Nguyễn Văn Thạc
Mãi mãi tuổi hai mươi
Nhật kí liệt sĩ Nguyễn văn Thạc
Lời tựa của nhà thơ Đặng Vương Hưng
Tiểu Sử liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc
Đó
là người đã đoạt giải Nhất cuộc thi học sinh giỏi Văn lớp 10 toàn miền
Bắc năm học 1969-1970. Nguyên là sinh viên xuất sắc của khoa Toán – Cơ,
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, anh nhập ngũ cuối năm 1971, hy sinh tại
chiến trường Quảng Trị năm 1972, khi chưa đầy 10 tháng tuổi quân và 20
tuổi đời…
Người ấy là Nguyễn Văn Thạc!
Trong
khi sưu tầm “Những lá thư và nhật ký thời chiến Việt Nam” để phục vụ
cho việc biên soạn bộ sách cùng tên, tôi bất ngờ nhận được một tư liệu
qúy do ông Nguyễn Văn Thục - người anh trai của liệt sĩ, thay mặt gia
đình chuyển đến. Đó là hàng trăm lá thư, cùng cuốn nhật ký dày 240 trang
chép tay, của tác giả Nguyễn Văn Thạc mang tên “Chuyện đời” (trước khi
kính chuyển bản thảo tới Nhà xuất bản Thanh Niên, tôi đã đề nghị với gia
đình liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đổi tên là “Mãi mãi tuổi hai mươi”).
Điều
khiến ta không khỏi kinh ngạc là trong một số lá thư viết năm 1971 gởi
cho bạn gái, Nguyễn Văn Thạc đã tiên cảm được ngày 30-4-1975.
Đọc
những trang tư liệu trên, cuộc đời ngắn ngủi, nhưng đầy bi tráng của
một trong những thanh niên ưu tú nhất Hà Nội đã dần được hé mở…
Nguyễn
Văn Thạc sinh năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội trong một gia đình thợ thủ
công. Cha mẹ có xưởng dệt nhỏ, thuê người dệt áo len và áo sợi. Khi Mỹ
gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, cha mẹ cậu bé phải bán rẻ hết nhà
cửa, xưởng máy, để sơ tán về quê tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Hợp tác
xã không có việc làm, nhà lại đông con (Thạc là con thứ 10 trong 14 anh
em) tài sản gia đình nhanh chóng khánh kiệt. Bà mẹ Thạc phải đi cắt cỏ
bán lấy tiền ăn.
Nhà
nghèo, nên chú bé Thạc vừa đi học, vừa phải đi làm thêm giúp đỡ bố mẹ
nuôi sống gia đình. Bù lại, Thạc học rất giỏi. Suốt 10 năm học phổ
thông, cậu bé đều đạt loại học sinh A I (giỏi toàn diện). Năm lớp 7,
Thạc đạt giải Nhì (không có giả Nhất) học sinh giỏi Văn thành phố Hà
Nội.
Khi
gia đình đã sơ tán về quê ở Cổ Nhuế, Thạc học cấp III tại trường Yên
Hoà B. Hằng ngày, anh phải đi bộ 4 cây số đến trường học; ngày nghỉ, thì
đi bộ hàng chục cây số đến tận Thư viện Hà Nội để đọc sách. Vất vả,
nhưng Thạc thông minh nên giỏi đều tất cả các môn, anh đặc biệt có năng
khiếu về môn văn.
Năm lớp 10 (niên học 1969-1970), Nguyễn Văn Thạc đã đạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc.
Với
thành tích học tập kể trên, Thạc đã được Ban Tuyển sinh Hà Nội xếp vào
diện đi đào tạo tại Liên Xô. Nhưng theo chủ trương chung, phần lớn những
nam học sinh xuất sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội.
Trong
khi chờ gọi nhập ngũ, Thạc đã xin thi và đỗ vào Khoa Toán – Cơ của
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Vừa học năm thứ nhất, anh vừa tự học
thêm để hoàn thành chương trình năm thứ 2 và được nhà trường đồng ý cho
lên học thẳng năm thứ 3…
Nhưng
đó cũng là thời gian cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn
mới. Chiến trường miền Nam ngày càng gay go và ác liệt. Hàng ngàn SV các
trường đại học phải tạm ngừng việc học tập để bổ sung lực lượng chiến
đấu cho quân đội. Nguyễn Văn Thạc đã nhập ngũ ngày 6-9-1971...
Trong
một lá thư gởi cho gia đình đề ngày 19-9, Thạc viết “Đơn vị của con
toàn sinh viên và cán bộ giảng dạy. Hình như có cả một sư đoàn sinh viên
Trường Tổng hợp đi hơn 300 người, chia thành 3 đại đội. Con nghe nói
sắp lấy thêm một số nữa (khoảng 3 trung đội) ở trường và tháng 11-1971
lại tiếp tục thêm một đợt nữa…”.
(Một
chi tiết thú vị là: trong số 300 sinh viên của trường Tổng hợp Hà Nội
cùng nhập ngũ một đợt với Thạc có nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm. Sau này,
trong nhật ký của mình, nhiều đoạn Nguyễn Văn Thạc có ghi chép và nhắc
đến tác giả “Xúc xắc mùa thu”, với một tình cảm đặc biệt).
Họ
được cấp tốc đưa đi huấn luyện chiến sĩ mới… Đây là một đoạn thư Thạc
viết cho bố mẹ kể về gia đình người chủ nhà anh đã đóng quân tại xã Tân
Trung, huyện Tân Yên, tỉnh Hà Bắc cũ (nay thuộc tỉnh Bắc Giang):
“Sáu
đứa chúng con được phân vào một nhà. Gia đình chỉ có hai vợ chồng và
bốn đứa con nhỏ. Cháu lớn mới 7 tuổi. Khi chúng con vào nhà, các cháu đã
ngủ yên, anh chị ra đón và tất bật suốt đêm dọn chỗ. Sáng ra, anh chị ở
nhà dọn xuống nhà dưới, dành nhà trên, ba gian, cho sáu đứa chúng con.
Chị
chủ còn trẻ, 28 tuổi. Rất tốt vì thương chúng con. Chị cho 2 nải chuối
và rất nhiều lạc để ăn sáng. Con cũng không ngờ nổi rằng gia đình lại
phóng khoáng đến như vậy. Chúng con nhận luôn, và bảo nhau là: Sẽ trả
tiền bằng phương pháp riêng của bộ đội!
Anh
chủ khoảng 32 gì đó, là giáo viên cấp I. Ở đây có điều đặc biệt là
không uống chè, toàn nước đun sôi, giản dị và lành mạnh. Anh không biết
hút thuốc. Không có bàn thờ. Không kiêng cấm gì cả. Chúng con rất thích
thú.”.
Tháng 4-1972, đơn vị của Thạc cùng lên đoàn tàu quân sự vào chiến trường. Trong một trang nhật ký của mình, anh viết:
“Vừa
ao ước thế, vừa buồn vì mình đang ngồi ở đây, dưới trời mưa thanh thản,
rồi sắp lên tàu đến Mỏ Trạng, Yên Thế diễn tập. Nhưng ra ga, thì lính ồ
lên phấn khởi, đầu tàu hướng về phía Hà Nội – “Đi” rồi! Thế là nhất
định vào trong ấy. Vội vàng viết thư – Tàu qua Cửa Nam những cánh thư
trắng bay ào ạt xuống đường - Gửi hộ nhé, gửi hộ nhé – Báo cho những
người thân của chúng tôi rằng chúng tôi đã xa Hà Nội, lúc ấy là 12 giờ
trưa 9.4.1972”
Trang
thư viết vội khi Thạc ngồi trên chuyến tàu tròng trành lắc lư trên
đường hành quân ra trận hôm đó đã được một người dân Thủ đô nhật được,
nhiệt tình chuyển đến tận gia đình của Thạc.
Là
người giỏi Văn, nên Thạc viết thư cũng rất hay. Nhiều trang thư của anh
thực sự là những đoạn văn với những cảm nhận tinh tế về cuộc sống “Chân
bước trên rơm thơm, khó ai định liệu được mình còn ao ước cuộc sống nào
hơn thế nữa. Mặc dù hạnh phúc ấy mỏng manh như chính số người nhận ra
cảm xúc ấy là hạnh phúc của cuộc đời…”. Và “Cuộc sống của đất nước còn
lam lũ lắm. Đầu tắt mặt tối mà nào đâu có đủ miếng ăn. Rồi mất cắp. Rồi
đánh chửi nhau. Rồi thiên tai, địch hoạ. Cơm độn ngô rồi còn độn sắn.
Vậy mà những chiếc lá tre kia vẫn dịu dàng, vẫn đưa ta vào cõi êm ả của
tâm hồn. Thật lạ biết bao!”
Thạc
cũng là người viết rất nhiều thư. Anh tiết lộ, đã có thời gian “…Phải
nhờ bạn học cùng lớp viết thư trả lời. Có ngày tới 16 cái! Một kỷ lục
chưa có ai phá nổi. Có lẽ chỉ có Lépnít, nhà bác học cả đời viết hàng
vạn bức thư mới là địch thủ(!)”. Chỉ riêng một người bạn gái, trong 4
tháng anh viết cho cô tới… 500 trang thư, có thư dày tới… 54 trang!
Đọc
thư của Nguyễn Văn Thạc, ta không chỉ cảm nhận và khám phá được nhiều
điều thú vị về cuộc sống và xã hội miền Bắc nước ta những năm 1966-1972;
mà còn hiểu được đời sống, tâm tư, tình cảm của thế hệ thanh niên -
chiến sĩ thời đó. Hình như anh viết thư không chỉ là thông tin tình cảm
riêng cho bố mẹ, cho anh trai, hay cho bạn bè… mà còn ấp ủ những tư
tưởng và mơ ước lớn hơn nhiều. “Em muốn những trang thư là những dòng
suy nghĩ về đời, về người, về cuộc sống, về những chân lý mà bất kỳ ai
sống có trách nhiệm cũng phải suy nghĩ đến…” – Trong một lá thư gửi anh
trai của mình, Thạc đã viết như thế.
Đặc
biệt, trong một lá thư gởi người bạn gái thân thiết, Nguyễn Văn Thạc có
dự cảm kỳ lạ: “Bất kỳ một sự vinh quang nào cũng cần phải trả bằng một
giá. Và khó khăn gian khổ càng nhiều và thử thách càng nhiều, sự vinh
quang đó còn trở nên rực rỡ. Chúng ta đừng đi tìm những chân lý sâu xa
đơn thuần qua những áng văn và những bài thơ và bài toán.
30-4-1975,
T. sẽ trả lời cho P. câu: Hạnh phúc là gì?”… Bây giời, thì hầu hết
người dân Việt Nam và nhiều người khác trên thế giới mỗi khi nhắc đến
ngày 30 – 4 – 1975 đều hiểu đó là ngày gì! Nhưng xin qúi độc giả nhớ
cho: Nguễn Văn Thạc viết lá thư này từ ngày 18-9-1971, nghĩa là gần 4
năm sau mới tới ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30-4-1975…
Nhờ đâu mà lời hẹn với người bạn gái của anh như một sự tiên cảm kỳ
diệu vậy?
Đọc
lại những lá thư Nguyễn Văn Thạc viết cho người bạn gái, ta phát hiện
ra một điều thú vị: không chỉ một lần anh nhắc đến ngày 30-4-1975. Thậm
chí, trong một lá thư đề ngày 4-9-1971, Thạc còn “đính chính”: “Anh nhớ
nhầm rồi, Lan (tức Thạc - mật danh quy ước giữa hai người – Đ.V.H) bảo
ngày 30-4-1975 mới trả lời câu “hạnh phúc là gì” cơ mà, chứ có phải ngày
11-4-1975 đâu?”.
Ngày
2-10-1971, nghĩa là 28 ngày sau khi nhập ngũ, Nguyễn Văn Thạc đã ghi
những dòng nhật ký đầu tiên: “Nhiều lúc mình cũng không ngờ nổi rằng
mình đã đến đây. Không ngờ rằng trên mũ là một ngôi sao. Trên cổ áo là
quân hàm đỏ. Cuộc đời bộ đội đến với mình tự nhiên quá, bình thản quá và
cũng đột ngột quá”.
Cho
đến cuối tháng 5-1972, nghĩa là sau gần 7 tháng trời, vừa huấn luyện,
vừa hành quân vào mặt trận; mặc dù phải đi xa, đeo nặng, nhưng tranh thủ
những giờ nghỉ, ngày nghỉ, thức khuya, dậy sớm… anh đã viết được 240
trang sổ tay.
Vậy Nguyễn Văn Thạc đã viết những gì trong cuốn số nêu trên?
Đây quan niệm của anh về việc ghi nhật ký:
“Nếu
như người viết Nhật ký là viết cho mình, cho riêng mình đọc thì cuốn
Nhật ký đó sẽ chân thật nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất - Người ta sẽ
mạnh dạn ghi cả vào đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà sự thực họ có.
Nhưng nếu cuốn Nhật ký mà có thể có người xem nữa thì nó sẽ khác và khác
nhiều - Họ không dám nói thật, nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong
ngày, không dám nói hết và đúng những suy nghĩ đã nảy nở và thai nghén
trong lòng họ. Mà đó chính là điều tối kỵ khi viết Nhật ký – Nó sẽ dậy
cho người viết tự lừa dối ngòi bút của mình, tự lừa dối lương tâm của
mình – Tóm lại, tạo ra 2 con người.
Người
viết Nhật ký có rất nhiều phương pháp – Và mỗi người tuỳ theo ý thức và
sự quen thuộc của mình mà ghi chép. Có người chỉ thích viết ý nghĩ, có
người hoàn toàn ghi những sự kiện nhỏ nhặt hàng ngày – Còn mình, mình
không biết thế nào, có lẽ vừa ghi những sự kiện, vừa ghi những suy nghĩ -
Nhiều lúc cũng khó mà phân biệt đâu là suy nghĩ, đâu là sự kiện – Và sự
trộn lẫn ấy – là một điều rất qúi (…) Việc rút ra những ý nghĩa từ
trong hiện tượng ngay tức khắc có một tác dụng rất lớn lao – nó cho phép
người ta tìm thấy và nắm chắc bản chất sự vật và không sa vào cái vụn
vặt, không bị choáng trước những hình thức màu mè ở bên ngoài.
…
Vấn đề chủ yếu vẫn là anh viết Nhật ký để làm gì? Anh có lấy Nhật ký
làm người bạn đường nghiêm khắc và tốt bụng để đưa đường cho anh? Hay là
anh lấy Nhật ký làm đồ trang sức, làm một cái gì đó để khoe khoang. Hay
tệ hơn, làm một cái bồ để trút vào đó những lời than thở, những suy
nghĩ giả tạo, nhằm đắp điếm cho một con người giả tạo, sống rất tồi, rất
nghèo nàn mà cứ tưởng mình phong phú và bận rộn lắm với công việc hằng
ngày…”.
Và
Nguyễn Văn Thạc đã ghi chép rất kỹ những điều mắt thấy, tai nghe và cả
những điều anh cảm nhận được. Đó là chuyện về gia đình những người dân
nơi anh đóng quân, chuyện về những anh lính cùng đơn vị, về những cán bộ
chỉ huy tiểu đội, trung đội, trung đoàn… Có rất nhiều chuyện vui, nhưng
cũng có cả những chuyện buồn. “Không ai muốn cuộc đời mình phải buồn bã
cả, nhưng rất ít người trên đời này đạt được điều mình mong muốn. Mất
mát nhiều, nhưng cố gắng làm sao cho mình khỏi thất vọng, khỏi phải mất
nghị lực luôn hun cháy lòng mình. Đó mới là điều quan trọng” – Trong một
trang sổ tay, Thạc đã viết như thế.
Là
người học sinh giỏi văn, nên không hiếm những đoạn Thạc ghi nhật ký mà
như làm văn, với những cảm nhận tinh tế: “Mùa đông chưa về đến đây. Mình
yêu cái chuyển tiếp giữa hai mùa này, xốn xang trong lòng nhiều kỷ
niệm. Cây sầu đông chưa nở ra những mối sầu cho mình an ủi. Chùm quả
chín vàng lấm tấm trên tà áo xanh của bầu trời, nhắc mình nhớ vể cái ngõ
hẹp vào nhà. Ao cô Tơ còn mọc trên làn nước chùm hoa lau cho tụi con
trai đánh trận hay không? Mấy cây hồng bì, cây nhãn bên sân hàng xóm có
còn hay không, ngày trước, đấy là nơi tụi trẻ bán hàng và đám cưới; cái
dù vàng che cô dâu, chú rể, giờ tơi tả khắp bốn phương.
Kỷ
niệm càng dâng lên và trào ra như nước mắt. Sáng lạnh nhiều sương, gió
táp, cây trên đồi chắc là buốt lắm, nằm nghĩ về những người thân yêu mà
se thắt trái tim”.
Về
tác giả của “Xúc xắc mùa thu” nổi tiếng sau này, Nguyễn Văn Thạc có
những nhận xét thú vị, dự báo về một nhà thơ tài hoa trong tương lai:
“Cầm
(tức Hoàng Nhuận Cầm – Đ.V.H) viết được nhiều, quả thực ở nó có tài
năng, hay ít ra đó cũng là một khả năng tốt. Khanh bảo Cầm nó chăm lắm,
mặc dù sức khoẻ yếu. Mình nhớ dạo mới đi bộ đội, hay gặp Cầm lang thang
trong đêm. Có lần đi gác, Cầm nó ngủ ngay trên cái cầu xi măng bắc qua
sông Tô Lịch. Nó bảo nó nằm nhớ lại dĩ vãng xa xưa của nó ở Kinh đô, đôi
guốc mộc và cái quần chùng, hàn huyên với các sư huynh bên quán nước.
Kể
cũng lạ, ở nó có gì đáng học đâu, ngoài những ý sáng tạo trong thơ.
Cách sống của nó hơi ngang tàng và thiếu nghiêm túc. Nhưng vì sao nó nắm
bắt mạch thơ đúng thế. Tưởng như lời nào của nó cũng là thơ (!).
Giới
thiệu bài hát, nó bảo: mười con chim sơn ca nuôi trong cổ họng xin ca
nhạc phẩm “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây” nhạc của (…), lời Phạm Tiến
Duật. Nhạc Việt Nam được trộn pha ácjangtin … liến thoắng như cái máy
mà hấp dẫn. Lúc ấy, nó thật đáng yêu, và con người nó hoàn toàn là của
nghệ thuật.
Có
điều là những cái nó viết ra xanh xao lắm, và hơi trừu tượng, nó đèm
đẹp và trơn tru, nhẵn nhụi; Nó thiếu một sức ấm nóng lan toả. Có lẽ điều
đó không phải không đáng ngại.
Mình không muốn và không được đi theo con đường ấy - Cứ kiên trì, bình tĩnh và tích cực, mình sẽ làm được hết”…
Không chỉ có vậy, ở một trang khác, Nguyễn Văn Thạc đã thốt lên:
“Không
thể nào tin được Hoàng Nhuận Cầm lại có thể viết tốt hơn thế được. Nếu
như Cầm nó không thay đổi cuộc sống của nó - Thời gian lơ lửng trên hè
phố của nó quá nhiều, nó “trầm tư trên mái phố” quá nhiều đã tàn phá của
nó khá nhiều thiên tư văn học. Cầu mong đất nước đừng để rơi một khả
năng đáng quí – Nó sẽ chẳng bao giờ còn bê tha ở chợ Nhã Nam, mà cống
hiến những tháng ngày còn lại cho thơ”.
Đan
xen với những nhận xét giữa người và việc, là rất nhiều đoạn tự sự. Đó
là những trang viết mà Nguyễn Văn Thạc tự nhận xét và đánh giá chính bản
thân mình. Có những đoạn anh tự phê bình gay gắt: “Không nên yếu đuối,
không nên chùn bước, hãy cố gắng lên, nhất định sẽ vượt qua”.
Ảnh
hưởng chung của tập nhật ký là tinh thần lạc quan, sẵn sàng ra trận,
sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc của một thanh niên trí thức. Nhưng không thể
không nhắc đến điều này: Nếu ta đặt cương vị mình vào Nguyễn Văn Thạc -
một thủ khoa của cuộc thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc, mới thấy sức
ép tâm lý luôn đè nặng và ghê gớm tới mức nào! Không chỉ một lần anh lo
lắng tự hỏi: “Liệu mình có thể làm được gì, đóng góp được gì cho Văn
học chống Mỹ hay không? Biết bắt đầu từ đâu và đi theo con đường nào?
Làm sao có được một bàn tay dẫn dắt của người đi trước?”
Nguyễn
Văn Thạc luôn mơ ước khi ra trận mình sẽ làm được như Bôrit Pêlôvôi -
một nhà văn Liên Xô nổi tiếng với những tác phẩm viết về chiến tranh.
Anh sẽ thu thập thật nhiều vốn sống, để viết văn, làm thơ, ca ngợi những
con người đã hy sinh những gì quí giá nhất của riêng mình cho giai cấp,
cho dân tộc.
Có
thể không nói quá rằng: Thần tượng của Nguyễn Văn Thạc trước khi ra
trận chính là nhà thơ trẻ Phạm Tiến Duật trên tuyến đường Trường Sơn.
Thạc luôn mơ ước mình cũng sẽ làm được như thế và hơn thế! Nhưng giữa mơ
ước và hiện thực luôn là một khoảng cách rất xa, mà không phải ai cũng
có thể vượt qua!
Bởi
thế, đã có những lúc thạc bi quan: "Kể ra, bây giờ giờ mà chết thì chật
đáng tiếc. Những ngày còn bé, những lúc đi học chẳng bao giờ phải phiền
toái đến chuyện đó cả, chỉ miên man với tương lai anh sẽ làm gì và sống
ra sao. Nhưng bây giờ, những ý nghĩ đó mọc ra.
Khó
gì đâu - cái chết - chỉ một viện đạn lạc hay một hơi bom. - Sự thật bi
đát đó không trừ một ai cả” Thậm chí, đã có những giây phút, Thạc lâm
vào trạng thái rời rã, chán nản và thất vọng đến cùng cực. Có một trang
sổ tay Thạc viết bằng bút chì.Viết xong, anh liền gạch chéo và xóa đi.
Đọc lại, ta có thể cảm nhận được tâm trạng rối bời, khổ đau đến tột độ
của người viết:
"Phải
hết sức trấn tĩnh, tôi mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật ký này.
Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như
ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích
được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lý do và lung tung. Còn tôi, rời rã tôi
chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi
hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức đang ở
giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đời là một điều xấu xa
và không thể nào tưởng tượng được - Người đã chửi rủa biết bao lần
những thanh niên như thế - Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi
đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường mòn - Con
đường mòn như chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây - Tôi ngồi bệt
xuống bờ sông, con sông cạn đang rúc nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới
lòng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn
khóc, khóc với dòng sông. Không, chẳng có ai có thể đem lại cho tôi được
chút gì niềm an ủi hay vui sướng cả. Mọi người không hiểu được tôi, mọi
người gắt gỏng với tôi. Trời ơi, giá lúc này tôi có chế chết ngay đi
được. Có thể quên hết nỗi phiền muộn và sầu não ngập tràn cả hồn tôi thì
sung sướng biết bao…”
Nhưng
đó chính là suy nghĩ rất thật của một chàng trai sống thiên về nội tâm,
luôn nhạy cảm. Xin đừng ai vội kết tội anh là hèn nhát, là xấu xa. Bởi
anh cũng là một con người, với bao cảm xúc buồn vui và tình yêu không
bao giờ vơi cạn. Điều quan trọng là anh đã biết vượt lên, đã tiếp tục
chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng và hy sinh ngay tại mặt trận!
Xin
hãy đọc kỹ đoạn cuối củng của cuốn sổ nêu trên, mới thấy hết được tâm
trạng vừa hồi hộp, háo hức vừa trống trải và bí ẩn của người lính trẻ
khi biết mình sắp bước vào cõi chết mà vẫn bình thản đến bi hùng:
"Và
bây giờ, tạm biệt cuốn Nhật ký đầu tiên của đời lính. Không kịp xem lại
một lần. Không kịp chữa những âm bằng âm trắc trong cấu trúc một câu
văn vội vàng và bụi bặm...
Ngày
mai, ngày kia... Phải để lại tất cả ở đằng sau. Tôi không thể để cho ai
đọc những dòng suy nghĩ này. Trừ khi tôi không còn sống mà gìn giữ
nữa...
...Kẻ
thù không cho tôi ở lại. Phải đi. Tôi sẽ gửi về cuốn nhật ký này, khi
nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã
trải qua từ khi xa nó, xa cuốn nhật ký thân yêu của đời lính.
Ừ,
nếu như tôi không trở lại, ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau này?
Tôi chỉ ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ
toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như
những trang giấy này.
Một ngày cuối tháng 5-1972, Hà Tĩnh
Anh lính binh nhì”
Có
thể coi những trang nhật ký “Chuyện đời” là một cuộc trải nghiệm thực
tiễn vô cùng gian khổ, nhiều hy sinh, nhưng lại đầy mê say và hấp dẫn
của một thanh niên trí thức Hà Nội, trong những năm đầu thập niên 70 của
thế kỷ trước.
Trong
nhật ký của mình, Nguyễn Văn Thạc đã nhiều lần nhắc đến những cái tên
viết tắt: P., N.A, hoặc N. Anh... Tất cả đều chỉ chung một người: Phạm
Thị Như Anh - cô bạn gái thân thiết nhất của anh. Đây là "nhân vật" xuất
hiện nhiều nhất, được tác giả viết bằng một tình cảm đặc biệt và thường
được coi như cái cớ, như nguồn cảm hứng bất tận để anh bộc bạch mọi
buồn vui. (Trong cuốn sách này, chúng tôi giữ nguyên tắc: Tôn trọng tối
đa văn bản chính.Từ cách diễn đạt và câu chữ thường dùng của người viết
đến những từ ngữ địa phương, thậm chí cả cách viết tắt, thói quen dùng
dấu gạch nối (-), hay gạch chéo (/), hoặc chấm (.) giữa các chữ số khi
đề ngày tháng trong nhật ký,... đều cố gắng giữ nguyên. Riêng các chừ
N.A, A., N.Anh, NA - được sự đồng ý của TS. Phạm Thị Như Anh và để thuận
tiện cho bạn đọc tiếp cận cuốn sách, chúng tôi viết rõ thành Như Anh –
Ghi chú của NXB)
Vậy
Phạm Thị Như Anh là ai? Chị là con gái của luật sư nổi tiếng Phạm Thành
Vinh (nguyên chủ tịch Hội Sinh viên Đông Dương, nguyên Chánh Văn phòng
Bộ Quốc phòng); cháu ngoại của cụ Hồ Đắc Điềm (nguyên Chủ tịch Hội Luật
gia Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch đầu tiên của Uỷ ban Hành chính Thủ đô
Hà Nội, anh ruột của GS.TS Hồ Đắc Di).
Phạm
Thị Như Anh kém Nguyễn Văn Thạc một tuổi, học sau một lớp cùng trường
cấp III Yên Hòa B và cùng là học sinh giỏi Văn của Hà Nội. Họ quen nhau
trong một buổi liên hoan họp mặt các học sinh giỏi Văn của Thủ đô vào
tháng 4-1971. Đôi lần hẹn gặp tại phòng đọc của Thư viện Hà Nội. Hai
người đều thích cuốn sách "Bàn về hạnh phúc thanh niên" của Nguy Nguy.
Ngay trong trang đầu tiên của cuốn sách này, (hiện gia đình còn lưu giữ
được), có bút tích của Thạc viết: "Bạn Phạm Như Anh, có nhớ ngày 30-4-
1971?”.
Đó
là ngày họ gặp nhau, với kỷ niệm đẹp và lời hẹn ước không quên: Bốn năm
sau sẽ trả lời chính xác câu "hạnh phúc là gì" Trong đêm chia tay trước
ngày đi xa, (Thạc vào bộ đội, ra trận, còn Như Anh đi du học tại Liên
Xô) hai người cùng đạp xe lên dạo tại Hồ Tây...Theo chị Như Anh nhớ lại
thì trong khoảng 4 tháng trời quen biết, tổng cộng thời gian anh chị gặp
nhau 5 lần, với khoảng 20 giờ đồng hồ. Nhưng chừng đó cũng đủ để hình
bóng họ không bao giờ phai mờ trong nhau.
Trong
thư và nhật ký, khi nhớ tới Như Anh, Thạc thường nhắc nhiều và ấn tượng
nhất là chiếc áo màu xanh da trời chị hay mặc. (Trời xanh thì ai nhìn
cũng thấy, ngỡ như rất gần mà không thể nào với tới được!). Thạc cũng có
một chiếc áo màu xanh y như thế. Sau này, anh đã đề nghị chị Như Anh
hãy cất giữ chiếc áo đó làm kỷ niệm, để nhớ mãi những ngày xa nhau...
Ngồi
kể lại cho tôi nghe những kỷ niệm của hơn 30 năm về trước, chị Như Anh
đã không cầm được nước mắt. Đó là những giọt lệ hiếm hoi của một người
phụ nữ đã ngoài năm mươi, từng trải và cứng rắn. Hiện TS. Phạm Thị Như
Anh đang cùng gia đình định cư tại nước ngoài. Là một doanh nhân thành
đạt, chủ một công viên mang tên "Chín con rồng” nổi tiếng của người Việt
Nam tại vùng Hannover của CHLB Đức, chị đã từng được báo Lao Động dành
cả trang giới thiệu trong số Tết Nguyên Đán Ất Dậu, với bài "Hồn Việt
giữa lòng châu âu”.
-
Với tôi, những kỷ niệm về Nguyên Văn Thạc gắn liền với tuổi trẻ trong
sáng, lãng mạn và quãng đời đẹp nhất của thời con gái - TS. Phạm Thị Như
Anh tâm sự - Đã có cả một thế hệ thanh niên sinh viên Hà Nội, những
người con ưu tú nhất của Thủ đô ngày ấy, từ trường đại học cầm súng bước
thẳng ra mặt trận, nhiều người đã ngã xuống và không trở về.
Có
lẽ bởi thế, TS. Phạm Thị Như Anh luôn coi gần một ngàn trang thư mà
Nguyên Văn Thạc đã viết cho chị, cùng cuốn sổ ghi nhật ký bìa bọc
ni-lông màu xanh da trời như những kỷ vật vô giá. Những trang giấy mỏng
manh đã ố vàng vì thời gian ấy, càng trở nên thiêng liêng hơn kể từ sau
ngày chị nhận được tin anh hy sinh tại chiến trường Quảng Trị...
Trong
một trận đánh ác liệt bên Thành cổ Quảng Trị, chiến sĩ thông tin Nguyễn
Văn Thạc đã bị trọng thương, mảnh pháo đã cắt ngang đùi trái. Sau này,
một đồng đội của anh kể lại: Mặc dù đã được ga rô và băng bó, nhưng mất
máu quá nhiều, nên sắc mặt Thạc tái dần đi. Tuy nhiên, anh lại rất tỉnh.
Đồng đội vừa cấp cứu, vừa động viên Thạc. Nhưng anh nói: “Mình tỉnh thế
này tức là sắp chết rồi… Chỉ tiếc là không còn chiến đấu được nữa...
bao dự định còn dang dở”. Sau đó, Thạc tắt thở trong vòng tay của đồng
đội. Như nhiều người lính ngã xuống ngoài chiến trường, thi hài của anh
được đồng đội bọc trong một tấm tăng ni-lông và chôn cất ngay tại nơi hy
sinh, gần mặt trận.
Khi
còn sống, Thạc vốn là người con hiếu thảo chăm chỉ, nên được mọi người
yêu quý và đã là niềm tự hào trông đợi của cả gia đình. Nhà đông anh em
nhưng Thạc hay tâm sự với người anh cả là Nguyễn Văn Thục. Giữa họ, hình
như không chỉ có tình thân thiết ruột thịt, mà còn như một đôi bạn tri
kỷ. Thạc gửi gắm nhiều tâm tư vào người anh cả. Vì vậy, nhiều trang viết
riêng tư và thư của bạn gái thân thiết phải để lại nhà khi ra trận,
Thạc chỉ muốn riêng anh cả giữ và đọc, có gì cần thiết thì nói cho bố mẹ
và gia đình biết.
Kể
từ lá thư cuối cùng ghi ngày 21 -7- 1972, Thạc gửi về gia đình báo tin
đã đi chiến trường, gia đình không nhận được tin tức gì của anh nữa nên
rất bồn chồn, lo lắng và linh cảm có chuyện chẳng lành. Tháng 5- 1 973,
khi gia đình chưa nhận được giấy báo tử, thì một đồng đội thân thiết của
Thạc báo tin anh đã hy sinh.
Thư
viết rất rõ: “Mộ của Thạc ở thôn Đầu Kênh, xã Triệu Long, quận Triệu
Phong, Quảng Trị (tiếp giáp thôn Hà Mi, Phương Ngạn, gần lộ 4). Một được
đặt ở thửa ruộng khá cao, cùng hai ngôi mộ khác, Thạc đặt đầu tiên".
Nhận
được hung tin, cả gia đình Thạc buồn đau và thương tiếc. Đặc biệt là
cha mẹ Thạc đã già yếu, lại càng đau ốm hơn. Vừa thương tiếc người em
trai tình nghĩa, vừa xót thương cha mẹ buồn khổ, ông Nguyên Văn Thục đã
quyết tâm đi tìm mộ em trai, để cha mẹ và gia đình được an lòng.
May
mắn thay, cuối năm 1976, Công ty 16 - Bộ Giao thông Vận tải vừa hoàn
thành việc thi công khôi phục đường Hiền Lương - Dốc Miếu, ông Thục với
cương vị là Phó chủ nhiệm Công ty (như chức Phó giám đốc hiện nay) được
giao nhiệm vụ chỉ đạo vận chuyển vật tư, thiết bị thi công ra Hà Nội.
Nhân cơ hội này, ông báo cáo giám đốc giúp đỡ, kết hợp tìm mộ em trai.
Hồi
đó, miền Nam vừa giải phóng, mộ liệt sĩ còn nằm rải rác khắp nơi, chưa
được quy tập về nghĩa trang như bây giờ, nên việc tìm kiếm gặp không ít
khó khăn. Nhưng được giám đốc Công ty 16 cũng như lãnh đạo và nhân dân
địa phương giúp đỡ, ông Thục đã thực hiện được nguyện ước là đưa hài cốt
người em trai về Hà Nội vào giáp Tết Đinh Tỵ (1977)...
Bây
giờ, ngôi mộ của anh lính binh nhì Nguyễn Văn Thạc - người giỏi Văn
nhất miền Bắc một thời, người đã có dự cảm về ngày 30-4- 1 975 trước gần
4 năm, tác giả của tập nhật ký mang tên “Mãi mãi tuổi hai mươi” mà bạn
đọc có trên tay đang nằm trong nghĩa trang của huyện Từ Liêm, thành phố
Hà Nội.
Hà Nội, tháng 4-2005
Đ.V.H
Tiểu sử của liệt Sĩ Nguyễn Văn Thạc
Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc
VỀ VIỆC XUẤT BẢN CUỐN NHẬT KÝ
CỦA LIỆT SĨ NGUYỄN VĂN THẠC
Kính gửi: Nhà xuất bản Thanh Niên
Liệt
sĩ Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14-10-1952, là sinh viên trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, tham gia Quân đội từ ngày 6-9-1971, hy sinh tại chiến
trường Quảng Trị ngày 30-7-1972, lúc đó chưa đầy 20 tuổi.
Cuộc
đời tuy không dài, nhưng đã để lại nhiều tiếc thương cho gia đình, cho
đồng đội, bạn bè và đất nước về một con người trung hiếu, học giỏi, cuộc
sống giản dị, chân thực, luôn với ý thức phấn đấu để cống hiến thật
nhiều cho Tổ quốc và nhân dân.
Mặc
dù chỉ có 10 tháng tuổi quân, nhưng dọc đường hành quân ra trận, khắc
phục biết bao gian khổ, hy sinh, Thạc vẫn làm tốt nhiệm vụ của người
chiến sĩ, vùa tích cực ghi chép những sự kiện, những cảm nghĩ về Đời, về
Người trong những năm tháng hào hùng của cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu
nước đang trong giai đoạn ác liệt tiến đến thắng lợi hoàn toàn. Ngoài 16
tập thơ và một số ghi chép bị thất lạc ngoài mặt trận khi hy sinh, Thạc
còn để lại 240 trang Nhật ký "Chuyện đời” và hàng trăm bức thư…
Thạc
không muốn ai đọc những ghi chép của Thạc khi còn sống; Nhưng nếu không
trở lại, Thạc mong ai sẽ thay mình viết tiếp những dòng sau này, “chỉ
ao ước rằng, ngày mai những trang giấy còn lại đằng sau toàn là những
dòng vui vẻ và đông đúc...”
Chiến
tranh đến nay đã lùi xa 30 năm. Sau khi gia đình đọc lại những ghi chép
này, đặc biệt là cuốn Nhật ký thì thấy rất đáng quý, nó có thể góp phần
phản ánh cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân ta, đồng thời phản ánh
một thế hệ thanh niên giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng, sẵn sàng hy
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Nhân
dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc,
gia đình chúng tôi mong muốn Nhà xuất bản Thanh Niên nghiên cứu cho xuất
bản cuốn Nhật ký này, góp phần để bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc trẻ có
thể tự hào về một thế hệ thanh niên đi trước mà vững bước hướng tới
tương lai. Đó cũng là tâm nguyện mà liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hằng ấp ủ mà
chưa thể thực hiện được.
Xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản!
Hà Nội, ngày 7 tháng 4 năm 2005
Thay mặt gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc
Anh ruột: Nguyễn Văn Thục
***
2-10-1971
Nhiều
lúc mình cũng không ngờ nổi rằng mình đã đến đây. Không ngờ rằng trên
mũ là một ngôi sao. Trên cổ áo là quân hàm đỏ. Cuộc đời bộ đội đến với
mình tự nhiên quá, bình thản quá và cũng đột ngột quá.
Thế
là thế nào? Cách đây ít lâu, mình còn là sinh viên. Bây giờ thì xa vời
lắm rồi những ngày cắp sách lên giảng đường, nghe thầy Đường, thầy
Đạo... Không biết bao giờ mình sẽ trở lại những ngày như thế. Hay chẳng
còn bao giờ nữa! Có thể lắm. Mình đã lớn rồi. Học bao lâu mà đã làm được
gì đâu, đã sống được gì đâu? Chỉ còm cõi vì trang sách, gầy xác đi vì
mộng mị hão huyền.
Hai
mươi tám ngày trong quân ngũ mình hiểu được nhiều điều có ích. Sống
được nhiều ngày có ý nghĩa. Dọc đường hành quân, có dịp xem lại lòng
mình, soát lại lòng mình.
Mình
bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào? Có lẽ từ 9-3-1971,
tháng ba của hoa nhãn ban trưa, của hoa sấu và hoa bằng lăng nước.
Những
người bạn thân yêu của mình đã lần lượt đi học xa hết cả rồi. Mỗi người
một phương. Các bạn đã đi lên phương Bắc. Còn mình, sẽ đi về phương
Nam...
Đêm
Hà Bắc thật thanh bình. Thèm quá, nghe một tiếng thì thào của cánh gió
trên đồi bạch đàn... Mình đã sống trên 20 ngày bên hồ cá Yên Duyên, Yên
Sở. Ở đó có những đường cây đẹp tuyệt. Mình đã chụp tấm ảnh bộ đội đầu
tiên dưới một gốc dừa, sau lưng là hồ cá. Hoàng hôn thong thả thay màu
nước. Và ngôi sao Hôm trầm tư, kiêu hãnh đã mọc trên trời. Cuộc đời bộ
đội đâu dễ dàng như thế. Mình đã khóc, nước mắt giàn giụa, khi các bạn
tiễn mình đi, khi buổi lễ kết thúc, khi bài Quốc ca rung bầu không khí
trong lành trên Trường Tổng hợp. Bản nhạc này đây, bao lần mình đã nghe,
đã cúi đầu suy nghĩ. Nhưng hôm nay mới thực hiểu, thực cảm một điều
giản dị: Bài Quốc ca của ta, của ta!
Khóc,
không phải vì hèn yếu, không phải vì buồn bã, mà vì xúc động. Vì buổi
chia tay này thiêng liêng quá. Những người bạn thân yêu nhất của mình
không thể tiễn mình đi được. Và bàn tay ấy, và đôi mắt ấy, giọng nói
ấy... Lên xe rồi, xe nổ máy. Xe VN sản xuất, tiếng động cơ như tiếng tim
mình vậy. Nghẹn thắt vì một cảm giác khó tả, mình ngước nhìn lần cuối
cùng cánh cửa sổ, nơi hằng ngày mình bò ra, nhìn xuống lòng đường.
Khoảng trời nhỏ của riêng mình đó. Một hôm nào, những hôm nào mình mong
chờ nhìn thấy bạn của mình đạp xe qua, để mình gọi... Bây giờ, là chia
tay, xe lăn bánh, êm ru, xe đi êm, mà bọn mình xô vào nhau, chen nhau
thò tay ra cửa. Ngoài kia, những khuôn mặt gần gũi, tuy có người chẳng
bao giờ mình trò chuyện, chẳng bao giờ mình nghĩ rằng có họ sống trên
đời… ở đâu, khuôn mặt thân yêu ấy? Bạn đi, mình không gặp được.
Đêm
26.7 chỉ là những gương mặt xa lạ, đầy vẻ háo hức và tự mãn. Rối loạn,
và thoảng một thứ mùi khó chịu. Mình không dám đứng lâu và đành chịu một
nỗi ân hận giày vò… Mình đi, khi bạn đang bước vào năm học mới. Bước
lên giảng đường, bạn có nhớ tới mình không?... Đừng, hãy để tâm hồn trọn
vẹn thanh thản, mà đón một mùa xuân của lòng mình. Trang đầu của cuộc
đời sinh viên, đừng để rơi một giọt mực, đừng để loang lổ một vết ố
vàng…
Xe ơi, lao nhanh hơn, cho ta chóng tới gia đình lớn. Nơi ta gửi gắm cả thời thanh xuân của mình...
Hơn
cả khi trên tay phập phồng tờ quyết định. Vui sướng, tự hào, cảm động
làm sao khi trên người ta là bộ quân phục xanh màu lá. Anh sinh viên
quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu xanh da trời tháng nắng... Mình
trút bỏ không thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình màu xanh ấy. Màu
xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hi vọng. Màu xanh bất
diệt của sự sống.
Trên
mũ là ngôi sao. Ta lặng ngắm ngôi sao, như hồi nào ta chỉ cho bạn: Kia
là sao Hôm yêu dấu… Nhưng khác hơn một chút. Bây giờ, ta đọc trong ngôi
sao ấy, ánh lửa cầu vòng của trận công đồn, màu đỏ của lửa, của máu…
Ta thấy trong màu kỳ diệu ấy, có cả hồng cầu của trái tim ta….
Ai
ra đi cũng với lòng say lý tưởng, và nhẹ nhàng bên trong là chút ước
mơ. Buổi gác đầu tiên là đêm trăng sáng, là bài thơ, là một trang nhật
ký… Sung sướng và hãnh diện biết bao, ơi xóm làng yêu qúi, ngủ yên, ngủ
yên, có anh bộ đội thức canh trời. Những mái nhà nghiêng như mí mắt thân
thương, nhắm ngủ ngon lành… Ta bước nhẹ, lâng lâng một mùi hương quen
thuộc. Bưởi đã cuối mùa, ổi đã cuối mùa… Cây lá đang dồn nhựa để trổ ra
một mùa quả chín…
Đồng đội đọc cho ta nghe những vần thơ trong trẻo:
“Gậy Trường Sơn đưa ta lên đường đánh Mỹ.
Nồi cơm Thạch Sanh xưa là chuyện ước mơ.
Nay là lòng dân với người chiến sỹ”.
Ta
đã đọc ở đây những cái tên lần đầu ta đọc, lần đầu ta biết. Cái tên ấy,
những cái tên ấy là một nốt sol điềm tĩnh, nốt la nhí nhảnh… là 7 cung
bậc của bản đại hợp xướng mà dân tộc ta đang cất lên tiếng hát…
…”Bộ đội đi rồi, chỉ khổ dân, lại nhớ mãi thôi…”
Ai
đã nói với mình điều ấy, khi trời đã rạng sáng? 9g30 phải vào màn,
nhưng ta thức trọn một đêm, với bốn bề đang rạng sáng, mặt trời mọc, và
em bé đã ríu rít ở hàng ô rô xén gọn. Một tiếng võng kêu, một vệt nắng
kẻ ở ngoài hiên, một con nhện giăng tơ trên cành ổi... Có gì khác với
nơi ta ở, nơi ta gửi gắm tuổi thơ. Sông Tô Lịch đen ngòm chảy rụt rè
trong thành phố, tới đây, vẫn rụt rè như cây trinh nữ… “Mắc cỡ gì mà
khép cánh ư em?”
Ta
đã bao lần đi bên sông Tô Lịch, trước kia ta khó chịu vì mùi bùn oi
nồng... Ta đã mấy lần hành quân bên sông Tô Lịch, ta yêu sông vì bọt tăm
sủi, vì màu xanh non, tươi trẻ có công vun đắp của dòng sông. Có phải
lòng sông đã quên mình nhơ bẩn, đã chịu lòng mình mang mùi vị ấy để đem
cho đời những cọng rau muống tươi kỳ lạ, để đem màu hồng tươi cho thành
phố. Sông Tô ơi, mai trở về, ta khơi lại dòng sông, cho tuổi thơ vẫy
vùng, cho con thuyền anh chở em đi, đi vòng quanh thành phố...
Hôm
nay, đi bên sông, dưới cái nắng chang chang, trên vai là balô con cóc
của Trường Sơn. Không thể nói là nhẹ được. Quai đeo thít vào vai, ép
lồng ngực lại. Đau và bỏng rát, khó thở. Đè lên hông, ép vào lưng, ướt
đầm đìa là mồ hôi ta đấy. Ta đặt balô, và cười luôn được. Ừ, cuộc đời ta
là thế. Phải cười và phải vui. Bài hát ta yêu là Trường Sơn Đông -
Trường Sơn Tây... Con đường gánh gạo không có muỗi, nhưng không phải là
nhẹ nhõm. Vai sinh viên, mặc dù tâm hồn luôn bay bổng, nhưng nên thơ hơn
cả những vần thơ là cái nghiến điếng người trên vai, là cái nắng bàng
hoàng, dữ dội.
Yên
Sở ơi, ta yêu Yên Sở như làng quê ta vậy. Nơi trú quân đầu tiên của đời
ta. Nơi ta gọi bạn của mình là đồng chí. Nơi em thơ gọi ta là chú bộ
đội, và những cô gái làng gọi ta: Chào các anh bộ đội.
Em
đừng cười anh vì bộ quân phục thùng thình. Mẹ ta nghèo, rau cháo nuôi
ta, đau khổ bốn nghìn năm, chắt chiu từng hạt gạo nuôi ta. Để bây giờ ta
lớn. Phải lớn lên, phải to ra cho kịp tầm cao của lịch sử. Cánh tay này
sẽ bóp nghẹt cổ quân thù.
Đêm
đầy sao, chi chít những sao, như lòng mẹ, như lòng em đứng ở bên đường.
Hồ nước trong kỳ lạ. Sao mẹ kể, những cái hồ ấy là nước mắt? Đau khổ
nghìn năm, những tròng mắt nào đã đầm đìa để tích tụ thành hồ… Mà hôm
nay đời vui như thế? Con cá dưới hồ cũng quẫy, cũng đớp ánh trăng và
chào anh bộ đội… Cá, cá ơi, đừng cười anh nhé, đừng kể cho những cô gái
trong làng, chuyện bọn anh sợ đ*********, khi các cô ngồi bên bờ này
nhắc đến các anh… Quên làm sao vườn nhãn um tùm, nơi ngày đầu ta ngồi
yên nghe giảng bài chính trị… Đầm ấm quá thôi, trên là cây lá, xanh
xanh, lấp lánh ngôi sao trên mũ, lung linh những vì sao trên cổ áo, đỏ
như lửa là quân hàm, bùng cháy những ngọn đuốc là cháy tim ta… Ê a, ê a
là lời em thơ tập đọc. Cô gái nào mà dáng thanh thanh giống người ấy
thế… Kỷ niệm lắng sâu, theo ta vào trận đánh…
Những
ngày hôm nay, hôm nay sao khỏi bồi hồi. Nồi nước mẹ đun sao thơm kỳ lạ.
Có phải đắng cay cả một đời, nên bát nước mẹ đưa ngọt ngào đến thế?
Chia tay với con mà mẹ vẫn cười, âu yếm…
Hành
quân từ 5 giờ chiều đến 9 giờ đêm, đẹp lắm. Trăng đầu tháng còn đỏ
quạch, cứ gợi cho ta nhớ một cánh buồm. Đấy, cánh buồm đỏ thắm, đựng đầy
gió, gió cuốn những ngôi sao đêm, ùa vào lòng thuyền và đẩy thuyền trôi
trong tâm tưởng... Ngủ bên bờ một dòng sông, có những đường dừa thật
đẹp.
Trời
trong quá, dây điện chăng như những dòng kẻ của một trang vở học trò.
Đừng bấm đèn trêu họ, cứ để họ nói chuyện với nhau. Anh con trai sắp xa
người bạn của mình. Cô ta lại về trường học tiếp. Chỉ còn vài tiếng nữa
thôi là còi tàu, là chuyển bánh. Anh dặn gì cô ấy, có lẽ chẳng dặn gì
đâu, và chỉ mỉm cười... Cậu nào đã cất tiếng hò:
“Tiếng ai như tiếng chuông vàng
Tiếng ai như tiếng cô nàng của anh...”
Còn tiếng này thì đúng là giọng anh Châu rồi, anh “Mộng Châu”:
“Anh yêu em lắm em ơi,
Nhưng anh chẳng dám ngỏ lời với em...”
Lính
khoái, cười khúc khích... Những vì sao dưới sông cũng va vào nhau...
Những cánh dừa cũng nắm tay nhau tinh nghịch bay qua bầu trời thanh
bình. Tiếng động cơ như xay lúa.
Đêm
đẹp vô cùng, ta lắng nghe đất thở. Anh bạn nằm bên rọi đèn pin tìm gì,
có phải anh tìm con dế đang cần cù dạo bản nhạc đêm của Pritsvin? Không
cưỡng nổi, ta lấy giấy và viết thư cho Như Anh...
“12 giờ đêm 28/9/1971”
Như
Anh có thích đọc những dòng này hay không? T. viết cho Như Anh khi đang
nằm trên bờ một con sông. Sông đẹp lắm. Đêm rất khuya. Vành trăng đỏ
quạch sắp lặn xuống chân trời.
Đồng
đội của T. người thì đang ngủ, người đang nói chuyện. Dưới cuốn sách mà
T. kê, có 2 lá thư sắp gửi cho Như Anh. Sương ướt đẫm vải nhựa. Không
một ngọn đèn. Chỉ những vì sao, soi cho T. viết những dòng này.
Bắt
đầu cuộc đời bộ đội là thế này đây. Tối quá, nhưng cứ viết. T. thích
thế. Rồi đây, sẽ có nhiều lúc T. viết thế này. Chắc xấu như ma lem.
(Hành quân đây – Chào Như Anh nhé - Thật tiếc)…
Đến
ga rồi, ga Văn Điển. Nhưng nào có tàu. Mệt quá, lại phải gánh nồi quân
dụng.Chẳng chịu được nữa, mình ngồi bệt xuống đất, dựa vào ba lô mà ngủ.
Suỵt, nói giấu các “o văn công” chứ, thật đúng với câu: “Má văn công,
mông bộ đội”!. Những chuyến tàu đêm chạy từ Hà Nội đến, cánh cửa, ô cửa
đầy thương nhớ. Tàu phì ra những cuộn khói, những đám mây nhân tạo. Mặc
kệ, tớ còn ngủ. Đợi một chuyến đi xa…
Sau
cùng thì xếp được ba lô lên tàu. Tàu T. Q, khá rộng. Mình chẳng có chỗ
đứng, đành đứng trước chỗ đi giải. Thật bất tiện. Nhưng chẳng sao hết.
Đêm
âm u quá, cánh đồng vắng lặng, chỉ nghe tiếng gió, tiếng con tàu thở
phì phì. Kia rồi, Hà Nội, là phố Nguyễn Du lấp lánh sau bức tường của ga
Hàng Cỏ. Thôi, chào Hà Nội, 3 hoặc 4 tháng sau ta lại về, ta lại hành
hương trên các đường phố vắng gắn bó với cuộc đời ta…
Sông
Hồng ban đêm, mùa nước, cầu phao dập dềnh, ta nhận ra cầu vì ánh điện.
những con mắt chói ngời kia bảo ta, đó là bờ… Chao ôi, dòng sông Ănggara
xa xôi chảy qua thành Iêkut, đêm nào có giống đêm nay? Ta như gặp lại
khuôn mặt thân yêu ấy. Giói đừng thổi mà tóc lại bay rối, lại phải lấy
lược chải hoài… Gió đừng thổi, hơi lành lạnh đấy, mà áo thì mỏng về nhà
lại ốm…
Bắt
đầu xuất hiện bạch đàn dọc theo đường tàu chạy. Cây bạch đàn ta yêu, ta
quí. Cây bạch đàn chép lại cho ta một thời thơ ấu đầy chất thơ, và say
nồng mùi cỏ mật. Bạch đàn ơi, chạy theo anh nhé, chạy theo tàu của anh
và sống mãi với anh. Khi nào anh nằm xuống, bạch đàn hãy rủ lá, run rẩy
và ru cho anh ngủ. Cây bạch đàn cứ cao lớn với đời, cứ hát cho đời bài
ca về thầy giáo Đuy Sen và cô học trò giỏi Altưnai, bài ca về cây phong
lá đỏ. Mặt trời mọc rồi, các ô cửa của toa tàu xanh màu quân phục. Em
nhỏ trên đồi đi học đấy ư, mà sao khăn quàng bay và bàn tay nhỏ cứ vẫy
các anh... Ta bỗng nhớ một đoạn thơ T.H:
“Các em ơi, đã học chưa
Các anh dựng cho em trường mới nữa.
Chúng nó chẳng còn mong giội lửa
Trường của em đứng giữa đồi quang
Tiếng các em thánh thót quanh làng…”
Ta
đã đi qua vùng đồi trung du của Bắc Thái, dấu vết của chiến tranh, của
lụt lội còn hằn rõ ở đây. Ta đã nghĩ gì khi nhìn và lặng người bên hố
bom thù đào sâu gần khu luyện gang thép. Mẹ ơi, ở đây con đã hiểu chiều
sâu của đất. Cuộc sống thanh bình chỉ cho ta giá trị chiều rộng, chiều
dài của mảnh sân con thường đùa nghịch, của mảnh vườn tháng 10, mía đang
ngọt dần lên ngọn, của ngôi nhà ấm cúng con ngồi viết bài thơ ca ngợi
đất. Chưa biết rằng, đất có chiều sâu, mà hôm nay vế bom thù đã khơi dậy
cho con.
Ga
Lương Sơn hay ga gì đó, xuống tàu và vào bãi cỏ rộng nghỉ. Khoảng 9 giờ
rồi, cỏ may, cô gái nào xưa níu bước chân chàng trai trẻ, nay gài vào
quần các anh bộ đội. Cô muốn thêu gì lưu niệm? Đêm nay, bên bếp lửa nơi
trú quân, nhặt cỏ may và chắc có anh chàng mơ mộng lại nghĩ hoài một
người bạn gái, giỏi nghề may vá… “Em khâu gì vào chiếc áo của anh?”…
Và cả cây mắc cỡ, cô gái ngây thơ, khẽ chạm vào là nép mình xấu hổ, các anh lính trẻ lại cứ trêu hoài...
Chuyển
tàu, lính xô nhau lên chiếm chỗ gần cửa sổ. Ừ thế mà Vũ Đình Minh lại
viết: “Người bốn phương nhìn nhau qua ánh mắt/ Một chỗ ngồi cũng nhường
nhịn cho nhau”!
Tớ
khoái không để đâu cho hết, vì được ngồi bên cửa sổ. Tàu chạy rồi, gió
thốc vào mát lạnh. Từ đây, rừng rậm rạp hơn, đồi kề ngay đường tàu chạy.
Người kiếm củi trên đồi cứ vẫy…
3.10.1971
(Suốt
đêm qua không ngủ được. Cứ thức hoài vì những cảm giác nôn nao, rạo
rực. 1 giờ sáng, khuya quá rồi. Phải vào màn ngủ. Ừ, cuộc sống bên trong
của con người thật kì lạ, cứ nhớ, cứ nhớ... Nhớ ai, nào biết... mà sao
không ngủ được).
Rừng
chẳng nên thơ như ta tưởng tượng. Cây cao, xù xì nom rờn rợn. Vực sâu,
dây leo chằng chịt, chứa đựng biết bao điều bí ẩn. Cuộc sống của ta sẽ
kéo dài ở đó.
Dân
tộc ở đây là gì? Mán hay Thổ? Ta chỉ mong nhìn thấy một cô gái Sán Dìu,
quần đỏ, giữa mênh mông đồi cây. Bỗng nhớ một câu thơ có vần: Gà đánh
trống.../ Khỉ leo thang/ Có những cô nàng/ Váy đỏ yếm trắng… " Sao lại
nhớ đến câu ấy? Bạn hỏi vậy. Mình chẳng biết nữa. Hình như màu sắc, âm
thanh, hình khối hoà trộn trong đó phù hợp phần nào với những cảnh mà
mình đang chứng kiến.
Ai
đã xây nên những đường hầm xuyên núi, bàn tay của ai đã lần lữa trên
những mặt đá này. Ngồi bên cửa tàu chạy nhanh, gió thốc vào lành lạnh,
cả hơi đất, hơi đá ẩm ướt, âm u. Toa tàu tối om. Không ai hé răng. Vì sợ
hay vì lạ. Còn mình thì lạ, cứ thò đầu qua cửa, nhìn về phía cửa hầm.
Bụi than bám đen cả mặt. Con tàu phóng thanh rung lên bần bật. Ánh nắng
đây rồi, hối hả trên từng khuôn mặt. Ngoảnh lại phía sau, là ngọn đồi
con tàu vừa chui qua. Vẫn cây lá ấy, bình thản vô tư lự… “Chuồn chuồn
kim thân dài, cánh đỏ/ Em khâu gì trong áo xám của đồi cây... "
Có lẽ là như vậy. Yên lặng, bình thản trên đó, để dưới đáy sâu của nó, có con tàu băng băng chở đi một nguồn sinh lực mới...
Tàu
ơi, cứ chạy đi, chạy nhanh đến những vùng đất nước xa xăm. Kìa là cây
vào, cây bương, khác với lùm tre quen thuộc. Cái cây gì mà cao lạ lùng,
trong suốt cả cuộc đời nó đã tiễn mấy chuyến tàu qua…
Bạn
thì thào bên tai: Suối đấy, trong lắm. Nhưng đừng vội tắm... Ờ, dòng
suối trong vắt, róc rách chảy dưới chân đồi. Những viên sỏi xanh đỏ tím
vàng óng ánh đâu rồi? Mà chỉ thấy những chiếc lá úa vàng xoáy tròn và
chìm nghỉm... Đám mây ơi, mây trôi về đâu? Nhắn giùm ta tới người bạn
ấy, rằng: ta nhớ lắm, nhớ bồi hồi. Ta gục đầu xuống bàn… Rồi sau đó thì
sao, P. không biết nữa, P. không muốn biết nữa, vì khi đó, T. gần quá,
đến nỗi không thể chấp nhận được câu trả lời ấy...
Anh
câu gì bên dòng suối ấy? Tôi nhìn rõ lắm sợi cước trong trong như một
tia nắng cong queo trên mặt nước. Cuộc sống thanh bình biết mấy, trong
một dáng văng cần, trong một bóng mát của vành mũ lá...
Lính
ào qua cửa sổ, sỏi dưới chân cũng mang màu đỏ quạch của núi đồi. Nắng
gắt, choang choáng. Ga này cũng không biết tên nữa. Chỉ có bưởi, quả
bưởi trên rừng nhỏ như nắm tay và khô. Dùng tạm vậy. Tất nhiên là phải
có tiền. Mệt, nhưng mọi người đều hồ hởi và hể hả. Khoan khoái ngồi
trong bóng của ngôi nhà lợp nứa. Chẳng có nước. Trời nắng - giở bánh mì
ra ăn, nghẹn lại nơi cổ họng... Tạm biệt, con tàu màu xanh, đi đi... Xa
hơn nữa là Bố Hạ, cam Bố Hạ... là sông Thương... Còn ở đây, khét cháy...
Được lệnh hành quân vào rừng. Chỉ 7km thôi.
Con
đường rừng đầu tiên ta đi, vai nặng ba lô mồ hôi ướt đẫm ngực, vai và
sau lưng áo. Con đường dài và mất hút".. Quay lại phía sau, cũng con
đường... Con đường xa lạ và gập ghềnh...
Khiếp,
ba lô chứa gì mà nặng thế, oằn cả lưng anh bộ đội. Mảnh đồi ơi, ta chưa
từng quen biết, nhưng hôm nay mồ hôi ta đã nhỏ xuống đất này.
Nắng cứ chang chang, con chim gì cứ kêu làm rối lòng người. Đường dốc ngược lên trời.
Những
ngọn đồi này đây, gần một thế kỷ nay, là nghĩa quân của Hùm thiêng Yên
Thế. Bà mế ơi, cây súng kíp này có phải của bố ngày xưa đóng khố theo cụ
Đề đánh Pháp. Gian nhà trống trải trơ trọi trên đồi. Nước ở đây ít lắm.
Nhòm xuống giếng cứ hun hút. Em có soi gương thì đi ra suối. Cái gương
giếng nhà làm chóng mặt em...
Cụ
chủ già lắm rồi, mái tóc bạc trắng, da mặt hằn nếp thời gian. Cụ cởi
trần trùng trục, quấn quanh mình một mảnh vải thô, hai bàn chân khoằm
khoằm, đi vòng kiềng mà thật vững.
Em
gái học lớp 9 trên huyện, vắng nhà... Anh biết vậy vì áo hoa xanh của
em không phơi trước cửa, mà gấp ở đầu giường. Núi rừng ơi, Yên Thế... Ta
yêu người vì cây chò chỉ, cây lát, cây lim sừng sững, như bộ ngực của
nghĩa quân...
Ta
nằm ngửa mặt cho những giọt nắng đỏ lanh tanh chạy từ kẽ lá. Gốc đa
rừng, cái dốc của rừng, bàn chân nào đặt bước đầu tiên trên con đường
hỏm hẻm luồn sâu trong lá để bây giờ đến lượt ta đi…
Đường
dài đến thế, ta đi mãi, mải miết trèo... Chỉ thấy ba lô nặng trên vai,
chỉ thấy mây trắng cuốn về phương Bắc, thấy trời xanh ngút ngàn, và rậm
rì là cây, là cỏ…
Đã
cuối mùa sim. Quả sim tím sẫm, ngòn ngọt. Có phải rừng chiều ta nên kéo
dài mùa sim tím cho lính. Miệng cậu nào cũng lép nhép những sim. Xóm
làng đây thưa thớt, mái nhà như một đốm nhỏ chìm giữa lá cây...
Rải
chiếu giữa trời là cây giàng giàng. Đừng bước vội hái hoa rừng mà gai
đùm đũm doạ đấy. Ta đút vội vào ngực áo những chiếc lá rừng mà ta chưa
biết gọi tên. Lá héo, mà thơm, phảng phất từ đâu đấy. Bạn có biết ta yêu
rừng không vậy… Ôi, cái nắng trong rừng, rưng rưng nhựa. Ai đã viết
những câu thơ để bây giờ ta đọc:
“Da bàn tay thường chạm với da cây,
Khuôn mặt người chạm vào mặt lá
Rừng già ơi, rừng già kỳ lạ quá.
Không có những ngày này hồ dễ đã quen nhau…”
4.10.1971
“Anh
hẹn em cuối tuần/Chờ nhau nơi cuối phố/Biết anh thích màu trời/Em đã
bồi hồi, chọn màu áo xanh/Sáng chủ nhật trời trong/Nhưng trong lòng dâng
sóng/Chẳng thấy bóng anh sang/Đêm thứ hai thu vàng/Đêm thứ ba thu
tàn/Mùa đông thứ tư sang...”
Bạn,
đừng hát nữa, mà làm nao lòng bộ đội. Ta bước trên đồi bạch đàn, dưới
chân là đá sỏi... Chao ôi, bầu trời xanh quá, màu áo thân yêu của ta đã
xếp lại nơi nhà...
Bạn,
đừng hát nữa, mà làm nao lòng bộ đội. Ta bước trên đồi bạch đàn, dưới
chân là đá sỏi... Chao ôi, bầu trời xanh quá, màu áo thân yêu của ta đã
xếp lại nơi nhà... Bao giờ hai đứa hẹn nhau, hẹn ở đầu phố.. . ơi cái
phố thẳng tắp những cây, những ngôi nhà. Chắc phố buồn lắm đấy, vì vắng
bóng lũ trẻ đá cầu, đi câu con cá trắng... Vắng một giọng cười...
Ao
ước lắm, một lần gặp bạn, một lần nữa thôi cũng được ta sẽ nói hết, ta
sẽ nói hết. Phố đừng cười nhé, dặn thế rồi mà lá cứ reo reo...
Sao
khi ở gần với phố, chẳng yêu phố nhiều hơn nữa, để bây giờ hối tiếc...
ừ, thời gian... Bảy ngày là đủ một tuần. Không phải 7 ngày chờ mong nữa,
mà dằng dặc...
Đồi
bạch đàn vẫn thong thả đồng ca bài hát cổ xưa của mình. Bạch đàn ơi, bỡ
ngỡ gì mà em xoè lá? Hương bạch đàn, nhựa bạch đàn gợi điều mơ mộng
quá... Em ở đâu chẳng về, anh dắt tay em... Qua đồi này, là tới đồi sim,
tới đồi hạt dẻ. Sim cuối mùa, đừng bắt đền, làm môi em tím. Tím lưng
đồi là màu tím hoa mua, không, chẳng phải đâu đấy là màu tím Huế, màu
tím của em…
Chao
ôi, là nhớ... Mình tưởng tượng thấy bóng dáng yêu dấu đang nép sau thân
bạch đàn ứ nhựa. Đừng giận gì nữa hết, xa nhau lâu rồi, còn có điều gì
để giận... Hay P. giận vì lá thư cuối tháng 6 không được trả lởi? Không
viết nổi P. ạ, không sao viết nổi, vì nỗi thương cảm sâu sa bóp nghẹt
trái tim T…
Khuôn
mặt dịu dàng ấy, sao hôm nay im lặng thế, xôn xao trong lòng ta, là vần
thơ của nhà thơ nào, lâu lắm không nhớ rõ, cứ lan lan...
“Em đã nói biết bao lời,
Với cha, với mẹ, với người xung quanh
Với biển cả với cây xanh
Sao em không nói với anh một lời?...”
Ôi,
giọng nói ấy, cứ làm ta rạo rực, giọng nói đánh thức trong ta những
niềm xao xuyến đã chết lặng và làm cho hồn ta, trái tim ta tràn đầy hạnh
phúc. Suốt từ hôm ấy… Hơi thở ấy đã phả vào từng sợi tóc, bàn tay thân
yêu ấy đã xoa dịu cho ta nhưng vết thương. Ta tưởng chừng có thể tan
biến đi, "thân cát bụi lại trở về cát bụi”… Ta muốn sụp xuống trước trái
tim trong sáng ấy... ơi, thần tượng của ước mơ ta...
Luôn
luôn ta mơ ước, ta khao khát, một buổi sáng đẹp trời, nhớ một màu xanh
kỳ dị, ta thức giấc trong hạnh phúc. Một người đang chờ ta, đang đợi ta.
Đó là P., đó là P. yêu dấu...
Ta khao khát một sớm mùa hạ, cùng nắm tay P. trong phòng đọc sách... Mùi sách quyến rũ hay gì mà làm ta xao xuyến thế?
Ta
thường mơ, một mùa nào đó, dẫu là mùa đông ướt át và nhầy nhụa... Ta
đứng trên sân ga lắng nghe tiếng mưa đuổi nhau trên bức tường rêu xám.
Lòng ta đâu có thế, ta đứng chờ…
Và
kia, P. yêu dấu của ta, từ trên tàu bước xuống, P. ùa vào lòng ta hay
ta chạy đến dụi đầu vào gò má ấy, mấy năm trời còn gì nữa. P. hé miệng
cười, nhưng ta đọc trong đôi mắt một màu ươn ướt. P. đưa ta về ngôi nhà
72, mới một lần ta hững hờ đến. Và P. sẽ kể cho ta vô vàn chuyện trên
đất nước xa xôi.
Còn
ta, sẽ kể cho P., về chuyện đời, vê những đồi phi lao Hà Bắc, mà mỗi
bóng áo đều gợi nhớ tới P., sẽ kể cho P. những "mảnh liềm trăng cong một
nỗi nhớ nhau”...
Ta
sẽ kể cho P. rằng: P. ơi, một buổi họp trong đình, đình cũ kỹ, ống máng
han rỉ, ta thèm được tay cầm khẩu súng loáng ngời ánh thép. Đạn vuốt
nòng lắm, ta yêu khẩu AK này như yêu người nào ấy, khẩu súng ơi, súng sẽ
gắn bó với đời ta, cùng sống chết với ta…
Khi
ấy, chắc chắn ta sẽ lại nói với P. rằng, cả cuộc đời ta, cuộc sống
riêng tư của ta thuộc về P. vĩnh viễn. Từ lâu rồi, cuộc sống tâm hồn của
ta tan biến đi trong tình cảm nồng nàn của P., cái lò lửa rực hồng ấy.
Tới
đây, ta mới hiểu thế nào là sự sợ hãi khi phải vĩnh viễn xa P. Đừng,
lạy chúa, viễn cảnh ấy đừng bao giờ xảy ra cả, đừng, mà ta sống với ai,
sống trơ trọi và cô đơn thế, ta làm sao sống nổi.
Khổ
vô cùng là nói thật chỗ yếu của lòng mình. Ta đâu muốn thế. P. bảo:
“Thích thư T. lắm!" Chẳng phải thế đâu P. ạ, rồi sau này nhiều năm, quay
nhìn về dĩ vãng P. sẽ cười và lúc đó hết cả “thích thư T. lắm”. Lúc đó,
những lá thư mà T. viết bằng những trưa không ngủ, bằng đêm khuya yên
lặng trên trường Tổng hợp, trên mỏm đồi xa xôi này, viết bằng cả tâm
hồn, bằng tất cả nỗi xao xuyến của trái tim - chỉ là một mớ giấy tầm
thường, cần phải vứt đi.
Nhưng
cũng chẳng sao, và cũng phải thôi. Vì ta chỉ thú nhận điều đó với riêng
P., với một mình P. thôi. Ai chưa gặp ta cũng đều bảo ta ngớ ngẩn. Ai
mới gặp ta cũng bảo rằng: Mình quý, mình thương. Ai ở với ta một thời
gian cũng trỏ vào mặt ta mà bảo: Dở người!...
Còn
ta, chỉ cười, chỉ khóc. Ta bay trên mây, dưới gió. Ta đã gặp ai đâu,
ngoài người ta yêu quý, mà có một lần ta đã xoa tay vĩnh biệt! Rồi đây,
người ấy có tự xa rời ta không, không biết. Có phải đời ta là cầm AK
đánh giặc. Đứng trên đồi phun lửa vào kẻ thù, dạn dày, thầm lặng...
chẳng cần ai biết đến đâu. Rồi lúc nào ta chết, chỉ cầu xin một điều,
trên nấm mồ của ta là cây bạch đàn; cây bạch đàn mảnh dẻ...
Nằm trong lòng đất, giá còn được nghĩ, ta sẽ làm thơ, ừ, làm thơ, làm toán... Chà, lập dị, lập dị, ngớ ngẩn đến thế nữa cơ.
Sao bây giờ ghét đời sinh viên đến thế. Thõng thẹo và ọp ẹp. Phải sống khỏe mạnh, dữ dội trong lửa đạn.
Dân
quý anh bộ đội. Bọn mình đi xin tre về làm nhà ở. Tre đấy, ngoài vườn,
anh cứ ra mà chặt. Tre đực, tre cái, tre bánh tẻ đan lóng đôi, lóng mốt,
đan sọt đeo đá sau lưng. Cây tre VN, lòng bà mẹ VN, có phải bây giờ ta
mới hiểu đâu. Nhưng bây giờ ta mới được nhìn, được thấy...
24.10.1971
Nằm mãi mà không ngủ được. Đêm nay là đêm thứ bao nhiêu rồi, mình thức dậy. Đồng hồ chỉ 11 giờ kém 15, Kisinhốp là mấy giờ rồi?
Lâu
lắm, 20 ngày đã qua, bận bịu và mệt mỏi, mình bỏ quên trang nhật ký,
nhưng có lúc nào quên được Như Anh. Tháng mười, tháng sinh nhật - Tuần
lễ sinh nhật đi qua. Ừ, trời cũng trong xanh hơn và lòng ta cũng mở ra
đón gió. Tuổi 19, 20…
Như Anh ở đâu, nắm lấy bàn tay T., gió rét về thổi tím ngọn bàng, đâu rồi hơi ấm của ta?
Ai bảo những ngày này không đẹp, không thơ?
25.10.1971
Tháng 11 sắp đến rồi... Và như vậy, tháng 8 đã trôi qua...
Buổi sáng đến chậm chạp.
14.11.1971
Đã
10 giờ đêm, chủ nhật. Đang buổi tiếng thơ của Đài Tiếng nói Việt Nam.
Khi còn ở nhà, những buổi tiếng thơ này, mình ngồi bên bờ ao hay bên một
cái giao thông hào ngập nước, nghe những giọng ngâm quen thuộc. Thế mà
hôm nay, ở đây, ở cái đất Hà Bắc này, mình ngồi viết, vừa lắng tai
nghe... Kim Cúc đấy, với giọng hơi mượt mà, chải chuốt, Kim Dung, Trần
Thị Tuyết. Nghe quen như giọng người hàng xóm.
Buổi
trưa, vừa gửi thư cho P. Có lẽ đó là cái thư cuối cùng ở đất Hà Bắc. Từ
ngày mai, không được ra khỏi chỗ đóng quân nữa. Không biết đi lúc nào -
Lo lắm, liệu P. có hiểu và thông cảm cho không - Biết làm sao được, khi
bản thân mình không thể chủ động trong chuyện đó.
Gặp
Dũng, bạn học từ lớp 8 - Dũng học Đại học Y khoa, và bây giờ ở C.17.
Dũng cũng tốt đấy, hiểu mình và rất quấn quít. Vẫn gặp trên sân bóng,
xung quanh là phi lao, có con đường chui qua, đỏ bụi. Dũng hỏi thăm hết
bạn bè. Xuyên đi Bungari rồi. Châu đi Cuba, Dung đi Tiệp hay Đức gì
đó... Thường thôi… đừng coi trọng họ, đi nước ngoài thì người ta thích,
nhưng ít ai thích người đi nước ngoài, có cái gì hơi là lạ…
Dũng
nhắc cho mình chuyện lớp, trường, chuyện thằng Khang, Nhữ Đình Huân,
cái tụi nghịch như quỉ sứ - Ngô Bình nữa, nó đang đóng ở Quảng Bình, bị
thương và đã được kết nạp Đảng hay sao ấy... Nhanh quá, mới đó mà nay
mỗi đứa một phương trời. Mình nhớ mấy câu thơ tặng Bình khi tiễn Bình đi
bộ đội hồi cuối lớp 10…
Dũng
hỏi mình về chuyện đi nước ngoài. Khơi dậy làm gì chuyện ấy. Nó khiến
mình buồn bã suốt một thời gian dài. Thật hèn hạ và xấu xa.
Mình
kể cho Dũng cuộc sống từ khi hết lớp 10. Dũng cũng đồng ý với mình và
tỏ ra hài lòng với cách sống ấy. Kể cũng lạ, sao Dũng dễ dàng đồng ý với
ý kiến của mình thế.
Dũng
bảo mình cần đoàn kết sâu, rộng với bạn bè hơn nữa. Dũng bảo: “Hãy biết
liên kết với các bạn bằng những mặt tốt của họ. Nên triệt để nối mình
với các bạn bằng cái tốt đó”. Kể cũng hay. Mình sẽ cố gắng.
Đá
bóng với B1. Gió mạnh. Dạo còn ở trường, mình với Thanh hay ở cùng một
bên, bây giờ Thanh ở B1, còn mình lại sang B2. Đá bóng mà nhớ trường,
nhớ kỷ niệm đến thế - ơi, Yên Hoà B... đâu rồi?
Buổi
tối ba má và anh của Minh lên chơi. Còn mình thì chẳng có ai lên cả -
Buồn và nhớ gia đình vô cùng. Nhưng mình không tán thành chuyện lên thăm
đó. Mình ngồi nghe rất lâu chuyện hai bác và anh Bằng nói. Chẳng có gì
mà phải lên tận đây cả - Nhớ Minh ư, mà sao có vẻ thờ ơ tệ. Không giống
trong tưởng tượng của mình chút nào? Hay là tại mình không ở trong tình
trạng đó nên mình không biết, không cảm hiểu?
Không,
rõ ràng không. Gia đình đi từ 5h30 sáng mãi trưa mới đến nơi. Mang cả
cơm nắm và thức ăn định ăn ở Bắc Giang, nhưng không hiểu sao lại về tận
đây ăn. Buổi trưa, bọn mình ăn cơm, phải sang chỗ anh Hinh ăn tập trung.
Mình chào gia đình và Minh cũng đi ăn - ở nhà còn ba má và anh Bằng -
Sao hai bác và anh không gọi Minh ở lại ăn cùng.
Không hiểu ra sao cả - Lạ thật - Gia đình mình thì nhất định không thế rồi.
Nói chung, mình chưa hiểu rõ lắm về Minh và gia đình cậu ta. Biết chung chung, đại khái.
Tối nay, liên hoan tiểu đoàn, ăn cơm muộn nên được phép nghỉ. Mình nói chuyện với bà.
Bà
kể chuyện "Duyên Tiên”, chuyện “Trương Chi”,v.v... làm mình như trở lại
trẻ con. Thương anh Đổng Vĩnh ra gốc cây đề và khóc, ngóng lên trời tìm
nàng Bảy.
Nàng tiên ơi, tấm lụa trắng đâu rồi, và gốc cây đề ấy ở đâu trong rừng sâu kia?
“Mùa xuân hoa nở, thiếp về
Mời chàng ra gốc cây đề nhận con…”
Bà bảo mình đọc “Bầm ơi”, mình đọc, gió lành lạnh và mình thương mẹ quá, mẹ ơi…
Bà
đã 60 tuổi – Bà bảo, năm nay là “năm tuổi”, mẹ mình đã qua tuổi 49 và
53 rồi, không bị làm sao là mừng lắm. Lạy trời cho mẹ sống lâu, sống mãi
và đừng ốm đau gì cả. Thương mẹ lắm mà không biết làm gì. Thù thằng Mỹ
quá, phải giết hết nó đi.
15.11.1971
Thằng
Mỹ, nó là cái gì mà mơ hồ như thế? Đi bộ đội, mình cảm thấy hơi mông
lung trong việc nhìn nhận kẻ thù. Hố bom còn toác ra ở trên đồi. Và cảnh
làng xóm tiêu điều, bị tàn phá ngày 29-2-1968, ta đâu có quên. Mặt mũi
thằng Mỹ thế nào? Hẳn đó cũng là khuôn mặt người bị bóp méo xộc xệch.
Hẳn đó là bộ mặt nhăn nhúm trước ánh sáng mặt trời.
Đêm
ấy, thật đau lòng. Hồi chiều, bị ném 40 quả bom. Điện bị đứt lung tung.
Làng xóm chìm trong tang tóc và bóng đêm. Ở ngay trước ngõ là một bát
hương hiu hiu khói. Anh Phúc bị bom tiện đứt cả chân tay, nằm trong
chiếc quan tài đỏ, ngọn đuốc nứa thổi phừng phừng, cái xe bò lăn lộc
cộc... Sao giống “chiếc quan tài” như thế.
Không,
suốt đời ta không quên, ta không quên cảnh em bé miền Nam đập tay lên
vũng máu. Dưới tay em lẽ ra là chậu nước trong mát – cái biển mênh mông
của tuổi thơ hồn nhiên, nhí nhảnh…
Thằng
Mỹ, nó thế nào? Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta
– cái day dứt trong ta là khi nào được vào miền Nam, vào Huế, Sài Gòn -
xọc lê vào thỏi tim đen đủi của quân thù.
Ta
ngồi đây, thanh bình như thế. Nhưng ở cuối trời Tổ quốc, bao nhiêu
người con ưu tú của dân tộc đang đổ máu, đang giập gãy từng khúc xương,
đang bị kẻ thù đày đọa và các đồng chí của ta, anh giải phóng quân kiên
cường đang nín thở đợi giờ xung trận, đang đói rét và đau nhói vết
thương trên một cánh rừng già.
Vậy
mà, lại đến giờ đi ngủ. Những cơn gió liu riu trên cành tre đưa ta vào
cơn mơ - Ta lại trở về với cái ngõ nhỏ của mình... Lạc lõng ư? Có lẽ
nào!
Ta
biết giấu mặt vào đâu, vào gấu quần hay gấu áo, khi đường Trường Sơn
không có dấu chân ta? Khi cả cuộc đời ta chưa có cái niềm vui mãnh liệt
của người chiến thắng, cắm cờ Tổ quốc trên cả nước thân yêu.
Phạm
Tiến Duật, Triệu Bôn… Các anh đêm nay ở đâu trên Tổ quốc? Các anh có
viết những bài thơ, những truyện ngắn vào giờ này? Ôi, những nhà thơ,
nhà văn - chiến sỹ, ta gặp nhau trên cùng một ước mơ làm nhiều cho Tổ
quốc. Chúng ta có mặt trên trận tuyến ác liệt nhất, khi đất nước đánh
thù, có gì tự hào hơn nữa.
Ta bỗng nhớ câu thơ của Hồng Chính Hiền:
“Thương nhau, thương nhau nên hoá gần nhau
Nghe cả tiếng hiệp đồng qua hơi thở…”
Các anh có nghe tiếng tôi? Tiếng của đứa trẻ bước chập chững vào đời với bao thôi thúc, bao niềm tin, hy vọng?
20.11.1971
Đại đội trưởng cũng đi rồi. Quân đội đúng là một đại gia đình, và đi đâu cũng người nhà cả mà thôi.
Chẳng
cần tiễn đưa gì cả. Cắt cho Đại đội trưởng cái đầu mới toe - Kỉ niệm,
thế là đủ rồi. Mà kể cũng lạ, biết đâu lần này chính là lần gặp cuối
cùng trong đời! Thế mà thật bình tĩnh, thật thanh thản. Nhưng, riêng
mình vẫn không thể bình thường được.
Hôm nay Quốc tế hiến chương các nhà giáo đấy. Mình định viết thư cho thi sĩ, nhưng rồi lại bận quá. Không viết được.
Càng
nhớ thầy, càng nhớ bạn, càng lo lắng về công việc của mình. Tuần lễ cứ
trôi qua, ngoảnh lại, chưa làm được việc gì ra hồn cả. Cả thói quen ghi
chép cũng không rèn luyện được. Thật đáng lo.
Khi
còn phổ thông, ước mơ khá lớn, khá lâu dài là được đi xa và nhiều, và
rảnh rỗi mà viết lách. Bây giờ, thoải mái, không phải suy nghĩ gì về bài
học cả. Thế mà từ khi đi bộ đội đến giờ, mình đã viết được gì đâu.
Cầm
viết được nhiều, quả thực ở nó có tài năng, hay ít ra, đó cũng là một
khả năng tốt. Khanh bảo Cầm nó chăm lắm, mặc dù sức khoẻ yếu. Mình nhớ
dạo mới đi bộ đội, hay gặp Cầm lang thang trong đêm. Có lần đi gác, Cầm
nằm ngủ ngay trên cái cầu xi măng bắc qua sông Tô Lịch. Nó bảo nó nằm
nhớ lại dĩ vãng xa xưa của nó ở Kinh đô, đôi guốc mộc và cái quần chùng,
hàn huyên với các sư huynh bên quán nước.
Kể
cũng lạ, ở nó có gì đáng học đâu, ngoài những ý sáng tạo trong thơ.
Cách sống của nó hơi ngang tàng và thiếu nghiêm túc. Nhưng vì sao nó nắm
bắt mạch thơ đúng thế. Tưởng như lời nào của nó cũng là thơ(!)
Giới
thiệu bài hát, nó bảo: Mười con chim sơn ca nuôi trong cổ họng xin ca
nhạc phẩm “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây" nhạc của (...), lời Phạm
Tiến Duật. Nhạc Việt Nam được trộn pha ácjăngtin… liến thoắng như cái
máy mà hấp dẫn. Lúc ấy, nó thật đáng yêu, và con người nó hoàn toàn là
của nghệ thuật.
Có
điều là những cái nó viết ra xanh xao lắm, và hơi trừi tượng, nó đèm
đẹp và trơn tru, nhẵn nhụi; Nó thiếu một sức ấm nóng lan toả. Có lẽ điều
đó không phải không đáng ngại.
Mình không muốn và không được đi theo con đường ấy. Cứ kiên trì, bình tĩnh và tích cực, mình sẽ làm được hết.
Có
điều thơ là gì mình cũng chịu. Thơ không cần chi tiết mà cần hình
tượng. Hình tượng thơ phản ánh tâm hồn con người. Đó là điều quan trọng
trong thơ.
Cuộc
sống này, mình rất yêu, rất đắm mình vào. Nhưng sao ngòi bút cứ tắc, cứ
ngắc ngoải? Có phải vì mình không có khả năng? Dám thế lắm.
Càng ngày mình càng hiểu: Không dễ dàng gì đâu. Dẫu anh có đi nhiều, biết nhiều, nhưng cũng cần phải có phương pháp tốt.
Trước
kia, còn viện cớ này nọ. Nào dò đường, nhận đường, nào tự tìm mình, tự
xác định dấu vết... Nhưng chẳng lẽ mình cứ hão huyền thế mãi. Cứ lí luận
suông thế mãi hay sao?
Mình
đã sống thật hay chưa? Chưa, chưa nghiêm túc sống. Trong cả sinh hoạt,
trong cả rèn luyện và trong cả danh dự, lương tâm của người cầm bút tự
giác.
Ao
ước quá, nếu như được đi trên tuyến đường Quyết Thắng, được đi trên
đỉnh Trường Sơn, gặp nhà thơ trẻ P. T. Duật… Mình không biết sẽ hỏi gì,
nhưng chắc chắn cuộc gặp gỡ đó sẽ thú vị biết bao.
Bao
nhiêu điều muốn hỏi. Bao nhiêu băn khoăn thắc mắc: Thế nào là đề tài,
chủ đề thơ? Thế nào là cấu tứ một bài thơ? Nhưng quan trọng hơn cả là
nhìn cuộc sống ra sao để có thể đưa vào thơ, vào truyện những vấn đề
nóng hỏi của cuộc sống.
Mình
bắt đầu ghét những cảm xúc mòn, xáo về một đêm hành quân, một đêm gác
khuya, một buổi gặp gỡ hoặc chia tay trong cái ngõ nhỏ thơ thơ. Không
phải là Lý Bạch để có thể quên “Hoàng hạc lâu” mà sáng tác. Cứ hành
quân, là trong đầu lại thơ, lại những bài thơ về hành quân mà mình đã
đọc. Vậy là chịu, không thể có một ý gì mới mẻ nữa.
Chẳng có lẽ bầu trời kia không dành riêng ta một ngôi sao xanh, một ngôi sao đỏ làm nên cái lấp lánh của bài thơ?
Mình
đi lạc đường chăng? Đâu là "Đường vào thơ”? Càng nghĩ, mình càng bị day
dứt và dằn vặt. Mình hiểu rằng không thể rời bỏ được thơ, được văn.
Nhưng viết ra thì không đủ độ chín. Chí nghĩ trong đầu đã đủ thấy nó xèm
xẹp, chỉ muốn dập tắt cái cảm xúc ấy đi. Không hiểu nhà thơ nào đã nói:
Ai đến với cuộc đời chiến đấu để làm thơ thì khó mà làm nên hồn một bài
thơ. Hãy bắt đầu từ cuộc sống, và từ đó sẽ nẩy ra thơ.
Mình
đến từ đâu? Mình mong làm được thơ, làm được nhiều thơ hay để làm gì?
Thú thực, chưa rõ ràng gì cả. Có lúc, mình muốn làm thơ chỉ vì được đọc
một bài thơ hay đến xuýt xoa! Có lúc lại muốn làm thơ để có tên mình
trên sách báo “Lưu truyền hậu thế” hay sao? Tư tưởng này rõ ràng là xấu,
không xuất phát từ quan điểm đúng đắn: Phục vụ nhân dân. Hãy bắt đâu
bằng người lính.
Bao
nhiêu cơn mơ, chỉ còn lại những cơn mơ hữu ích. Nhưng đêm tháng 7…
“Tháng 6 qua rồi T. nhỉ, bây giờ là tháng 7”… - “Tháng 7 là gì?” –
“Tháng 7, mùa thu, lá phong đỏ…” Cô gái nhỏ ấy ư, trong “ngõ cụt của tâm
hồn”…
Mùa thu trải dài như vô tận, cái màu xanh da trời như một niềm thương nhớ khôn nguôi...
Nhưng
còn mùa xuân, mùa xuân, mùa vạn vật sinh sôi của trăm ngàn hoa thơm quả
ngọt... “Thế là P. đã ở đây với những mùa đông lạnh lẽo và hoa tuyết
thờ ơ, bình thản này... Biết bao giờ ta mới gặp nhau? Bỗng nhiên lòng
buồn vô hạn. Hay là không bao giờ nữa? Và mùa xuân của cuộc đời P. là
như thế đấy..."
Không phải là như thế! Mùa xuân sẽ về, sẽ đẹp tuyệt vời nhờ sức lực của chính mình.
Tự
nhiên, mình cảm thấy và rất rõ ràng, mình có trách nhiệm với cuộc sống
của P.. P. như một cái gì, như trái tim mình, như một phần thân thể
mình. P. có khoẻ không, có nhức đầu và mệt mỏi hay không? Những đêm
khuya như thế này, P. đã đi ngủ hay chưa? Bài chắc nhiều và khó, có lúc
nào P. phải nhíu mày, tập trung suy nghĩ về một bài toán? Ước gì giúp
được cho P. phần nào, đỡ cho P. một phần khó khăn trong học tập...
Nhưng
xa nhau rồi... Kisinhốp, một thành phố nhỏ li ti trong cả liên bang Xô
Viết, xa lạ, xa lạ... Còn ngày mai, mình sẽ ở đâu, mình sẽ đi đâu, không
thể biết được. Chẳng bao lâu nữa là hai đứa hoàn toàn bặt vô âm tín...
Rồi sau đó sẽ ra sao? P. sẽ sống ra sao giữa Thủ đô của bình yên và sung
túc, của vật lý hiện đại?
Và chính cả mình nữa, mình sẽ sống ra sao?
Cơn
gió thổi từ phía đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi
lao ven đường... Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những vòng
sóng hình tròn toả rộng xung quanh... Sự sống hiện ra ở khắp mọi chiều.
Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có giọt nắng hình quả
trứng lăn nghiêng?
“Dĩ
vãng thì đã xa xăm. Mà cuộc sống thì luôn cất tiếng gọi trở về” -
Altưnai đấy – Có phải đấy là lời tự bào chữa. Song, chắc Đuy Sen cũng
rất hài lòng về chuyện đó – Như vậy đúng hơn và hợp lô-gich hơn!
Bắt
đầu là bộ đội. Rồi sau là thầy giáo. Sau nữa là Đuy Sen. Tập đó là Anh -
và cuối cùng, là Người, là ông già đưa thư âm thầm, lặng lẽ... Đuy Sen
sao khéo chôn kỷ niệm của mình mà sống. Đâu phải dễ dàng vì hai cây
phong còn đó, vì ngọn đồi Đuy Sen còn đó và mùa thu trở lại, lá phong đỏ
lại rơi, tơi bời trong chòm râu bạc... Con người đó đáng kính phục lắm,
lý tưởng lắm. Đã có ai trên đời này lấy Đuy Sen thay cho Carơsaghin?
Cuộc sống này thi vị biết bao và cần nghị lực biết bao!
Tại
sao Đuy Sen lại tự im lặng, tự ôm lấy con tim mình cho nó khóc? Vì hạnh
phúc của Altưnai ư? Vì quyền lợi của học trò ư? Vì ước mơ cao cả của cả
thầy và trò, của dân làng vùng Kadắc, thèm khát vươn tới đỉnh cao của
khoa học…
Còn
nhiều nữa và tin rằng, tất cả là sự thật. Nếu như Altưnai và Đuy Sen
lại ở bên nhau như hai cây phong tuyệt diệu như vậy, thì ông già Đuy Sen
cũng là một cái “tôi” to tướng...
Ta
biết vậy, ta biết vậy… Và con đường cũng mở cho ta hai nhánh lớn. Đuy
Sen ơi, Người là ngọn lửa, là ngọn lửa hồng giữa đêm thâu giá buốt. Ta
ước mong gì hơn nữa, được làm, được sống như Đuy Sen, được đau khổ và
sung sướng như Đuy Sen...
Ôi,
tiếng nói nghẹn thắt của Người thầy đầu tiên khi con tàu chuyển bánh,
cái tiếng thất thanh của con tim ứ tràn niềm xao xuyến... Altưnai…
Altưnai... Cái tiếng thân yêu ấy bánh sắt của con tàu đã lăn qua - Hay
trái tim giầu xúc cảm và lòng nhân đạo, lòng cao thượng ấy bị bẹp nát
trên đường xe lửa?
Cuộc
sống tuyệt vời biết bao, trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc
sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu muộn. Cái nên
thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời. Bao giờ để niềm vui về cùng hạnh
phúc, để những đôi bạn bình yên dạo trong rừng bạch đàn, có ánh nắng
xanh dịu và những đàn chim câu trắng muốt điểm sáng của rừng?
Phải
đấy, rừng không nên thơ như ta tưởng. Và để ngày mai tuyệt diệu ấy, hôm
nay, có bao người cầm súng, có bao người gửi gắm vào thiên nhiên xanh
tươi, vào cánh rừng gai góc âm u tất cả thời thanh xuân của mình.
Ai
đấy, khi nắm tay người bạn thân yêu của mình, khi cánh buồm xanh đi về,
cánh cửa trời rộng mở, chớ quên dưới chân mình là cát sỏi, là hòn đất
đượm mồ hôi, thấm máu của bao thế hệ, mà cuộc sống của họ đã xa xôi...
Ai
đấy, khi khoác vai người bạn yêu quí của mình, chỉ cho bạn, kia là ngôi
sao Hôm - ngôi sao Mai. .. Ngôi sao ban chiều và ngôi sao của bình
minh. Chớ quên rằng, có buổi sáng nào, sao Mai, mang màu đỏ, màu máu và
màu lửa! Chớ quên rằng, để đêm trăng có những ngôi sao tình tự, để con
người tự do mơ ước vươn tới những đỉnh cao xa; có những trái tim đầy
khát vọng phải xếp vào ba lô mọi mơ ước dịu hiền nhất, mọi tương lai cá
nhân quen thuộc nhất. Mà đánh giặc.
Có
lúc nào anh tự hỏi mình: Đâu là chiến hào đánh Mỹ? Đâu là dây cung để
bật những mũi tên căm uất? Còn tôi. Từ rất lâu rồi, tôi đã tìm ra đâu là
chỗ đi và chỗ đến của mình...
Tập 2
22.11.1971
Không
có ai cầu nguyện cho mình cả. Những ngọn nến nhấp nháy trên sườn đồi là
lô cốt địch. Còn những bảng đen ngòm kia là thằng Mỹ - Hãy cho chúng no
đòn. Đồng đã đi qua mùa gặt. Hương lúa chia đều khắp các nhà và trăng
lên sớm cho sân kho nhộn nhịp. Rơm còn phơi đầy trên ruộng, rơm gác lên
đống rạ, mềm đi vì sương sớm… Dạo mới đến đây, rừng thả hạt dẻ lăn lách
tách trên đồi. Còn bây giờ, lại mùa hoa dẻ. Hoa dẻ rừng trắng pha vàng
như hoa nhãn, như hoa hồng bì.. . Cả rừng như mở ra cho vô vàn mùi hương
lạ lùng thì thào cùng anh bộ đội.
Đàn
dê đi lẫn trong vạt cây thấp, cây mua lá xanh mềm như nhung, cây khế
rừng lá tím... Tiếng chuông thơ ngây trên cổ lũ dê rung lên bỡ ngỡ,
tưởng chừng như giọt nhựa ứ ra và cuộn thành giọt, rơi từ tốn. Đó là
những ống đếm thời gian của rừng già...
Đêm
rủ bức màn lốm đốm sáng, đồi chìm vào chân mây, đất và trời bị xoá nhoà
ranh giới... Còn anh bộ đội thì hồi hộp đợi chờ. Lần bắn thứ hai trong
đời lính. Anh hãy nghĩ: Kia đúng là thằng Mỹ, là kẻ thù và ghìm súng vào
ngực nó. Đừng lo bắn vào quả tim người, chúng nó chẳng có tim đâu!
Anh hãy nghĩ: Cuộc sống yên lành và ngân nga như lời thơ kia bị cào xé bởi ánh lửa ghê tởm trước mắt anh.
Hãy đứng trong chiến hào của đời mà bắn!
Sương
dày nên đạn chưa căng. Tiếng nổ không chát chúa mà âm âm. Đèn vỡ tung,
đạn xuyên qua phao dầu, đạn phá rách toang bia. Phải như thế, mới hả căm
thù!
Thủ trưởng bảo: Ta bắn giỏi không phải như anh chàng trong “Hoa diếp dại”. Đạo đức cách mạng của người Việt Nam khác thế.
Tự
hào lắm, khi được lang thang trên mảnh đất Mẹ hiền này và bảo vệ nó.
Còn ai hạnh phúc hơn ta nữa. Trang sách của cuộc đời chưa mở cho ta,
nhưng mới ghé mắt nhìn, ta đã ngây ngất cả người...
Tiếc thay, đã mấy ai nhận thấy?
23.11.1971
Sắp
từ biệt đây rồi... Một ngày lặng gió, nhưng lá bạch đàn vẫn líu ríu ở
đầu cây. Ôi, Tân Yên, vùng đồi trung du của dân ca quan họ, của tấm lòng
cởi mở chân tình...
Tới
đây từ 1.10, thế mà đã gần 2 tháng. Hai tháng đi qua cái cửa tre quen
thuộc, cái thanh tre chống khung cửa dước dốc, cái hàng rào dứa khi mình
đến, còn lưu lại vài qủa chín vàng, thơm lựng...
Ta
muốn thăm lại thị trấn Nhã Nam, quả bàng chín rụng, thăm hòm thư của
bưu điện giấu một niềm tâm sự, một lời thủ thỉ... Ta muốn lại ngồi trong
quán nước, gặp bà hàng nhai trầu bỏm bẻm, muốn đi qua sân bóng, muốn
vào thăm mái lều san sát của bãi chợ ồn ào...
Ta
muốn vào thăm nhà bên kia đồi, có cái xe bò và có anh chàng canh đồi
dẻ, thăm cụ già mù bật ngón trên cái kèn đưa người ra ruộng... Muốn đi
trên cái dốc "hết ý" của ngày gánh lúa giúp dân...
Ta
muốn mãi ngồi trên "đồi mặt trời" để sớm sương tan, mặt trời tròn đỏ ôm
lấy ta mà bay lên... Muốn mãi ngồi trong bếp của bà, nghe bà kể chuyện.
Cháu đun nước cho bà, bà khen cháu ngoan đi...
Nhớ lắm, nơi này, những con người ở đây… Ta cúi chào tất cả. Từ biệt Tân Yên, núi đồi và bạch đàn...
Đất
này, tuyệt đẹp. Núi sông này vây bọc lấy đồng bằng đâu phải tôi bom cho
quân thù trút lửa! Và con đò mộc đi trong lời thơ đâu phải mục tiêu cho
kẻ thù bắn phá.
Hãy
khoan đến ngửa tay cầu trời ban cho một bông tuyết trắng. Đêm buông yên
lặng cho đôi chim tình tự, cho cây cỏ bình yên trỗi dậy và cho cả anh
bộ đội chuẩn bị lên đường
Cháu
Oanh và cháu Quế đã ngủ rồi. Bà và chị Nhàn cũng ngủ... ôi. ta xa rời
ngôi nhà ấm cúng còn phảng phất khói hương này. Mười năm sau sẽ có biết
bao thay đổi. Ta có được trở về thăm lại gốc chè xanh của bà, thăm luỹ
tre vừa gieo mầm trong tháng... Lúc đó, sẽ khác nhiều và cuộc đời chắc
đẹp, chắc thơ gấp bội.
Tháng
2, bà trở lại Thái Bình. Cháu lại đi với mối thù thằng Tây mũi lõ,
thằng Tây quấn thừng đã làm một đời bà khổ. Khi thắng lợi trở về chắc bà
không còn nữa. Song, đời bà đã mấy mươi lần tiễn các con đi... Chị Nhàn
vất vả mà vui, ấy, người phụ nữ đảm đang có chồng là liệt sĩ. Khuya thế
này chị còn đi đâu, ánh đèn bão lung linh sau hàng dâm bụt... Ừ, như
thế, những tâm hồn cao thượng đang nằm nghỉ, ngày mai, họ lại viết tiếp
lịch sử của loài người.
Ta
bỗng nhớ xa xôi đến đỉnh màn thân yêu, mùa hè thì nóng, mùa đông thì
lạnh. Nhớ vườn mía mùa này ngọn gió cũng mang vị ngọt...
Ta
nhớ bạn, nhớ Lăng, Hậu, Hải, nhớ từ thằng Kiểm đến dáng người xa lạ ta
gặp ở bến xe... Đêm nay có phải là đêm chuẩn bị hành quân vào trong ấy,
mà kỷ niệm thức dậy. Ngồi trầm tư trước ngọn đèn...
Mai,
Minh đi tiền trạm. Tế vẫn đau bụng rồi hành quân ra sao. Củi không hiểu
đã đủ chưa, sáng mai đi lấy gạo. Cải nhổ được rồi đấy, cân cho nhà bếp
là vừa... Lỉnh kỉnh lắm, nhưng gọn biết bao, chỉ day dứt là cái lòng anh
Đất này, Tân Yên...
Em đừng khóc, các anh đi rồi lại trở về mà. Lau nước mắt đi em. Ta là người Việt Nam, sống trên đất nước Việt Nam...
“Đất nước của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép
Lúc chia tay không hề rơi nước mắt
Nước mắt chỉ dành cho ngày gặp mặt... "
Rồi
cuộc đời ta sẽ quen với những lần chia tay, những giờ bịn rịn, nhưng
lúc này, ta lại nhớ đến P. . Buồn biết bao, khi đi xa không có P. ở bên,
không có người thân yêu nhất của mình.
Sương xuống lạnh buốt, phải mặc áo rét vào và đi tất. Cái lạnh... Chao ôi...
P
. đang làm gì ở nơi xa xôi ấy? Ta lại phải chia tay, lủi thủi một mình,
đơn chiếc, ánh mắt kia đâu phải của người ta yêu quí, và gốc cây này,
của các bạn thôi...
12 giờ đêm 23.11.1971...
…Vẫn
chỉ là tấm ảnh... “Những ngày cuối cùng ở Hà Nội. Sau một đêm thức
trắng đấy! A. 2.7.1971". Đôi mắt vừa âu yếm, vừa buồn bã. Đôi môi cười
ư? Không phải. Chỉ biết cứ nhìn...Ta cúi xuống và hôn...
Lại
thế nữa cơ, nhưng chả là như vậy. Nhớ lắm P. ơi, và đừng nỡ trách… Buồn
biết bao nhiêu khi để lại trên môi hơi lạnh của mùa đông... Ta chỉ còn
tấm ảnh, ta trò chuyện cùng tấm ảnh, ta thổi vào tấm ảnh một linh hồn...
26-11-1971
Thế
là tạm biệt Tân Yên, tạm biệt đồi bạch đàn thân yêu. Cái lô cốt trên
đồi chắc đã nhắm mắt và chui vào lòng đất sương mù lại choàng khăn trắng
ở lưng đồi. Đang mùa dẻ ra hoa. Hoa dẻ hăng hăng, mảnh mịn và nhỏ li
ti, nhưng gần gũi và thân thiết biết bao...
Ba
giờ chiều rồi, bà đang làm gì? Nồi nước đun dở đã sôi chưa? Hai bà cháu
đun nồi nước cuối cùng vào 4 giờ đáng 25.11, vòi ấm chưa phì ra hơi
nước, cháu đã khoác ba lô lên vai rồi... Thôi, thế là mãi mãi không còn
gặp bà nữa. Bà cô đơn suốt cuộc đời nên có bao nhiêu con là bộ đội.
Những
chân rạ, hồ cá, cửa tre, giếng nước... Bà, chị và hai cháu... Các bà
mẹ, các cô gái, các bạn nhỏ trên đồi... hãy ở lại yên lành và hạnh phúc.
Hãy trông nom đồi bạch đàn cho cao lớn...
Chia
tay trong sương mù. Ban đêm, rạng sáng, những hạt đen nhỏ li ti giấu hộ
dân làng nỗi xúc động oà ra nơi loé mắt... Dẫu thế nào, ta vẫn là thiếu
thốn...
Cột
cây số chỉ Bắc Giang 22km. Tiến về phía đó... 600 con người gò lưng và
bước. 30kg trên lưng, đường bụi... Phải, lần nào hành quân cũng vậy.
Không còn nghĩ ngợi được gì nữa. Thiên nhiên thu hẹp bằng nắp vung dưới
gót chân người đi trước. Không gian như co, như dồn, như ép, ép mạnh vào
khắp cơ thể, vào cổ, vào vai, vào lưng, vào chân. Mệt lắm, nặng lắm. Sự
thật gồ ghề biết chừng nào.
Ta
như lần tay trên cạnh sắc lạnh của cuộc đời, và nhớ da diết đến P.;
dường như đối lập với cái khô khỏng và dữ dội ấy là hạnh phúc êm đềm khi
đứng bên P.. Ôi, đôi vai tròn, nhỏ nhắn, gò má và đôi mắt mềm đằm thắm
biết chừng nào... Nhìn mãi, nhìn mãi mà không thấy P. đâu. Chỉ thấy bụi,
cát, ồn ào và nặng nề, mỏi mệt. Chỉ thấy gánh nặng của đời đè gí hai
vai. Hình như đâu đây có tiếng nghiến răng, tiếng ồ ồ từ lòng đất như
một lời cảnh báo: Mày muốn xa rời đất này ư? Muốn đi đến thế giới huyền
ảo ư? Thì đấy, hãy chôn chân mày, dán chân mày xuống đất và cúi gằm
xuống đất này mà đọc lời nguyền rủa!
Đúng
lắm, mình có lỗi lắm. Thần Prômêtê bị xiềng trên bờ biển vì đánh cắp
lửa cho những trái tim. Còn mình, muốn trốn trách nhiệm hay sao?
Chỉ
nghĩ được thế thôi, và trong phút giây nào dám ngước nhìn ra xung
quanh, có chút tự hào về đất nước, về những con đường dành cho những
người đầy nghị lực, không sợ chông gai.
Phía
xa là sân bay Kép, từng biên đội đang cất cánh, nhìn rõ cả mũ và buồng
lái. D ĩ nhiên phải có màu xanh giản dị và trùng điệp ở dưới này...
Nặng
quá và xa lắm. Được nghỉ là ngã luôn xuống vệ đường, không đủ sức tháo
người ra khỏi balô nữa. Nếu như có P. ở đây, P. sẽ nghĩ gì ? Có thương
mình không nhỉ? P. sẽ nghĩ gì khi người bạn của riêng P. nằm há hốc mồm
mà thở, rời rã chân tay và ngủ thiếp đi trên cánh đồng khô đầy bụi và
chang chang nắng... Nhưng nếu có P. ở đây có lẽ mình cũng không nằm thế
và sẽ đi bắt chuồn chuồn!
Đằng kia là núi Yên Tử - Trường Sơn thu nhỏ và đang chờ đợi.
Đi
đông là niềm tự hào lớn lao của anh bộ đội. Người nào cũng nhận ra
trung đoàn quân ấy một chút thân thể của mình và đều thương anh bộ đội.
Còn mình, cũng tự hào là 1 phần tử nhỏ trong sợi dây xích màu xanh.
Em
nhỏ bảo đây là Ngọc Lý, đã sang huyện Việt Yên. Lại Yên! YênSở, Yên
Thế, Tân Yên, Việt Yên... chữ “huyện” ở đây đây gọi là "sểnh" thì phải,
nghe là lạ...
Đến
Sen Hồ vào 11 giờ trưa, tên "Sen Hồ" thì mát, thế mà Sen Hồ vừa bụi vừa
bức bối, Sen Hồ cách Nhã Nam 18km... Lần đầu tiên trong đời đi bộ được
quãng đường xa như thế, với 30kg trên vai! Kỳ công thật!
Thị
trấn của Việt Yên, qua cái dốc và kia, đường nhựa. Ôi đường nhựa. Ôi Hà
Nội... Bộ đội ùa ra và dẫm chân lên đường nhựa mà reo... Con đường thân
yêu trải dài trước mắt. Hãy đặt ba lô và xoa tay trên mặt đường...
Nhưng,
chỉ 1 loáng, chiều rộng của con đường chỉ đủ cho anh lính đi trong giây
lát... Ta lại đi ngang những cuộc đời bận rộn của thị trấn. Cô thợ cắt
tóc, cửa hàng chữa đồng hồ. Bà già bán ớt, bán cam, chanh, đủ cả chua,
cay, mặn, chát, ngọt, bùi. Như là chính cuộc đời của bà...
Ga
Sen Hồ, có tiếng còi xe lửa. Kia là quốc lộ số 1, một ngả về Hà Nội và
một ngả đi Lạng Sơn, đi về phương Nam và đi lên phương Dắc... Đất nước
làm thức dậy trong ta những kỉ niệm còn tươi và những kỉ niệm bị lãng
quên tù rất lâu rồi. Ta thấy trái tim như nghẹn lại. Nước mắt đã khô
trên gò má, nhưng quả tim thì khó lòng mà kìm lại được... Nhất là đường
xe lửa với cột đèn tín hiệu, với tiếng còi tàu gợi một chuyến đi xa… Như
Anh ơi, T. khổ biết chừng nào…
Bắt
đầu đến trạm dừng chân, làng nằm ven đường quốc lộ 1A, bộ đội lê chân
vào sâu trong xóm. 2 giờ chiều rồi, bụng đói, mệt và đau. Chân phồng rát
như phải bỏng và cứng đờ.
Thôn
xóm không nguyên lành. Dân ở đây sơ tán vừa về một vài gia đình nhà cửa
bị bom Mỹ phá sập, đang dần hồi phục. Mùi xoan ngâm quen thuộc, không
dễ ngửi mà đi sâu vào lòng người. Gia đình có cụ già làm thuốc. Cây
thuốc mọc quanh nhà, đầy vườn và cả bên giếng nữa. Một chái nhà còn
trống hoác và hở ra cả một khoảng trời trong vắt. Lạ, năm nay trời xanh
rất lâu...
Cây na, quả chín nẫu, tím sẫm trên trời.
Gia
đình có cô gái học ở Kháccốp... Nói chung, mọi sự đều như thế. Bom rơi
trên mái nhà và người ta vẫn đi cho mai sau. Bao nhiêu ý nghĩ trên đời
này đều hướng tới tương lai, nhưng bàn tay họ thì chạm vào hiện tại.
Nhất là những người mặc áo nâu hở cúc này.
Ở
đây vẫn thuộc Việt Yên. Ngủ đêm trên cái chõng nan lạch phạch. Bốn đứa
co quắp và ngủ thiếp đi. Cái chân đau rát khi chiều đã dịu và hơi tê tê
do ngâm nước muối. Ta vẫn bắt gặp vành trăng quen thuộc trên vòng tròn
của miệng giếng và mánh trăng sáng trắng vỡ tung.
Như
mọi lúc ta tự hỏi: giờ này, Như anh đang làrn gì? Kìa, mái tóc rơi vào
trang sách rồi- Cẩn thận kẻo nhoè mất chữ. Còn ở đây chỉ nghe tiếng vỏ
cây nứt, tiếng chó sủa và tắc kè ran ở xung quanh.
3
giờ sáng đã dậy, nấu cơm và lên đường. Vốc nước rửa mặt, nhớ câu thơ
của ai đó “Quân đi lòng mẹ bùi ngùi/ Tiếng hò kéo pháo bên đồi vọng
sang”… Đúng lắm, và hay lắm. Câu thơ hay vì bước ra từ một đêm dừng chân
như đêm nay.
Thị
trấn còn ngủ, cành bàng xoè che những mái nhà êm ấm. Ta đứng trầm tư
trên đường sắt và nhìn về phương Bắc - Chân trời phía xa mù tịt, gió
lạnh thổi buốt giá mặt mũi và chân tay... Tìm mãi, đâu rồi khoảng không
gian mà Như Anh chiếm chỗ, khi con tàu đưa người ta yêu quí đi xa. Lúc
Như Anh đến trên cùng một mặt cắt với T. ở đường xe lửa này, dáng người
yêu dấu ấy là đâu?
Lúc
qua đây, Như Anh nhìn về bên trái hay bên phải? Chắc là bên phải, phía
đường quốc lộ, vì T. đang đi trên con đường này… Không hiểu có phải thế
không?
Ta gặp nhau ở giữa Thủ đô và ở cả trên mọi nẻo đường đất nước… Ta gặp nhau và sẽ mãi mãi bên nhau…
Đến
Đáp Cầu, sông Cầu, ngày nào ta đọc bài thơ của Chế Lan Viên: “Có gì
đâu, sông Cầu/ Có gì đâu, gì đâu…” hôm nay đã đến - Cầu bị lật sang bên
đường, nhưng xe lửa còn đi được. Nãy, một đoàn bộ đội trên tàu đi ngược
lên phía Bắc và vẫy mãi, lính gặp lính mà.
Phố
bên kia già nua và cũ kỹ lắm rồi. Dường như nó lật áo cho bộ đội xem
vết thương của chiến tranh. Than đen đầy trên bến, lam lũ lắm. Bụi than
bám đen cả mặt mũi, cả trên vai và ba lô. Vùng này bị lụt nước sông Hồng
dâng cao, ngày 31.8.1971, nước ngập quá mặt đê 30cm.
Còn
bây giờ, sông Cầu đang rút nước. Nhưng mặt sông còn mênh mông lắm.
Thuyền câu, thuyền đánh cá miên man với làn nước biếc. Buồm trắng, buồm
nâu se từng sợi gió và lấp dần vào khúc ngoặt của dòng sông. Những chiếc
xà lan nông nổi vẫn ngược dòng chở đá. Tiếng chuông nhà thờ thành kính
gọi mây trời... Sang đất đạo rồi! Loáng thoáng thấy gác chuông và cây
thập giá. Qua ống nhòm, thấy cả chúa Giêsu giang tay chịu cực hình, và
con đường được nhận ra bởi hàng cây rất xanh...
Bộ
đội nằm ngổn ngang ở sườn đê. Thịnh ngó vào mắt mình và thét lên: "Mày
hết cả lãng mạn rồi?" Khổ thế, mắt mình có gì mà lãng mạn. Đôi mắt chết
ấy, có lẽ là lãng mạng thì đúng hơn! Nhưng vùng này quả là đẹp, như
trong tưởng tượng của mình về đồng quê, cánh cò trắng muốt vỗ nhịp vào
ra trong lời mẹ hát. Càng gần Bắc Ninh, xứ sở của dân ca, phong cảnh
càng êm dịu, càng quen thuộc và mênh mông như bài quan họ "Trên rừng 36
thứ chim”…
Dẫu
rằng đất này vừa bị lụt, đồng còn nâu bạc, cỏ cũng úa vàng, và người
làm đồng thì thưa thớt, rơm rạ còn mắc đầy trên dây điện và bốn bề có
mùi cá tanh tanh...
Nhưng
vùng quê vẫn đậm đà phong vị dân tộc ở tà áo, nét cười, dáng tất tưởi; Ở
bầu trời xanh màu Tổ quốc và dãy xoan, lốm đốm chùm hoa đỏ, nhất là luỹ
tre le te, lúc lắc, rì rào, tâm hồn của nông thôn Việt Nam...
Xã
trú quân là Đại Xuân, thôn Xuân Hoà - Quế Võ. Xã công giáo và từ rất
lâu, bộ đội không đóng quân ở đấy. Phức tạp lắm... Bọn mình rất lo và
yên lặng tiến vào. Nhà cửa đổ sụp sau lần bị lụt được tạm bợ dựng lên,
tường còn vô vàn lỗ thủng cho gió lùa vào. Chuông nhà thờ từ cõi sâu
tịch mịch vẳng ra... Phải đấy, đấy là phía quân tiến vào.
Tiền
trạm cho biết, tình hình rất căng. Hoạt động chính trị còn nhiều việc
cần giải quyết. Chỉ những người trong chi bộ mới biết ai là đảng viên.
Bà Trùm, khi chết, cả xã mới ngã ngửa người vì lúc ấy mới rõ, bà là đảng
viên từ năm 1958.
Nhưng
dân công giáo cũng không khác gì mọi người. Đều quí và thương anh bộ
đội. Đón bọn mình ở đình làng, cửa tam quan bị sụp, trống huếch, trống
hoác, nhưng các mẹ ở hội Mẹ chiến sĩ nhiệt tình lắm, và rất vui khi thấy
bọn mình khoẻ trẻ, sung sức, chỉnh tề.
Mình
vào nhà anh Cương, 35 tuổi và có 6 con, chủ nhiệm HTX. Chị vợ vừa sinh
cháu được một tháng, đúng vào vụ lụt. Nhà cửa đổ hết, mà anh đi họp, đi
công tác suốt ngày. Bà mẹ đã già và rất yếu, ngồi ăn cơm ngô trệu trạo,
nhìn mà rớt nước mắt.
Nước
ngập lên hết tường, ngập lưng thân mía. Thóc, lúa bị tàn phá nặng. Song
cũng giống ở Sen Hồ, nhân dân vẫn lạc quan, tin tưởng, và sớm chiều,
nhà thờ vẫn thong thả gióng hồi chuông gọi con chiên đi cầu chúa...
Vùng đất của nhà chung khá rộng. Cây cối nhiều, nhất là mía, ăn thả cửa. Nhà nào cũng theo Đạo, và trong nhà treo đầy ảnh chúa.
Nhà
thờ khá rộng và đồ sộ. Mình dừng chân ở bậc đá khi trời vừa sụp tối,
ánh sáng nhờ nhờ của buổi hoàng hôn tăng vẻ huyền bí, giọng cầu kinh âm
rung trên vòm cong của nhà thờ, nghe rờn rợn quá. Trong nhà treo lá cờ
đen, có hai khúc xương bắt chéo đỡ lấy bộ xương đầu. À, hôm nay là tháng
11, đọc kinh cầu hồn cho người quá cố. Cụ trùm trưởng già, đầu nhẵn
thín, khoác bộ quần áo đen như một linh mục. Tiếng cầu kinh như rên rỉ,
than vãn nhưng mạnh mẽ, dồn dập và không khi nào ngừng. Nó thổi vào lòng
người một sự cuồng tín, tin tưởng ở một sức lực siêu phàm. Nó đè bẹp
mọi ý nghĩ phản kháng, và bao trùm lên tất cả những bài ca đều đều, buồn
ỉu ấy là sự phục tùng, nhịn nhục...
29-11-1971
Nói
chung, mỗi địa phương, mỗi thị trấn nhỏ, một ngôi nhà khiêm tốn nép ở
bên đường đều nói với khách bộ hành một lời nào đó rất riêng và rất
chung. Khiến người ta không sao quên được.
Ví
như trường cấp 3 Tân Yên, trường cấp 3 Quế Võ, các em nhỏ đang ngồi
trong lớp học. Còn cô giáo đứng ở ngoài cửa, chờ tiếng kẻng mở tâm
hồn...
Những
khuôn mặt hồn nhiên và tự tin hết sức. Ngày mai, đó sẽ là những người
con quí giá của Tổ quốc. Có điều các em có nhận ra điều ấy hay không?
Qua
Phố Mới, phố không còn mới nữa. Nhưng Phố Mới cứ gợi cho mình thị trấn
Bố Hạ mà mình đã đến chơi, khi ra bến Sỏi. Chợ Bố Hạ mùa này chưa có
cam, nhưng khách đã dập dìu.
Hà
Bắc có mấy thị trấn nhỏ thì đều quét vôi lại và cũng khá vui. Phố Mới
giống như ô Cầu Giấy, cũng có chi nhánh ngân hàng và cửa hàng Bách hoá..
. Ở đâu, cũng gặp quá khứ, cũng gặp tương lai.
Đi
trên cánh đồng Xuân Hoà, ta dừng chân nghỉ bên cạnh nghĩa trang liệt
sĩ. Lạ lùng thay, trên những tấm bia đá đơn sơ trầm mặc, có cả tên ta.
Cùng họ, cùng tên đệm và cùng tên. Người đó già hay trẻ, chỉ biết hy
sinh ngày 9.10.1952, 5 ngày trước khi mình cất tiếng khóc chào đời.
Vậy
mà đêm trước, mình không biết. Thế là qua một đêm, "người kiếp trước”
của mình sống cô độc dưới nấm mồ. Nhưng không dừng lại lâu được. Ta chỉ
yên lặng, bỏ mũ và thầm hứa theo bước người.
Mười
mấy năm trời sống dưới bầu không khí thanh bình, mình chưa từng biết
rằng, mình đã sống một đời cho cách mạng. Có phải “tiền kiếp của mình
chưa trao vào tay mình nhiệm vụ còn bỏ dở, để mình lớn lên, lớn lên cho
kịp với yêu cầu của cách mạng. Và mãi bây giờ, vào buổi bình minh, mặt
trời cháy đỏ từ 99 đỉnh của núi Neo, vào lúc cả đơn vị hành quân, mới
thức dậy và tin cẩn trao vào trái tim ta.
Hỡi
"người kiếp trước" đang yên nghỉ trong sự yêu thương của dân làng, hãy
yên tâm vì con cháu. Không có sự mất đi vĩnh viễn trong cuộc sống của
những con người hết lòng vì dân tộc, vì giai cấp, vì Tổ quốc thân yêu.
Với
ý nghĩ đó, ba lô trên vai cũng bớt nặng đi nhiều. Lại sang đường nhựa.
Đây là đường 18, cột cây số chỉ cho biết cách Bắc Ninh 19km.
Ở
đây vẫn là vùng bị lụt. Mênh mông ở xung quanh là màu đất phù sa, chỉ
lác đác, trơ trọi màu vàng úa của cây cỏ… Và càng như thế, luỹ tre làng
xa kia càng trở nên xanh, như tâm hồn và ý chí của người dân ở đất ngọt
ngào.
Các
em nhỏ, các cụ già dừng lại bên đường vẫy chào anh bộ đội. Mình trở
thành người độc đáo nhất tiểu đoàn vì đi chân đất. Hôm trước phồng rát
cả gan bàn chân, bây giờ vỡ ra, không thể đi giày, đi dép được. Vả lại.
đi chân không trên đường nhựa thì cũng không có gì đáng sợ cho lắm. Thế
là phăm phăm bước theo ngón tay chỉ và nụ cười rất đáng yêu của các em
nhỏ bên làng.
Đường
18 đi đâu, về đâu? Không cần biết, đọc trên cột mốc, chỉ thấy Phả
Lại... Chỉ cần nhìn vết xích xe sắt băm nát mặt đường là đủ rồi, là đủ
tự hào, tự tin, đủ hứng thú và nghị lực đi lên.
Mà
cũng phải, chẳng lẽ lại dừng chân khi cả đoàn quân đang vượt lên phía
trước. Khi xóm làng còn xơ xác vì trận lụt, khi lối vào nghênh ngang tấm
biển: “Có dịch lợn”. Mọi cái, đều giục anh, đều nhắc nhở trong lòng
anh: Đi nhanh, đi nhanh chóng về nhà, quê hương đang chờ anh xây dựng.
Đất
nước thật nên thơ, nhưng phải nhói trong lòng anh xót xa vì cảnh tiêu
điều, xơ xác, anh mới thật sự yêu thương, thật sự cảm biết đấy là máu
thịt của anh, đấy là cuộc sống của anh.
Cảm
ơn hôm nay, cảm ơn viền xanh của ruộng bậc thang và cảm ơn cánh cò
trắng thuỷ chung đem về cho lòng ta mềm yêu tha thiết và gắn bó với đất
nước, với những con người đang lam lũ làm ăn.
Trong
tình yêu Tổ quốc, lại càng thêm nhớ Như Anh. Nhớ người bạn đang ở đầu
kia của Trái đất. Không được đi trên con đường mà mình đang cất bước.
Không được thấy cảm giác mát lạnh và nóng bức, không được đi chân đất mà
miết xuống lòng đường, lòng đất Tổ quốc.
Chắc
ở nơi xa xôi ấy, Như Anh nhớ lắm, quê hương. Chắc Như Anh không quên
được những con đường đỏ bụi, những đường cây, những buổi hoàng hôn thong
thả và những chiếc lá khô lười biếng lăn trên mặt đường. Nhất là con
người và kỷ niệm.
3 năm, 6 năm xa Tổ quốc, Như Anh có trở nên xa lạ với những người ngày đêm lầm bụi của cuộc đời?
3 năm, 6 năm xa đất nước, Như Anh có thêm yêu Tổ quốc, thêm gắn bó với mảnh đất đã sinh và nuôi Như Anh lớn?
Ở đó lạnh lắm, băng giá và mùa đông. Nhưng chớ để lòng mình nguội lạnh.
Mình mong mỏi và rất tin Như Anh sẽ giữ được những tình cảm đẹp đẽ và trong sáng đó của mình vĩnh viễn.
Mới
đó đã 4 tháng trời, 26.7, còn ở bên Như Anh, 1 giờ sáng 28.7, con tàu
đưa Như Anh đi xa… Bốn tháng, biết mấy mấy thương yêu, buồn khổ và nhớ
nhung. Niềm vui chỉ là lòng yêu đất nước và những lá thư âu yếm của Như
Anh. Niềm sung sướng chỉ là được Như Anh nhớ nhung, chỉ là những giờ
phút nghĩ về dáng người mà ta yêu quí.
Còn
tất cả. Đều khó khăn, đều sầu muộn. Thiên nhiên và con người. Suy tưởng
và thực tại. Mơ ước và làm việc. Tất cả cứ rối bung, rối mù.
Chân
cứ bước trong xa xăm, và con đường thì dài mãi. Và để người ta khoan
khoái nói được câu: "Rồi cuối cùng cũng đến nơi!" thì bao nhiêu mồ hôi
đã đổ, và bao nhiêu đôi chân tê dại.
Có
phải cuộc đời cũng chính là như thế? Càng ở lâu trong quân đội càng hay
nhớ đến Paven, nhớ Phạm Hồng Sơn. Nghị lực, chưa có trong con người ta!
Gặp
một tiểu đoàn đi ngược lại. Lính cũ rồi, họ chuẩn bị đi B, quân phục và
cả những gương mặt đều mới, đều hồ hởi - Bắt tay. bắt tay, thân thiết
biết bao. Các anh đi trước nhé. Trên ngực áo người nào cũng lấp lánh huy
hiệu của Đoàn Thanh niên giải phóng - Bọn mình lính mới cứ nhìn mà
thèm.
Tiểu
đoàn bạn đông thế mà không gặp lấy một người quen. Bọn bạn mình đi đâu
hết cả? Thế mới biết quân đội mình đông lắm, nhiều lắm và trùng điệp vô
cùng. Giọng Nghệ An, Thanh Hoá, Khu tư nằng nặng, giọng Thái Bình, Hà
Nội... Cái giọng Việt Nam ấy, dễ gần lắm. Ngày mai họ đã là quân giải
phóng rồi. Sướng mê đi!
Bộ
đội sắp đi B có khác, ba lô nặng trĩu và lính thì to khoẻ. Tự hào vô
cùng về chúng ta. Chúng nó rồi sẽ chết, các anh nhỉ. Tạm biệt, hẹn gặp
nhau ở chiến trường...
Có lẽ đấy là cảm xúc hào hứng và phấn khởi cuối cùng của đợt hành quân.
Bộ
đội nghỉ ở chân một con đê. Có đê thật, nhưng nhìn cả hai bên đê thì
chẳng thấy sông đâu cả. Các bạn bảo xung quanh đây rất nhiều sông. Và
sông Thương thì gần hơn cả. Trời trưa, nắng dữ dội hơn và nhìn ra xa chỉ
thấy cát, đường đê đầy bụi, đồi trọc và trời xanh thăm thẳm.
Lác
đác có bộ đội từ trong làng đi ra. Bọn mình sẽ vào đóng quân thay họ
đây. Hỏi thăm, họ bảo: "Gần thôi!". Nhưng vẫn chưa thấy tiền trạm đâu
cả. Tiền trạm luôn đứng đón cách chỗ trú quân 3km. Tức là chỗ này còn
phải đi hơn 3km nữa! Sợ thật!
Đường
từ đây không còn cây nữa, cây chỉ có phi lao ở xa xa phía bãi cát trắng
trông nhức mắt. Nắng buổi trưa bức bối vô cùng – Có tiếng máy bay ta,
ngửa cổ nhìn lên, chỉ gặp màu xanh da trời đến tận cùng. Một tí gió cũng
không có, một tẹo gió cũng không có. Càng hay, có gió chắc thổi tung
cát mù mịt. Lẻ tẻ, có người tụt giại phía sau - không có quyền tụt.
Không có quyền rời bỏ hàng ngũ. Và vẫy gọi ở phía trước là đôi mắt âu
yếm, khích lệ của người mà ta yêu quí. Như Anh: T. cố lên, cố lên tí
nữa, con chim đầu đàn của Như Anh!
Lúp
xúp dưới chân đồi là những mái nhà, mái rạ lèo tèo ở đây cũng có rừng
bạch đàn, rậm hơn ở Tân Yên, nhưng thấp hơn và thân cong queo nom rối
mắt. Xấu lắm. Ở dưới lại toàn cát, bao nhiêu là dấu chân, bao nhiêu câu
chuyện ở đất này.
Mình
sẽ ở đây ư, mình rời bỏ vùng đồi Tân Yên rất thơ và đến với vùng cát
trắng này (nhưng không phải bãi cát rất đẹp của biển!).
Thỉnh thoảng, bắt gặp một chiếc xe vận tải quân sự nằm lăn lóc ở vệ đường, thùng xăng, đầu xe, dầu mỡ, sắt rỉ…
Bắt
đầu vào làng, chỗ này là Đông Du thì phải. Dân thưa thớt và bộ đội thì
đông hơn dân nhiều. Có người tính tỉ lệ 9/10. Kể thì hơi ngoa. Nhưng
cũng có lý đấy. Tiểu đoàn trưởng đứng đợi dưới một gốc tre. Cán bộ của
mình cũng chẳng khác gì chiến sĩ, cũng balô, cũng gạo và súng. Chỉ khác,
các đồng chí đó đi thẳng người và bước vững vàng hơn lính nhiều. Cũng
phải thôi, đánh Pháp rồi đánh Mỹ, bao nhiêu năm đi trên con đường lửa,
con đường lớn của dân tộc.
Sao con đường dài thế, dài mãi.
Sao
con đường dài thế, dài mãi. Mất hết cảm giác về vai và chân bước hoàn
toàn theo cảm tính. Ai có đi bộ đội mới thông cảm với người lính chiến.
Tự dưng, mình thầm cảm phục nhưng ngươi đi trước. Đáng phục lắm. “Trâu
bò” không không ăn thua đâu. Chủ yếu là nghị lực, căn bản là nghị lực.
Đến
ngã ba, chưa gặp giao liên, bộ đội ùn lại và cúi gập người cho balô đỡ
siết vào vai. Khát quá, nhưng chỉ có nước ao. Biđông chưa được phát.
Dường như cấp trên cố ý tạo ra tình huống này - “Rèn”! Chao ôi, cái chữ
đáng ghét thế!
Thôi,
đây rồi, tụi quỉ, tiền trạm gì mà “hậu” thế! Mãi bây giờ mới gặp. Và
thế là “chỉ còn 3km”. Quên đi, cái balô ác nghiệt trên vai, cái nắng
trên đầu, cái nóng, cái mệt trong người và hãy nghĩ đến cái dịu dàng,
thắm thiết của đôi mắt N. Anh, của đôi vai N. Anh, của hai bàn tay thấm
mát hơi xuân...
Đỉnh
dốc là chỗ ở, vậy mà 2/3 quân số nằm lăn ở chân đồi, cúi mãi, cúi mãi,
tưởng như muốn đi bằng cả hai tay và hai chân. Bò lên, bò lên!
Nhưng,
thế còn sung sướng lắm. Thế mới chỉ là cái vất vả, cái gian khổ về cơ
thể, về vật chất. Còn cái khổ hơn, cái đau đớn về tinh thần là sự thờ ơ
của bà con trong xóm đồi.
Thấp
thoáng trong nhà lưng chừng dốc là những cặp mắt nghi ngờ, hơi xa lạ.
Ta tự hỏi: Họ là ai, có phải là bà mẹ Việt Nam từ ngàn đời thương anh bộ
đội? Có phải các cháu nhỏ, các em thơ ríu rít quấn lấy tay anh? Mà sao
bàng quan thế, dửng dưng thế... Ôi chao là buồn...
Họ nhìn quanh, lạnh lẽo và thụt vội vào nhà trong, cánh cửa tre hạ xuống, chó sủa ran...
Thật tệ hơn cả “cô giáo vùng cao”
Bọn mình mệt quá rồi, không đủ sức đứng dậy vào nhà nữa và nằm lăn dưới bóng tre mà nghỉ và kiếm cách vào nhà.
Không
gian im ắng quá. Và chẳng thấy lũ trẻ chơi trong ngõ nhỏ. Xung quanh
chỉ toàn cây, tre, chay, cây đen, cây mít. Cây um tùm như an ủi, phải,
cây lá này vẫn cây lá quê hương. Nó đâu lạnh lùng với anh bộ đội...
Nghỉ
chán, bọn mình chia nhau vào các gia đình vận động. Bẩn quá, bẩn quá,
nhà cửa có một thứ mùi chua, mốc, mùi thời gian quá dài chưa quét dọn.
Nét đặc trưng là lắm ruồi và nhiều “tàu há mồm” quá. Nhà nào ít nhất
cũng năm đứa trẻ dưới 10 tuổi! Ồn ào và luộm thuộm, chứng tỏ mức độ giác
ngộ của dân chưa cao lắm.
Vào
nhà nào họ cũng đuổi. Lắm lý do đến thế, nào là : Đợi ông ấy về... Tệ
hơn, có gia đình không thèm tiếp và trả lời: Gia đình tôi chưa có ai đi
bộ đội nên không biết đối xử với các chú như thế nào!
Bọn mình không biết nói sao nữa. Ra ư, thì chỉ có bụi tre và đỉnh đồi thôi. Phải bám vào dân mà sống! Bám lấy dân.
Thế
là chưa được cơm cháo gì, bụng đói, mệt, bọn mình vào nhà, giúp gia
đình quét dọn, gánh nước, xe tơ. Nhà ở trên đồi nên nước hiếm hoi. Phải
xuống chân dốc và ở đó có cái giếng chung của cả làng.
Vừa
làm vừa trò chuyện, vừa xin vào ở một góc nhà đặt balô thôi. Mãi đến
chiều họ mới cho vào nhà, cho giường chiếu hẳn hoi và giục “các chú nấu
cơm ăn”.
Khi
đó mới biết đơn vị trước ở đây làm mất uy tín ghê quá, toàn đánh nhau,
cãi nhau, đánh cắp của nhau. 3/4 số xoong quân dụng bị mất, rồi quân
trang, quân dụng mất lung tung. Tệ quá.
Bậy
bạ thế thì thôi. Nhưng hậu quả lại dồn lên đầu bọn mình. Ngay đêm, đại
đội họp cấp tốc trên thửa ruộng còn trơ chân rạ. Phải gấp rút khôi phục
uy tín của quân đội.
Gia
đình mình ở có chín người. Bác chủ nhà 55 tuổi rồi và ngày ngày vác
thuyền nan đi đánh lưới trên sông. Tụi nhóc còn nhỏ, cô gái thứ hai tên
là Thà, 17 tuổi, đi làm suốt ngày và ban đêm cũng chẳng về. Nhưng nếu cô
ta về thì cả nhà biết ngay vì cái mồm to và liến thoắng của cô. Cái
giọng chan chát nghe đến chói tai. Khổ cho anh chàng nào vớ phải cô ấy
suốt đời có lẽ chẳng được nghe cô ấy thì thầm (!).
Còn
tụi nhóc thì bẩn, bẩn lắm. Chân tay bọc một lớp đất đen như da cóc.
Toàn uống nước lã và không bao giờ rửa tay cả. Đêm đi ngủ thì tót lên
giường, sáng dậy lấy khăn mặt còn ướt của người lớn lau cuống quít và
thế là mở đầu một ngày!
Mình
rất không thích cái tò mò, cái ưa lục lọi của tụi nhóc ấy. Đặt balô
xuống là sà đến và nắn cái nọ, sờ cái kia, chẳng ra làm sao cả. Nhất là
thằng Hành, học vỡ lòng, hư lắm.
Tế
bảo: “Phải rèn bọn này mới được”. Bỏ một buổi rủ chúng nó đi chơi và
dặn dò: “Các chú để súng đạn trong balô, đừng đụng gì đến nó nổ”...
Thế là ổn. Còn phải vệ sinh vệ sống cho các ngài nữa chứ. Rõ khổ.
Nhưng
cũng thấy thương gia đình và các cháu. Lỗi ấy đâu phải vì bố mẹ hay vì
bản thân chúng. Mà vì thằng đế quốc, vì lụt lội. Vì kẻ thù của dân tộc ở
bên kia bờ Thái Bình Dương...
Đêm
ngủ, mình lại mơ thấy hôm ở Xuân Hoà, ngồi ăn mía với anh Cương. Anh kể
chuyện về Chúa, về bà Maria. Mình hỏi rất thật thà: "Thế anh có tin
rằng những điều đó là sự thật không?" Bỗng dưng, anh Cương nhíu mày,
thẳng cánh ném con dao nhọn vào mặt mình... Giật thót người và tỉnh dậy,
Tế gọi, mồ hôi vã ra như tắm. Mình nghĩ đến một điều: Trong công tác
dân vận cần thận trọng, hết sức thận trọng. Đấy, cái gia đình mình đang
sống...
Tập 3
30.11. 971
Cuối tháng rồi, cuối tháng... Thời gian đi nhanh quá. Mới hôm nào nhập ngũ, hôm nay đã đến 3 tháng rồi.
Đêm
nay, trời sáng trăng mà lất phất mưa. Ngồi dưới ngọn đèn ba dây tù mù
và suy nghĩ miên man. Sáng mai, chia tay với Tế, Châu, Hùng, Thắng, Minh
- họ đi Phòng không - Không quân. Chia tay rồi, lại tiếp tục chia
tay...
Đêm qua, tiễn anh Tặng trong ánh trăng bịn rịn. Người trung đội trưởng thân mến của B lặng đi trong lời thơ tiễn biệt:
“Đất nước mình rộng lắm, anh Tặng ơi,
Mới gặp nhau, nay từ biệt nhau rồi
Cầm tay nhau và hẹn ngày gặp mặt
Điếu thuốc anh đưa đốt đỏ trời…”
Ngồi
bên anh rất khuya, nghe anh kể ngày về thăm quê sau 6 năm ở chiến
trường. Vào 2 giờ sáng, một ngày của năm 1968, anh gõ cửa nhà chị ruột:
- Chị ơi, mở cửa cho em...
- Ai đấy?
- Em đây!
- Em là ai?
- Em là em chứ còn ai nữa! (Cười)
- Cậu Ty à?
- Không!
- Cậu Châu à?
- Không!
- Cậu Thế à?
- Không!
- Thế thì là ai? Không nói tôi kêu lên đấy!
- Ừ, chị kêu đi xem nào, em đây mà!
- Thôi, nói thật đi, em là ai?
- Em đây, Tặng đây!
Chị mở tung cửa và nhận ra ra đứa em 6 năm trời xa cách, tưởng đã chết ở chiến trường rồi. Thế là ôm choàng lấy em mà khóc…
6
năm, biết mấy đổi thay trong cuộc sống và con người. Mẹ anh yên chí
rằng anh đã nằm lại ở một vùng đất xa xôi nào của miền Nam, thì anh lại
về, lại về thị xã Phủ Lý giữa những ngày giặc điên cuồng bắn phá. Hạnh
phúc biết bao nhiêu, và sung sướng cảm động biết bao nhiêu...
Chị
đã quên tên đứa em của mình, bởi luôn tâm niệm rằng em không còn nữa...
Đau đớn biết bao và càng đau đớn ngày gặp mặt càng cảm động càng hạnh
phúc...
Anh lại chia tay, và đi vào chiến trường trước những người lính mới. Cuộc đời của anh đẹp đẽ xiết bao.
Anh đi rồi, ngày mai lại đến các anh lý 3 tạm biệt đơn vị sang đơn vị mới. Lại chia tay, lại chia tay...
Tạm
biệt anh Châu, người bạn thân thiết của mình những ngày đầu cuộc đời bộ
đội: hai đứa dắt nhau lên đồi rất cao và nhìn ra bốn phía. Gió mạnh đẩy
người nghiêng ngả, mình và anh Châu nằm bên sườn nam, im gió. Dưới chân
đồi là bãi bạch đàn thì thào không ngớt. Không ai muốn nói câu nào...
Mai,
chúng mình xa nhau, và có lẽ chẳng biết bao giờ được gặp lại, anh Châu
đang làm giở luận án tốt nghiệp của tổ chất rắn, và rời trường ra đi...
Anh
nằm đây, buồn lắm và rạo rực lắm. Anh nhắc lại cho mình câu ngạn ngữ
Anh: Không sức mạnh nào có thêm ngăn cản được những trái tim đầy khát
vọng. Đúng như vậy đấy. Không có sức mạnh nào...
Số
phận anh hơi giống mình và cũng có những niềm ao ước, chờ đợi như mình.
Bạn anh, cô Phương Lan đang đi học Dệt tổng hợp ở Đức. Anh băn khoăn vì
khi bạn đi anh không ra tiễn, bởi lúc đó, anh bị giữ lại do tình hình
chính trị Tiệp. Anh ao ước, 6 năm sau được ra đón bạn, mặc dù lúc đó
cuộc sống sẽ có nhiều thay đổi, khó xử cho anh.
Nhưng,
cả ao ước nho nhỏ đó, anh cũng không thực hiện được nữa rồi... Đừng thở
dài, từ trên cao nhìn ra xa thấy màu tím phơi đầy trên mặt nước, trên
đỉnh núi và những cánh đồng...
Mình hỏi: "Anh có yêu chị Lan không?" Anh gật đầu: “Có, mình yêu Lan, tình yêu con người và không phải là tình yêu trai gái”.
Tình
yêu con người... Chắc chị Lan chưa một lần mình gặp mặt cũng là người
rất say mê khoa học và một lòng phụng sự lý tưởng phục vụ nhân dân. Bởi
vì, chị là người mà anh Châu đã gặp, đã yêu.
Dưới
chân hai đứa là thung lũng, có bóng người cuốc đất và những cơn gió êm
đềm nô đùa cùng cỏ may mọc thấp… Gió hơi lành lạnh thổi dạt áo quần, đi
ngược chiều và mỗi người nhặt được một con chuồn chuồn đỏ, chắc nó chết
khô vì gió. Mà cả trên ngọn đồi ấy chỉ có độc 2 con chuồn chuồn ấy, tìm
mãi cũng không thấy thêm con nào. Con của mình nhỏ hơn một chút và chưa
rách cánh. Thế đấy, ngọn đồi kỷ niệm cho ta. Và từ nay ngọn đồi mang tên
"Đồi chuồn chuồn đỏ"...
Càng
đi với anh, càng nhớ Anh... Anh ở đâu rồi nhỉ, xa nhau, nhưng có lúc
nào mình không nhớ tới Anh, bạn yêu dấu nhất trên đời…
Cũng
vậy, mình mong sao có một ngày đón Như Anh ở ga Hàng Cỏ, nhưng rồi có
lẽ ngày đó không bao giờ đến cả. Bước chân xuống sân ga, Như Anh có nhớ
tới mình hay không...
Nhìn
màu xanh bất diệt của cây cỏ, và vù vù bên tai là ngọn gió ngoan cường,
thấy trỗi dậy trong lòng một sức sống bất diệt trẻ trung. Tin tưởng ở
tương lai tươi sáng.
2-12-1971
Tháng
12 đấy. Mới hôm nào Như Anh viết thư cho mình bắt đầu bằng: Tháng 8 đến
rồi, tháng 8 kỳ diệu với bao điều hứa hẹn, nhưng lại là tháng của chia
ly... Giờ đã 4 tháng đi qua...
Thời
gian trôi không bao giờ ngoảnh lại. Dĩ vãng dầy lên, nhưng tương lai
thì vẫn còn vô tận. Dẫu sao cuộc sống của mình cũng bị dồn lại mỏng hơn,
ngắn hơn và sự hối tiếc cũng nhiều hơn.
Mấy
hôm nay chờ công tác, suốt ngày chỉ leo đồi vào nhà dân chơi và chia
tay. Buồn lắm. Trưa nay Ngôn đi rồi, các bạn cũng đi nhiều, còn mình vẫn
nằm dài. Tiểu đội đi non nửa, chỉ còn 7 người, phải dồn nhà ở cho tập
trung.
Nếu
cuộc đời nhàn rỗi thế này mãi thì buồn nhỉ, từ hôm đến đây, chỉ đi lấy
gạo có một lần, còn thì toàn chơi bời. “Nhàn cư vi bất thiện”, tụi quỉ
đem AK lên đồi đì đọp suốt ngày, không hiểu chúng nó lấy đạn ở đâu.
Tiếng súng dội vào vách đá, nghe ì ầm rất lâu - Mặt trận còn xa lắm…
Mùa
đông chưa về đến đây. Mình yêu cái chuyển tiếp giữa hai mùa này, xốn
xang trong lòng nhiều kỷ niệm. Cây sầu đông chưa mở ra những mối sầu cho
mình an ủi. Chùm quả chín vàng lấm tấm trên tà áo xanh của bầu trời,
nhắc mình nhớ về cái ngõ hẹp vào nhà. Ao cô Tơ còn mọc trên làn nước
chùm hoa lau cho tụi con trai đánh trận hay không? Mấy cây hồng bì, cây
nhãn bên sân hàng xóm có còn hay không, ngày trước đấy là nơi tụi trẻ
bán hàng và bày trò đám cưới; Cái dù vàng che cô dâu, chú rể, giờ tơi tả
khắp bốn phương.
Kỷ
niệm càng dâng lên và trào ra như nước mắt. Sáng lạnh nhiều sương, và
gió táp, cây trên đồi chắc là buốt lắm, nằm nghĩ về những người thân yêu
mà se thắt trái tim.
Chưa
bao giờ mình xa nhà lâu như thế này, chưa bao giờ nhớ cha mẹ, anh em và
bè bạn như bây giờ,... Giá như có phép màu, trở lại 1 ngày của thời thơ
ấu, có đủ mọi người thân yêu,... Chao ôi, ngày đó... vĩnh viễn mất rồi.
Bọn
nó trốn về nhiều, có lẽ vì không chịu được cái cảnh nhớ nhung đáng sợ
này. Từ đây ra đường 18 chỉ có một khoảng đồng. Ở xa này, nhìn ôtô, xe
đạp lăn từ tốn qua các thân cây mà muốn chạy vù xuống đó. Rồi Hà Nội,
gia đình, đường Nguyễn Ái Quốc và phố Nguyễn Du... Bao nhiêu điều hứa
hẹn còn bỏ dở, bản nhạc dừng lại ở âm da diết nhất... N. Anh, giữ ngón
tay yêu dấu ấy ở phím đàn và đừng buông ra, đừng buông, nghe thấy không,
N. Anh, đừng mỏi mệt...
Không
ai muốn cuộc đời mình phải buồn bã cả, nhưng rất ít người trên đời này
đạt được điều mình mong muốn. Mất mát nhiều, nhưng cố gắng làm sao cho
mình khỏi thất vọng, khỏi mất nghị lực luôn hun cháy lòng mình. Đó mới
là điều quan trọng.
Hôm
qua, nhận được thư Phong. Nó sắp đi chiến trường và viết cho mình cảm
xúc của “người lính trước giờ ra trận". Phong chín chắn và điềm minh, tự
tin. Vậy mà cũng chưa vững vàng gì cho lắm. Có điều gì hơi bàng hoàng,
hơi "từ biệt" một chút. Và âm hưởng của lá thư khiến mình muốn ôm choàng
lấy nó, giữ nó lại bên mình, thằng bé còn non trẻ quá...
Phong
viết: "Mình rất biết ơn T., biết ơn các bạn bè thân thiết của mình.
Những người bạn sống say sưa, yêu đời và luôn tiến về phía trước. Nhưng,
những cái mà mình đã thu lượm được, những điều mà các bạn đem đến cho
mình chưa đủ để mình tin rằng sẽ đem đến một kết quả tốt đẹp.
(...)
Dẫu Sao, đây cũng là những phút cuối cùng. Bận rộn quá, mình cũng không
kịp đảo về thăm nhà nữa. Mình tiếc rằng thời gian qua, bọn mình liên
lạc với nhau chưa thường xuyên lắm, T. biết hơi ít về cuộc sống của
mình... Rồi ngày mai, chưa biết ra sao, chỉ chắc chắn (trong cuộc chiến
đấu này, tang tóc và đau thương sẽ đến với con người)” (Câu trong ngoặc
bằng Nga văn).
Chiến
tranh, đương nhiên là như thế. Nhận ra điều đó là dĩ nhiên thôi. Nhưng,
mình nghĩ, đâu là cái chủ yếu mình phải nhìn nhận. Có lẽ đó là cái tự
hào về vị trí mũi nhọn của mình, về trách nhiệm lớn lao của mình trước
lịch sử và dân tộc.
Thư
cho Phong, mình viết: “Còn nhớ không Phong, dạo lớp 10, Phong đọc trước
lớp bài Đường chúng ta đi khiến hai đứa mình cảm động. Ở cái cành ổi đã
nhẵn bóng vết tay mình, Phong với mình ao ước được sống những giờ phút
như thế. Giờ phút Phong bảo con người với đất nước là một và người lính
trở thành con người lý tưởng của thời đại”.
Mình
gửi cùng lá thư là những đoạn Đường chúng ta đi học thuộc từ hồi đi
học. Phong có nhận được không, qua Trường Sơn, qua dốc Bà Định, dốc
Nguyễn Chí Thanh, qua chặng đường quyết thắng. Và trong bom đạn, Phong
có trả lời câu hỏi mà cuộc sống đặt ra...
Hồi
còn đi học, một nhận định còn chưa được cách mạng là "Người đi thì
nhiều. Và người đến thì ít". Hãy suy nghĩ trên khía cạnh trừu tượng.
Chẳng lẽ chính mình và Phong luôn ao ước được sống như vậy, nhưng ở
nhưng giờ phút đó, thì suy nghĩ cá nhân lại trấn áp hết cả hay sao? Và
chẳng lẽ chính Phong lại là người mà mình không tán thành cách sống và
suy nghĩ thế?
Thường
khi, do tác động tích cực của văn học và sách báo tuyên truyền, người
ta có suy nghĩ và cảm xúc tiến bộ, khá mãnh liệt đằng khác. Nhưng ít ai
kiểm tra mình xem tình cảm và suy nghĩ đó có thật là bản chất của mình
hay không. Có thật nó bắt nguồn rễ sâu xa từ tận cùng cảm nghĩ, từ đáy
lòng mình? Có ai tự kiểm tra mình, tự kiểm tra cảm xúc và suy nghĩ của
mình, xem bản thân mình có lấy những rung cảm tốt đẹp đó làm quan niệm
sống, chứ không phải làm một thứ đồ trang sức rủng roẻng?
Có
lẽ chưa mấy ai, bởi vậy mới ít người... Dù sao, Phong cũng là một tâm
hồn đáng quí, một người lính đáng tin cậy. Cầu mong cho bạn lớn lên
trong cuộc chiến đấu đang chờ đợi, đang dữ dội.
Sắp
hết năm rồi, năm 1971, cái năm đầu tiên xa cách, cái tuổi quân đầu
tiên... Mình đã hết cái buổi đầu bỡ ngỡ làm quen với cuộc đời bộ đội.
Mặc dù vẫn chỉ là binh nhì, nhưng mình đã là "lính cựu”. Lại sắp một đợt
tuyển quân. Thế mà, hình như mình còn trẻ con lắm. Vẫn lang thang trên
đồi, xuống dốc, vẫn đá cầu...
Các
anh lý 3 đi Phòng không - Không quân, một số khác đi Pháo binh và một
số có lẽ vào Tên lửa. Sáng qua, họ lên xe rồi, và vào giờ này, 10h20
sáng, họ đã đến nơi. Ở Bắc Giang hay ở Kiến An? Đâu mà chẳng đất nước
mình...
Chính
trị viên Các hỏi mình thích đi đâu. Mình chỉ thích bộ binh, đánh nhau
thế mới khoái và ít bị phụ thuộc vào máy móc. Vả lại, đi bộ binh gần dân
hơn, biết nhiều điều thú vị hơn.
Hôm
mới đến đây thấy trên đỉnh đồi có con ngựa đá bị chôn ngập ngang cổ,
cái lưng bị cắt ngang, to như con voi Bách Thảo, bọn trẻ con bảo: Đấy là
ngựa Thánh Gióng, còn cả cây gậy to ném dưới chân đồi. Cái gậy to thật,
bằng đá và chôn sâu dưới đất, mình ôm không xuể. Phía trước mõm ngựa có
hại tảng đá lớn, người dân bảo: Đấy là gan ngựa vì con ngựa bị giết!
Mình ngạc nhiên hết sức, chẳng lẽ đây là núi Sóc Sơn, nơi Thánh Gióng
cưỡi ngựa bay thẳng lên trời? Vô lý lắm, và vì sao con ngựa lại bị giết?
Con
ngựa đá vẫn nằm ở đấy, góc một nương sắn và lạnh lùng nhìn khách qua
đường. Không ai hiểu về sự tích con ngựa đó, nguồn gốc của nó và câu
chuyện nhuốm màu thần bí như ngọn gió vô hình.
3-12-1971
Vẫn như hôm qua, ngủ và chơi bời lêu lổng. Chán ngán lắm rồi, bắt đầu đi lùng trong xóm.
Hết
mía lại sắn, sắn ăn chóng no, chóng chán. Ở đây chỉ có thế. Và nếu chán
thì chịu, dân đi làm đồng hết cả rồi, chẳng có ai ở nhà mà nói chuyện.
Quanh quẩn với cái sân phơi rơm rạ, với cái vại chỉ hai gánh nước là
đầy. Ngủ chán rồi lại thức, lại nóng ruột.
Ở
đây xa bưu điện và chờ hòm thư mới nên thư đi cũng không mà thư đến
cũng không - Trống rỗng đến phát sợ và lo lắng cũng kinh khủng. Mọi cái
đều thăm thẳm như bầu trời những tháng này.
Lại thêm ba người nữa “tút” về Hà Nội. Họ không chịu nổi tình trạng nằm đợi ghê sợ này.
Hôm
qua Thịnh trốn về cùng bọn anh Châu, được ở Hà Nội 3 tiếng. Họ đến ga
Hàng Cỏ lúc 2h30 chiều, được nghỉ đến 11 giờ đêm, sau đó lên tàu quân sự
đi Thanh Hoá. Mình nhờ anh Hùng đến nhà Trí cho Trí biết tình hình vì
không kịp viết thư, nhưng anh Hùng không kịp đến. Anh Châu không biết có
đến kịp hay không! Mà cũng rất khó gặp Trí học buổi chiều.
Lê
Như Thanh và Đỗ Thành xin mãi cũng được về. Thanh nó khoái lắm và vanh
vách kể cho mình cuộc sống đang phát triển của thủ đô. Nó không dám đến
trường vì sợ xúc động. Khỉ thật, Thanh mà cũng dễ liên tưởng như vậy
nhỉ!
Thanh
bảo không dám kể tình hình thật của đơn vị cho gia đình vì nó sợ gia
đình không yên tâm. Toàn bốc phét nào là tập ít, ăn khỏe, sướng, vui...
rồi triển vọng binh, quân chủng cao xa... Kể ra Thanh cũng không muốn
nuôi ảo tưởng cho gia đình, nhưng biết làm sao được, ngay cả mình ở mức
độ nào đó cũng phải làm như vậy.
Còn
Thành thì khác. Anh ta tưởng bà mẹ “bôn” lắm. Thế là kể ráo. Bà ngồi
yên lặng nghe đứa con trai nhỏ của mình thủ thỉ. Suốt bữa cơm bà không
nói không rằng. Và khi con đi, bà òa lên khóc, đứng chắn ở cửa nhất định
giữ nó ở nhà.
Thế
đấy, mẹ mình chắc là không thế. Mẹ mình chưa khóc bao giờ trong những
lần tiễn con đi. Mình lại nhớ câu thơ của Trần Vàng Sao, đại ý: Bao
nhiêu nước mắt mẹ thấm vào vạt áo, để đường con đi không bị ướt... Mẹ
mình dũng cảm lắm, biết hi sinh lắm
Mình
xa Hà Nội, xa phố xá, con người, kỷ niệm… thế cũng mấy tháng rồi. Quen
dần với rừng âm u của Yên Thế, những lần vào sâu trong rừng lấy gỗ.
Nghìn âm thanh, vạn âm thanh... Nhưng không chút âm thanh nào giống
những bờ đường bình yên của thành phố. Hôm đi xem triển lãm Vân Hồ, nhìn
người, nhìn cảnh Hà Nội, thấy phong thái bình tĩnh, tự tin quá, những
hàng cây vô tư lự, những vòng xe lăn. Bọn mình túm tụm dưới gốc bàng bên
vỉa hè và ao ước ngày trở lại Thủ đô. Những đứa con trai, con gái của
Hà Nội đi xa vẫn hướng về quả tim Tổ quốc như thế đó.
Mình
không nhớ Hà Nội chung chung như thế, Hà Nội, với mình là ngôi nhà nhỏ
bên cái ao nhỏ dạo này chắc là nhiều muỗi lắm. Là phố Nguyễn Du với
đường cây ven hồ, ở đó có ngôi nhà 72 vừa gần gũi, vừa xa lạ, xa vời. Là
đường Bà Triệu, thư viện, đường Nguyễn ái Quốc, hồ Tây... Là những kỷ
niệm thấm mát tâm hồn…
Nghĩ
về Hà Nội là nghĩ về N. Anh, nghĩ đến những ngày bên nhau đi trong
hương đêm mùa hè, của đêm mùa thu... Ta gặp nhau làm gì nhỉ? Ta nắm tay
nhau làm gì nhỉ? Ta siết chặt trong nỗi xúc động làm gì... N. Anh bé nhỏ
yêu dấu đêm nay ở đâu... Thương N. Anh thật nhiều mà không biết nói
sao, không biết làm sao cả. Tội nghiệp N. Anh, cứ phải buồn mãi, buồn
dai dẳng... Sao không vui với bạn bè mỉm cười. Mùa xuân... đâu rồi? Đêm
gần nhau nhất lại là đêm chia tay. Hạnh phúc thả những đốm sáng bay lơ
lửng trên trời. Vũ trụ bao la quá mà tay N. Anh nhỏ nhắn chừng nào...
Bao
nhiêu đêm nằm mơ, mình trở lại buổi tối cuối cùng, khi N. Anh dừng xe ở
đằng sau và đặt nhẹ bàn tay lên vai trái. Mình ngoảnh lại... thế rồi
không còn mơ được gì nữa, cứ trượt theo những đường cong mềm mại... Mai,
ta xa nhau rồi, vậy mà có ai nói được với ai điều gì đâu, cứ mặc làn
gió thơm mùi đồng nội vuốt ve mái tóc...
Như Anh
Mới
đó mà ta xa nhau, thật là kinh khủng. Có lẽ nào tất cả chỉ là như thế.
Có lẽ nào tất cả chỉ là như thế và vĩnh viễn cũng chỉ là như thế. Có lẽ
nào đó là tột cùng hạnh phúc? Còn sau này chỉ là đau khổ và mòn mỏi, hối
tiếc...
Phải
chi đừng gặp N. Anh thì bây giờ đỡ hối hận biết bao. Dẫu có phải mất đi
những tháng năm đẹp đẽ ấy cho N. Anh bình yên và hạnh phúc.
Tội
lỗi đó không bao giờ mình có thể tự tha thứ cho được. Càng nghĩ nhiều
càng thấy mông lung và thương N. Anh, thương cả mình nữa. Trái tim ơi,
vỡ ra và đừng bao giờ rung nữa. Cho ta thảnh thơi, cho N. Anh hạnh
phúc... Buồn lắm, cuộc sống riêng của mình. Càng nghĩ càng buồn, nhất là
trong những ngày này.
Bao giờ mình mới thoát khỏi sự chờ đợi đáng ghét như hôm nay? Đi chiến đấu chắc say sưa và hào hứng hơn chăng?
Thông
bảo mình đi hỏa lực bộ binh. Mình thích lắm. Nhanh nhanh mà đi B chứ
không thì hết địch đến nơi. Nghe phong thanh trên bộ lấy lính lái xe
tăng, tụi nó thích lắm. Thích gì cái con rùa thép ấy, chỉ oai ở ngoài
này thôi chứ khó mà được vào trong ấy.
Đại
đội trưởng Châu mới về, trẻ măng, 24 tuổi. Anh là biệt động của Quảng
Ngãi. Nghe kể dạo tổng tiến công mà tiếc đứt ruột. Dạo ấy mình lớp 8
nhỉ, còn nhỏ quá.
Anh
Châu vào bộ đội 7 năm rồi, năm 69 ra Bắc. Anh có đôi mắt tuyệt nhất của
người con trai. Đẹp lạ lùng, vừa sắc, vừa sâu xa, vừa trong và hơi bỡ
ngỡ. Khuôn mặt nhỏ nhắn, cái miệng thật hiền.
Vậy
mà anh ấy đã từng đóng sĩ quan biệt động ngụy, trong thành phố. Nghe
anh kể chuyện thú vị chừng nào. Anh nghe nhiều và nói ít, nói nhỏ nhẹ và
thân tình.
4.12.1971
Sớm
mai bọn lính xe tăng đi rồi. Lăng, N.Thanh, Thành đều đi cả. Mình vẫn
chỉ theo tin vỉa hè là đi Đ.K.Z. cùng Minh và Thìn. Bọn nó sợ lắm vì
phải mang vác nặng. Khoản đó mình cũng hơi chờn, gù lưng và lùn đi
nhiều. Chậc, có sao. Phiền cái gì chứ cái đó thì thông qua dễ thôi.
Thìn
sợ chết nhỉ, anh ta chỉ thích đi xe tăng, vừa được ở ngoài này, vừa có
vỏ thép đày che đỡ. Chán ghê với nó. Không biết bao giờ mới mở mắt ra
được. Như vậy, chỉ còn khoảng 27 người chưa phân công đi đâu cả. Cán bộ
khung về hết rồi. Vừa nãy, chính trị viên C đến thay ô. Các. Bộ đội về
nhà nhiều quá chỉ còn lèo tèo vài người. Buồn chết đi được.
Dưỡng
rủ mình "tút" về nhà. Nó có lắm lý do thế. Theo anh ta thì đây thực sự
là cơ hội hiếm có. Dũng cũng náo nức và muốn về ngay.
Nói
chung, trong cuộc sống, nhiều lúc tình thế đặt cho mình những thử thách
dữ dội trong chốc lát và âm ỉ lâu dài. Mình không muốn về nhà theo kiểu
đó. Nơm nớp và tự lương tâm mình.
Mà
nào xa nhà có lâu la gì, mới 2 tháng thôi chứ mấy. Tất nhiên, ai mà
chẳng nhớ. Vấn đề không đơn giản như mấy cha tưởng tượng. Mình cũng muốn
về mang thêm mấy cuốn sách đọc. Dạo đi đem ít sách quá, cứ sợ nặng và
mất mát. Đành vậy thôi, mất cũng chịu chứ kiểu sống vắng sách thế này
thì buồn lắm. Chao ôi, càng đi càng tiếc những tháng ngày ở trường, bao
nhiêu sách mà chịu chết, không nuốt chửng được để bây giờ nhai lại. Giá
quân đội có tủ sách lưu động, luân phiên cho lính đọc thì khoái lắm. Mặt
trận cũng xa, mà hậu phương dường như không phải ở đây.
Nghe
tụi về Hà Nội kể, thì ở nhà chuẩn bị một đợt tuyển quân khá lớn. Các
trường đại học lại tiếp tục lấy. Nhưng có điều đáng buồn là một số sinh
viên không muốn nhập ngũ lắm. Sợ chết? Ham địa vị?
Kể
ra, mình có mơ ước gì cao xa đâu. Bọn nó cứ nghĩ rằng mình muốn thành
nhà văn, nhà thơ nào đó. Không đâu, mình chỉ muốn sống trong nỗi lo toan
của dân tộc...
Chân
bước trên rơm thơm, khó ai định liệu được mình còn ao ước cuộc sống nào
hơn thế nữa. Mặc dù hạnh phúc ấy mỏng manh như chính số người nhận ra
cảm xúc ấy là hạnh phúc của cuộc đời.
Thỉnh
thoảng mình cũng hay ao ước trở lại cuộc sống trẻ thơ. Muốn trở lại đứa
lên ba, cho một bàn tay êm dịu xoa đầu âu yếm. Muốn trở về một giọt mưa
nhỏ từ mái rạ vạch thành đường sáng bên cửa sổ... Muốn gặp cây chanh
tím trong gió bấc... Kỷ niệm trong lành quá khiến ta muốn đầm mình trong
dĩ vãng, ta muốn quay về tô đậm cho những gì tốt đẹp và xoa dịu nhưng
vết thương còn rỉ máu…
“Người
ta không sống bằng kỷ niệm”... Chỉ nên để kỷ niệm thoáng qua, đánh thức
trong ý nghĩ lòng ham muốn sống say sưa ở hôm nay và xây dựng toà lâu
đài kỳ vĩ cho hôm mai...
Song
đã mấy ai thế. Dẫu hôm qua sống thờ ơ và bình thản, thời gian trôi,
khoác lên quá khứ tấm long bào, khiến nó trở nên rực rỡ. Con người vẫn
bị đánh lừa và thương tiếc những gì đã mất đi.
Phải,
thời gian trôi, không bao giờ ngoảnh lại và những gì mất đi không bao
giờ người ta còn có. Nhưng thời gian vẫn còn thừa thãi, còn rơi vãi
trong tay những người đang than thở. (Có con ruồi vừa đi dọc trang giấy
này...).
Những người hay sống trong vị mật của quá khứ thường hoang mang trước bước ngoặt của cuộc đời.
Người
ta không nhận ra, việc từ bỏ con đường thẳng trước mặt, rẽ về bên trái,
bên phải hay lùi lại một chặng, tìm con đường khác là tránh một rặng
Chômôlungma quanh năm tuyết phủ... Người ta chỉ muốn, mãi mãi sống trong
êm đềm, có dạo chơi, có mặt hồ lăn tăn, đủ nước cho con thuyền trôi
nổi... Muốn nhắm nghiền mắt lại, để tận hưởng cái thi vị điên cuồng và
quên đi màu máu đỏ...
Trong
cuộc đời này, đâu đã hết bất công. Xã hội ta đâu hết những kẻ dựa vào
quyền thế, muốn dành một chỗ yên lành trong cuộc sống. Ta khinh bỉ,
nguyền rủa và suốt đời sẽ đập tan tành cái mưu đồ đen tối ấy. Cho ngày
mai, chỉ còn những tâm hồn trong như ngọc, dẫu không tròn và nhẵn nhụi
như xưa.
Mấy
hôm nay, mình nghe lải nhải mấy chàng nghiện ngập rên rỉ: “Đời là giấc
mơ..." Là giấc mơ, nên cuộc đời thoáng qua như một bóng mây mờ, u ám.
Không âm hưởng, không hương vị. Một đám mây tơi tả, không tâm hồn; Đám
mây rách như giấc mơ đen, như cuộc đời của chung người đòi hưởng thụ.
Đời là lao động và mơ ước. Mình nhớ câu thơ
“Lao động đuổi theo mơ ước
Năm lại tiếp năm
Cuộc sống tăng lên tốc độ vạn lần”
Bài
thơ ấy thầy giáo làm trong một năm đón giao thừa khi mình còn nhỏ. Ai
ngờ lại có ngày, có lúc lung lên ở đây, xua cho mình khỏi làn khí độc.
Cảm ơn tất cả những mái trường đã ôm ấp lấy ta. Cảm ơn ngọn đèn dầu theo ta đi suốt những năm đánh Mỹ. Cảm ơn cuộc đời.
“Tương
lai không hứa trước điều gì may mắn cả...” Như Anh không hiểu có còn
nhớ câu đó hay không. Riêng mình, mình luôn ghi nhớ. Ngày mai ra trận,
dễ một đi không trở lại lắm. Đôi khi, đứng trước cái chết người ta dám
nhìn thẳng mặt, nhưng ở xa mà ngó thì chưa chắc đâu, còn suy tính thiệt
hơn. Vả lại, ngày mai có biết bao điều thay đổi, hay có, dở có…
Mình
nhớ, dạo họp bên Xuân Đỉnh, ghi được một câu của đồng chí Lê Duẩn:
"Thanh niên phải tắm mình trong ánh hào quang rực rỡ của tương lai”.
Như
vậy đấy, tương lai đang rộng cửa cho mọi người, rực rỡ biết bao và đẹp
đẽ biết bao. Song, con đường tới ngày mai tươi sáng ấy đâu có dễ dàng,
giản dị. Và có bao nhiêu người nằm xuống trong đêm mà không được nhìn
một chút ánh sáng của cuộc đời. Chỉ là viễn cảnh. Nhưng viễn cảnh có
thực của ngày mai.
Mình
đã yên tâm dần với cuộc đời cống hiến này. Có thể tự hào một chút chứ
nhỉ. Song, vấn đề là phải tự nâng cao trình độ để cống hiến được nhiều
và đẹp đẽ hơn…
7-12-1971
... Không ai phút này cảm thấy cô đơn
Nhưng da diết vẫn gợi về Hà Nội!
Phố nhỏ se se đang mùa gió nổi
Có chút gì xúc động mãi theo đi...
Bằng
Việt nhỉ, ừ, Bằng Việt, trong một Mùa xuân xa Hà Nội. Nhưng bây giờ lại
đang là mùa đông. Lẽ ra đang lạnh. Vậy mà chưa. Năm nay rét muộn nên
rét dữ. Không biết bao giờ mới như Trường Phước Mãi hôm nay mới thực
đông về...
Cuộc
đời bộ đội xoay như chong chóng. Bây giờ thì rối mù rồi, không còn biết
ra sao nữa. Lại nằm đây nghe luỹ tre vặn mình trong gió mạnh, những
khẩu súng nằm thật im ở cuối giường. Giây phút này thực cô đơn, thật lẻ
loi. Lẻ loi trên cái nền âm thanh của ngày trở gió.
Mãi
sớm nay, bọn lính tăng mới đi. Lăng đi rồi, lúc 5 giờ sáng. Bọn mình
mệt còn nằm ngủ, nó không gọi và để lại mảnh giấy nhỏ. Chia tay, giản dị
và thân mến quá...
Ngày
mai, có lẽ một nửa đi E4. Thế là tiểu đội chỉ còn 3 đứa. “Mình có 3
người, 3 đứa sống 3 nơi... ". Ôi, bài hát ấy… Chúng nó đi, và có nhớ
chút nào đến 3 tháng qua, đến tháng ngày đầu bộ đội. Đêm nay rét đây và
chắc là khó ngủ. Mỗi người một thế giới trong đêm...
Hôm 5-12, được về qua Hà Nội mấy tiếng đồng hồ, mới cảm thấy hết hạnh phúc đơn sơ mà ngày thường không để ý.
Phố Nguyễn Du, phố Bà Triệu, ngôi nhà 72 và 57, cửa vẫn đóng và mãi đóng.
Nhìn rõ hơn con đường dẫn vào nhà. Cây nhãn. Ô cửa hình bát giác đều. Hành lang, mái ngói...
Không có ai cả...
Hà Nội thật rồi, chứ không phải giấc mơ. không phải là ảo tưởng...
Nhưng...
Họ
lớn quá, lớn nhanh quá. Không gặp bạn trai mà chỉ toàn bạn gái. Xe
xuống dốc, và qua khúc đường ngoặt, đi chậm lại cho họ vượt lên.
Xa
lạ xa lạ... mà không xa vời. Họ thay đổi nhiều quá, mình thay đổi nhiều
quá. Không muốn gọi nữa rồi, ôi, cái màu trắng vô tư và yên ổn ấy!
Không
muốn gặp con người. Bởi con người ấy không phải là người muốn gặp. Chỉ
muốn tìm vết chân người yêu dấu trên vỉa hè và dưới gốc cây.
Những
người đi đường kia, có ai giống mình hay không, đi tìm ngày qua trên
những nẻo đường và ô cửa Thủ đô? Có phải kìm giữ lòng mình, và có ai cô
độc như mình hay không?
Trường
Tổng hợp như hẹp hơn hôm qua, ít gặp người quen thuộc. Dừng lại dưới
chân cầu thang. bùi ngùi và buồn vô hạn... Tất cả như vụt đứng dậy? Vụt
ào ra, ôi, kỷ niệm... Và đậm đà là bóng dáng Như Anh, hôm qua, hôm qua,
đứng gõ cửa thật nhẹ...
Vụt
ào ra, như cửa sông, thời sinh viên say mê, hồ hởi... Giật mình, sờ lên
vai áo, cổ áo. Cuộc sống vẫn như xưa, ồn ào, nghịch ngợm. Nhà cửa vẫn
bẩn, và ngọn đèn vẫn trải vô vàn đường sáng. Thêm mấy cặp kính trắng, và
giáo trình thì khác nhiều rồi. Đang học chuỗi Phuariê.
Dắt
Hải đi chơi, một lát, chia tay ở gốc cây thứ ba, nơi nửa năm trước,
ngày 30.5, chia tay Như Anh… :Hải có biết tại sao mình chia tay với Hải ở
đây không? Ở gốc cây thứ 3 này, mình đã chia tay với bạn thân yêu nhất
của mình…” - Chỗ ấy, cái miếu nhỏ, ngã tư, Văn Miếu...
Lại
đi trên đường Nguyễn Ái Quốc. Thú vị vô cùng, chỉ thiếu Như Anh. Nhưng,
không sao cả. ”hạnh phúc bắt đầu từ chỗ biết xa nhau”…
Tự trách mình, lẩm cẩm quá, toàn than thở và hối tiếc những gì đã đi qua. Hỏng lắm. Không được thế nữa.
Quả
thật, về nhà, ở bên bố mẹ, gia đình sao thanh thản cháu Hằng vừa ốm
dậy, cứ chăm chắm nhìn mình và không nói một câu nào, cả cho đến lúc
mình đi. Suốt đêm không ngủ, không muốn ngủ tí nào. Nằm nhìn đỉnh màn và
nghe tiếng thở của gia đình. Tự dưng, thấy mình lớn lên nhiều. Tưởng
chừng có thể che chở cho cả gia đình.
Bố
mẹ yếu đi nhiều, gầy đi nhiều. Nhà cửa bề bộn lắm. Bao nhiêu điều phức
tạp giày vò bố mẹ mình. Không thanh thản như mọi người, không sung sướng
và nhàn hạ như bố mẹ người. Vì sao? Vì sao?
Câu hỏi trả lời dễ và khó. Song ta biết cách trả lời.
Cái ô tô lăn bánh qua cầu Long Biên. Lại xa Hà Nội. Sông Hồng ơi, sông Hồng...
“Bè nứa phơi trên cát bãi sông Hồng
Nơi tuổi nhỏ ta đi câu cá
Những chiếc xà lan ngày ấy nông nổi quá
Nay trầm tĩnh ngược sông chở đá chữa cầu…”
Qua
cửa kính mờ bụi, ta bối rối chào dòng sông đỏ và nhẩm đọc vần thơ Lưu
Quang Vũ. Thế là lại xa Hà Nội, lại xa Thủ đô và biết đến bao giờ ?
Tạm
biệt ngôi nhà, tạm biệt con người, đường phố và những dòng cây xanh
chảy trên vỉa hè thành phố. Tạm biệt đôi mắt đen ở chân trời.
Định
gửi một lá thư giữa Thủ đô cho Như Anh. Nhưng lại không gửi được và
không muốn gửi. Hãy tin tưởng, đó là điều chủ yếu và quyết định. Cần gì
phải viết nhiều thư, khi ta đã hiểu nhau thực sự? Muốn chiều Như Anh
thật nhiều bởi thương nhớ lắm, nhưng cũng muốn Như Anh vượt qua được cái
khủng khiếp của thời gian và xa cách.
Vả
lại Như Anh còn phải học. Băn khoăn quá, Như Anh học hành ra sao, có
giỏi hay chỉ nhàng nhàng. Dẫu thế nào, cũng ảnh hưởng. Kinh nghiệm của
bản thân mình năm qua đấy. Viết thư, mất ít thời gian thôi, còn lo lắng
và nhớ nhung, mong đợi mới chi phối nhiều.
Ngẫm
nghĩ lại, thấy kết quả của Như Anh cuối lớp 10 không bằng những năm
trước. Có lẽ tại mình thôi. Sao mà vô duyên thế và có chút gì dã man. Vì
cá nhân mình mà làm cả Như Anh cũng khổ. Có lúc nào Như Anh tự trách và
trách mình hay không?
Không
có thư mình, chắc Như Anh sẽ nghĩ ngợi, buồn và nghi ngờ. Biết làm sao,
Như Anh làm quen nhé, đừng vội trách, ta vẫn dành trọn vẹn trái tim
mình cho Anh. Không có gì thay đổi cả, dẫu ở nơi ấy, có nhiều thay đổi.
Từ nay, ta mãi như hôm qua, mãi nhớ thương và gìn giữ hình ảnh trong
sáng của Như Anh trong tâm hồn. Không còn ai có thể bằng được một phần
nhỏ những điều đẹp đẽ mà ta tìm thấy ở Như Anh.
Tập 4
8.12.1971
Cho
tới hôm nay thì còn 3 đứa: Thình, Đ. Minh và mình. Sợ quá, có cảm giác
bị bỏ rơi. Cảm giác thôi, nhưng rõ ràng không tốt. Một nhóm sáng nay đi
do BỘ điều động đến các Binh chủng khác. Còn tụi mình, sư đoàn cứ giữ,
cũng chẳng sao cả. Đâu mà chẳng bộ đội Cụ Hồ!
Nhưng không khỏi xuýt xoa, tụi nó “sang” quá. Mang danh lính của Bộ, “oai” ghê!
Mình
vẫn chưa đi đâu cả. Mà tình trạng ăn đợi nằm chờ thế này thì ngán lắm.
Suốtngày chỉ ra lại vào, thở ngắn than dài. Chim sẻ, chim sẻ, con chim
không đi tránh rét nhỉ, về đậu đầy trên luỹ tre trước ngõ và kêu ríu rít
suốt ngày. Nghe rối cả ruột.
Đường
18 vắng hơn cả đường phố vắng nhất của Hà Nội. Mình đi với Thìn, nghênh
ngang giữa lòng đường, thấy cây chạy đến thật xa, cuối con đường. Chỗ
ấy mờ mịt và thật mông lung.
Con đường, đưa anh đi đâu? Con đường đưa anh về đâu?
Có quán hàng nhỏ mấp mé đường. Ờ, cũng một cuộc đời, chứ sao? Buồn, chán, bạn nhỉ?
Rất
lạ, mùa đông vẫn có nhiều cò trắng. Con cò trắng vỗ cánh trên khoảng
đồng mênh mông, vừa cày vỡ. Màu xanh của mạ non, màu trắng sáng của
nước, màu đất phù sa nữa... Nom lạ lắm. Sao mình lại ở đây, lại đứng
đây? Chờ gì? Đợi gì?
Không muốn nói một lời nào, kiểu tụi trẻ đeo cặp sách tới trường. Biết thời gian trôi đi mà chịu chết! Ba năm... sáu năm...
Đêm
qua, nghe phổ biến, tình hình có nhiều biến chuyển có lợi cho ta. Còn
lâu mình mới được đi chiến đấu. Phải học tập và rèn luyện nhiều. Vả lại,
sinh viên họ cũng chưa chịu cho đi chiến trường ngay. Lại càng thêm
chán.
Bọn đi xe tăng lại càng ngán. Phải học tù 3 - 7 năm trên Tam Đảo. Khi đó, chắc hết Mỹ rồi còn gì? Còn đánh đấm đá gì nữa.
Phải tỉnh bơ đi mới được, càng nghĩ càng cảm thấy phiền lòng.
Hôm nay, đọc được bài thơ hay, một nhà thơ trẻ Liên Xô, có nhiều tứ sáng tạo, táo bạo...
“Con người thường đi thẳng đứng
Nhưng có người lại thích bay nghiêng…”
13.12.1971
Buổi trưa...
Nằm mà không ngủ được. Hơi mệt mỏi, mắt cứ díu lại. Đã lơ mơ một lúc, chợt choàng dậy. Có lẽ bởi tiếng kẽo kẹt của cái võng...
Bao
nhiêu buổi, bao nhiêu giờ khắc tỉnh dậy như thế rồi? Mỗi lần tỉnh dậy,
giật mình và cảm thấy bàng hoàng... Thạc ư? Thạc mà như thế ư?
Hôm
nay thì nhớ Châu. Thật lạ, dạo ở trường, suốt 3 năm cấm có thèm nhìn
mặt nó. Thế mà bây giờ lại nhớ. Nhớ và cảm thấy lo lắng vô cùng.
Mình
đã và sẽ làm gì? Cho mãi tới bây giờ vẫn chưa ra hồn vía gì cả. Các bạn
bè của mình, phút này ở đâu, đang nghĩ gì và đang làm gì? Cuộc đời họ
thật thẳng băng và dễ dàng đạt tới mục đích. Riêng mình thì sao lắm khó
khăn thế! Chẳng thể nào hết được nỗi buồn. “Nỗi buồn như râu tóc. Cạo
hết rồi lại mọc". Có lẽ nào như thế. Nhưng, sự thể là như thế vậy.
Toàn
ngủ thật vô tư. Giờ này có lẽ nhiều người vô tư như thế. Và có ai như
mình hay không? Ngày tháng trôi đi nhanh quá, mà bản thân mình vẫn quanh
quẩn trong cái thất vọng, trong chờ đợi và mong ước hão huyền.
Hai
hôm nay, nhận công tác mới. Nghe Đạt nói thì máy vô tuyến 2W nặng 20kg,
liên lạc trong R=25km. Thú vị nhưng đi chiến đấu dễ bị phát hiện lắm.
Sáng qua học chính trị về tình hình và nhiệm vụ mới. Lại thảo luận 13
giờ nữa. Ngồi tiếc đứt cả ruột, giá cho về nhà đọc sách lại khoan khoái
hơn và có chất lượng hơn.
Ngồi
họp mà cứ nơm nớp cái áo phơi ở nhà. Lạy chúa, đừng mọc cánh". Cũng
không hiểu sao dân hay lính nữa. Toàn mất tiệt cả ba lô rồi.
Tội
nghiệp, dân ở đây cũng khổ. Nheo nhóc đến thế thì cũng hiếm. Nhà nào
nhà ấy vách hở lung tung. Tụi trẻ bẩn thỉu và mãi tối mịt mới ăn cơm
chiều.
Bà
cụ sống trong ngôi nhà mình ở mới khổ. Con trai bỏ vợ đi bộ đội, để cho
bà nuôi đứa cháu lên 6 tuổi. Bà già lắm rồi, buổi sáng cặm cụi làm bánh
sắn mang bán. Đứa cháu gái lần hồi nhặt lá mít về gói bánh. Cái lá nào
cũng đầy bụi. Nhà cửa trống hoang trống huếch, có ít gộc tre để đun cũng
bị lấy cắp dần. Sao có kẻ vô lương tâm đến thế!
Cuộc
sống của đất nước còn lam lũ lắm. Đầu tắt mặt tối mà nào có đủ miếng
ăn. Rồi mất cắp. Rồi đánh chửi nhau. Rồi thiên tai, địch hoạ. Cơm độn
ngô rồi còn độn sắn. vậy mà những chiếc lá tre kia vẫn dịu dàng, vẫn đưa
vào cõi êm ả của tâm hồn. Thật lạ biết bao!
14 . 12 . 1971
Tâm hồn con người thật kỳ lạ. Hay đúng hơn, tâm hồn mình thật kỳ lạ. Sao có người lại "vỉa hè" như thế được!
Tự
dưng mình lại nhớ K. Tâm - Bây giờ chắc Tâm nó học được nhiều rồi. Và
chắc cũng có nhiều thay đổi. Cuộc sống có khi nào ngưng lại, nhất là với
tuổi trẻ. Nhanh quá, mới hôm nào đi học, mới hôm nào ngồi trong cái lớp
mái rạ, bây giờ đã ở đây. Rồi ngày mai nữa, sẽ ra sao?
Thực
ra Tâm cũng là bạn tốt và hiếm có. Rất ít người con gái khiến người ta
vừa mến vừa phải kính trọng. Thầy Đản đã nói với mình như vậy khi nhắc
đến Tâm. Nhớ bạn- nhớ trường... Các học trò của Yên Hoà B giờ mỗi người
mỗi ngả. Và phút này, ai buồn, ai vui?
Riêng
mình, nao nao nhớ - Hơi buồn một chút - Mà lạ thật, nhớ ai mình cũng
chỉ nhớ nét cười của họ. Ai cũng có điệu cười thoải mái và dễ dàng.
Lâm
bây giờ ở thành phố quái quỉ nào rồi nhỉ? Rồi “chị” Phương, "Châu
Phương Đùng"... Ôi, tụi nó… Nhớ làm quái gì nhỉ? Xấu hổ không kìa, đừng
vớ vẩn nữa.
Đọc
lại "Thép đã tôi… " - Đêm qua dừng lại đúng ở công viên Thương Mại -
Paven và Tônhia sắp vĩnh biệt nhau rồi. "Anh trước hết là người của Đảng
- sau đó mới là người của em và những người thân khác”
“Em có gan yêu một công nhân, nhưng lại không có gan yêu một lý tưởng”...
Và sau cùng, Paven không nói nữa.
Cuộc
đời tất nhiên sẽ là như thế. Nhìn mớ tóc bồng màu hạt dẻ của Tônhia,
Paven thấy ái ngại vô hạn anh chưa hết tình yêu người bạn thời thơ ấu,
nhưng bây giờ, Paven "không còn là cậu bé Pavơlusa ngày ấy nữa"...
Anh không yêu một lần. Tình yêu đầy thi vị của buổi thiếu thời chỉ mới là "nhập môn" thôi sao?
Thật đáng buồn. Nhưng sao hai người chia tay nhau chóng vánh đến như vậy? Chỉ mấy ngày thôi.
Có
nhiều lúc mình thấy chán những "trò đời" như thế. Hồi mới đọc
Axtơrốpski, rất thú vị với anh bạn Paven và Tônhia. Nhưng bây giờ thấy
nó cũng bình thường và có chút gì hơi mòn, cũ. Không lẽ mình đã già cỗi
đến như vậy?
Vả
lại đọc nhiều lần nên cũng mất nhiều hứng thú. Mình thấy ngòi bút của
Axtơrốpski và A. Đức có gì giống nhau trong khía cạnh biểu hiện tình
cảm. Bô rít Pôlêvôi riêng biệt hơn, và độc đáo hơn chăng.
Mêrétxép và Paven... Những người đầy nghị lực và có thể nói được họ đã đi tới mục đích của đời mình!
Đôi
lúc mình có cảm giác tội lỗi rằng mình đi bộ đội là tạm thời thôi. Hình
như xa nhà chỉ vài ngày và không lâu nữa lại trở về Hà Nội. Lại tàu dừa
và cái chợ ồn ào, buổi sớm, buổi chiều gặp bố mẹ và các em.
Chỉ
thoáng một tí cảm giác về ngày ra trận. Mình sẽ làm những gì trong
những ngày không bình thường ấy? Thật ghê sợ khi phải vĩnh viễn xa gia
đình.
Kể
ra, bây giờ mà chết thì thật đáng tiếc. Những ngày còn bé, những lúc đi
học chẳng bao giờ phải phiền toái đến chuyện đó cả, chỉ miên man với
tương lai anh sẽ làm gì và sống ra sao. Nhưng bây giờ, những ý nghĩ đó
mọc ra.
Khó gì đâu - cái chết - chỉ một viên đạn lạc hay một hơi bom. Sự thật bi đát đó không trừ một ai cả.
17.12.1971
Mưa
đêm. Cũng không còn biết mưa đông hay mưa xuân nữa. Năm nay rét muộn và
rét không dữ lắm. Rét sơ sơ rồi lại ấm dần lên. Con người và thiên
nhiên.
18.12.1971
Tụi trẻ đi cổ động. Không thấy thầy giáo nào cả, chỉ toàn cô giáo. Những cánh chim đỏ bay trong gió chiều.
Mình
ngạc nhiên khi nhìn con đường mòn lên đồi đá. Màu tím, màu lam và mờ mờ
sương. Bầu trời giống như không trên sân khấu. Mọi cái đều chỉ như làm
bằng giấy, nếu như bọn trẻ không đánh trống hò reo trên đó.
Nhiều
lúc mình ngạc nhiên và không thể nào tin được những đứa bé rất ngây thơ
và nghịch ngợm kia lại có lúc cao lớn bằng mình - Lại mọc râu và chống
gậy và cũng khó mà tin rằng mình cũng có những phút giây như thế - Mọi
cái trôi nhanh.
Mai
là 19.12 rồi, ngày toàn quốc kháng chiến. Năm ngoái, buổi chiều như thế
này, mình đang trên gác 4 nghe thầy giáo giảng. Năm nay, đang trên đồi
và nghe cuộc đời mở mắt. Thật không thể nào định liệu được ra sao nữa -
18.12.1971 thì thế... 18.12.1972 sẽ ra sao?
Lúc
đó có còn được ngồi mà viết thảnh thơi như bây giờ không? Mọi cái đều
không lường trước được. Paven khi nghe bản nhạc này “Ơ này! Quả táo" rạo
rực đến nhảy lên mà khiêu vũ. Anh cũng không ngờ đó là lần khiêu vũ
cuối cùng của cuộc đời mình.
3
giờ sáng. Trời mưa nên tỉnh giấc. Cơn mưa rất lạ, ít hạt và lốc đốc
trên mái ngói. Mình cứ nghĩ đến cái gì đó đang nảy mầm. Thôi được, đồng ý
gọi cơn mưa này là mưa xuân.
Lúc
nãy hơi mưa mát mát, bây giờ lạnh. Hôm nay viết thế thôi. Luỹ tre vẫn
vặn mình không ngớt, cái luỹ tre thân thuộc mà P. ao ước... Không nhớ cụ
thể dáng người P. được Mọi cái đều thấp thoáng mờ ảo - Lúc này, P. làm
gì nhỉ lúc này, lúc này...
20.12
Ngày
thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Mặt trận của mình chứ
còn của ai nữa. Mai, là giải phóng quân rồi chứ tưởng à. Cũng không ngờ
như bao chuyện không ngờ khác. Hôm nay, tất cả mọi người đều phải đeo
quân hàm, chờ đón 22.12 mà.
Đi
ra đi vào đều gặp màu đỏ, đều gặp những ngôi ngần làm xong nhà bếp. Sắp
quen với rui, với mè rồi. Cái đục, cái chàng, cưa... Buồn cười nhỉ, ai
lại lấy những cái tên ấy.
21.12
Anh
con trai nhà bên sắp đi bộ đội. Sớm mai sẽ đi thì phải. Bạn bè đến chơi
đông và chắc là bồn chồn lắm. Chà, có gì mà phải tiễn. Tôi là lính cũ
rồi, đi bộ đội bình thường thôi - giản dị mà lên đường và khiêm nhường
khi trở lại.
22.12
Ngày
thành lập quân đội. Được nghỉ cả ngày. Hùng rủ mình đi Phố Mới chơi. Có
hơi thở của Tết rồi. Quân đội mình 27 tuổi. Vậy thì 22-12-74 sẽ tròn 30
tuổi. Lúc ấy, mình sẽ ra sao?
Buổi chiều định rủ Năm đi Phả Lại. Mình thật yêu dòng sông - Vừa hùng vĩ vừa êm dịu.
Mấy
tân binh được người quen đi tiễn có vẻ sung sướng lắm. "Khi đi thì vui,
khi nghĩ lại bùi ngùi"? Nhưng chỉ đi được đến Đông Du là "gục" hết.
Khóc không trùi một ai. Hôm mình đi, nào có khác gì. Buồn cười nhỉ.
5.23.12.71
Bắt
đầu mở P.105. Máy Liên Xô kiểu 1954. Không có gì phức tạp cả. Hai đài
đáy liên lạc rất đẹp với nhau, còn đài trưởng mạng chịu chết! Anh Lộc
hẹn liên lạc từ 21 giờ đến 21 giờ 30.
Mình
cảm thấy trong liên lạc vô tuyến, sự tôn trọng kỷ luật là điều rất quan
trọng. Dải tần xê xích là hỏng ngay, ồn và rất khó bắt được liên lạc
với đài bạn.
Bên
ưu tiên 2 có vẻ đông đúc hơn mình. Họ nói ồn ào vào trong máy và rất
thú vị, đến nỗi hát tướng lên. Bài gì không nhớ, hình như một bài có
"hoa đào" thì phải, dĩ nhiên là "ướt nhèm"...
Mải
tìm sóng, mãi không thấy 1825 – Mò sang nhà mấy gã đã lăn quay ra ngủ,
thật tệ. Nhưng máy vẫn bắt được sóng của một đài lạ - Côlycốp chỉ phát
sóng ra 5km. Đài kia hỏi: Anh đã mượn được xe chưa?
Đồng hồ chỉ 22 giờ kém vài phút thôi. Con nhà thông tin có mặt suốt đêm nay
Hôm
nay Năm ốm rồi. Vạ vật mãi, chịu sao nổi. Không ăn uống được gì cả. Li
bì suốt. Sơn từ máy 4950 gọi Năm ríu rít. Nhưng nó nhức đầu quá, không
thể trả lời được.
Mình bị đau tai, do liên hợp nghe, nói ép vào. Nghe nói đi vô tuyến có 2 thứ bệnh: Viêm họng và đau tai.
6.24.12.71
Gấp
cuốn sách vào và suy nghĩ về Paven. Những trang cuối của tiểu thuyết để
lại cho mình nhiều chấn động mạnh hơn cả. Mình chú ý nhiều đến bức ảnh
Paven ngồi như một ông già, nhưng sôi sục ngọn lửa sống. Lúc ấy bến bờ
biến và ánh nắng đã nhạt dần...
Cái gì nấp đằng sau con người ấy? Cái gì làm nên nghị lực phi thường và dễ hiểu của Paven? Thật dễ hiểu.
Sao
Paven có niềm khao khát trở về đội ngũ như thế. Cuộc sống dồn anh vào
góc tường và cánh tay thần chết đã lần đến cổ anh. Nhưng, anh vùng ra,
vùng ra và trở về với ánh sáng mặt trời. Kiêu hãnh thay, người cộng sản
Xô Viết ấy.
Dạo
ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp
gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt tai trong lữ đoàn Buđionrú
anh đã đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa xuân bất
tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc
sống của một chiến sĩ hồng quân.
Mình
thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn cuộc đời mình cho Đảng, cho
giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của
cuộc đời riêng.
Hôm
nay, lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ
thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu. Mình chưa phải là một đảng viên!
Buổi
chiều, đang họp A, anh Lộc gọi ra sân và hỏi mình có giấy cảm tình Đảng
không. Lúc đó, chỉ hơi thoáng qua một ý nghĩ còn mờ nhạt. Sao mình tới
giờ vẫn chưa thấy gần gũi với Đảng của Bác Hồ? Anh Lộc bỏ đi khi mình
lắc đầu. Mình như có lỗi gì đó, cái lỗi rất lớn mà bấy lâu mình không
biết.
Đảng
viên. Một người Đảng viên. Paven là một người chân chính, một Đảng viên
chân chính. Dĩ nhiên rồi, đó phải là người con của giai cấp, suốt đời
trung thành với Đảng, và cống hiến cả đời mình cho cách mạng. Mà mình,
dường như vẫn còn nhỏ lắm, trẻ con lắm, chưa là người lớn đâu Mình còn
cá nhân lắm, nhỏ nhen và ti tiện. So bì thiệt hơn, đòi hỏi bao nhiêu
thứ. Cuộc sống của mình không bằng 1% cuộc sống của Paven.
Còn
lý lịch nữa. Lý lịch phải trong sạch, mình không biết có sao không - Dù
sao, đó chỉ là điểm rất nhỏ - Cái cơ bản là mình có thật sự sống và làm
việc như một Đảng viên chân chính hay không?
Sao
trước kia mình không hề lúc nào nghĩ đến điều đó cả? Có phải vì mình
thấy Đảng quá cao siêu và mình không thể nào với tới? Có phải vì mình
kém nghị lực chiến đấu; kém tinh thần vươn lên và cam chịu sống cuộc đời
riêng biệt, tẻ nhạt với những rung động êm đềm? Có phải vì mình thấy
trước được những trở ngại không thể nào vượt qua được mà cảm thấy phiền
lòng? Cảm thấy nhụt dần hứng thú hoạt động tập thể mà tuổi nhỏ rất nhiệt
tình tham gia.
Anh
Thoả hỏi nịnh trước kia có tham gia công tác Đoàn gì không? Mình lắc
đầu, đoàn viên thường thôi – Dĩ nhiên có nhiều lý do, nhưng một phần do
sự lười công tác.
Mình đổ đốn như vậy nữa đấy. Đổ đốn đến như thế nữa!
7.25.12.71
Bữa
họp tiểu đội. Nội dung chủ yếu: Giới thiệu gia đình và bản thân. Mình
không muốn kể một điều gì cả. Các bạn dẫu có khổ, dẫu có vất vả, nhưng
không ai có một hoàn cảnh như mình.
Các
bạn hỏi về người bạn thân nhất của mình. Vẫn lắc đầu và chắc sẽ còn lắc
đầu mãi mãi. Mình không muốn kể cho ai, nhất là cái tập thể đông đúc
này những dòng tâm tình của hàng cây bên đường Nguyễn ái Quốc. Cho tới
giờ đây, nhiều lúc vẫn ngỡ ngàng, như trên đầu một đám mây vội vã, mình
vẫn chưa hẳn tin những ngày qua là có thật.
Lạ lắm, phải không P.? Và cả mình nữa, vẫn lạ lùng. P. có biết rằng mình yêu P. không?
Tội lỗi? Một tội lỗi? Mong P. đừng biết và chóng tìm thấy hạnh phúc của đời mình.
Nô-en đấy. Vùng đất không có nhà thờ nào cả.
Tối qua nhà thờ lớn chắc rung chuông dữ lắm. Và cả Đại Xuân nữa.
28. 12.1971
Lại
bỏ nhật ký mất mấy ngày. Bận nhiều và chẳng lúc nào được rỗi rãi nữa.
Vừa báo động hành quân lúc 9h30, sắp đi ngủ. Đeo máy đằng sau và ba lô
đằng trước, như lính nhảy dù! Trung đoàn trưởng hôm 26.12 kiểm tra đơn
vị, chưa sẵn sàng chiến đấu lắm. Lại rèn, lại rèn. Thế mới tốt mặc dù
hơi khổ đấy.
Suốt
mấy hôm tập trên máy, khá căng, tai mình hơi ù và cũng thấy sức khoẻ
giảm xuống - Buổi sớm dậy không được nghĩ ngợi nhiều nữa và phải tập thể
dục luôn. Đang đọc “Hải âu” của Biuriucốp, nhưng rời rạc lắm vì không
có thời gian.
Mình
luôn nhớ Như Anh. Cảm xúc ấy trở đi trở lại và luôn luôn mới mẻ, luôn
khiến mình phải bàng hoàng. Đã khá lâu rồi chưa thấy thư Như Anh, và
cũng rất lâu chưa nhận được thư của ai cả. Hơi rảnh trong chuyện đó,
nhưng nó lại đem đến một sự lẻ loi, cô độc mơ hồ nào đó. Không sao cả.
Tự
dưng, mỗi người lính đều nghĩ đến anh hùng Nguyễn Chơn. Người chiến sĩ
cộng sản triệt để - Người sư trưởng dũng mãnh của sư 304. Phải sống như
thế và rèn luyện như thế.
Gió bấc đã về, và da dẻ đã nhăn nhúm lại. Có một câu thơ khi đón cơn gió ấy về...
Có
những lúc con người trở nên tầm thường đến phát sợ. Trường hợp mình
cũng là một điển hình khá sinh động đấy. Mình cũng không hiểu vì sao
nữa. Tờ báo của chi đoàn hôm nay đã xong, mình nộp bài thơ “Cái ba lô”
xinh xắn mà mình cũng khá yêu. Khi thấy ban Văn hoá – Văn nghệ xem các
bài nộp; mình cứ thắc thỏm, nhấp nhổm xem thái độ của mọi người đối với
bài thơ nhỏ ấy của mình - Đúng là lúc ấy có cảm giác mong nhìn thấy mọi
người vồ lấy và chuyền tay nhau đọc, miệng hỏi: "Bài của ai đấy nhỉ? -
Chỉ có chữ 2W thôi!”
Dĩ
nhiên cũng có người khen và cũng có người chê. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại,
mình cũng thật dở. Làm gì cái câu khen ấy và câu chê ấy. Anh tài giỏi ư?
Lạ thật, lên mặt với cái tụi này thì cũng xứng danh Thạc thật đấy!
Mau xoá đi cho luồng suy nghĩ hèn đớn ấy. Phải cao rộng hơn lên - Shakespeare với “Rômêô và Juyliét" đấy! Như thế!
Quang
và Năm lại ngủ rồi. Còn mình, đừng có lười nữa. Sống say mê và dồn ép
lại, đừng để những tháng ngày trôi qua vô vị nữa. Nghĩ đến các bạn lại
giật mình.
Như
Anh của mình đang nghĩ gì bây giờ nhỉ? "Của mình” sao đơn giản thế!
Không phải đâu, Như Anh chẳng phải của mình đâu. Nhưng, nói ở đây thì có
sao, có ai biết đâu mà sợ!
Như
Anh là của Thạc nhé, một Như Anh hư ảo mà trên Trái đất này không có!
Còn Như Anh thật? Ừ, Như Anh cứ sống và vui vẻ với cuộc đời êm đẹp, rồi
hạnh phúc ngọt ngào sẽ đến với Như Anh...
Còn
mình, chỉ níu giữ lại Như Anh trong tâm hồn mình thôi, như thế Như Anh
đỡ khổ và mìnnh cũng đầy đủ. Đầy đủ? Như Anh, Như Anh biết không, chúng
mình phải vĩnh biệt nhau đấy, chúng mình không được sống gần nhau đâu -
Như Anh có cảm thấy buồn khi vĩnh viễn xa Thạc hay không? Thạc biết lắm,
biết nhiều lắm những gì ràng buộc mình với Như Anh và những gì ngăn cản
chúng mình - Như Anh, Như Anh quay đi đi, đừng nhìn vào Thạc nữa...
Ờ, thật lạ, tự dưng, mình lại có những lá thư như thế nhỉ? Bắt đầu điên đấy, nhất là về đêm khuya...
Đoạn thơ ấy thế này:
“…Thấm ướt làn môi cho đỡ hanh hao
Nghe đợt gió thổi vào lòng se sắng
Mọc lá xanh non chỉ cành lim trắng
Cái lá xoan vàng úa cả mùa đông…”
Đi ngủ thôi. Mệt và đã khuya lắm rồi…
4.29.12.71
Rất
lạ, mấy ngày trước thì khá là vất vả, làm việc luôn có lúc nào được rời
máy. Còn hôm nay thì rỗi rãi đến kinh khủng - Máy thì hỏng, kỳ cạch
chữa cả chiều - Đến lớp rồi lại được về. Tạm bợ, bạ đâu giảng đấy, nói
đấy, và những cái gì đơn giản như học sinh cấp 1.
Thật
là học bao nhiêu ngày rồi mà kiến thức không bằng 1 giờ trên giảng
đường đại học. Tháng ngày cứ đi qua như thế, tiếc lắm nhưng không biết
làm sao cả.
Vẫn
cố gắng đọc "Traika” , nhưng đến trang 106 rồi mà chưa cảm thấy hấp dẫn
gì cả - Chỉ muốn xé đi thôi: Nội dung thì tàm tạm được, nhưng câu văn
thì rời rạc, buồn tẻ và chán ngắt! Không, bản thân chữ "rời rạc, buồn tẻ
và chán ngắt" cũng đủ hay hơn những lời văn chết dẫm ấy. Điều hấp dẫn
và hứa hẹn mình chỉ là giải thưởng Stalin 1950 mà cuốn sách dành được.
Mình
nghĩ có lẽ do người dịch, Hiền Khang, người dịch cuốn "Làm mẹ" của
Colava mà trước kia mình ghét cay ghét đắng, bây giờ lại làm mình ghét
lây sang cuốn sách này, chú thích chẳng ra đâu vào đâu mà hơi một tí lại
(N.D)! Cuốn tiểu thuyết còn mới nguyên mà mình đã xé mấy chỗ chú thích
như thế!
Thế mới biết cái khoe khoang hợm hĩnh nhiều khi làm cho người ngoài tức lộn ruột lên!
Vẫn
chưa thấy thư Như Anh gì cả. Và mọi người cũng đều im lặng làm sao.
Hình như ít ra là 1.1.1972 mới bắt đầu có thư theo địa chỉ hòm thư mới.
Tình
cảm của mình và suy nghĩ của mình biến động lắm. Hôm nay đọc lại trang
trước đã thấy cái dở kinh khủng của tâm hồn ưùnh. Dở lắm, Thạc ạ, phải
sống kiên định chứ nghiêng ngả như vậy chẳng làm gì được cả đâu.
Lúc
này, sao mình khó tính như thế, thằng bé con ngồi bên cạnh thở phì phì,
mồm nó nhai cái gì nhồm nhoàm làm mình tức điên lên được. Năm thì vừa
ngó vào xem mình viết gì. Tò mò, tò mò? Mình gắt um lên - Rồi nó lại lấy
mật ngữ của mình ra học - Sao không lấy của nó? Tay thì bẩn, lại làm
nhem nhuốc hết cả cuốn sổ vừa chép rất nắn nót tối qua. Mình ích kỷ
thật, nhưng có lẽ cái tính bẩn thỉu ấy không phải tự dưng có ở trong
người mình.
6.31.12.71
Ngày
cuối năm. Khoảng 6 giờ tối, còn 6 giờ nữa của năm 1971. Lại đốt một
điếu thuốc. Buổi chiều lại đá bóng. Bao giờ cũng vậy, mình muốn có một
cái gì kết thúc vào cuối năm. Cầu mong cho một năm mới tốt đẹp.
Năm
1972, mình đã tròn 20 tuổi. Thạc ư? Đấy, thằng bé con của ngày xưa lêu
lổng. giờ đây đã thực sự là người lớn! Con đường mình chọn, con đường
mình đi là hoàn toàn đúng đắn. Không còn phải đắn đo gì nữa, Thạc cứ đi
theo con đường này thôi, con đường không đòi hỏi đền bù lại điều gì và
trọn đời cống hiến cho đất nước. Mình không muốn dành cuộc sống của mình
cho 1 sở thích cá nhân. Mình muốn làm theo yêu cầu của Tổ quốc.
Phút giây này, mình thấy trong người ớn lạnh, muốn rùng mình một cái, và lột xác. Có ai biết ngay điều này không?
Ôi,
giá mà có Như Anh ở bên, ở ngay đây... Chỉ một cái bàn cũ, một ngọn đèn
dầu sáng đỏ và trang giấy mở đời, trang giấy trắng dành cho những ngày
mai. Muốn nói một câu gì với Như Anh, đêm nay Như Anh sẽ làm gì? Ở đó,
người ta đón giao thừa vào đêm nay phải không Như Anh? Như Anh đang đứng
bên người bạn nào của mình? Chưa một mùa xuân nào của chung hai đứa,
chỉ cuối xuân, mùa hè luôn (!) và sau đó là mùa thu... Rồi xa nhau. Mùa
xuân đến không làm mình vui lên, không làm nỗi buồn đau của mình dịu
lại...
Chỉ có những gì day dứt và dằn vặt giày xéo tâm hồn mình...
Chỉ còn 6 tiếng, 5 tiếng nữa thôi. Phải dành 3 tiếng cho quân đội, còn sau đó là của riêng mình, rất riêng...
TỪ GIÃ 1971!...
2.3.1.1972
Bận
nhiều rồi. Và niềm vui cũng tăng dần với khối lượng công việc. Vào
1972, thấy khoan khoái, khoẻ khoắn và hầu như 3 hôm nay không có điều gì
đáng buồn cả. Sung sướng biết bao, được làm việc và vui như những ngày
đầu năm này.
5.6.1.1972
Ở
trên ngọn đồi phơ phất bạch đàn non, nhiều đống đá xếp hình khối. Mình
bắt gặp một cái cúc áo màu xanh cánh chả. Hẳn đây là cúc áo của 1 cô gái
nào đó. Sao họ lại đến đây và đánh rơi một chút gì bâng khuâng cho
khách lạ?
Mấy
đêm qua đều hành tiến. Gió mạnh, buốt lạnh, từ khe trời tím thẫm, tuyệt
nhiên không có một vì sao nhỏ. Đài phát sóng của mình đi theo hướng Phả
Lại, và nằm trên một đống rơm bề bộn trong 1 góc tường của ngôi nhà đổ.
Trường Phước khi viết câu thơ:
“Những tối mênh mông đường không đuốc lửa
Sương đẫm mũ anh thấm cả lòng em”
Chắc
anh ta cũng ở vào một đêm như đêm nay. Ừ, đêm nay buốt lạnh, gió thào
thào trên đỉnh đầu, lồng lộn. Sương xuống lạnh tê dại... Có cô em nào
thấy lòng thấm lạnh sương đêm đang phủ ướt mũ mình?
6.7.1.1972
Cái
đẹp đẽ của cuộc đời, cái tươi mới của cuộc đời nhất định không đến khi
anh bo bo giữ gìn cái “tôi” của mình. Cũng có một thời kỳ như thế, mình
luôn luôn lo lắng cho bản thân. Mình luôn hướng tới tương lai. Nhưng
tương lai trong suy nghĩ của mình là một màu hồng rực rỡ pha chút gì ánh
biếc phù hoa. Cái tương lai đó bó hẹp trong 1 hạnh phúc ngọt ngào,
trong 1 niềm mê say học tập, nhưng học để mà học, để mà "có triển vọng",
nhưng mãi không thấy chút thành quả gì. Bởi ước mơ phù phiếm nên chỉ
vấp phải thực tại khô khốc, mình chưa kịp quen ngay. Không ít thanh niên
sớm chán nản với cuộc sống này, muốn trốn tránh, muốn hưởng thụ mặc dù
bản thân mình chưa cống hiến được chút gì. Hình như mình cũng thuộc vào
loại đó. Chán nản, buồn, buồn lắm, mênh mông như buổi tối tắt đèn...
Gặp
nhiều người chán nản như thế, mình tự rút cho bản thân một điều quan
trọng: Mình giống họ ư? Chẳng lẽ mình giống họ trong cái bi quan, hèn
mạt ấy chăng?
Những
ngày đó qua rồi. Mỗi ngày lại thêm một ngày đẹp đẽ. Ao ước gì ở ngày
mai khi hôm nay được nhìn, được cảm cuộc sống xôn xao của dân tộc. Cô
gái mặc áo da trời bơm thuốc trừ sâu, những gánh bùn lên cải tạo ruộng
đồng sau trận lụt, và luỹ tre thân thuộc, bốn mùa lúc nào lá cũng xanh,
lúc nào cũng thì thào muôn điều kỳ lạ...
Cảm ơn Tổ quốc, cảm ơn những cánh cò trắng muốt của ca dao cho ta niềm hạnh phúc, cho ta niềm tự hào.
Ta
lớn dần lên với tuổi, với cuộc chiến đấu này. Bao giờ để ta hoàn toàn
có thể xoa tay mà hài lòng với cuộc sống của mình? Còn lâu, lâu lắm...
Nhưng bước đầu này sung sướng biết bao. Tổ quốc vẫn dựng xây và đánh
giặc hai hòn gạch vẫn gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người
cộng sản... Trong ngôn ngữ của ta bớt dần tiếng tôi, tiểu đội trung đội;
Ta muốn nói đến những Trung đoàn, những Sư đoàn gang thép... Dân tộc ta
đã lớn lên.
Trên
đầu ta đã có nhiều sợi bạc. Không, ta không gọi đó là tóc bạc. Có chút
gì phôi pha trong từ ngữ đó. Ta muốn gọi đó là những sợi tóc trắng,
những sợi tóc trắng trong... bởi những gì đẹp đẽ trong ta có bao giờ
phai nhoà cho được.
10-1-1972
Năm ơi! Năm đang ở đâu rồi?
Thật
không ngờ chiều qua lại là lần cuối cùng hai đứa ở bên nhau. Còn bây
giờ, xa lắm rồi, xa lắm, nếu Năm không quay trở về đội ngũ.
Đảo ngũ! Thật không thể tưởng tượng được.
Đêm
nay bơ vơ ở đâu, ở trên một chặng đường xe lửa hay một con đường lay
lứt? Năm có cảm thấy lạnh lùng, trống rỗng hay không? Chắc mày trách tao
lắm hả, ừ, tao tự trách mình nhiều lắm, sao để mày như thế, sao để mày
như thế...
Sao
trước kia không thương mày nhiều hơn nữa, không gần gũi mà hiểu mày hơn
nữa. Giấy truy nã mày tao cầm trong tay đây. Sớm mai sẽ có người xa lạ
nào cầm đọc, người ta sẽ nguyền rủa mày, khinh bỉ mày Năm ơi!
Năm
ơi, quay trở lại đi, quay lại và rủ thằng Thỏi nữa, đồng đội và tao
đang chờ mày. Cái giường ọp ẹp vẫn dành chỗ ấm nhất cho mày đó. Sao mày
lại bỏ đi mà ngủ trên một quãng đồng trống trải, lạnh lùng... Năm à,
quay lại đi!
3.11.1.72
Điều
gì không lành đang chờ đợi mình đây. Tự nhiên mình linh cảm rất rõ. Cái
gì?... Đến ngay bây giờ xem, mình tự hiểu điều đó rất dễ xảy ra! Rồi
hậu quả sẽ ra sao? Ai là người đóng vai trò quyết định trong tấn bi kịch
ấy? Không sao cả, ta đang chờ đón nó. Hãy đến đi xem, không buồn đâu,
không nản lòng đâu! Chỉ càng thêm vững vàngvà bình tĩnh trong tâm hồn
sắp lạnh cứng lên đây. Ta không cần gì cả, hãy bay đi tất thảy những gì
hôm qua sưởi ấm lòng ta - Hình như những điều đó giờ đây không đủ sức
kéo ta trở về những ngày đau đớn vừa qua nữa. Trong 2 nhân vật đó, ai sẽ
là người quyết định mở màn? Màn đã mở chưa? Ta chờ đợi từ rất lâu
rồi...
4.12.1.72
Đôi
lúc nhìn thấy chữ Như Anh, lại giật mình. Mình quen rằng cuộc đời mình
có Như Anh từ bao giờ nhỉ? Không rõ nữa. Nhưng cứ ngẫm lại: nhìn lại chữ
mình quen viết đó mình không khỏi bàng hoàng. Lạ thật, sao Như Anh lại
cứ xuất hiện trong nhật ký của mình? Sao Như Anh lại cứ đứng ở nẻo khuất
của lòng mình?
Thật
đáng sợ khi so sánh mình với Như Anh! Sao Như Anh không nhận thấy điều
ấy nhỉ? Ngày nào trong tương lai Như Anh sẽ nhận ra? Khi đó, chắc cũng
chẳng có dịp mà trở lại nữa.
Dù
có tưởng tượng giỏi đến đâu? mình cũng không thể hình dung lại được
tương lai của mình thế nào! Mù tịt! Chán quá, nghĩ bao nhiêu điều mà
viết ra toàn những điều tầm thường - Chẳng viết nữa!
Đọc trên báo tường C23:
"Ta đi hôm nay cũng không là sớm
Đất nước hành quân mấy chục năm rồi
Ta đến hôm nay cũng không là muộn
Tổ quốc còn đánh giặc mãi không thôi!"
Thực
ra, đó là câu thơ Phạm Tiến Duật trong bài “Chào những đoàn quân…”. Câu
thơ thật đúng với mình giờ này. Ta không còn là người mở đường nữa -
Chỉ là người tiếp bước thôi. Cha anh cầm súng chống ngoại xâm suốt hàng
thế kỷ nay. Sức đã kiệt! Phải dốc ra cái vốn quí ngũ trí thức! Ai dám
bảo ta còn sung sức lắm! Không, dân tộc ta đã hy sinh nhiều rồi, và còn
hy sinh nữa! Nhưng độc lập tự do thì không thể nào để mất.
Lúc này ta được đi và phải đi bộ đội Tổ quốc đưa vào tay ta khẩu súng. Đừng trốn tránh!
Đồng
chí Lê Duẩn nói: Thanh niên hãy lấy sự hy sinh phấn đấu cho cách mạng
làm hạnh phúc cao cả nhất của đời mình, đừng để cho tình cảm cách mạng
nguội lạnh vì những tính toán được mất cho cá nhân!
Như
Anh ơi! Phải chăng đó là câu trả lời mà 4 năm sau T. phải nói với Như
Anh? Cũng chưa biết chừng - Bởi vì 4 năm trong quân đội, con người lớn
lên ghê lắm!
Vẫn trên báo tường C23:
“Vì uống nước nhiều sông
Nên khác nhau giọng cười
Vì yêu qúi màu xanh
Nên họp thành tiểu đội”
Cái tứ ấy hơi giống Bế Kiến Quốc, nhưng tạm được.
Tập 5
5.13.1.72
Nhớ
rằng Thông tin là con nhà "Sáng đi bốn phương, chiều về tổ ấm" - Hãy
caothượng hơn nữa, đừng để hối hận khi mỗi đứa một phương!
Thật
đáng tiếc, hôm nay cũng chưa phải là trọn vẹn lắm. Cuối cùng tỏ rõ một
điều: Mình chưa tự chủ được! Từ mai cần bám vào tập thể cho "dạn" hơn.
đừng lẻ loi một mình mà phải đấu tranh gay gắt với bản thân!
Ngoảnh
đi ngoảnh lại, phút mình vô tư nhất lại là lúc ở trên sân bóng. Lúc đó,
ngoan lắm, đáng yêu lắm. Mãi không có thư! Mai sẽ thế nào, mong lắm
rồi.
6. 14.1.72
Hải
Thượng Lãn ông nói: "Ghét muốn xúc đất đổ đi!" thật đúng với tâm trạng
của mình. Càng ngày mình càng trở nên gay gắt với anh chàng cùng tổ. Bạ
dính vào việc gì có hai đứa là mình khó chịu, khó chịu thành ra xét nét
và càng xét nét càng khó chịu. Cứ thế này không khéo chẳng bao giờ ưa
anh ta mất.
Kể
ra thế thì cũng tệ thật. Nhưng không làm sao khác được cả. Dẫu mình có
cao thượng, có nhường nhịn đến thế nào đi nữa. Nhưng cái gai mắt vẫn là
cái gai mắt. Mà sao lại cho nó vào nhật ký của mình nhỉ? Giá mà nó không
chạm vào một phần cuộc sống của mình thì đừng hòng chen vào đây! Chẳng
thèm nhìn mặt nó nữa! Chẳng thèm gọi tên nó vào đây nữa!
Chốt
trên cao điểm 84,2. Đúng ở ngọn đồi "chuồn chuồn đỏ" hôm nào ngồi với
anh Châu. Bây giờ thì kém xúc động nhiều rồi - chỉ còn công việc. Tại
sao con người khi lớn lên hình như thích khoe khoang và lên mặt thế. Dẫu
đến với ai mình cũng có cảm giác người đó đúng đắn hết thảy. Nói điều
gì họ cũng dường như khẳng định và không một thoáng nghi ngờ. Sau khi
nghe họ nói và nhìn hành động của họ, thật khác nhau một trời một vực!
Mỗi người đều có một quan niệm sống nào đó, đúc kết thành lý luận. Và
chắc lý luận đó được "trình bày" nhiều lần trong các cuộc trà lá nên họ
nói trôi chảy, trơn tru lắm. Đấy là mình nhận ra khi xem anh Th., Q. và
nhiều người khác nữa…
Lại
suy nghĩ về những bức thư. Tự dưng, mình sợ đọc thư của người khác. Nó
chán và gây cả cái gì mòn, sáo, rỗng tuếch cho vô vàn cái đẹp của thiên
nhiên. Trăng, gió, mây mưa, sương sớm... Hỡi ôi, nó không còn mới mẻ nữa
hay sao?
Và
lúc này có 1 lá thư nào gửi cho mình mà chưa đến tay mình hay không? Có
thư cũng không vui gì lắm. Nhưng không có thư lại càng buồn hơn. Mấy
tuần nay ít gửi thư, và có lẽ vì vậy mà không xảy ra phản ứng hai chiều.
Mình cảm thấy cuộc sống này thế nào ấy. Người ta sống chưa thật lòng
với nhau. Còn kèn cựa, còn ganh ty và chưa thương yêu nhau như mình mong
muốn. Dĩ nhiên, mình cũng !à những người như thế thôi, chưa thể làm
khác được.
Mà
thôi, cuộc sống có lẽ chẳng thể tốt hơn được khi những vấn đề cấp thiết
nhất chưa được giải quyết. Phải tạm bằng lòng chút nào vậy. Và nếu chưa
đủ sức đấu tranh, hãy tạm kìm mình cho êm ả. Mình hãy sống tốt đi đã
rồi hãy bàn đến tương lai.
Đúng
như Như Anh nói, mọi cái chỉ là tương đối thôi. Cả nỗi nhớ cũng vậy.
Mình vẫn không quên nhưng ngày tháng 8, 9, 10, 11, 12:.. mấy tháng nhớ
bạn, nhớ những kỷ niệm trong lành. Cảm giác ấy không sao tả được, nhưng
nhớ rất rõ.
Còn
bây giờ, những gì sôi nổi lắng dần xuống. Cứ thế có lẽ lại tốt hơn cơ
đấy. Mình không quên Như Anh. Nhưng nhớ ít thôi, ít hơn trước. Hình ảnh
thân yêu ấy chỉ chợt thoáng qua rồi lại biến đi, không nhiều trong 1
ngày. Mình cũng không có ý định bắt mình phải nhớ đến. Kể ra nhớ đến thì
cũng tốt, nhưng nó cứ bắt mình phải nhớ đến cái gì đó mơ hồ, nhưng cụ
thể biết chừng nào! Mà lúc này đâu được làm như thế!
Rất
khó kìm giữ được mình. Lại miên man hoài! Không mình nhất định không
quên Như Anh! Song, lúc này bớt nhớ đi mà làm việc là đúng đắn nhất.
Mình tin rằng những gì tốt đẹp mình đã và sẽ dành cho Như Anh là tất cả
cái trong sáng và lành mạnh nhất trong cuộc sống của mình.
Đêm
nay lại đi gác đây. Buồn ngủ nhiều và ít thấy xúc động Vì lạnh, ngoài
trời đang nổi gió. Cảm giác đèm đẹp cứ chai sạn dần đi. Mà hình như mình
chưa làm bài thơ nào về một đêm gác cả. Tuy Nguy Nguy có nói: "Nghề
viết văn là một lao động cực nhọc. Phải làm ngày và làm cả đêm". Có lẽ
mình không muốn làm nhà văn mà mình lười biếng như thế chăng? Buồn ngủ
díp cả mắt lại, chỉ muốn rúc vào chăn thôi.
3.18.1.1972
Về
nhà hôm chủ nhật, nhận được 5 thư liền của Như Anh. Chiều nay Năm và
Thơi đã lên. Nó nằm kia và ngáy khò khò. Vô tư quá! Con người vô tư quá.
Ngày hôm nay vui vui, mà không hiểu từ đâu niềm vui kéo đến. Mình hát khe khẽ. Khe khẽ.
Chủ nhật về nhà, đêm ấy thức suốt sáng, mệt nhoài người, đi bộ 40km từ cầu đường đến đơn vị vậy mà vẫn bị chậm. Thật chán.
Như Anh sẽ thôi, không gửi thư cho mình nữa. Ừ! Như Anh phải học chứ. Phải học giỏi nữa.
Có lẽ nhắc Như Anh ra khỏi nhật ký thôi, bởi vì nỗi nhớ Như Anh là chuyện hàng ngày, không cần phải nhắc nhở nhiều mà nhàm
7.22.1.72
Mệt
lắm, song phải cố viết. Như Anh đang làm gì nhỉ. Mấy ngày bận và cũng
chẳng lúc nào ngồi một mình. Sắp đi học rồi. Hôm nay, bạn mới, thầy mới,
lớp mới và chuyển sang bài học mới.
Tạm biệt thôn Cầu Tự mấy tháng nhé. Hôm nay đến chỗ mới, thôn Phùng Xá - Gần cơ quan trung đoàn, sắp vào học tín.
Thư
Như Anh gửi cho không nhận được rồi: Họ chuyển đến Việt Yên, cách đây
30km. Xa thế làm sao có đủ thời gian mà đi nhận cho được. Kệ họ thôi,
rồi họ khắc phải lấy thư về nhà. Không hiểu đến bao giờ mới nhận được
mới được đọc những lá thư ấy nữa.
Gia
đình mình mới tới có nhiều chuyện thú vị ghê. Làm mình nhớ tới
Pauxtôpski trong "Bình minh mưa " và nhớ tới Lê Điệp với Buổi tối ngày
mưa ...
2.24.1.72
Cảm
thấy nhớ B thông tin của mình. Mà nào có xa xôi gì cho cam, chỉ cách có
hơn năm. Thế mà về xoành xoạch, chẳng thể chịu được.
Cầm
tờ báo, thấy bài nói về thông tin vô tuyến, mình nghĩ luôn, tối nay,
tới nó ở nhà lại đọc bài này đây. Chẳng được ngồi với chúng nó mà nghe
đọc nhỉ. Đêm nay, ai lên đọc báo đây, Hùng hay Toàn nhỉ?
Học
tín khổ nhiều, căng thẳng và họ giữ giờ giấc mới ngặt nghèo làm sao.
Thu, phát cứ răm rắp. Mệt cũng phải nghe và cứ là rối tung lên thôi. Kể
ra cũng không nặng nề lắm, nhưng cần nhạy cảm, cần nhạy cảm lắm - giống
như học ngoại ngữ. Như Anh bây giờ đang học Nga văn đấy. Chắc cũng vất
vả và khổ như thế. Hôm nay học khá tốt, chỉ bị một lỗi thôi, do bị
cuống.
Cái
loa ở đầu nhà cứ oang oang, nhưng nói toàn chuyện đâu đâu ấy. Mình
không được nghe tin thắng lợi Xảm Thông - Long Chẳng và cánh đồng Chum
như lúc còn ở “nhà” nữa. Nằm đây mà cảm thấy ngường ngượng thế nào ấy!
Thế mà cũng đòi đi bộ đội, ra tiền tuyến mà thế à? Các bạn ở nhà sắp đi
dã ngoại rồi ? (Chao, có tiếng ve, có tiếng ve, lạ quá đi mất, con ve,
con ve sầu - ôi, con nữa, con nữa, nó kêu nhiều quá, ở bụi trúc trước
ngõ ấy, cả ở mái nhà nữa!? Sao thế nhỉ? Sao thế?...)
Mình năm nay đón tết ở đâu, tụi đi dã ngoại mồng 7 Tết mới về. Ở đây chỉ có 20 người, vắng vẻ, ăn tết với gia đình chăng?
Cô
gái nhỏ, Hoa, còn nhỏ lắm, lớp 6 thôi, nhưng đã thuộc vào loại “bom"...
Ngộ ghê lắm. Nhìn tụi nhóc tụ họp để học (không, chủ yếu là vui
thôi...) mình không còn cảm thấy buồn, tiếc nữa. Đúng đấy, bây giờ chính
là lúc mình đóng góp mà, tuổi thanh niên là tuổi cống hiến. Thạc đừng
vội nghĩ đến những đòi hỏi hưởng thụ. Hãy cao hơn những tính toán cá
nhân.
C18
đang hành quân ngoài đường. Họ hát vui. Mình không đi được vì "bị
thương" do trận đá bóng sáng chủ nhật Tay trái bị sây sát nặng, sưng tấy
cả lên. Viết thế này phải nằm trên giường và kê tay lên chăn. Sao cuộc
sống lúc này mình yêu thế. Yêu từ ngọn đèn mờ đỏ này. Đêm qua đi dưới
lùm tre thân thuộc, có ánh trăng rất trong và ngọn gió mênh mang, lắng
nghe lời kể chuyện, mình thấy tự hào ghê. Các thầy cô giáo, các bạn học
của mình chắc không hề ngờ rằng mình lại ở đây, một mình đi dưới ánh
trăng êm đềm này.
Mình
chẳng cảm thấy cô đơn, và có lẽ đây chính là những lúc cảm thấy đẹp đẽ
nhất trở về: Nhìn những ngôi sao long lanh trên bầu trời, bao nhiêu ý
nghĩ hồng hào của tương lai làm mình sung sướng. Mình sẽ đi bộ đội cho
đến khi nào hết giặc. Sẽ theo Bô rít Pôlêvôi, thu thập thật nhiều vốn
sống, và sẽ viết văn, sẽ làm thơ ca ngợi những con người đã hy sinh
những gì quí giá nhất của riêng mình cho giai cấp, cho dân tộc. Trước
hết là làm tròn nhiệm vụ của người lính thông tin, sẽ thành người báo vụ
chân chính, xứng đáng với lòng tin của mọi người. Sáu năm sau, sẽ gặp
Như Anh thân yêu của mình. Ôi, lúc đó, có biết bao nhiêu thay đổi, 6 năm
cơ mà... Nhưng mình tin cuộc sống sẽ thay đổi theo chiều đi lên.
Tội
nghiệp Như Anh, cứ chờ hoài. Lỡ mình có sao thì lại lỡ làng hết cả. Rồi
lại buồn mãi. Có lẽ ít người như Như Anh lắm, nhiều lúc cũng khó ngờ
Như Anh lại nhiệt tình với mình như thế. Dũng cảm, Như Anh nhé, dũng cảm
lên, mạnh dạn và vững lòng tin.
Bà
cụ lại nhớ con. Anh ấy (anh ấy mà chỉ mới 18 tuổi! Đi bộ đội sau mình 3
tháng), có ao ước về nhà thăm mẹ và em không? Ngôi nhà nhỏ, tùm lum hay
đi về trong giấc ngủ và nỗi nhớ của anh. Nhưng mình lại đến đây, bên bà
mẹ, bên em gái của anh... Mình cũng biết đó là ước mơ của anh ấy...
Giờ này có bao nhiêu bà mẹ đang da diết nhớ con xa?
5.27.1.72
Đêm
qua ngủ say thế nhỉ. Stăngđan hồi nào lắng nghe đất thở chắc cũng như
mình thôi. Rừng bạch đàn đẹp lạ dưới ánh trăng còn chơi vơi. Bọn mình
nằm chật quá, hơi lành lạnh may mà không có gió, và gió nhẹ lắm, chỉ khẽ
đưa võng bóng cây. Tăng không đủ che mái, nhìn lên cao bỗng nhớ câu thơ
của bạn:
“Có phần đón mặt trăng lên
Có phần ánh sáng cho em chải đầu... "
Thoan
về muộn, không có chỗ ngủ, thế là khóc. Có quái gì mà phải khóc nhỉ,
ghét nó thật đấy. Cả tiểu đội của anh phản đối. Có thế mà cũng khóc, dở
thật...
Dã
ngoại là như thế đấy. Đừng có nằm quay đầu lênnúi mà dại. Mình nằm song
song với hướng núi dưới chân 5 ông tướng. Lá bạch đàn dưới chiếu bốc
mùi hăng hăng... Đến tận cây bạch đàn bé nhỏ của em... Còn Như Anh, cũng
là 1 cây bạch đàn bé nhỏ... Đến suốt cuộc đời. Thạc đồng ý thế
không?"... ờ, chưa hiểu lắm, chưa hiểu lắm...
Cầm
que diêm xoè lên một ngọn lửa nhỏ, Tâm đốt điếu thuốc Trường Sơn... Rồi
có ngày nào mình cũng sẽ được đứng trên đỉnh Trường Sơn mà nhìn cho rõ
mặt trăng nhỉ. Lúc ấy, có là một rừng bạch đàn mảnh dẻ, có những cơn gió
nhớ thương. Và nhất là có còn thi vị như đêm nay. . . ánh sáng đỏ mờ mờ
bên thân cây bạch đàn cao, thẳng. Gió lạnh về làm vỏ cây nứt nẻ. Bạch
đàn ơi, thương em lắm, sao em đứng đây, sao em đứng mãi đây?
Dạo
còn bé, đi cắm trại, cũng căng lều, cũng nằm mà không ngủ... Nhưng, giờ
đã lớn rồi, ta là anh bộ đội, ta căng bạt ta nằm, nghe lời của đất
nước. Nghe lời của Như Anh...
2.31.1.72
…”Nhà
trường đã ở phía sau sau và bây giờ trước mặt tôi là một thế giới. Giờ
đây tôi phải bước ra để tỏ rõ anh ửng sức mạnh và tất cả những gì sâu
kín nhất của tôi... " – Rôbec Suman.
Sức
mạnh anh ta là đâu? Những gì gọi là sâu kín nhất?Thực ra, sức mạnh và
mơ ước thầm kín không dễ gì phát hiện được ra. Ngay cả bản thân mình
cũng khó mà nói được cái gì là sức mạnh, và mơ ước trong ta là chân
chính. Có phải con người lúc nào cũng biết được mình đi tìm điều gì
trong cuộc sống? Và có phải lúc nào con người cũng hướng theo một mục
đích nhất định?
Nóng
quá, ngủ rừng. Nằm trong lều rù lông bức bối vô cùng Đây lại là ước mơ
thuở nhỏ của mình... Các bạn đi dã ngoại trên núi Chí Linh, chỉ vài
người ở nhà. Rừng bạch đàn lào xào gió khua lá. Nghĩ được bao nhiêu điều
mà không viết ra được chút gì.
Mình
thật sướng ghê! Lớn thế này mà thoải mái nằm ở đây chẳng phải làm lụng
gì cả. Tha hồ lang thang, chẳng sợ ai bảo lông bông nữa. Mình đi rồi
được nhìn bao nhiêu thứ, được gặp bao nhiêu người, nghe bao nhiêu câu
chuyện. Song, mình hiểu rằng, sự thực đó đặt cho mình bao nhiêu nhiệm vụ
nặng nề. Như Anh bảo rằng: Hãy đem cuộc đời mình cống hiến cho văn học,
bởi vì đó còn là của cả Như Anh, đó còn là ước mơ mà Như Anh không làm
được: Mình đã làm được những gì? Tất cả đều là con số không!
Chẳng
khi nào hết day dứt. Thật đáng tiếc vì mình vô tài vô dụng. Thực tế
cuộc sống đẹp vô cùng, mà mình thì còn mê mải với những vụn hương thừa.
3.1.2.72
Trời
vẫn mưa nho nhỏ, 4 ngày nữa mới lập xuân cơ. Nhưng mưa này đúng là mưa
xuân rồi còn gì, dù hơi lành lạnh, nhưng lại là cái rét nẩy mầm, rét
đài, rét lộc. Thỉnh thoảng, một cơn gió đi qua, lại lắc cây bạch đàn làm
hạt mưa lóc róc trên mái nhựa.
Năm
ngoái, những ngày này, mình còn ở trường... Đang nhộn nhạo, xôn xao vui
vẻ cả, còn tết này, là nỗi nhớ. Nhớ nhà, nhớ Như Anh, nhớ bạn, nhớ
trường. . . Cơn gió có hạt nước nhỏ li ti đánh thức mùa xuân dậy, và
đánh thức cả những kỷ niệm của mình.
6.4.2.71
Gió mùa Đông Bắc.
Cả
rừng bạch đàn vặn mình. Những cây bạch đàn thân nâu lốm đốm trắng
nghiêng ngả. Những chiếc lá thon dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng
trong rừng những mái nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần phật
những tấm tăng đã cũ. Gió reo vù vù. Đêm nay rồi gay đây rồi sẽ ngủ vào
đâu? "Sểnh nhà ra thất nghiệp" mà!
Khắp
rừng đầy lá rụng. Lá còn tươi cuốn lập bập trên sỏi vụn. Mưa đấy, nhìn
ra xa thấy đỉnh núi tím đen lại. Bàn tay nào vô hình kéo lá bay vụt như
mũi tên, qua những gốc bạch đàn nứt toác và những mái lều như cánh buồm
phồng căng.
Vào
lúc nổi gió này, người ta nghĩ đến điều gì nhỉ. Nhà ai ọp ẹp chắc lo
góc mái nào đấy... Mà không hiểu có ai tìm cái thơ mộng, cái đẹp đẽ
trong cơn gió ào ạt ngoài kia?
"Một
cơn dông"... Như Anh ơi, nhớ Như Anh đấy. Chỗ này là cửa ngõ của đợt
gió mùa, và cũng là cửa ngõ của nỗi nhớ dai dẳng, da diết và triền
miên...
Ối trời lều hất ra rồi, ụp này!
2.7.2.72
Chưa
hết rét, đợt gió lạnh về mấy hôm rồi, hôm nay vẫn chưa dứt cơn. Ngồi
trên manh chiếu rồi mà vẫn cóng. Nói chung, lúc nào cũng có điều hối
hận, chẳng lúc nào có thể hài lòng được với mình. Đá xong 1 trận bóng là
thề sống thề chết rằng đấy là trận bóng cuối cùng, nhưng rồi đâu lại
hoàn đấy. Không sao cưỡng nổi. Mình không hề nói rằng đá bóng là có hại.
Song, bỏ một khoảng thời gian không nhỏ mà lật đi lật lại quả bóng thì
quả là phí. Phí ơi là phí. Đấy là nguyên nhân chính khiến cho mình muốn
xa rời sân cỏ đi. Ngoài ra, mình còn sợ những va vấp đáng tiếc về sức
khoẻ và va chạm về ăn thua với những người khác Thật ra, lúc đá bóng là
lúc mình vô tư nhất, mình không còn nghĩ ngợi gì nhiều nhặn cả, chỉ rất
nhanh trong óc chọn lấy một lối đẹp nhất mà dắt quả bóng đi và chuyền
nhanh cho bạn. Không nhìn người và không bao giờ muốn "biểu diễn”, muốn
khoe tài trước mặt người khác cả. Vả lại, mình thì chẳng có tài gì để
khoe hết.
Bóng
đá, cũng như âm nhạc, như thơ, văn và vô vàn cái thú vị khác đều là một
thứ nghệ thuật gây sự hưng phấn, say sưa, sôi nổi cho người tham gia.
Những đường bóng căng bay chéo trên sân cỏ, một quả phạt lơ lửng trước
khung thành... đấy là tất cả thế giới khi mình đang đứng trên sân cỏ/
say mê nhìn và lúc ấy... là tuổi thơ!
Như
Anh yêu âm nhạc, chắc cũng như thế. Cái ắccooc hay pianô đều có thể đưa
lòng ta tới những miền xa xôi chưa bao giờ đặt chân tới cả. Nốt nhạc
nhí nhảnh hồn nhiên gợi cho ta một điều gì trong sáng, yêu yêu…
Hình
như đôi gót nhỏ, bím tóc xinh xinh. Hình như một buổi sáng xuân e ấp,
màn mưa buông che cho mầm, cho lộc xanh màu xanh thương nhớ...
Đôi
mắt em, đôi môi em và cả tâm hồn em lớn lên trong tiếng nhạc ru lòng.
Sáng em mở cửa phòng, thấy cành cây ướt đầm sương khuya, em lại nhớ một
bản nhạc và em hát. Khúc ca buổi sáng...
Em
ơi! Tất cả những niềm vui bé nhỏ đó, phải biết hy sinh. Nếu em muốn đi
xa hơn nữa. Đất nước gọi em, và chìa tay đón em vào lòng, với ước mong
em là đứa con ngoan, đứa con khỏe mạnh và có ích. Em hãy biết bỏ qua
những điều không nhỏ mà nắm lấy cái gì lớn nhất mà cánh tay em có để
dâng trọn cho Tổ quốc...
Nhưng
ngay từ chiều thứ 7, mình nhớ kỹ thì từ chiều thứ 4, chiều thứ 5. 6
mình phải bỏ học tín và đi tập bóng trên sân trường Trung cấp cơ khí.
Còn cả ngày thứ 7 chuẩn bị cơm nước, quần áo... để 2 giờ chiều lên xe ô
tô. Cái xe vận tải xóc lộn cả ruột. Ngồi mệt lử và rét cóng tay. Lên mãi
tận Kim Tràng - Tân Yên, cách Nhã Nam 12km. Ở đó có trường học sinh
miền Nam và trường dân tộc gồm toàn trẻ em Lào du học ở Việt Nam!
Cứ
thế cứ thế, ăn, ngủ, nói chuyện và đi đá bóng. Mất trọn 3 ngày trời!
Sáng nay thứ 2 mới về đến nhà, mệt lử cò bợ, phải bỏ buổi học chiều nay,
nằm nhà mà hối hận. Thật chán ngán biết mấy. Mình thì lúc nào cũng thế.
Không
hiểu ai (hình như Xtêphan - Phêđôrốp) đã nói: “Nghệ thuật là sự đối lập
giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa đen và trắng". Mà thật vậy, cuộc sống
cũng chính là một nghệ thuật. Anh sống say sưa, sống nhiệt tình, song,
phải biết tỉnh táo. Phải biết gạt bỏ trong trí óc của mình những công
thức tiêu cực mà thế vào đó những gì tích cực và lành mạnh. Không ai có
thể đảm bảo rằng mình sống như thế là hoàn toàn có thể yên tâm về ngày
mai. Cái tốt và cái xấu được mình ủng hộ vì "hấp dẫn" với mình hơn (!)
Chậc! (Tặc lưỡi) - Thế là hỏng rồi...
Mình
cũng không hiểu các nhà bác học, các nhà văn, nhà thơ vào cỡ thế giới
họ sống thế nào. Hãy nói gần gũi hơn Bằng Việt , Lưu Quang Vũ... họ sẽ
sống như thế nào? Người ta bảo rằng: "Nghệ thuật là sự cảm hứng của tâm
hồn". Nếu như chúng ta đồng ý rằng: "Nghệ thuật sinh ra để làm cho con
người trở nên hoàn thiện hơn" thì chúng ta cần phải thừa nhận rằng những
ai tham gia vào đó tức là những người ưu tú nhất trong những người ưu
tú – Câu này của Gơrêbe.
Mình
rất đồng ý như vậy! Nếu như cuộc sống của mình không trong sáng, không
cố gắng vươn lên, mình không thể có được cái nhìn đẹp đẽ nhất vào cuộc
sống bề bộn và sầm uất bên ngoài. "Nghệ thuật không thể xây dựng bằng
những bàn tay bẩn thỉu được!”. Bởi thế sự tu dưỡng nghệ thuật luôn phải
gắn liền với sự tu dưỡng của bản thân mình.
Muốn
chép một đoạn nữa vào đây. Trích từ trong Mùa xuân của một thiên tài,
đây là những suy nghĩ của Ăng ghen qua lời văn của người đời sau
…
Một nền nghệ thuật lớn lao và chân chính thì không thể thừa nhận một
cuộc sống hai mặt. Tài năng bao giờ cũng hết sức mỏng manh. Và kẻ nào
toan lừa dối nó kẻ đó sẽ mãi mãi mất nó. Cái đẹp sở dĩ tuyệt diệu chính
vì nó không dung thứ cho sự giả dối cũng như tính gian tham. Cái đẹp
không thể dung hoà với bất kỳ sự bẩn thỉu nào"...
Không
thể nào tin được Hoàng Nhuận Cầm lại có thể viết tốt hơn thế được. Nếu
như Cầm nó không thay đổi cuộc sống của nó - Thời gian lơ lửng trên hè
phố của nó quá nhiều, nó "trầm tư trên mái phố" quá nhiều đã tàn phá của
nó khá nhiều thiên tư văn học. Cầu mong đất nước đừng để rơi một khả
năng đáng quí – Nó sẽ chẳng bao giờ còn bê tha ở chợ Nhã Nam, mà cống
hiến trọn vẹn những tháng ngày còn lại cho thơ.
Có
một lần X.D nói: "Nghề làm văn, thơ là nghề làm quan tắt". Người ta có
thể nổi tiếng một cách không cứu vãn nổi chỉ vì vài bài thơ tốt - theo
nghĩa đơn giản nhất. Hãy đến với văn học chật vật như Phạm Tiến Duật, dò
dẫm hàng năm trời không mỏi mệt, chỉ để đạt được mục đích đem đến cho
thơ một tiếng nói mới, độc đáo và riêng biệt...; chỉ để tìm được ở mỗi
người đọc, mọi người đọc một con đường đi vào đáy sâu tâm hồn họ. Đánh
thức trong tận cùng cảm nghĩ của họ ý thức dân tộc, lòng ham sống -
chiến đấu, cái đẹp và niềm tự hào chính đáng. Phần thưởng cao quí đến
với Phạm Tiến Duật không phải mọi người yêu thơ biết đến tên anh, không
phải anh có thể tự hào rằng mình có những bài thơ hay mà chính là thơ
anh đã có tác dụng lớn lao trong cuộc chiến đấu mãnh liệt ở tiền phương
và cuộc chiến đấu âm thầm, bền bỉ ở hậu phương. Hạnh phúc mà sau một vài
bài thơ, một vài cuốn sách cho "nổi tiếng" thì họ lụn bại dần. Người ta
nhắc đến họ bằng những cái gì họ viết từ trong dĩ vãng. Họ, không thiếu
trong cuộc sống hiện nay!
Cuộc
sống không đơn giản như những người "ăn không ngồi rồi", suốt đời rỗi
rãi quan niệm. Nỗi buồn ư? Chẳng lẽ nỗi buồn không thể có được giữa tập
thể dù tốt đẹp?
"Nếu như một người không hề biết đến đau khổ thì đó là thiên đàng - con đường đẫn đến địa ngục" (Shakespeare).
Không
gì làm con người tiến lên bằng sự đau khổ, không gì làm con người cứng
rắn bằng nỗi buồn - mặc dù khi nỗi buồn đang xâm chiếm tâm hồn, có thể
làm họ yếu lòng, chỉ có điều anh tiếp nhận nỗi buồn ấy ra sao và xử trí
với nó như thế nào! Anh biết rút từ trong sự đau xót ấy cái gì đáng nhận
làm của mình. Và sau rốt, anh biết từ thực tế ấy phải đi lên thế nào để
ngày càng cao hơn, để ngày càng hoàn thiện.
Có
phải bất kỳ điều gì người ta cũng có thể nói ra bằng tất cả tấm lòng
chân thành của mình để thể hiện lòng trung thực quí nhất của con người?
Vấn đề là nói những điều suy nghĩ vừa phôi thai?
Đi
dọc những nẻo đường đất nước, gặp lùm tre lắc lư bên dòng sông quen hay
xa lạ, gặp những con người, đọc trong những quầng mắt lo âu, ánh mắt
buồn, vui, âu yếm những chuyện đời... Ta ghi tất cả, ta nghe tất cả, thu
lượm tất cả làm thành những gì gọi là kỷ niệm, gọi là vốn sống. Sự
phong phú, sầm uất, ngổn ngang những cảnh đời những kinh nghiệm sống là
điều không chỉ quan trọng đối với một người, đối với cuộc sống của một
con người, mà quan trọng nhiều hơn là đối với một người viết văn.
Mình
sẽ làm thơ và viết văn. Đấy là ước mơ thầm kín từ rất lâu rồi, từ bài
văn đầu tiên “Con gà trống qua sông” cho đến tận bây giờ. Ước mơ thầm
kín, song ta không hề được ủng hộ. Và rất dễ nhận thấy sự nhậy cảm văn
học, sự cảm thụ cái đẹp trong cuộc đời phôi pha đi nhiều. Mình không dám
nói điều mơ ước ấy với ai, kể cả những người thân thích. Lỡ đâu không
viết được thì xấu hổ chừng nào. Song giờ đây, giờ đây, mình hiểu rằng
cây bút đã nằm gọn trong tay mình. Phải viết, phải viết - Viết say sưa
và bằng tất cả trái tim mình. Hãy cống hiến chút ít gì năng lực và tất
cả nghị lực cho thơ, cho văn. Hãy dũng cảm nhận lấy trách nhiệm mà lương
tâm mình trao cho. Viết bằng sự say mê của bản thân và viết bằng cả sự
thôi thúc của những sự kiện nóng hổi mà đất nước và dân tộc tặng cho ta.
Sung
sướng hơn Như Anh và gian khổ hơn Như Anh. Mình hãy xứng đáng với Như
Anh, xứng đáng với niềm tin và sự chờ đợi của Như Anh. Đừng bỏ phí thời
gian, hãy tập trung sức lực làm việc cho say sưa và có ích nhất.
Mình
sẽ noi gương Pêlêvôi, noi gương tác giả đã hy sinh của Người mẹ cầm
súng. Trước hết hãy cầm súng, bằng cả hai tay. Rồi trong phút nghỉ ngơi
hãy cầm bút và viết và ghi chép lấy những sự tích anh hùng về người phi
công Marétxép dũng cảm, và về người mẹ anh hùng của 6 đứa con thơ...
Hiện thực rực rỡ và huy hoàng quá. Hãy táo bạo, mạnh dạn ghi chép và
viết. Hãy cống hiến cho đời bằng dòng máu và dòng thơ...
Tập 6
3.8.2.72
Càng
gần đến tết, người ta càng thêm nhớ nhà. Những người mẹ có con đi xa
lại càng thêm nhớ, thêm thương. Nhất là những ngày gần tết năm nay. Trời
lạnh, mà anh bộ đội phải lên đồi nằm, đất toả ra không phải hơi ấm mà
lại là những hơi lạnh cóng, tê dại cả người và ngay đơ cả chân tay. Đêm
qua gió lạnh kinh người, cả lán phập phồng giật lên giật xuống vì gió -
không biết bao giờ mới ngớt đi cơn gió lạnh này.
Ôi,
những ngày gió nổi. Bao nhiêu người mẹ ngồi nhà nhớ đứa con đi xa đang
nằm sương gối đất. Chiến tranh! Không còn là một khái niệm trừu tượng,
xa vời. Không còn là sự gắn liền với những danh từ cao quí nhưng thiết
thực. Ở đây là sự nhớ thương - Lo cho đứa con mình bị lạnh, thương con
tết liệu có bánh chưng xanh, có được ngồi ấm cúng trong nhà khi trời đất
chuyển mình sang năm mới... Tiếng khóc nấc lên của bà mẹ, thật quí,
nhưng cũng đáng sợ biết bao.
Không
ai có thể tránh được dòng nước mắt yêu thương ấy. Bên cạnh lòng yêu
nước, yêu Tổ quốc, người mẹ Việt Nam còn có tình mẫu tử. Người mẹ nào
chẳng thương đứa con đẻ của mình - Núm ruột dứt ra - Mẹ khóc-Khi đứa con
không có ở nhà. Anh đi xa, anh chỉ cảm thấy xa xôi.
5.17.2.72
Sắp rời khỏi Hà Bắc. Lần này thì vĩnh biệt thật. Và không biết có còn dịp nào trở lại đây hay không?
Vừa hết tết mà mùa hè dường như đã đến. Không tài nào viết được ra những cảm xúc của mình! Khổ quá đi mất.
6.18.2.72
Đại
đội 18 lại có thêm mấy người nữa trốn về. Tội nghiệp tụi lính trẻ. Họ
không thắng nổi nỗi nhớ và những cám dỗ tinh thần, vật chất ở nhà. Các
cán bộ hò hét suốt mà nào có ăn thua gì. Ai về cứ về và ai đi vẫn cứ
đi...
8.20.2.1972
Vừa
hành quân đến đây. Mình không muốn ghi nhật ký hành quân nữa. Đại khái
nó cũng như mọi lần hành quân khác. Cái mới chỉ là con đường đẹp hơn,
giống Hà Nội hơn và những ngôi nhà khác kiểu. Nói chung sự khác biệt ấy
rõ nhất ở cái tên: Hải Hưng và Hà Bắc.
Nhưng
cũng không thể nói rằng hoàn toàn không có gì mới. Điều mới mẻ là dĩ
nhiên thôi. ít nhất, nếu cái mới đó không phải do sự phát triển lô-gich
của nhận thức mình thì cũng là do sự thay đổi địa hình, địa vật, con
người Phả Lại, mình đi phà sang bờ kia, với Tâm, hai đứa lủng lẳng trên
cành tre một thùng thịt lợn. Ai nhìn thấy cũng phải buồn cười. Họ cười
thật, cười lăn, cười bò... Mình cũng ngượng nghịu cười. Tâm thì khoái
lắm, nó đội lệch cả mũ và lắc lư cái thùng. Mình nghĩ, nếu như đây là Hà
Nội, gần hơn là Cổ Nhuế, liệu mình có dám khiêng như vậy hay không? Và
buồn rầu nhận rằng mình chẳng dám mạnh dạn như thế đâu... ở nhà, phải
đẩy xe bò mình đã ngại ngần thế nào rồi, nhất là những hôm gánh cỏ cho
mợ hoặc em Hương... Không phải sợ nặng mà lười, chỉ vì có quan niệm nào
đấy tách mình ra khỏi lớp người lao động chân tay. Rồi cuộc sống bộ đội
sẽ làm lại cho mình tất cả những gì mình còn e ngại. Cho đến lúc nào
mình cảm thấy tự hào rằng: chính mình đã làm được những điều ấy và cảm
thấy thèm khát muốn làm. Lúc ấy mới có thể hài lòng được, lúc ấy mới có
thể nhận mình là người con chân chính của giai cấp, của Đảng. Còn bây
giờ là “tập” là “nhập cuộc” mà thôi.
Ở
bến phà, những người đi chơi tết còn đông lắm. Họ đứng nghẹt ở hai bên
bờ, chờ bộ đội đi qua. Sông Lục Nam xanh ngăn ngắt màu lá ngô non. Còn
cái ca nô kéo phà thì chăng cờ lộn xộn, đủ các loại. Cuộc sống mà cần
đến sự loè loẹt ấy chăng? Mình nghĩ đến những kỳ nghỉ hè của học sinh Hà
Nội. Có em bé nào từ khoang ca nô nhìn trời, nhìn sông (hết mực rồi, và
chưa mua được - cũng lại là một qui luật hay sao, người ta ngại đem mực
đi vì sợ "lỉnh kỉnh", nhưng người ta vẫn phải viết - và thế là tích cực
đi xin!).
Chắc
là người ta thương anh bộ đội lắm. Mồng 4 tết, mà nhổ lều, bứt lán,
gồng gánh ba lô, xoong nồi hành quân như vậy để có chiến thắng đánh dấu
một thời đại. Còn ta, cũng hành quân đây. Ta sẽ để lại điều gì trong
lịch sử?
Đất
Hải Dương... Hải Dương, mình nhớ luôn đến Trần Đăng Khoa. Khoa còn cách
đây xa, 20km nữa. Đây là huyện Chí Linh. Lúc dừng chân nghỉ ở cái kho
hợp tác ven đường gió lộng, mình bảo với Tâm: "Tâm nghĩ gì khi đến đất
Hải Dương này?" Tâm không nghĩ ngợi điều gì cả. Nó nghĩ rằng đường xa
quá, trời nắng quá và nhiều bụi...
Còn
mình, mình nhớ da diết. Phải, da diết và day dứt nhớ Trần Đăng Khoa.
Đất nước vẫn như xưa (!), Hải Dương cũng chỉ một làng quê như trăm nghìn
làng quê Việt Nam khác thôi, như Cổ Nhuế, như ngoại thành Hà Nội. Vẫn
cánh đồng trải như vô tận (chẳng phải, còn những mỏm đồi xa xa, màu xỉ
than). Đồng đang xanh màu tươi mát của lá ngô non. Còn dĩ nhiên là nhiều
gió. Chân gió đi không biết mỏi, gió xoài ra một lát rồi lại cuốn ào
ào, mang đi biết bao vị ngọt hương thơm của quả chín, của mía... Cái mùi
vị đồng nội ấy. Vậy mà Khoa, năm nay lớp 7 đây, lại làm được những bài
thơ hay và xúc động. Phải chi quân mình cứ đi mãi rồi rẽ sang tay phải
đến xã của Khoa - xã Quốc Tuấn, Nam Sách, Hải Hưng - Đóng quân ở đó, để
mình gặp và chiêm ngưỡng tài năng trẻ của đất nước, để mình hỏi và đọc
thơ em Trần Đăng Khoa, chắc chẳng khác gì những đứa trẻ chạy lông bông
ngoài đường kia thôi. Thế mà những âm rung nhỏ xíu nhất của em lại có
sức vang động lạ lùng. Người ta thuộc thơ em, và hơn cả thơ em làm lớn
dậy tâm hồn và trái tim biết bao người. Hạnh phúc biết mấy Khoa ơi!
Hải
Dương - Người hãy tự hào vì đã dâng cho đất nước thiên nhiên xinh đẹp
và những tài năng quí giá. Đến Sao Đỏ, chỉ còn cách Đông Triều 15km,
mình mới hiểu vì sao Khoa có thể đi bộ đến mỏ than để thăm anh Minh, mới
hiểu "mang màu than trong nòng súng chúng tôi đi". Hiểu nhiều hiểu tất
cả. Cả ngôi nhà Nhuần dưới chân núi của Lý Biên Cương trong “Mùa lũ” ...
Chao ôi, cảm ơn tỉnh trung du, đẹp quá đi thôi...
Những
cánh rừng trong đêm âm u lạ. Mảnh trăng mềm như một miếng hồng vừa cắt
chỉ khẽ ló ra sau lá. Ta nhận ra rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lá to
và ngắn hơn bạch đàn ở nhà, ở Quế Võ, ở Hà Bắc. Ừ nhỉ, đến đâu cũng gặp
bạch đàn thôi. Và ở đâu, đi đâu, đến đâu, và nhớ gì, nghĩ gì, ta đều
nhớ Như Anh. Như một niềm vui, mềm an ủi, như một ước mơ hết sức xa vời,
song đẹp đẽ và đáng mơ ước biết bao nhiêu.
Ở
chỗ đóng quân lại nhiều thông. Cây thông thật cao và to đứng im lặng.
Xung quanh là đồi cây, đây mới thực là thung lũng. Gió đâu rồi nhỉ, đâu
rồi cơn "gió qua thung lũng, mang màu xanh bất tận? Mình có cảm tưởng đi
vào ngôi chùa nào đấy, thờ một ông phật, bụng phệ nào đấy và cố từng
tam quan. Toàn thông và bạch đàn thôi. Thân cao nhìn thật thanh thản.
Xung quanh đồi thật đẹp, xanh lốm đốm chứ không phải đồi trọc như Hữu
Bằng. Dân cũng tốt hơn, xin tre về làm lán dễ lắm, thế là lính phấn khởi
dần lên. Lính cười: hơ hơ, hì hì, hục hục... đủ 36 thứ cười! Y trồng
trước lán một cây thông nhỏ, nó bảo đấy là bồn hoa. Vị lấy đá xếp chữ
"Khí tiết" như trong Bất khuất" vậy. Chúng nó bảo, sống một ngày cũng
phải sống cho đàng hoàng. Ừ, đúng lắm, phải sống cho đàng hoàng. Cái lán
làm xong đẹp quá đi mất. Mình nằm ngửa mặt nhìn lên mà khoái. Sao nó
giống tường của rạp Kim Đồng đến thế. Cũng những nẹp hình vuông.
Ôi,
lại nhớ Như Anh đây. Hôm nào sống giữa trường đại học có cửa gương, có
giường tầng, mà lúc Như Anh vào chơi, ngượng đến chết vì nhà cửa bề bộn
quá. Thế mà bây giờ ở rừng Chí Linh này, mong Như Anh đến. - Như Anh đến
đây nhé, mà xem lán anh bộ đội làm, đẹp đến mê đi.
2.21.2.1972
Rất
buồn cười về nếp sinh hoạt mới của lính. Buổi sớm, buổi trưa và buổi
chiều, những cảnh ngộ nghĩnh lại bày ra trước mắt. Chiều qua mình ngộ
quá. Lúc mặt trời gần khuất sau đỉnh Côn Sơn, mình thấy lũ lượt lính vác
xẻng lên đồi thông. Trên ấy có gì nhỉ, hay họ đi đào hầm,Chẳng lẽ đào
hầm xa lán thế? Cuối cùng mới vỡ lẽ, họ đi đại tiện! Phải đào hố và lấp
đi, có vậy thì mới giữ vệ sinh. Tuy vậy lên đồi thì cũng phải cẩn thận
lắm, không có nguy hiểm ngay thôi.
Còn
nước thì mới kinh khủng chứ. Ở đây không có suối không có giếng. Vào
nhà dân thì xa quá. Vậy là rửa mặt, rửa tay chân. tắm giặt, nước ăn, tất
cả đều ở trên một cái ao nhỏ xíu, cỏ đầy trên mặt nước. Nước cứ mờ mờ
xanh, và chỉ khẽ khua lên là lầm đục. Đứng trên bờ thấy lợm giọng vì một
mùi tanh. ôi chao, kinh sợ quá đi mất.
Hôm
đầu đi với Tâm, nhìn mấy đứa đang tắm, khắp người ghẻ kềnh càng, thấy
gai cả người. Giá ở nhà có lẽ mình chẳng dám xuống rửa chân nữa, thế mà
mình ở đây, lại múc nước lên đánh răng, rửa mặt và múc cả về lán đun lên
uống nữa. Eo ơi, đừng ai nhổ nước bọt đấy. Cuộc sống bộ đội rồi còn ác
liệt hơn thế nhiều, gian khổ và vất vả hơn thế nhiều.
Có
lẽ bắt đầu từ hôm nay mình sẽ không viết thư cho bất kỳ ai nữa cả. Và
dĩ nhiên sẽ không nhận được thư của bất kỳ ai. Hãy dẹp bớt đòi hỏi của
cá nhân mình, và làm việc cho tốt. Mình nhiều lúc phải hối hận vì đã bỏ
quá nhiều thời gian vào những công việc ít có ích. Rồi mai đây, khi trở
về gặp lại các bạn thời thơ ấu, liệu mình có dám đứng đấy mà trò chuyện
hay không? Thật đáng sợ biết bao nhiêu!?
Cuộc
sống không chờ một ai cả. Thời gian trôi thật nhanh, chẳng mấy chốc mà 5
năm, 6 năm lại trôi qua đi thôi cố tin rằng mình không chết! Thế thì
liệu đất nước đã thống nhất hay chưa? Và liệu lúc ấy mình đã làm được
những gì đáng gọi là "thành quả" cho đất nước? Hay vẫn chỉ thu lượm, hin
tòi? Hay vẫn chỉ "triển vọng"? Trời ơi, phát điên lên mất thôi. Còn mặt
mũi nào mà gặp lại các bạn, nhất là Như Anh!
Những
tháng năm rảnh rỗi trong suy nghĩ thế này mà không viết được gì thì
biết đến bao giờ mới làm được? Bao giờ mới làm được Thạc ơi? Trước kia
thì ao ước, mong chờ được đi mà viết, còn bây giờ thì nằm ngay đơ trong
lán mà than thở.
Hôm
nào, sẽ lên thăm đỉnh Côn Sơn, nơi Trần Đăng Khoa đã viết câu thơ
“Ngoài thềm rơi chiếc lá đa... “ Nguyễn Trãi xưa kia đã tới đây ẩn dật.
Vậy là đất này chính là đất văn học rồi. Sao mình không thể cất lên
tiếng hát ở đây?
Các
bạn đã làm được nhiều. Riêng mình vẫn trằn trọc hoài, trằn trọc mãi
không thôi. Tự nhiên, mình ghét những trang nhật ký này. Nó dường như
không có tác dụng gì mấy trong cuộc sống của mình, mà chỉ là chỗ chứa
những lời than thở trách móc năng lực và số phận của mình mà thôi! Không
nói đến những điều ấy nữa!
Mình
giờ đây băn khoăn khá nhiều, mà không hề có được 1 lời khuyên bảo. Liệu
mình có thể làm được gì, đóng góp được gì cho văn học chống Mỹ hay
không? Biết bắt đầu từ đâu và đi theo con đường nào? Làm sao có được một
bàn tay dẫn dắt của người đi trước?
3.22.2.72
Sắp
phải đi học rồi đây. Thời gian trôi nhanh quá. Thật thế ngày nào mình
cũng phải đấu tranh tư tưởng. Ngày nào cũng tự nguyền rủa mình. Ngày nào
cũng một nỗi ân hận giày vò.
Rồi
sau này, nếu Như Anh có về đọc được nhưng dòng nhật kí này, chỉ mong
Như Anh hiểu được những điều bây giờ đang dằn vặt mình, đang vò xé trái
tim mình, lương tâm mình. Trời ơi, có bao giờ mình lại khổ sở vì khả
năng kém cỏi của mình như lúc này hay không?
Còn
nhớ đêm mồng 3 tết, nằm trong lán nilong với Tiến và Thư mình trở mình
hoài vì bài thơ "Gửi lại Talê" và “Đoạn đường...” của Trần Nhật Thu.
Chao ôi, bài thơ hay quá đi mất. Những bài thơ làm trên chặng đường hành
quân vào trận tuyến. Những bài thơ cảm động và đẹp đẽ biết chừng nào.
Trần Nhật Thu dễ thường chẳng mấy người biết đến tên anh, nhưng thơ của
anh thì hay đến thế. Những dòng thơ bước thẳng vào trái tim người đọc
Chính bởi anh từ cuộc sống chiến đấu ác liệt mà viết nên những vần thơ
ấy...
“Gửi lại Talê - Gửi lại Talê
Tôi ríu lưỡi trước giờ từ biệt
Xiết chặt tay các anh - Dòng sông cuộn xiết
Một góc rừng Lào âm âm tiếng bom...”
Bài
thơ anh làm tại Bulapha, ngày 31.5.1971, đúng ngày T. và Như Anh gặp
nhau trên đường Hà Nội. Phải, lúc ấy mình còn thanh thản lắm, và đâu
nghĩ rằng có những người đang viết những vần thơ lửa cháy!
Tới
hôm nay, Y đưa cho mình xem bài thơ “Dốc On My”, lại của Trần Nhật Thu
đề ngày 30.2.1971. Anh viết khoẻ và viết hay, táo bạo!
Chao
ôi, hạnh phúc biết bao nhiêu khi chính mình được đi trên những nẻo
đường thấm máu đồng đội, trên những nẻo đường mang tên người con gái Lào
xinh đẹp. Các anh, sung sướng quá! Biết bao lần mình mơ ước được đi như
Phạm Tiến Duật, nằm trong mái lán Trường Sơn mà cảm hiểu cuộc sống nước
sôi lửa bỏng của dân tộc. Mà viết và ca ngợi!
Mặt
trận còn cách xa đây lắm! Nhà văn Ng. Khải nhận xét rằng: Mọi người đều
đã quen với cách nghĩ: “Còn phải đón đợi những thử thách ở phía
trước”... Với họ, họ đã làm tròn trách nhiệm của hôm nay. Và họ đều cảm
thấy khó khăn, gian khổ, thử thách là chưa tới, là chưa tới! Như anh
chiến sĩ vây lấn ấy vậy, nằm bên đồn bốt địch, nghe rất rõ tiếng pháo nổ
đầu nòng, còn tiếng thứ hai thì xa, xa lắm. Và anh nghĩ thầm rằng mặt
trận ở tận đâu ấy, dễ thường cách đây đến hàng chục cây số!
Riêng
mình, quả thực đây là hậu phương của bộ đội. Không tiếng súng nổ, và
cuộc sống bình thản quá. Cái hội trường học tín sạch và mát, ẩn dưới gốc
thông già. Không có trẻ con đến chơi, không có tiếng chim, chỉ lâu lắm
mới nổi lên một đợt gió từ thung lũng xa. Buổi sáng, còi tập thể dục
chưa buồn dậy, còn nằm rốn mơ tiếp một giấc mơ còn dang dở, rồi lục cục
gập chăn màn, đánh răng rửa mặt, ăn sáng và đi học... Lại xếp hàng một,
tay cầm liên hợp và ma níp, vừa đùa thoải mái. Để đến cái sân đất có
nhiều lá rụng mới lại chợt nhớ Pauxtôpski, nhớ Bông hồng vàng , và một
lời hứa, một trách nhiệm của cuộc đời...
Ngoài
ra còn phải học tín nữa. Lơ là thì đố có mà học được Nhầm be bét học
làm sao nổi! Chao ôi, mình ngấy đến tận cổ cái trò cứ "tích ta tích ta"
này rồi, chẳng nhẽ cứ nhàng nhàng mãi!
4.23.2.72
Không
hiểu người ta nghĩ gì, người ta cảm thấy điều gì khi đến những miền đất
lạ? Giả sử như ở đây, nhìn ngọn núi xanh màu lá cây thật mềm, mát,
người ta sẽ cảm thấy cái gì? ắt có người khen đẹp. Ừ, đồi núi ở đây đẹp
hơn ở Tân Yên, nhất là so với Hữu Bằng thì nó lại càng đáng ca ngợi.
Những cây thông uy nghiêm trên đỉnh núi, phía dưới thung lũng là trắng
bạch đàn, rừng thông rì rào suốt ngày đêm. Cỏ mọc dìu dịu ở sườn đồi,
còn con đường lên đỉnh thì bàng bạc và mới mềm làm sao. Tất cả đều gợi
lên một điều gì dịu dàng, mát mẻ. Cả vũng nước nép giữa bụi cây nhỏ loà
xoà mà lính hay xuống rửa tay chân cũng mở một thế giới trong lành. Cuộc
sống hơi chật một chút, song thú vị.
Phong
cảnh ở đây khác nhiều so với Hữu Bằng. Không có một dòng sông để nhặt
những viên sỏi nhẵn và những cánh buồm mốc vá víu phồng căng, không có
những cô gái gò lưng kéo thuyền khi trời lặng gió... ở đây không có
những quả đồi trọc, toàn đá sỏi, nhìn lên khô khốc, không thấy cảnh con
bò giơ bốn chân khẳng khiu đỡ lấy đống tròn phình, chót vót trên đỉnh
đồi, gặm vào lá cỏ non vừa nhú.
Phải
đấy, cuộc sống của nhân dân ở đây thoải mái và sung túc hơn so với Hữu
Bằng, bởi vì vùng này không bị lụt và ít nhiều dân cũng thưa thớt hơn.
Mình vào mấy nhà quanh chỗ đóng quân, nói chung đều cảm thấy thoải mái
hơn ở chỗ cũ. Nhà cửa sạch, mát, lối vào nhà gòn gọn. Cả gốc tre cũng
sạch, ít lá rụng và ít bụi: Cuộc sống thanh bạch và trong sáng làm sao.
Cũng chưa biết xã trung du này nữa. Hôm nọ hỏi bà cụ gánh cỏ, biết được
đồng cỏ vịt, còn thì chẳng biết được gì hơn. Không biết đây là người
Kinh hay người dân tộc nữa. Suốt ngày chỉ thấy những đám mây bay từ đỉnh
này sang đỉnh kia, che rợp một vùng đất. Còn thì âm âm u u, như thể đây
là một vương quốc của riêng mình. Có lúc tưởng như mình đã ở đâu xa xôi
lắm. Té ra vẫn đất nước mình, và cách Hà Nội có là mấy đâu Vùng này
thế, thảo nào ngày xưa Nguyễn Trải ẩn dật!
Mình
có cái tệ là ít vào nhà dân. Vào lúc nào cũng chỉ có việc không xin cái
nọ thì xin cái kia. Nếu vậy thì làm thế nào mà hiểu biết sâu được vùng
này! Vả lại, khi anh chưa thật sự quan tâm đến cuộc sống lam lũ của dân
tộc thì chẳng bao giờ anh hiểu nổi cái cốt lõi làm nên cái trạng thái
tâm hồn ở đây.
Nếu
như nhìn ngọn đồi đá ong, đá trắng, sỏi vụn anh chi cảm thấy khô, thấy
nhức mắt, thấy ghét guồng chứ không phải là nhức nhối trong tim, thì anh
hãy về đi, đừng làm anh bộ đội nữa. Hoặc là hãy đặt tay lên ngực, xem
quả tim đi, Có lẽ nó đã trôi xuống dạ dày rồi! Mà nào có ít người nói
những điều ấy với mình, thế mà họ lại là bộ đội đấy!
Có
tiếng súng nổ - K54! Hôm nay C vận tải đã hành quân đến. Họ dựng lều
bên kia đồng, ở chân núi, dưới những cành thông cao tuổi. Người ta bảo
làm lán ở rừng thông là tốt nhất, thoáng mát và không khí trong lành.
Thân cây to đen, nứt nẻ, nhiều vết toác ra cho nhựa chảy. Thật khó mà
chặt được thông, chỉ cần một vệt dao xước nhẹ là nhựa đã chảy ùn kín vết
thương. Ai ví cây thông như sức sống của người cộng sản thật đúng quá!
Dưới
(hay là trong?) rừng thông già lão ấy là C vận tải những anh lính trẻ.
trẻ quá - Khi ngồi trong lớp học, tay gõ ma níp mình thấy họ đi qua cửa
rửa mặt mà thương quá. Họ hành quân mấy ngày rồi, mãi tối qua mới tới
đây... Có lẽ toàn lính thành phố cả. Trông cách ăn mặc, và điếu thuốc
ngậm trễ trên môi là đủ biết. Hầu hết là lính mới, nom mặt còn non
choẹt, và người thì nhỏ xíu. Bất giác nhìn lớp học của mình. Hầu hết là
sinh viên, to, khoẻ, chững chạc. Chính mình sẽ là chủ lực của quân đội
đây, còn dựa vào ai nữa.
Bây
giờ, càng đi lâu, mình càng thấy sự có mặt của mình trong quân đội là
cần thiết, là đúng đắn. Xấu hổ biết bao nhiêu vì thanh niên trai tráng,
khoẻ mạnh lại suối ngày ru rú trên cửa sổ của giảng đường đại học! Suốt
ngày gìn giữ nếp áo quần, giữ bàn tay cho sạch, và soi gương làm dáng...
để cho lớp thanh niên vừa nhỉnh một chút lăn lộn người ngoài tiền
tuyến, với những thằng lính Mỹ xâm lược to gấp đôi, gấp rưỡi mình! Thế
sao trước kia mình không nhận thấy điều ấy? Một chân lý đơn giản, thật
dễ hiểu? Mình trước kia không hiểu hay không muốn hiểu?
Từ
lúc nào không rõ, mình có ý thức chủ nhân đất nước. Dạo còn bé đi học,
mình biết rằng còn có cha mẹ, có thầy cô giáo và mọi người lớn lo thay
cho mình. Song giờ đây mình hiểu rằng, chính mình là cột trụ của đất
nước. T. H nói đúng làm sao: “Lịch sử chọn ta làm điểm tựa”. Ừ, đâu còn
là một chân lý trừu tượng nữa, mà đã là sự thật. Không chỉ nhận ra, mình
còn sung sướng và tự hào vì nhiệm vụ vẻ vang ấy. Chỉ tiếc rằng, mình đi
chậm quá, chậm quá rồi. Nếu như có ai đọc một truyện ngắn trên Văn nghệ
quân đội về những người chiến sĩ vây lấn điềm cao, người ta đã có hy
vọng gặp nhau "khi chiến tranh kết thúc"... Kết thúc chiến tranh...
Không, đấy không phải là chiến tranh hay sao ấy.
5.24.2.72
Cuộc
chiến đấu của dân tộc đã trở thành nếp sống bình thường của mọi người.
Và có lẽ do vậy, người ta ít khi hình dung sẽ có ngày mà chiến tranh kết
thúc. Ý nghĩ ấy thật là tội lỗi, chắc chắn nó là một ý nghĩ lạc hậu so
với cuộc sống sôi nổi, lạc quan của những người làm chủ cuộc sống của
mình. Thử để ý xem những người khác suy nghĩ thế nào về việc kết thúc
chiến tranh"! Phải nói rằng đa số những người mình gặp đều có một thái
độ chuẩn bị lâu dài cho cuộc chiến đấu. Nhưng họ không bi quan và không
lạc quan quá đáng. Đó là điều tốt và đáng quí.
…Ở
đây đã gần một tuần rồi, và chưa kịp đi đâu xa xôi cả Chỉ có dịp đi xa
một chút, về tiểu đoàn thăm bọn nó. Cả B đi vào rừng lấy củi, một số đi
xa hơn, 30km, lấy nứa về làm lán. Mình cứ lần theo đường dây điện thoại
mà về...
Chỉ thế thôi, còn toàn quanh quẩn ở nhà với hội trường thôi. Thoắt một cái đã hết ngày rồi, mà chẳng làm được gì hết.
Hôm
nay nghe tin đồn thì lại sắp chuyển quân. Hình như cuối tháng hoặc đầu
tháng 3 thì phải. Người thì bảo Thanh Hoá người thì bảo Quảng Ninh...
ôi, sao nhanh thế nhỉ. Đã biết trước chỗ này chỉ là dừng chân tạm thôi,
mà vẫn cảm thấy nhanh. Chưa kịp đi Côn Sơn thăm nơi Nguyễn Trái ẩn dật,
và đỉnh núi kia vẫn chỉ mờ mờ trong sương sớm, trong trí óc của mình.
Dù
rất mong đi chiến trường, vẫn cảm thấy nhanh. Vụt cái như một vệt sao
đổi ngôi vậy. Mình đã gần nửa tuổi quân. Đã quen với tiếng súng AK, K63,
K54, bộc phá, lựu đạn. Và chỉ mới như thế thôi. Những con chuột lửa,
dải lửa màu da cam của B40 chưa từng được thấy. Cả dãy Yên Tử cũng chẳng
nhìn thấy nữa. Tâm ca ngợi Yên Tử nhiều lắm, nó bảo, lính muốn đi B thì
ắt phải trèo Yên Tử, lên 1 ngày xuống 1 ngày. Trên đỉnh là quê của "tắc
kè" đấy...
6.25.272
Thấy hoa nhãn nở, nhớ câu thơ Chế Lan Viên:
"Tháng ba vườn nở hoa xoan
Sáng ra mặt đất lan tràn mùi hương
Vắng em anh chẳng ra vườn
Sợ mùi hương, sợ mùi hương nhắc mình... "
Tập 7
4.1.3.72
Tháng 3 của em... Thế là đã 1 năm trôi qua - ở nơi xa xôi ấy em nghĩ gì?
7.4.3.72
12giờ 15
Rất
lâu lạ; không viết Nhật ký - Không buồn viết – và cũng chẳng có mực mà
viết - Đem đi thì sợ đổ, đến nơi ở thì chẳng có lấy chút mực gì - Thật
chán quá đi thôi!
Cứ
mỗi lần bỏ cái mũ ra, người ta lại oà lên kinh ngạc vì mái đầu bạc của
tôi ! Sao người ta tàn nhẫn thế hở những người xung quanh? Thử giật một
sợi tóc vô tình, phần lớn là tóc bạc, những sợi tóc trong trẻo, trắng
muốt thế, mà lại là nỗi buồn êm dịu, nỗi buồn dai dẳng, đau đớn và dữ
dội của lòng tôi? Chẳng lẽ tôi đã già đi như vậy? Già trước tuổi già
trước tất cả những gì tôi đã trải qua và chưa hề trải qua?
Tôi
lo lắng chút gì về bản thân, lo nhiều vì tôi chưa làm việc ra hồn, lo
nhiều vì thời gian trôi đi nhanh và mất hút sau lỗ rách của mái lều -
Tôi lo vì sự đói rét của gia đình, vì sự bất an của bố mẹ tôi - Tôi lo
tất cả, vì từng người trong gia đình. Những người thân thích của tôi
không yên ổn sống trong cuộc đời này... Thế mà những sợi tóc tưởng chừng
như vô tư lự ấy, cả nó nữa cũng đem đến cho trái tim tôi một vết
thương. Hôm nay mới 20 tuổi đầu đã trắng xoá cả mái tóc lẽ ra còn xanh -
Vài năm nữa - Rồi sẽ ra sao? Rồi người ta sẽ nhìn tôi ra sao?
Chẳng
bao giờ tôi chán nản với những ước vọng của mình - Tôi không còn muốn
trở lại gặp ai nữa - Cả bố mẹ, anh chị em, cháu Hằng và cháu Phương mà
tôi nhìn mặt cháu 1 loáng trong ánh sáng mờ khói - Tôi không muốn gặp
lại cả Như Anh, người mà tôi hết lòng yêu quí và kính trọng, người mà
tôi mang nặng trong tim suốt cuộc đời này. Tôi không muốn nói về tôi
điều gì nữa cả. Tất cả cuộc sống của tôi dường như đã trở thành vô vị -
Phần lớn những người bạn thân, tôi không muốn trao đổi điều gì với họ,
tôi đi, im lặng... và sẽ im lặng mãi. Bây giờ tôi chỉ muốn đi chiến
trường ngay - ở đó cuộc sống quí giá hơn ở đây chăng.
Không
ai có thề hiểu được nỗi buồn xa xôi đang bóp nghẹt trái tim tôi. Thật
quả tôi cũng không thể khẳng định được rằng tôi có đủ nghị lực để sống
cô độc từ nay – Tôi biết rằng không lâu nữa, tất cả những gì mà tôi hằng
ôm ấp và mơ ước tới sẽ vụt khỏi giấc mơ tôi. Bởi hai bàn tay tôi không
tài nào giữ được... Sẽ mất, sẽ mất hết cả. Vậy thì giữ làm gì nữa, hở
tôi?
Đừng
ai xem những dòng này. Vả lại cuốn Nhật ký này chắc cũng chẳng bao giờ
có ai xem được - Tôi sẽ chỉ giữ những cảm xúc này cho tới lúc tạm biệt
miền Bắc thân yêu đi chiến đấu - và sẽ biến những trang giấy này thành
ngọn lửa hun cay sè mắt tiễn biệt tôi - Vì chắc chắn chẳng có ai tiễn
đưa tôi cả - Tôi đi và gửi tấm thân này ở một miền đất nước nào đấy mà
tôi biết hoặc chưa thể biết tên.
Tôi
muốn nói với Như Anh những lời da diết và êm dịu nhất. Song, em sẽ chỉ
gặp tôi trong những giấc mơ thoảng qua và trong những trang thư tôi đã
gần cho em. Em hay ở xa mà mơ ước về tôi, mơ ước về một trang thanh niên
khoẻ mạnh, giàu xúc cảm, giàu lòng nhân đạo và mơ ước cao xa - Em hãy
làm việc say mê - Cứ như thế, em hãy nghĩ những điều tốt đẹp về tôi -
người yêu em tha thiết và mãnh liệt... Tôi không muốn để lại trong đáy
sâu của trái tim em hình ảnh kiệt quệ của tôi, mái tóc còn non trẻ đã
lốm đốm màu sắc của già cỗi, của khô héo và của những suy tưởng ngông
cuồng.
Không
ai có thể khổ như tôi - Bởi những điều hằng đay nghiến và dằn vặt tôi,
tôi không thể nào nói ra thành lời, không thể nào viết lên trang giấy
được, dẫu những điều tôi nói, tôi viết chỉ có 1 mình tôi nghe, 1 mình
tôi đọc Tôi xấu hổ với các bạn bè của tôi, tôi buồn rầu vì sự xấu hổ của
bố mẹ tôi với những người xung quanh, với những người hàng xóm soi mói
và lắm điều... Trời ơi, sao tôi khổ sở thế này. Sao tôi điên dại thế
này. Tôi muốn nằm phục xuống đây mà khóc, nhưng cái nền đất này lại
không có một chút màu gì - thành thử cái thằng người tôi cứ nguềnh
ngoằng ra đấy, thật vô duyên và thô lỗ chứ!
20-3-1772
Tôi
lại viết tiếp những dòng nhật ký này sau hơn nửa tháng bận rộn mệt mỏi,
lo nghĩ, buồn bực và hơn hết là diết nhớ người mà tôi hằng yêu quí -
Tôi cũng khôn còn nhớ rõ có phút nào tôi thanh thản, có phút nào tôi
giật mình thức dậy, tôi lại đọc hàng trang những dòng thư tôi sẽ viết
cho Như Anh - Tôi đã khóc trên những dòng thì thầm nóng hổi và âu yếm
ấy, tôi đã khóc trên vai em, trên đôi môi cháy bỏng của em... Tôi đã đọc
cho Như Anh những lời đẹp đẽ và chân thực mà lẽ ra tôi đã nói khi hai
đứa cầm tay nhau đi trên đường Hà Nội, những giờ phút cuối cùng của mối
tình gần gũi - Và chính những giờ phút ấy tôi lại đau đớn nghĩ rằng: Đó
là đỉnh cao, đó là tận cùng hạnh phúc của đởi sống riêng tư của tôi...
Chao ôi, làm sao ngày về, tôi lại được đón Như Anh, tôi lại vượt qua
được biết bao ràng buộc ngăn cản tôi, để tôi đến gần, rất gần, gần hơn
cả những giây phút bịn rịn trên đường Nguyễn Ái Quốc... Tôi lại mơ tiếp
với em giấc mơ đẹp và giản dị mà tôi chưa bao giờ được hưởng.
Không, cuộc sống chẳng bao giờ chiều tôi cả - Tôi sẽ vĩnh viễn xa em, xa người yêu duy nhất của đởi tôi - Biết làm sao được.
Cả
những trang nhật ký bây giờ cũng vá víu bằng chục, trăm, nghìn mụn vá -
Mà nào những mụn vá ấy có sạch sẽ, có đẹp đẽ và đáng nhìn đâu - Tất cả
đều mơ hồ, tất cả đều mòn cũ và chán ngán - Tôi không thể viết thêm được
nữa - Cái chán ngán này đến bao giờ mới chấm dứt đây ôi chao, lười,
lười, dốt nát, dốt nát cùng cực - Thôi lại giở thư Như Anh, dòng mùa thu
ẩm ướt của đời tôi đấy - Như Anh về đây với anh nào, về đây, gần đây
nữa, đừng đi nữa. nhé, em yêu của anh... Trời ơi, điên lên mất, điên lên
mất thôi! Sao tôi lại trở nên dở người thế nhỉ? Tôi nhớ V.T.P nhà văn
của thuốc phiện và bàn đèn... Đốt hết cả đi. Đốt đi ngay.
21/3/72
Vào
rừng lấy nứa. Vào rất sâu. Qua không biết mấy đỉnh đồi um tùm và rậm
rạp - Cỏ lau, những cây lạ, song, mây, cây tư me (hay chua me?) quả nhỏ,
tròn, mọng - Nhấm vào thấy chát lè lưỡi, nhưng lát sau, lâu. sau thì
ngọt từ trong cuống họng...
Đỉnh
đồi cao, con đường mòn như thói quen, nhẵn bóng, và nhất định có nhiều
người đi - Thế mà mãi tận bây giờ mình mới biết, mãi bây giờ mình mới
đi.
Cả
những chiếc lá rừng mình không biết tên nữa – Có chiếc lá nằm trong
rừng sâu, dưới lớp đất ẩm, tối suốt, nên đen nhánh - Thời gian thật là
lạ, ở cây xoan tây trên thành phố nó bước qua bằng dấu chân hoa đỏ chói -
Còn ở đây, là màu đen, màu xám và mốc meo.
Mình
nhìn cây mua xanh nhung mà thật cảm động. Ở rừng rú, chỉ tiếng chim lạc
lõng trong cái nền âm u, rì rào như một cơn giông lớn đang ào tới, mà
hoa mua nở tím cả thung lũng - Hoa mua cánh mềm, cánh mỏng như nếp áo cô
gái Việt Nam chung thuỷ đợi chờ - ù, hoa mua, ở rừng thế, làm gì có hò
hẹn mà cũng nở ra hoa tím, mà cũng chờ đợi và chung thuỷ
“Đất nước của tôi, mà tôi là khách lạ
Hoa tím rừng, khiến mắt rưng rưng…”
Mỗi
người vác một bó lớn ra cửa rừng - Thư tỏ ra tháo vát có nhiều kinh
nghiệm - chọn nứa, chặt nứa và vác nứa trong rừng - Nhưng còn ấu trĩ,
khi nó chưa biết con vắt là gì Lúc xuống suối lấy nước, 3 con vắt bấu
vào chân, nó cười ngặt nghẽo và thú vị nhìn cho đến khi máu tứa ra ở bàn
chân, ở kẽ ngón chân. Vắt cắn rất êm. cắn rất êm...
Xếp
nứa theo hình chữ A mà vác là tốt nhất, cho đầu nặng hơn, chúc xuống
dưới, tránh được dây rợ lằng nhằng và nếu có ngã thì chống được ngay -
Mình nhìn những chữ A lừ đừ trôi trong rừng, vừa thú vị, vừa vui, vừa
khổ và nhất là rất nhớ Như Anh - Lúc ấy chắc Như Anh không hiểu điều gì
đang sống với mình đây. Nhớ Như Anh hơn cả gia đình! Không thể giấu được
điều ấy.
22/3/72
Về Hà Nội, từ 6 giờ sáng - Ngồi chờ giấy công tác. Sốt ruột nhiều và cũng thú vị.
25/3/72
Chuyến
đi qua Hà Nội thật thú vị. Đi ô tô Sao Đỏ - Hải Dương - Hà Nội. gần
100km. Mệt bã người, nhưng vẫn mong về nhà. ở trên cầu Long Biên, ô tô
đi cùng diều với tàu hoả - Thấy Y ngồi ngặt mặt ở cái cửa sổ toa tàu –
Nom nó trẻ con lạ - Không hiểu “con giời” đang nghĩ gì mà trầm tư thế.
Mình
về nhà, nói chung là vui - Các em đi làm hết cả. Nên kinh tế đỡ khó
khăn - chỉ buồn buồn là các em không được đi học - Thôi chẳng cần nữa
vậy - Sau này, cố gắng học chứ biết làm sao - Các bạn cùng lứa tuổi mình
đi bộ đội hết cả rồi - Người đi B, người đi C - và có người đã là liệt
sĩ - Đất nước, có bao giờ như lúc này, lúc mà mỗi gia đình là một gia
đình quân nhân = Lúc mà mỗi thanh niên đã trở thành một chiến sĩ.
Thế
hệ mình, lứa tuổi mình - Các bạn ơi, đi nhé, chúng ta đi và chẳng cần
chần chừ, suy tính - Ta gửi lại phía sau lưng mình tuổi thơ và cả những
người thân yêu nhất...
Mình
đến chơi với các bạn, và không gặp bất kỳ ai hết cả Cả Tr. nữa - định
đến lấy ảnh của Như Anh – nhưng mình gặp Tr. trong hiệu sách nhân dân -
Mình sững lại, rồi quay phắt đi.
Không,
mình không muốn gặp Tr., không muốn gặp Tr. đâu - Mình không muốn gặp
Tr. vì nó nhắc nhở hoài tới Như Anh - Tr. mặc áo trắng rất lộng lẫy - Và
anh bộ đội quay đi - Gặp nó làm gì nhỉ, lấy ảnh thôi ư? Không, mình
chẳng liên quan gì tới Tr. cả, chẳng liên quan gì - Nhờ Tr., thì cảm ơn
Tr., có vậy thôi.
Cái
gì Tr. cũng đơn giản, cũng thẳng băng - Cầm cái thư nhỏ Tr. "viết vội"
(chẳng bao giờ Tr. có thời gian mà viết thư cả Tr. còn bận tiếp bạn, Tr.
còn bận học ) - ừ, cầm cái thư luễnh loãng trên 1 trang giấy nhỏ mà bực
mình hết sức. Đầu thư "Văn Thạc!" - Rồi sau đấy vài dòng chẳng lẽ Thạc
không biết sao?"
Mình
không biết nói gì, mình không biết nói gì khi linh cảm thấy rằng Tr.
đang "sinh viên" với mình - ừ, đây, cái cảm giác đầu tiên mà mình lo
lắng từ khi đi bộ đội đã trở thành hiện thực. Tr. mà thế, Tr., người bạn
thân lắm của Như Anh. Lúc ấy mình muốn nói tha thiết với Tr.: Tr. ơi
Tr. đừng như thế Tr. ạ - Tr. sung sướng được đi học, được đi học trong
khi các bạn Tr. vất vả, gian khổ và để tất cả những năm tháng trẻ khỏe
và đẹp nhất của mình cho cuộc chiến đấu của dân tộc - Tr. phải biết ơn -
Mình không muốn và chẳng hề nói Tr. phải biết ơn mình - Mình cũng chỉ
làm nhiệm vụ của lính thôi. Nhưng Tr. phải nhớ một điều: Nếu như không
có chiến tranh, nếu như không đi bộ đội thì có lẽ những anh bộ đội lù
lì, cục mịch, xô bồ này cũng chẳng chịu kém cỏi gì Tr. đâu, cũng chẳng
chịu kém những người bạn giỏi nhất của Tr. đâu.
Nhưng
thôi, chẳng nói Tr. làm gì, chẳng nói Tr. Khi mình biết rằng đang cao
hơn, cao thượng và rộng lớn hơn Tr. khá nhiều - Mình chẳng cần chấp nhặt
những điều nhỏ mọn ấy.
Và
đây thì là Như Anh, là Như Anh mà mình nhớ đến trong từng nếp trở của
mình - Như Anh mà mình cảm tình ghê gớm. Như Anh mình yêu, thương và
buồn khổ.
Đọc
hết 6 lá thư, mà mình muốn ngay trong đêm viết thư cho Như Anh hiểu -
Ừ, 6 cái thư làm mình xúc động - Xúc động vì sung sướng, biết ơn, vì
buồn và đau khổ - Không, đau khổ là nhiều thôi.
Bây
giờ, nỗi nhớ đi vào chiều sâu - Và vị ngọt hút từ màu tím thuỷ chung:
Ta xa nhau lắm rồi - Cả không gian lẫn thời gian và biết bao giờ mới trở
lại bên nhau.
Nói chuyện với Như Anh như vậy.
Thạc giở lại tất cả thư còn giữ lại được, vừa nhận được của mọi người mà buồn hết sức - Chẳng ai hiểu mình cả.
Như
Anh thương mình thật, mãnh liệt - Nhưng rồi thời gian? Không, mình
không viết dòng trên đâu - Vì thế là nghi ngờ Như Anh rồi.
Đang
ngủ trưa, mà những cơn gió mùa Đông Bắc còn róc lại từ mùa trước đánh
thức mình dậy. Trời rất trong và sáng. Lán vặn vẹo và từ hai bên hiện ra
hai khoảng trời hình tam giác, ở đó có rối loạn những cây bạch đàn xơ
xác và tơi tả Bỗng nghẹn ngào nhớ đến Như Anh - Dường như Như Anh đấy
với mái tóc tẽ đôi bay ngược chiều gió thổi như đang nức nở - Như Anh
khóc à? Khóc thật ư, Như Anh?...
Chao
ôi, từ bao giờ vậy, mình hiện ra tính ghen tuông tồi tệ Mình ghen với
Liêm, Dũng, Phú và bây giờ với Lương, người mà mình hình như có biết
trong trường Tổng hợp - Ừ, thì ta tưởng tượng rằng: Lương chính là người
ấy Là người thâm thấp, lầm lùi và một lần mình gặp dưới cầu thang...
Phải, người ấy đấy - Thật sung sướng khi Lương cũng được hưởng hạnh phúc
gần gũi người mà mình hay gặp trong những giấc mơ, hay gặp trong suy
nghĩ…
Thôi
nhất định sẽ không viết thư cho Như Anh nữa - Dù lá thư vừa nhận được
khiến mình hơi bàng hoàng - Khiến mình cảm thấy Như Anh hơi xa lạ với
mình.
Thạc
đừng kéo Như Anh lại nữa. Thạc để Như Anh đi đi Thạc sống một mình như
vậy nhé - Hạnh phúc của đời chỉ dành cho Thạc thế mà thôi...
…
Bất chợt nhìn lên vách lán. Những cây nứa tươi xanh hôm qua đan thành
phên chắn gió. giờ teo, tóp lại, đe lộ từng khung vườn nhỏ, dài dài -
Kia là bạch đàn, Như Anh đấy Không, phải mình không hiểu Như Anh khổ -
Nhưng sao giờ đây khi đọc những dòng trách móc của Như Anh về món tiền
cấp hàng tháng và món canh cà chua, với hành và mì luộc. Bỗng nhói lên,
và trái tim mình như giập ứa. Đừng nói nữa Như Anh và đi đi, kẻo muộn...
Như Anh nhắc đến Hồ Tú Bảo, đến Bùi Khởi Đàm... để an ủi mình ư?
Chẳng cần đến điều ấy làm gì đâu!
Phải,
giờ đây tôi ân hận rất nhiều. Tôi tự trách mình sao đã tìm đến Như Anh.
Sao tôi không nghĩ rằng, đó chỉ có thể là ảo tưởng? Sao tôi đã níu chặt
Như Anh khi ngày mà Như Anh đã đi xa, đi xa?
Sao
đêm hôm ấy, tôi lại hôn Như Anh, cái hôn đầu tiên và duy nhất trong
cuộc đời tôi. Ừ, lúc ấy, thật ngượng ngùng. Có biết thế nào đâu chỉ vì
yêu thương Như Anh quá chỉ vì nghĩ đến cái xa cách đáng sợ mà tôi đang
chịu đựng đây…
Phải,
bao nhiêu lần tôi nhủ Như Anh đừng chờ tôi làm gì nữa. Nhưng chính lúc
tôi nói những điều ấy trong thư, thì tâm hồn và trái tim tôi bàng bạc
một dòng tha thiết: chờ Thạc, Như Anh nhé. Chờ Thạc như cô gái Việt Nam
chung thuỷ trọn đời với người yêu đi chiến đấu - chờ Thạc, như cô gái
trong bài thơ của Tế Hanh: “Em chờ anh không biết có thời gian…”
Phải,
lúc này tôi buồn bã vì những giây phút xúc động đã qua, tôi đã đi quá
xa những ước muốn của tuổi nhỏ - Tôi đã buột ra, gọi Như Anh, gọi người
tôi yêu quí bằng cái tên chung của mọi người con gái: - Em...
Và
thế là hết, tuổi thơ hồn nhiên, tinh nghịch, nhí nhảnh và đẹp lạ. Cái
tuổi thơ chỉ nhiều mắng mỏ, nhiều giấc mơ quái đản, kỳ dị làm tôi giật
mình - Hết tất cả rồi, khi tôi đã lớn khi tôi đã ghì chặt đôi vai tròn,
thon thả và nói với người tôi yêu quí những âm điệu ngọt ngào nhất của
trái tim tôi.
Như
Anh bảo: Như Anh an, Như Anh không đòi hỏi điều gì khi Như Anh thực sự
là của Thạc. Thế mà chỉ thiếu thư một chút, viết ngắn một chút đã dỗi...
Ai sẽ dỗ Như Anh, ai sẽ viết những bức thư ngọt ngào cho Như Anh đọc
khi Thạc đi vào chiến trường xa xôi?
Đòi hỏi ở bạn làm gì, khi mình đã thực sự tin yêu bạn- Khi mình thực sự muốn cho bạn sống và làm việc được nhiều.
…”Đêm trăng sáng. đêm mùa hè, trên dòng nước mênh mông long lanh mà lặng lẽ, trong tiếng hò Nghệ An mà ấm lòng:
“Anh đến với hoa thì hoa đã nở
Anh đến bến thì thuyền đã sang sông
Anh đến với em thì em đã đi lấy chồng”
Tiếng
than thở của người con trai ấy nghe mênh mông làm sao, và câu hỏi buông
cuối giọng hò nghe sao mà xao xuyến...và xa xa, người con gái trả lời,
tiếng hò ấm mà cao, bay đến nơi đây, quấn quít:
“Hoa đến thì, thì hoa phải nở
Bến có đông thì thuyền mới sang sông
Mà em đến duyên, em phải đi lấy chồng.
Trách em sao nỡ, hỡi bạn lòng ơi..”
Mênh mông, mênh mông... ơi dòng sông quê vừa quen, vừa lạ. và làng xóm ven sông chưa đến một lần, song đó là quê đấy...
Chao
ôi, đấy chính là Như Anh, dòng chữ Như Anh sắp xếp và viết trên trang
giấy thân yêu - Ta như thấy sông Lam, thấy mặt sóng nghiêng mênh mông,
nước trong văn vắt có con đò độc mộc và cô gái thân yêu đang cất giọng.
Bông
hoa của lòng ơi, nở đi hoa... Cho con thuyền sang sông chở khách -
Người khách nào ngồi đợi trên bến của sông? Và tiếng sóng cứ mênh mông
lạ - Dẫu trong đáy sâu của hồn ta đang nghẹn ngào. nức nở, gọi ánh nắng
mặt trời... Con thuyền dưới dáng chèo uyển chuyển của người con gái trôi
êm như ru, như tiếng hát trong trẻo mà làm ta xao xuyến, làm bổi hổi cả
trái tim ta.
26/3/72
Tôi
đã hiểu rằng thật khó khăn mà những mơ ước của tôi với Như Anh lại có
thể thực hiện được ở ngày mai - Hôm nay, đã viết được cho Như Anh 1 lá
thư tương đối lạc quan - Đành vậy, đừng nên để Như Anh nghĩ ngợi và buồn
bực. Chẳng thà chỉ có một mình mình chịu đựng cái cảnh u buồn này.
27/3/72
Cơn
mưa cũng buồn - Mưa rừng buồn hơn những trận mưa ở nhà rất nhiều. Người
ta sức chịu đựng cũng chỉ có hạn - Cố nén cũng khó mà nén được. Sống
được trên đời này cũng là một vấn đề đáng suy nghĩ đây. Tự dưng thấy
chán nản với hết thấy những gì mà người ta hằng ao ước - Buồn chán lắm.
Chỉ mong đi chiến trường và có thể quên đi cái cảnh đáng kinh sợ này!
4.4.1972
Những
ấn tượng tốt đẹp đang đến, đang đến làm mình rạo rực. Nếu như cuộc đời
nhiều những ngày như hôm nay có lẽ mình cũng không thể ủ rũ, không thể
nào buồn bã hay nghĩ về câu chuyện cá nhân mình nhiều như những ngày
qua.
Buổi
trưa, mình không ngủ, ngồi trong hội trường (Hội trường là gọi cho
sang, chứ thực ra đó chỉ là 1 cái nhà bạt, giống như lều trên đồng cỏ
của dân du mục - Bàn ghế không có, phải đào hố lấy nền nhà làm mặt bàn,
và gõ ma rúp ấy cái hội trường thật dã chiến, nó giống như cuộc sống dã
ngoại của đơn vị). Mình ngồi trong hội trường như vậy và đọc Pơma của
Goocky - Phải đấy, khi cuộc sống bên ngoài đang rạo rực vì niềm vui
chiến thắng thì mình đang băn khoăn vì sự gặp gỡ của Goocđêep và
Pavlôpna. Đài phát thanh đang truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của tiền
tuyến ở mặt trận Trị - Thiên - Huế ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đã diệt
5.500 tên. địch 10 vạn đồng bào nổi dậy - Đài phát thanh tiến.g nói Việt
Nam đã phải mở thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến thắng của
miền Nam anh hùng. Có bao nhiêu lần mình mong được sống những ngày sôi
nổi niềm tin chiến thắng của một dân tộc hôm nay, ừ, chính trong quân
đội, mình đã nghe niềm vui ấy dâng lên trong lồng ngực...
Ý
nghĩ về ngày mai chiến thắng... Ừ, hôm nay mình chợt nhớ ra rằng, đây
chinh là hạnh phúc bất diệt mà những người khác, nhiều người bạn khác
của nình không được hưởng - Các bạn đi xa, các bạn ở hậu phương làm sao
có thể được sống những ngày như ngày hôm nay. Mình chọt nghĩ rằng, ngày
mai, khi đất nước chiến thắng rồi, khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng,
mình sẽ làm gì? úp bàn tay lên má, lên mặt và nghĩ về tương lai. Không,
chẳng có gì đáng lo ngại cả. Lúc đó sẽ đi học, chắc là không muộn,
không bao giờ muộn cả. Mình sẽ trở về và gặp lại tất cả mọi người, gặp
lại Như Anh thân yêu.
…
Người ta đang học hát. Những bài hát tự biên tự diễn, tối mai sẽ hội
diễn trực thuộc toàn E. Và cũng chính ngày mai mình cùng các bạn dưới D.
lên đây học tín sẽ trở về đơn vị cũ Ngọn đèn này đây, mai, tao sẽ xa
mày – Và vĩnh viễn, vĩnh viễn sẽ xa mày, chẳng bao giờ gặp lại – Hãy
thắp sáng, thắp sáng cho ta viết nốt những dòng này. Từ giã C18, và cô
dịp nào lên đây nữa hay không cũng không còn rõ nữa. Đơn vị cũng sắp di
chuyển rồi – Có lẽ tuần sau sẽ hành quân về Yên Thế đánh công kiên. Rồi
sau đó chuyển đi tận đâu nữa thì cũng chưa biết - Mình mong mỏi biết
bao, ngày nào sẽ được chính thức đi chiến trường...
Mấy
bữa nay, trên đài, trên báo đang tuyên truyền tấm gương sống, chiến đấu
dũng cảm hết lòng vì đất nước vì sự nghiệp cách mạng của Đảng của Vương
Đình Cung. Cung là con đồng chí bí thư lính ủy Hải Dương. Trước kia,
anh học cấp 3 trường Yên Hoà (cũng không hiểu có phải Yên Hoà của mình
hay không) - Anh xin đi học trường Đại học Nông nghiệp với mục đích sau
này được phục vụ thiết thực cho đất nước, phù hợp với công tác của bố
anh. Một đảng viên. Đất nước còn giặc, đã khiến anh không thể ngồi yên
trên ghế nhà trường. Anh đã xung phong đi bộ đội - ở trong quân đội, anh
là một chiến sĩ gương mẫu, 1 đảng viên tích cực . Đã 2 lần anh từ chối
không đi học nước ngoài vì muốn được trực tiếp góp sức mình vào sự
nghiệp cách mạng cứu nước của dân tộc.
Anh
từ chối tất cả sự ưu tiên, đãi ngộ mà Đảng dành cho. Với anh, tất cả là
cho Đảng, cho cách mạng. Tình yêu đằm thắm và mãnh liệt nhất trong anh
là yêu chiến trường Anh có một mối tình đẹp đẽ, cao quí với Kim Anh- Anh
đã hứa với A. bao giờ đến ngày toàn thắng mới trở về gặp nhau...
Đẹp
đẽ xiết bao tấm gương của người đảng viên cộng sản trẻ tuổi Vương Đình
Cung. Anh không còn sống nữa, những người Cộng sản có cần gì cuộc sống
riêng tư, khi họ đã cống hiến đến phút cuối cùng hơi thở trong sáng của
mình cho Đảng.
Hiểu
cuộc đời Vương Đình Cung, mà mình hổ thẹn với lương tâm mình. Sao mình
hèn kém và nhu nhược đến như vậy. Không thể nào tha thứ được. Thử hỏi
mình đã có được niềm say mê cống hiến như vậy chưa? Mình đã sẵn sàng làm
theo yêu cầu của Đảng chưa? Chưa! Phải thành khẩn nhận lấy điều đó.
Mình đi bộ đội, chẳng qua là buộc phải đi! Không đi ư, thì tức là anh đã
chống lại chính sách, chống lại Đảng. Đấy, những ngày đầu của mình đi
bộ đội là như thế. Tuy đó không phải là chủ yếu, nhưng cũng phải thành
thật mà nhận lấy thiếu sót đó. Nhưng giờ đây, mình đã hoàn toàn an tâm,
phấn khởi. Mình mong mỏi khi nào được đi chiến trường. mình sẽ làm tốt
những công việc gian khổ mà cuộc sống chiến đấu sẽ đặt ra. Mình mong mỏi
sẽ vượt qua tất cả mọi thử thách. Mình sẽ sống, say sưa, chân thành,
cởi mở, trong sáng. Mình sẽ xứng đáng với lòng tin của mọi người, sẽ
sống cuộc đời đẹp nhất ở trên trận chiến đánh quân thù mà Lê Mã Lương,
mà Vương Đình Cung hằng ao ước và đã sống đẹp đẽ.
8.4.1972
Ga Phố Tráng.
Dừng
chân tại một bãi bạch đàn. Đi đâu cũng gặp bạch đàn thôi. Rậm rịch suốt
đêm qua, chuẩn bị di chuyển (chẳng phải, chuẩn bị hành quân diễn tập
cấp E). Nửa đêm, trời nổi gió - mưa lớn anh Tuyến phải dậy che lại lán,
gió giật đùng đùng. Lạnh quá, mình và Quang lấy võng bạt ra đắp. Được
một lát thấy lành lạnh, tỉnh giấc hoá ra vách lán bị bật, gió mưa tha hồ
tốc vào. Màn và võng ướt hết. Che đậy xong, nằm ngủ thì có còi, lại
dậy. Lúc ấy 2 giờ sáng.
Dỡ
lán, xếp lại ba lô trong cơn mưa. Mình hiểu rằng không phải chỉ có
riêng mình đêm nay làm những công việc này. Nhưng vẫn băn khoăn, nóng
ruột và vẫn có một chút gì tự hào.
Ánh
lửa loang loáng trên nền cát, đất cát - Nhưng cây bạch đàn thì chẳng
còn nhìn thấy gì hết - Tội nghiệp - Chào bạch đàn nhé, các anh đi...
Cứ
tưởng đợi ngớt cơn rồi mới đi. Ai ngờ các cụ ấy bắt đi luôn, trời còn
tối mịt mùng, và gió đánh ào ạt trên đầu, nước mưa xối xả. Mình đi sau
cùng của B. Trước mình là Y. Nó đeo cũng khá nặng. Và cả anh nữa, lần
này dễ chưng nặng nhất từ khi đi bộ đội. Phía đại đội 1, bọn nó đốt lửa
bập bùng, ngọn lửa bốc lên thật cao, lực phựt trong mưa giống như pháo
hoa trên bầu trời Hà Nội. Mình bước qua một khe suối cạn, nước lấp xấp
dưới chân - Và tự nhủ, mình được một hạnh phúc đây - Được đi cùng những
con người dũng cảm trong đội quân chiến thắng.
Càng
ngày, mình càng hiểu sâu sắc hạnh phúc lớn lao mà hôm náy mình đang
được hưởng. Một nửa là nghĩa vụ và một nửa là vinh dự. Không hiểu có ai
đã nói: Giải thưởng lớn nhất đối với người viết văn là được sống trong
hàng ngũ quân đội. ở đó, anh sẽ thấu hiểu tất cả nỗi nhọc nhằn, đau khổ
và những niềm vui bất tận của con người.
Mình
rất nhớ Cầm vào lúc này, cũng như Hậu, Lăng, Thịnh. Cầm đang ở Quảng
Bình, có lẽ không lâu nữa mình cũng sẽ vào đấy với nó. Mình nhớ bài thơ
Bức tranh... Cầm đọc khi hành quân lần đầu. Ừ, ở nó thật sự có khả năng.
Mình
nghĩ có lẽ cuộc sống tâm hồn của nó hẳn phải phong phú lắm. Giá như nó
còn ở đây, chắc nó đã nghêu ngao hát và đọc những câu thơ hàm súc, uyển
chuyển:
“Tôi đọc chuyện cổ tích của Ng.
Và biết được giọt sương đêm thánh thót nói lên lời.
Biết được mới tháng 4, trái đào còn chát
Biết được trái đất này nhọc nhằn mà đêm nào cũng hát
Những bài hát không tên…”
(Anđécxen - H N. Cầm)
Mình
đã sửng sốt về nó nhiều và hẳn là còn phải sửng sốt hơn nữa. Được đi
vào cuộc chiến đấu ác liệt của dân tộc với khả năng quí giá đó, nếu Cầm
thực sự sống đẹp đẽ, hẳn nó sẽ là cây bút trẻ xứng đáng với lòng mong
mỏi của mọi người.
Nhưng
trong những người cùng đi với mình đêm nay, chẳng có ai đọc hay ngâm
nga một câu thơ nào cả. Có Th. và Q. hát thôi, song mình nghi ngờ hiện
tượng đó. Tối qua, Q có phát biểu trong buổi họp Phân đoàn, động viên
mọi người lúc hành quân cố gắng hát hò cho phấn khởi. Mình để ý chẳng có
ai hát cả. Q. nghêu ngao một bài gì đó,nhưng lạc lõng và tẻ nhạt biết
bao. Dường như - Dường như thôi! Q. có ý tỏ ra rằng mình đang làm công
tác động viên anh em đây.
Về
D độ được 2 hôm, mình thấy anh em trong A sống không thật lòng với
nhau. Mọi người còn ham chuộng thành tích và khen thưởng lắm. ít lâu nay
mình có cảm giác mình không còn là người gương mẫu, tiên tiến như hồi
còn nhỏ đi học nữa. Anh em không tín nhiệm là điều dằn vặt mình nhất.
Dấu hiệu đó chứng tỏ rằng mình đang có chiều hướng đi xuống. Mình không
ham chuộng một lời khen ngợi của thủ trưởng cấp trên, không màng lợi lộc
gì hay 1 giấy báo công về gia đình. Có lẽ, mình đã sống quá riêng tư?
Nhưng
mình rất không ưa việc mọi người tỏ ra quá sốt sắng tranh giành cái thứ
tự nhất nhì. Để làm gì nhỉ, mấy bao thuốc lá giải thưởng ư? Hay là
tiếng tăm? Trong B hình thành các nhóm khác nhau; nói bậy. nói tục...
Lằng nhằng mình thật ghét. Những người đồng tình với mình sao ít ỏi như
vậy nhỉ - Chẳng có ai cả - Mình nghe mãi mới lọc được câu nói của anh
Mười: Người ta không thể sống riêng biệt với cá tính của mình! Không
hiểu sao chính anh Mười lại là người tán thành lối biểu hiện thái độ
dung hoà giữa hai cách sống. Người ta không thề chỉ nhìn nhận cuộc sống
mà còn cần cả thái độ và làm việc để thay đổi cuộc sống đến hoàn thiện.
So
kè thiệt hơn, tranh giành phần tốt - Mình chẳng thể nào hiểu được có
những người lại tồi tệ như thế được! Lẽ ra, trong quân đội, khi cuộc
sống của nhân dân ta gắn liền với Cuộc sỏng của đồng đội, người ta phải
cao thượng, phải khiêm nhường hơn. Mình sẽ gắng sống như thế. Nhiều lúc
mình chỉ thích chiều chuộng thằng Y thôi. Nó còn nhỏ tuổi quá mặt búng
ra sữa, nhưng nhận thức nhanh và nhiệt tình sống, làm việc. Sung sướng
thật, khi nình chiều được và được chiều Y. Nhưng có lẽ nó cũng chẳng
thèm gì sự chiều chuộng ấy của mình.
Nhưng
suy nghĩ ấy hình thành trên xe lửa từ Bến Tắm đến Bắc Giang. Cứ đi trẽn
xe lửa lại nhớ Như Anh và các bạn đi học nước ngoài. Càng nhớ, càng
thương Như Anh hơn, thương hơn và cứ vô hạn lần gấp lên mãi. Sao mình
chẳng có đủ khả năng để diễn tả cái tâm trạng nhớ nhung đến cùng trời
này.
Ngồi
đây, trên là chiếc vọng bạt Trường Sơn này, nghe tiếng còi tàu từ xa
quăng lại, thấy nao nao trong dạ. Trần Vàng Sao… Nơi tiếng còi tàu chẳng
có cuộc chia tay nào cũng nhớ. Nhớ lắm? Nhớ lắm! Nhớ cái mùa hè đã đi
qua như một đốm sáng. Nhớ bạn thương của lòng, nhớ cả dĩ vãng, gia đình,
nhớ cả cái cành khô ở trước sân. Mùa hè gần lại vườn cây dâu Tàu, quả
đỏ tím đỏ rực, ăn chua rôn rốt - Cả tiếng ếch ì ộp ở cái ao nhỏ trước
nhà. Kỷ niệm bao giờ cũng nói thầm mà tron vẹn cả thanh âm thuở ấy.
Thêm một chuyến tàu đi, bánh chuyển sình sình. Đơn vị ngủ hết cả rồi, cả chiều nay ngủ để lấy sức mai đi.
10.4.72
Nghi Lộc - Nghệ An...
Dừng
lại ở ga Quán Hành. Và bây giờ thì đang ngồi trong nhà dân. Điều bất
ngờ nhất là gia đình mình ở có người con trai là thầy giáo của mình.
Thầy Khang dạy Toán 2. Còn em nhỏ trong nhà lại là học sinh giỏi của
miền Bắc. Mình chợt nhớ: đã đến đất Nghệ An, quê hương của Bác Hồ, của
cà dằn mặn muối, của cụ đồ già. Đất này là đất học. Và chính vậy, trong
nhà cũng có vẻ gì nho giáo. Cái bàn nhẵn bóng, mấy cuốn sách giáo khoa
và cả cái địa chỉ của cô Kim Loan treo trên tường, sinh viên trung Đại
học Sư phạm Vinh cũng nói được phần nào nhưng đặc điểm ấy.
Nhà
vắng, chỉ có bà mẹ - bà mẹ Thung - và bé Hoà. Suốt ngày im ắng, cả
ngoài vươn, ngoài ngõ, cả cánh đồng xa tít tắp đang xanh xanh màu lá ngô
lon, màu khoai và bãi lạc. Quanh nhà cũng có hầm, nhưng hầu hết là lộ
thiên và nông. Không ai có thể ngờ đây chính là đất lửa. Hay ít ra, gần
đến đất lửa.
Ba
giờ sáng, ở trên tàu giật mình thúc dậy, thấy bốn bề tối mịt mùng. Cửa
sổ trên tàu chỉ thấy lờ mờ những dãy núi im lìm. Bật đèn mãi không sáng,
mình bước chân qua chỗ bọn nó nằm ngổn ngang và kéo cầu dao điện - Vẫn
không sáng. Có đũa đã hét toáng lên, đòi người đến chữa. Vẫn chẳng có gì
cả. Chỉ thấy đằng chân trời hưng sáng lên, nhìn rõ cả dám mây hồng. Rồi
tiếp theo là tiếng nổ. Tàu không chạy được nữa vì hướng tàu chạy đã bị
ném bom. Các cửa chớp được hạ xuống và cấm bật đèn, y như hồi nào ném
bom dữ dội ấy.
Thành
phố Vinh còn xa, khoảng vài chục cây số nữa. Tối nay, bọn mình sẽ đến
đấy, không hiểu có được đi ô tô không, hay là phải cuốc bộ với 30kg trên
vai. Dẫu sao vẫn cứ thú vị, vì đây là lần đầu mình đi một chuyến xa Thư
thế. Bây giờ thì xa Hà Nội thực sự rồi. Không còn phải mê ngủ, không
còn phải tưởng tượng nũa. Mới hôm kia, còn đang tạm dùng chân ở bãi bạch
đàn gần ga Phố Tráng, 4 giờ sáng đã dậy nấu cơm ăn, thì trời đổ mưa tắm
tã. D. tập trung nghe tin chiến thắng của miền Nam, ta đã chiếm hoàn
toàn cảng Cửa Việt - Và vùng đồng bằng sông Cửu Long đang ào ào khí thế
nồi dậy của hàng chục vạn đồng bào. Lúc ấy, mình ao ước được đến hẳn
chiến trường, đến giữa chiến trường mà tận mắt được thấy cảnh tượng hào
hùng ấy. Hay ít ra, được đến gìn, rất gần chiến trường được đến Quảng
Bình chẳng hạn - ở dó địch đang trắn phá mình dân cư cũng phải sơ tán về
Hà Nội - và cũng ở đó đang thắng lớn có ngày bắn rơi 10 máy bay, có
chiếc B.52... "cầu được, ước thấy" - Vừa ao ước thế, vừa buồn vì mình
đang ngồi ở đây, dưới trời mưa thanh thản, rồi sắp lên tàu đến Mỏ Trạng,
Yên Thế diễn tập. Nhưng ra ga, thì lính oà lên phấn khởi, đầu tàu hướng
về phía Hà Nội - "Đi" rồi! Thế là nhất định vào trong ấy. Vội vàng viết
thư – Tàu qua Cửa Nam những cánh thư trắng bay ào ạt xuống đường gửi hộ
nhé, gửi hộ nhé - Báo cho những người thân của chúng tôi rằng, chúng
tôi đã xa Hà Nội lúc ấy là 12 giờ trưa 9.4.72.
Biết
bao nhiêu lần hành quân, nhưng chẳng lần nào xúc động như chuyến tàu
này cả - Chuyến tàu đi đúng con đường dành cho nó - Vào Nam. ở đó, chiến
trường đang cần đến những cánh tay khoẻ mạnh đang thò ra cửa sổ toa tàu
mà vẫy gọi khách qua đường - Phải, lúc mà một anh bộ đội gặp được người
nhà trên sân ga hay dọc theo đường sắt Thì đó không phải chỉ một mình
anh xúc động và vui sướng. Mà đó là niềm vui và nỗi xúc động của tất cả
đoàn tàu Con đi mẹ nhé! Đi nhé! Đi nhé! Những cô gái cũng hết cả rụt rè
giơ cả hai tay lên vẫy, vẫy mãi,... rồi tinh nghịch lấy ngón tay nhỏ xíu
trỏ lên đầu nhắc anh bộ đội hãy giữ gìn cuộc sống của mình. ù, chết làm
sao được cơ chứ, đùa một chút cho vui. Ai cũng bị lây cái không khí rạo
rực khí thế lên đường ấy, cả những em bé vừa đứng vững giấu mặt sau
hàng rào xi măng mà vẫy. Y cứ xuýt xoa mãi vì ngồi bên cửa sổ, nó nghe
rành rọt tiếng một đứa bé chỉ 5, 6 tuổi ở ga Phủ Lý. Các chú đánh xong
giặc Mỹ mà về nhé!- Đấy tiếng nói của trẻ thơ, là ước muốn day dứt của
hàng triệu, hàng triệu người trên trái đất.
Ta
đi theo tiếng gọi của miền Nam, và cả sự thôi thúc của miền Bắc đang
khôi phục - Một nhà ga Ninh Bình vừa dựng bên núi đá, một dòng sông Đáy
xanh lững lờ trôi vào bài thơ trữ tình ngọt lịm của Tố Hữu, một chùa Non
Nước còn âm vang chiến công của tổ ba người Giáp Văn Chương... Tất cả
đang giục giã anh chiến sĩ, hãy đi đi, hãy đi và chiến thắng.
Thật
đáng tiếc biết bao, tàu chạy thâu đêm và khi qua núi Ngọc, qua cầu Hàm
Rồng vĩ đại, thì những anh lính trẻ đang ngủ mê mệt. Vả lại, có thức mà
đễ ý nhìn cũng không thể nào thấy được cầu vì trời tối quá. Những chuyến
tàu vào Vinh đã 1 llố chạy được ban ngày nữa vì máy bay địch bắn phá dữ
dội.
Vào
tuyến lửa, chưa gặp những cô thanh niên xung phong, nhưng đã gặp các
“thím” bộ đội - ờ, rất lạ, các trạm dừng chân của bộ đội, hầu hết là bộ
đội nữ - đều rất trẻ - Và điều này thì các cô gái Thủ đô không "hài
lòng"(!) các cô gái bộ đội ở đây đều xinh và có duyên - Dễ mến, nhưng
đừng hòng bắt nạt. Thí dụ như lúc lấy gạo ở binh trạm, gạo lụt nên xấu,
có cậu lừa lúc chủ nhà cân đong, chạy vào kéo một bì gạo mới, ai dè chủ
biết được, vậy là nắm luôn lấy bì gạo mà té tát: Ai cho đồng chí vào
kho? Đồng chí chưa được học điều lệnh à? Cù nhầy mãi, cô ta mới tha cho
và còn đe: Lần sau mà thế thì trói vào kho đấy? Ai trói mới được cơ chứ -
Câu vô chủ rồi.
Mà
cũng khó, gọi là cô, là các anh thì không được - Điều lệnh không cho
nói thế. Vậy mà cứ các cô và các anh hoài, không thể đe được. Lại thêm
một cái cớ cho lính đùa.
Mới
biết, những người lính trẻ cần hết sức giữ gìn khi hiện tượng buổi sáng
xảy ra ở ga tàu. Không thể coi thường được, phải giữ gìn mình ngay cả
những điều nhỏ nhất.
12h5 rồi, 14h30 là "chuyển bánh".
Cẩm Hưng - Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
7 giờ sáng.
Ngủ
trên võng bạt mắc trước cửa nhà. Nhà chật quá, chỉ đủ cho 3 người nằm
giường. Đấy là 2 đứa nhỏ đã phải dồn vào chỗ khác. Đêm lạnh và mê mệt.
Sau một đợt đi ô tô nhừ tử hôm qua 3h30 chiều lạ hành quân ra quốc lộ
1A. Tập trung trong một ngã ba đường đất đỏ kín đáo - ở đây đã tấp nập
không khí khẩn trương của cửa ngõ mặt trận. Mũ tai bèo, quân phục mới
toanh, nhưng khẩu pháo nòng dài ngoằng và những chiếc xe xích sắt nổ máy
làm rung chuyển lòng đường, lòng người, cả đạn dược, nhà bạt, cả quân
trang, quân dụng... lỉnh kỉnh, lỉnh kỉnh. Tưởng chừng đây là đoàn quân
đang thật sự đi vào tiền tuyến. Mà có lẽ thật sự đang đi vào chiến
trường, điều đó không thể nào khẳng định khi đang ở đất A này.
Lại
tạm biệt Nghệ An, tạm biệt Như Anh. Sắp đến thành phố Vinh, thành phố
Đỏ bên bờ sông Lam, con sông chảy qua quê hương cha Như Anh... Thành phố
mà chỉ một lỗ thủng trên mái ngói cũng đủ cho Phạm Tiến Duật xúc cảm
nên một bài thơ đặc sắc. Bên đường, còn những hố bom 3 giờ sáng qua giặc
vừa ném xuống. Nhìn người dân thành phố đứng nhìn ngôi nhà tưng ngói và
hố bom lở loét lở loét với vẻ thờ ơ bình thản lạ lùng, thấy vững lòng
vô hạn - Đúng là ở đây "hố bom là chuyện thường không nói nữa (T.N.T).
Thành
phố đổ nát nhiều, nhà 4 tầng, nhà 3 tầng sụp đổ và rêu đã lên xanh,
nhưng cũng trong những ngôi nhà đó, là vết xi măng nâu nhạt loang lổ, là
cần trục và giàn giáo vươn thẳng lên trời... Những ngôi nhà một tầng
kiểu cổ, mái vẩy cá ẩn mình trong cây lá xanh um, bảo người qua đường
biết lịch sử lâu đời của thành phố nên thơ. Mình nhìn núi Quyết, núi
Hồng Lĩnh và nhà máy điện Vinh, những tên đất nước đã đi vào lịch sử,
thế mà mọi cái đều đơn sơ đều giản dị như chính con người tuyệt diệu ở
đây. Núi không cao, không lạ, vẫn cây cỏ ấy, vẫn con đường mòn lên núi.
Nhưng là điểm cao nhất của thành phố. Ta đã chặn lũ cướp trời từ ở chỗ
này! Điều đặc biệt nhất là ở bến phà Vinh, xe tập trung lại đông nhất – ô
tô chở bộ đội được đồng bào ưu tiên, vượt qua hàng mấy chục chiếc xe
xếp dọc bên đường. Lúc ấy trời đổ mưa, hạt nhỏ nhưng mau. Sông Lam dâng
những đợt sóng mạnh và dài. Mình đứng ở bên trái đầu phà, chỗ ấy gió
mạnh nhất và hứng nước mưa nhiều nhất. Mình muốn thả sức cho mưa gió
sông Lam phả vào người, ướt hết cả nửa người, lạnh lắm. Ngoảnh lại nhìn
bờ, thành phố hiện lên như một giấc mơ, trời rất mù, không thể nhìn thấy
ống khói nhà máy, nhưng từ đỉnh sóng sông Lam mưa bụi, ánh điện loè
nhoè như sao sa. Ừ, đúng đấy, thành phố đang hát bên bờ kia...
Mình
bỗng nhớ câu hò của người con trai buồn man mác và tủi tủi, câu hò trả
lời người con gái mênh mông trên dòng vừa trong vừa mát: "Trách em sao
nỡ hỡi bạn lòng ơi . Sông đục và lạnh, trong gió mưa, một cánh buồm vút
hình vỉ lủi thủi cuốn trên mặt sóng... Sông Lam của em đây...
Bắt
đầu những con đường quanh co, lượn theo những ngọn đồi thấp và đen kịt
trong đêm. Ngồi trong ô tô tải, giữa đống người và máy móc, chỉ nhận
thấy con đường qua ánh đèn của xe sau. Hố bom, hố bom, hố bom. .. cứ lần
lượt hiện ra qua khoảng nhỏ của cánh tay bạn níu lấy mui xe cho khỏi
ngã. Mỗi hố bom là một lần xóc nẩy tưng người Đường vắng khách đi bộ, đi
xe đạp, thỉnh thoảng mới thấy vài người vội vã trong áo mưa - à, đất áo
tơi mà. Hà Tĩnh đây rồi. Lại có nhiều là những chuyến xe "vô ra" tiền
tuyến...
Buồn nôn kinh khủng, và có lẽ sẽ không thể chịu được nữa.
Cẩm Lạc - Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Tưởng
hành quân xa lắm. Nhưng quanh quẩn vẫn trong huyện Cẩm Xuyên - Bắt đầu
tập trung từ 4 giờ chiều. Và chỉ 9 giờ tối đã tới nơi. Dọc đường hành
quân, mình được nghe những đồng chí đi trước kể rất nhiều về tuyến đường
giao liên quan trọng bậc nhất của chiến trường. Người ta nói rằng:
những năm địch đánh phá ác liệt, không lúc nào ngớt máy bay trên đầu,
bom giặc thả bên đường chi chít. Ban đêm pháo sáng như ban ngày và ô tô
chạy thầm, chạy bằng đèn gầm thoi thóp. Bao nhiêu chiếc xe đã đổ, đã bị
bẹp trên con đường huyết mạch ra tiền tuyến này. Nhưng hàng vẫn ra tiền
tuyến, bộ đội vẫn ra tiền tuyến và thắng lợi cứ lớn dần lên mãi. Kỳ diệu
vô cùng đất nước chúng ta.
Hành
quân ban đêm giữa cánh đồng tối đen như mực, đeo nặng, mệt, nhưng khoan
khoái biết chừng nào – Tháng 4, đom đóm bay ra sáng lung linh trong cỏ,
trên những bụi cây ướt hơi sương. Bỗng nghĩ, đom đóm có tên riêng không
nhỉ, con đang lượn dưới dòng suối cạn hẳn tên là Kiều Diễm vì nó trong
sáng và hiền dịu lạ lùng, vì nó lấp lánh lấp lánh đến kinh ngạc đấy bạn
ơi.
Mình
hỏi Chương – Có biết bài hát Con đom đóm - Bởi đang nhớ tới hôm nào đi
bên Như Anh. Như Anh cũng hỏi mình như vậy. Làm sao Chương có thể biết
được bài hát ấy- bài hát trên đường Nguyễn ái Quốc, trong đêm tháng 7
yên tĩnh, êm.đềm. Chương bảo: Bài hát ấy thế nào? – Sao khi Như Anh hỏi,
mình không biết đường hỏi câu như thế?- Bài hát ấy thế nào hở Như Anh?
Vậy mà những con đom đóm vô tư lự ấy cứ múa lượn hoài – Nó biết đâu
rằng, có anh lính trẻ đang mơ hồ nghĩ về một bóng dáng xa xôi qua ánh
sáng mờ ảo xanh của nó...
Đang
diễn tập, vả lại, cũng gần tới chiến trường thật sự nên người ta cấm
bật đèn pin - Chỉ có những điếu thuốc lá Sông Hồng loại 4 hào là tha hồ
đỏ ở đầu môi - Trong đêm khuya lố nhố bóng người đứng, ngồi, lố nhố ba
lô xoong nồi và cả đòn khiêng chọc thoải mái vào những vì sao xa nhất...
Con
đường vào làng bẩn đến kinh khủng. Bùn ngập đến mắt cá và nồng nặc mùi
phân trâu. Thật là khó ngấn. Bộ đội vừa đi vừa rủa. Đường thì không hẹp
lắm đâu, còn khá rộng là đằng khác. Ô tô vận tải có thể ra vào thoải
mái. Nhưng chỉ tội bùn, phân. Gánh nặng, đường trơn – Sơn bảo: Đây là
tình huống thứ 6(!). Mãi đến khi xuống một cái dốc nhỏ khô ráo, thoát
khỏi con đường trâu đi mới cảm thấy thú vị và nên thơ một chút. Như một
giấc mơ, khi qua ô cửa tò vò của vòm cây, lập tức hiện ra một bãi cát
chạy khá xa. Đến sáng mới biết đó là dòng sông đang mùa rút nước - Chỉ
còn ít ở bờ kia, lội đến đầu gối hay hơn một chút - Sông chắc là trong
lắm, vì đáy và ven sông toàn cát mà thôi. Bộ đội qua sông lòng rất vui,
hứng khởi - Thật giống như cảnh chiến trường mà mình đã xem trong bộ
phim tài liệu... ở bờ kia, sau lá, lò đỏ ánh đèn, có o gái giao liên
đứng chờ anh bộ đội. O cười nghe vui đáo để, và cứ nhất định giằng lấy
ba lô của Vực để đeo hộ. Mình chợt nhớ dọc đường hành quân, Hùng đã ca
kéo thế nào mà một o to người mới lớp 7 đã gánh hộ hai cuộn dây nặng
chích. Gớm thật, các chàng trai của A hữu tuyến, giỏi mồm giỏi miệng!
Mới
lần đầu, mình đã cảm thấy ưa dân khu 4. Thật thà, chất phác và giác
ngộ. Mình và Y, hai đứa vào chung nhà ông Y - có một con trai đi bộ đội,
anh đóng ở Nghệ An, gần thành phố Vinh, có 2 cô gái lớp 7 và lớp 5, còn
đứa con trai gần nhất tên là Hùng thì rất vui, rất kháu, rất quí các
chú bộ đội đến địa phương này.
Ở
đây dù già, dù trẻ, đều gọi bộ đội là "chứ . Mình nghĩ, chữ “chú” ấy đã
vượt ra ngoài khái niệm "chú em" và “cha chú” – Nó đã giành ra một địa
vị đặc biệt kính trọng và âu yếm cho anh bộ đội - Cũng như chữ "bác" vô
cùng độc đáo mà dân tộc đã dành riêng cho Bác Hồ. Như thế đấy ở đây ở
vùng mà những đoàn quân vào ra chiến trường đều phải dừng chân, người
dân chân đất này đã thấu hiểu, đã thương yêu và cảm phục anh bộ đội, con
em của họ, ruột thịt của họ - niệm vui và niềm hy vọng của cả xóm làng.
Đến
Hà Tĩnh, vào bất kỳ nhà ai, người ta cũng hỏi: Các chú đi vô hay đi ra?
Như vậy nghĩa là: đã vào đến Hà Tĩnh là ít nhất cũng sẽ được nhìn thấy
chiến trường. Ít nhất cũng phải được một lần nắm lấy hòn đất còn đượm
hơi lửa napan mà suy nghĩ đến những điều lớn lao của cuộc sống. Suy nghĩ
đến tương lai, đến chân lý của thời đại. Lúc đó, sẽ hạnh phúc biết bao.
Đến
đâu, cũng phải đào ngay hầm. ở chỗ tạm dừng như Nghi Long - Nghi Lộc
hay Cẩm Hưng, thì chỉ cần đào khoảng 80cm, nghĩa là ngồi ngập đầu là
được. Đào xong đi là vừa, nhưng vẫn phải đào để sẵn sàng chiến đấu. Còn
đến đây, chỗ ở tương đối lâu hơn thì phải đào sâu 1m50, có hàm ếch hoặc
có nắp để tránh bom bi, bom phá và đạn địch pháo kích. Đêm qua, địch cho
tàu chiến pháo kích qua cầu Hộ chỉ cách đây vài km. Cả trưa nay cũng
vậy, lúc mình ngủ nghe có tiếng ì ầm, té ra tàu chiến đang pháo kích.
Biền cách đây chẳng xa lắm, theo đường chim bay là 4km. Có dịp nào sẽ ra
biển, mặc dù tình hình phòng không khá căng.
13.4.72
Sáng
nay cả A, hầu hết lên "rú" kiếm củi, ở nhà có nình Y và anh Tr. làm bếp
- Làm quanh quẩn buộc mấy cái nan tre lên mái là xong, tuy khói cũng um
lên làm mình và Y ho sặc sụa. Mình cứ đữi anh Tr. cho chẻ lạt. Tục ngữ
đã bảo: “Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác / Đàn ông không biết
buộc lại là đàn ông hư” mà. Buộc lạt thì dễ dàng thôi, nhưng chẻ lạt thì
quả là mình vụng lắm. Phải tập dần, rèn dần và chắc là làm tốt thôi.
Hôm
nay cảm thấy thấm mệt và người hơi bải hoải. Mình nhớ đến buổi họp A
tối qua. Thực tình mình cũng không ngờ bọn nó buồn cười như thế - chẳng
qua Q. và Đ. là nhờ có sự lười họp của đồng đội mà này nọ thôi. Mình đã
nghĩ và nhủ bao nhiêu lần. Tất cả những điều đó chỉ là trò trẻ con,
nhưng vẫn cảm thấy buồn buồn và hơi nản chí. Người ta bảo rằng số phận
càng ít chiều người nào thì người đó càng hạnh phúc. Càng gay gắt, càng
nghiêm khắc với bản thân, thì càng tiến bộ nhanh. Mình cần gì một lời
động viên hão huyền của một người cán bộ nào nhỉ. Làm việc là theo lương
tâm, theo nhiệt tình cách mạng của mỗi người. Mình không thể chịu đựng
được cái thái độ giả dối, bợ đỡ cấp trên và lấy lòng cấp dưới - Không
thể chịu đựng được thái độ lên mặt kẻ cả, phát biểu với giọng khề khà
nhạo báng của Đ. Nói chung, sống trong tập thể này không được thoải mái
lắm. Gò bó và người ta sống không lành mạnh, giản dị, chân thành. B
trưởng Lộc cũng không phải như mình suy nghĩ. Anh nhiệt tình, xốc vác,
nhưng nhiều lúc lên tiếng cán bộ, hay cáu gắt.
14.4.72
Chuẩn
bị đi lấy củi trên rừng. Hôm qua mình và Y định lên lấy mấy cây gỗ nhỏ
về làm nắp hầm, nhưng nghe người ta nói thì rừng cách đây xa, 8km cơ,
Thế mà hôm nay sẽ phải đến đấy lấy củi về đun. Hơi ngài ngại, nhưng chắc
vào rừng sẽ thú vị hơn. Nghe tụi nó nói thì rừng có rất nhiều cây cơm
nếp thơm lừng.
Nói
chung, mình cảm thấy bây giờ đã quen sống thay đổi môi trường nhiều,
nên không cảm thấy hết những điều mới lạ đang đến với mình. Chỉ nghĩ lại
rằng, thuở nhỏ cứ mỗi lần chuyển chỗ ở (đi sơ tán hoặc chuyển nhà), là
ít nhất một đêm mình khó ngủ - Cái cảm giác bồn chồn, rạo rực, cái cảm
giác mới mẻ xoa dịu trôi trong cảm nghĩ như một đám mây bông. Để rồi
buổi sáng, nhất định thằng bé lại mò ra ngõ, ngắm nghía cái lối đi về và
cái cửa từ nay bắt đầu thân thương, quen thuộc... Song, giờ đây, không
còn cảm giác lạ lẫm ấy nữa. Tới đâu cũng quen ngay và không cần có một
thời gian nghiền ngẫm, sờ mó, tìm tòi hay kinh ngạc nữa. Dạo đến Đồng
Châu lấy nứa, thảy những ngôi nhà lợp phên thấp thoáng trong cây lá bên
dòng suối cạn, nước lay lức mà trong, nhìn thấy chiếc cầu vá víu bằng
hàng trăm thanh gỗ xơ mướp... mình tưởng như không có gì lạ cả. Cái lạ
lùng đối với mình là hàng rào quanh nhà chỉ gồm những thanh gỗ đặt gác
lên một chạc cây ở đây cũng thế, nhà cửa cũng giống Nghệ An, bếp luôn
luôn ở bên trái và kề sát nhà. Ngồi trong nhà thỉnh thoảng lại có mạng
nhện đen bụi rơi vào cổ áo. Ngẩng lên nhìn thì cả mái trong đen ngòm -
Người ta bảo như vậy thì đỡ mọt. Kể ra thì cũng hơi lạ một chút - ở đây
chỉ khác một chút là sân phần lớn trát xi măng, bể nước hình trụ thấp lè
tè. Người ta gánh nước ở sông theo một thói quen tốt: Ra giữa bãi cát
giữa sông, khoét 1 lỗ và múc nước thấm vào đấy Như một cái bể lọc thiên
nhiên vậy. Kể cũng sạch - mặc dù sông nhìn đã rất trong, thấy cả cát sỏi
dưới đáy và những bụi cây gì đó mình chưa biết tên.
Thiên
nhiên chỉ khác có vậy thôi, còn thì quen thuộc cả Cả lối vào nhà lối đi
xuống sông cũng không có gì lạ. Vẫn là những âm thanh quen thuộc của
con bìm bịp ở một quãng sông. Vẫn tiếng chim nhại theo tiếng lá tre rung
trên môi anh bộ đội quen thuộc, quen thuộc như những con người ở đây.
Họ
có lẽ cũng quen thuộc với cảnh bộ đội vào nhà ở và không coi đó là một
hiện tượng đặc biệt. Bình thường như một nếp suy nghĩ, như một thói quen
vậy. Và điều đó làm cho anh bộ đội dễ sống hơn, dễ quen hơn, dễ làm
việc hơn. Nhưng liền đó, mình thấy thật sợ một điều, có lẽ, chẳng mấy
chốc mà những cảm giác tươi mát, những cái nhìn trẻ dại sẽ chẳng còn ở
trong con người mình nữa. Mới hiểu trước kia Xuân Diệu ao ước nhìn đời
bằng đôi mắt xanh non mãi mãi, là một niềm ao ước chính đáng và hết sức
khó thực hiện. Mình không tin rằng sẽ giữ được cái nhìn bỡ ngỡ quí giá
ấy, vì giờ đây mình đã cảm thấy quen thuộc với mọi cái ở đây rồi. Người
ta đi tìm cái mới trong cuộc sống cái tốt đẹp đang nứt nanh như thế nào
nhỉ? Dạo lớp 10, nghe thầy Lưu kể và nói rất nhiều về việc đi thực tế
của các nhà nghệ thuật. Người ta không tìm cái mới lồ lộ đập vào mắt,
cái lạ của phong cảnh, của y phục của con người mà họ cắm sâu hàng năm
trời, cắm sâu vào một vùng đất nước - Và ở đó họ sẽ sống, họ sẽ làm
việc, họ sẽ hiểu con người và những sự tích kỳ diệu của họ trên mảnh đất
này. Mình hiểu như vậy, biết như vậy, nhưng vẫn thấy lúng túng. Mình
thấy mọi cái đều bình thường, bình thường đến mức độ chẳng có gì đáng
nói. Không hiểu ở đâu đã và đang hiện ra những sự tích người ta hằng ca
ngợi chứ ở đây, không, nhất định chẳng có gì ghê gớm cả.
Mình
đi rừng hôm nay khá xa, nhưng phần lớn là qua cánh đồng và bãi cây
thấp, chủ yếu là sim và mua. Buổi sáng nhìn ra cánh đồng thấy mù mịt
sương. Sương mù làm nền cho bức tranh những con người đi làm, sắn quần
quá gối. Dãy núi xa xa, xanh trang nghiêm, có những đám mây trắng ùn lên
từ dưới thung lũng. Mặt trời nhô dần lên đấy. Và đến gần chân núi, càng
thấy một cách rõ ràng: đây là phong cảnh thực, chứ không phải tranh vẽ.
Bầu trời xanh mát và hơi chói rất xa đằng sau dãy núi gợi một cảm giác
rất thực mà rất mơ hồ. Bên trái là hồ nước kéo dài, còn trước mặt là một
khúc sông đáy toàn cát và sỏi. Tất cả cửa rừng giống hệt một bài thơ cổ
trong sáng của Đỗ Phủ hay Lý Bạch. Rừng Hà 1 nh đây, cỏ rất cao, khiến
người ta muốn thấy trên sườn núi một đàn bò sữa như ở nông trường. Chao
ôi, cái sườn núi êm và mịn như nhung. Bỗng nhớ Câu ca dao, mà giờ đây
mình mới hiểu rằng, nó chưa nói hết được cảnh đẹp mê hồn ở đây:
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”
Chính
trong phong cảnh hữu tình đó, mình đã nghe tiếng gà rừng gáy trong một
bùi cây thấp ở không xa con đường mòn vết chân người - Đã nhìn và nghe
chim bách thanh hót, con chim đứng thèo đảnh trên một tảng đá, cái tảng
đá như con cóc nghếch mõm lên trời.
Bọn
lính quấy bên B vận tải vác cả súng lên rừng - Chúng nó bắn loạn xạ vào
bầy chim đậu đầy ở bãi cát ven sông. Và lúc sắp về. chúng nó bắn được
một con cáo con, màu đen có vằn xám, nom rất giống con mèo. Người ta bảo
rừng này có nhiều thú, mình thấy bên suối nước đổ từ đỉnh núi theo một
dải đá lớn, có nhiều vết chân lợn rừng. Ở những khu rừng già mọc trên
đỉnh núi, mọc dưới thung lũng, còn ở sườn thì nhiều cỏ non như thế này,
có lẽ sẽ có nhiều lươn. nai...
Nói
chung. đi vào rừng với bọn trong A không thích lắm. Thiếu những người
hiểu biết nhiều về rừng và những tay gan dạ. Chỉ có Được, đã ở rừng
Nghĩa Lộ nhiều nên tương đối có kinh nghiệm, nhưng Được lại hơi "bo bo",
và không muốn giúp đỡ người khác. Mình cũng chẳng thích. Lúc rẽ ngang
con đường mòn lên núi để vào thác nước nhỏ vì từ xa đã nghe tiếng nước
chảy ầm ào và thấy cả những cây chuối rừng xanh mướt. Mình rủ mãi, chẳng
ai muốn vào cả. Có lẽ vì họ sợ, sợ những cây gianh cao lút đầu người
cứa vào da thịt những vết xước đáng sợ, họ sợ những cây mây gai dài như
ngón tay út sẵn sàng đổ xuống cổ Và cái sợ nhất theo mình, có lẽ là mùi
đất mốc trắng, ẩm ướt, tối, lạnh. Vậy là mình mặc dù gan cũng "thỏ đế"
lắm, minh cũng cứ chui tọt vào trong - Đề thốt lên kinh ngạc. Những tảng
đá to bằng tấm phản nằm gối lên nhau thành những bậc thềm cho dòng nước
trong vắt xoa từ trên đỉnh xuống.
Sao
chính những lúc như thế này, lại nhớ Như Anh đến bồn chồn, nhớ đến
nghẹn thắt cả trái tim lại. Dòng nước trong vắt này đây Như Anh chưa và
chẳng hề được thấy. Chỉ mình mình và tụi quỉ sứ hò nhau cởi quần áo
xuống tắm - tắm và đùa nghịch, nhưng nhớ đến Như Anh, những suy tưởng
ngày mai, khi mình đã trở về nguyên vẹn và gặp lại Như Anh. Mình nhớ đến
ngày đầu hai đứa gặp nhau, dạo ấy là tháng 4 này đây, ngày 18. Như Anh
đang đọc “Bốn mùa” của Pritsv. Mình trở lại cái không khí ấm cúng, rạo
rực của buổi đầu, trở lại cái dịu dàng, cái dịu dàng của bàn tay Như
Anh, của đôi mắt Như Anh, của cái miệng cười xinh xắn... Thương Như Anh
hết sức, muốn chiều Như Anh mãi. Muốn hái cả rừng hoa này mà tặng Như
Anh. Muốn giữ lòng mình thật trong sáng để đem hết cho Như Anh... Như
Anh ăn quả mây không? Ăn quả dưa rừng không? Đỡ khát nước lắm đấy. Và
Như Anh nếu có đến đây, cũng cẩn thận vào, vắt nhiều vô kể, đừng vội
vàng mà ngã đấy, ướt hết... ù, nếu như mình còn đi học thì tốt biết bao
nhiêu - Nhưng, đành vậy, dĩ nhiên mình đã làm Như Anh khổ rất nhiều – Có
ai đến với Như Anh, nói hộ mình nhỉ...Bao nhiêu lần như thế. Và lần
nào, ngày nào cũng như thế, mình nhớ đến Như Anh, nói chuyện và nghĩ đến
Như Anh trong cái ồn ào, ầm ĩ và rối loạn của công việc hàng ngày.
Chúng nó đang nói những điều buồn cười hết sức - Và nó chỉ nghiêm chỉnh
với những nhà nghiên cứu sinh vật. Nó bảo, con ếch đực tiếng kêu trầm
hơn, còn ếch cái tiếng kêu thanh hơn. Còn cua đồng thì cua đực bao giờ
cũng to một cách phổng phao.
- Thế con người? - Một câu hỏi thế. Người ta nhìn nhau và cười Cuộc đởi tươi và buồn cười như vậy cơ đấy!
Đúng
là đại bác bắn ruồi, vì đi suốt buổi sáng vào tận rừng mà chẳng lấy
được tí củi nào. Củi thì nhiều, nhưng lượng sức, mọi người biết rằng
không thề lôi cái khối ấy về đến bếp ăn được, nên đành chịu. Thế là mấy
thầy trò kéo nhau xuống bãi sim, mua mà chặt. Tròng teng mỗi đứa 2 bó
củi thế là tếch về. Vừa đi vừa ngượng, vì ít quá. Bộ đội thì toàn "gộc
trà xề" mà gánh củi thì đứa trẻ con nó cũng chỉ cầm 1 ngón tay là đủ.
Trước
kia, mình được phát viên thuốc sát trùng để uống nước suối. Mãi hôm nay
mới dám uống 1 ngụm. Nói chung, cũng không có gì lạ lùng lắm. Vì mình
đã có lần uống nước sông còn đục và bẩn hơn nhiều. Chỉ có điều hơi sợ là
uống nước suối nhỡ nó chảy qua cây thuốc gì độc thì đáng ngại đấy.
Lúc
về, trời nắng gắt, nóng nhiều, anh Truyền bảo: Trời thế này nó dễ ném
bom lắm đây. Buổi sáng, mình nghe thấy phía Quảng Bình rất nhiều tiếng
nổ ầm ì. Mấy hôm nay, ở đây, mình đã thấy tình hình chiến sự khá căng.
Lúc ở Cẩm Hưng, nghe nói đích định đổ bộ xuống mấy điểm cao, dân đã được
lệnh sơ tán và bộ đội chuẩn bị chiến đấu gấp lắm rồi.
Chiều
nay, máy bay địch ra rất nhiều. Từ bên Lào và cả từ ngoài biển. Lúc ăn
cơm xong, thấy ầm ầm trên đầu, mình chạy vội ra sân thì thấy 5 cặp máy
bay rất chậm từ phía Quảng Bình ra. Nó bay như đi dạo vậy - phía núi thì
3 cặp. Rồi sau đó, rất nhiều, rất nhiều cặp bay vào dọc theo con sông
nhỏ, nó phì khói đen ở đuôi, nghiêng cánh và bay rất thấp. Bọn mình đứng
ở dưới mà ức lộn ruột: Đất nước của mình mà nó bay vào tự nhiên và láo
xược như thế. Cái đáng băn khoăn nữa là lực lượng phòng không ở đấy lại
quá mỏng. Trên bầu trời Hà Tĩnh, mình chỉ thấy có hai vệt tên lửa yếu ớt
và lẻ loi bắn lên. cũng chẳng rơi chiếc nào cả. Còn thì tuyệt không
thấy phát đại bác hay pháo cao xạ nào cả.
Cứ
sau mỗi tiếng rú của máy bay tăng tốc là lại nghe rầm rầm tiếng bom.
Máy bay vừa bay qua đấy, tiếng pháo mình bắn lịch bịch, lịch bịch. Thỉnh
thoảng lại rầm, rầm tiếng bom và tiếng lẹt rét của máy bay.
Dân
không cảm thấy đột ngột. Việc ai người ấy làm. Còn mình và tụi lính mới
thì bồn chồn và cứ ra ngóng máy bay hoài. Nó bay chậm, rất chậm. Chậm
muốn thét lên ấy. Rồi nhào xuống cắt bom. Nó ở trên đầu đây. Không thấy
pháo bắn gì cả.
Tập 8
15.4.72
Nắng
Hà Tĩnh oi và bức bối hơn ngoài mình. Sáng sớm, sương mù dày đặc, vào
đến gần chân núi rồi mà vẫn còn ẩn trong sương. Ai mới đến đây lần đầu
cứ tưởng đây là một cánh đồng xa tắp - Hồ nước chỉ khẽ trắng lên một
chút dưới cái vệt đen của núi. Thế mà chỉ thoáng một cái, không hiểu từ
bao giờ, nắng đã bàng hoàng đến gõ ở sau gáy Bây giờ, Hà Nội có lẽ mới
là nắng mới, nhức đầu một chút, nhưng còn dịu và phải sáng một lúc lâu
mới có nắng. Mình chợt nhớ rõ thì năm ngoái dạo này còn đang treo áo
bông cơ mà. Và bức ảnh Như Anh gửi cho mình, Như Anh còn mặc áo bông...
Người
ta bảo, vùng này là trung tâm của gió Lào, và cũng sắp có gió Lào đấy -
chẳng mấy chốc mà cháy đen cả người Được cái có con sông trong vắt. nên
thường được tắm luôn. Từ hôm đến đây, hôm nào mình chả tắm – Có ngày
tắm đến 2 lần. Những ngày như thế này, chắc ở nhà cũng ít có.
Hôm
qua, ta bắn rơi 6 máy bay: Hà Tĩnh bắn 1, Nghệ An bắn 1, Quảng Bình 2,
Vĩnh Linh 2 - Kể ra như thế còn ít quá Riêng Hà Tĩnh hôm qua có vài chục
chiếc ra, chúng nó bay bình tĩnh như đi dạo vậy - Hầu như không gặp một
trở lực lào Cứ từng tốp 2 chiếc bay song song, nó lượn mấy vòng ngó mục
tiêu chán rồi mới lao xuống ném bom Những chiếc AD6 nghiêng cánh phụt
khói dài lê thê, nom tức lộn ruột mà chẳng làm gì được nó cả. Có lúc hắn
bay thấp nhìn rõ cả buồng lái. Thật đáng tiếc, nếu lực lượng phòng
không ở đây dầy đặc như Hà Nội hay các thành phố khác thì nhất định
chúng nó không thể ngang tàng như thế được. Cầu Hộ hôm qua cũng bị sập,
cái cầu phao bồng bềnh mà mình đã đi ô tô hôm qua. Bom nó ném rất nhiều,
ném cả vào những chiếc máy kéo màu đỏ mới
chở đến nông trường đằng sau núi.
Còn
hôm nay thì yên tĩnh lạ thường - Không có tiếng máy bay, không có tiếng
nổ - Các cụ già ở đây bảo rằng những năm địch đánh phá ác liệt, không
lúc nào ngớt tiếng máy bay ở trên đầu tiếng pháo địch kích từ ngoài biển
vào tiếng bom ình ình - anh thoảng, một ngày trọn vẹn không có máy bay,
mọi người thấy nhớ nhớ, thiếu thiếu...
Làm sao địch có thể gây được tình trạng căng thẳng ở đây, khi mà bom đạn trở thành điều không đáng nói trong cuộc sống?
Đêm
qua, lúc đi lấy gạo, pháo ta bắn lên trời như pháo hoa đỏ rực cả một
góc trời - Còn buổi chiều, phía ấy rực lên một màu chói lọi - Đúng là
bom đạn không thể giết được chất thơ của đất nước. ở nhà lá dài chứa
gạo, hồi chiều máy bay lượn quanh mãi, trời vừa sụp tối, ngồi sao Hôm cô
độc của Như Anh vẫn hiện lên, nhoè trong sương, nhưng người ta vẫn nhận
ra rằng: ngôi sao đó sáng và trong lắm - ở trên cái nền xanh biếc, chùm
lá phi lao li ti sẽ đu đưa một cách thần thoại. Cuộc đời vẫn như chẳng
hề có chết chóc, có đau thương...
O
Hồng (Như Anh và cả mình, ghét cái tên ấy lắm đấy!) cũng lạc quan và
vui như chính đất này. Cái nốt ruồi nhỏ xíu trên má là "ưu điếm" của o
đấy - có duyên thầm, và tế nhị Mỗi lần o nói chuyện, mình phải bắt nhắc
lại đến 4 lần mới thủng câu chuyện. O bảo: Các anh ở ngoài ấy ít đi bộ
đội chứ trong này đi hết. Họp chi đoàn bói cũng không ra một người con
trai. Mình bảo ở đó cũng đi chứ, và những người con gái cũng có chung 1
cảm nghĩ như vậy O ấy bảo: Chúng em chỉ thích đi bộ đội, nhưng khám sức
khoẻ không đủ nên phải ở nhà - ở nhà và đi dân công hoả tuyến. Mình trố
mắt ngạc nhiên vì người ngồi trước mặt mình kia, che miệng khi cười và
chẳng bao giờ đi làm về dám bước thẳng vào nhà khi có bộ đội ở trong.
Lại là người có mặt trong chiến dịch đường 9, Khe Sanh - Trị Thiên...
Lại là người cõng thương binh, tiếp đạn, là người thu dọn chiến
trường...
Vậy
là lửa khói của mặt trận đã bao trùm lên người O đó Vậy là chính O đã
là cô Thanh niên xung phong đẹp kỳ lạ trong bài thơ tuyệt diệu của Phạm
Tiến Quật:
“Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn
Tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để
Anh lặng người anh như trôi trong tiếng ru…”
O
vẫn thuỳ mị, dịu dàng. O chẳng đanh đá như mình quan niệm về những o
gái trên tuyến lửa. O chẳng có chút gì tỏ ra "sống gấp". O vẫn thương
nhớ người con trai đi bộ đội đã 2 năm rồi và đêm nay, o ngồi gấp chiếc
phong bì trắng muốt để gai cho anh. Nhìn O, mình thấy yên tâm lạ lùng
mình thấy tin tưởng lạ lùng ở những cô gái Việt Nam. Không, họ nhất định
vượt qua cái khoảng cách ghê gớm của không gian và thời gian. Ngồi nói
chuyện với O, mình rất hài lòng về cách đối xử chân thật, mềm dịu và
đứng đắn. O gái này đây, là niềm hạnh phúc đáng gìn giữ và trân trọng
của đồng đội mình đang chiến đấu ngoài tiền tuyến.
Mình
nghĩ đến những thế hệ đã qua thời chập chững. Những người giờ đã già
lão, đã cao tuổi ấy cũng có lúc họ là thanh mền như mình, một ông già,
một bà lão giờ đây, dạo ấy họ cũng trò chuyện thế này. Rồi người đi,
người ở... Thời gian chạy hết bao nhiêu chặng đường dài, để bây giờ đội
quân chủ lực của quân đội, của đất nước là mình, là lứa tuổi mình…
Tụi
trẻ đang vây quanh chiếc bàn kia, chẳng mấy chốc lại rụt rè, e lệ khi
nói chuyện với nhau. Cũng hay, Như Anh nhỉ. Mặc dù chẳng có gì ẩn ý,
nhưng họ vẫn phải rụt rè. Và cái rụt rè ấy mới đáng quí chứ - chẳng thể
nào mua được và chẳng phải ai cũng có.
Mà
lạ, các o ở đây hay chế giễu bộ đội ngoài ấy. Hôm nào bọn mình đi lấy
củi là y như xấu hổ đến chết - chẳng phải bọn mình không gánh được củi
kết, hay không chặt được những cành khô. Nhưng rừng xa quá, vào chặt
được gánh củi thì hết nửa ngày, phải vội vàng ra ngay kẻo đói. Vậy mà,
hễ thấy anh bộ đội thấp thoáng lội qua dòng suối ở cửa rừng là các o lại
bụm miệng cười - Như Anh chắc chẳng cười đâu nhỉ/ Như Anh thương cơ -
Còn các o này cười hoài. Lại còn hỏi: Các chú bộ đội chặt củi ở đâu, bảo
tui đi Chặt với - Làm cho lính xấu hổ đến đỏ nhừ mặt. Quả thực con gái,
hay nói chung dân ở đây, làm ăn giỏi thật, khoẻ hơn dân khu 3 nhiều -
Quần quật suốt ngày đêm, giặc bắn phá là thế mà có coi ra gì đâu. Con
trai đi bộ đội hết, các o phải làm tất cả công việc của nhà nông. Bởi
thế, cái dáng lùi lùi. hơi thô, cục mịch của các o chỉ làm cho bọn mình
thêm quí, thêm thương. D nhiên, các o lẳng nghĩ gì đến các o cả, các o
còn thương hơn chú bộ đội gian khổ và vất vả nhất. Có lẽ chính cái tình
cảm tốt đẹp ấy đã làm các o đỡ ngại, và nhất là làm các chú bộ đội gìn
giữ cho các o, cho mình, gìn giữ tình cảm quân dân trong sáng và rất
đáng ca ngợi.
Mình
rất tiếc rằng Như Anh không sống trong khung cảnh này. Như Anh còn đang
vất vả học tập, và những cám dỗ mà Như Anh cần vượt qua chẳng phải dễ
dàng. Mình rất tiếc Như Anh không ở gần mình như o gái Hà Tĩnh này, đế
mình được dìu dắt, hỏi han và âu yếm, chiều chuộng. Có lúc cứ nghĩ rằng
Như Anh còn rất trẻ dại, còn ngây thơ quá đỗi mà mình cần phải che chở,
có lúc lại nghĩ rằng Như Anh là người dìu dắt mình vượt qua những chặng
đường gian khó nhất – Có lẽ cả hai, ừ, đúng – Như Anh là như thế nhỉ?
Trong
tay mình là chiếc quạt giấy, năm trước ngày 22- 4-71, Như Anh đã âu yếm
viết tên mình trên nan quạt - những nan tre mỏng mảnh xoè ra cho 7 con
cò trắng muốt vỗ cánh đọc câu thơ của Chế Lan Viên:
"Và cánh cò lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà, trong hơi mái câu văn”.
Thế
là gần tròn 1 năm, chiếc thuyền căng tấm buồm xanh đi về trong giấc ngủ
của mình... Cái quạt, theo mình hành quân từ những ngày đầu bộ đội, mấy
lần định cất về mà lần nào cũng quên - Dường như là một sự cố ý - Quạt
yêu quí nằm trong đáy sâu của ba lô, nằm trong đáy sâu của lòng mình,
giờ đây đang dậy lên những làn gió mát - Hệt như hơi thở Như Anh, hệt
như tiếng hát và những âm thanh đậm đà, xao xuyến cất từ trong trái tim
em...
Sao
mình lại viết những dòng này nhỉ - Mặc dù bao nhiêu lần khác, mình nhớ
và nghĩ về Như Anh rất nhiều, da diết và bâng khuâng... Cũng không rõ
nữa. Chắc là minh muốn bù cho Như Anh vì ở trẽn, mình đã viết và nói khá
nhiều về o Hồng, o gái Hà Tinh sống sung sướng hơn Như Anh và khổ hơn
Như Anh. ù, mình không muốn và sẽ chẳng bao giờ dành cho ai khác trừ Như
Anh yêu quí, những tình cảm tốt đẹp nhất và trong sáng nhất - Cứ mỗi
lần gặp 1 người con gái, dù quen hay chẳng hề biết họ, cũng gợi cho mình
nhớ đến Như Anh, nhớ đến người thương nhất và tin nhất của lòng mình.
Như
Anh đã biết mình vào đây chưa nhỉ? Và Như Anh sẽ nghĩ gì, đã nghĩ gì
trong những ngày mình đi xa? Ai có được niềm hạnh phúc mình hằng ao ước,
hái tặng Như Anh những bông hoa đẹp và tươi mát nhất vườn, thơm nhất
vườn? Ai nhỉ?
Nhưng
thôi, cái đó chỉ là điều rất nhỏ. Chỉ mong mỏi Như Anh thực sự học
giỏi, làm được nhiều, cống hiến được nhiều. Có lẽ đó chính là niềm hạnh
phúc chân chính nhất mà người ta hằng băn khoăn.
Những
ngày mà mình nhớ rất nhiều đến các bạn cùng lớp cùng học với mình, cùng
trường. Có người đi bộ đội đã hy sinh, có người còn ở tiền tuyến, có
người ở nhà và có người đi học nước ngoài. Mỗi người một công việc quan
trọng do đất nước phân công. Mình rất tin rằng mỗi người bạn ấy sẽ có
lúc nhớ lại những mái trường các bạn đã đi qua, sẽ nhớ những kỷ niệm
chẳng bao giờ có thể phai nhoà và những ước muốn xôn xao khi cửa đời
rộng mở - Có thể mượn ý Tố Hữu mà nói ở đây: Ta chính là hôm nay và các
bạn c mình là mãi mãi. Nhưng làm sao có thể có tương lai đẹp đẽ khi
không có những người hôm nay đang cầm súng, đang gian khổ đánh giặc.
Riêng mình, hình như đây là một phần thưởng. Đi bộ đội, với mình không
chỉ là đánh giặc Được sống những ngày oanh liệt và vẻ vang nhất của đất
nước, khi mà dân tộc ta đang thắng lớn và bước nhanh đến ngày thắng lợi
hoàn toàn, mình phải viết. Phải viết với tất cả năng lực của mình có
được. Phải viết với sự say mê, cố gắng hết sức của bản thân. Viết với
bao nhiêu gửi gắm và tin tưởng của bạn bè đối với mình.
Mình
rất khổ tâm và đau đớn vì chẳng viết được cái gì có hồn cả. Dòng sông
chảy qua xóm làng đẹp là thế, với chiếc thuyền gỗ ngấm nước, những dải
cát mơ màng mọc lờ đờ mặt nước, những bụi rong xoã tóc xanh cả sông…
Chao ôi, giọng hò đầy thương, đầy nhớ trong đêm vắng trăng, đầy sao...
Xóm làng sau một ngày thắng giặc như vậy đó Mình muốn viết một cái gì,
một bài thơ, một bài tuỳ bút về những điều tương tự như thế - Mà không
khi nào hài lòng cả - Khi nào cũng chỉ là những cảm xúc sáo mòn và cũ
kỹ. Những hình ảnh mất hết góc cạnh của cuộc đời. Ý nghĩ của mình bao
giờ cũng mơ hồ, hình thành
không
rõ rệt. Chỉ khẽ thoáng, khẽ chạm vào là biến đi đằng nào không sao giữ
lại được. Đến một lúc tình cờ nào, nó lại hiện ra, rõ ràng, khúc chiết
như những dòng chữ chính xác của một cuốn sách giáo khoa.
Các
bạn đi học, có cái khổ, cái vất vả của người đi học. Không ai có thể
sống thoải mái nếu người đó muốn thực sự có kh muốn đóng góp một thành
quả lớn lao cho đất nước. Phải nói rằng mình đã cố gắng rất nhiều, cố
gắng rất nhiều để sống và làm những ước muốn mà thuở nhỏ mình hằng ao
ước. Mình chỉ muốn làm tốt nhất, đúng đắn nhất, đầy đủ nhất câu kết luận
của bài tập làm văn mình đã viết hồi học phổ thông. Chỉ muốn chứng minh
đẹp nhất những điều mình đã nói với Như Anh yêu dấu trong những lá thư.
16.4.72
Hôm
qua yên tĩnh, nhưng đấy là đối với cái tỉnh Hà Tĩnh mình đang ở, còn
đối với miền Nam và những miền đất nước khác thì vẫn chẳng có chút gì là
yên tĩnh cả. 2 giờ sáng nay, máy bay địch tới bắn phá Hải Phòng bị bắn
rơi 5 chiếc. Đặc biệt nhất là có 1 B.52. Như vậy, địch đã dùng B.52 ra
bắn phá các thành phố lớn, tiến hành một bước leo thang ở miền Bắc. ở
miền Nam, thị xã Bình Long đã được hoàn toàn giải phóng.
Nhân
dân tụ tập quanh người hàng xóm có chiếc đài bán dẫn nhỏ để nghe tin
tức. Họ ngóng tin như 1 giá trị tinh thần không thể nào thiếu được - Và ở
họ có một sự nhạy cảm rất đáng quí về chính trị. 13 giờ, địch ném bom ở
Kỳ Anh, phía Tây - thì 14 giờ, họ đã biết rất chắc chắn. Rất chính xác.
Ai cho họ biết được những tin tức ấy nhỉ? Bà cụ toàn hỏi mình tin tức.
Mình thì mù tịt, chẳng biết gì cả. Không phải bộ đội là được biết hết
tin tức chiến trường đâu. Họ cứ tưởng: có tin gì mới ở chiến trường là
bọn mình lại được tập hợp để nghe báo cáo ngay. Thực ra, nguồn tin tức
mà bọn mình nghe là mẩu báo của tiểu đoàn và cái đài Li do của ông cán
bộ. Trong khi người dân còn có biết bao nhiêu nguồn tin vỉa hè phần lớn
là chân thực nhất.
Phải
nói, ở mỗi người sống trên đất Hà Tĩnh, đều có một mối quan tâm đáng
quí đối với đất nước. Họ lo lắng cho vùng bị bom đạn địch tàn phá. Họ lo
lắng cho cả nhưng vùng họ nghi rằng địch sắp đổ bộ - Đây là nơi đầu
tiên mình thấy sự căm thù, khinh bỉ kẻ thù của dân tộc dữ dội nhất, mạnh
mẽ nhất. Nghe tin địch đã đổ bộ xuống cầu Hàm Rồng, mọi người hỏi nhau
để xác minh sự đúng đắn của nguồn tin ấy. Nhưng họ hỏi mà bên trong họ
không tin. Làm sao địch có thể đổ bộ xuống đấy được. ở đó chúng nó ăn
cướp gì được. Dân thì không có gạo, chỉ nhiều khoai - Những cụ già Hoẵng
Hoá - Thanh Hoá sẵn
sàng cho chúng nếm khoai!
Sự
quan tâm đến vận mệnh đất nước ở đây gắn liền với nỗi lo lắng của bản
thân mỗi người và gia đình. Bởi vậy điều đó cũng là phải thôi, điều đó
cũng hợp logic thôi.
O
Hồng chiều nay bắt đầu đi dân công hoả tuyến ở Quảng Bình. O doạ ở nhà
là phải làm cơm tiễn đi - Vì vào trong đó, o sẽ khám bộ đội và nhất định
sẽ đi trong đợt này. Bà cụ lo cuống, và cứ vừa sửa soạn cho o đi, vừa
mắng - Nào là: cái ngữ mày mà đòi đi bộ đội, đòi đi vác đạn cho pháo...
Nào là nó chỉ bắn doạ cũng sợ rồi... Còn o ta, cứ tỉnh bơ. O bận rộn ra
sông gội đầu và giặt cái áo xanh o hay mặc. Nó đã cũ và bạc trắng ở vai
áo - O ra ngõ vặn đôi quang gánh bằng những sợi mây trắng nõn còn dính
nhựa - Cả nhà ăn cơm rồi mà o còn đứng đó, o làm mê say, o mặc những cơn
gió mùa hè thổi tung những lùm
lá
tre... Mình đi ăn cơm và hỏi: O Hồng không ăn cơm để chiều đi à... O
cười ngượng nghịu... Mình giật mình vì bỗng nhận ra rằng o còn nhỏ quá. O
nhỏ như một em bé cấp hai. Và sự thật o chỉ mới là học sinh lớp 6. Dưới
lớp tay mình là tờ bìa màu xanh hơi cũ - Cái bìa sách có dòng chữ
Trường cấp 2 Cẩm Lạc - /ớp 6B - Lê Thị Hồng - Năm 1971 - 1972" – Có phải
o không? Đã tẩy đi dòng con số 1971-1972- Không, o đừng ngượng - năm
nay o 16 hay 17 tuổi rồi, o chẳng đi học nữa - BỘ đội chẳng chê o học
dốt đâu, bộ đội 12 năm đi học, sung sướng hơn o nhiều, và hiểu nỗi khổ
của người không được đi học.
Vậy
là o gái Hà Tĩnh này lại đi vừa lớn dậy, vừa thôi học mấy tháng thôi,
mà cuộc đời đã phong phú lắm, đã đẹp lắm rồi - Mà cuộc đởi o đã có bề
dày và cả bề sâu nữa. O đã và sắp đi hoả tuyến - O đi thanh thản, hào
hứng – O tung tăng đi đến chiến trường...
Rất
lạ, o nhắc mình nhớ đến Như Anh rất nhiều – Sao Như Anh không là một o
gái Hà T nh thế này để hôm nay mình được bịn rịn chia tay và hẹn gặp Như
Anh ở chiến trường? Mà đây lại chỉ là một o gái khác lạ, mình không
muốn nói gì với o cả - chỉ thầm chào thôi. Chỉ mong o chóng lớn, trưởng
thành trong thử thách ác liệt của tuyến lửa và trở về như hàng nghìn cô
gái khác. Để lại nỗi ngẩn ngơ cho đời như bài thơ ca ngợi các o...
Như
Anh học giỏi không? Như Anh học giỏi không? Như Anh có được chứng kiến,
được biết những con người, những cô gái trẻ, yêu đời đang làm thay cho
Như Anh, cho các bạn Như Anh ở nhà học tập - Phải đấy, họ sung sướng hơn
Như Anh và gian khổ hơn Như Anh cũng chính là ở đấy. Họ hạnh phúc hơn
Như Anh cũng chính ở trận tuyến này.
Mình
chẳng muốn nói Như Anh và các bạn Như Anh phải chịu ơn những cô gái đi
trên đất lửa - Họ cũng như Như Anh chỉ làm nhiệm vụ quan trọng mà đất
nước trao cho. Nhiệm vụ nào cũng vẻ vang, cũng gian khổ cả. Mình rất
hiểu Như Anh, rất hiểu rằng Như Anh mong muốn và đang cống hiến sức lực
của mình cho đất nước. Rất hiểu rằng Như Anh không bao giờ muốn trốn
tránh những nơi gian khổ, ác liệt, nơi cái sống và cái chết đang giằng
co nhau... Mình chỉ muốn nhắc Như Anh rằng: Như Anh à, các o gái này có
thể mất đi lắm. Còn Như Anh và các bạn thì chắc chắn sẽ tồn tại, sẽ
sống, bởi vậy, nhiệm vụ của Như Anh rất nặng nề, phải làm tiếp những gì
mà người ở chiến trường không sao làm được - ở chiến trường này, ta đã
thắng và thắng to! Còn ở chỗ Như Anh, ta chưa thắng lớn - Nhiệm vụ của
Như Anh nặng nề như thế...
Tất
cả những điều đó hẳn Như Anh hiểu rõ và sâu sa. Hẳn Như Anh sẽ biến
những suy nghĩ dằn vặt mình đang sống bình yên khi đất nước đang gian
khổ thành quyết tâm lớn nhất để học giỏi, thật giỏi - Mình tin tưởng ở
điều đó và mong chờ những tin vui nhất.
Mình
sắp vào rừng, 1 giờ trưa. Chiều nay đi lấy gianh về làm bếp - Chắc là
phải vào sau và tối mới về được. O Hồng đi rồi, chắc chẳng còn được gặp
mình nữa - Mình ở đây không lâu rồi lại chuyển. Nghe đồn như vậy. Nhưng
chắc rằng mình khó quên o. Người con gái bình dị trên đất Hà Tĩnh, cô
thanh rên xung phong mà Phạm Tiến Duật hằng ca ngợi.
Hôm
nay, máy bay ra ít, nhưng có ra và không yên tĩnh như đêm qua. 9 giờ
đêm qua, báo động di chuyển, như ở chiến trường vậy. Mình chợt nhớ rằng:
ở đây có 1 điều đặc biệt là nhiều chó. Chó sủa ran khi có người qua
đường và cũng làm ầm cả xóm khi ở sân kho. Bộ đội vỗ tay hoan hô nhưng
người được tuyên dương (!). Buồn cười thật.
Y
và anh Tí. đi chợ, mình định viết xong thư rồi đi, nhưng lại bận. Nó
bảo chợ không thú vị lắm, mà có khi còn đắt - Y định mua một con cua bể
lớn về nấu bát canh cua cho tiểu đội.
17.4.72
3
giờ chiều nay lại hành quân đến thị xã Hà Tĩnh để chuẩn bị diễn tập.
Mỗi người mang lương thực đủ 4 ngày ăn Giao liên bảo rằng từ đây đến đó
khoảng 30 km. toàn tập đánh quân đổ bộ. B trưởng và D trưởng đã ở đó
rồi. Sáng nay, mình đến C18 lấy đôi acqui, đã thấy bên đó rậm rịch chuẩn
bị đi, dây điện thoại đã cắt ra rồi.
Buổi
sáng, mình được phân công đi lên E. Nghe a. T chỉ đường thì thấy sao mà
đơn giản thế - "Đến cái khe củi của cao điểm 50 - Rồi sau đó đi 200m,
rẽ tay trái, qua chiếc cầu, v.v… Hỏi thăm xã Cẩm Sơn. Ai ngờ, qua khỏi
điểm cao 50, chỗ ấy có pháo 37 trực tuyến, là lạc quách - ở vùng này, xã
Cẩm Sơn chính là 3 xã hợp lại - Mình đi vòng quanh,
qua
tất cả các C trực thuộc rồi mới đến Đoàn bộ và theo đường dây về C18 -
Đoạn đường không phải 5km mà lại gấp 2, gấp 3 lần. Nắng to, gắt và chói
chang, đường không có một bụi cây nhỏ, không có một vũng nước. Ngẩng đầu
lên thì trời xanh ngút ngàn, cái màu xanh đến thương, và những đám mây
trắng xốp. Từ hôm đến đây, hôm nào mình cũng say mê ngắm núi mà hôm nào
cũng thấy đẹp, thấy lạ Núi ở gần xanh màu lá cây rất trang nghiêm. Nhưng
càng xa thì càng nhiều mây và sương phủ - Có một lớp màn rất mỏng
choàng từ ngọn núi - Cái màu lờ đờ như nước luộc trai, nom thật dịu. Quả
là núi non ở đây nên thơ thật.
Mình
ngẩng nhìn trời và xuýt xoa tiếc vì không đủ sức khỏe đi học lái máy
bay. Cả E hôm khám chỉ được có 1 người Huy được về Hà Nội 1 tháng, điều
dưỡng ở Bệnh viện 10. Thời gian đó nghỉ ngơi và kiểm tra sức khỏe. Nó
đạt hết, vượt qua hết các phòng "ác liệt" và sau cùng bị loại vì viêm
họng - Bọn mình tiếc thay cho nó. Từ các E các F, chọn được 13.đứa, chỉ
còn 3 đứa lại khám tiếp để 29-4này có đợt đi Liên Xô. Mình nghe xong mà
cứ ao ước hoài. Giá mình đủ tiêu chuẩn sức khoẻ, được đi học, chắc chắn
sẽ gặp được Như Anh trên đất lạ và từ đó bao nhiêu mơ ước bé nhỏ, buồn
ngủ và viển vông cứ quay cuồng trong óc…
Bỗng
giật mình ngượng nghịu - Ô kìa, sao lình lại thế nhỉ? Mình chẳng đã
từng ao ước được đi bộ... binh hay sao? Đi bộ binh là đi đất, anh bộ đội
đi đất và gắn bó với đất này, gắn bó với người dân sống ở đất này. Mình
chẳng đã từng ao ước và nói với Như Anh rất nhiều về hạnh phúc lớn lao
mà Như Anh không được hưởng là: chính bản thân mình được sống chiến đấu
trên trận tuyến giáp mặt quân thù, trong những ngày ác liệt nhất của đất
nước- Thế mà bây giờ định đi đấy, ao ước đi học nước ngoài 6,7 năm đấy.
Khi về thì hết Mỹ rồi còn gì nữa, tha hồ bay bổng trên trời nhé. Thật
xấu hổ và hèn kém biết chừng nào! Sao nình không có được suy nghĩ như
Vương Đình Cung, anh được chọn đi học rồi, nhưng vì đơn vị sắp bước vào
chiến đấu vì anh không muốn để lỡ cơ hội được tiêu diệt giặc, nên anh đã
từ chối và đi vào cuộc chiến đấu một cách tự giác và đáng phục vô cùng.
1h30 rồi. Đơn vị đã tập trung nghe phổ biến kế hoạch chiều đi. Bận rộn quá.
14h30.
Nghe tin máy bay địch bắn phá Hà Nội. Mình nghe đài buổi trưa được biết
địch cho nhiều tốp máy bay đến ném bom vào nội thành và cả ngoại thành
Hà Nội. Phố Đội Cấn, bãi Phúc Xá - Khoa Hoá của trường mình sơ tán ở bãi
Phúc Xá, không hiểu có làm sao không. Cả ở đất làm võng O Cách, Gia Lâm
nữa - Bao nhiêu người đã chết? Bao nhiêu ngôi nhà đã đổ? Thế ra không
chỉ trong này địch mới bắn phá mà chúng đã mở rộng các cuộc leo thang
man rợ ra khắp miền Bắc. Hôm qua viết một lá thư về nhà ke chuyện giặc
ném bom ác liệt ở "tuyến lửa", cứ tưởng ở nhà bình yên lắm - Ai ngờ ở
đâu cũng là đất lửa cả thôi - Và lá thư chưa gửi ấy đã trở thành lạc
hậu.
Vượng
và B. ở Đội Cấn, không hiểu có sao không? Báo và đài bảo, chết có 8
người. bị thương 25. Nhưng chắc là nhiều hơn thế. Bọn lính Hà Nội bồn
chồn lắm, và rất lo cho gia đình, rất lo cho thành phố.
17.4.72
19
giờ. Nghe ồn ào ở sau nhà mới chạy sang xem. Hoá ra tụi lính đi xuống
sông đã thấy 1 đàn lợn lòi con ngủ muộn trong bụi cây dại um tùm ở ven
sông. Không hiểu tại sao chúng nó từ trên rtmg lại lạc xuống tận đây mà
ngủ quên đi mất. Lợn lòi chạy rất nhanh, luồn qua những hàng rào gai,
hàng rào duỗi và dây mây, chạy ngang sân nhà. Theo sau là bộ đội hò hét
inh ỏi. Mãi sau mới tóm được 1 chú lợn và mệt quá người ta dừng lại, bỏ
lại những con kia chạy thoát. Chú lợn lòi con con, khác nhiều so với lợn
nhà. NÓ không ù ì và "ngu như lợn" nuôi ở trong chuồng. Ông già buộc
chân nó bằng sợi dây thừng rất chắc, và nó chẳng eng éc gì cả, nó chỉ
giãy giụa thôi, còn thì ngoan lắm. Con lợn rắn chắc, chạy nhanh và luồn
qua hàng rào rất gọn. Bộ lông thì rất đặc biệt: không đen nhánh hay
trắng bạc, hay loang lổ như lợn nhà; mà bộ lông hệt như một chiếc áo tù,
có những vệt dài kéo từ đầu đến đuôi, màu nâu tím. Mấy anh lính tán: Có
lẽ vì nó khoác áo tù nên mới bị bắt thê. Thằng tù binh còn rất trẻ con.
Hắn chưa lòi ra chiếc răng nanh đáng ghét như cái tên của hắn! Không
sao bắt tù nhỏ nó còn đỡ phá. Những nương sắn đẹp hung trên đồi, trên
núi kia bị tụi này xuống phá phách hỏng nhiều. Mỗi lần vào rừng, vạch
lau đi, bọn mình đã thấy những ống dài và hôi hám - lối đi của lợn rừng.
Bọn
mình vào rừng mà cứ nghĩ mãi đến những con lợn ấy. Kể ra đi lấy gianh
thế này, chỉ có trong tay một cái liềm cùn, một cái đòn sóc nhọn 2 đầu
và một ít dây rừng nếu lỡ có 1 đàn hổ, báo hay 1 đàn lợn lòi từ trên núi
lao xuống thì chẳng phải dễ dàng mà thoát được! Nhưng nói vậy thôi chứ
sợ quái gì. Mình là con người ắt phải thắng hết mọi súc vật mọi rợ trong
rừng hay ở đâu đi nữa. Đấy là ý kiến của các o gái Hà T nh khi nghe bọn
mình than thở dọc lối vào rừng.
Kể
ra, hôm nay mình cảm thấy hơi buồn, hơi nản vì các o gái Hà T nh. CÓ lẽ
đây là quan niệm mới về các o. Đến đây được mấy ngày rồi, và quan niệm
của mình về các o vẫn là tốt đẹp, cảm phục và thầm biết ơn. O Hồng ở nhà
mình trú quân thật thuỳ mị, nết na. Nhưng 3 cô gái bọn mình gặp trong
rtmg hôm nay thì thật là kinh khủng, mình đi trước cả toán mà vẫn phải
né sang một bên để nhìn rõ mặt các o. Mình không muốn và không thể viết
được tất cả hay một phần rất nhỏ những mẩu đối thoại của bộ đội và các
cô vào đây được, vì nó táo tợn, nó thô lỗ và trần trụi quá. Trước kia
khi ở nhà nghe người ta bảo rằng:con gái khu 4 thiếu thốn tình cảm một
cách kinh khủng, nên họ thường đòi hỏi một cách thẳng thắn. Mình không
tin. Làm sao người ta lại có thể chai sạn đến mức như vậy được nhất là
cái chủ động" lại thuộc về người con gái. Bọn mình 5 đứa, đi lấy gianh.
Vừa đến cửa rừng thì gặp 3 cô. Các cô còn trẻ. Nghe tiếng cười các o rúc
rích sau lùm cây mua cao lớn bọn lính cứ tỉnh bơ - Cái tỉnh bơ của lính
quân khu 3, dường như nói rằng. việc các cô cười thì cứ cười - việc
chúng tôi đi thì cứ đi thôi và chẳng chút ít gì dính lnl đến nhau. Nói
vậy thôi chứ lính vẫn nghe, vẫn chú ý nghe và bình luận tiếng cười ấy.
Nghe ghê ghê - Bọn mình thống nhất với nhau như thế - Và im lặng đi qua.
Nhung rồi các o cứ bám lấy, cứ bám lấy và tha hồ thả trí tưởng tượng
bay loạn xạ - Các o nói đến tình trạng "con trai phân phối" của khu 4 -
Các o từ gọi bọn mình là chú rồi chuyển sang gọi anh tự lúc nào. Các o
gợi cảm một cách thô lỗ và cảm thấy rờn rợn khi nghe tiếng cười the thé
ấy.
Lẽ
ra mình thấy Hà Tĩnh đáng yêu hơn, khi không gặp 3 cô gái ấy, 3 cô gái
quái quỉ ấy. Các cô cứ đòi "tự do" ở trong rừng và thật đáng sợ khi 1
trong các cô gái đã trả lời bộ đội khi Q. bảo các cô dẫn tới chỗ có
gianh. Cô ấy bảo: Khu 4 có "tức lệ" vào rừng mà có 2 người con trai và
con gái thì phải cởi hết áo quần (!). Thật kinh khủng quá! Mình cảm thấy
nửa ghê ghê, nửa lại thương hại các cô. Ở đây rừng vắng, và ở chỗ vắng
ấy nên người ta mới điên như vậy hay sao? Và không hiểu, o Hồng thùy mị,
rụt rè ở nhà có lúc nào lại trở nên điên dại như thế hay không?
Đấy
là những cảm giác khi mình đứng trên núi cao nhìn xuống thấy bóng áo
lót màu trắng của các cô gái, nghe tiếng hò sông Lam của anh bộ đội nhỏ
li ti đang men theo sườn núi và nhìn ra xa tít tắp/ biển đang dâng lên
mênh mông...
18.4.72
Hành
quân lúc 16h30 đi diễn tập. Đó là đợt 1 của thời kỳ diễn tập dài toàn
E. Thằng Y bảo, 6 giờ tối mới đi, nên 1 lúc cứ vào ra mãi - Ai ngờ 4h30
chiều đã đi rồi. Bỏ quên cả lựu đạn, bỏ quên cả xẻng và ba lô thì buộc
chưa chặt. Lúc cả đơn vị đi hết cả rồi mình mới đuổi theo. Mệt nhoài
người Buổi sáng vừa lên C18 nạp acqui, buổi chiều lại đi ngay. Nắng rất
gắt và choáng. Mặc dù mình đã gửi tất cả sách vở, chăn, áo rét ở chỗ tạm
trú quân, mà ba lô vẫn nặng, 15kg gạo. Sau đó đeo hộ T. hai bao gạo,
một khẩu súng = Cộng tất cả cũng đến 30 cân có thừa!
Lần
hành quân này đi thật rời rạc, cả D đi thành mấy tốp lẻ tẻ lẻ tẻ, và
mọi người đều mệt ngay từ những phút đầu tiên. Nắng Hà T nh, nhất là
khoảng 3, 4 giờ chiều, nắng gắt kinh khủng, như thiêu như đốt, hoa cả
mắt và đầu thì cứ ong ong - Con đường nồng nặc mùi phân trâu và lầy lội
khi trời mưa, thì hôm nay trời nắng, cứ bụi lầm lên và khét lẹt - Cây
cối thì không, cả hơi nước bốc lên từ con sông ngay cạnh đường cũng
không đủ làm dịu bớt làn không khí nóng nực và bực bội ấy. Mới đi được
vài Km mà rất nhiều người đã bị gục xuống rồi. Nhất là bọn B vận tải, cứ
đầu trần, chân đất nằm thở dưới nắng hè. Thật thế, mỗi lần hành quân là
một lần thử thách rất căng thẳng. Nếu như ai không có nghị lực, không
đấu tranh thắng nổi sự cám dỗ nghỉ ngơi thì nhất định người đó không thể
bám sát được đồng đội. Đã hành quân thì không thể nào nhẹ nhàng được.
Mình thấu hiểu rất rõ điều đó - Bao nhiêu lần hành quân, và lần nào mình
cũng rất tự hào rằng: mình không hề bị rớt lại, không 1 lần nào mình
nhờ vả đến ai đeo hộ và lần nào mình cũng đeo vượt tiêu chuẩn yêu cầu.
Không phải nhờ cái thân thằng người to kềnh càng. Không phải nhờ đôi
chân "cầu thử như bọn nó thường nói - Chẳng phải đâu, lần nào cũng nặng,
lần nào cũng phải cố, cũng phải đặt yêu cầu rất cao cho mình. Không
được lùi bước, không được chậm lại, và phải đi đến cùng. Chỉ cần có một ý
nghĩ nhỏ: giá như bỏ bớt được cái này, cái kia thì nhẹ hơn- Chỉ cần có
một ý nghĩ nhỏ như vậy thôi là cảm thấy cái khối sau lưng kéo thít vào
vai và rất khó đi đến đích - Là phải cố gắng rất nhiều mới xua được ý
nghĩ tiêu cực ấy! Lúc nào mình cũng tự nhủ: không thể nào khác thế được
còn phải đeo nặng hơn, đi dài và nhiều hơn nữa - Suốt dọc đường hành
quân, không phải lúc nào cũng cảm thấy nặng nhọc và gian khổ. Mình hay
đọc thơ, làm thơ, làm thơ trên đường hành quân. Và chính những lúc tâm
hồn mình mơ mộng với nhưng vần thơ êm dịu hay da diết, tự dưng thấy thân
mình nhẹ bỗng, tưởng chùng mình có thể bay lên được và chẳng cảm thấy
chiếc ba lô nặng kinh đang đè dí hai vai - Nhất là những lúc nhớ Như
Anh, những lúc đọc thơ cho Như Anh nghe và làm thơ tặng Như Anh - thì
cảm thấy say thực sự và cứ ao ước con đường ấy dài ra vĩnh viễn, thì mọi
khó khăn gian khổ sẽ trở thành niềm hạnh phúc rất tự nhiên:
“Khoảng trời em mưa thưa bóng mây
Mưa khoá hiền như tình ta buổi ấy
Cơn mưa giận, cơn mưa thương biết mấy
Nhớ nhung gì mà ướt áo người xa…”
Đấy
là “Khoảng trời em” của Quang Huy – “Mưa khó hiểu như tinh ta buổi ấy"
thì chán, Như Anh nhỉ - Ta nên chữa lại là “Mưa thủ thỉ như lòng em buổi
ấy" thì hơn...
Cứ
thế, cứ thế, ta đi hết chặng đường hành quân, và chính trên những chặng
đường ấy mà nảy nở ra những tứ thơ, những tứ thơ chưa hay, nhưng thật -
Vì nó sinh ra trong mồ hôi và axit lắctíc...
“Anh đã đi con đường ấy chưa?
Đường tôi đi đỏ bừng sắc lửa
Màu cây xanh chẳng có đâu, chỉ có màu quân phục
Khiến bước hành quân cứ bồn chồn thôi thúc
Như mỗi lần ta nhớ tới miền Nam…”
(Trên đường tôi đi)
Đi
trong đêm khuya. những anh bộ đội hay tìm ngôi sao Hôm cô độc, một tinh
cầu chói lọi. Sao Hôm thường mọc cách tầm tay với mặt trăng hiền dịu.
Mấy đêm sáng trăng, đêm nào cũng vậy, mặt trăng lên, là thấy sao Hôm...
Sao Hôm mọc từ lúc trời còn đỏ mờ, rồi xanh dần ánh thép, và khi bầu
trời xanh màu mực cửu long thì ngôi sao mới sáng tỏ làm như đôi mắt em
thao thức theo anh trên đường gian khó. Người ta tìm những chòm quen
thuộc của làng quê việt Nam. Chòm Đại Hùng và Tiểu Hùng tinh cho người
tìm phương Bắc, ngôi sao Bắc đẩu như ánh sáng của em tự lại từ xứ Tuyết
xa xôi. Và ông thần nông tựa lưng vào bờ sông sao sáng rực nghĩ về đất
nước, bỏ mặc con vịt bơi hoài trên dòng nước sóng sánh sao sa. Mình bỗng
nghĩ tới 1 điều: Cả khuya trời cũng bộn bề những công việc nhà nông -
Đất nước khổ đau và nghìn năm lăn lộn với ruộng đồng, người ta chỉ còn
nghĩ đến gầu dai, gầu sòng chỉ còn nghĩ đến vụ cấy qua các chòm sao mơ
mộng... Cả những năm tháng lửa cháy chống ngoại xâm đã để lại trên trời
chòm sao Tráng sĩ, gài thanh kiếm ở ngang sườn…
Mình
hay nghĩ vu vơ như thế về các ngôi sao. Các dân tộc khác mơ mộng hơn
chăng khi họ nhìn sao Hôm là Thần vệ nữ, người con gái đẹp tuyệt vời đem
tình yêu cho thế giới. Còn dân mình, thì sự tích về những ngôi sao cũng
chỉ là những bài ca cảm động về tình anh em, về tình đồng đội…
Mình
bảo với Y: Nhất định sẽ viết về những ngôi sao trong Nhật ký, y buồn
cười lắm. Nó bảo: Ngôi sao thì có dính líu gì đến Nhật ký mà mình cũng
viết. Y nó viết Nhật ký ít thôi, rất ít là khác, chỉ thỉnh thoảng nó mới
vội vã và cẩu thả vào một cuốn sổ tay nhỏ xíu. Nó bảo Nhật ký chỉ nên
ghi lại những ý nghĩ táo bạo và độc đáo, tiêu biểu nhất trong 1 ngày hay
trong vài ngày. Những ý nghĩ đó đủ để gợi lên một cảnh đời rực rỡ, một
ngày sống đáng ghi nhớ hay đủ gợi lên một quan niệm sống. Và cao hơn, đủ
hiện lên một con người.
Mình
không tin lắm vào ý nghĩ và lời nói ấy của nó. Uớc muốn của con người
thật khôn cùng. Làm sao mà chỉ cần một vài dòng nhỏ những suy nghĩ thôi
mà có thể thể hiện được những điều phong phú như thế. Không thể nào chỉ
với những suy nghĩ, cho dù những suy nghĩ có tính chất triết lý sâu xa
có thể làm trọn được trọng trách ghi nhận lại được cuộc sống của một con
người. Mình đã đọc Nhật ký của nhiều người. Mình cảm thấy rằng: Nếu như
người viết Nhật ký là viết cho mình, cho riêng mình đọc thì cuốn Nhật
ký đó sẽ chân thực nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất Người ta sẽ mạnh dạn
ghi cả vào đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà sự thực họ có. Nhưng nếu
Nhật ký mà có thể có người xem nữa thì nó sẽ khác và khác nhiều. Họ
không dám nói thật, nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong ngày, không
dám nói hết và đúng những suy nghĩ đã nảy nở và thai nghén trong lòng
họ. Mà đó chính là điều tối ky khi viết Nhật ký – Nó sẽ đay cho người
viết tự lừa dôi ngòi bút của mình, tự lừa dối lương tâm của mình.
Người
ta viết Nhật ký có rất nhiều phương pháp. Và mỗi người tuỳ theo ý thích
và sự quen thuộc của mình mà ghi chép. Có người chỉ thích viết ý nghĩ,
có người hoàn toàn ghi những sự kiện nhỏ nhặt hàng ngày. Còn mình, mình
không Diết thế nào, có lẽ vừa ghi những sự kiện, vừa ghi những suy nghĩ -
Nhiều lúc cũng khó mà phân biệt đâu là suy nghĩ, đâu là sự kiện. Và sự
trộn lẫn ấy là một điều rất quí. Không hiểu mình đã ghi vào Nhật ký bao
giờ chưa, rằng L. Tolstoi bao giờ cũng nhanh chóng tìm thấy một ý nghĩa
nào đó từ trong những sự vật và sự việc hàng ngày. Việc rút ra những ý
nghĩa từ trong hiện tượng ngay tức khắc có một tác dụng rất lớn lao - nó
cho phép người ta tìm thấy và nắm chắc bản chất sự vật và không sa vào
cái vụn vặt, không bị choáng trước những hình thức màu mè ở bên ngoài.
Mình ao ước như thế, ao ước mình có được cái năng lực thú vị ấy đế sống
sao cho đẹp và sâu sắc.
Nằm
trên cánh đồng khuya, trên đường hành quân, mình và Y nói đến những
điều như thế. Còn a. Mười thì chú ý nhiều quá đến số lượng những trang
Nhật ký. Càng ngày mình càng hiểu rằng số lượng lớn không phải điều khó
làm. Phải, chính Như Anh đã kế cho mình nghe về cô gái hoạ sĩ Nga mới 16
tuổi đã để lại hàng vạn bức vẽ cho đời phải nói rằng, số lượng cũng là 1
điều đáng kể, làm sao để cho rất nhiều trang đấy, mà không trùng lặp,
mà mỗi ngày thực sự là một ngày mới, đẹp đẽ và tốt hơn ngày hôm trước.
Nghĩ đi nghĩ lại thì vấn đề chủ yếu vẫn là anh viết Nhật ký để làm gì?
Anh có lấy Nhật ký làm người bạn đường nghiêm khắc và tốt bụng để đưa
đường cho anh. Hay là anh lấy Nhật ký làm đồ trang sức, làm một cái gì
đó để khoe khoang. Hay tệ hơn, làm một cái bồ để trút vào đó những lời
than thở, những suy nghĩ giả tạo, nhằm đắp điếm cho một con người giả
tạo, sống rất tồi, rất nghèo nàn mà cứ tưởng mình phong phú và bận rộn
lấm với công việc hàng ngày...
Trở
lại với những chặng đường hành quân, nghĩ đến những khuôn mặt nhễ nhại
mồ hôi, đỏ bừng và nặng nhọc cất bước. Trong lòng bỗng dội lên một niềm
thông cảm sâu sắc Cuộc đời bộ đội gian khổ thật, thật gian khổ (và đây
chưa nói đến sự hy sinh). Không gian khổ và khó khăn thì tại sao, toàn
những người con trai khoẻ mạnh, trẻ, sung sức và hăng hái mà phải chịu
ngã xuống dọc đường mà thở Mệt lắm, nhất là đeo nặng. Ban đêm, sang đò,
đeo ba lô đứng trên đò, tròng trành và ba lô nặng kéo ùm cả người xuống
sông. Những lúc hành quân nặng nhọc nhất chính là lúc người ta hay gắt
gỏng với nhau nhất và cũng chính là lúc người ta thương nhau nhất. Người
ta thương nhau và san sẻ cho nhau lút nước trong bi đông, đeo hộ nhau
một phần nặng nhọc. Không thể nào nói hết được, vì
cái
gì cũng rất tế nhị và mới đáng yêu làm sao . Dành cho đồng đội một chỗ
nghỉ tốt, một mảnh chăn, một tấm tang lành Dành cho bạn một chiếc hầm
đào dở, dành cho bạn một khoảng thoáng khi đến chỗ tạm đừng chân - Trời
ơi, tất cả những điều đó, trong khung cảnh đó, mới đáng yêu, đáng quí
làm sao - Nhất là nỗi lo lắng. dáng tất tưởi khi có người rớt lại phía
sau, cần phải đi tìm... chỉ có trong hàng ngũ quân đội mới có được những
điều tốt đẹp đó chăng?
Ban
đêm sang đò và vào nghỉ tạm ở nhà dân - Xã Cẩm Duệ, Cẩm Xuyên (Đi hơn
20km rồi mà vẫn Cẩm Xuyên!) A2W ở nhà ông cụ đã già rồi, 78 tuổi. Mệt
quá, lăn luôn ra giường ngủ. Mình, Huệ, Y nằm cùng một giường. Mình nằm
trong cùng và khi gác chân lên cái hòm gỗ dài kê sát tường, mình mới
biết là 1 chiếc quan tài - ông cụ già rồi, đã "may sẵn áo" để chờ ngày
chết đây? Dạo ở nhà mà thấy thì sợ chết khiếp đây. Mà bây giờ thì cảm
thấy bình thường hết sức - Tuổi trẻ và sự già lão!
Ở
đây còn rất nhiều người già. Mình đến mấy nhà xung quanh đều thấy những
chiếc quan tài xếp chồng chờ đợi Gia đình nhà nọ có đôi vợ chồng già,
ông cụ tóc bạc như bông pha trò bảo mình rằng, suốt đời, 2 ông bà sống
hoà thuận với nhau, lúc cưới nhau, ông bà may một đôi gối cưới và bây
giờ, sắp gần đất xa trời, ông bà lại đóng đôi quan tài chồng lên nhau.
ông cụ cười bảo rằng: Cả đởi ông đã "ở trên" bà, nên ắt hẳn chiếc quan
tài ở trên sẽ là của ông! Mà cũng đúng, con trai thường chết sớm hơn con
gái. Thật tiếc vì khi ông cụ nói chuyện với bọn mình, bà cụ sang xóm
bên chơi không có nhà - Không hiểu nếu có bà cụ thì cụ ấy có thái độ thế
nào?
Dòng
sông Ngân Mộ (hay Ngân Mậu gì đó, mình hỏi rồi mà không sao phân biệt
được tiếng nói ở đây) chảy qua đây giữa hai bờ cây xúm xuê, xanh thẫm cả
lòng – Dòng sông chảy nhẹ và sâu - Những dòng sông động đậy của Hà Tĩnh
ánh sao đáng yêu kỳ lạ, nó làm mát đi rất nhiều cái nắng khổ sở của
miền Trung và cái gió Lào khô cháy da thịt... "Em như bài thơ, em như
đòng sông" - Thằng bé ngồi vắt vẻo trên cây sung nghiêng xuống dòng sông
mà thì thầm như thế, những đợt sóng dài âu yếm lăn đều đến phía trời
xa, chở đi cả tiếng nói, cả cái bóng xanh nghịch ngợm của nó. .. Người ở
xa ơi, em hãy nghe nhé, dòng sông nên thơ này sẽ nói cho em nghe tất cả
tấm lòng anh... Sao năm nay em chẳng chờ anh ở bến sông xa vắng này?
Năm nay em đã ở đâu rồi? Cái cửa sơn xanh của Thư viện thành phố có đôi
bạn nào hẹn chờ nhau ở đấy? Đêm nay anh không ngủ được đây, anh nằm trên
chiếc quan tài gỗ mộc và đọc cái thơ, cái mộng của lòng em - "Lịch
thiên nhiên - Bốn mùa" - Đây là mùa hạ em ơi, em đã lật đến trang thứ
bao nhiêu rồi, tác phẩm của Prítsvin?
Mình
không muốn ghi lại thêm một ngày giặc ném bom Hà rinh nữa - Buổi trưa
nằm ngủ mà nào có ngủ được đâu Những cây cọ xoè ô xanh che giấc ngủ, nằm
trong võng mà nghĩ hoài, mà thương hoài, thương từ cái gân lá xương
xương, thương cả mảnh trời xanh nhỏ tí xíu qua vòm lá mà cũng bị rạch
nát bởi đường bay của giặc - Đất nước, có bao giờ được ngủ yên đâu!
19/4/72
Thạch Hương - Thạch Hà - Hà Tĩnh
Đi qua đây với một ước mong
Gặp em, cô TNXP bao bài thơ ca ngợi
Chẳng phai ban đêm khi nào cũng tối
Đêm Thạch Hà thao thức một vành trăng.
Ở đâu rồi em, cô TNXP
Thạch Kim - Thạch Nhọn
Trời Hà Tĩnh là một trời đưa đón
O gái nào anh cũng ngỡ là em.
Có phải em là o giao liên
Đi vội vã giữa ồn ào lính trẻ
Đêm chẳng bình yên mà yên lành là thế
Quả bom lạnh lùng chúi theo dấu chân.
Đường rất thơ là đường hành quân
Bởi có em, đường thành trẻ lại
Đường đánh giặc chẳng bao giờ dừng lại
Đến nơi nào anh cũng thấy em.
Những con đường em mở trong đêm
Bỗng thành sáng rực
Đường em mở nơi đâu?
Cho anh biết với
Anh đi với em chẳng bao giờ biết mỏi
Cô gái đất này - Thạch Nhọn - Thạch Kim
Cô gái đất này, ơi em…
Ở
đây đặc biệt có nhiều cô gái trẻ - nhiều một cách đáng ngại. Đất Thạch
Hà, và Thạch Kim, Thạch Nhọn trong thơ của P.T.D còn cách đây không xa
lắm! Đi đến Thạch Hà vào chập tối - làng xóm ở đây thật đẹp, nhất là vào
đêm trăng sáng như đêm nay. Em nhỏ nhắc vó tôm ngoài con mương lừ đừ
dọc đường đất rộng - Và khi vừa chớm đặt chân vào xóm, từ sau luỹ tre
ướt át ánh trăng bỗng thon thả tiếng hát của người con gái. Tiếng hát
bỗng trở nên gần gũi và quen thuộc khi ngó vào một ngôi nhà ngỏ cửa, vẫn
thắp ngọn đèn con với trang vở học trò... Lại sắp thi rồi, tháng 4, mùa
thi về đậu trên ngón tay em.
Đường
đi trong xã thì đẹp, hàng phi lao cao, thẳng, mỗi cây treo một ngọn đèn
trăng - Nhưng nhà cửa thì không gọn và đẹp lắm - Đất cát và nhiều nước,
đào hầm một lát là nước ùa vào ngay thôi. Nhưng đó là mạch ngang. Bởi
vậy, rất ít giếng và hồ - Gia đình mình có một con đi bộ đội - Trung sĩ
Dương Nhung, vợ anh từ Bên Thuỷ sơ tán về đây, cháu còn rất nhỏ, nó nằm
trên nôi tre cùng một gian với các chú bộ đội. Mỗi người qua đây trú
quân ở đây đều thương và yêu nó, những bàn tay chưa hề làm bố cũng nhè
nhẹ đưa nôi và ru cho cháu ngủ. Tự dưng, mình cảm thấy tha thiết muốn
được như đứa bé, là
cơn của người chiến sĩ, và cứ sau mỗi lần quân đi, cháu lại được lớn lên...
Ở
đây có tục lệ báo động rất hay. Từ rất xa, ở những vùng gần biên giới,
khi thấy có máy bay vào họ đánh trống luân phiên, xã ở trong nghe xã
ngoài và cứ như thế, tinh thân đoàn kết hiệp đồng của nhân dân đã thắng
cả động cơ phản lực của quân thù.
Mình
cũng không ngờ rằng đến đây lại được đọc tập 1 của “Con đường đau khổ”.
Tác phẩm mà Như Anh yêu và quen thuộc nhất. Song, để được đọc non nửa,
mình đã phải trả một cái giá "khá đắt" - Ban ngày trời nóng như nung,
đến chiều dịu dần, cua bò mát; bọn trong A hò nhau đi bắt cua và hái rau
khoai về nấu canh - Chúng nó cứ tị với mình và lúc thì sai giã cua, lúc
thì sai đun bếp – Mà mình chỉ mượn được cuốn sách đến tối thôi - Vậy là
cáu tiết mình bảo không ăn đâu, đừng tị nạnh nữa. Và quả thực, đến bữa
ăn mình chẳng thèm ăn gì đến canh cả, chúng nó mời cũng mặc, tự ái mà!
Vả lại cũng vì ghét cái tị nạnh xấu xa của bọn nó - Trẻ con thật. Khổ
một điều hôm ấy cơm khô khan quá, chẳng có tí tẹo canh nào. Nhưng rồi
cũng chẳng chết ai, mà mình lại biết thêm được nhiều điều mới mẻ.
À,
giờ đây mình mới biết Bétxônốp và Êlidavêta là ai đấy. Êlidavêta ở đây
chứ không phải Êlidavêta trong "Một ổ quí tộc” của Tuốcghênhép -
Êlidavêta trong Tuốc là người con gái được yêu mà không cảm thấy niềm
vui – Và như vậy là đáng thương - Còn Êlidavêta trong A. T thì cũng đáng
thương không kém.
Mình
cảm thấy rùng mình khi nhớ lại rừng 1 lá thư của Như Anh đã nhắc đến
Bétxônốp và Êlidavêta - Chẳng lẽ mình là một Bétxônốp chăng?
27/4/72
Phải
hết sức trấn tĩnh, tới mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật ký này.
Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như
ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích
được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lý do và lung tưng. Còn tôi rời rã tôi
chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi
hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức, đang ở
giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đởi là một điều xấu xa
và không thể nào tưởng tượng được - Người ta đã chỉn rủa biết bao lần
những thanh niên như thế - Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi
đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường mòn - Con
đường mòn như chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây – Tôi ngồi bệt
xuống bờ sông, con sông cạn đang rút nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới
lòng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn
khóc, khóc với dòng sông.Không, chẳng có ai có thể đem lại cho tôi được
chút gì niềm an ủi hay vui sướng cả. Mọi người không hiểu được tôi, mọi
người gắt gỏng với tôi. Trời ơi, giá lúc này tôi có thể chết ngay đi
được. Có thể quên hết nỗi phiền muộn và sầu não ngập tràn cả hồn tôi thì
sung sướng biết bao. Thì sung sướng biết bao...
29.4.72
Tạm
biệt! À quên, vĩnh biệt Cẩm Lạc - Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh - Chắc chẳng bao
giờ mình quay lại đây nữa. Tuy thế. mình đã bỏ lại đây nhiều sách vở, 16
tập thơ chứ ít ỏi gì Toàn những tập thơ đáng giữ gìn cả. Nhưng không
thể đem đi được. nặng quá. Vả lại, vào gần chiến trường rồi, sắp vượt
Trường Sơn, mang đi nhiều ắt cũng phải vứt đi thôi
Ở
Cẩm Lạc chưa được trọn 1 tuần - Vì đến đây có hơn 3 tuần. nhưng rồi đi
diễn tập và công tác ở C18 nên không ở đây nhiều Hôm qua lên C18 định
học tiếp tín, nhưng rồi chẳng học gì cả. Ngủ 1 ngày trên ấy rồi về. Đeo
nặng. Tạm biệt dòng sông.
30/4/72
Kỳ
Tây - Kỳ Anh - đội 8. Đến lúc 2h30 sáng. Ngủ ngoài rừng, con suối nhỏ,
nước đen. Con đường rải đá trắng. Dân cư thưa thớt. Rừng rậm. Cành khô,
mưa buổi sáng.
Nhắc
nhớ đến 29.4. Ngày ấy 1 năm trước đây đang nằm trên gác 4 trường Tổng
hợp. Thế mà năm nay lại ở đây rồi. Hôm qua thứ 71 hôm nay là chủ nhật,
nếu như ở nhà đi học thì đã có bao nhiêu niềm vui và nói chung là thoải
mái và có thể đi dạo trên những con đường rải đá trắng; hoặc mịn cát,
hay là con đường nhựa dẫn ra ngoại vi thành phố - Hoa sữa ban đêm sẽ dắt
tay ta sẽ dắt lòng ta đi trên hè phố - Và chắc sẽ nghĩ một chút gì tới
bài học, nóng ruột mà - Còn thì lại nhớ cô gái phố Nguyễn Du cho mà xem.
29.4.71.
Cũng không thể hình dung được một năm sau đó lại thay đổi ghê gớm như
vậy! "Năm nay anh đã ở gần tiền phương" quả thật kỳ lạ hết sức.
Hành
quân! Hành quân!... Những đoàn quân cứ đi thoải mái và không biết bao
giờ mới dừng lại, quay ra ở đội quân chủ lực, cơ động trực thuộc Bộ,
không ở đâu được lâu quá 2 tháng. Cứ đi, cứ đi...
Phải
cái hành quân nặng! Lần nào cũng 30kg trên vai là ít. Đất nước rộng thì
đẹp và cảm thấy tự hào - Nhưng lắm lúc nguyền rủa con đường vì nó quá
dài đi. Đi mãi mà không tới. Chỉ có 20km thôi mà lời động viên phải dài
hơn cả 30km nữa! Phút thú vị nhất là 10 phút nghỉ giữa đường hành quân -
Nằm trên đồng cỏ rộng mênh mông, có ánh sao xanh biếc, những ngôi sao
biết nói - Gió từ biển xa thổi vào, qua những rặng núi xanh đã phai hết
vị mặn - Mát gió đến miên man, mình cứ ao ước phút này kéo dài đi mãi,
đấy là phần thưởng đối với mỗi người sau một đợt hành quân dài - Mình
hay nhớ đến Như Anh nhớ đến Như Anh vào phút sung sướng ấy Anh vắng em ở
chặng đường này...
Điếu
thuốc hay đỏ ở phút này. Một điếu thuốc ở đây mới quí giá làm sao. Lính
ngồi vòng quanh, để điếu thuốc đi vòng mấy lượt - Đầm ấm và da diết
biết bao. ở đây, trên núi rừng Hà Tĩnh, người ta kề về câu chuyện tình
đầy hấp dẫn của Gơrigôri và Ắcxinhia trong “Sông Đông êm đềm”. Hôm ấy
ăcxinhia mặc áo và váy mới, chiếc váy hoa dành cho ngày hội, hôm nay
lướt trên bờ sông Đông êm ả. Cô nhìn Gôrigôri cưỡi ngựa và cặp mắt của
họ nói hết với nhau những điều thật là khó nói... Gorigôri chạy như bay
xuống bờ sông, trong gió thoảng tiếng cô gái xinh đẹp cuống quít - Anh
Gơrigôri, em đi được mà, em đi được mà...
Còn
ở đây, lính bảo chẳng hề được gặp cô gái nào giữa những người lính đi
chiến trường - Toàn lính đực! Biết làm thế nào cơ chứ! Các cô gái làm
sao mà chịu đựng nổi cảnh này.
Tìm
phương Bắc qua ngôi sao Bắc đẩu mờ. Và nhớ những người thân ở phương
Bắc - Ngày càng đi xa. 5 thằng lính đã đảo ngũ rồi - Hèn thật!
1/5/72
1/5/70. Hai năm rồi, kể từ ngày ấy.
Đừng có nhớ vớ vẩn.
Đóng quân ở Kỳ Lâm, bên cạnh dòng suối lừ đừ. Bên cạnh ngôi trường cấp 1.
2/5/72
Hôm
nay dừng chân ở một trạm giao liên dọc đường ra tiền tuyến. Trạm giao
liên mà mình hay ao ước được đi qua, được nhìn, được ngắm và được sống.
Thì đây, trạm giao liên (có thể nói là đầu tiên) mà mình được đến. Bao
nhiêu người đã đi qua đây, đã sống ở đây? Cơn gió mát lành qua vách lá,
bao nhiêu lần đọc tên anh bộ đội? Mình cảm động biết bao lần, cứ nhìn
cái cửa buộc bằng sợi dây rừng - Vách lá bơ phờ, nhưng dễ lọt vào chân
núi, giữa một vòm cây mát rượi. Nước không nhiều, nhưng trong vắt và mát
lạ lùng. Hoa rừng năm cánh rơi ở ven suối như sao trời buổi sớm, bậc đá
dẫn người đến suối, có vết ám khói
Ngoảnh
nhìn ra cửa là thấy núi - Núi Hà Tĩnh mát ngọt như một dòng sông - Cây
lên xanh và tháng 4, hoa sim, hoa mua nở tím đất trời - Chỗ nào cũng
thấy cỏ, cỏ gai và cỏ gà và cả cỏ mật thơm lừng - Bước chân lên cỏ dầy,
cứ ao ước ở đây lập một nông trường chăn nuôi bò sữa - Rồi đất nước mình
sẽ đẹp biết bao!
Gió
đã hơi nóng, khi trời đã tháng 5 rồi, mùa hè rồi đấy em ơi. Rồi gió Lào
sẽ về đốt cháy cây cỏ - Cốt sao đừng để lòng mình héo quắt queo đi -
Buổi sáng, đi vào rừng lấy gỗ mình bỗng gai cả người vì tiếng trẻ hát
trong trường cấp 1 bên cạnh nhà. Chúng đang hát và múa, chắc là để chuẩn
bị kết thúc năm học và 15/5; 19/5 đây. Tuổi thơ... đã xa lắm rồi -
Không còn được đi học, không còn được lo lắng vì bài toán chưa làm xong,
vì một điểm kém - Xa lắm rồi…
Chưa
bao giờ nhớ Như Anh như hôm nay - Khi từ dòng suối mát lành trở về lán.
Bỗng như trở về cuộc sống thật hôm qua. Nghe rất rõ tiếng Như Anh cười,
nghe rất rõ tiếng Như Anh nói - Tưởng chừng xoè tay ra là nắm được tay
Như Anh rồi, cái bàn tay xinh xắn, cái bàn tay yêu thế…
Như
Anh, sao Như Anh bạo thế? Sao Như Anh dám yêu một người con trai kém
Như Anh về mọi mặt - Một người con trai nghèo nàn và ngu dốt. Người con
trai ấy đi chiến trường và rất dễ chẳng bao giờ quay lại - Sao Như Anh
dám chờm Không nghĩ đến những đòi hỏi của mình ư? Trời ơi, sao mình ngu
dốt thế? Không thể nào nói rõ ràng được những nỗi xúc động đang trào
lên, đang dâng lên. Không thể nào diễn tả nổi những cảm xúc này. Những
cảm xúc rất thật, rất cụ the và khiến mình say sưa đến thế...
Mình
sẽ làm gì đây? Làm gì đế xứng đáng với Như Anh? Không the than thở mãi,
không thể cứ ao ước và mong mỏi một cái gì may mắn đến làm thay đổi
cuộc sống hiện nay. Mới đó, mà đã 1 năm, sắp 1 tuổi quân rồi – Có cái gì
mới đến với mình không, và mình đã làm được gì cho Như Anh? Đừng để Như
Anh phải đau khổ vì mình, vì đã yêu nhầm 1 người không đáng để Như Anh
phải quan tâm tới Đừng để sự ngu dốt ngăn cản TA, T. nhé.
Từ
khi vào đất Hà Tĩnh, bọn ình rất ức vì máy bay địch chúng nó bay rất
thấp, chậm rề rề và nghiêng ngó hết sức láo xược Cứ từng tốp 2 chiếc
lượn lên lượn xuống quanh những chóp núi màu xanh lục phì khói đen ở sau
và ngạo nghễ nhòm ngó. Bầu trời của chúng nó đâu mà dám làm như vậy!
Nhưng súng phòng không của mình thì lại quá ít, hầu như không có. ở đây,
chủ yếu là phòng tránh không bắn trả. Nấu cơm ăn phải không có khói
lên, phơi quần áo cũng không được phơi ngoài nắng. Bỏ mặc bầu trời cho
địch (!) Vô lý thật - Thế mà đó lại là chuyện thật!
Ta
đang đánh lớn trên chiến trường - Giải phóng La Vang, Đông Hà rồi - Tới
đây, nghe tin E3 đã đi chiến trường được 5 hôm - Bây giờ có lẽ đã đi
được nửa đường - Bọn mình chắc cũng sắp đi thôi - Vào trong ấy, vào
trong ấy . Biết có giữ được mình không? Mình sẽ bắn chết thằng lính Mỹ
đầu tiên lúc nào nhỉ? Phải, nhất định phải bắn nhiều chúng nó đâu còn là
người nữa!
Rừng
ở đây đẹp tuyệt. Cây cao, thẳng và rậm. Vắt dĩ nhiên là nhiều rồi, nhất
là trời mưa - Đi lấy gỗ, nó bâu kín cả các kẽ chân. Mình vẫn chưa có
kinh nghiệm lấy gỗ, chặt toàn đu đủ rừng, trông thì rất thẳng mà vụng -
Làm nhà cũng không được, khô là cứ tóp dần đi - Làm củi cũng không được,
chỉ toàn khói và không hề có lửa! Dạo ở Nhã Nam đã bị nhầm 1 lần, lên
đây vẫn cứ nhầm.
Đêm
ngủ ở Hà Tĩnh, nghe tiếng chim "bắt cô trói cột" kêu mà rầu cả lòng.
Tiếng khóc của người xưa đề lại dư âm hoang dại ấy đến tận bây giờ! Gà
rừng te te gáy, gợi nhớ buổi sân ở nhà... Chao ôi, mình nghĩ gì thế này?
Điên rồi đấy!
Sau
này về, mình sẽ kế cho Như Anh nghe thật nhiều, chuyện về chú sóc con
lần đầu mình nhìn thấy trên cây trám. Hai con mắt nó tròn và xinh ơi là
xinh, cứ như hai viên ngọc ướt nước mưa vậy, cái đuôi bồng lên, nó chạy
thoăn thoắt trên cành cây nhỏ, hệt như giọt nước thật trong lăn trên lá
khoai vậy. Rồi cả con kỳ đà leo trên cây, Sơn nó. trông thấy - Cu cậu
giương súng cao su bắn, trúng lưng, trúng đầu, chú kỳ đà lại nhô đầu lên
ngó. Cái lớp da mới dầy và cứng làm sao - Hàng vây trên lưng nó như vây
cá - Và cái đuôi như một con rắn, nom rờn rợn - Vậy mà khi Sơn nó đập,
con kỳ đà rơi xuống ven suối đánh bộp, đem về thịt, ăn cũng ngon - Rất
ngon là khác. Sẽ kể hết với Như Anh nhé, cả cái lá mâm xôi để nấu nước -
Cả cây sa nhân sa mỏng mảnh mọc chòi bên bờ suối - Kể để Như Anh cùng
vui trò chơi tuổi nhỏ của anh bộ đội, cầm đèn pin đi sợi cá Con cá chói
mắt. đứng im giữa dòng nước chảy, chém nhẹ con dao và chú cá ngửa bụng
lên ngay - Dễ thế mà đêm qua, mình bỏ mất một chú tôm thật to - Rồi còn
để sổng 1 con cua đá nữa. Như Anh đừng có cười đấy. T. của Như Anh còn
vụng về biết mấy. Đi bắt con cua đêm mà có bắt gì đâu, chỉ nhìn cái vòng
sóng ánh sáng hắt lên người đồng đội và đốm sáng kéo từ mặt nước xuống
những viên sỏi dưới lòng suối... để làm thơ - Bài thơ về cuộc sống rất
thơ của anh bộ đội. Kể Như Anh nghe nhé, đồng ý không nào?
3/5/72
Người
ta nói: "Nước sông, công lính" kể cũng phải thôi. Đi từ Cẩm Lạc đến
đây, hành quân mất 2 ngày, 2 đêm. Mỗi ngày đi 20km vì không được đi theo
quốc lộ 1 - Toàn đi đường rừng núi - Tuy vậy, đã thấy xa. Về đây, được
nghỉ 1 ngày để ngủ - Hôm sau vào rừng lấy gỗ về làm nhà kho. Mỗi người
theo tiêu chuẩn là 4 cây/ ngày, cây phải cao 4m! Kinh khủng! Mình và Ch.
tuổi sáng vào rừng chặt được mỗi đứa 2 cây. Kéo từ đỉnh núi, theo con
đường mòn vằn vèo - Rừng không xa, chỉ cách nhà chừng 1km, nh mợ cây ở
dưới chân núi thì nhỏ. Phải trèo chót vót lên đỉnh, cây mới cao, thẳng,
mới đủ "tiêu chuẩn" đề ra.
Chiều,
định đi lấy nốt mỗi người 2 cây cho xong, thì được lệnh nghỉ chuẩn bị
tối đi về Cẩm Lạc lấy số gạo gửi khi đơn vị di chuyển gấp. 5h30 bắt đầu
hành quân. Mình cứ tưởng đi bộ không có ba lô ắt phải nhanh và nhẹ nhàng
hơn. Nhưng chẳng nhẹ lắm đâu. Cũng vẫn mệt nhoài, đến nỗi bọn mình nằm
la liệt dọc đường đi. Rồi rẽ ngang, rẽ ngửa, lạc cả đường. Khoảng 1 giờ
sáng 4/5 thì mình tới nơi. Có đứa mãi 8 giờ sáng mới lò dò về. Hôm hành
quân đến đây, đường còn nguyên vẹn. Hôm nay quay lại, những chiếc cầu gỗ
khá vtmg chắc đã bị ném bom tan tành để trơ lại những khe sâu đen mò,
lá lau um tùm. Trèo qua. Ô tô chạy ban đêm phải thắp đèn gầm, nhưng chạy
với tốc độ kinh khủng. Cứ lồng lộn và cuốn bụi khét nồng.
Mình
trở lại nhà cũ. Nhà o Hồng đấy. Cả nhà ngủ sạch - Chỉ có bà mẹ dậy nấu
nước cho bọn mình ngâm chân. Trăng 17 giờ mới tỏ. Bọn mình quay ra ngủ,
chẳng mắc màn gì cả - Vả lại, làm gì có màn - Không đem – Đêm ấy chắc
muỗi nó khiêng đi còn gì.
4/5/72
Gia
đình tỏ ra không xứng đáng với lòng tin của mình- Rất buồn vì những
cuốn sách mình gửi lại đã bị lục tưng ra và vứt bừa bãi. Nó chứng tỏ chủ
nhân không hề tôn trọng khách. Chứng tỏ một thái độ thiếu lịch sự của
gia đình. Buồn hơn, nình đã nhờ hẳn o H. cất hộ. Thế mà khi gửi. mình cứ
nghĩ và lo rằng, cho đến khi gián nhấm hết cả gáy sách rồi, mà gia đình
vẫn không dám giở ra xem. Chán thật, lòng tin đối với con người.
Và thương biết bao cuốn sách mình yếu quí - Những bài thơ khiến mình xúc động - Thế là vĩnh viễn không còn gặp được nữa.
Trời
nắng kinh khủng. Gió nóng rồi. Dạo này bên Lào bắt đầu có gió Lào – Nó
sẽ thốc đến đây và mang màu đen cho anh bộ đội khu 3. Cả ngày không hề
có dáng 1 chiếc máy bay. Nhân dân bảo: Từ khi bộ đội đi. máy bay không
đến ném bom nữa - Rất lạ, nhân dân nhạy bén với cán bộ và bộ đội lắm -
Họ bảo, bọn mình sắp vào Quảng Bình và ở đó rồi đi chiến trường thay cho
1 đơn vị vừa có lệnh ra Bắc - Không hiểu có đúng thế không - nếu đúng
thì nguy hiểm lắm - Việc giữ bí mật trong đơn vị không tốt lắm.
5/5/72
Không
ngờ bọn mình lại đi nổi đoạn đường dài đến thế với 20kg trên vai. Và
liên tục mấy ngày hành quân, lao động mệt nhọc - Thế mà đến nơi đúng qui
định - Chỉ rớt lại mấy người ngủ ở nhà dân dọc đường.
Đây là những điều mình thấy trong đêm hành quân.
Lại
những cô gái Hà Tĩnh. Mình cảm thấy hơi sợ cái giọng hò Hà Tĩnh rất dai
dẳng và chói tai. Các cô đi trong đêm khuya với công nhân nông trường
nuôi bò dọc đường 24, vào tận sườn núi tối đen, qua cánh đồng khá rộng –
Và các cô hò. Tiếng hò - Chao ôi...
Lại
cái thái độ giả tạo, kiêu ngạo của a. M. Anh ta hay chế nhạo người khác
một cách thô lỗ dưới một lớp vỏ ngoài khiêm tốn. Rồi thái độ bề trên,
hách dịch, ra lệnh của Th.. Mình cảm thấy buồn chán rất nhiều. Con người
sống với nhau chưa thực với mong muốn của mình. Phải nói rằng, mình
chưa sống với ai được 3 tháng mà hoà thuận cả. Mình luôn luôn tìm thấy ở
các bạn của mình những tính xấu Những tính xấu. Những tính xấu không
thể tha thứ được ở người này là sự hợm mình - ở người khác là lòng đố
ky, ghen ghét - Ở người kia là cái giọng nói cố ra vẻ hùng hồn - Tất cả
những cái đó khiến mình cảm thấy con người có vẻ gì giả tạo - Nghi ngờ,
và nghi ngờ mãi. Mình hay nghĩ tới Như Anh - Như Anh ra sao nhỉ - Phải
Như Anh chính là người bạn nữ duy nhất mà mình còn gửi thư, còn thường
nghĩ đến và nhớ nhung. Mình không muốn thế - Mình không muốn yêu một
người con gái khác với Như Anh thực. Mặc dù người con gái đó chỉ là Như
Anh trong tưởng tượng của mình. Hơn bao giờ hết, mình mong muốn hiểu Như
Anh, hiếu rõ ràng và cặn kẽ Như Anh - Đồng thời, Như Anh cũng hiếu mình
như thế. Cuộc sống còn có bao nhiêu điều phức tạp và trần trụi. Người
ta cần phải sống với nhau trong cái gồ ghề, góc cạnh ấy và không thể nào
khác thế. Người ta phải đau khổ, phải vui sướng với cuộc đời thực. Chứ
không phải cuộc sống trong mơ. Như Anh ở cuộc sống thực ra sao? Liệu có
làm cho mình thất vọng? Và tình bạn của TA, có bị tan vỡ khi sự thực ta
sống ở bên nhau, ta gần gũi hay không?
Cũng
chưa thể nào biết được. Từ xưa đến nay, đã có tình bạn nào làm mình hài
lòng đâu - Bạn nào cũng vậy, chỉ trừ Như Anh là chưa rõ mà thôi. Bao
giờ cũng đem đến cho mình một niềm sầu muộn, chao ôi, những tình bạn
trên cuộc đời này. Nói vậy, không phải lúc nào cũng khiến cho mình buồn
bã. Cũng có lúc nó đem lại niềm vui, đem lại niềm an ủi và sung sướng.
Nhưng tách ra khỏi cái hoàn cảnh ít nhiều đặc biệt ấy - phần lớn, mình
cảm thấy chẳng hài lòng. Hay là lỗi tại mình? Tại mình sống không tốt
nên mình không cảm thấy hết được cái đẹp đẽ trong tình bạn- Nên mình
không xây dựng được một tình bạn nào cao cả và đẹp đẽ cả.
Như
Anh ơi, Như Anh... Như Anh đang ở đâu rồi nhỉ. Như Anh nghe T. nói
chuyện không? Buồn lắm Như Anh ạ Tình bạn của chúng ta rồi sẽ đi đến
đâu? Và nhất là có đẹp đẽ như những ngày qua, như những ngày hôm nay hay
không? Phải đấy là tình bạn duy nhất mà mình còn giữ được.
Không,
vấn đề không phải đơn giản như thế. Còn rất nhiều điều khác nữa tế nhị
và rất đáng sợ nữa - Những vấn đề chỉ rất nhỏ nhưng không phải không
quan trọng. Dễ thương,/ mình trở thành người vô tim!
Khi
còn ở trường, thức đến 1 giờ sáng, và sung sướng nhận ra rằng, đấy là
giờ khắc chuyển mình bước sang ngày mới. Thực ra phút chuyển mình sang
ngày mới là sáng sớm. Đó là lúc chuyển ngày thực sự và phần thực thuộc
về ánh mặt trời đỏ ửng viền đỉnh núi phía Đông. Còn phần mộng thuộc về
ánh trăng 18 ban đêm... Ta đi giữa, bộ đội đi giữa.
*
* *
Nghĩ
những điều vớ vẩn ấy làm gì khi ở nhà vừa xảy ra 1 việc, 8 giờ sáng
ngày 4/5, máy bay địch đã bắn đúng khu nhà của B thông tin và D bộ. (Lúc
ấy, mình còn ngủ ở Cẩm Lạc, đắp chăn dạ ngủ cho đỡ ruồi - trời nóng –
an nhàn và hoà bình thế thì thôi). Vì về gần đến nhà bọn mình mới biết. 4
quả bom đã phá sạch, phá tan tành và xơ xác ngôi trường cấp 1 bên cạnh.
Ngôi trường đẹp, thoáng và mát. Cô giáo mặc áo trắng, khoác khăn nguy
trang xanh và những em bé hiền lành, hay nghịch ngợm. Hôm nào, mình còn
nghe các em ca múa chuẩn bị cho ngày kết thúc năm học - Hôm nay, các em
đã ở đâu - Và có em nào chết?
Bộ
đội dừng lại trước ngôi trường hôm qua tan tác vì bom đạn địch. Hố bom
đen kịt, gỗ ngổn ngang, đất đá tơi bời – Có mùi tanh tanh và khét lẹt.
Hầm sập - 5 em nhỏ đã bị chết và 1 số bị thương. Rất may hôm đó bộ đội
đi lấy gạo gần hết, chỉ còn một số ít ở nhà. 1 quả lao xuống nhà bếp.
Mái bếp bị thủng 1 vết rất ngọt. Quả bom lao thẳng xuống làm bay mấy cái
nồi quân dụng, cái ớ a thức ăn có mấy kg thịt, con cá bắt dưới suối và
mấy cái nồi. Một quả cắm xuống cửa hầm, ở trong có 3 người: An, Toàn,
Tốt (!) Mấy quả bom rơi vào lán đều không nổ! Người ta phát hiện, đấy là
do công nhân Mỹ phản đối chiến tranh đã lắp bom không có kíp, bom không
nổ. Cũng có thể.
Nhưng
có ý kiến công binh cho rằng, máy bay bay quá thấp nên bom không nổ
được - Chưa biết thế nào. Chỉ cần biết: nó không nổ - Thế là được.
6/5/72
Học
chính trị và thảo luận chính trị. Tình hình và nhiệm vụ mới. Người ta
nhấn mạnh một cách quá đáng tình hình ở chiến trường. Lẽ ra, với bộ đội,
không cần phải động viên một cách chung chung và lạc quan một cách như
thế. Nên cho những người ở chiến trường hiểu và những người sắp ra chiến
trường hiểu cụ thể về tình hình chiến sự. Kể ra, cũng không còn nghi
ngờ gì về chiến thắng của chúng ta cả. Ta đã thắng và đang thắng lớn.
Nhưng có lẽ câu kết luận của các cán bộ chính trị chưa thoả đáng lắm
đâu. Nên cho những người lính hiểu tất cả khó khăn đang chờ đợi họ.
Chiến trường càng ác liệt trong suy nghĩ của người lính, họ càng chóng
thích hợp khi giáp mặt với quân thù.
Thế
là lần đầu tiên, ta đã thắng lớn, rất lớn vào chính tháng 4. Mình cũng
hơi buồn vì những chiến thắng lớn như vậy mà mình chưa có mặt trên chiến
trường. Nhưng cũng rất tự hào vì mình đang làm công việc cần thiết cho
những thắng lợi ấy. Khi nghe tin chiến thắng giải phóng Quảng Trị, Đông
Hà... tiêu diệt hàng vạn địch... chính là lúc mình đang hành quân về Cẩm
Lạc lấy gạo – Đoàn người ùn lại xung quanh anh cán bộ, đeo cái đài Li
do to cồ cộ, để nghe bản tin dài 90 phút của đài mình thông báo tình
hình chiến thắng. Thị xã Quảng Trị đã được giải phóng, bộ đội ta đang
tiến vào... và bản nhạc giải phóng Điện Biên nổi lên vừa hùng tráng, tự
hào, cảm động, vừa quen thuộc. Mình bước như say trên đường, qua khe
suối, qua bụi cây mua... Đêm nay đây, bao nhiêu người bước chân trên
Trường Sơn?...
Nhìn
những ngọn núi xanh xa xa, cây cối sùi lên như mây trên đỉnh núi, mình
hiểu rằng, đấy chính là chân Trường Sơn - Khi nào mình được đứng hẳn
trên Trường Sơn nhỉ đứng ở đó, nhìn ra bốn phía mênh mông, thấy những
dải rừng cháy tan hoang vì bom napan và chất độc hoá học Mỹ - và được
gặp những người chiến sĩ lăn lộn ngày đêm trên tuyến lửa. Mình đã ao ước
từ lâu, được ngắt một chùm lá săng lẻ, được đi dưới rừng khớp và mắc
võng trên những cây rừng đã mòn vết người đi trước. Mình cũng hiểu rằng,
những cái đó đều phải trả bằng mồ hôi và cả máu nữa - Phải trả một giá
khá đắt. Nhưng có hề gì,không dám hy sinh làm gì có hạnh phúc, niềm vui?
Bộ
quân phục đầu tiên của mình đã sắp rách rồi. Mình rất yêu bộ quần áo
này, hình như nó cũng gần là quần áo sinh viên. Dạo ấy, cứ nhìn anh bộ
đội nào có bộ quần áo ấy, với độ phai màu ấy và diếc mũ mềm giặt vài lần
đã bạc phếch... thì chắc người ấy đi bộ đội đợt 6.2.71, đợt của các
trường.
Bây
giờ đã là tròn 8 tháng tuổi quân. Vẫn binh nhì! Không sao lên được thêm
một ngôi sao nữa. Trước kia ở ngoài quân đội, ông đại uý cảm thấy
thường thôi - giờ vào bộ đội mới biết, thiếu uý cũng đã hét có khói rồi.
Hôm qua, người ta đã bắt khai quân trang để chuẩn bị cấp phát đọt mới.
Và thế là “coi như” 1 năm trong quân đội. Vả lại, sắp đi chiến trường
nên phát rất nhiều thứ, nhiều đến mức độ muốn vứt cả đi.
Khi
nào được quần áo mới, bắt đầu phải thêu lên ngực áo tên và ký hiệu đơn
vị mình (Phòng khi bị ném bom mà đã ruồi!) Eo ơi, lính toàn đứa khéo
mồm, vụng tay, thêu bố nhắng lên nắp túi ngực, chữ chẳng ra chữ. Mình
nhớ Như Anh nhất là những lúc như thế - Chao ôi, sao mình chẳng hề được
sự chiều chuộng ấy nhỉ, như Hảo trong "Vùng trời"ấy: Đêm khuya lắm rồi.
Ngủ đi anh!"
Sao
không có Như Anh ở đây, để Như Anh thêu lên ngực áo nình. Không/ Như
Anh phải học chứ, phải học giỏi, và không nên bắt Như Anh làm những cái
vớ vẩn như thế được.
7-5-1972
18
năm rồi ư? Từ ngày chiến thắng Điện Biên lừng lẫy địa cầu. Những ngày
đó mình mới chỉ là đứa bé lên 2. Đã biết gì đâu. Người ta bảo rằng không
ai khi nằm trong bụng mẹ đã hỏi được hoàn cảnh xuất thân của mình.
Không thể hỏi được mình đã sinh ra trong gia đình thế nào, tư sản hay
địa chủ cường hào! Song không phải ai cũng thế. Ngay cả trong thời đại
chúng ta - Thời đại mà Đảng sẵn sàng dắt bất kỳ con người nào 1 lòng
trung thành với Đảng để đi tới hạnh phúc của cả loài người.
Từ
rất lâu rồi mình vẫn mơ hồ về gia đình của chính mình. Những người
khác, những người bạn khác của mình họ thường tự hào về hoàn cảnh xuất
thân của họ. Tự hào về các anh chị và các em, ông bác, ông chú xa xa,
gần gần của họ. Rồi còn vô vàn cái để họ tự hào nữa. Mỗi khi nhắc đến lý
lịch là người ta lại cảm thấy trào dâng lên một niềm vui, một nỗi sung
sướng pha chút gì kiêu ngạo. Có lẽ bởi vì con người họ không có chút gì
đáng tự hào nên họ phải làm như thế chăng?
Cũng
phải thôi, vì bản thân họ rất sung sướng được sống và sinh ra trong một
gia đình cách mạng, cha mẹ, ông bà họ là những người đã đổ xương máu
cho dân tộc, cho giai cấp. Và giờ đây, Đảng đặt lòng tin vào con em các
bậc tiền bối cách mạng ấy.
Chao
ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng
tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề. Có người sẽ bảo: Thì đấy, anh
được đi bộ đội đó thì sao? Chẳng lẽ anh không được Đảng tin cậy mà lại
trao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc à? Không, đừng ai nói thế! Chuyện gì cũng
có điều tế nhị của nó. Nói ra ư, không khéo thì trở thành phản cách mạng
mất. Có đi trong quân đội mới cảm thấy nỗi khổ của những người không
phải Đỏ hoàn toàn. Không ở đâu có sự liên quan mật thiết về chính trị
như trong quân đội cả. Nhiều khi mình có cảm giác bị bỏ rơi. Mình nhìn
lại các bạn trong A đường như lý lịch của ai cũng có thể đảm bảo cho bản
thân họ được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Riêng mình...
Khi
còn ở trường phổ thông, dẫu sao quan hệ chính trị cũng còn bằng lặng.
Tuổi thơ trong sáng biết chừng nào, nó chưa bị vết đen của quá khứ gia
đình đè trĩu hai vai. Người ta hoàn toàn được bình đẳng với nhau trong
mọi quan hệ. Chỉ vì hơi gợn một chút qua thái độ của cô hiệu phó cấp III
một ít. Song, còn thoải mái lắm.
Ở
trường đại học, nhất là Trường Tổng hợp, nhà trường chú ý nhiều đến
chuyên môn và ít chú ý đến chính trị mấy. Người ta lao vào học tập, vào
những cuốn sách, và cứ nghĩ rằng đó là chống Mỹ cứu nước rồi. Không
nhiều lắm những người chỉ thích đi làm cán bộ lớp, cán bộ Đoàn như kiểu
Thuỵ, Qui...
Phải,
sống ở đó, mới mơ hồ về chính trị làm sao. Người ta dù đỏ trên lý lịch
hay không, nhưng tiếng nói trước tập thể thì lúc nào cũng có thể đỏ bừng
- Ai cũng có quyền nói mà không thấy ngượng. Không thấy đụng chạm vào
một "cái gì đó" của mình. Vả lại, trong trường đại học, con em gia đình
không cơ bản không phải là ít. Đầy rẫy ra đấy. Mà phần lớn lại là những
đứa học giỏi, rất giỏi của lớp!
Còn
giờ đây thì khác nhiều rồi - Đâu ra đấy cả - Cùng là 2 người không hề
khác nhau gì về bản thân họ, nhưng lý lịch trong sạch, nhất là đỏ thực
sự, là khác nhau lắm rồi. Không ở đâu sự đấu tranh giai cấp lại diễn ra
quyết liệt như trong quân đội cả. Không khoan nhượng, không xuê xoa - Và
Đảng thực sự nắm trọn vẹn và vĩnh viễn ngọn cờ lãnh đạo quân đội.
Rất
nhiều khi đứng nhìn đoàn bộ đội đi qua, mình cũng thấy lẻ loi, lẻ loi
quá đi mất! Khuôn mặt nào cũng đẹp, mình cứ nghĩ chỉ có những người cộng
sản thực sự mới sinh ra được đoàn quân ấy. Họ đi, họ đi... và có lẽ họ
chẳng biết rằng họ đang được hưởng một gia sản quí báu mà ông cha ruột
thịt của họ mang lại.
Cứ
mỗi lần khai lý lịch, mình lại buồn, buồn tận sâu xa. Anh Thục cảm tình
Đảng từ lâu rồi mà chưa được kết nạp. Và cứ càng về sau, nói chuyện với
anh, mình lại cảm thấy anh cứ đuối dần, cứ đuối dần. Anh cứ thất vọng
dần.
8-5-1972
Thực
tình đã có dấu hiệu gì chứng tỏ mình “bị loại ra khỏi đội ngũ” đâu!
Nhưng linh tính cứ cho mình biết rằng mình không thể trở thành một đảng
viên được. Mơ hồ thấy rằng khó khăn đến với mình sẽ nhiều đây.
Không
sao hết! Miễn rằng anh sống thực sự như một đảng viên, thế đã tạm đủ
rồi. Vào Đảng để làm gì nhỉ? Khi người ta đã sống và làm việc như một
đảng viên rồi! Không nên suy nghĩ gì về chuyện ấy hết. Đảng khắc sáng
suốt và dìu dắt mình. Điều cơ bản nhất, gia đình mình là gia đình lao
động, cha mẹ mình là người lao động và hoàn toàn giác ngộ. Mình luôn
luôn tin là thế.
9/5/72
Xem bộ phim “Ở phương Tây xa xôi"
Đức
và Nga hoàn toàn có quyền tự hào về những đứa con của mình - Đại tá
Xakharốp, người Nga hạnh phúc, như thiếu tá kỹ sư xây dựng Đức Boong le
đã nói, quả xứng đáng với mềm hạnh phúc ấy - Dù ở phương Tây xa xôi,
giữa quân giặc vẫn nhớ về quê hương có đàn lươn cao cổ, có cây to 3
người ôm không xuể, và mãi ghi lu lu tội ác của giặc đã tàn phá đất nước
Nga. Không thể nào quên...
12/5/72
Mấy
ngày nay, tình hình chiến sự căng thẳng hơn nhiều Hà Nội liên tiếp bị
bắn phá. Hôm 10/5, 11/5 nghe tin địch bắn phá cầu Long Biên, Khu Ba
Đình, Khu Hoàn Kiếm - Học sinh các trường cấp 1, 2, 3 đã phải đi sơ tán -
Các trường Đại học cũng đi sơ tán một số rồi - Không nhận được thư nhà
gì cả nên không biết chút gì gọi là "riêng".
Mình
đã nghiệm thấy, hễ trong này ngớt máy bay bắn phá là ngoài ấy lại bị
bắn phá mạnh. Bởi thế, ngày mình yên tâm một chút là máy bay bay nhiều ở
trong này. Kho xăng Đức Giang lại bị cháy lần thứ 2. V. ở đấy đấy.
Không hiểu nó có làm sao không.
Địch đẩy mạnh chiến tranh ra miền Bắc - 1 1 /5 có cuộc họp kín của Nhà trắng, người ta bảo nó bàn riêng về Việt Nam.
Hôm
kia, máy bay và tàu chiến địch đến nhiều trên bờ biển Việt Nam. Nó thả
mìn phong toả bờ biển và khiêu khích tàu nước ngoài ra vào cảng Hải
Phòng. Nichxơn gửi tối hậu thư cho tàu bè nước ngoài, hẹn trong 3 ngày
phải rời khỏi cảng Hải Phòng - Nếu không sẽ phải chịu "hoàn toàn trách
nhiệm" về mọi hậu quả có thể xây ra.
Thuỷ lôi và mìn trên bờ biển là sự khiêu khích rất lớn đối với đất nước và nhân dân ta.
Đơn
vị cũng đang bước vào chiến đấu thực sự. Diễn biến tư tưởng bộ đội phức
tạp hơn so với dạo còn ở ngoài Hà Bắc. Đảo ngũ, trốn tránh trách nhiệm,
nằm ì. v.v... Đủ cả rồi. Minh cũng tự thấy dạo này trở nên bướng bỉnh
hơn- Hay cãi hơn. Vả lại, hàng ngũ cán bộ B cũng khiến mình khó mà hài
lòng hay kính phục mà tuân lệnh được. 9/5 ban đêm, C3 có vụ nổ lựu đạn -
Đến bây giờ vẫn chưa tìm ra nguyên nhân. Tuy vậy vẫn phải đề phòng.
Không hiểu có bàn tay phá hoại của địch ở đây không. Trong mấy ngày bị
ném bom đơn vị, có người đã hy sinh - Hy sinh một cách không cần thiết
chút nào. Bắt đầu phải gác 2người và 3 trạm. Không còn thoải mái và dễ
dàng như trước nữa.
Đơn
vị sắp di chuyển diễn tập. Lần này hành quân 3 ngày liền, vòng qua
Quảng Bình và đến Đèo Ngang. Bọn 117 đi quan sát tình hình về cho biết ở
đó rất đẹp - Sẽ đóng quân trong một cánh rừng chỉ cách biến có 100m.
qua một cồn cát trắng và cơn mương nước ngọt. Sững cái chết lúc nào cũng
đi bên cạnh. Máy bay ném bom, tàu chiến pháo kích - ở đó vắng và sự đi
lại hạn chế hết sức. Mình đã vứt đi gần hết sách, vở, chăn, áo rét - Chỉ
giữ lại 2 bộ quần áo dài, quần áo lót, tăng, võng màn, mấy tấm ảnh, 3
quyển sổ Gia tài chỉ còn có vậy thôi.
Có
lẽ lần này, mình sẽ lên 425 ở 628 1007. Từ đó, nhìn ra biển chắc là rất
đẹp - Chắc là sẽ thấy hết tầm rộng lớn của trùng khơi.
Mặc
dù cuộc sống chiến đấu ngổn ngang, bề bộn và căng thẳng mình vẫn không
bao giờ quên được Như Anh. Như Anh ở xa vậy, chắc không hề nghĩ rằng, có
người lại nhớ Như Anh đến thế. Nỗi nhớ bây giờ không còn là niềm rạo
rực, bồn chồn như năm trước - Mà im lìm, thấm thía - Mà là nỗi day dứt,
trăn trở. Trăn trở hoài thôi. Sao thương Như Anh đến thế. Thương cả
mình. cả mối tình vừa chớm nở…
Nhiều
lúc mình muốn gửi cái gì đó cho Như Anh – cho Như Anh hiểu và tin rằng,
mình mãi mãi thương yêu Như Anh - mãi mãi gìn giữ Như Anh yêu dấu trong
trái tim mình - Song, linh cảm đẹp đẽ ấy không chỉ dừng lại ở đấy -
Cũng như Như Anh bảo rằng: "Chẳng lẽ, chỉ có thế, chỉ có thế thôi mặc dù
rất đẹp!"
Mình
rất hiểu rằng: Phải, tình cảm ấy phải còn nhiều chuyện hơn nữa. Người
ta không chỉ sổng với nhau mơ mộng - Mà còn phải thiết thực - Và còn
nữa, nhiều nữa… Còn phải như đa sa và Têlêghin.
Nhưng,
Như Anh ơi! Không thể nào thế được! Như Anh có hiểu rằng, người yêu Như
Anh hơn hết, người yêu Như Anh đến nhức nhói cả trái tim lại chẳng bao
giờ đủ sức mà gìn giữ Như Anh ở lại vĩnh viễn với mình. Cái "sức lực
mỏng mảnh" của Như Anh chính là như thế đấy!
Càng
mong ngày gặp lại Như Anh, mình hiểu rằng, ngày càng đi đến những ngày
thất vọng thực sự của cuộc đời Thủ trưởng bảo rằng: Đừng nên nghĩ về
chuyện "hậu phương" - Đừng vội nghĩ đến đòi hỏi và hưởng thụ. Không,
mình có nghĩ đến hưởng thụ gì đâu. Chỉ vì yêu và thương người ở xa lắm
lắm, mà mình cố tìm một con đường tốt nhất cho Như Anh đi, cho Như Anh
hiểu, mình yêu Như Anh mãi, thương Như Anh mãi - Và mọi cô gái mình gặp
trên cuộc đời này chỉ càng làm mình thêm nhớ, thêm thương Như Anh mà
thôi!
Như
Anh sẽ nghĩ gì khi càng ngày càng lâu có thư của nình? Như Anh có nghi
ngờ gì lòng chung thuỷ của mình không? Nghi ngờ gì cũng được, giận dỗi
gì cũng được, miễn là Như Anh làm tốt những điều mình dặn dò, ở xa, ở
xa... phải, đấy là .hình là thử thách gay go và ác liệt nhất âm thầm,
dai dẳng nhất - Như Anh có chịu đựng nổi hay không?
Mình
không đòi hỏi gì nhiều cả - Mai sau có gặp lại Như Anh - Mình sẽ chẳng
dám đòi hỏi gì ở Như Anh cả - Ta là đôi bạn thân nhất của cuộc đời riêng
- Đôi bạn tin, quí và thương nhau nhất - Hiểu nhau nhất trong từng nẻo
khuất của lòng. Đôi bạn nhớ nhau nhiều nhất - Nhưng, vĩnh viễn nó chỉ
như thế thôi - Như Anh sẽ có một gia đình riêng nho nhỏ, với người bạn
đởi nào đấy, chắc là người đó sẽ rất tốt, người đó sẽ cao thượng và đừng
ghen tuông vì một tình bạn đẹp đẽ của mình.
Rồi
cứ đến những ngày đáng nhớ, bọn mình lại đến nhà nhau chơi - Ta cùng
giở lại quá khứ nên thơ, nên nhạc của mình, và vui sướng nhìn đến hiện
tại đẹp đẽ, mà ở hôm nay thì đô là tương lai. Mình sẽ được tặng Như Anh
những đoá hoa trắng muốt, những đoá hoa mà mình bắt đầu yêu khi biết
rằng Như Anh rất yêu hoa...
Những
ngày sống trong đời bộ đội, mình đã hiểu nhiều những tình cảm phức tạp
và đa dạng. Người ta thường khuyên nhủ mình, đừng vội tin vào một người
con gái. Nhưng mình vẫn tin - Tin một cách cuồng nhiệt và tự giác -
Không hề phải bắt buộc, không hề phải tự gò bố, tự tìm lý do mà tin.
Mình tin Như Anh không bao giờ phụ lại mình cả, khi mình suốt đời thương
nhớ Như Anh và mình cũng chỉ mong có thế thôi. Chỉ mong, cuộc đởi mình
cũng có 1 người con gái nhớ nhung bằng những tình cảm tốt đẹp nhất.
Người
ta thường muốn phân biệt giữa người đi học nước ngoài và người đi bộ
đội. Còn mình thì không muốn thế. Còn nếu như ai phân biệt thì mặc kệ họ
- Và mình cũng chẳng lấy đó làm buồn phiền.
13/5/72
Chiều nay hành quân đến Đèo Ngang - Sẽ đi qua Quảng Bình và đi trong 3 hôm.
23/5/72
Mười
ngày đã trôi qua. Mười ngày đầy rẫy gian khổ, khó khăn. Đầy rẫy mệt
nhọc và vất vả. Và chiến trường có lẽ cũng chỉ gian khổ mức độ như thế
hoặc có hơn thì chỉ hơn chút ít thôi. Đèo Ngang mình đã đến - Và quả
thực, con đèo chạy dọc như nhà thơ mình thích đã nói:
“… Nhà như lá đa đậu lưng chừng núi
Sông suối ở đâu rơi xuống chân đèo
Đèo nhằm hướng Nam, đường nhằm hướng Nam
Xe đạn cũng nhắm hướng Nam vượt dốc
Bao nhiêu người làm thơ về đèo Ngang.
Mà quên mất con đèo chạy dọc!"
Biển
đã ở ngay kia, dưới chân điểm cao nơi đơn vị mình đang chốt. Sắc biển
thay đổi hàng ngày, hàng giờ. Còn những con sóng miên man của biến thì
cứ vô hồi xô vào đất cứ xô mãi vào bờ mà chẳng bao giờ hết cả. Biến mênh
mông, mênh mông, còn đất nhỏ hẹp - Vậy mà cứ như thế mãi thôi...
Không,
mình cũng không hiểu định nói điều gì trong đấy nữa. Những ý nghĩ màu
mè, những nghĩ suy giản dị, chân thực cứ chen lấn vào nhau và mình không
sao tách bạch cho rõ ràng mà diễn tả. Tất cả cứ quyện vào nhau thành
một mớ bòng bong thành một cục to sù. Kệ, chẳng thèm viết những điều ấy
vào Nhật ký làm gì. Chuyện chiến trường - chăng có gì đáng kể đâu - Đại
loại, ta xung phong và trước giờ xuất kích bao giờ cũng lo lắng vì vắt,
muỗi, dĩn và cả con ve, con ve... hay con gì đó. Người thì gọi là ruồi
trâu - người thì gọi là con ve bò - Chà, cái anh chàng Rivaret choàng
cây thánh giá vào cổ ấy đáng sợ thật Hắn ta dùng vòi đâm qua lớp quần áo
lính đánh nhói một cái và hút máu căng ca bụng - Ai ngủ không biết là
gay, có khi gã hút máu xong, rút vòi ra không được, cứ để cả vòi trong
da thịt bệnh nhân, gây cảm giác vừa buốt, vừa ngứa. Thảo nào Vôirútsơ
lại dùng cái tên quái gở ấy cho con người chống đối ác liệt với thiên
chúa giáo.
Nói
điều gì huyên thuyên thế. Hành quân bao nhiêu đêm rồi, mắc võng bạt bao
nhiêu lần trong thẳm sâu và gai góc của rừng mà chưa hề làm bài thơ nào
về giấc ngủ quí giá trong rừng - Đáng ghét thế thì thôi.
Còn
trời thì bây giờ nhập nhoạng. Hoàng hôn đây - Nếu như ở nhà thì đang
làm gì nhỉ - Năm ngoái vào giờ này Như Anh sắp thi à, có lẽ thi xong rồi
chứ, 6 giờ tối rồi còn gì), mà mình đang còn trong trường Đại học. Sắp
dỗi nhau rồi đấy. 30/5 gặp Như Anh và thế là bông hoa quỳnh trắng trong
sắp bị ruồng rẫy đây. Khốn khổ thân mình thế thì thôi - Bây giờ biết
được những gì cần làm thì xa xôi với lắm rồi. Làm sao có thể trở lại
được những ngày như xưa nữa. Như Anh đã ra sao rồi - màu tím của gói mực
học sinh cứ làm mình nhớ đến Như Anh. Nhớ đến bài thơ nho nhỏ làm vội
vàng dọc đường hành quân qua đất Quảng Bình - đặt tên bài thơ ấy là “Màu
tím hoa mua” vậy.
“Cứ mỗi lần hành quân qua đây
Lòng tôi lại nhớ em da diết
Màu tím hoa mua chẳng phải chưa hề biết
Nhưng đến giờ tôi mới hiểu màu hoa
Chẳng giấu lòng, chẳng phải giấu lòng ta
Tôi biết cô gái nào chẳng khóc
Khi đưa tiễn người con trai thân nhất
Hoa tím chín chiều nói hộ với lòng anh.
Không dừng lại đâu giữa đất nước mông mênh.
Tôi cúi xuống với cành hoa lặng lẽ
Màu hoa tím như chưa bao giờ tím thế
Cánh mỏng cánh mềm mát ngón tay ta:
Những điều lớn lao trên đất ri ước bao la
Vẫn không quên niềm riêng nhỏ nhất
Chung thủy nhất là mối tình của đất
Mỗi màu hoa đều thấm đượm tình người.
Tôi đã đi rất xa em rồi
Chẳng dễ về thăm em trong phố nhỏ
E ấp cánh hoa mua vào trong sổ
Tím lòng mình và tím cả lòng em.
Đường tôi hành quân trong đêm
Hoa đã lẫn vào màu trời tím biếc
Có nhìn thấy hoa đâu mà tôi vẫn biết
Hoa mùa hè nhuộm tím cả trời mây.
Em ở đâu rồi. Bâng khuâng kẽ tay
Tháng 5. tháng 5 hẹn về thăm vườn nhỏ
Câu u th Ơ chép tay nôn nao ý nghĩ
Hoa tím chẳng lắm lời như những dòng thơ.
Tiếng hát ai đằng sau bâng quơ
Tôi ngoái lại chào hoa lần nữa
Rừng vắng lặng. . . mà tôi cứ ngỡ
Có đôi bạn nào mới đón đưa nhau... "
(17/5/72 – QBình)
Như
Anh ở xa, có nghe thấy mình đang thì thào đọc cho Như Anh nghe bài thơ
gồ ghề này không nhỉ. Mình sẽ làm những bài thơ về hoa. Về những cánh
hoa rừng, hoa dại mà có một màu sắc và hương vị thơ hết sức. Làm những
bài thơ về hoa tặng người yêu yêu những bông hoa... Như Anh nhé, Như Anh
đồng ý không nào?
Trời
tối quá rồi - Đêm buông - Đêm nay gác đây. Trăng này là đầu tháng, chỉ
hơi lờ mờ - ướt át ánh trăng, làm ướt cả lòng người. Như Anh ra sao rồi
nhỉ? Như Anh đã ra sao rồi. Dẫu sao mình cũng còn yên tâm về Như Anh sẽ
làm đúng và làm tốt những điều mình mong muốn ở Như Anh. Ngày mai, khi
đất nước đã hoàn toàn thống nhất Chúng mình sẽ gặp nhau, hai chúng mình
sẽ gặp nhau. Con đường vẫn đưa hương - Như Anh nhỉ - Đêm
bây giờ buồn vì vắng những đôi bạn dạo chơi trong mùi hương của chúng.
Cái
lo lắng bây giờ là lo cho gia đình - Cho những người thân yêu đang sống
giữa Thủ đô căng thẳng vì hồi còi báo động. Tối quá rồi không thế viết
hơn được nữa. Đành ghi lại một chút sự kiện trong ngày vậy. Ngày hôm nay
đã bắt đầu khai lý lịch quân nhân - Mình chẳng nhớ cái gì cả - Chẳng
nhớ điều gì hết - Để lý lịch trong ba lô mà bứt rứt trong lòng chán lắm
đây.
24/5/72
Lại.nói
tiếp ve những trang lý lịch - Người ta bắt khai tỉ mỉ hết sức - Nào là
ông, bà, cô dì, chú bác. Làm sao mà nhớ được cơ chứ - Ngay cả cái tên
mình cũng khó mà nhớ được Nữa là phải nhớ cả ngày tháng năm sinh. Nhớ cả
sinh hoạt vật chất và chính trị của các cụ ấy từ ngày mình có lẽ chưa
có một chút gì trên trái đất này, ngay cả đó là những tế bào đầu tiên
đơn sơ nhất!
Cứ
mỗi lần giở lý lịch - mình lại càng thêm khẳng định trách nhiệm nặng nề
của mình hôm nay. Hôm nay ra đi không phải chỉ là trách nhiệm của cá
nhân mình cho trọn vẹn, mà mình còn phải làm cả phần gia đình, phần ông
bà, cha mẹ.
Có
lẽ vì do nghĩ như vậy mà mình không muốn ghen tị hay đòi hỏi gì dễ dàng
về mình chăng. Phải khẳng định rằng mình đã cố gắng nhiều để trở thành
một con người tốt, theo đúng ý muốn của mình.
Tuổi
thơ ngây thơ, chưa làm gì được cho đời mà lại chỉ gây thêm phiền phức.
Nhiều lúc ngẫm lại, cứ tự trách mình, dạo còn nhỏ, hẳn có nhiều lúc mình
đã mặc chiếc áo mới đứng bàng quan ở bến tàu. Mình đứng trẻ dại ở bậc
thang có làm buồn tận cõi sâu tâm hồn của một người lớn nào đã cảm thấy
xa xôi cả một thời thơ ấu của nình?
Bây
giờ lớn rồi - Mình đã hiểu nhiều hơn, đậm đà hơn lòng người. Mình hiểu
được thế nào là lòng nhân đạo cao cả của lòng người - Người ta có thế hy
sinh tất cả - Hy sinh là hết thảy những gì của riêng mình cho người
khác. Mà sự hy sinh ấy là cần thiết, là đúng đắn, chứ không phải sự hy
sinh một cái gì gò bó. Một sự hy sinh hò hét và không cần thiết.
Lòng
tin tưởng ở con người cũng chính là một nét riêng rất độc đáo của lòng
nhân đạo - Điều này thầy Lưu đã nói rất nhiều với mình từ 3 năm trước,
từ hơn 2 năm trước - Nhưng đến giờ mình mới hiếu một cách sâu xa và đầy
đủ nhất.
Có
thế ngày mai, cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhưng
có hề chi, khi mình đã cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và
cao cả - Biết yêu và biết ghét - Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc
sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao
thượng, vươn lên trên tất cả những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn
cỗi. Phải, mình phải sống như vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm
hồn như thế - Đây là mơ ước là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách
nhiệm mình phải làm. Phải làm.
Thạc
còn buồn không? Có còn buồn bã vì những năm tháng phải xa trường đại
học, vì không được ra nước ngoài học tập - Vì các bạn Thạc, người đi
đây, người đi đó, sống êm ả, sung tức với tập giáo trình. Ngày mai, các
bạn về, các bạn có kiến thức, các bạn là kỹ sư, là các nhà bác học, còn
Thạc sẽ chỉ là một con người bình thường nhất, nếu chiến tranh không
cướp đi của Thạc một bàn chân, một bàn tay...
Cũng
không ngờ rằng dạo lớp 7, bài văn học sinh giỏi của miền Bắc lại chính
là lời tiên tri cho tâm trạng mình sau này: "Trước kia bị áp bức, bóc
lột đau khổ đã đành. Bây giờ, cái dốt nát về khoa học kỹ thuật cũng phải
xem là một điều rất đáng đau khổ!" (Lê Quẩn). Đấy, bình luận câu ấy đi.
Nếu
như giờ đây, cho mình trở lại trường cấp 2 và làm lại bài văn ấy, mình
tin rằng sẽ làm tốt bài văn đó. Vì bây giờ, mình đã thấm thía biết bao
nhiêu nỗi khổ tâm, khi bản thân mình hoàn toàn mù tịt trước mọi vấn đề
hôm qua mình hy vọng rằng sẽ nhanh chóng nắm chắc lấy nó.
Dạo
ấy, có 8 đứa thân nhau, cùng đi thi học sinh giỏi văn miền Bắc trong
đội Hà Nội. 8 đứa thì cùng phòng từ cụm, huyện, thành phố, và sau cùng,
đều thi miền Bắc. 4 đứa con trai, còn lại là con gái: Lan - Hồng - Anh -
Tấn - Bình - Lân - Hùng và tớ. Lan thì bị bom năm mình lớp 9 rồi- Vũ
Hồng và Tấn, giờ đang học ở Nga - còn Phạm Kiều Anh hình như đi nước
ngoài, ở nước ngoài, nước ngoài nào không rõ Bình và mình đi bộ đội -
Lân học Triết học ở trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp. Hùng học bên
Tiệp- Các bạn đã đi gần hết - Và bài văn thuở ấy hẳn hun đúc trong lòng
mình niềm vui, trong lòng các bạn mình say mê học tập - ù, đúng đấy, dốt
nát về khoa học là điều đau khổ vô cùng.
Hùng
ơi, thằng bạn quê Sài Gòn, hôm nào ngồi trong phòng thi, nó cúi gằm mặt
xuống bàn có đến 30 phút - Rồi ngẩng lên và tha hồ cắm cúi, cắm cúi
viết, viết hoài. Nó tưởng chừng quên hết mọi người ở xung quanh và say
mê với điều đang nghĩ ngợi. Hùng nghĩ gì nhỉ, Hùng hẳn nhớ đến ba má
đang sống giữa Sài Gòn tăm tối, dưới ách quân thù. Phải, lòng khát vô
tận ấy của những người thân yêu trên quê hương đã giục giã Hùng để nó
làm bài văn được giải duy nhất của Hà Nội trong năm ấy. Hùng đang nghĩ
ngợi điều gì nhỉ. Và các bạn kia nữa? Các bạn đang nghĩ ngợi điều gì?
Hẳn các bạn đã quên tiệt mình rồi - Quên tiệt cái thằng bạn cứ hay ngồi
lọt thỏm trong cái cống xỉ than làm hầm của người ta bỏ lăn lóc trên hè
phố... Chỉ cần các bạn đừng bao giờ quên cái đề văn năm ấy, cái đề văn
giờ đây đang trăn trở và day dứt tự đáy lòng mình.
Các
bạn đi xa, các bạn ở lại còn được học hành, hẳn sẽ học thay cả phần
mình còn bỏ dở. Mình nghĩ đến những tình bạn cao cả và đẹp đẽ của
Mác-ănggen. Mình nghĩ đến vần thơ của nhà thơ trẻ Bế Kiến Quốc - bài thơ
về tình bạn ấm cúng và tha thiết biết bao nhiêu:
“Ta thông với nhau như hai bình nước
Niềm vui từ ở bạn sẽ về tôi…”
(Tình bạn)
Mình
nghĩ đến lớp người tìm nhau trên trận tuyến - Ao ước từ bao lâu rồi,
mình ao ước từ bao lâu rồi đi trên đường Trường Sơn và gặp nhà thơ trẻ
của quân đội - Phạm Tiến Duật - gặp anh và nói chuyện với anh về cái
tổng đài nằm chênh vênh bên núi cao, về tiếng thở của rừng sâu, và cái
tiếng hát không biết màu gì mà thiêu đốt lòng người.
Mình đi tìm Phạm Tiến Quật. Còn anh, anh đi tìm Ca Lê Hiến, nhà thơ mà tập thơ đầu là "Tiếng gà gáy" báo hiệu một tài năng:
Trong những căn nhà dã chiến. Hiến ơi.
Tôi hỏi chuyện về anh và không kìm nỗi nhớ
Tình đời thiết tha có thể nào để dở
Đất vẫn nặn mồi, nặn bát những triền sông…”
(Những dòng sông chảy mãi…P.T.D)
Còn
Ca Lê Hiến, anh chẳng yên tâm ngồi trên giảng đường trường đại học, anh
không thể nghe hết tập giáo trình lịch sử - Không thể ngồi nghe tiếng
gươm khua trong những trang giấy. Anh đi tìm Giang Nam. Anh đi tìm tiếng
thơ trong trẻo và khoẻ mạnh nhất của miền Nam thuở ấy Anh đi theo tiếng
gọi của trái tim mình...
Ca
Lê Hiến giờ đã nằm xuống. Tài năng của anh đang độ phát triển và anh
chưa kịp làm những gì tuổi thơ hằng mong ước. Nhưng những dòng sông ấy,
có bao giờ cạn được Tiếng thơ của anh vẫn tiếp sức cho những người sau
đi tới.
Tôi
nghĩ đến những điều vĩnh cửu của tình bạn chân thực nhất: Không, ở lịnh
vực này nên tách rời tình yêu ra - mặc dù tình yêu cũng chính là một
tình bạn chân thực và cao quí. Phải tách ra, vì đôi khi, tình yêu còn
làm nhiệm vụ riêng của nó.
Bất
kỳ một thứ tình cảm nào, bất kỳ mối quan hệ kỳ lạ và thiêng liêng nào
nếu như không biết gắn cái riêng của mình vào sợi dây vô hình mà bền
chắc vô cùng của công việc trên đường thực hiện lý tưởng của mình, thì
tình cảm ấy không thề gọi là đẹp đẽ, không thề tồn tại lâu dài, không
thể vượt qua được những thử thách gay go và ác liệt của cuộc đời.
Lúc
này đây, mình muốn nghĩ đến Như Anh là một người bạn chân thành và đáng
tin cậy nhất. Lúc chia tay, bên hàng cây mờ ảo con đường dẫn ra ngoại ô
thành phố. Như Anh đã thận trọng bảo mình: "Tình bạn thôi, Thạc nhé!
Tình bạn thôi ư? Khi ta đi hơi xa một chút khỏi cái ranh giới ấy của
cuộc đời - Nếu như đây là đất Nga phủ đầy tuyết trắng - Ta sẽ làm Paven
và Ria, đôi bạn, đôi bạn có tình cảm trong sáng và đẹp đẽ biết chừng
nào...
Lúc
ấy, quả thực, mình không đồng ý. Mình không đồng ý vì sao cũng không
còn biết nữa. Linh cảm mơ hồ không cho phép mình gật đầu. Song giờ đây,
mình sẽ nói với Như Anh như thế - Mình sẽ nói với Như Anh rằng: "ù,anh
bạn thôi - chỉ cần tình bạn và mình chỉ muốn là người bạn theo đúng
nghĩa sát thực của nó!". Tình bạn ấy có chân thực hay không tuỳ thuộc
mức độ tin tưởng của Như Anh đổi với mình - Như Anh có nghi ngờ chút gì
về lòng chung thuỷ của mình hay không? Câu hỏi ấy, mình đã đặt ra bao
nhiêu lần, và lần nào cũng khẳng định - Không, nhất định Như Anh sẽ
không nghi ngờ gì cả. Như Anh sẽ tin rằng mình nói thật - Trong cuộc đời
này, tình yêu chỉ có the nẩy nở với Như Anh và không thể với một người
khác được Mình đã yêu Như Anh, cái tình yêu đầu tiên trong sáng nhất và
cái tình yêu duy nhất trong cả cuộc đời mình - Cái tình yêu thanh bạch -
không hề có gì bụi bặm của đòi hỏi hưởng thụ nhục dục - Như Anh còn
mong mỏi điều gì hơn thể nữa?
Chúng
ta sẽ là bạn. Chúng ta sẽ là bạn của nhau mãi. Và như vậy, tha hồ gặp
nhau, tha hồ trò chuyện – Không còn sợ có gì ngăn cản dúng ta cả. Nhất
là mình không muốn để một nỗi khổ dai dẳng và đau xót cho một người bạn
nào trên trái đất này.
Con
người có sức chịu đựng kỳ lạ vô cùng - Mình tin tưởng ở sức chịu đựng
ấy có thể giúp cho mình vượt qua mọi cám dỗ, mọi đòi hỏi nhỏ bé và mốc
thếch. Tuổi thơ lang thang trong tâm hồn, thì giờ đây, lang thang bằng
đôi chân cầu thủ, mình đã cố gắng hết sức để tâm hồn mình trong sáng và
đập nhịp với cuộc sống hào hùng, biến động Mình muốn mọi niềm vui, mọi
nỗi lo lắng của mình đều là niềm vui và nỗi lo lắng của cả dân tộc, của
thời đại mình đang sống.
Ch.
hay nói mình, nó bảo mình nghĩ mọi điều đều đơn giản và thẳng băng. Nó
bảo mình quá ư nhìn đời bằng một màu hồng – Nó bảo mình lý thuyết và
nhất định vấp phải gai góc của cả cuộc đời. Với nó, nghi ngờ hết thảy!
Nó nghi ngờ những người con gái đang đi học xa Tổ quốc. Rằng họ không hề
có được sự chịu đựng cần thiết mà bạn bè mong muốn. Ch. bảo, đấy là sự
thật, và theo nó, người ta nên có cách nhìn nhận riêng và không nên rập
khuôn máy móc.
Mình
nghĩ rằng, đến một tuổi nào đó, cả tuổi trẻ ngông cuồng và lắm ý kiến
mới lạ, cứ thích tìm cho mình một quan niệm nào đấy mâu thuẫn in ít hay
đôi khi đối lập hẳn với quan niệm chính thống của thời đại và cơi như
mình đã tìm ra điều gì đáng quí lắm - Như một phát minh lớn. Họ kiêu
ngạo nhìn những người khác đang theo đuổi khái niệm sách vở - Và tự bảo,
chỉ có họ mới nghĩ được điều ấy mà thôi. Còn những người khác là sách
vở, rập khuôn, là không có tính độc đáo, là tô hồng, v.v...
*
* *
Và
bây giờ, tạm biệt cuốn Nhật ký đầu tiên của đời lính Không kịp xem lại
được một lần. Không kịp chữa những âm bằng âm trắc trong cấu trúc một
câu văn vội vàng và bụi bặm. Chuyện đời" mà thực ra, chẳng có chuyện gì.
Một mớ tùm hum, xám xịt như căn bếp bỏ hoang.
Ngày
mai, ngày kia... Phải để lại tất cả ở đằng sau. Tôi không thể để cho ai
đọc những đòng suy nghĩ này. Trừ khitôi không còn sống mà gìn giữ nữa.
“Chuyện
đời thì chưa viết hết vài chục trang giấy - Còn "Chuyện biển” thì chỉ
được vài trang thơ - Nhật ký! Chao ôi, chuyện phiếm!
Kẻ
thù không cho tôi ở lại - Phải đi - Tôi sẽ gửi về cuốn Nhật ký này, khi
nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã
trải qua từ khi xa nó, xa cuốn Nhật ký thân yêu của đời lính.
Ừ,
nếu như tôi không trở lại - Ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau
này? Tôi chỉ ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ
toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng đề trống trải và bí ẩn như
những trang giấy này.
Một ngày cuối tháng 5/72
Hà Tĩnh
Anh lính binh nhì
Kính chào Hậu phương - Chào gia đình, và người tôi yêu. Đêm nay tôi đi - Nhất định có ngày trở về Thủ đô yêu quí của lòng tôi.
3/6/1972
Ngã ba đồng lộc
Hết
Cảm động lắm câu chuyện về anh Thạc. Chị cũng có một người bạn ra trận cuối năm 1971, anh ấy cũng viết thư cho chị trên từng chặng đường hành quân, cũng từ Hà bắc đi Nam, qua ga HN ném thư xuống, và chị đã nhận được bức thư đó do 1 người đạp xích lô đưa tới nhà...Mọi chuyện của anh Thạc đều rất giống của người bạn chị, thương lắm. Đúng là nhớ lại những năm tháng đó, thấy cả một thời hào hùng của đất nước, một thế hệ các người lính trẻ quả cảm và anh hùng. Giá như chị còn giữ được các thư của anh ấy ...
Trả lờiXóa