XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

MỘT THỜI HOA LỬA



NGUYỄN VIỆT PHÁT
***
MỘT THỜI HOA LỬA
(Ký ức chiến tranh) 
NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
                      Nguyễn Việt Phát . Sinh: 01-01-1953
                     Sinh quán: Thụy Sơn, Thái Thụy,Thái Bình
                     Nhập ngũ tháng 5/1971
                     Nơi ở:  260 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội
Nguyên là :
- Trung đội trưởng trinh sát pháo binh C17, E40, Tây Nguyên (QĐIII)
- Phó Bí thư tỉnh đoàn Cao Bằng
- Tổng chỉ huy Lực lượng TNXP.TƯ Đoàn
- Tổng thư ký Ủy ban Quốc gia Thanh niên Việt Nam
- Ủy viên chuyên trách Ban Chỉ Đạo Tây Bắc
- Cử nhân Luật, Chuyên viên cao cấp
Huy chương chiến sĩ giải phóng hạng II
Huy chương kháng chiến hạng II
Huân chương lao động hạng III
Huy chương Vì thế hệ trẻ
Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng

LỜI TỰA
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi đã  gần bốn thập niên, nhưng ký ức về những năm tháng hào hùng đó không phai mờ trong trái tim bao người, nhất là của những người lính, từng một thời xông pha nơi chiến trường gian khổ.
Nhớ về một thời hoa lửa ấy, tôi ghi chép lại những kỷ niệm sâu sắc về đời lính sáu năm làm trinh sát pháo binh C17, Trung đoàn pháo binh 40, mặt trận Tây Nguyên (B3), sau này là Quân đoàn III, thời kỳ 1971 – 1976, qua các mốc son lịch sử như: Chiến dịch Đăk Tô -Tân Cảnh, thị xã Kon Tum, Play Cần và Đăc Siêng  (1972); chống địch vi phạm Hiệp định Pa Ri (1973); giải phóng Đăk Pét (1974); tập kích chiến lược Ban Mê Thuột và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 30/4/1975.
Trong quá trình viết cuốn sách này, tôi đã tham khảo thông tin trên trang mạng Wikipedia về chiến dịch bắc Tây Nguyên năm 1972, cuốn Pháo binh Miền Trung trung bộ - Tây nguyên thời đánh Mỹ của NXBQĐND, Hồi ký của Thiếu tướng Tô Thuận, Nguyên Trung đoàn trưởng E40, nguyên Phó Tư lệnh Bộ tư lệnh pháo binh và ý kiến đóng góp của các đồng đội.
Tuy nhiên, do thời gian xảy ra các sự kiện đã 40 năm nên không thể tránh khỏi những sai sót, nhiều sự kiện và nhân vật chưa được nhắc đến, mong đồng đội và bạn đọc thông cảm.
Xin trân trọng giới thiệu.
                                                       Hà Nội, Tháng 8 năm 2012
                                                                                                                                         
Phần I
MỘT THỜI HOA LỬA
                                            1. ĐIỂM TỰA
Tôi sinh ra tại làng Nhạo Sơn, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Vì quê nghèo, đất chật người đông, mùa hè năm 1961, bố tôi, một cán bộ xã hoạt động trước Tháng 8/1945, đã phải đưa gia đình đi “kinh tế mới”. Đó cũng là thời kỳ hàng vạn hộ nông dân các tỉnh đồng bằng Bắc bộ tiến hành một cuộc đại di cư lên Lai Châu, Điện Biên, Sơn la, Nghĩa Lộ… để mưu sinh lập nghiệp. Nhưng gia đình tôi thì lại chọn thị xã Cao Bằng làm nơi định cư. Nguyên do là từ nhỏ bố tôi đã theo cha chú lên Cao Bằng làm thuê nên ông biết rõ mảnh đất “gạo trắng nước trong” này.
Ngày đó, bố tôi là một đảng viên kỳ cựu, hiếm hoi, được phân công thành lập và làm Bí thư Chi bộ đầu tiên của phố Tam Trung (phường Sông Bằng ngày nay); đồng thời làm Bí thư chi bộ đầu tiên của Hợp tác xã may Thống Nhất của thị xã Cao Bằng. Do vậy, cụ có điều kiện vừa làm kinh tế, vừa công tác xã hội. Vợ con cũng nhờ đó nhanh chóng vượt qua thời kỳ lạ nước lạ cái, chúng tôi đều được cắp xách tới trường.
Cao Bằng vốn là một tỉnh giàu truyền thống cách mạng, nhưng nghèo về kinh tế, văn hóa và sống chủ yếu bằng tự cấp tự túc. Hầu như gia đình nào cũng phải vào rừng phát nương làm rẫy, huống chi gia đình tôi người ăn nhiều hơn người làm. Vì thế, từ thuở niên thiếu, tôi đã tỏ rõ một “ấu nông tri điền”, thạo nghề nương rẫy, quen nghề gianh củi và ham mê câu cá, bắt ốc, mò cua. Chả có ngọn đồi, khe suối, vạt ổi, bụi sim nào quanh cái thị xã lòng chảo không đầy 4 km vuông ấy mà tôi không tường tỏ. 
Thế rồi những năm Mỹ bắn phá miền Bắc, như bao học trò khác, tôi phải thường xuyên chuyển trường, dựng lớp, đào hầm hào, đan mũ rơm, tập kẻng báo động. Hết sơ tán từ Nà Phía đến Tân An, từ Nà Tòong đến Nà Đỏong, rồi từ Nà Cạn ra thị xã. Một cuộc vòng vo tránh máy bay Mỹ suốt tuổi học trò. Cả cái thị xã cỏn con, chưa hề bị máy bay Mỹ bắn phá một lần, cũng tan hoang kiểu “vườn không nhà trống”, sơ tán sạch vào khe suối đồi lau.
Trong những năm khốn khó của tuổi học trò ấy, gia đình là chỗ dựa duy nhất cho chúng tôi ăn học thành người. Nhiều đêm nhìn bố tôi còm cõi, cặm cụi thâu đêm tới sáng ngồi bên bàn may để kiếm từng hào nuôi chúng tôi ăn học, tôi chạnh lòng và thấy mình càng phải có trách nhiệm hơn.
Cuộc chiến ngày càng leo thang, nhiều thanh niên quê tôi đã lên đường, danh sách người không trở về ngày càng dài ra. Hồi đó, quân đội Trung Quốc sang giúp ta làm đường quốc lộ 3. Trong con mắt chúng tôi họ thật cao lớn và nghiêm túc. Mỗi khi có việc khó, họ đều xếp hàng ngay ngắn, giở trước tác Mao Chủ tịch ra đọc là mọi việc đâu lại vào đấy. Họ cho chúng tôi từng vốc huy hiệu Chủ tịch Mao. Dạy chúng tôi nói và hát tiếng của họ. Hàng đêm chúng tôi í ới rủ nhau, xếp hàng đi theo họ xem phim Bạch Mao Nữ, Chi đội người Hồi, Lôi Phong, Rừng thẳm tuyết dày... Trên những mỏm đồi quanh thị xã là trận địa pháo cao xạ của họ. Đêm đêm, từng đoàn xe quân sự của họ rầm rì lướt qua. Sống trong không khí chiến tranh ấy, ngoài giờ học tập và nương rẫy ra, chúng tôi chỉ có một thú vui duy nhất là chơi trận giả. Bất cứ bụi cây, mỏm đất, hố rãnh nào ven đường, ven trường cũng dễ dàng trở thành “trận địa” của chúng tôi.
Một vài năm sau, quân tình nguyện Trung Quốc về nước. Chúng tôi cũng lớn dần và đọc được một số tài liệu về các “Bức thư ngỏ” gia Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Liên Xô gi cho nhau.  Thực ra là họ nói xấu nhau, bên này bảo bên kia là “xét lại”. Cuộc chiến về tư tưởng ấy, thậm chí còn lây nhiễm sang một số cán bộ cấp trung ương của ta. Có người bị truy phải trốn Hà Nội lên tá túc tại nhà tôi. Rồi cuộc “Đại cách mạng văn hóa” của Trung Quốc bùng nổ. Nhà tôi cũng trở thành nơi trú ngụ của một trí thức Trung Quốc bị truy đuổi. Vào những năm 67- 68, cuộc chiến ở miền Nam khốc liệt, ta thực hiện “Tổng động viên”, thế là trên mảnh đất biên ải hẻo lánh này, lại xuất hiện thêm một thành phần “di cư” khác lạ. Đó là những học sinh, sinh viên trốn lính. Họ tự dựng chòi trong núi, tránh mặt người qua lại và chỉ vùi đầu vào đọc, học. Hóa ra cái mảnh đất khỉ ho cò gáy này đâu phải chỉ là nơi di chú của những người “tha hương cầu thực” như chúng tôi, mà khi cần nó sẽ là mảnh đất “cưu mang “ cho bao kẻ “bất đắc dĩ” khác.
Mặc cho cái khổ, cái nghèo đeo bám, chúng tôi vẫn cứ lớn lên như cây măng rừng bên suối ngàn trong vắt. Cả tiểu đội anh em chúng tôi, “đứa chị đi thì con dì lại lớn”, dùng lại áo quần, xách vở và kinh nghiệm sống của nhau, để lần lượt vượt qua cái thời kỳ gian khó ấy.
Bên cạnh người cha, tôi còn một điểm tựa khác, đó tình anh em ruột thịt. Vượt qua những tính tật của tuổi thơ tinh nghịch và dại khờ, chúng tôi lớn lên trong tình đoàn kết, thương yêu nhường nhịn lẫn nhau. Những đứa em “sàn sàn” cùng tôi chung đèn sách, chung từng trang vở, từng củ sắn, củ khoai. Vì thế, ngoài tình anh em máu mủ, chúng tôi còn là bè bạn thân thiết, là “đồng đội” trong những “trận chiến” sống mái với “quân thù” trong những đêm  chơi trận giả.
Cứ thế tôi lớn lên trên một vùng đất mà mới đầu lạ hoắc, từ ngôn ngữ đến lối sống, rồi thân quen như máu thịt của mình, thậm chí còn sâu đậm hơn cả nơi chôn nhau cắt rốn. Những người cùng phố, cùng xóm như ông Đội Nhâm, bà Làn “bánh cuốn”, chú Lợi chú Đắc “xe ngựa”, anh Trọng “thịt chó”, ông Sự cắt tóc, anh Song “sơn, hàn, xì xe đạp”, đến ông Nhuận, ông Thụ, bà Tuất, anh Chức, bà Hắt, cô Long, ông Dáu, cô Mùi và bao bạn bè cùng trang lứa như Báo, Trung, Công, Giang, Sòi, Chiến, Thắng...Tất cả cứ ngọt ngào in bóng vào tình cảm và trí nhớ của tuổi thơ tôi. Cái tuổi chỉ thích hấp thụ cái đẹp, cái đúng, cái hay của bạn bè bà con lối xóm và của cả cái thị xã nhỏ bé, xinh xắn bên dòng Bằng Giang và Hiến Giang thơ mộng ấy.
Mườì năm ăn học là mười năm tôi gắn bó và lớn lên trên quê hương thứ hai của mình. Cũng vì thế mà Cao Bằng đã trở thành điểm tựa không chỉ về cơm ăn áo mặc, mà còn là tinh thần và vốn tri thức của tôi trước ngày nhập ngũ 
Hơn bốn mươi năm qua, ra đi từ mái nhà tranh của miền quê nghèo biên viễn, tôi đã làm việc ở trung ương gần ba chục năm, đã đi khắp mọi miền đất nước, theo dấu chân của các đội hình thanh niên xung phong và thanh niên tình nguyện. Đã đến được một số chốn trời Tây, Úc, Á…Nhưng với tôi, Cao Bằng vẫn là một miền quê yêu dấu, một điểm tựa quan trọng của đời tôi. Bây giời nơi đó, còn là nơi cha mẹ tôi đang yên nghỉ vĩnh hằng, giữa rừng thông xanh thẳm với gió ngàn vi vút. Nơi đó, luôn vẫy gọi chúng tôi trở về thăm lại những kỷ niệm xưa và nhớ về những tháng năm không thể nào quên.
Cầu Bằng Giang của TP Cao Bằng
2. NHẬP NGŨ 
Đang ôn tập chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp lớp 10, năm học 1970 - 1971 tại trường cấp III thị xã Cao Bằng, thì tôi và hai bạn cùng lớp là Bằng và Giang nhận được giấy gọi nhập ngũ. Sự kiện này đối với tôi không có gì là bất ngờ, vì lẽ ra tôi đi bộ đội từ năm 1970, nhưng chưa đủ sức khỏe nên đành chậm lại. Tuy vậy, tôi chỉ tiếc là chưa được đọ sức sau mười năm đèn sách. Tôi vốn là học sinh học đều các môn đã hai lần được chọn đi thi học sinh giỏi môn Văn cấp thị xã.
 Chiều hôm ấy, 23/5/1971, tôi mời cả lớp 10B đến dự buổi liên hoan tiễn tôi lên đường. Do chưa biết kết quả bài thi ra sao, nên một số bạn tỏ ra lo lắng, số bạn ở ký túc không thấy đến. Thế rồi, như để phá tan cái không khí nặng nề đó, Bùi Thị Thanh, một cây văn nghệ của lớp đã đứng lên hát tặng tôi bài Xa khơi của Nguyễn Tài Tuệ, bài hát mà Thanh đã đạt nhiều giải cao trong các kỳ hội diễn văn nghệ của trường. Bài hát ấy đã trở thành hành trang đầy ý nghĩa theo tôi suốt đời quân ngũ.
 Mặc rất vui nhưng tôi không dám giữ các bạn ở lại lâu, vì ngày mai họ phải tiếp tục kỳ thi. Khi cả lớp đã ra về thì nhóm bạn ở ký túc mới lục tục kéo đến, trong đó có Vũ Thanh Cúc, quê mỏ thiếc Tĩnh Túc, một cô bạn khá xinh và học giỏi nhất lớp, khiến nhiều chàng trai trong lớp ngưỡng mộ và để ý, trong đó có cả tôi và Đinh Việt Trung, một cậu bạn thân từ nhỏ và cùng lớp. Tuy nhiên, tôi thì không dám thổ lộ, còn Trung thì mạnh bạo hơn. Thấy vậy, tôi cũng vun vào cho Trung, dẫu sao tôi cũng xắp lên đường. Hồi ấy và sau này không hiểu tình cảm của Cúc đối với hai đứa chúng tôi ra sao, chỉ biết rằng trong cuốn sổ lưu niệm của tôi, Cúc chỉ viết cho tôi những dòng tình cảm bè bạn, chúc tôi lên đường bình an trở về. Còn Trung, ba tháng sau cũng nhập ngũ. Thời gian đóng quân ở Hà Bắc, tôi nhận được thư của Cúc hồi âm báo tin đã trúng đại học Dược, từ đó tôi chẳng biết tin gì về Cúc nữa.
               Tuần đầu nhập ngũ, chúng tôi đóng quân tại Nà Toàn, cách thị xã Cao Bằng 5 km, vì thế cứ chiều tối, nếu có cơ hội là chúng tôi lại “tút” về nhà. Một hôm, sau trận mưa lớn, khe suối cạnh nhà tôi cuốn phăng cái cầu tạm mà tôi hì hụi mấy ngày mới xong để mọi người qua lại. Để bảo vệ công trình lâu dài, tôi liền đến nhà Đinh Việt Trung xin một gốc mai về trồng ngay chỗ cây cầu bị sạt.
Hơn bốn mươi năm qua, một phần mảnh đất nơi gia đình tôi sống đã đổi chủ, nhưng mỗi lần về thăm quê, tôi lại tần ngần đứng dưới bụi mai ấy, không chỉ là bức tường chắn lũ vững bền, mà còn cho những dậu măng trắng ngần để gia đình tôi đem bán ngoài chợ thời bao cấp. Với tôi, bụi mai ấy còn như một nhân chứng sống, chứng giám tình bạn thuở hàn vi giữa tôi và Trung.
Giở lại trang nhật ký hơn bốn mươi năm về trước, vào ngày 3/11/1971, tôi đã đạp xe sang Phú Bình gặp Trung, thuộc Tiểu đoàn 40, trước khi nó đi dã ngoại. Nào ngờ đó là lần cuối cùng gặp nó vì tám tháng sau Trung hy sinh.
Bạn cùng phố Tam Trung ngày ấy nhập ngũ với tôi còn Nguyễn Hữu Vũ, Đàm Việt Hùng, Nguyễn Văn Hiệp, Vũ Văn HồiChiến  “Việt kiều Thái Lan”, tất cả học dưới tôi một lớp. Bên phố Cũ Vườn Cam, Thanh Sơn có Vương Hùng, Đặng Liên, Nguyễn Sơn, Chu Việt, Hoàng Thuật, Văn Công, Hoàng Kỳ… Đặc biệt, đại đôị 3 chúng tôi có khá nhiều anh lớn tuổi, đã có vợ con, đa phần là cán bộ, viên nhà nước cấp tỉnh, nhập ngũ theo lệnh tổng động viên như: Nông Văn Khang, Đàm Văn Vượng, đoàn văn công tỉnh; y sĩ Phan Mạnh Cửu và Nông Chấn Ngân; thuyết minh chiếu bóng Hoàng Sơn, cán bộ nông nghiệp Long Xuyên, Hoàng Thế, Lục Dẻn, Nông Đại...Cùng tổ 3 người với tôi ngày đầu nhập ngũ anh Kỳ thổi sáo rất hay (Kỳ hy sinh ngay trận đầu trên mảnh đất Kon Tum hè 1972).
Chúng tôi được phiên chế về Đai đội 3, Tiểu đoàn 33, Sư đoàn 304Btrú quân tại xóm Đồng Sào, xã Quang Tiến, huyện Việt Yên, Hà Bắc, cách thị trấn Nhã Nam 5 km. Đây là vùng đất trung du gò đồi rất phù hợp cho công tác huấn luyện bộ đội. Ngày đầu tiên, qua trò chuyện với chị chủ nhà, tôi được biết năm trước có Mạc Văn Báo, Hoàng Văn Thìn, bạn cùng phố đã đóng quân tại nhà chị, quả là điều trùng hợp bất ngờ.
Một tuần sau tôi được chọn làm liên lạc cho Đại đội. Ban chỉ huy đại đội đóng tại nhà ông Trịnh Văn Toản, một ngôi nhà 3 gian truyền thống của vùng quê Bắc bộ, sau lưng nhà là sân kho hợp tác. Ông Toản có người con gái lớn tên là Bắc đã lấy chồng trong làng, con thứ hai là Trịnh Xuân Lý tầm tuổi tôi và cậu út là Dân đang học lớp 7. Ông Toản cho biết, đợt trước, ban chỉ huy đại đội cũng đóng tại nhà ông, có anh liên lạc tên là Đỗ Văn Kỳ, cũng quê Cao Bằng. Lại một sự trùng hợp bất ngờ nữa, vì Kỳ là đồng hương quê cũ Thái Bình, lên Cao Bằng lập nghiệp đầu những năm sáu mươi như gia đình tôi. Sau này Kỳ trở thành một tiến sĩ, đại tá, Trưởng khoa của Học viện Quốc phòng tại Hà Nội ( Kỳ vừa đột tử mất tại Hà Nội).
Cán bộ Đại đội 3 đại trưởng Nhật, 27 tuổi cao lớn, ngăm đen và nghiêm nghị. Nghe nói chuyện tình duyên của anh hay trắc trở và sau đợt huấn luyện này anh sẽ lấy vợ. Chính trị viên trưởng Cõn thì thấp bé, mắt hiếng, đã có vợ con và gia cảnh khó khăn mà có lần tôi giành dụm được ít đường sữa cùng anh về thăm gia đình bên Việt Yên. Đại phó Nguyễn Quốc Trị thì thường xuyên vắng nhà vì công việc cơ động. Chính trị phó Kim quê Phổ Yên vui vẻ, hòa đồng khiến tôi rất qúy mến, mỗi khi có gì khúc mắc là tôi lại hỏi ý kiến anh ấy.
Nhiệm vụ của anh liên lạc là chuyển thông tri xuống các trung đội, lập danh sách trích ngang từng chiến sĩ của đại đội, viết giấy báo công, bảng vàng danh dự, đọc 12 lời thề danh dự trước lễ chào cờ đầu tuần, tham gia biên tập, trang trí báo tường, giúp lãnh đạo tiếp khách, lấy thư, đọc báo cho đại đội nghe, thậm chí viết thư hộ cho một số chiến sĩ người Mèo không biết chữ như Thào A Mùa, Vàng A Lừ… quê Hà Giang mới được bổ sung vào đại đội. Mặc dù công việc bận như con mọn, nhưng tôi vẫn phải thu xếp để tham gia các bài tập xạ kích, ném lựu đạn, bộc phá và các kỹ năng của người lính bộ binh theo giáo trình huấn luyện chung.
 6 tháng trời làm liên lạc trên đất Bắc và 3 tháng làm liên lạc trên đường hành quân vào chiến trường, tôi mới hiểu được thế nào là làm dâu trăm họ. Kẻ khen, người chê, thậm chíngười lâu không nhận thư nhà, nghi ngờ tôi dấu thư. Một lần tôi đi tắm ngoài suối, để đôi dép râu trên bờ, bỗng dưng mất một chiếc, phải đi chân đất vài ngày và nhờ gia đình mua cho đôi dép nhựa Trung Quốc gửi xuống. Sau đó mới biết rằng, một cán bộ trung đội vốn bất mãn với C bộ nên “giận cá chém thớt”, lấy dép của liên lạc cho bõ ghét. Thông cảm với công việc và lo cho tôi, anh Hịch, Trung đội trưởng B2 khuyên tôi nên xin về trung đội, tập trung huấn luyện để sau này vào chiến trường đỡ lúng túng. Tôi cũng đã ngỏ ý như vậy, nhưng C bộ không chấp thuận. 
Ngoài nhiệm vụ huấn luyện, chúng tôi thường xuyên tham gia lao động mang tính rèn luyện cao như: lên bãi Đá ong lấy củi, lên đập Batacun trên Thái Nguyên khai thác nứa, ra Nhã nam lấy gạo, ra đồng giúp bà con thu hoạch… Đầu tháng 9 năm 1971, trận lụt lịch sử đã phủ trắng bao miền quê trung du Bắc bộ, nhiều tuyến đê xung yếu bị vỡ, hàng vạn gia đình lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Nhìn đâu cũng thấy xác gia súc, nhà cửa trôi dạt trong biển nước mênh mông. Máy bay trực thăng phải bay cả tuần thả bánh mỳ cứu đói cho dân. Trong trận “đại hồng thủy” ấy, chúng tôi phải hành quân cấp tốc đêm ngày, hết ứng cứu cầu Việt Trì lại quay về Vĩnh Tường, Vĩnh Phú hộ đê. Ngay cả nơi đóng quân tại xóm Đồng Sào nước cũng trắng đồng, tràn ngập sân ngõ như thử sức những người lính trẻ. Kết thúc đợt chống lụt, nhiều tập thể, cá nhân, trong đó có tôi được tỉnh Vĩnh Phú tặng Bằng khen, một phần thưởng mà tôi và mọi người không ai mong đợi. 
Nhật ký của tôi còn ghi lại một sự kiện, ngày 25/6/1971, chúng tôi được lên Tiểu đoàn bnghe các dũng sĩ từ Mặt trận đường Chín, Quảng trị ra kể chuyện chiến đấu. Trong số đó có Trung úy Phùng Quang Thanh, 22 tuổi, đại đội trưởng, anh hùng LLVTND. Toàn tiểu đoàn ngồi thẳng hàng trên một sườn đồi, gần nhà của Nguyên Hồng, một nhà văn nổi tiếng, lặng im như nuốt từng lời kể của anh về trận đánh không cân sức trên đồi không tên. Rồi  trận đánh cao điểm 456 có xe tăng 555 được mệnh danh là “mãnh hổ” yểm trợ. Chuyện anh cùng đồng đội bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng Lữ dù 3 của ngụy…Sau mỗi câu chuyện là từng tràng vỗ tay rền vang như súng nổ nơi chiến trường. Sau lần đó, toàn tiểu đoàn tổ chức học tập gương chiến đấu dũng cảm, sáng tạo của Lê Mã Lương và các dũng sĩ đường Chín anh hùng. Ngày đó,  tôi đâu có ngờ hơn ba mươi năm sau, Trung úy Phùng Quang Thanh trở thành vị Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng như bây giờ.
Cũng tại Mặt trận đường Chín năm đó, nơi sản sinh ra những anh hùng, dũng sĩ như Lê Mã Lương, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Văn Hiệu, Bùi Ngọc Đủ, tôi có người anh vợ (sau này), đã hy sinh khu vực Làng Vây - Lao Bảo vào cái ngày tôi chưa nhập ngũ. Tận bây giờ vẫn chưa biết phần mộ của anh ở đâu. Năm ngoái tôi vào tận đường Lao Bảo, gặp nhiều người, xin được cả cuốn lịch sử và bản đồ trận đánh, đến nhiều nghĩa trang nhưng cũng chưa tìm thấy anh. Mới đây nghe tin ở xã Đại Hóa, huyện Tân Yên, Bắc Giang có địa chỉ “áp vong” liệt sĩ rất đông khách, tôi liền tìm đến xem thực hư ra sao. Chuyện tìm kiếm mộ liệt sĩ qua ngoại cảm, “áp vong” là nhu cầu có thực trong hàng ngàn gia đình thân nhân liệt sĩ. Kết quả đúng sai không dễ gì giải thích bằng khoa học, không chỉ đi một lần là được và là một câu chuyện rất dài.
Điều khiến tôi không ngờ là địa chỉ “áp vong” ấy, lại kề bên xóm Đồng Sào, nơi chúng tôi đóng quân ngày xưa. Vì thế, mặc trưa hè nắng nóng, tôi đã tranh thủ tìm đường ghé thăm chốn cũ, điều mà tôi nhiều lần có ý định mà chưa thực hiện được.
Con đường vào Đồng Sào xưa khó đi là thế mà nay trải bê tông thẳng tắp, nổi bật giữa màu xanh lúa đồng đang thì con gái. Tôi phải vòng vo hàng giờ mới tìm ra nơi C bộ đóng quân. Sân hợp tác nay thành nhà văn hóa thôn. Nhà ông Toản đã có chủ mới với tòa nhà hai tầng to vật vưỡng. Trước cảnh vật làng quê mới lạ, tôi bồi hồi nhớ lại bao gương mặt thân quen của đồng đội và bà con thôn xóm, trong đó có hình dáng của một cô thôn nữ .
 Ngày ấy, cứ mỗi chiều về, tôi một mình băng qua cánh đồng đầu xóm lên Tiểu đoàn bộ lấy thư báo về cho đơn vị. Khi đi qua con đập Đồng Đồi, tôi thường bị đám con gái xóm trên, sau buổi làm đồng về, rửa chân tay ven suối, té nước trêu chọc. Vì còn quá trẻ, lại một mình nên tôi chỉ biết lặng im cúi đầu mà chạy. Nhưng về tới đầu làng, qua một đám chân ruộng cao chuyên trồng màu, tôi thấy một cô gái khăn choàng kín đầu, chỉ để hở đôi mắt, đơn lẻ và lặng lẽ hì hụi vun xới từng luống khoai, gốc lạc. Lúc đầu tôi có ý  tránh, nhưng cũng chả biết tránh đi đâu trên con đường độc đạo ấy, tôi đành lầm lũi bước thật nhanh, ra vẻ việc quân đang rất vội. Hôm sau, cũng giờ đó, người con gái ấy lại xuất hiện. Trước sự lúng túng của tôi, cô gái chủ động buông một câu hỏi đùa tế nhị “em có thư không anh bộ đội ơi”…Thế rồi, chúng tôi chào hỏi nhau, cô gái ấy tên là Thành, nhà kế bên Ban chỉ huy đại đội. Từ đó, cứ mỗi lần tôi đi lấy thư là đã thấy bóng cô ngoài thửa ruộng. Rồi tôi cũng phát hiện ra, sau chiếc khăn mùi xoa che kín mặt, là đôi mắt của cô như thầm nói với tôi điều gì đó. Nhưng với tôi, đó vẫn chỉ là thứ tình cảm mà người lính chúng tôi đã được giáo huấn kỹ càng trong bài công tác dân vận. Sau 41 năm trở lại thăm Đồng Sào, tôi được tin cô ấy đã mất do một căn bệnh hiểm nghèo.
Qua mấy tháng rèn luyện, một số đứa cùng nhập ngũ như Hồi, Chiến, Hùng, Công...được tuyển chọn đi đào tạo làm cán bộ khung huấn luyện. Còn tôi cũng được lãnh đạo gợi ý cho đi huấn luyện làm y tá hoặc hậu cần gì đó nhưng tôi từ chối, bởi cho rằng trước sau đều phải vào chiến trường cả thôi, làm anh cán bộ khung cũng chẳng sướng gì. Đã đi bộ đội là phải ra chiến trận, phải “chết xanh cỏ, sống đỏ ngực”, phải “sống sao cho phải xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài sống phí” như Pa - Ven - Cooc - Xa - Ghin đã  viết. Chả thế mà Vũ Hồi viết đơn xin ở lại đi chiến đấu và ký tên bằng máu hẳn hoi nhưng không được trên chấp thuận.
 Sáu tháng huấn luyện là khoảng thời gian tôi nóng lòng chờ đợi bằng tốt nghiệp loại đặc cách lớp 10 như quy định hồi đó và giấy giới thiệu cảm tình Đoàn của Đoàn trường cấp III thị xã Cao Bằng. Sốt rột quá, có lần tôi và Nông Văn Ơn, cũng là liên lạc viên Đại đội 4 gần đó, bàn tính rủ nhau xin về quê mấy ngày để hỏi cho ra nhẽ. Nhưng rồi lại nghĩ, cái quan trọng hơn là sau này còn sống trở về .
Thế rồi thời gian huấn luyện đã kết thúc, trước khi vào chiến trường, chúng tôi được về phép 15 ngày. Trong những ngày cuối cùng của đợt phép khó quên ấy, trái tim tôi bỗng rộn ràng xao xuyến lạ thường, mỗi khi gặp mặt hoặc sang chơi nhà cô bạn hàng xóm, chỉ cách nhà tôi một khe suối cạn. Cô ấy học dưới tôi hai lớp và là em gái thằng bạn thân nhất của tôi. Trước đêm chia tay trả phép, tôi đã giành khoảng thời gian còn lại, để trò chuyện cùng cô ấy, bên bếp than cháy hồng giữa mùa đông giá rét. Rồi như bao đôi trai gái khác của thời loạn lạc, chúng tôi trao kỷ vật cho nhau trong sự thẹn thùng, e ấp và trắng trong.
Đêm đầu tiên của Trường Sơn ngàn dặm, trên cánh võng mềm như vầng trăng đầu tháng, tôi đã viết lá thư tình đầu tiên, của đời trai trẻ gửi về cho em. Và cũng từ đó, tôi thường viết thư về cho cô ấy để nói rõ lòng mình. Tôi đã yêu, đó là thứ tình yêu của người ra trận. Nhớ em, có lần tôi gào gọi tên em trong cơn sốt ác tính. Không ít lần tôi phải tưởng tượng ra tình yêu của mình khi đồng đội tò mò căn vặn. Dù không một lần nhận được thư của cô ấy, nhưng tôi lại tự an ủi chắc thư từ thất lạc.
 Rồi một hôm, vào giũa năm 1973, tôi nhận được tin em đã đi lấy chồng. Một nỗi buồn thực sự đã xâm chiếm trái tim đang tuổi hai mươi của tôi giữa chiến trường khói lửa. Nhưng rồi nỗi buồn ấy cũng qua mau, bởi tôi đã ý thức được sự mong manh của thứ tình yêu đầu đời đó. Trong trang cuối cuốn nhật ký gửi lại gia đình giữ hộ, tôi đã dự cảm viết rằng “ Ta biết rằng tình yêu này gần như giấc mộng, nó sẽ tan vỡ trong khói lửa chiến tranh. Xin vĩnh biệt”. Tôi không có quyền trách cô ấy, bởi chiến tranh không phải trò đùa, nhất là cho số phận của những người con gái mà bản thân họ chưa nợ mình một lời thề chung thủy. Sau này gặp lại, tôi không nhắc lại chuyện xưa và coi đó là một kỷ niệm của riêng mình. Bởi ít ra thì trong trái tim tôi những ngày chinh chiến ấy, cũng có một “bóng hồng” để tôn thờ, hy vọng và tự hào với bạn bè đồng đội, hơn khối anh chưa biết thế nào là yêu. Bất giác tôi nghĩ, giá như ngày xưa ấy, mọi cô gái đều “giả vờ yêu” một người lính trẻ để họ thêm ấm lòng. Nếu có ngã xuống thì họ cũng có được phút giấy cuối cùng để nghĩ về người con gái đáng yêu của họ.
Sau khi trả phép, chúng tôi phải gạt nhanh nỗi lòng ưu tư, thương nhớ sang một bên để nhanh chóng trở lại nơi đóng quân, nhận quân trang mới, tạm biệt bà con đã từng cưu mang, giúp đỡ mình từ những ngày đầu nhập ngũ, tạm biệt hòm thư quen thuộc 500.457. JH23 để vượt Trường Sơn vào chiến trường. Trong giờ phút thiêng liêng đó, tôi đã đắn đo, có nên gửi cuốn nhật ký về cho gia đình giữ hộ hay mang theo bên mình. Suốt 6 tháng qua, hầu như ngày nào tôi cũng ghi nhật ký, nó đã trở thành người bạn thân thiết nhất của tôi. Anh Trường, anh trai tôi đã tự tay đóng quyển nhật ký đó tặng tôi và có lời căn dặn trong đó: “Con người có nhiều phương pháp để tu dưỡng. Nhật ký cũng là một kiểu”. Cũng may, quyết định không mang theo nhật ký vào chiến trường là đúng đắn, nếu không làm sao đến bây giờ tôi còn giữ lại được một kỷ vật duy nhất của đời lính là cuốn nhật ký đã ố vàng nhưng vô cùng quý giá này.
3. VƯỢT TRƯỜNG SƠN
Chiều ngày 27/11/1971, chúng tôi lên tàu tại ga Sen Hồ, nửa đêm tàu tới ga Hàng Cỏ, dừng lại ít phút nhưng không được xuống. Không khí chiến tranh bao trùm khắp nhà ga. Từng đoàn tàu quân sự chở tăng, pháo phủ bạt kín mít nằm dọc đường ray và đều quay đầu về phía Nam. Ít phút sau tàu chuyển bánh lao phầm phập trong đêm, lính tráng ngủ mê mệt bên những chiếc ba lô mới tinh, căng phồng. Gần sáng tới Thanh Hóa, quan sát hai bên đường thấy nhà cửa đổ nát, thưa vắng và ngổn ngang xác các toa tàu cháy đen, quoằn quại. Tới Vinh thì tàu dừng hẳn, vì đây là ga cuối cùng của thời đó. Cả Thành phố Vinh tan hoang không còn một mái nhà nguyên vẹn. Chúng tôi được nghỉ hai ngày tại Hưng Nguyên, Nghệ An, sau đó ra Bến Thủy lên sà lan, đi suốt đêm dọc bờ biển, dưới ánh đèn dù và tiếng ì ầm của máy bay địch. Sáng hôm sau vào tới cửa sông Gianh, lên bờ nghỉ trọ nhà dân ở xã Cự Nẫm, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Buổi chiều bắt đầu leo dốc vượt Trường Sơn.
    Chặng hành quân đầu tiên của Trường Sơn vạn dặm là một thử thách không nhỏ đối với những người lính trẻ. Gió mùa đông bắc liên tục tràn về mang theo những trận mưa phùn dầm dề, làm nhão nhoét những cung đường đất đỏ vốn dày đặc dấu chân của hàng vạn người lính đã đi qua theo năm tháng. Vì thế mỗi bước chân là một thử thách, cứ nhấc được chân phải lên là chân trái lại lún sâu dưới bùn. Nhiều anh rút được chân lên thì quai dép đã tuột sạch, cười ra nước mắt.
Bãi khách đầu tiên của Trường Sơn có mật danh T5, nằm dưới một khu  rừng kín đáo phía trên nhưng mật đất rất quang quẻ. Điều đặc biệt là gốc cây nào cũng nhẵn bóng dấu mắc võng của bao người đã từng nghỉ lại nơi đây. Đó đây trên thân cây rừng còn khắc ghi tên tuổi, quê quán của những người lính trẻ như nhắn gửi lại cho người đi sau biết mà nhận đồng hương. Đêm hôm đó, trên cánh võng mềm, tôi chùm chăn thật kín, bật đèn pin quả nhót, viết vội 2 lá thư, một cho gia đình, lá kia cho cô bạn hàng xóm tôi yêu, để sáng sau nhờ cán bộ khung huấn luyện đưa quân vào tới đây, quay ra Bắc, chuyển hộ tới gia đình .
Đường Trường Sơn dành cho người đi bộ phần lớn vắt vẻo trên những sườn núi cao, băng qua các đỉnh núi mây mù giăng phủ nên rất nhiều đèo dốc, cứ mở mắt là thấy dốc. Nhiều đoạn xuyên qua rừng già nguyên sinh, âm u mà hùng vĩ. Thỉnh thoảng nó lại nhập vào đường xe cơ giới rồi lại tách ra như những tĩnh mạch được nối với động mạch chủ, của một cơ thể trẻ trung căng đầy nhựa sống. Con đường kỳ diệu ấy như vừa lẩn tránh, vừa thách thức quân thù suốt mười mấy năm qua.
 Dọc đường, chúng tôi được chứng kiến hàng vạn TNXP, chủ yếu là nữ, đội mưa bom bão đạn để mở đường và san lấp hố bom thông đường cho xe ra tiền tuyến. Gặp các cô dân công gùi nặng leo dốc, có anh còn ác khẩu trêu chọc “ các em gùi nặng thế thì mất lứa đẻ đấy”. Mỗi khi gặp từng tốp lính cũ được cử ra Bắc đào tạo, chúng tôi thường hỏi chiến trường còn bao xa thì đều nhận được câu trả lời giống nhau là “xắp tới rồi, các cậu vào nhanh đi kẻo chỉ còn nhặt ống bơ rỉ”. Trên con đường ra trận vạn dặm đó, chúng tôi còn gặp những bản nhỏ của đồng bào dân tộc Cơ Tu, Vân Kiều, Lào Thưng...vắt vẻo lưng chừng suốt dãy Trường Sơn. Nhưng chính họ, không chỉ cung cấp cho chúng tôi một nguồn thực phẩm quan trọng thông qua đổi trác rất tự nguyện, mà còn làm cho Trường Sơn thêm sức sống và sinh động khác thường.
Là huyết mạch quan trọng bậc nhất chi viện người và của cho chiến trường Miền Nam, Trường Sơn đã trở thành nơi đánh phá ác liệt của kẻ thù. Trên đường hành quân, chúng tôi phải băng qua không biết bao nhiêu trọng điểm ác liệt, biết bao cán bộ, chiến sĩ của ta đã phải hy sinh giữa chừng. Tôi có thằng bạn cùng lớp 10B là Đoàn Hồng Hải, con nguyên Chủ tịch tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ sau tôi ba tháng, nghe nói trúng bom B52 hy sinh trên con đường này. Trường Sơn thực sự là nơi thử trí trai, không như đèo Khế, đèo “cứt trâu” trên rừng thiêng Yên Thế mà chúng tôi đã từng thử sức. Bởi thế có người không chịu nổi gian khổ, ác liệt đã tự bắn vào chân, tay mình để không phải vào Nam chiến đấu. Có anh đào ngũ chui lủi một mình trong rừng sâu để tìm đường ra Bắc. Tuy vậy, đa số lính trẻ chúng tôi thì cho rằng, thà vào tới chiến trường đánh một trận hy sinh còn hơn phải quay ngược lại con đường đầy chông gai, gian khổ và mang về quê hương nỗi nhục của kẻ “B quay”.
Càng về cuối chặng hành quân, số người bị sốt rét càng tăng. Một anh sốt là phải hai anh cáng, vài ba anh khác phải mang vác ba lô, súng đạn cho đồng đội.  Vậy mà riêng tôi tôi may mắn vẫn bình an suốt chặng đường. Vẫn là liên lạc của đại đội, tôi thường xuyên phải đi lại xuôi, ngược suốt đội hình để chuyển thông tin. Ấy thế mà tối nào tôi cũng viết nhật ký ghi lại những gì diễn ra và suy nghĩ của mình dọc con đường huyền thoại ấy. Một trong những nguyên nhân khiến tôi “đề kháng” được với ốm đau bệnh tật là nhờ kinh nghiệm của anh Điển, người cùng quê, từ chiến trường phục viên ra trang bị cho. Theo đó, tôi mua khá nhiều Polyvitamin và chia đều ngày uống 10 viên dọc đường hành quân. Trước khi đi, tôi còn sang Trung Quốc mua hàng chục lọ nước hoa để đổi cho bà con dân tộc dọc Trường Sơn, lấy gạo nếp, bí đỏ…cải thiện.
 Rồi chúng tôi lần lượt vượt qua các địa danh nổi tiếng ác liệt của Trường Sơn như đường 20 Quyết thắng, đèo Phu La Nhích, cua chữ A, dốc Cổng trời, dốc Nguyễn Chí Thanh, dốc bà Định, Đường 9, sông Bạc, sông Sê Băng Hiêng, Sê Ca Mán, A Tô Pơ và cuối cùng là Ngã ba Đông Dương. 
                  
                         Trường Sơn đông nắng tây mưa
                         Ai chưa đến đó thì chưa biết mình (ảnh sưu tầm)                    
                             4. VỀ C17
Áp tết âm lịch năm 1972, sau 3 tháng vượt Trường Sơn đầy gian khổ, hiểm nguy, chúng tôi đã tới điểm dừng chân cuối cùng là Binh trạm T3, ngay khu vực ngã ba Đông Dương. Sau một ngày nghỉ ngơi chờ đợi, chín đứa chúng tôi là Nguyễn Văn Hiệp, Hoàng Văn Thuật, Bùi Nguyên Văn, Nông Văn Bối, Nông Văn Bách, Đàm Văn Lộc, Hoàng Văn Thông, Đàm Côn và Nguyễn Việt Phát được chọn bổ sung về đại đội trinh sát C17, Trung đoàn 40 pháo binh, trực thuộc Bộ Tư lệnh B3, Tây Nguyên. Phần lớn số còn lại của C3 và cả Tiểu đoàn 33 huấn luyện, được bổ sung về các tiểu đoàn pháo binh mặt đất và pháo phòng không của E40.
Trên đường về đơn vị mới, chúng tôi băng qua một nương sắn, mọi người mừng rỡ nhổ sắn bóc ăn ngấu nghiến, vì 3 tháng hành quân hầu như đã vắt kiệt sức lực của chúng tôi. Anh Thiều Đình Bảy quê Thanh Hóa, người đại diện đơn vị mới ra nhận quân, nhắc chúng tôi kỷ luật hành quân và khuyên không nên ăn quá nhiều sắn sống dễ bị say.
Hậu cứ đầu tiên của C17 nằm trên địa bàn bản Tà Cơi, thuộc huyện 40, tỉnh Kon Tum, gần Binh trạm T3. Doanh trại của đơn vị là những căn nhà nửa chìm nửa nổi, lợp mái lồ ô, đắp ụ đất xung quanh, nằm dưới tán rừng già kín đáo, chim, sóc, kỳ lân, gà rừng nhảy nhót, gáy hót suốt ngày. Thú rừng nơi đây nhiều đến nỗi lợn rừng vào giao phối với lợn nhà đẻ ra những chú heo con với những vệt dọc dưa trông thật ngộ nghĩnh. Trước mặt đơn vị là con suối nhỏ len lỏi chảy qua cánh rừng lồ ô rậm rì, bên kia suối vườn rau tăng gia đủ loại nhưng nhiều nhất là rau dền, rau muống và củ cải. Sau lưng đơn vị không xa là gần một trăm ha rẫy lúa, ngô, sắn và đậu mắt cua, mảnh nhỏ nhất cũng vài ba ha, là nguồn cung cấp chủ yếu lương thực cho đơn vị trong rất năm đánh Mỹ. Sau năm 1969, chính trường Căm Pu Chia biến động, bọn Lon lon, Xi Rích, Ma Tắc làm đảo chính khiến ta gặp khó khăn tiếp tế,  trên chủ trương cho bộ đội ra Quảng Bình an dưỡng, nhưng Bộ Tư lệnh B3 xin được ở lại, vừa tăng gia vừa đánh giặc, từ đó mới xuất hiện các nương lúa, nương săn bạt ngàn giữa vùng hậu cứ. 
Đại đội trinh sát C17 được thành lập ngày 5 tháng 2 năm 1967, cùng thời điểm thành lập E40 pháo binh, trung đoàn pháo binh đầu tiên của Tây Nguyên (nằm trên địa bàn huyện 40, Kon Tum). Trung đoàn trưởng đầu tiên là đồng chí Nguyễn Xuân Giá, đồng chí Phạm Việt Thọ là Chính ủy. Thời kỳ đầu, Trung đoàn có 4 tiểu đoàn: 30,31,32,34 với trang bị chủ yếu là pháo ĐKB, ĐKZ, cối 120, 82 và cao xạ 12,7 ly.
Ngay sau khi thành lập, các tiểu đoàn 30,31,32 đã chi viện bộ binh tiến công lữ dù 2 của Mỹ tại Sùng Lễ, Sùng Thiện đến Đức Cơ, Gia Lai. Sau đó Trung đoàn tiếp nhận thêm tiểu đoàn pháo 33 ĐKB và liên tục tập kích địch từ  Đắc Tô, Tân Cảnh đến Play Cu. Tháng 4 năm 1968, trung đoàn 40 được tăng cường tới 10 tiểu đoàn, trong đó có 4 tiểu đoàn ĐKB, ĐKZ, Cối 120, 82 ly; 2 tiểu đoàn pháo 105,85 ly; 2 tiểu đoàn cao xạ 37 ly. 1 tiểu đoàn 12,7 ly và 1 tiểu đoàn xe tăng PT76.
Tháng 8 năm 1968, đồng chí Tô Thuận được giao làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn pháo 40. Trung đoàn chia làm hai cánh, cánh Bắc chiến đấu ở Kon Tum (Gồm các Tiểu đoàn 32,33,42,46,16). Cánh Nam gồm Tiểu đoàn 31,41,47 chiến đấu ở địa bàn Gia lai. Mùa khô năm 1968, Trung đoàn hỗ trợ bộ binh E28 và E66 tiến công địch ở Play Cần, Ngọc Hồi, cao điểm 824...
Năm 1969, đồng chí Nguyễn Tiến Vinh làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Bùi Tố Tọa làm Chính ủy. Thời kỳ này, Trung đoàn đánh địch ở Kleng, Chư Hinh, Ngok Tô Ba, Chư Rơ Ban, Plaay Cần...
Đầu năm 1970, Trung đoàn còn 4 tiểu đoàn (30,32,33,11) và 4 đại đội trực thuộc là Trinh sát, thông tin, công binh và quân y. Đồng chí Nguyễn Hữu Quỳnh là Trung đoàn trưởng và đồng chí Lê Đình Nguyên làm Chính ủy. Thời kỳ này Trung đoàn hỗ trợ E28 đánh Đắc Siêng, pháo kích Play Cần, Đắc Mót, Pô Cô Hạ.
Tháng 2 năm 1971, Trung đoàn hỗ trợ E66 đánh Ngọc Rinh Rua và bắn phá sân bay Đắc Tô. Bước sang năm 1972, Trung đoàn được bổ sung 1 đại đội súng cối 160 ly của Trung đoàn pháo binh 675, do đồng chí Nguyễn Hữu Vinh làm Trung đoàn trưởng và đồng chí Lại thế Cường làm Chính ủy. Lúc này Mặt trận Tây Nguyên đang chuẩn bị mở chiến dịch xuân hè 1972, phối hợp với mặt trận Quảng Trị đánh những đòn quyết định, buộc địch phải đi đến ký Hiệp định Pa Ri đầu năm 1973.
Với chức năng là đại đội chỉ huy, trực thuộc Trung đoàn, C17 trinh sát có nhiệm vụ trinh sát, đo đạc xác định tọa độ, tính toán các phần tử bắn và lập các tổ đài quan sát để gọi, chỉnh pháo bắn vào các mục tiêu đã được cấp Trung đoàn xác định. C17 còn là nơi đào tạo, cung cấp nguồn cán bộ chỉ huy bắn cho các đơn vị pháo trong toàn Trung đoàn. Vì thế người ta thường xem họ như những đôi mắt của pháo binh. Nói là đại đội nhưng quân số chỉ năm sáu chục người, được chọn lọc khá kỹ và phiên chế thành hai trung đội trinh sát và kế toán. Kể từ ngày thành lập, C17 đã tham gia hầu hết các trận đánh lớn nhỏ do Trung đoàn chỉ huy cũng như phối thuộc cùng các tiểu đoàn pháo đánh đơn lẻ.
          Khi chúng tôi được bổ sung vào C17 thì một thế hệ cán bộ trinh sát, kế  toán lớp đầu tiên như Phạm Ngự, Phạm Đức Dân, Tào Minh Phúc, Hà Tắc, Nguyễn Thế Vĩ, Đoàn Dư Điềm, Nguyễn Lệ, Hoàng Thiêm…đã được tăng cường làm cán bộ cho các đơn vị trong  Trung đoàn 40.
Đại đội trưởng C17 lúc đó là anh Nguyễn Văn Thụy,  nhập ngũ từ 1964, giỏi chuyên môn, sống hòa đồng và phóng khoáng. Hồi năm 67, anh đã từng trèo lên cột cờ Hiền Lương gọi pháo bắn vào Cồn Tiên - Dốc Miếu. Năm 1970, vì thương lính đói quá, anh đã chỉ đạo giữ lại ít lúa đơn vị tăng gia được để cho quân cải thiện, không khai báo hết với cấp trên nên bị kỷ luật. Vì vậy anh em đơn vị thương và quý trọng anh nhiều lắm. Sau này về hưu, với quân hàm Đại tá, nhưng anh vẫn là một người anh cả đáng kính của cánh lính cựu C17 chúng tôi. Nhà tôi chỉ cách nhà anh vài trăm mét.
Đội ngũ cán bộ của C17 lúc bấy giờ còn có các anh Vũ Văn Muống, Chính trị viên trưởng, quê Gia Lộc, Hải Dương; anh Nguyễn Như Đới và anh Bùi Minh Tâm là C phó. Cán bộ trung đội có Lê Việt Cường quê Hà Tây, Nguyễn Văn Vạn, Vũ Văn Thục, Nguyễn Đức Tài, Hoàng Văn Sửu, Nguyễn Huy Phồn quê Hải Phòng… Tất cả họ đều là những trinh sát, kế toán pháo binh tài ba, gan dạ, đi B từ những năm 67- 68, đã trải qua nhiều trận đánh ác liệt và lập nhiều chiến công thầm lặng ở chiến trường Bắc Kon Tum, trong những ngày đánh Mỹ đầy gian khổ.
Lớp trinh sát, kế toán vào chiến trường năm 1970 Lê Xuân Hạnh, Phạm Như Ý, Trịnh Bá Quyền, Trịnh Ngọc, Thiều Văn Thế, Khánh, Quý “xịt” quê Vĩnh Phú, Khánh “khoang” quê Hòa Bình; Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Hữu Điền, Lộc “than”, Thành “đen”, Thành “còm”, Trúc quê Hưng Yên; Hoan quê Hải Phòng…
Y tá đại đội có Phùng “khịt” và Lưu Thế Tấn, quê Hoài Đức, Hà Tây. Cấp dưỡng có Bách, Sơn; Tổ tăng gia có Đạt và Nhật… Mỗi người một tính, một quê nhưng gắn bó như anh em ruột thịt.
Chúng tôi về C17 được vài hôm là đón tết 1972, cái tết đầu tiên của đời lính trong chiến trường. Đêm 30, cả đại đội  tập trung đón giao thừa tại hội trường nửa chìm nửa nổi, có ngách dẫn vào các hầm chữ A, bàn ghế làm bằng l ô và cây rừng. Phía trên hội trường, dưới cờ giải phóng là ảnh Bác Hồ, chính giữa là cây hoa dân chủ, trong đó những mảnh giấy nhỏ gấp kín với những nội dung yêu cầu người chơi phải thực hiện. Sau phát biểu của Chính trị viên trưởng Vũ Muống, cả đơn vị cùng hát bài ca ngợi truyền thống Trung đoàn 40 với ca  từ rất hùng tráng, tự hào:
Rầm rập bước chân / Trung đoàn ta đi mang khí phách của Điện Biên chiến thắng/Nơi đây núi rừng bao la / Sức mạnh quân ta như bão nổi Trường Sơn/ Mang truyền thống anh hùng vai sắt chân đồng / Trung đoàn 40 ra đi là lập  chiến công/Cả dải đất Tây Nguyên kiên cường kiêu hãnh với chiến thắng lớn/Máu quân xâm lược nhuộm đỏ nước dòng Sa Thầy/Đắc Sút, Đắc Tô, Sùng Thiện, Sùng Lễ giặc Mỹ tan thây/ Bao căn cứ xác giặc chất đầy/Lô cốt tan và phi cơ cháy/lửa hờn căm đang sục sôi/ Đánh cho quân cước Mỹ tơi bời/Nòng pháo ta vươn cao giữa trời này.
          Rộn ràng khắp nơi, dây đòn trên vai khiêng pháo không ngại vượt bao gian khó/ Quê hương vẫn còn khổ đau/bát gạo chung nhau ta quý từng hạt muối/Nghe lời Bác kêu gọi tha thiết trong lòng/Rau rừng sắn khoai nhưng ta lập nên chiến công/Ầm ầm pháo binh ta giăng thành lũy thép quyết chiến xốc tới/khép vây quân thù, bám trụ giữ cả đất trời/Áp sát tiến sâu quân giặc ở đâu là pháo ta đi/ Vai mang pháo ta vào công đồn/tim óc ta mở đường chiến thắng/ lịch sử ghi trang truyền thống/ đánh độc lập hay đánh hiệp đồng /cùng xây dựng Trung đoàn ta quyết thắng./. 
Tiếp đó mọi người đề nghị Trung đội bậc trưởng Bùi Minh Tâm, biệt danh “ Tâm cối” (vì có tài đóng cối xay thóc), hát bài “Nhớ Bác trên đường ra trận” của Vũ Quý, một cán bộ tuyên văn E 40 sáng tác, với ca từ và giai điệu nhẹ nhàng, da diết: “ Đêm nay chúng con khênh pháo vào trận địa chiếm lĩnh/ Đường đi chiến dịch gian lao/ Nhớ lời Bác căn dặn ngày nào/ Gần thắng lợi càng nhiều gian lao/ Đường lên Chư Mom Ray gặp mây bay con nhớ tóc Bác/ Đường xuyên cắt rừng khuyê nhìn sao sáng thấy mắt Bác cười/ Bác Hồ ơi…Con biết Bác thương nhiều đàn con pháo thủ/ Dãi nắng dầm mưa đưng chiến dịch còn xa/ Pháo nặng trĩu trên vai, pháo nặng trĩu trên vai/ Nhưng sao bằng gánh giang sơn ở trên vai Bác/ Con đường chúng ta đi, cho dù có gian nguy, sao bằng đường xa Bác Hồ đi/ Con cùng pháo đêm nay, trút lửa xuống đồn thù/ Chiến công này dâng Bác. Bác lại càng vui hơn….
Cánh lính quê Hưng Yên thì giới thiệu Lộc “than” hát bài ca ngợi cánh đồng đay của quê mình trong đó có đoạn “ Cánh đồng đay không cánh mà bay/bay từ quê ta mà bay ra các nước/đến khi về kìa đay mang được/biết bao là máy móc vải tơ…”, chất giọng của Lộc khá mượt mà nhưng không dấu nổi cái tật ngọng cố hữu của vùng lúa Bắc bộ. Bùi Nguyên Văn quê Cao Bằng xung phong hát bài Chiến sĩ Việt Nam với âm điệu hào sảng, trầm hùng “Bao chiến sĩ lên đường/Lạnh lùng vung gươm ra chiến trường…”. Còn tôi, được đề nghị ngâm bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu, bài thơ tủtôi thường trình bày trước đại đội hồi còn ở Hà Bắc.
Cuộc vui đang đến độ cao trào thì một loạt bom nổ dữ dội, các ngọn đèn dầu được làm bằng lọ dầu chống vắt của Mỹ vụt tắt, mọi người tản nhanh vào các ngách hầm chữ A ngay cạnh vách hội trường. Loạt bom cách đơn vị không xa, có lẽ mục tiêu chính của chúng là đánh phá tuyến ngầm giao thông gần đó. Sau phút bàng hoàng, cả hội trường lại bừng lên, cuộc vui lại tiếp diễn như không có gì xảy ra. Mặc dù giữa nơi chiến trường xa xôi, gian khổ và thiếu thốn trăm bề, nhưng mâm cỗ tết vẫn có đủ bánh trưng, kẹo, mứt, rượu, thuốc...Phần lớn là sản phẩm tự sản tự tiêu của người lính Tây Nguyên, điều đó khiến chúng tôi cảm thấy ấm lòng.
Ăn Tết xong, cả đơn vị lại ra quân chuẩn bị cho mùa trồng tỉa, cánh lính Cao Bằng chúng tôi thì không lạ gì nương rẫy nên hòa nhập rất nhanh. Tuy vậy, sợ chúng tôi là lính tò te, công tử nên cánh lính cũ tập trung trêu chọc râm ran khắp mặt nương. Y tá Phùng và B phó Nguyễn Văn Vạn đố chúng tôi rằng Thúy Vân Thúy Kiều ai là chị, ai là em. Tôi thật thà đọc lại câu thơ đầu của của Nguyễn Du. Các anh cười bảo sai và ngâm rằng: Đầu lòng hai ả Tố Nga/Thúy Vân là chị em là Thúy Kiều/ Sắc tài hơn kém bao nhiêu…Rồi các anh lại căn vặn, cậu biết câu “xè xè nắm đất bên đường/Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” là có ý gì không. Tôi lại thật thà giải thích như đã được học ở trường. Hai anh lại lắc đầu và lý sự rằng đó là cảnh tả Thúy Kiều đi tiểu cạnh mộ Đạm Tiên nên cỏ chết héo ngay lập tức, cũng vì thế nên sau này đời cô ấy mới khổ…Tôi ngây ngô cãi lại chẳng được, sau đó mới ngớ ra mình mắc mưu lính già, họ trêu đùa tếu táo để giúp chúng tôi vợi bớt nỗi nhớ nhà và mau hòa nhập cuộc sống nơi đây.
Ở đại đội có cậu Khánh quê Phú Thọ và Đàm Lộc người dân tộc Tày quê Triệu Ẩu, Qung Uyên, Cao Bằng. Cả hai đều có răng bịt vàng, răng của Khánh cũ xỉn và bị sứt, răng của Lộc mới lắp vàng chóe. Thế là họ trở thành mục tiêu trêu chọc của toàn đơn vị, chuyện rằng có hai anh chàng mới bịt răng vàng muốn khoe răng với mọi người, họ bèn rủ nhau ra quán bia, một anh cố tình nhe răng gọi cô bán hàng cho một cốc b..i..a, lập tức chiếc răng vàng của anh ta hé lộ khiến mọi người khen xuýt xoa, anh kia thì cười hết cỡ bảo cô gái cho một cốc p…ì…a, chiếc răng vàng lộ rõ hơn, mới và đẹp hơn của anh kia. Thế là từ đó Lộc có biệt danh là Lộc pìa”, còn Khánh đành chấp nhận cái danh là “Khánh pia”. Nghe nói Lộc đã chuyển gia đình vào Tây Nguyên từ sau chiến tranh biên giới tháng 2/1979, nhưng không rõ ở tỉnh nào.
Thời kỳ này đường vận tải Trường Sơn bị đánh phá rất ác liệt nên toàn B3 đói lắm, tiêu chuẩn mỗi người chỉ được 1,5 lạng gạo mỗi ngày, rá cơm 2/3 là sắn đồ đánh tơi trộn với gạo nương hoặc đậu mt cua. Người ốm nặng mới được một lưng cơm không trộn sắn, cả món rau cũng toàn lá sắ. Hồi còn ở nhà, tôi thường đội trưa hè lên rẫy hái lá sắn về nuôi tằm, nay thì hái lá sắn về để nuôi chính mình. Bữa ăn nào cũng có món măng lồ ô, hết xào, luộc lại nộm. Rau muống, dền, củ cải trồng được đều phải phơi khô để dành cho đi chiến dịch, ngay cả thịt lơn cũng đem ướp muối mặn để giành cho tuyến trước. Vì thế những ngày ở hậu cứ  thực sự là những ngày lao động cực nhọc khem khổ.
Trong những ngày đầu về C17, tôi nhận thấy đây là một tập thể trẻ trung, nhanh nhẹn, thông minh và vui nhộn. Có lần tôi được chứng kiến cánh lính cũ thấy cậu Trúc “tồ” ngủ trưa để “của quý dựng lên liền dùng dây võng buộc vào và kéo lên xà nhà cho tới khi cu cậu tỉnh giấc đau quá van xin mới thôi. Đó cũng là “giải pháp” chống ngủ ngày để tránh sốt rét. Hấp dẫn nhất là trò chơi bài “càn trọc”, một hình thức đánh tú lơ khơ nhưng chưa thấy bao giờ, trong đó con Q pích gọi là “quy xâm lược”. Nguyên tắc đánh là gồm 4 người chia hai phe ngồi xen kẽ. Bên ra quân phải dùng con chất mà mình có ưu thế để buộc đối phương phải ra quân cùng chất cho tới hết chất đó. Nếu đối phương đỡ được thì họ có quyền “càn” ngược lại. Trường hợp không có quân đỡ thì bạn cùng chơi phải đỡ thay…Nếu bên tấn công, làm chủ trận càn khiến đối phương không đỡ nổi và bị thối Q pích thì coi như trận càn kết thúc… Lắm hôm chơi bài dưới hầm say đến nỗi, B52 dội trên đầu mà lính ta cứ tỉnh bơ và phán rằng, chúng nó ném bom chưa chắc đã trúng, trúng chưa chắc đã bị thương, bị thương chưa chắc đã chết, rồi cãi nhau ỏm tỏi khi phát hiện kẻ ăn gian. Hóa ra, ngay cả trò chơi mang tính giải trí cổ điển ấy, lính ta cũng nghĩ ra cách đánh như đánh giặc ngoài trận tiền. Với một tập thể như vậy, nên có lần anh Khôn quân lực Trung đoàn, xem lý lịch biết bố tôi là thợ may, bảo tôi về Trung đoàn bộ bổ sung cho bộ phận hậu cần nhưng tôi từ chối.  
               5.  MÙA HÈ ĐỎ LỬA
Sau tết, đơn vị lên đường tham gia chiến dịch Đắc Tô - Tân Cảnh. Trước khi ra trận, mọi người được quán triệt phương châm chỉ đạo của cấp trên là: “ Trường Sơn chuyển mình/ Pô Kô dậy sóng/ Quét sạch quân thù/Giải phóng Tây Nguyên. Là người lính mới vào chiến trường, chúng tôi được phổ biến rằng, đây là một chiến dịch lớn nhất từ trước đến nay ở mặt trận Bắc Tây Nguyên, nhằm phối hợp với chiến trường Bình - Trị - Thiên tạo nên một sức ép quan trọng buộc địch phải ký Hiệp định Pa Ri, vì vậy ai nấy hào hứng phấn khởi. Toàn đại đội được chia làm hai cánh, cánh Đông và cánh Tây, phục vụ các trận địa pháo phối hợp với các sư đoàn chủ lực, tạo thành hai gọm kìm chủ yếu của quân ta bao vây cứ điểm Đắc Tô -Tân cảnh.

           Toàn cảnh Đắc Tô – Tân Cảnh năm 1972
Để chuẩn bị cho chiến dịch lịch sử này, Mặt trận B3 được trên tăng cường thêm Trung đoàn pháo binh 675, mật danh là Lâm Đồng (có Đ74,122, cối 160), một đại đội B72, một tiểu đoàn xe tăng T54, 1 tiểu đoàn pháo 85. Mục tiêu trước mắt của chiến dịch là Trung đoàn 42, Sư đoàn 22 ngụy đóng ở Tân Cảnh. Theo kế hoạch của ta, một cụm pháo gồm lựu 122 ly,cối 160 ly, B72, cao xạ 37 ly, tăng T54 được lệnh bí mật vòng sang phía đông đường 14 để đánh vào phía sau căn cứ Đắc Tô -Tân Cảnh. Theo đó, C17 đã cử một nhóm trinh sát đi cánh Đông chuẩn bị chiến trường từ trước tết.
Đúng lúc cả đơn vị náo nức chuẩn bị lên đường đi cánh Tây thì tôi lên cơn sốt rét, đây là trận sốt đầu tiên kể từ ngày nhập ngũ, thế là đành phải ở lại đi sau. Sốt rét rừng thật lạ, lúc đầu chỉ cảm thấy nhức đầu, chóng mặt, rồi đột ngột rét rung tăng võng, đắp bao nhiêu chăn, màn cũng vẫn run, sau đó toàn thân nóng bỏng, đạp hết chăn màn ra mà vẫn nóng, cơ thể rã rời, buồn nôn, đi tiểu màu hồng, sợ mùi cơm và khát kinh khủng. Nghe cánh lính cũ kể lại trước đây, khi chưa có thuốc Ni-va-quytim thẳng vào mông, nhiều trường hợp sốt cao biến chứng thành ác tính dẫn đến tử vong chết oan.
Sau một tuần thuốc thang tiêm chọc thì hạ sốt, tôi và Thành “còi” cũng vừa khỏi ốm, lên đường nhưng là để tăng cường cho cánh đông. Trên đường ra phía trước, chúng tôi gặp một đoàn dân công hỏa tuyến gùi gạo đạn ra tiền phương, trong đó có một cô gái khá xinh và có nụ cười rất đẹp. Nụ cười giữa Trường Sơn của cô gái lạ ngày ấy, cứ ám ảnh tôi mãi, đến nỗi sau này tôi phải vẽ nụ cười đó vào bài thơ với tựa đề “Nụ cười Trường Sơn” mà tôi đăng trong phần sau cuốn sách này, để chia sẻ cảm xúc cùng đồng đội và bạn đọc. Âu cũng tại cái tâm hồn văn chương thơ phú nó vận vào tôi suốt thuở học trò, nhưng cũng chỉ làng nhàng cho vui vậy thôi.
Ấn tượng về nụ cười của người con gái trên đường ra trận chưa kịp thành thơ thì những thử thách mới đã đến. Đó là tình trạng đói mệt sau những ngày vừa cắt sốt, đến nỗi phải bới tìm từng mẩu sắn, miếng cơm cháy thừa sót lại, từ một bếp ăn dã chiến của một đơn vị nào đó vừa đi qua để lót lòng. Đó là đường rừng thì heo hút, thăm thẳm, phải vừa đi vừa dò ký hiệu để tránh lạc đường. Sau gần một tuần lầm lũi xuyên rừng, vượt suối, chúng tôi gặp được bộ phận đi chuẩn bị chiến trường trước tết của C17. Gặp đơn vị mừng như về tới nhà, lúc này tôi mới biết mặt anh Thục, quê An Lão, Hải phòng, trung đội trưởng của tôi. Thấy tôi hay hí hoáy viết nhật ký, anh Thục bảo nghề trinh sát của chúng mình không được phép mang theo thư từ, nhật ký vào trận đâu và yêu cầu tôi phải hủy cuốn nhật ký đi. Mặc dù dày công ghi chép suốt 3 tháng vượt Trường Sơn nhưng tôi đành tuân lệnh đốt đi trong sự tiếc nuối vô cùng.
Nhưng oái oăm thay, gặp được đơn vị hai hôm thì tôi bị sốt trở lại, lần này nặng hơn lần trước. Đúng như cánh lính cũ nói, ai sốt lần đầu cũng vậy, sốt lai rai, tái đi tái lại cho tới khi cơ thể thích nghi với loại ký sinh trùng sốt rét thì mới giảm, mới quen dần với cái sốt của Tây Nguyên. Thấy tôi sốt cao quá, anh Thục sai người khiêng tôi vào trạm xá tiền phương của Đội điều trị 25 gần đó. Nói là trạm xá, nhưng thực ra là những căn hầm nửa chìm nửa nổi, núp dưới tán rừng rậm rạp, bên khe suối nhỏ, cây riềng dại mọc um tùm cao hơn đầu người. Tôi được xếp nằm cạnh một chiến sĩ bộ binh bị thương nặng ở chân phải, vừa đưa từ tuyến trước về. Vết thương của cậu ta đã hoại tử, họ quyết định cắt bỏ tới đùi nếu không sẽ nguy hiểm tính mạng. Do thiếu thuốc gây mê, nên người ta phải trói chặt chân tay cậu ta để cưa sống. Nằm cạnh hầm phẫu, tôi nghe rõ tiếng cưa xèn xẹt đến ghê răng. Chàng thương binh la hét khủng khiếp rồi lịm đi, đến khi tỉnh lại vẫn còn kêu khóc đòi trả lại cái chân đã mất. Do thiếu người nên họ giao cho tôi và một bệnh binh khác đem cái chân đó đi chôn, lúc đó tôi có cảm giác cái chân của chàng thương binh ấy sao nặng thế.
Tối đó, có lẽ do bị ám ảnh sự kiện trên, thêm vào sốt cao nên tôi đã không làm chủ được, nói năng huyên thuyên, cười khóc như điên loạn. Mọi người biết là tôi bắt đầu lên cơn ác tính liền đè tôi xuống, đưa thanh tre vào ngang miệng đề phòng tôi cắn lưỡi và tiêm chọc liên tục. Tôi mê man bất tỉnh cho tới mãi hôm sau. Thường thì sốt ác tính dễ gây tử vong, nhưng rất may tôi được cứu chữa kịp thời. Sau trận đó, người tôi cứ như kẻ mất hồn, đầu nặng như chì, nhức như búa bổ, hai tay hai gậy chống mà đi không nổi, mt hoa, tai ù, sợ cơm, khát nước gày tọp đi rất nhanh.
Thế rồi nhờ tuổi trẻ, lại quen lao động nặng từ tấm bé nên chỉ mươi ngày là tôi hồi phục, trạm xá có ý giữ tôi lại để phục vụ thương bệnh binh nhưng tôi từ chối và nhất quyết đuổi theo đơn vị đang ở phía trước. May thay gặp được anh Bốn người Quảng Bình, một cựu binh ở đơn vị tăng gia của Trung đoàn 40, kết thành đôi bạn hỏi đường, tiến dần lên phía trước. Thấy tôi vác khẩu CKC dài nghêu, anh Bốn luôn mồm trêu trọc “ Hai tay cầm khẩu súng dài/ ngắm đi ngắm lại bắn ai thế này”. Tôi tự ái nhưng đành bấm bụng và thầm mong một ngày sớm được đổi khẩu AK cho ra dáng.
Cứ thế ngày đi, đêm nghỉ trên con đường công binh mới mở, được ngụy trang kín đáo. Đêm đêm, chúng tôi nghe rõ tiếng xe Zin 130, Zin 3 cầu kéo nhau vượt dốc, tiếng xe tăng T54 gầm gừ nhích từng đoạn, dưới ánh đèn gầm le lói, để tiến dần ra mặt trận. Sáng sau, mọi dấu vết của xe pháo lại được xóa nhòa.
 Vào một buổi chiều, hai chúng tôi tạt vào một cánh rừng le ven đường nghỉ tạm, chờ trời tối hẳn sẽ vượt ngầm sông Pô Cô. Nào ngờ nơi đây chính là chỗ tập kết thương binh, tử sĩ của một đơn vị bộ binh đánh cao điểm Ngọk Pếch gần đó chuyển về. Nhìn đồng đội băng bó đầy mình nằm la liệt trên mặt đất, trên võng và nghe tiếng rên, khóc của những người bị thương nặng, khiến chúng tôi không sao chịu nổi đành vội vã cuộn tăng võng lên đường đi tiếp.
Thấy yên ắng, chúng tôi quyết định vượt sông. Vừa qua được ngầm thì một máy bay AC130 gầm gào xuất hiện, bay sát mặt sông tìm kiếm mục tiêu, chúng tôi vội tìm chỗ ẩn tránh. Sau phút định thần, tôi phát hiện cây nhiệt đới ngay bên mình, bề ngoài nó giống hệt một canh cây khô, từ vị trí này, “nó” có thể nghe rõ” tiếng động cơ xe tăng, cơ giới của ta vượt sông. Để vô hiệu hóa thiết bị này, tránh tai họa cho các đơn vị bạn, chúng tôi cẩn thận túm buộc râu ăng ten của nó lại.
Khi chiếc AC130 vòng xa, hai người tụt xuống đường đi tiếp. Đường đá lồi lõm ổ gà ổ trâu, thi thoảng còn sót lại vài mảng nhựa đường do lâu ngày bỏ hoang khô bong nứt nẻ. Chúng tôi đi được chừng trăm mét thì máy bay địch vòng lại, lần này nó đã phát hiện ra cái gì đó nên bắt đầu bắn phá dữ dộị. Một số máy bay phản lực cũng lao đến cắt bom, lửa cháy rừng rực hai bên đường. Không còn cách nào khác, chúng tôi đành đổ nước bi đông vào khăn mặt, bịt mặt và liều mạng băng mình qua khói lửa, cứ mặt đường mà chạy, mặc cho lửa táp cháy trụi cả hàng mi. Chạy được chừng vài trăm mét thì phát hiện vết xe rẽ vào cánh rừng le bên trái, đoán chừng có quân ta trong đó, chúng tôi quặt vào. Quả nhiên, một chiếc xe Zin 130 đang gầm gừ lùi tiến tránh lửa, lái xe là Ma Văn Bàn, người Hòa An, Cao Bằng (Bàn là anh trai cậu Ngọc, lính vào C17 năm 1974). Gần đó là những hầm chứa đạn pháo của ta. Hóa ra đây chính là mục tiêu săn lùng, bắn phá của AC130 suốt chiều tới giờ. Tình thế thật nguy cấp, lửa cháy đang liếm dần vào kho đạn, chúng tôi cùng một đơn vị gần đó lao vào bốc đạn chuyển đi nơi khác. Những quả đạn pháo to đùng vừa tròn, vừa nặng, khiến tôi loay hoay xoay sở mãi mới đưa được nó được lên vai. Tối đó, tôi ngủ lại tại một đơn vị của Trung đoàn và sáng hôm sau tiến dần về  quận lỵ Đắc Tô.
          Phương án chuẩn bị đánh địch cánh Đông bất ngờ với địch, nhưng vô cùng gian khổ đối với ta, vì phải bí mật tuyệt đối mở một con đường dài khoảng 80 km, xuyên qua những cánh rừng già kín đáo để xe tăng và pháo binh áp sát mục tiêu. Dù bí mật, kín đáo là vậy nhưng tụi cán gáo, L19, OV 10 vẫn ráo riết săn lùng và liên tục bắn phá suốt ngày đêm. Đặc biệt do mùa mưa đến sớm, đường mới mở trơn lầy, nhiều dốc, quân địch đã phát hiện, quân mới vào chiến trường, sốt rét nhiều, ăn đói, công việc chuyển đạn, đào hầm nặng nhọc. Trong khi đó, mặt trận cánh Tây Ngọc Bờ Biêng cũng không ít khó khăn, nhất là đạn Đ74 thì nặng, pháo thủ thì nhỏ người, ăn đói quá nên không đủ sức nạp đạn, đến nỗi cấp trên phải cho họ hưởng chế độ “đặc cách” được ăn 6 lạng gạo một ngày…
Đúng 5 giờ sáng ngày 24/4/1972, pháo của Trung đoàn 40 đồng loạt trút đạn xuống căn cứ Đắc Tô - Tân cảnh. Cùng lúc xe tăng T54, pháo tự hành 57 ly và tên lửa B72 là những vũ khí, khí tài hiện đại lần đầu xuất hiện ở chiến trường B3 đã gây kinh hoàng cho kẻ địch. Cả mặt đất, bầu trời rền vang tiếng súng. Từ trên cao tít, từng tốp Pháo đài bay B52 không ngớt ném bom trải thảm tạo nên những bức tường khói lửa dài hàng cây số. Thấp hơn là từng đàn phản lực AD6, A37, AC 130, trực thăng gầm gào, nhào lộn ném bom, bắn đạn 20 ly hòng ngăn chặn các mũi tiến công của quân ta. Tại sân bay Đắc Tô, xe tăng 377 của ta đã tả xung hữu đột, bắn cháy 7 xe tăng địch, trước khi bị trúng đạn hy sinh. Sau nhiều giờ giao tranh ác liệt, chiều 24/4/1972 quân ta làm chủ hoàn toàn căn cứ Đăk Tô -Tân Cảnh. Chúng tôi được lệnh hành quân cấp tốc xuôi theo đường 14 để tiến đánh thị xã Kon Tum.
Xe tăng 377 xuất kích từ Pô Cô Hạ 24/4/1972
Sau khi băng qua quận lỵ Đắc Tô bằng lối đi kẹp giữa những hàng rào kẽm gai của khu ấp chiến lược,  rồi vượt qua thị trấn Tân Cảnh còn vương mùi đạn bom và xác địch bắt đầu phân hủy gây mùi khó chịu, chúng tôi tới được xã Diên Bình. Cầu Diên Bình đã bị quân ta đánh xập trước đó vài ngày nên  phải vượt ngầm Đak Bla. Bộ đội và xe pháo đang vượt ngầm thì một chiếc C130 ập tới, rà sát mặt sông, mọi người chạy tản ra trú ẩn, không hiểu vì sao chúng không bắn phá như mọi lần, chắc hết đạn. Tối hôm đó, chúng tôi nghỉ lại trong một cánh rừng tái sinh gần bản Kon Hrinh ven đường 14. Tôi được đổi cây súng CKC dài ngoẵng lấy khẩu AK Tiệp, nghe nói của một chiến sĩ vừa hy sinh. Sáng hôm sau, tôi  được giao nhiệm vụ theo tổ đài trinh sát thọc sâu cùng bộ binh vào đánh thị xã Kon Tum. 
     Trên tháp pháo xe tăng 377 anh hùng tại Tân cảnh 2004
    6.  CAO ĐIỂM 715
Sau khi luồn rừng, vượt suối đi thâu đêm, chiều 29/4/1972 chúng tôi tới được cao điểm 715, cách thị xã Kon Tum chừng 3 km. Chỉ huy tổ đài 715 là anh Vãng (tiểu đoàn 33), trinh sát C17 có Quý “xịt” và tôi, thông tin 2W có Kim, anh nuôi Trúc và một chiến sĩ thông tin hữu tuyến. Nhiệm vụ của chúng tôi là theo dõi hoạt động của sân bay Phượng Hoàng, nhất là quy luật lên xuống của máy bay AC130, xác định tọa độ, tính toán phần tử và chờ thời cơ gọi pháo bắn. Khi chúng tôi đến, cao điểm 715 xanh ngút ngàn, cây cối rậm rì và còn in rõ dấu vết một đơn vị thám báo ngụy vừa rút khỏi nơi đây. Chúng tôi khẩn trương đào hầm trú ẩn và đặt máy quan sát. Để bọn địch không phát hiện được sự có mặt của đài trinh sát thọc sâu này, chúng tôi xóa mọi dấu vết trên mặt đất, phủ lá cây lên đường dây hữu tuyến và thay nhau cảnh giới. Mọi sinh hoạt hậu cần đều triển khai dưới khe núi phía sau.
Sau nhiều ngày theo dõi quy luật hoạt động của sân bay địch, đêm 12/5/1972, một chiếc C130 không bật đèn pha như mọi lần vì sợ ta phát hiện mà tắt đèn từ trên cao, nhằm tín hiệu dưới sân bay hạ cánh. Đúng ca trực của mình, tôi dán mát vào chiếc phương hướng bàn đặt trước cửa hầm chữ A chờ đợi. Qua vật chuẩn đã chọn từ ban ngày, tôi thấy rõ thân máy bay dài thuỗn và đen mốc như lưng con trăn khổng lồ, lướt nhanh qua ánh đèn mờ trên sân bay tiến về cuối đường băng. Cơ hội đã đến, tôi gọi mọi người dậy, anh Vãng phụ trách tổ đài liền điện về Trung Đoàn xin cho bắn. Với 9 quả đạn, chiếc máy bay trúng đạn bùng cháy dữ dội, cả tổ đài vui mừng nhưng không dám hò reo vì sợ lộ nơi quan sát. Lệnh trên tạm dừng bắn tiết kiệm đạn, chờ sáng mai xử lý tiếp. Khoảng 5 giờ sáng hôm sau, khi sương mù còn bao phủ thị xã Kon Tum, chúng tôi đã căng mắt tìm mục tiêu. Kia rồi, chiếc máy bay khổng lồ đen xì, nghiêng cánh nằm gục cuối đường băng, bọn lính đang lố nhố xung quanh như sửa chữa hư hỏng hoặc tháo dỡ gì đó. Chúng tôi được Trung đoàn cho bắn tiếp 3 quả đạn, vì bắn ngày, cự ly quan sát gần, nên ngay quả đạn đầu trúng mục tiêu khiến bọn địch hoảng loạn chạy túa ra *
*  “Từ ngày 3 đến 13/5/1972, pháo binh QĐNDVN liên tục bắn phá thị xã Kon Tum bằng pháo 130 mm, 122 mm và hỏa tiễn H12. Mục tiêu bắn phá nhiều nhất là sân bay Phượng Hoàng, gây khó khăn cho tiếp vận hậu cần của QLVNCH.”( trang mạng Wikipedia)
30 năm sau, trong một lần lên từ Sài Gòn lên Tây Nguyên công tác, tôi có kể chuyện bắn chiếc máy bay đó cho cậu Hiền lái xe cơ quan (Văn phòng Trung ương Đoàn phía Nam) nghe. Sau chuyến công tác về, Hiền bất ngờ tặng tôi tấm ảnh đen trắng, trong ảnh là một chiếc máy bay cháy trơ khung và có một người lính ngụy đứng  bên cạnh. Thấy tôi ngơ ngác Hiền giải thích trong ảnh chính là chiếc máy bay C130 bị ta bắn cháy tháng 5 năm 1972, còn người lính đứng cạnh chiếc máy bay đó chính là cậu ta, biệt động quân mới bị bắt lính, nhà nghèo không có tiền lo lót nên bị điều lên mặt trận Kon Tum. Lúc này tôi mới biết người lái xe ít nói, tận tụy bấy lâu chở tôi đi công tác khắp miền Nam này lại là người “bên kia” của 30 năm về trước. Sau này, khi hay tin Hiền mất vì bệnh hiểm nghèo, tôi tìm đến nhà Hiền ở Cầu Muối thắp cho cậu ta nén hương, vợ Hiền nghẹn  ngào nói  rằng Hiền luôn nhắc đến tôi .
Trung sĩ Hiền, lính VNCH (sau này là lái xe cơ cùng cơ quan ở phía Nam) bên chiếc C130 bị  tổ đài 715 bắn cháy tháng 5/1972
Sau khi sân bay bị bắn phá, bọn địch tăng cường bay trinh sát tìm kiếm và chúng đã phát hiện ra đài quan sát của ta. Khoảng 9 giờ sáng hôm sau, chiếc trực thăng trinh sát nhỏ gọn, cực kỳ cơ động, rất khó bắn hạ và chỉ dành cho lính Mỹ sử dụng, lính ta quen gọi là UtiTi, quần đảo lồng lộn quanh cao điểm 715. Vòng thứ nhất nó bay ngang sát cửa hầm, đến nỗi chúng tôi nhìn rõ tên lính Mỹ ngồi ngay cửa máy bay, tay lăm lăm khẩu trọng liên 20 ly. Chúng tôi hội ý nếu nó quay lại thì sẽ bắn trả. Nhưng khi chiếc trực thăng trinh sát bất ngờ vòng lại, lướt nhanh qua cửa hầm thì tên Mỹ đã vung tay ném đạn hỏa mù xuống, cách cửa hầm chừng dăm mét, chúng tôi chỉ còn cách rút nhanh xuống hầm trú ẩn. Ngay sau đó bọn phản lực nhào đến cắt bom, tiếng bom nổ quá gần khiến cậu Quý bị hộc máu mũi, tôi bị ù đặc hai tai chẳng nghe thấy gì nữa. Sau loạt bom, mọi người ngoi lên quan sát, một cảnh tượng kinh hoàng, hai hố bom sâu, rộng chỉ cách hầm chừng 15m về dưới sườn dốc, một vệt rừng hàng trăm mét vuông kín đáo là vậy nay bị phát quang. Để bảo toàn lực lượng, tổ đài tạm rút xuống khe núi phía sau.
Nửa đêm hôm đó, khi mọi người đang ngủ mê mệt thì bất ngờ cả mặt đất rung chuyển dữ dội, bom của pháo đài bay B52 nổ trùm trên đầu, tôi choàng tỉnh co gối, bịt tai và ép mình vào góc hầm hàm ếch. Khói bom và ánh lửa xanh đỏ phả vào cửa hầm khiến tôi ho sặc sụa. Phải đến mươi phút sau mới dứt tiếng bom, mọi người gọi tên nhau ý ới, rất may còn sống cả nhưng không ai dám ra khỏi hầm vì đề phòng bom nổ chậm. Sáng ra, cảnh tượng hoang tàn, mặt đất nát nhàu, cây cối gẫy gục, nồi xoong tanh bành, những quả  bom bi chưa nổ nằm chênh hênh, vật vờ khắp bụi cây, khe suối.
   Ngày 14/5 ta mở đợt tấn công lần thứ nhất vào thị xã Kon Tum. Từ trên đài quan sát tôi nhìn thấy rất rõ đội hình xe tăng T54 dàn hàng ngang dẫn bộ binh tấn công sau khi pháo binh ta chuyển làn về phía trước. Phía sau, các sĩ quan điều khiển tên lửa B72 bấm nút lái cho quả đạn trắng như cánh cò bay lượn, xuyên thủng từng két nước, l châu mai của địch. Hôm đánh Đắc Tô - Tân Cảnh tháng trước ta cũng dùng B72, khiến địch hoảng sợ không biết đó là thứ vũ khí gì. Cuộc chiến đấu giằng co quyết liệt, địch phản kích dữ dội, từng tốp B52 thay nhau ném bom trải thảm ngay trước ranh giới chiến tuyến giữa ta và địch, phản lực AD6, A37 bổ nhào cắt bom, chiến trường mù mịt. Một số xe tăng của ta bị địch bắn cháy trông mà sót ruột.*
* “Ngày 13 tháng 5, mạng lưới do thám điện đài của Mỹ chặn bắt được bức điện của Bộ Tư lệnh B3: "Mũi tấn công hướng Bắc - Sư đoàn 2 - stop - hướng Tây Bắc - sư đoàn 320 - stop - Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T54 - stop - G - 05h00 - stop - N - 14-5 - stop".
Ngày 14/5/72. Tất cả 75 lần chiếc B52 đồng loạt bấm nút thả xuống trên 3000 quả bom đủ loại trên đầu Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 Sao Vàng. Diện tích trải thảm của các B52 tổng cộng là 75 km²… Vì bị áp lực quá mạnh của bom, bộ đội phải lui về phía sau…Kế hoạch trải thảm B52 đã dứt điểm cuộc tấn công đầu tiên của hai sư đoàn Bắc Việt vào Kontum (Wikipedia)
           Cuộc chiến đấu đang vào hồi quyết liệt giữa một bên quyết chiếm và một bên quyết giữ thì một khó khăn mới nảy sinh, lương thực, thực phẩm mang theo đã hết sạch, mấy ngày liền toàn canh môn thục, me đá, ngót rừng cầm hơi. Tổ đài quyết định cử tôi về tuyến sau kiếm sắn cho anh em. Sáng đó tôi hăm hở lên đường chỉ với khẩu AK, chiếc gùi bạt cùng một số anh em đơn vị bạn nhằm hướng Đông Bắc mà đi. Gần trưa, khi đang vượt một bản hoang trống trải và đầy cây xấu hổ thì một đàn trực thăng HU1A ào đến. Tình thế nguy kịch, nếu bỏ chạy chắc chúng sẽ phát hiện. Tất cả hô nhau nằm bẹp xuống vạt cây xấu hổ, mặc gai đâm đau buốt. Bọn trực thăng vừa vút qua để lấy đà vòng lại thì chúng tôi co cẳng chạy vào rừng thoát thân.
Chiều tối chúng tôi mới tới được nương sắn, chắc là của đồng bào bỏ lại nên cỏ dại mọc kín. Tôi nhổ vội được vài gốc, củ còn nhỏ lắm, nhưng có còn hơn không, cho vào gùi thì trời đổ mưa như trút, đêm tối ập đến lại càng nhanh, thế là đành phải tìm chỗ ngủ lại. Để gùi được nhiều sắn nên khi đi không mang tăng võng công kềnh, vì vậy tôi đành trải cỏ nằm nhờ dưới tăng võng của hai chiến sĩ không biết đơn vị nào nằm chung một võng phía trên. Lúc đầu đất dưới lưng còn khô ráo, nhưng sau đó nước mưa ngấm ướt lạnh lưng, tôi xoay sở lục cục suốt đêm lạnh và đói.
Sáng sau trời tạnh, nắng bừng lên nhanh chóng, mọi người lại vội vã trở về với gùi sắn trên lưng. Đi được nửa đường, chúng tôi gặp xe tăng ta được ngụy trang khá kỹ đang lng lẽ bò về hướng thị xã Kon Tum. Mặc dù vậy, kẻ địch cũng đã đánh hơi thấy, bọn trực thăng trinh sát quần đảo rát rạt, chúng bay chỉ cánh trên đầu chừng mươi mét, rồi đột ngột dừng lại trên không dùng cánh quạt rẽ bụi cây ngọn cỏ tìm mục tiêu. Tôi vội bỏ gùi sắn xuống vệ đường, ôm súng trèo lên taluy dương, nép vào một bụi cây, vơ vội nắm lá khô phủ lên người và nằm im như chết. Tiếng động cơ máy bay ngày càng to, cánh quạt của nó quay tít tạo nên những luồng gió xoáy dữ dội tưởng như muốn nhấc bổng cỏ cây và tôi lên. Lúc đó tôi cũng thoáng nghĩ đến chuyện giương súng bắn trả, nhưng không ổn vì không chừng hậu họa còn lớn hơn nhiều. Quần đảo và bắn bừa bãi một hồi, không phát hiện được gì, bọn trực thăng săn mồi bay đi. Mọi người lục tục tìm gùi sắn và nhanh chóng về đơn vị. Thế rồi gùi sắn cũng hết veo. Lúc này bộ đội đặc công vượt sông Đăk Bla đã chiếm được nửa phần thị xã Kon Tum. Tổ đài lại cử Quý “xịt” vào Biệt khu 24 của địch lấy được ít gạo sấy ra cầm cự được thêm ít ngày.
Trước tình hình trên, để chiếm được Thị xã Kontum, Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương nhanh chóng bổ sung vật chất cho các đơn vị, kiên quyết tiến công địch trong thị xã, kết hợp với tiêu diệt lực lượng của chúng ở ngoài thị xã. Ngày 25-5, quân ta nổ súng tiến công lần hai, đã đánh chiếm được một số khu vực, nhưng không phát triển được, đến ngày 26, 27 rạng ngày 28 ta tiếp tục tiến công, ở các hướng đều bị địch ngăn chặn và phản kích, thương vong lớn, sức chiến đấu giảm dần.*
* Lần này KLHK sử dụng 30 lần chiếc B52 ném bom vào đội hình của trung đoàn 3 và trung đoàn 52. Hai đơn vị này bị tổn thất, không đột phá được trận địa phòng ngự của trung đoàn 44 QLVNCH ở ngã ba Trung Tín. Các đơn vị QĐNDVN đã vào được thị xã bị máy bay cường kích của Không lực Hoa Kỳ và các máy bay A-37liên tục ném bom, bắn phá gây thương vong nặng. (Trích nguồn Wikipedia)
Ngày 6 tháng 6, xét thấy không còn khả năng đánh chiếm thị xã Kon Tum do quân số thương vong lớn, gạo thiếu, đạn dược không đủ, quân ta được lệnh rút ra khỏi thị xã Kon Tum. Trong một phiên gác đêm trên đài 715, tôi thực sự bàng hoàng chứng kiến từng đoàn bộ đội lầm lũi khênh cáng thương binh, tử sĩ từ thị xã ra dưới ánh đèn dù pháo sáng của địch. Một không khí nặng nề, buồn bao trùm. Lúc đầu tôi thử nhẩm đếm số cáng thương, nhưng sau đó nhiều quá không buồn đếm nữa.
                   7. RÚT LUI VỀ HẬU CỨ
Chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972 kéo dài gần 3 tháng kết thúc. Về phía ta giữ được cụm cứ điểm Đắc Tô - Tân Cảnh chiếm được từ đầu chiến dịch kéo dài tới Võ định, Chí Đạo, Công Trang Chăng Loi, Bãi Ủi, Kleng, Kroong Trung nghĩa. Địch giữ được thị xã Kon Tum, Play Cần, Đắc Siêng và Đắc Pét.*
Chúng tôi được lệnh rút khỏi cao điểm 715. Đêm đó trời đổ mưa to, đang nằm ngủ trong căn hầm mái bằng, tôi bỗng cảm thấy ướt lạnh và hình như có gì đè nặng lên ngực. Theo bản năng tôi bật dậy và ngoi được đầu lên khỏi mặt đất, phần toàn thân còn lại bị vùi dưới hầm, hóa ra hầm bị sập. Nghe tiếng kêu cứu, mọi người soi đèn pin chạy đến moi tôi lên, mọi đồ đạc khác bỏ lại trong lòng đất, trong đó có chiếc dù pháo sáng, chiến lợi phẩm đầu tiên mà hôm trước tôi liều lĩnh xuống chân đài 715 lấy về làm bọc võng. Ngay sáng hôm đó, chúng tôi tìm đường trở về nơi tập kết của đơn vị.
Nhưng tai họa vẫn chưa buông tha, tôi lại lên cơn sốt lần thứ ba. Anh em lại chuyển tôi vào trm xá dã chiến gần đó, mỗi người một hầm để phòng địch ném bom. Hôm sau, tôi thấy người ta khiêng một thương binh nhập viện, vết thương cậu ta vào mắt khá nặng, dòi bọ lúc nhúc trong hố mắt, hỏi ra mới hay do bị thương, lạc đơn vị, lại bị đói mấy ngày may mà có đơn vị bạn đi quan phát hiện ra. Ngay đêm hôm sau, trạm xá lại trúng bom tọa độ A37, nằm một mình trong hầm, tôi thấy rung chuyển dữ dội, đất đá rào rào, mùi khói bom khét lẹt.*
Dứt tiếng bom, y tá gọi tên từng thương bệnh binh, tôi cố nhoài ra cửa hầm trả lời rằng còn sống, nhưng hầm của chiến sĩ bị thương vào mắt giờ chỉ còn là hố bom sâu hoắm. Thật tội nghiệp cho cậu ấy, đúng là sống chết có số. Trước tình trạng không an toàn đó, trạm xá quyết định di dời đi nơi khác, thế là tôi đành chống gậy về đơn vị trong khi chưa cắt sốt.
Sau khi tập hợp đủ quân số từ các tổ đài trở về, toàn đơn vị bắt đầu cuộc hành quân về hậu cứ Tà Cơi. Không khí thật nặng nề bởi quân ta không chiếm được thị xã Kon Tum, lại thương vong nhiều. Riêng đơn vị chúng tôi hy sinh và bị thương hàng chục người, trong đó có cậu Hoan người Hải Phòng đã có vợ con, bị máy bay cán gáo phát hiện bắn chết khi đang trên đài quan sát ở ngọn cây gần cao điểm 751; cậu Hiệp bị mảnh bom cắt đứt một ngón tay trên cao điểm 1338 thuộc dãy Ngọc Bờ Biêng; Tiểu đội phó Thế bị cụt ngón tay cò súng; cậu Bối quê Trùng Khánh cũng bị thương; cậu Đạt cấp dưỡng và anh Vạn bị thương do vướng mìn địch cài lại trong lần trinh sát Ngok Ngon ở Play Cần. Đa số còn lại đều gầy rộc, xanh xao và mệt mỏi.
* Paul Vann (cố vấn Mỹ ) nói: "Tôi đã hứa với Ðại tướng Abrams là không để mất Kontum. Nếu mất Kontum, thì Kissinger, Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại Hoà đàm Paris, sẽ gặp nhiều khó khăn".(Trích nguồn Wikipiadia)  
Con đường trở về hậu cứ vì thế càng xa, chẳng ai buồn vui đùa nữa. Chúng tôi men theo chân núi 751, nơi đó còn chốt của địch, ngược theo đường 14, ra cống 3 lỗ, tới Diên Bình, lên Tân Cảnh, sang Đắc Tô II, vượt sông Pô Cô, suối Đắc Tơ Can, về Ple Lang Lố Kram, tới chân dốc đá, cắt đường tắt về Tà Cơi. Do bị sốt, nên anh em mang hộ tôi ba lô, súng đạn, tôi chống gậy choàng chăn lẽo đẽo theo mọi người, nhiều lúc mệt quá bị tụt lại phía sau, tôi lại bị cán bộ quát, buồn tủi khiến nước mắt hòa lẫn trong mưa. Phải mất ba bốn ngày sau chúng tôi mới về tới hậu cứ Tà Cơi.
Vài ngày nghỉ ngơi cho lại sức, toàn đơn vị tập trung tổng kết chiến dịch, xét khen thưởng, kết nạp Đảng, học chính trị, nghe phân tích nguyên nhân chưa giải phóng được Kon Tum, củng lại cố tinh thần và học kỹ thuật trinh sát, kế toán. Thời gian còn lại tập trung ra nương rẫy chuẩn bị cho vụ trồng tỉa mới.
Đây là thời kỳ nặng nề nhất đối với tôi vì sốt vẫn triền miên. Nhưng đáng buồn hơn là có ý kiến cho rằng tôi sợ đi chiến dịch, giả ốm nên chưa xét kết nạp Đảng. Trong khi đó, chỉ trong chiến dịch này tôi đã ba lần lên cơn sốt ghê người, 7 lần cận kề cái chết, trong đó một lần sốt ác tính bất tỉnh trong đội điều trị 25, may được cứu chữa kịp thời; một lần bị AC 130 săn đuổi trên đường đi tìm đơn vị; một lần bị trực thăng săn mồi phát hiện gọi phản lực ném bom sát cửa hầm bị điếc đặc ở đài 715; hai lần bị trực thăng săn UH 1B đuổi khi đi lấy sắn cứu đói cho tổ đài; một lần bị B52 rải thảm trúng nơi trú ẩn giữa đêm và một lần xập hầm ở đài 715.
Số phận đã cho tôi những lần thoát chết may mắn đó. Tôi tự thấy mình đã hoàn thành nhiệm vụ một cách tự giác, đơn độc và thầm lặng. Tôi đã vượt lên bệnh tật hiểm nghèo để kiên quyết tìm bằng được đơn vị ở phía trước. Nếu không có lòng tự trọng và quyết tâm thì tôi đã ở lại làm lính cho Đội điều trị 25 theo lời đề nghị của họ. Tôi đã cùng tổ đài thọc sâu vào cao điểm 715, một tổ đài vào gần địch nhất, gian khổ và ác liệt nhất. Đã góp phần gọi pháo bắn cháy một máy bay C130 của địch và giữ được an toàn nguyên vẹn để trở về. Vì vậy, nhìn những đồng đội cùng nhập ngũ, cùng vào C17, sau chiến dịch về họ được khen thưởng, được vào Đảng mà lòng tôi nghẹn ứ, nước mắt lại rơi trong cơn sốt gai người. Nhưng tôi vẫn lặng im, không thanh minh. Cái chính là lương tâm mình không day dứt, bởi mình không phải là kẻ hèn nhát. Mặc dù trước đạn bom, không phải không ai không biết sợ. Nhưng sợ với hèn nhát, lẩn tránh là hai hành động hoàn toàn khác nhau. Tôi có lòng tin rằng, thời gian sẽ trả lời tất cả. Đã là người lính, phải chấp nhận mọi thứ, kể cả tính mạng mình, huống chi một vài lời nói…
          8.  NHỔ PLÂY CẦN VÀ ĐẮC SIÊNG
Thấm thoát vài tháng trôi qua, sau thời gian nghỉ ngơi, học tập và tăng gia, toàn đơn vị lại lên đường tham gia đánh Play Cần và  Đắc Siêng. Đầu tháng 10/1972, tôi được giao nhiệm vụ tháp tùng Đại đội phó Thiều Đình Bảy đi trinh sát cứ điểm Play Cần, qua chuyến đi này tôi mới được biết tài trinh sát của anh, nhất là xem bản đồ để cắt đường đúng hướng. Thấy tôi cứ gục mặt đi anh bảo phải ngẩng mặt lên quan sát phòng biệt kích thám báo mai phục. Dọc đường thấy dù pháo sáng của địch treo lơ lửng trên cây rừng tôi định lấy về làm bọc võng, anh bảo không được lấy vì có thể bọn địch lấy đó làm vật chuẩn theo dõi xem khu vực này có quân ta hay không. Anh luồn nhanh như sóc khiến tôi vất vả bám theo. Khi leo lên đỉnh đồi trọc để quan sát, anh nói đây là chốt của bọn thám báo mới rút, cần đề phòng chúng gài mìn. Từ trên đỉnh chốt cháy nắng, chúng tôi dùng ống nhòm quan sát cứ điểm của địch.  
          
Lính Mỹ tại cao điểm 875 gần cứ điểm Play Cần (ảnh sưu tầm)
 Play Cần những năm 66,67 là một trận địa pháo binh của quân đội Mỹ án ngữ, khống chế khu vực Ngã ba Đông Dương và làm lá chắn phía Tây cho cụm cứ điểm Đắc Tô -Tân Cảnh. Sau khi quân Mỹ rút, cứ điểm được giao cho đơn vị biệt kích ngụy khét tiếng là tiểu đoàn 88. Đây là cứ điểm được xây dựng bố phòng hết sức đặc biệt, những căn nhà lô cốt nửa chìm nửa nổi kiên cố, trải đều khắp sườn đồi với nhiều lớp rào kẽm gai bao bọc, có lưới chăng phòng tránh đạn B40 của ta. Đặc biệt, ở cứ điểm này, mỗi gia đình lính ngụy đồng thời là một ụ chiến đấu, từ già đến trẻ đều là người dân tộc, sẵn sàng ném lựu đạn US và xả từng băng AR 15 vào bất cứ ai. Đây có thể được xem là mô hình điển hình về Chiến lược “Việt nam hóa chiến tranh” của Mỹ, vì thế các lần tấn công trước quân ta đều bị đẩy lui. Trận 9/5/1972, do bị thương vong nhiều nên lính ta gọi chệch là Plây "Kềnh". Lần này, Trung đoàn 66 đã xin cấp trên cho đánh một trận trả hận, với sự hỗ trợ đắc lực của Trung đoàn pháo binh 40 của chúng tôi.
Theo chỉ đạo của trên, mà trực tiếp là Trung đoàn trưởng Tô Thuận, muốn bảo đảm hiệu suất bắn pháo cao, chính xác, gây bất ngờ cho địch, hỗ trợ đắc lực cho bộ binh tấn công dứt điểm, thương vong ít thì pháo bình phải vào gần, lên cao, bắn thẳng. Thế là các đơn vị tham chiến tháo pháo, khênh pháo, cõng đạn vào gần căn cứ địch. Tổ đài chúng tôi cũng được huy động đi cõng đạn. Mỗi người phải gùi 2 trái, vượt dốc cao, suối sâu, đường trơn để đưa đạn vào trận địa trên lưng chừng núi. Trái pháo thì tròn, trơn và dài. Tôi thì nhỏ, thấp nên cuộc vật lộn gùi đạn quả thật khó khăn, nhiều lúc nặng quá mà ứa nước mắt nhưng vẫn phải cố. Tối về, lưng vai bầm tím, chân tay rã rời chẳng thiết ăn uống gì.
Thế rồi công việc chuẩn bị đã xong. 10h sáng ngày 12/10/1972, pháo của Trung đoàn 40 bắt đầu khai hỏa. Hai trận địa pháo Đ74 và 155ly ở Đăk Mót bắn phá các mục tiêu bên trong căn cứ. 2 khẩu 105ly đặt ở điểm cao 755 và 976 đã bắn nát các công sự ở phía nam làm địch hoảng hốt dạt sang sườn bắc, cùng lúc đó 2 khẩu 85ly đặt trên Ngọc Pếch nã đạn vào lô cốt địch. Chớp thời cơ địch hoang mang, bộ binh ta đã tấn công, sau 3 giờ chiến đấu ta đã chiếm được căn cứ.
Trên đài quan sát, chúng tôi thấy rõ đạn pháo ta từ trên cao bắn thẳng vào đồn địch rất chính xác. Bất ngờ, chúng tôi phát hiện một chiếc L19 bổ nhào ném hỏa mù xuống một trận địa pháo của ta dưới cánh rừng le. Đài trinh sát điện ngay cho trận địa bíết phòng tránh. Nhưng không kịp nữa rồi, liền sau đó là bọn phản lực bổ nhào ném bom, loại bom BTU có điều khiển từ xa nên rất chính xác. Cả trận địa pháo trùm trong khói bom, tám pháo thủ đều hy sinh, riêng khẩu pháo 105 bị nhấc bay cách trận địa vài chục mét. Một tổn thất quá lớn cho Trung đoàn 40.
Sau khi cứ điểm Play Cần bị tiêu diệt, căn cứ Đắc Siêng nằm ven đường 14, cách Tân Cảnh chừng 30 km về phía Bắc trở nên đơn độc. Hàng ngày địch phải dùng máy bay “rọ heo” CH47 chuyên chở tiếp tế từ Kon Tum lên. Để nhổ nốt căn cứ này, Trung đoàn 40 laị tháo pháo, khênh pháo lên cao hàng ngàn mét để bắn. Đường lên đài quan sát và đưa pháo lên là con đường thời Ngô Đình Diệm mở cho xe ngựa lên vùng đồng bào các bản xa xôi, hẻo lánh, vì vậy công binh ta đỡ vất vả mở đường.
Đúng ngày giờ quy định, quân ta nổ súng, tiếng pháo ta nổ đanh gọn, căng, đầy uy lực và chính xác. Dứt làn pháo, bộ binh tràn lên tiêu diệt các ổ đề kháng cuối cùng, trận đánh kết thúc chóng vánh. Từ đài quan sát chúng tôi nhận thấy hiếm có trận đánh nào diễn ra nhanh gọn đến thế. Để vớt vát thể diện, máy bay địch vội nhào tới ném vài chùm bom rồi cút thẳng. Chợt từ trên trời xanh cao tít, từng tốp B52 nhả khói trắng trời, tưởng chúng nó lại ném bom rải thảm như các trận đánh trước, nhưng mặt đất vẫn bình yên. Qua làn sóng đài tiếng nói Việt Nam chúng tôi được tin Mỹ huy động tối đa B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng để gây sức ép buộc ta phải nhượng bộ tại bàn hội nghị Pa Ri. Thế là Miền bắc lại chia lửa cho miền Nam rồi.
Căn cứ Đăk Siêng năm 1971 (ảnh sưu tầm)
Nói về Trung đoàn trưởng Tô Thuận, số phận đã cho tôi nhiều cơ may được gặp ông sau này. Quê ông ở Đông Hưng, Thái Binh, cách quê tôi một bến đò Vô Hối. Còn bây giờ nhà ông và nhà tôi cùng phố Đội Cấn, quận Ba Đình. Cháu ngoại đầu của ông học cùng con gái tôi, hai đứa rất thân nhau, những tưởng thành đôi lứa, đến nỗi mỗi lần họp mặt truyền thống E40, có người cứ tưởng tôi đã thành thông gia với gia đình ông. Trong chiến trường ông nổi tiếng là người quyết đoán nhưng nhân hậu và thương lính, nhất là lính trinh sát C17 chúng tôi. Ông được phong cấp bậc Thiếu tướng, làm Tham mưu trưởng, Phó tư lệnh Bộ Tư lệnh Pháo binh. Về già ông làm trưởng ban liên lạc Bạn chiến đấu pháo binh Quân khu 5 - Tây Nguyên. Mỗi lần họp mặt có ông là không khí tưng bừng. Ông vẫn là người nhân hậu, nghĩa tình, thương người, thương đồng đội. Ngày 26/3/2011, trong buổi họp mặt với các đồng đội cũ, tôi nói chuyện khá lâu với ông, ông còn nói cho tôi hay kế hoạch “hậu sự” của ông rất tự nhiên, thoải mái. Vài tháng sau ông ra đi thật nhưng khá đột ngột vì bị một cơn “sốc” gia đình và không gượng dậy được nữa.
           Thủ  trưởngTô Thuận tháng 3/1975          
9.  CHUYỂN HẬU CỨ
Ngày 30/12/1972, chúng tôi được lệnh rút khỏi Đắk Siêng, xuôi về Tân Cảnh, vượt sông Pô Cô, leo qua Ngọc Bờ Biêng cao ngất, sang Kleng, tới vùng núi Chư Mom Ray, một trong những đỉnh núi cao nhất Tây Nguyên, tìm vị trí để chuyển hậu cứ từ Tà Cơi ra. Sáng hôm sau, đúng ngày 1/1/1973, ngày tôi tròn hai mươi tuổi, chúng tôi tiếp tục lên đường. Bữa sáng hôm đó nồi cơm bị khê, điều mà cánh lính chúng tôi hay kiêng kỵ, anh em đổ lỗi cho nhau, có ý kiến bảo không nên đi, nhưng việc quân đâu phải trò đùa.
Xuống chân núi, chúng tôi đi dọc con đường do công binh mở để đánh Kleng năm ngoái. Từ sáng sớm, thấy chiếc L19 bay lượn tít trên cao, chúng tôi bảo nhau phải ngụy trang cẩn thận và giữ đúng đội hình hành quân. Đi được một đoạn thì gặp tốp lính văn công lỉnh kỉnh đàn nhị, lễ mễ ba lô, không đội hình, không ngụy trang đi cùng chiều phía trước. Thấy vậy, chúng tôi nhắc họ cẩn thận kẻo máy bay trinh sát phát hiện, H không quan tâm lời cảnh báo đó, vẫn nghênh ngang, lộ liễu. Phòng tình huống xấu, chúng tôi hội ý, khi nhóm văn công nghỉ thì mình vượt lên, khi mình nghỉ thì để họ đi trước, cự ly khoảng cách giữa họ và chúng tôi phải là 100 mét. Càng đi đường càng trống trải, hai bên đường toàn bụi le gầy, cỏ tranh và gai xấu hổ. Trên trời cao xanh ngắt, nắng như đổ lửa, chiếc L19 vẫn vè vè đeo bám khiến chúng tôi càng sinh nghi.
Gần trưa, khi cánh văn công vừa vượt qua chúng tôi chừng trăm mét, lọt thỏm vào gia một bản hoang, thì chiếc L19 bất ngờ cắm đầu phóng hỏa mù vào giữa đội hình của họ. Nhanh như cắt, hai chiếc AD6  không hiểu xuất hiện từ đâu ra, nhào xuống sát mặt đường ném bom bắn phá. Chúng dùng chiến thuật ném bom phát quang chặn hai đầu, ném bom phá và bom sát thương đoạn giữa. Lúc này đội hình của chúng tôi cũng vừa chớm vào vùng oanh tạc của máy bay địch. Cả đơn vị mạnh ai người đó chạy. Tôi và Hiệp cùng chạy về bên trái đường, lao vào rừng le, vùi đầu vào gốc cây tránh bom. Đất đá, cành cây bay rào rào, lửa khói mù mịt, khét lẹt. Trong nguy nan, rất may hai đứa phát hiện một vỏ bom bi mẹ, như chiếc thuyền con úp ngược, vội lt lên đội lên đầu để cốt giữ “gáo”. Phải đến 15 phút sau đợt bắn phá mới dứt, tiếng máy bay địch xa dần, chúng tôi liền vùng dậy chạy ra khỏi khu vực nguy hiểm sợ bọn địch có thể trở lại ném bom tiếp. Khi chạy trở lại tới đường thì đã thấy xác anh em văn công nằm trên mặt đất. Hình như tất cả bảy người đó hy sinh cả. Thật đáng buồn cho họ vì quá chủ quan khinh địch và phải trả giá quá đắt. Gần một tiếng sau chúng tôi mới tập hợp đông đủ và may mắn là không ai bị thương.
Riêng tôi, được một kỷ niệm khó quên vì xuýt nữa thì sinh tử cùng ngày cùng tháng. Còn Hiệp, sau giải phóng Miền Nam được ra Bắc, đi Tiệp học nghề, về nước lấy vợ, sau chuyển về Hà Nội sinh sống. Năm 2007 Hiệp bị ung thư và mất. Hôm đưa tiễn Hiệp xuống đài hóa thân hoàn vũ, tôi gai người vì phải chứng kiến cảnh người ta đưa nó vào lò thiêu xác. Còn Hòa, vợ Hiệp vốn là cô gái hàng xóm ngày xưa của nó thì ngất lên ngất xuống. Mối tình của hai đứa cùng phố đó, tôi được Hiệp kể cho nghe trong cái lần đi trinh sát Ban Mê Thuột.
Sau trận oanh tạc đó, bọn địch phát hiện ra khu vực này có quân ta nên không ngừng lùng sục, trực thăng UH1 liên tục quần đảo sát ngọn cây từ trưa cho đến chiều, chỗ nào nghi ngờ là nã đạn 20 ly xuống. Thêm một kho gạo của ta gần đó bị phá hủy, nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng đã đến được hậu cứ mới an toàn. Thời kỳ này anh Nguyễn Như Đới quê Khoái Châu, Hưng Yên làm đại đội trưởng, anh Phạm Thế Dân người Ninh Bình làm chính trị viên trưởng của C17. Đơn vị được bổ sung một số lính mới như Thư, Ơn quê Lạng Sơn và y tá Đoàn quê Vĩnh Phú.
Hậu cứ mới với mật danh H3 là một khu rừng tái sinh với những dải đồi như bát úp, cao độ chỉ vài trăm mét, gần cao điểm Ngok Dơ Lang, thuộc vùng đệm của Chư Mom Ray. Có lẽ trước đây là vùng nương rẫy của đồng bào nên còn nhiều dấu vết đã từng có người ở. Dọc hậu cứ là con suối trong xanh nhưng rất nhiều cá, tôi vốn sát cá từ hồi còn ở nhà nên thường xuyên được đơn vị giao nhiệm vụ đi câu cá. Đất ở đây tuy không màu mỡ như hậu cứ cũ Tà Cơi nhưng đủ để nuôi sống cả sư đoàn. Đường Hồ Chí Minh mới mở cách đây không xa về phía tây, còn phía đông là con đường chiến lược xuyên qua cánh rừng le, sát chân Ngọc Bờ Biêng, nối cao điểm 830 với KLeng. Vì thế nên cả Trung đoàn đã chọn đây làm hậu cứ mới. Sau khi ổn định lán trại, hầm hào, toàn đơn vị tập trung phát nương làm rẫy.
 Cùng thời gian này, Hội nghị Pa Ri xắp đến hồi kết nên khắp mặt trận xảy ra tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Đêm 26/1/1973, tổ đài C17 do thiếu úy đại đội phó Bùi Minh Tâm phụ trách cùng Trung đội phó Trần Viết Phán, Tiểu đội phó Quý “xịt”, Hồ Tít, Đăng Nhật và 2 chiến sĩ thông tin 2W của C18 được giao nhiệm vụ lên cắm cờ giữ đất trên mỏm 751B. Khi tới gần đỉnh chốt, pháo của địch tại Bãi Ủi bắn lên dữ dội, một trái pháo rơi cách đội hình tổ trinh sát 5m, mảnh pháo phá hỏng chiếc máy 2W ngay trên tay anh Tâm, một mảnh khác xuyên thủng  báng khẩu AK rồi cắm thẳng vào túi đeo bản đồ mà anh Tâm không hề hấn gì. Đến giờ cắm cờ theo quy định, khi bên ta dựng cờ giải phóng lên thì đã thấy quân địch từ mỏm 751A vượt yên ngựa tràn sang định chiếm nốt cao điểm 751B, toàn tổ sẵn sàng nổ súng. Trước tình thế đó, anh Tâm nhanh trí cuộn cuốn sổ tay làm loa yêu cầu địch lùi lại 100 mét và cử đại diện không mang vũ khí lên nói chuyện.
Sáng hôm sau, đúng ngày ký Hiệp định Pa Ri 27/1/1973, anh Tâm chỉ huy anh em làm gấp một cái lán để đón tiếp đối phương. Trong lần giáp mặt lịch sử đó, anh Tâm đã trổ tài binh vận và còn tự tay cắt tóc cho 3 tên lính ngụy. Kết quả thật không ngờ, 9 giờ tối hôm đó, viên Thiếu úy đại đội phó Nâu và Thượng sĩ trung đội trưởng Tuấn cùng 22 lính ngụy, súng ống chỉnh tề đã đào ngũ sang ta. Anh Tâm đề nghị cấp trên cử người lên tiếp nhận họ ngay trong cái đêm lịch sử đó.
Trong khi đó ở hậu cứ H3, đúng sáng 27/1/1973, khi đang phát rẫy làm nương, chúng tôi thấy những chiếc máy bay sơn cờ Liên Hợp Quốc bay lượn trên trời để giám sát lệnh ngừng bắn. Qua làn sóng Đàì tiếng nói Việt Nam, chúng tôi được biết Hội nghị Pa - Ri đã kết thúc thắng lợi, Mỹ sẽ rút quân. Như vậy là xương máu của bao người ngã xuống, nhất là tại chiến trường Kon Tum, Quảng Trị với mùa hè đỏ lửa 1972 và Thủ đô Hà Nội với 12 ngày đêm kiên cường đánh trả B52 mới có được kết quả đó. Trong niềm vui lớn lao đó, đơn vị chúng tôi mở cuộc liên hoan nhỏ, hôm đó anh em bắn được con cầy hương, anh Tấn y tá cất được nồi rượu, cả đơn vị cùng nâng bát chúc mừng thắng lợi, đây là lần đầu tiên trong đời tôi uống rượu và bị say bất tỉnh, anh Tấn phải trổ tài cứu chữa.
Sau khi Hiệp định Pa Ri được ký kết, Trung đoàn 40 được giao nhiệm vụ tham gia giữ vững vùng mới giải phóng ở khu vực ráp gianh Võ Định - Bãi Ủi - Do Lai - Non Nước - Krong Trung Nghĩa, vòng cung từ phía bắc đến phía tây thị xã Kon Tum. Đại đội chúng tôi cũng cử người tham gia các hướng đó. Số còn lại tập trung về hậu cứ H3 tăng gia.
Những ngày tiếp theo, đơn vị cử người thay nhau trở về hậu cứ cũ Tà Cơi, cách vài ngày đường để vận chuyển kho tàng, đồ đạc của cá nhân và đơn vị sang H3. Trong một lần về hậu cữ cũ gùi đồ, Thành “đen” bị sốt và tụt lại phía sau, anh em tá hóa quay lại tìm nhưng không thấy. Thành được một trạm xá cứu chữa, nhưng lại bị tiêm trúng giây chằng gây khập khiễng mãi về sau. Đợt đấy chúng tôi bị phê bình vì bỏ rơi đồng đội, còn Thành sau đó được ra Bắc và đi Liên Xô học, nay đã là Phó Giáo sư trường Đại học nông nghiệp Hà Nội. Gần chục năm trước, vợ Thành mải băng qua đường tàu bị tàu hỏa cán chết, tôi và anh Thụy sang dự đám tang thấy Thành khóc thương vợ đến não lòng.
Một chiều tháng 10/1973, tôi được cử lên Trung Đoàn nhận công văn, thư từ. Từ đơn vị lên Trung Đoàn chừng một giờ là tới, xong việc tôi trở về, có rẽ vào một đơn vị tăng gia nghỉ chơi ít phút. Thấy trời xắp tối, các anh bảo tôi ngủ lại mai về, tôi tự tin bảo vừa đi vừa chạy chắc về kịp. Đi được chừng 15 phút, mới khoảng hơn 6 giờ chiều sao trời sập tối nhanh thế. Đúng là “ngày tháng Mười chưa cười đã tối”, tôi bắt đầu lo lắng và đi nhanh hơn, nhưng đường rừng mờ dần. Tôi dừng chân xoay người định hướng, nhưng càng xoay người càng mất hướng, đụng đâu cũng vấp cây rừng. Tôi hoảng thực sự và cứ thế lao bừa vào đêm đen vô vọng. Loay hoay một lúc lâu, biết là không thế cố đi được, tôi nghĩ ra cách giải thoát trèo lên ngọn cây bóp cò từng phát một. Nghe tiếng súng, anh em đơn vị tăng gia lúc nãy biết ngay là tôi bị lạc liền nổ súng trả lời và cử người đi tìm tôi. Theo tiếng súng nổ, tôi tụt xuống và băng mình tìm về hướng đó, đến nỗi tụt xuống cả hố bom, tôi vùng dậy đi tiếp, rồi lại lao vào giữa bụi mây, gai cào toạc quần áo, da thịt rách nhàu, máu chảy lênh láng. Tôi không thấy đau mà chỉ thấy sợ vì vùng này có hổ. Ngay như chuồng lợn của đơn vị còn phải cắm chông nứa dày đặc đề phòng hổ trộm lợn.  Vùng vẫy gần tới sáng, tôi cũng đến được với người ra ứng cứu. Sáng sau tôi trở về đơn vị trong tình trạng nhàu nát và bị mọi người chê cười vì lính trinh sát mà lại bị lạc đường.
Sau Tết 1973, tất cả đơn vị lại ra nương, những danh hiệu dũng sĩ”, kiện tướng được trao cho những ai có nhiều sáng kiến nương làm rẫy. Để đạt hiệu quả cao, đỡ tốn sức, chúng tôi chọn những cây to, thân nghiêng chặt trước, khi cây đổ sẽ kéo theo cả một vạt rừng đổ theo. Đợi cây héo lá, chúng tôi leo lên băm các cành lớn, dàn đều mặt nương rồi châm lửa đốt. Khi đốt nương phải lựa theo chiều gió để ngọn lửa cháy đều, cháy hết. Sau khi mặt nương đã được dọn sạch, tro than nguội hẳn, đợi một chút mưa xuống thì chọc lỗ, tra hạt. Khi đó, cả đơn vị dàn hang ngang làm từ  đỉnh nương xuống, người đi trước hai tay hai gậy gỗ vót nhọn, chọc nhẹ xuống mặt nương tạo nên những hàng lỗ đều đặn, thẳng hàng để người đi sau tra hạt. Sau mỗi buổi ra nương về, mặt mũi ai cũng nhọ nhem đen xì đầy bụi than, tranh nhau ra suối tắm gội và trêu đùa vui vẻ.
Tới khi lúa chín, chúng tôi lại nhộn nhịp khắp cánh rừng, mặt nương đi tuốt lúa. Lúa nương vốn rất dễ rụng nên không thể hái bằng liềm mà phải tuốt bằng tay và bỏ vào cái teo, giống như cái giỏ không hom đeo trước bụng. Khi chưa quen tuốt lúa, đôi bàn tay thường bị rách tứa máu bởi những hạt thóc đầy lông nhọn sắc. Hội thao tuốt lúa thật vui, có anh tuốt giỏi được cả tạ thóc trong ngày. Vui nhất là bữa cơm gạo mới, bát cơm 100% không có độn, lại có thịt heo rừng, cá suối, rau xanh và tạm quên đi các món rau rừng quen thuộc nhưng khó nuốt. Mừng gạo mới, đơn vị còn bày chuyện làm bánh bún rôm rả. Cối giã bột làm bún là gốc cây rừng loại gỗ tốt, cưa thật bằng cách mặt đất chừng ba bốn mươi phân, rồi lấy tăng hoặc áo mưa quấn tròn xung quanh là thành cối. Có một lần, do trộn lẫn thuốc mìn C2 vào sắn khô giã làm bột chế nước chấm măng luộc, cả đơn vị bị ngộ độc miệng nôn trôn tháo và bất tỉnh, may có anh Tâm bị nhẹ điện cho y tế Trung Đoàn xuống cứu chữa kịp thời.
Dạo ấy, đơn vị cử tôi, Hiệp, Văn, Tỉnh, Hộ, Lộc … đi tham gia hội diễn văn nghệ của Trung Đoàn. Mất gần tháng trời luyện tập, xắp đến lượt biểu diễn thì nhận tin đơn vị gọi khẩn trương cắt đường tới tọa độ X…Y…để đánh địch nhảy dù lấn chiếm. Thế là đành bỏ dở hội diễn lên đường làm nhiệm vụ. Điểm tọa độ theo quy định thì đã tìm được mà địch thì chẳng thấy đâu. Lúc này mới biết đó chỉ là tình huống báo động giả.
Cũng thời gian này, ngoài nhiệm vụ tăng gia, chúng tôi được học tập, huấn luyện kỹ hơn về nghiệp vụ trinh sát, kế toán pháo binh. Do điều kiện chiến trường, chúng tôi phải chép tay tỷ mỷ bảng bắn Logarit, coi đó là cẩm nang, gia tài quý nhất cho nghề trinh sát pháo. Để rèn luyện kỹ năng, đơn vị thường tổ chức thi thời gian tính toán xác định tọa độ và phần tử bắn. Mỗi lần thi như thế, ai cũng phấn chấn và nhanh nhẹn khác thường. 
Lần khác, tôi cùng anh Tài, Chính trị viên phó đại đội đi làm nhiệm vụ. Sau khi lội qua bãi lầy nhung nhúc đỉa phía sau hậu cứ H3, xem bản đồ cắt rừng đi tiếp, tới khi trời xẩm tối thì anh Tài lên cơn sốt. Nhìn anh nằm đắp chăn rung võng mà tôi lo quá. Anh bảo tôi lấy thuốc nivaquyn và silanh ra tiêm vào mông cho anh. Nào tôi đã biết tiêm chọc gì. Anh bảo cứ bình tĩnh cầm thẳng silanh chọc dứt khóat vào mông anh. Tôi run quá lại ấn từ từ nên anh càng đau. Tôi lại rút kim tiêm ra, loay hoay một lúc rồi cũng tiêm xong. Nhờ mũi tiêm đó, sáng sau anh cắt sốt và chúng tôi lại lên đường. Thật tình cờ, năm 1977, anh Tài lên Cao Bằng điều tra lý lịch kết nạp đảng cho cậu Dư, may mắn thế nào lại gặp đúng tôi để hỏi nhà ông Bí thư chi bộ khu phố. Ông bí thư tên là Nông Văn Đàn, nguyên là cận vệ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời chống Pháp, ở ngay sau nhà tôi. Đúng là quả đất tròn và số phận người lính cứ quấn lấy nhau. Vài năm sau đó, theo chủ trương tăng cường cán bộ cho địa phương, anh Tài được về làm Bí thư huyện Đoàn Đăk Lây, Kon Tum. Giờ anh là chủ một đại lý sách báo tại Thành phố Hải Phòng.
 Cũng tại H3, một tin xấu đến với đơn vị, anh Thiều Đình Bảy, Đại đội phó đã hy sinh. Hôm ấy anh từ trên cao điểm gần 751 xuống núi một mình và bị bọn thám báo phục kích bắn trộm, anh chạy được một quãng thì gục xuống trong tư thế nằm xấp, đè lên túi đựng bản đồ trinh sát, một tay đặt vào bao súng ngắn như sẵn sàng chống trả. Sau khi bắn anh, bọn thám báo cũng bỏ chạy luôn, anh em trên núi chạy xuống thì anh đã tắt thở. Một bài học đau sót và kinh nghiệm xương máu cho đơn vị, vì đã chủ quan mất cảnh giác để anh Bảy đi một mình trong vùng chiến sự. Nhận tin đó tôi buồn lắm vì chính anh là người ra binh trạm T3 nhận chúng tôi về, anh đã dạy tôi nhưng kỹ năng cơ bản của người lính trinh sát trong chuyến đi trinh sát Play Cần hồi tháng 10 năm 1972. Nghĩ càng thương anh nhiều vì anh là cán bộ xông xáo, tài giỏi, luôn ở tuyến trước, ít khi có mặt ở hậu cứ. Tính anh trầm và ít nói, tôi thì chưa được biết kỹ về anh.
Có một chuyện tình cảm đặc biệt xảy ra giữa lính với lính. Ngay từ ngày mới vàò C17, chúng tôi thấy vài cặp đôi quấn quýt nhau như hai người khác giới. Những năm sau này, hiện tượng đó càng phổ biến. Nhất là đối với những người lính đã vào chiến trường lâu năm. Tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ rơi vào tình trạng khó xử đó. Nhưng rồi vào một ngày đầu năm 1973, tôi chợt nhận ra sự quan tâm và tình cảm khác thường của anh Tấn y tá quê Hoài Đức, Hà Tây giành cho tôi. Khi tôi ốm đau anh tỏ ra lo lắng và chăm sóc khác hẳn với người khác. Thế rồi anh lẳng lặng viết thư về gia đình tôi tận Cao Bằng để xin phép được coi tôi là người em kết nghĩa, thấy tôi thờ ơ, tránh né, anh rất buồn. Rồi tôi cũng quen dần với cách cư xử rất lạ của anh. Nhưng chính nhờ mối quan hệ đặc biệt ấy mà sau này chúng tôi vẫn thường xuyên liên lạc, thăm hỏi và giúp đỡ lẫn nhau. Hoàn cảnh gia đình anh Tấn rất khó khăn, thuộc diện hộ nghèo, anh lại đau ốm thường xuyên. Vài năm gần đây, kể từ ngày Hà Tây nhập vào Hà Nội, gia đình anh Tấn được đền bù kha khá do nhà nước thu hồi ruộng để quy hoạch xây đô thị mới. Có tiền, anh xây 2 cái nhà to đùng, cưới vợ gả chồng cho 3 đứa con, thế là anh đổi đời, khiến tôi vui lây. Bất giác tôi liên tưởng đến các cặp đôi khác, như Phồn -Thạch, Thế - Dư, Phán - Đức, Phương - Điền… Cũng may chiến tranh đã kết thúc, nếu không chuyện tế nhị ấy sẽ hành hạ những người lính đến bao giờ. 
            Đồng bào Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo vào trận địa
  10.   CHỐNG ĐỊCH LẤN CHIẾM 
Ở H3 được trọn một mùa rẫy, cuối năm đó, đơn vị lại di chuyển hậu cứ ra phía đông đường 14, cách Cống ba lỗ chừng mươi cây số . Nhiệm vụ của của đơn vị là vừa sản xuất, huấn luyện và tham gia chống địch lấn chiếm. So với hai hậu cứ trước, đất nơi này đến xấu hơn, toàn cây le và rừng nghèo tái sinh, tuy nhiên địa hình lại bằng phẳng, tiện đường xe pháo hơn. Rừng nơi đây ít thú hơn nhưng thỉnh thoảng vẫn có lợn rừng. Thợ săn Thế “cụt” quê Vĩnh Phú, tuy bị thương cụt ngón nảy cò nhưng với tài thiện xạ đã đôi lần bắn hạ được lợn rừng  hàng tạ về cho đơn vị, xứng đáng là “hậu duệ’” của xạ thủ Nhật đã được ra Bắc. 
Cũng tại đây, một số người vào chiến trường từ 67, 68 như các anh Đới, Sửu, Cường, Vạn, Thục…được ra bắc học sĩ quan, thay vào đó, đầu năm 1974,  C17 được bổ sung một số lính mới. Thật tình cờ và thú vị, số lính mới đó toàn dân Cao Bằng như Huấn, Trung, Quyết, Đức, Bình, Thanh, Dư, Thắng, Đức, Ngọc … Trong đó có Dư, Thắng, Đức là bạn học với Thiết em trai tôi. Gặp được đồng hương như gặp được quê hương, chỉ tiếc là không có lá thư nào của người thân vì không ai biết chúng tôi lại được gặp nhau giữa chiến trường bao la như thế này. Cùng thời gian này, Tiểu đội trưởng Nông Văn Bối quê Phong Châu, Trùng Khánh, Cao Bằng, nhận được thư nhà báo tin là gia đình đã cưới vợ cho nó theo phong tục địa phương. Cả đại đội vừa chúc mừng vừa trêu chọc, còn cậu ta thì chỉ biết khóc vì xấu hổ. Mới đây tôi nghe tin Bối đã mất tại vùng kinh tế mới Tây Nguyên, nhưng không biết ở tỉnh nào.
Sau Hiệp định Pa Ri, bọn địch thường xuyên vi phạm lệnh ngừng bắn, ngày nào chúng cũng bắn pháo và ném bom sang vùng giải phóng của ta tại khu vực Võ Định, Trí Đạo.  C17 được giao nhiệm vụ lập đài quan sát trên đỉnh 830, ngay sau lưng hậu cứ của đơn vị để theo dõi tình hình. Cậu Đức lính mới vào C17 đã tức cảnh thành thơ rằng: “ Đài chúng tôi trên đỉnh 830/ Có căn hầm dưới vòm lá xanh tươi/Có tiếng chim líu lo và ánh nắng/Có nụ cười của lính tuổi hai mươi.”
Thật vậy, đây là một vị trí quan trắc lý tưởng, cách nơi doanh trại chừng 30 phút. Những tán cây rừng che kín xung quanh, chỉ để lộ ra một khoảng không thoáng đãng trước mặt, đủ bao quát toàn bộ vùng Võ Định, Trí Đạo, Bãi Ủi và trục đường 14 tới tận Cống ba lỗ. Ngay dưới chòi canh của đài là một mạch nước ngầm trong mát, chảy ra từ dưới gốc một cây vả sai trĩu quả. Chính vì thế mà lũ khỉ thường xuyên về phá quấy ầm ĩ, nhưng chúng tôi không được bắn vì giữ bí mật cho đài quan sát.
 Vào một hôm, khoảng 9 giờ sáng, tôi cùng cậu Bình đang trực đài thì thấy 5 trực thăng HU1B quần đảo khác thường, một chiếc bất ngờ đổ quân xuống nương lúa cách đơn vị không xa. Tôi vừa dùng ống nhòm theo dõi mục tiêu vừa lệnh cho Bình điện ngay về cho đơn vị biết để đối phó. Ngay lập tức đại đội cử các mũi ra bao vây nương lúa, tiểu đội trưởng Trịnh Bá Quyền phát hiện một tên thám báo đang xem bản đồ, thấy động hắn giương khẩu M79 về phía Quyền. Nhanh như cắt, Quyền quỳ xuống bóp cò, loạt AK vút ra trúng tai bên phải tên địch, tên thám báo vứt súng ôm mặt chạy vào rừng được vài chục mét thì gục xuống, cả tiểu đội lao lên bắt sống. Bị tấn công bất ngờ, bọn còn lại bỏ chạy toán loạn, ta truy đuổi nhưng chỉ thu được 5 ba lô ngụy.
Tên thám báo được dẫn về đơn vị, nhốt xuống hầm sâu, canh gác cẩn thận. Qua giấy tờ được biết tên hắn là Phan Văn Hòa, quê Sài Gòn, đã 3 lần đột nhập vào vùng giải phóng chỉ điểm cho máy bay địch bắn phá. Trong ba lô của hắn có lá thư chưa kịp gửi về cho người thân báo tin đã vài lần đột nhập vào vùng giải phóng chỉ điểm cho máy bay và pháo kích bắn phá vùng giải phóng và đã được tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Tên thám báo cao chừng 1,75m, to lực lưỡng, đen thui và săm đầy mình hình những gái khỏa thân. Sau vài ngày khai thác không kết quả, đơn vị đề nghị trên xử lý. Hôm sau quân pháp cấp trên xuống, sau hơn một giờ tra hỏi không kết quả, các sĩ quan quân pháp chui lên khỏi hầm lắc đầu.
Xác định đây là đối tượng cực kỳ nguy hiểm, đã từng gây tổn thất không nhỏ cho quân ta, lại ngoan cố không chịu khai báo nên ngay hôm sau, cấp trên ra lệnh cho đơn vị thi hành án tử hình đối với tên thám báo đó. Bản án được anh Tâm “cối” thực hiện rất nhanh gọn, dứt khoát và đúng quy định của kỷ luật nhà binh. Đêm đó bom tọa độ A37 trùm lên đơn vị, nhưng do đề phòng trước nên mọi người đều bình an. Thời kỳ này bọn thám báo thường cải trang bộ đội ta, xâm nhập sâu vào vùng đóng quân của ta để nắm tình hình, chỉ điểm cho máy bay ném bom bắn phá. Có lần chúng giằng cướp súng của cảnh vệ Trung Đoàn tại một trạm gác khi bị ta phát hiện trả lời  không đúng mật khẩu. Từ đó, cứ vài ba hôm ta lại phải thay đổi mật khẩu một lần và việc ăn ở, đi lại hết sức bí mật.
             11.   NHỔ NỐT ĐẮC PÉT
Ngày 3/4/1974, sau một thời gian chuẩn bị, ta tấn công tiêu diệt địch ở Kon Rốc, cách thị xã Kon Tum khoảng 40 km về phía đông, trên đường đi Quảng Ngãi. Trong lần đi chiến dịch này, tôi bất ngờ gặp thày Minh, quê Hà Nam, chủ nhiệm lớp 10B của tôi, hóa ra thày nhập ngũ sau tôi 2 năm. Nhìn thầy gùi cái nồi quân dụng to đùng, dáng hơi ngượng ngùng, tôi thấy thương thầy quá. Chả lẽ chiến tranh đã đến mức phải huy động cả những người thày giáo cấp ba, của vùng biên ải vốn còn đang đói chữ ấy ra trận. Vì hành quân ngược chiều nhau nên tôi chỉ kịp hỏi thăm thày vài câu. Không biết bây giờ người thày giáo chủ nhiệm ấy ra sao, ở đâu mà mấy lần về Cao Bằng dự kỷ niệm trường tôi đều không gặp.
     Vừa tham gia đánh Kon Rốc về, chúng tôi được lệnh lên đường đi trinh sát chuẩn bị đánh Đắc Pét. Căn cứ Đắc Pét là một tiền đồn biên phòng nằm gần biên giới Lào - Việt, giáp với quận Ba Tơ tỉnh Quảng Ngãi và cách thị xã  Kontum 80 cây số theo đường chim bay về hướng tây bắc, do tiểu đoàn 88 Biệt Động Quân Biên Phòng án ngữ trên quốc lộ 14. Những năm trước quân ta cũng đã vây đánh cứ điểm này nhưng chưa nhổ được.
Tổ trinh sát của chúng tôi lần này có thêm Phúc kế toán và Thanh trinh sát người Thanh Hóa mới bổ sung về C17. Thanh là một chàng trai cao, trắng, đập bóng chuyền tốt nhất đại đội và vẽ cảnh đồ tuyệt vời. Xem Thanh vẽ cảnh đồ căn cứ Đắk Pét từ trên núi cao hơn ngàn mét, cách cứ điểm 4000m mà tôi ngỡ như đang xem một bức tranh thủy mặc. Một hôm đi trinh sát, quanh quẩn thế nào mà chúng tôi nằm giữa bãi chông của địch gài đã lâu, mỗi cây chông như một lá lúa sắc lẹm, n náu lẫn vào cỏ gianh rất khó phát hiện. May mà không ai việc gì, cả nhóm bình tĩnh và nhẹ nhàng thoát ra khỏi bãi chông một cách an toàn.
 Lần khác tôi được phân công tháp tùng thủ trưởng Thụy đi trinh sát, lúc này anh  đã là Chủ nhiệm trinh sát Pháo của E40. Trời thì nắng gay gắt, cỏ gianh sắc nhọn cọ rát ngứa khắp người, ở cự ly 800 mét, bằng mắt thường tôi nhìn rõ đồn Đắc Pét được bao bọc bởi cơ man lớp hàng rào kẽm gai. Trong đồn lính ngụy đi lại lố nhố. Thỉnh thoảng pháo địch lại bắn ra bất cứ nơi nào chúng nghi ngờ. Sau một ngày ém mình trên đồi gianh đo đạc, xác định tọa độ vị trí đồn địch và chọn trận địa pháo 85 ly của ta, đêm đó chúng tôi phải ngủ lại dưới một khe cạn um tùm lau lách. Tôi lên cơn thèm thuốc lá bèn châm lửa rít một hơi liền bị anh Thụy mắng và giải thích là hơi thuốc lá lạ có thể khiến bọn thám báo phát hiện nơi ta ẩn nấp. Lại thêm một bài học nữa cho nghề trinh sát. Cũng trong đợt chuẩn bị chiến trường đó, ở một hướng khác, nghe nói một chiến sĩ trinh sát của ta bị địch bắt, chúng cắt cổ mang về đồn lĩnh thưởng.
Trước khi ta nổ súng, một nhóm quay phim của Xưởng phim tài liệu Quân đội đã đến chụp ảnh và quay phim hầm chỉ huy của Trung đoàn. Tôi may mắn được có mặt trong sự kiện đó. Ảnh chụp có Chủ nhiệm Nguyễn Văn Thụy, trung đội trưởng kế toán Lê Xuân Hạnh và tôi, đang trong hầm chỉ huy  theo dõi căn cứ Đắc Pét qua khí tài quan trắc. Tiếc rằng tấm ảnh ấy đã bị cháy, khi  nhà tôi bị giặc đốt trong chiến tranh Biên giới tháng 2/1979.
Năm 2000 tôi có nhờ anh Hoa Đình Đạt, phóng viên quay phim Truyền hình Thanh niên, người đã từng quay cảnh Hạm đội Bảy của Mỹ bị pháo binh ta bắn cháy năm 1967, giúp tôi tìm lại thước phim quay trận Đăk Pét tháng 5/1974 đó. Năm 2002 anh Đạt mất vì nhiễm chất độc hóa học chiến trường, còn cuốn phim đó thì vẫn chưa thấy chiếu ở đâu cả. Có thể phóng viên đó đã hy sinh cùng thước phim về trận Đắc Pét.  
Đêm trước của chiến dịch, chúng tôi tham gia kéo pháo 85 ly vào trận địa chiếm lĩnh, chỉ cách đồn địch 800 mét, đúng nơi anh Thụy và tôi đã chọn vị trí tọa độ bữa trước.  Đang kéo pháo bỗng đèn dù của địch thả sáng rực trời. Tất cả rạp mình trên đồi gianh, tay ghì chặt giây kéo không cho pháo tuột xuống dốc. Cảnh tượng ấy, không khác gì kéo pháo vào Điện Biên năm xưa. Đèn dù tắt, tiếng hô hai…ba… nào… rất khẽ, đủ để mọi người cùng lúc gồng lên kéo căng sợi dây trong tay, cứ thế bánh pháo nhích từng ly vào trận địa. Thế rồi địch trong đồn bắn pháo ra, sau tiếng nổ đoành trên không, cách mặt đất chừng vài ba mét, hàng ngàn chiếc đinh ba phân có cánh tròn bay phầm phập về bốn phía. Cậu Đức quê Nà Phía, Cao Bằng mới vào chiến trường, bị mảnh găm vào đùi kêu khóc hoảng hốt. Là cán bộ tiểu đội, tôi phải cõng cậu ta về tuyến sau cho y tá Đoàn băng bó cứu chữa.
Đúng 5 giờ sáng ngày 15/5/1974, các trận địa pháo binh của ta đồng loạt nổ súng. Trận này, Trung đoàn 40 sử dụng 2 khẩu 122 ly, 1 khẩu 85 ly bắn gián tiếp; 2 khẩu DD74 và 1 khẩu 85 bắn trực tiếp ở cự lý 2000 mét và 800 mét, chi viện E66 và E3 bộ binh và một phân đội xe tăng của E 273. Do pháo ta bắn ở cự ly gần nên chính xác tuyệt đối. Đặc biệt bên cao xạ 37 ly đặt từ trên núi cao ngàn mét cũng chúc nòng bắn xuống cứ điểm chỉ cao 400 mét gây cho địch hoảng sợ kinh hoàng. Chỉ vài giờ chiến đấu, quân ta nhanh chóng làm chủ căn cứ, 400 tên địch bị tiêu diệt hoàn toàn.
Sau trận này về, tôi được Trung Đoàn tặng Bằng khen, được kết nạp  Đảng và được phong chức vụ Tiểu đội trưởng trinh sát. Anh Lưu Thế Tấn là đảng viên nhận trách nhiệm theo dõi, giới thiệu tôi vào Đảng. Hôm ấy, nhân tiện được truy lĩnh tiêu chuẩn đường và lạc sau vài tháng đi chiến dịch về, tôi nhờ cậu Bách anh nuôi nấu một nồi kẹo lạc khao toàn đơn vị.
Năm 1997, trong một lần đi khảo sát xây dựng tuyến đường Hồ Chí Minh, bằng chiếc xe Zép cũ kỹ của Tổng đội TNXP Trường Sơn, tôi có dịp từ Đà Nẵng ngược lên Thạnh Mỹ, Phước Sơn, vượt đèo Lò So sang Kon Tum, gặp lại căn cứ Đắc Pét xưa. Vài năm sau, đường Hồ Chí Minh khơi thông, Đắc Pét và thị trấn Đăk Lây nay đã thay da đổi thịt.


Cùng Tổng đội TNXP Trường Sơn, Đà Nẵng, Sông Đà khảo sát xây dựng Dự án đường Hồ chí Minh (đoạn Hiên – Thạch Mỹ, Quảng Nam)
12. ĐÁNH ÚP BAN MÊ THUỘT
Cuối tháng 11/1974, chúng tôi được lệnh hành quân về phía tây sông Pô Cô, mọi trang bị cá nhân và của toàn đơn vị phải mang đi hết, như vậy có nghĩa là không quay lại nơi này, còn đi đâu thì không được biết. Đêm hôm đó toàn Trung đoàn ngủ lại chân núi 830, gần Ple - Lăng - Lố - Kram, nơi những năm trước đây chúng tôi thường qua lại. Vài ngày sau chúng tôi mới được biết là hành quân sâu vào phía nam Tây Nguyên.
Tạm biệt chiến trường Kon Tum, nơi đã từng gắn bó với chúng tôi những năm dài đánh giặc. Tôi có ngờ đâu mãi 20 năm sau, năm 1992 tôi mới có dịp trở lại Đắk Tô, Tân Cảnh trong một chuyến đi công tác cùng Đoàn đại biểu của Ủy ban Thanh Thiếu nhi của Quốc hội. Rồi 12 năm sau nữa, năm 2004, tôi lại vào Kon Tum khảo sát xây dựng Làng Thanh niên lập nghiệp biên giới. Lần này tôi tìm đường ra sân bay Phượng Hoàng, bây giờ sân bay chỉ là một bãi thao trường luyện tập của bộ đội. Từ sân bay, tôi dễ dàng tìm thấy cao điểm 715 xưa. Đứng trên mảnh đất máu lửa năm xưa, tôi biết rằng, dưới những vạt rừng quanh đây, còn bao hài cốt chiến sĩ ta chưa được phát hiện, tìm kiếm.
Từ thị xã Kon Tum lên Đắc Tô - Tân Cảnh, cảnh vật đổi thay khá nhiều, khu vực Bãi Ủi, Võ Định, cống Ba lỗ, tranh chấp tan hoang ngày nào, nay nhà cửa san sát, rừng cà phê, cao su xanh bạt ngàn. Tôi chỉ còn nhận ra các cao điểm 751 và dãy Ngọc BBiêng xa mờ. Xã Diên Bình vẫn yên ả như xưa, thị trấn Tân Cảnh nhộn nhịp hàng quán và rất nhiều sâm Ngọc Linh “dởm”. Sân bay Đắc Tô giờ có một đơn vị thuộc Quân đoàn III đóng. Qua cầu Đắc Mót vẫn thấy cái nhà rông tại vị nguyên chỗ cũ, chỉ có điều mới hơn. Đường Hồ Chí Minh giai đoạn một đã làm xong tới Thị trấn Plây Cần. Tôi tranh thủ vào thắp hương nhà bia ghi danh các liệt sĩ. Khi ghé qua Tân Cảnh, tôi tranh thủ chụp hình bên chiếc xe tăng 377 anh hùng. Đợt đi đó, tôi chỉ đạo chọn khu vực vùng đệm vườn quốc gia Chư Mom Ray để đầu tư xây dựng Làng TNLN. Bây giờ nơi đó đã trở thành một nông trường cao su điển hình của Tổng đội TNXP tỉnh Kon Tum
Ngày hôm sau, toàn đơn vị lên xe cơ giới nhằm phía nam mà tiến. Trên đường đi, chúng tôi nhận thấy từng đoàn xe vận tải, xe tăng, xe kéo pháo các loại bám đuôi nhau hành quân trên con đường công binh mới mở. Những đoạn qua nơi trống trải, người ta dựng dàn như dàn mướp ngụy trang cho mặt đường. Rồi chúng tôi xuyên sang đất Lào, gặp cao nguyên A -Tô- Pư. Đêm ngủ lại dưới tán rừng cây khộp với mặt đất phủ đầy loại cỏ mịn vàng. Nằm võng ngắm trăng tròn giữa tháng, tôi thầm nghĩ, giá như nơi đây, sau này trở thành một nông trường thì tuyệt đẹp.
Lặng lẽ, bí mật hành quân chừng nửa tháng, chúng tôi dừng chân tại khu vực suối Đắk Đam, ranh giới giữa Việt Nam - Căm Pu Chia và đón tết 1975 ở đó. Đây là cái tết thứ tư tại chiến trường, đơn giản và chóng vánh. Nơi chúng tôi đóng quân là một khu rừng khộp bằng phẳng, xen kẽ những bụi le gầy và cỏ mịn, có đường ống dẫn dầu của ta đi qua. Một hôm máy bay địch ném bom trúng đường ống gây cháy dữ dội, cả đơn vị phải tham gia dập lửa. Sau tết chúng tôi lên đường đi trinh sát, trước khi đi, Trung đoàn trưởng Trương Tăng Thái trực tiếp gặp chúng tôi giao nhiệm vụ, yêu cầu bí mật tuyệt đối, đặc biệt không được mang theo thư tín, địa chỉ đơn vị, gia đình và quê hương.
Mục tiêu trinh sát đầu tiên là căn cứ Núi lửa - Đức Lập, sau chuyển sang khu vực sát phía tây thị xã Ban Mê Thuột. Cả tháng trời chúng tôi lặn lội xuyên rừng, leo trèo, bắc dàn đặt máy phương hướng bàn trên những ngọn cây cao nhất để giao hội vào từng mục tiêu. Rừng nơi đây khác hẳn với Kon Tum, bằng phẳng, toàn cây khộp và bụi le gầy, thi thoảng có một ngọn đồi thấp nhô lên với toàn đá đen xì. Thú rừng nhiều lắm, có hôm gặp cả đàn bò tót chạy ầm ầm, cả đôi chim công xòe đuôi múa rất đẹp, khiến chúng tôi ngẩn ngơ chiêm ngưỡng. Tây Nguyên đang mùa khô nên thật khắc nghiệt, có ngày đi cả buổi mới lấy được bi đông nước từ vũng nước đục ngàu in đầy dấu chân thú rừng, nhưng ở các khe suối cạn lại có rất nhiều cua đá và rùa vàng.
Quá trình làm nhiệm vụ, không ít lần chúng tôi gặp những tình huống khá bất ngờ. Một lần chúng tôi đang nghỉ trưa bóc lương khô ăn bên một khe cạn thì đột nhiên thấy đoàn xe “bò vàng” vào rừng khai thác gỗ. Tất cả lên đạn sẵn sàng vì sợ địch cải trang dân vào rừng dò la tin tức. Không thấy gì khả nghi và hình như họ cũng chưa nhìn thấy nên chúng tôi lặng lẽ tránh. Thế nhưng ở mũi trinh sát khác, vì hai bên đã trông thấy nhau nên quân ta buộc phải giữ dân lại để bảo đảm bí mật, sau chiến dịch mởi thả họ về.
Có một hôm, tôi đang vắt vẻo trên ngọn cây săng lẻ cao ngất, chờ anh em bên dưới buộc cành cây cưa sn vào dây dù để tôi kéo lên, làm dàn đo máy phương hướng bàn thì nghe tiếng sột soạt bên dưới. Tôi nhìn xuống thấy một đàn voi đi qua gốc cây mình trèo, trên lưng voi là những quản tượng đóng khố. Tôi nép mình vào cành lá nín thở, quan sát sợ rằng có thám báo đi cùng phát hiện ra thì hết đường chạy thoát. Rất may đoàn voi đi qua vô sự, chắc họ không thấy chúng tôi. Lúc xuống đất, tôi trách anh em tại sao không báo động cho tôi biết, mọi người chống chế rằng bất ngờ quá, mà cũng không biết bằng cách nào báo vì tôi ngồi trên cây cao quá. Thật hú vía bởi trước đây, C17 đã có hai trường hợp là anh Cách bị kẻ lạ tưởng là khỉ bắn chết và rơi từ trên cây xuống, rồi cậu Hoan bị trực thăng phát hiện bắn trúng khi đang tụt từ ngọn cây xuống hầm trú ẩn .
Trên đường trinh sát, chúng tôi nhiều lần phát hiện dấu hiệu bẻ cây đánh dấu khác thường của thám báo Ngụy. Gặp tình huống đó, chúng tôi nhanh chóng cắt đường để tránh tao ngộ chiến. Đánh nhau lúc này không phải là nhiệm vụ của trinh sát. Khó khăn nhất cho tác nghiệp lại là những hôm nhiều gió, phải ngồi hàng giờ trên ngọn cây, chờ lặng gió mới đo chính xác được vật chuẩn mà đồng đội dựng trên ngọn cây cách xa chừng bốn năm cây số. Khi giao hội vào một số chốt của địch ở Bản Đôn, tôi đâu có biết đó là một địa danh nuôi voi nổi tiếng của Tây Nguyên. Phải gần ba mươi năm sau, trong lần đi chỉ đạo xây dựng Làng Thanh niên lập nghiệp tại Ya Mơ, tôi mới có dịp được đến Bản Đôn, được cưỡi lên lưng voi nổi tiếng của cao nguyên hùng vĩ ấy.
Sau đợt trinh sát Ban Mê Thuột về, hai bộ tô châu mới của tôi đều tơi tả vì leo trèo trên ba chục cây khộp, một loài cây họ dầu, lá to, thân xù xì thô ráp. Tự kiểm điểm mức độ hoàn thành nhiệm vụ, tôi vô tư khai báo đã ăn quá tiêu chuẩn một bánh lương khô vì đói, thế là đại đội trưởng Vinh phê bình và đề nghị hạ cấp từ tặng bằng khen xuống giấy khen cho tôi 
Có một sự kiện động trời mà mãi sau này được ra Bắc tôi mới biết. Đó là chuyện bà chị con ông bác tôi, công tác ở một cơ quan  ở Trung ương kể lại. Một lần mở đài địch, tình cờ chị thấy chúng loan tin: “ Nguyễn Việt Phát, con ông Nguyễn Văn Sen, quê 32B Tam Trung, thị xã Cao Bằng…đã chiêu hồi chính phủ Quốc gia”. Nghe đi nghe lại biết là đúng em mình, chị liền viết thư lên Cao Bằng hỏi xem lâu nay mình có viết thư về không. Gia đình trả lời khá lâu rồi không thấy thư của tôi, chị càng lo lắng. Lúc đó ta chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột. Lục lại trí nhớ, tôi cho rằng, sở dĩ bọn địch biết tôi rõ như vậy, chắc là chúng nhặt được quyển bảng bắn Loogarit của tôi đánh rơi trong chuyến đi trinh sát Ban Mê Thuột. Và trong bìa bọc bằng ninol cuốn sổ ấy, có bản khai lý lịch xin vào Đảng, mà tôi vô tình không nhớ để cất đi chỗ khác trước khi ra trận. Thật may tôi trở về lành lặn, giả sử tôi mất tích ở đâu đó, chắc gia đình, họ hàng phải chịu oan suốt đời.
 Sau thời gian chuẩn bị, đêm 9 rạng ngày 10/3/1975 ta tiến công Ban Mê Thuột. Đêm đó chúng tôi hành quân sớm, dọc đường hành quân chúng tôi vừa đi vừa ngủ gật, hai mắt díu lại, sau mỗi lúc nghỉ giải lao, mọi người phải lay nhau dậy để đi tiếp. Để tránh lạc đường, chúng tôi đều dán một miếng lân tinh sau ba lô để người sau dễ nhận biết. 12 giờ đêm chúng tôi đến gần chân núi Chư Duê, cách Kho Mai Hắc Đế non cây số và ém mình vào khe cạn, gốc cây, bụi cỏ chờ giờ G. Tất cả chìm trong im lặng. Đúng 2 giờ 30 phút, pháo binh ta từ hướng sông Sê Rê Pốc bắn dồn dập, đạn pháo bay qua đầu chúng tôi sáng rực trời. Sau đó là xe tăng ta đồng loạt rồ máy, cán đổ những cây rừng mà công binh cưa sẵn một nửa để che mắt địch, bất ngờ ập vào căn cứ tổng kho Mai Hắc Đế.
Gần sáng, chúng tôi theo chân bộ binh lao lên chiếm đỉnh Chư Duê. Khi băng qua chiến hào của địch, tôi thấy xác địch ngổn ngang, có thằng chết mà chưa kịp nhắm mắt. Rồi chúng tôi nhanh chóng chọn nơi đặt máy quan trắc. Một mỏm đồi nhỏ, nhưng quá đông bộ đội nên cảnh tượng lố nhố. Bỗng bọn địch từ chân đồi dùng trọng liên 20 ly bắn lên, khiến mọi người bất ngờ và có phần hoảng loạn. Đơn vị bộ binh dưới chân đồi lập tức ào tới, xóa xổ ổ đề kháng đó của địch. Mặc dù có máy viễn vọng kính phóng đại 40 lần, nhưng bằng mắt thường, tôi thấy rõ xe tăng ta quay nòng pháo về phía sau húc đổ cổng kho Mai Hắc Đế, dẫn bộ binh ta xông lên, cảnh tượng giống như một cuốn phim.
 Đến gần trưa thì quân ta làm chủ khu kho Mai hắc Đế và vùng xung quanh. Máy bay địch lồng lộn thả bom bừa bãi, khiến bom rơi cả vào sở chỉ huy của địch. Cao xạ 37 ly của ta bắn trả quyết liệt hất chúng ra xa. Một số khu vực trong thị xã và sân bay Hòa Bình địch đang chống trả quyết liệt. Càng về trưa trời càng nắng gay gắt khiến mọi người khát khô miệng, đơn vị cử người xuống chân đồi chặt mía về cho anh em  giải khát.
Sáng hôm sau, tiếng súng đã im dần trong thị xã, tôi và một số anh em tìm đường vào trung tâm Sư đoàn 23 ngụy để thu chiến lợi phẩm. Sau khi băng qua ngã Sáu, vượt qua một loạt doanh trại xác địch còng queo, đen cháy ngổn ngang dọc đường, chúng tôi tìm được khu kho hậu cần. Lần đầu tiên được thấy một kho đường sữa khổng lồ như vậy, tôi dùng dao găm rạch một bao đường, hứng vào ba lô và nhét thêm hơn chục hộp sữa cho đầy. Khi ra cửa, thấy một đôi giày da sĩ quan mới bóng, tôi nhặt liền. Lúc này đơn vị đang tập kết tại một cánh rừng khộp ngoài khu kho Mai Hắc Đế, đề phòng Mỹ lại dùng B52 trải thảm hủy diệt như hồi đánh thị xã Kon Tum năm 1972.
Khi chúng tôi gùi lặc lè chiến lợi phẩm về tới nơi thì nhóm của Trung đội trưởng Lê Xuân Hạnh bắt được một tù binh giải về. Lúc đầu tên tù binh sợ ta bắn nên van xin liên tục và không chịu ăn uống gì. Sáng hôm sau đói quá hắn ngỏ ý xin ăn. Thấy chúng tôi đối xử tử tế, hắn bình tĩnh trở lại và khai là quê Sài Gòn, tên là Lê Gia Công, sinh viên đại học Luật năm thứ ba, mới đi lính nhưng được đeo lon trung úy và được phiên chế về đơn vị thám sát, chuyên chặn bắt sóng vô tuyến điện của ta. Nhận định tên tù binh này quan trọng, Đại trưởng Vinh trực tiếp lấy cung. Qua thẩm vấn, tên tù binh cho rằng đây chỉ là trận đánh nhỏ, vì theo mật mã chúng dịch được từ sóng điện vô tuyến thì Sư đoàn 316 và các đơn vị chủ lực của ta đang chuẩn bị đánh lớn ở Kon Tum và Play Cu, toàn bộ Sư đoàn 23 của chúng đã hành quân lên đó để ứng chiến. Tên tù binh còn nói nếu sư 23 ở nhà thì ta khó đánh nổi Ban Mê Thuột. Là người lính, chúng tôi đâu có biết mưu kế lừa địch của ta lúc đó mà chỉ lơ mơ biết rằng, trước khi hành quân vòng sang đất bạn áp sát Ban Mê Thuột, Trung Đoàn 40 có để lại một số đơn vị nhỏ nghi binh kiểu lập trận địa pháo giả, dùng bộc pháo nổ cầm chừng như mọi bận vậy thôi. Nhưng với hàng chục ngàn bộ đội, tăng pháo rầm rầm, chuẩn bị cả tháng trời đánh Ban Mê Thuột là vậy, mà kẻ địch không hề hay biết thì quả là quá tuyệt vời về công tác nghi binh và giữ bí mật.
Sau khi tên tù binh đã hoàn hồn, tỉnh táo, tôi tò mò hỏi nếu sau này hết chiến tranh thì làm gì. Hắn trả lời sẽ học tiếp trường luật và làm thương gia vì cả gia đình là thương gia. Tôi lại hỏi hắn biết gì về Miền Bắc XHCN. Hắn thận trọng trả lời rằng trong trường Luật cũng được nghiên cứu qua về chủ nghĩa cộng sản. Hắn cho rằng, mô hình ấy có nhiều điểm hay, nhưng nếu ông Máx có sống lại thì hắn ta sẵn sàng tranh luận rằng, nếu một xã hội không còn buôn bán, không còn tiền tệ thì xã hội không còn lý do tồn tại nữa. Tôi cũng chẳng dám tranh luận thêm vì thực ra mình có hiểu lắm đâu về vấn đề trìu tượng, to tát ấy. Mãi sau này, khi đất nước đã bước sang thời kỳ đổi mới, tôi mới có dịp nghiệm lại lời viên trung úy tù binh ngày ấy, thấy hắn nói có điểm có lý. Thế rồi tên tù binh đó được giao cho cấp trên, trước khi người của trên xuống áp giải anh ta đi, tôi còn tranh thủ dặn với rằng dọc đường không nên đối xử tệ với anh ta. Không biết số phận người tù binh ấy bây giờ ra sao.
Vài ngày sau, chúng tôi lên xe cơ động về Khánh Dương chuẩn bị đánh địch nhảy dù hòng tái chiếm Ban Mê Thuột. Trước khi đi, chúng tôi cứ ngỡ sẽ còn quay lại nơi này nên cất dấu lại khá nhiều thứ cho ba lô gọn nhẹ. Dọc đường gặp từng toán tàn quân ngụy quần áo xộc xệch, đói khát, kéo lê trên đường và xin ăn. Chúng tôi đành bớt khẩu phần lương khô của mình dành cho họ và dặn họ nên trở về gia đình, ra trình diện chính quyền cách mạng.
 Đánh địch đổ quân ở đèo Phượng Hoàng xong, cả Trung Đoàn hành tiến xuống Phan Rang đánh địch tháo chạy. Mũi của anh Tâm gọi pháo bắn vào Vịnh Cam ranh khiến tàu há mồm của địch không thể vào được bờ để bốc tàn binh. Ba ngày sau, toàn Trung Đoàn nhận lệnh quay trở lại Ban Mê Thuột để xuôi theo đường 14 tiến về Sài Gòn. Lúc này tin thắng trận khắp nơi dồn dập báo về. Cả Trung đoàn tạm trú quân trong một đồn điền cà phê ven đường 14. Mỗi thân cây cà phê cao vài ba mét, lá to, quả chín mọng đỏ au. Chúng tôi thi nhau vặt cà phê, đổ vào mũ sắt của ngụy dã nhừ vỏ, lấy hạt cho vào nồi quân dụng ninh nhừ như  nấu bánh trưng. Khi nồi cà phê đã chuyển màu đen, sền xệt, bỏ vài cân đường và sữa chiến lợi phẩm vào rồi dùng ca Mỹ múc ra húp xì xụp. Tối đó cả đơn vị trợn tròn mắt lên không tài nào ngủ được. Thì ra lúc này mới biết thế nào là cà phê Ban Mê Thuột, còn kiểu uống cà phê như thế chắc chỉ đời lính chúng tôi mới có.
Những năm sau này tôi có nhiều lần trở lại Đăk Lắc công tác. Có lần tôi nhờ anh em Tỉnh đoàn đưa tôi đến tận núi Chư Duê để nhớ lại cái ngày 10/3/1975 ấy. Tôi còn kể cho họ nghe câu chuyện về viên Trung úy tù binh tên Công cũng như chuyện dấu tạm 10 hộp sữa và đôi giày sĩ quan Mỹ đen bóng  dưới một gốc cây khộp to đùng ven khu kho Mai hắc Đế mà không có dịp quay lại lấy.
                 Xe tăng T54 tiến vào Kho Mai hắc    
        13. TIẾN VỀ SÀI GÒN
Ngày 26/3/1975, Quân Đoàn III được thành lập trên cơ sở đổi tên Binh đoàn Tây Nguyên. Sau khi được thành lập, cả Quân đoàn tăng, pháo rùng rùng hành quân giữa ban ngày dài hàng chục cây số mà không lo sợ máy bay địch bắn phá như những năm trước. Ngồi trên xe GMC lấy được của địch tại Ban Mê Thuột, tôi có cảm giác nâng nâng tự hào chiến thắng và thầm ước gía như có được chiếc máy ảnh hay máy quay phim để ghi lại những hình ảnh hoành tráng của quân ta lúc đó. Xe đưa chúng tôi qua Đức Lập, Gia Nghĩa, Bù Đốp, về Đồng Xoài và dừng chân ở khu vực rừng cao su Dầu Tiếng. Trên đường đi, chúng tôi được tin có một phi công ta, giả lính ngụy cướp máy bay địch, ném bom vào dinh Độc lập, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thoát chết nhưng tin đó làm nức lòng toàn quân.
Sau khi vượt sông Sài Gòn gần Bến Lức bằng phao bơi tự tạo, Trung đội trinh sát chúng tôi do Trung đội trưởng Lê Đình Điệt quê Thái Bình chỉ huy tìm đường tiến qua Hố Bò, vào gần Đồng Dù, Củ Chi. Để vào được khu vực vốn là vành đai trắng, “đất thép” này, chúng tôi phải nhờ du kích và giao liên địa phương dẫn đường. Cô du kích áo bà ba, quàng khăn rằn, nón tai bèo, vai đeo khẩu AR15 rất kiệm lời, thoăn thoát dẫn chúng tôi đi. Thỉnh thoảng cô mới quay đầu lại phía sau, nhắc chúng tôi phải đi đúng lối để tránh vướng mìn. Đường đi vòng vèo, lắt léo, vằn vện quanh những hố bom dày chi chít, cây cối lơ thơ, cỏ mỹ lút đầu, đồng hoang nắng gắt, khác hẳn với Tây Nguyên bao la ngút ngàn.
Tối hôm đó, chúng tôi được giao liên bố trí ng dưới địa đạo Củ Chi. Nửa đêm chúng tôi bò lên mặt đất trinh sát vùng xung quanh, chạm phải ruộng dưa hấu của dân, quả chỉ nhỏ bằng quả bưởi. Đang cơn khát, chúng tôi đành vặt vài quả ăn tạm, rồi chôn vỏ, xóa kỹ dấu vết. Bò tiếp một đoạn gặp miệng một hố bom to, dưới có tiếng bò thở phì phò, chúng tôi ném một hòn đất thử phản ứng, có tiếng người e hèm, không phải địch, chắc là dân vùng ráp gianh ra làm ăn, sau đó chúng tôi lặng lẽ lui quân.
Những ngày tiếp theo, chúng tôi vào sát căn cứ Đồng Dù hơn đề đo đạc các mục tiêu. Trước mắt chúng tôi là một căn cứ khổng lồ, giây kẽm gai dày đặc, nhà mái tôn trắng xóa, cột điện gỗ thông ngâm nhựa đường, dựng tua tủa và các tháp nước cao lênh khênh. Những khẩu pháo 175 ly với biệt danh “Vua chiến trường” ẩn náu dưới những ụ đất to đùng, thỉnh thoảng vươn cái nòng dài ngoẵng lên bắn ra vùng ráp gianh rồi di chuyển nhanh đi chỗ khác tránh pháo của ta. Xung quanh chúng tôi ngổn ngang xác xe tăng M48 đã vàng ố, hoen rỉ bị cỏ Mỹ phủ vùi, dấu tích của những trận chiến giữa du kích Củ Chi và sư đoàn 25 tia chớp nhiệt đới Mỹ trước đây để lại.
Ngày 29/4/1975 ta nổ súng đánh Đồng Dù, chúng tôi đang dựng đài quan sát trên mấy cây thấp cạnh bụi tầm vông thì máy bay địch bổ nhào xuống ném hai trái bom to đùng cách chúng tôi chng vài chục mét. Thật hú vía vì có kịp đào hầm hố gì đâu. Thế là vội đào hầm nhưng đất khô và rắn quá, cuối cùng chỉ đào được hố nông hoen hoẻn, đủ dấu được cái đầu. Gần trưa ta chiếm được Đồng Dù. Khi băng qua rừng cao su để vào thị trấn Củ Chi thì thấy các chiến sĩ đặc công của ta hy sinh nằm rải rác do bị bọn địch phục kích bất ngờ trong rừng cao su. Thật tiếc cho các anh vì đã đến gần ngày chiến thắng. Trong khi đó, toàn đội hình xe pháo của Trung đoàn, do Trung đoàn phó Nguyễn Văn Kính dẫn đầu, ngang nhiên đi qua một bốt của địch ở khu vực Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng mà không hay biết. Khi tới gần, nhìn thấy cờ ba sọc mới tá hỏa quay đầu. Cũng may bọn địch lúc đó cũng biết thân biết phận nên không dám nổ súng .
Nói về thủ trưởng Kính, người sĩ quan pháo binh được đào tạo bài bản, có mái đầu hói và thường đi đôi giầy sĩ quan đen bóng mang từ Liên Xô về để vào trận. Ông có một cuộc đời khá thăng trầm, quê Nghi Lộc Nghệ An, vào Nam từ 1967, sau 1975 lại sang Căm Pu Chia đánh Pôn Pốt, năm 1979 lại ngược lên biên giới phía Bắc cùng Quân đoàn III. Năm 1980 ông về hưu tại Thái nguyên, rồi chuyển gia đình vào Nha Trang, sau đó lại lên Đà Lạt và sống tới nay. Năm 2001 ông in cuốn “Một đời người, một chùm thơ” tặng bạn bè. Đọc thơ ông, dưới dạng nhật ký bằng thơ, tôi hiểu thêm về một người lính già trọn đời quân ngũ, đa tài, đa cảm, đa tình và đa quê. Mới rồi mọi người đồn ông vừa qua đời, nhưng rồi lại bảo không, chắc ông ốm nặng. Đã gần 40 năm tôi chưa được gặp lại ông, cầu mong ông sống thêm cùng gia đình, bạn bè và rừng thông Đà Lạt, nơi chắc rất hợp với tâm hồn đa cảm của ông.
Khí thế tiến công của ta như vũ bão, xe pháo và bộ đội tràn ngập thị trấn Củ Chi, Tân Phú Trung, Hóc Môn, Ngã Tư Bảy Hiền. Với đội hình hành tiến, nhiều khẩu pháo của ta được triển khai ngay trên mặt đường nhựa khiến các pháo thủ loay hoay tìm cách chốt, chèn bánh và càng pháo sao cho khi bắn không bị giật nảy lên. Bọn địch vẫn ngoan cố bắn trả từ các ngôi nhà cao tầng, hẻm phố. Tôi có cậu bạn cùng lớp, cùng phố, chơi với nhau từ nhỏ, tên Khìn, dân tộc Hoa, là pháo thủ Tiểu đoàn 11 bị dính đạn tại trung tâm Hóc Môn - Bà Điểm, may chỉ bị thương. Năm 1979, gia đình Khìn không về bên kia biên giới, vẫn sống bình thường ở Cao bằng, còn Khìn thì lấy vợ tận miền tây Nghệ An và sống luôn ở đó. Đã 37 năm rồi chúng tôi chưa gặp được nhau.
Trưa hôm sau, đúng 11 giờ 30 ngày 30/4/1975, chúng tôi được tin quân ta đã chiếm được dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Tất cả sung sướng ôm nhau nghẹn ngào mừng vui khôn tả. Hàng loạt tiểu liên AK nổ giòn vang mừng chiến thắng. Ngay chiều hôm đó, tôi cùng một số anh em trong đơn vị đã có mặt trong sân bay Tân Sơn Nhất để chuẩn bị đài quan sát trên tháp chỉ huy bay, sẵn sàng gọi pháo bắn diệt các ổ đề kháng của địch khi cần. Cả khu vực cổng sân bay ngổn ngang như một bãi chiến trường với cơ man quần áo, dày dép, ba lô, xe cộ, hòm tủ do người di tản vứt bỏ lại. Trên đường băng, nhiều máy bay các loại còn nguyên vẹn. Trong khu nhà kho cũng rất nhiều máy bay, thấy một chiếc máy bay nhỏ kiểu thể thao rất đẹp, tôi tìm cách trèo vào khoang lái tò mò tìm dù dưới ghế ngồi của phi công nhưng không thấy, sau đó vào một khu kho lớn tìm thực phẩm. Các thứ khác chúng tôi không dám đụng vào, vì kỷ luật quân đội hồi đó rất nghiêm.
Tấn công Đồng Dù, Củ Chi  29/4/1975
Và sân bay Tân Sơn Nhất 30/4/1975
        14. DÂN VẬN
Vài ngày sau, chúng tôi được lệnh quay về thị trấn Củ Chi và đóng quân tại Ấp Đông. Ngày đầu chúng tôi phải mắc võng nằm ngoài ngõ nhà dân, sau đó làm công tác dân vận, quét dọn sân ngõ sạch sẽ, trò chuyện và dạy hát cho các em nhỏ… dân hiểu dần rồi mời chúng tôi vào nhà ở. Tuy nhiên chỉ có các em nhỏ là vô tư lại gần chúng tôi, còn người lớn và nhất là các cô gái vẫn giữ một khoảng cách xa lạ. Sau khi quen thân rồi có cô   kể rằng rình bộ đội tắm để xem Việt cộng có đuôi hay không.
Dân vùng này đa phần có chồng con tham gia chính quyền ngụy. Một hôm, tôi đang ngồi kể chuyện miền Bắc cho gia đình chú Hai Thuấn nghe thì có một người đàn ông đeo kính râm, đội mũ phớt bước vào chào hỏi lễ phép. Thấy khách vào, gia đình chú Hai lảng ra để tôi tiếp chuyện. Người đàn ông chạc ba lăm, ăn nói phải phép và hiểu biết. Ông ta dò hỏi chúng tôi về chính sách của ta đối với vùng giải phóng. Sau khi khách lạ ra về, chú Hai mới nói với tôi rằng người đó là viên thiếu tá đặc vụ Ngụy. Tôi trách chú  không cho biết ngay, giờ biết đâu mà truy tìm hắn.
Nơi Trung đội tôi ở nhờ là nhà bà Hai cũng thuộc dạng gia đình theo “Chính phủ Quốc gia” thực sự. Hình ảnh đầu tiên mà chúng tôi bắt gặp khi vừa đến trọ là bàn thờ hương khói nghi ngút, hai bên là hai câu đối: Chồng về âm phủ ngàn thu biệt/Vợ con trần thế bội lòng thương. Vài hôm sau hàng xóm mới cho chúng tôi hay, chồng bà Năm vốn là công chức chính quyền ngụy quận Củ Chi và con rể đầu là sĩ quan ngụy, cả hai cha con sợ ta bắt trả thù đã bỏ chạy và bị trúng pháo chết hôm 29/4. Thảo nào, những ngày đầu gia đình im lặng, lạnh lùng đến khó hiểu và có ý xa lánh chúng tôi. Thế rồi, nhờ công tác dân vận, lâu dần giữa chúng tôi và gia đình đã trở thành thân quen. Cháu gái 13 tuổi tên là Bảy Hường, là con áp út của bà Hai, thân hình ốm eo, tóc tai đỏ quạch, cứ mỗi chiều đi chăn bò về là vứt vội cái nón te tua, chạy lại đòi tôi dạy hát. Tôi tận tình dạy cháu bài “Trông cây lại nhớ đến Người”. Hường có chất giọng tốt nên hội diễn năm đó của địa phương, cháu đã hát bài hát tôi dạy và được giải thưởng.
Tết năm đó chúng tôi đón xuân tại căn cứ Đồng Dù. Cái tết thứ năm của đời lính và là cái tết đầu của độc lập, tự do. Sáng mồng 2 tết, chúng tôi ra chúc tết các gia đình ở Củ Chi. Giữa nhà bà Hai, trước ban thờ và bàn ghế tiếp khách có một chậu hoa mai. Trên cành mai có nhiều tờ thiếp chúc mừng năm mới, chúng tôi không ai dám đụng vào. Cháu Hường nhanh nhn ra chào và đòi chúng tôi lì xì. Chúng tôi ngớ người nhìn nhau mà không biết lì xì là gì. Cháu phụng phịu đi vào trong. Bà Hai, sai cô Năm, lúc đó 19 tuổi ra mời chúng tôi uống nước, ăn bánh tét và hút thuốc. Cô Năm khá xinh, đầy đặn và khỏe mạnh. Mặc dù chúng tôi đã biết cô từ ngày mới giải phóng, nhưng hôm nay cô xuất hiện trong bộ áo quần thật mới và đẹp, má đỏ hây hây. Cô ngượng ngùng tiếp chúng tôi cho phải phép rồi vội lùi vào trong nhà. Bà Hai nhìn chúng tôi ý nhị và nói “Chú nào ưng thì má cho đó”. Bà nói vui vậy thôi chứ chúng tôi thừa biết rằng, giữa chúng tôi và gia đình bà lúc đó có khoảng cách rất lớn, cộng với kỷ luật quân đội cực nghiêm thì chuyện bà Hai nói sẽ mãi chỉ là nói cho vui mà thôi. Sau khi ra dân chúc tết về, anh em trong đơn vị kể cho nhau nghe tình huống khó xử khi các cháu bé đòi các chú bộ đội li xì, mà lúc đó chúng tôi làm gì đã có tiền. Lần sau ra chơi, chúng tôi được nghe kể cô Năm hôm ấy buồn lắm vì theo phong tục, nhà có con gái đến tuổi lấy chồng, trên cành mai ngày tết có những tờ thiệp để không, chàng trai nào có tình cảm hoặc tình ý với cô gái đó thì ghi vào tờ thiếp… Nghĩ lại, thấy hồi đó chúng tôi tồ quá. Nhưng rồi sau đó, có một chàng đẹp trai trong đơn vị chúng tôi đã thường xuyên lui tới gia đình cô Năm. Hai người quấn quýt nhau lắm, đến nỗi Chính trị viên trưởng Nguyễn Văn Tỵ và Đại đội trưởng Vinh phải yêu cầu tôi, với tư cách là cán bộ Trung đội nhắc nhở anh em thận trọng đừng để chuyện gì đáng tiếc xảy ra.
Những năm sau này, do điều kiện công tác nên tôi có nhiều dịp trở lại thăm gia đình bà Hai và bà con lối xóm ở Củ Chi. Bà Hai vẫn khỏe mạnh, vẫn ở trên mảnh đất cũ với ngôi nhà khang trang to đẹp hơn. Mỗi khi gặp tôi, bà vẫn nhắc đúng tên từng đứa chúng tôi như: Điền, Ý, Ngọc, Thế, Đức, Dư, Thắng, Bình… những chiến sĩ trinh sát pháo binh của C17 ngày ấy. Cô Năm và các cháu Bảy Hường, Út Trinh, Hai Thuấn ngày ấy nay đã thành bà nội, bà ngoại. Vài năm trước con gái út của cô Năm ra Hà Nội thực tập ngành du lịch đã ghé thăm gia đình tôi. Đó chính là kết quả công tác dân vận của bộ đội Cụ Hồ những năm đánh Mỹ, khiến một gia đình của “Chính phủ Quốc gia” như bà Hai mấy chục năm sau vẫn còn nhắc nhớ đến chúng tôi với tình cảm chân thành, quý trọng và không chút vụ lợi.
Tác giả (ngồi bên phải) tại Củ Chi sau 30/4/1975
15.   GẶP LẠI ĐỒNG ĐỘI
Thấm thoát gần 40 năm trôi qua, do hoàn cảnh của cuộc sống bộn bề, hơn sáu chục con người của Đại đội trinh sát C17 pháo binh Tây Nguyên ngày ấy và những đồng đội ngày đầu nhập ngũ với tôi vẫn chưa có được một lần gặp nhau đông đủ.
Năm nay, nhân sự kiện 40 năm giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh và 37 năm giải phóng Miền Nam, Trung đội trưởng trinh sát C17 mà ngày xưa chúng tôi quen gọi là Cường “liều”, ở Võng Xuyên, Sơn Tây, nay là một ông chủ xưởng mộc làm ăn khấm khá, nhận đăng cai. Hơn ba chục anh em xa gần về dự, đây là lần đông đủ nhất, mặc dù cũng chỉ được non nửa đại đội. Nhân dịp này, tôi gửi tặng mỗi đồng đội một cuốn bản thảo ghi chép về C17 những năm đánh Mỹ mà tôi cấp tốc viết trong vòng một tuần. Cuộc gặp mặt lần này có thêm vợ chồng anh Thiêm từ Sài Gòn và anh Thạch từ Gia Lai ra. Đặc biệt là sự có mặt lần đầu của Chính trị viên trưởng Vũ Văn Muống và Đại đội phó Bùi Minh Tâm sau nhiều năm bặt tin tức. Mặc dù 40 năm sau tôi và anh Muống mới gặp lại nhau nhưng chúng tôi đều nhận ra nhau ngay từ cái bắt tay đầu tiên. Anh bảo năm 1979 có vào nhà tôi ở thị xã Cao Bằng nhưng không gặp. Lúc đó anh cùng Quân đoàn III từ Căm Pu Chia hành quân cấp tốc ra chiến đấu trên đó.
 Tại buổi gặp mặt lần này, anh Bùi Minh Tâm bỗng trở thành tâm điểm chú ý bởi bộ quân phục sĩ quan cấp tá của người cháu cho nom rất chỉnh tề, nhưng anh để râu dài như bô lão ngày xưa và hàm răng chỉ còn vài chiếc nên nhiều người không nhận ra. Sau lời phát biểu ngắn gọn và đấy chất lính cụ Hồ, anh tếu táo chuyển tiết mục : Ngày xưa tôi thổi sáo ngang/ đến nay răng rụng tôi chuyển sang sáo này, rồi rút cây sáo dọc ra thổi bài “Ai yêu Miền Nam” rất hay. Chỉ có điều, cái chiến công binh vận ngày 27/1/1973 hồi đó của anh thì chỉ có chúng tôi biết và nhớ đến. Anh chưa có được một tấm huy chương nào về sự kiện ấy.
Cũng tại lần gặp gỡ đặc biệt này, anh Lê Việt Cường đã huy động toàn bộ gia đình, họ hàng và đội văn nghệ quê nhà đón tiếp chúng tôi rất nồng hậu và chu đáo. Qua một số anh lớn tuổi hơn, tôi còn được biết câu chuyện tình “kỳ ngộ” . Ngày ấy, Trung đội trưởng trinh sát Lê Việt Cường và một số đồng đội cùng trang lứa được cử ra Bắc học trường sĩ quan pháo binh 400 ở thị xã Sơn Tây. Với lợi thế gần nhà, Cường “liều” liền tính chuyện vợ con. Một cô gái đã lọt vào tầm ngắm của anh. Không ngần ngại dài dòng anh hỏi thẳng cô gái rằng có muốn làm vợ của anh không, 15 phút sau trả lời nhé. Cô gái ngỡ ngàng dù rằng “tình trong như đã mà ngoài còn e”. Trong ngày cưới, đến giờ cô dâu phải xuất hiện mà mọi người hốt hoảng chẳng thấy cô đâu. Hỏi ra mới hay cô sợ anh Cường chưa chắc thật lòng yêu cô, bởi cách ngỏ lời kỳ cục đó. Đám phù rể hôm đó toàn dân trinh sát C17, nhưng họ đều phải bái phục cách hỏi vợ đầy hiệu quả của Cường “liều”
Để có thêm thông tin cho cuốn sách này, tôi trở lại Cao Bằng gặp bạn bè cùng nhập ngũ và số đồng đội C17. Người tôi tìm đến đầu tiên là Hoàng Văn Thuật. Sau khi phục viên cuối 1976, Thuật được đi Bun học nghề, về nước Thuật vào cơ quan nhà nước rồi nhanh chóng bỏ ra làm ngoài. Nhờ ham tìm hiểu, giàu óc sáng tạo nên mọi chi tiết về cơ khí, phụ tùng ô tô máy móc cậu ta đều chế được nên khá nổi tiếng và có một cơ ngơi khang trang bên dòng sông Bằng thơ mộng. Nhưng đáng quý hơn cả ở Thuật là sống có nghĩa tình và trách nhiệm với đồng đội. Thấy tôi lên, Thuật bỏ cả khách hàng để đưa tôi đi khắp nơi tìm gặp đồng đội. Trước khi đi nhậu cùng bạn bè, Thuật không quên xuống hầm nhà moi lên bình rượu quý để đem theo.
Rồi chúng tôi kéo đến nhà Nguyễn Văn Đức, một con người vẻ ngoài thô ráp, nhưng nhẹ nhàng và đa cảm. Đức vào C17 đầu năm 1974, sau chuyển về thị đội thị xã Cao Bằng, rồi phục viên  chuyển sang lái xe kiếm sống. Tôi còn nhớ, sau ngày toàn thắng 30/4/1975, chúng tôi vào đóng quân tại căn cứ Đồng Dù, Củ Chi. Một hôm đến phiên tôi trực gác, ngồi trên chòi cao, nắng gắt, gió thôi hây hây, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, đại trưởng Vinh đi kiểm tra đã trèo lên lấy súng của tôi mang về. Sự kiện ấy đã trở thành đề tài hấp dẫn cho Đức viết tiểu phẩm kịch vui biểu diễn trước đơn vị... Trong lần gặp gỡ này, Đức trao tôi bản chép tay bài hát truyền thống của Trung đoàn pháo binh 40 anh hùng mà lâu nay tôi tìm mãi để đưa vào cuốn sách này. Sau nhiều năm làm nghề lái xe, nay Đức lui về trang trại, trong một khu đồi yên vắng ven dòng sông Hiến, đến nỗi buộc cô vợ chuyên gõ đầu trẻ của một trường trọng điểm trong Thành phố Cao Bằng, khi hết giờ cũng phải vào chăm lo đàn gia súc luôn nháo nhác inh ỏi ấy. Bận rộn là vậy nhưng Đức luôn hết mình vì đồng đội. Không lần nào họp mặt C17 ở Hà Nội, Thái nguyên, Hải Phòng… là thiếu Đức. Nhiều khi cậu ta vừa là người vận động, tổ chức kiêm luôn lái xe đưa anh em đi đến nơi về đến chốn.
Hôm tiếp tôi tại nhà Đức, em gái cậu ta trực tiếp cùng chồng vào bếp trổ tài chế các món ăn từ trang trại mang về. Khi nghe chúng tôi kể về thời hoa lửa, cô ấy bất ngờ kế rằng ngày trước mỗi khi nghe chiến thắng từ chiến trường là cô ta reo to và khóc. Nhiều khi sợ bạn bè bảo hâm nên cô ấy chạy ra bờ sông Bằng hét thật to và khóc cho đã. Cuối cùng cô ấy bảo rằng em thật tự hào về các anh. Nghe vậy, tôi thật ấm lòng và thầm nghĩ giá như những người lính chúng tôi được nghe nhiều hơn những tấm lòng chân thật ấy.
Tôi ngược lên Cao Bình, quê hương của huyền thoại Thạch Sanh đánh trăn tinh cứu công chúa và kinh đô 3 đời của nhà Mạc, tìm đến nhà Bùi Nguyên Văn, một trinh sát khá nhanh nhẹn trong tính toán xác định tọa độ. Có lẽ sau khi phục viên, duy nhất chỉ có Văn giữ được nghề đo đạc bản đồ và lên tới chức Đoàn trưởng điều tra quy hoạch rừng của Sở NNPTNT tỉnh Cao Bằng. Văn cũng mới xin nghỉ theo Nghị định 132 trước tuổi như tôi và quay về với ruộng sâu trâu nái. Thảo nào cả sân và trong nhà đầy thóc, cả người đẫm mồ hôi như thuở nương rẫy ở Tây Nguyên. Bữa cơm tiếp tôi Văn gọi cả 2 người em họ sát vách, cũng đều lính pháo binh 40 và lính Tây nguyên xưa. Cả Đàm Thanh mà ngày xưa chúng tôi gọi là Thanh “thầy cúng” bởi cậu ta phán trúng thời tiết trong nhiều lần đi trinh sát. Khi về hưu với lon Đại úy, Thanh nhiệt tâm dành phần còn lại cho công tác xã hội và chính quyền xã mấy chục năm qua.
Tuy không cùng C17, nhưng các bạn cùng trang lứa cùng nhập ngũ với tôi ngày ấy đều là lính của E40, trong đó có Vương Bá Hùng. Sau khi phục viên, chuyển ngành, cả tôi và Hùng được cử về Hà Nội đào tạo cơ bản. Tôi Cao Đẳng Thanh vận (Trường Đoàn Trung Ương), còn Hùng là cao đẳng Pháp lý, sau đổi thành Đại học Luật. Hai trường đối diện và cách nhau một con đường “đau khổ” như đường Trường Sơn. Vì vậy không tuần nào là chúng tôi không gặp nhau, chia nhau từng điếu thuốc, từng chút quà từ trên quê gửi về và cùng nhau lượn lờ xem Hà Nội trong ngày nghỉ học. Ra trường, tôi về Tỉnh Đoàn công tác, Hùng về Tòa án huyện rồi lên Tòa tỉnh và bây giờ nghỉ hưu thì mở văn phòng Luật sư Vương Hùng.
Theo đề nghị của tôi, Thuật đã đưa tôi đến thăm Việt, Vũ, Sơn, cũng  lính E40. Cả ba đứa đều là lính 14,5 ly, bị thương nặng trong chiến dịch xuân hè 1972 ở Kon Tum và phải ra Bắc ngay cuối năm đó. Nghe các bạn kể lại lúc bị thương và quá trình vượt Trường Sơn ra Bắc điều trị vết thương, tôi mới thấu hiểu thêm nỗi chuân chuyên của những đồng đội thiếu may mắn, không chỉ trong chiến tranh mà ngay cả trong thời bình.
Việt kể trong trận đánh phía Nam Kontum, khẩu đội 14,5 ly của Việt bị trúng bom, 3 đứa chết, còn lại bị thương cả, Việt bị khá nặng vào đầu, tay, chân dẫn đến teo cơ và phải cáng ra Bắc điều trị. Trong thời gian điều dưỡng, Việt đã học được nghề cắt may. Khi phục viên, Việt mở hiệu may kiếm sống, rồi lấy vợ, sinh con. Vợ Việt là cô bạn cùng phố và cùng học cấp II với tôi.
Còn Sơn thì bị địch phục kích, mặc dù đã bắn trả quyết liệt, diệt được một số tên nhưng vẫn bị đạn địch găm thẳng vào đùi, đứt động mạnh chủ nên bước thấp bước cao và tọp đi trông thấy. Bù lại Sơn giỏi tính toán, không sống nhờ bao cấp, lập doanh nghiệp xây dựng, tậu được khá nhiều nhà đất và sống đàng hoàng nhưng kín đáo, khiêm nhường. Vũ thì bị thương nhiều chỗ, nặng nhất là vào đầu, sống bằng nghề cửu vạn nặng nhọc. Vừa rồi các tổ chức hảo tâm hỗ trợ được 30 triệu để cậu ta xây một căn nhà cấp 4 nhỏ thó và nằm sâu trong mộ hẻm ngõ khó tìm. Ấy vậy mà Vũ cũng nuôi được hai con ăn học nên y\người…
Trở lại Cao Bằng lần này, tôi có ý tìm hiểu về hoàn cảnh hy sinh của Đinh Việt Trung, người bạn thân thiết mà tôi đã kể ở trên. Nhà Trung vẫn chỗ cũ, nhưng là một căn nhà  xập xệ, cũ nát, một ban thờ và di ảnh Trung mờ ảo, nguội lạnh và tạm bợ. Bố Trung vẫn còn sống với tuổi gần chín mươi, cụ nghẹn ngào không nói nên lời khi biết tôi từ xa đến thăm nhân dịp 65 năm kỷ niệm ngày 27/7. Gạt nhanh nỗi lòng trắc ẩn, tôi bảo cụ cho xem giấy báo tử của Trung thì mới vỡ ra rằng, Trung đã tới chiến trường, vào đơn vị bộ binh sư 10, tham gia trận Đắc Tô, Tân Cảnh và hy sinh ngày 29/4/1972, ngay cạnh đường 14. Hóa ra ngày đó chúng tôi rất gần nhau mà không biết, như vậy tin đồn Trung hy sinh do trúng B52 trên Trường Sơn là sai. Gần đây gia đình Trung mới biết được phần mộ và đưa hài cốt Trung từ Kon Tum về.
Mừng quá, tôi liền tìm đến nghĩa trang liệt sĩ Thanh Sơn để thăm viếng Trung. Một mình trong nghĩa trang hoang vắng,  nhưng không hiểu sao tôi lại nhanh chóng tìm được mộ Trung. Bất ngờ hơn, ngay cạnh mộ Trung lại là mộ Đàm Việt Hùng, cũng là bạn cùng phố, cùng nhập ngũ. Khi vào bộ đội Hùng được chọn đi huấn luyện thành cán bộ khung nên vào Nam sau tôi. Hùng là cán bộ một đơn vị bộ binh, trong trận truy đuổi địch chạy từ Tây Nguyên về đồng bằng, Hùng bắt sống được tên Chuẩn tướng ngụy tại sân bay Thành Sơn. Nó đánh rất hăng, nhiều chiến công nhưng không chịu làm báo cáo thành tích mà đơn vị xây dựng đề nghị phong Anh hùng. Thế rồi trong chiến tranh biên giới tháng 2/1979, Trung úy Đàm Việt Hùng đã ngã xuống ngay trên quê hương mình, tại mặt trận Hà Quảng. Sự gặp gỡ như xếp đặt của định mệnh sau 40 năm giữa tôi với hai người bạn ấy khiến tôi thao thức nhiều đêm
      
Bên mộ Trung và Hùng tại Cao Bằng
Sáu năm làm lính trinh sát pháo binh C17 giữa chiến trường mịt mùng khói lửa và bao la xanh của Tây Nguyên ngày ấy, nhiều khi cứ ngỡ chỉ như một sân trường thưở nào, khiến sui tôi gặp được khá nhiều người quen biết trên các cung đường ra trận. Đó là lần gặp thày Minh, chủ nhiệm lớp 10B của tôi, trong lần đi đánh Kon Rốc đầu năm 1974. Thày đi sau tôi hai năm, vào một đơn vị bộ binh của Trung đoàn 66. Thày trò gặp nhau giữa chiến trường là điều hiếm gặp. Sau ngày giải phóng, tôi nghe tin thày đã hy sinh. Nông Hòa, người Nà Cạn, lính trinh sát E66 mà tôi đã gặp trong lần đi trinh sát Đức Lập, Đắc Lắc tháng 2/1975, cùng đơn vị với thày Minh cho biết, một lần thày bị sốt rét, người ta đưa vào viện và không biết tin gì về người thày ấy nữa.
Lần đi hội diễn văn nghệ ở H3 đầu 1993, trên báo động có biệt kích thâm nhập, khiến chúng tôi phải bỏ hội diễn đi làm nhiệm vụ. Trên đường đi gặp Hiệp, người cùng phố, bạn học em trai tôi. Nhìn nó thất thểu, dặt dẹo, tôi đoán ngay là mới vào chiến trường, tôi san sẻ cho nó ít lương khô, đường sữa. Sau này phục viên, không hiểu vì sao nó có vẻ bất mãn, sống vật vờ, gia đình ly tán. Thấy vậy, anh em tôi tìm cách giúp nó có việc làm ở Hà Nội. Nhưng thời gian sau Hiệp bỏ về, rồi chết trong đơn côi, bệnh tật.
Trở lại Cao bằng gặp mặt đồng đội lần này, tôi được tin một số đồng đội đã mất. Trong đó có Công ở Cao Bình, Liên ở Thanh Sơn, Đàm Vượng ở Sở Văn hóa, Đàm Sáo ở Nà Cạn, Nông Văn Bối ở Trùng Khánh… Sự ra đi quá sớm của các bạn, tôi thầm nghĩ chắc có phần ảnh hưởng bởi những năm tháng chiến đấu gian khổ, ốm đau bệnh tật từ chiến trường xưa để lại.
                        16. LỜI TRI ÂN
Lịch sử cứ trôi dần vào miền sâu ký ức, nhạt nhòa theo tháng năm và tuổi tác. Hiện tại cứ ắp đầy những lo toan, bươn trải, cuốn người ta vào vòng quay của cuộc đời để tồn tại và sinh sôi. Còn tương lai dẫu lúc tỏ, lúc mờ nhưng vẫn vẫy gọi những niềm tin vào những điều tốt đẹp.
Mọi hy sinh mất mát đã, đang và sẽ tiếp tục được ghi nhận, đền đáp. Nhưng đời người lính là vô giá, không gì so sánh đánh đổi được, không thể đo đếm bằng sự được mất của đời thường. Chính vì thế, cái tình của người lính là thứ tình cảm bền bỉ, thủy chung và trong sáng nhất, mặc cho chuẩn mực đạo đức, lý tưởng và thước đo giá trị cuộc đời đang có nhiều đổi thay, băn khoăn trăn trở.
Với tôi, cả tập thể đại đội C17 trinh sát, những “đôi mắt” của pháo binh Tây Nguyên 40 năm về trước, với những đồng đội cùng nhập ngũ ngày xưa, tôi còn nhớ hoặc đã quên, họ còn sống hay đã mất, vất vả hay tản nhàn, là quan hay là dân, ở quê hay trên phố…đều đã trở thành một phần máu thịt của đời tôi. Những gì liên quan đến họ và tôi, trong những năm tháng đỏ trời đỏ đất ấy, sẽ mãi mãi không phai mờ trong tôi và trong đồng đội của tôi. Giá như một ngày nào đó, chúng tôi được gặp nhau đông đủ hơn, được cùng nhau trở lại chiến trường xưa để nhớ và thương về một thời hoa lửa ấy. Bởi vì, có một người lính của Tây Nguyên đã viết thế này:
“Tây Nguyên ơi ai một lần qua đó
 Sẽ trọn đời ta mãi nhớ thương nhau.”                                                                                                                                                                 
                                            Hà Nội, Tháng 8 năm 2012
                            Phần II
NGƯỢC THỜI GIAN
(Thơ)
                     Có một thời
                         Có một thời phượng đỏ sắc chia ly
Mẹ thầm khóc ngõ nghèo leo lét nhớ
Em thầm trao chiếc khăn thêu dang dở
Anh thầm yêu màu sim tím diệu kỳ

Có một thời chẳng toan tính nghĩ suy
Tiền tuyến gọi gói trống trường ra trận
Vở học trò lưu đầy tình thầy bạn
Nửa lớp đi để lại nửa lớp chờ…

Có một thời lòng tin lớn vô bờ
Sức trẻ nghiêng sông, khiêng rừng, vác núi
Đạp nắng mưa bom rền pháo dội
Ngực căng tràn  náo nức khúc hành quân

Có một thời giành nhau nỗi gian truân
Trước giờ G chung nhau từng hơi thuốc
Một đứa ngã cả chiến hào quặn thắt
Tan trận về không ai nỡ điểm danh

Có một thời dâng hiến trọn tuổi xuân
Đứa nằm lại vô danh và bất tử
Đứa trở về vinh quang và tất tả
Chỉ thầm mong sống xứng một kiếp người./.

                                                                            
Bãi khách Trường Sơn

Gậy trường Sơn đẩy trạm trước dần xa
Kìa bãi khách gốc cây rừng nhẵn bóng
Đồng đội trước để quên …nơi mắc võng
Cơn mơ chiều thấy bóng bạn vừa qua

Nối hai đầu của những chặng đường xa
Trăng lưỡi liềm soi cong ngàn cánh võng
Ru ta ngủ giữa Trường Sơn gió lộng
Mây giăng mùng cột võng thức trầm ngâm

Lệnh lên đường chúng tôi lại hành quân
Gấp mái nhà, ba lô, súng ống
Cuộn hai đầu nhớ thương vào cánh võng
Lại vô tình để quên chỗ dừng chân./.
                                                     T5 12/1972

                   Cánh võng trao tình 

Trên cánh võng mềm anh viết cho em
Lá thư đầu tiên của người ra trận
Trăng Trường Sơn rọi tình anh vương vấn
Sáng tên em dưới ngòi bút dạt dào

Ngọn gió đêm nay thổn thức ngọt ngào
Như mang cả bóng em vào trang giấy
Như mang cả màu má em đỏ dậy
Để bừng lên sức sống quân hành

Đường Trường Sơn đẹp tựa một bức tranh
Viết thư đêm trăng tên em thành nét vẽ
Tình yêu đầu giành cho em tuổi trẻ
Hóa diệu kỳ từ một lẽ nguyên sơ

Người lính nào ra trận chả ước mơ
Túi cóc trong tim căng đầy tình yêu dấu
Mỗi chằng đường nhẹ ba lô chiến đấu
Vơi làm sao kỷ niệm buổi lên đường

Ấp trang thư trong nỗi nhớ tận cùng
Anh thấy nóng căng lồng ngực trẻ
Có phải tên em từ trong thư bén rễ
Vào tim anh một tình yêu không phai

Tiếng gà rừng gọi thức một sớm mai
Trường Sơn quân đi ào ào gió thổi
Lại lên đường hành quân xa bận vội
Vẫn không quên một cánh võng trao tình./

                               Đôi mắt của Trường Sơn *
                                                      
Chợt gặp em trên đường ra trận
Giữa Trường Sơn ầm ào, tất bật
Vai em gầy, eo lượn, gùi cao
Gạo muối trên vai em tới chiến trường nào

Đời xông pha đâu dám mơ đến má đào
Chỉ tại em  hiện ra như cô Tấm
Thương em quá áo lưng ướt đẫm
Anh mơ làm ngọn gió hong khô

                          Em mỉm cười như cánh võng đung đưa
Khiến cả hàng quân rung rinh, xao động
Trường Sơn đang đi như sững lại
Nhìn em xa khuất… sau gùi

Anh nhận ra đôi mắt em trẻ hơn cả nụ cười
Như trao riêng anh một niềm tin rất lạ
Anh vội gói đôi mắt hình chiếc lá
Cất dấu vào túi cóc trái tim xuân

Cứ mỗi lần nhìn lên chiếc lá xanh
Anh thầm ước có một ngày gặp lại
Trả về em nụ cười thời con gái
Và đôi mắt hiền như chiêc lá của Trường Sơn./.


Mùa măng dậy
(Tặng Đội điều trị 25)

Em đi hái cái măng rừng
Cửa rừng lấp ló mấy tầng mây giăng
Mái rừng bát ngát màu xanh
Gió rừng đậu cả lên vành mũ xinh
Long lanh giữa buổi bình minh
Giọt sương chớp nhẹ vô tình hàng mi
Đường rừng đâu cũng lối đi
Ngàn hương hoa chụm thầm thì đón em
Đất rừng bỗng mở măng lên
Ngược em ngực đất căng dềnh hương đưa
Tay trần dãi nắng dầm mưa
Vẫn mười ngọn búp đón mùa măng trao
Tinh khôi giữa vỏ vây bao
Màu măng nhuốm cả xôn xao nắng hồng
Bóc áo măng má thẹn thùng
Nhẹ nương pha chút ngại ngùng đôi tay
Áo anh màu áo măng đây
Thoảng thương măng dậy nhớ ngày anh qua./.
                                                                                                              

Dưới hầm chữ A

Sáng ở hầm
đỉnh chốt hóa nên thơ
Mây ôm ấp bồng bềnh nôi trắng xóa
Mặt đất trụi trần trộn nhào chắp vá
Để lòng sâu chắc khỏe cánh tay rừng

Tối ở hầm
đèn dầu vắt sáng bừng
Bấc ống tiêm tạo từ đầu đạn lửa
Sức sáng tạo bật lò so điểm tựa
Soi lòng người lính giữ chốt ung dung

Đêm ở hầm
đỉnh chốt cứ rung rinh
Như buồng lái con tàu vũ trụ
Khi bom nổ đất trằn mình không ngủ
Chớp nhoằng không át nổi ánh sao trời

Từ hầm sâu những dáng đứng tuyệt vời
Những cánh tay của rừng vạm vỡ
Mặc trên ấy bom rơi đạn nổ
Từng vần thơ nhật ký vẫn sáng đèn.

                                                Bắc Kon Tum 1972             
                   
                                  Mắt của pháo
                          Vạch lá rừng chạm phải đẫm sương đêm
Bám phương vị tìm đường voi chiếm lĩnh
Vạc lưỡi dao vào rừng sâu yên tĩnh
Chấm bản đồ một nét nữa  luồn sâu.

Chỉ lặng thầm trao ánh mắt cho nhau
Trinh sát thuộc từng lối mòn con suối                                
Dẫu Chư Mom Ray mưa dầm mất lối
Ngọc Bờ Biêng chất độc trụi trơ đồi

Khênh lên cao bắn thẳng giữa lưng trời
Điểm giao hội nhằm lá cờ ba sọc
Pháo đối kính chỉnh hướng tầm gang tấc
Bàn đạc xoay đường đạn vút cầu vồng

Hầm chữ A đèn dầu vắt sáng bừng
Bom tọa độ pháo đài bay cũng mặc           
Cả tiểu đội xúm quanh bài “càn trọc” *
Đạn liều nguyên từng phát lập chiến công

Muỗi vắt nhiều máu lính nhạt khó đông
Sau trận đánh lại phát rừng làm rẫy
Tìm hạt gạo thay lương khô gạo sấy
Nóc nhà âm ấm lại khói Hoàng Cầm

B3 ơi ai qua đó một lần
Quên sao được những tháng ngày đánh Mỹ
Mắt của pháo là những người chiến sĩ
Trinh sát hiền như voi quý Tây Nguyên./.
                                                          
                      Đêm kéo pháo *
Trăm cánh tay
Gìm chặt một sợi dây
Gìm chặt lòng căm thù chực cháy
Tiếng hai…ba…lặn sâu vào tận đáy
Lồng ngực như trái đạn chờ bung
Phá nát đồn thù
Bánh pháo nhích từng ly
Chợt loé sáng đèn dù
Đồi gianh níu chân người rạp xuống
Môi mím chặt, tay gồng căng sức nóng
Vít giữ ngàn cân bằng chiến thắng ngày mai.
Hai…ba…nào…
Ta chung sức kề vai./.
       * Kỷ niệm trận Đăk Pét Tháng 5/1974

                Qua Hố Bò *
Hành quân qua xóm Hố Bò
Lạ chưa chỉ thấy xác xơ cỗi cằn
Vít vành mũ vải băn khoăn
Giật mình vội tránh vện vằn hố bom

Phút dừng chân bóc nắm cơm
Sạn rơi chạm những mảnh bom ố vàng
Nhìn quanh chẳng thấy xóm làng
Mênh mang chỉ thấy tan hoang ruộng vườn

Kia rồi một nếp nhà con
Nép mình dưới đáy hố bom sâu dày
Và tiếng bò ấm mê say
Vọng lên cũng ở sâu dày hố bom

Giật giành giẻ lúa cọng rơm
Hố Bò sống giữa hố bom quân thù
Xa xa pháo sáng Đồng Dù
Lóe lên rồi lại tối mù trong đêm

Pháo ta mai nhé gầm lên
Củ Chi đất thép trung kiên đợi chờ
Một đêm thức với Hố Bò
Thương dân chín đợi mười chờ tự do./.
                                       Kỷ niệm trận Đồng Dù 29/4/1975
                                                       
* Một địa danh gần Củ Chi

                        Trận đánh cuối cùng
                              (Tưởng nhớ các liệt sĩ trận Đồng dù 29/4/1975)

Trận đánh cuối cùng thần tốc lao nhanh
Lòng địa đạo từng đoàn quân bật nắp
Dàn pháo lớn gầm lên như sấm
Xích xe tăng cuộn tung cát đỏ trời

Sư Hai Lăm “Tia chớp” một thời*
Bỗng hoảng loạn rụng rời tháo chạy
Cầu Sáng, cầu Bông quân ta giăng bẫy
Cửa ô bung rộng đón cả quân đoàn

Không được đi tới  phút huy hoàng
Không thấy được năm cánh quân rợp đỏ
Anh ngã xuống trước cửa ô Thành phố
Hóa tượng đài chiến dịch sáng ngàn năm

Đất thép lại mềm khoai sắn lên xanh
Lòng địa đạo đón từng tua thăm viếng
Rừng cao su phủ Đồng Dù danh tiếng                      
Trận đánh cuối cùng còn nhắc mãi tên anh./.
                                                                                   29/4/2005
                       * Sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới" của Mỹ

Ngã ba hồng
                                     ( Kỷ niệm 40 năm ngày hy sinh của 10 nữ TNXP Đồng Lộc)
Em đi rồi
Mười nón trắng bay lên
Chở mười linh hồn rất trẻ
Chở mười lời thề lặng lẽ
Chở mười nụ hôn trinh nguyên

Hố bom thì to dáng em thì nhỏ
Lòng đất đón em như mẹ đón con về
Đường thông rồi xe lại nối đuôi xe
Để lại đằng sau Ngã ba nghẹn ngào thương nhớ

Những binh đoàn ngày đêm vẫn đi qua
Nhớ mười cánh tay em vẫy
Thương mười vành nón em nghiêng
Chỉ đồi sim tím mãi nỗi niềm riêng

Em chưa một lần yêu, chưa được một lần ghen
Và chưa một lần nói dối
Mười mái tóc đen giữa ngã ba đỏ bụi
Mơ khoả trần tắm gội giữa dòng La

Anh trở về xây lại ngã ba xưa
Mười nấm mồ xinh như mười nốt nhạc thanh tân
Tấu lên trời xanh khúc tráng ca bất tử
Mười liệt nữ TNXP bên cây đèn đỏ lửa
Soi ngàn năm huyền thoại Ngã ba Hồng

                                                 24/7/2007
     Hành trang hồng
                      (Cảm xúc khi đọc Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc)
Đọc tìm bạn qua từng trang nhật ký
Gặp lại mình năm tháng đã từng qua
Ký ức của một thời chiến sĩ
Hành trang hồng vượt muôn nẻo đường xa

Nhớ về một thời tuổi trẻ xông pha
Dép lốp mòn quai mưa dầm gió bấc
Miếng lương khô trộn canh toàn quốc*
Cất cao bài “Anh vẫn hành quân”

Nhật ký của bạn Hai mươi tuổi xuân
Hận mảnh đạn cắt ngang đời quân ngũ
Nhưng sao cắt được đời trai hoa lửa
Từng trang hồng như thể mãi hồi sinh

Nhật ký chúng mình một thời chiến chinh
Nhuộm triệu bông hồng bằng màu máu đỏ
Xin hãy truyền cho mai sau ngọn lửa
Tuổi hai mươi bất tử núi sông này./.
                                                         4/2005
       * Ý thơ Lê Đức Thọ          
                        Dòng sông đỏ*
Có một dòng sông
Năm tháng vẫn đầy vơi
Nhưng tháng Bảy lại đỏ trào nỗi nhớ
Sông thương ai mà lòng sâu nức nở
Hoa thẫn thờ trôi hương chưa cháy đã tàn

Có một dòng sông
Như dòng lệ ắp tràn
Mặn thắt thuyền ai xuôi ngược
Cát đáy sông trộn cốt hình non nước
Xin mang về xây thành cổ giữa lòng ta

Có một dòng sông
Đẫm vọng khúc tráng ca
Những nốt nhạc rơi vào lòng  tê buốt
Trời Thạch Hãn soi mặt sông man mác
Cỏ đôi bờ ướt lạnh nỗi…người ơi

Có một dòng sông
Như thế vẫn chảy xuôi
Nhận hết về mình bao lở bồi thác lũ
Để đêm ru những linh hồn không ngủ
Gió ngàn năm vỗ mãi khúc sông này./.
                                                        27/7/2007
                                  * Sông Thạch Hãn ở Quảng Trị

                Tìm tên cho anh
Tôi đi giữa những hàng bia mộ
Sao vẫn nhiều “liệt sĩ chưa biết tên” ?
Im lặng quá mà lòng như giông tố
Khói hương trầm xin  khấn những hồn thiêng

Mộ thẳng hàng tiểu đội vẫn tiến lên
Nhưng chẳng biết ai là A trưởng
Chẳng biết đâu quê cha đất tổ
Chỉ giống nhau ngôi sao đỏ trên đầu

Bao nghĩa trang mưa nắng dãi dầu
Bao hàng mộ khuyết danh khuyết quán
Cho nỗi đau trĩu lòng người thăm viếng
Cho tình thương chôn chặt ở chốn này

Tôi ước thầm mai này ở nơi đây
Không còn nữa mộ bia chưa tên tuổi*
Chỉ còn một cái tên chung bất tử
Tên anh là : Dáng đứng Việt Nam**./.
                                                                Quảng Trị tháng 7/2011
                      *Hiện còn 35 vạn liệt sĩ chưa xác định được tên tuổi
                      ** Thơ Lê Anh Xuân
Khóc bạn *
                                    
Thế là mày đã đi,
Để lại những tháng năm
Để lại những buồn, vui, lo toan, bươn trải
Để lại ngày xưa vai sần gianh, củi
Để lại đồi sim tím biếc tuổi học trò
Mày đã đi để lại trong tao một thời
Đồng đội thương nhau nơi chiến trường gian khổ
Ngọc Bờ Biêng máu mày nhuốm đỏ **
Chư Mom Ray - ngày sinh nhật tao - hai đứa suýt chẳng về...***
Mày đã đi mang theo cả những lời thề
Trước trận mở màn đánh Ban Mê Thuột
Trước cuộc hành quân về thành phố mang tên Bác
Dưới địa đạo Củ Chi chuân bị đánh Đồng Dù
Mày đã đi, để lại đáy ba lô những xấp thư tình
Để lại ngày xưa câu chuyện về  “cô hàng xóm”
Tao ghen với mày vì được cái ngày xưa ấy
Cả cái ngày tao trở về, không được như mày đi học chốn trời Tây ...
Nhưng phận mày lại lận đận đó đây
Bỏ kiếp tha hương trở về gần con gần vợ
Mày tần tảo đong cuộc đời duyên nợ
Vẫn ấm nồng bè bạn thuở hàn vi
Bây giờ thì mày đã đi xa
Vào cõi vĩnh hằng không còn biết lo biết sợ
Chỉ mang theo một ước mơ sau cùng, nho nhỏ
“Trái tim hồng chồng vợ chẳng lìa nhau”
Tao không khóc thành lời, nuốt nước mắt vào trong
Để  nhìn đài hoá thân đưa mày về cõi ấy
Hợp rồi tan sống chết là như vậy
Chốn trần ai thương quá một kiếp người.
Hãy yên bình cõi ấy
Hiệp ơi !                                      
                                           Đội Cấn đêm 23/10/2007
*Nguyễn Văn Hiệp là đồng hương, đồng đội mất vì ung thư 23/10/2007
** Hiệp bị thương trận Đắc Tô – Tân Cảnh 4/1972
*** Ngày 1/1/1973 hai đứa thoát chết sau trận bom chỉ điểm (7 người khác hy sinh)

 Anh nằm  nơi nao
Khi chưa cất tiếng chào đời
Lòng mẹ ấm áp là nơi anh nằm
Khi vừa đủ tháng đầy năm
Nôi tre chõng trúc trăng rằm ru anh
Khi vừa độ tuổi xuân xanh
Ru anh cánh võng khúc hành quân xa
Chiến trường lửa đạn xông pha
Trường Sơn đâu cũng là nhà của anh
Làng Vây, Lao Bảo, Khe Sanh
Nam Lào, đường Chín nỡ đành quên sao
Giờ anh nằm ở nơi nao
Rừng hoang hay giữa lao xao gió ngàn
Giữa vô danh gốc bạch đàn
Giữa mộ bia trắng xếp hàng đợi tên
Cầu mong anh được bình yên
Giữa lòng đất Mẹ tuổi tên đâu cần./.
                                                  Tháng 8.2011

Phượng đỏ ở Trường Sơn

Có một hè rực đỏ
Em dụi chút bụi đường
Làn môi hồng mím chặt
Mắt mọng trào nhớ thương

Nơi anh nằm gió sương
Rêu trơn mềm lối vắng
Em nhẹ hơn tia nắng
Sợ thức hồn cố nhân

Đường xưa nhão dấu chân
Đường nay nhoè trang viết
Những nấm mồ thân thiết
Nâng gót em tìm về

Em hay là mùa hè
Hoá anh thành phượng đỏ
Bừng một màu hoa lửa          
Rụng đầy trang thơ buồn./.

                               Nghĩa trang Trường Sơn, Hè 2005

Những nốt nhạc trầm

Bản nhạc của Trai - Cốp-xki
Hay nhạc của Bétôvel
Có hàng trăm nốt nhạc
Thành bản hòa tấu tuyệt vời
Để biểu diễn chỗ đông người
Và nơi có khán phòng lộng lẫy

Bản nhạc của đồng đội tôi
Có hàng ngàn nốt nhạc
Của hàng ngàn số phận
Từ hàng trăm miền quê
Những nốt nhạc như từng giọt thời gian
Xếp thẳng hàng không bao giờ hoen ố

Những nốt nhạc đỏ hồng như giọt máu
Chợt bừng lên trong ráng đỏ nắng chiều
Những nốt nhạc luyện từ lửa cháy
Thành từng viên xá lị của đời trai

Những nốt trầm bay cao tít trời mây
Tạc vào trời xanh một thời đáng nhớ
Để khuyên nhủ những ai toan tráo trở
Để ru người đừng quên điệu dân ca


Những nốt trầm trong hương khói cỏ hoa
Im lặng thẳng hàng một màu tinh khiết
Có phải các anh không bao giờ chết
 Khúc quân hành đọng mãi những đồi hoang./.
                                                                Tháng 7/2011

Về Quảng Trị


Đi gần cuối con đường huyền thoại
Gặp Đông Hà  đỏ nhuyễn trong mưa
Phố mới lấn chen rừng hoa dại
Nhà cao tầng lấp bãi bom xưa

Cờ Hiền Lương, đỏ triệu ước mơ
Sông Bến Hải, chở vòng hoa thương nhớ
Dốc Miếu dựng thành tượng đài bất tử
Vịnh Mốc sâu cất giữ kỷ nguyên hùng

Đường Chín cong như dáng hạc rồng
Sông ĐăkRông xuân vẫn tràn nhung nhớ
Khe Sanh thắm trời biên giới mở
Lao Bảo bừng phố núi gọi đời lên

Thị xã Đông Hà như lạ như quen
Nhà Cổ , phố Xưa, quán Phương Xa đợi
Sông Thạch Hãn vẫn đỏ lòng vẫy gọi
Thành cổ thiêng  nên ngọn cỏ rờn xanh

Làng Thanh niên em đến cùng anh
Đất thép Vĩnh Linh  nay thành tổ ấm*
Trường Sơn gọi hay tiếng người xưa dục
Quảng Trị anh hùng vẫn mãi tuổi Hai mươi

                                                        22/12/2006
*Làng Thanh niên lập nghiệp Tây Vĩnh Linh
Màu cờ đỏ cháy  
       (Kỷ niệm ngày vào Đảng 29/4/1974)

Ngày ấy chúng tôi đi đất nước cháy màu cờ
Tạm biệt bút nghiên những binh đoàn ra trận
Tuổi mười tám nghe tiếng “Tiền tuyến gọi”
Tiếng Bác Hồ và hai tiếng “Miền Nam”

Chúng tôi vượt Trường Sơn với sức trẻ bền gan
Mỗi cung đường một trang đời viết vội
Vách chiến hào cờ búa liềm đón đợi
Từng cánh tay lem luốc chắc lời thề

Đến với chúng tôi Đảng là những con người
Nhường áo xẻ cơm giữa chiến trường khói lửa
Là ước vọng non sông không còn chia cắt nữa
Là độc lập tự do chân lý sáng ngời

Đảng lại bên tôi những năm tháng  cuộc đời
Xuống biển lên rừng áo xanh tình nguyện
Đội ngũ xưa cùng nay hành tiến
Gió phong trào trẻ mãi tuổi hai mươi

37 năm qua có nước mắt và nụ cười
Đảng ngày ấy vẫn trong tôi son sắt
Nay được - mất dẫu chỉ trong gang tấc
Kỷ niệm xưa chẳng dễ  phai mờ./.
                                                       
                                                           Tháng 4/2007  

                          Ngược thời gian
Ngược thời gian
Gặp lại những con đường
Gặp lại những đoàn quân vẫn đi trong mây gió
Gặp lại những dấu chân của  một thời hoa đỏ
Gặp mộ bia hóa thạch giữa đất trời

Ngược thời gian
Gặp lại tuổi hai mươi
Gặp lại giấc mơ trên võng mềm mắc vội
Gặp lại trang thư tình bối rối
Gặp niềm tin son sắt đợi chờ 

Ngược thời gian
Sẽ gặp lại những lời thề
Nhọn và sắc như lưỡi lê bật sáng
Những mái đầu xanh bên mái đầu bạc trắng
Chung chiến hào không so tính thiệt hơn

Ngược thời gian
Vẫn gặp những nỗi đau thịt da
Nhưng không thấy nỗi buồn nhân thế
Đồng đội ơi  hãy quên đi dâu bể
Tựa vào ngày xưa hát mãi khúc quân hành./.                 
                                                      2012





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét