ chặt chẽ đầy đủ ý nghĩa, có mở, có
khai triển, có đóng; có tình, có cảnh, lại có nhạc du dương, ngâm được, phổ
nhạc được. Thật là một viên ngọc nếu thi sĩ có tài cao.
Nhưng có sở trường thì có sở đoản:
Niêm luật, qui tắc khắt khe quá, bó buộc thi nhân quá làm cho người, ta cạn
hứng, nên ngay khi thơ luật mới xuất hiện đã có người - thi sĩ Hàn Sơn - chê nó
là một lối ghép chữ để tiêu sầu khiển muộn.
Cũng may là suốt đời Đường, những
thi sĩ nổi danh hiểu lẽ đó, nên không chịu nô lệ luật, biết phá luật để theo
hứng, như bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, Anh Vũ châu của Lí Bạch, Cửu nhật
đăng cao của Đỗ Phủ...
Và khi nào họ thấy thể luật không
diễn được hết cảm nghĩ của họ thì họ dùng thể cũ gọi là cổ phong (chỉ cần có
vần, dài bao nhiêu cũng được và không phải theo niêm luật); hoặc thể từ (sẽ nói
ở sau). Nhờ vậy mà thơ Đường vừa hay vừa phong phú.
Thơ Đường chia làm ba thời kì:
Sơ Đường (618-712). Mới đầu còn
giữ cái phong khí diễm lệ đời Lục Triều, như Vương Bột, Lạc Tân Vương trong
nhóm Tứ kiệt; rồi Thẩm Thuyên Kì, Tống Chi Vấn có công làm cho thơ luật hoàn
thành; Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư tiếp tục. Cuối thời, Trần Tử Ngang và
Trương Cửu Linh vận động phục cổ, thơ bình dị, tự nhiên.
Thịnh Đường (713-824) là hoàng
kim thời đại của thơ, có người (Hồ Vân Dực) bảo từ Sơ Đường tới Thịnh Đường,
thơ phát triển như từ đất bằng vọt lên ngọn núi Hi Mã Lạp Sơn.
Về lượng, theo Toàn Đường thơ,
thơ thịnh Đường chiếm tới 3/4; trên 1.500 thi sĩ và non 4 vạn bài thơ, riêng Đỗ
Phủ có tới ngàn bài.
Về phẩm, thì thật là đủ vẻ đẹp,
đủ cảnh, trọng thiên nhiên, trọng xã hội, đủ các tình cảm của con người trong
một xã hội thịnh cực rồi lại suy cực đời Minh Hoàng. Được vậy một phần là nhờ
chưa thời nào thi nhân được từ vua chúa tới dân chúng trọng vọng như thời đó.
Khuynh hướng nào cũng có, nhưng
đại cương mà xét thì có bốn phái: Phái xã hội, phái biên tái, phái tự nhiên,
phái quái đản.
Tôi không biết nên đặt Lí Bạch
(701-762) vào phái nào trong ba phái đầu vì thơ ông có đủ loại, mà rất tự
nhiên.
Ông rất lãng mạn, chỉ yêu thơ,
rượu, sơn thủy và mĩ nhân, nhưng có bài ông tả cảnh thương tâm của dân vì giặc
giã liên miên như Chiến thành nam (tư tưởng xã hội), có bài tả cảnh biên tái
như bài Hành lộ nan, Thục đạo nan, giọng hùng tráng, còn thơ chán đời, ở ẩn
trong rừng sâu, núi thẳm, mê tiếng suối, tiếng chim, nhìn mây bay trăng mọc thì
ông làm rất nhiều, không một nhà nào trong phái tự nhiên bì kịp. Chỉ cái loại
quái đản là ông không ưa: Thơ ông bài nào cũng phát tự lòng ra, không đẽo gọt.
Trong Đại cương văn học sử Trung
Quốc tôi đã giới thiệu trên hai chục bài của Lí, nếu trích ra dăm bài thì thiếu
quá, mà chép lại nhan đề hai chục bài đó thì vô ích.
- Phái xã hội dùng cây bút để tả
nỗi tân khổ của mình và của đồng bào, lựa con đường tả thực, lấy trạng thái xã
hội làm đề tài.
Có tài nhất mà có lòng nhất cũng
là Đỗ Phủ (712-770). Đời ông rất long đong, nghèo khổ, chỉ làm một chức quan
nhỏ, không chịu a dua, nhiều khi tỏ nỗi bất bình về cảnh huống xã hội, nên bị
bãi chức. Có hồi đói, vợ con nheo nhóc. Không ai không cảm động khi đọc những
bài: Cảnh li biệt của cặp vợ chồng mới cưới, bài Lính lệ Thạch hào trong đó ông
tả cảnh khổ của dân bị bắt lính.
Thơ luật của ông rất đẽo gọt mà
hay. Danh ông ngang với Lí Bạch.
Bạch Cư Dị (772-864) trái lại,
làm quan, sung sướng suốt đời, nhưng cũng bất bình vì nỗi bất công trong xã
hội: Kẻ thì quá xa xỉ, kẻ thì chết đói (bài“Khinh phì”). Bài “Ông lão gãy tay ở
Tân Phong” (kể nỗi khổ của một người lấy đá đập gẫy cánh tay để khỏi bị bắt
lính) nhiều người thời nay đọc tất phải mũi lòng.
Ông còn hai bài thơ dài nổi danh:
Tì bà hành và Trường hận ca. Bài trên chép nỗi lòng của một ca nữ, đã được Phan
Huy Vịnh dịch ra tiếng Việt; bài dưới tả cái hận bất tuyệt của Đường Minh Hoàng
đã phải để cho quân sĩ giết Dương Quí Phi.
Ba nhà trên: Lí, Đỗ, Bạch là ba
thi hào lớn nhất đời Đường.
- Phái biên tái. Phái này tả
chiến trường, bão cát, mưa tuyết... ở biên cương, có giọng bi hùng, có lẽ chịu
ảnh hưởng thơ văn hoặc các bài ca thời Bắc triều. Nổi danh có Cao Thích, Vương
Xương Linh, Sầm Tham, Vương Chi Hoán.
- Phái tự nhiên. Chịu di phong
của Đào Tiềm, Tạ Linh Vận thời Nam
triều, thích nhàn tản và cảnh thiên nhiên. Có nhiều nhà thơ lớn: Mạnh Hạo
Nhiên, Liễu Tôn Nguyên, Vi Ứng Vật, Vương Duy, vừa là thi sĩ vừa là họa sĩ.
- Phái quái đản chủ trương viết
phải khác người, làm kinh dị người đọc thì mới là khéo, cố tìm những tiếng lạ
lùng, những vấn đề khó khăn, như Mạnh Giao, Giả Đảo.
Vãn Đường (847-907) Thời này là
thời loạn triều đình bất lực, phong hóa suy đồi, thí nhân lại chủ trương trở về
duy mĩ đời Lục Triều, tư tưởng ủy mị.
Đáng kể chỉ có Đỗ Mục, Lí Thương
Ẩn...
c. Từ
Đời Đường còn xuất hiện một thể
vận văn, biến từ Nhạc phủ[9] ra; nó có vần, có điệu, số chữ không nhất định, ca
hát được, đại khái cũng như thể hát xẩm, hát quan họ, hát nói của ta. Ôn Đình
Quân sáng tác được nhiều điệu mới, đứng đầu trong nhóm Tứ gia mà tác phẩm gom
trong bộ Hoa gian tập.
Từ đời Tống mới toàn thịnh, qua
đời Nguyên, Minh biến thanh thể khúc. d. Âm nhạc
Vua Huyền tôn sành âm nhạc, lập
giáo phường để dạy tục nhạc, đặt ra lối múa Nghê thường vũ y, vũ nữ bận áo sặc
sỡ như cầu vồng múa theo điệu nhạc. Ông lại lập ra một viện gọi là Lê viên
(vườn lê), dạy 300 thanh niên múa hát (gọi là Lê viên tử đệ) để làm vui tai mắt
cho ông và Dương Quí Phi. Có thể coi đó là bước đầu tiến tới ca kịch.
e. Hội họa
Trước đời Đường, chỉ có những bức
vẽ về nhân vật. Từ Đường trở đi mới có môn vẽ sơn thủy gồm hai phái: Bắc phái
thì Lí Huấn đứng đầu; nam phái lấy Vương Duy làm tổ. Vương Duy cũng là thi sĩ
có danh, được khen là “trong thư có họa, trong họa có thơ”. Phái của ông khác
phái bắc là ít dùng màu sắc mà thường dùng mực, nét vẽ đơn sơ mà gợi cảm, lãng
mạn chứ không tả chân.
Có nhiều nhà chuyên vẽ hình Phật
như Ngô Đạo Huyền, Diêm Lập Bản có tiếng về vẽ chân dung.
g. Kiến trúc - điêu khắc
Về kiến trúc, quan trọng nhất vẫn
là những ngôi chùa, không tiến bộ hơn các thời trước.
Về điêu khắc, các tượng Phật cũng
vẫn được tạc theo kiểu Hi Lạp, nghệ thuật đã cao.
Võ Tắc Thiên cho xây nhiều chùa
rất lớn, đục trong đá ở Long Môn một tượng Phật khổng lồ cao 30 mét; đẽo một
tượng gỗ sơn lớn hơn ở Lạc Dương; bà còn tính đúc một tượng đồng cao 300 mét
h. Khoa học
Khoa học đời Đường không phát
triển bằng các ngành văn học, tôn giáo. Về y khoa, Tôn Tư Mạo viết bộ Thiên Kim
yếu phương, đưa nhiều kinh nghiệm lâm sàng.
Triều đình mở Thái y thự và y
khoa học hiệu. Theo Lombard (sách đã dẫn) thì Trung Hoa thời đó đã biết cách
trám răng.
Cũng theo Lombard
thì về thiên văn học, Yi Xing (?) thử đo một khúc kinh tuyến (méridian) dài
2.500 cây số.
Về địa lí, nhà Đường đã vẽ bản đồ
Tây Vực và bản đồ Hải nội Hoa di.
Thuật in đã được xét ở mục Công
nghiệp.
Văn minh Trung Quốc truyền qua
các nước khác.
Nhà Đường coi người ngoại quốc
như người Trung Quốc, không kì thị, và Trung Quốc là nơi các dân tộc Đông Á hỗn
hợp. Không những vậy, cả những thương nhân ở Ba Tư và Ả Rập cũng tới lập nghiệp
ở Trung Hoa. Văn hóa Trung Hoa và ngoại quốc do đó ảnh hưởng lẫn nhau một cách
mật thiết.
Phương Tây học được của Trung Hoa
nghề tằm tơ, thuật làm giấy, thuật in, thuật làm đồ sứ, cách dùng la bàn. Và
Trung Hoa cũng học được ngoại nhân cách làm rượu nho, nghề trồng bông dệt vải.
[1] có sách báo phải đọc là Khắc
Hãn. Vốn là tiếng Mông Cổ, sách Pháp phiên âm là Khan.
[2] Trung Hoa rất trọng thư pháp
(thuật viết chữ), coi nó là một nghệ thuật ngang với hội họa.
[3] Đời sau chép lầm là: hai chữ
mục目 (con
mắt) ở trên, và các tự điển đều theo.
[4] Phương Tây không có tục đa
thê, vua không có quí phi, cung tần: dĩ nhiên họ có nhiều tình nhân, cũng bị
bọn nầy chỉ huy, như Louis XV của Pháp mê bà Pompadour mà Pháp suy tàn vì chiến
tranh 7 năm; nhưng bọn tình nhân đó không tàn nhẫn, tác hại ghê gớm cho hoàng
tộc (và quốc dân) như bọn “hậu” của Trung Hoa.
[5] Theo Fitregald trong Li
Che-min (Payot - 1953) thì nhưng con số đó sai, phải nhân gấp hai. Coi mục kinh
tế ở sau.
[6] Giao Chỉ của mình thời đó
thuộc về trấn Lĩnh Nam
(trị sở ở Quảng Châu) dưới quyền cai trị của một viên tiết độ sứ (nghĩa là viên
sứ có cờ và tiết - thẻ để làm tin - tức có binh quyền lớn).
[7] có sách nói không được bán.
Có thể một thời một khác.
[8] Bút lông thì tương truyền đời
Tần, Mông Điềm đã chế tạo được.
[9] Thi ca làm theo những khúc
nhạc ở trong nhạc phủ (cung vua).
1 Tổng Quan
Đường có nhiều điểm giống Hán:
Đều có một cái đầu ( Tần, Tùy) và một cái đuôị Nam Bắc Triều và Ngũ Đại với
Thập quốc); vua sáng nghiệp ( Lưu Bang, Lý Uyên) đều tầm thường; chỉ hùng
cường, văn minh trong hai triều đại ( Hán: Võ đế, Quang Võ; Đường : Thái Tôn,
Huyền Tôn); khi suy thì đều chia làm hai miền: Bắc bị Ngũ Hổ xâm chiếm, làm chủ
một phần lớn; Nam do người Bắc trốn Hồ mà di cư xuống, tự chủ được vì Hò chưa
đủ sức để chiếm trọn. Mà sở dĩ Hồ chiếm được gần hết miền Bắc là vì triều đình
Hán và Đường đều nhờ cậy họ để dẹp loạn trong nước, tức dùng họ để giết người
Hán.
Một dân tộc văn minh ở sát nhiều
dân tộc chậm tiến , nghèo mà hiếu chiến thì thế nào cũng bị họ xâm lấn; Hán có
lúc thắngmà cũng nhiều lúc thua, khi thua mà ở lại với kẻ thắng thì đồng hóa
họ; nếu trốn họ mà dời xuống Nam thì lại mau khai hóa được miền Nam, đồng hóa
thổ dân miền Nam. Rốt cuộc thắng hay thua thì đất đai cũng mở rộng thêm, dân số
cũng tăng lên. Đó là điềm đạc biệt của lịch sử Đế Quốc Trung Hoa.
* * *
Thời tan rã ở cuối Hán là thời Nam
Bắc triều. Bắc gồm gần hai chục nước, Nam chỉ có một nước mà gồm 5 triều
đại ( như tôi đã nói: Tây Tấn thuộc về thời Tam Quốc, không nên kể là Nam
Triều)
Thời tan rã ở cuối Đường, Trung
Quốc cũng chia làm Nam Bắc, chỉ khác là Bắc gồm một nước và có năm triều đại
nối tiếp nhau làm chủ; ngược lại với Nam Bắc triều cuối đời Hán.
Người Trung Quốc quen gọi thời
tan rã từ 906 đến 960 là thời Ngũ Đại. Tên đó không đúng hẳn: chỉ đúng cho miền
Bắc thôi ( cũng như tên Lục Triều chính ra là Ngũ Triều- ở sau đời Hán - chỉ
đúng cho miền Nam thôi) Phải
kể thêm 10 triều đại tức Thập quốc ở Nam nữa mới đúng hẳn. Cho nên tôi
theo một số tác giả gọi thời đó là thời Ngũ Đại - Thập Quốc.
Sử Gia trung Hoa thời xưa cho
Thập Quốc ở sau đời Đường không phải là chính thống, mà cho Ngũ triều ở Nam ở
sau đời nhà Hán là chính thống. Cơ hồ như theo họ, không cần phải là một triều
đại của người Hán thịnh vượng mới là chính thống. Hán hay Hồ, bình trị hay loạn
lạc, cứ làm chủ được cả một miền - Bắc hay Nam - đều là chính thống cả.
*
* *
Dưới đây là bảng Năm triều đại ở
Bắc và Mười nước ở Nam
1- Hậu Lương 907 - 923 Hán.
2- Hậu Đường 923 - 947 Sa Đà (
Cha t a)
3- Hậu Tấn 936 - 947 Sa Đà
4- Hậu Hán 947 - 951 Sa Đà
5- Hậu Chu 951 - 960 Hán
Năm triều đại đó nối tiếp nhau
làm chủ hết hoặc gần hết phương Bắc , nên được coi là chính thống, mặc dầu chỉ
có hai triều đại là Hán, còn ba triều đại là ngoại nhân Sa Đà.
1- Ngô ở An Huy ngày nay - Hán
2- Tiền Thục ở Tứ Xuyên ngày nay
- Hán
3 - Ngô Việt ở Chiết Giang ngày
nay - Hán
4- Sở ở Hồ Nam ngày nay -
Hán
5- Mân ở Phúc Kiến ngày nay - Hán
6- Nam Hán ở Quảng Đông ngày nay
- Hán
7- Nam Bình ở Tứ Xuyên ngày nay -
Hán
8- Hậu Thục ở Tứ Xuyên ngày nay -
Hán
9 - Nam Đường ở Giang Tô ngày nay - Hán
10- Bắc Hán ở Sơn Tây ngày nay
( Riêng nước này ở phương Bắc,
vua là giống Sa Đà)
( Nên so sánh bảng trên với bảng
- Thời Nam Bắc Triều )
2- Ngũ Đại Ở Bắc.
Hậu Lương
Chu Toàn Trung giết Chiêu Tôn rồi
chiếm ngôi nhà Đường, đổi quốc hiệu là Hậu Lương, đóng đô ở Khai Phong ngày
nay. Ông ta gốc nông dân, trưóc theo Hoàng Sào, khi lên ngôi cũng muốn cải
thiện đời sống của nông dân, giảm thuế, khuyết khích nông nghiệp, nhưng ở ngoài
phải chống với Lý Khắc Dụng, một tướng Sa Đà, ở trong không được giới sĩ tộc
ủng hộ, còn bọn tay chân của ông toàn là tướng cướp , tranh quyền với nhau, chỉ
muốn vơ vét cho thật mau, nên tình hình rối loạn. Năm 912, chính một người con
của ông giết ông để chiếm ngôi, từ đó bọn thủ hạ của ông chán nản, biết rằng
triều Hậu Lương không tồn tại được lâu, kéo nhau qua phía Lý Khác Dụng và năm
923, nhà Hậu Lương bị Lý Tồn Húc, con Lý Khắc Dụng diệt, trước sau được hai đời
vua, cộng là 17 năm.
Hậu Đường
Lý Tồn Húc , gốc Sa Đà, lên ngôi
dời Đô về Lạc Dương, đổi quốc hiệu là Đường. Triều chính ở trong tay giới sĩ
tộc Hán, vì người Sa Đà rất ít, không được 100.000, mà còn lạc hậu, không đáng
kể về phương diện chính trị. Họ coi việc nước như việc nhà, muốn giao hết những
chức vụ quan trọng cho bà con họ hàng, nhưng số này không đủ, đành phải giao cả
những võ chức cho ngoại nhân, bất kỳ là giống người nào, còn những chức vụ hành
chánh thì giao cho người Hán. Họ đặt ra đủ các thứ thuế, bóp nặn nông dân đến
khánh kiệt mà vẫn không đủ nuôi lính
Hậu Đường truyền được bốn đời,
mười ba năm, rồi bị Thạch Kính Đưòng diệt.
Hậu Tấn
Thạch Kính Đường cũng là giống Sa
Đà, vốn là phò mã nhà Hậu Đường, làm trấn thủ Hà Đông, nhờ rợ Khiết Đan giúp
sức mới lên ngôi được, vì vậy phải cắt cho Khiết Đan vài tỉnh ở phía Bắc.
Khiết Đan ( kitat) là một rợ ở
Đông Bắc Trung Hoa, tổ tiên là rợ Tiên Ti, sau khi bị một rợ đánh thua, trốn
lên ở đất Nhiệt Hà ngày nay, thân phục nhà Đường. Cuối đởi Đường, Khiết Đan
mạnh lên, thôn tính các bộ lạc chung quanh, chiếm cả đất Nhiệt Hà và Đông Tam
Tỉnh. Một thủ lãnh của họ có hùng lược, dùng người Hán để chỉnh đốn nội chính,
dựng thành quách, lập chợ búa, khai khẩn đất đai. Thạch Kính Đường đời Ngũ Đại
nhờ họ đem đại quân giúp để lật Hậu Đường, và để trả ơn, cắt đất Yên và Vân (
Hà Bắc, Sơn Tây) cho họ, họ thành một cường quốc ở cõi Bắc, đổi quốc hiệu là
Liêu, thành mối lo cho nhà Tống sau này.
Thạch Kính Đường đổi quốc hiệu là
Tấn, đất đai thu hẹp , số thuế thu được giảm đi, mà phải nộp cống cho khiết
Đan, thờ Khiết Đan như cha, do đó phải tăng thuế, dùng chính sách bạo ngược đối
với dân. Khiết Đan thấy vậy mưu tính c việc chiếm trọn miền Bắc. Giới quý tộc
Sa Đà có một nhóm thấy nguy cơ, muốn tấn công Khiết Đan trước, triều đình do
dự. trong khi đó, nhiều viên tướng ở miền Đông làm phản, qua phía Khiết Đan và
chỉ trong hai năm ( 946 - 947) Khiết Đan chiếm được kinh đô và gần hết miền
Bắc. Viên thủ lãnh Khiết Đan vô kinh đô, tự xưng là " Hoàng Đế Khiết Đan
và Trung Hoa" ( Nhà hậu Tấn chấm dứt , sau hai đời vua , cộng 11 năm.)
Giới sĩ tộc Trung Hoa thản nhiên
trước sự đổi ngôi đó, làm quan cho Sa Đà hay cho Khiết Đan thì cũng vậy, nhưng
Sa Đà có một nhóm không chịu thần phục Khiết Đan, chống lại.
Tôn Giáo
Năm 842 Võ Tôn đã cấm một số chùa
và một số tăng ni, năm 844 lại cấm nghiêm hơn, gắt gao nhất là năm 845, hạ lệnh
trong hai kinh thành Tràng An và Lạc Dương mỗi nơi chỉ để lại 4 ngôi chùa và
301 vị tăng , ni ; các châu quận, mỗi nơi một ngôi chùa và từ 6 đến 20 tăng ni,
ngoài ra hết thảy đều bị phá hủy, tăng ni đều phải hoàn tục. Kết quả có 44.600
ngôi chùa bị phá, tượng Phật bằng đồng bị nấu ra để đúc tiền; và có 260.500
tăng ni hoàn tục. Nhưng khi Võ Tôn băng, Tuyên Tôn kế vị, lại lập tức phục hưng
Phật Giáo.
- Những tôn giáo mới truyền vào
Có lẽ đời Đường , khắp thế giới
không có nước nào thâu nhập nhiều tôn giáo như Trung Hoa.
- Bái hỏa Giáo ( Mazadéisme) Cũng
gọi là yêu Giáo, của Ba Tư, do Zoroastre sáng lập, truyền vào Trung Quốc từ
thời Nam Bắc Triều. Đạo đó thờ lửa và mặt trời, cho sự quang minh là c biểu
hiện của thiện, hắc ám là biểu hiện của ác.
- Ma Ni Giáo ( Manichéisme) Do
Hỏa Giáo mà ra, theo Hồi Hột mà vào Trung Quốc thời Túc Tôn ( ma Ni là tên
người sáng lập), truyền bá ở khoảng Tây Bắc.
- Cảnh Giáo là một biệt phái của
Ki Tô giáo do Nestorius sáng lập ở Tiểu Á Tế Á, được vua Thái Tôn cho giảng
đạo, lập giáo đường ở Tràng An
- Hồi Giáo do Mahomet sáng lập ở
Á Rập, thờ Allah, vị thần duy nhất, vạn năng. Khác ba tôn giáo trên, Hồi Giáo
truyền vào miền Nam
( Quảng Châu), Dương Châu....) trước hết.
Những tôn giáo mới truyền vào đó
dều không thịnh
Văn. Văn trào duy mỵ Trọng thể
biền ngẫu, du dương, bóng bảy, sáo, phù bạc) đến Lục Triều là cực thịnh. Chính
lúc nó cực thịnh đã có một số người vạch những sở đoản của nó như Tô Xước triều
Ngụy; nhưng phải đợi tới đời thịnh Đường ( thế kỷ VIII) mới có một phong tào
mạnh mẽ phản đối nó, phong trào phục cổ ( trở lại lối cổ) mà người mở màn là
Trần Tử Ngang, người tiếp tục cổ xúy là Lý Bạch, Đỗ Phủ và gặt được kết quả là
Hàn Dũ và Liễu Tôn Nguyên.
Phục cổ không phải là mô phỏng cổ
nhân, phải có tinh thần sáng tác, không nô lệ một cây bút nào. Hàn Dũ bảo phải
theo cái đạo ( phục vụ nhân sinh, trọng đạo đức, lễ, nghĩa) của cổ nhân, nhưng
chỉ theo ý thôi mà không có lời, vì mỗi cổ nhân có một giọng , một lời riêng,
không ai giống ai, thì tại sao ta phải theo lối cổ nhân này mà không theo cổ
nhân khác. Ta phải có " lời " riêng của ta.
Nhờ chủ trương đó mà tản văn đời
Đường có nhiều vẻ: bình dị, chân thành mà cảm động, tươi đẹp mà không ủy mị,
hùng hồn mà trang nghiêm.
Nổi danh nhất về " cổ văn
" - tức tản văn - trong hai đời Đường , Tống có tám nhà ( bát đại gia) mà
Đường được hai nhà : Hàn Dũ và Liễu Tôn Nguyên.
- Hàn Dũ ( 769- 824) rất có nhiệt
tâm cứu đời, rất khảng khái, một lần can vua Đức Tôn mà bị biếm, lần khác can
vua Hiến Tôn về việc rước cốt Phật mà suýt bị giết vì ông dám bảo vua Lương Võ
đế sùng Phật mà bị một bề tôi áp bức, phải chết đói, quốc gia tiêu vong, thành
thử thờ Phật cầu phước mà lại gặp họa. Lời đó như một tiên tri: sau Hiến Tôn bị
một tên hoạn quan giết. Giọng ông hùng tráng, linh hoạt, rõ ràng như bài "
Luận về nhiệm vụ của chức gián nghị ", bài " Tiễn Mạnh Đông Dã "
, thiết tha, cảm động như bài " Tế Mộ Điển Hoành " , " Tế Thập
Nhị Lang "
- Liễu Tôn Nguyên ( 793-819) là
bạn thân của Hàn Dũ mà tính tình , bút pháp khác Hàn, cũng có tư tưởng cải cách
nhưng khoáng đạt hơn, khi biết không được vua nghe thì thôi, ngao du sơn thủy;
văn không thống thiết như Hàn mà có giọng mỉa mai như bài " Lời người bắt
rắn " hoặc phẩn y uất như " Bài tựa tám bài thơ Ngu Khê ". Bài
"Cái gò nhỏ ở phía Tây đầm Cổ Mỡ " mở đầu cho thể văn du ký của Trung
Hoa. Ông ảnh hưởng đến cổ văn đời nhà Tống hơn Hàn Dũ
Tất cả những bài của Hàn và Liễu
dẫn trên đều co trong tập Cổ Văn Trung Quốc của tôi – Tao Đàn – 1966
Sử. Không bộ nào có giá trị. Miễn
cưỡng ghi Sử Thông của Lưu Trí Cơ và Thông Điển của Đỗ Hựu
Tiểu Thuyết
Nhờ đọc kinh Phật trong đó chép
đời nhiều vị Phật, nhiều truyện tưởng tượng, nên văn nhân Trung Quốc bắt chước
lối viết truyện của Ấn .
Truyện đờI Đưòng được gom lại
trong hai bộ Đường đại tùng thư và Thái bình quảng ký. Toàn là truyện ngắn
thuộc loại hào hiệp, thần quái, diễm tình, hầu hết còn khô khan
Hậu Hán
Cầm đầu nhóm đó là một viên tướng
Sa Đà, Lưu Trí Viễn. Lưu thấy Trung nguyên vô chủ, vào Đại Lương xưng đế , lấy
quốc hiệu là Hâu Hán, đúng vào lúc Hoàng Đế Khiết Ban chết, con trai ông phải
rút về phương Bắc vì ở triều đình có sự tranh chấp ngôi vua. Nhưng Lưu chỉ cầm
quyền một năm rồi chết. Con trai ông nối ngôi, còn trẻ ; bọn sĩ tộc Trung Hoa
nắm hết quyền hành ở triều đình. Chính sách của hậu Hán còn tàn bạo hơn Hậu tấn
; dân chúng trốn thuế, triều đình ban lệnh kẻ nào lén giữ một tấc da bò , không
nộp hết cho triều đình thì bị xử tử.
Giới sĩ tộc Trung Hoa càng ngày
càng mạnh, rốt cuộc một viên tướng Trung Hoa tên là Quách Uy, làm khu mật sứ,
giết vua Hậu Hán. Nhà này gồm hai đời vua mà chỉ cầm quyền được có bốn năm.
Hậu Chu
Quách Uy lên ngôi, quốc hiệu là Chu. Vậy là liên tiếp trong ba triều đại , từ 923 đến
951, non 30 năm, dân tộc Trung Hoa miền Bắc chịu cái ách của rợ Sa Đà, nay mới
cởi ra được. trong thời gian đó chiến tranh liên miên, mà Sa Đà lại không quan
tâm tới việc nuôi dân, chỉ bốc lột bằng thuế khóa mỗi ngày một nặng, nền kinh
tế suy sụp hoàn toàn, tới cái mức triều đình phải ( dùng thịt người làm lương
thực cho quân lính ) ( theo Lữ Chấn Vũ , sách đã dẫn ). Cùng khổ quá , quân lính
muốn phản loạn, qua phía địch thì triều đình lấy tiền trong kho để phát cho
chúng mà giữ chúng lại. Nhiều lần như vậy ( theo Eberbard, sách đã dẫn).
Triều đình Hậu Chu
gồm toàn giới sĩ tộc Trung Hoa ( số quý tộc Sa Đà ít quá, không đáng kể, vả lại
đã Hán hoá gần hết rồi) sửa đổi chính sách để chấn hưng lại kinh tế. Một mặt mở
rộng đất đai, một mặt qui định lại thuế khóa cho tương đối công bằng, bằng cách
thủ tiêu đặc quyền miễn thuế, một mặt nữa (đời Thế Tông) (1) bắt đóng cửa trên
ba vạn ngôi chùa, bắt tăng ni phải hoàn tục, lập số hộ khẩu, kiểm tra được trên
2 triệu 300 ngàn hộ phải đóng thuế ( khoảng 11 triệu rưỡi dân) lại bỏ lệ cấm
dân trữ đồng, cho dân được phép làm muối, trừ bọn tham qua ô lại, nhưng chưa
kịp thi hành thì nước Bắc Hán, một trong Thập quốc ( coi bảng 10 nước ở trước )
do Lưu Sùng, gốc Sa Đà ( em Lưu Trí Viễn đời Hậu Hán) lập lên ở Sơn Tây, nhờ
Khiết Đan giúp sức, đem quân đánh Hậu Chu ; vua Hậu Chu sai một tiết độ sứ là
Triệu Khuông Dẫn đi dẹp. Vua Hậu Chu chết, con mới bảy tuổi lên nối ngôi. Quân
lính tôn Triệu Khuông Dẫn làm vua, rước ông trở về Đại Lương ép vua bảy tuổi
nhường ngôi cho. Hậu Chu Chấm dứt, được ba đời, cộng 10 năm. Thời Ngũ Đại cũng
chấm dứt với nhà hậu Chu.
Trong khoảng nửa thế kỷ đó, miền
Bắc có một sự thay đổi khá quan trọng : phía Tây Bắc tức miền kinh đô Tràng An
thời trước, di chiến tranh ở chung quanh mà bị tàn phá tới nỗi suốt một thế kỷ
sau không dùng làm kinh đô được nữa, dân chúng đã di tản đi nơi khác gần hết.
Dưới sự chiếm đóng của Khiết Đan, luồng kinh tế chuyển hướng về phía Bắc Kinh
chứ không về lưu vực sông Hoàng Hà nữa, và Bắc Kinh sau thành kinh đô của Khiết
đan
3. Thập Quốc ở Nam
Thực ra chỉ có 9 nước ở Nam thôi,
đều thuộc về người Hán, còn mợt nước của người Sà Đà, thành lập sau cùng , ở
Sơn Tây, miền Bắc như trên đã nói.
Chín nước kia cũng không phải
thành lập cùng một lúc . Mới đầu chỉ có sáu hay bảy nước cùng ra đời trước sau
nhau năm, mười năm : Ngô, Ngô Việt,
Nam Hán, Tiền
Thục, Sở, Mân, rồi sau vì nội loạn hai nước bị diệt như Mân, hoặc bị cướp ngôi
như Ngô, và thay vào nhiều nước khác, do đó mà số nước tăng lên.
Nhưng nước đó không bị cái nạn
chiến tranh như ở miền Bắc, mà được dân miền Bắc di cư xuống, nên phát triển
khá mạnh về kinh tế.
Nước Ngô ở bở biển, có nguồn lợi
về muối, thêm nguồn lợi về trà nữa.
Nước Ngô Việt ở Chiết Giang, sản
vật còn phong phú hơn, nông nghiệp phát đạt nhờ công trình thủy lợi, thương mãi
rất thịnh nhờ buôn bán với nước ngoài.
Nam Hán ( nguyên danh là Nam Hải)
chiếm Lưỡng Quảng: Quảng Đông và Quảng Tây) đứng đầu về muối và ngoại thương.
Tiền Thục và Hậu Thục chiếm miền
Tứ Xuyên, tuy bị ảnh hưởng của Chiến Tranh, nhưng có mỏ muối, ruộng lại phì
nhiêu, nổi tiếng là " kho của trời " ( thiên phủ )
Sở chiếm miền Hồ Nam, đất rộng
dân thưa, trồng nhiều trà.
Nam Bình không có nguồn lợi gì
cả, lại bị ảnh hưởng của chiến tranh, nhưng nằm trên trục giao thông thương
nghiệp giữa Nam và Bắc, thu được thuế khá nhiều, mặc dầu phảI mỗI năm tiến cống
cho triều đình phương Bắc. Nước đó nhỏ nhất, dân ít nhất.
Lịch sử chính trị của các nước đó
không có gì đáng ghi.
Tóm lại đời Ngũ Đại Thập Quốc chỉ
là màn chót kéo dài của họa phiên trấn đời Đường, có hại cho miền Bắc mà có lợi
cho miền Nam; kinh tế phát triển, do đó sự quan trọng về chính trị cũng sẽ tăng
lên trong đời Tống
(1) Đây là lần pháp nạn cuối cùng
( thứ tư)
A. THỐNG NHẤT: BẮC TỐNG
(960-1120)
1.Thống nhất đất đai
Thái Tổ (960-975)
Triệu Khuôn Dẫn lên ngôi, hiệu là
Thái Tổ, đổi tên nước là Tống, đóng đô ở Biện Kinh tức Đại Lương (Khai Phong
ngày nay).
Tổ tiên ông gốc ở phía nam Bắc
Kinh ngày nay, nhiều đời làm tướng. Ông là ông vua duy nhất được quân lính đặt
lên ngai vàng. Ông không phải là bậc anh hùng, cũng không có tài gì siêu quần,
nhưng có nhiều đức quý, lương thiện, thành thực, thực tiễn, hiểu lòng người và biết
mình.
Ông không đem quân đi đánh đuổi
rợ Khiết Đan để thu hồi đất Vân, Yên ở miền Bắc vì biết việc đó khó, sức ông
chưa đủ. Ông hãy làm một việc dễ trước đã, việc các nước ở miền Nam. Thời đó
còn bảy nước . Năm 963 ông xuất quân đánh Kinh Nam, thừa thế diệt luôn Vu Bình.
Năm sau, ông sai một viên tướng đánh Hậu Thục, thắng, rồi chuyển quân đánh Bắc
Hán, nhưng Bắc Hán được nước Liêu (tức Khiết Đan) giúp sức,thấy khó nuốt, ông
tạm "tha" cho, rút quân về đưa xuống miền Nam chiếm Nam Hán. Vua Nam Đường thấy
vậy sợ, xin hàng. Rồi Nam Hải cung xin nộp cống, Ngô Việt xin thuần phục. Như
vậy là cả miền Nam
vào tay ông, chỉ còn Bắc Hán (ở miền Bắc) đến đời sau (Thái Tôn) mới dẹp được
(979)
Thái Tôn (976-999) tuy diệt được
Bắc Hán, nhưng không thu về được đất Vân, Yên, trái lại bị Liêu đánh bại, nhưng
Liêu cũng chỉ quấy nhiễu ở miền Bắc thôi, chứ không dám tiến xa hơn.
Công việc thống nhất tuy chưa
được hòan thành, nhưng tạm coi là yên. Đế quốc đời Tống không được mở mang thêm
mà còn mất miền Hà Bắc (Vân, Yên) và miền Tây Hán (Vân Nam, Tây Khang), nhỏ hơn
đời Đường vì bỏ hẳn miền Tây Vực mà tiến về Đông Nam, vừa phong phú vừa dễ
chiếm hơn.
2. Củng cố nội bộ
Thu quyền chính trị về trung
ương.
Triệu Khuông Dẫn đã tỏ ra thực
tế, biết sức mình khi ông tạm " tha cho Bắc Hán". Khi đã chiếm được
Nam Hán, những nước còn lại xin thuần phục rồi, ông lại tỏ ra thành thực, mà
khéo léo, biết tâm ý các người đã cộng tác với ông, đặt một tiệc rượu mời Thạch
Thủ Tín và Trương Thầm Kỳ, nửa tiệc ông đuổi tả hữu ra ngoài, nói với hai viên
tướng đó: "Làm thiên tử khó khăn, chứ không vui sướng như tiết độ sứ. Trẫm
thường ăn ngủ không yên. Thủ Tín hỏi vì sao, ông đáp: "Ngôi cao quý này ai
mà không muốn?" Thủ Tín cuối đầu tâu: "Bệ hạ sao lại nghĩ thế? Mạng
trời đã định, ai còn dám hai lòng?" Ông nói: "Hai khanh thì cố nhiên,
còn bọn thủ hạ ai mà không ham phú quý? Một ngày kia, họ đem hoàng bào mặc vào
cho khanh, khanh không muốn có được không?.....Trẫm muốn tình thân giữa chúng
ta còn hoài để còn hưởng phú quý như bây giờ. Muốn vậy thì binh quyền của các
khanh phải trở về quốc gia....Như vậy mới không còn lòng nghi ngờ lẫn nhau
nữa."
Thế là các tiết độ sứ xin từ
chức, giải trừ binh pháp hết. Để bù lại, ông tặng họ chức cao, bổng hậu trong
hành chánh.
Bỏ sự các cứ của phiên trấn, giải
nhiệm các tiết độ sứ, rồi ông đặt chức phán quan (văn quan) thay vào, chức đó
coi cả việc quân chính và dân chính, nhưng việc gì cũng phải tâu về triều đình,
lại đặt ra chức Chuyển vận sứ trông nom về tài chính, số thu được bao nhiêu,
trừ số chi tiêu trong châu quận rồi phải nộp về triều đình, ông cũng hạn chế
quyền hành pháp của các châu quận, bắt phải phúc trình lên bộ Hình xét, chứ
không được tự ý xử tử bất kỳ ai.
Tổ chức lại quân đội.
Chia quân làm hai hàng, lựa những
lính mạnh ở các châu quận đưa về kinh, gọi là cấm quân, còn lính già yếu ở địa
phương gọi là sương quân, mỗi năm cho cấm quân và lính ở biên trấn thay đổi
nhau một lần để các quan địa phương khỏi mua chuộc lòng binh lính mà gây thế
lực, phép đó gọi là canh nhung.
Hơn nữa, Thái Tổ tuy là võ quan
mà trọng văn hơn võ vì ông cho rằng võ quan dễ làm phản, ông ra lệnh võ quan
cũng phải đọc sách Nho để hiểu đạo trị quốc. Sáng kiến đó rất mới.
Những biện pháp đó lập ngay lại
được trật tự trong nước sau nửa thế kỷ hỗn loạn vì nạn hoành hành của bọn tiết
độ sứ, nhưng về sau kết quả rất tai hại.
* Theo phép canh nhung, quân lính
thay đổi luôn, không rõ hình thế địa phương, mà các văn thần ở các biên trấn
không biết chỉ huy, do đó sức phòng vệ ở biên trấn sút kém:
* Quyền binh thu về trung ương cả,
mà kinh đô (Biện Kinh) ở giữa đường Bắc Kinh và Nam Kinh ngày nay, nghĩa là khá
xa phía Bắc và phía Tây, nơi các rợ thường quấy phá, như vậy mỗi khi nguy cấp,
truyền tin về kinh rồi đợi lệnh của triều đình, mất nhiều thì giờ, thật bất
lợi.
* Chính sách trọng văn kinh võ
làm cho tinh thần chiến đấu sa sút.
* Quyền binh thu về trung ương
cả, người tài năng ở các địa phương không có chỗ dùng, tập trung cả ở kinh đô,
tranh giành nhau để được bổ dụng, rồi kết thành bè đãng để khuynh loát nhau.
Tóm lại là mắc cái lỗi "kiểu
uốn quá chính", cây cong uốn cho ngay lại thì lại uốn quá, hóa hết ngay.
Phân quyền hay tập quyền điều có ưu điểm và nhược điểm, cần nhất là người cầm
đầu, có tài, sáng suốt, biết uyển chuyển thì nước mới mạnh được.
3.Ngoại Giao
Với Liêu
Ông vua thứ nhì nhà Tống - Thái
Tôn- còn có chút tinh thần nhà tướng. Từ đời thứ 3 trở đi (Chân Tôn, Nhân
Tôn....)Tống bắt đầu suy nhược, do hậu quả của chính sách trọng văn khinh võ,
mà triều đình hiếu hoà tới cái mức chịu nuốt nhục, hạ mình trong việc ngoại
giao với các rợ phương Bắc: Khiết Đan tức Liêu, Thát Bạt tức Tây Hạ.
Khi Tống Thái Tôn băng, con là
Chân Tôn nối ngôi. Khiết Đan thời đó gần như Hán hoá, có chữ viết tựa như chữ
Hán, có tổ chức, có quân đội, thường quấy phá phương Bắc. Năm 1004, họ xâm nhập
chỉ cách kinh đô khoản 150 cây số, người Tống kinh hoảng. Quần thần xin dời đô,
chỉ riêng tể tướng là Khấu Chuẩn một mực xin vua thân chinh. Chân Tôn phải
nghe, đem quân tới Thiền Châu rồi lên thành, giương lọng vàng lên, quân Tống
thấy vậy hâm hở hoan hô vạn tuế, tiếng vang xa mấy dặm, khí thế rất hăng. Lúc
đó tướng Khiết Đan mới bị trúng nỏ chết, quân mất tinh thần, vua Khiết Đan xin
nghị hoà. Tể tướng Khấu Chuẩn muốn bắt họ phải xưng thần và trả lại hai đất
Yên, Vân mới cho hoà, nhưng Chân Tôn không nghe, sai sứ thương nghị với Khiết
Đan, hai bên ước rằng:
* Biên giới hai nước y như trước
khi có chiến tranh
* Tống tặng cho Liêu (Khiết Đan)
mỗi năm 10 vạn lượng bạc, 20 vạn tấm lụa
* Hai nước trao đổi tù binh
* Vua Liêu gọi vua Tống bằng anh
Vậy là Tống tuy thắng mà hoá bại
Năm 1042 vua Liêu sai sứ sang đòi
thêm đất. vua Tống lại phái tặng thêm cho Liêu 10 vạn lạng bạc và 10 vạn tấm
lụa nữa.
Với Tây Hạ
Với Tây Hạ, Tống cũng chịu
"nhũn" như vậy.Tây Hạ vốn là giống Thát Bạt, quy phục Trung Hoa từ
đời Đường. Đời Tống Chân Tôn, họ biết dung hoà văn minh Trung Hoa và văn minh
Thổ Phồn, cải cách chính trị, cường thịnh lên, đánh các tỉnh Thiểm Tây, Cam
Túc, Tuy Viễn, hằng năm đem binh vào cướp phá biên giới. Sau vì tình hình trong
nước không yên, vua Tây Hạ xin hoà, vua Nhân Tôn phong cho làm quốc vương và
mỗi năm "cho" trà và bạc 25 vạn rưỡi lạng (1043). Vua Tống nghĩ rằng
chịu nhũn như vậy đở tốn hơn là nuôi binh, mà lại được yên. Lầm lớn, yên ổn
được mấy chục năm, tướng sĩ biến nhác, tinh thần suy nhược, mà các rợ thấy Tống
chịu cống bạc, lụa để được an thân, càng ngày càng lấn hiếp. Nguyên nhân suy
vong của Tống và của dân tộc Trung Hoa ở đó.
Liêu và Hạ vốn là dân tộc du mục,
từ khi tiếp xúc với Trung Hoa hâm mộ văn hoá Trung Hoa, một số lớn ăn mặc như
người Hán, họ lại phỏng theo chữ Hán mà tạo ra quốc tự cho họ. Họ cũng lập học
hiệu, xin ngũ kinh, tứ thư, sách thuốc về dạy, cũng sùng bái Khổng Tử, dịch
Luận ngữ, Chu Dịch.....Vài nhà viết sách bằng Hán Văn mà nổi danh, lần lần họ
Hán hoá hết.
4.Kinh tế suy sụp - quốc khố rỗng
không
Vua Cao Tổ khi mới cầm quyền cũng
dùng ngay chính sách khuyến khích nông nghiệp, phân phát ruộng đất cho công
thần, sĩ tộc và dân chúng như đời Đường.
Chính sách đó mới đầu có lợi cho
dân, và kinh tế rất phát đạt, nhất là ở phương Nam, diện tích cày cấy tăng lên,
dân số chỉ trong bốn chục năm tăng lên gấp hai rưỡi, số thuế thu được cũng tăng
theo.
Nhưng vì những lẽ tôi đã dẫn ở
trên, chỉ vài thế hệ sau, số dân lưu vong (vì bán đất, không còn ruộng để làm)
tăng lên, mà điền sản của giới sĩ tộc mỗi ngày một rộng thêm, bọn này lại giỏi
trốn thuế, nên chỉ bọn họ là giàu lớn còn dân chúng và quốc gia thì nghèo
Vua Cao Tổ được quân sỹ đặt lên
ngai vàng nên thưởng công họ khá hậu( có người được cả mấy ngàn mẫu), hơn nữa,
còn ban ân cho cả gia đình nội ngoại của họ(ân đó gọi là "ấm", tức
phúc trạch) tuỳ theo chức tước của cha hay con lớn nhỏ mà thân nhân được hưởng
nhiều hay ít, ví dụ cha làm quận công thì con được hưởng lộc vào hàng nào đó,
hoặc con làm quận công thì dù không lãnh chức gì cũng được hưởng lộc vào hàng
nào đó.
Mà lương quan lại thời đó, theo
Eberhard, cao hơn đời Đường nhiều, mặc dù vẫn không đủ sống, vì vậy mà triều
đình bán thêm ruộng và miễn thuế cho họ. Chính vì cái tệ trả lương cho quan lại
rất thấp nên thời nào ở Trung Quốc cũng có nạn tham nhũng.
Cũng nên kể thêm số bạc, lụa, trà
phải "cống" hàng năm cho Liêu và Tây Hạ, mặc dù theo Eberhard, số đó
không là bao, chỉ bằng 2% ngân sách quốc gia thôi.
Nặng nhất là khoản quân phí. Tuy
là kết nghĩa anh em với Liêu, Tây Hạ, nhưng vẫn phải đề phòng sự tráo trở của
họ, nên không thể giảm số quân được. Trái lại, cứ phải tăng lên vì phép tổ chức
lại quân đội của Cao Tôn, vì tinh thần chiến đấu của tướng sĩ sa sút, cho nên
phải lấy lượng bù vào phẩm, nhưng mặc dù số quân tăng từ 380.000 lên tới
1.260.000, quân phí chiếm tới 25% ngân sách, mà phẩm càng ngày càng kém.
Các đời trước, nhân dân vẫn còn
bổn phận đi lính mà không được công xá gì hết. Đời Tống có lệ trả lương cho
quân lính, do đó quân lính có thói quen quá tuổi phục dịch rồi mà vẫn ở lì
trong đội ngũ để lãnh lương. Phải trả lương cho họ mỗi ngày mỗi cao lên vì họ
yêu sách mỗi ngày một nhiều, khi một đạo quân đổi chỗ, lính không chịu mang lấy
đồ đạc của họ nữa, đòi có phu khiêng cho, phái họ đóng ở một đồn xa quê hương
họ quá thì họ đòi phụ cấp. Do đó tốn kém rất nhiều nhưng không được kết quả gì
cả.
Chi tiêu như vậy mà số thu nhập
chỉ trông vào thuế ruộng. Nhưng giới đại điền chủ trốn thuế, còn nông dân bị
thúc thuế, không đủ sức trả, phải bán ruộng đi nơi khác làm ăn, xin lãnh canh
đất của điền chủ, và có nơi phải góp cho chủ trên 50% số lúa gặt được.
Cả nước chỉ có Thiểm Tây vì loạn
lạc, các đại điền chủ bỏ đất, đi nơi khác hết - qua miền Đông, nhất là xuống
miền Nam- chỉ còn lại những bần nông, làm ít mẫu ruộng và đóng thuế răm rắp cho
triều đình vì không thể trốn thuế được. Do đó có hiện tượng lạ lùng này vô tiền
khoán hậu trong lịch sử Trung Quốc, chỉ một tỉnh đó mà nộp cho triều đình được
một phần tư số thuế tìm được trong cả nước. Vì vậy mà vua Tống phải cắn răng
chịu nộp cho Tây Hạ 250.000 quan để cố giữ lấy tỉnh đó.
Không đủ tiền tiêu, triều đình
phải đúc thêm tiền, như ngày nay người ta in giấy bạc. Nhờ kỹ nghệ đã bắt đầu
phát triển, Trung Quốc khai thác thêm được nhiều mỏ bạc, đồng, sắt, năm 1050 so
với năm 800, số bạc sản xuất được tăng lên gấp 13 lần, số đồng 8 lần, số sắt 14
lần. Nhưng phí tổn đúc tiền quá cao, gần bằng 75% giá trị của đồng tiền. Vả lại
mỏ ở phương Nam, ló đúc ở
phương Nam
mà kinh đô thì ở phương Bắc, phí tổn chuyên chở về kinh đô trả lương cho quan
lại, quân lính rất nặng. Do đó phải đúc thật nhiều, và ngân sách quốc gia trong
21 năm (từ 1000 đến 1021) từ 22.200.000 ngàn quan tăng lên 150.800.000 quan
(theo Eberhard) một phần lớn vì lạm phát, đồng tiền mất giá.
Bọn con buôn được dịp làm giàu
thêm. Còn bọn sĩ tộc, đại điền chủ càng thấy tiền mất giá càng đổ ra mua đất,
điền địa của họ càng mở rộng thêm. Chỉ có triều đình là nghèo mạt.
Nghèo đến nỗi vua Nhân Tôn
(1023-1063), con vua Chân Tôn, phải cần kiệm từng chút. Một đêm đói, thèm món
thịt dê mà phải nhịn, để "đở một món tốn hao", lại bỏ hẳn cái lệ
"quân vương không mặc áo giặt bao giờ", mà ở trong cung thường mặc áo
vải giặt đi giặt lại. Có kẻ dâng ông hai mươi tám con hến bể, tính cả phí tổn
chở chuyên thì mỗi con giá một ngàn đồng tiền (đồng tiền thời đó chắc đã phá
giá), ông lắc đầu " gắp một con mà hao một ngàn đồng, ta chẳng kham
nổi".
Một số đại thần cũng tốt như ông,
như quan tư giám Phạm Trọng Yêm, một nhà nho có đức và một nhà văn nổi tiếng.
Phạm không cho vợ con được mặc đồ tơ lụa, và mỗi bữa cơm chỉ dọn một món thịt,
trừ khi có khách. Ông tìm mọi cách rút bớt các tiêu pha, tiết kiệm ngân quỹ,
thấy thuộc viên kẻ nào bất tài thì ngoặc trên đầu họ một nét bút rồi bãi chức.
Một viên đồng liêu thấy vậy, trách ông một nét bút mà làm cho cả gia đình người
ta phải phát khóc. Phạm điềm nhiên đáp: "Thà một gia đình khóc, chẳng hơn
là một nước mà khóc ư?" Rồi lại tiếp tục ngoặc, ngoặc nữa. Nhưng nguy cơ
lớn quá, phương pháp tiết kiệm đó không đủ để cứu vãn được, khác chi một gáo
nước đổ lên một bãi cát.
Nhân Tôn băng, Anh Tôn nối ngôi
được 3 năm rồi cũng băng. Tới Thần Tôn (1065-1085). Ông vua này cũng tốt, biết
lo việc nước và thương dân. Có lẽ chính vì nghèo mà nhà Tống được nhiều ông vua
khá, nếu không có tài thì cũng có lòng, có tư cách, chỉ có vài ông xa xỉ, dâm
đãng, không có một ông nào tàn bạo. Đời Bắc Tống là đời duy nhất trong lịch sử
Trung Hoa không có cái hoạ ngoại thích và hoạn quan.
4. Cuộc biến pháp của Vương An
Trạch.
Chỉ có mỗi một người, Vương An
Trạch, là có sáng kiến và hùng tâm nghĩ tới việc biến pháp để cho quốc gia mau
phú cường. Do một sự ngẫu hợp kỳ dị, trong lịch sử Trung Hoa đã có một người có
chủ trương giống ông, sinh trước ông khoản ngàn năm mà cùng một họ với ông,
Vương Mãng.
Đọc lịch sử đời Hán chúng ta thấy
Võ đế đã thử biến pháp để cho nước mau giàu nhưng ông không kiên trì, bỏ nữa
chừng. Rồi Vương Mãng biến pháp mạnh hơn, lâu hơn, có chương trình đàng hoàng
mà thất bại. Bây giờ Vương An Trạch rút kinh nghiệm của người trước, tính toán
kỹ hơn, có tổ chức hơn, có cả một đảng được vua cho phép hành động.
Họ Vương (1021-1086), tự là Giới
Phủ, quê ở Giang Tây, rất thông minh, có tài mà cũng thật kỳ cục. Thiếu thời đã
nổi tiếng. Chỉ đọc sách qua một lần là nhớ, mà đọc rất nhiều sách, thông cả
bách gia chi tử, lại du lịch nhiều, từng trải lắm. Văn thơ hay, là một trong
những "bát gia" (Tám nhà viết cổ văn hay nhất đời Đường và Tống)
không ham phú quý, giàu tình cảm, thương người nghèo (một người thiếu tiền,
phải đợ vợ làm nàng hầu cho vợ Vương lấy chín trăm đồng, Vương hay cho gọi
chồng chị ta lại, bảo dắt vợ về và cứ giữ lấy số tiền). Say đắm lý tưởng, có
chí lớn, có bản lĩnh cao, coi thường thế tục, tự tin lạ lùng. Suốt ngày đêm đọc
sách suy tư trứ tác (khá nhiều), tìm cách cứu vãn quốc gia, không hề quan tâm
tới đời sống hằng ngày chẳng nghĩ tới sự ăn mặc, tắm rửa, óc lúc nào cũng như ở
trên mây, đãng trí lạ lùng: trong một bữa tiệc, chỉ gắp hoài một món đặt trước
mặt mà không đụng tới các món khác, không thay quần áo nếu vợ không nhắc, mặt
mày lem luốc vì cả tuần không rửa. Nhiều người ghét ông, cho là lập dị, giả
dối.
Năm 1058, Vương dâng lên một bức
thư trên vạn chữ cho Nhân Tôn đề nghị biến pháp để cứu vãn quốc gia vì tình
hình rất đáng lo, địa chủ được hưởng nhiều quyền lợi quá, không phải nộp thuế,
không phải phục dịch, còn dân chúng thì nghèo khổ, bị mọi sự áp bức, mà rợ
Liêu, rợ Tây Hạ luôn luôn quấy phá, quốc khố rỗng không. Nhân Tôn thấy tính
tình, cách ăn mặc của Vương kỳ cục, không ưa, không để ý đến bản quốc sách
Vương dâng lên.
Mười năm sau, năm 1068, Vương đã
47 tuổi mới được Thần Tôn trọng tài bác học, phong làm hàn lâm học sỹ, khiêm
chức thị giảng để hầu vua đọc sách, Thần Tôn mới 20 tuổi nhưng có nhiệt tâm cứu
quốc, thường hỏi Vương về chính sách phú quốc cường binh. Lần lần Vương thuyết
phục được Thần Tôn dùng tân pháp ông đề nghị, và năm 1069, Vương nhận ấn tể
tướng để thi hành biến pháp.
Triều đình chia làm 2 phe, phe
vua, Vương gọi là Tân Đảng, được vua tin nhưng ít có người tài, tận tâm, mà lại
có nhiều kẻ vô lại như Lí Định, Đặng Oản.
Phe chống Vương gọi là Cựu Đảng,
cầm đầu là Tư Mã Quang, cựu tể tướng, đại sứ gia, gồm nhiều nhà nho có tiếng
tăm, có đức, có tài, tuy đôi khi hẹp hòi, thủ cựu như Âu Dương Tu, Hàn Kì, hai
anh em họ Tô (Đông Pha, Tử Do), hai anh em họ Trình (Hạo, Di).
Nguồn lợi chính của Trung Hoa là
nông sản, nên mới cầm quyền, Vương An Trạch khuyết trương ngay nông điền, thuỷ
lợi, ông dùng những nhà chuyên môn chứ không dùng những ông cử, ông nghè, bổ
làm thuỷ lợi quan, nên trong 7 năm, diện tích thuỷ lợi tăng lên 36 triệu
mẫu(theo Tống Sử) mỗi mẫu vào khoảng 600 mét vuông.
Ông ghét bọn địa chủ lũng đoạn
tài sản trong nước, một mặt đặt ra những cơ sở kinh doanh để thu lợi cho quốc
gia, giảm cái lợi của đại địa chủ, đại thương gia, một mặt thay đổi chính sách
thuế khoá cho được công bằng hơn, có lợi cho quốc khố hơn.
Ông dùng các biện pháp:
- Phép thanh miêu: mỗi năm 2 mùa,
khi lúa còn xanh (thanh miêu), quan địa phương xem xét tình hình rồi lấy thóc
trữ trong kho (gọi là thường bình sương) cho nông dân vay để chi dùng, tới ngày
mùa, gặt hái xong, nông dân đong thóc trả lại cho nhà nước, thêm 2 ba phân lời
mỗi tháng, địa chủ cho vay thì có khi lãi tới 20 phân mỗi tháng.
Như vậy, số thu nhập của triều
đình tăng lên mỗi năm được 20-30% mà dân nghèo khỏi bị nạn bóc lột.
Chính sách đó rất đúng về lý
thuyết mà thất bại khi đem ra thực hành vì kẻ thừa hành làm bậy. Muốn tỏ ra đắc
lực, nhiều kẻ bắt buộc nông dân phải vay mặc dù họ không cần tiền, cần lúa. Có
nơi nông dân nào cũng phải vay và trả ba chục phân lời trong ba tháng (từ khi
lúc xanh cho tới ngày mùa), không trả nỗi thì bị tịch thu gia sản, bị giam cầm
rồi thừa hành báo cáo láo, nào là dân chúng sung sướng, mang công triều đình,
nào là họ tự nguyện xin vay và luôn luôn trả đủ.
Trái lại, nơi nào mất mùa, dân đói
kém, đáng lẽ họ phải xuất lúa kho ra cho vay thì giữ lại, đem bán chợ đen, nộp
chính phủ một ít, còn bao nhiêu bỏ túi. Thì ra bọn quan lại còn bóc lột hơn bọn
điền chủ nữa, xưa cũng như nay.
Nên kẻ thêm một nguyên nhân thất
bại nữa: sự phá hoại ngấm ngầm của bọn địa chủ mất cái lợi cho vay nặng lãi,
chẳng hạn họ lấy lại ruộng không cho lĩnh canh nữa, nếu tá điền không vay lúa
của họ mà vay của nhà nước.
- Phép thi dịch: Vương sáng lập
ra một cơ quan coi việc buôn bán gọi là thi dịch, triều đình bỏ ra 5 triệu đồng
và 30 triệu hộc lúa làm vốn. Hàng hoá nào mà vì đường giao thông trắc trở, tới
nơi đã trái mùa, bán không được thì cơ quan thi dịch mua hết, trả cho người bán
một giá phải chăng, không đến nỗi bị lỗ, nhà nước tích trữ hàng có lợi đợi lúc
có giá sẽ bán ra lấy lời. Nếu thương nhân không muốn bán đứt cho chính phủ thì
có thể gởi hàng ở thị dịch mà vay tiền, nửa năm là mười phân. Như vậy cũng là
một cách giúp thương nhân, họ khỏi phải bán đổ bán tháo, hoắc phải vay lãi nặng
hơn nhiều.
Biện pháp này bị Cựu đảng đã kích
mạnh nhất, bảo rằng như vậy là nhà nước tranh lợi với dân-tức con buôn-tư nhân
không sao tranh nổi sẽ phá sản. Vả lại chưa chắc vì có lợi cho nhà nước vì nhà
nước phải dùng nhiều nhân viên, trả lương cho họ, mà họ không quen việc buôn bán,
thiệt cho công quỹ, hoặc không siêng năng giữ gìn hàng hoá, có khi ăn cắp nữa,
và mất mát hư hại. Lại thêm cái nạn cậy quyền cậy thế, thấy món nào có lợi thì
mượn tên bà con, hoặc cho bọn tay chân mua để hưởng, món nào không lợi thì bắt
chẹt các thương gia không có vây cánh phải mua. Cái tệ này mấy năm nay chúng ta
điều thấy rõ. Và chúng ta sống 9 thế kỷ sau họ Vương.
-Phép quân thâu: dân khỏi phải
nộp thuế bằng tiền mà nộp bằng sản vật, nhà nước cứ tính theo giá trung bình ở
mỗi nơi mà thu, rồi bỏ vào thường bình sương, như vậy đến vụ nộp thuế, dân khỏi
bán tháo bán đổ để đóng thuế. Nhưng mà bọn thừa hành không có lương tâm thì
cũng dễ bóc lột dân bằng cách chê sản vật là xấu mà định giá quá thấp. Tệ đó
ngày nay cũng không tránh khỏi.
-Phép mộ dịch: thời nào dân cung
phải làm xâu (đào kinh đắp đường....)mà không được công xá gì cả, phải tự túc
về ăn uống, chỉ nhà quan, nhà chùa, đàn bà, nhà độc đinh là được miễn dịch, như
vậy bất công mà có hại cho sức sản xuất của dân vì có khi họ phải bỏ công việc
đồng áng để phục dịch.
Vương đặt ra thứ tiên miễn dịch,
người nào không làm mộ dịch thì nộp một số tiền để nhà nước mướn người làm thay
cho, như vậy thêm công ăn việc làm cho một số dân thất nghiệp. Những người
trước kia được miễn dịch, bây giờ phải nộp tiền trợ dịch.
Biện pháp này làm cho tài chính
nhà nước thêm dồi dào mà lại có tình công bằng. Bọn phú hào được miễn dịch tự
cho là bị thiệt thòi, phản đối.
-Phép phương điền quân thuế: đo
lại ruộng đất cho đúng để đánh thuế cho công bằng.
- Phép bảo giáp: cứ 10 nhà hộp
nhau thành một bảo, có bảo trưởng làm đầu. Nhà nào có hai nam đinh thì phải cho
một nam đinh sung vào bảo giáp để luyện tập võ nghệ, sử dụng khí giới, thay
phiên nhau phòng bị trộm cướp, khi có giặc thì chiến đấu được. Như vậy triều
đình giảm được một phần ba số lính phải trả lương. Dĩ nhiên dân chúng, nhất là
các nhà nho trong Cựu đảng không ưa chính sách Thương Ưởng, Tần Thuỷ Hoàng đó.
-Phép bảo mã: giao ngựa cho dân
nuôi, mỗi hộ một con, để đến lúc chiến tranh thì có ngựa dùng, nuôi 2 con thì
được miễn thuế nhưng ngựa chết thì phải bồi thường.
Hai phép cuối có mục đích cường
binh, năm phép trên có mục đích phú quốc, hết thảy đều bắt người giàu phải gánh
vác chung với dân về thuế má, quốc phòng......
Ngoài ra Vương còn thay đổi khoa
cử. Đầu đời Đường, khoa cử tuy trọng thi phú, nhưng không khinh hẳn những môn
kỹ thuật, chuyên môn: toán, luật, sử, thư pháp......Rồi lần lần, không rõ từ
đời nào, khoa cử chỉ trọng riêng thi phú, và "kẻ sĩ chỉ đóng cửa học làm
thơ, phú đến khi ra đời chẳng biết chút gì cả" Như vậy là khoa cử chỉ làm
hại nhân tài thôi. Âu Dương Tu cũng đã thấy cái tệ đó nên khi làm chánh chủ
khảo ra những đề tài thiết thực về cách trị nước và đề cao lối văn bình dị,
giản minh, ghét lối văn sáo mà rỗng.
Vương An Trạch mạnh bạo hơn, mới
đầu chỉ bỏ thi phú, vẫn còn dùng kinh nghĩa, văn sách để chọn kẻ sĩ, sau bãi bỏ
hẳn khoa cử, lấy những kẻ sĩ ở trong học quán ra làm quan, học xá dạy nhiều môn
thực dụng, chuyên khoa, ai giỏi về khoa nào thì sẽ được bổ dụng tuỳ theo khả
năng. Ở thế kỷ IX cuộc cách mạng văn hoá đó thật lớn, nếu thành công thì có thể
Trung Hoa đã tiến bộ về khoa học, kỹ thuật trước phương tây rồi.
Vương còn có hùng tâm như Vương
Mãng, cùng với Lữ Huệ Khanh chú thích lại Kinh thi, kinh Thư, kinh Lễ (gọi là
Tam kinh tân nghĩa) cho hợp với tân pháp, rồi dâng lên Thần Tôn để ban hành
trong nước, các học quan phải theo bộ đó mà dạy, và khi thi thì theo bộ đó mà
ra đề thi. Di nhiên các nhà Nho trong Cựu đảng cho là giải thích bậy. Chúng ta
không biết Vương giải thích ra sao vì sau khi Vương chết, Tam kinh tân nghĩa
không một bản nào được giữ lại.
6. Tân pháp thất bại - Hai đảng
tranh nhau.
Tân pháp mới thi hành được 5 năm,
thì bị Cựu đảng phản đối mạnh, đại điền chủ và thương gia ngầm phá, mà dân
chúng ngày càng khổ hơn, từng đoàn đói rách bỏ quê hương, kéo nhau lên kinh đô
xin ăn, vua Thần Tôn tuy vẫn tin Vương An Thạch, phải tạm ngưng chức ông (1074)
mà vẫn giữ lại tay chân của Vương là Lữ Huệ Khanh, Tăng Bố.....nghĩa là chưa bỏ
hẳn tân pháp, và năm sau lại phục chức cho Vương.
Trong lịch sử đông và tây, thời
nào cũng vậy khi một nội các không được tin cậy thì người ta nghĩ đến việc lập
một chiến công oanh liệt để làm chủ dư luận, gây lại uy tín. Vương không để cho
lực lượng quốc gia được bồi dưỡng mạnh mẽ, năm 1075 vội đem quân đánh Tây Hạ,
thắng được vài trận nhỏ, nhưng tiêu hao mất 60 vạn quân, và không biết bao
nhiêu tiền của. Thần Tôn ôm mặt khóc bỏ ăn mấy ngày.
Liêu thừa cơ Trung Hoa bị tổn
thương nặng, đòi cắt thêm đất, Vương cắn răng chịu khuất, cắt cho họ 700 dặm ở
Hà Đông, phong trào phản đối nổi lên càng dữ.
Thất bại ở Bắc, Vương quay về
phía Nam, muốn thôn tín Việt
Nam.
Triều đình ta (Lý Thân Tôn) ra tay trước. Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn
quân chia làm hai đạo, một đạo đánh vào hai châu Khẩu, Liêm (Quảng Đông), một
đạo đánh lên Ưng Châu (Quảng Tây), đại thắng, giết hại cả vạn quân Tàu. Năm sau
Tống muốn phục thù, đem quân xâm lăng nước ta nữa. Lý Thường Kiệt lại thắng một
trận oanh liệt, giết hơn một ngàn quân Tống trên sông Như Nguyệt (sông Cầu,
tỉnh Bắc Ninh ngày nay).
Sau trận đó, Vương bị cắt chức tể
tướng, về vườn luôn. Tân pháp vẫn tiếp tục, nhưng kết quả càng tệ, Thần Tôn
buồn rầu chết 1085. Năm sau, Vương An Thạch cũng chết.
Triết Tôn lên nối ngôi mới có 11
tuổi, Thái hoàng thái hậu (vợ của An Tôn, bà nội của Triết Tôn) thính chính,
niên hiệu là Nguyên Hựu. Bà là người tốt, nhưng thủ cựu, bỏ tân pháp, dùng Tư
Mã Hoang trong Cựu đảng làm tể tướng, nhưng cựu đảng uu4ng không cứu nguy được,
mà chia làm ba phe khuynh loát nhau, phe của Trình Di, phe của Tô Thức (Tô Đông
Pha) và phe của Lưu Chi.
Khi Triết Tôn trưởng thành, đích
thân cầm quyền (1093), vốn ghét cựu đảng, lại dùng bọn Lữ Huệ Khanh, Chương
Đôn.....Tư cách Triết Tôn đã tầm thường (hiếu sắc), mà bọn Lữ, Chương không lo
việc nước, chỉ tìm cách diệt Cựu đảng, hoặc đày, hoặc giết các quan lớn nhỏ
trong cựu đảng thời Nguyên Hựu, trước sau trên 800 người, hồ sơ trên 142 quyển.
Mấy chục người tự tử để khỏi bị nhục. Thật là chưa từng thấy trong lịch sử
Trung Hoa. Không còn tranh nhau về chính kiến như thời Vương An Thạch nữa, mà
chỉ lo báo thù riêng thôi. Vì vậy, tân pháp càng thi hành thì nước càng nghèo,
càng suy, triều đình càng chia rẽ.
Triết Tôn chết (1099), em là Huy
Tôn lên, hoàng thái hậu thính chính. Bà là người tốt, dụng cựu đảng trở lại
(Phạm Thuần Nhân......) và muốn điều hoà cả hai đảng mà không được. Huy Tôn có
óc nghệ thuật, chữ đẹp, vẽ khéo(hoa điểu), dâm lạc dẫn theo chính sách của anh.
Chương Đôn tiếp tục thanh trừng cựu đảng, năm 1103 sai dựng ở khắp nơi hàng
trăm tấm bia khắc tên 309 người trong cựu đảng Nguyên Hựu mà người đứng đầu là
Tô Đông Pha. Những người có tên trên bia sẽ vinh viễn bị nhục, hậu duệ dù mấy
đời cũng không được làm quan, hoàng thất không được thông gia với bọn họ. Nhưng
chỉ ba năm sau(1106), có lệnh huỷ bỏ các tấm bia đó khi tân pháp hoàn toàn thất
bại, và hiện nay, ở trên các đỉnh núi cheo leo, có thể còn được vài tấm.
Trong thời quân chủ, lần này là
lần duy nhất có hai chính đảng do vua chỉ định, thay nhau lên cầm quyền, mỗi
đảng có một chính sách rõ rệt, trái ngược nhau.
Tân pháp của Vương An Thạch có
màu sắc chủ nghĩa xã hội, là một thứ tư bản quốc gia, công bằng mà có thể làm
cho nước mau mạnh. Theo nhiều học gia, nó thất bại do nhiều nguyên nhân:
-Dân chúng vốn sợ sự thay đổi vì
có óc bảo thủ, họ ghét nhất là phép bảo giáp, bảo mã.
- Bị cựu đảng đã kích, nhất là
đại địa chủ phá hoại, mà uy thế của hai giới đó rất mạnh.
- Tân pháp thi hành gấp quá,
không chuẩn bị kỹ, không đào tạo đủ cán bộ, không kiểm soát được chặt chẽ, bọn
thừa hành làm bậy và báo cáo láo, một mặt bóc lột dân chúng, một mặt che mắt
triều đình, thành thử lợi cho quốc gia không bao nhiêu mà phí tổn về lương cho
cán bộ rất nặng. Vương đã không tự lượng sức, đánh Tây Hạ mà tiêu hao quân
lính, tiền bạc, sau lại thua Việt Nam, dân chúng càng thấy đảng của ông bất
lực.
Theo tôi còn một nguyên nhân nữa,
Trung Quốc thời đó đất đai quá rộng, tình hình quá suy nhược, tài của Vương
không cứu vãn được. Ông lại quá tự tin, cố chấp, nên những người có uy tín
không chịu hợp tác với ông, mà bọn tay chân của ông hầu hết là nịnh bợ, đầu cơ.
Vương mất rồi, lại trên 800 năm
sau mới có cuộc cách mạng xã hội nữa, lần này là lần thứ tư, và có một chương
trình hấp dẫn, một tổ chức tinh vi, một kỹ thuật hiệu nghiệm, hiện đã đứng vững
được trên ba chục năm, đã thực hiện được một số công trình, nhưng dân vẫn nghèo
khổ, có lẽ còn lâu mới đạt được mục đích.
7. Rợ Kim mạnh lên, chiếm trọn
miền bắc Trung Quốc.
Cầm quyền đã trên 100 năm, nhà
Tống chưa giải được hai cái hoạ Liêu và Tây Hạ thì lại thêm cái hoạ rợ Kim.
Ở hai miền thượng du Hắc Long
Giang có một bộ lạc người Trung Hoa gọi là Nữ Chân (tên này chắc là phiên âm),
cùng một bộ tộc với Mãn Châu. Họ lạc hậu, chất phát, chưa đúc được sắt, mà tính
tình hung hãn. Thế kỷ XI họ lệ thuộc nước Liêu, qua thế kỷ XII họ mạnh lên,
nhân vua Liêu vô đạo, họ cử binh đánh, chiếm được một phần đất của Liêu, năm
1125 đời Tống Huy Tôn, thủ lãnh của họ là A Cốt Đả xưng đế đổi quốc hiệu là Đại
Kim.
Bấy giờ Liêu đương suy. Tống thừa
cơ đánh thì tất thắng, vậy mà Huy Tôn nghe một hoạn quan là Đồng Hoán bài mưu,
muốn mượn sức của Kim, sai sứ qua liên minh với Kim để diệt Liêu. Hai bên ước
với nhau:
* Kim, Tống cùng tiến quân đánh
Liêu, một bên từ Bắc, một bên từ Nam.
* Thành công rồi thì Tống lấy lại
đất Vân, Yên mà Liêu đã chiếm từ đầu đời Tống, đất còn lại thuộc về Kim.
* Tống mỗi năm nộp cho Kim
200.000 lượng bạc và 300.000 tấm lụa.
Vua Kim dẫn ba đạo quân tiến vào
đất Liêu, tới đâu thắng đấy một cách dễ dàng, trái lại quân Tống do Đồng Quán
điều khiển (Tống hết tướng rồi ư?) Thua Liêu luôn mấy trận, sau đánh Yên Kinh
(Bắc Kinh ngày nay) cũng không xong. Quán phải xin Kim giúp sức. Kim hạ được
Yên Kinh rồi hạ luôn mấy kinh đô nữa của Liêu. Vua Liêu mất nước rồi, muốn đầu
Tống, nhưng giữa đường bị Kim bắt được. Liêu vong năm đó là năm 1125 cuối đời
Huy Tôn.
Vậy là chỉ một mình Kim có công
diệt Liêu, Kim viện lẽ đó để yêu sách thêm, bắt Tống mỗi năm phải nộp một triệu
quan làm tiền thuế đất Yên Kinh, rồi mới chịu giao lại đất đó.
Sử gia trách nhà Tống đổi nước
Liêu là kẻ hào hảo với mình trên trăm năm để kết thân với một nước mới hưng
vượng, còn nhiều nhuệ khí. Vì vậy để rước thêm cái hoạ rợ Kim lớn hơn hoạ rợ
Liêu nữa.
Hoạ xảy ra ngay tức thì. Tống
chưa kịp nộp một triệu quan "thuê đất" thì Kim đã đem quân vào đánh,
hãm Yên Kinh, Huy Tôn thấy nguy, mộ thêm quân, nhường ngôi cho thái tử, tức vua
Khâm Tôn (1126). Dân chúng ở kinh đô phẫn uất đòi Huy Tôn phải giết Tướng quốc
Thái Kinh và Đồng Quán vì đã làm cho quốc gia bị suy nhược, bại trận, bị xâm
lược. Huy Tôn phải nghe, rồi trốn giặc xuống Giang Nam.
Chiếm Yên Kinh rồi, giặc Kim hãm
Biện Kinh. Khâm Tôn muốn bỏ kinh đô trốn nữa. Lý Cương giữ chức binh bộ thị
lang, khóc can, nguyện tử thủ xã tắc. Khâm Tôn phải ở lại. Lý Cương tận lực
chống giữ kinh thành, nhưng rồi Khâm Tôn nghe lời tể tướng Lý Bang Ngạn, sai sứ
cầu hoà. Người Kim đòi vàng 500 vạn lạng, bạc 5000 vạn lạng, lụa 100 vạn tấm,
ngựa bò 1 vạn con, và cắt đất Hà Bắc ngày nay. Lại bắt vua Tống phải tôn vua
Kim làm bác, gởi thân vương, tể tướng làm tin mới chịu hoà. Khâm Tôn phải chấp
nhận hết, nhưng chỉ thâu góp của nhân dân được 20 vạn lạng vàng và 400 vạn lạng
bạc thôi.
Dân chúng phẫn uất, quân cần
vương nổi lên, do Diêu Bình Trọng thống suất, đánh trại quân Kim không thắng.
Vua bãi chức Lý Cương để lấy lòng rợ Kim, nhưng mấy vạn dân quê do một thái học
sinh (1) là Trần Đông cầm đầu đến tận cửa khuyết dâng thư xin dùng lại Cương,
và mạt sát tể tướng Lý Bang Ngạn kẻ chủ hoà.
(1) Như học sinh Quốc tử giám đời
sau.
Quân Kim vây Biện Kinh đã được
một tháng, không đợi nổi đủ số vàng bạc, rút về hết. Huy Tôn trở về Biện Kinh.
Ai cũng tưởng hoà nghị đã xong, trên dưới an lòng, không lo phòng bị nữa. Không
ngờ, không đầy một năm, Kim lại đem quân hãm kinh thành. Vua Khâm Tôn phải ngự
tới trại Kim xin hoà nữa. Kim đòi vàng 1.000 vạn lạng, bạc 2.000 vạn lạng, lụa
1.000 vạn tấm, nặng hơn gấp hai lần trước. Khâm Tôn không sao nộp đủ số được,
phải đến nói lại. Kim bàn lập Trương Bang Xương (viên thiếu tể đã qua Kim làm
con tin) làm Sở đế rồi bắt vua Khâm Tôn, thượng hoàng Huy Tôn, thái tử, các hậu
phi và hoàng tộc, tất cả 3000 người, lại cướp vàng bạc, con gái trong thành đem
về bắc (1127). Bọn họ vừa buồn, khổ, vừa không chịu được khí hậu miền Bắc, lần
lần chết hết.
Chưa bao giờ dân tộc Trung Hoa bị
nhục như vậy. Đời Bắc Tống tới đây chấm dứt.
Chúng ta thấy, rợ Kim tiến như vũ
bão, trong có mấy năm chiếm được gần hết miền Bắc (chỉ trừ đất Tây Hạ) chưa có
rợ nào thành công dễ dàng, mau như vậy. Nguyên nhân là đời Tống rất yếu về võ
bị, nhất là dưới triều Huy Tôn, Khâm Tôn, từ vua tới đại thần điều khiếp nhược.
Nhưng cũng có nhiều nhà ái quốc, nhất định chiến chứ không chịu hoà, như Lý
Cương, Diêu Bình Trọng, Trần Đông (đời sau Nam Tống có Thục Thi còn anh hùng
hơn nữa) và dân chúng đứng về phe họ, rất ghét rợ Kim, chúng ương ngạnh, tham
lam, tàn bạo, tới đâu chỉ lo chiếm ruộng đất, cướp bóc của cải để hưởng. Bất kỳ
người Kim nào cũng là công dân hạng nhất, được miễn mọi thứ thuế, chỉ phải tòng
quân thôi. Chúng có quyền chiếm bao nhiêu đất thì chiếm, chẳng kể là đất công
hay đất tư, thành thử chủ điền và nông dân Trung Hoa đều ghét chúng, lần lần
toàn dân Trung Hoa đoàn kết thành một mặt trận duy nhất để chống Kim. Đó là
nguyên nhân khiến cho Kim sau này sẽ sụp đổ rất mau.
Lại thêm, khi đã chiếm được Biện
Kinh, chiếm được hết đất cát, của cải rồi, chúng tranh giaàh, chém giết lẫn
nhau. Mà chúng cũng không như các rợ khác, thoả thuận với một phần dân Trung
Hoa để được phần đó hợp tác với chúng. Trước sau, chúng chỉ là một bọn xâm
lăng, một bọn cướp.
1. Cao Tôn lên ngôi, dời đô xuống
Nam.
Chiếm được kinh đô, bắt hết được
hoàng tộc của Tống rồi, Kim rút quân về sau khi lập Trương Bang Xương làm Sở
đế, chứ không chiếm hết luôn giang sơn của Tống vì Kim thiếu quân, thiếu người
để cai trị và biết rằng người Hán không chịu hợp tác với họ, cứ để cho Tống làm
một nước đàn em mỗi năm nộp cống vàng, bạc, lụa và hễ có dịp thì bắt cắt thêm
đất, như tằm ăn dâu mà lại hơn.
Quần thần và dân chúng không phục
Trương Bang Xương, ông ta biết thân phận khó làm bù nhìn được, nên mời bà phế
hậu của Triết Tôn (lúc đó đã về ở với cha mẹ nên không bị Kim bắt) ra dự bàn
việc nước, rồi cùng tôn một thân vương lên ngôi ở Quý Đức (Hà Nam ngày nay) tức
vua Cao Tôn.
Cao Tôn mới đầu cũng muốn khôi
phục lại các đất đã mất, nên dùng lại Lý Cương, vị danh thần đã tận lực chống
giữ kinh thành, nhưng rồi nghe lời bọn gian thần chủ hoà, bãi Lý Cương mà chỉ
nghĩ đến việc bôn đào, dời xuống Dương Châu, sau cùng đóng đô ở Lâm An (Hàng
Châu, tỉnh Triết Giang ngày nay), từ đó sử gọi là Nam Tống.
2. Tống, Kim ghìm nhau
Xuống miền nam, nhà Tống còn kéo
dài thêm được trăm rưỡi năm nữa, một trăm rưỡi năm không vẻ vang chút nào cả.
Thời Nam Tống là thời Tống và Kim
ghìm nhau, không nước nào quyết tâm diệt nước kia cả, Kim vì lẽ tôi mới trình
bày ở trên, Tống vì sáu, bảy ông vua đều tầm thường nếu không nhu nhược thì do
dự, nghe lời bọn đại thần chủ hoà, làm lơ trước sự phẫn nộ, thoá mạ của dân
chúng, chỉ muốn rửa cái nhục mất nước, tệ hơn nữa, có vua như Cao Tôn còn để
cho gian thần hãm hại tôi trung nữa, y như triều Tự Đức ở nước ta khi bị Pháp
xâm chiếm. Thực ra họ cũng muốn khôi phục những đất đã mất, muốn khỏi phải nộp
thuế cho Kim đấy, nhưng nhút nhát không dám.
Thành thử cả hai bên đều chờ cơ
hội, hễ thấy địch suy yếu hoặc chia rẽ nội bộ thì đem quân đánh, đánh mà thua
thì xin hoà, chịu bỏ ít nhiều quyền lợi, nếu thắng thì yêu sách, đòi thêm quyền
lợi, bạc, lụa, đất đai (trường hợp Kim), hoặc đòi rút bớt thuế hàng năm, trả
lại ít đất đã chiếm (trường hợp Tống).
Trước sau ba bốn lần đánh rồi
hoà, hoà rồi đánh như vậy. Xét chung thì Kim vẫn lấn Tống dần dần, Tống vẫn mất
đất thêm. Chép lại những cuộc chiến nho nhỏ đó là điều vô ích, tôi chỉ kể qua
ba hoà ước Tống ký với Kim.
* Cao Tôn (1127-1162) vì nghe lời
gian thần Tần Cối kẻ nhất định chủ hoà (coi ở dưới) nên 1141, kí hoà ước với
Kim chịu Kim phong chức cho ( nghĩa là chịu xưng thần với Kim) Khang Vương phải
cắt đất ở phía Bắc Hoài Thuỷ và Đại Tán Quan nhường cho Kim, mỗi năm phải nộp
25 vạn lạng bạc và 25 vạn tấm lụa cho Kim. Kim cho chở quan tài của Huy Tôn và
Thái Hậu về Tống.
* Hiếu Tôn (1163-1189) năm 1165
định lại hoà ước, gọi vua Kim bằng chú, số tiền hằng năm tế tuệ phải nộp được
giảm,bạc, lục mỗi thứ 50 vạn chỉ còn 20 vạn, địa giới như cũ. Lần này Tống
không thắng nhưng Kim cũng nhường một chút.
* Nhưng đến năm 1208, đời Minh
Tôn (1196-1224), Tống thấy Kim có nội loạn đem quân đánh, chẳng dè thua to,
phải xin hoà, tăng tuế tuệ lên 30 vạn lạng bạc, 30 vạn tấm lụa.
Vậy trước sau Tống vẫn bị áp bức,
mất thêm đất, thêm tiền, và chỉ còn giữ được lưu vực sống Dương Tử với vài tỉnh
giáp biển ở miền Nam
(coi bản đồ trang 321 tập một).
3. Phe chủ chiến.
Dân chúng bất bình nhất về hoà
ước 1141. Lần đó Kim đưa binh vào đánh quyết lấy Hà Nam, Thiểm Tây. Ba tướng Tống là
Lưu Kỳ, Hàn Thế Trung, Nhạc Phi hết sức kháng chiến. Anh hùng nhất là Nhạc Phi,
ông rất phẫn uất vì rợ Kim xăm vào lưng bốn chữ "Tinh trung (nghĩa như tận
trung) báo quốc". Ông khéo khuyến khích tướng sĩ, giữ quân luật nghiêm
minh, đánh bại được Kim nhiều trận, người Kim rất sợ, đã núng thế, muốn xin hàng.
Nhưng tại triều có Tần Cối trước bị Kim bắt về phương Bắc, rồi được vua Kim thả
ra, cho về với Cao Tôn làm nội ứng, không hiểu sao Cao Tôn dùng hắn làm tể
tướng. Hắn nhất định chủ hoà, Cao Tôn nghe theo. Nhạc Phi đang hăng hái đuổi
quân Kim gần tới Biện Kinh thì một ngày liên tiếp nhận được 12 đạo kim bài (tín
bài bằng vàng) triệu về. Nhạc Phi ức quá, khóc: "Công mười năm, một sớm
phải bỏ cả", rồi hạ lệnh lui binh, nhân dân níu ngựa ông lại, chùi nước
mắt, vang ông ở lại. Tướng ở chiến trường có quyền không tuân lệnh triều đình,
ông quá trung với vua mà không báo quốc được, thật đáng hận biết bao. Về tới
triều đình, ông bị Tần Cối bỏ ngục liền rồi chẳng xử tội gì cả, giết ông. Có
sách chép là thắt cổ ông. Đời ông được đời sau chép trong truyện "Nhạc Phi".
Hiện nay ở Hàng Châu, kinh đô Nam Tống, còn một ngôi đền lộng lẫy thờ ông. Quỳ
trước mộ ông là hai tượng bằng sắt, tức vợ chồng Tần Cối. Cửa đền có đôi câu
đối:
Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt
Bạch cốt vô cô chú nịnh thần
Nghĩa là:
Núi xanh may mắn được chôn xương
bậc trung quân
Sắt trắng vô tội mà phải đúc bọn
nịnh thần
Thời đó khiếp nhược chủ hoà đầy
triều đình nhưng hạng anh hùng cũng đông, quyết sống mái với Kim. Trước Nhạc
Phi, Hàn Thế Trung có Lý Cương (đã chép ở trên), Diêu Bình Trọng đốc suất quân
cần vương đánh trại quân Kim. Tôn Trạch chiêu mộ nghĩa sĩ và hảo hán bốn
phương, tích trữ lương thực đủ dùng trong 6 tháng, quyết ý chống với giặc,
nhưng Cao Tôn không cho, ông buồn hận mà chết......
Về cuối đời Nam Tống còn nhiều
anh kiệt hơn nữa, tôi sẽ chép ở sau.
4. Các đảng nghĩa quân.
Dân chúng tinh thần cũng rất cao,
vì thâm oán Kim cướp đất của họ, ngạo mạn, hách dịch.
Ngay từ 1121(gần đời Huy Tôn) đã
có một bạo động mà người cầm đầu là Tống Giang căn cứ địa là Lương Sơn Bạc (ở
Sơn Đông ngày nay), khẩu hiệu là "Thế thiên hành đạo" chống lại triều
đình, quan quân phải sợ, thanh thế rất lớn, khu vựa hoạt động rộng, từ Sơn Đông
tới Hà Bắc, dân chúng theo rất đông, đủ các giới từ quan lại nhỏ, quân dân,
nông dân, ngư dân, nhà sư, tiểu thương..........Cuộc bạo động đó được nhân gian
truyền khẩu cho nhau nghe, sau một nhà văn đời Minh, Thi Nại Am chép lại trong
bộ kiệt tác Thuỷ Hử mà hồi nhỏ chúng ta say mê đọc.
Từ đó cuối đời Nam Tống, không
biết có bao nhiêu cuộc nông dân nổi dậy, vạch tội triều đình, bỏ đất, bỏ dân,
chống lại quân Kim, nhỏ thì dăm ngàn, lớn thì hàng vạn, có khi cả chục, cả trăm
vạn người như đảng "Bát Tự Quân" mà khẩu hiệu là tám chữ (bát tự) xăm
trên mặt: "Xích tâm báo quốc, thệ sát Kim tặc", đảng "Hồng cân
quân" đội khăn đỏ, thường đánh du kích quân Kim.
Những đảng nghĩa quân đó không
tỉnh nào không có, y như nước ta hậu bán thế kỷ trước. Giá triều đình Tống biết
giúp đở họ một chút và khuyến khích họ thì quân Kim chắc phải trả lại Biện Kinh
mà rút về phương Bắc.
5. Phong trào học sinh dâng thỉnh
nguyện.
Một điểm đáng ghi nữa, rất mới
trong lịch sử Trung Hoa là đời Nam Tống có phong trào học sinh đại diện cho dân
dâng thỉnh nguyện lên vua. Người đầu tiên có lẽ là Thái học sinh Trần Đông cầm
đầu mấy vạn dân quê lại cửa khuyết xin vua Khâm Tôn dùng lại Lý Cương như trên
tôi đã chép. Rồi hò hét, chửi rủa Bang Ngạn khi hắn vô triều. Triều đình sợ
binh biến, miễn cưỡng chấp nhận hết thỉnh nguyện của dân, vậy mà mấy chục tên
nội thị cũng bị dân chúng hành hung cho tới chết.
Từ đó học sinh ở nhiều nơi khác
noi gương, cũng dâng thỉnh nguyện "thu phục đất đã mất", tổ chức nhân
dân võ trang", "khai phóng ngôn luận", phong trào đó nổi lên là
do đạo học sinh đời Tống phát triển, học sinh chịu ảnh hưởng của họ Trình, họ
Chu (coi tiếp sau)
Đời Hiến Tôn (1163) thái học sinh
trường Quán gồm 72 người dâng thư đòi chém bốn đại thần chủ hoà. Họ không có
hậu thuẫn của dân chúng mà yêu sách hăng quá, triều đình phản ứng mạnh, cấm làm
việc dâng thư ở cửa khuyết.
Đời Lí Tôn, khi Mông Cổ xâm lăng
(1235) tất cả trường Thái học (như Quốc Tử giám đời sau), Vũ học (dạy võ bị),
Kinh học (dạy các kinh của lão Nho, Lão.....) nối tiếp nhau bài khoá, dâng thư
đòi đuổi bọn đại thần hại dân hại nước, bị triều đình đàn áp. Lần đó là lần
cuối, phải đợi tới cuối đời Thanh, hạng thanh niên trí thức Trung Hoa mới lại
đóng vai trò như vậy.
Bản đồ Trung Hoa thời Nam Tống
Tống, Kim đều suy
Sự ghìm nhau của Tống và Kim đến
cuối thế kỷ XII đã giảm đi ít nhiều. Tống cắt thêm ít đất cho Kim, Kim rút bớt
tiền nộp mỗi năm cho mươi vạn, hai bên đều xưng đế, vua Tống gọi vua Kim là
chú, nghĩa là vẫn tự nhận là nước phụ dung của Kim. Sở dĩ vậy vì cả hai bên đều
suy rồi.
Kim suy vì quốc gia đã phong kiến
hoá, nhân dân đã Hán hoá, họ mô phỏng theo chữ Hán mà tạo ra một thứ chữ riêng,
mở trường học, đã có một số người thông ngũ kinh, tứ thư, làm thơ văn như người
Hán, vốn lại là bớt hung hãn.
Tống suy vì dân chúng thất vọng,
cứ phải đóng thuế mỗi năm một nhiều, nỗi lên cướp bóc, trong lịch sử chỉ thấy
ghi: "Tứ Xuyên nhiều giặc", "Giang Tây nhiều giặc"....đâu
đâu cũng có giặc.
Trong khi đó thì mọi rợ ở phía
Bắc Hắc Long giang, rợ Mông Cổ, thịnh lên rất mau và như một cơn lốc, tới đâu
quét sạch tới đó, mới đầu diệt Kim, sau diệt Tống, sự tranh chấp giữa Tống, Kim
do đó mà chấm dứt.
Mông Cổ mạnh lên.
Rợ Mông Cổ tự xưng là giống Thát
Đát, gồm nhiều bộ lạc Hung nô, Thổ (Đột Quyết), Mông Cổ (nhiều nhất), sống bằng
du mục, ở thế kỷ XI mà vẫn như rợ Hồ ở đầu đời Hán, có hàng triệu con ngựa cứ
mùa đông miền Bắc cỏ chết hết thì dời xuống miền Nam rồi đến mùa hè lại trở lên
miền Bắc. Họ ở liều, thức ăn chính là thịt và sữa ngựa, săn bắn và chiến đấu
với các rợ khác, rất giỏi phi ngựa bắn cung, hung hãn, tàn bạo.
Thế kỷ XII họ lệ thuộc nước Kim,
học được của Kim những chiến thuật mới. Có một sự trùng diễn ngẫu nhiên của
lịch sử: Kim trước lệ thuộc Khiết Đan, bị một vua Khiết Đan tàn bạo, đàn áp quá
mà nổi loạn, diệt được Khiết Đan, thì Mông Cổ cũng bị Kim ức hiếp quá mà qua
thế kỷ XIII đánh lại Kim, Kim thua nhiều trận phải cắt đất, nộp bò, dê, đậu,
gạo....., phong cho tù trưởng Mông Cổ tước vương, họ không thèm nhận, tư xưng
là Đại Mông Cổ quốc.
Đến đời Thiết Mộc Chân
(Témoudjie, Thái Tổ nhà Nguyên) Mông Cổ lại càng mạnh, diệt được nhiều bộ lạc ở
Tây Vực, năm 1206 lên ngôi Đại Hãn (Hoàng đế). Hiệu là Thành Cát Tư Hãn (Genges
Khan).
Năm 1210 Thành Cát Tư Hãn lại
đánh Kim, chiếm được Tây kinh của Kim, Kim lại xin hoà, nộp vàng lụa, phụ nữ và
dâng một công chúa cho Thành Cát Tư Hãn làm thiếp. Mông Cổ rút quân về để
chuyển qua đánh phía Tây, chiếm được miền Tây Vực, thẳng tiến tới bờ phía bắc
Hắc Hải, chiếm hết các nước lớn nhỏ trên đường hành quân, cuối cùng là Kiev của
Nga. Sử chép rằng họ tới đâu thắng tới đó như vào chỗ không người vì họ tàn
bạo, khát máu vô cùng, hễ thành nào chống cự lại thì họ sang phẳng, giết hết
dân, không chừa một đứa con đỏ, sọ người chất cao như núi, điều đó đúng nhưng
không phải chỉ vì vậy. Theo nhiều sử gia châu Âu gần đây thì Mông Cổ rất giỏi
về chiến thuật, không một nước châu Âu nào thời đó bì kịp; trước khi tấn công
họ chịu tìm hiểu kỹ tình hình chính trị của địch, địa thế, sức mạnh của địch,
có lẽ họ biết dùng súng nữa mà Trung Hoa thời đó đã chế tạo được.
Tới Nga rồi, Thành Cát Tư Hãn trở
về Trung Hoa đánh Tây Hạ, chưa xong thì chết. Tây Hạ hàng (1227). Thành Cát Tư
Hãn chia những đất đã chiếm được cho bốn con, lập thành bốn hãn quốc.
Bọn nối ngôi đó sau còn Tây tiến
hai lần nữa; lần thứ nhất chiếm Hồi Quốc, Đông Âu, Nhật Nhĩ Man......(1234),
lần thứ ba chiếm Tây Bộ Á Tế Á (1251). Tôi chép lịch sử Trung Hoa nên không ghi
lại dù vắn tắt những chiến công đó của họ; chỉ xin nói qua rằng khi họ chiếm
được trọn Trung Hoa vào khoản năm 1280 thì đế quốc của họ - đế quốc của Mông
Cổ- lớn nhất trong lịch sử cổ kim.
Việc chiếm trọn Trung Quốc là
công của Oa Hoạt Đài (con của Thành Cát Tư Hãn) và Hốt Tất Liệt (Khoi Lai Khan)
tức Nguyên Thái Tổ.
Oa Hoạt Đài (1) (Ogodei) đem quân
đánh Kim, vây Biện Kinh 16 ngày không lấy được. Mông Cổ sai sứ vào xin Tống
(vua Lí Tôn) hợp binh đánh Kim. Vua tôi nhà Tống muốn thừa diệp đó, diệt Kim để
rửa nhục, mà quên rằng trước kia Tống giúp Kim diệt Liêu, sau bị Kim phản, trở
lại hại Tống. Lần này cũng vậy, Tống giúp Mông Cổ diệt Kim (vua Kim phải tự ải
- có sách nói nhảy vào lửa chết năm 1234) rồi cũng bị Mông Cổ phản trở lại hại
Tống.
Kim làm chủ miền Bắc 120 năm, khi
bị diệt, xin Mông Cổ trở về Mãn Châu sống đời du mục trở lại dưới quyền của
Mông Cổ và tới thế kỷ XVI, họ mới trở lại làm chủ Trung Quốc, với tên Mãn
Thanh.
Sau đó Oa Hoạt Đài đánh Cao Li ở
phía Đông, Hốt Tất Liệt đánh Vân Nam, Thổ Phồn, Nam Chiếu ở phía Tây và Nam.
Năm 1260 Hốt Tất Liệt lên ngôi,
tức vua Thế Tổ nhà Nguyên, năm 1264 dời đô từ Karakorum lại Yên Kinh (Bắc
Kinh), năm 1268 vây Tương Dương, Tương Dương cố thủ 5 năm rồi mất (1273). Thế
của Tống lúc này rất nguy. Đầu đời Cung đế, năm 1275 Mông Cổ đem quân theo
Giang Đông tiến xuống, thừa tướng Tống là Giả Tự Đạo sai hai viên tướng đốc
suất 13 vạn tinh binh, 2500 thuyền chiến cự địch, nhưng chưa xáp chiến quân
Tống đã vỡ, Tống mất liên tiếp các đất Lưỡng Bồ, Kiến Khang, Trấn Giang, Thái
Bình, Dương Châu, rồi Lâm An bị bức. Cung đế chiêu mộ quân cần vương. Văn Thiên
Tường và Trương Thế Kiệt hưởng ứng, bàn kế chặn địch, nhưng tể tướng là Trần
Nghi Trung chỉ muốn hoà, ba lần sai sứ xin nhường đất để Mông Cổ lui binh, lần
cuối cùng chỉ xin giữ một tiểu quốc để tế tự, mà cũng bị cự tuyệt. Triều đình
khiếp nhược như vậy mà dân chúng thì quyết chiến. Theo Will Durant trong sách
đã dẫn, thì ở "Juining-fu" một vị thủ lãnh cố cầm cự cho đến khi tất
cả những người già cả, các người tàn tật bị người trong thành ăn thịt hết, còn
các người khoẻ mạnh thì chết vì chiến tranh hết, chỉ còn lại đàn bà để giữ
thành, lúc đó ông mới cho nỗi lửa đốt thành và ông chết thiêu trong dinh của
ông.
(1) có sách ghi là A Hoạt Đài
Tống vong tam kiệt
Quân Mông Cổ vào được Lâm An, bắt
được Cung đế, thái hậu và mấy ngàn người đưa lên phương Bắc (1276)
Bọn di thần là Lục Tú Phu (tể
tướng), Trương Thế Kiệt tôn vua Đoan Tôn lên ngôi, đưa xuống Phúc Kiến. Văn
Thiên Tường đốc suất nghĩa quân chống Mông Cổ, mấy lần đều thua.
Năm 1277 Trương Thế Kiệt dắt Đoan
Tôn xuống Quảng Đông, năm sau Đoan Tôn chết ở Can Châu (Quảng Đông). Văn Thiên
Tường, Trương Thế Kiệt và Lục Tú Phu lại lập em là Quảng Vương lên thay, đưa ra
đảo Nhai Sơn (Quảng Đông). Mông Cổ bắt được Văn Thiên Tường rồi, tiến đánh Nhai
Sơn. Không thể chống cự được nữa. Lục Tú Phu cầm kiếm xua hết cả vợ con phải
gieo mình xuống biển, rồi cõng vua nhảy xuống theo (1279). Theo một học giả
Nhật là Trung Sơn Cửu Tú Lang làm thống kê thì số trung thần nghĩa sĩ tử tiết
là 274 người. Có người còn bản rằng hàng trăm người Trung Hoa noi gương đó cũng
tự trầm mình chứ không chịu hàng Mông Cổ.
Trang sử cuối cùng của nhà Tống
đó bi thảm nhất mà cũng vẻ vang nhất. Có thể nói là trang sử vẻ vang duy nhất
của triều đình nhà Tống.
Văn Thiên Tường bị bắt về Yên
Kinh, Trương Thế Kiệt vẫn chưa tuyệt vọng, dò đường thuỷ qua Việt Nam, mưu sự
khôi phục. Nhưng giữa đường gặp bão, thuyền chìm, chết.
Văn Thiên Tường bị giam bốn năm ở
Yên Kinh, Hốt Tất Liệt dụ dỗ ông, ông nhất định không chịu nhận uy quyền của
vua Nguyên. Tôi chép lại dưới đây đoạn Will Durant khen khí tiết của ông.
"Trong một đoạn văn vào hàng
nổi danh nhất của Trung Hoa, Văn Thiên Tường viết: "Ngục của tôi chỉ có
hai con ma trơi chiếu sáng, không một ngọn gió nào thổi vào chỗ tối tăm, tịch
liêu này cả.....Sống trong sương mù và trong không khí ẩm thấp, tôi thường nghĩ
rằng sắp chết tới nơi, vậy mà trọn hai năm, bệnh tật hoài công lảng vảng chung
quanh tôi. Riết rồi tôi thấy cái ngục nền đất ẩm thấp, hôi hám này là một cảnh
thiên đường. Vì thế mà tôi giữ vững được ý chí, ngắm mây trắng trôi trên đầu mà
lòng buồn mênh mông như vòm trời vậy"
"Sau cùng Hốt Tất Liệt sai
người dẫn ông tới trước mặt mình hỏi: "Ngươi muốn gì" Văn Thiên Tường
đáp: "Thiên Tường này đội ơn nhà Tống mà được làm tể tướng thì sao có thể
thờ hai nhà được, ta chỉ xin được chết thôi". Hốt Tất Liệt chấp nhận. Khi
lưỡi búa của tên đao phủ hạ xuống, ông quay mặt về Nam Kinh, như thể vua Tống
còn ở đó, mà vái dài".
Will Durant chê hành động đó của Hốt
Tất Liệt là "man rợ". Mấy hàng "nổi danh nhất" của Văn
Thiên Tường. Will đã dẫn ở trên ít người được biết, nhưng bài chính khí ca của
ông "tráng liệt như cầu vồng vắt ngang trời, mỗi lần ngâm lên thấy máu sôi
trong lòng", nghe như một bài tiến quân ca, thì nhà nho Trung Hoa, Việt
Nam thời xưa không ai không thuộc nó các vị như Phan Đìng Phùng, Hoàng Diệu,
Nguyễn Trung Trực......của ta tất đã nhiều đêm vung bảo kiếm, nhìn ngân hà mà
ca:
Thiên địa hữu chính khí
Tạp nhiên phú lưu hình
Hạ tắc vi hà nhạt
Thượng tắt vi nhật tinh......
(Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dưới đất là sông núi
Trên trời là nhật, tinh......)
Bài đó tôi đã trích dịch trong
Đại cương văn học sử Trung Quốc, cuốn III, trang 58
Văn Thiên Tường, Trương Thế Kiệt,
Lục Tú Phu được đời sau gọi là Tống vong tam kiệt (Ba hào kiệt thời Tống mất
nước) . Có ba vị đó với Nhạc Phi, Tống cũng đỡ tủi.
Đế quốc Mông Cổ thế kỉ XIII
1. Nông nghiệp.
Chúng ta đã biết thời đầu nhà
Tống, cũng như mọi thời đầu của các nhà khác (Hán, Đường) nông nghiệp phát
triển nhờ chính sách phát ruộng cho dân và nhờ dân được yên ổn làm ăn. Còn
nhiều nguyên nhân nữa; công việc thuỷ lợi, đào kinh, đắp đê ở hạ lưu sông Dương
Tử phát triển, người ta biết dùng những giống lúa mới thứ lúa sớm ở Chiêm Thành
- (Theo Lombard)- và mỗi địa phương chuyên trồng một vài loại, số thu hoạch
tăng lên, dân số tăng theo.
Nhưng vì chính sách thuế má bất
công, dân nghèo thì phải đóng góp nhiều, kẻ giàu thì được miễn nhiều thứ thuế
mà lại giỏi trốn thuế, nên kẻ nghèo càng nghèo, người giàu càng giàu, nhất là
thuế mỗi ngày một tăng, nên dân chúng đói quá phải nổi loạn, mỗi khi lụt hoắc
mất mùa. Như 1075, ở Hồ Châu lụt, mùa màng hư hết, nữa triệu người chết đói,
mặc dù triều đình đã phát chẩn 1.250.000 hộc lúa cho dân nghèo.
Nạn đói vì thiên tai là nạn lớn
nhất của dân Trung Hoa. Có người đã làm thống kê thấy rằng trong 2.300 năm từ
thế kỷ thứ VIII trước T.L tới cuối đời nhà Minh, chỉ có 720 năm là Trung Hoa
không bị thiên tai còn những năm khác, trước sau họ bị 1057 cơn nắng hạn và
1030 vụ lụt, ấy là chưa kể nạn chiến tranh. Tân Pháp của Vương An Thạch có thể
làm cho quốc khố khá hơn nhưng dân chúng lại khổ hơn: từng đoàn người đói rách
rời bỏ quê hương, kéo lên kinh đô xin ăn, khám đường nhiều nơi chật những người
thiếu thuế. Tô Đông Pha trong cựu đảng chán nản, lấy làm xấu hổ rằng giới sĩ
như ông đọc biết bao nhiêu sách mà không tìm được một phương cứu đói cho dân
được.
Giới đại điền chủ trái lại vẫn
sống trong cảnh xa xỉ. Theo Eberhard, cuối Nam Tống (đời Độ Tôn), một người tên
là Kia Sseo-tao, em một quý phi, có địa vị khá ở triều, đề nghị triều đình hạn
chế số ruộng đất tối đa mà mỗi người được có, quá số đó phải bán cho nhà nước,
nhà nước mua rồi di dân lại cho làm, để thu thuế. Ông áp dụng ngay vào miền
phía nam của Nam Kinh, nơi các đại thần có nhiều ruộng đất, nhưng bọn đại địa
chủ giết ông và chính sách đó phải bãi bỏ (1295)
2.Công Nghiệp
Có ba ngành phát nhất
a. Nuôi tằm, dệt lụa Tô Châu, gần
Hàng Châu có nhiều xưởng dệt dùng cả ngàn người thợ.
b. Thuật in phát sinh trong các
tu viện (Phật Giáo và Đạo Giáo) để in hình phật, bùa chú....rồi tới thế kỷ IX,
X mới phát triển ở ngoài đời từ Tây Tứ Xuyên xuống đến hạ lưu sông Dương Tử:
lịch, sách coi số, từ điển nho nhỏ. Giữa thế kỷ thứ X mới xuất hiện những kinh,
thư của Khổng giáo in bằng mộc bản do lệnh của triều đình, trước đó người ta
phải dùng giấy vỗ lên các tấm bia bằng đá rất hiếm, chỉ có ở kinh đô. Từ 960,
người ta in nhiều kinh phật. Cũng vào khỏan đó đã có người dùng hoạt tự bằng
đất nung, gỗ hay thiếc, nhưng phải dùng khỏan 7000 chữ, rất bất tiện, mà in như
vậy ko đẹp, nên thuật đó lần lần không ai dùng.
c. Đáng kể nhất là đồ gốm, đồ sứ.
Đồ sứ đạt đến tuyệt đích ở đời tống và nổi danh khắp thế giới.Có rất nhiều lò ở
khắp nơi. Tại Bắc là lò Định Châu, Từ Châu, tại Trung Nguyên là lò Nhữ Châu,
Quân Châu.......tại Nam là lò Long Tuyền (nổi danh nhất), Tu Hội.....
Đồ sứ là những đồ gốm gần như pha
lê, khoáng chất dùng là cao lãnh (kaolin) và một thứ thạch anh trắng gọi là
"bạch đôn tử"(quartz). Người ta nặng thành đồ, phủ lên một lớp men
trắng rồi mới bỏ vô lò nung, có khi người ta vẽ, sơn lên men rồi nung lại. Có
những người thợ chuyên môn vẽ hoa, loài vật, phong cảnh, tiên, thánh.....
Các nhà chuyên môn, sành nhất về
đồ sứ cho rằng không đồ sứ cổ nào hơn được đời Tống; đời Minh, Thanh điều kém.
Từ vua tới dân ai cũng thích đồ sứ, nó tràn ngập trong nước: chén, dĩa, bình,
vại, chúc đài, bàn cờ.......Lần đầu tiên người ta thấy xuất hiện những đồ sứ
xanh như ngọc thạch, gọi là Đồng Thanh(céladon)(1) (mà bao lâu nay các nhà đồ
gốm vẫn ước ao chế tạo )được, còn các nhà sưu tập đồ cổ thì tranh nhau mua. Vua
Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư đều sưu tập nó. Những đồ sứ màu huyết bò hoặc trắng
tinh (Bạch ngọc)cung rất quý. Nghề làm đồ gốm lang qua Nhật, Việt Nam, Xiêm nhưng
nghệ thuật kém xa.
Cũng gọi là Long tuyền diêu (diêu
mới đầu chỉ các lò nung đồ sứ,sau chỉ các đồ sứ) còn có tên nữa là Tống
ngọc(ngọc đời Tống)
3.Thương Mãi.
Rất phát đạt. Bọn thương nhân họp
nhau lại, càng ngày càng mạnh lên. Ngay giới quan lại lớn nhỏ cũng muốn kết
thân, làm thông gia với họ và hùn vốn với họ làm ăn. Thời nào cũng vậy, hễ phú
thì thành quý.
Nội thương phát triển nhất ở miền
lưu vực sông Dương Tử và miền Nam nhờ sông đó đưa lên tới Tứ Xuyên được, mà hạ
lưu lại rất nhiều kinh rạch thuận lợi cho sự chở chuyên. Cũng nhờ lưu vực đó
phong phú nữa.
Ngoại thương phát đạt nhất ở miền
bờ biển từ Phúc Kiến đến Quảng Đông. Các vua Tống rất quan tấm đến việc thông
thương đường biển, khuyến khích các nước Nam Dương đến mua bán. Trung Quốc đã
có những thuyền lớn chở được ngàn người, trọng tải 300.000 (cân khoản 150 tấn),
và dùng la bàn để chỉ phương hướng, nhờ vậy mà thương thuyền đi biển khá nhiều,
phía Đông đến Nhật Bản, Cao Li, phía Nam đến Chiêm Thành, quần đảo Nam Dương,
phía Tây đến Ấn Độ, Ba Tư. Trong số người ngoại quốc đến buôn bán ở Trung Quốc
thì người Ả Rập đông nhất, vì Hồi giáo được truyền bá ở Trung Quốc nhiều hơn
các tôn giáo khác (trừ Phật giáo), người Nam Dương theo Hồi giáo đến Trung Quốc
cũng đông, họ bán hương liệu, ngà voi, tê giác, đồi mồi, san hô, các đồ châu
báo, và mua trà, tơ lụa, đồ sứ, sơn, vàng, bạc, đồng, thiếc. Ở Quảng Châu,
Tuyên Châu, Lưỡng Chiết có đặt những ti Thị bạc để thu thuế quan. Đời Huy Tôn
(đầu thế kỷ XII) số thuế thu được lên đến 10.000.000 quan tiền. Theo Eberhard
thì giữa thế kỷ XII, số thuế ngoại thương bằng 7% số lợi tức quốc gia (không kể
thuế đất ruộng), ngang với số thuế đánh vào trà, mà kém số thuế đánh vào rượu :
36%, vào muối 50%.
Để tăng lợi tức, chính phủ mở rất
nhiều khách sạn và ti bán rượu.
Các thương nhân họp nhau lại lập
các thương hàng, tập hợp lại thành khu vực, các thương nhân đồng nghiệp (cùng
bán một loại hàng) đoàn kết với nhau để định giá, độc chiếm, lũng đoạn thị
trường.
Đời Tống (thế kỷ XII) dùng bốn
thứ tiền: Tiền đồng, tiền sắt, tiền bạc, tiền giấy, làm thiệt hại dân chúng rất
nhiều. Nguyên là do thời Bắc Tống ở khu vực Tứ Xuyên, tiền sắt chuyên chở khó
khăn, mới tạo ra một thứ tiề giấy gọi là giao tử. Một giao tử ăn một quan, ba
năm đổi một lần, giao cho nhà giàu biện lý, đến đời Nam Tống trở thành một thứ
tiền giấy quốc gia phát hành. Số tiền thời đó là 10 triệu quan.
4.Đời sống thành thị
Thương mãi phát đạt thì thị trấn
thành thị cũng phát triển. Trung tâm kinh tế đã từ miền Bắc chuyển xuống miền Nam. Kinh đô đã
không còn ở trung lưu sông Hoàng Hà nữa; nó từ Trường An chuyển lại Lạc Dương,
rồi từ Lạc Dương đến Biện Kinh (Khai Phong ngày nay), đời Nam Tống nó xuống
Hàng Châu. Năm 1170 Hàng Châu đã có nửa triệu người. Chợ búa phố xá rất đông
đúc. Miền Nam khí hậu ấm áp hơn miền Bắc, cây cỏ xanh tươi nhiều hồ, nhiều
sông, đời sống dễ chịu nên tính tình của con người cũng thay đổi,bớt khắc khổ,
đạm bạt, nghiêm ngặt mà phóng khoáng hơn, vui vẻ, ham hưởng lạc, lãng mạn hơn.
Giới thương gia ở kinh đô sống
trong những dinh cơ rộng: phía trước là ngôi nhà lộng lẫy tiếp khách, có nhà
thờ tổ tiên, phía sau là khu cho phụ nữ, trẻ con, chung quanh là vườn rộng có
cây cảnh, cây ăn quả, non bộ. Họ có nhiều cao lâu, tửu quán, trà thất để ăn
tiệc, chơi bời, ngắm trăng, nước, nghe hát. Muốn biết đời sống của họ, chúng ta
có thể đọc những truyện Thuỷ Hử, nhất là Kim Bình Mai, hoặc cuốn La vie
quotidienne en Chine la veille de l invasion mongole của Jacques Gernet. Truỵ
lạc là giới thương nhân đó và giới quan lớn mà hầu hết là đại điền chủ. Ở Trung
Quốc, thời xưa các quan đều ăn hối lộ không nhiều thì ít, vì lương của họ thấp
quá mà họ lại có nhiều vợ, nhiều con, nhiều kẻ hầu người hạ, có khi phải giúp
đỡ cho anh em, họ hàng nữa. Một người làm quan thì cả họ được nhờ. Vua Cao Tôn
hiểu vậy tăng lương cho họ, không rõ bao nhiêu nhưng có tăng gấp đôi, gấp ba
cũng không đủ. Cho nên ông quan nào cũng không có di sản của tổ tiên, hoắc vợ
giàu, đảm đang, mà ráng giữ đức thanh liêm thì phải sống đạm bạc như Phạm Trọng
Yêm: Vợ con không được bận đồ tơ lụa, bữa cơm chỉ dọn một món thịt, trừ khi có
khách mà ông là một đại thần ở triều Nhân Tôn đấy. Còn Tô Đông Pha hồi còn làm
chức quan nhỏ, thất phẩm ở Mật Châu (lúc đó triều đình đã giảm lương quan lại),
phải chịu mọi cảnh thiếu thốn, con cái nheo nhóc, không đến nỗi chết đói, nhưng
có lúc cùng một bạn đồng sự, phải đi hái cúc trong các vườn hoang để ăn cho đầy
bao tử.(1)
Nhưng đời Tống có điểm đáng khen
là nhờ đạo học của các triết gia họ Chu, họ Trình, tinh thần nhà Nho chân chính
rất cao, nhiều kẻ sĩ biết trọng khí tiết. Âu Dương Tu, Tư Mã Quang, Trình Hạo,
Trình Di, Tô Thức, Tô Triệt, Vương An Thạch đều có đức cả. Nhờ họ mà học sinh
thời đó, nhất là học sinh trường Thái học, đa số có tinh thần ái quốc, dám dâng
thư vạch lỗi lầm của triều đình như trên tôi đã kể. Xét chung thì sĩ phong thời
đó đáng khen, cho nên khi triều đình Tống nhảy xuống biển tự tử, không chịu cái
nhục để cho quân Mông Cổ bắt sống, trong nước có cả ngàn người tuẫn tiết theo,
đàn bà cũng như đàn ông.
(1) Ở nước ta thời Nguyễn cũng
vậy. Một quan huyện liêm khiết ngày 25 tết đóng cửa huyện đường mà trong nhà
không còn gạo. Nhiều ông làm chức đốc học mà khi chết chỉ có được vài sào
ruộng, vài căn nhà lá, từ đường do môn sinh góp tiền cất cho.
5.Hàng Châu - Đời sống các giới.
Khi rợ Kim chiếm biện kinh rồi,
vua Cao Tôn đầu đời Nam Tống lưu lạc hai ba nơi rồi sau lại Hàng Châu lúc đó
chỉ là một cái phủ ở ngay tỉnh lị, tỉnh Chiết Giang. Mới đầu triều đình chỉ
tính ở tạm tại đó, coi đó là một "hành tại" (người Âu phiên âm là
Quinsay) cũng như hành cung vậy thôi. Sau thấy phong cảnh nơi đó đẹp đẽ, khí
hậu mát mẽ, cây cối xanh tươi, nhất là miền đó có nhiều đồi, nhiều hồ, sông
rạch và chằm, rợ Kim quen chiến đấu ở miền Bắc, phi ngựa trên những đồng cỏ
mênh mông, gặp những sông rạch, chằm đó sẽ bất lợi, nên triều đình Nam Tống lựa
Hàng Châu làm kinh đô.
Nó nằm trên bắc ngọn sông Chiết
Giang- khúc đó cách bờ biển không xa, còn có tên là Tiền Đường (nơi nàng Kiều
gieo mình xuống để chấm dứt 15 năm đau khổ), phía nam nó dựa lưng vào núi Ngô
Sơn, phía tây nó soi bóng trên Tây Hồ, nổi danh là nơi linh tứ bật nhất của
Trung Hoa nhờ cảnh đồi núi, hồ biển tuyệt đẹp, nhờ khí hậu ấm áp, nhờ dân trong
miền tính tình vui vẻ, nam thanh nữ tú, tiếng ca hát ngâm thơ vang lên trong
các vườn hoa, các trà thất, bên bờ nước, dưới các hàng liễu.
Đầu Nam Tống, nó chỉ độ 200.000
dân, cả Nam Tống được độ 60 triệu dân, Bắc Tống được độ 40 triệu nữa. Nhưng nó
phát triểu rất mau vào cuối đời Nam Tống, đầu đời Nguyên, nó đã có một triệu
dân, thành thị trấn đông dân nhất, giàu có nhất thế giới. Mà coi trên bản đồ
chúng ta thấy rất hẹp. Nó có hai vòng thành, vòng trong xây vào thế kỷ VII. Thị
trần ở vòng trong: từ Nam
tới Bắc độ bảy cây số, chiều ngang độ 2 cây số. Thành trong đắp bằng đất, đá và
gạch cao chín thước, dưới chân dày ba thước, có 13 cửa mà 3 ở phía đông quan
trọng nhất, xây cất rất vững chắc, canh gác suốt ngày đêm. Từ năm 893 người ta
bắt đầu xây thêm vòng ngoài. Dưới chân thành có hào rộng.
Có một con đường chính rộng trăm
bước chân từ Bắc tới Nam,
nơi có cung điện, tôn miếu và đàn Nam giao. Có nhiều đường từ Đông
qua Tây cắt ngang đường chính đó, và nhiều kinh chạy song song với đường chính.
Không biết ngoại ô lan tới đâu. Và người ta chỉ đoán rằng vào khoảng 1274. Thị
trấn rộng trên 20 cây số vuông, mà chứa 1.000.000 người (1) cho nên rất chật
chội.
(1) con số này tin được vì cứ 2,3
năm một lần, vào những năm nhuận, triều đình kiểm tra lại dân số. Hơn nữa, từ
năm 1276 nhà nào ở Hàng Châu cũng phải ghi tên những người trong nhà, kể cả trẻ
con, vào một tờ khai dán ở cửa.
Bản đồ Hàng Châu năm 1274
Giai Đoạn sau
Hán suy, Hồ mạnh
Dưới Sự Thống trị của Mông Cổ
Nhà Nguyên ( 1277 - 1367 )
Tổng Quan
Tới đây chúng ta bước vào một
giai đoạn mới của lịch sử Trung Hoa mà có sử gia ( Lombard cho là thời ổn định
( atabilisation), nghĩa là quốc gia Trung Hoa từ nay không còn những cảnh loạn
lạc, chia rẽ, phân tán thành cả chục nước như thời Nam Bắc Triều ( cuối Hán ) ,
thời Ngũ Đại ( cuối Đường ) hoặc ít nhất cũng làm hai, ba nước như thời Tam
Quốc và thời Tống ; có sử gia ( Eberhard) lại cho là thời Cận Đại của lịch sử
Trung Hoa có thể so sánh với thời Cận Đại của Âu Tây, vì ở Trung Hoa giai cấp
sĩ tộc giàu có và cầm quyền bây giờ mạnh lên, hơi giống giai cấp bourgeoisie ở
phương Tây. Tôi nói hơi giống và chính Eberhard cũng nhận rằng phải tới sau
cách mạng Tân Hợi ( 1911), Trung Hoa mới thực sự có giai cấp bourgeoisie hoàn
toàn dự vào những hoạt động chính trị .
Chúng tôi đứng về một phương diện
khác mà xét thì thấy ba triều Nguyên, Minh, Thanh là thời suy của dân tộc Trung
Hoa , dân tộc Hán. Lịch sử Trung Hoa là lịch sử một dân tộc văn minh rất sớm,
mở mang được một bờ cõi rất rộng , ở sát nách các dân tộc du mục, hiếu chiến
phương Bắc ( Đông và Tây ), và suốt hai ngàn rưỡi năm , tới cuối đời Tống , chỉ
là một cuộc tranh đấu để sinh tồn giữa họ với các rợ đó. Cuộc tranh đấu bất
tuyệt và thật gay go: Hễ dân tộc Trung Hoa thịnh lên ( đầu Chu, đầu Hán , đầu
Đường) thì các rợ phải lùi về các cánh đồng cỏ của họ, đợi lúc Trung Hoa suy
thì lại từng đoàn, từng đoàn phi ngựa qua cướp bóc,chiếm lúa gạo, của cải đất
đai. Cuối đời Hán chúng đã len lỏi vào làm chủ được một phần Hoa Bắc trong hai
thế kỷ rưởi . Đường mạnh lên, đuổi chúng đi, cuối Đường chúng trở lại, làm chủ
được già nửa Hoa Bắc trên nửa thế kỷ, rồi lại rút đi, nhưng không rút đi hết ,
một phần Hoa Bắc vẫn còn thuộc rợ Liêu và rợ Kim đã Hán hóa khá nhiều, có thể
chế, có tổ chức mạnh, rồi tới cái mức Tống tuy đã thu lại được, phải chịu lép,
nhận chúng như nước đàn anh, nộp cống (thực ra là thuế hằng năm) cho chúng .
Sau cùng, một rợ khách , rợ Mông Cổ diệt được Liêu và Kim, rồi diệt luôn cả
Tống nữa. Lần này là lần đầu tiên dân tộc hán hoàn toàn mất chủ quyền, toàn cỏi
non sông Trung Hoa nằm dưới gót ngựa Mông Cổ trong non một thế kỷ: 90 năm (
1277- 1367) .
Qua đời sau, đời Minh dân tộc
Trung Hoa đuổi được rợ Mông Cổ đi, giành lại độc lập trong 276 năm ( 1644 -
1911 ) . Vậy là trong 633 năm ( 1277 - 1911 ) dân tộc Trung Hoa chịu sự thống
trị của các rợ 357 năm, chỉ tự chủ được 276 năm.
Vì vậy tôi gọi thời đại Nguyên,
Minh, Thanh là thời suy của dân tộc Hán. Suy chẳng những vì mất chủ quyền rất
lâu, mà còn vì về văn hóa, tuy vẫn tiến bộ được ở vài điểm, nhưng không còn rực
rỡ bằng Đường, Tống nữa.
A - CHÍNH SÁCH CỦA MÔNG CỔ
1- Chính sách chung của các rợ
- Họ luôn luôn đợi lúc Trung Hoa
suy, có nội loạn mới tấn công thì dùng những người Trung Hoa ở miền biên giới
làm cố vấn dắt dẫn;
- Chiếm được đất rồi,họ dùng
chính sách chia để trị : chia rẽ giống này với giống khác ; giới này với giới
khác;
- Họ phải dùng người Hán để thu
thuê, cai trị người Hán; nếu có thể được, họ dùng ngoại nhân ( như các rợ đại
Hán hóa, thương nhân Á rập, Hồi Hồi ...)
- Văn minh họ kém, thường họ
không có chữ viết, nên họ phải theo chế độ, văn minh Trung Hoa, ngay đến tên
triều đại, miểu hiệu, cũng dùng tên Trung Hoa.
- Lâu rồi thì họ Hán hoá, mất
tình thần hiếu chiến, ham hưởng lạc, mà suy nhuợc , bị người Hán quật lại, đuổi
đi; lúc đó đất đai của họ thành đất đai của Hán, người Hồ nào ở lại thì thành
người Hán, do đó tổ quốc Trung Hoa lại rộng thêm, đông dân thêm;
- Họ biết vậy , nên có rợ như
Liêu, giữ một phần đất ở ngoài Vạn Lý Trường Thành, không cho Hoa hóa, để khi
bị đuổi khỏi Trung Hoa thì họ trở về đó.
2 - Kỳ thị Trung hoa.
Mông Cổ cai trị Trung Hoa cũng
theo chính sách đó, nhưng cực kỳ tàn nhẫn, không kém bọn thực dân da trắng đối
xử với dân bản xứ da đen ở Nam Phi ngày nay.
Hồi Hồi Tất Liệt mới lên làm vua
Trung Hoa, đổi quốc hiệu là Nguyên, tức Nguyên Thế Tổ , một viên thượng thư
Mông Cổ khuyên ông ta:
- Tụi Trung Hoa này không ích gì
cho chúng ta hết, nên đuổi hết chúng đi, dùng ruộng của chúng để làm cánh đồng
cỏ nuôi ngựa .
Một viên Thượng Thư khác đưa ý
kiến:
- Phải tận diệt năm gia tộc lớn
nhất của Trung Hoa để chúng khỏi cầm đầu phong trào chống lại chúng ta .
Cũng may Thế Tổ không nghe lời họ
mà nghe lời một cựu Tể Tướng Khiết Đan tên là Da Luật Sở Tài, dùng người Trung
Hoa trong việc trị nước. Ông ta hiểu rằng không thể cai trị người Trung Hoa như
cai trị các dân tộc khác trong đế quốc, cho nên ông tách Trung Hoa ở phía dưới
Trường Thành thành một nước riêng, có chế độ riêng; còn phần ở phía trên Trường
Thành , tuy cũng thuộc về ông , nhưng vẫn theo chế độ cũ của Mông Cổ, phong tục
Mông Cổ. Ông lại bỏ Kinh Đô cũ Karakorum mà lập Đại đô ở Bắc Kinh ngày nay, mặc
dầu Karakorum thời đó là nơi tụ họp gần đủ các giống người từ Đông qua Tây.
Nhưng ông đặt ra những luật kỳ
thị chủng tộc, điều mà từ trước chưa hề thấy ở Đông Á. Xã hội chia làm bốn hạng
người:
- Đứng đầu là người Mông Cổ,
nhiều đặc quyền nhất; rồi tới các dân tộc không phải là Hán ở Trung Á, như
Khiết Đan, Úy Ngô Nhi, Tây tạng ...mà văn hoá và huyết thống, phong tục gần với
Mông Cổ ; hạng này gọi chung là " sắc mục " được hưởng một số đặc
quyền, hạng thứ ba là người Hán ở phía bắc mà họ cho là đã đồng hóa ít nhiều với
các rợ, đángtin cậy một chút, cuối cùng là người Hán ở miền Nam bị kỳ thị nhất
vì đã chống lại họ mạnh nhất.
Đó là về giống người , về giai
cấp trong xã hội thì họ chia làm mười :
1- Quan lớn ở triều đình ( đều là
người Mông Cổ )
2- Quan nhỏ ở địa phương
3- Lạt ma ( thầy tu Tây Tạng )
4 - Đạo sĩ
5 - Y Sĩ
6 - Thợ và người làm tiểu công
nghệ
7 - Thợ săn
8 - Làm các nghề họ cho là đáng
khinh như con hát
9 - Nhà nho
10 - Ăn mày
Mới đầu người Trung Hoa Bắc và Nam không được
thi cử, không được lãnh một chức gì dù là nhỏ, trong chính quyền . Về sau họ
được thi, nhưng phải thi riêng, không được thi chung với người Mông Cổ và các
người sắc mục. nếu họ đậu tiến sĩ thì tên nêu trên một bảng riêng ở bên trái ,
bảng bên phải dành cho người Mông Cổ và người sắc mục. Dĩ nhiên hai hạng người
sau dù bài kém cũng được tuyển . Gần đây hoa lục cũng dùng lối phân biệt đó đối
với thí sinh trong giai cấp vô sản, và nước ta hiện nay cũng vậy . ( 1 ) Sau
cùng người Hán nào được bổ dụng thì bắt buộc phải học tiếng Mông Cổ , và theo
đạo Hồi, ít nhất là bề ngoài, đạo mà Mông Cổ che chở .
Có thời, người Hán bắt buộc phải
bỏ y phục cùng cổ tục, ăn mặc theo rợ Hồ, cài áo bên trái, tay hẹp, tóc thả
xuống sau lưng.
Luật pháp đối với họ rất khắc
khe: không được có vợ Mông Cổ hoặc sắc mục. Mắc tội ăn cắp thì người Mông Cổ
chỉ bị phạt vạ, còn người Hán thì lần đầu bị xâm vào cánh tay bên trái, lần thứ
nhì vào cánh tay bên mặt, lần thứ ba vào cổ để mọi người trông thấy . Nếu giết
một người Mông Cổ hay sắc mục thì người Hán phải chịu tử hình và gia đình phải
chịu phí tổn ma chay - dĩ nhiên là nặng - cho thân nhân người chết. Trái lại ,
kẻ bị giết là Trung Hoa mà kẻ sát nhân là người Mông Cổ hay sắc mục thì có thể
viện lẽ là trong cơn say rượu hoặc trong lúc tranh luận hăng quá, lỡ tay, và
chỉ bị phạt và hoặc cùng lắm là đày ra biên giới.
Ruộng, ngựa của người Trung Hoa,
Mông Cổ muốn chiếm thì chiếm.
Một sắc lệnh ban năm 1337 cấm
người Trung Hoa giữ khí giới, vậy là họ khôngthể săn bắn được vì cung, tên cũng
là khí giới.
3 - Nhưng tiếp đón mọi dân tộc.
Điều làm xáo trộn phong tục và xã
hội Trung Hoa nhất là chính sách coi trọng công thương, mà ức sĩ, đặt kẻ sĩ ở
cuối thang xã hội, chỉ trên bọn ăn mày, khiến kẻ sĩ có tư cách không chịu hợp
tác với họ, một số vô rừng ấn dật, và gặp thời cơ thì cầm đầu phong trào phản
Mông.
Vậy Mông không muốn dùng Hán mà
Hán cũng không muốn hợp tác với Mông, do đó người Mông vốn chủ quan chiến
tranh, không biết cai trị, phải dùng nhiều quan lại ngoai nhân, tạm nên một chế
độ siêu quốc giới ( cosmopolite) , như người Ý
Marco Polo cai trị Dương Châu
(coi ở sau), một người Á Rập cai trị Vân Nam ( do đó mà ở Vân Nam Hồi Giáo
thịnh hơn các tỉnh khác)
Đế Quốc Mông Cổ lan từ Đông Á,
qua Trung Á, tới Nga và một phần Tây Âu, nên sự giao thông từ Trung Hoa qua
Châu Âu rất yên ổn, dễ dàng, và lần đầu tiên trong lịch sử, Đông Tây tiếp xúc
thẳngvới nhau. Trong một thế kỷ từ 1240 tới khoảng 1340, người Âu qua Hoa Bắc,(
mà họ gọi là Cathay) bằng nhiều đường ; từ phía Nam nước Nga băng qua những
cánh đồng cỏ mênh mông của Trung Á, đường đó khó đi nhất, hoặc vượt Hắc Hải,
rồi theo con đường chở lụa của thời trước, qua những ốc đảo ở Trung Á, đường
này dể đi, hết thảy các thương nhân đều dùng, hoặc do đường biển tới Syrie rồi
từ đó tới Bagdad, vô Trung Á. Còn một điều nữa, dùng biển vượt Ấn Độ Dương, tới
Nam Á rồi lên Quảng Châu. Đường này người Âu ít dùng vì thường bị người Á Rập
chặn.
Thời nhà nguyên, Cảnh giáo hơi
phát đạt ở Trung Hoa, vì mẹ của Hốt Tất Liệt, và có lẽ một Đại Hãn ( vua Mông
Cổ ) nữa theo đạo đó. Tại nhiều miền Trung Hoa có tín đồ Cảnh Giáo và một số
làm quan cho nhà Nguyên.
Sau Cảnh Giáo tới Công Giáo, Giáo
Hoàng La Mã bốn năm lấn phái sứ thần tới triều đình Nguyên để kết thân, xin mở
giáo đường, để truyền giáo. Hai sứ thần quan trọng nhất là tu sĩ John
Hontecorvinovà tu sĩ Odoricof Marignolli, cả hai đều là người Ý tu theo giòng
Saint François d Assise. Họ đều được vua Nguyên tiếp; chính sách của Mông Cổ là
mở rộng biên cương,cho mọi tôn giáo, mọi người ngoại quốc vô và dùng họ trong
công việc buôn bán, cả trong việc hành chính nữa. Họ chỉ kỳ thị người Trung Hoa
thôi.
Họ có nhiều cảm tình với người Ả
rập, cho dựng nhiều giáo đường Hồi, năm 1250 dùng một người Á Rập làm viên quản
đốc tối cao các tàu buôn ở miền Phúc Kiến.
Người ngoại quốc được trọng dụng
nhất là Marco Polo, mà tập du ký nhan đề là Le Livre de Marco Polo et des
merveilles d Asie ( Cuốn sách của Marco Polo về các kỳ quan của Châu Á) làm
ngtười Âu thời đó chóa mắt về phương Đông, thành một tác phẩm bất hủ (hiện nay
vẫn còn nhiều người đọc) ảnh hưởng rất lớn, mở đầu cho cuộc trao đổi vật chất
và tinh thần giữa Đông Tây, việc phổ biến thuật làm giấy, nghề in, cách dùng
thuốc súng ... Ở Phương tây.
Thời đó vào thế kỷ XIII, hai
thương nhân Ý ở Venise ( một trung tâm thương mãi quan trọng trên bờ Địa Trung
Hải) Maffeo và Nicolo Polo chở nhiều đồ trang sức và bảo ngọc lại bán ở
Constantinople. Bán có lời, họ vượt biên giới vào đất Mông Cổ để tiếp tục làm
ăn. Một viên quan Mông cổ mời họ theo ông ta tới Bắc Kinh, vua Mông Cổ thích
bảo ngọc lắm, sẽ mua cho. Họ nghe lời , tới Bắc Kinh, được Hốt Tất Liệt tiếp và
nhờ mang một bức thư về trình lên Giáo Hoàng.
Giáo Hoàng Grégoire X lại phái
Nicolo đem bức thư trả lời về Trung Hoa. Lần này Nicolo dắt theo em là Maffeo
và con trai là Marco mới 17 tuổi. Cả ba đều được triều đình Mông Cổ tiếp đãi
long trọng, và thanh niên Marco rất thông minh, khéo léo, được vua Mông Cổ mến,
tin, giao cho nhiều việc (như nhận xét về địa hình), sau cùng cho một chức quan
trọng ở Dương Châu( có sách nói là chức Thái thú, có sách bảo là coi việc khai
thác và bán muối).
Marco ở Trung Quốc 17 năm, sau
nhớ quê hương, xin về. Vua Mông Cổ bằng lòng và phái chàng đưa một công chúa
Mông Cổ đã hứa gã cho vua Ba Tư. Sau 18 tháng lênh đênh trên biển họ mới tới
vịnh Ba Tư, đưa công chúa lên bờ rồi, Marco tiếp tục lại Constantinople mới tới
Venise năm 1295. Ông kể những kỳ quan ở Trung Hoa cho người đồng hương nghe,
bảo vua Mông Cổ mỗi năm thu được từ 10 đến 15 triệu đồng tiền vàng, thần dân có
tới mấy chục triệu cái gì cũng tới số triệu , không ai tin ông còn mỉa ông là
nói láo, gọi ông là " chú triệu ". Ít lâu sau, ông bị bắt làm tù binh
trong một trận giữa Venise và Gênes; và ở trong khám ông kể lại hồi ký cho một
người chép lại thành cuốn: Du Ký của Marco Polo ".
Ngoài ảnh hưởng của đạo Hồi, đạo
Ki Tô, còn phải kể thêm sự cống hiến của các dân tộc phương Bắc ( Khiết Đan,
Kim, Mông Cổ), nhất là Tây Tạng, Tu viện Lạt Ma giáo được dựng lên, một tu sĩ
Tây tạng Phagepa, Trung Hoa phiên âm là Bát Tư Ba tạo cho Mông Cổ một thứ chữ
viết tượng thanh( phonétique) khác hẳn chữ Trung Hoa. Một kiến trúc sư xứ
Népal( Ấn Độ) xây dựng lại một ngôi đền.
Rồi những kỷ thuật nói về đồ sứ (
đồ Closonné: Thất bảo?) về cách dệt thảm, cách nấu rượu, cả về thiên văn học về
môn vẽ bản đồ. Trung Hoa cũng rút kinh nghiệm được của Á rập. Vì vậy mà Lombard bảo Trung Hoa đời Nguyên là một cái " lò văn
hóa"
( crenset culture), và Simon Leys
trong Ombres Chinois ( Paris 1975) bảo nếu nhà Minh và nhà Thanh biết theo
chính sách " khai quan " ( m::7ạ1:: c::10ạ1::) đó thì Trung Hoa đã
tiến bộ như phương Tây rồi.
Người Trung Hoa không phải chỉ
tiếp thu mà thôi. Họ cũng truyền bá văn hóa của họ qua phươn Tây bằng những con
đường từ Đông qua Tây. Thời Mông Cổ toàn thịnh, có hàng ngàn thường dânTrung
Hoa túa ra khắp nơi trong đế quốc Mông cổ, tới Nga, Ba Tư, Méssopotamie (miền
Lưỡng Hà). Các dân tộc đó học được của họ thuật chế tạo thuốc súng, nghề in,
cách dùng giấy bạc, cách dùng thuốc trị bệnh, những phát minh vể y khoa. Mà
thương nhân ngoại quốc tới Trung Hoa cũng rất đông; riêng Tràng An có tới 2.000
thương điếm của ngoại nhân.
Nhiều kỷ sư Trung Hoa giúp
Méssopotamie trong việc thủy lợi; một nhà bác học Á rập, Rashid Ud-Din, giao
thiệp với y sĩ Trung Hoa và viết một cuốn truyền bá y học Trung Hoa tại Tây Á.
Văn minh Trung Hoa sở dĩ được
truyền bá rộng như vậy chính là nhờ Mông Cổ. Trong cái họa cũng có cái phúc.
(1) Tác giả viết trước năm 1984 (
BT )
Đế quốc của Nguyên đã mở rộng lớn
quá rồi mà Hốt Tất Liệt vẫn muốn mở mang thêm ở Đông Á.
Trước hết là chiến tranh xâm lăng
Nhật Bản ( 1281). Chẳng may cho Mông Cổ, hạm đội của họ chưa đổ bộ lên đất Nhật
thì bị giông tố phá tan tành. Trong chiến tranh đó, dân Trung Hoa phải đóng tàu
và bị bắt lính. Nếu trận đó mà thắng, Mông Cổ chiếm được Nhật thì rất có lợi
cho Trung Hoa; họ được thêm một thị trường. Thua trận đó , Hốt Tất Liệt vẫn
chuẩn bị để vượt biển một lần nữa, nhưng từ năm 1284 họ lo xâm chiếm Việt Nam nên tạm gác
Nhật Bản lại.
Hai lần họ đưa quân qua nước ta (
thời vua Trần Nhân Tôn), hai lần họ đại bại, từ 1285 đến 1288, Hưng Đạo Vương
tuy thắng họ, nhưng xử nhũn, sai xứ cầu hòa, chịu nộp cống. Họ đòi vua Nhân Tôn
phải qua chầu ờ Bắc Kinh, vua kiếm cớ thoái việc. Việc lằng nhằng chưa ngã ngũ
thì Hốt Tất Liệt chết và vua kế vị là Thành Tôn bãi binh luôn.
Họ lại đem đại hùng binh qua ngã
Vân Nam
để xâm lăng Miến Điện, năm 1287, chiếm được Pagan rồi cũng phải rút về .
Năm 1292 - 1293 họ dùng hải quân
tấn công Java, cùng thất trận nữa.
Theo Lombard, các học giả phương
Tây còn đương tìm hiểu do nguyên nhân sâu xa nào họ thành công ở Trung Hoa mà
thất bại ở Đông Nam Á.
Có điều này đáng để ý trong những
chiến tranh đó là họ dùng nhiều tướng, nhiều lính Trung Hoa, chiến thuyền đều
do dân Trung Hoa cung cấp hết. Có thể ngườiTrung Hoa cũng mong cho họ thành
công. Nếu họ chiếm Nhật Bản, Java, Miến Điện thì dân Trung Hoa kiểm soát được
những đường thương mãi miền đó và ngoại thương sẽ rất phát đạt, mà chưa biết
chừng khi họ bị trục xuất ra khỏi Trung Hoa thì nhà Minh sẽ nối họ làm chủ
Nhật, Miến Điện, Java.
5. Chế độ Chánh trị
Dân tộc Mông Cổ gồm l khoảng 2
triệu rưỡi người, một số lớn ở lại tổ quốc miền Hắc Long Giang, một số rải rác
từ Đông qua Tây tại các Hàn Quốc ( 1) riêng ở Trung Hoa có nhiều lắm là một
triệu người (kể các người Khiết Đan, Nữ Chân ... anh em với Mông Cổ), quân đội
lúc đầu độ 250.000 người Hốt Tất Liệt không thể diệt hết người Trung Hoa hoặc
di dư họ hết đi nơi khác được để biến Trung HoaTrung Hoa thành những đồng cỏ,
thì tất nhiên phải giữ nền văn minh nông nghiệp của Trung Hoa, và theo chế độ
Trung Hoa tức là theo đạo Khổng , theo tổ chức xã hội cùng văn hóa Trung Hoa.
Như vậy là bắt đầu Hoa hóa rồi.
- Về hành chánh, nhà Nguyên theo
chế độ Đường , Tống, triều đình gồm có ba cơ quan phân lập: Trung thư tỉnh coi
về chính vụ. Khu mật vụ coi về quân vụ, ngự sử đài lãnh nhiệm vụ giám sát.
Ở địa phương thì có một sự thay
đổ . Các thời trước, địa phương chỉ có lộ, phủ, châu, nhà Nguyên chia lại Trung
Hoa thành 12 miền rất rộng, như miền Hà Nam, Hồ Bắc, An Huy, Giang Tô ngày nay.
Sự tổ chúc về hành chánh của mỗi miền cũng hư cơ quan trung thư tỉnh ở trung
ương, vì vậy mỗi miền gọi là thập nhị hành trung thư tỉnh, 12 miền gọi là thập
nhị hành trung thư tỉnh, tuy trực thuộc trung ương, nhưng quyền lớn. Dưới hành
trung như tỉnh có lộ, phủ, châu , huyện ...như trước. Đó là nguồn gốc của chế độ hành tỉnh đời sau, mà cũng là bước đầu
của sự khuyếch trương trung ương chính quyền tới toàn cõi đế quốc. Trung Cộng
và Việt Nam
ngày nay đều theo chính sách đó.
- Về Binh chế, có thể chia làm
hai bộ: Ở triều đình là quân túc vệ trực thuộc nhà vua hoặc một đại thần do
lệnh nhà vua.
Quân trấn thủ thuộc Khu mật vụ
phân phối. Quân đội Hoa Bắc đưa xuống ở Hoa Nam
vì Mông Cổ không tin người miền Nam.
Kỷ luật rất nghiêm, từ trên xuống
duưới, hễ bất tuân lệnh thì đều bị trừng trị nặng. Khi gặp kẻ thù, họ tấn công
liền, mỗi kỵ binh bắn ba bốn mũi tên, nếu không phá được quân địch thì họ rút
lui, nhử cho địch đuổi theo, tới một chỗ đã đặt quân phục kích, họ quay trở
lại, ba mặt đánh vào địch. Họ có nhiều mưu, có một tổ chức chặt chẽ, khí giới
rất tốt, đã biết dùng đại bác nhỏ để công phá thành địch.
- Học và thi
Ở kinh đô có các trường Quốc tử
học, Y học, Âm dương học.
Quốc tử học chia làm ba loại:
Mông Cổ học, Hán học, Hồi học. Mông Cổ quốc tử học dạy cả toán học, dùng bộ
Thông giám tiết yếu của Trung Hoa dịch ra tiếng Mông Cổ để dạy. Hán học Quốc tử
học dạy Hiếu kinh, Tứ thư, Ngũ kinh ... mỗi năm thi, được điểm cao thì lên cấp
trên. Hồi quốc tử dạy Hồi văn. Như vật đủ biết thời đó người theo Hồi Giáo khá
đông, Mông Cổ dùng họ trong việc trị nước và giao thiệp với người nước ngoài.
Ở địa phương, mỗi lộ đều có
trường dạy y học. Âm dương học, và dạy thêm chữ Mông Cổ và chữ Hồi.
Nhà Nguyên mở trường và lập thư
viện nhiều hơn đời Tống. Mới đầu Hốt Tất Liệt nghe lời của Viên trung thư lệnh
gốc Khiết Đan là Da Luật Sở Tài, đặt ra khoa thi cử, dùng nho thuật để tuyển
nhân tài. Nhưng không lâu thì bải bỏ. Tới đời Nhân Tôn ( 1311 - 1316) dùng lại
chế độ khoa cử, tuyển người theo đức hạnh, kinh thuật và kiến thức về nghề
nghiệp ( kỷ thuật). Như trên tôi đã nói, có sự kỳ thị người Trung Hoa : Họ phải
thi riêng, qua ba trường, còn người Mông Cổ và người Hồi chỉ qua hai trường
thôi, khỏi phải qua trường từ chương của người Trung Hoa. Chấm bài thi của
người Trung Hoa cũng gắt hơn, nếu đậu thì tên nêu ở một bảng riêng và không
chắc gì đã được bổ dụng. Còn những công thần, thể tộc Mông và sắc mục chẳng cần
phải thi cũng được làm quan.
- Thuế vụ.
Dân đời Nguyên phải nộp thuế khá
nặng, ngoài những thuế đinh và điền như đời Đường , còn phải nộp thêm tơ và
tiền cho nhà nước. Tơ thì cứ hai nhà mỗi năm nộp một căn cho quan, năm nhà mỗi
năm nộp một càn cho tước vương, hậu phi, công chúa, công thần (như vậy là mỗi năm mỗi nhà phải nộp 1/2 +
1/5 cân tơ cho nhà nước); tiền thì mỗi nhà mỗi năm phải nộp bốn lạng bạc, hai
lạng bạc thực còn hai lạng bằng hàng lụa.
Nhà Nguyên dùng một bọn tham tàn
để quản lý tài chánh, chính sách thuế khóa rất hà khắc, chúng đặt ra tới bà
chục thứ thuế ngoại ngạch, dân chúng rất khổ sở.
- Pháp luật
Vì có nhiều giống người nên nhà
Nguyên phải dùng nhiều thứ luật: Luật Mông Cổ ; luật Hồi Hồi, luật Trung Hoa,
luật Trung Hoa thì theo luật đời Đường, nhưng nghiêm khắc hơn
( 1) Nước của Kha Hản ( vua Mông
Cổ )
1- Không tổ chức, bất công
Khi 274 trung thần nghĩa sĩ tòng
vong cùng nhảy xuống biển theo Quảng Vương và Lục Tú Phu ( 1279 ) thì người Hán
mất tổ quốc và họ chìm đắm trong cảnh nô lệ tủi nhục dưới cái ách của Mông Cổ.
Đó là số phận của hầu hết các dân tộc văn minh sống bên một dã man. Càng văn
minh thì càng trọng văn hóa hơn võ bị, mà dã man thì ngược lại.
Mông Cổ chỉ muốn diệt dân tộc
Trung Hoa , nhưng diệt không được vì họ đông quá : 50, 60 triệu người, mà số
Mông Cổ có thể đưa qua Trung Hoa chỉ được một triệu ( 1). Không diệt được thì
chỉ còn cách coi Trung Hoa là một thuộc địa để khai thác
Chính sách siêu quốc giới tôi đã
nói ở trên có lợi về văn hóa cho cả Trung Hoa lẫn các nước khác ( Trung Á, Tây
Á, Châu Âu).
Nhưng về phương diện xã hội thì
nó rất có hại cho Trung Hoa. Nó làm cho xã hội Trung Hoa có nguy cơ tan rã.
Hốt Tất Liệt có chủ trương gì rõ
rệt đối với Trung Hoa không? Ông không muốn cho đồng bào của ông Hán hóa, vì
như vậy chẳng bao lâu dân tộc dân tộc Mông Cổ sẽ bị dân tộc Hán nuốt mất. Ông
có muốn cho người Hán Mông hóa không? Chắc cũng không vì ông biết rằng công
việc đó không thể thực hành được: Phải diệt một nền văn minh rực rỡ đã có trên
2.000 năm , bắt người Hán bỏ ngôn ngữ , văn tự của họ mà học tiếng Mông Cổ, phá
hết ruộng lúa biến thành đồng cỏ! Con đường thứ ba là dung hòa thì chắc ông
không nghĩ tới; vả lại cũng không có con đường đó.
Chính sách siêu quốc giới chẳng
phải là chính sách riêng của ông , mà của chung các đại hãn khác từ Đông qua
Tây . Nó có lợi cho sự cai trị các thuộc địa, mà có hại cho dân bị trị, tức cho
đế quốc của Nguyên.
Xã hội Trung Hoa đời Nguyên thực
tạp loạn. Biết bao nhiêu giống người , không kể những người từ Tây Á, châu Âu
qua, riêng những người gọi là sắc mục ( ở Trung Á) có tới 5-6 giống là ít, và
số người chắc đông lắm, nửa triệu ? Một hai triệu ? Vì gồm cả những người Liêu
và Kim đã làm chủ một phần phía bắc Trung Hoa, bị Mông Cổ dẹp nhưng chịu phục
tòng Mông Cổ mà xin ở lại Trung Hoa. Riêng người Trung Hoa cũng phân biệt Hán ở
Bắc và ở Nam.
Pháp sau này coi Nam Kỳ của ta là thuộc địa được dễ thở hơn Bắc và Trung cũng là
dùng chính sách đó.
Trong xã hội đó có tới mười giai
cấp như trên đã nói. Sự sắp đặt thứ tự các giai cấp như trên đã nói. Sự sắp đặt
thứ tự giai cấp trái ngược với truyền thống văn minh Trung Hoa. Trung Hoa trọng
sĩ rồi tới nông, ức công và thương . Mông Cổ khinh miệt sĩ, sắp vào hàng thứ
chín , trên kẻ ăn mày, không nói đến nông; mà dân Trung Hoa theo nông nghiệp
thời đó có thể 95% làm nghề nông ! Chính Mông Cổ và sắc mục cũng phải sống nhờ
sức lao động của nông dân Trung Hoa . Mông Cổ chỉ trọng thương nhân, công nhân,
nghĩa là chỉ thích vơ vét, làm giàu , mà thương nhân cũng không thấy trong bảng
giai cấp đó. Lại thêm thiếu một giai cấp: Nô lệ. Các tù binh Trung Hoa, bọn
nông dân bị cướp đất , vô gia cư, vô nghề nghiệp đều bị Mông Cổ bắt làm nô lệ,
phân phát cho các quan lớn nhỏ Mông Cổ hoặc sắc mục.
Trong khỏang 40 năm đầu, nhà
Nguyên không dùng Nho học để tuyển nhân tài, từ đời Nhân Tôn mới cho người Hán
, rồi người Hoa Nam được ứng thí. Trong số người được bổ dụng 4 phần 5 là người
Mông và Sắc mục, chỉ có 1 phần 5 là người Trung Hoa. Chế độ chính trị, từ tổ
chức chính quyền tới võ bị, thuế khóa ... đều theo Trung Hoa, đáng lý thì phải
dùng văn tự
Trung Hoa làm chính , dùng nhiều
quan lại Trung Hoa , mà ngược lại, số quan lại trung Hoa rất ít, còn văn tự thì
không thống nhất . Mông Cổ vốn không có văn tự , khi chiếm được Ủy Ngô Nhi (
Uighur) thì dùng văn tự của của Ủy Ngô Nhi; chiếm được Trung Hoa , dùng văn tự
của Trung Hoa , của Ủy Ngô Nhiu, cả của Hồ nữa. Sau nhờ một vị Lạt Ma ( tu sĩ)
Tây Tạng là Bát Tu Ba đặt cho một thứ chữ riêng ( dùng trên 20 mẫu tự để ghi
thanh). vua Nguyên bắt dân chúng dùng nhưng hình như thất bại, ít người theo.
Không có một văn tự thống nhất, sự trị nước tất khó khăn, xã hội tất rời rạc.
- Lại thêm thiếu một tín ngưỡng
chính Mông Cổ vốn không có tín ngưỡng, chiếm được nước nào thì theo tín ngưỡng
nước đó
Họ theo nhiều nhất đạo Lạt Ma (
một phái Phật Giáo ở Tây Tạng, thờ Phật sống), đạo Hồi, nhưng cũng có người
theo Ki Tô Giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo ở Trung Hoa, họ không ưa ( có lẽ
vì cao siêu quá đối với họ), có khi bị họ làm khó nữa. Còn Nho Giáo thì chỉ
được một số nhỏ theo thôi. Lạ nhất là Hốt Tất Liệt ngay từ đầu đã dùng chế độ
chính trị ( tổ chức triều đình , lễ nghi , cả miếu hiệu, niên hiệu ...) của
Trung Hoa, cũng tế trời đất, thờ thượng đế, thờ tổ tiên, tức theo đúng đạo Nho,
mà lại miệt thị nhà Nho, thật là mâu thuẫn. Ông ta quả không có chính sách, chủ
trương gì cả.
- Họ chỉ theo hình thức của đạo
Nho thôi, còn cái tinh thần của Khổng Mạnh( trọng ý muốn của dân, can thiệp vừa
phải vào đời sống của dân ...) thì họ không theo. Sự thực họ coi người Trung
Hoa không phải là dân của họ mà chỉ là một dân của họ mà chỉ là một bầy nô lệ.
Lữ Chấn Đạc ( Giản Minh Trung
Quốc thông sử) trích rất nhiều đoạn trong Nguyên Sử, tân Nguyên sử về chính
sách tàn bạo của Mông Cổ, tôi chỉ lựa một số để độc giả thấy nhiều biện pháp
của họ sao mà y hệt những biện pháp của một số dân tộc cực văn minh da trắng và
da vàng ở thời đại chúng ta đến thế.
Họ:
- Cấm người Hán ( phương Bắc )
không được giữ vũ khí và ngựa, những thứ đó bị tịch thu hết. Ở Hoa Nam, còn gắt
hơn nữa: năm nhà mới được có một con dao cắt thịt để dùng chung. Lệnh này bốn
chục năm trước tôi cứ tưởng là chỉ có người Nhật mới nghĩ ra được để áp dụng
với dân Mãn Châu, nay thì tôi ngờ rằng họ đã thuộc lịch sữ Mông Cổ ( nhà
Nguyên)
- 50 nhà hợp thành một xã, có xã
trưởng kiểm soát, ghi tên những kẻ trong xã du thủ, không làm ăn gì cả hoặc
không tuân lệnh cha mẹ, để khi nào quan " đề hiểm " Mông Cổ tới xét
thì khai báo.
- Xã trưởng cũng phải ghi tên
những kẻ hung ác vô đạo lên cửa nhà chúng ở.
- Hể tụ tập kết xã thì bị tội, c
đọc cấm thư phúng thích y triều đình thì bị tội đồ ( đày đi xa)
- Bài văn , bài từ hoặc khúc (
tuồng) nào có lời phạm thượng thì tác giả bị tử hình.
- Người Mông Cổ và người Sắc mục
thường bắt cóc trai gái Hán đem bán nước ngoài ( nay chúng ta gọi là xuất khẩu
người) mà không bị cấm.
- Họ và bọn tăng đạo ( nói chung
là bọn theo các tôn giáo) thường cướp ruộng đất của dân mà không bị cấm.
- Mông Cổ và Sắc mục không được
Hán hóa, không được thông hôn với Hán, mô phỏng tục Hán.
2. Kinh tế tệ bại
Đầu thời Hốt Tiết Liệt, kinh tế
kha khá được một chút nhờ hết chiến tranh , chủ điền Trung Hoa ở miền Nam không bị
tịch thu đất đai, lại khai thác được, và nhờ ngoại thương với các nước Trung Á.
Nhưng Trung Hoa vốn là nước nông
nghiệp, kinh tế phát đạt hay không là nhờ sức loa động của nông dân, mà nông
dân bị ngược đãi, bóc lột- quá nên nghề nông suy mà kinh tế phải lụn bại.
Mông Cổ và sắc mục ai cũng có thể
cướp đất của nông dân được. Triều đình cấp những đồn điền mênh mông cho các đại
thần và cả cho chùa theo Lạt Ma giáo. Rất nhiều ruộng ở phương Bắc biến thành
đồng cỏ. Bọn nông dân mất đất thành lưu vong, một số bị bắt làm nô lệ.
Hốt Tất Liệt bỏ kinh đô cũ của
Mông Cổ là Karakorum
mà dời xuống Đại Đô, tức Bắc kinh ngày nay. Như vậy là phải vì miền màu mỡ nhất
của đế quốc là Trung Hoa; vả lại từ Đại Đô
có thể tiếp xúc dễ dàng với các
miền khác của đế quốc, mà khi nào nóng nực quá , người Mông Cổ chịu không nổi
khí hậu Đại Đô thì họ về nghĩ mát ở Mông Cổ cũng gần.
Đế quốc rộng , số quan lại ở kinh
đô rất lớn, thuộc nhiều giống người, phải xây cất dinh thự và nha thự. Triều
đình ra lệnhtrưng dụng công nhân ở mọi nơio, nhất là nông dân Trung Hoa. Bọn
này phải bỏ ruộng ở quê để lên kinh đô, mãn hạn làm xâu, trở về làng thì có khi
ruộng không người cày, bị chiếm mất rồi, họ thành dân lưu vong
Dân ở kinh đô tăng nhanh, tới một
triệu phải chớ lúa từ miền Nam
lên nuôi họ, chở bằng đường biển, đường kinh. Thế là phải
đóng nhiều thuyền, đào, vét kinh.
Nông dân Trung Hoa cũng phải chịu cái d gánh đó nữa. Nhà Nguyên năm 1289 lại
còn sai lát đá một con đường theo kinh Vận Hà từ Hàng Châu lên Đại Đô, dài trên
1000 cây số, phải dùng tới 2.500.000dân.
Vậy là số ruộng giảm đi, dân
Trung Hoa vừa phải làm xấu, vừa phải nuôi giai cấp quan lại, địa chủ cũ, thêm
một triệu người Mông Cổ và ít nhất là một triệu người sắc mục nữa. Đời sống của
họ thật điêu đứng .
Dân nghèo thì nhà nước không giàu
được. Vì thu thuế được ít.
Bọn thương nhân nhỏ trong nước
tạm sống được. Giàu nhất là bọn thương hân sắc mục và Hồi. Á Rập họ được triều
đình ưu đãi , khỏi phải đóng thuế, kiếm được lợi thì gởi về nước họ, thiệt thòi
cho nhà Nguyên vì vàng, bạc, đồng chạy ra ngoại quốc; triều đình phải in giấy
bạc, cứ vài ba năm in lại một lần, mỗi lần in lại thì lạm phát thêm một chút,
tiền mất giá, dân mất lòng tin, rốt cuộc nhà nước hóa nghèo, nghèo thảm hại.
Triều đình phải tăng thuế, chỉ
đánh vào đầu dân nghèo, họ trốn thuế , làm tăng số người lưu vong và số người
oán Mông Cổ lên.
Tóm lại, từ trên xuống dưới ,
người Mông Cổ chỉ cướp bóc trắng trợn dân Trung Hoa. Bọn Marco Polo và người
Âu, người Á Rập qua Trung Hoa chỉ được thấy cảnh huy hoàng ở kinh đô và một số
thị trấn lớn, chứ không biết cảnh khổ của dân Trung Hoa, nên về nước họ mới hết
lời ca tụng sự giàu có của Trung Hoa thời Nguyên
( 1) Họ thua thực dân da trắng
thế kỷ XIX : Nhờ khéo tổ chức , Anh chỉ vài chục ngàn người nắm được cả trăm
triệu dân Ấn, Pháp chỉ dăm ngàn người nắm được cả chục triệu dân Việt.
- Chính sách xã hội tàn bạo, ngu
xuẩn
- Không thể nào cai trị một dân
tộc như Trung Hoa mà chỉ dùng ngoại nhân ( Mông Cổ, sắc mục, không cần sự hợp
tác của Trung Hoa được, và chính sách kinh tế dại dột kể trên là hai nguyên
nhân quan trọng gây sự suy vi của nhà Nguyên, khiến cho dân Trung Hoa từ trên
xuống dưới đều thâm oán Mông Cổ. Họ tạm chịu được rợ Liêu, rợ Kim mà không sao
chịu được rợ Mông. Chỉ một số ít Hán gian có học là chịu hợp tác với triều đình
Nguyên; kẻ sĩ có tư cách phải trốn vô rừng, cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống,
người thì viết tiểu thuyết, viết tuồng , người thì vẽ cảnh thiên nhiên để tiêu
ma ngày tháng hoặc gởi gấm nổi lòng. Nông dân thì họp thành hội kiến, chờ ngày
nổi loạn.
- Nguyên nhân thứ ba cũng rất
quan trọng là triều đình nhà Nguyên loạn ngay từ khi từ Hốt Tất Liệt chết, và
do chính Hốt Tất Liệt d gây ra.
Theo tục Mông Cổ , thì khi một
Khả Hãn ( vua ) chết. các thân vương, các người quan trọng trong hoàng tộc và
các đại thần họp nhau để bàn vị Khả Hãn lên nối ngôi. Hốt tất Liệt độc tài, cho
chỉ mình có công chiếm Trung Hoa, non sông Trung Hoa là của riêng mình, non
sông Trung Hoa là của riêng mình, chẳng cần hỏi ý Cơ mật viện mà tự ý truyền
ngôi cho thái tử theo tục Trung Hoa và triều đình Nguyên phải chịu ngay hậu quả
tai hại của chính sách truyền tử chứ không truyền hiền của nhà Chu đó, chính
sách mà Khổng Tử miễn cưỡng chấp nhận chứ không thích.
Đại thần và hoàng tộc đều bất mãn
nhưng Hốt còn sống thì không dám nói ra. Nhất là một số người tự cho mình có đủ
tư cách để kế vị, lại càng uất ức.
Thành Tôn nối ngôi là ngươi cương
quyết, giữ ngôi được 12 năm. Rồi từ đó mà Nguyên suy luôn. " Thần khí
" tức ngai vàng đã lập rồi thì ai mà không ham, nó gây sự tranh giành, gây
bè phái, ám sát, thoán đoạt, rồi xa hoa , dâm dật, đủ những cái tệ của chế độ
quân chủ phương Đông. Coi qua bảng năm vua kế tiếp, ta thấy triều đại của họ
sao mà ngắn ngủi! Chỉ trong 25 năm mà ngai vàng , thay chủ tới 5 lần, đa số chỉ
giữ ngôi được 3, 4 năm, không ông nào thọ quá 35 tuổi. Là vì họ mới lên ngôi ,
đã có người, có phe âm mưu lật họ. Có bao nhiêu ông bất đắc kỳ tử, tôi không
biết. Nhưng triều thần, hoàng tộc chắc chắn là chia bè đảng thanh toán lẫn nhau
rất hăng.
Những ông vua được quyền thần ủng
hộ, đưa lên ngôi, không chắc chắn là có tài , mà chắc chắn là không có quyền.
Kẻ đưa họ lên, tất là cậy công mà chuyên quyền, họ thành ra bù nhìn hết. Tới
khi họ bị lật, bị giết thì phe lật, giết họ phải giết luôn phe đã lập họ. Như
vậy liên tiếp một phần tư thế kỷ, triều đình Nguyên tất hóa ra vô tổ chức, bất
lực , hiệu lệnh ban ra, địa phương không nghe , và hiệu lệnh của vua này mâu
thuẩn với vua trước, cứ thay đổi như chong chóng , biết theo ai, theo ai cũng
có thể mang họa, chẳng theo ai cả là hơn hết. Sử gia Trung Hoa chép về thời đó
bảo : " Hiệu lệnh bất thường, như trò con n ít ", nha thự tạp
loạn". " việc không qui nhất " sau cùng cái tới mức " mỗi
nhà - gia đình đại thần - tự làm chính trị, mỗi người tự coi là Quốc Gia "
( Nguyên sử ký sự bán mạt của Trần Bang Chiêm). Mấy hàng đó đáng cho chúng ta
suy nghĩ
Tới đời vua cuối cùng là Thuận
Đế, tình thế còn tệ hại hơn nữa. Ông ta giỏi chữ Hán. Hán hoá rồi - nhưng nhu
nhược, dâm dục và rất mê tín, hoàn toàn bị một bọn Lạt ma đồi trụy sai khiến,
nhồi như nhồi bột, tin bùa phép của bọn phù thủy và dùng những thuật rất tởm về
phòng khuê để tìm khoái lạc và hy vọng trường thọ. Ông ta sai cất một cái phòng
gọi là phòng vô tội " Chambre de l Innocence - Tsui Chi dịch) trong đó ông
ta tha hồ hành hạ bọn cung nữ. Các quý phi của ông ta phải khỏa thân múa "
Khúc Quỷ nhà Trời " (Danse des diables célestes ) mà nội cái tên cũng đủ
cho ta tưởng tượng nó ra sao rồi. Các Lạt Ma mà ông tin hơn các thượng thư, dĩ
nhiên cũng có mỗi người một " hậu cung "riêng.
Vua quan như vậy, còn bọn quân
lính Mông Cổ ra sao? Họ cũng Hán hóa, nghĩa là mất hết cái vũ dũng truyền thống
mà hóa ra nhút nhát, ngại khó nhọc, ngại chiến đấu, cũng chỉ ham hưởng lạc, tới
nỗi một miền nọ có một đảng cướp khỏang 50 tên mà triều đình phải tới 1.000
quân Mông Cổ tới mới dẹp nổi. Hốt Tất Liệt cấm dân của ông Hán hóa nhưng cấm
sao nổi. Đời sống Trung Hoa có nhiều cái thú quá, nhất là đời sống ở Hàng Châu,
Karo Korum làm sao sánh được. Thức ăn toàn là mỹ vị, y phục toàn là lụa gấm,
thèm thanh sắc của thiếu nữ Trung Hoa nữa ... Thế hệ Mông c Cổ đầu tiên làm chủ
Trung Hoa là thế hệ chiến sĩ có thể chống nổi với những sự cám dổ đó, thế hệ
sau sinh ở Trung Hoa tất thích sống trong lâu đài hơn là trong lều, ăn nem, chả
của Trung Hoa hơn là ăn thịt ngựa và uống sữa nữa. Vì vậy mà nhà Nguyên làm chủ
Trung Hoa chưa được 90 năm đã bị đuổi về các cánh đồng của họ. Mà chẳng riêng
nhà Nguyên các Hãn quốc khác cũng vậy, cũng chỉ giữ được thuộc địa khoảng 100
năm, trừ Khâm sát hãn quốc nằm ở phía Bắc hoang vắng, xa xôi, là tồn tại được
hai thế kỷ rồi mới bị Nga diệt. Vậy một dân tộc dù hùng cường tới đâu cũng
không thể thịnh hoài được; kẻ bị trị dù yếu tới đâu mà còn giữ được ngôn ngữ ,
truyền thống thì tất có lúc sẽ đuổi được kẻ thù đi.
D. VĂN HÓA
Trên tôi đã nói về tình hình xã
hội và kinh tế đời Nguyên, nên trong mục cuối cùng này tôi chỉ xét về văn hóa.
- Tôn giáo nói chung khá phát
đạt, nhưng Phật Giáo đại thừa không thêm được một tôn phái nào; Phật Giáo có
phần bị nén mà Lạt Ma giáo được đề cao nhất, rồi tới Hồi Giáo.
- Về triết học. Hán Hành đem cái
học của Chu Hi truyền bá ở phương Bắc, không phát huy thêm được gì.
Một điều ngộ nghĩnh đáng ghi là
một chí sĩ cuối Tống đầu Minh tên là Đặng Mục, viết hai thiên Quán Đạo và Lại
Đạo chê chế độ quân chủ tập quyền và quan liêu là không hợp lý. Ông bảo :
" Vua lấy thiên hạ làm của riêng, tàn hại nhân dân để làm vui cho mình
...., thu thập thật nhiều tài vật, sợ người khác đoạt mất. lại đặt ra quân đội,
hình pháp để tự vệ như vậy thì cái họa tranh đoạt không khi nào ngưng được
..." quan lại lớn nhỏ ... chơi bời, ăn không ... hại hơn là hổ báo, đạo
tặc..., họ đoạt cái ân của dân, dân làm sao khỏi oán phẫn, nổi loạn ! Chỉ có
cách là phế vua, đuổi quan đi, để dân tự trị thì mới an lạc được. Chế độ quân
chủ đã tới lúc bị oán quá rồi, mà mầm dân chủ đã muốn nhú.
Văn Thơ
- Sử ký: Một nhà quý tộc Mông Cổ,
Đoái Đoái, phụng chiếu viết mấy bộ sử về Tống, Liêu, Kim, Nguyên, nhưng không
có giá trị: sai lầm, thiếu sót, văn rất kém. Da Luật Sở Tài, người Khiết Đan,
cùng có một bộ Tạp Lục về chiến tranh, gồm 348 quyển. Đáng kể là bộ Văn hiến
thông khảo của Mã Đoan Lâm, một klẻ sĩ ẩn cư không chịu ra làm quan với Mông
Cổ.
- Cổ văn kém hơn đời trước xa,
tác giả chỉ mô phỏng Âu Dương Tu và Tăng Củng mà thiếu tài.
- Thơ, tình đẹp, lời nồng song
thiếu phần đặc sắc. Từ có một thế gọi là tản khúc, hơi thịnh, tác giả chán nản
hết thảy, từ danh đến lợi, chỉ ca tụng thú điền viên, sơn thủy.
- Cuối đời Nguyên, tiểu thuyết
viết bằng bạch thoại bắt đầu thịnh và qua đời Minh mới phát triển mạnh, nên tôi
để đến chương sau sẽ xét.
- Tuồng
Một ảnh hưởng quan trọng của
Trung Á là nghệ thuật diễn tuồng. Từ vua quan đến dân đều thích, nên nhiều nhà
văn Trung Hoa đem cả tâm lực ra soạn tuồng, nhưng không ký tên thực vì có thành
kiến rằng nó không phải là thứ văn đứng đắn ( người ta viết bằng bạch thoại,
nhiều câu, đoạn theo thể biến ngẫu để cho du dương, dễ ngâm), một phần cũng vì
trong tuồng cổ có nhiều chộ chẳng hạn khi nêu gương ái quốc) bọn cầm quyền
không ưa. Mặc dầu vậy, tuồng đời Nguyên có địa vị của từ đời Tống, thành tinh hoa
văn hoa văn học đời Nguyên, nhờ nhửng nguyên nhân sau đây:
- Văn nhân và dân chúng bị áp bức
quá, không dám thổ lộ nỗi uất hận trong câu chuyện, trong văn thơ, phải mượn
tuồng để phát biểu, nhất là tuồng có sức lôi cuốn dám đông rất mạnh. Nghiến
răng nguyền rủa Tần Cối ( Hán giang đời Tống) tức là nguyền rủa kẻ bán nước
đương thời ; vỗ tay hoang nghênh Nhạc Phi tức là khuyến khích những vị anh hùng
muốn rửa cái nhục vong quốc.
* Văn nhân không thể - hoặc không
muốn - dùng khoa cử , thi phú để hiển danh nên đem hết tài năng ra soạn tuồng.
Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử, họ cách biệt hẳn với nhà cầm quyền, quay
về sống với dân chúng, chịu cảnh nhục chung với dân chúng, sáng tácf cho dân
chúng.
Xét về nhạc và cách điệu chung,
tuồng đời Nguyên có thể chia làm:
- Bác khúc có giọng điệu hùng ,
như tuồng Tì Bà Kí.
- Nam khúc có giọng điệu lãng mạn như
tuồng Tây Sương Ký
Tuồng của Việt Nàm bắt chước
tuồng Trung Hoa, cho nên tuồng của hai nước có những đặc điểm như nhau:
* Không theo phép tam nhất trí (
Règles des trois unités) như bi kịch cổ của Hi Lạp , Pháp. ta thường thấy trong
màn trước một vai còn trẻ tử biệt cha mẹ để đi thi mà hai màn sau vai đó đã
già; màn trước diễn cảnh triều đình mà màn sau diễn cảnh chiến trường cách xa
cả ngàn dặm; tình tiết trong bản tuồng cũng ít khi tập trung vào một việc chính
để tiến tới kết cục.
* Kết cục luôn vui ( có hậu ) vì
nhà soạn tuồng luôn luôn có ý răn đời: tiết phụ thì được phong, nghịch tặc thì
bị giết, trung thần thì được vinh....
* Cách dàn xếp không tách bạch
rta từng hồi, từng cảnh như bi kịch Pháp vì sự dàn cảnh, bài trí rất sơ sài, có
khi không thay đổi từ đầu đến cuối.
* Nhà dàn cảnh luôn luôn dùng qui
ước mà khán giả phải hiểu; một cây roi đủ thay một con ngựa , hể mặt đỏ râu dài
thì là trung thần, mặt loang lỗ, trắng đen thì là nịnh thần....
* Trong tuồng có nhiều đoạn nói
lối để các vai tự giới thiệu mình hoặc tóm tắt những việc đã xảy ra cho khán
giả để hiểu.
Những vai nữ thường do đàn ông (
kép) đóng thay.
Thời Mông Cổ, có tới bốn năm chục
nhà soạn tuồng, nổi tiếng nhất là Quan Hán Khanh, Vương Thực Phủ, Bạch Phác,
Maã Trí Viễn. Họ sáng tác rất mạnh, được cả ngàn tuồng, nay không còn được đủ
Về nội dung, ta có thể sắp làm
năm loại:
* Tuồng diễn những vụ xử án công
bằng. Xã hội đời Nguyên là xã hội bất công, dân chúng Trung Hoa bị ngoại bang
áp bức, công lý không còn, dân không biết kêu ca vào đâu chỉ nuôi hy vọng gặp
được những vị quan thanh liêm, công bằng như Bao Công để họ thán oan. Những
tuồng Hồ Điệp mộng, Đậu Nga oan ... của Quan Hán Khanh thuộc loại này.
* Tuồng nghĩa hiệp. Có thể cả
đời, hai ba đời không gặp được một vị quan thanh liêm, nhân từ, nhất là ở đời
Nguyên. Mông Cổ nắm hết việc cai trị , nên người ta gặp những tay nghĩa hiệp để
nhờ họ phục cừu cho mau; đó là đề tài những tuồng Tam Hồ Hạ Sơn, Phong tuyết
khốc hàn đình ...
* Tuồng nhân quả. Những bậc nghĩa
hiệp cũng không dể gì gặp được, chỉ còn cách nuốt hận và mượn thuyết quả báo
của nhà Phật để tự an ủi và cảnh cáo kẻ khác. Tư tưởng đó được phát biểu trong
những tuồng Thần Nô nhi, Lão sinh nhi ...
* Tuồng thần tiên. Tiêu cực hơn
nữa, người ta lánh đời, đi tìm đạo tiên, lên tu trên núi để mượn tiếng chim kêu
vượn hót mà quên đi kiếp đời khổ nhục, chẳng còn biết có vua, có nước, có Hán,
có Tần, có Tống, có Nguyên nữa, như các nhân vật chính trong Trần Đoàn cao ngọa
của Mã Trí Viễn, Hoàng Lương mộng ....
* Tuồng luyến ái. Nhân quả là mơ
hồ, tu tiên cũng là ảo vọng, đều không thực tế, không bằng trầm túy bên cạnh mỹ
nhân, nhìn về ngọc, nghe tiếng oanh mà đánh đắm nỗi sầu trong ly rượu, đó mới
thực là cảnh tiên, cảnh tiên trong cõi tục. Những tuồng trong loại này nhiều
nhất, được nhiều người thích vì rất mãng mạn, như Bái nguyệt đình, Phong hoa
tuyết nguyệt, Ngọc xuân đường .... Nổi danh nhất là Tây sương Ký của Vương Thực
Phủ.
Có tài nhất là Quan Hán Khanh.
Ông soạn được 63 tuồng, nay chỉ còn 13. Hai tuồng Đậu Nga oan và Cứu phong trần
rất được truyền tụng . Có người ví tuồng của ông với bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên,
có tác giả lại so sánh nó với thơ Đường, họ đều nhận thấy rằng nó có địa vị rất
lớn trong văn học Trung Hoa. Ông rất khéo về kết cấu và miêu tả.
Vương Thực Phủ , tác giả Tây
Sương Ký, có tài tả tâm lý một thiếu nữ đa tình bị lễ giáo kiền thúc: mới đầu
muốn yêu mà không dám, về sau khi đã yêu thì nhiệt tình vô cùng, lúc trằm mặt,
lúc phóng đảng cũng rất mực.
Một học giả, Vương Quốc Duy phê
bình tuồng đờ Nguyên như sau:
" Cái hay của tuồng đời
Nguyên ... có thể tóm tắt trong một tiếng là tự nhiên ( ....) Vì người soạn
tuồng đời ấy ( .....) không có ý lấy văn học cầu danh vị; cũng không có ý chôn
tác phẩm vào danh sơn để lưu truyền hậu thế. Họ cảm hứng mà viết để làm vui mình
và vui người; lời khéo vụng, họ không kể , ý thô lậu, họ không ngại ( ...) . Họ
tả cảm tưởng trong lòng cùng tình trạng xã hội, mà cái lẽ chân thành, cái khí
hùng dũng thường hiện trong văn ...."
- Về các nghệ thuật điêu khắc,
kiền trúc, đồ sứ, dệt, thảm ..., Trung Hoa đều học được của Tây Yạng, Ấn Độ, Ả
Rập ít nhiều như các trang trên tôi đã nói qua.
Riêng về họa, Trung Hoa không
chịu ảnh hưởng của nước ngoài. Đời Nguyên có tới 400 danh họa gia, thịnh hơn
các đời trước; cơ hồ một số lớn buồn về thời cuộc, lấy môn đó để tiêu khiển,
nhiều nhà vô ẩn trong núi, chuyên về cảnh lân tuyền, như những bức " Xuân
Hạ Ẩn Cư " của Vương Mông; " Thúy Trúc U Cư "
Một nhòm khác trong đó có Nghệ
Toản tạo ra một lối mới của miền Nam; Nghệ Toản có những bức Tây Lâm thiền
thất, Sơ Lâm cô đình biểu hiện được cái thú nhàn tản.
Triệu Mạnh Phủ là một quí tộc
Tống hàng Nguyên . Cha con, anh em, vợ chồng đều vẽ giỏi. Bức tranh vẽ một
người Hồ săn bắn của Phủ nổi tiếng vì ghi được dũng khí của kị sĩ Hồ.
Khoa học:
Đời Nguyên không phát minh được
gì mà tiếp thu được của Trung Á, Tây Á, và Châu Âu ít nhiều về thiên văn học,
số học, cơ giới.
Về y học, Lí Cảo nổi danh, ông để
lại các bộ Nội , ngoại thương biện luận, Tì vị luận, hình như ông cũng nghiên
cứu về châm cứu, có một bức tượng bằng đồng chỉ các huyệt trên cơ thể.
NHÀ MINH
Các học giả phương Tây nghiên cưứ
rấy ít về đời Minh và nửa đầu đời Thanh một phần vì tài liệu quá nhiều - thư
khố quốc gia Trung Quốc mới cất ở gần K Bắc Kinh, chứa tới trên năm triệu tài
liệu - một phần vì trong các thế kỷ XV - XIX Châu Âu thay đổi hẳn ( cải cách
tôn giáo, phục hưng văn nghệ, tạo được một tân thế giới ở bờ bên kia Đại Tây
Dương, rồi cách mạng chính trị, cách mạng kỹ nghệ), còn ở Trung Hoa thì từ
chính trị tới xã hội không có gì biến chuyển đáng cho các học giả chú ý tới.
Quả thực, trong mấy thế kỷ đó,
phương Tây tiến rất mạnh mà Trung Hoa thì đứng ì một chỗ. Đời Minh đế quốc rộng
gần bằng đời Đường, dân số đông hơn ( hồi đầu khoảng 53 triệu, cuối đời được từ
100 đến 150 triệu), vua thì cũng như mọi triều đại khác, chỉ được hai ông giỏị
Thái Tổ và Thành Tổ), họ cũng vẫn phải đương đầu với hai vấn đề: chống với các
rợ, lo cho dân khỏi đói, như các thời trước, còn thì đại đa số là một bọn vua
tầm thường, tồi tệ, sống xa xỉ, phóng túng, để hoạn quan nắm hết quyền hành,
rốt cuộc cũng lại tủi nhục để cho non sông vào tay rợ Mãn Thanh.
Trong non ba thế kỷ- nhà Minh
không tiến bộ về một phương diện gì cả - Trừ về văn học bình dân, y tức bạch
thoại - và việc đáng ghi hơn cả chỉ là việc Trịnh Hòa bảy lần đi qua " Tây
Dương " - tức Nam Dương và Ấn Độ Dương ngày nay.
Chính vì không có một sự thay
đổi, một biến cố nào quan trọng, không có cả các việc phế rồi lập, lập rồi phế
các vua như cuối đời Đường, mà đời Minh được một số sử gia khen là thời tương
đối thái bình, ổn định hiếm có trong lịch sử! Các vua Minh được yên ổn truyền
nhau ngai vàng lâu hơn đời nào hết.
A. THỜI THỊNH
1- Thái Tổ. ( 1368 - 1398 ), ông
vua độc tài nhất trong lịch sử Trung Hoa.
Nhà Minh thịnh được trong bảy
chục năm đầu nhờ hai ông vua giỏi: Thái Tổ và Thành Tổ.
Chu Nguyên Chương lên ngôi, quốc
hiệu là Minh , niên hiệu là Hồng Vũ, đóng đô ở Kim Lăng ( Nam Kinh ngày nay), gọi
là Ứng Thiên Phủ.
Lúc đó vua Nguyên tuy đã chạy ra
khỏi Hoa Bắc mà về Mông Cổ, nhưng vẫn giữ đế hiệu, tự coi vẫn là vua Trung Hoa,
vì một dải đất ở phương Bắc : Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc vẫn do tướng Mông Cổ
chiếm cứ: Thái Tổ phải sai tướng dẹp bọn họ, sát nhập những miền đó vào bản đồ
nhà Minh.
Ở phía Nam, một bọn anh hùng
chiếm Thành Đô ( tỉnh Tứ Xuyên) và đất Vân Nam . Dẹp xong phương Bắc, Thái Tổ
dẹp nốt bọn đó.
Sau cùng , năm 1387, quân Minh
lại thu được Liêu Đông ở phía Đông Bắc, mà thống nhất Trung Quốc từ Bắc tới
Nam, từ Tây qua Đông ( Coi bản đồ trên). Đó là công lớn của Chu Nguyên Chương.
Ông xuất thân trong giới hạ tiện,
nghèo hèn hơn Lưu Bang nhiều, phải vào ở chùa để có cơm ăn, nhờ vậy mà được học
ít năm; sau theo nông dân nổi loạn . Ông lãnh đạo họ mà gian nan lập nên sự
nghiệp.
Cũng như Lưu Bang và đa số các
ông vua sáng nghiệp, khi thành công, Chu không muốn dùng các bạn chiến đấu nữa,
vì họ quá thân với mình, biết tài của họ và sở trường cùng sở đoản của mình ra
sao, khó mà trị họ. Sợ nhất là khi mình chết rồi, con mình còn nhỏ, họ chuyên
quyền uy hiếp, nên ông tìm cách chia rẽ, vu hãm họ, lần lần họ bị giết hết, làm
liên lụy đến mấy vạn người lương thiện nữa. Ông không khôn khéo như vua Thái Tổ
nhà Tống, mà tàn nhẩn vô cùng.
Cũng như Lưu Bang, vì ít học, nên
ông nghi kỵ các văn thần, bề tôi đang biểu chương, ông thấy có chữ gì nghi ngờ
là có ý nhạo báng mình thì giết hết.
Sử chép có người khen ông là biết
đạo, ông hiểu rằng là mỉa ông làm đạo tặc. Một người khác nịnh ông là làm tăng
trí tuệ lên ( tăng trí), ông cho rằng chê ông có cái trí tuệ của bọn tăng (thầy
chùa).
Ông rất cương quyết, không nhượng
bộ, tàn bạo tới cái mức đại thần ở triều có điều gì không vừa ý ông thì ông
cũng sai nọc ra, đánh trượng. Ông là ông vua Hán độc tài nhất trong lịch sử
Trung Hoa, không kém Tần Thủy Hoàng. Năm 1375, một vị thượng thư bị đánh tới
chết, và các đời vua sau thỉnh thoảng cũng hành động như ông. Sự tàn bạo đó,
chắc ông học được của vua Mông Cổ, nó trái hẳn truyền thống của đạo Nho mà ba đời
Hán, Đường, Tống còn giữ.
Ông biết triều đại nào cũng bị
cái nạn ngoại thích và hoạn quan mà mất ngôi, nên ông khuyên mẫu hậu không nên
lâm triều, vbà treo một thiết bài( bảng bằng sắt) ở cửa cung, cấm hoạn quan dự
chính. Nhưng lệnh đó đến đời con ông đã bãi bỏ.
Đọc những đoạn " Mạnh Tử đối
đáp Tề tuyên Vương" ( trong Mạnh tử - chương Lương Huệ Vương - thượng và
hạ) ông rất bất bình, ra lệnh dẹp hết những phiến đá khắc các bài ấy mà vua
Thần Tôn nhà Tống sai dựng năm 1084 ở miếu thờ Khổng Tử. Nhưng năm sau, không
hiểu nghĩ sao, ông đặt lại chỗ cũ. Tôi đoán rằng ông bất bình nhất về đoạn Tề
Tuyên vương hỏi Mạnh Tử ;" Bề tôi giết vua được không? " Mạnh đáp:
" Kẻ làm hại điều nhân thì gọi là "tặc" ( giặc); kẻ làm hại điều
nghĩa thì gọi là " tàn " ( tàn bạo); một kẻ tàn tặc thì gọi một tên
" độc phủ ( ai cũng bỏ). Tôi nghe nói giết một kẻ độc phu tên là Trụ, chưa
nghe nói rằng giết vuả Điều đó đủ tỏ Chu Nguyên Chương độc tài ra sao.
Nhưng ông cũng có điểm tốt: Ở
trong giới bình dân ra, ông bênh vực giai cấp cũ của ông. Nhiều lần ông tha
thuế cho dân nghèo.
Dân có điều gì uất ức ông cho
phép trình thẳng lên ông. Quan lại mà tham ô, bị dân tố cao, ông cho điều tra ,
nếu ăn hối lộ sáu chục lượng thì bị chém đầu, ông rất trọng đức liêm khiết, coi
trọng dân tình mà đối với quan lại rất nghiêm
Một viên quan nào được lòng dân
thì tuy phạm tội, dân xin tha, ông cũng tha, có kẻ còn được thăng chức nữa, như
một viên tri châu nọ, thu thuế sai kì, đáng lẽ bị bắt, các phụ lão trong châu
lên kinh xin lưu viên đó lại, ông chuẩn y và còn tặng lộ phí cho các phụ lão
nữa.
Lại như một viên chủ bạ nọ, có
lỗi gì đó cần phải tra vấn, nhân dân lên kinh trình bày đức liêm chính của viên
đó, ông chẳng những tha tội mà còn thăng chức cho nữa. Còn hạng quan lại vì
không yêu dân mà bị tội thì nhiều vô kể.
Các đời vua sau, nhiều ông theo
chính sách quí dân đó. Chẳng hạn như đời Anh Tôn ( 1436 - 49), một viên tri phủ
Tô Châu hết kỳ hạn ba năm ở nhiệm sở rồi, theo lệ phải bổ đi nơi khác, nhưng
hai vạn dân xin triều đình lưu ông ta lại, ông ta khỏi bị đưa đi nơi khác mà
được ở lại Tô Châu cho tới chết, dĩ nhiên là vẫn chỉ làm tri phủ, nhưng cứ theo
lệ được thăng phẩm trật.
Nhưng ông cũng như mọi ông vua
khác, khi sáng lập triều đại mới rồi thì bỏ phế chế độ triều đại cũ, cho rằng
triều đại cũ bị diệt vong vì chế độ xấu chứ không phải vì người xấu. Sự thực
thì chế độ nào cũng có mặt trái, người tốt thì bổ được mặt sở đoản của chế độ
mà nước thịnh, người xấu thì không biết dùng cái sở trường của chế độ mà càng
mau suy. Chế độ không quan trọng bằng con người.
Chu Nguyên Chương chắc không đọc
sử nhà Hán mà cũng không đọc mấy hàng này trong bài Thâm Tự Luận của Phương
Hiếu Nhụ, một kẻ sĩ có khí tiết đồng thời với ông: Hán thấy Tần cô lập mà tự
răn mình, mới phong khắp các con em làm chư hầu, cho rằng họ hàng thân thích
với nhau thì có thể kế tiếp nhau giữa xã tắc mà không sinh loạn, nhưng rồi bảy
nước lại tính cái mưu thoán thi " ( cướp ngôi và giết vua ). Vụ đó xảy ra
đời Hán Cảnh Đế, khoảng 40 năm sau khi Hán Cao tổ băng hà, bảy nước đó là bảy chư
hầu: Ngô, Sở , Triệu ...
Chu cũng thấy nhà Tống, nhà
Nguyên cô lập mà mất, lại noi gương Hán, theo chính sách của Hán, phong cho
trên 20 người con ở các yếu địa, thành các nước chư hầu:
Tấn, Yên, Sở , Hàn, Chu..... Họ
được chuyên quyền trong nước họ, có nhiều quân, làm phiên li che chở cho triều
đình. Trong số đó thì yên Vương là Lệ ở Bắc Kinh và Tấn Vương là Cang ở Thái
Nguyên uy quyền rất lớn. Và cái họa nồi da nấu thịt xảy ra bốn năm sau khi Chu
Nguyên Chương băng hà ( chứ không đợi đến 40 năm như đời Hán) .
Nguyên do là ông lập con trưởng
làm thái tử, nhưng thái tử chết sớm, ngôi vua về cháu nội ông, tức Huệ Đế.
Huệ đế thường lo về cái loạn các
phiên vương ( chư hầu ) mạnh thế có thể làm nguy cho triều đình như cái loạn
" bảy nước" đời Hán, đem việc đó bàn với hai người thân tín - một
người là hoàng tử - tìm cách giải quyết, rồi tước trừ năm sáu phiên vương, một
số bị xử tội chết.
Vua nước Yên tên là Lệ, tại Yên
Kinh ( Bắc kinh) là con thứ vua Thái Tổ ( Chu Nguyên Chương), vốn giỏi dùng
binh, có nhiều tướng sĩ, thấy mình bị nghi ngờ, canh chừng ngặt quá, sợ không
thoát khỏi cái họa của năm sáu phiên vương kia - và cũng muốn nhân cơ hội,
chiếm ngôi của cháu nên lấy cớ là để giết hai kẻ thân tín của Huệ đế đã
"" gây tai họa" ra tay trước , cử binh về đánh kinh đô, và gọi
binh đó là binh " tĩnh nạn" ( binh dẹp cái nạn ở triều đình) .
Tại triều đình, các tướng giỏi đã
khổ cực với Chu Nguyên Chương đã bị Chu giết hết rồi, không còn ai chống cự nổi
với quân " tĩnh nạn " nên thua to. Huệ đế sai sứ đến Yên xin nghị
hòa, nhưng không thành. Yên vương đánh kinh đô , một số hoạn quan biết Huệ đế
không sao giữ nổi ngôi, mật báo tình hình kinh sư cho Yên vương , làm nội ứng,
tướng giữ thành xin hàng, trong cung phát hỏa , Huệ đế không biết sống chết ra
sao. Người ta nghi rằng ông ta trốn khỏi kinh đô bằng một con đường hầm và
xuống phương Nam. Có sách bảo ông trốn làm thầy chùa ở phương Nam, gần chết mới
đưa về Bắc làm lễ chôn cất theo nhà vua.
Việc đó xảy ra năm 1402. Vậy là
Huệ đế chỉ ở ngôi được bốn năm.
Lệ lên ngôi hoàng đế rồi, tức vua
Thành Tổ. Vụ cướp ngôi này bị thanh nghị rất chê. Ông cũng tàn nhẫn như cha,
một mặt giết nhiều bề tôi triều trước, làm liên lụy đến vô số người khác, một
mặt sai Văn học bác sĩ là Phương Hiếu Nhụ thảo tờ " chiếu lên ngôi "
để có vẻ hợp lệ một chút.
Khi ông đem quân đánh kinh sư,
một vị hòa thượng đã dặn ông: " Phương Hiếu Nhụ tất không hàng đâu, nhưng
xin ông đừng giết. Giết Nhụ thì cái nòi đọc sách ( tức theo đạo thánh hiền)
trong thiên hạ sẽ tuyệt mất". Vì vậy, khi gọi Hiếu Nhụ vào, Yên vương vỗ
về ngay:
- Tiên sinh đừng tự làm khổ thân,
tôi chỉ muốn theo Chu công mà giúp Thành vương đấy thôi. ( 1)
Hiếu Nhụ hỏi:
- Thành vương ở đâu?
- Hắn tự thiêu rồi.
- Thế sao không lập con Thành
vương?
- Đó là việc trong nhà Trẫm.
Đáp rồi, Thành tổ kêu tả hữu đưa
bút giấy cho Hiếu Nhụ:
- Thảo tờ chiếu để ban bố trong
thiên hạ, không nhờ tiên sinh thì không được.
Hiếu Nhụ, liệng cây bút xuống
đất:
- Chết thì chết, không chịu thảo.
Thành tổ giận, sai phanh thây ông
ở chợ ( 2). Năm đó ông 46 tuổi. Vợ và con đều tự tử. Họ hàng, bè bạn trước sau
bị giết tới mấy trăm người.
Vụ đó là một cái tội nữa của Yên
vương Lệ, mà cũng là sự dã man của luật Trung Hoa: con cháu có tài, đức, có
công với quốc gia, thưởng công cha mẹ, ông bà thì nên, có tội với quốc gia,
triều đại thì sao lại tru di tam tộc( họ cha, họ mẹ, cả họ vợ nữa) với cửu tộc?
Loạn thất quốc đời Hán, loạn tĩng
nạn đời Minh - và vô số những vụ thoán thí khác nữa cho ta thấy một trong nhiều
tệ của chế độ quân chủ Trung Hoa, nói chung là của phương Đông. Ở thời đại
phong kiến, quân chủ , chế độ tốt đẹp hơn cả là chế độ truyền hiền chứ không
truyền tử - Will Durant trong cuốn Bài học của lịch sử : The Lessons of History
- New York 1968. gọi là lập tự chứ không thế tập, như thời năm vua Nerva,
Trajan, Hadrien, Antonin và Marc Aurèle, kế vị nhau làm vua La Mã từ 96 đến 181
sau T.L.
Durant viết: Renan khen rằng
" thế giới chưa bao giờ được một loạt minh quân tài giỏi như vậy ".
Sử gia Gibbon cũng bảo: " Nếu phải chỉ ra một thời đại mà nhân loại được
sung sướng nhất, thịnh vượng nhất, thì người ta nghĩ ngay đến thời từ Nerva lên
ngôi tới khi Marc Aurèle chết. Mấy triều đại đó gom lại thành một thời đại duy
nhất trong lịch sử mà nhà cầm quyền chỉ chuyên lo tới hạnh phúc đại dân tộc"
. Trong thời rực rỡ đó các dân tộc qui phục La Mã lấy làm sung sướng về thân
phận của họ, chế độ quân chủ không có tính cách thế tập mà có tính cách lập tự:
nhà vua lựa người nào có tài năng nhất mà nhận làm con nuôi, chỉ bảo cho việc
trị nước rồi tuần tự giao phó quền hành cho. Chính sách đó không gặp trở ngại,
một phần vì cả Trajan lẫn Hadtien đều không có con trai, còn các con trai của
Antonin thì chết sớm.
Marc Aurèle có một người con trai
tên là Comnode, nối ngôi ông vì vị hiền triết đó ( Marc Aurèle) quên không chỉ
định một người kế vị, tức thì cảnh hỗn loạn phát ra liền. ( Bài học của lịch sử
- Ch.X).
Theo truyền thuyết thì Trung Hoà
cũng có một thời đại như vậy, thời vua Nghiêu, vua Thuấn và vua Vũ, Thuấn là bề
tôi của Nghiêu được Nghiêu lựa chọn rồi truyền ngôi cho. Sau vua Vũ thí ngôi
vua truyền tử chứ không truyền hiền nữa, có tinh cách thể tập rồi. Sự thực có
lẽ không đúng hẳn như vậy, mà Nghiêu, Thuấn, Vũ chỉ là những tù trưởng được các
bộ lạc bầu lên.
Khổng tử cho rằng thời đó là
hoàng kim thời đại của Trung Hoa, dân chúng sung sướng, tối không nhà nào phải
đóng cửa , đi đường không ai nhặt của rơi ... Trong hơn hai ngàn năm sau, các
triết gia Trung Hoa đều tin như ông. Vậy chúng ta có thể đoán rằng, Khổng Tử
không nói ra chứ thực tâm thích chế độ quân chủ truyền tử , thế tập của nhà Chu
đấy thôi. Lỡ sống ở đời Chu, ông phải đem hết tâm trí, cải thiện chế độ của Chu
bằng cách vạch rõ bổn phận của vua, tư cách ông vua phải có, nếu vua không đủ
tư cách, không làm tròn bổn phận thì phái " chính danh" , nghĩa là
phải tìm người khác thay, vì không còn xứng làm một ông vua nữa.
Trong hai ngàn năm, dân tộc Trung
Hoa từ vua trở xuống đều theo học thuyết của Khổng, mà chế dđộ quân chủ của
Trung Hoa fcũng như mọi chế độ quân chủ trên thế giới, thành công rất ít, nó
chỉ có cái lợi là có tính cách liên tục, nhưng hại thì rất nhiều; mười ông vua
may lắm chỉ được vài ông khá, còn thì đa số hoặc ngu độn, hoặc vô trách nhiệm,
lạm dụng quyền hành, cuồng ; hại vì những chiến tranh kế vị - như vụ "
tĩnh nạn "- làm cho dân chúng lầm than, ngay hoàng tộc cũng khốn đốn, chết
chóc; trong xã hội thời quân chủ, không giới nào có nhiều kẻ chết bất đắc l kì
tử như giới hoàng tộc. Đất đai càng rộng, quốc gia giàu, quyền hành của vua
càng lớn thì cái ngai vàng càng bị nhiều kẻ tranh giành: từ anh em ruột thịt,
tới chú cháu, cả mẹ con, bà cháu. Có ai làm thống kê xem trong mỗi triều đại,
có bao nhiêu người trong hoàng tộc, kể cả nội ngoại chết vì ham cái ngai vàng?
******
(1) Chu công đời nhà Chu là em
vua Võ vương, chú của Thành Vương. giữ chức nhiếp chính, giúp vua Thành vương
lúc đó còn nhỏ. Yên vương Lệ cũng là chú của Huệ đế, tự coi mình như Chu công
và coi Huệ đế như Thành vương
(2) Có sách chép khác:
- Yên vương dọa giết chín họ ông,
Ông đáp: "Giết cả mười họ cũng chẳng sao ".
Sau đó chín họ của của Nhụ bị tru
di. Theo Từ Nguyên thì luật đời Minh, chín họ ( cửu tộc) trở đời mình và bốn
đời sau mình. Nghĩa đó không thông , nên tôi theo truyền thuyết trên. Bốn đời
trước, tức ông nội của ông nội Hiệu Nhụ đã chết rồi, bốn đời sau, tức cháu của
cháu thì chưa sanh, làm sao giết được? Vả lại , như vậy phải gọi là cửu đại chứ
sao lại gọi là cửu tộc?
THÀNH TỔ ( 1403 - 1424 )
Lên ngôi rồi, Thành Tổ ( niên
hiệu là Vĩnh Lạc) bỏ Nam Kinh ở Kim Lăng mà dời đô lên Bắc Kinh ( Yên Kinh).
Bắc Kinh dưới triều Nguyên đã
được xây dựng lại cho rộng hơn, rực rỡ hơn, rất tốn kém, nay Thành Tổ lại sửa
sang, xây cất, mở rộng thêm nữa, và thành trung tâm của văn minh Trung Hoa cho
tới ngày nay, lớn hơn Nam Kinh nhiều. Các du khách, các phái đoàn ngoại quốc hễ
tời Bắc Kinh thì đi thăm Tử cấm thành ( có tên đó vì có những bức tường cao sơn
màu tía bao vây cấm thành - nơi có cung điện), các vườn Thượng uyển rất rộng
như Di hoà viên, rồi lên phía Bắc coi Vận lý trường thành, sau cùng là các lăng
tẩm của vua triều Minh. Những kiến trúc đó tiêu biểu cho kiến trúc, văn minh
Trung Hoa và đều xuất hiện hoặc phát triễn, tu bổ ở đời Minh cả.
Thành tổ phá thành của nhà
Nguyên, xây lại thành mới vuông vức chu vi trên 21 cây số, tường cao 13 thước,
tất cả có chín cái cửa lớn. Ở giữa là khu cung điện vuông vắn chu vi tám cây
số. Chung quanh cung điện lại có một cái hào dài hơn ba cây số. Cung điện hướng
về phía Nam, ở ngay trên cái trục chính của kinh đô Bắc Kinh, nơi đó gọi là
hoàng thành vì nóc lợp bằng ngói màu vàng, cột gỗ sơn đỏ. Các bực đưa lên điện
đều bằng cẩm thạch trắng, cột trụ đắp đồ sứ trắng hoặc lam.
Phía Nam nội thành đó lại thêm
một khu hình chữ nhật có 7 cửa, gọi là ngoại thành , nó rộng hơn thành trong
một chút, mà sâu chỉ bằng nữa. TRừ ngoài vô, phải qua tám cái cửa đồ sộ rồi mới
tới điện trong cấm thành.
Lăng tẩm triều Minh rải rác trên
khắp một thung lũng, trên mặt đất rất nhiều tượng đá hình người và loài vật,
trong mộ chôn vô số bảo vật, Mao Trạch Đông đã cho khai quật một số đem qua
Châu Âu triển lãm.
Coi các cung điện vào lăng tẩm
thời đó, chúng ta mới thấy được các vua Minh thích sự đồ sộ và tráng lệ ra sao.
Khi Chu Nguyên Chương dồn được
các đạo quân Mông Cổ về các đồng cỏ của họ ở phương Bắc rồi, ông cho xây cất
một trường thành mới để ngăn họ không cho xâm lấn Trung Quốc nữa, vì trường
thành xây cất đời Tần Thủy Hoàng, tới đời Đường không còn là biên giới nữa,
nhiều chỗ đã sụp đổ. Trường thành mới nằm cách xa trường thành cũ, về phía Nam,
phía Đông từ Sơn hải quan ( Triều Tiên), phía Tây tới Ninh Hạ, dài hết thảy
12.700 cây số ( coi bản đồ 129). Chu giao cho 9 chư hầu cai trị, giữ gìn, mỗi
chư hầu một khúc. Ngoài công dụng ngăn các rợ phương Bắc, nó còn là một con
đường giao thông b nữa để tiện lập các đồn điền phía biên viễn, và để kiểm soát
các rợ.
<< Hình >> Bắc Kinh
đời Minh - Thanh ( do người Nhật vẽ)
Từ khi Kinh Đô đời lên Bắc Kinh
thì miền Hà Bắc hóa ra rất quan trọng, và triều đình phải sửa sang lại vận hà
để nối Bắc Kinh với miền Giang Nam.
Vừa xây trường thành. Thành Tổ
vừa đem quân dẹp Mông Cổ. Sở dĩ ông dời đô lên Bắc Kinh chính là để khống chế
cả miền Trung Á, chứ ông biết dư rằng Bắc Kinh ở gần biên giới, dể bị Mông Cổ
gây rối. Nam Kinh hiện nay chỉ là kinh đô của những thời muốn phát triển ngoại
thương. Về điểm đó ông có hùng tâm hơn cha.
Ông cũng theo chính sách đời Hán,
vừa dùng võ lực, vừa vỗ về, vừa dùng ngoại giao để chia rẽ các rợ du mục, chú ý
chỉ để phá cái thế mạnh của Mông Cổ, chứ không muốn chiếm đất của họ.
Ông nhiều lần chiêu dụ Mông Cổ,
họ vẫn không hàng, một lần ông sai một tướng đi đánh, bị thua. Sau ông phải
thân chinh đi dẹp. Năm 1410 đem 100.000 quân với 30.000 cỗ xe chở lương thực,
binh nhu, và một số tặng vật để lấy lòng rợ Olrat ( ? ) mà yêu cầu họ trung
lập. Trận đó Môngt Cổ thua to, xin hàng rồi sau lại phản. Ông phải thân chinh
ba lần nữa, một lần- năm 1422- ông dẩn một đoàn quân 235.000 người với 117.000
cổ xe, mỗi cổ hai con lừa. Quân Mông Cổ trốn thoát qua phía Tây, quân Trung Hoa
cướp bóc được rất nhiều rồi trở về. Hai trận sau, năm 1423 và 1424, kết quả
cũng như vậy, và trong trận cuối, ông thình lình chết. Từ đó quân Mông Cổ không
dám lấn Trung Hoa nữa.
Về phía Nam, Thành Tổ cũng tính
mở mang bở cõi. Thời đó, ở nước ta. Hồ Quý Li chiếm ngôi nhà Trần, con là Hồ
Hán Thương dâng biểu sang Thành Tổ nói dối là nhà Trần hết người, y là cháu
ngoại, lên thay, được Thành Tổ phong làm An Nam Quốc vương. Sau đó, một người
tự nhận là con vua Trần Nghệ Tôn qua tâu rõ tình hình và xin binh phục thù.
Thành Tổ sai sứ sang trách, họ Hồ dâng biểu tạ tội, Thành Tổ cho người đưa
người con Trần Nghệ Tôn đó về nước, đến Chi Lăng, tướng của Hồ đón, đem về rồi
giết. Thành tổ giận, sai Trương Phụ sang diệt nhà Hồ, bắt cha con họ Hồ đưa qua
Trung Hoa, rồi không kiếm con cháu nhà Trần để trả nước, mà chiếm luôn nước ta,
đặt Bố chính ti để cai trị, nước Chiêm Thành cũng phụ thuộc ti đó 1407 ).
Khi đoàn quân viễn chinh sắp lên
đường,Thành tổ ra lệnh cho viên tướng Chu Năng như sau:
- " Một khi binh lính vào
nước Nam, trừ các sách vở và bản in của đạo Phật và đạo Lão, còn thì mọi sách
vở, văn tự, cả những dân ca, sách dạy trẻ ( .....) đều phải đốt hết, một mảnh,
một chữ cũng không chừa. Những bia nào Trung Hoa xây dựng từ trước thì đều giữ
gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy cho hết ....."
Chính sách của nhà Minh tàn bạo
như vậy.
Nhà Trần bất bình, nổi lên chống.
Thành Tổ phái Trương Phụ qua lần nữa ( 1413 ) dẹp được.
Nhưng năm sau ( 1418). Lê Lợi
khởi nghĩa ở Lam Sơn, được Nguyễn Trãi giúp, quyết đuổi quân Minh về nước. sau
mười năm gian khổ, quân ta thắng được Vương Thông, tướng Minh , và Vương Thông
phải xin hàng. Nhưng Thành tổ đã chết trước rồi, không phải nuốt cái nhục đó.
Hai đời vua sau, Nhân Tôn và
Tuyên Tôn, ngắn ngủi thôi, cộng lại chỉ được 12 năm, nhưng biết thương dân,
dùng hiền thần, nên Trung Quốc được thái bình. Thời đó là thời cực thịnh của
nhà Minh. Tuyên Tôn tuy thất bại ở nước tâ Lê Lợi chĩ giữ lệ triều cống thôi mà
nước ta tách khỏi bản đồ Trung quốc- nhưng ông có công dẹp được một cuộc xâm
lấn của một rợ ở phương Bắc, và biên cảnh phía đó được yên ổn.
1- Quân chủ chuyên chế.
Tướng Chu Nguyên Chương rất xấu
mặt như mặt heo, hồi nhỏ cực kỳ nghèo hèn- trái hẳn với Lý Thế Dân- mà lập được
sự nghiệp vĩ đại, lên ngôi , nhờ thông minh, biết nhìn xa, khôn khéo nữa, liêm
chính, nhất là cần mẫn, nhưng tự phụ, đa nghi, nóng nảy, tàn bạo. Hồi cuối đời
ông viết:" Luôn ba mươi mốt năm, ta rán hoàn thành sứ mạng Thượng Đế giao
cho vừa lo lắng, vừa sợ sệt, không một ngày nào được yên". Có thể vì tính
khí ông như vậy mà ông hóa ra độc tài. Cũng có thể một phần vì ông muốn quét
cho sạch những dấu vết , ảnh hưởng của nhà Nguyên.
Lên ngôi, ông bỏ ngay cơ quan
Trung thư tỉnh và dĩ nhiên không dùng tể tướng( người cầm đầu cơ quan đó) nữa.
Ông đích thân chỉ huy lục bộ: bộ lại, bộ lễ, bộ hình, bộ binh, bộ hộ, bộ công.
Ông lập bốn điện( Văn hóa điện, Vũ anh điện, Trung cực điện, Kiến cực điện) và
hai các ( Văn uyên các, Đông các) với chức đại học sĩ chỉ để làm cố vấn cho
ông, chứ không có chút quyền hành gì cả.
Sau đời Thành tổ, các vua cởi mở
một chút, cho các đại học sĩ ấy tham dự triều chính và gọi cơ quan của họ là
nội các, đến cuối đời Minh, nội các bị các hoạn quan nắm lần lần. Nhà Minh lúc
đó đã suy.
Cũng để củng cố chế độ chuyên
chế, nhà Minh lập ra Đô sát viện. Cơ quan đó có tính cách độc lập, đặc biệt là
nhân viên đều tuyển trong giới quan lại còn trẻ , chức thấp, có đức liêm chính.
Họ có quyền trách hạch bách quan, biện minh oan uổng, tuần hành trong nước, vỗ
về dân, quân. Mỗi năm họ đi thanh tra một lần trong nước, xét xem việc xử kiện
và hành lễ ra sao, soát các trường học và các kho lúa, nhận những báo cáo của
các quan và những lời kêu ca của dân. Họ có quyền trình bày thẳng với vua, được
phép nói thẳng không phải tránh né ai hết, ngay cả những chiếu, lệnh của vua,
nếu họ thấy có điều gì đáng xét lại, thì có thể xin vua sửa đổi. Tuy quyền rất
lớn, được gọi là tai mắt của nhà vua, nhưng họ không được gì che chở cả, vẫn
phải tùy thuộc thị hiếu nhất thời của vua, rồi sau khi giữ chức được ít năm, họ
phải rời Đô sát viện, lãnh một chức khác, thường không cao, nên họ cũng chỉ như
những quan lại khác, không dám trực ngôn mà phải tránh những cơn thịnh nộ của
nhà vfua, nên Đô sát viện không hơn gì một cơ quan tình báo hay thanh tra của
Quốc Dân đảng hay Cộng Sản ngày nay.
Vì các vua dầu nắm hết quyền hành,
các vua sau vẫn giữ được ít nhiều tinh thần chuyên chế, kỷ k luật rất nghiêm
đó, nên nhà Minh không bị các nạn quyền thần gian giảo, chỉ bị cái nạn nịnh
thần và hoạn quan thôi, mà hoạn quan cũng không dám lần cái việc thoán thí như
đời Đường.
Chế độ quân chủ của Trung Hoa có
khuyết điểm là vua có quyền quá lớn, không có luật pháp nào cao hơn ông cả,
không có hiến pháp hạn chế bớt quyền của ông. Cho nên vua mà tài giỏi, cương
quyết thì dễ hóa ra độc tài hoặc tàn nhẫn, trái lại, nếu vô tài, nhu nhược thì bị
bọn cận thần lấn lướt, lần lần cướp hết quyền, có hại cho dân hơn nữa.
Vì biết vậy, nên từ đời thượng
cổ. Trung Hoa đã đặt ra chức thái sử, lựa những người có công tâm, không ham
danh vọng, phú quý, nhất là không sợ chết, những người có " hạo khí "
như Mạnh Tử nói, để giao cho chức đó. Nhiệm vụ của Thái sử có chép đúng tất cả
ngôn, hành tốt cũng như xấu của nhà vua, và các đại thần, lưu lại đời sau, để
khuyến lhích họ làm điều thiện và cảnh cáo họ làm điều ác. Thái sử muốn viết gì
thì viết, miễn là đúng sự thực. Điểm đó tôi đã trình bày ở các trang trên.
Phương Hiếu Nhụ tuy không làm
chức Thái sử mà cũng có tinh thần đó, thà chịu chết chứ không chịu thảo tờ
chiếu lên ngôi cho Yên vương Lệ tức Thành tổ.
Nhưng đa số - nếu không phải là
tất cả - những ông vua xấu đều bất chấp dư luận đương thời thì đâu có coi dư
luận đời sau ra gì, nên thái độ của họ là: Thái sử chép gì thì chép, ta cứ làm
theo ý ta, đời sau chê gì cũng mặc, ta đâu còn biết nữa.
Cho nên Trung Hoa lại đặt thêm
chức gián quan, cũng lựa những người đạo đức, được nhiều người trọng, phong làm
gián nghị đại phu để can vua những khi vua làm bậy. Họ có bổn phận vạch lỗi của
vua, dù là ở giữa triều đình để cho mọi người thấy. Nhiều vị gián quan bị cách
chức hay bị giết vì trực ngôn, và một số vua độc tài bải bỏ luôn chức đó. Hàn
Dũ đời Đường không làm chức giám quan mà cjỉ vì can vua Hiến Tôn đừng rước
tượng Phật, mà bài sớ dâng lên buổi sáng, buổi chiều bị đày đi miền Triều Châu
liền, một miền thời đó còn man rợ.
Nhà Minh đặt ra Đô sát viện để
kiểm soát việc làm của các quan mà cũng để thay chức gián quan nữa. Thái sử
gián quan, đô sát đều là những biện pháp có mục đích hạn chế bớt quyền hành của
vua nhưng gặp những ông vua tàn bạo, độc tài quá thì đều vô hiệu. Chỉ có mỗi
một cách là lật đổ họ thôi, " cách cái mạng " của họ đi. Việc đó
hoàng tộc, triều đình không làm thì nông dân sẽ làm.
2- BINH CHẾ
Quyền thông suốt quân đội thuộc
về Đô Đốc phủ, sự điều khiền quân đội trong việc chinh phạt thuộc về Binh Bộ.
Các quan vô đa số là cha truyền
con nối, họ được cấp phát đồn điền để hưởng lợi, triều đình khỏi phải trả
lương, quân lính cũng được cấp cho ruộng để trồng trọt mà sống, mỗi năm phải
luyện tập một thời gian, khi hữu sự thì chciến đấu. Như vậy không có lính
chuyên nghiệp, cho nên quân đội nhà Minh không mạnh, cuối đời Minh sau hai trăm
năm thái bình, chiến đấu rất dở. Các triều đại Trungb Hoa hầu hết đều có nhược
điểm đó.
3- HÌNH PHÁP
Bộ Đại Minh luật phỏng theo luật
của nhà Đường, chia làm lại luật ( luật xử các quan lại), hộ luật, lễ luật, binh
luật, hình luật, công luật ( luật về công nghiệp). Cấm dùng những hình cắt mũi,
xẻo tai, xâm vào mặt .... nhưng rất nghiêm khắc cới quan lại, nhiều vị đại thần
vì lỡ xúc phạm nhà vua mà bị đánh trượng đến chết.
Việc hình ngục quan trọng thì
phải qua ba phép ti: Hình bộ, Đô sát viện, Đại lý tự, như vậy là rất thận
trọng.
3- GIÁO DỤC- THI CỬ
Bắc kinh và Nam kinh đều có Quốc
tử giám ( các đời trước gọi là Quốc tử học). Giáo sư thì có chức Tế tữu, Tư
nghiệp. Ở địa phương có các b viên giáo thụ, huấn đạo.
Thi cử thì cứ ba năm thì có một
kỳ hương thí ở các tỉnh, vào mùa thu năm tí ,ngọ, mão , dậu, trúng tuyển gọi là
cử nhân, qua mùa xuân các năm sau ( sửu, mùi, thìn, tuất) thì có thi hội ở Bộ
Lễ, trúng tuyển gọi là tiến sĩ, sau cùng có điện thí, cũng gọi là đình thí do
đích thân nhà vua chấm, trúng tuyển thì là trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa.
Số trúng tuyển ở hương thí, b n hội thí luôn luôn được quyết định trước.
Đầu đời Minh, thi cử còn trọng
thực dụng, có những môn kị xạ, thư, toán, luật; về sau chỉ chuyên dùng thi phú,
lối văn tám vệ bát cổ) để lựa nhân tài
Như vậy ta thấy chính sách dạy dỗ
và thi cử đời Nguyễn của ta chép đúng đời Minh bốn năm thế kỷ trước, từ cách tổ
chức tới các danh từ , chức tước.
Nên ghi thêm rằng năm 1397 Chu
Nguyên Chương bắt dân ở mỗi làng một tờ ghi sáu lệnh dân phải theo: " Phải
hiếu, phải kính trọng người già,
thờ phụng tổ tiên, phải dạy con, phải yên ổn làm ăn.....". Năm 1670 vua
Khang Hi nhà Thanh cũng ra một sắc lệnh gồm 16 điểm, đại khái như vậy, bà buộc
các hương chức và kẻ sĩ trong làng cứ nửa tháng một lần đọc và giảng cho dân
nghe.
5- CANH NÔNG - THUẾ
Khuyến nông và ức thương là chíng
sách chung của các triều đại Trung Hoa. Người Mông Cổ rút đi rồi, để lại rất
nhiều đất vô chủ, Chu Nguyên Chương đem phân phát cho nhân dân và lính ( để lập
đồn điền) như vậy khỏi phải nuôi lính. Ông thường khoe rằng không mất một hột
lúa mà nuôi được triệu dân. Việc đó tự nhiên, chằng có gì đáng khen. Về sau,
ông chia đất cho cả bà con, bạn bè và những kẻ bợ đở ông nữa, có người được một
khu đất mênh mông nuôi được 20.000 gia đình nông dân. Ông lại ban bổng lộc cho
hoàng tộc như người Mông Cổ đã làm. Riêng ở Kinh Đô, những bổng lộc, trợ cấp
đó, mỗi năm lên tới tám triệu " thạch lúa ", trên 150 triệu tấn, đã
tốn kém cho quốc gia mà gây khió khăn về sự chuyên chở.
Ông phát bò và nông cụ cho các
đồn điền, bắt dân miền Bắc cũng phải trồng bông vải như miền Nam, tùy chỗ trồng
cả lúa mùa nữa, ông làm lại công việc thủy lợi, lập những kho trữ k lúa phòng
năm đói kém. Tới cuối đời ông, một nửa diện tích đất ruộng được trồng trọt, sự
sản xuất ngụ cốc gấp hai đời Nguyên.
Ông lấy bớt đất của bọn đại điền
chủ, của chùa chiền ( mặc dù hồi nhỏ ông ở chùa), nhưng biện pháp đó ông không
áp dụng được đến nơi đến chốn, đặc biệt là ở miền Thượng Hải ngày nay, vì miền
này trước có nhiều nhà giàu giúp tiền, lúa cho ông để đánh Mông Cổ, bây giờ ông
không thể quá mạnh tay với họ được.
Ông ban hành những sắc lệnh ngăn
chặn sự bóc lột của thương nhân giàu nhất đa số là ngoại nhân. Họ bị trục xuất
ra khỏi cõi, hoặc bị giết. Nhưng một số dùng tiền chạy chọt, xin nhập tịch
Trung Hoa, mang tên Trung Hoa và được yên ổn.
Về công nghiệp, ông tổ chức lại
các phường thủ công.
THUẾ
Có hai thứ: thuế điền và thuế
đinh, Chu Nguyên Chương cho đạc điền lại, lập số điền, kiểm tra lại dân số, lập
số đinh, và cứ theo hai số đó trúng thuế.
Mỗi năm thu thuế hai kỳ: Thuê
điền nộp bằng tiền hay lụa, thay lúa. Ruộng chia làm hai loại ruộng , quan điền
của các quan, và dân điền của dân tự cày cấy.Đời Chu Nguyên Chương thuế quan điền
gấp rưỡi thuế dân điền.
Con trai 16 tuổi thì thành đinh,
phải làm tạp dịch ( làm xâu) cho tới 60 tuổi, nếu không muốn làm thì đóng một
số thuế, số thuế đó dùng để thuê người làm thay.
Nhà Minh lập chế độ lí giáp. Mười
nhà họp thành một giáp , 11 giáp ( 110 nhà) họp thành một lí. Mỗi lí cử ra 10
nhà làm giáp trưởng ( thường là những gia đình khá giả, mỗi nhà đó điều khiển
một giáp 10 nhà.Mỗi năm lại thay phiên nhau, mười năm hết một vòng, trở lại như
cũ. Chế độ tựa như chế độ bảo giáp trưởng không có trách nhiệm về an ninh trong
giáp mà chỉ có bổn phận theo số điền, số đinh của mỗi giáp mà thu thuế.
Đầu đời Minh, ngoài tjhuế điền,
thuế đinh, dân còn phải nộp nhiều thứ thuế lặt vặt khác, rất mất thì giờ cho
người thu thuế, cả cho dân nữa. Đời Thần Tôn có một sự cải cách, gom tất cả các
thứ thuế dân phải đóng làm một thứ thôi, và nộp bằng tiền. Biện pháp để gọi là
"nhất điền tiên pháp" " phép quất một roi một" (1)
Nó tiện cả cả cho dân lẫn triều
đình, nhưng kẻ thừa hành mà xấu thì biện pháp tốt tới mấy cũng hóa xấu
Việc giáp trưởng ( coi 10 giáp )
có thể khai báo bậy, sửa đổi số điền, số đinh, hiếp đáp người nghèo và vào phe
cánh với người giàu mà sinh ra tình trạng bất công. Có vài tỉnh dùng nhân viên
thu thuế của chính quyền, họ cũng không tốt gì hơn.
Tới cuối đời Minh, triều đình
thiếu tiền quá, phải tăng thuế , nhất là đặt thêm những thuế mới, không còn là
" quất một roi một" nữa, mà là quất thêm nhiều roi nữa.
6. Theo tách giả East Asia - The
Great tradition, thì số quan lại đời Thanh ở các tỉnh có 2.000 chức quan trọng
và khoảng 3.000 chức nhỏ, thêm vào quan lớn nhỏ ở trung ương , thì hết thảy có
khoảng 20.000 quan lại vào năm 1800. Đời Minh số quan lại còn ít hơn. Các sử
gia phương Tây đều phục Trung Hoa có tài tổ chức chỉ dùng rất ít quan lại mà
giữ được trật tự trong một đế quốc mênh mông. Như vậy là nhờ triều đình theo
truyền thống từ đời Chu, theo truyền thuyết của Khổng tử, nhất là của Lão tử,
ít can thiệp vào đời sống của dân, cho các làng tự lập hương ước mà gần như tự
trị ( nước ta thời xưa cũng theo chính trị đó: phép vua thua lệ làng) và cũng
nhờ các kẻ sĩ ở mỗi làng , tổng, huyện... được dân tin, giúp chính quyền được
nhiều việc cai trị, giáo dục, hòa giải các vụ kiện, trị bệnh, giữ an ninh .....
Họ được dân trọng hơn các quan lại mà quan lại cũng nể họ. Đó là một nét đẹp
của xã hội phương Đông.
(1) Theo tác giả East Asia - The
great tradition ( Havard university) thì chính là I.t ine pien ( nhất điều
biện) nghĩa là gom lại một điều nhưng pien đọc chạnh ra là tiên ( roi) - một
lối chơi chữ - và nghĩa là đánh một roi
Bảy lần đi sứ và thám hiểm của
của Trịnh Hoà.Chúng ta đã biết Chu Nguyên Chương quyết dẹp nạn Mông Cổ ở phương
Bắc và mở mang bờ cỏi ở phương Nam, nhưng thực hiện chưa xong, Thành Tổ tiếp
tục chính sách đó, có hùng khí hơn: Không như cha, khép cửa biên giới, không
cho ngoại nhân vô, mà trái lại muốn vuợt biển, tới khắp các nước Đông Nam Á,
Trung Á, khoa trương uy quyền của ông, bắt các nước đó phải thần phục Trung
Quốc, cống hiến những vật lạ. Ông Ta rất cương quyết bất chấp khó khăn gian
nguy, ngay từ năm 1405, hai năm sau khi lên ngôi, vừa tấn công Mông Cổ, vừa cho
đóng một hạm đội mạnh nhất đương thời, giao cho một viên thái giám ( hoạn quan)
tên là Trịnh Hòa, chỉ huy để đi sứ Tây Dương, tức là Nam Dương và Ấn Độ ngày nay
( 1)
Trịnh Hòa là con một người Ả rập,
theo đạo Hồi, chính ông ta cũng có tên Ả Rập là Hadji. Sinh trưởng ở Vân Nam,
vóc cao lớn, sức mạnh phi thường, mặt mũi thanh tú, có tướng đi uyển chuyển như
cọp, tiếng nói như sấm.
Chuyến đi đầu tiên xuất phát tháng
6 năm 1405 từ một hải cảng ở Tô Châu đem theo nhiều vàng lụa, ghé Phúc Kiên,
đến nước ta, Chiêm Thành rồi tới Java ( Oa Qua). Ông ta cho mời vua Palembang ở
Java tới thuyền ông nói chuyện. Ông vua đó làm bộ nghe lời, dẩn tàu chiến tới
và cuộc hải chiến xảy ra. Vua Palembang thua, bị bắt đưa về Trung Hoa. Tháng 9
năm 1407, Trịnh hòa về tới Bắc Kinh với nhiều chiến lợi phẩm.
Chưa kịp nghỉ ngơi thì Trịnh lại
được lệnh đi chuyến thứ nhì ( 1407). Lần này ông tới Nam Việt của ta. Xiêm,
Java và Calcutta ( Ấn độ). Khi trở về ông ghé đảo Tích Lan - Sử Từ Quốc - và
nhân danh vua Minh, ông tặng một ngôi chùa Phật, nhiều vật bằng vàng, bạc,
nhiều cây cờ thêu kim tuyến, rồi xây dựng một cái bia ghi lại việc đó. Bia đó
này còn giữ trong viện Bảo Cổ Tích Lan. Tháng 2 năm 1409, ông trở về Trung
Quốc.
* (1) Có thể Trịnh Hòa còn được
phái đi để dò xem Huệ Đế có trốn ra nước ngoài không vì không có bằng chứng gì
chứng tỏ rằng ông đã chết.
Hạm đội gồm 62 chiếc thuyền buồm
lớn; mỗi chiếc dài 44 trượng, rộng 18 trượng, cjở 38.000 hải quân, riêng chiếc
của viên chỉ huy chở 1.000 hải quân , mỗi trượng là 10 thước, mỗi thước là 20,
30cm .
<<< Hình bản đồ
>>>>
Nghỉ ngơi 7 tháng rồi ông lại qua
Tịch Lan một lần nữa, lần này đoàn được tăng cường: 48 chiếc tàu . Vua Tịch Lan
đưa một đạo quân gồm năm vạn quân đánh hạm đội Trung Hoa không còn quân bảo vệ
, thủy quân Trung Hoa quay về tàu thì bị nghẽn . Trịnh hòa ra lịnh cho hải quân
phải chiến đấu và cầm cự với bất kì giá nào, còn ông thì cầm đầu hai ngàn quân
ở trên bờ, cả gan tiến thẳng về kinh đô Tích Lan
Ông thành công mĩ mãn, vì quân
Tích Lan bị tấn công bất ngờ, thua . Vua và hoàng tộc bị bắt. Đạo quân Tích Lan
đương tấn công hạm đội Trung Hoa vội vàng trở về vây Trịnh Hòa, nhưng mặc dầu 1
người chống với 25 quân ( theo sử ) Trịnh Hòa lại thắng nữa, trở về nước ,
thuyền nào cũng đầy nhóc tù binh.
Ông nghỉ ngơi ba năm, năm 1413 đi
chcuyến thứ 4, tới Omuz ở Ba Tư, tiếc rằng ông không chép cho ta biết Ba Tư
thời đó ra sao, mà lại chép rằng trên đường về, ông ghé Sumatra, giúp Hoàng hậu
nước đó diệt được một cuộc phản loạn nhỏ.
Chuyến đi thứ 5, năm 1417, ông
chở rất nhiều gấm vóc để tặng các vua bản xứ và được họ tặng lại vua Trung Hoa
sư tử, báo, ngựa Omuz, đà điểu, lạc đà và vô số vật lạ khác. Chuyến này chỉ có
tánh cách hòa hảo nhất. Hai năm sau ông về.
Năm 1421 ông đi chuyến thứ 6,
tiến xa hơn nữa, tới tận Madagascar ở gần bờ biển phía Đông Nam Phi. Ông chưa
về thì Thành Tổ chết ( 1424).
Ông thích mạo hiểm, thích biển,
nên năm 1430, đời Tuyên Tôn, lại đi chuyến nữa, cầm đầu 28.000 người, gồm sĩ
quan, lính thủy thủ, thông ngôn, thư ký, y sĩ, kũ sư, thợ thủ công đủ nghề để
các nước phương xa biết sức mạnh và văn minh Trung Quốc. Cuộc hành trình được
tổ chức chu đáo, ba năm mới trở về. Ông thăm Ba Tư, rất tiếc phái đoàn cũng vẩn
không chép gì nhiều về Ba Tư.
Chuyến đó là chuyến cuối cùng.
Năm trăm năm sau khi ông mất, ông vẫn được dân tộc Trung Hoa và các nước ông
dđã ghé ngưỡng mộ, người Java thờ ông như một vị thần. Không có nhà vượt biển
nào mạo hiểm như ông. Khoảng năm sáu chục năm sau, người Bồ Đào Nhamới dùng
thuyền buồm, đi vòng Hảo vọng giác ở cuối Châu Phi tới Ấn Độ Dương. Nghệ thuật
hàng hải của Trung Hoa thời đó đứng đầu thế giới. Tàu của họ có tới bốn tầng
lầu, các phòng trong tàu , nước đều vào không lọt ( Watertight), nếu thuận gió
thì đi được khoảng 10 cây số một giờ. Cũng như người Ả Rập, họ theo gió mùa mà
đi.
Sau những cuộc thám hiểm bằng
đường biển đó không tiếp tục nữa, một phần vì tốn tiền quá, những vật lạ chở về
đầu có thể mua được của thương nhân Ả Rập ở Quảng Châu, một phần vì mục đích
tuyên dương oai đức của Trung Hoa đã được rồi, và sau khi Tuyên Tôn chết, nhà
Minh bắt đầu suy.
2. Người Trung Hoa Ra Hải Ngoại
Làm Ăn.
Từ đời Đường, đã có nhiều người
Trung Hoa ra hải ngoại làm ăn, đều ở trong khu vực Nam Dương, nên người ở Nam
Dương, thường gọi họ là người Đường. Qua đời Ngũ Đại, Tống, số di dân càng
đông. Đời Nguyên đem binh đánh Mã Lai, Java, tuy không chiếm được nhưng cũng có
một số người Trung Hoa ở lại những đảo đó để lập nghiệp. Chính vào thời đó, một
số người ở Mân ( Phúc Kiến) vuợt biển đến Phi Luật Tân, chỉ cho thổ dân cách
làm ruộng, nhờ vậy người Phi tiến lần từ thời du mục lên thời kỳ nông nghiệp.
Từ đó trung tâm di dân của Trung Hoa ở Nam Dương.
Đời Minh, nhờ bảy lần đi sứ, và
thám hiểm của Trịnh Hòa, cơ hồ không có nước nào ở Nam Dương không triều cống
Trung Quốc mà phong trào di dân ra hải ngoại làm ăn càng phồn thịnh.Họ tới bán
đảo Mã Lai, tới Sumatra ( vào khoảng 1370). Bornéo, Java, Phi Luật Tân, quần
đảo Moluques .....
Ngoài ra họ còn tới Xiêm, Miến
Điện, Việt Nàm ta. Ngày nay số Hoa kiều ở mấy nước đó rất đông, trên ba chục
triệu là ít. Phong trào đó bắt đầu thịnh từ đời Minh.
Phần đông Hoa Kiều là người miền
Nam: Phúc Kiến, Quảng Đông, họ giỏi b về thương mãi, chịu cần kiệm, cực khổ,
biết giúp đỡ lẫn nhau, lập hội, lập bang ( tổ chức của Hoa Kiều gốc ở cùng một
tỉnh, như bang Triều Châu, Bang Quảng Đông, bang Hải Nam ....) mở ngân hàng,
thương hội, trường học, giữ được ngôn ngữ, phong tục, y phục, rất đoàn kết với
nhau, dư tiền thì gởi về quê hương, hợp thành một sức mạnh về kinh tế , lũng
đoạn thi trường, kinh tế của nước họ ở nhờ.
Đó là một đặc điểm của người
Trung Hoa, không dân tộc nào bàng họ.
3. Người Âu vào Trung Quốc.
Từ đời Đường, Cảnh giáo (
Nestorianisme) đã vào Trung Quốc, được Thái Tôn cho dựng giáo đường ở Tràng An
như ta đã biết, nhưng khoảng hai thế kỷ sau, đạo đó suy lắm.
Đời Nguyên, vô uy và sự thịnh
vượng của Trung Quốc vang khắp châu u nhưng Âu và Trung Hoa chưa liên lạc nhiều
với nhau.
Tới thế kỷ XV, đời Minh Hiến Tôn,
người Bồ đào Nha tìm đường biển qua Ấn Độ, mới sang buôn bán và truyền giáo ở
Trung Quốc càng ngày càng đông. Sau họ tới người Hòa Lan, Anh Cát Lợi, Tây Ban
Nha.
Đời Minh Thế Tôn, vào khoảng
1535, miền duyên hải Quảng Đông là nơi người Bồ Đào Nha buôn bán đông nhất, họ
bỏ tiền ra thuê đất Áo Môn ( Ma cao) mỗi năm nộp thuế hai vạn lạng vàng ở cửa
sông Châu Giang ( Quảng Đông) đấp thành lũy, đặt quan lại, lập căn cứ buôn bán;
Áo Môn thành tô tá địa đầu tiên của người Âu ở Trung Hoa.
Bấy giờ người Tây Ban Nha tìm
được Châu Mỹ, do Mỹ Châu qua Thái Bình Dương, chiếm Phi Luật Tân, và tranh nhau
buôn bán với người Hoa Kiều.
Vào khoảng 1602, người Hòa Lan
lập công ty Đông Ấn Độ để buôn bán, sau chiếm các đảo Nam Dương rồi đến Trung
Quốc, muốn dành Áo Môn của người Bồ người Bồ được cảm tình của triều đình Minh,
giữ được vị trí, và người Hoà Lan bỏ Áo Môn mà sang kinh doanh ở Đài Loan.
Thấy người Hòa Lan làm ăn được,
người Anh Cát Lợi cũng lập công ty Đông Ấn Độ để cạnh tranh, giành được ưu thế
ở Ấn rồi tiến qua Trung Hoa, năm 1637( đời Tư Tôn), đem hạm đội vào Áo Môn,
cũng muốn dành nơi đó nữa. Hai bên kịch chiến , nhưng người Bồ cũng lại nhờ cảm
tình của triều đình Minh, giữ được Áo Môn. Tuy nhiên, nhà Minh cũng cho người
Anh được vào buôn bán.
Như vậy là cuối đời Minh, đã có
bốn nước Châu Âu tranh giành nhau thị trường Trung Hoa. Qua đời Thanh họ còn
tới đông hơn nữa. Giai cấp tư bản và con buôn phương Tây đã bắt đầu vươn tới
Đông Á, lần lần tạo nên phong trào thực dân mà cái họa ngày nay vẫn chưa chấm
dứt.
Người Bồ Đào Nha sở dĩ được cảm
tình của triều đình Minh, vì họ tới trước và giúp cho Trung Hoa được vài việc.
Năm 1517, ( đời Võ Tôn), người Bồ Đào Nha Fernand Férez d Andrade tới Quảng
Châu. Ông là , người Âu thứ nhất tới thị trấn đó. Chiếc tàu chở ôngđem theo
nhiều súng ống. Từ thế kỷ thứ X trở về trước, Trung Hoa chỉ có những kiểu súng
bắn đá( catapulte), thứ mạnh nhất bắn được những phiến đá nặng 100ký lô, xa 400
thước. Từ thế kỷ XI ho5 đã có một thứ đại bác dùng thuốc súng. Năm 1519 vua
Minh Võ Tôn tới Nam Kinh, người Bồ Đào Nha xin được triều yết ông, ông cho họ ở
Nam Kinh gần một năm. Trong thời gian đó, hoạn quan Lu7u Ca65n bỏa họ gỡ các
súng đại bác ra, rồi ông sai người chép lại kiểu súng cho cho đại thần Vương
Dương Minh (1) . Nhờ vậy Vương chế tạo một kiểu súng của Bồ Đào Nha mà dẹp được
mấy đám nổi loạn trong nước.
Năm 1580, đời Thần Tôn, một tu sĩ
Ý theo Giòng Tên ( Jésuite) đạo KiTô, tên là Matteo Ricci, theo một đoàn thương
nhân tới Áo Môn, lúc đó đã là nhượng địa của Bồ rồi. Chú ý của ông là truyền
giáo, nhưng thấy người Trung Hoa còn nhiều ác cảm với người Âu nên chưa thực
hiện ngay mục đích của ông. Mà họ bị người Trung Hoa ghét là phải. Họ tàn bạo
không thừa nhận một luật pháp nào cả, coi tất cả người phương Đông như những
con mồi ngon, họ quả là bọn ăn cướp. Năm 1557, khi được tự do ở Áo Môn, họ xây
cất ở đó nhiều xưởng lớn, nấu thuốc phiện, chỉ một trong những xưởng ấy mà đã
phải nộp cho chính quyền Bồ Đào Nha ở Áo Môn một số thuế mỗi năm gần bằng ba
chục triệu quan cũ ( Histoire de la civilisation - Will Durant).
Biết vậy nên Matteo Ricci khôn
khéo bỏ hết các thói quen Châu Âu, sống như người Trung Hoa, mặc y phục Trung
Hoa, học nói tiếng Trung Hoa, đọc sách Trung Hoa, theo các tục lệ Trung Hoa,
cũng uống trà như người Trung Hoa, lại dùng một tên Trung Hoa nữa, Lợi Mã Đậu.
Mà thực tình ông cũng quý văn minh rất cổ của Trung Hoa. Nhờ vậy ông được dân
chúng mến.
Ông không đem kinh thánh ra giảng
ngay, mà dạy cho người Trung Hoa những khoa học của phương Tây: số học, hình
học, địa lý, thiên văn. Ông chỉ cho người Trung Hoa thấy thuyết " Trời
tròn đất vuông" của họ sai. Ông trị bịnh, lập một dưỡng đường ở Nam Kinh.
Lần lần người Trung Hoa thấy người Âu không phải là mọi rợ nữa, mà tò mò muốn
biết tôn giáo của họ.
Matteo Ricci được giới thượng lưu
Trung Hoa mến, sau cùng được vào triều yết vua Minh, xin xho đạo Ki Tô được
chấp nhận. Ông dâng lên nhà vua hình Chúa Ki Tô, một bản Cựu Ước, một cây thánh
giá, hai đồng hồ quả lắc, một bản đồ thế giới. Vua Thần Tôn nhận và cho phép
ông dựng giáo đường ở Bắc Kinh và mỗi năm có khoảng vài trăm người Trung Hoa
xin theo đạo, trong số đó có viên Thượng Thư bộ Lễ, ông dịch một số sách khoa
học ra tiếng Trung Hoa, lại viết vài cuốn bằng chữ Hán nữa.
Nhưng khi ông mất, những người
nối sự nghiệp của ông không sáng suốt, giỏi như ông và dân chúng Trung Hoa lại
nổi lên đả đảo họ. Còn triều đình thì không cấm hẳn đạo Ki Tô, nhưng cũng không
ưa, và chỉ muốn theo kỹ thuật của Âu thôi, phong chức cho bốn bác họcu ở Áo Môn
để họ chế tạo cho súng ống.
Lại nhờ một thiên văn học Đức,
Adam Schall soạn cho một cuốn sách về Thiên Văn và sửa lại lịch cho. Vì trong
đời Nguyên, Trung Hoa dùng lịch Á Rập, và cuối đời Minh thấy ngày đó tính sai
ngay nhật thực, năm 1610, Adam Schall sửa lại và y tính được đúng ngày nhật thực
năm 1629.
*****
(1) Vương Dương Minh còn là một
triết gia danh tiếng ( coi ở sau)
Từ thời Anh Tôn ( 1436 trở đi) ,
nhà Minh bắt đầu suy.
Loạn ở trong:
- Họa cốt nhục tương tàn, sau vụ
tĩnh nạn , xuất hiện thêm ba bốn lần nữa, mt lần dưới trĩều Tuyên Tôn: Hán
Vương là Cao Hủ chiếm đất làm phản, Tuyên Tôn bắt giam rồi giết cùng với nhiều
đồng đảng, một lần dưới triều Cảnh Tôn sẽ nói ở sau.
- Nạn hoạn quan. Một cái xấu xa
của chế độ quân chủ Trung Hoa là dùng hoạn quan, rất nhiều hoạn quan. Ông vua
nào cũng có tam cung lục viện, hầu hết ông nào cũng hiếu sắc, từ đời Thượng Cổ
hễ lên ngôi rồi là cho người đi tìm trong khắp nước những con gái đẹp, bắt gia
đình có con gái đẹp phải dâng nữa, để tuyển dụng làm phi, tần, cung nữ. Các
hoàng tử , công chúa phải có người hầu hạ, cũng là mỹ nữ nữa, tất nhiên không
thể dùng toàn đàn bà được, có những công việc phải giao cho đàn ông, như giữ
các cửa cung, canh gác, thông báo, quét tứơc làm vườn ... mà vườn ngự thì mênh
mông cả chục cây số vuông. Muốn tránh cảnh dâm loạn trong cung, nhất là giữ cho
dòng dõi của vua được thuần, không pha bậy với bọn bách tính, thì phải dụng
hoạn quan. có thời trong cung có tới cả vạn cung phi và ba ngàn hoạn quan hoặc
hơn nữa.
Tối, các cửa cung điện đóng hết,
ngay các đại thần, thân vương nếu không có lệnh cũng không được vào. Vậy là
ngoài vua ra, trong cung không còn ai là đàn ông cả. Các hoàng tử đã lớn tuổi
đều ra ở cung riêng. Vua thui thủi một mình, biết chuyện trò với ai? Tụi hoạn
quan đều xuất thân trong giới ti tiện, vô học, bày trò để vua giải sầu, nhất là
các trò tửu sắc. Nhưng nhiều quá và dễ dàng quá thì đâm ra mau chán, cho nên có
ông vua đêm đêm giả trang, theo mt tên hoạn quan ra ngoài thành, nếm các thú
vui của dân chúng. Như vậy hoạn quan thành bọn tay chân của vua, nói gì vua
cũng nghe, nhất là những tên đẹp trai, khéo nịnh bợ, lần lần lấn quyền của
hoàng hậu, thái hậu nữa, các thân vương và đại thần đều phải nể chúng; chúng
lập phe đảng, chỉ huy quân đi, cả triều đình không ai chống lại nổi, và chúng
tự ý phế vua này, lâp vua khác như ở cuối đời Đường. Vua nào được chúng lập lên
sợ chúng một phép, nếu không thì chúng lại phế mà toi mạng với chúng. Chúng vơ
vét bảo ngọc, vàng, kim cương nhiều hơn nhà vua và làm nhiều chuyện dơ dáy, tàn
bạo ức hiếp nhân dân.
Nạn đó triều đình nào cũng có,
Chu Nguyên Chương biết rõ, nên ra lệnh cấm không cho hoạn quan xen vào việc
nước, hạn chế hoạn quan, phẩm trật chức tước của chúng, trừng trị những tên nào
phê bình chính trị, và cấm chúng học chữ. Ông bảo các đại thần : Kẻ nào dùng
hoạn quan , coi như tai mắt thì kẻ đó hóa đui và điếc. Chì có mt cách xư sử với
chúng là ,làm cho chúng sợ phép nước, đừng thường khen chúng.
Nhưng chỉ đến đời con ông, Thành
Tổ, là hoạn quan lại được trọng dụng rồi vì khi Thành Tổ tấn công Huệ Đế thì
chúng làm nI ứng, biết tình hình Kinh đô, triều đình ra sao? Để thưởng công cho
chúng,Thành Tổ bỏ hết những cấm lệnh của cha, cho hoạn quan được bẩm phục của
công, hầu lãnh những chức lớn " chẳng hạn " Thái Giám Trịnh Hoà được
cử đi sứ; ông lại lập một cơ quan ở trong cung gọi là " Đông Xứớng "
để dò la tìm bắt kẻ gian thần phản nghịch, cơ quan đó được giao cho một hoạn
quan điều kiển, từ đó uy thế hoạn quan rất lớn.
ĐờiTiền Tôn mở một thư đường
trong nội phủ , dùng các quan Hàn Lâm để dạy học các hoạn quan , chúng được kết
giao với các đại thần ở triều và đa số ,càng có học, càng gian xảo. Trái hẳn
với ý của Chu Nguyên Chương. Triều đình thành hoàng kim thời đại của bọn hoạn.
Nhiều thanh niên tự hoạn , nhiều cha mẹ hoạn con từ khi chúng mới vài tuổi để
gây dựng tương lai cho chúng, mà mong sau này chúng làm vẻ vang cho cả nhà, cả
họ được nhờ, vì vậy cái họa hoạn quan đời Minh hơn cả các thời khác.
Hoạn quan Vương Chấn được Anh Tôn
( 1436 -1449) tín nhiệm , y nói gì vua cũng nghe, xỏ mũi vua, ngược đãi đại
thần , làm mưa làm gió ở triều đình, các công khanh đều sợ quyền thế của y ,
tới mức gọi y là ông phụ ( ông bố) . Thời đó quân Mông Cổ mạnh lên , bắt Minh
phải cóng tiền của, bảo vật, rồi cử binh đánh Trung Hoa, hạ được nhiều đồn ải.
Vương Chấn muốn lập công, khuyên Anh Tôn thân chinh, quần thần can vua, vua
không nghe, rốt cuộc vua tôi nhà Minh bị vây ở đổi Thế Lộc ( Tỉnh Sát Cáp Nhỉ)
Vương Chấn cùng nhiều đại thần bị giết , còn Anh Tôn thì bị bắt đưa qua Mông
Cổ. Triều đình lập vua Cảnh Tôn lên thay, tôn Anh Tôn làm Thái Thượng Hoàng.
Thấy vậy, biết có giữ Anh Tôn cũng vô ích . Mông Cổ đưa ông ta trả về Trung
Hoa, để triều đình Minh chia rẽ vì sự tranh ngôi .
Sau sinh loạn thật . Một Đại
Tướng Thạch Hanh, mưu với hoạn quan là Tào Cát Tường đem binh vào phá cửa cung.Phế
Cảnh Tôn, đưa Anh Tôn trở lên ngôi, sau Thạch Hanh tha hồ làm bậy, mưu phản trở
lại bị giết với tất cả đồng đảng.
Hiến Tôn kế vị Anh Tôn , hoạn
quan là Uông Trực gốc gác là một giống rợ, rất xảo quyệt, được vua tin dùng Vua
lập thêm Tây Xưởng , một cơ quan mật vụ nữa, chuyên dò xét quan lại ở ngoài ,
giao cho Uông Trực điều khiển . Bọn tay sai của Trực hà hiếp nhân dân, quan dân
đều oán . Vua ham mê tửu sắc, cung phi tới số vạn , mà hoạn quan tới ba ngàn ,
có sách là cũng gần số vạn nữa.
Đời sau, Hiến Tôn tạm yên, rồi
tới đời Võ Tôn thì hoạn quan Lưu Cận chuyên hoành lại càng mạnh, lập thêm Nội
Xưởng, hễ ai nghịch ý hắn thì hắn vu hãm, triều đình rối loạn, đạo tặc nổi khắp
nơi. Một người trình cho Cận một phong thư nặc danh ném ở lề đường, trong kể tội
ác của Cận, cận làm giả tờ chiếu đòi hơn ba trăm quan lớn nhỏ đến quỳ ở ngoài
cửa Ngọ Môn nửa ngày. Hắn mắng một hồi rồi đem bỏ ngục hết. Vua An Hóa ( tỉnh
cam túc) cử binh ở Ninh Hạ, nói là để về triều giết Lưu Cận, Võ Tôn sai viên Đô
Ngự Sử là Dương Nhất Thanh đi dẹp được. Về triều, Dương tâu hết các tội ác của
Cận, vua tỉnh ngộ, giết Cận và đuổi hết đồng đảng. Khi tịch thu tài sản của
hắn, người ta thấy 57.800 đồng tiền vàng, 240.000 lượng vàng, mỗi lượng bằng
mười đồng, 1.583.600 thẻ bạc, mỗi thẻ được nữa lượng, và năm triệu thỏi bạc,
mỗi thỏi bằng 5 lượng, hai thùng bảo ngọc, nhiều áo giáp bằng vàng, 3000 chiếc
nhẩn vàng , và nhiều bảo vật khác mà giá trị lớn hơn ngân sách quốc gia trong
một cuộc phản loạn hầu cướp chính quyền.
Vua Thế Tôn kế vị Võ Tôn trị được
bọn hoạn quan nhưng mê chuyện thần tiên, xao lãng việc nước để cho nịnh thần
Nghiêm Tung trộm quyền làm bậy.
1- Đảng Đồng Lâm
Đời vua Thần Tôn cuồi thế Kỷ XVI,
nhờ có Trương Cư Chính cầm quyền chính quyền mà trong nước được yên trị. Trương
chết rồi, ( năm 1582) , nhà vua bỏ bê việc nước, tránh gặp các đại thần, mà xa
xỉ vô độ, khi lập Hoàng Hậu, tiêu 90 triệu lạng bạc, phân phát 12 triệu lạng
cho một số thân vương, hoàng tử, và trên 9 triệu nữa để xây cung điện. Vì vậy,
mả phải tăng thuế và nạn tham nhũng lan tràn.
Một viên đại thần là Cổ Hiến
Thành vì đăng lời thẳng mà bị bải chức, về vườn cùng với Cao Phan Long Giảng
học ở thư viện Đồng Lâm : thư viện này lập từ đời Tống ở miền hạ du sông Dương
Tử, ông sửa sang lại làm chổ hội hộp đề nghị luận việc triều chính, phê bình
các nhân vật; sĩ phu ở thôn dã và quan lại ở triều đình nhiều người phụ họa,
thành một đãng rất nổi danh.
Ở triều đình thời đó, có bốn đảng
công kích lẫn nhau, tranh giành nhau địa vị. Bị đảng Đông Lâm bài xíxh, họ liên
kết với nhau để đá lại.
Năm 1620 Quang Tôn lên nối ngôi
Thần Tôn, chỉ ham mê nghề thợ mộc ( như vua Pháp Louis XVI ham sửa chìa khóa)
việc nước giao phó cả cho tên Thái Giám Ngụy Trung Hiền, vốn là tên đầu bếp của
Thái Hậu và là bạn thân của vú nuôi nhà vua.
Tới hắn, cái họa hoạn quan của
nhà Minh lên tới tột bực. Hắn hách dịch, tàn nhẩn vô cùng. Hắn nắm trong tay
Đông Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng, đâu đâu cũng có mật vụ, tố cáo những người
chống đối hắn để hắn hảm hại; bọn đó còn cướp bốc của dân đem về hạp cho hắn
nữa. Hắn bắt dân xây sinh tử để thờ sống hắn ở khắp nơi, như thờ Khổng Tử.
Đảng Đông Lâm vạch 24 tội nặng
của hắn , trong số đó có tội giết người và bắt Hoàng Hậu phải phá thai. Ngụy
vận động các đảng khác chống đảng Đông Lâm. Những người cầm đầu bị đem ra xử,
cất chức, bỏ tù, tra tấn đánh tới chết, trong số người bị hắn hại có 6 vị được
dân gian gọi là " Lục quân Tử" Sau vụ đó ( 1627) đảng tan rả và lịch
sử Trung Hoa ghi một thất bại đau xót của sỹ giới Trung Hoa trong việc chống
đối với bọn gian tà.
Đến khi Tư Tôn lên ngôi, giết
Trung Hiền, rửa oan cho các người bị nó hại thì chính trị đã đổ nát và nhà Minh
sụp đổ.
2. Kinh tế lâm nguy
Kinh tế nhà Minh chỉ thịnh trong
mấy chục năm đầu, rồi suy lần lần vì tiêu pha quá nhiều mà thu vào không đủ.
Việc xây kinh dô Bắc Kinh , cất
các cung điện tráng lệ, xây trường thành tốn kém ra sao, tôi đã kể ở trên rồi
Chính sách của Minh đối với vác
rợ phương Bắc là vừa dùng cả uy lẫn ân , hễ nước nào chịu phục tùng thì vua
Minh tỏ ra rất rộng rãi. Theo sữ thì có tới 38 thuộc quốc. Mỗi lần xứ thần của
họ tới boiên giới thì được viên quan ở đó tiếp đãi trong khi chờ đợi, có khi cả
tháng lệnh của triều đình, rồi đưa họ tới kinh đô, họ ở kinh cũng cả tháng nữa.
Họ thường cống những sản phẫm của nước họ như ngựa, da lông, vua Minh ban cho
họ gấm vóc, trà, lại cho thêm mỗi người trong phái đoàn lụa, mão áo, hài, nhiều
ít tùy phẩm trật. Có nước lợi dụng lòng rộng rãi đó, gởi những phái đààn gòm
3.000 người, trong đó xen một số con buôn, bắt Trung Quốc nuôi hàng tháng, mỗi
tháng 3.000 con cừu, 3.000 vại rượu , 100 hộc lúa, ấy là chưa kể gà vịt, bánh
trái... Khi vể, họ được tặng 26.000 tấm gấm vóc, 90.000 tấm lụa và không biết
bao nhiêu vật khác như đàn, sáo, dao, nồi đồng , đồ nữ trang... Ta thử tưởng
tượng 38 nước triều cống mà như vậy tốn cho triều đình biết bao, còn hơn là vua
Tống phải đóng " thuế " hàng năm cho nước Kim, nước Liêu thời trước
nữa , mà mục đích cũng chỉ là để họ khỏi quấy rối biên giới.
Những nước không chịu thuần phục
như Miến Xiêm, An Nam thì nhà Minh đem quân đi dẹp, thị uy, thường là thắng một
vài trận , rồi thua, phải rút quân về, cũng rất tốn kém, mà chẳng có kết quả gì
cả.
3. Họa Nhật Bản
Làm cho Trung Hoa điêu đứng nhất
là Nhật Bản và Triều Tiên. Bọn giặc biển Nhật thường đột xuất đánh phá, cướp
bóc các khu bờ biển từ miền Bắc tới Chiết Giang, Phúc Kiến, rồi rút lui ; thủy
quân và lục quân Trung Hoa không sao đề phòng , ngăn cản được, có thời phải bắt
dân bỏ nhà cửa, rút vào sâu trong nội địa để tránh chúng. Từ khoảng 1550 trở
đi, bọn "giặc lùn " đó hoành hành ngày càng dữ, đánh sâu vào nội địa
Chiết Giang, ngược dòng sông Dương Tủ , cướp phá làng mạc hai bên bờ , gần như
uy hiếp Nam Kinh, Năm 1560, một bọn giặc biển đông tới 6.000 cướp phá bờ biển
Phúc Kiến, Quảng Đông , lập căn cứ ở Đài Loan.
Cuối thế kỷ XVI, Nhật lại đem
quân qua xâm chiếm Triều Tiên. Triều Tiên là một thuộc quốc của Trung Hoa , che
chở phía Đông Bắc Trung Hoa, khỏi bị Nhật quấy phá. Thời đó, Triều Tiên suy
nhược, vua mê tửu sắc, quân lính không luyện tãp , thấy quân Nhật là bỏ chạy
không chống cự, để cho họ qua sông Áp Lục. Vua Triều Tiên vội sai sứ sang Trung
Hoa cáo cấp. Vua Thần Tôn phái 5.000 quân sang cứu, thua to ở Bình Nhưỡng (
1592), phái một viên tướng khác với 43.000 quân vượt sông Áp Lục bất thần tấn
công quân Nhật, đuổi họ ra khỏi Bình Nhưỡng , nhưng vì khinh địch, nên bị Nhật
phục kích mà đại bại. Hai bên hòa rồi lại chiến , chiến rồi hòa, mãi đến năm
1598, Nhật mới rút lui hẳn. Trong chiến tranh đó, trước sau nhà Minh phải hao
trên 200.000 quân , phí tổn chừng 20 triệu lạng vàng bạc, làm cho tài nguyên
của nhà Minh đã sút rất nhiều vì những nguyên nhân kể trên, bấy giờ gần hóa ra
kiệt quệ, do đó mà qua đầu thế kỷ XVI , loạn trong nước c xảy ra, rợ ở ngoài
dòm ngó.
Thiếu tiền, triều đình phải tăng
thuế liền liền, nhưng thu vào vẫn không được bao nhiêu. Trông cậy nhiều nhất
vào thuế ruộng, nhưng thuế ruộng nặng quá trên 50% số thu hoạch mà lại trả bằng
bạc, nhiều nông dân không đủ sức đóng, phải bỏ ruộng trốn đi nơi khácf, thành
bọn lưu vong, bọn ăn cướp. Ở Chiết Giang, chỉ có một phần mười số dân là có
ruộng, như vậy thu được bao nhiêu đâu. Nhất là nhiều nơi tay chân của bọn hoạn
quan được lãnh việc trưng thuế, chúng gian trá, thu của dân nhiều, nộp triều
đình ít còn thì bỏ túi một phần, một phần mang về cho chủ.
Sau chiến tranh với Nhật, triều
đình ra lệnh tỉnh b nào cũng phải tìm mõ để khai thác, hể tìm được mạch đồng,
bạc, thiếc thì thưởng. Nhân dịp đó bọn quan lại cấu kết với hoạn quan bóc lột,
ức hiếp dân nữa; nhà nào có máu mặt thì chúng vu là ăn cắp khoáng sản, nơi nào
có ruộng tốt nhà cao, cửa đẹp thì chcúng bảo ở dưới có mạch khoáng sản, sai
lính bao vây rồi đào , bới , làm tiền.
4. Tệ tham nhũng.
Chu Nguyên Chương rất nghiêm khắc
với quan lại, kẻ nào không liêm khiết thì trừng trị nặng, nhưng không diệt nổi
nạn tham nhũng vì lương bổng củà họ ít quá không đủ sống. Nhưng tới cuối Minh,
tệ đó lan tràn hơn tất cả các đời trước. Eberhard đưa ra nguyên nhân này, tôi
tuy không tin lắm nhưng cũng chép lại.
Ông cho là tại nghề in phát đạt,
sổ sách in tăng lên , giá rẻ , nhiều người mua được. Mới đầu là kinh Phật, sau
in tới Tứ Thư, Ngũ Kinh của đạo Nho. Nhiều người có sách để học, mà hể học
thuộc lòng được nhiều rồi, học cách làm thơ, làm phú, nghiền ngẫm những tập in
các đề thi, các bài phú, kinh sách kiểu mẫu, là có hy vọng thì thi đậu được. Do
đó, trước chỉ những con quan hoặc con đại điện chủ mới đi thi, bây giờ con tiểu
nông , tiểu công, tiểu thương, nghèo mà có chí cũng đi thi. Học thì không tốn
tiền mấy, đi thi mới tốn nhiều; từ quê phải lên tỉnh ở trọ cả mấy tháng, muốn
đậu thì phải hối lộ quan trường, đậu rồi mà muốn được bổ dụng thì phải đút lót
nhà quyền quý. Thi Hội phải lên Kinh sư, tốn kém gấp mười nữa, và khi được bổ
dụngrồi thì no ngập đầu, phải gỡ gạc để trả nợ cho mau, làm giàu cho mau. Những
kẻ nào có tham vọng được gần " mặt trời " tức thiên tử thì p^hải đút
lót cho hoạn quan, có kẻ thi đậu rồi, tự thiến để xin làm hoạn quan. Nhà Minh
ưa tụi đó và những Đông Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng ở trong cung đều là những
cơ quan của bọn hoạn quan biết chũ nghĩa cả.
Cuối Minh bọn họ khá đông, thành
một giai cấp trung lưumới mà Eberhard ví với giai cấp bourgeois của Châu Âu, họ
đóng một vai trò xã hội và chính trị quan trọng, nhưng không tiến bộ như bọn
bourgeois thời cận đại phương Tây, mà trái lại có hại cho quốc gia dân tộc vì
họ sa đọa hủ bại.
Tôi không biết đời Minh, sự thi
cử gian lận tới mức nàovà sự gian lận mà thi đậu rồi đút lót để làm quan cổ
động tới thành một giai cấp như giai cấp bourgeois ở Châu Âu như Eberhard nói
không. Tôi nghĩ triều đình mà loạn thì xã hội sa đọa, chẳng phải tìm nguyên
nhân từ sự phát triển của nghề in.
Tình trạng xã hội nhu vậy; vua
thì sa đọa phóng túng hoạn quan nắm hết triều đình, bóc lột nhân dân, quan lại
tham nhũng, nên loạn nổi lên ở Giang tây, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây. Lớn
nhất là loạn Thần Hào. Thần Hào là một người trong hoàng tộc được phong vương,
thấy Võ Tôn không có con muốn cướp ngôi, gây vây cánhở ngoài lẫn ở trong triều,
dấy binh ở Nam Xương ( Giang tây ) khi thế rất mạnh. Vương Dương Minh, một nho tướng
kiêm văn hào và triết gia, dẹp được. Sau Vương lại diệt được giặc Tư Ân ở Quảng
Tây năm 1528, trong trận này ông dùng súng đại bác chế tạo theo kiểu của Bồ đào
Nha.
Từ đó nhà Minh chỉ sống lây lất,
trong khi rợ Mãn Châu thịnh lên.
1. Mãn Châu đánh ở biên giới nổi
ở trong.
Mãn Châu ngày nay là một miền đất
rộng ỏ phía đông Bắc Trường Thành, từ Triều Tiên tới phía Bắc Hắc Long Giang.
Thời Minh người Mãn Châu chỉ chiếm phía Bắc Mãn Châu ngày nay thôi, còn phía
Nam về Trung Hoa ( coi bản đồ trang.41)
Người Mãn vốn là rợ Kim làm chủ
một phần Hoa Bắc đòi Tống ( thế kỷ XII, XIII). Khi Mông Cổ chiếm trọn Trung
Hoa, rợ Kim bị dồn về phía Hắc Long Giang, tới khi nhà Minh lên, họ lần lần lan
xuống phương Nam, phía Đông và Tây. Nhờ sống chung với người Trung Hoa trên một
thế kỷ, họ đã Hoa hóa ít nhiều có một triều đình như triều đình Trung Hoa, năm
616, họ lấy quốc hiệu là Thanh, vua của họ xưng đế, đóng đô ở Phụng Thiên.
Dân số của họ chỉ trên 1 triệu,
mà nhà Minh thời đó ít nhất cũng có 100 triệu , nhưng họ liên kết với Mông Cổ,
lại được một số Hán gianlàm cố vấn, nên năm 11619 thừa lúc nhà Minh suy, giặc
cướp nổi lên khắp nơi, họ dám tấn công Trung Hoa, thắng 10 vạn quân Minh, lần
lần họ chiếm được hết miền Liêu Đông. Quân Minh nhờ súng đại bác của Bò Đào Nha
chặn họ lại được ở dưới đó, họ quay sang phía tây , miền Nhiệt Hà, Minh Hạ ngày
nay.
Năm 1635, miền Tây Bắc Trung Hoa
đói kém kinh khủng. Dân chúng phải ăn rể và vỏ cây. Khi hết cây cỏ họ phải ăn
đất, vậy mà vua Minh ( Tư Tồn) vẫn bắt họ è cổ ra đóng thuế để có tiền nuôi
binh đánh Mãn Thanh. Thuế tăng lên gấp 16 lần, 60 lần thời bình thường. Bị dồn
vào thế cùng, dân phải họp nhau làm giặc. Ngàn đồng 1 lít gạo, họ chịu sao nổi.
Trong khi đó thì bọn quý tộc vẫn phè phởn, có kẻ làm chủ 1 triệu mẫu ( 50.000
hécta, bắt nông dân nộp thuế đều đều).
Loạn nổi lên từ miền Tây , tiếp
theo là miền Đông ở Sơn Đông, hội kín Bạch Liên giáo gần hằng vạn tín đồ kéo
nhau đi cướp bóc, chem giết các quan lại. Phía Đông Nam, một tên cướp cũng
chiếm đảo Đài Loan. Tóm lại, là từ 1610 đến 1640 không nơi nào yên.Đã tới thời
nhà Minh phải xụp đổ.
Hai viên đầu đảng được nông dân
ùn ùn theo Trương Hiến Trung và Lý Tự Thành
Năm 1642 Lý Tự Thành bao vây khai
phong trong 4 tháng, đánh tan quân triều đình tới để giải vây, danh vang dậy,
dân chúng càng theo nhiều, uy tín hơn hẳn Trương Hiến Trung. Lý cũng chỉ là một
nông dân vô học, một tướng cướp tàn bạo , nhưng can đảm, có tài cầm quân ,
thông minh, có óc làm chính trị. Khi chiếm được Khai Phong rồi, thị trấn đó ở
giữa đường từ Bắc Kinh tới Nam Kinh, một viên tường của ông đề nghị nên chiếm
ngay Bắc Kinh, một viên khác khuyên nên chiếm Nam Kinh , một người thứ ba bảo
nên chiếm Thiểm Tây trước đã, tổ chức lại quân đội, nắm chắc tỉnh đó, rồi sẽ
chiếm Sơn Tây, sau cùng tiến về Bắc Kinh không phải để cướp bóc như trước mà để
chiếm ngôi báu. Ông nghe lời người thứ ba, đổi hẳn chính sách , muốn lật đổ
triều đình nhà Minh. Ông đem quân qua chiếm Thiểm Tây, vô Tây An, thủ phủ của
tỉnh , cho quân cướp bóc trong ba ngày rồi lập lại trật tự, tháng 2 năm 1644
lên ngôi vua, phong tước công hầu cho thuộc hạ, lập một triều đình có đủ lụp
bộ. Quân đội của ông lúc đó được 1 trệu gồm 6000.000 kỵ binh và 400.000 bộ
binh. Tháng 3 ông vuợt Hoàng Hà , chiếm Sơn Tây, như vào chỗ không người.
Triều Đình hoảng hốt, bàn tán xôn
xao, mỗi người một ý. Nguy nhất là quốc khố rỗng không, tiền đâu mà phát cho
quân lình. sau cùng, chỉ còn một giải pháp là triệu tướng Ngô Tam Quế đương
chống với Mãn Thanh ở biên giới về cứu nguy.
Trể qua rồi, Ngô Tam Quế lúc đó ở
cách Bắc Kinh 400 cây số, mà quân của Lý ở Sơn tây , gần hơn , tới Bắc kinh
trước. Tư^Đôn sai hoạn quan Đỗ Huân đem hết quân ở kinh đô ra ngăn giặc, nhưng
Đỗ Huân làm phản, đầu hàng Lý. Ngày 19 tháng 4. Lý tới đốt phá khu lăng tẩm của
nhà Minh rồi thẳng tiến tới Bắc Kinh. Ngày 24, , họp triều đình tất cả các đại
thần chỉ khóc ròng, không thốt được một lời.
2. Tư Tôn tuẫn quốc. Lý Tự Thành
lên ngôi
Hôm sau, Tư Tôn sai vài hoạn quan
thân tín cải trang cho thái tử và các hoàng tử , đưa ra ngoài thành trốn đi.D
Sau đó, ông cùng với Hoàng Hậu và một quý phi rầu rĩ uống vài chung rượu. Khi
cạn chén , quý phi đứng dậy rút lui trước, ông rút gươm chém nàng một nhát,
nàng ngã gục dưới chân ông. Hoàng Hậu vội vàng về cung, tự ải bằng chiếc dây
lưng. Nhà vua chém xong hai công chúa rồi vô phòng hoàng hậu, thấy thây vợ lủng
lẳng, ông lẩm bẩm : " tốt, tốt ".
Sáng sớm ngày 26, chuông vẫn đổ
bào giờ họp triều nhưng không ai tới cả. Tư Tôn cùng với viên Thái Giam trung
tín cuối cùng. Vương Thừa Ân, leo lên Môi Sơn ( một núi giá sau cung điện) đứng
nhìn kinh thành và đồng ruộng một hồi lâu, có lẽ để xem đạo quân Ngô Tam Quế có
sắp tới không.
Rồi ông sai viết lên mặt trong
vạt áo: " Trẫm bạc đức, đáng khinh bỉ, đã bị thượng đế trừng phạt. Các đại
thần của Trẫm đã lừa Trẫm. Trẫm xấu hổ gặp các Tiên Vương ở Suối vàng. Cho nên
Trẫm tự lột mũ miện, xõa tóc, che mặt, đợi cho quân địch xé thây. Đừng đụng đến
một thần dân nào của Trẫm ( Will Durant- Sách đã dẫn).
Viết xong , ông tự treo cổ trên
một nhánh cây. Vương Thừa Ân cũng tuẫn quốc theo chủ, với trên 40 người nữa.
Vài giờ sau, Lý Tự Thành vô cung
điện cùng với bộ hạ, và leo lên ngai vàng.
Ngô Tam quế được lịnh về cứu kinh
đô từ mười ngày trước, vẫn chùng chình, tiến binh rất chậm, có lẽ vì còn tính
xem có nên nhận đề nghị chia chác sauđó của Lý Tự Thành không. Khi Tư Tôn tuẫn
quốc, thì Quế mới tiến được có nữa đường tới Bắc kinh. Hay tin, hắn quay trở về
liền để chờ xem tình thế ra sao.
Lý Tự Thành đã thành công một
cách dể dàng. gần hết triều đình Minh qui phục ông. Thái tử Minh bị ông bắt
được. Nam Kinh chưa nhúc nhích, tạm khỏi lo. Duy có Ngô Tam Quế là có thể gây
rối cho ông. Ông nhờ cha của Quế - lúc đó đã theo ông - làm trung gian để điều
đình với Quế. Nhưng Quế vẫn không quyết định gì cả, có lẽ muốn đợi Lý Tự Thành
trả cho mình một ái thiếp bị một tướng của Tự Thành bắt, Đồng thời Quế cũng
thương thuyết với quân Thanh , nhờ quân Thanh giúp khi cần. Tự Thành hay tin đó
tặng Quế 40.000 lạng bạc, Quế vẫn làm thinh. Bực mình, Tự Thành phái hai tướng
đem 20.000
quân đánh Quế ở gần Sơn Hải Quan,
khi vây Quế ba mặt rồi, quân Quế sắp bị tiêu diệt thì quân Thanh tới cứu Quế.
Tự Thành thua , rút lui, đề nghị chia d giang sơn b với Quế; Quế khôngchịu, Tự
Thành giết cha Quế rồi vội vàng về Bắc Kinh( vì quân địch theo bén gót) vơ vét vàng
bạc, châu báu chất lên xe, đdưa về phía T-ay , dốt cung điện rồi cùng với quân
đội rút lui
3. Ngô Tam quế phản quốc, Thanh
diệt Minh
Quế hy vọng đuổi đưọc Tự Thành
rồi, nhường cho nhà Thanh một số quyền lợi nào đó thì họ sẽ lui về Mãn Châu.
Không dè viên phụ chính, chú vua Thanh bảo chưa lập được trật tự nên không về,
lại sai Quế đem quân Thanh đuổi theo Lý Tự Thành tới Thiểm Tây. Trong khi đó,
vua Thanh mới 7 tuổi được chụ tức viên phụ chính) đưa vào Bắc Kinh, đặt lên
ngai vàng.
Quế hay tin như người mất hồn,
suốt ngày đóng cửa không tiếp ai, rất rầu rĩ. Hắn tiếc vì mất ái thiếp, lại mất
ngôi vua hay chức tể tướng.
Hắn ân hận vỉ để cho cha bị giết
và mang tội phản quốc. Vua Thanh phong cho hắn chức vương, cai trị miền Thiển
Tây.
Lý Tự Thành thua hoài, tướng tá
sinh lòng phản trắc, quân đội bỏ rơi, cuối cùng bị dân một làng nọ giết chết,
tưởng ông chỉ là tướng cướp, tới khi lột binh phục ông rồi mới thấy chiếc long
bào. Trương hiến trung thì bị quân Thanh bắt chém.
Ở Nam Kinh, khi hay tin Tư Tôn
tuẫn quốc, người ta đưa Phúc Vương một cháu nội của Thần Tôn lên ngôi. Tư cách
Phúc Vương rất tầm thường. Triều thần muốn tổ chức lại quân đội, xây cất thành
lũy, cố giữ lấy phương Nam, nhưng quốc khố trống rỗng. Lý Tự Thành đã chở đi
hết rồi. Hơn nữa , hai viên đại thần có quyền nhất lại chống đối nhau.
Quân Thanh chiếm đưọc Bắc Kinh đã
là ngoài sự mong ước của họ. Trong các bài hịch của vua Thanh khi mới vào cửa
quan đều tỏ rõ ý ấy. Nhưng thấy triều đình miền Nam suy nhược, chia rẽ, họ mới
đem quân xuống đánh Dương Châu.
Sử Khả Pháp, Binh bộ thượng thơ
của Nam Kinh , có dùng khí quyết tâm đánh Thanh, đem hết cả các quan văn võ
Dương Châu ra giữ thành; quân Thanh dùng đại bác phá được thành . Sử Khả Pháp
tự sát được cứu sống, trốn ra khỏi thành thì bị quân Thanh bắt, ông không chịu
hàng Thanh, bị chúng giết. Vào được thành rồi, quân Thanh chém giết luôn 10
ngày, trên 800.000 người. Phụ nữ tử tiết không biết bao nhiêu mà kể. Thảm kịch
đó, sử gọi là “ 1O ngày Dương Châu“.
Hai tuần sau, quân Thanh tới
Dương tử Giang, vượt qua một cách yên ổn vì chiến thuyền của Nam Kinh bỏ trốn
xuống Phúc Kiến rồi. Tháng 6 năm 1645, họ tới Nam Kinh, Phúc Vương vội vàng
trốn với vài kị binh . Bị quân Thanh đuổi sát , ông nhảy xuống sông Dương Tử.
Đó là theo Henrri Maspéro trong cuốn Études Historiques ( PUF. 1967) các sách
Hán đều nói ông bị bắt, đưa về Bắc, giết.
Nhà minh tới đây chấm dứt. Sau
còn vài thân vương rán kháng Thanh ở Phúc Kiến, Quảng Châu, nhưng đều thất bại.
Vậy là tự chủ đưọc khoảng hai
trăm rưỡi năm dân tộc Trung Hoa lại phải chui đầu vào cái ách của rợ Mản Châu
trên hai trăm rưỡi năm ( 1645 - 1911) lâu gần gấp ba lần dưới ách Mông Cổ.
Lần trước nhục ít mà không ức
lắm, vì Mông Cổ mạnh hơn họ, cả chục dân tộc cũng bị rợ đó cướp nước như họ và
họ cũng đã tận lực kháng địch; lần này rất nhục mà lại ức; rợ Mãn Châu yếu hơn
họ, chỉ vì một tên Hán gian mà vô được Bắc Kinh, rồi vì sự bất lực, sự chia rẻ
của kè cầm quyền mà Mãn chiếm được trọn giang san của họ.
Trong số các triều đại của người
Trung Hoa, triều Minh đáng chê nhất.
Về chính trị, Minh đã đáng chê mà
về văn hoá, cũng không có gì đặc sắc, kém hẳn với đời Hán, Đường, Tống. Không
có sáng chế, phát minh gì quan trọng, văn học, triết học, nghệ thuật chỉ rập
lại những khuôn cũ. Thời Minh là thời Trung Quốc đứng yên một chổ, trong tình
trạng thời trung cổ để cho Tây Phương vượt xa về cả mọi phương diện. Những
trang sử rực rỡ nhất của dân tộc Trung Hoa đã lật qua rồi.
1. Xã Hội - Tôn Giáo
Xã hội đời Minh là một xã hội
phong kiến của các vương hầu ruộng đất mênh mông hàng chục , trăm ngàn héc ta,
nuôi cả ngàn nô tì mà tình cảnh tệ hơn hạng nông thời Trung Cổ châu Âu, vì chú
có thể bán họ cho người khác được. Ngoại thương suy hơn đời Nguyên vì sau khi
Trịnh Hoà chết, vua Minh lại theo chính sách bế quan, không muốn buôn bán với
phương Tây; nhưng nội thương phát đạt hơn; nhờ công nghiệp phát triển và một số
phú thương liên kết với giới phong kiến, với bọn hoạn quan làm chủ những điền
trang lớn, do đó, mà một số sử gia phương Tây cho rằng thế kỷ XVI, XVII, chủ
nghĩa tư bản đã bắt đầu phát sinh ở Trung Quốc.
Nông dân rất khổ vì thuế nặng,
đời sống đắt đỏ, đồng tiền sụt giá và vì nạn tham nhũng của quan lại. Nhiều kẻ
phải bán ruộng , số dân lưu vong tăng lên.
Tôn giáo cũng suy. Phật giáo, đạo
giáo được vài ông vua cuối đời nhà Minh tặnh cho nhiều quyền lợi: phát ruộng
cho chùa, phong chức cho giáo chủ vào hàng đại thần ( nhị phẩm) để mua chuộc họ
mà để trị dân; chính vì vậy mà họ hóa ra sa đọa. Đạo giáo càng ngày càng hóa ra
mê tíndị đoan, mà Lạt Ma giáo thì giới tu hành bận áo đỏ ( gọi là Hồng Giáo, có
vợ con, sống xa xỉ dăm dật quá đổi ttới nổi triều đình cấm họ lập gia đình, và
buộc họ phải bận áo vàng ( gọi là Hoàng Giáo).
Chính vì lúc Phật giáo suy thì Ki
Tô giáo theo bọn thương nhân - cùng Phật giáo đời Hán - vào Trung Quốc , không
dùng đường bộ qua Trung Á mà dùng đường biển qua Ấn Độ Dương. Họ được phép dựng
vài giáo đường ở Bắc Kinh, ở Quảng Châu, Áo Môn , và cuối đời Minh thì có vài
người Trung Hoa theo đạo trong số đó có vài người là quan lại, còn đa số là thị
dân ở miền duyên hải.
2. Triết học
Đạo Khổng vẫn là quốc giáo của
Trưng Hoa. Trường học vẫn dạy học thuyết Trình Chu ( Trình Di và Chu Hi) coi nó
là đạo Nho chính thống.
Trong tiết về Triết học đời Tống
tôi đã nói đồng thời với Chu Hi và mở đường cho phái Duy Tâm học đời sau mà lý
thuyết gia nổi danh nhất là Vương Dương Minh ( 1472 - 1528)
Vương rất thông minh hiếu học,
lại hào hùng, chịu tìm tòi suy nghĩ. Hồi 17 tuổi ông cưới vợ, buổi chiều ngày
rước dâu, ông tản bộ đi chơi, gặp một đạo sĩ, ngừng bước lại, bàn luận với đạo
sĩ về phép dưỡng sinh rồi quên về nhà, làm cho hai họ hoảng hốt, sai người đi
tìm.
Đời ông biến chuyển 6 lần: lần
đầu say mê về nghĩa hiệp, lần thứ nhì tập cưỡi ngựa bắn cung, học binh pháp (
nhờ vậy mà sau ông dẹp được loạn Thần Hào và các giặc trong nưóc đời Võ Tôn và
Thế Tôn như trên chúng ta đã biết) lấn thứ ba chuyền về thư pháp và từ chương (
ông có một lối viết rất đạc biệt: cả một hàng mà liền một nét, ngọn bút không
rời mặt giấy); lấn thứ tư chìm đắm trong thuật tu tiên, lần thứ năm nghiên cúu
về đạo Phật và lần cuối cùng vùi đầu vào lý học.
Thoạt tiên ông đọc Chu Hi, Chu Di
giảng 4 chữ " Cách vật trí tri "trong sách Đại học là xét " đến
cái lý của sự vật, muốn cho những chữ nho" nhặt ttói đâu cũng hiểu được
thấu đáo ". Vương theo lời giảng đó mà bỏ ra 7 ngày liền ngồi dưới một bụi
trúc để tìm cái " lý " của cây trúc; nhưng mất công toi, ông sinh ra
chán nản.
Mãi ba chục năm sau, ông bổng
nhiên tỉnh ngợ, thấy rằng không thể đến vơí sự vật để tìm ra đạo lý được, mà
đạo lý ở trong tâm ta, hễ ta tu dưỡng làm lành lánh ác, diệt tà niệm cho tâm
được sáng suốt thì sẽ thấy Đạo Trời và Đạo Người. Đó là thuyết của Lục Cửu Uyên
từ đời Tống. Có lẽ ông không đọc Lục cho nên mới mất 30 năm để tìm lại ra được
nó.
Nhưng ông cũng có công phát huy
thuyết của Lục đến cực điểm. öng Bảo hễ diệt được tà niệm trong tâm, thì cái
" lương tri " ( chử của Mạnh Tử ) bẩm sinh ai cũng có, sẽ phát hiện
và tự nhiên ta biết được ( ngày nay ta nói đó là trực giác mà biết được) thế
nào là thiện, thế nào là ác; và làm thiện bỏ ác tức là cách vật. Chữ cách vật
đó không có nghĩa là đến sự vật, như Chu Hi giảng, mà có nghĩa là làm cho cái
vật, cái tâm hóa chính đáng ( cách).
Tóm lại học thuyết của ông kết
tinh trong bốn câu dưới đây:
- Không thiện không ác là cái thế
của Tâm
Có thiện , có ác là ý phát động
Biết thiện , biết ác là lương
tri,
Làm thiện, bỏ ác là cách vật.
Học thuyết đó hoàn toàn duy tâm,
có màu sắc Phật giáo ( 1) hơn là Khổng giáo. Chính Vương cũng nhận rằng ông chỉ
muốn sửa lại cái tệ của một thời - theo ông thì thời ông, người ta theo đuổi sự
vật quá mà quên cái tâm- chứ học thuyết của ông không phải là chân lý tuyệt
đối.
Chu Hi chủ trương hành còn quan
trọng hơn tri, biết mà không làm thì cái biết đó vô dụng. Vương sửa lại bảo:
Biết tức là hành rối, tri với hành là một ( tri hành hợp nhất). Ông cho chữ
hành một nghĩa mới:
- Mắt ta thấy sắc đẹp là thuộc về
phần tri, bụng ta thích sắc đẹp là thuộc về phần hành. Ngay lúc trông thấy sắc
đẹp ta đã có ý thích rồi, không phải sau khi trông thấy rồi mới tập tâm để
thích.
Ghét mùi hôi thúi cũng vậy,thuộc
về phần hành rồi. Vậy trong tâm có ý gì phát động xảy ra thì là hành rồi đấy. Ý
ông muốn khuyên ta " khi có một ý nghĩ bất thiện xảy ra thì phải mau mau
từ từ bỏ , dù chẳng đem nó ta thực hành thì cũng thế ". " Người học
đạo phải như con mèo rình chuột, để hết tâm vào mồi, hể thấy phát động ý nghĩ
bất thiện nào thì diệt nó liền. Phép luyện tâm của ông nghiêm cấm như vậy đó.
Học thuyết của ông truyền qua
Nhật Bản , được sĩ phu Nhật rất hoan nghênh, áp dụng nó vào việc trị tâm mà đào
luyện được một tâm hồn cao cả, giúp quốc gia cường thịnh lên. Nhưng ở Trung
Quốc cuối đời Minh thì trái lại, nhiều kẻ không hiểu thuyết của ông chủ yếu là
diệt vật dục như một lớp bụi cho tấm gương đi đã, rồi tấm gương ( tức tâm ) mới
sáng mà lương tri mới hiện, biết được thiện ác, và làm thiện , bỏ ác , tâm họ
còn đầy vật dục mà cứ theo ngay cái tâm , thích cái gì thì làm cái đó, ghét cái
gì thì chống cái đó, hóa ra càn dỡ, vô sở bất vi; họ gây phong trào lãng mạn ở
cuối Minh, mà bọn cầm quyền thì tìm cách tăng cường thêm uy quyền của thiên tử,
dùng mọi thủ doạn quỷ quyệt như Hàn Phi ở đời nhà Tấn, Machiavel, người đồng
thời với Vương ở Ý. Vì các hành vi xấu tới mấy cũng có thể dùng thuyết trực
giác ( lương tri của Vương ) mà biện hộ được.
Năm chữ " cách vật tại trí
tri " của Khổng Tử chỉ có nghiã là muốn có tri thức chân chính xác đáng
thì phải xét kỷ sự việc". Khổng không hoàn toàn duy tâm như Vương.
Ngoài ra còn vài ba triết gia nữa
phản đối Vương Dương Minh nhưng ảnh hưởng không lớn như:
- Cổ Hiến Thành cho sự học phải
lấy việc đời làm cốt, mà việc đời thời đó là chính sách của triều đình, nên họ
thường nghị luận về chính trị trong khi giảng học, và bị đàn áp mạnh.
- Vương Cấn cũng cho rằng triết
học không phải là cái gì không hư, huyền diệu nhất thiết cái gì không hợp với
đời sống thuòng ngày của dân chúng thì đều là tà thuết; về chính trị ông chủ
trương kiêm ái như Mặc Tử, mình phải yêu ngưòi, nếu yêu người mà người ông yêu
lại mình thì mình phải nphản tỉnh, phản tỉnh như vậy là " cách vật ",
phải tạo nên một xã hội trong đó người nghèo khổ được an cư lạc nghiệp. Tư
tưởng đó người nghèo khổ được an cư lạc nghiệp. Tư tưởng đó có màu sắc duy vật,
tựa như xã hội chủ nghĩa.
* * * * *
1) Phật giáo nói minh tâm kiến
tánh, mà Vương nói minh tâm trí tri
**********
3. Văn Nghệ
- : Sử gia đời Minh thiếu một
quan niệm rõ rệt về sử, gặp việc gì cũng chép, bất kì lớn nhỏ, thành thử vụn
vặt, tài liệu để lại đòi sau rất nhiều ( năm triệu, như trên đã nói) mà không
dùng được.
Vài nhà hơi có giá trị là Vương
Thế Trinh, Dương Thận, và Hổ Ứng Dâm.
- Văn đàn đời Minh bị hai phong
trào chi phối:
- Trong hai thế kỷ đầu là phong
trào phục cổ: đời Nguyên, cựu học bị đàn áp bao nhiêu thì bây giờ nó lại phát
lên mạnh bấy nhiêu.
Nhưng phong trào ấy không giống
phong trào phục cổ ở đời Đường , Tống; văn nhân đời Minh chỉ mô phỏng cổ nhân
mà thiếu tinh thần sáng tác.
Hồi đầu còn kha khá, có ít bài
sánh được với cổ văn các đời trước, như bài " Tống Thiên Thai Trần Đinh
Học tử của Tống Liêm, " Mại Cam Giả Ngôn " của Lưu Cơ, " Thâm Tự
Luận " của Phương Hiếu Nhụ, " Tượng Tử Kí " của Vương Thủ Nhân (
Vương Dương Minh), Trương Lương Đình Ký " của Qui Hữu Quang. Cảm động nhất
là bài " Ế Lữ Văn " của Vương Thủ Nhân.
Vế sau văn nhân chỉ tranh biện
nhau về chủ trương nên bắt chước đời nào : Tần, Hán, hay đường, Tống.
Trong đời Minh thịnh nhất là lối
văn bát cổ ( tám vế): Mỗi v bài có tám đoạn ( phá đề, thừa đề, khởi giảng, đề
tỉ, hư tỉ, hậu tỉ đãi kết) ( 1) và lối đó dùng để tuyển nhân tài trong cáx kỳ
thi, mới đầu không dùng thể biền ngầu, sau bắt buộc phải dùng thể đó, bó buộc
ngưòi viết quá, lưu hại đến ba, bốn thế kỷ sau. Nước ta theo họ và gần đây còn
nhiều nhà văn đua nhau dùng thể đó.
- Đến giữa đời Minh, một phong
trào lãng mạn xuất hiện, cầm đầu là Đường Dần , Chúc Doãn Minh và vợ chồng
Dương Thận. Họ phóng túng, đắm đuối trong thi tửu đến thành cuồng , và tận lực
dùng lối văn tài tử để phụng sự cái mỷ. Người ta cho rằng cái hại dó do họ hiểu
lầm triết lý của Lý Trí (tự Trác Ngô) , một môn đồ của Vương. Lý chủ trương
thuyết tự nhiên, cứ theo lòng mình, không chịu một sự bó buộc nào. Sử chép có
hằng chục triệu theo Lý như mê cuống, song họ không biết theo cái hay của Lý;
đả đảo lối văn tám vế, mà chỉ mượn tư tưởng của Lý để biện hộ cho những hành vi
quá lãng mạn của họ thôi
- Thơ
Thơ chia làm ba thời kỳ:
* Minh sơ, thi sĩ tuy mô phỏng cổ
nhân mà còn có đặc sắc , biết biến hóa. Tống Liêm có giọng hồn nhiên, Lưu Cơ
thì hào phóng, Phương Hiếu Phụ thì hùng tráng. Đa tài hơn cả Cao Khải, sở
trưòng mà củng là sở đoản của ông ở điểm ông có đủ giọng của cổ nhân.
* Khoảng giữa đời Minh, bọn phục
cổ xuất hiện , chủ trường lời phải cổ nhã, ý phải hùng, phải dùng nhiều thực từ
( nay ta gọi là danh từ, động từ, trái với hư từ ).
Lý Phàn Long ngày đêm đọc cổ thư,
trên tường dán đầy kiệt tác của cổ nhân, rất khổ tâm với thơ mà thơ không hay.
Cuối đời Minh, phái lãng mạn, có
Chúc Doãn Minh, Dương thận, Dương thoa phấn, tô son , cải trang thành một ả
liểu hoàn, cùng các kì nữ nhởn nhơ ngoài phố, say say ca hát. Lời đẹp, song
toàn là ngâm hoa , vịnh nguyệt, nội dung kém lắm.
- Tuồng
Tuồng và tiểu thuyết là hai loại
văn mới làm vẻ vang cho văn học đời Minh.
Đời Nguyên tuồng đã chia ra Bắc
khúc theo âm nhạc phương Bắc và Nam
khúc, dùng nhiều điệu nhạc hơn, do sáng kiến của Ngụy Lương Phụ ở Côn Sơn, cho
nên gọi là Côn Khúc. Côn Khúc là khởi nguyên của hi kịch đời sau.
Tuồng đời Minh còn truyền lại
được 2-3 trăm vở, giai tác được vài chục, như " Tì bà Ký " của Cao
Minh, văn rất thanh nhã, lâm ly; " Kinh thoa Ký " " Bái Nguyệt
Đình " của Lưu Trí Viễn, là những tuồng tình cảm có ý răn đời
Nổi danh nhất là tuồng " Mẫu
Đơn Đinh " của Thang Hiển Tổ ở giữa đời Minh, lãng mạn hơn Tây Sương Ký
hơn cả René của Chateau Briand, Werther của Goethe và Tyuết Hồng Lệ Sử của Từ
Trẩm Á.
Một thiếu nữ họ Đỗ, nhân học
thiên " Quan quan thư cưủ trong Kinh Thi mà mơ mộng hoài xuân, tâm tình u
uất. Bữa nọ nàng dạo chơi trong vườn hoa, mệt quá, về phòng thiêm thiếp , mộng
thấy một thanh niên tên là Liễu Mộng Mai, hai người yêu nhau, kết hôn cùng
nhau. Khi tỉnh mộng, nàng ngo ngẩn, phát bệnh tương tư, tự vẽ hình mình rồi
chết, chôn trong vườn hoa, Liễu Mộng Mai lại là người có thực. Một hôm tránh
gió, tuyết vào trú chân trong vườn, thấy bức chân dung của nàng, quyết chí ở
lại, ngày đêm tháp hương khấn vái. Hồn nàng hiện về, người và ma quyến luyến tư
thông với nhau. Sau này được tái sinh, chàng thi đậu Trạng và hai bên kết hôn.
Truyện đã li kỳ mà lời văn như
gấm, nên ảnh hưởng lớn đến thanh niên đương thời. Tương truyền một thiếu nữ đọc
rồi, đau lòng quá , đứt ruột mà chết. Một thiếu nữ khác khi lâm chung đặn cha
mẹ liệm vở tuồng đó với nàng. Đủ biết thanh niên thời dó ủy mị tới bực nào!
Thang Hiển Tổ còn 3 tuồng nữa
cũng nổi danh và lãng mạn là " Nam Kinh Ký ", " Tử Hoa Ký "
, Hàm Đan Ký ".
Chu Duy Chi trong cuốn "
Trung Quốc văn nghệ tư trào sử học " ví Thang với Shakespeare. Cả hai cùng
sống một thời ( Thang : 1550 - 1617, Shakespeare: 1564- 1616 ) đều đa tài, lãng
mạn, bất chấp luật cổ điển : Shakespeare thì phá luật tam nhất trí, còn Thang
thì bất chấp cả âm luật của tuồng: " Ý ta tới đâu, ta theo tới đó, không
kể lời chê bai của mọi ngườỉ.
Đến cuối đời Minh, tuồng bắt đầu
suy: nội dung kém, vừa xa quần chúng, vừa mất tự nhiên
- Tiểu thuyết
Trong các thời đại trước, tiểu
thuyết Trung Quốc chỉ mới phôi thai, qua đời Minh nó mới phát triển đầy đủkỷ
thuật cao, tưởng tượng phong phú, mô tả khéo léo, tình tiết chi li. Bốn kì thư
là Thủy Hử, Kim Bình Mai , Tam Quốc Chí diễn nghĩa và Tây Du Ký.
Đại loại tiểu thuyết thời ấy có
đặc điểm này là không biết soạn vào năm nào không kê rõ tên tác giả. Hầu hết là
những chucyện được truyền khẩu trong dân gian. Khi kể thì mỗi người tùy tài
riêng của mình thêm bớt ít nhiều, sau đó có người yêu văn chép lại. Vì thời đó
tiểu thuyết chỉ được coi là một loại văn du hí, nên người chép thường dấu tên
mà những người sau lại tự ý sửa đổi, có khi tới 5 hay 7 lượt, làm mất hẳn bản
sắc của nguyên cảo, thành thử mỗi tiểu thuyết không còn là công trình của một
cây bút nữa, văn không đều, có đoạn hay, có đoạn kém, mà sự nghiên cứu tác giả
là một việc rất khó khăn. Hiện nay có người cho Tam Quốc Chí , Thủy Hử, Tây Du
Ký xuất hiện ở đời Nguyên, có người lại sắp nó vào đời Minh.
Thủy Hử được sắp vào loại tiểu
thuyết anh hùng. Nguyên cảo có thể là của Thị Nại Am. Tác giả tả cảnh loạn lạc,
quan lại tham nhũng, triều đình bất lực ở cuối nhà Tống, và những hành vi
" thế thiên hành đạo " của bọn thảo dã anh hùng Lương Sơn Bạc ỏ Sơn
Đông chống lại triều đinh để cứu dân, mà người cầm đầu là Tống Giang.
Tam Quốc Chí diễn nghĩa là một
tiểu thuyết lịch sử của La Quán Trung bị người đời sau sửa đổi. Tác giả dựa vào
sự thực trong lịch sử, nhưng tưởng tưọng thêm nhiều, có thể là theo thị hiếu
của dân cho Tào Tháo là một tên gian hùng mà rất đề cao Khổng Minh. Kết cấu
vụng về, nhưng được dân chúng rất mê, còn hơn người Pháp mê những tiểu thuyết
hiệp sĩ (romans de la chevalèrie ) nữa.
Tác phẩm vĩ đại nhất là Kim Bình
Mai tương truyền của Vương Thế Trinh, nhưng không chắc. truyện tả chân xã hội
quan lại, sĩ phu , thương nhân sa đọa, những đồi phong bại tục của họ bằng một
ngọn bút bình tĩnh mà sắc bén. tình dục và nhục cảm được ghi lại chi li, táo
bạo lạ lùng, có người chê là dâm thư, và đời Thanh có lúc cấm bộ ấy, ai đọc lén
thì bị đánh 100 trượng. Những bản lưu hành ngày nay đều cắt hết những đoạn thô
bạo quá. Có người sắp nó vào loại tiểu thuyết diễm tình, thực ra nó là loại tả
chân xã hội.
Dân tộc Trung Hoa cũng lạ thật,
đề cao đức Trung dung thì không dân tộc nào bằng họ, mà hành động quá khích thì
họ cũng đứng đầu: lãng mạn thì khắp thế giới không có kịch, truyện nào hơn Mẫu
Đơn Đình, tả chân thì Kim Bình Mai ăn đứt các tiểu thuyết loại đó của phương
tây, dâm dục thì vua chúa của họ có tới 6.000 mỹ nữ, vua nước nào bì nổi
Dâm thư thì truyện Nhục Bì Đoản (
không biết của ai, có lẽ xuất hiện cùng đời Minh) cũng là độc nhất vô nhị; bảo
thủ không dân tộc nào bằng mà tần Thủy Hoàng và Mao Trạch Đông lạI muốn hủy hết
di sản tinh thần của nòi giống; ba ngàn năm trước đã tôn trọng ý dân ( dân muốn
là trời muốn ), vậy mà dân thời nào cũng bị ức hiếp hơn hết.
Bốn tiểu thuyết giớI thiệu ở
trên: Thủu Hử, Tam Quốc Chí , Tây Du Ký, Kim Bình Mai đều được coi là những tác
phẩm bất hủ của nhân loạI và đều được phưong Tây dịch đi dịch lại.
- Đoản thiên tiểu thuyết tới đờI
nhà Minh cũng bắt đầu thịnh.
- Bảo Ủng đại nhân lựa những
truyện hay nhất của nhiều tác giả , gom lại thành bộ Kim Cổ Kỳ quan mà hồi nhỏ
chúng ta đều say mê đọc . Nghệ thuật cao hơn bộ Ngàn lẻ một đêm của Á Rập.
- Chính những tiểu thuyết và đoản
thiên tiểu thuyết đời Minh cho ta biết về xã hộI , phong tục dân tộc Trung Hoa
hơn là những bộ sử của họ.
4. Mỹ Thuật
Họa : Kỹ thuật không thay đổi.
Không có phảí nào mới.
- Hai họa sĩ có danh là Đưòng
Dần, và Đổng Kì Xương vẽ sơn thủy, cây, đá, mây, khói. Nét vẽ của Đổng nho nhã,
phong lư, đáng là bực thầy, nhưng thiếu cốt khí.
- - Kiến trúc: Có nhiều công
trình lớn tôi đã giớI thiệu ở trên: cung điện Bắc Kinh, Trường thành. Và kể
thêm Thiên Đàn (đàn thờ Trời ) xây bằng cẩm thạch trắng, lợp ngói có men màu.
- Đồ sứ: Sản xuất nhiều và thêm
được vài loại: như men trắng trang trí bằng màu lam, gọi là đồ Giang Tây. Từ
thế kỷ XVI, dùng màu lam cobalty của Samatra, kém màu lam của Tiểu Á ( Asia mincure ). Tìm ra được loại men đỏ rực sáng chế được
những đồ nhiều men màu ( ba , năm , màu ). Nhưng đồ Long tuyền suy.
- - Đồ Sơn. Đẹp , xuất cảng qua
Nhật, được người Nhật bắt chước.
5. Khoa Học
Thiên văn và địa lý tiến bộ nhờ
học của Châu Âu. Lịch pháp được cải tiến, đúng hơn trước.
La Niệm An tăng bổ một địa đồ đời
Nguyên, gọi là Quảng hưng đồ
Y dược:
Minh trọng y học nên có nhiều y
gia giỏi, phát minh được nhiều y thuật. Đời Thần Tôn có Lý Thời Trân tác giả bộ
Bản thảo Cương mục, tập dài thành các dược vật và cách chế dược các đời trước. Tới
nay bộ đó vẫn còn được dùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét