DƯƠNG VĂN VƯỢNG
dịch
PHÒNG ĐỊA CHÍ – THƯ MỤC THƯ VIỆN TỈNH NAM ĐỊNH
chỉnh lý, chế bản
TÂN BIÊN NAM ĐỊNH TỈNH ĐỊA DƯ CHÍ LƯỢC
LỜI NÓI ĐẦU
Tân biên
Nam Định tỉnh địa dư chí lược của Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh
Thân (1880) Khiếu Năng Tĩnh quê xã
Chân Mỹ (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường), huyện Ý Yên, Nam Định là một cuốn
sách có nhiều tư liệu quý.
Sau khi
đỗ Đại khoa, Khiếu Năng Tĩnh được bổ làm Đốc học Nam Định, rồi Đốc học Hà Nội,
sau thăng Quốc Tử giám Tế tửu. Lúc về trí sĩ tại quê, ông mở trường dạy chữ cho
người nghèo.
Khiếu
Năng Tĩnh là một nhà Nho uyên thâm đã có công phát hiện nhân tài cho đất nước.
Chính ông đã dâng sớ trình vua Thành Thái huỷ án “Hoài hiệp văn tự” cho Phan
Bội Châu, sau đó lại lấy Phan Bội Châu đỗ đầu thi hương.
Nhà Nho
Khiếu Năng Tĩnh còn để lại nhiều tác phẩm. Do thời cuộc, mà phần lớn những
trước tác của ông chưa được in khắc như Cố hương vịnh tập, Cổ thụ cách vịnh,
Hoài lai thi tập, Đại An bản mạt khảo, Đại An huyện chí, Hà Nội tỉnh chí, Quốc
đô cổ kim chí… Với Nam Định, Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược là một tài
liệu vô giá trong kho tàng văn hoá của tỉnh nhà.
Thư viện
tỉnh giới thiệu với bạn đọc Tân biên nam Định tỉnh địa dư chí lược do nhà
nghiên cứu Hán - Nôm Dương Văn Vượng dịch nhằm phục vụ rộng rãi nhu cầu nghiên
cứu và học tập của đông đảo bạn đọc. Trong quyển sách này, những chú thích
trong hai dấu ( ) là của tác giả Khiếu Năng Tĩnh, còn trong hai dấu [ ] là do
Thư viện tỉnh chú giải trong khi sưu tầm, chỉnh lý. Chúng tôi đã cố gắng, nhưng
không tránh được hết những sơ xuất, rất mong được sự chỉ giáo và lượng thứ.
Trần trọng giới thiệu.
PHÒNG ĐỊA CHÍ – THƯ MỤC THƯ VIỆN TỈNH NAM ĐỊNH
Tập thượng
TỰA
Về địa
dư nước Nam ta thì thời Lê chép rõ hơn. Quãng năm Thiệu Bình Nguyễn Trãi viết
13 đạo. Sơn Nam là 1 trong 4 kinh trấn và là lộ đầu của xứ Nam. Đến triều ta
niên hiệu Gia Long soạn Nhất thống địa dư chí, nói về Sơn Nam cũng khá tường
tất, so với Hiến chương loại chí của họ Phan thì tương tự. Tôi là chức nhiệm
Học thần nên căn cứ vào các vựng tuyển cộng với sự đi các nơi tham cứu viết
thành tập, chia ra các môn loại để dễ xem xét. Tất nhiên, sai sót không tránh
được, nhưng dù sao cũng có ích cho sự học vấn, cho sự cai trị mà ông Khiếu đã
có công soạn thảo trước đây.
Vậy viết
đôi lời phụ ở đầu sách.
Ngày 11
tháng 9 niên hiệu Duy Tân năm thứ 9 (1915).
Đốc học
Nam Định Ngô Giáp Đậu viết lời tựa và bổ sung. (Ngô Giáp Đậu hiệu Tam Thanh,
người Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Năm Thành Thái thứ 3(1891)
đỗ Cử nhân, làm quan đến Đốc học). (1)
Sách này
do Tiến sĩ Tam giáp Khiếu Năng Tĩnh biên soạn ( Ông người xã Chân Mỹ, huyện Đại
An, đỗ Tiến sĩ năm Tự Đức thứ 32 (1879), làm quan Quốc Tử giám Tế tửu ).
Hộ bộ
Thượng thư Phạm Văn Thụ viết và sửa lại (Người ở Bạch Sam, Mĩ Hào, Hưng
Yên )
…………………………
(1) Sách
này do Khiếu Tam Đồng, con thứ 3 của Khiếu Năng Tĩnh chép. Ông chính tên là Lữ,
đỗ Cử nhân, làm quan Tri phủ. Theo ông Khiếu Văn Xu, người coi từ đường họ
Khiếu thì tập này có sự tham gia của ông Cử ứng, con thứ 4 của Khiếu Năng Tĩnh.
DIÊN
CÁCH
Thời
Hùng Vương, nước Nam chia làm 15 bộ ( Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc,
Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân,
Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm, Tượng Quận ) thì đất Nam Định thuộc bộ Giao Chỉ,
thời Trần đặt lộ Thiên Trường.
Thời
Trần có: Đại La thành, Bắc Giang, Nam Sách giang, Khoái, Hồng, Như Nguyệt
giang, Qui Hoá giang, Lạng Châu, Đại Hoàng, phủ lộ Thanh Hoá, phủ lộ Diễn Châu,
phủ lộ Nghệ An, phủ lộ Bố chính (theo sách An Nam chí lược). Thiên Trường, Long
Hưng, An Khang, An Tiêm, Bắc Giang, Tam Giang, Quốc Oai, Tam Đái, Lạng Giang,
Sơn Nam, Khoái, Hồng, Diễn, Trường Yên, Đà Giang (theo sách Việt sử lược).
Thời Lê
Hồng Đức đổi làm Thừa tuyên Sơn Nam, đến cuối thời Lê năm Cảnh Hưng 2 (1741)
gọi là Sơn Nam Hạ lộ, thời Tây Sơn đổi làm trấn, sang đến triều ta vẫn thế.
Trấn gồm 5 phủ, 19 huyện :
Phủ
Thiên Trường có 4 huyện : Giao Thuỷ, Thượng Nguyên, Nam Trực, Mỹ Lộc.
Phủ
Nghĩa Hưng có 4 huyện : Đại An, Phong Doanh, Ý Yên, Vụ Bản.
Phủ Kiến
Xương có 3 huyện : Chân Định, Vũ Tiên, Thư Trì.
Phủ Thái
Bình có 4 huyện : Đông Quan, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thụy Anh. Phủ
Tiên
Hưng có 4 huyện : Thần Khê, Diên Hà, Hưng Nhân, Thanh Quan.
Năm Minh
Mệnh thứ 3 (1822) đổi làm trấn Nam Định, quản thêm hạt Hưng Yên. Năm thứ 9
(1828) quan Dinh điền Nguyễn Công Trứ xin lập thêm huyện Tiền Hải thuộc phủ
Kiến Xương. Năm thứ 13 (1832) đổi trấn làm tỉnh, lấy 3 huyện của phủ Tiên Hưng
là Thần Khê, Diên Hà, Hưng Nhân lệ vào hạt Hưng Yên, Thanh Quan thì lệ vào phủ
Kiến Xương. Năm thứ 14 (1833) lấy 6 tổng từ sông Phù Kim về phía nam của huyện
Nam Trực đặt huyện Chân Ninh thuộc phủ Thiên Trường. Tự Đức năm thứ 4(1851) lấy
2 huyện Phong Doanh, Ý Yên đổi lệ vào hạt Ninh Bình. Năm thứ 31 (1878) hợp
Phong Doanh, Ý Yên vào làm huyện Ý Yên. Năm thứ 32 (1879) lấy Nam Trực thuộc
phủ Nghĩa Hưng. Đồng Khánh năm thứ 2(1887) lại lấy lại tên huyện Phong Doanh, Ý
Yên cho lệ vào phủ Nghĩa Hưng. Năm thứ 3 (1888) lấy tổng Tân Khai, nửa tổng
Kiên Lao của huyện Giao Thuỷ và tổng Quần Phương, Ninh Nhất của huyện Trực Ninh
đặt làm huyện Hải Hậu. Thành Thái năm thứ 2 (1890) lấy 7 huyện của 2 phủ Kiến
Xương, Thái Bình và 2 huyện của phủ Tiên Hưng đặt thành tỉnh Thái Bình (1) [Có
bản chép Thành Thái thứ 6 (1894)]. (Vũ Tiên, Thư Trì, Tiền Hải của phủ Kiến
Xương ; Đông Quan, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thụy Anh của phủ Thái Bình ; Hưng Nhân,
Diên Hà của phủ Tiên Hưng). Còn Nam Định có 2 phủ, 9 huyện : Phủ Nghĩa Hưng
kiêm lí huyện Đại An gồm Vụ Bản, Nam Trực, Ý Yên, Phong Doanh ; Phủ Xuân Trường
kiêm lí huyện Giao Thuỷ gồm Hải Hậu, Trực Ninh, Thượng Nguyên, Mỹ Lộc.
PHỦ NGHĨA HƯNG
Nghĩa
Hưng xưa có tên là Ứng Phong, kiêm lí huyện Đại An. Phía bắc giáp huyện Vụ Bản,
tây giáp huyện Phong Doanh, đông giáp Nam Trực, Trực Ninh, nam giáp Yên Khánh,
Kim Sơn và biển. Phủ lị ban đầu đóng ở Đông Ba (tức xã La Ngạn sau này, nay là
thôn La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện ý Yên, nơi có ngôi chùa thờ vợ chồng Lê Phụ
Trần), sau dời ra Trọng Vĩnh rồi xuống Phù Sa. Thời Tự Đức (1848 – 1883) kiêm
lí cả Vụ Bản, sau dần trả lại, bèn dời về đóng ở địa phận hai xã Đông Cao, Phạm
Xá. Gồm có 11 tổng. Năm Tự Đức thứ 10 (1857) quan Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn
Nghị xin lấy nửa tổng phía nam tổng Hải Lạng và nửa tổng phía đông tổng Cát Chử
huyện Trực Ninh, gồm 9 xã thành lập tổng Sỹ Lâm, gần đây phía nam tổng sa bồi
thêm rộng, các nơi tụ về ở lại khẩn hoang, bèn đặt thêm 11 xã. Hiện nay tổng
gồm 20 xã. Tổng Thượng Kỳ đặt thêm xã Cốc Thành, tổng Hải Lạng đặt thêm ba xã
Liêu Ngạn, Nhân Hậu nội đồng, Nhân Hậu ngoại đồng. Hiện nay có 12 tổng.
Vụ Bản
xưa có tên là Thiên Bản, thời Tự Đức đổi là Vụ Bản. phía bắc giáp huyện Bình
Lục, phía tây giáp Ý Yên, Phong Doanh, phía nam giáp Đại An, Nam Trực, phía
đông giáp Mỹ Lộc. Huyện lị vốn ở hai xã Mỹ Côi, Côi Sơn, khoảng năm Minh Mệnh
dời về đất hai xã Thái La, Châu Bạc, đắp thành đất, đời Tự Đức đổi làm phủ lị
Nghĩa Hưng, sau cho Nghĩa Hưng kiêm lí Đại An, huyện lị thì dời về đất Thái La,
đến niên hiệu Đồng Khánh thì trở lại nguyên trạng. Huyện có 10 tổng, năm Thành
Thái thứ 2 (1890) lấy 6 xã của tổng Vụ Bản nhập vào huyện Bình Lục, còn Thái La,
Nhân Nhuế, Hàn Thôn, Khánh Thôn, trang Đồng Văn đặt tổng La Xá. Lại lấy Đồng Kỹ
(Kĩa), Thi Liệu, Cố Bản, Sa Trung, Nguyệt Mại của Nam Trực và thôn Quả Linh,
Thượng thôn, An Nhân của tổng Trình Xuyên thượng đặt tổng Trình Xuyên hạ. Hiện
nay có 11 tổng.
Huyện
Nam Trực xưa gọi là Tây Chân thuộc phủ Thiên Trường, sau vì tránh hiệu của Tây
Định vương nhà Trịnh bèn đổi ra tên Nam Chân. Thành Thái năm thứ 2 (1890) đổi
làm Nam Trực. Huyện này phía bắc giáp huyện Mỹ Lộc, phía đông giáp Vũ Tiên của
tỉnh Thái Bình, phía tây giáp Vụ Bản, Đại An, nam giáp Trực Ninh. Huyện lị vốn
đóng ở xã Cổ Chử, thời Gia Long dời về xã Bách Tính, vốn có 12 tổng. Năm Minh
Mệnh lấy 6 tổng phía nam sông Phù Kim đặt huyện Trực Ninh, năm Tự Đức 32 (1879)
đổi thuộc Nghĩa Hưng. Thành Thái năm thứ 5 (1893) chia phía phải sông Hoàng có
5 xã thuộc tổng Thi Liệu đặt tổng Trình Xuyên hạ lệ vào huyện Vụ Bản, lại lấy
hai tổng Đỗ Xá, Nghĩa Xá lệ vào huyện Nam Trực, lại chia 7 xã của tổng Cổ Nông
lập thành tổng Liên Tỉnh. Trích 2 xã Quy Phú, Tương Nam của Giao Thuỷ lệ vào
tổng Cổ Nông, thôn Thượng xã Hưng Đễ lập xã Nghĩa Hưng, lấy Đồng Quỹ của tổng
Bái Dương đặt làm Nho Lâm, Ngoại Đê lập làm Phú Thọ, Lạc Chính hạ thôn đặt làm
Lạc Thiện. Hiện nay có tất cả 9 tổng.
Huyện Ý
Yên: Vốn là phân phủ Nghĩa Hưng thuộc đất Nam Định (Nam Định tứ cùng: Phong
Doanh, Ý Yên, Quỳnh Côi, Phụ Dực). Tự Đức năm thứ 28 (1875) đổi lệ vào phủ Yên
Khánh tỉnh Ninh Bình. Năm Thành Thái thứ 2 lại trở về với Nam Định mà vẫn đặt
phân phủ. Duy Tân năm thứ 7 (1913) đổi làm huyện, phía bắc giáp Bình Lục, Thanh
Liêm của Hà Nam, phía đông giáp huyện Vụ Bản, nam giáp huyện Phong Doanh, phía
tây giáp sông Hát (sông Đáy) huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Huyện lị vốn đóng ở
thôn Thượng xã Lạc Chính, Tự Đức năm 35 (1882) dời về xã Vạn Điểm, thành chung
với Phong Doanh. Năm Đồng Khánh thứ 3 (1888) dời về thôn Nguyên Bố xã Lạc
Chính. Thành Thái thứ 3 (1891) bèn dời về địa phận thôn Phù Kiều xã Quang Điểm.
Trước có các tổng : Phú Khê, Tử Mặc, Bình Lương, Lạc Chính, An Cừ, Phùng Xá.
Quãng năm Thành Thái lấy Hoàng Đan, Lỗ Xá, Đa Phú, Phú Nội, Vọng Doanh, Sở
Thượng, Từ Liêm hậu thôn của huyện Phong Doanh đặt tổng Hưng Xá. Hiện nay có 7
tổng.
Huyện
Phong Doanh : Thời Trần gọi là huyện Kim Xuyên, thời Lê đổi làm Vọng Doanh.
Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi làm huyện Phong Doanh. Huyện này phía bắc giáp huyện
Vụ Bản, phía tây giáp huyện Ý Yên, phía đông giáp huyện Đại An, phía nam giáp
sông Gia Khánh tỉnh Ninh Bình. Huyện lị vốn đóng ở đất Ngô Xá (Ngò). Tự Đức năm
thứ 31 (1878) hợp vào với Ý Yên bèn dời lị sở về 2 xã Tống Xá,
Vạn
Điểm, lệ vào tỉnh Ninh Bình. Đồng Khánh năm thứ 3 lại lập lại huyện cũ và
chuyển về đất Thượng Đồng mà thuộc vào tỉnh Nam Định. Vốn có 7 tổng, quãng năm
Thành Thái lấy 4 xã của Hưng Xá và thôn Hậu Từ Liêm tổng Vũ Xá, thôn Sở Thượng
tổng Thượng Đồng lệ vào huyện Ý Yên. Vốn 2 xã An Bái, Hưng Thượng của tổng Hưng
Xá, 3 xã An Lộc, Hoàng Nê, Hoằng Nghị tổng Ngô Xá, xã Đằng Động tổng Thượng
Đồng đặt tổng An Lộc, lấy các xã Cao Bồ, Vọng Doanh, Sở Trung nhập đền vào tổng
Ngô Xá. Hiện nay gồm có 7 tổng.
PHỦ XUÂN TRƯỜNG
Phủ này
xưa có hiệu là Thiên Trường, thời thuộc Minh đổi làm phủ Phụng Hoá, đời Lê lấy
lại tên cũ, đến Tự Đức đổi ra là Xuân Trường. Phủ này kiêm lí huyện Giao Thuỷ.
Phía bắc giáp Vũ Tiên của tỉnh Thái Bình, phía đông giáp huyện Tiền Hải, tây
giáp huyện Trực Ninh, nam giáp bờ biển Hải Hậu. Lị sở vốn ở xã Kênh Đào, năm
Minh Mệnh dời ra xã Tương Đông, năm Thành Thái thứ 4 (1892) lại dời đến Ngọc
Cục. Cũ có 12 tổng, năm Đồng Khánh 3 (1888) tách một tổng Tân Khai, nửa tổng
Kiên Lao đặt huyện Hải Hậu, lại lấy An Tứ thượng, An Tứ hạ, Thục Thiện, Doãn
Trung, Đông Thành, Đông Hào, Lộc Trung của tổng Hà Cát phụ vào huyện Tiền Hải ;
La Xuyên, Hành Hà, Dũng Nghĩa, Kênh Đào, Chi Phong, Phan Xá, Quy Phú, Tương
Đông của tổng Hành Thiện ; Nghĩa Xá, Bồng Tiên, Bồng Lai trại của tổng Nghĩa Xá
phụ vào huyện Vũ Tiên. Lại lấy xã Đại An của huyện Vũ Tiên đền vào tổng Nghĩa
xá ; Hạc Châu, Sa Cao, Hạc Lương, Thuận An phụ vào tổng Hành Thiện. Thành Thái
năm thứ 5 (1893) lấy cả tổng Đỗ Xá và 5 xã Nghĩa Xá phụ vào huyện Nam Chân, còn
trại Nghĩa Xá của xã Nghĩa xá thì phụ vào tổng Kiên Lao. Lại lấy xã Thanh Hương
của huyện Mỹ Lộc, phương Giáo Phòng của tổng Đỗ Xá phụ vào tổng Hà Cát. Hiện
nay có 9 tổng.
Huyện Mỹ
Lộc : là nơi có tỉnh lị, phía bắc giáp Nam Xương của tỉnh Hà Nam, phía đông
giáp Thư Trì của tỉnh Thái Bình, phía tây giáp Vụ Bản và Bình Lục của Hà Nam,
phía nam giáp Nam Trực. Lị sở vốn ở xã Hữu Bị, địa phận có 8 tổng: Tảo Môn,
Ngọc Lũ, Như Thức, Đệ Nhất, Đông Mặc, Mỹ Trọng, Ngũ Trang, Hữu Bị.
Huyện Thượng
Nguyên: xưa gọi là huyện Thượng Hiền, vốn có lị sở ở Đặng Xá, gồm các tổng Cổ
Viễn, Cao Đài, Đồng Phù, Bách Tính, Giang Tả. Năm Tự Đức 4 (1851) cho huyện Mỹ
Lộc kiêm nhiếp huyện Thượng Nguyên mới dời lị sở về xã Đông Mặc, còn tổng Tảo
Môn ở phía tả Hoàng giang thì phụ vào huyện Nam Xương, tổng Ngọc Lũ, tổng Cổ
Viễn ở phía tả sông Chân Ninh thì cho phụ vào huyện Bình Lục, xã Hà Dương của
tổng Bách Tính thì phụ vào huyện Nam Trực, hai xã Thuận Vi, Bách Tính ở phía tả
sông Hồng thì phụ vào huyện Thư Trì. Hiện nay có tất cả 7 tổng.
Huyện
Trực Ninh: Thời Lê sơ ở huyện Tây Chân, Lê Trung Hưng đổi ra Nam Chân. Năm Minh
Mệnh 14 (1833) tỉnh quan dâng sớ xin lấy 6 tổng phía nam sông Phù Kim và tổng
mới đặt Ninh Mỹ lập huyện Chân Ninh. Thời Thành Thái kị húy tên Đông Khánh bèn
đổi ra Trực Ninh. Lị sở đặt ở địa phận xã Cát Chử. Huyện này phía bắc giáp sông
Hồng địa phận huyện Vũ Tiên, nam giáp Hải Hậu, đông giáp Giao Thuỷ, tây giáp
Đại An, tây bắc giáp Nam Trực. Đồng Khánh năm thứ 3 (1888) lấy xã Ninh Cường,
trại Lác Môn, làng Tân Lác, phường Lác Môn thuỷ cơ của Quần Phương lập tổng
Ninh Cường. Vốn 3 xã Quần Phương thượng, Quần Phương trung, Quần Phương hạ và
xã Phương Đê vẫn thuộc tổng Quần Anh và tổng Ninh Nhất đổi vào huyện Hải Hậu.
Đến Thành Thái 1 (1889) chia xã Cát Chử lấy Cát Thượng, Cát Trung, Cát Hạ, thôn
Ngoại và Duy Mỹ, Dung Hoà, phường thuỷ cơ Trung Hoà đặt tổng Ngọc Giả hạ. Thành
Thái 13 (1901) chia xã Ngọc Giả làm hai gọi là Ngọc Giả và Ngọc Giả đông. Năm
Duy Tân 1 (1907) chia Văn Lãng làm hai là Văn Lãng và Phú An. Hiện nay có 7
tổng.
Huyện
Hải Hậu : có từ năm Đồng Khánh 3(1888) lấy phía đông huyện Trực Ninh hai tổng
Quần Phương, Ninh Nhất, phía nam Giao Thuỷ có Hội Khê, Lạc Nam, Hà Lạn, Kiên
Trung, Trà Trung, Trà Hạ, Hà Quang 7 xã lập tổng Kiên Trung và tổng Tân Khai lệ
vào huyện. Ban đầu có 4 tổng, lị sở đóng ở thôn Đông Cường thuộc xã Quần Phương
hạ. Huyện này phía bắc giáp Trực Ninh, Giao Thuỷ, phía tây giáp Nghĩa Hưng,
tổng Sỹ Lâm lấy Lác giang làm cõi, đông giáp xã Quất Lâm huyện Giao Thuỷ địa giới
ở chỗ cửa biển sông Hà Lạn, nam giáp biển. Thành Thái 2(1890) lấy xã Quần
Phương của tổng Ninh Nhất và tân trưng 9 xóm của Quần Phương lập tổng Ninh Mỹ.
Lại lấy 6 xã ấp tân trưng của tổng Kiên Trung thành lập tổng Quê Hải. Hiện nay
có 6 tổng (huyện Hải Hậu thành lập ngày 27 – 12 – 1888. Tên 6 tổng xem ở phần
dưới).
CƯƠNG VỰC
Nam Định
có 9 phủ huyện. Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên, Phong Doanh và 7 tổng phía tây Nghĩa
Hưng ở phía tây bắc Vị Hoàng, thế đất hơi cao. Nam Trực, Trực Ninh, Hải Hậu,
Xuân Trường và 4 tổng phía đông Nghĩa Hưng ở phía đông nam Vị Hoàng, thế đất
hơi thấp hơn. Cả hạt trừ đồi núi, sông ngòi, tha ma… số ruộng gồm có 394.122
mẫu gồm 1.418.839.200 thước vuông tây. Phía đông giáp Vũ Tiên, Thư Trì của tỉnh
Thái Bình lấy sông Hồng làm ranh giới, phía tây giáp Gia Viễn, Yên Khánh của
tỉnh Ninh Bình lấy sông Hát làm ranh giới, phía bắc giáp huyện Bình Lục của
tỉnh Hà Nam, phía tây bắc giáp Thanh Liêm của Hà Nam, đông bắc giáp Nam Xương
của Hà Nam, nam giáp biển, đông nam giáp huyện Tiền Hải của Thái Bình, tây nam
giáp Yên Khánh của tỉnh Ninh Bình cách sông Hát.
Thành
phố ở miền thượng của tỉnh nằm trên các xã Vị Xuyên, Năng Tĩnh của huyện Mỹ
Lộc. Năm Gia Long 3 (1804) đắp thành đất, đến năm Minh Mệnh 14(1833) thì xây
bằng gạch dài 830 trượng 7 thước nam, cao 1 trượng 2 thước nam, ngoài thành có
hào rộng hơn 6 thước nam, bốn phía có cầu, thành mở ra 5 cửa, nam có 2 cửa,
đông tây bắc đều 1 cửa. Trong thành xây kỳ đài doanh trại của quan quân, kho
lương và hành cung. Lưng thành đều là đất bằng, tây giáp sông Vị Hoàng, phía
đông bên trái phố nhà rải rác gọi là 7 phố Vị Hoàng, phía tây bên phải có dân
cư và có trường thi, góc tây nam thành bờ sông Vị Hoàng thuộc địa phận Năng
Tĩnh có đồn thuỷ quân. Năm Tự Đức 36 (1883) bạt thành lấp hào, phía tây nam xây
dựng các sảnh đường. Dân cư ngoài thành, đến quãng niên hiệu Thành Thái (1889 –
1907) lấy đất các xẫ Vị Xuyên, Đông Mặc, Năng Tĩnh chia làm 10 hộ phố là : Định
Tả, Định Hữu, Định Tiền, Định Hậu, Định Trung, Định Tân, Nam An, Nam Mỹ, Nam
Xuyên, Nam Long.
Đất của thành
phố là 4.000 thước tây, ruộng 1.400 thước tây, quy lại là 5.600.000 thước tây
vuông, trên từ Phụ Long dưới đến đồn thuỷ.
Danh
sách các tổng xã : Nam Định hiện quản 9 huyện 78 tổng, 702 xã, thôn, lí ấp,
phường giáp, trang trại. Ruộng vụ hè có 211.774 mẫu, vụ thu có 204.289 mẫu.
Phủ
Nghĩa Hưng : có 12 tổng, 108 xã thôn. Gồm :
-Tổng
Trạng Vĩnh có 6 xã thôn : Trạng Vĩnh, Gia Trạng, Thức Vụ (xưa gọi là Thời Vụ),
Đông Cao Thượng, Đông Cao Hạ.(Thiếu một xã ?)
-Tổng
Thanh Khê có 7 xã thôn : Thanh Khê, Phạm Xá (vốn gọi là xã Hoàng Xá, có đền thờ
Phạm Đạo Phú, Phạm Bảo. Hai ông này quê gốc ở xã Đông Ba (La Ngạn) cùng huyện
nay có đền thờ ở xóm Đông La Ngạn), Dương Phạm, Thụ ích, Độc Bộ, An Lại thượng,
An Lại Thần Xá.
-Tổng Vỉ
Nhuế có 3 xã : Vỉ Nhuế (có người phiên là Quy Nhuế, nhưng do địa phương vẫn gọi
là Vỉ Nhuế nên ở đây cũng phiên là Vỉ Nhuế), La Ngạn, Cốc Dương.
-Tổng
Ngọc Chấn có 6 xã : Ngọc Chấn, Vĩnh Trị, Tướng Loát, Hạc Bổng, Thôi Ngôi lương,
Thôi Ngôi giáo.
-Tổng Tử
Vinh có 7 xã : Tử Vinh, Trực Mỹ, Duyên Mỹ, Mậu Lực, Tống Xá, Lương Xá Thượng,
Lương Xá Hạ.
-Tổng
Thân Thượng có 6 xã : Thân Thượng, Nhân Trạch, Phù Đô, Nhân Lí, Đông Tĩnh, Đông
Mẫu.
-Tổng Cổ
Liêu có 5 xã : Cổ Liêu, Phúc Chỉ, Đồng Bạn, Quảng Cư, Thụyỵ
Quang.
-Tổng An
Trung thượng có 5 xã : An Trung, An Hạ, Hùng Tâm, Dương Hồi, Tam Đăng.
-Tổng An
Trung hạ có 5 xã : Đào Khê, Trường Khê, Tân Liêu, Liêu hải, Đào
Lạng.
-Tổng
Hải Lạng có 22 xã : Hải Lạng thượng, Hải Lạng trang, Đắc Thắng thượng, Đắc
Thắng hạ, Chương Nghĩa đoài giáo, Chương Nghĩa đoài lương, Chương Nghĩa đông,
Nhân Hậu nội, Nhân Hậu ngoại, Hà Dương đông thượng, Hà Dương đông hải, Cát
Điền, Hưng Thịnh, Phù Sa thượng, Phù Sa hạ, Lí Nghĩa đông, Lí Nghĩa đoài, Hà
Dương đoài, Hưng Lộc, Hưng Nghĩa, Quần Liêu, Liêu Ngạn.
-Tổng Sĩ
Lâm có 23 xã : Sĩ Lâm đông, Sĩ Lâm nam, Văn Lâm, Văn Giáo, Giáo Dục, Giáo Lạc,
Giáo Phòng, Ân Phú, Thư Điền, Đồng Quỹ, Quỹ Nhất, Thuận Hậu, Đài Môn, Quần Lạc,
Lạc Đạo, Thành An, An Lạc, Bình Đắc, Sĩ Hội, Chính Thiện, Tây Thành, Thiên
Bình, Quần Phương.
Tổng
Thượng Kỳ có 13 xã : Thượng Kỳ, Hạ Kỳ tiền, Hạ Kỳ hậu, Hạ Kỳ Hải tiền, Hạ Kỳ
Hải hậu, Cốc Thành, Bình A, Lộng Điền, Trang Túc, Đông Lĩnh, Đông Ba thượng,
Đông Ba hạ, An Thịnh.
Huyện Vụ
Bản : có 11 tổng, 97 xã thôn trang trại phường.
-Tổng La
Xá có 5 xã : La Xá, Nhân Nhuế, Hàn Thôn, Khánh Thôn, trang Đồng Văn.
-Tổng
Hiển Khánh có 11 xã : Hiển Khánh, Lập Thành, Tiên Chưởng, Nội Chế, Lập Vũ, Lại
Xá, An Thứ, Vụ Nữ, thôn Việt, thôn Thám, thôn Bùi.
-Tổng
Phú Lão có 20 xã : Phú Lão, Phú Cốc, Đại Lão, thôn Kênh Đào, trại Kênh Đào,
thôn Hạ Xá, thôn Bàn Kiệt, thôn Bích Cốc, thôn Phú Vinh, thôn Phong Cốc, thôn
Diên, thôn Lương Đống, thôn Phú Nội, thôn Hạnh Lâm, thôn Hướng Nghĩa, thôn
trang Thọ Trường, thôn Nhị, thôn Liên Xương, thôn Việt An, thôn Phú.
-Tổng
Đồng Đội có 9 xã : Đồng Đội, Vân Bảng, Vân Cát, Tiên Hương, Bối Xuyên, Châu
Bạc, Trừng Uyên, Trang Nghiêm, xã Trang Nghiêm hạ.
-Tổng
Hào Kiệt có 8 xã : Hào Kiệt, Đống Xuyên, Cao Phương, Định Trạch, Lương Kiệt
thượng thôn, Lương Kiệt thôn, Lương Kiệt tiền thôn, xã Tổ Cầu.
-Tổng Hổ
Sơn có 8 xã : Hổ Sơn, Vân Bảng, Cựu Hào, Ngọ Trang, Hồ Sen, Vĩnh Lại, Đại Lại,
Tiên Hào.
-Trình
Xuyên Hạ có 8 xã : Nguyệt Mại, Thi Liệu, Đồng Kỳ, Cổ Bản, An Nhân, Sa Trung,
Quả Linh thôn, Quả Linh thượng thôn.
-Trình
Xuyên thượng có 6 xã : Bách Cốc, Phú Cốc, Trung Phu, Dương Lai, Trình Xuyên,
Tân Cốc.
-Tổng An
Cự có 8 xã : An Cự, Yên Duyên, Đại Đê, Võng Cổ, Đồng Lạc, phường thuỷ cơ, Khả
Chính, Lương Mỹ.
-Tổng
Bảo Ngũ có 5 xã : Bảo Ngũ, Bối La, Thái La, Bất Di, Đắc Lực.
-Tổng
Vân Côi có 9 xã : Vân Côi, Văn Côi, Côi Sơn, Mỹ Côi, Lê Xá, Hữu Dụng, Phú Thứ
(Thứa), Dư Duệ, An Lạc.
Huyện
Nam Trực : có 9 tổng, 101 xã, thôn, trang trại.
-Tổng Cổ
Nông có 15 xã : Cổ Nông, Thượng Nông, Cổ Nông hạ trại, Cổ Nông trang, Hưng Đễ,
Hưng Nghĩa, Quy Phú, Hưng Nhượng Thượng trang, Hưng Nhượng Hạ trang, Hưng
Nhượng Trung trang, Bách Tính, Trí An, Điện An, Tương Nam, Đồng Thượng.
-Tổng
Bái Dương có 21 xã : Bái Dương, Hiệp Luật, Tang Trữ, Cổ Lũng, Nam Trực, Đồng
Quỹ, Thạch Kiều, Lạc Chính, Phục Nông, Nho Lâm, Ngoại Đê, Đạo Quỹ, Phú Thọ, Lạc
Thiện, Nam Trực trang, Lạc Chính trang, thôn Trung Khánh thượng, thôn Trung
Khánh Hạ, Đắc Sở trang, thôn Vinh, trang Đồng Quỹ.
-Tổng
Duyên Hưng 18 xã : Duyên Hưng, trang Duyên Hưng Thượng, trang Duyên Hưng Hạ,
trang Duyên Hưng tiền, trang Duyên Hưng hậu, Phù Ngọc, Cổ Chử, Ngọc Tỉnh, trang
Cổ Chử, trang Ngọc Tỉnh, Đô Quan, trang Đô Quan trung, trang Đô Quan hạ, Nam
Hưng, Bằng Hưng, An Nông, Quần Lao, Thiều Dương.
-Tổng
Thi Liệu 8 xã : Kinh Lũng, Thi Châu, Ba Lưu, Gia Hoà, Trực Chính, Vân Chàng,
Đồng Côi, Thanh Khê.
-Tổng Sa
Lung có 9 xã : Sa Lung, Yên Lung, Hà Liễu, Tây Lạc, Đông Lạc, Vân Cù, Dao Cù,
Dương Độ, thôn Thượng Đồng.
-Tổng Cổ
Gia có 7 xã : Cổ Gia, Cổ Tung, Thọ Tung, Thứ Nhất, Ngưu Trì, Y Lư, Lạc Na.
-Tổng
Liên Tỉnh có 7 xã : Liên Tỉnh, Thượng Lao, Hạ Lao, trang Du Tư, Xối Thượng, Xối
Tây, Xối Trì.
-Tổng Đỗ
Xá có 6 xã : Đỗ Xá, Cổ Chử, Cao Lộng, Lạc Đạo, Đạo Nghĩa, Đồng
Lư.
-Tổng
Nghĩa Xá có 10 xã : Đại An, Dương A, Cửu An, Thụyỵ Thỏ, Vũ Lao, Từ Quán, Nam
Hà, Quán Các, Xuân Hoà, Bồng Lai.
Huyện Ý
Yên có 7 tổng, 46 xã, thôn, phường.
-Tổng
Lạc Chính 10 xã : thôn Lạc Chính thượng, thôn Nguyên Bố, thôn Nguyệt Lãng
thượng trung, thôn Nguyệt Lãng hạ đồng, xã Bình Điền, xã Mai Sơn, xã Mai Khánh,
thôn Viết Bến, xã Thiêm Lộc, phường Thuỷ Cơ.
-Tổng
Bình Lương 5 xã : Bình Lương, Thọ Cách, xã Bình Cách thượng, xã Bình Cách hạ,
Kinh Thanh.
-Tổng
Phú Khê 8 xã : Phú Khê, Lữ Đô, Vô Vọng, Trầm Phương, Cổ Phương, Mỹ Lộc, Dũng
Quyết, Quang Điểm.
-Tổng Tử
Mặc 5 xã : Tử Mặc, Chuế Cầu, Văn Xá, An Nhân, Tiêu Bảng.
-Tổng An
Cừ 6 xã : An Cừ, An Hoà, Thanh Nê,
Phương Nhi, An Nghiệp,
Ngô Xá.
-Tổng
Phùng Xá 6 xã : Phùng Xá, Dưỡng Chính, Vạn Điểm, Tu Cổ, Xuất Cốc, An Liêm.
-Tổng
Hưng Xá 6 xã : Hưng Xá, Hoàng Đan, Sở Thượng, Đa Phú, Phú Nội,
Lỗ Xá.
Huyện
Phong Doanh 7 tổng, 49 xã, thôn :
-Tổng An
Lộc 6 xã : An Lộc, An Bái, Hoàng Nê, Đằng Động, Hoằng Nghị, Hưng Thượng.
-Tổng
Bồng Xuyên 7 xã : Bồng Xuyên, Phong Xuyên, Phú Khê, Quỹ Độ, Đông Duy, Vọng
Doanh, Giáp Giá.
-Tổng Mỹ
Dương 9 xã : Mỹ Dương, Nội Hoàng, Đồng Lợi, Quan Thiều, Vũ Xuyên, thôn Lương
Sung Lư, thôn Si Sung Lư, thôn Giáp Nhất Đồng Mạc, thôn Giáp Nhì Đồng Mạc.
-Tổng
Cát Đằng 7 xã : Cát Đằng, La Xuyên, Văn Cú, Lũ Phong (Sú), Đằng Chương, Tân
Cầu, Ninh Xá.
-Tổng Vũ
Xá 5 xã : Vũ Xá, Tống Xá, Trịnh Xá, An lạc, Từ Liêm.
-Tổng
Thượng Đồng 10 xã : Thượng Đồng, Thử Mễ, Đô Quan, úy Uy, Hoà Cụ, Quảng Nạp,
Đồng Văn, phường Kênh Hội, thôn Đồng Cách thượng, thôn Đồng Cách hạ.
-Tổng
Ngô Xá 5 xã : Ngô Xá (Ngò), Đông Biểu, Cầu Cổ, Cao Bồ, thôn Sở Trung Vọng
Doanh.
Phủ Xuân
Trường 9 tổng, 49 xã, thôn, giáp, trang, trại, phường, ấp, lí :
-Tổng
Cát Xuyên 16 xã : An Đạo, Đông An, Liêu Đông, Liêu Thượng, Hạ Miêu, Lạc Thành,
Thuận Thành, Phong Miêu, Phú Ân, Cát Xuyên, Đại Phú, Chuỳ Khê, giáp lương xã An
Phú, giáp giáo xã An Phú, giáp lương xã An lãng, giáp giáo xã An lãng.
-Tổng
Lạc Thiện 16 xã : Phú Thọ, Phú Ninh, ấp Lạc Nghiệp, ấp Hoành Ba, ấp Hoành Lộ,
ấp Trà Lũ, ấp Thuỷ Nhai, ấp Trừng Uyên, ấp Hoành Đông, ấp Xuân Hy, ấp Lục Thuỷ,
ấp Hành Thiện, ấp Sa Châu, ấp Thượng Miêu, ấp Thiện Giáo, ấp Phú Giáo.
-Tổng
Hoành Thu 14 ấp : ấp Bình Di, ấp Du Hiếu, ấp Duy Tắc, ấp Khiết Cư, ấp Định
Giáo, ấp Tồn Thành, ấp Thức Hoá, giáp Đắc Sở, giáp Khắc Nhất, giáp Tự Lạc, trại
Mộc Đức, trại Ngưỡng Nhân, trại Quân Lợi, trại Thúy Dĩnh.
-Tổng
Hoành Nha 14 xã, trang : Hoành Nha, Hoành Lộ, Hoành Đông, Hoành Nhị, Hoành Tam,
Hoành Tứ, Diêm Điền, Đông Bình, Kiên Hành, Lạc Nông, Quất Lâm, Nho Lâm, trang
Hải Huyệt Tam, trang Hải Huyệt Tứ.
-Tổng
Hành Thiện 8 xã : Hành Thiện, Hạc Châu, giáp An Hành, Thuận An, Dũng Trí, Sa
Cao, Ngọc Cục, Hạc Lương.
-Tổng
Kiên Lao 10 xã, thôn : Kiên Lao, Lạc Quần, Thanh Khê, Xuân Dục, Ngọc Tỉnh, Bắc
Câu, Trà Thượng, Nghĩa Xá, thôn ngoại xã Hội Khê, thôn bắc xã Hội Khê.
-Tổng Hà
Cát 6 xã : Hà Cát, Hà Nam, Nam Thành, Thanh Hương, Giáo Phòng, ấp Định Hải.
-Tổng
Thuỷ Nhai 15 xã : Thuỷ Nhai, Lục Thuỷ, Liên Thuỷ, xã Thuỷ Nhai trung, An Cư,
Thượng Phúc, Xuân Bảng, Xuân Hy, Phú Nhai, Hoành Quán, Bùi Chu, Hạ Linh, Trung
Linh, Trung Lễ, Phúc An.
-Tổng
Trà Lũ 12 xã : xã Trà Lũ Trung, xã Trà Lũ Đông, xã Trà Lũ Đoài, xã Trà Lũ Bắc,
Trà Khê, Nam Điền, Thanh Trà, Lạc Thiện, Thiên Thiện, Vạn Lộc, Thọ Vực, Nhị
Trùng.
Huyện Mỹ
Lộc 10 tổng, 83 xa trang :
-Tổng
Đông Mặc 8 xã : Tức Mặc, Đông Mặc, Phụ Long, Vĩnh Trường, Vị Xuyên, Phù Nghĩa,
Phong Lộc, Lương Xá.
-Tổng Mỹ
Trọng 8 xã : Mỹ Trọng, Trọng Đức, An Trạch, Vụ Bản, Gia Hoà, Năng Tĩnh, Vị
Dương, Tiểu Tức.
-Tổng
Như Thức 9 xã : Như Thức, Phạm Thức, Lang Xá, Quang Xán, Nghĩa Lễ, Phú ốc, Mỹ
Lộc, Bảo Long, Phủ Điền.
-Tổng
Ngũ Trang 4 xã : Thượng Trang, Trung Trang, Duyên Hưng, Hàn
Miếu.
-Tổng
Cao Đài 16 xã : Cao Đài, Động Phấn, An Cổ, Đa Mễ, Lương Xá, Đặng Xá, Lê Xá, Vạn
Đồn, Khả Lực, Trung Quyên, Tiểu Liêm, Dị Sử, Liêm thôn, Liêm trại, Cư Nhân, Mai
Xá.
-Tổng Đệ
Nhất 12 xã : Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ, Phương Bông, Lựu Phố, Liêũ Nha,
Thanh Khê, Đông Quang, Tân Đệ, Hậu Bồi, Văn Hưng.
-Tổng
Hữu Bị 5 xã : Hữu Bị, Hà Lộc, Vạn Khoảnh, Mai Xá, Đàm Thanh.
-Tổng
Đồng Phù 7 xã : Đồng Phù, Vô Hoạn, Vạn Diệp, Địch Lễ, Thượng Hữu, Đồng Vân, Vấn
Khẩu.
-Tổng
Bách Tính 7 xã : Ngô Xá, Lã Điền, Vị Khê, An Thuần, Phú Hào, Bách Lộc, Trừng
Uyên.
-Tổng
Giang Tả 7 xã : Giang Tả, Vân Đồn, Bái Trạch, An Lá, Đại An, Báo Đáp, An Chuỳ.
Huyện
Trực Ninh 7 tổng, 57 xã, thôn, lí, ấp, phường, trang, trại.
-Tổng
Duyên Hưng 10 xã, ấp, trang : trang Duyên Hưng đông, trang Duyên Hưng nam,
trang Duyên Hưng Bằng, Duyên Bình, Duyên Lãng, Sa Dê, Quỹ Đê, ấp Đại Đê, Liễu
Đê, Dương Mỹ.
-Tổng
Ngọc Giả hạ 8 xã phường : Cát Thượng, Cát Hạ, Cát Trung, Trung Hoà, Xối Tây,
Tuân Chử, phường Thuỷ cơ Trung Hoà, Hùng Mỹ. (?)
-Tổng
Ngọc Giả thượng 7 xã : Ngọc Giả, Ngọc Giả đông, Cống Khê, Hương Cát, Nội Đông,
Cát Chử nội, thôn Hạ Đồng sở Đông Cách.
-Tổng
Ninh Cường 4 xã : Ninh Cường, trại Lác Môn, phường Thuỷ cơ Lác Môn, làng Tân
Lác.
-Tổng
Phương Để 8 xã trại : Phương Để, Phương Khê, Lộng Khê, An Lãng, An Trung, Dịch
Diệp, Lộ Xuyên, trại Đồng Nê.
-Tổng
Văn Lãng 9 xã : Văn Lãng, Hàn Xuyên, An Quần, Lương Hàn, Quần Lương, Phú An,
Nam Lạng, Quần Lạc, Phượng Tường.
-Tổng
Thần Lộ 11 xã thôn : Thần Lộ, Hải Lộ, Cổ Lễ, Lịch Đông, Trung Lao, Xối Đông,
Tuần Lục, Trừng Hải, thôn Hạ Sở Vọng Doanh, Mạt Lăng, thôn Miễu Mạt Lăng.
Huyện
Hải Hậu 6 tổng 50 xã thôn lý ấp trại giáp :
-Tổng
Quần Phương 7 xã giáp : Quần Phương thượng, Quần Phương trung, Quần Phương hạ,
Quần Phương đông, giáp giáo tả hữu Quần Phương thượng, Phương Đê, giáp 7 Phương
Đê.
-Tổng
Kiên Trung 10 xã : Kiên Trung, Hà Lạn, Hà Nam, Hà Quang, Lạc Nam, Thanh Quang,
Trà Hải trung, Trà Hải hạ, Hội Nam, ấp Phú Hải.
-Tổng
Ninh Mỹ 10 xã thôn ấp lý trại : Ninh Mỹ, trại Ninh Cường, làng Quỳnh Phương,
làng Lục Phương, làng Phú Văn, thôn Phú Văn Nam, ấp Phú Lễ, trại Quần Phương
trung, trại Quần Phương thượng, trại Quần Phương hạ.
-Tổng
Ninh Nhất 10 làng ấp : An Nhân, An Trạch, An Nghiệp, An Đạo, An Nghĩa, An Phú,
An Phong, An Lễ, An Lạc, ấp Phú Hải.
-Tổng
Quế Hải 7 xã ấp : Quế Phương, Trung Phương, Liên Phú, Thanh Trà, Trùng Quang,
ấp Hải Nhuận, ấp Doanh Châu.
-Tổng
Tân Khai 5 xã ấp : Văn Lý, Hoà Định, Xương Điền, Tang Điền, Kiên
Trinh.
ĐIỀN THỔ
Tỉnh Nam
Định vốn có 5 phủ và 19 huyện, số điền thổ đã nêu rõ ở Gia Long địa bạ. Hiện
nay có 2 phủ 9 huyện trừ đất thành phố ra xin nêu dưới đây :
+Phủ Nghĩa Hưng :
-Huyện
Đại An : 55.623 mẫu, điền 44.757 mẫu, thổ 10.865 mẫu (địa vực không nhất định).
-Huyện
Vụ Bản : 42.670 mẫu, điền 37.453 mẫu, thổ 3.305 mẫu (đất nhiều khi bị hao hụt).
-Huyện
Nam Trực : 34.254 mẫu, điền 30.949 mẫu, thổ 3.305 mẫu (vùng ven sông Đáy đất
hay hao hụt).
-Huyện Ý
Yên : 23.726 mẫu, điền 21.482 mẫu, thổ 2.244 mẫu (vùng ven sông Đáy đất hay hao
hụt).
-Huyện Phong
Doanh : 21.010 mẫu, điền 19.393 mẫu, thổ 1.617 mẫu.
+Phủ Xuân Trường :
-Huyện
Giao Thuỷ : 60.688 mẫu 6 sào, điền 47.676 mẫu 3 sào, thổ 13.006 mẫu 3 sào.
-Huyện
Mỹ Lộc : 30.969 mẫu, điền 26.650 mẫu, thổ 4.319 mẫu (thường bị lở
mất).
-Huyện
Trực Ninh : 39.170 mẫu, điền 33.156 mẫu, thổ 6.014 mẫu (thường không ổn định do
quai đê).
-Huyện
Hải Hậu : 81.226 mẫu, điền 33.422 mẫu, thổ 47.804 mẫu (địa vực không nhất
định).
SÔNG NÚI
Núi sông
toàn tỉnh, thổ sản nhiều khi cũng có, về sự khai thác còn chưa chú trọng, khiến
để lãng phí thật không kể xiết, Gia Long nhất thống địa dư chí đã từng đề cập,
ở đây có chép theo sách trên :
-Núi Gôi
ở phía Tây Nam tỉnh hạt, nằm trên địa phận hai xã Văn Côi, Côi Sơn của huyện Vụ
Bản. Núi không cao lắm. Phía Đông có một cái giếng bốn mùa nước ngọt mát, phía
Tây Nam có chùa Tiên Sơn. Chùa này có từ thời Đinh Lê lập quốc, qua các đời đều
do sư ở chùa Phúc Lâm xã Đồi Trung huyện Đại An cai quản. Do vậy người xưa có
câu : “Lắm Bụt chùa Gôi, lắm xôi chùa Đồi” là do sự liên quan ấy.
-Núi Hổ
thuộc xã Hổ Sơn huyện Vụ Bản. Tương truyền xưa có con hổ từ mạn Thăng Long về
đến đây rồi nằm phục xuống, sau mọc lên ngọn núi này. Vua Hùng Vương đi tuần
thú, hổ lại hiện ra, vua đặt cho tên làng là làng Hổ Phục. Trên núi có đền, ban
đầu thờ vua Hùng và thần núi, sau thờ Chiêm Thành vương phi là công chúa Huyền
Trân, vì công chúa đã từng ở đền này thờ Phật ở bên hữu đền. Do thế thường gọi
là chùa núi Hổ.
Núi Lê
Xá thuộc xã Lê Xá huyện Vụ Bản, (trên núi có chùa) có tên là Bảo Đài cổ tự, xưa
gọi là núi Bảo Đài thuộc trang Thường Sơn, đến thời Lê Trung Hưng có gia đình
họ Lê ở đất Đông Sơn (Thanh Hoá) di cư tới lập ấp nên gọi là ấp Lê Xá, nay là
tên xã.
-Núi An
Thái thuộc xã Tiên Hương huyện Vụ Bản. Núi trước có tên là núi Phù Dung thuộc
trang Tiểu Già, thời Lê sơ có tên là trang Trần Xá.
-Núi Kim
Bảng thuộc xã Xuân Bảng huyện Vụ Bản, thời Trần gọi là núi Hậu Phác thuộc ấp Dã
Quỳ. Khi bố mẹ ông Lương Thế vinh đến núi này cầu đẻ được con trai thi đỗ, ông
Lương mới đổi thành núi Kim Bảng. Qua các đời có nhiều quan lại du ngoạn góp
công góp của dựng chùa đền tạo cảnh.
-Núi
Trang Nghiêm thuộc xã Trang Nghiêm huyện Vụ Bản, vốn có tên là núi Khất Cái (ăn
mày) do người ở Can Lộc (Hà Tĩnh) tên là Nguyễn Chí Hiền cùng hỵọ hàng ăn xin
ra đây ngụ lại khẩn đất. Ông Nguyễn mở trường dạy học tự xưng là Trang Nghiêm
đại sỹ, dựng nhà ở phía Đông núi, sau thành làng gọi là làng Trang Nghiêm từ
đó. Bấy giờ vào đời Ngô thì phá tán.
-Núi Bảo
Đài thuộc Phương Nhi, Ngô Xá, Thanh Nê của huyện ý Yên và giáp Ba của huyện
Phong Doanh, trên có suối nước chảy róc rách, dưới có đầm nước, vào thời Lê
Trịnh Tĩnh Vương thường lên viếng núi này có thơ đề tại đền trên núi.
-Núi An
Hoà tục gọi là núi Già, thuộc xã An Hoà, huyện ý Yên. Truyền rằng thời cổ chẳng
có tên gì. Một lần có ông già đi đường nằm chết ở chân núi, mối đùn thành mộ.
Thời Trịnh Tùng đánh Mạc qua đây có cho xây một ngôi miếu để thờ, dân gọi là
miếu Già và thành tên núi. Chúa viết thơ đề có câu :
Hữu phúc
đắc nhân lai bái đảo Vô lương thuỳ tạo miếu hương cầu
(Có phúc
người đem hương khấn vái Không lành ai dựng miếu tôn thờ)
-Núi Mai
thuộc hai xã Mai Sơn và Mai Độ của huyện Ý Yên. Núi cao hơn 17 trượng, rộng 24
trượng dài 176 trượng, có tên là núi Hoàng Mai. Thời Lý ông Công Uốn tới núi
này nên có tên là núi Vua. Dưới chân núi có 2 cái lăng thờ vọng 2 vị thứ phi họ
Lê đời vua Trần Thánh Tông, nằm ở tả ngạn sông Thiên Phái.
-Núi Mặc
Tử nằm trên địa phận xã Mặc Tử, huyện ý Yên. Tương truyền xưa có ông học trò
thời Trần tên là Nguyễn Duy Hiếu đỗ đại khoa về làng. Dân làng Mao Sơn chê
nghèo hèn không rước, ông liền bực đốt nhà quẳng nghiên bút vào đó, rồi về quê
mẹ ở Tiên Du. Từ sau nước mực chảy ra đen ngòm cả một cánh ruộng nên mới đặt
tên núi là núi Nghiên Mực, chữ Hán là Mặc Tử, rồi tên xã còn có tên là Mặc Tử
từ đó.
-Núi Bô
ở địa phận xã Phú Khê, huyện Ý Yên. Thời xưa gọi là núi Tiều Phu. Trên núi có
rất nhiều cây dẻ và khỉ, vượn. Nhiều nhà ở vùng này làm ăn rất khá giả, do vậy
mới có tên làng là Phú ốc, thời Lê mạt đổi là Phú Khê. Chuyện kể rằng vào cuối
thời Trần, dân vùng Kiêu Kị bị quan lại thu thuế quá nặng, dẫu bán cả nhà cửa
đi cũng không đủ nộp. Có 4 họ Hoàng, Lê, Ngô, Nguyễn hơn 10 gia đình tìm đi nơi
khác. Một hôm đến ngọn núi nhỏ cây cối xanh tốt, chung quanh không có người ở,
bèn trú lại đốn củi đem ra chợ đổi gạo, chặt tre vầu dựng nhà ở nên mới có tên
núi Bô từ đó. Bô có nghĩa là lánh nạn trốn thuế.
-Cồn
Quất Lâm : cồn đất ngoài bờ biển tổng Hoành Nha, đất nhô cao thành cồn, mấy
ngọn nối tiếp với nhau ước hơn trăm mẫu. Người dân đua nhau ra ở vì ban
đầu
không phải nộp thuế, sau trồng hoa quả rất tốt như chanh, quít thì rất sai quả
nên mới gọi là cồn Quất Lâm. Xung quanh cồn nước triều bao bọc lên xuống. Tuy
vậy chống cự với thiên tai cũng rất khốn khó. Nay là 4 xã Quất Lâm, Đan Phượng,
Liên Trì, Văn Trì cư trú.
-Núi đất
Đào Khê : Vùng này có 3 đồi đất lẫn cả đá, nam bắc ước 3 dặm, đông tây ước hơn
2 dặm, thường gọi là 3 đồi thuộc xã Dương Hồi, An Trung, An Hạ, Tam đăng của
huyện Đại An. Vào thời vua Triệu, dân ở vùng Bắc Ninh bị quân Hán quấy phá bèn
di cư về đây lập ấp có tên là ấp Đào Khê. Toán dân này do ông Văn Giang khởi
xướng. Đến thời Lê sơ bị dịch lệ, dân di cư xuống phía nam nay là 2 xã Đào Khê
và Trường Khê của tổng An Trung Hạ. Qua mấy chục năm đến quãng niên hiệu Quang
Thuận năm Nhâm Ngọ (1462) mấy họ năm xưa mới trở về viếng phần mộ tổ tiên, dựng
nhà ở, bèn đặt một xã Đồi Khê. Đến niên hiệu Chính Trị thì chia ra 3 ấp là Đồi
Trung, Đồi Thượng, Đồi Hạ. Đất đồi bị san thấp hẳn thành khu dân cư, nơi quan
Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị là người xã Đồi Thượng ấy. Đến thời Lê mạt
thì Đồi Thượng chia thành 2 là Đồi Thượng và Đồi Tam. Thời Nguyễn ông Phạm Văn
Nghị đổi Đồi Tam ra Tam Đăng.
-Sông
Hồng : Một đoạn giáp đất tỉnh ta, bắt đầu từ phía đông bắc thuộc huyện Mỹ Lộc
đất xã Hữu Bị (Tảo Môn) ngã ba sông Hoàng đến Phụ Long giáp địa phận Ngô Xá,
qua cửa sông Vị Hoàng xuống Phú Hào, Tương Nam, Cổ Lễ đến Trực Ninh bắc giới
địa phận xã An Lãng, giáp Xuân Trường bắc giới địa phận xã Hành Thiện, ngã ba
Mom Rô, qua cửa sông Lác, men đất Sa Cao, Hạ Miêu, Phú Ân đến giáp giới An Đạo,
Hoàng Đông, qua cửa sông Ngô Đồng chảy xuống Thanh Hương, An Tứ ra cửa Ba Lạt.
Sông chỗ Hữu Bị gọi là Tuần Vường, tục ngữ có câu “ Mười hai cửa bể, phải nể
Tuần Vường”. Chỗ này nước chảy vòng vo tạo sóng, thuyền bè qua lại bị đắn rất
nhiều. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) được liệt vào hạng thuỷ thần có lệ quốc tế vào
ngày 12 tháng 7. Xưa kia dưới thời Minh vào năm Hồng Vũ nhà Minh sai Trần Đạo
Bản vẽ hình thế mang về, Trần cho là nơi có khí thiêng cần phải xem xét. Tại
nơi này còn có đền thờ Thuỷ Tiên phu nhân. Sở dĩ gọi đó là cửa Ba Lạt là vì nơi
này dân địa phương hay trông thấy xác người chết trôi bó chiếu, đây là sự việc
của kẻ bất lương nên cũng nói lên để người đời có điều cảnh giới.
-Sông Vị
Hoàng : là nhánh của sông Hồng từ địa phận Phụ Long, Ngô Xá chảy xuống ôm phía
trước tỉnh thành, theo hướng tây nam đi tắt vào Vạn Diệp của huyện Thượng
Nguyên, Cố bản của huyện Vụ Bản, Đồng Côi của huyện Nam Trực, Cốc Thành của
huyện Đại An đến Độc Bộ chảy vào hạ lưu sông Hát cùng chảy ra cửa Liêu (nay gọi
là cửa Đài ấp mới mở).
-Sông
Lác là phân lưu của sông Hồng, từ ngã ba Mom Rô vào giang phận sông Phương Để,
qua chỗ toà Đại Lý, Lạc Quần, đi ngang vào hạt huyện Trực Ninh (tức sông Ninh
Cường) các tổng Ngọc Giả thượng hạ, Duyên Hưng, Ninh Cường đến làng Tân Lác,
sang địa phận Ninh Mỹ, Phú Lễ ra cửa Lác Môn.
-Sông
Ngô Đồng là nhánh của sông Hồng phía hạ lưu chia ra, từ chỗ An Đạo, Hoành Đông,
chảy qua Hoành Nha, Nam Điền đến Thức Hoá, Du Hiếu sang Hà Lạn, Hải Hậu, qua ấp
Phú Hải đổ ra cửa Lạn Hải. Tương truyền vào thời Lê chỗ bờ sông đất Hoành Đông
có cây ngô đồng cao ước 3 trượng, cành vươn dài 5 thước um tùm, chim chóc bay
về tụ hội rất nhiều.
-Sông
Hát ở phía tây bắc tỉnh, từ địa giới Ý Yên, ban đầu ở xã Kinh Thanh nối vào
đoạn xã Đoan Vỹ của huyện Thanh Liêm, qua Thanh Quyết hợp vào cửa sông chỗ Gián
Khẩu, đến địa phận xã Hoàng Đan vào xã Phú Khê huyện Phong Doanh ra phía đông
địa đầu Phong Doanh, đến Đồng Cách giáp Vĩnh Trị huyện Đại An hợp với hạ lưu
sông Ba Sát chảy ra Độc Bộ cùng với sông Vị Hoàng chỗ gần đền thờ vua Triệu
chảy ra cửa Liêu chỗ ấp Đài Môn. Đoạn sông này tại chỗ xã Ngọc Chấn nơi trông
sang núi Non Nước có đền thờ tướng Đặng Dung lúc đương thời có dựng thuỷ trại
án ngữ quân Minh. Thần thác danh là Tam Đầu Cửu Vĩ Bát Hải Long Vương, từng bẻ
gẫy tội bất kính của Điền Quận công và làm chìm thuyền lương của vua Tự Đức.
-Sông
Hoàng tức hạ lưu sông Châu. Sông hút nước sông Hồng, từ Hữu Bị qua Bảo Lộc đến
Quang Xán ra Bảo Long đến phủ lị Lý Nhân.
-Sông
Vĩnh bắt đầu từ phía đông bắc huyện Mỹ Lộc hút nước nhánh sông Vị Hoàng, từ
cống Đệ Tứ tổng Đệ Nhất chảy qua cầu xã Văn Hưng, vòng phía sau xã Tức Mặc,
nghiêng về phía Vĩnh Trường, chảy về phía bắc xã Đông Quang, qua Như Thức chảy
vào Phú ốc, đến xã Mai Xá tổng Cao Đài chảy vào Vụ Bản (các xã Yên Duyên tổng
An Cự, sang Lương Mỹ ra Bất Di tổng Bảo Ngũ, Trung Phu tổng Trình Xuyên thượng,
xã Tổ Cầu tổng Hào Kiệt, An Nhân tổng Trình Xuyên hạ, Đại Lải tổng Hổ Sơn), đến
Trạng Vĩnh đất Đại An chảy vào hạ lưu sông Vị Hoàng (tục gọi là sông Chanh, nơi
đây là đất trồng chanh phát đạt khi huyện lị Đại An cắm ở, sau khi huyện đi rồi
vẫn còn có tên phường Bất Chanh có đò có chợ).
-Sông
Ninh ban đầu ở Vụ Bản thuộc địa phận xã La Xá, nơi có đền thờ họ Trần Quốc Tảng
(hậu duệ là Bắc Ninh Đốc học Trần Xuân Thiều). Sông này là nhánh của sông
Hoàng, từ hai xã An Nhân, An Ninh huyện Bình Lục chảy vào La Xá ra Nhân Nhuế,
trang Đồng Văn, sang tổng Phú Lão (Hướng Nghĩa, Phú Lão, Kênh Đào, Việt An)
giáp giang phận xã Đô Mỹ huyện Bình Lục chia nhánh gọi là ngã Ba Sát. Một nhánh
từ xã Bình Điền huyện ý Yên chảy phía Tây sông Thiên Phái. Một nhánh chảy phía
nam từ Việt An, Đống Lương, Phong Cốc qua Trừng Uyên, Trang Nghiêm hạ của tổng
Đồng Đội, Phú Thứ, Lê Xá của tổng Vân Côi, giáp Quảng Cư huyện Đại An men địa
giới Trịnh Xá huyện Phong Doanh, đi về phía nam đến Đô Quan chia làm hai nhánh.
Một nhánh chảy ra phía tây đến Thử Mễ tức sông Cầm, có cống sông đổ vào sông
Hát. Tương truyền vào thời Trần, quan Thân vệ tướng quân Trần Nhân Trứ có dựng
lầu gảy đàn đánh cờ ở bên sông, nay có tên sông Cầm, quán kỳ và đền thờ ông ở
xã Đô Quan (tên cũ là phường Quán Đổ). Một nhánh chảy thẳng đến Vĩnh Trị huyện
Đại An giáp Đồng Cách (thời Lê sơ về trước gọi là trang Đào Lạng, sau chuyển về
phía nam huyện do dân Đào Lạng thiên di, còn Đào Lạng cũ thì đổi ra Đồng Cách)
huyện Phong Doanh đổ ra hạ lưu sông Hát.
-Sông
Thiên Phái là một con sông nhỏ, một nhánh thuộc đất ý Yên, từ xã Đồng Duyên
huyện Thanh Liêm chảy lại, vào đất Văn Xá qua Mặc Tử, Tiêu bảng, An Nhân đến
Mai Độ thì chia ra hai chi. Một chi chảy về phía đông qua Nguyệt Lãng, Bình
Điền ra sông Ba Sát. Một chi chảy về phía tây nam qua Lạc Chính, Phù Cầu từ
cống xã Trầm Phương chảy vào sông Hát. Tại phía nam sông Phù Cầu, năm Duy Tân
thứ 4 (1910) có khai một đoạn từ Dũng Quyết qua Lỗ Xá đến cống Hoàng Đan đổ ra
sông Hát.
-Sông
Tam Toà là con sông nhỏ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng, tại địa phận xa Thụ ích
(trước gọi là xã Thụ Triền) lấy nước hạ lưu sông Vị Hoàng, từ đó qua Liêu Hải,
qua Nhân Hậu, An Thịnh thông với sông Liễu Đề ở Trực Ninh (tức hạ lưu sông
Đào). Sông do Trần Xuân Vinh, người xã Năng Lự đốc đào niên hiệu Cảnh Thống
(1498 – 1504). Khi ông mất, dân Thụ Triền lập đền thờ. Đến thời Lê Cảnh Hưng
(1740 – 1786) Tiến sĩ Lộng Điền Vũ Huy Trác bèn khơi rộng thêm ra.
-Sông
Tân Khai là sông nhỏ thuộc phía đông bắc huyện Nam Trực, từ xã Lạc Đạo, men
theo đường điện báo qua Đỗ Xá, Cao Lộng đến Bách Tính, Quy Phú chia ra một chi
chảy về phía tây gọi là sông Ngọc Hồ vòng về phía nam lị sở huyện Nam Trực, rồi
theo hướng tây đến Đô Quan (trước gọi là trang Tiểu Trúc, sau Trần ích Tắc thua
cờ Trần Nhân Trứ ở Đô Quan mới gán đất trang này cho ông, dân Đô Quan có hơn 20
nhà xuống cày cấy ở đó bèn đổi ra trang Đô Quan tự thời Trần. Nơi đây vốn là
một phần ấp của Trần ích Tắc) chia ra sông Cừu đến xã Cổ Chử. Một nhánh đến xã
Cổ Nông, nhánh thứ hai đến đất Bái Dương, nhánh thứ ba rẽ vào Hiệp Luật đến Thi
Nam đổ vào hạ lưu sông Vị Hoàng. Còn men theo đê điện báo Quy Phú, nhánh chính
sông Tân Khai chảy về Tương Nam, Cổ Lễ gọi là sông Đào, thượng lưu từ đất thượng,
trung, hạ Lao chảy chéo đến đất Du Tư, chảy ngang đến thôn Ngọc Tỉnh hạ, qua
Phù Ngọc sang Nam Hưng hạ hợp với sông Cừu tức là sông Dõng, từ Quỹ Đê đến
Thạch Cầu nhận nhánh sông hai, chảy sang Lạc Chính nhận nhánh sông ba, chảy đến
Hà Liễu thông với sông Tam Toà ở địa phận huyện Đại An.
-Sông
Bùi Chu là sông nhỏ ở phía tây nam thành phủ Xuân Trường từ cửa cống Bùi Chu
(thuộc hạ lưu sông Lác, theo đất Thượng Phúc vào địa đầu Hành Thiện chia làm
hai nhánh, một nhánh từ chợ Hành Thiện vòng phía bắc thành phủ, một nhánh từ
Hành Thiện sang An Hành lại chia ra hai chi, một chi đổ ra cống An Hành (hạ lưu
sông Hồng), một chi đi về phía nam vào Hạ Miêu hợp với sông Cát Xuyên).
-Sông
Cát Xuyên ở phía đông nam thành phủ, từ cống Cát Xuyên (hạ lưu sông Hồng) đất Phong
Miêu, Liêu Đông qua hai tổng Cát Xuyên, Trà Lũ đổ ra các cống An Nghiệp, An Phú
ra sông Ngô Đồng.
-Sông
Đào : Một nhánh thuộc phía bắc địa giới huyện Trực Ninh, phía trên tiếp sông
Tân Khai ở địa phận xã Tương Nam, qua Thượng Lao xuống Trung Lao. Một nhánh từ
Trung Lao qua Văn Lãng đến Cát Chử đổ ra sông Lác thuộc địa giới Quỹ Đê là sông
Ngọc, từ Bằng Trang đổ ra sông Lác thuộc địa giới Duyên Lãng là sông Lữ. Từ
Duyên Lãng đổ ra sông Lác thuộc địa phận Duyên Bình là sông Chính, từ Duyên
Bình qua Quỹ Đê đến Liễu Đề chia ra hai nhánh, nhánh nhỏ đi về phía nam qua Đại
Đê rót vào sông Lác, dòng chính từ Liễu Đề đi về phía tây thông với Tam Toà
thuộc Đại An.
-Phía
nam sông Ngô Đồng có 5 sông nhỏ là Cồn Nhất, Cồn Nhị, Cồn Tam, Cồn Tứ, Cồn Ngũ
đều thuộc đất Giao Thuỷ, hút nước hạ lưu sông Hồng chia đổ ra Hoành Nha, Hoành
Thu, Hà Cát, Lạc Thiện bốn tổng rất có lợi cho việc chuyên chở.
-Sông
Luộc ở phía nam toà đại lý Lạc Quần ở đất Giao Thuỷ, hút nước hạ lưu sông Lác
từ Nghĩa Xá qua Hội Khê ngoại ra Kiên Trung, giáp Hưng Lễ, Trà Hải thông với
sông Hải Hậu. Sông Luộc ở chỗ toà thương chính Lạc Quần hút nước hạ lưu sông
Lác qua Nghiã Xá, Hội Khê, Kiên Trung, Trà Trung, Trà Hạ, Thanh Quang, Hà Lạn,
thôn Phúc Thụy, Hà Quang chia ra một chi ngang với dòng trên thông ra ấp Hải
Nhuận.
-Bờ đông
sông Lác thuộc xã Cát Chử huyện Trực Ninh chia ra 5 con sông đều từ Cát Chử
thông ra Quần Phương huyện Hải Hậu là sông Trệ, sông Cấm, sông Bi, sông Sách
Bảy, sông Gốc.
-Phía
đông bắc huyện Trực Ninh, tại xã Cổ Lễ có con cừ chảy qua Xối Đông, Lịch Đông
đến Lạc Quần chia ra hai dòng, một dòng đến Phú An, một dòng đến Cát Chử đều
rót vào sông Lác. Lại một con cừ từ chợ Lịch Đông qua Thần Lộ, Trừng Hải, Tuân
Lục đến sông Lộ (sông Cò) đổ ra sông Lác.
-Sông
Múc : Một dòng ở địa phận tây bắc huyện Hải Hậu, là nhánh của sông Lác, từ chỗ
giáp địa phận Trực Ninh, Hùng Mỹ, Trung Hoà qua xứ Cầu Đông Quần Phương trung,
chia một nhánh qua xã ấy đến cầu Ngói chợ Lương Quần Phương Thượng ra cửa sông
Quán Phương Đê chỗ xứ cầu chợ, một nhánh chảy xuống Quần Liêu cũng ra Phương Đê
chỗ cửa Trệ Giang. Còn ở chỗ cầu Đông dòng chính chảy qua huyện lị từ Quần
Phương Hạ đến cống Trùng Phương thuộc tổng Quế Hải, chảy về phía đông có một
nhánh qua Thanh Trà, Trùng Quang, Liên Phú, Doanh Châu là sông Hải Hậu nơi ấp
Hải Nhuận giáp cửa Hà Lạn. Lại một nhánh từ sông Hải Hậu chảy xuống hợp với
sông Cát đổ ra cửa bể Văn Lý chỗ chợ Cồn, Lục Phương giáp giới. Phía Tây chia
một nhánh là sông Tân Khai, qua Trung Trại, Thượng Trại, Phú Văn, Ninh Cường
trại, đến bến Ninh Mỹ hợp vào cửa sông Lác.
HƯƠNG LỘ, QUAN LỘ
Thời
Trần có đường thiên lý, nay gọi là đường quan báo, thời Gia Long bèn sai quan
đo đắp các tỉnh lộ, đến đâu, dài ngắn, về hướng nào đều ghi chép cả. Hương lộ
thì có rất nhiều để nối với tỉnh lộ, làng xóm thông ra không thể có khả năng
ghi chép được.
QUAN LỘ
-Chính
đông tỉnh thành có một đường, từ phố Nam An qua huyện lị Mỹ Lộc, từ tỉnh đến
huyện dài 1.400 thước tây. Ra Phụ Long vượt một cây cầu đến đò Tân Đệ trên sông
Hồng từ Thư Trì, Bổng Điền đến tỉnh lị Thái Bình.
-Chính
tây có một đường, từ Năng Tĩnh đến Mỹ Trọng, Yên Duyên qua Đậi Đê, An Cự, Bất
Di, Bảo Ngũ đến lị sở huyện Vụ Bản. Từ tỉnh đến huyện dài 10.900 thước tây. Lại
từ huyện lị ấy đến Trang Nghiêm qua Vũ Xuyên, Phong Doanh đến đất ý Yên Phùng
Xá, Quy Cầu, An Cừ, Yên Tố, tiếp An Hoà qua Thiêm Lộc, Lạc Chính đến huyện lị Ý
Yên, từ tỉnh đến huyện dài 26.700 thước tây. Còn tiếp từ Quy Cầu qua Vạn Điểm
Phố Cháy vào Phong Doanh bến sông Phú Khê.
-Chính
nam có một đường, từ phố Nam Long bến Đò Quan qua sông Vị Hoàng, đường Cơ xá
điện báo đi Đồng Phù, Đồng Lư đến cầu sắt địa đầu Thứ Nhất, rẽ về hướng tây đất
Bách Tính chùa Ngọc Tỉnh đến lị sở huyện Nam Trực, từ tỉnh đến huyện dài 14.800
thước tây. ở cầu sắt đường quan Thứ Nhất đi về phía nam men đê Tương Nam đến
đường Cổ Lễ, theo phía đông đường đê về An Lãng, rồi Dịch Diệp đến Phương Để,
vượt đò Cựa Gà sông Lác là xã Ngọc Cục vào lị sở phủ Xuân Trường, từ tỉnh đến
phủ 23.700 thước tây. Lại từ đường quan Cổ Lễ đi Mạt Lăng, Lịch Đông ra Quần
Lạc, từ cầu cao Cát Chử nội đến lị sở huyện Trực Ninh, từ tỉnh đến huyện 25.100
thước tây. Từ đường quan báo chỗ Lịch Đông ra Ngặt Kéo đến toà đại lý Quần Lạc.
Lại từ đường điện báo Quần Lạc qua cầu Nghĩa Xá sông Luộc, đi về phía nam đến
Xuân Dục Kiên Trung chỗ chợ Cầu Đôi thì rẽ, một lối về phía nam qua xứ Đông
Biên (Quần Phương Hạ) đến huyện lị Hải Hậu, từ tỉnh đến huyện dài tới 37.400
thước tây, một lối về phía đông nam men theo đường điện báo Lạc Nam ra đồn
Thương Chính chợ Cồn (Quần Phương Hạ) qua Hoà Định, sở điện báo Văn Lý, từ cầu
Nghĩa Xá đi Hội Khê ngoại qua hai xã Kiên Trung và Hội Nam của huyện Hải Hậu,
đi Thức Hoá, Du Hiếu các cầu đến nhà tắm Quất Lâm.
-Chính
bắc có một đường, từ An Trạch qua Đặng Xá đến Cầu Họ, Đồng Văn rồi từ Bình Lục
đi tỉnh lị Hà Nam.
-Một
đường theo hướng đông bắc từ Thượng Lỗi qua cầu Vĩnh Trường, qua cầu Vĩnh Tế xã
Văn Hưng đến Hữu Bị vượt Hoàng giang lên Nam Xang đi vào hạt Hưng Yên.
-Một
đường đi theo hướng tây nam từ Năng Tĩnh (Dương Xá) đi Gia Hoà qua Trình Xuyên
đến Vân Côi thì rẽ về phía đông từ Dư Duệ đi Tử Vinh, Trực Mỹ (Chân Mỹ), Phạm
Xá (Hoàng Xá) đến lị sở phủ Nghĩa Hưng, dài 20.300 thước tây. Từ ga xe lửa Vân
Côi đi thẳng đến ga xe lửa Cát Thượng (Cát Đằng, Thượng Đồng) đi về phía đông
từ Thượng Đồng đến huyện lị Phong Doanh dài 23.400 thước tây. Từ ga Cát Thượng
đi Cầu Cổ qua cầu sắt núi Sơn Thuỷ tới tỉnh lị Ninh Bình.
-Một
đường xe lửa ở Bắc Kỳ từ Thăng Long đi Nghệ An, thuộc địa phận Nam Định có 6
ga. Từ tỉnh đi về phía tây bắc có các ga Đặng Xá, Đồng Văn đến Bình Lục, đi về
phía tây nam có các ga Trình Xuyên, Cát Thượng đến sông Hát chỗ Cầu Cổ tiếp với
hạt Ninh Bình, đường sắt và đường quan song song với nhau.
ĐƯỜNG BỘ
-Chếch
về phía nam tỉnh thành có một đường, từ phố Định Tân đò bái vượt sông Vị Hoàng
địa phận xã Phong Lộc tới Gia Hoà, Kinh Lũng, Giao Cù qua bến Hà Liễu sang hạt
Trực Ninh đến đường Liêu Hải, Đại An chỗ đồn Tam Toà.
-Phía
tây phủ thành Nghĩa Hưng có một đường, từ cổng phủ đi về phía tây đến Phạm Xá,
Trực Mỹ, Tử Vinh đến Dư Duệ (Vụ Bản), đến ga Vân Côi theo đường sắt về tỉnh lị.
Lại một đường từ Phạm Xá qua Thanh Khê, Vỉ Nhuế đến đê Vĩnh Trị vào đất Phong
Doanh. Phí đông thành có một đường từ bến Đông Cao tới Đắc Thắng, Đào Khê đến
đồn Tam Toà, sang Liễu Đê (Trực Ninh) vượt bến Ninh Cường qua Cát Hạ, sang đất
Quần Phương thượng tới lị sở Hải Hậu.
-Phía
đông bắc thành huyện Vụ Bản có một đường từ thôn Hàn Thông (giáp Bình Lục)
thuộc tổng La Xá, men theo đất thôn Khánh, trang Đồng Văn qua Hiển Khánh, Lại
Xá, qua Đại Lão, Liên Xương, Hạnh Lâm (tổng An Lão), Bối Xuyên, Đồng Đội, Tiên
Hương, Xuân Bảng (tổng Đồng Đội), Mỹ Côi, Văn Côi, Ngô Xá (tổng Vân Côi), đến
xã Phú Thứ (giáp đất Quảng Cư) thông với đất Nghĩa Hưng. Lại một đường từ tổng
La Xá (giáp thôn Nguyễn huyện Mỹ Lộc) đến Khả Lực, Lê xá, Tiểu Liêm (huyện Mỹ
Lộc), sang Lập Vũ, Lập Thành, An Thứ, Thái La, Đại Lải đến Tiên Hào (giáp Trạng
Vĩnh huyện Đại An).
-Phía
đông bắc thành huyện Nam Trực có một đường từ cổng huyện đi về phía đông qua
Bách Tính đến cầu sắt Thứ Nhất, men theo đường điện báo về tỉnh lị. Lại có đường
từ Bách Tính ở phía sau thành huyện đi về phía tây qua Cổ Tung, Trực Chính đến
đê Kinh Lũng. Lại có đường ở phía tây nam thành huyện theo đường Bách Tính đi
về phía nam đến giáp giới Ngọc Tỉnh, Duyên Hưng chia hai đường : Một đường đi
về phía tây qua Bằng Hưng, Đồng Quỹ, đến Vân Cù vào địa phận xã Lộng Điền (Đại
An) ; Một đường đi về phía Nam qua cầu Phác (giáp sở Hạ Đồng của Trực Ninh)
thôn Hạ xã Ngọc Tỉnh sang Ngọc Giả đến huyện lị Trực Ninh.
Một
đường ở phía đông nam huyện thành ý Yên, từ cầu cổng huyện đi về phía nam đến
Lạc Chính, Thiêm Lộc, An Hoà, An Liêm, Xuất Cốc, qua phố Cháy đến cống Vạn Điểm
ra ga Cát Thượng. Một đường từ đất An Hoà sang An Tố, An Cừ, đến Phùng Xá đường
quan báo Quy Kiều, qua huyện lị Vụ Bản về tỉnh lị. Một đường từ cổng huyện đi
về phía tây, qua Mỹ Lộc, Lữ Đô đến đồn Trầm Phương.
Một
đường từ huyện lị Phong Doanh, tại cổng huyện theo hướng tây bắc qua Thượng
Đồng ở địa phận thôn Trung đến ga Cát Thượng, men theo đường điện báo hướng
phía bắc về tỉnh. Một đường từ trước cổng huyện đi theo hướng đông rẽ về nam,
từ Thử Mễ qua Uý Uy, Hoà Cụ đến Quảng Nạp thông sang đất Đại An.
Một
đường ở phía tây nam thành phủ Xuân Trường, từ phủ lị trên cống Thượng Phúc rẽ
về phía tây đến Lục Thuỷ, đê Bùi Chu, đi Bắc Câu, Trà Hải lên đê công đi Lạc
Quần qua cầu sắt Nghĩa Xá chia hai đường : Một đường rẽ về hướng đông qua Hội
Khê Ngoại, Thức Hoá, Du Hiếu 2 cầu đến Quất Lâm ; Một đường men sông Lác đê
phía bắc đến Trực Ninh, Hải Hậu.
Một
đường ở phía đông bắc huyện Trực Ninh, từ nơi cổng huyện theo hướng đông cầu
Cao qua Quần Lạc đến Lịch Đông chỗ Ngặt Kéo tiếp với đường điện báo, đi về phía
bắc qua Cổ Lễ, Trung Đông về tỉnh lị, đi về phía đông qua sông Lác đến đồn Lạc
Quần. Lại một đường từ Lịch Đông, cầu Vô Tình qua Mạt Lăng, Phương Để, bến Cựa
Gà đến phủ lị Xuân Trường. Lại một đường nam bắc từ Cát Chử đi về phía bắc qua
Ngọc Giả, về phía tây qua Duyên Lãng đến Liễu Đê thông với đồn Tam Toà ở Đại
An. Lại một đường từ bến sông Cát Chử qua Trung Hoà đến Quần Phương rồi về
huyện lị Hải Hậu.
Một
đường phía tây huyện Hải Hậu, từ cổng huyện đất Quần Phương Hạ qua Quần Phương
Trung đến cầu Ngói Quần Phương Thượng, từ Phương Đê đến bến huyện Trực Ninh.
Chính nam có một đường từ đường điện báo đến chợ Cồn men sông Tân Khai qua Quần
Phương Thượng trại, Phú Văn, trại Ninh Cường đến bến thôn Ninh Mỹ vượt sông Lác
thông sang đất Sỹ Lâm. Phía bắc có một đường ở cổng huyện từ Quần Phương Hạ qua
Kiên Trung, qua cầu Nghĩa Xá đến toà đại lý Lạc Quần. Lại một đường từ chợ Cầu
Đôi Kiên Trung đến sông xã Hà Lạn, rồi ở Tham Di trại đi Quất Lâm. Phía tây bắc
một đường từ bên phải huyện lị đi thuyền đến cửa sông Múc đi ca nô của công ty
Bạch Thái Bưởi lên Lạc Quần qua đầu rô đến Tương Nam để về bến Đò Quan nơi tỉnh
lị.
CẦU
-Ở thành
phố có một cầu sắt, ở phố Định Tiền.
-Ở Đại
An có một cầu sắt, tại sông Chanh chỗ Trạng Vĩnh giáp giới với Gia Trạng (trước
là Thượng Gia).
-Cầu gỗ
5 cái : Giáo Phòng, Quỹ Nhất, Bình Hải, Thượng Thiện, An Hạ (thời Lê Mạt là cầu
đá).
-Cầu gỗ
8 cái : Đào Khê 1 cái, Đông Ba Hạ 1 cái, Đắc Thắng Hạ 2 cái, Hưng Thịnh 4 cái
(thời Lê là cầu đá).
-Vụ Bản
có 6 cầu sắt : trang Đồng Văn 1, Tổ Cầu 1, Bất Di 1, Bảo Ngũ 1, Đồng Đội 1,
Trang Nghiêm 1.
Cầu gỗ 4
cái : Hào Kiệt 1, Vĩnh Lại 1, Trình Xuyên 1, Sa Trung 1 (thời Cảnh Hưng là cầu
Thượng Gia do Bùi Vũ Tương bắc).
Cầu đá 1
cái ở Bách Cốc (thời Cảnh Hưng).
-Nam
Trực có 2 cầu sắt : Thứ Nhất 1, Vân Chàng 1 (đều ở trên đường lớn xưa là cầu
thượng gia).
Cầu gỗ
14 cái : Lạc Đạo 2, Đồng Lư 2, Đỗ Xá 1, Cao Lộng 1, Thứ Nhất 1, Bách Tính 1,
Thạch Cầu 1, Lạc Chính 1, Hiệp Luật 1, Giao Cù 1, Ngọc Tỉnh 1, thôn Thái Cổ Chử
1 (trước thôn này có cầu thượng gia).
Cầu đá
28 cái : Cổng thành huyện tại Thứ Nhất 1, cái nơi Trực Chính giáp Nghĩa Hưng,
Giáp Ba 1, Giáp Tư 1, Trực Chính 1, thôn Thái Cổ Chử 1, thôn Thượng Cổ Chử 1,
thôn Hạ Giao Cù 1, Cổ Tung 1, Duyên Hưng 1, Lạc Chính 1, Trí An 1, Ngọc Tỉnh 1,
Đạo Nghĩa 1, Hưng Nghĩa 1, Hưng Đễ 1, Vân Chàng 1, Nam Trực 2, Xối Tây 2, Gia
Hoà 2, Hiệp Luật 2, Cổ Chử 2, Cổ Gia (làng Dừa) 2 (thời Lê cả hai đều là thượng
gia).
Cầu
thượng gia 2 cái : Thượng Nông 1, Cổ Chử 1.
-Ý Yên
có 7 cầu sắt : Phía trước huyện lị, thôn Phù Kiều 1 (thời Trịnh Tùng là cầu
thượng gia), Phùng Xá ở thôn Trung 1, Phùng Xá ở thôn Cầu 1, An Liêm 1, Vạn
Điểm (thời Trần gọi là Nhất Điểm có cầu thượng gia thời Lê sơ đổi là Vạn Điểm
có cầu gỗ) 1, Hưng Xá 1.
-Phong
Doanh có 5 cầu sắt : Cát Đằng 1 (xưa gọi là cầu gỗ do Đặng tướng công bắc cuối
thời Trần), Cao Bồ 1 (Đoàn Triển cho bắc xưa kia là cầu gỗ), Hưng Thượng 1,
Ninh Xá 1 (cầu ông Tào), An Lạc 1.
Cầu gỗ
có 3 cái : Uý Uy 1 (xưa là cầu đá), Thượng Đồng 1, Cao Bồ 1.
Cầu đá
11 cái : Đông Duy 2, Ngô Xá 3 (thời Lê về trước có 1 cầu thượng gia gọi là cầu
Miếu, tương truyền thời Lý do Hoàng Công Chiêu bắc, đến thời Nguyễn bị bão đổ,
năm Minh Mệnh dân làng bắc cầu đá), Hoằng Nghị 1, Quảng Nạp 1, Thứ Mễ 1 (xưa do
Thân vệ tướng quân Trần Nhân Trứ bắc cầu thượng gia toàn đá, thời Cảnh Hưng Vũ
Huy Trác phá đi, thời Quang Trung bắc cầu đá không có mái), Hoàng Nê 1, Tống Xá
1 (xưa là cầu gỗ có bát nhang thờ ông Đô Oánh chống cướp thời Gia Long bắt trộm
bị trộm đốt nên bắc cầu đá). Vọng Doanh (xưa gọi là cầu ông Dậm).
-Giao
Thuỷ có 3 cầu sắt : Nghĩa Xá (xưa là cầu thượng gia, thời Minh Mệnh bão đổ bắc
cầu tre to để thay vào), Nam Điền (trước là cầu tre), Đông An đều 1 cầu (cầu
Đông An trước là cầu gỗ).
Cầu gỗ
19 cái : Thuỷ Nhai 1, Thượng Phúc 1, Thọ Vực 1 (xưa có cầu thượng gia thời Tự
Đức bị giặc đốt), Xuân Hy 1, Hoành Quán 1, Phú Nhai 1, Xuân Bảng 1, Trà Lũ Đông
1, Trà Lũ Trung 1 (xưa kia là cầu thượng gia thời Tự Đức bị giặc đốt phá), Trà
Lũ Bắc 1, Lạc Nghiệp 1 ( thời Mạc là cầu đá), Lạc Thành 1, An Phú 1, Ngô Đồng 1
(trước bắc cầu thượng gia thời Thành Thái bị tả đạo đốt), Hoành Tứ 1, An Cư 2.
Cầu đá
13 cái : Kiên Lao 8 cái (cầu Đoài trước là cầu thượng gia thời Tự Đức bị tả đạo
đốt), Trà Hải Thượng 2, Lạc Quần bắc 3.
-Mỹ Lộc
có 10 cầu đá lẫn với gỗ lim: Thượng Lỗi 1 (tương truyền xưa là cầu thượng gia
do Lê Tân bắc từ thời Trần, các đời sau đều sửa lại, đến thời Tự Đức bị giặc
phá), Đệ Nhất 1, Đệ Nhì 1 (xưa là cầu gỗ lim thượng gia, thời Tự Đức bị tả đạo
đốt phá), Đồng Phù 1, Mai Xá 1, Gia Hoà 1 (xưa là cầu gỗ), Vụ bản 1, Phú ốc 1,
Đặng Xá 1, Lê Xá 1 (thời Lê về trước là trại Bồ Châu, từ thời Hồng Đức mới đổi
ra Lê Xá).
-Trực
Ninh có 5 cầu sắt : Cát Chử nội 1 (thời Quang Trung về trước là cầu thượng gia,
vốn do Nguyễn Nghĩa Thành người ở Tiên Du thời Hồ về đây lập ấp, thời Tự Đức bị
tả đạo đốt phá, bèn bắc cầu gỗ), Thần Lộ 1, Tuân Lục 1 (trước là cầu tre), Cổ
Lễ 1 (vốn là cầu gỗ), Phượng Tường 1 (trước là cầu gỗ mố đá).
Cầu gỗ 5
cái : Lạc Quần 1, Lịch Đông 2, Cát Chử Nội 2.
Cầu đá
23 cái : Duyên Bình 3 (trước có 1 cầu gỗ thời Gia Long về sau đều là cầu đá),
Quỹ Đê 3, Cát Chử 6, Ngọc Giả 6 (thời Lê đều là cầu nửa đá nửa gỗ, trên có mái
che gọi là phong kiều, tử Cảnh Hưng trở lại đây mất mái, thời Tự Đức bị tả đạo
phá đi, bắc lại bằng gỗ đi tam, thời Thành Thái mới lại gác đá), Cát Thượng 1,
Cát
Hạ 1,
Tuân Chử 1, Trung Hoà 1 (trước là cầu gỗ có tên là cầu Ăn Mày có bát nhang thờ,
thời Tự Đức bị tả đạo đốt mới bắc cầu đá), Xối Đông 1.
-Hải Hậu
có 17 cầu gỗ : Quần Phương Thượng 2, Quần Phương Trung 3 (trước là cầu thượng
gia bị tả đạo đốt), Quần Phương Hạ 6, Kiên Trung 3, Hà Lạn 1, Hà Nam 1, Hội Nam
1.
Cầu đá
46 cái : Phương Thượng 4, Phương Trung 4, Phương Hạ 2, Phương Đê 4 (trước các
cầu này lẫn gỗ, từ thời Minh Mệnh về sau toàn đá), Kiên Trung 3, Hà Lạn 4, Trà
Trung 3, Thanh Quang 3, An Lễ 4, An Trạch 2, An Nghiệp 3, Trà Hải hạ 1, Hội Nam
1.
Cầu gạch
6 cái : Hải Nhuận 4, Hà Quang 1, Hà Lạn 1.
Cầu ngói
1 cái : chợ Lương Quần Phương Thượng. Cầu đá mới 6 cái : Phú Văn 5, Thanh Trà
1.
ĐƯỜNG THUỶ
Một
đường từ bến Đò Quan phố Nam Long đi theo hướng đông bắc ra cửa sông Vị Hoàng
chia hai ngả : Ngả trên theo sông Đệ Tứ đi qua bến sông Tân Đệ, đến ngã ba sông
Hoàng (ngã ba Tuần Vường), một đường từ cửa sông Lục ra sông Ninh qua Kiến An
đến Hải Phòng, một đường từ sông Hồng đi qua đất Hưng Yên đến Hàm Tử, bến
Chương Dương, Thuý ái Bát Tràng đến Hà Nội, một đường từ giang phận Ngô Xá qua
Tương Nam đến đầu Rô chia nhánh, một lối đi theo hướng tây nam ra thượng lưu
sông Lác qua bến Cựa Gà Phương Để, toà đại lý Lạc Quần ra cửa sông Múc Hải Hậu
đến bến phía tây huyện lị Trực Ninh. Tại chỗ đầu Rô theo hướng đông nam đi là
hạ lưu sông Hồng qua Sa Cao, Phú Ân tới đồn thương chính Ngô Đồng, An Tứ ra cửa
Ba Lạt.
Một
đường từ Đò Quan phố Nam Long theo hướng tây nam qua Kinh Lũng, Đông Cao đến
Độc Bộ chia hai ngả, đi theo hướng tây qua Thanh Khê Vĩnh Trị vào tỉnh lị Ninh
Bình, ra Gián Khẩu qua Gia Viễn An Hoá về Nho Quan, đi theo hướng nam qua Tam
Toà đến Quần Liêu, Bình Hải, Quỹ Nhất, Sỹ Lâm rồi Kim Sơn (ba đường thuỷ trên
khách thuyền đi suốt ngày đêm không lúc nào dứt).
ĐÒ NGANG
-Huyện
Đại An thuộc sông Vị Hoàng có 4 bến : Cốc Thành, Bình A, Đông Cao (trước ở bến
này có ngôi đền thờ ông Trần An Nghiệp tướng thời Trần ở Hữu Bị đóng quân ở đây
khai khẩn lập ấp sau có sắc phong là Khai cơ khẩn thổ tế cấp chẩn bần hộ dân
bảo quốc trung thành hướng nghĩa trung đẳng phúc thần và thờ thêm Toàn Lãng
giang bá hàng năm lễ ngày 4 tháng Giêng), Độc Bộ (ngoài đền thờ vua Triệu ra
còn thờ tam giang đại bá tôn thần có miếu riêng).
Tam Toà
: Nơi này có đền thờ con gái vua Triệu và hai vị là con gái quan phủ Ngô Duy
Phú. Chuyện kể rằng vào thời vua Quang Thuận, phủ Ngô định gả cả hai con gái
cho quan phủ Thiên Quan, hai cô này không ưng, ngày rước dâu ra sông hai cô
nhảy cả xuống sông chết. Vua biết chuyện liền phong cho cô lớn là Ngô gia
trưởng nữ Bất Phú đại vương, cô thứ là Ngô gia thứ nữ Tế Chúng địa vương, ngày
kị 10 tháng 7. Nay tại bến sông này thường có vàng hương cầu đảo của thương
khách qua lại.
-Huyện
Vụ Bản thuộc giang phận Vị Hoàng có 3 đò : Cố Bản, Đồng Kĩa, Thi Liệu (xưa là
Đô Liệu).
-Huyện
Nam Trực thuộc giang phận sông Hồng có 5 đò : Đại An (thời Nguyễn mạt do án sát
Nam Định Đỗ Dương Thanh cho khơi bến ở hai bên và xây ba gian nhà để khách dừng
chân khi mưa nắng lỡ việc), Bồng Lai (nơi đây thời cuối Lê có ông Tri huyện
Thiên Bản xây nhà ở phụ tiên, trước gọi là bến Mía), Quán Các, Quy Phú, Tương
Nam.
Thuộc
sông Vị Hoàng có 2 đò : Kinh Lũng, Thi Nam (cả hai bến này Trần Văn Thông khi
qua đây đã cấp công tiền xây mỗi bến ba gian nhà để khách vãng lai dừng gót).
Thuộc
sông Quỹ Nhất có 2 đò : Ngoại Đê, Thạch Bi (cả hai đò này tự cổ đều có miếu thờ
giang bá).
-Huyện
Phong Doanh thuộc sông Hát có 3 đò : Phú Khê (xưa có miếu thờ Yết Kiêu ngày lễ
10 tháng 8), Văn Cú (xưa có miếu thờ Thám hoa Quách Đình Bảo tái lập làng Văn
Cú, xưa gọi là trang Phong Miêu, ông Quách đổi ra Văn Cú), Quảng Nạp (xưa là 1
trại phụ vào Vỉ Nhuế).
-Huyện
Giao Thuỷ thuộc sông Hồng có 7 bến : Dũng Trí, Sa Cao, Phong Miêu (thờ ông
Quách Đình Bảo, dân này vốn ở Phong Miêu Vọng Doanh dời tới, trước chỉ có vài
nhà, tại bến cũng có miếu thờ), Liêu Đông, Phú Ân (bến này do ông Đặng Xuân
Bảng sửa lại và xây quán trọ 3 gian), Ngô Đồng, Hà Cát.
Sông
Quần Cồn : bến Hà Cát.
Sông Lác
3 đò : Ngọc Cục, Bắc Câu, Lạc Quần (cả 3 đò này ông Đặng Xuân Bảng đều cho xây
quán trọ, mỗi quán 3 gian).
Sông Hà
Lạn 2 đò : Nam Điền (trước gọi là bến Vân Min), Du Hiếu.
-Huyện
Mỹ Lộc thuộc sông Hồng có 1 đò : Tân Đệ (trước gọi là bến Bà Vua, thời Nguyễn
đổi là bến Tân Đệ).
Thuộc
sông Vị Hoàng có 3 đò : Lương Xá, Phong Lộc, Đại An (thời Nguyễn có quan Tuần
Vũ Thiện Đễ cho xây 3 nơi ba quán gió để khách trú chân. Ông Vũ quê ở Bách Cốc huyện Vụ Bản).
-Huyện
Trực Ninh thuộc sông Hồng có đò Phương Khê, thời Trần gọi là đò Quán Cói, sang
đầu Nguyễn tránh tên quan phủ địa phương mới gọi là Phương Khê.
Thuộc
sông Lác có 15 bến : Quỹ Đê 2 đò, Liễu Đê 2 đò ở Đông Thọ, Liễu Đê 2 đò ở Nam
Thọ (2 đò này do Đỗ Tông Phát khẩn hoang đi qua cho mở), Ninh Cường (do ông Bùi
Vũ Tương ở Đồng Kĩa mở to và xây 3 quán ở cả hai bên thời Lê mạt), Lác Môn, Tân
Lác (do Phạm Văn Nghị ở Tam Đăng cho xây hai đồn và mở to ra), Hương Cát, Cát
Chử (bến này do Triệu Trung người nước Tống sau khi đánh ở Hàm Tử rồi về đây lập
làng và mở ra), Đại Đê, Ngọc Giả, Ngọc Giả đông, Phú An (trước có đồn của ông
Phạm Văn Nghị trú quân).
-Huyện
Hải Hậu thuộc sông Lác có 2 đò : Ninh Mỹ, trại Ninh Cường. Thuộc cửa Hà Lạn có
đò Hà Lạn (trước gọi là đò Vĩ Nhân, nay đổi ra tên đất).
CỬA CỐNG
Cống là
nơi điều tiết nước phòng hạn, phòng úng. Không những để tưới tiêu nơi đồng
ruộng mà còn để tắm giặt của người. Cũ mới nhiều khi cũng khó xác địng, vậy chỉ
đại lược nêu ra.
-Thành
phố có 8 cửa : Nam Xuyên 2 cửa, Định Tiền 2 cửa, Định Tân 2 cửa, Nam An 1 cửa,
Nam Mỹ 1 cửa. Thời cổ đã có, sang đầu Nguyên có chỉnh lý.
-Huyện
Đại An :
Bên tả
sông Vị Hoàng có 10 cửa : Hải Lạng Thượng 3 cửa, Đắc Thắng Thượng 2 cửa, Cốc
Thành 2 cửa, Hải Lạng trang 1 cửa, Phù Sa thượng 1 cửa, Đông Ba 1 cửa. Tất cả
đều có từ lâu.
Đê bên
phải sông Vị Hoàng có 15 cửa : Đông Cao thượng 3 cửa, Phạm Xá 2 cửa, Thanh Khê
2, Trạng Vĩnh 2, Đông Cao hạ 2, Dương Phạm 1, Vỉ Nhuế 1, Vụ Sài 1, Trạng Vĩnh
1. Đều gia cố lại vào đều thời Nguyễn.
Tại đê
sông Ba Sát có 5 cửa : La Ngạn 2, Cổ Liêu, Phúc Chỉ, Vĩnh Trị. Các cửa này
thường không giữ yên được vị trí do bị vỡ trôi nhiều lần.
- Huyện
Vụ Bản :
Thuộc
sông Vị Hoàng có 4 cửa : Cố Bản, Nguyệt Mại, Bách Cốc, Phú Cốc.
Thuộc
sông Ba Sát có 7 cửa : Khánh Thôn, Việt An, Phong Cốc, Đồng Đội, Tiên Hương,
Xuân Bảng, Phú Thứ. Phần lớn ít phải tu sửa, vốn có gốc từ thời Lê xưa.
-Huyện
Nam Trực : Thuộc đê hữu sông Hồng có 4 cửa : Nam Hà, Từ Quán, thôn Ngoại xã Thứ
Nhất, Bách Tính. Các cửa này đều mới xây sửa lại, không còn nếp cổ.
-Huyện Ý
Yên : Thuộc sông Hát có 3 cửa : Kinh Thanh, Trầm Phương, Hoàng Đan. Các cống
này thời Minh Mệnh đã gia cố, gần đây lại có sửa thêm.
-Huyện
Phong Doanh : Thuộc sông Hát có 8 cửa : Quỹ Độ, Bồng Xuyên, Phong Xuyên, Vọng
Doanh, Sở Trung, Cầu Cổ, Thử Mễ, Đông Duy. Các cống này có Phong Xuyên, Vọng
Doanh là còn dấu vết thời Lê, còn phần nhiều do thời Thành Thái tu sửa cả.
-Huyện
Giao Thuỷ :
Thuộc đê
hữu sông Hồng có 5 cửa : An Hành, Liêu Đông, Đông An, An Đạo, Hoành Đông. Các
cống này đời nào cũng có tu sửa nhưng chưa vĩnh viến.
Thuộc
sông Lác có 4 cửa : Bùi Chu, Bắc Câu, Lạc Quần, Trà Thượng. Các cống này xưa
vốn nhỏ yếu, sang triều ta cứ gia cố dần lên, nay đã khá to.
Thuộc
sông nhỏ Bùi Chu có 1 cửa : ở Trung Linh.
Thuộc
sông Ngô Đồng có 4 cửa : Lạc Nghiệp, An Phú, Nam Điền, Hội Khê (tức cống Tàu).
Các cống này không có di tích cổ.
Thuộc hạ
lưu sông Ngô Đồng có 3 cửa : Hoành Nha, Thức Hoá, Du Hiếu. Các cống này thường
được sửa luôn.
- Huyện
Mỹ Lộc :
Thuộc đê
hữu sông Hồng có 4 cửa : Thượng Trang, Duyên Hưng, Vị Khê, Phú Hào. Các cống
này mới được sửa lại thời Thành Thái.
Thuộc đê
tả sông Vị Hoàng có 5 cửa : Vạn Diệp, Nhuệ Khê Đoài, Tiếu Bắc, Đại An, Bái
Trạch. Các cửa này thời Thành Thái đã được xây lại cả.
Thuộc đê
hữu sông Vị Hoàng có 3 cửa : Đệ Tứ, Năng Tĩnh, Tiểu Cốc. Các cống này đều có
dấu vết cổ.
-Huyện
Trực Ninh :
-Thuộc
sông Lác có 9 cửa : Ninh Cường 3, Cát Chử 2, Tuân Lục 1, Phú An 1, Cát Hạ 1,
Hoà Trung 1. Bên hữu sông Lác có 1 cửa ở An Lãng. Các cống này đều có di tích
cổ.
Thuộc
sông Dõng có 1 cửa tại Liễu Đê. Thuộc sông Ngay có 1 cửa ở Quỹ Đê.
Các cửa
nhỏ có 5 cửa : Tân Lác, Duyên Bình, Sa Đê, Duyên Hưng, Ngọc Giả.
-Huyện
Hải Hậu :
Tổng
Kiên Trung có 2 cửa : Hội Nam, Hà Lạn.
Tổng
Quần Phương có 5 cửa : Phương Đê 2, Quần Phượng Hạ 3. Các cống này hãy còn di
tích cổ.
Tổng Tân
Khai có 11 cửa : Tang Điền 3, Hoà Định 3, Thương Điền 2, Văn Lý 2, Kiên Chính
1. Các cửa này không có di tích cổ.
Tổng Quế
Hải có 8 cửa : Hải Nhuận 2, Quế Phương 2, Trùng Quang 1, Liên Phú 1, Doanh Châu
1, Trung Phương 1.
Tổng
Ninh Mỹ có 34 cửa : Phú Vân 4, Quần Phương Trung trại, Quần Phương Thượng trại,
Xuân Thuỷ, trại Ninh Cường, thôn Phú Văn Nam đều 2 cửa, Ninh Mỹ, Phú Quý lý,
Phú Lễ ấp đều 6 cửa, Quần Phương Hạ trại, Lục Phương đều 1 cửa. Các cống này
luôn luôn tu sửa lại không còn dấu vết cổ.
ĐÊ BỐI
Đê ngăn
nước lụt:
Thuộc
bên hữu sông Hồng từ xã Hữu Bị (giáp đất Nam Xang) đến xã Duyên Hưng giáp Phụ
Long (Phù Luông) đến đê Vị Hoàng, thuộc địa phận Mỹ Lộc dài 7320 thước tây. Từ
Ngô Xá giáp Vạn Diệp nơi đê hữu Vị Hoàng đến Phú Hào giáp Nam Trực Đại An ở địa
phận huyện Mỹ Lộc dài 7211 thước tây. Từ Đại An đến Tương Nam giáp Trực Ninh
dài 9900 thước tây. Từ Cổ Lễ qua An Lãng đến bến Cựa Gà giáp Lác giang nơi ngã
ba đầu rô là địa phận Trực Ninh dài 6276 thước tây. Từ Hành Thiện ngã ba đầu rô
giáp địa phận xã Dũng Trí qua Cát Xuyên Ngô Đồng đến bến Hà Cát giáp cửa Quần
Phượng đệ nhất là địa phận huyện Giao Thuỷ dài ước 18709 thước tây. Đê hữu sông
Vị Hoàng từ cống Đệ Tứ giáp xã Duyên Hưng đến cống Gia Hoà giáp Tân Cốc(Vụ Bản)
là địa phận Mỹ Lộc dài 3000 thước tây. Từ Tân Cốc đến Cố Bản giáp Trạng Vĩnh
Đại An là địa phận huyện Vụ Bản dài 13260 thước tây. Từ chỗ Trạng Vĩnh đến Vĩnh
Trị giáp Đồng Cách Phong Doanh là địa phận huyện Đại An dài 10280 thước tây. ở
bên tả sông Vị Hoàng từ Vạn Điệp đến Ngô Xá Bái Trạch giáp Đồng Côi Nam Trực là
địa phận Mỹ Lộc dài ước 13463 thước tây. Từ Đồng Côi đên Dương Độ giáp Cốc
Thành Đại An là địa phận huyện Nam Trực dài 6100 thước tây. Từ Cốc Thành đến
Phù Sa là địa phận Đại An dài 1150 thước tây.
Thuộc
bên hữu sông Hát từ Kinh Thanh giáp đất Thanh Liêm đến Hoàng Đan giáp Phú Khê
Phong Doanh là địa phận ý Yên dài 9000 thước tây. Từ Phú Khê đến Đồng Cách giáp
Vĩnh Trị Đại An là địa phận huyện Phong Doanh dài 16000 thước tây Thuộc bên tả
sông Hoàng, từ Hữu Bị đến Quang Xán giáp Bảo Long là địa phận Mỹ Lộc dài 7848
thước tây. Từ chỗ phân chi của sông Hoàng thuộc đê sông Ninh từ Bảo Long đến
Cao Đài Khả Lực (Sức) thuộc địa phận Mỹ Lộc dài 7362 thước tây. Từ La Xá giáp
Bình Lục các xã An Ninh, An Nhân đến Phú Thứ (Thứa) giáp Quảng Cư Đại An là địa
phận Vụ Bản dài 28024 thước tây. Từ Quảng Cư đến Vĩnh Trị giáp đê tả sông Hát
là địa phận Đại An dài 10656 thước tây.
Ở bên
hữu sông Lác từ Phương Để bến Cựa Gà đến Lộ Xuyên giáp Bắc Câu Xuân Trường là
địa phận của Trực Ninh dài 5906 thước tây. Từ Tuân Lục giáp Bắc Câu đến Đại An
là địa phận Trực Ninh dài 21028 thước tây. Thuộc đê tả sông Lác từ Dũng Trí
giáp Hành Thiện đến Ngọc Cục giáp Lộng Khê Trực Ninh là địa phận Giao Thuỷ dài
2428 thước tây. Từ Bùi Chu giáp Lộng Khê đến cầu Nghĩa Xá là địa phận Giao Thuỷ
dài 6175 thước tây. Từ cầu Nghĩa Xá đến Xuân Dục giáp Xối Tây Trực Ninh là địa
phận Giao Thuỷ dài 1678 thước tây. Từ Xối Tây giáp Xuân Dục đến làng Tân Lác
giáp Ninh Mỹ Hải Hậu là địa phận Trực Ninh dài 16756 thước tây. Từ thôn Ninh Mỹ
qua trại Ninh Cường làng Phú Quý đến Phú Lễ là địa phận huyện Hải Hậu dài 9916
thước tây.
Đê ngăn
mặn :
Đê tư
thuộc Xuân Trường từ bến Hà Cát phía đông men sông Hồng qua tổng Lạc Thiện,
phía nam men bờ biển đi về phía tây đến thôn Sa Châu tổng Hoành Nha dài 39540
thước tây,
Đê tư
thuộc Nghĩa Hưng từ xã Lạc Đạo sông Lác men bờ biển tổng Sỹ Lâm quay về phía
nam chỗ sông Đài quanh lên phía tây chỗ bảo Đình Hải dài ước 31200 thước tây.
ở về
phía đông huyện Hải Hậu có một đê từ Hà Lạn qua ấp Hải Nhuận đến Văn Lý dài
13646 thước tây.
ở mặt
nam bên tả cửa Lẻ một đê từ chỗ giáp chợ Cồn qua trại Hoà Định rẽ ra Kiên Chính
Tang Điền đến trại Quần Phương hạ dài 8938 thước tây. Bên hữu cửa Lẻ từ chỗ
giáp chợ Cồn qua làng Lục Phương rẽ ra Xuân Thuỷ đến thôn Phú Văn Nam, nam đê
Phú Lễ dài ước hơn 10000 thước tây.
DANH THẦN - DANH TƯỚNG
Trần Quốc Tuấn: Ông là cháu Trần Thái Tông, con của An Sinh vương Trần
Liễu. Lúc nhỏ có thày tướng nói người này mai sau có tài kinh bang tế thế. Lớn
lên gồm tài văn võ có công dẹp giặc giữ yên dân nước. Ông biết quy tụ các tướng
sỹ, suy lòng mình, hiểu lòng người nên những việc khi nêu ra đều được mọi người
tin nghe. Thật là bậc vĩ nhân trên đời hiếm thấy. Lúc sinh ra ở làng Tức Mạc
phủ Thiên Trường, lớn lên đi dẹp giặc đóng quân ở Vạn Kiếp đến cuối đời. Sinh
ngày 11 tháng 12 năm Mậu Tý (1228) mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300) thọ
73 tuổi. Vợ ông là Trần Thị Anh phong Thiên Thành Công chúa. Có 4 trai 2 gái
là: Quốc Hiến, Quốc Uý, Quốc Tảng, Quốc Nghiễm, Đại Hoàng, Quyên Thanh. Nay ở
đền An Lạc ngoài thờ Trần Liễu, Trần Thị Nguyệt còn thờ cả gia đình ông, hằng
năm thiên hạ đổ về chiêm bái rất là đông đúc.
Trần Quang Khải: Ông là con thứ hai của vua Thái Tông được phong là Chiêu
Minh đại vương, Thánh Tông phong là tướng quốc, thời Nhân Tông ông đánh bại Toa
Đô ở Chương Dương. Là người hay chữ có “Lạc đạo thi tập” lưu truyền trên đời.
Nay có đền Độc Lập ở xã huyện Mỹ Lộc thờ ông và công chúa Phụng Dương hãy còn
bia cổ.
Trần Đạo Tái: Người xã Tức Mạc phủ Thiên Trường là con của thượng tướng
Trần Quang Khải. 14 tuổi đỗ bảng nhãn dưới triều Trần Thánh Tông, tước Văn Túc
vương nổi tiếng về văn học có tập thơ “Thiên Trường cảnh vịnh”, con ông là Trần
Văn Bích làm quan đến chức Thái Bảo.
Trần Nhật Duật: Ông là con trai của cung phi Vũ Thị Vượng, vị cung phi thứ
5 của vua Trần Cảnh, sinh 10 tháng 3 năm Nhâm Dần (1242) ông là người học sâu
biết rộng rất giỏi thơ văn. Niên hiệu Trùng Hưng quân Nguyên sang cướp nước ta,
ông vâng mệnh vua ra cửa Hàm Tử phá tan được giặc, Khi mẫu thân ông mất, ông về
chịu tang và giúp dân thôn Miễu tiền của dấy lợi trừ hại. Thời Nhân Tông, ông
cùng Trần Quốc Tuấn về xã Vạn Kiếp chống giặc. Khi bình rồi thì về lập ấp ở xã
Phúc Long huyện Đại An. Năm 72 tuổi ngày 15 tháng chạp thời vua Anh Tông triều
đình đưa linh cữu ông về quê mẹ tại xã Mạt Lăng huyện Nam Chân an táng. Tôn
hiệu là Chiêu Văn dực thánh khuông quốc đại vương. Con trai ông là Văn Hiến hầu
cũng rất có công với mảnh đất Mạt Lăng và Phúc Long mà ông từng cư trú. Câu đối
của Tam giáp Tiến sĩ Bái Dương Nam Chân Ngô Thế Vinh viết về ông:
Đối mẫu
hiếu sự quân trung, vạn cổ anh linh hách trạc;
Phúc chỉ
tiền vọng Doanh hậu thiên thu hương hoả huân cao
(Đối mẹ
hiếu thờ vua trung, muôn thuở oai danh lừng lẫy,
Vọng
Doanh sau Phúc Chỉ trước, ngàn thu hương khói thơm tho).
Trần Khánh Dư: ông được vua Trần cho hiệu thiên tử nghĩa nam Huệ Nhân
vương, ông từng đánh úp quân Nguyên dẹp bọn man rợ núi rừng, Thánh Tông phong
ông là Phiêu Kị Đằng Châu nay các nơi (1) vẫn còn đền thờ, ông có con là Trần
Khánh Hoà từng mở đất ở châu Thảng Do được dân thiểu số tôn thờ tri ân.
[Chú
thích: (1) Dưỡng Hoà, Nha Xá thuộc huyện Duy Tiên, Đông Khê thuộc huyện Đại An,
(nay thuộc huyện ý Yên), Đằng Châu thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.]
Trần Quang Triều: ông là cháu Hưng Đạo vương Quốc Tuấn tước Văn Huệ vương,
từng ngụ tại Quỳnh Lâm Bích Động có nhiều vịnh ngâm sơn thuỷ như tập Cúc đường
di thảo. Vua Minh Tôngcho chức Tư đồ phụ chính, thời kỳ này ông từng ban nhiều
tiền khuyến khích dân chúng khẩn hoang.
Trần Nguyên Đán: ông là chắt của Thái sư thượng tướng Trần Quang Khải từng
theo Nghệ Tông chống giặc được phong Tư đồ phụ chính, thời vua Xương Phù, Hồ
Quý Ly là họ ngoại được trọng dụng ông liệu thế rút lui về ở ẩn, có tập thơ
“Yếm thế vịnh”, “Băng Hồ tập” để lại dưới đời. Khi về Côn Sơn ông có bài “Sơn
cư”:
Khanh
tướng hà vi khởi hữu vịnh,
Ttrung
trinh diệc thị nhất ngu sinh,
Thâm sơn
thái trúc nhàn song thụy,
Ngâm đối
nhi tên cúc vịnh thành
Ở trong
núi:
Khanh
tướng là chi có chuyện vinh,
Trò ngu
nói mãi sự trung trinh,
Hang sâu
rau cháo bên song ngủ,
Gọi cháu
nghe thơ cúc đã thành).
Đào Diệu Thanh: Người xã Mai Xá huyện Mỹ Lộc phủ Thiên Trường. Tháng 8 năm
Bính Ngọ (1426) bà theo ông thân sinh đến tụ quân với Đinh Lễ ở thôn Pháp Vân
xã Hoằng Liệt huyện Thanh Trì. Năm Đinh Mùi quân ta đánh thành Tam Giang quân
sỹ bị sốt rét có tới hơn 300 người bị chết, bà Diệu Thanh đã chế thuốc lá cho
uống cứu sống được hơn hai ngàn người. Bình Định vương liền phong bà là thần y
thân vệ tướng quân. Tháng 4 năm Mậu Thân (1428) bà xin về quê nội nuôi mẹ già.
Tác phẩm có sách Điền gia tứ yếu gồm 4 thiên 25 chương. Bốn thiên là : dũng
yếu, trí yếu, lương yếu, dược yếu, nhưng ba thiên trên đã thất truyền còn một
thiên dược thì tản mạn với tên “Đào thị dung dược yếu phương”. Bà thọ 76 tuổi
được vua ban sắc là thần dược thánh mẫu, hãy còn đền thờ, kị ngày 22 tháng
chạp.
Hoàng Thị Đậu: Người xã Đắc Thắng huyện Thiên Bản vốn quê ở xã Trà Lĩnh
châu Thạch Lâm. Thân sinh bà là Sơn Trà làm phó chỉ huy sứ. Năm Đinh Mão bà
cùng anh là Sơn Khung theo vua Đinh đánh Phạm Phòng át. Dưới triều Đinh bà giữ
chức giám sát ngự sử, khi vua mất bà về lập ấp ở xã Đồi Thượng huyện Đại Loan,
xã Uy Tổ huyện Gia Viễn, xã Mai Sơn huyện Hoà Hiệp. Bà không lấy chồng năm 70
tuổi từ Hoà Hiệp về nơi cha mẹ ở và mất ở đó năm 84 tuổi, bấy giờ là ngày 23
tháng 10. Nay ở xã Đắc Thắng và xã Đồi Thượng hãy còn đền thờ (Đắc Thắng nay
đổi là Đắc Lực, Đồi Thượng nay là Nhân Lý).
Trần
Nhân Trứ : Người phường Quán Đổ huyện Kim Xuyên, quan Thân vệ đại tướng quân có
công đánh Nguyên còn đền thờ.
Nguyễn Hiền: Người xã Dương Miện huyện Thượng Hiền, sau đổi là Dương A huyện Nam
Trực, lúc sinh ra có tư chất thông minh rất lạ nổi tiếng là thần đồng. Năm 12
tuổi đỗ trạng nguyên khi ấy niên hiệu là Thiên ứng đời Trần thứ 16 (1247). Vua
triệu đến hỏi. Ông đáp: Thần trình bệ hạ, mẹ sinh ra thì biết rồi còn ngờ một
vài chữ thì hỏi sư! Vua phán: Trạng còn trẻ chưa biết lễ nghĩa, vậy hãy về học
lễ 3 năm rồi bổ dụng. Nhân thế ông quay về không nghĩ ra nữa. Ngờ đâu lúc sứ
tàu sang có bài thơ “Lưỡng nhật bình đầu nhật, tứ khẩu cộng giao hoan”. Cả
triều không ai hoá giải được, vua bèn triệu ông về kinh. Ngày sứ giả về Dương
Miện đến làng thấy lũ trẻ không biết ông bèn hỏi lối vào nhà, ông không đáp. Sứ
bèn khẩu chiếm một câu quốc âm: “Tự là chữ, cất giằng đầu, chữ tử là con, con
ai con ấy”. Ông đối “Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa nào đứa
này ”. Sứ giả biết ông bèn mời về kinh, vua đưa thư ra, ông liền giảng luôn là
chữ điền. Sứ Tàu kinh ngạc về tâu với vua Nguyên, khen ngợi phong Trần Thái
Tông là An Nam quốc vương. Thái Tông bèn cho ông chức Công bộ Thượng thư. Đến
niên hiệu Minh Mệnh triều ta Hoàng thượng bắc tuần có cử hành một lệ quốc tế.
Đào Sư Tích: Người xã Cổ Lễ huyện Trực Ninh là ông con quan Tiến sĩ Thượng thư Đào
Toàn Bân. Khoa Giáp Dần (1374) thời vua Trần Duệ Tông, đình thí đỗ trạng
nguyên, làm quan Lễ bộ Thượng thư đại hành khiển, xã ấp lập đền thờ tự, hàng
năm xuân thu tế lễ, thân hào trong huyện đều tới chiêm bái. Dòng dõi ông là Bật
Trạc đổi họ Dương, ứng chế hàng số một quan hiến sát Lạng Sơn. Đến thời vua
Minh Mệnh bắc tuần qua miếu quan trạng có tiến hành một lệ quốc tế. Thơ văn
quan trạng tản mát rất nhiều nhưng đều có ý khuyên người ăn ở lương thiện.
Bài Ngẫu
thành:
Dưỡng
miêu diệt thử cổ lương tài,
Sinh tử
duy phòng lão nhược lai,
Mỗi kiến
tiểu ô năng phản bộ,
Vi nhân
bất quý diệc kỳ tài
(Nuôi
mèo diệt chuột cổ suy tôn,
Phòng
lão sinh ra một lũ con,
Mắt thấy
quạ kia mồi mớm bố,
Người
sao không thẹn lại hay hờn).
Bái
Trình nương miếu:
Nan tầm
nam dũng tại gia trung,
Nhất
quốc giai như thán bích khung,
Phu tử
dĩ suy anh khí diệm,
Quan
tham hựu phấn phụ tâm hưng,
Trưng
vương nam bắc nhân sùng trọng,
Trình
tướng chinh phu tặc tán vong,
Thế vận
bất phù mưu bất toại,
Tiền thì
tâm sự hậu đương cung.
(Chiêm
bái miếu Trình nương:
Khó tìm
được người con trai dũng mãnh ở trong nhà,
Cả nước
đều thế đành than thở dưới trời xanh,
Chồng
chết rồi đã làm cho khí phách anh hùng trỗi dậy,
Lại
trông bọn tham quan khiến tâm người đàn bà phấn chấn,
Tiếng vị
Trưng vương nam bắc đều tỏ lòng sùng bái,
Có Trình
tướng đánh dẹp bọn giặc tan nát,
Vận nước
không phò nên ý nguyện không thành,
Dù sao
nỗi lòng ấy đáng để người sau khâm phục).
Bài Nhị
hà:
Thế sự
như giang nhật giáng thăng,
Ttòng
phong thiên đả phá đê tầng,
Nhân
trung hậu lãng truy tiền lãng,
Thuỷ thượng
cao lăng duệ hạ lăng.
Lai vàng
dục an nan hữu vọng,
Nhân
thuyền giai uý tự cư băng.
Duy tầm
thiển xứ y lư bạn,
Thiểu
đắc thỉ hoài đãi tuế chung.
(Sông
Nhị: Sự đời như nước sông lúc lên, lúc xuống, nước theo gió thổi xông vào phá
vỡ đê. Trước mắt thấy sóng sau tiến theo sóng trước, làn cao kéo theo làn thấp.
Kẻ qua lại muốn yên cũng khó mong, người và thuyền đều sợ run như bước trên lớp
băng mỏng. Thôi tìm nước nông bến bụi lau để trú mình, tạm thư giãn nỗi lòng
đợi chờ năm hết).
Lê Hiến Giản: Người xã Thượng Lao huyện Nam Trực đỗ bảng nhãn năm Long
Khánh 2 (1374) đời Duệ Tông thời Trần, quan đến chức đại học sỹ tri thẩm hình
viện sự. Bấy giờ Hồ Quý Ly chuyên quyền, ông vâng mệnh Giản hoàng bày kế để
giết. Một lần Quý Ly đến nhà ông, ông sai môn khách nấp lấy đoản đao đâm không
trúng bị Quý Ly bắt được, ông bị hại. Giản hoàng cho bỏ vào quan tài bằng đồng
đưa về chôn cất, nay có đền thờ cả 4 xã trong tổng phụng sự. Truyền rằng lúc
ông còn sống có khơi một dòng nước giáp với sông Cổ Lễ, trên dòng nước ông
thường cùng bạn bè hay các mỹ nữ chơi bời đàn hát. Người sau tiếc nhớ cảnh cũ
mới đặt tên cho sông nhỏ này là Khe Lạnh Gái Đẹp. ở bên lăng tường phía bắc có
bài thơ:
Nam Hải
trung linh địa,
Đông A
nhất vĩ nhân,
Cấp quân
đồ sát nghịch,
Ưu quốc
vị vong thân.
Hậu táng
nghi văn cựu,
Sùng tu
khí sắc tân,
Bán thân
phân tử địa,
Vu
thượng lẫm cao huân
(Khí
biển nam trung đúc,
Đông A
bậc vĩ nhân,
Vì vua
mưu giết giặc,
Lo nước
thề quên thân.
Hậu táng
nghi văn cũ,
Sùng tu
cảnh sắc tân,
Nửa ngàn
đất phân tử
Ngôi
chót khói tần vần)
Minh
Mệnh Kỷ Sửu khoa (1828) Nam Chân Bái Dương Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Ngô
Thế Vinh lạy đề). Tường phía đông lăng bài thơ của Phạm Văn Nghị Tiến sĩ khoa
Mậu Tuất (1838) quê ở Tam Đăng, thơ nôm:
Đôi chữ
quân thân tại đỉnh đầu,
Vvì ai
nên nỗi lộ cơ mưu.
Dạ đài
sớm đón sao Văn tới,
Hoa biểu
rày xa bóng hạc lâu.
Nam dải
Đào giang bờ bãi đó,
Bắc dòng
mỹ nữ phách đàn đâu.
Cuộc đời
dâu biển đà bao xiết,
Linh
tích thơm tho mãi mãi sau.
Tường
phía nam một bài thơ cũng của ông:
Vương
vốn lòng son người chính trực,
Hầu thời
mỏ đỏ kẻ gian thần,
Vương đà
tuẫn tiết danh còn để,
Hầu chửa
toàn đời vạ đã cam.
Vương
được phúc thần miền cố lý,
Hầu đoàn
tội quỷ đất tha bang,
Ngay
gian sau lại rành hay dở,
Báo ứng
trời đâu trái lẽ làm.
Bia tứ
xã miếu từ xây ở vách tiền đường Xối Thượng xã Cử nhân Hàn lâm viện thị giảng
Giáo thụ phủ Kinh Môn soạn: “Trung nghĩa lục ngã nam trần thế vua Duệ Tông kế
thể thừa diêu. Đại vương quý quán Thượng Lao, đỗ khoa Tiến sĩ khoa thi thứ nhì
Đại học sỹ lại tri Hình viện, rồi thuyên thăng Hiến Giản đại phu. Giận Quý Ly
tiếm quyền vua ngai đen đã lấn có khi ngai vàng. Lòng vương thất gian nan bao
quản, chẳng đá vần chiêu cuốn được sao, ngày đêm lo tính ra vào, vốn người
trung trực cường hào xem không. Sai một khách dấu trong thỉ thủ, quyết mũi này
với kẻ ruột tà. Nào ngờ việc lại xảy ra, Ly thì chưa chết người đà quyên sinh.
Câu báo quốc rành rành còn để, chữ trừ gian thế thế bất di. Gớm ghê thay cái
quạ già, vua Trần thảm thiết thề đà nài sao. Cỗ đồng quan với bao nghi vật, hậu
ban cho táng tất vẻ vang. Sắc cho phụng sự khói nhang, hoàng gia lễ mạo cố
hương miếu đường. Ly chưa chết tâm tràng đã chết, người quyên sinh khí tiết như
sinh, mới hay quân quốc một mình gặp khi hàn tuế nổi danh bách tùng. Rồi sau
lại chép trong lục ấy, bậc thôn Hồ chí khí cùng tường, Xương Phù thái thúc nhà
hoàng, lấp thanh gian ngược để toan hoà bình. Năm Quang Thái giám sinh lúc hạn,
nói Lê thâm thời thoán hãn cam, lai thư của Thị trung quan, Chương hoàng hiệu
với bồ hoàng khác chi, năm Kiến Tân Lưu thì học sỹ, cùng Đô Đài thái uý mưu
kia, lại người nội vệ tông chi, chân cầu nấp đợi người thì chấp trông. Hoặc lúc
đốn sơn mong sat nghịch, chốn hoa lâu thích khách tại bàng, hoặc khi trung quốc
đi sang, Chu Chuân Trần hậu kêu van minh đình. Kể bao xiết chưa thành đã bại,
trời không phù vận hội khôn lường. Xót thay người trước cương tràng, người sau
dạ sắt, gan vàng như in, đạo trung hiếu là gương thần tử, với nhạc quan kim cổ
khác gì, anh hùng thành bại kể chi, ấy thơ vịnh trước sau thì viếng chăng. Rày
hoa biểu vừng trăng vằng vặc. Năm trăm năm dấu hạc xa vời, Đào giang một giải
dài dài, lâu thuyền phảng phất tiếng chèo ngày xưa, kìa di tích trơ trơ còn đó,
đất tử phần này rõ hoả hình, lăng nhà thánh vẫn lưu danh, tường xây bi chí kinh
dinh vừa rồi, lại mỹ nữ dòng khơi ai đặt, chốn trung lưu bình tích quản huyền,
ngậm ngùi đàn vắng phấn tàn, Nam Chân có vịnh lưu truyền hàn khê. Tơi từ miếu
thạch bi ghi tạc, quan phục vương nhạn tháp đều vinh, theo vua đi đánh Chiêm
Thành, trước đã giai tác giai hành nhung công. Thực nhất môn anh phong vạn cổ,
nên người sau hâm mộ lâu dài, tẩm đường thượng hạ mọi nơi, lịch triều bao tặng
muôn người nương trông, vì chính khí vân phong hộ vệ, nhờ dư linh gốc rễ sâu
bền, dẫu rằng dâu biển biến thiên, miếu đường như cũ tư điền bất di, rồi coi
lại bốn bề cảnh tượng, việc cổ kim hoài tưởng biết bao. Lễ giang đền quan trạng
Đào, Quốc sư triều Nội Lý triều linh thông, đông nam Hải Liên phong hai vị,
Linh Lang Vương đông lý đều gần, ngẫm xem vị thánh vị thần, phi danh nhân tắc
ân nhân nước nhà, bấy giờ buổi dân hoà nhập hạ, việc trùng tu bốn xã một lòng.
Hướng thôn chiêm ngưỡng hạt cùng, lời quê cổ muội thuỷ chung dãi bày!”.
Lê Hiến Tứ : Ông là em của Hiến Giản, đỗ Tam giáp Tiến sĩ cùng một khoa với anh, có
công đánh Chiêm Thành, sau khi mất xã Thượng Lao lập đền thờ. Thời vua Lê Chiêu
Tông quân Mạc tiếm thiết, triệu tổ Tĩnh hoàng đế (Nguyễn Kim) phụng Thái tử
Ninh đem quân qua miếu, đêm mơ thấy ông dâng mũ ngọc và xin đi giúp việc quân.
Khi Thái tử lên ngôi liền phong ông là Quan phục linh ứng đại vương. Thời Lê sơ
ông Bùi Ngọc Oánh quan Phụ quốc thượng tướng quân quê xã Thọ Tung có sửa đền
thờ hai vị họ Lê và dâng câu đối:
Huynh đệ
nhất môn giai hiển tích,
Võ văn
lưỡng vị tịnh phong thần
(Anh em
từ một cửa nhà, tiếng hay đều nổi, Văn võ dù chia đôi ngả, đều được phong
thần).
Đinh Văn Lan: Người xã Cao Phương huyện Vụ Bản thời Trần làm quan qua Lục
bộ Thượng thư kiêm Đô sát viện ngự sử. Ông từng làm nhà ở trên núi Gôi đọc sách
ngâm vịnh và dựng chùa thờ phật có hiệu là Vân Trung tự, thường ngâm bài thơ:
Giai thụ
quy điền phụng phật tiên,
Thái xin
chung nhật tại sơn biên,
Công
khanh tróc phọc hà vi giả,
Chiêu mộ
huề tôn cấp thuỷ tuyền
(Bỏ qua
về phụng phật tiên,
Cơm rau
nằm nghỉ ở bên núi này,
Công
khanh vướng vít nào hay,
Sớm
chiều dắt cháu múc đầy suối trong).
Đỗ Văn Biểu: Người xã Cao Phương huyện Vụ Bản thời Trần làm quan Thái tử Thiếu bảo.
Ông vốn thanh liêm, vợ con thường chê ông không giúp đỡ được gì. Ông liền bỏ
quan về nhà mở hàng bán thuốc nam làm kế sống. Khi khá giả ông liền bỏ tiền ra
sửa đền thờ Phạm Ngũ Lão ở Hữu Dụng rồi ở luôn tại đó.
Hoàng Chính: Người xã Trừng Uyên huyện Vụ Bản thời Lê mạt làm quan Lễ bộ Thượng thư.
Hoàng Lễ:
Người xã Trừng Uyên huyện Vụ Bản làm quan tới lại bộ Thượng thư, cả hai ông đều
thờ ở một đền trong xã. Quan Đốc học Nam Định Đặng Đức Địch thời Tự Đức có câu
đối:
Nhất xã
phụng lưỡng Hoàng giai thị Thượng thư hy hữu sự, Tam triều quan nhị bộ thịnh
phi phú hữu khởi vô kỳ .
(Một xã
thờ đôi vị ho Hoàng, đều chức Thượng thư thì hiếm thật, Ba triều quan hai bộ,
mà không giàu có cũng kỳ thay).
Lương Thế Vinh: Người xã Cao Phương huyện Vụ Bản đỗ Trạng nguyên khoa Quý
Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4 (1463), ông làm bài có đề là “Dĩ thánh nhân kế
thiên lập cực” khá hay. Làm quan cương trực gặp việc dám nói thẳng, các văn từ
bang giao thời ấy phần nhiều là của ông soạn thảo, giữ chức Hàn lâm viện thị
giảng trưởng viện sự, nhập thị kinh diên chi sùng văn quán, hộ bộ tả Thị lang
Hương Lĩnh hầu, khi mất được phong phúc thần thượng đẳng ở thôn Cao Hương. Vốn
là người giỏi toán học, hiện có sách Trạng nguyên toán pháp truyền ra ở đời.
Con ông là Lương Trinh Túc làm quan Hiến sát sứ ở Thanh Hoá.
Phạm Kim Kính: Ông là người xã Cổ Sư huyện Thiên Bản, trước khi ra đời
thân phụ thân mẫu mơ thấy có ông già cho một cái gương, giờ Tý ngày 16 tháng
giêng năm Quý Hợi (1683) La phu nhân sinh ra thân phụ bèn đặt cho là Kim Kính
(gương sáng). Năm 28 tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần
(1710) đời Lê Dụ Tông, quan Lễ bộ Thượng thư đi sứ Thanh (1723) đưa lễ chúc vua
Thanh Thế Tông lên ngôi. Ông ứng đối trôi chảy từng có bạn thân ở Thanh triều,
được vua Thanh ban biển vàng có chữ “Vạn thế Vĩnh Lại” (Muôn đời được cậy nhờ).
Nhân thế ông bèn đổi Cổ Sư ra Vĩnh Lại rồi mở chợ dạy nghề đan cót, bắc cầu sửa
chùa giúp dân nghèo khó, khuyên đào giếng lấy nước ăn. Trong huyện người ở
Trình Xuyên là ông Bùi Vũ Tương (vốn họ Vũ) có mộ ở bến Kứa cũng nối được chí
nhân đức ấy. Làm quan đến chức tham tụng nhập thị kinh diên trí sỹ gia tặng
Thiếu bảo Lại quận công. Ông làm quan trải 3 triều có nhiều tiếng tốt, song
cũng không ít tiếng xấu do đồng liêu ghen ghét bịa đặt. Tác phẩm cũng có khá
nhiều. Bài nói về quê của ông:
Tự Tượng
Lâm lai Tây Hán tiên,
Chí
Thiên Bản địa lập trang điền,
Ngũ gia
hải xứ giai nông hộ,
Thiên
tải bần trung tạo hiếu nguyên.
Cự Hán
Bạch công tiêu đại kính,
Phong
thần Đinh chủ tác tiền xuyên.
Hữu công
ư quốc ư dân tại,
Vạn cổ
thanh danh nhật nguyệt huyền
(Từ
Tượng Lâm về thời Tây Hán,
Đến vùng
Thiên Bản lập trang điền,
Năm nhà
nơi biển đều cày cấy,
Ngàn
thửa trong nghèo giữ hiếu hiền.
Chống
Hán Bạch công nêu nghĩa lớn,
Phong
thần Đinh chúa định ngôi trên,
Với dân
với nước công lao lớn,
Rực rỡ
thanh danh nối tiếp truyền).
Ông Phạm
Khiêm ích có bài tán thán (lúc này ông Khiêm ích đang vâng mệnh chỉ đạo khắc
các sách tứ thư chư sử):
Mấy
người quan cách lại như ông,
Biết
cảnh dân cùng nỗi khổ chung,
Lương
thiện lấy đâu cơm áo đủ,
Thấp hèn
nào được sử kinh thông,
Bào đỏ
xênh xang người thẹn bóng,
Lầu cao
chót vót bước xem ngông.
Tâu vua
chẳng xét than đời loạn,
Về với
quê hương chốn ruộng đồng.(1)
[Chú
thích: (1) Nguyên văn là thơ Nôm.]
Vũ Vĩnh Trinh: Người xã An Cự huyện Thiên Bản đỗ khoa Minh kinh năm Kỷ
Dậu(1429) quan Hàn lâm viện đại học sỹ quyền Lễ bộ hữu Thị lang kiêm bí thư
giám, tri kinh diên sự. Tác phẩm có khá nhiều, đương thời ông đã có công lao
xây đền Hồ Sen(2) và dâng câu đối:
Vạn cổ
phúc tinh huy, công tại hạ nhân dân thượng lại; Thiên thu hoa cổn diệu, linh ư
thượng đẳng quốc do tư (Sao phúc chiếu làng thôn, công với hạ dân còn nhớ mãi;
Sắc tặng lời hoa mỹ, vị thần thượng đẳng nước nêu tên).
[Chú thích : Hồ Sen nay thuộc xã Vĩnh Hào
huyện Vụ Bản]
Phạm Duy Chất: Người xã Ngọ Trang(3) (vốn là Giá ấp tiên tổ họ Phạm đổi ra
Giá trang dần đổi thành Ngọ Trang) huyện Thiên Bản trước làm quan thiên sự chỉ
huy, đỗ đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi (1659) đời Lê Thần Tông,
quan đông các đại học sỹ. Ông từng có công sửa chùa Tiên Sơn, đền chùa Hổ Sơn
tại khu vực quê hương. Câu đối đề ở chùa núi Hổ (Vương Phi tự):
Hùng Huy
tuần kiểm ngộ thú lai hương danh Hổ Phục, Trần nữ Chiêm hồi cư ấp nội tự hiệu
Vương Phi
(Huy
vương thời Hùng đi tuần thấy có con thú đến bèn đặt tên làng là Hổ Phục, Cô gái
họ Trần ở Chiêm thành về ngụ tại nơi này nên chùa có hiệu là Vương Phi)
[Chú
thích : Ngọ Trang: Tên thôn thuộc xã Liên Minh huyện Vụ Bản.]
Trần Kỳ:
Người xã An Thái huyện Thiên Bản, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi
năm Hồng Đức 18(1487) làm quan Đông các điện đại học sỹ. ở nhà nơi ngồi uống
nước đọc sách ông viết câu đối:
Thư thị
lương điền canh bất tận,
Thiện di
chí bảo dụng vô cùng.
(Sách là
ruộng tốt của nhà cấy cày không hết, Thiện ấy điều hay nên nhớ dùng mãi vẫn
còn).
Tương
truyền bố mẹ ông cầu tự ở đền Lập Vượng sau đẻ ra ông, khi hiển đạt ông có tu
sửa và tiến câu đối:
Gia hiếu
quốc trung Tang ấp di lai nam Lập Vượng ; Khứ thuyền trắc lĩnh Vu sơn thác tích
bắc Thao giang”. (Nhà hiếu nước trung, từ Tang ấp dời về trang Lập Vượng; Bỏ
thuyền leo núi, vùng Vũ sơn để dấu đất Thao giang).
Nguyễn Sùng Nghê: Người xã Hiển Khánh (xưa gọi là Phúc Khánh, khi thi đỗ rồi
Sùng Nghê đổi ra Hiển Khánh) huyện Thiên Bản đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân
khoa ất Mùi năm Hồng Đức 6(1475), quan Hàn lâm viện thị thư. Ông là người phụng
mệnh vua tu sửa đền thờ Trần Hưng Đạo đại vương trong cả nước gồm Kiếp Bạc, Cố
Trạch và An Lạc.
Bùi Tân:
Người xã Kim Bảng huyện Thiên Bản (ông có bố làm thuốc lấy đến bà thứ ba vẫn đẻ
con gái, bố ông lập đàn cầu đảo ở chùa trên núi, sau đẻ ra ông) đỗ đệ Tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất năm Cảnh Thống thứ 5 (1502) làm quan hình
bộ hữu Thị lang. Ông có câu đối tạ ân ở đền núi:
Hậu Phác
hữu linh thần khởi khả tha phương kỳ cảnh phúc; Nhân lương vô phú quý, duy tư
ấp nội tổ trần cơ.
(Trong
núi Hậu Phác có thần thiêng, sao phải đi đâu cầu phúc lớn; Vốn chất hiền lành
không phú quý, chỉ quanh trong ấp tỏ niềm riêng).
Phạm Hùng:
người xã Hổ Sơn huyện Thiên Bản đỗ Hoàng giáp năm Hồng Đức Tân Sửu (1481), làm
quan tới Hàn lâm viện Biện lý Hình bộ Hữu Thị lang.
Trần Đức Hoành [Trần Bích Hoành] : Người xã Vân Cát huyện Thiên Bản, đỗ Đệ
nhất Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (tức Thám hoa) khoa Mậu Tuất năm Hồng Đức thứ 9
đời Lê Thánh Tông, làm quan đến Đông Các điện Đại học sỹ. Ông từng dựng nhà ở
xã Đồng Du huyện Bình Lục để ở, ông có câu đối dâng lên đền ấy:
Lý sơ tứ
tộc di lai, hương yên bất cải,
Trần quý
cửu trùng sắc tặng từ miếu gia cao.
(Thời Lý
sơ bốn họ dời về, hương khói nhờ ơn còn nếp cũ;
Đến Trần
quý chín trùng ban sắc, miếu đền nhân thế lại tôn cao).
Trần Duy Năng: Người xã An Cự huyện Thiên Bản, chế khoa Tiến sĩ, ông giận
vì dân làng chê ông nghèo, nên dời về Đông Sơn Thanh Hoá ở, làm thuốc nuôi gia
đình. Ông có thơ nói việc:
Nhân vị
tiền đa tầm vọng bái,
Ngã do
túc thiểu khí vô nghinh.
Cư hương
khởi đắc hàn huyên hảo,
Hà luyến
vi tình khứ bất ninh.
(Người
vì tiền của đến xum xoe,
Ta ít lương
ăn tránh rước nghè.
Nóng
lạnh chốn quê đâu có tốt,
Tiếc gì
tơ tóc nỗi niềm kia).
Vũ Duy Thiện: Người xã An Cự huyện Thiên Bản, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất
thân khoa Mậu Tuất năm Hồng Đức thứ 9 (1487) thời Lê Thánh Tông, sau còn đỗ
khoa Hoành từ. Đi sứ Minh có nhiều tiếng tốt. Quan Hiến sát sứ, nhập thị kinh
diên, tước tử. Ông được giao việc tu sửa đền thờ các vua Đinh Lê ở đất xã
Trường Yên huyện Gia Viễn.
Phạm Công Thưởng: Người xã Hồ Sen huyện Thiên Bản, đỗ Hương cống triều Lê,
quan Quốc tử giám Tư nghiệp. Ông là người tạc tượng ông Lê Khắc Phục và vợ ông
Khắc Phục là Nguyễn Cúc Hoa (ngày sinh 1 tháng 2, ngày kỵ 10 tháng 10) người
tái lập đất Hồ Sen năm Đại Bảo thứ nhất (1440).
Đinh Thao Ngọc: Người xã Hải Lộ huyện Tây Chân (Trừng Hải Trực Ninh) đỗ Tam
giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 đời vua Lê
Uy Mạc, làm quan Giám sát ngự, xã này thờ làm phúc thần, triều ta phong là bản
cảnh thành hoàng.
Phạm Quang Diệu: Người xã Phương Để, đỗ Hương cống triều Lê, quan Tri phủ
Kiến Xương, đi sứ phương bắc được vua khen ngợi ban cho 10 mẫu đất ở trong xã.
Ông đem 5 mẫu đất tiến vào chùa, còn 5 mẫu bán đi bắc cầu đá gọi là cầu Phụng
Sứ.
Ngô Tiêm:
Người xã Cát Đằng huyện Vọng Doanh, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân thịnh
khoa Kỷ Hợi năm Cảnh Hưng 40 (1779) làm quan Đông các Hiệu thư kiêm Đốc trấn
Lạng Sơn, gặp loạn Tây Sơn vua Chiêu Thống cho ông chức Tổng quản thiên hạ cần
vương binh mã hậu giá Chinh man đại tướng quân, sau về quê dạy học. Thời Gia
Long cho ông lá cờ có chữ “Thanh tiết khả thượng” (khí tiết trong sạch đáng
khen), cho ông chức Thái Hoà điện học sỹ tước là Nghĩa Phái hầu. Sau cáo lão về
quê mất năm 70 tuổi.
Đồng Nhân Đức: Người xã Đồi Tam huyện Đại An, đỗ Thám hoa triều Lê làm
quan tới Trấn quốc chỉ huy sứ có công đi đánh giặc ở Lạng Sơn, nhiều năm bọn
phỉ không tới xâm phạm bờ cõi.
Đồng Công Viện: Người xã Hải Lạng huyện Đại An, thi hương đỗ đầu, năm 32
tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Vĩnh Thịnh
(1712) làm quan Giám sát ngự sử.
Phạm Gia Môn: Người xã Đồi Tam huyện Đại An (sau đổi ra xã Dương Hồi và Đồi Tam), năm
30 tuổi chưa theo học, mà vẫn cùng cha đi đơm đó. Một hôm thân phụ ông mơ thấy
đức ông chùa Lở bảo rằng sao lại bắt Thám hoa đi kiếm cá, bèn cho ông đi học.
Năm 53 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ Đệ tam danh khoa Đinh Sửu niên hiệu Sùng
Khang 12(1577) đời Mạc Mậu Hợp, làm quan Thị lang tước Nhân Hà bá. Khi Mạc
thua, ông khởi quân giữ Đồ Sơn chống lại quân Lê cùng với Nguyễn Khánh Toàn
(quê ở Tượng Sơn, Kim Bảng) liên đới. Nguyễn Khánh Toàn chết, ông cô quân trốn
đi làm sư, bị lộ tung tích, quân Lê bắt đươc hành tội. Ông ngửa mặt lên trời
đọc :
Nghĩa sỹ
trung thần tiết,
Thanh
thiên bạch nhật tri,
Tử tôn
như hữu phúc,
Tu đãi
thái bình thì…
(Khí
tiết kẻ trung thần nghĩa sỹ có trời mây soi xét, nếu lũ cháu con mà có phúc thì
nên nhớ nếu làm quan phải đợi tới thời bình trị).
Hà Nhân Giả : Người xã Lựu Phố Huyện Mỹ Lộc (thời Lý gọi là xã Thuần
Thái, khi Trần Thủ Độ ở mới có tên là Lựu Phố). Ông nhà nghèo, khi đi học chỉ
học lỏm viết chữ bằng than, khoa Nhâm Tuất năm Cảnh Thống 5 (1502) đỗ Thám hoa,
làm quan Hiến Sát sứ rồi di cư ra ở thôn Hoa Dương thuộc vùng huyện Kim Động.
Nay ở Lựu Phố có mộ thân sinh ông Nhân Giả.
Vũ Tuấn Chiêu: Người thôn Xuân Lôi xã Cổ Da huyện Tây Chân có nhà ở
phường Nhật Chiêu thuộc Hoài Đức, năm 51 tuổi đỗ Trạng Nguyên khoa Đinh Mùi
(1475)
đời Lê Thánh Tông, nay còn mộ và đền thờ tại xã Cổ Da. Ông có bài Ngôn chí:
Duy tư
túc thự dữ phong y,
Chiêu mộ
cung thân tại thủ tuỳ,
Phú quý
mộng trung giai tán lạc,
Thiên ưu
nan miễn cải canh thì
(Cốt cho
no ấm được thì thôi,
Sớm hôm
thân mình thấy thảnh thơi,
Dẫu có
sang giàu đành mộng ảo,
Tính sao
tránh khỏi sự xa dời).
Phạm Khắc Thận: Người xã Cổ Tung huyện Nam Chân, đỗ đệ Nhị giáp Tiến sĩ
xuất thân khoa Quý Sửu năm Hồng Đức thứ 24 (1493) quan Hàn lâm hiệu lý. Năm
Đinh Tỵ (1497) làm Phó sứ sang Minh cầu phong, sau Lễ bộ Thượng thư tước bá.
Năm 70 tuổi trí sỹ, bấy giờ Vạn Kiếp có giặc, ông vâng mệnh đi đánh song vì
quân ít ông chết trong đám loạn quân. Nay tại Kiếp Bạc có đền cả tổng cùng thờ.
Câu đối:
Giáp
khoa vĩnh kỷ Tung sơn cổ,
Chính
khí trường lưu kiếp hải đông.
(Khoa
giáp nêu mãi ở đất Tung sơn từ cổ,
Khí tiết
còn chảy dài ra nơi kiếp hải xứ đông).
Nguyễn
Tử Đô quan Ngự sử cùng thời có thơ than:
Dục chấn
thanh danh khi Kiếp tặc,
Triều
quan đố kị vị tri yên,
Cô quân
nan viễn chung vi bại,
Thế sự
tòng lai thử bất tiên
(Khinh
quân cướp tỏ tiếng hay,
Triều
quan ngầm ghét chuyện này biết chưa, Cô quân thất bại không đùa,
Việc đời
đâu phải từ xưa chưa từng).
Hoàng Vĩnh Trân: Người xã Nam Chân huyện Nam Chân, ông là em ông Hương cống
Quốc Điện. Năm 29 tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân thịnh khoa Kỷ Hợi năm
Cảnh Hưng 40 (1779), quan Hiến sát sứ Kinh Bắc. Tây Sơn đem quân vây thành, ông
chết được vua cho đưa về quê an táng, sức dân xã lập đền thờ. Ông Ngô Tiêm đỗ
cùng khoa với ông có thơ viếng:
“Quốc
phá thân vong sự dĩ nhiên,
Thùy
nhân vô tử tử vinh yên.
Lê gia
thiên số tương chung hỹ,
Bất vị
thời quai khí cựu viên”.
(Nước
tan thân mất rõ ràng rồi,
Thân mất
mà vinh ở dưới đời,
Khí số
họ Lê chừng đã hết,
Vẫn
trung không đổi mặc cơ trời).
Trần Xuân Vinh: Người xã Năng Lự huyện Mỹ Lộc, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất
thân khoa Kỷ Mùi năm Cảnh Thống 2 (1499) quan Đô cấp sự trung. Ông từng xướng
xuất sửa miếu Thành hoàng làng Năng Lự. Ông có bài thơ nói việc làng:
Năng Lự
thành hoàng miếu
Cổ thì
Trần Oánh Kiện Khê hồi,
Hậu hữu
Lê gia nhị tử lai,
Dương Xá
cải vi Năng Lự ấp,
Nam châu
kiến ốc đắc thư hoài.
Niên dư
tứ thập nhân do ký,
Sự vị
thiên thu lễ diệu ai,
Điểu tận
cung tàng tòng cổ hữu,
Trung
thần danh tướng cố luy tai!
(Miếu
thờ thành hoàng Năng Lự:
Trước
đây có Trần Oánh từ đất Kiện Khê dời về, kế đến hai người họ Lê lại đến. Bèn
đổi tên Dương Xá ra Năng Lự, dựng nhà đất tại phương nam ở thấy có chút yên
lòng. Vì công việc đến bây giờ mới qua hơn bốn mươi năm, nên trong lúc lễ bái
vẫn tỏ rõ sự bùi ngùi. Chim hết rồi thì cung tất bỏ xó, há không rõ hay sao mà
các vị trung thần danh tướng vẫn sa vào cạm bẫy).
Trần Văn Liên: Người xã Vũ Lao huyện Nam Chân có văn tài đỗ giám sinh
triều Lê có nhiều chiến công, quan Thị lang, tước Cương Quận công, vua cho cả
đạo Thái Nguyên làm thực ấp. Khi họ Trịnh chuyên quyền ông xin vua về ở Vũ Lao
để ông mưu đồ trừ Trịnh. Việc bại lộ Trịnh vương đuổi ông về quê. Ông cho dân 2
dãy nhà để làm đình, nay dân xã thờ ông làm bản cảnh thành hoàng, thời Nguyễn
có sắc phong phúc thần.
Đào Đăng Quỹ: Người xã Đệ Nhì, đỗ Tam giáp Tiến sĩ, quan Tham tụng Thượng thư kiêm
Chi nội ngoại quân quốc trọng sự tước Tế Mỹ hầu.
Dương
Xân: Người xã Cao Hương huyện Thiên Bản, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân
khoa ất Mùi niên hiệu Đại Chính thứ 6 (1535), quan chức Hình bộ Hữu Thị lang,
tước Diên Hà bá. Ông là người sửa to chùa Bà Đanh (Đinh Sơn tự) và đền núi Ngọc
bên bờ sông Hát. Nay tại chùa còn câu đối:
Liễu ấp
hữu Đinh nương lai tự từ thiên quảng đại;
Cao
hương chí Dương tướng thi tiền hương hoả đắc huân cao (Tại ấp liễu có bà Đinh,
tới đây mở rộng đền chùa;
Nơi làng
Cao Hương có vị tướng họ Dương đem tiền cấp cho, vì thế hương khói thờ tự càng
thêm nghi ngút).
Về sau
ông nhận chức Tán trị Thừa chính sứ.
Trần Văn
Bảo: Người xã Cổ Chử huyện Giao Thuỷ, 27 tuổi đỗ Nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ
nhất danh, tức Trạng nguyên năm Cảnh Lịch 3 (1550), quan Đông các đại học sỹ
rồi Thượng thư tước Đôn Quận công, đi sứ Trung Quốc không trở về, dân xã thờ
làm phúc thần. Con ông là Trần Đình Huyên.
Trần Đình Huyên: 26 tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất
niên hiệu Đoan Thái 1 (1586), đời Mạc Mậu Hợp, sau theo về nhà Lê, quan Hình bộ
Thượng thư, rồi đi đâu không biết rõ tung tích. Dân xã ấy thờ bố con ông, thời
Nguyễn có sắc phong. Có một số thơ văn tản mát ở khắp nơi. Bài viết về Thành
hoàng xã Thọ Tung:
Trất
phong mộc vũ đáo tha hương,
Kỷ độ
lâm nguy bất cải thường,
Vị quốc
vong gia thùy đắc thử,
Thiên
thu hương hoả đắc tư chương
(Tắm mưa
gội gió chốn quê người,
Bao độ
gian nguy chẳng đổi dời,
Vì nước
quên nhà ai sánh được,
Ngàn thu
hương khói sắc phong rồi).
Câu đối
đền Công Đức xã Nhân Trạch huyện Đại An:
Công
khuyến tản dân hồi Trúc lý,
Đức lưu
hương phá kỷ Lê thì
(Công
khuyên dân tản cư, trở về làng Trúc, Đức nêu trong hương phả ghi nhớ thời
Lê(1)).
[Chú
thích : 1. Làng Trúc: tên xưa của làng Nhân Trạch, đền thờ công chúa Xuân Hoà
con của vua Lê Thế Tông năm Mậu Tuất (1598), còn thờ 2 con gái của chúa Trịnh
đó là Ngọc Hoa, Ngọc Thuỷ.]
Nguyễn Địch: Người xã Vụ Sài huyện Đại An, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa
Nhâm Tuất (1442) niên hiệu Đại Bảo làm quan Tả Thị lang. Ông có tập “Nhàn du
kiến văn ký”. Bài Vãn bái Lạc viên từ:
Thiếu
thời thánh tướng sở cư hương,
Tráng
đại lai Kinh cổ thuyết chương,
Ngự bắc
công huân thiên tải kính,
Phù nam
nhân nghĩa vạn niên phương,
Do tồn
Kiếp lĩnh sinh từ xứ,
Bất cải
thang châu tổ khảo đường
Sơ vãn
văn tri lưu sổ ngữ,
Bút đề
liêu thụ nhất tâm hương
(Buổi
chiều chiêm bái ở đền Lạc Viên(1):
Thiếu
thời thánh tướng ngụ nơi này,
Lớn đến
kinh sư chẳng ở đây,
Chống
Bắc công lao người trọng mãi,
Giúp Nam
nhân nghĩa tiếng thơm đầy.
Sinh từ
núi Kiếp còn như cũ,
Tổ miếu
Châu Thang(2) chẳng đổi thay
Mới đến
bút nêu đôi chữ để,
Nén
hương xin dãi chút niềm tây).
[Chú
thích : (1) Đền Lạc Viên: tức đền Bảo Lộc thờ Hưng Đạo vương hiện nay ở xã Mỹ
Phúc
huyện Mỹ Lôc. (2) Châu Thang: ở đây chỉ đất Bảo Lộc nơi vợ chồng ông Trần Liễu
ở.]
Trần Dự :
Người xã Phương Bông khoa Ất Mùi (1535) triều Mạc đỗ Hương cống quan Mãnh Dực
tướng quân tước là Hương Phong hầu thời Mạc Đăng Doanh. Ông có câu đối đề ở đền
quê:
Vũ hữu
thi ngâm thiên tải do truyển Trần đại chế; Canh vô thuế nạp vạn niên thường ký
miếu phu huơng
(Múa lại
hát ca, ngàn thuở vẫn truyền vị tướng đời Trần chế tác; Cày không nộp thuế, vạn
năm vẫn nhớ, một lòng có lệ miếu phu).
Trần Đăng Huỳnh: Người xã Vị Dương đỗ Tam giáp Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên
hiệu Quang Bảo 2 (1556) quan án sát đô Ngự sử, từng giữ chức Trấn thủ Hiến Nam,
sau trốn về quê, rồi đi Bắc Ninh làm thuốc. Ông có bài thơ :
Sinh cư
loạn thế diệc tân toan,
Tả hữu
nan khuynh nghĩ vị an,
Dữ tử vi
y y thực túc,
Mai danh
mao ốc cố hương hoàn
(Sống
trong đời loạn lắm chua cay,
Tả hữu
không khuynh kế khó thay,
Nghề
thuốc cùng con cơm áo đủ,
Quê
nghèo nặng tiếng cũng hay đây).
Trần Lệ :
Người xã Vị Hoàng huyện Mỹ Lộc, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu
niên hiệu Bảo Thái 2 (1721). Ông có bài “Quá Duyên Hưng Hoa Nga mẫu tử tù” :
Sinh nhi
đương giáo tự Hoa Nga,
Quốc sự
gia tình lưỡng đảm hoà,
Thiên
bất vụ Trưng nan vãn trụ,
Anh
thanh vĩnh thọ đối sơn hà
(Qua đền
thờ mẹ con Hoa Nga ở Duyên Hưng:
Sinh con
nên dạy tựa Hoa Nga,
Vai gánh
đều hai nợ nước nhà,
Trời
chẳng phò Trưng người khó giữ,
Tiếng
hùng thọ mãi với sơn hà).
Trần Văn
Nghĩa: Người xã Mai Xá huyện Mỹ Lộc. Ông là người giỏi vỗ về dân tộc thiểu số ở
miền Tây, mỗi khi họ nghe thấy ông đến là tụ tập đem trâu dê rượu
gạo ra
dâng, ban đầu làm quan Trấn thủ, đến niên hiệu Khánh Đức thứ 3, tuổi già về
nhận chức Lại bộ Hữu Thị lang.
Đỗ Hựu:
Ông quê ở xã An Nhiễm (thời Trần là xã Vân Tập, thời Lê đổi ra Đại Nhiễm) huyện
ý Yên. 38 tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng
Đức thứ 9 (1478), quan Lại bộ tả Thị lang, từng chiêu dân khai khẩn miền đất
ven sông Hát. Rồi đi sứ nước Minh có nhiều tiếng tốt.
Vũ Kiệt:
Ông vốn nhà nghèo tuy là dòng dõi trâm anh, song lại mẹ thứ sinh ra, do vậy bị
mẹ cả ghen ghét, bố không chăm sóc được, phải ở riêng tại quê nhà tại Sa Lung
(trước gọi là Vân Lung, thời Lê sơ gọi là Sa Lung) thuộc huyện Tây Chân. Ông
rất hiếu học, đỗ đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất năm Hồng Đức
thứ 9 (1478), làm quan Đô cấp sự trung, lương bổng kém cỏi, ít lâu sau thì cáo
quan nuôi mẹ dạy con, vui với gia đình. Ông có câu đối viết về đền thờ Đức
thánh Trần:
Trần
hưng Lý phế thiên số bản an bài nan đắc ung dung phi đức chính.
Nội trị
ngoại hoà địa hình tòng hoạch định tối năng thành đạt vị nhân danh. (Trần thịnh
Lý suy, số trời đã định thế rồi, khó được tốt lành không giữ đức; Ngoại hoà nội
trị bờ cõi vạch ra rõ rệt, công lao thành đạt vốn vì nhân).
Đinh Trung Thuần: Người xã Phùng Xá huyện ý Yên, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất
thân khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18 (1487) làm quan Thượng thư. Ông vốn
tính cương trực, không nghĩ chuyện giàu sang nên dời bỏ đường khom lưng uốn
gối, về quê dắt cháu làm vườn. Nhà tuy chỉ đủ ăn mặc nhưng vốn sẵn lòng nhân
từ, thấy ai gặp cảnh éo le, đói khổ, tật bệnh, ông đều gắng gỏi giúp đỡ. Thường
ngâm bài:
Khuất
tất cung yêu vọng phú nhiêu,
Bất như
bần bạc mộ như triêu,
Phong y
túc thực cư hương quán,
An thụy
song biên cảnh ngưỡng kiêu
(Uốn gối
khom lưng để giàu có,
Sao bằng
nghèo túng trước như sau,
Cơm no
áo ấm nơi quê quán,
Yên giấc
luôn luôn bước ngẩng đầu).
Vũ Triệt Vũ:
Người xã Đào Lạng huyện Đại An, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi
niên hiệu Hồng Đức 18 (1487) lúc đó 28 tuổi, quan Trấn thủ Bắc Giang, sau về
Hình bộ Tả Thị lang.
Nguyễn Tử Đô: Người xã Mặc Tử huyện ý Yên, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân
khoa Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thống thứ 2(1499) năm 36 tuổi, quan Tri phủ Nghĩa Hưng
rồi về kinh với chức Phó đô ngự sử, đến năm 55 tuổi thì về kéo chài cùng với
con trai lớn.
Phạm Tráng:
Người xã Dũng Nhuệ (trước gọi là Hùng Nhuệ) huyện Giao Thủy, đỗ Tam giáp đồng
Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502), ban đầu làm
quan Tri huyện Giao Thủy rồi về kinh làm quan Ngự sử, dần dần đến Hữu Thị lang
bộ Lại. Ông từng ban tiền sửa chùa Thần Quang trong 3 năm từ Hồng Thuận năm đầu
đến thứ 3 (1509 – 1511).
Nguyễn Ý:
người xã Thư Nhi [Thụy Nhi nay là Ngọc Thỏ] huyện Giao Thủy đỗ Tam giáp đồng
Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) làm quan Thái bộc.
Vũ Đoan:
Người xã Đồng Lư huyện Giao Thủy, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý
Mùi niên hiệu Thống Nguyên thứ 2 (1523), làm quan nhà Mặc đến chức Thượng thư.
Ông là người có công tái lập làng An Hoạch phục hưng nghề đục đá.
Trần Thụy:
Ông vốn họ Bùi sau đổi họ Trần, người xã Độc Bộ huyện Đại An, đỗ Nhị giáp Tiến
sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức thời Mạc năm thứ 3 (1529) làm quan
Hàn lâm viện Hiệu thảo. Ông đã tâu với vua xây lại đền Triệu Vương và đền thờ
Trương Hán Siêu ở làng Phúc Thành.
Ngô Bật Lương: Người xã Bái Dương huyện Tây Chân, đỗ Tam giáp đồng Tiến
sĩ xuất thân khoa Canh Tuất năm Cảnh Lịch thứ 3 (1550) đời Mạc Phúc Nguyên,
quan Tả Thị lang, mất trên đường đi xứ nước Minh. Ông có bài thơ làm trước khi
mất:
Phụng sứ
nan từ cảm đạo nan,
Ngược tà
xâm nhiễu bất năng an,
Thử thân
vô vọng hồi hương nhật,
Dao bái
thương khung mạo dạ hàn.
(Khôn từ
đi sứ trước ngai rồng,
Sốt rét
giờ đây chữa chẳng xong,
Hết cách
về quê đành ngã xuống,
Lạy trời
cao tít giữa đêm đông).
Đào Minh Dương: Người Hộ Xá huyện Giao Thủy, có tên nữa là Đào Dương Bình
tên tự là Dĩ An, tên hiệu là Tế Sinh, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa
Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550) đời Mạc Phúc Nguyên, quan Tri huyện
Giao Thủy, Dinh điền sứ ở Hồng Châu rồi chức Thừa chính sứ tước Hải Nam hầu.
Tống Hân:
Ông còn có tên nữa là Sơn Thành, tên tự là Xuân Vũ, tên hiệu là Hoà Phong,
người xã Vũ Lao (vốn tên là trại Hải Điền, thời Trần Anh Tông đổi ra Vũ Lao)
huyện Giao Thủy, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn niên hiệu
Quang Bảo thứ 2 (1556), quan Trấn thủ Lạng Giang rồi chức Thượng thư. Ông có
bài thơ nói về đền thờ Đào Cam Mộc ở Vũ Bị (Bình Lục) tên là Quá Đào công miếu:
Văn đạo
tiền thì Lý nữ lai,
Sinh cư
thử xứ dữ phu hoài,
Khẩn
hoang tế cấp do lưu phả,
Thiên cổ
hương đăng hữu miếu đài.
(Qua
miếu ông Đào :
Nghe nói
năm xưa Lý nữ về,
ở ăn đầm
ấm nghĩa phu thê,
Giúp
nghèo khẩn đất còn ghi chép,
Đền miếu
lưu truyền cảnh xứ quê).
Phạm Như Giao: Người xã La Xuyên (thời Trần gọi là trang Văn ấp) huyện
Giao Thủy, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất năm 44 tuổi niên
hiệu Sùng Khang thứ 9 (1514) đời Mạc Mậu Hợp, quan Tham tán tây đạo tướng quân,
sau theo nhà Lê chức Thừa chính sứ. Ông được trên giao cho việc xây to đền Đặng
Dung ở Can Lộc: “Phụng kiến Đặng tướng công từ ”:
Nhật dạ
duy trừ Bắc tặc xâm,
Thiệp
sơn độ hải bất tha tâm,
Hát
giang phòng trại Minh binh tị,
Già cảng
thần mưu địch thế trầm,
Tử chiến
kỷ nhân tương đối ngữ,
Sinh đồ
thuỳ cá hữu công thâm.
Cố hương
tiểu miếu chân kham thán, Phụng chiếu kim lai triển kính thầm. (Vâng mệnh xây
đền thờ Đặng tướng công:
Đêm ngày
lo kế đánh quân thù,
Không
đổi lòng son kẻ trượng phu,
Sông Hát
bố Phòng Minh sợ tránh,
Bến Già
mẹo giỏi địch lâm nguy.
Mấy ai
quyết tử lòng tương tự,
Nào kẻ
tìm sinh mẹo được như.
Ngôi
miếu cố hương sao bé thế,
Mệnh
trên xây dựng lạy ông phò).
Trần Hữu Thành: Người xã Đào Lạng huyện Đại An, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân
khoa Bính Tuất niên hiệu Đoan Thái thứ 1 (1586) đời Mạc Mậu Hợp năm 29 tuổi.
Ban đầu lãnh chức Trấn đông tướng quân, sau làm Đề hình Giám sát ngự sử, rồi
theo về nhà Lê.
Đặng Phi
Hiển : Người xã Thuỵ Thỏ huyện Giao Thủy, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân
khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ năm thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông, năm 62 tuổi
quan Trấn thủ Thanh Hoa, sau về kinh chức Đông các đại học sỹ, thọ 84 tuổi. Ông
vâng mệnh tu sửa cố đô Hoa Lư có câu đối thờ vua Đinh :
Bình nội
loạn chế triều nghi, chính thống sơ khai tề Bắc địa; Định đô thành miễn thuế
lệ, hoàng cương thuỷ kiến tại Nam thiên.
(Dẹp nội
loạn, chế triều nghi, kỷ chính thống mở ra quy cách nghiêm trang cùng đất Bắc;
Định đô thành miễn sưu thuế, nếp đế vương xây dựng, nghênh ngang lừng lẫy dưới
trời Nam).
Nguyễn Công Bật: Người xã Khang Cù huyện Tây Chân, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ
xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức 4 (1652), ban đầu quan Đốc học
Thanh Hoa sau giữ chức Lại khoa Cấp sự trung. Vì chán cảnh quan lại chèn ép
nhau nên ông xin về nghỉ tại quê nhà.
Pham Duy Cơ: Người xã Từ Quán huyện Giao Thuỷ, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân
khoa Canh Dần năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710) đời Lê Dụ Tông, ban đầu quan Tri phủ
rồi Hình khoa Cấp sự trung tước Thuận Hải bá.
Dương Bật Trạc: Tên tự Xích Thuỷ, tên hiệu Thuần Chất người xã Cổ Lễ huyện
Nam Chân, cháu xa đời của Đào Sư Tích đến đời Bật Trạc thì đổi ra họ Dương vì
trước Bật Trạc có nhiều điều bất hạnh. Ông đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân
khoa ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715) đời Lê Dụ Tông, quan Tri phủ Thiên
Trường rồi Hiến sát sứ xứ Lạng Sơn, ông có tập thơ “ Giang sơn tri ngộ”.
Phạm Hữu Du: Người xã Quán Các huyện Giao Thuỷ, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân
khoa Giáp Thìn năm Bảo Thái thứ 5 (1724) đời Lê Dụ Tông, chức Bình Tây tham tán
nhung vụ, rồi Sơn Nam Hiến sát phó sứ, bị nghi hoặc, vua vời về kinh chức Công
bộ Thị lang tước Quán Anh bá. Ông có tập sách “Bần gia dụng dược” bằng thơ nôm
rất có giá trị.
Hoàng Phạm Dịch: Người xã Từ Quán huyện Giao Thuỷ, do vợ ông giục giã chuyện
công danh nên ông phải cố gắng mà ông thì không muốn, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ
xuất thân khoa Mậu Thìn năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), quan Giám sát ngự sử, song
một thời gian vợ ông lại xui ông bỏ quan về trông cháu.
Vũ Huy Trác:
Người xã Lộng Điền (vốn trước là xã Lương Điền, thời Mạc đổi ra xã Lộng Điền)
huyện Đại An, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn năm Cảnh Hưng
thứ 33 (1772) đời Lê Hiển Tông. Quan đến chức Hàn lâm viện Thị giảng Lễ bộ Tả
Thị lang kiêm Quốc tử giám Tư nghiệp. Tác phẩm của ông có : Giang nam lão phố,
Nhất thân thường hành quốc âm ca và văn bia thần tích…
Phạm Trọng Huyến: Ông còn có tên là Việp, tên tục là Sỹ Huy, tên hiệu là
Dũng. Ông người xã Dũng Quyết (tên cổ là trang Liêm Tuyền, thời Quang Thuận đổi
ra Dũng Tuyền rồi đổi ra Dũng Quyết) huyện ý Yên, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất
thân khoa Mậu Tuất năm Cảnh Hưng thứ 39 (1778) ban đầu nhận Tri phủ Lị Nhân,
sau làm quan Hàn lâm viện thị chế tri hộ phiên rồi bị bãi nhiệm. Thơ văn có tập
ý Yên chư cổ tích đề vịnh. Ông có bài thơ Dĩ quán :
Tự cổ
thuỳ ngôn phụ mẫu quan,
Vi quan
như thử vị vi hoan,
Thanh
tâm khởi hữu vinh thân kế,
Quả dục
an năng lạc thế gian,
Trần lý
giáng thăng hà túc đạo,
Bần
trung khất cái bất bàng khan,
Nghi vô
thái quá thường đầu niệm,
Đố kị
tòng lai dĩ quán hàn”
(Đã quên
:
Từ xưa
nói mẹ cha dân,
Quan mà
thực thế ai cần làm chi,
Thanh
tâm vinh hiển nỗi gì,
Nếu ngăn
đa dục vậy thì hết vui,
Trần ai
không ngại khóc cười,
Nghèo
hèn gần gũi với người ăn xin,
Luôn
luôn vừa phải mới nên,
Nhân
tình ghen ghét đã quen nỗi niềm).
Phạm Công Minh: Người xã Dị Sử, thời Lê Hồng Đức đỗ Hương cống, làm quan
đến Hàn lâm viện Thị giảng. Tác phẩm có: Triều dã kiến văn lục và nhiều thần
tích văn bia.
Phạm Văn Bàn: Người xã Quán Các huyện Giao Thuỷ, đỗ Hương cống triều
Lê, gặp
loạn Tây Sơn ông ra Vân Đồn ở, sau phò vua Gia Long, làm quan đến chức Trung
quân Đô thống chế. Ông có tập thơ Trần thế khổ hơn 60 bài.
Bùi Chí:
Người xã An Lãng huyện Trực Ninh, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ khoa Tân Mão, có công làm
yên bờ cõi nơi phên dậu, trải qua bốn triều đều được ơn tri ngộ, tước Lại Quốc
công. Ông có tập thơ Đa tạ hoàng thiên.
Đỗ Lưu:
Người xã Tuân Lục huyện Trực Ninh, đỗ Hương cống triều Lê, quan Huấn đạo rồi
Tri huyện, cùng đại thần Lê Xí đánh giặc, còn dẹp quân Chiêm có công lớn. Sau
có giặc Hoài Lan vào cướp, ông phụng mệnh đi dẹp bị tử thương, mối đùn thành
mộ. Thời Lê Thánh Tông khi triều đình cử quan khác đi đánh trừ được sai sứ đến
tế phong tước truy tư.
Đỗ Tuyển
: Người xã Tuân Lạc huyện Trực Ninh, đỗ Hương cống triều Lê, quan đến chức Thừa
chính sứ.
Nguyễn Văn Doãn: Người xã Lạc Quần huyện Trực Ninh, đỗ Hương cống khoa Giáp
Tuất, làm quan Huyện doãn ở Tiên Lữ.
Trần Huy Hoằng: Người xã Nam Lạng, đỗ Hương cống khoa Đinh Dậu làm quan Đốc
học rồi Lễ bộ Tả Thị lang.
Ninh Trọng Mưu: người xã Văn Lãng, đỗ Hương cống khoa Quý Mão triều Lê,
quan Tri phủ Thượng Hồng, rồi Quang Hiếu điện Tự thừa.
Phạm Đình Huyên: Người xã Cát Chử huyện Trực Ninh, đỗ Hương cống khoa Nhâm
Ngọ, làm Huyện doãn huyện Thuý Vân rồi Tri phủ phủ Thiệu Thiên.
Phạm Duy Đức: Người xã Cát Chử, Quốc tử giám Giám sinh khoa Nhâm Ngọ
triều Lê, quan Huấn đạo phủ Trường Khánh, rồi Hàn lâm viện.
Vũ Duy Viên: Người xã Trung Lao huyện Trực Ninh, đỗ Giám sinh, quan Đốc học rồi Hình
bộ Thị lang thời Lê.
Vũ Duy Ninh: Người xã Trung Lao huyện Trực Ninh, đỗ Giám sinh, quan Huyện doãn thời
Lê.
Vũ Duy Bình: Người xã Trung Lao huyện Trực Ninh, đỗ Giám sinh thời Lê, quan Hồng lô
Tự khanh.
Nguyễn Tuấn Thông: Người xã Mạt Lăng, đỗ Quốc tử giám Giám sinh triều Lê,
quan Phủ doãn phủ Thiệu Thiên.
Trần Duy Đán: Người thôn Vọng Doanh, đỗ Hương cống khoa Nhâm Tý, quan
Huyện doãn huyện Quỳnh Côi thời Lê, có tập Quỳnh Côi phong vật chí.
Nguyễn Xuân Huyên: Người thôn Vọng Doanh huyện Trực Ninh, đỗ Hương cống khoa
Quý Dậu.
Đặng Khuyến: người xã Ninh Cường huyện Trực Ninh, đỗ Hương cống khoa tân Mão thời Lê,
quan Trung tán đại phu rồi Hàn lâm viện Hiệu lý.
Phạm Công Đẩu: Người xã Cát Hạ, đỗ Hương cống triều Lê, quan Đốc học.
Bùi Viết Tuân: Người xã Phương Để, đỗ Hương cống khoa Quý Hợi, quan Huyện
doãn huyện Vĩnh Liêm thời Lê.
Phạm Hanh:
Người xã Phương Để, đỗ Hương cống khoa Quý Hợi triều Lê quan Phủ doãn phủ Tĩnh
Gia.
Bùi Viết Thuật: Người xã Phương Để huyện Trực Ninh, đỗ Hương cống khoa Quý
Hợi thời Lê, quan Huyện doãn huyện Đông Anh.
Vũ Dịch:
Người xã Phương Để, Hương cống khoa ất Mão triều Lê, quan Giáo thụ phủ Trường
Khánh rồi quan Tri phủ Vĩnh Tường.
Nguyễn
Giản: Người xã Phương Để, đỗ Hương cống khoa Đinh Dậu triều Lê, quan Giáo thụ
phủ Nghĩa Hưng.
Dương Kỳ:
Người xã Cao Hương huyện Thiên Bản, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi triều Mạc,
quan Tán trị thừa chính sứ.
Hoàng Ngọc:
Người xã Quần Phương Trung, đỗ khoa Quý Hợi Hương tiến, rồi Tam giáp Tiến sĩ
thời Cảnh Hưng.
Trần Lệ:
Người xã Quần Phương Trung, đỗ Hương tiến khoa Đinh Dậu, khoa thi hội năm Mậu
Tuất thời Cảnh Hưng, quan Giáo thụ ở Quốc tử giám.
Phạm
Tướng công : Tên huý là Huyền, tên tự là Thiện ẩn, mỹ tự là Khoa qua ở xã Vụ
Bản huyện Mỹ Lộc, làm quan Huấn đạo ở Giao Thủy rồi Hình bộ tả Thị lang.
Vũ công:
Người xã Hạc Bổng, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ triều Lê, làm Trấn tướng vùng Đông Hải,
tên huý là Bình.
Trần Công:
Người xã Hạc Bổng đỗ Nhị giáp Tiến sĩ triều Lê, tên huý là Tiệp, tên tự là Cần
Cán, quan Lạng Sơn hiến sứ.
Vũ Công Xuyên: Tên tự là Đại Giang, người xã Thôi Ngôi, đỗ Tiến sĩ thời
Lê, quan Tri phủ Yên Khánh, tước Vương Tường bá.
Vũ công:
Tên huý là Thế Bá, người xã Thôi Ngôi, đỗ Tiến sĩ triều Lê, quan Công bộ tả Thị
lang, tước An Xuyên bá.
Phạm công:
Tên huý là Giai, người xã Đông Cao, đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan Binh bộ tả
Thị lang.
Vũ Công Tế:
Người xã Đào Khê, đỗ Tiến sĩ triều Lê, quan Tả Thị lang, tước Tô Xuyên bá.
Đinh Chấn Cương: Người xã Lương Xá Hạ huyện Đại An, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ
triều Lê, quan Tri phủ Thiên Trường, sau Binh khoa Cấp sự trung, nay có đền
thờ. Thân phụ ông là Đinh Thúc Thông thờ ở Quán Vinh Gia Viễn.
Đỗ Công Hoan: Người xã Lương Xá Hạ, đỗ Tam giáp Tiến sĩ triều Lê, quan
Đốc trấn Cao Bằng.
Trần Công Lâm: Tên tự là Duy Tâm người xã An Hạ huyện Đại An, đỗ Tiến sĩ,
quan Lại bộ tả Thị lang triều Lê.
Vũ Giang:
Tên tự là Đào Xuyên, người xã An Hạ huyện Đại An, đỗ Tiến sĩ triều Lê, quan Đề
hình giám sát ngự sử.
Đinh
Công Quy : Người xã An Hạ, đỗ Thám hoa triều Lê mạt.
Trần công:
Tên huý là Tâm, người xã An Trung huyện Đại An, đỗ Tiến sĩ triều Lê.
Vũ Công
V: người xã An Hạ huyện Đại An, đỗ Tiến sĩ triều Lê, quan Tả Thị lang, sau về
vườn dạy con em trong xã học tập.
Trần
Công Trí : Người xã An Trung huyện Đại An, đỗ Tiến sĩ triều Lê, quan Thiên
Trường chuyển vận phó sứ.
Nguyễn
Công Huy : Người xã Cổ Liêu huyện Đại An, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ triều Trần, quan
Trấn thủ Bồng Châu, sau làm đến Nhập thị á thượng phẩm đại hành khiển.
Phạm
Công Tất : người xã Phù Đô huyện Đại An, đỗ Tiến sĩ triều Lê, quan Hàn lâm trực
học sỹ.
Nguyễn
Quốc Bảo : Người ở Trúc Lại Hải Dương về ở xã Cổ Lũng huyện Nam Chân, đỗ Tam
giáp Tiến sĩ xuất thâ, quan Ngự sử đô đài.
Nguyễn
Danh Nho : Người xã Tần Khê Hải Dương, nhà ở xã Cổ Nông huyện Nam Chân, đỗ Tam
giáp Tiến sĩ triều Lê, quan Công bộ Hữu Thị lang, câu đối đền thờ phúc thần họ
Nguyễn ở Cổ Lễ :
Tự Thanh
lai hựu phụ Thanh quân kiếm qua hữu phúc, Chí Lê đại bốc cư Lê ấp nhân đức nan
danh.
(Từ đất
Thanh đến, giúp vị vua khởi nghiệp ở Thanh, đánh dẹp có nhiều điều
phúc; Đến
làng Lễ định cư ở Lễ, tiếng người nhân đức vang xa).
Rải rác
khắp nơi có nhiều chữ nghĩa của ông.
Ngô Đình
Thực: Người xã Bách Tính huyện Nam Chân, thi hội đỗ Tam giáp Tiến sĩ, làm quan
Triều liệt đại phu, Đông các đại học sỹ, tước Diên Trạch bá thời Lê.
Nguyễn
Thượng Nghị : Người xã Đồng Quỹ huyện Nam Chân, làm quan Giám sát ngự sử thời
Lê.
Trần Như
Thứ : Người xã Thứ Nhất, đỗ Hương cống triều Lê, làm quan Tán trị thừa chính
sứ.
Phạm Đôn
Chính : người xã Hiệp Luật huyện Nam Chân, đỗ Hương cống, làm quan Thái bộc tự
khanh thời Lê. Ông có bài thơ nói về đền thôn Hoa xã Vị Khê :
Hoa thôn
từ
Cổ đại
truyền lai hữu thử từ,
Tự Tô
Trung tướng chí dân cư,
Giáo
thương hoa thụ bài môn ngoại,
Khuyến
dĩ nhàn điền dưỡng tiểu ngư.
Tiền giả
Nguyễn công khai thử địa,
Hậu mông
Trịnh nữ bá ân dư.
Kim nhân
thuỳ ngữ tư công giả,
Du tại
tường biên xổ lại lư.
(Đền
thôn Hoa:
Trước
còn để lại có ngôi đền,
Thờ
tướng Tô Trung tính rất hiền,
Khuyên
đặt cây hoa nơi cửa trước,
Dạy nên
nuôi cá chốn nhàn điền,
Nguyễn
công xưa tới khai hoang đất,
Trịnh nữ
sau về góp đức duyên.
Mấy kẻ
trong thôn nêu việc cũ,
Bát
nhang ghẻ lạnh dựng tường bên).
Nguyễn Sử :
Người xã Thượng Nông huyện Nam Chân, đỗ Hương cống triều Lê, quan tới chức Hiến
sát sứ.
Bùi Ngọc
Vinh : Tên tự Khiêm Trai, dòng dõi của Phụ quốc thượng quân Bùi Ngọc Oánh thời
Lê sơ, đỗ Hương cống thời Lê, quan Tri huyện Đường Hào. Ông đóng góp tiền sửa
đền chùa, giúp người nghèo thiếu, có nhiều công đức với dân, được thờ tự, cầu
đảo nhiều lúc rất thiêng, thường có sắc phong. Nay dân Thọ Tung huyện Nam Chân
vẫn thờ phối ở chùa, tức ông Hậu Bùi.
Nguyễn
Khản: Tự là Bình Giang người xã Đông Duy huyện Vọng Doanh, Giám sinh khoa Quý
Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thời Lê, làm quan Tri phủ Tư Nghĩa rồi vào Thị nội văn
chức Đại lý tự khanh.
Lã Quang
Dụ : Người xã Thượng Đồng huyện Vọng Doanh, đỗ Hương cống triều Lê, quan Tri
phủ Trường Khánh.
Hoàng Văn
Nặc : Người xã Đô Quan huyện Vọng Doanh, đỗ Hương cống khoa Mậu Tuất, thi hội
đỗ tam trường, làm quan Hồng lô Tự khanh thời Lê.
Mai Xuân
Viên : Người xã Thử Mễ huyện Vọng Doanh đỗ Hương cống, quan Giáo thụ phủ Trường
Khánh triều Lê.
Vũ Kiện
: Người xã Đông Biểu huyện Vọng Doanh, đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ thời Lê.
Vũ Hy :
Người xã Đông Biểu huyện Vọng Doanh, đỗ Hương cống khoa Kỷ Dậu thời Lê.
Nguyễn
Đình Bảng : Người xã Cầu Cổ huyện Vọng Doanh, đỗ Hương cống.
Hoàng Bá
Dung : Đỗ Hương cống triều Lê, làm quan Tri huyện huyện Kim Trà.
Nguyễn
Huy Phú : Người xã Ngô Xá huyện Vọng Doanh, đỗ Hương cống khoa Mậu Tý thời Lê.
Đinh
Khắc Đôn : Người xã Cát Đằng huyện Vọng Doanh, đỗ Hương cống khoa Mậu Tý thời
Lê.
Đinh Hựu
: Đỗ Hương cống triều Lê.
Nguyễn
Đức Thuần : Người xã Lỗ Xá huyện Vọng Doanh, đỗ Giám sinh triều Lê, quan Tri
phủ, chống quân Tây Sơn bị tử trận.
Nguyễn
Kim Thước : Người xã Hưng Xá, đỗ Hương cống triều Lê.
Phạm
Xuân Thực : Quê ở xã Phong Xuyên huyện Vọng Doanh, đỗ Hương cống triều Lê.
Phạm
Xuân Thành, Phạm Xuân Trị: Đều quê ở xã Phong Xuyên, đỗ Hương cống triều Lê.
Đinh
Đăng Khôi : Người xã An Cừ huyện ý Yên, đỗ Hương cống khoa Kỷ Dậu niên hiệu
Hồng Đức thời Lê.
Nguyễn
Đình Giám : Người xã An Cừ huyện ý Yên, đỗ Hương cống thời vua Hồng Đức.
Đinh Như
Lan : Người xã An Cừ, đỗ Hương cống khoa Bính Tý (1756) niên hiệu Cảnh Hưng
thời Lê, quan Công bộ tả Thị lang tước An Châu bá. Ông từng phụng mệnh sửa đền
thờ các danh tướng, có bài thơ về ông tổ xã Ninh Xá huyện Vọng Doanh:
Ninh Xá
tổ từ:
Lê triều
mộc tượng xảo kham khoa,
Tòng đế
lai cư nhất độ hà,
Cổ thị
thiết lâm thiên tứ tĩnh,
Kim nhi
Ninh Xá địa liên gia.
Nghiệp
sư bách thế do tồn tích,
Điền tổ
thiên thu thạch vị ma,
Hương
hoả tư công ưng bất cải,
Huấn nhi
minh kính diệu phi ngoa
(Đền thờ
xã Ninh Xá:
Triều Lê
thợ khéo đáng khen,
Theo vua
qua bến sang bên đất này,
Rừng lim
xưa vắng đêm ngày,
Trở
thành làng mạc tới nay liền nhà.
Tổ nghề
chữ phả chưa nhoà,
Khẩn
hoang đá khắc nêu ra vẫn còn.
Khói
nhang thờ phụng giữ gìn,
Dạy đàn
con cháu việc làm nào hơn).
Ngô Khắc
Cẩn : Người xã Lật Điền huyện Ý Yên, đỗ Hương cống khoa Nhâm Ngọ thời Lê Cảnh
Hưng, quan Huấn đạo.
Lê bá
Cẩm : Người xã Tiêu Bảng huyện Ý Yên, đỗ Hương cống khoa Nhâm Ngọ niên hiệu
Cảnh Hưng.
Đinh Vũ
Thường : Người xã An Tố, đỗ Hương cống khoa Quý Mão niên hiệu Cảnh Hưng, quan
Huấn đạo Cẩm Thuỷ. Ông là người nổi tiếng hay chữ ở huyện Ý Yên thời ấy. Bài
thơ nói về đền thờ tướng Đông Hồ ở Trúc Lý(1) huyện Đại An :
Trúc
trang Đông Hồ miếu
Kháng
Nguyên thuỳ ngữ nhất Trần Vương,
Hựu hữu
Đông Hồ phả tự chương,
Vị ngũ
bách tiền từ thượng tại,
Lịch
thiên tải hậu ấp lưu phương.
Trúc
Trang cố địa tân niên chí,
Vãng
khách sơ lai cựu bất tường.
Nan tri
thử nhật anh hùng sự,
Diệp
tống lương phong uý Bắc cường.
(Miếu
thờ Đông Hồ ở làng Trúc:
Chống
Nguyên đâu phải một Trần Vương,
Còn có
Đông Hồ đáng biểu dương,
Chưa nửa
ngàn xưa đền vẫn thế,
Rồi muôn
thu nữa tiếng bay hương.
Chuyện
qua sao biết nơi trang Trúc,
Năm mới
nào hay bước ở đường.
Sự
nghiệp anh hùng ai rõ được,
Gió may
ớn lạnh lá vàng rơi).
Câu đối
đề ở đền Thánh tổ xã Tống Xá huyện Vọng Doanh(2):
Thánh tổ
Lý thì lai, chú tạo chí kim dân thượng ký;
Thần
nhân thiên thượng tế, bão ôn tự cổ ấp do lưu.
(Thời Lý thánh tổ về đây, đúc chế tới nay dân
vẫn nhớ ; Trên trời thần nhân tới giúp, ấm no từ cổ ấp trông mong).
Hiện nay
còn tập sách Đinh Huấn quan nhàn ký của học trò ông là Đinh Trọng Quỳ viết, lưu
tại nhà ông Nguyễn Văn Tiệp xã Yên Vệ huyện Yên Khánh.
[Chú
Thích : (1) Trúc Lý: tức Trúc Lý trang, sau là Bạch Trúc, nay thuộc xã Yên Phúc
huyện ý Yên.
(2) Nay
là thôn Tống Xá, xã Yên Xá, huyện Ý Yên.]
Nguyễn
Xuân Tháp : Người xã Hành Thiện (xưa là Hành Cung rồi đổi ra Hành Thiện) huyện
Giao Thuỷ. Ông tên huý cha mẹ đặt là Xuân Huy, vì tránh người cao tuổi của họ
bèn đổi ra Tháp, tên hiệu là Nghĩa Thành, tên tự là Đại Hoà. Lớn lên lo lấy vợ
có con, vợ ông khuyên trông con để bà chuyên tâm cày cấy, song vì bậc trưởng
giả thúc ép nên ông phải đi học và thi đỗ, năm Quý Dậu (1813) thời Gia Long đỗ
Hương cống, bổ Tri huyện Yên Mô, Đốc học Ninh Bình, nhưng bà bảo ông phú quý
phù vân mà chắc đã phú quý gì, do vậy ít lâu sau ông lại về với gia đình. Khi
ông nhận Đốc học từng chỉ đạo việc sửa đền thờ vua Đinh ở cố đô, ông viết bài
“Phụng tu tiên miếu đế:
Trường
An tiền đại đế vương đô,
Mỗi đáo
nan vong cổ động lô,
Chinh
phạt hữu công thành quốc bản,
Quy mô
vô ý tạo hoàng đồ.
Chỉ
duyên tuỳ ngộ hành đa sự,
Bất lự
phòng vi hoặc biến cơ.
Lê thị
cư biên thâm bệnh tại,
Oan oan
tương báo khởi vinh dư!
(Vâng
mệnh sửa lại miếu thờ tiên đế:
Trường
An muôn thủơ đế đô,
Quên sao
Lư động cơ đồ vua Đinh,
Dẹp nội
loạn, mở trị bình,
Kỷ cương
vô ý xây thành cho ai,
Việc làm
chi xá đúng sai,
Nghĩ xa
phòng biến chẳng hoài tính toan,
Bệnh sâu
Lê thị không bàn,
Phó cho
oan nghiệt họ làm họ lo).
Phạm Thế
Lịch: Người xã Quần Mông huyện Giao Thuỷ. Vốn tên là Khắc Trung, tên tự Quý
Hoà, đỗ Cử nhân khoa Mậu Tý (1828), đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ
Sửu (1829) năm Minh Mệnh thứ 10, lúc đó đã 39 tuổi, được bổ Phủ doãn phủ Thừa
Thiên. Khi có chiếu đi mở đường Vân Nam, ông xin đắp thành đê, có công được trở
lại làm Bố chính, rồi làm Chánh sứ sang Thanh, quay về giữ chức Tham chi bộ
Lại. Sau lại làm phó khảo chánh khảo các trường Hà Nội, Nghệ An, Thanh Hoá dần
dần thăng Tổng đốc Bắc Ninh, bị cách chức về quê. Hưởng thọ 81 tuổi. Ông có câu
đối đề đền thôn Miễu xã Mạt Lăng huyện Nam Chân :
Công thủ
Hàm quan, lẫm liệt huân danh nam kỵ bắc; Tôn thần đế tử, ức niên lăng miếu phúc
tư dân. (Hàm tử công đầu, lừng lẫy tiếng hùng nam bắc rõ ; Tôn thần đế tử, ngàn
thu lăng miếu xóm thôn nhờ).
Câu đối
thờ thánh mẫu ở thôn Miễu:
Đại an
hiển tích tiêu sơ giáng,
Thiên
Bản tiên tung ký tái lai.
( Đại An
nơi thánh sinh ra, việc ấy sách nêu khi mới giáng; Thiên Bản dấu tiên cư trú,
chuyện này bia chép buổi trùng lai).
Pham Văn
Nghị : Người xã Đồi Tam (Phạm Văn Nghị xin đổi ra Tam Đăng, rồi đổi ra Tam
Quang) huyện Đại An, sinh năm ất Sửu (1805), đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa
Mậu Tuất năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), làm quan Hàn lâm tu soạn, Biên tu Quốc sử
quán. Sau xin về dưỡng bệnh, có nhiều người đến xin học và thành đạt. Còn chiêu
dân khai hoang lập ấp như trại Sỹ Lâm. Khi Pháp đánh Đà Nẵng (1858) ông chiêu
quân nghĩa dũng được gần 400 người, đích thân xin triều đình đi đánh giặc,
nhưng vào đến Huế thì giặc đã rút lui. Triều đình bổ ông nhậm Đốc học Nam Định,
cho đưa quân về phòng thủ quê nhà. Năm Tự Đức 19 (1866) quan Thương biện Hải
Phòng. Lúc Pháp tiến đánh Bắc kỳ, ông đem quân nghĩa dũng chiếm giữ rừng núi
Ninh Bình, rồi thêm chức Thương biện tỉnh vụ. Thành Nam Định bị mất, vì ông
không có ý thủ hoà nên bị bãi chức, bèn lui về ở ẩn tại động Liên Hoa xã Trường
Yên huyện Gia Viễn rồi mất. Thọ 76 tuổi (1880), triều đình khai phục hàm thị
giảng học sỹ. Tác phẩm có: Sơn thuỷ quốc âm thi, Tùng viên văn tập, Liêu động
di biên và ngọc phả bi ký rải rác ở khắp nơi. Ông có con là Phạm Giảng, Phạm
Hân. Phạm Hài, Phạm Phổ cũng đều hiển đạt.
Ngô Thế
Vinh : Người xã Bái Dương huyện Nam Chân, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân
khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Mệnh thứ 10 (1829) năm 27 tuổi, quan Lễ bộ lang
trung, vì phạm lỗi trong lúc chấm thi bị bãi chức, liền về quê mở trường dạy
học, sau vua Tự Đức cho lại hiệu Tiến sĩ, thọ 54 tuổi. Tác phẩm có: Nam Chân
vịnh, Dương Đình văn tập, Trúc đường phú tập và nhiều thơ văn thần tích bi ký
khác…
Vũ Công
Độ : Người xã Vị Hoàng huyện Mỹ Lộc, sinh năm ất Sửu (1805), đỗ Tam giáp đồng
Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), quan Thái bộc tự
khanh, quyền Bố chính Thái Nguyên. Ông có bài thơ nói về Trần Quốc Tuấn, khi
tới đền Cố Trạch :
Hưng Đạo
vương
Sơ thời
cư tại Mặc hương ngung,
Gia miếu
chi đông bất thụ trung,
Cập
trưởng tòng chinh doanh Vạn Kiếp,
Lâm
chung di chúc nghĩa vô cùng.
Bắc Nam
kỷ đắc tương đồng giả,
Kim cổ
nan tầm tịnh dữ công,
Quốc tế
tuy vinh sinh bất dục,
Khuyến
nhân nghi miễn tự cường cung.
(Hưng
Đạo vương:
Lúc mới
sinh ra ở Mặc hương,
Bên đông
nơi miếu của tiền đường,
Lớn rồi
Vạn Kiếp tìm doanh trại,
Mất để
lời hay giữ kỷ cương.
Nam Bắc
mấy ai mà sánh được,
Xưa nay
bao kẻ có công ngang,
Lệ trên
quốc tế ông nào muốn,
Chỉ dạy
người ta chí tự cường).
Tác phẩm
có tập : Tự miễn thi và một số văn bia.
Đặng
Ngọc Phác : Người xã Đặng Xá huyện Thượng Nguyên, ông vốn tên là Cầu, đỗ Cử
nhân khoa Đinh Mùi (1847), đỗ Phó bảng ân khoa năm Mậu Thân (1848) năm 24 tuổi,
quan Bố chính Tuyên Quang, vì bị đồng liêu không ưa tính cương trực, xui siểm
nên bị cách chức, sau đi hiệu lực ở quân thứ Thái Nguyên bị tử trận, được tặng
chữ tử nghĩa. Tại xã Tri Nghĩa nơi ông chết có đền thờ. Người đỗ cùng khoa với
ông quê ở Hành Thiện Đặng Kim Toán có bài viếng:
Cương
bất tri nhu khởi hữu an,
Tuỳ
phong dụng phiến khả ngôn hôn,
Nghi văn
thời thế nhi hành giả,
Tử nghĩa
như công diệc túc hoan.
(Cứng
chẳng hay mềm có phúc đâu,
Quạt che
chiều gió chớ nên theo,
Phải
nghe thời thế mà hành sự,
“Tử
nghĩa” như ông thế cũng hào).
Thời vua
Thành Thái có sắc phong phúc thần, ban cho ở quê và đền Tri Nghĩa).
Bùi ái:
Vốn là thuộc dòng họ Bùi ở xã Thọ Tung huyện Tây Chấn rồi về xã Đông Dụng (nay
là xã Đông Duy) huyện Vọng Doanh từ thời Mạc, đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ (1834)
niên hiệu Minh Mệnh triều Nguyễn, ban đầu chức học quan phủ Nam Sách, sau giữ
chức Hộ đốc Sơn Hưng Tuyên. Năm Tự Đức thứ 15 (1862) đánh phỉ bị mất, triều
đình ban sắc sai quan về tế rồi cho thờ phối tại miếu Hiền Lương. Vua Tự Đức có
câu đối viếng:
Sinh
chiếm cao danh, huấn học nhưỡng thuần, đương thế hà nhân năng đối trĩ.
Tử vi
đại nghĩa, tiêm cừu hiệu lực, thất cơ nan tị diệc hoàn danh.
(Sống
chức quan cao, khuyên thiện dạy trò, đời ấy mấy ai mà sánh được. Chết vì nghĩa
lớn, gắng công diệt giặc, thất cơ sao tránh, cũng tròn danh). Đặng Văn Bính:
Người xã Hành Thiện huyện Giao Thuỷ, đỗ Hương cống khoa Tân Mão (1831) niên
hiệu Minh Mệnh, quan Tri huyện rồi Giáo thụ. 70 tuổi mới về nghỉ, thọ 90 tuổi,
đích tôn là Đặng Đình Dương (Đặng Hữu Dương) đỗ Tiến sĩ, quan án sát Hà Nội.
Ông Văn Bính có tập “Nam Âm thi” hơn 100 bài có nhiều ý
nghĩa
hay trong việc dạy người khuyên hiếu làm việc thiện và tập “Khải đồng khuyến
hiếu”. Bài trong tập “Khải đồng”: Vi nhân:
Vi nhân
hiếu giả vi tiên thức,
Hiếu
dưỡng song thân dược dĩ vong.
Trung
hiếu kiến tồn phi thị thực,
Đương tư
bản thất mạt hà dung
(Làm
người:
Làm
người nên nhớ hiếu thân,
Mẹ cha
sinh dưỡng quên ân thấy rành.
Nếu như
trung tín không lành,
Gốc mà
đã mất ngọn ngành còn đâu)
(Bài của
tác giả tự dịch, toàn tập “Khải đồng” đều do tác giả tự dịch cả).
Đỗ Huy
Cảnh : Người xã La Ngạn huyện Đại An, đỗ Cử nhân, làm quan Tuần phủ. Con ông là
Đỗ Huy Uyển đỗ Phó bảng, làm quan Biện lý bộ Hộ, cháu là Đỗ Huy Liêu đỗ Nhị
giáp Tiến sĩ xuất thân, quan Tham biện nội các. Sinh năm Nhâm Tý (1792), mất
năm Canh Tuất (1850) hãy còn một số thơ văn lưu lại. Bài “La Ngạn Phạm tổ từ”:
Tứ bách
niên tiền Phạm thúc công,
Gia ư
thử xứ bán thiên đông,
Thứ thê
Nhuế ấp Đoàn công nữ,
Di trú
Trần hương đoái trại trung.
Thứ xuất
canh nông thành phú dụ,
Thuỷ
sinh thánh tử hữu hoa dung.
Tiên Nga
phụ mẫu hô danh tự, nhân hiếu đương thời phối đại tông.
(Đền thờ
họ Phạm xã La Ngạn:
Bốn trăm
năm trước Phạm công,
Nhà đây
ăn ở mùa đông nửa ngàn(1),
Vợ quê
ấp Nhuế họ Đoàn,
Di cư
Trần Xá(2) Đoài thôn rõ rành,
Cấy cầy
giàu có cũng nhanh,
Sinh con
cầu tự tên lành Tiên Nga.
Điều
nhân lòng hiếu thiết tha,
Đương
thời phối hưởng vào nhà đại tông).
Nói về
vị phúc thần họ Nguyễn tên huý là Thái người trong xã, tháng 10 năm Canh Tý
Nguyễn Thái theo Lê Lợi mai phục ở bến Bổng, tháng 4 năm sau (Tân Sửu (1421))
được vua Lê cho chức Hoắc Dạ tiên phong huấn luyện 200 người chuyên đi thu thập
tình hình quân địch. Khi vua Lê lên ngôi ở Đông kinh phong cho ông là Hắc Dạ
tướng quân. Nguyễn Thái mất 11 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1469) được vua cho tên tự là
Chính Tâm, tên thụy là Trung Hoà, ban sắc phong cho Nam Hải phúc thần, cử Hình
bộ Hữu Thị lang Dương Chấp Trung làm lệ quốc tế. Bấy giờ là năm thứ 10
(1469)
niên hiệu Quang Thuận triều Lê. Bài “Hắc dạ tướng quân”(3):
Vi hận
Minh triều đại ác quân,
Khoái
Châu phụ tử tụ chư quân,
Lô giang
thuỷ trận sơ tuy bại,
Bổng độ
qua khu khả vị thần,
Hắc dạ
văn tình thời ỷ trọng,
Mã Yên
trảm cấp diệc siêu quần,
Đại Loan
lộc ấp do tồn tích,
Thượng
tứ thư truyền tự Chính Tâm.
(Giận
quân tàn ác nước Minh,
Khoái
Châu phụ tử tụ binh quật cường,
Lô giang
tuy bại chuyện thường,
Bổng tân
thắng giặc ai lường mưu hay.
Địch
tình đêm tối kỳ thay,
Mã Yên
trảm cấp xưa nay mấy người.
Đại Loan
đất hưởng lộc trời,
Chính
Tâm tên tự vua trời ban cho.
[Chú Thích : (1) Nửa ngàn: Nói 500 năm.
(2) Trần Xá: tức thôn Tràn xã Yên Đồng huyện ý Yên hiện nay.
(3) Vị tướng luôn ăn mặc giả dân thường đi thu thập địch tình.]
Đỗ Huy Uyển : Người xã La Ngạn huyện Đại An phủ Nghĩa Hưng, ban đầu
đỗ Cử nhân khoa Canh Tý (1840) sau đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu (1841) niên hiệu Thiệu
Trị năm đầu. Được bổ chức Hàn lâm viện kiểm thảo niên hiệu Tự Đức năm đầu
(1848) sung chức Kinh diên, rồi ra Tri phủ Bình Giang, sau về kinh giữ chức
Giám sát ngự sử, lại đi Đốc học Vĩnh Long, về kinh thăng Lễ bộ lang trung, vì
có việc soạn chiếu dụ vượt cách được vua khen ban Thái thường thiếu khanh Biện
lý bộ Hộ. Cuối đời ốm đau nhiều xin về nghỉ rồi mất thọ 68 tuổi. Ông có một số
bài văn mang tính chất giáo dục và lịch sử, duy có tập thơ Nôm nói về Mẫu Liễu
là đáng giá nhất.
Đỗ Tông
Phát : Ông người xã Quần Anh huyện Chân Ninh. Ông là thân sinh của Đỗ Bình
Thành. Năm Canh Tý (1840) đỗ Giải Nguyên, năm Quý Mão (1843) đỗ Tam giáp đồng
Tiến sĩ xuất thân ân khoa. Ban đầu quan Hàn lâm biên tu, xin về phụng dưỡng cha
mẹ. Tự Đức năm đầu (1848) quan Tri phủ ứng Hoà rồi vào Đốc học Nghệ An, bị ốm
xin về nghỉ. Khi ở quê ông xin chiêu mộ quân đi giữ biên giới đông bắc, được
triệu về kinh quan Quang lộc tự thiếu khanh, Quốc sử quán toản tụ, sau ra Nam
Định giữ chức Thương biện tỉnh vụ kiêm Dinh điền phó sứ, ít lâu lại giữ chức
Biên tu lĩnh Dinh điền sứ, khẩn ruộng có hai tổng Quế Hải, Tân Khai. Năm 70
tuổi trí sỹ, mất tại quê năm 81 tuổi (1813 – 1893). Ông có 1 con trai đỗ Giải
Nguyên, 1 con trai đỗ Tú tài. Trong thời gian khẩn đất ông có bài “Tự thán”:
Canh
nông vi bản cổ nhi kim,
Lĩnh
nhiệm hà năng bất phụ khâm,
Xích lỗ
thành điền an dị biến,
Hàm tân
thụ khổ thục đồng tâm.
Lệ cần
tự kiệm thân cừ tuấn,
Tập bạo
trừ xa lễ nghĩa tầm,
Phụ mẫu
hữu danh thuỳ ác khẩu,
Tòng lai
phản phúc khuyến lương thâm.
(Than
phiền:
Cấy cày
là gốc xưa nay,
Vâng
trên lãnh việc lòng này chẳng yên,
Biến sao
đất mặn thành điền,
Đắng cay
khôn xiết bao phen ngậm ngùi,
Khuyên
cần kiệm vét thông ngòi,
Ngăn trừ
bạo ngược theo đòi nghĩa nhân,
Ai rằng
phụ mẫu chăn dân,
Nhưng
đời phản phúc lời dân hãy còn).
Trần
Dương Quang : Ông người xã Vị Hoàng huyện Mỹ Lộc, đỗ Cử nhân khoa Đinh Dậu niên
hiệu Minh Mệnh 18 (1837), quan án sát xứ An Giang, tác phẩm có : Thế tình hàn
nhiệt vịnh hơn 100 bài vừa Hán vừa Nôm.
Nguyễn
Hữu Thuận : Người xã Hành Thiện huyện Giao Thuỷ, đỗ Cử nhân khoa Đinh Mùi niên
hiệu Thiệu Trị, quan án sát Cao Bằng, ông có soạn sách “Sơ học dị tri” dạy
người mới học chữ Hán Nôm dễ hiểu.
Bùi Huy
Phan : Người xã ThânThượng (Vốn xưa gọi là Đồi Thượng) huyện Đại An, ban đầu đỗ
Cử nhân năm Quý Mão (1843), đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn
(1844) làm quan Tri phủ Thuận Thành. Ông và ông Phạm Văn Nghị là người đã tu
sửa An Trung cổ tự và Phúc Long cổ tự, nay hai ngôi chùa này hãy còn.
Vũ Diệm:
Người xã Lộng Điền huyện Đại An. Ông đỗ Cử nhân khoa Quý Mão (1843) niên hiệu
Thiệu Trị, năm sau đỗ Phó bảng, quan Bố chính Hải Dương, rồi Hình bộ tả Thị
lang, bị ốm xin về quê nghỉ. Ông có viết tập “Lộng điền Vũ Tiến sĩ thi
tuyển”(1).
[Chú Thích : (1) Vũ Tiến sĩ : Tức Tiến sĩ Vũ Huy Trác nay còn từ
đường.]
Vũ Trì : (2) Người xã Lộng Điền huyện Đại An, đỗ Cử nhân khoa ất
Dậu (1825) niên hiệu Minh Mệnh, quan án sát sứ Tuyên Quang, ông là người tín
ngưỡng Mẫu Liễu do vậy ở hạt Tuyên Quang khi ông cai trị mọc mới nơi thờ Mẫu có
tới hơn 50 điểm.
[Chú thích : (2) Vũ Danh Trì đổi là Vũ Danh Chấn – chú theo Quốc
Triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.]
Vũ Thạc
: Người xã Lộng Điền huyện Đại An, đỗ Cử nhân khoa Mậu Tý (1828) niên hiệu Minh
Mệnh, làm quan án sát Quảng Ngãi.
Vũ Tế :
Người xã Lộng Điền huyện Đại An đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867) niên hiệu Tự
Đức, quan Hàn lâm viện thị giảng. Ông có tập sách “Côn đảo thuỷ mạt sự”.
Vũ Huy
Duật: Vốn tên là Duy, lớn lên đi học đổi là Duật, đỗ Cử nhân khoa Canh Tuất
niên hiệu Tự Đức, làm quan Huyện doãn huyện Can Lộc. Ông đã có công sửa đền thờ
tướng Đặng Dung ở quê và ở đất Kim Tông(1) huyện Đại An. Ông có bài thơ ghi
việc : Vị hương dân tu Trần triều Đặng công phúc thần miếu:
Nhân khi
mạt vận bất tham công,
Ngã chí
đồng dân bái miếu trung,
Thỉnh
khuyến thập phương tu ngoã lạc,
Nguyện
tượng bách lạng tác hiền dung.
Kim Tông
thử nhật khu minh tặc,
Bạch cốt
đương thì kỷ vấn tung,
Nam bắc
nhị từ tồn tự sự,
Hồi
hương viễn vọng diệc khiêm cung.
(Cùng
dân địa phương sửa lại miếu thờ Đặng Công Phúc thần cuối triều
Trần:
Người
chê vận cuối chẳng thăm ông,
Tôi với
dân làng lễ miếu trung,
Tu sửa
khuyên người nhà vỡ ngói,
Quyên
tiền nhắc thợ tạc hình dung.
Kim Tông
ngày ấy ngăn Minh tặc,
Xương
trắng nào ai viếng dưới sông,
Nam Bắc
hai đền(2) còn lễ bái,
Về quê
xa ngóng vẫn tôn sùng).
Vũ Huy
Duật tuy về quê ở Lộng Điền huyện Đại An, song lúc làm quan ở Hà Tĩnh thì vợ
con đều đến ở cùng ông. Ông có tập sách “Hà Tĩnh nhân vật chí” là đáng kể nhất.
[Chú thích : 1. Kim Tông: Nay có tên Nôm là làng Mờm thuộc xã Yên
Trị huyện ý Yên. 2. Nam tức đền quê thuộc huyện Can Lộc, bắc tức đền ở huyện
Đại An.]
Đặng Kim Toán : Người xã Hành Thiện huyện Giao Thuỷ, đỗ Cử nhân
khoa Đinh Mùi (1847), năm 35 tuổi đỗ Phó bảng ân khoa Mậu Thân (1848) ban đầu
quan Hàn lâm viện kiểm thảo rồi đi Tri phủ Tĩnh Gia. Năm Tự Đức 10 (1857) giữ
chức Đê chính nha viên ngoại lang đến Nam Định xem đê biển, mộ dân các xã Hà
Cát, Thanh Hương lập 14 ấp gọi là tổng Lạc Thiện thuộc huyện Giao Thuỷ. Rồi về
án sát Bắc Ninh, thị giảng học sỹ, sau đổi quan án sát Ninh Bình. Năm Tự Đức 20
(1867) quan Hộ lý Tuần phủ Lạng Bình, năm Tự Đức 23 thành Lạng Sơn bị hãm,
giáng chức đi hiệu lực, rồi được xét quan Hồng lô Tự khanh Bố chính Cao Bằng.
Năm Tự Đức 27 (1874) quan Tuần phủ Ninh Bình có nhiều tiếng tốt, năm 32 (1879)
thăng tổng đốc An Tĩnh, chưa đến nhận chức bị bệnh mất thọ 68 tuổi (1814 -
1881). Ông có tập “Ninh Bình lâm hành vịnh”.
Đặng Đức
Địch : Ông người xã Hành Thiện huyện Giao Thủy, năm Mậu Thân (1848) đỗ Cử nhân,
năm Kỷ Dậu (1849) đỗ Phó bảng rồi quan Đốc học Hải Dương, Hàn lâm hiệu thảo, về
kinh chức Giám sát ngự sử sung Tập hiền viện kinh diên khởi cư chú. Năm Tự Đức
27 (1874) quan Đốc học Nam Định, Thị giảng học sỹ toản tu Quốc sử quán, Hồng lô
Tự khanh, năm Tự Đức 36 (1883) quan Tuần phủ Quảng Ngãi. Kiến Phúc năm đầu
(1884) quan Lễ bộ Tham tri sung Toản tu Quốc sử quán rồi về Lễ bộ Thượng thư.
Đồng Khánh năm đầu (1886) nhận Kinh diên giảng quan, xin trí sỹ về quê dạy học
năm 70 tuổi. Quan tuy là thế song lại rất nghèo. Ông có tập “Thanh cư vịnh, Hán
tự tự tu thư” còn truyền lại ở đền.
Đặng
Xuân Bảng : Ông người xã Hành Thiện huyện Giao Thuỷ, đỗ Cử nhân khoa Canh Tuất
(1850), 29 tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn (1856). Đỗ Cử
nhân xong đi làm quan Giáo thụ phủ Ninh Giang, đỗ Tiến sĩ thì đi Tuần phủ Hải
Dương. Pháp cướp Hải Dương (1873) ông bị cách chức, sau được khôi phục thì giữ
chức Quang lộc tự thiếu khanh, Đốc học Nam Định. Sau trí sỹ nghiên cứu sách vở,
tác phẩm có: “Giao Thuỷ phong thổ vịnh, sử học bị khảo, Nam phương danh vật
khảo”. Con cháu ông tập hợp thơ văn của ông có sách: “Thiện Đình thi văn tập”.
Nguyễn
Thế Huyền : Người xã Hành Thiện huyện Giao Thủy, khoa Mậu Thân niên hiệu Tự Đức
đỗ Cử nhân, làm quan tới chức Thị lang bộ Công thông bảo cục đổng lý. Ông có
tập “Lịch đại ngã quốc chú tiền ký”.
Nguyễn
Âu Chuyên : Người xã Hành Thiện huyện Giao Thuỷ, năm Kỉ Mão (1879) đỗ Giải
nguyên, năm Giáp Thân (1884) đỗ Phó bảng ân khoa, làm quan Bố chính tỉnh Bắc
Ninh, hàm Quang lộc tự khanh. Tác phẩm có : Bắc Ninh chí và Hoàng hôn chí.
Đặng Hữu
Dương: Người xã Hành Thiện huyện Giao Thủy, năm Kỷ Mão (1879) đỗ Cử nhân, năm
Kỷ Sửu (1889) đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, quan án sát Hà Nội, sau bị
đau mắt cáo quan về quê. Ông có tập sách thuốc chữ Nôm “Nông gia tự liệu” hơn
6000 câu thơ lục bát.
Nguyễn
Đức Hợp : Người xã Hoành Nha huyện Giao Thuỷ, năm Mậu Thìn (1868) niên hiệu Tự
Đức ân khoa đỗ Cử nhân, quan án sát Hưng Hoá. Tác phẩm có “Nam Định thuỷ mạt
khảo”.
Trần
Doãn Đạt : Vốn tên là Đình Khanh, người xã Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, đỗ Cử nhân
khoa Nhâm Tý (1852), năm 41 tuổi đỗ Phó bảng khoa Nhâm Tuất (1862), làm quan án
sát Hưng Hoá. Tác phẩm có : Nam Định thuỷ mạt khảo.
Trần
Bích San : Người xã Vị Xuyên, là con ông Trần Doãn Đạt, sinh năm Mậu Tuất
(1838) đỗ giải nguyên khoa Giáp Tý (1868), khoa ất Sửu (1865) thi Hội thi Đình
đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, được vua ban cho là Hy Tăng, quan Hàn lâm viện
tu soạn, sung Nội các bí thư sở hành tẩu, Tri phủ Thăng Bình, Điện Bàn rồi án
sát Bình Định, Tri phủ An Nhơn. Năm Tự Đức 22 (1869) Hồng lô tự thiếu khanh,
Biện
lý bộ
Hộ, kiêm quản Thông chính ti, chưởng Hàn lâm viện, Tri phủ Trị Bình. Năm Tự Đức
31 (1878) quan Lễ bộ tả tham tri sung chánh sứ sang Pháp, vì lo nghĩ cho việc
đi không thành sự lâm bệnh chết ở Huế. Tác phẩm có: Nhân sự kim giám, Mai Nham
thi thảo, Thế sự nan tri vịnh. Mất năm Mậu Dần (1878), nay hãy còn nhà thờ tại
phố Bến Ngự.
Lã Xuân Oai: Người xã Thượng Đồng huyện Phong Doanh tỉnh Nam Định, ông có tên tự là
Thúc Bào, học trò của Phạm Văn Nghị, đỗ Cử nhân khoa Giáp Tý (1864), đỗ Phó
bảng khoa ất Sửu (1865), quan ở điện Tập Hiền ở Huế rồi lần lượt giữ các chức
Tri phủ huyện Kỳ Anh, Tri phủ Nho Quan, án sát tỉnh Ninh Bình, khi làm Chánh sứ
sơn phòng Ninh Bình, ông cùng Phạm Văn Giảng tổ chức khai hoang lập tổng Tam
Đồng ở Nho Quan. Sau đi quân thứ Tuyên Quang sung chức Tán tướng quân vụ, khi
Pháp đánh bắc kỳ lần thứ 2 ông giữ chức Tuần phủ Lạng Bằng. Tháng 2 năm 1885
quân Pháp đánh Lạng Sơn, thành bị thất thủ ông trốn sang Trung Quốc. Ba năm sau
vì còn mẹ già ông phải trở về quê mở lớp dạy học ở Ninh Bình. Năm Kỷ Sửu (1889)
học trò ông là Phạm Trung Thứ khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt đày ra Côn Cương
(ông sinh ngày 5 tháng 10 năm Mậu Tuất (1938), mất 23 tháng 10 năm Tân Mão
(1891). Hiện nay ở quê hãy còn đền thờ. Tác phẩm có: Thanh niên chí và Côn Đảo
thi tập. Bài “Ngẫu thành trong thời kỳ ở Côn Đảo :
Nam song
cảnh cảnh nguyệt cao huyền,
Triển
chuyển tàn canh tứ tiễu nhiên,
Bôn tẩu
đương đồ duy bỉ mệnh,
Tri giao
tại quốc thục dư liên.
Nhả kham
vi kế đồ lai hử,
Phục thử
phi tai tống nhãn tiền.
Liệu đắc
đan tâm chung bất tử,
Chuyển
di hoàn tín hữu thương thiên.
(Song
nam vằng vặc ánh trăng thanh,
Trằn
trọc vương buồn tận cuối canh,
Đi lại
trên đời toàn bởi chúng,
Tri âm
trong nước mấy thương mình?
Kế sau
nhưng giận ra tay chậm,
Vạ gió
đâu ngờ trước mắt nhanh.
Giữ trọn
tấm lòng cho mãi thắm,
Xoay vần
chắc hẳn có ông xanh).
(Bùi
Hạnh Cẩn dịch)
Phạm Đăng Giảng: Người xã Tam Đăng huyện Đại An, con của Phạm Văn Nghị, đỗ
Cử nhân khoa Giáp Tý (1864) năm 31 tuổi, năm sau đỗ Phó bảng quan Bố chính ở
đất Thanh Hoá về cư tang, cải bổ thương biện tỉnh vụ rất cần mẫn, chẳng bao lâu
thì mất.
Lê Ngọc Phan: Người xã Hạnh Lâm huyện Thiên Bản, đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn
(1868) niên hiệu Tự Đức, quan Đốc học tỉnh Bình Định, sau cải nhận Hàn lâm viện
thị giảng sung Quốc sử toản tu. Bị bệnh xin về năm hơn 70 tuổi.
Nguyễn Công Hợp (1) : Người xã Cựu Hào huyện Thiên Bản, đỗ Cử nhân khoa ất Dậu
(1825), quan Đốc học Hà Tĩnh, sau thăng Quốc tử giám Tế tửu. Ông có rất nhiều
học trò thành đạt.
[Chú thích : (1) Nguyễn Công Hợp (Nguyễn Công Thuyên) – Quốc triều
hương khoa lục]
Trần Đôn
Phục: Người xã Tức Mặc huyện Mỹ Lộc, đỗ Cử nhân khoa ất Mão (1855) niên hiệu Tự
Đức làm quan Bố chính Cao Bằng, ông là người tham gia viết Trần gia ngọc phả,
Trần gia đế vương thi tập.
Vũ Hoành Phát : Người xã Vị Xuyên huyện Mỹ Lộc, đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão
niên hiệu Tự Đức, quan án sát sứ Quảng Yên.
Lương Xuân Huyến : Người xã Nghĩa Xá huyện Nam Trực, đỗ Cử nhân khoa Canh
Ngọ (1870) niên hiệu Tự Đức, quan Bố chính Quảng Nam.
Vũ Hữu Lợi : Người xã Dao Cù huyện Nam Chân, sau đổi tên là Vũ Ngọc Tuân. Ông sinh
năm Bính Thân (1836) đỗ Cử nhân khoa Canh Ngọ (1870) niên hiệu Tự Đức, năm 40
tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa ất Hợi (1875), đi nhận chức Đốc
học Nam Định, Quang lộc tự thiếu khanh, dần lên Tả lý bộ binh, đến năm Tự Đức
Tân Tỵ (1881) cải bổ Thương biện Nam Định. Năm Quý Mùi (1883) Pháp đánh Nam
Định, ông về quê mở trường dạy học. Năm ất Dậu (1885) Vũ Hữu Lợi mộ quân Cần
vương rồi lại tan rã, sau bị quân Pháp bắt năm Bính Tuất ở làng Hoa Đồng (tháng
1 năm 1887) và giết ông vào chiều 30 tết cùng năm. Bấy giờ ông 51 tuổi. Hiện
nay ở quê còn có đền thờ. Khi ở Bắc Ninh ông có bài thơ “ Xuân cảm”:
Nhất
trận phong lôi mãn cổ thành,
Phong
trần kỷ độ mộng do kinh,
Thập
niên lưỡng trụy anh hùng lệ,
Thiên lý
tam xuân tiểu tử trình,
Hạc dục
phi quy ưu vị ổn,
Nha
phương luyến bộ lự phi ninh,
Sơn hà
quả hữu thiên thư định,
Thuỳ đạo
Nam bang bất Khổng Minh?
(Một
trận phong lôi khắp cổ thành,
Trải bao
gió bụi mộng còn kinh,
Mười năm
hai độ thương cho nước,
Ngàn dặm
ba xuân ngán nỗi mình,
Hạc muốn
bay về lo chẳng đặng,
Quạ chưa
mớm trả nghĩ không đành.
Sách
trời nếu định phần sông núi,
Ai bảo
miền Nam vắng Khổng Minh).
(Vũ Đình
Ngạn dịch)
Vũ Quốc Uy:
Người xã Bái Dương huyện Nam Chân, lúc nhỏ có tên là Liên, đỗ Cử nhân năm Canh
Thân (1860). Ông là người học giỏi song đỗ thấp. Tác phẩm có “Nam Chân chư
huyền vịnh” hơn 60 bài. Bài viếng Vũ Hữu Lợi:
Thế sự
hưu luân bại dữ thành
Tiên
sinh nhất tử tử như sinh,
Đãn tri
báo quốc tâm vi trọng
Ninh
khẳng quyên khu thị nhược khinh.
Quang
nhạc quả nhiên huân chính khí,
Phong
lôi ưng vị hộ tiềm linh.
Dã vi
hiếu tử trung thần giả,
Bất quý
thư trung thuyết lệnh danh.
(Thế sự
bàn chi việc bại thành,
Kể chi
sống chết với tiên sinh,
Đã hay
khẳng khái lo chi nước,
Dù có hy
sinh chẳng tiếc mình,
Sông núi
đúc hun nên chính khí,
Gió mây
che chở giúp anh linh.
Tấm
gương con hiếu tôi trung ấy,
Không
thẹn người xưa ở sử xanh).
Đỗ Huy Liêu: Ông người xã La Ngạn huyện Đại An, đỗ giải nguyên khoa Đinh Mão (1867), đỗ
Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mão (1879) năm 36 tuổi. Trước khi thi hội đã
làm quan Huấn đạo huyện Yên Mô hàm Điển Tịch, đỗ Đình nguyên rồi cải nhậm Tri
phủ Đoan Hùng, Lâm Thao, Tập hiền viện trước tác. Năm Kiến Phúc thứ nhất (1884)
hàm Hồng lô tự thiếu khanh Biện lý bộ Hộ, Tham biện nội các sự vụ. Pháp đánh
Bắc phần Việt Nam, ông cáo quan về quê. Tác phẩm có Tỉnh ông thi tập.
Khiếu Năng Tĩnh: Người xã Chân Mỹ huyện Đại An, tỉnh Nam Định, đỗ Cử nhân
khoa Mậu Dần (1878), đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn (1880),
quan Đốc học Hà Nội, rồi Quốc tử giám Tế tửu. Ông có rất nhiều học trò thành
đạt ở khắp nơi trong nước, đương thời trước tác cũng không ít như : Nam Định
chí, Đại An chí, Đại An bản mạt khảo, Hà Nội chí, Quốc đô cổ kim chí, Cố hương
vịnh tập, Cổ thụ cách vịnh và nhiều thần tích gia phả bi ký…. Bài “Thọ tung phúc
thần” trong “Cố hương vịnh tập”:
Diệc vi
khai quốc nhất công thần,
Lê đế
đương thời thị chí trân,
Sở vị
gia bần hương bất trọng,
Hậu
thành lương tướng sắc phong thần.
Khai
hoang tế cấp do tồn tích,
Tộc miếu
hương từ thượng mộc ân.
Khuất
chỉ hoàng hoa tứ bách bán,
Hương
yên thi chúc kế truyền vân!
(Cũng là
khai quốc công thần,
Đương
thời Lê đế nhiều lần ban khen,
Lúc đầu
nghèo có ai tôn,
Sau
thành tướng giỏi ơn trên phong thần.
Khẩn
hoang còn giúp khó bần,
Họ thờ
làng cúng đội ân tỏ lời,
Bốn
trăm, năm chục năm rồi,
Khói
nhang cầu vọng nối đời không quên).
Bài “Vũ
Xá bái quận công(1)” cũng ở sách trên:
Văn đạo
Lê công quán thử phương,
Cửu khâm
kim đạo thụ tâm hương,
Vị quân cần
cán nhân vô đối,
Dữ ấp
khoan hoà thế kỷ đương,
Thí vấn
đồng liêu phi tế hậu,
Hà năng
hựu nhẫn tác quai trương,
Hạnh
mông thiên quyến đan tâm bạch
Truy tự
phong thần biểu tán tương.
(Vẫn
nghe Lê tướng ở nơi này,
Hâm mộ
mà nay mới tới đây,
Hết sức
chung vua ai sánh được,
Tỏ ơn
với xóm mấy so ngang,
Không
hiền cùng bạn trong triều quận,
Sao nỡ
bày mưu để nhỡ nhàng.
May được
có trời quay mặt lại,
Cho thờ
phong sắc cũng vinh quang).
[Chú thích : (1) Bái quận công: Vốn tên là Lê Viết Duệ quê ở thôn
Khả Lang xã Vũ Xá huyện Vọng Doanh, là người có tài chỉ huy giúp chúa Trịnh
bình định thiên hạ, được chức Nam quân đô đốc phủ tả đô đốc bái quận công, song
bị mẹo lừa của quân triều, ông phải nhảy xuống sông tự trầm để tránh tội. Nay ở
quê còn đền thờ và văn bi năm 22 niên hiệu Vĩnh Trị của bạn ông là Hồ Sỹ Dương
Tiến sĩ Quỳnh Lưu viết về việc bầu hậu cho bố mẹ ông.]
Nguyễn Ngọc Liên: Người xã Hành Thiện huyện Giao Thủy, đỗ Cử nhân khoa Bính
Tuất (1886), 42 tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu (1889),
quan Tri phủ Nam Sách, sau bị giáng xuống Hậu bổ. Ông là người hay khuyến khích
làng thôn, già trẻ làm điều thiện, thơ từ có khá nhiều tản mát khắp nơi ở trấn
Sơn Nam. Bài “Tạo sỹ cố hương từ”: Tạo sỹ Nam phương đắc kỷ nhân, Vi thần vi
tướng thế gian khâm, Cung trương ác điểu vô phương tị, Lực phụ vương gia phản
ngộ truân. Bốc ngụ Đông Ba thành đại sách, Trùng tu từ tự lê dân tuân.
Quý thì
Thịnh Đức gia phong sắc, Diệc thị hoàn danh hưởng quốc ân. (Cõi Nam tạo sỹ mấy
người,
Là thần
là tướng ở đời kính tôn, Giương cung ác điểu chết liền, Phò vua mà mắc oan
khiên mới kỳ. Đông Ba chọn đất dời về,
Sửa sang
chùa miếu dễ bề khuyên ai.
Vẹn tròn
danh tiết chầu trời,
Được vua
Thịnh Đức(1) ban lời khen công).
[ Chú thích : (1) Thịnh Đức 1653 – 1657]
Vũ Thiện Đễ (1854 – 1916(2)): Người xã Bách Cốc huyện Vụ Bản, đỗ Cử
nhân khoa Tân Mão (1891), đỗ Phó bảng năm Nhâm Thìn (1892) quan Tri phủ Thanh
Hà rồi Binh bộ Tham tri, Tuần phủ Hà Nam, Ninh Bình thăng Tổng đốc, tên tự là
Thuận Trai, tên thụy là Trọng Khải. Ông có khá nhiều thơ ca tản mạn khắp nơi.
Bài Hoạ nguyên Hải Phòng Đốc học Nguyễn Văn Tính tán thi (ngày 1 tháng 3 năm
Duy Tân thứ 8 (1914) ):
Tẩu biến
tưởng kỳ thiên dĩ không,
Kim niên
hạnh đắc cố hương công,
Ttừ
trung phụng đọc ngôn thiên thức,
Đào hạ
hân phùng hoạ cổ phong,
Thế biến
kỷ hồi ưng vị tận,
Nhân
canh vạn sự niệm vô công.
Thái
bình nhược đãi sơ trường dạ,
Thỉnh tự
phù bình khởi bất thông?
(Hoạ thơ
khen của nguyên Đốc học Hải Phòng Nguyễn Văn Tính:
Ngàn nẻo
đường đi tưởng luống công,
Về quê
may mắn gặp ngay ông,
Trong
đền kinh đọc câu nên biết,
Xin hoạ
bên đào vận cổ phong,
Mấy độ
đổi dời chừng vẫn nát,
Bao lần
rối việc khó lo xong,
Thái
bình nếu đợi đang đêm tối,
Cái phận
bèo trôi há chẳng thông).
Nguyên
bài của Nguyễn Văn Tính: Xuân nhật bái vân Cát từ ngộ Hà Nam Tuần phủ Vũ công
Thiện Đễ:
Luân
giao thiên vạn nhãn nhưng không,
Hồi thủ
hương trung hựu kiến công,
Xử thế
hoà bình bần giả trọng,
Nhập gia
hiếu hữu cổ nhân phong.
Ngôn
hành niệm đức cao môn quý,
Hiển đạt
sơ thành học hộ công,
Hương
thuỷ phân vân đa dị sự,
Tang
thương bối hậu yếu tiên thông.
(Ngày
xuân tới lễ đền Vân Cát gặp ông Tuần phủ Hà Nam Vũ Thiện Đề:
Bạn bè
bao kẻ cũng như không,
Quay lại
vùng quê gặp được ông.
Liệu
việc trung hoà dân dưới trọng,
Về nhà
hiếu kính nếp thuần phong.
Nói làm
vì đức người cao thẹn,
Vinh
hiển vừa qua cảnh khốn cùng.
Nếu biết
sông Hương nhiều việc rối,
Chừng
như dâu biển đã sau lưng).
[Chú thích : (2) Vũ Thiện Đề: Ông là người đúng mực thanh liêm, sẵn
lòng nhân đức. Nay hãy còn nơi thờ tại xóm Vạn thôn Bách Cốc xã Thành Lợi huyện
Vụ Bản do Vũ Bá Trang trông coi.]
Nguyễn Văn Tính: Người xã Cự Hào huyện Vụ Bản, 41 tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến
sĩ xuất thân khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901), quan Đốc học Hải
Phòng, sau khi cáo quan có khá nhiều thơ văn lưu lại như : Thiên Bản lục kỳ ký,
Thiên Bản diên cách chí, Minh kính chí. Bài “Qúa Bình Cách thành hoàng miếu”
trong tập “Minh kính chí”:
Lý đế
Anh Tông Đại Định sơ,
Mai
trang lục tộc lập tân cơ,
Ý Yên
Hương Mạch thời hy thiểu, Ngải thảo hưng gia tạm trú cư. Hậu lập nhất hương
Bình Cách xã, Chí Lê thập vị hận minh sừ.
Tiên
khai dĩ trọng nghi sùng bái, Kế thủ đương tôn tại ấp từ.
(Qua
ngôi miếu thành hoàng xã Bình Cách(1):
Lý Anh
Tông vừa năm Đại Định (1143)
Sáu họ
Mai trang đến vỡ hoang,
Hương
Mạch có người thưa thớt lắm,
Dựng nhà
ở tạm lập ra làng,
Dần chia
một xã tên Bình Cách,
Giận
giặc mười ông đánh Minh sang.
Tiên tổ
kính thờ nên đã vậy,
Nối sau
tôn trọng chẳng mơ màng).
[Chú thích : (1) Nay thuộc xã Yên Thọ, huyện ý Yên. Làng Bình Cách
xưa vốn có tên là Hương Mạch.]
Đỗ Dương Thanh: Người xã Đại An huyện Thượng Nguyên tỉnh Nam Định, đỗ Cử
nhân khoa Canh Tý (1900), đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu (1901) năm 24 tuổi, làm quan
án sát. Ông có tập “Thế gian nghịch cảnh ký” chép về các chuyện bất bình ở cõi
đời. Bài “Dân chi phụ mẫu” nói về việc quan lại thu thuế nhà Nguyễn Duy Hiệp
không có, quan đánh chết chồng, lại đánh ốm vợ và 5 đứa con nhỏ :
Trực
Ninh huyện hiệu Chính Minh hương,
phụ mẫu
chi quan khả biểu dương,
Cơ vị
kiệt thì hành chí kiệt,
Đả phi
thương trọng tiếp gia thương,
Lão tiêu
căn thực hà ngôn phú,
Lậu ốc
dương xuyên khởi thể cường,
Nguyễn
thị điền hoà đương thập xích,
Kiều đầu
khiếu khổ hạo thương trường.
(Cha mẹ của dân :
Làng
Chính Minh huyện Trực Ninh,
Mẹ cha
dân ấy thật tình đáng khen,
Đói chưa
kiệt cho kiệt liền,
Đánh roi
chưa nặng thêm luôn chết đòn,
Ở nhà
giột sức đâu còn,
Ăn củ
chuối thối thấy ngon nỗi gì,
Đất nhà
Nguyễn thị đáng chi,
Kêu trời
chẳng thấu khổ thì mặc bay).
Phạm Ngọc Thụy: Người xã Hành Thiện huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định, đỗ Cử
nhân khoa Giáp Ngọ (1894), đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu (1901), lúc này đã 31 tuổi.
Ông là con ông Phạm Ngọc Chất. Ông có bài nói về Tạo sỹ Phạm Hữu Tuy ở xã Dương
Hồi huyện Đại An là “Đồi Tây tạo sỹ công từ” :
Đại An
Dương Hồi hữu Phạm công,
Gia bần
hiếu học thế nghi tông,
Thí
trúng Tạo sỹ thì hy kiến,
Kỳ biển
khâm ban tất hộ trung,
Hải tặc
đông bắc thủ hiểm địa,
Kim qua
nhất chỉ thế lâm cùng,
Thượng
phong chấn Bắc quy lai nhật,
Toàn xã
đại tiểu lộ nghinh phùng,
Thư nội
tằng quan kim thuỷ chí,
Cung kỳ
hội hựu thuỷ như chung.
(Đền thờ
ông tạo sỹ xã Đồi Tây:
Ông họ
Phạm(1) xã Dương Hồi,
Nhà
nghèo hiếu học người đời nên coi,
Khi ông
đỗ Tạo sỹ rồi,
Biển cờ
sáng cả nhà gồi chốn quê,
Giặc
biển đông bắc không nề,
Thương
dài trỏ thẳng khua về thuỷ cung,
Vua phong
trấn bắc uy hùng,
Cả xã
đón rước vui mừng vinh quy.
Bao lần
xem ở sách ghi,
Xin phò
tôi được sau thì như xưa).
[Chú thích : (1) Nay còn từ đường Phạm Văn Cương trưởng họ trông
coi ở thôn Dương Hồi xã Yên Thắng huyện ý Yên.]
Nguyễn Văn Thành: Người xã Thức Vụ huyện Đại An tỉnh Nam Định, ở quê đọc trại
là Thình, đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ (1906), đỗ Phó bảng khoa Đinh Mùi (1907) năm
36 tuổi. Ông có khá nhiều học trò và thơ văn. Bài nói về Tạo sỹ Phạm Hữu
Tuy(2):
Bái Phạm
công miếu
Thế
thượng như công hữu kỷ nhân,
Đế ban
Tạo sỹ hải phương tân,
Đả trầm
kiếp lược thần mưu thiết,
Trấn Bắc
hùng danh thượng tại vân
(Thăm
miếu Phạm công:
Đời được
như ông có mấy người,
Vua ban
Tạo sỹ biển chưa ai,
Đánh
chìm bọn cướp mưu thần dị,
Trấn bắc
bao lần giặc khiếp oai).
[Chú thích : (2) Tức ông tạo sỹ họ Phạm quê ở Dương Hồi nêu trên.]
Đỗ Văn Toại : Người xã Nguyệt Mại huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định, đỗ Cử
nhân khoa Canh Tý (1900), đỗ Phó bảng khoa Đinh Mùi (1907) năm 36 tuổi. Ông là
người vẽ giỏi lại hay thơ văn, sáng tác tập Cổ thụ cách 72 bài.
Phan Thiện Niệm: Người xã Quả Linh (vốn xưa là xã Gạo Linh, cuối Lê gọi là
Cảo Linh, sang Nguyễn mới đổi ra Quả Linh. Tương truyền thời cổ có cây gạo, bị
sét đánh sau cây gạo bị chết, sở tại lập đền thờ Thiên Lôi, nay có tên làng
Gạo) huyện Vụ Bản. ông là cháu ông Phan Lịch. Đỗ Cử nhân năm Bính Ngọ (1906),
đỗ Phó bảng khoa Đinh Mùi (1907) khi đó đã 39 tuổi, quan Tri phủ Cẩm Khê. Sáng tác
có tập Cẩm Khê ký và Thiên Niệm thi tập.
Lâm Hữu
Lập : Người xã Đại An huyện Nam Trực, đỗ Cử nhân khoa Canh Tý (1900), đỗ Phó
bảng khoa Bính Thìn (1916) lúc đó đã 40 tuổi. Biên tập có “Thiên gia thi tuyển
Hán tự tập” 300 bài, “Thiên gia thi tuyển quốc âm tập” 400 bài. Sáng tác có
“Lịch đại chư gia khẩn thổ chí” 64 bài.
Nguyễn Duy Tích : Người xã Trung Quyên, huyện Thượng Nguyên, đỗ Cử nhân khoa
Giáp Tuất (1874) niên hiệu Tự Đức quan Tri phủ phủ Vĩnh Tường.
Đặng Quang Toản : [còn gọi là Đặng Ngọc Toản] Người xã Hành Thiện, đỗ Cử nhân
khoa Mậu Thìn (1868), quan Giáo thụ phủ Kiến Xương.
Phạm Đức
Thâm : Người xã Dịch Diệp huyện Trực Ninh đỗ Cử nhân khoa Mậu Thân (1848) niên
hiệu Tự Đức.
Lê Hữu
Quang : Người xã Dịch Diệp, đỗ Cử nhân khoa Canh Tuất (1850) niên hiệu Tự Đức,
quan Huyện doãn huyện Hậu Lộc.
Phạm Đức
Mẫn : Người xã Dịch Diệp, đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867) niên hiệu Tự Đức,
quan án sát sứ tỉnh Nam Định.
Nguyễn
Huy Uẩn : Người xã Dịch Diệp, đỗ Cử nhân khoa Giáp Thân (1883) niên hiệu Kiến
Phúc năm đầu, quan Huyện doãn huyện Hải Hậu.
Vũ Hữu
Giáo : Người xã Dịch Diệp, đỗ Cử nhân khoa Bính Tuất (1886) niên hiệu Đồng
Khánh năm đầu. Ông là tác giả tập “Dịch Diệp xã chí”.
Phạm
Điển : Người xã Phương Để huyện Trực Ninh, đỗ Hương cống khoa Đinh Mão (1807)
năm Gia Long thứ 6, làm quan Phủ doãn phủ Kiến Xương, từng đi sứ Trung Quốc.
Nguyễn
Tú : Người xã Phương Để (tục gọi làng Đáy), đỗ Hương cống khoa Quý Dậu (1813),
niên hiệu Gia Long, làm quan Tuần phủ tỉnh Quảng Trị. Tác phẩm có : Phương Để
khoa danh chí, Kiến văn dị sự lục.
Bùi
Tuyển : Người xã Phương Để đỗ Hương cống khoa Quý Dậu (1813) niên hiệu Gia
Long, làm quan Đốc học Nghệ An. Ông có tập Nghệ An cổ tích vịnh hơn 70 bài.
Vũ Sứu :
Người xã Phương Để đỗ Hương cống khoa Kỷ Mão (1819) niên hiệu Gia Long, quan
Đốc học tỉnh Hà Tĩnh. Ông từng tham gia tu sửa nhiều cổ tích trong hạt.
Vũ Tự :
Người xã Phương Để đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846) năm Thiệu Trị thứ 6.
Nguyễn
Huyễn : Người xã Phương Để, đỗ Cử nhân khoa Đinh Mùi (1847) năm Thiệu Trị thứ
7, làm quan Giám sát đạo Thuận Khánh.
Nguyễn
Luyện : Người xã Phương Để, đỗ Cử nhân khoa Giáp Tý (1864) niên hiệu Tự Đức,
quan Giáo thụ ở phủ Xuân Trường.
Phạm
Phan : Người xã Phương Để đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867) niên hiệu Tự Đức, làm
quan Huyện doãn huyện Tiên Lữ.
Vũ Đức
Hoằng : Người xã Phương Để, đỗ Cử nhân khoa Canh Ngọ (1870) niên hiệu Tự Đức,
quan Huấn đạo huyện Gia Viễn.
Lê Văn
Lâm : Người xã Lộng Khê huyện Trực Ninh, đỗ Cử nhân Khoa Giáp Thân (1883) niên
hiệu Kiến Phúc, làm quan Huấn đạo ở Kim Lung.
Phạm
Khắc Thận : Người xã Cát Hạ huyện Trực Ninh, đỗ Cử nhân khoa Giáp Tý (1864)
niên hiệu Tự Đức, làm quan Huấn đạo huyện Nam Xương.
Trần Tất
Đạt : Người xã Cát Hạ, đỗ Cử nhân khoa Bính Tuất (1886) niên hiệu Đồng Khánh
năm đầu.
Đinh Văn
Nhã (1): Người xã Trừng Hải huyện Trực Ninh, đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858)
niên hiệu Tự Đức, làm quan án sát sứ tỉnh Ninh Bình.
[Chú thích : (1) Còn gọi là Đinh Kim Giám, đổi là Đinh Văn Nghĩa –
Quốc triều hương khoa lục.]
Lưu
Thiện Kế : Người xã Đàm Cát huyện Trực Ninh, đỗ Cử nhân khoa Tân Dậu (1861)
niên hiệu Tự Đức, quan Thương biện đạo Mỹ Đức. Sáng tác có tập Hương sen thập
cảnh vịnh.
Trần
Trác : [tức Trần Xước] Người xã Cát Chử huyện Trực Ninh, đỗ Cử nhân khoa Mậu
Thìn (1868) làm quan Tuần phủ Hà Tĩnh.
Trần Lý
Thành : Sau đổi ra Ninh Lý Thành, người xã Văn Lãng huyện Trực Ninh, đỗ Cử nhân
khoa Mậu Dần (1878) niên hiệu Tự Đức, làm quan Huấn đạo huyện An Dương. Tác
phẩm có Đại Nam Việt địa cầm thú chí.
Trần
Xuân Dục : Người xã Duyên Lãng, đỗ Cử nhân năm Tân Mão (1891) niên hiệu Thành
Thái. Tác phẩm có Trực Ninh chí.
Vũ Xuân
Du : Người xã Vọng Doanh huyện Trực Ninh, đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1891) niên
hiệu Thành Thái. Tác phẩm có Trực Ninh chí.
Bùi Huy
Phan : Người xã Bách Cốc huyện Thiên Bản, đỗ Cử nhân khoa Tân Sửu (1841), làm
quan Bố chính tỉnh Bình Định. Năm Tự Đức thứ 15 (1863) khâm sai theo quân thuỷ,
có nhiều cố gắng ở đất Hải An, điều đi Hộ phủ tại Quảng Yên, đuổi giặc bị chết
ở Cát Bà, tặng chức Tuần phủ.
Trần
Doãn Giáp : [tức Trần Văn Hiếu] Người xã Thám Thanh huyện Thiên Bản, đỗ Cử nhân
khoa Giáp Ngọ (1834), làm quan Giám sát ngự sử đạo Lạng Bình, Hàn lâm Thị độc
học sỹ.
Trần Văn
úc : Người xã Tiên Khoán huyện Thiên Bản, đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858), làm
quan Bố chính sứ đất Quảng Yên.
Trần Văn
Lịch : [Phan Văn Lịch] Người xã Cảo Linh huyện Thiên Bản, đỗ
Cử nhân
khoa Nhâm Dần (1842) niên hiệu Thiệu Trị, làm quan huyện rồi phủ, thăng
Hàn lâm
viện Thị độc.
Trần Hữu
Tự : Người xã La Xá huyện Thiên Bản đỗ Cử nhân khoa Mậu Thân, làm quan Huấn đạo
huyện Phong Doanh.
Trần
Xuân Thiều : Người xã La Xá huyện Thiên Bản, vốn là dòng dõi ông Trần Quốc
Tảng, đỗ Cử nhân khoa Bính Tuất (1886), quan Đốc học Bắc Ninh. Tác phẩm về họ
Trần có Trần gia bản mạt luận, Cố hương thi tập…
Vũ Lương
Quý : Người xã Cảo Linh, đỗ Cử nhân khoa Mậu Tý (1888).
Phạm Hữu
Thanh : Người xã Trung Phu, huyện Thiên bản, đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1891).
Trần
Ngọc Liễn : Người xã La Xá huyện Thiên Bản, đỗ Cử nhân khoa Tân Dậu (1861) thời
Tự Đức, làm quan quyền Tri phủ Kiến Thụy.
Trần
Bình Hành : Người xã Tiên Hương huyện Vụ Bản, đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1891),
là dòng dõi xa đời của Trần Duy Đào (chồng của Thánh mẫu Vân Cát Lê Thị Thắng).
Trần Văn
Gia : Người xã Quần Phương Trung huyện Hải Hậu, đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn
(1868), làm quan Ngự sử.
Đỗ Bỉnh
Thành : Người xã Quần Phương Hạ, đỗ Giải nguyên khoa Canh Ngọ
(1870),
làm quan Giáo thụ phủ Ninh Giang.
Nguyễn
Lý : Người xã Quần Phương Thượng, đỗ Giải nguyên khoa Mậu Dần
(1878),
làm quan Huấn đạo huyện Gia Lâm.
Vũ Tập :
Người xã Lộng Điền huyện Đại An, đỗ Cử nhân khoa Giáp Tý niên hiệu Tự Đức thứ
16(1864), làm quan Giáo thụ phủ Khoái Châu.
Phạm Văn
Tố : Người xã Tam Đăng huyện Đại An, đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867) thời Tự
Đức.
Phạm Văn
Hài : Người xã Tam Đăng, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879) thời Tự Đức.
Phạm Văn
Phổ : Người xã Tam Đăng, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879) thời Tự Đức.
Phạm Văn
Hân : Người xã Tam Đăng, đỗ Cử nhân năm Đinh Mão (1867) thời Tự Đức.
Đoàn
Xuân Đàm : [Đoàn Văn Sảng] Người xã Trực Chính huyện Nam Chân, đỗ Hương cống
khoa Quý Dậu niên hiệu Minh Mệnh, làm quan Đốc học ở Phú Yên. Có sách viết tên
ông là Khiếp.
Đoàn
Xuân Thường : Người xã Trực Chính, ông Mậu Uẩn biết tiếng tiến cử lên trên, làm
quan Đốc học trấn Sơn Nam. Ông là người học rộng có thực tài, học trò dưới của
ông có nhiều người thành đạt.
Vũ Túc :
Người xã Bái Dương huyện Nam Chân, nhà nghèo hiếu học, đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ
(1858) thời vua Tự Đức, làm quan Bố chính.
Nguyễn
Ngọc Chấn : [Nguyễn Ngọc Tương] Người xã Tang Trữ huyện Nam Chân, đỗ Cử nhân
khoa Mậu Ngọ (1858) đời vua Tự Đức, làm quan án sát sứ Bắc Ninh, có nhiều tiếng
tốt. Bài “Hà Cát xã tổ từ”:
Thiên
Bản di cư truyền thập vị,
Sơ vi
diêm nghệ giải nguy cùng.
Trịnh
vương tuần hải hoành đê trúc,
Lưu sứ
lai chiêu bách tính tòng.
Kim đáo
hương từ đa tố hận,
Thường
lâm tổ ốc thiểu tri tung.
Tự Tây
chư tướng loa đầu đại,
Trục khứ
tiền thì bản xứ công.
(Đền thờ
tổ xã Hà Cát:
Thiên
Bản mười ông đến ở đây,
Ban đầu
nghề muối sống qua ngày,
Trịnh
Vương tuần biển đê ngang đắp,
Lưu sứ
chiêu dân tụ đất này.
Người
tới đền làng kêu nỗi hận,
Ai qua
nhà tổ có thèm hay.
Tiên
công chẳng đoái từ xưa lại,
Đầu ốc
tôn thờ các cụ tây).
Không
riêng bài thơ nêu trên(1), ông Nguyễn còn viết khá nhiều bài nói về việc khẩn
hoang tại các vùng trong trấn Sơn Nam thượng hạ.
[Chú thích : (1) Việc thờ này nay ở vùng đất Hà Cát xã Hồng Thuận
và Diêm Điền thi trấn Ngô Đồng huyện Giao Thủy. 10 vị tổ tức các ông Lê, Đặng,
Phạm, Đoàn, Hoàng, Trần, Vũ, Bùi, Hà,Nguyễn thời Lê Kính Tông (1600 – 1609).
Lưu sứ quân tức Lưu Đình Chất quan Dinh điền thời Thái phó Thanh quận công
Trịnh Tráng năm Giáp Dần (1614). Thiên Bản tức xã Thiên Bản huyện Thiên Bản đạo
Sơn Nam nơi 10 vị tổ vốn cư chú.]
Nguyễn
Mậu Tiên (2): Người xã Đông Duy huyện Vọng Doanh, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1819)
niên hiệu Gia Long, làm quan hộ phủ Quảng Yên. Tác phẩm có Nam Phong thổ dị
đồng ký.
[Chú thích : (2) Có bản chép là Bùi Mậu Tiên. Con trai ông Mậu Tiên
là Tiến Tiên đỗ Cử nhân khoa Tân Dậu đời Tự Đức quan Bố chính Quảng Nam, con
trai thứ hai là Thanh Tiên đánh cướp năm Quý Dậu bị giặc giết. Con Thanh Tiên
là Thụ Tiên đánh giặc chết trận. Mậu Tiên là dòng dõi Bùi Quốc Đình đỗ hiệu
sinh thời Lê. Do ông Quốc Đình mơ thấy có chữ Tiên nên dùng chữ Tiên để đặt tên
cho con cháu. Họ Bùi vốn gốc họ Nguyễn.]
Trần Văn
Quýnh : Người xã Vũ Xuyên huyện Vọng Doanh, đỗ Cử nhân khoa Mậu Thân niên hiệu
Tự Đức thứ 1(1848), làm quan Hình bộ Lang trung, Giám sát đạo Bình Phú, Thanh
tra Bắc kỳ, rồi hưu dưỡng. Anh ông là Trần Thức, em ông là Trần Tiến đều đỗ Cử
nhân, em nữa là Trần Nghiêm đỗ tú tài, con ông Tiến tên là Tạo
đỗ Cử
nhân khoa Giáp Thân, quan Tri huyện Kim Động, con nữa là Trần Tuyển, Trần Cận
đều đỗ tú tài, trở thành một họ có danh vọng trong xã.
Trần Văn
Tiến : là em ông Quýnh, đỗ Cử nhân khoa Mậu Thân (1848), làm quan Ngự sử.
Lã Xuân
Minh : Người xã Thượng Đồng huyện Vọng Doanh, đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ, làm
quan Lễ bộ viên ngoại lang. Con là Lã Xuân Trang đỗ Cử nhân khoa Nhâm Ngọ
(1882), hiện giữ chức Lại bộ kiểm hiệu.
Phạm Huy
Bằng : Là con trai ông Đức Vọng xã Thượng Đồng huyện Vọng Doanh, đỗ Cử nhân
khoa Đinh Mão (1847) triều Nguyễn, làm quan Tri phủ thăng Hàn lâm Thị giảng học
sỹ (ông Đức Vọng đỗ cống sinh triều Lê, quan Sơn Nam hạ trấn tư doãn, tước Anh
Xuyên bá).
Cao Đức
Vọng : Người xã Đô Quan huyện Phong Doanh, đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858) thời
Tụ Đức, quan Lễ bộ lang trung rồi Đốc học Nam Định.
Phạm
Doãn Tế : Người xã Thượng Đồng, đỗ Cử nhân khoa Bính Tuất (1886) niên hiệu Đồng
Khánh, theo chức Kinh lược sai phái.
Phạm
Khắc Cẩn : Người xã Thượng Đồng, đỗ Cử nhân khoa Bính Tuất (1886) niên hiệu
Đồng Khánh.
Hà Quang
Phan : Người thôn Sở Thượng huyện Phong Doanh, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879)
thời Tự Đức, làm quan Tri huyện Tiên Lãng, anh ông Phan tên là Hoán đỗ tú tài.
Các ông tú : Hà Giản, Hà Hanh đều là dòng dõi của ông.
Bùi Văn
Quân(1): Đỗ Cử nhân khoa Mậu Tý (1828) thời Minh Mạnh làm quan Binh bộ viên
ngoại lang.
[Chú thích: (1) Có bản chép là Huy: Xét ra vốn tên là Quân chép lầm
thành Huy, vì tổ tiên vốn có người tên Huy.]
Bùi Nghi
: đỗ Tú tài khoa Tân Dậu, là người cùng họ với ông Bùi ái người xã Đông Duy
(Bùi ái vốn quê ở Thọ Tung huyện Tây Chân, cháu 6 đời của ông Bùi Bố Bá làm
quan doãn dưới triều Lê, đích tôn của Bùi Triêm (Triêm đỗ giám sinh khoa Bính
Tý, quan Tri huyện).
Phạm
Nhân Trinh : Người xã An Hoà huyện ý Yên, đỗ Cử nhân khoa ất Dậu (1825) thời
Minh Mệnh.
Hoàng
Kim Chung(1) : Người xã Phú Khê huyện ý Yên, đỗ Cử nhân khoa ất Mão (1855) thời
Tự Đức, làm quan Đốc học ở Hải Dương, ông là người từng dạy Nguyễn Khuyến ở
làng và Bình Lục thành đạt.
[Chú thích : (1) Hoàng Kim Chung sau đổi là Hoàng Trọng, đỗ Cử nhân
Ân khoa Mậu Thân Tự Đức 1 (1848) – Có lẽ tác giả nhầm]
Nguyễn
Ban : Người xã phú Khê, đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858) thời Tự Đức, làm quan án
sát Bắc Ninh.
Đinh Vũ
Hợp (1) : Người xã Yên Tố huyện ý Yên, đỗ Cử nhân khoa Canh Ngọ (1870) thời Tự
Đức. Sáng tác có tập Hát giang ký kiến.
[Chú thích : (1) Theo Quốc triều Hương khoa lục thì ông đỗ Cử nhân
khoa Giáp Tuất (1874)]
Hoàng
Văn Tuấn : Người xã Phú Khê huyện ý Yên, đậu Giải nguyên năm Bính Tý (1876)
thời Tự Đức, làm quan Tri huyện Nam Xương. Trước tác có tập Nam Xương nhàn ký.
Đỗ Văn
Thố : Người xã Lạc Chính huyện ý Yên, đỗ Cử nhân khoa Bính Tý (1876) thời Tự
Đức làm quan án sát ở Thái Nguyên.
Nguyễn
Duy Tấn : Người xã Dũng Quyết huyện ý Yên, đỗ Cử nhân khoa Bính Tý (1876) thời
tự Đức, làm quan Tri huyện huyện Gia Lộc.
Hoàng
Văn Cận : Người xã Phú Khê, đỗ Cử nhân khoa Bính Tý (1876) thời Tự Đức, làm
quan Tri huyện huyện Yên Phong. Tác phẩm có Vân Sơn ký viết về phái Trúc Lâm.
Hoàng
Trọng Thạc (1): Người xã Nguyệt Lãng huyện ý Yên, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879)
năm Tự Đức làm quan Giáo thụ phủ Tiên Hưng.
[Chú
thích : (1) Quốc triều Hương khoa lục chép là Hà Trọng Thạc]
Ngô Hanh
Giảng : Người xã Lật Điền huyện ý Yên, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879) thời Tự
Đức, làm quan Huấn đạo ở Văn Giang. Tác phẩm có Hương sơn linh tích.
Hà Trọng
Phả: Người xã Nguyệt Lãng, đỗ Cử nhân năm Giáp Thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc,
làm quan Huấn đạo huyện Kim Sơn. Trước tác có Kim Sơn bản mạt chí.
Phạm Văn
San : Người xã Dũng Quyết, đỗ Cử nhân năm Giáp Thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc
làm quan Huấn đạo ở bản hạt. Tác phẩm có ý Yên ký, Phạm tộc loạn hậu ký, Sơn
Nam từ miêu kiến tập. Bài Tịch Nhi nữ sử từ :
Thủy tú
sơn anh tạo thử nhân,
Hà gia
Tịch địa cận giang lân,
Cung
trung giáo tập Lê thì cựu,
Nữ sử
tôn phong Việt địa thần.
(Đền Nữ
sử thôn Tịch Nhi :
Xóm sông
Đất Chiếu(1) họ Hà,
Nước non
anh tú sinh ra người này,
Lê triều
giáo tập tiếng hay,
Tôn
phong nữ sử xưa nay phụng thờ).
[Chú thích : (1) Đất Chiếu: Tức thôn Tịch Nhi (thôn Gon) nay thuộc
xã Yên Đồng huyện ý Yên. Tịch nhi: người dệt chiếu.Đền này tức từ đường họ Hà.
Bà nữ sử là vị cung trung giá tập thời Lê Trịnh, có công dạy con gái chúa, khi
bà mất, con gái chúa về để tang và đặt ruộng tế tự.Câu đối đề từ đường họ Hà
của quan trấn thủ An Quảng Văn Đình Nhậm (1709): Giáo tập cung trung Hà nữ sử,
bảo dân hộ quốc Việt tôn thần (Khuyên răn học tập ở trong cung vị Hà nữ sử; bảo
vệ giữ gìn cho dân nước, đất việt tôn thần).]
Nguyễn
Văn Bình, Nguyễn Văn Định : Hai người là anh em sinh đôi quê ở phường Trần Xá
huyện Đại An phủ Nghĩa Hưng. Vì giận quan phụ mẫu tàn ác nên hai ông chiêu tập
dân binh giết tên Trịnh Hữu Nghĩa ở xã Hoàng Xá, rồi lại giết tên Hà Bảo Trị ở
Vọng Doanh, tự xưng là Đông Nha đại vương, Tây Nha đại vương. Lý Nhân Tông sai
Lý Đạo Thành đến chiêu hàng. Sau có công đánh giặc Tống và giải bệnh dịch ở núi
Tiên Du, đều được phong tướng tiên phong, nay còn đền thờ.
Trần Thường,
Nguyễn Lâm cùng 8 người trong xã Bình Cách huyện ý Yên theo vua Lê Lợi chống
quân Minh có công, ông Thường được chức Lôi Dương tiên phong tướng quân, ông
Lâm được chức Trấn ba tướng quân.
Nguyễn
Đức Long, Nguyễn Đức Học: Quê ở xã Nhuệ Khê (sau đổi thành Thanh Khê) huyện Mỹ
Lộc phủ Thiên Trường. Ban đầu hai người theo Trần Lãm ở Bố Hải, sau theo vua
Đinh dẹp loạn được vua Đinh phong cho Đức Long là Tam kỳ tiên phong, Đức Học là
Mạc trung tướng quân.
Nguyễn
Bình : Người xã đồi Trung huyện Đại An, thời quân Minh xâm chiếm nước ta, ông
tụ tập dân đinh chống giặc, khi chết vua phong thành hoàng thôn Đồi Thị.
Vũ Công
Chấn : Người xã An Cự huyện Thiên Bản, có công phụng sự tiềm để, đánh giặc cần
lao, được Định Nam vương thời vua Chính Hoà thứ 4 (1684) cho chức Phụ quốc
thượng tướng quân tham đốc thần vũ tứ vệ quân vụ sự, tước Luân quận công thượng
trụ quốc thượng trật.
Trần Bá
Hai : Người xã Đồng Qũy huyện Nam Chân, đi phò Tây Sơn đánh giặc được chức Anh
dũng tướng quân, tước Hai Khoan tử năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1795).
Nguyễn
Công Bạch : Người xã Cổ Nhuế huyện Đại Loan, theo vua Lê Lợi đánh Minh ở Bô Cô,
Cổ Lộng… còn làm thuốc chữa lam chướng được chức Tả vệ uý Dược tài đại tướng
quân, tước Nam Loan bá.
Trần Đức
Khoan : Quê ở thôn Thượng Lỗi huyện Mỹ Lộc, ban đầu tổ tiên ông có họ Lê rồi
sau đổi ra họ Trần. Ông vốn là người cháu xa đời của ông Lê Phụ Trần. Đức Khoan
làm quan Giám nghị triều Lê, rồi trốn vào Nam cùng cha theo chúa Nguyễn Phúc
Thuần tại Gia Định. Năm ất Mùi (1775) tháng 5, ông cùng Nguyễn Tống Phước Hiệp
mộ quân đánh chiếm Phú Yên, được chức Công bộ. Tháng 11 năm Đinh Dậu (1777) ông
đánh Vĩnh Long được chức Binh bộ tả Thị lang. Tháng giêng năm Canh thân bại
trận Quy Nhơn chết ở bến Hoa Thần.
Lê Vĩnh
Lộc : Người xã Cổ Nhuế huyện Đại Loan. Ông Vĩnh Lộc cùng hai người cùng quê, là
Nguyễn Hưng, Bùi Đại Liệu theo Lê vương tham gia chống giặc Minh. Ông Lộc được
chức Thuỷ tiên phong đại tướng, ông Hưng quan Thái y, ông Liệu chức Thuỷ tào
tiên phong phó tướng.
Vũ Tuấn
Dũng : Người xã Đào Lạng huyện Đại An. Ông là con trai của Tiến sĩ Vũ Triệt Võ.
Năm Canh Thân (1500) ông từng ứng mệnh vào triều thi võ được chức Phiêu kị uý,
là người có từ tâm lại siêng năng trong các việc đắp đê chống giặc, năm Giáp Tý
(1504) được vua cho chức Đô uý, qua vài năm cáo quan về nhà. Ông có bài thơ:
Thất
niên tung tích biến hồng trần,
Hồi thủ
hương lân nhập mộng trần,
Tử thụ
táng vinh nan cập thụy,
Chu môn
tuy phú vị tranh bần.
Vi nhân
tri nghĩa tâm phương thiểu,
Bại lý
thương luân thế nhật quần,
Quân bất
quân hề thần diệc bất,
Đình trung
gia nội tử tôn thân.
(Bảy năm
bụi bặm chân hầu khắp,
Giấc
mộng về quê chẳng lúc rời,
áo tía
dù vinh thua giấc ngủ,
Cửa son
dẫu đẹp kém nhà gồi.
Làm nhân
chuộng nghĩa người đời hiếm,
Bại lý
thương luân lũ bọ dòi.
Con cháu
vui vầy thân thích vậy,
Vua không
vua nữa hết bề tôi).
Về sau
ông mất có mộ thiên táng.
Nguyễn
Văn Nghị : Vốn quê ở Mao Xá Đông Sơn, từng giúp vua Lê Lợi chống Minh. Năm thứ
5 (1432) ông đi chống lụt ở Sơn Nam, năm ất Mão ( 1435) vợ chồng về cư trú ở xã
Phúc Long huyện Đại An, năm Tân Tỵ (1461) ông bà về quê rồi mất ở quê. Nay tại
Phúc Long (Phúc Chỉ) có đền thờ. Câu đối ở đền :
Lê triều
phụ quốc trừ minh tặc,
Nam địa
an dân ngự thủy tai.
(Giúp
nước dưới triều Lê, trừ lũ giặc Minh tới cướp nước; Yên dân vùng đất Nam, ngăn
nạn lụt lớn vỡ đê).
Con cả
ông Nghị là Nguyễn Bá Hoà thì vẫn ở lại đất Phúc Long.
Ngô Quý
Duật : Bố quê ở Bắc Hà, mẹ quê ở Vỉ Nhuế Đại Loan, bố là Ngô Miễn theo nhà Hồ,
nhưng ông thì theo Đặng Dung phò Trần được chức Chu sư đại tướng, sau nhà Trần
bị nhà Minh đánh diệt, ông bèn trốn về quê mẹ lập ấp cùng em gái ở bờ tả sông
Hát. Nay xã Kim Tông có đền thờ Đặng Dung, xã Tướng Loát có đền thờ ông đều
thuộc huyện Đại An cả.
Bùi Ngọc
Oánh : Người xã Thọ Tung huyện Tây Chân, vốn quê ở Thanh Hoa. Ông chống giặc
Minh có công được chức Phụ quốc thượng tướng quân, có sắc vua phong là phúc
thần trong xã thờ làm thành hoàng rất là thiêng liêng, nay còn đền thờ.
Trần
Công Bách : Người xã thiêm Lộc huyện ý Yên, theo vua Lê Trung Tông đánh Mạc, có
công lớn, truy phong là Phụ quốc thượng tướng quân Dĩnh quận công, gia phong
Đại vương, họ Trần bảy đời kế tập Quận công. Nay dòng dõi và đền thờ hãy còn.
Nguyễn
Năng Thiệu : Người xã Ninh Xá huyện Vọng Doanh, là công thần khai quốc thời cố
Lê, chức Đô đốc quận công, trong xã hãy còn miếu thờ, sắc phong Dực bảo trung
hưng tôn thần năm Thành Thái thứ 3 (1892).
Nguyễn
Tất Liêm : Người xã Ninh Xá, thời Lê xưa làm quan Đô uý đặc tiến tráng vũ Phụ
quốc đại tướng quân Tào Xuyên hầu. Nay ở xã Ninh Xá có tên cầu Ông Tào là ngôi
cầu của ông Tất Liêm xây dựng.
Bùi Công
Doãn : Người xã Đông Duy huyện Vọng Doanh, thời Lê xưa theo Trịnh tướng phủ
đánh giặc Hồng Đàm được chức Đô chỉ huy thiêm sự, tước Doãn Thị bá.
Nguyễn
Bá Khoản : Người xã Trà Lũ huyện Giao Thủy, vóc cao lớn, giỏi đao pháp. Thời Lê
Vĩnh Hựu theo lời kêu gọi của nhà Vương đánh giặc Ngân Già Vũ Đình Dung, được
chức Chỉ huy sứ tráng tiết tướng quân Khoản Trung hầu.
Phạm
Công Bằng : Người thôn Đan Phượng Hải Huyệt tam trang huyện Giao Thuỷ. Ông là
người có sức khoẻ lạ lùng, chạy nhảy như bay, từng kéo thuyền của người đất Bắc
bên Thanh quốc, sau theo vua Thế Tổ khởi nghĩa ở Gia Định có công được tước
Bằng ân hầu. Niên hiệu Gia Long đánh giặc ở châu Vạn Ninh được thăng Quận công.
Tuổi già về quê, mất được dân thờ làm phúc thần.
Nguyễn
Bá Đền : Người xã Tang Trữ huyện Nam Chân, làm quan Vệ uý triều Lê, tước Đức
Xuyên Hầu. Thời vua Lê Chiêu Thống ông tập hợp quân chống Tây Sơn rồi sau không
biết tị nạn ở đâu.
Phạm Hữu
Tuy : Người xã Dương Hồi huyện Đại An, thi đỗ Tạo sỹ, trấn thủ bờ cõi phía đông
bắc, có công chống giặc biển. Thời vua Lê Nhân Tông (1443 – 1459) được phong là
Trấn bắc tướng quân(1).
[Chú thích : (1) Câu đối tán của Tiến sĩ Tam Đăng Phạm Văn Nghị:
Văn chí vinh hoa đa bút chí, võ năng hiển đạt vị tăng tiêu. (Văn được giàu sang
nhiều sách chép, võ mà hiển đạt thật chưa từng)]
Vũ Duy
Phong : Người xã Hà Lạn huyện Hải Hậu, thời Lê thi trúng Giao điệt Trạng
nguyên. Bấy giờ giặc cướp phương Bắc thường hay xâm phạm bờ cõi, vua Lê cho
chức Đô đốc đem quân tiễu trừ, nay trong xã thờ làm phúc thần.
Vũ Thanh
Đạt : Người xã Quần Phương hạ huyện Hải Hậu. Thời Lê Tương Dực, sứ nhà Minh
thấy vua bảo vua mặt đẹp nhưng nghiêng ngả vì tính hiếu sắc là loại vua lợn.
Khi sứ phong cho vua, ông đóng giả vua có diện mạo khôi ngô đến cửa Nam quan
chịu phong. Lúc trở về được vua cho làm quan Huyện thừa ở huyện Phong Hoá (tức
Sơn Tây). Nay tại Quần Phương hạ có đền thờ làm phúc thần.
Lê thế
Vinh : Người xã Hà Lạn huyện Hải Hậu, thời Tự Đức ông đỗ võ cử làm Phó quản cơ
ở Bắc Ninh. Khi quân Thanh cướp Lạng Sơn, ông vâng mệnh dóng voi xông vào đánh.
Voi bị đạn chết, ông cũng tử trận, vua truy tặng là Minh Nghĩa đô uý.
Lê Công
Châu : Người xã Di Sử huyện Thượng Nguyên, vốn họ Đặng. Niên hiệu Thịnh Đức thi
võ đệ nhất. Vì có công lao đánh giặc thăng chức Cảnh Quận công. Cháu là Lê Tông
cũng từ nghề võ tiến thân dự nhiều chiến trận đắc thắng, được chức Thượng trụ
quốc Hưng Quận công. Nay còn đền thờ, có mộ và sắc phong Cao Doãn đại vương Nam
quốc phúc thần.
Nguyễn
Công Lệ : Người xã Thận Vi huyện Thượng Nguyên. Khoảng năm Cảnh Hưng Trịnh Sâm
giam Thái tứ Duy Vĩ. Có ông Hương cống Vũ Xưởng cùng một số thuộc hạ của Thái
tử muốn cứu Thái tử ra. Việc bại lộ chúng khai cả ông nữa, ông trả lời: “Chủ sự
có một mình tôi, chúng không can dự gì cả”. Ông bị chết, sắc thái không hề thay
đổi, ai cũng thương xót.
Nguyễn
Kim Phẩm : Người xã Thận Vi, có võ lược, đầu đời Trung Hưng cùng em là bọn Kim
Trân, Kim Yên vượt biển vào Gia Định, lập được nhiều chiến công, thăng chức Hữu
quân đại tướng, em là Trân, Yên cũng được chức Vệ uý. Năm Quý Mão, Phẩm, Trân
bị giặc mưu sát, Yên đánh giặc Bình Khang bị chết trận. Đầu niên hiệu Gia Long
được đem vào thờ ở miếu Trung liệt.
Vũ Quang
Nha : Người xã Trung Lao huyện Trực Ninh, do có công mộ dõng ở Bắc Ninh trải
qua quan huyện quan phủ, rồi từ Tuần phủ thăng Tổng đốc Định Thái. Thành Thái
năm thứ 4 (1893) có sắc khen ngợi.
Trần Duy
Trân : Người xã Dịch Diệp huyện Nam Chân, đi lính thăng dần tới chức Phó vệ úy.
Năm Tự Đức thứ 15(1863) đánh phỉ bị chết trận.
Phạm Thế
Trưng : Người xã Quỹ Đê huyện Trực Ninh, thời Lê đánh dẹp có công, quan đến
chức Phụ quốc thượng tướng quân, về sau gia tặng Thái bảo Trực Quận công.
Triệu
Hùng Uy : Người xã Quỹ Đê, có công đánh giặc ở triều Lê, quan tới chức Phụ quốc
tướng quân cẩm y vệ, tước An Phượng hầu.
Nguyễn
Công Thụy : Người xã Thanh Khê huyện Đại An làm quan tới trụ quốc thượng tướng
quân.
Lê Đức
Thường : Người xã Duy Thức huyện Đại An, làm quan đời Lê, có công đánh giặc
được chức Chưởng cơ.
Trịnh
Tại : Người xã An Lại huyện Đại An, đỗ Sinh đồ đời Lê Cảnh Hưng. Khi bọn Hoàng
Mật, Nguyễn Tuyển làm loạn, ông mộ quân giúp vua và phủ dụ dân chúng được chức
Chánh đội trưởng. Sau đánh giặc ở Thái Nguyên có nhiều công được tước Bá, chức
Trì uy tướng quân (ông có tên là Học, tên tự là Hưng Nhân).
Vũ Lê :
Người xã Dương hồi huyện Đại An. Ban đầu giữ chức Thủ hiệu theo đại tướng đánh
dẹp, đại tướng chết trận, ông cầm chiêng nấp ở bụi rậm thoát được, giặc thắng
về, ông ra khua chiêng thu thập tàn quân đánh úp quân giặc đại thắng, rồi liên
tiếp đánh đến dẹp hết được. Vua cho tước Quận công.
Bùi Đức
Tuấn : Người xã Tam Đăng huyện Đại An, học rộng biết nhiều, học trò ông người
trong xã như Phạm Văn Nghị, người làng trên như Bùi Huy Phan, các nơi đến theo
học thi đỗ Nghè, Cử khá nhiều.
Nguyễn
Quế : Người xã Phúc Chỉ huyện Đại An, đỗ Tú tài năm Tự Đức, mở trường dạy học,
dưới cửa ông có Phó bảng, Cử nhân thành đạt khá nhiều.
Trần
Xuân Trạch : Người Yên Lung Giao Thủy. Ông cùng anh là Xuân Nghiệp, Xuân Cách
ứng nghĩa vào đất Gia định đánh dẹp có công, sau bị người Man giết chết. Thời
Gia Long có sắc ban tặng.
Mai Xuân
Yêm : Người xã Tân Liêu huyện Đai An. Thời vua Lê Cảnh Hưng thứ 35 (1774) tụ
hội thổ dân được hơn 100 người đánh tan giặc biển Trần Ngạch hơn 200 tên, được
thưởng 20 lạng vàng và biển gỗ có chữ Trượng nghĩa bảo dân.
Vũ Trí Hoàn
: Người xã Cát Chử huyện Trực Ninh, thời Lê theo Trịnh Vương đánh giặc. Niên
hiệu Vĩnh Hựu quê ông có cướp, dân chúng ai cũng sợ hàng cả, lúc đó ông đang ở
nhà cùng hai em gái tụ hội được một số dân phu lấy than lửa gạch ngói chống cự,
nhưng cố thủ được vài ngày thì bị giặc xông vào giết chết. Sau có quan trấn thủ
đem quân đến dẹp được, đem việc tâu lên vua được biển khen có chữ Trung nghĩa
dân.
Vũ Đình
Tiêm : Người xã Cầu Cổ huyện Vọng Doanh, triều Lê đỗ Tạo sỹ, quan tới Đô đốc,
sau tặng chức Thái bảo.
Phạm Văn
Tứ : Còn một tên nữa là Tích. Người xã Phong Xuyên huyện Vọng Doanh. Khi Thế Tổ
cao hoàng đế nhà Nguyễn bị tướng Trương Trực bắt được trói ở trong thuyền. Trực
tuy là tướng của Tây Sơn nhưng nghĩ xưa tiên tổ là thần dân nhà Nguyễn, do vậy
ông thả Thế Tổ ra rồi đi theo phụng sự, sau được vua phong tước Hầu (xem Long
hưng sự lục).
Trần Trí
Dũng : Người xã Thiêm Lộc huyện ý Yên, làm quan đời Lê tới chức Phụ quốc thượng
tướng quân, tước Đặng Quận công. Khi mất được phong Bảo quốc phù vận đại vương.
Có bài “Ngự chế”:
Sinh vi
lương tướng tử vi thần,
Mạo
tuyết xung sương nghĩa báo quân,
Lý hiểm
đạo thang tài bạt chúng,
Giải bàn
thư thác lực siêu quần.
Anh uy
khí khái triều vô địch,
Cương
nghị tinh trung quốc hữu nhân.
Trụ
thạch Nam thiên danh tại sử,
Nguy
nguy miếu vũ sắc sinh xuân.
(Sống
làm tướng giỏi chết làm thần,
Sương
tuyết xông pha báo quốc quân,
Vượt
chốn hiểm nguy tài xuất chúng,
Mở ra
vận hội trí siêu quần.
Anh hùng
khảng khái đời ai sánh,
Quả
quyết trung thành bậc vĩ nhân.
Cột đá
trời Nam nêu sử sách,
Miếu đền
cảnh sắc sáng màu xuân).
Nguyễn
Khiển : Người xã Lạc Chính huyện ý Yên, đỗ võ khoa Phó bảng năm Đinh Sửu (1977)
thời Tự Đức, lĩnh chức Quản cơ ở Nam Định. Ông là người vũ dũng song rất nhân
từ. Năm Qúy Mùi đi đánh giặc bị chết trận, có một người cháu được tập ấm.
Trên đây
là tên các danh thần võ tướng, qua các đời còn có khá nhiều, chưa sưu tầm được,
vậy nên hiểu rằng không phải những vị thiếu sót ấy là vô danh tiểu tốt.
NGƯỜI THỌ
Trần
công Yến : Người xã Quang Liệt(1) huyện Mỹ Lộc, niên hiệu Cảnh Hưng đem cổ tiền
150 quan cứu giúp người nghèo được trên ban cho chức đồng Tri phủ phủ Trường
Khánh. Ông thọ 102 tuổi, năm đời cùng một nhà. Năm Minh Mênh thứ 7 (1827) được
ban biển vàng chữ “ Diệp dịch diễn tường”. Năm thứ 9 (1829) trên cho bài thơ
mừng:
Nẵng
tiếp Bắc thành thượng tấu chương,
Thăng
bình nhân thụy thỉnh tinh dương,
Tông chi
phồn diễn thiên chung tú,
Cốt nhục
đoàn viên ích khắc xương.
Cao thọ
bách linh trưng thịnh thế,
Liên
miên ngũ đại tập đồng đường.
Toàn
mông thiên quyến cổ hy nhật,
Diệc khả
hân chiêm chí thử tường.
(Tiếp
được Bắc thành có biểu tâu,
Thời
bình điềm tốt đáng nêu đầu,
Họ hàng
đông đúc ơn trời giúp,
Thân thể
tròn đầy phúc tổ sâu.
Tuổi thọ
trăm dư mừng thịnh trị,
Trong
nhà năm bậc ở cùng nhau.
Khi ta
đến lúc từ xưa hiếm,
Mắt thấy
niềm vui việc trước sau).
[Chú thích : (1) Sau đổi là Quang Xán, nay thuộc xã Mỹ Hà, huyện Mỹ
Lộc, tỉnh Nam Định.]
NGƯỜI DÂN LÀM VIỆC NGHĨA
Nguyễn
Văn Tiếp : Người xã Đồng Quỹ huyện Nam Chân, khi vua Thế Tổ, đầu niên hiệu Gia
Long ra Bắc hà, ông đi quyên tiền giúp việc quân, được phong tiến triều bộ Hộ
thị lang, về sắc phong thì hoàng đế dùng tay điểm thay dấu ấn, nay hãy còn.
Trần
Ngọc Chấn : Người xã Quỹ Đê huyện Trực Ninh. Niên hiệu Minh Mệnh, tại khu Cánh
Hàn tổng Sỹ Lâm, nước sâu lại chảy xiết, thuyền bè qua lại nhiều khi bị đắm
chìm, bộ Công đã khơi dòng nước nhưng vẫn không trị được. Ông xin với quan tỉnh
đem tiền riêng bồi lấp khu ấy, qua hai ba năm thì đầy, thành điền được 130 mẫu,
do vậy thuyền bè đi lại được tiện lợi yên ổn. Trên khen ngợi cho chức Chánh
tổng bát phẩm và 1000 quan tiền, ông không nhận chức, trên cho số ruộng làm của
tư, nay cháu ông là Trần Ngọc Quang ở xã Quỹ Nhất khẩn đất ở xã Đồng Quỹ, mỗi
khi gặp năm đói thường vẫn cấp đỡ nhiều người.
Lâm
Trung Thứ : Ông người xã Hà Lạn, năm Tự Đức thuộc tổng Kiên Lao huyện Giao
Thủy, ông làm phó, chánh tổng. Năm 31 (1879) binh lương đều đủ cả, trên thưởng
cho một đồng tiền Phi Long, nhiều người thường đến nương nhờ. Khoảng niên hiệu
Đồng Khánh, trên lấy 2 tổng phía đông Trực Ninh, phía nam huyện Giao Thủy đặt
huyện Hải Hậu gồm 4 tổng Kiên Lao, Quế Hải, Kiên Trung, Tân Khai. Nay tại hai
thôn Phượng Đông, Nam Cường đều có đền thờ truy tư ông (ông thọ 58 tuổi), con
cháu ông vẫn kế tiếp làm việc tổng rất đắc lực.
Mai Thế
Thụ : Người xã Kiên Lao huyện Giao Thủy. Khoảng năm Tự Đức
(1848 -
1883) tòng quân đánh dẹp cần mẫn có công, bị thương, được tặng là Cấm thành vệ
binh, con ông được thưởng là Quan viên tử.
Vũ Huy
Quỳnh : Người xã Dịch Diệp huyện Trực Ninh. Vào năm Tự Đức ông lấy tiền riêng
đong thóc để đó, lúc mất mùa, dân nghèo khó, thì cho vay hoặc giúp đỡ, được
trên cho biển vàng chữ: “Mỹ tục khả phong”.
Trần Đức
Trường : Người xã Tam Đăng huyện Đại An, do giàu có dư dật, năm Tự Đức ông mua
2 mẫu ruộng làm chỗ làm kho chứa thóc, dùng 1500 quan tiền xanh đong lúa mở
nghĩa thương, ai túng thiếu thì cho vay cấp đỡ không lấy lời. Quan sở tại đề
tấu được thưởng chữ “Thiện tục khả phong”. (Thói tốt đáng noi theo).
Tại xã
Hà Lạn huyện Hải Hậu. Quãng năm Cảnh Hưng giặc Ngân Già nổi dậy quấy phá, vua
xuống chiếu cần vương kỳ hào trong làng xướng suất dân đinh khoẻ mạnh tòng quân
giúp nước. Lúc yên ổn trở lại được trên cho biển gỗ sơn son thiếp vàng đề chữ
“Trung nghĩa dân” cùng tiền gạo cấp cho kẻ có công.
Tại xã
Phương Để huyện Trực Ninh, quãng năm Cảnh Hưng nhân dân có công chống giặc được
trên thưởng chữ: “Trung nghĩa dân” treo ở đình làng.
Tại
huyện Giao Thủy, các nơi như Hành Thiện, Trà Lũ bắc, Hoành Nha, Hải Huyệt tam
trang, tứ trang vì nghĩa cần mẫn việc công. Khoảng năm Tự Đức, trên xét cấp cho
các nơi trên tiền bạc, miễn sưu 2 năm và biển biểu dương có chữ “Thiện tục khả
phong” treo ở đình làng.
Ba xã
Quần Phương thuộc huyện Hải Hậu, xưa vốn là đất quần Anh. Nơi này đã thiết lập
hương ước có nhiều điều lệ tốt để quy tụ sự tương thân trong tông tộc, sự tương
ái chốn làng thôn, sự thanh liêm của quan lại, sự công bằng ngoài xã hội.
Khoảng năm Tự Đức trên cấp biển biểu dương có chữ “Thiện tục khả phong”.
Xã Đồi
Trung huyện Đại An : xưa xã này dân tứ chiếng tụ hội buôn bán, cây cối khắp nơi
um tùm, miễu lim, miễu tre chim chóc làm tổ, người ở phần nhiều mắc bệnh hàn
nhiệt bỏ mạng. Từ thời xưa có ông văn Giang về đây lập ấp khuyên dân đào giếng
lấy nước ăn, tương truyền có hàng trăm cái, nay cũng còn được hơn 30 cái. Trên
bờ có chợ, dưới sông có bến thuyền, khoảng năm Minh Mệnh thứ 3(1823) được ban
biển chữ Dân an quốc thái. (Dân yên ổn, thịnh vượng).
Xã Lương
Hàn huyện Trực Ninh : Từ thời Trần đã thờ ông Nguyễn Minh Không, dân gốc vốn ở
Điềm Xá huyện Gia Viễn, theo hương phả xã này có di tích của ông Nguyễn nên dân
thờ phụng, rồi sau được dân Điềm Xá phụ hoạ xây dựng to lên, nhiều năm Lương
Hàn mất mùa đói khát, có việc lớn vui buồn thì Điềm Xá đến giúp đỡ, ngược lại
điềm xá có việc thì Lương Hàn đến giúp. Niên hiệu Gia Long được trên ban biển gỗ
sơn son thiếp vàng hai cái treo ở đình làng chữ “Thiên thu kim kính”.
Xã Cao
Đài huyện Mỹ Lộc có dòng họ Nguyễn, thời Lê trung hưng đời vua Trang Tông có lệ
quốc tế tri ân người họ Nguyễn giúp nước, vào ngày 10 tháng 8 hàng năm. Trước
do quan ngự sử cùng quan trấn thủ làm, từ niên hiệu Cảnh Hưng thì giao cho quan
trấn Sơn Nam đảm trách. Đến triều ta niên hiệu Gia Long có biển khen “Hiệu
trung thuận trợ”. (Thuận theo giúp đỡ, hết lòng trung).
Xã Xuân
Hy phủ Thiên Trường có tục viết trong hương ước củng cố việc con phải tri ân bố
mẹ, thưởng phạt phụ hoạ gây nên thói tốt ở chốn làng quê, với xã tôn thờ ông
Ngô Miễn. Thời Lê từng ban một đạo dụ khen có chữ “Nghi tuần cổ lệ, thiện tục
khả tòng” sang triều ta từng ban chữ trên biển gỗ “Cổ thiện đương tuân”. Song
việc xã Tướng Loát huyện Đại An nơi thờ con ông Ngô Miễn là Ngô Quý Duật nhiều
lần xuống lễ bái, dân Xuân Hy bài xích là đã đi khác đường để họ phải bỏ lễ,
đó là
điều sai trái. Niên hiệu Minh Mạnh có dụ cho xã Xuân Hy không nên phân biệt,
nhưng sau lại vẫn nhạt nhẽo.
Xã Tống
Xá huyện Vọng Doanh : nơi này thời Lý có Nguyễn Minh Không quê ở Đàm Xá Gia
Viễn, sau khi dạy nghề rèn đúc ở xã Hoa Lư không thành, thì về đây ra xem cánh
đồng lấy đất Cầu Hố và dạy dân làm nghề. Dân ở đây thịnh vượng được là do có
thánh tổ ân cần dạy bảo, nay vẫn tri ân lễ bái ở đền, thời Lê đã ban chữ khen
và cấp tiền tu sửa đền miếu sai dịch, triều ta niên hiệu Thiệu Trị ban cho biển
vàng treo ở đền chữ: “ẩm hà tư nguyên” để khích lệ.
Xã Chuế
Cầu huyện ý Yên : có tục thờ bà Lương Thị Minh Nguyệt, người có công đánh quân
Minh khai quốc, dưới thời Lê từng ban sắc phong bản cảnh thành hoàng. Trong
nhiều năm đói kém mất mùa tật dịch loạn lạc, dân vẫn không bỏ lệ cổ. Thời Thiệu
Trị có câu đối ngự chế: “Cổ lệ tuân tòng, bất vị cùng quai tâm diệc biến; kim
dân an thai, phi do dư dụ nghiã tuần hưng”. (Lệ cổ tuân theo, không bởi đời
thay đổi lằm hình, lòng dạ cũng vì quên lãng hẳn; Dân nay yên ổn, chẳng do xóm
làm ăn dư dật, nghĩa tình như thế đặt bày nên).
Tại xã
Ninh Cường huyện Trực Ninh: từ thời Lê xưa người nam kẻ bắc theo đường sông tới
tụ hội ở ăn buôn bán, dưới nước tôn thờ Dương hậu thời Tống. Nhiều khi có kẻ
xúi giục chia rẽ khách dân, phương dân, nhưng từ chánh tổng lý trưởng, đều
không bới sự đánh đấm nhau, cùng nhau sánh vai làm ăn đoàn kết gánh vác sự vụ.
Thời vua Tự Đức quan khâm sai đem việc tâu vua. Lần vua ra bắc có đến làm bài
ngự chế khen treo ở đình: “Bất thính tha ngôn ngữ, do tuần cổ lệ thi. Bắc nhân
lai mậu dịch, nam địa snả miền ty. Dĩ thiện vi căn bản, hành nhân tị thị phi,
vô quai thần tục hữu, vô phá hiếu tâm quy. Đồng cư đồng đảm trách,hà nhẫn hựu
phân kỳ!”. (Chẳng nghe ai xúi những lời, vẫn nơi lệ cổ yên vui mà làm. Bắc thì
buôn bán có hàng, nam thì trồng cấy tơ vàng bông thô. Lấy điều lành để hẹn hò,
vì nhân tránh việc mơ hồ khen chê. Cùng nhau gánh vác nặng nề, ở ăn sao nỡ tính
bề phân chia).
ĐÀN BÀ TIẾT NGHĨA
Thiều
Dương công chúa : chúa là con nhỏ của Trần Thái Tông, tuy ít tuổi song rất mến
yêu cha mẹ, khi vua cha mất, chúa buồn rầu bèn chết theo.
Phạm Thị
Thục Côn : Bà người xã Thượng Lỗi huyện Mỹ Lộc, thời Bắc thuộc giúp cha mộ quân
theo Trưng Vương chống Tô Định thu phục thành trì đất Lĩnh Nam. Sau nhà Hán cử
Mã Viện sang đánh dẹp, bà thất trận nhảy xuống sông tự trầm, nay hai xã Thượng
Lỗi, Tức Mạc cùng huyện đều có tôn thờ.
Nguyễn
Thị Tấu : Người xã An Cổ huyện Thượng Nguyên ( có bản chép người xã Dị Sử huyện
Thượng Nguyên. 15 tuổi lấy chồng sinh được một con trai, qua ba năm chồng mất,
thị ở một mình nuôi con. Anh ruột của thị muốn đem thị gả chồng, thị cắt tóc
thề không thay đổi. Năm Thành Thái thứ 3 (1892) được trên khen có biển chũ “Đệ
nhất hạng tiết phụ” và ban cho 15 lạng bạc.
Phạm Thị
Đoan : Người xã Tiểu Liêm huyện Thượng Nguyên. Năm 20 tuổi lấy chồng tên là
Trần Danh Nghiễm người xã Nghĩa Lễ, mới được hơn một năm
chồng
mất, nàng bị nhà chồng ép lấy chồng, nàng bèn viết lời từ tạ bố mẹ rồi giao đầu
vào tường tự tử.
Giang
Thị Thuyết : Người xã Phù Hoa huyện Mỹ Lộc, thời Minh xâm lược nước ta, quan
quân thấy thị đẹp gái thường đến ve vãn, thị bàn với chồng khuyên chồng cùng ba
con dời về quê ngoại Gia Viễn cư trú, rồi thị mở tiệc chiêu đãi mời quan trấn
thủ Trương Minh cùng bè lũ hơn bốn mươi tên, thác việc giỗ bố chồng. Chung
quanh nhà vườn thị đào hào cắm chông sắt, bên trong hào chất củi cỏ đổ dầu, thị
thân chuốc rượu cho cả lũ vui say rồi đốt lửa, lửa bốc cao thị dẫn chúng chạy
nhưng chẳng có lối nào chạy thoát, chúng cố vượt lửa bị chết, không vượt cũng
chết còn thị thì nhảy xuống giếng tự vẫn. Sau khi đất nước bình định, Lê Thái
Tổ sai Vũ Vĩnh Trinh người xã an Cự huyện Thiên Bản đỗ khoa Minh Kinh năm Kỷ
Dậu (1429) quan Hàn lâm viện đại học sỹ về đặt lễ quốc tế trên nền nhà cũ, cho
xây miếu thờ ban tiền cho chồng con dựng nhà ở bên. Bài thơ của Vũ tướng công
khen thị :
Phù Hoa
Giang thị thị hà nhân
Thảo tặc
thần mưu bất cố thân,
Kháng
Bắc hoả công nam diệc quý,
Nghi tồn
miếu vũ tự thiên xuân.
(Phù Hoa
Giang thị là ai,
Liều
thân báo quốc để trai thẹn thùng,
Trừ Minh
bày thế hoả công,
Miếu đền
thờ tự nói cùng kẻ sau).
Tống Thị
Phúc : Người xã Cát Đằng huyện Vọng Doanh, thời Lê Mạt năm Cảnh Hưng thứ 5
(1745) thị đã có chồng và 5 con, thế nhưng vẫn thuộc loại đẹp gái, dẫu nhà
nghèo chồng ốm, con nhỏ, quan trấn thủ sở tại là Trần Hữu Đức thấy thị vất vả
làm lụng thường đem tiền của đến giúp đỡ, nhưng thị kiên quyết không nhận, tên
Trần đe doạ thị cũng không sợ. Biết thị rất yêu chồng con, tên Trần liền lừa
lúc thị đi làm bắt chồng con giam lại, thị bèn lên doanh trại tên Trần xin cho
chồng con về, thì thị sẽ lên ở với Trần, thấy thị làm như lời hứa Trần rất mừng
đưa rượu chúc thị, thị uống chúc Trần và nói Trần gọi cả bọn uống rượu nữa. Lúc
ngà ngà say thị rút dao đâm chết tên Trần và cả bọn hơn 10 tên rồi thị chạy ra
sông nhảy xuống dòng sông chảy xiết tưởng tự trầm nhưng mới trôi được một dặm
thì dạt vào bờ. Lợi dụng đêm thị chạy về xã Yên Vệ cạo đầu náu ở chùa cùng với
bà cô ruột rồi thị tìm về với chồng con ở xã Cam Giá tại Ninh Bình. Quan sau
tâu lên được trên ban biển vàng khen có lời của Hương cống Lê Bá Cẩm người xã
Tiêu Bảng huyện ý Yên đỗ khoa Nhâm Ngọ:
Bất thụ
cường quyền triển thú tâm,
Đan đao
sát tận thập dư nhân.
Nữ thân
cần khổ vô năng giả,
Thiên
quyến bần gia giải nhất truân.
(Không
chịu cường quyền có thú tâm,
Nghĩ
mình thân gái trót sa chân,
Một dao
giết hết mười tên giặc,
Trông
lại trời thương cảnh khốn bần).
Treo ở
đình trung.
Nguyễn
Thu Phương : Nàng là con gái thứ tư ông Nguyễn Dung Qúy, người xã Dũng Trí phủ
Xuân Trường. Năm 14 tuổi lấy chồng, đến năm 20 tuổi đã có bốn con trai. Chồng
là Đỗ Văn Hùng thường đi đánh chài, năm chồng 22 tuổi ốm yếu nhiều không đi làm
được, lý trưởng vẫn thúc thuế sưu. Nhà không còn tiền gạo gì, tên Lý Huy cùng
lệ đánh chồng, thị lăn đến ôm chồng gạt bọn chúng ra rồi van xin chúng 3 ngày
nữa nộp đủ. Thị về nhà đẻ xin tiền mua thuốc cho chồng uống rồi đêm bơi sang xóm
bên lấy trộm thuyền nhỏ chở chồng con đi tránh ở nhà một cô bạn lấy chồng tại
đất xa Hương Tảo. Xong xuôi thị mới về nhà. Đến hẹn Lý Huy cùng bốn tên nữa tới
đòi tiền, để bọn chúng vào nhà thị dùng dao mác chém chết cả năm tên rồi chạy
ra sông cái tự trầm. Hoàng Kim Chung người xã Phú Khê huyện ý Yên, đỗ Cử nhân
khoa ất Mão (1855) thời Tự Đức, khi đi qua biết việc đã qua 5 năm, ông khuyên
sở tại nên lập đền thờ Nguyễn thị rồi cúng 10 quan tiền và một bài thơ khắc gỗ
sơn son:
Khuyển
dương chi thế việc phi thần,
Tróc
thuế lang tâm bất cố bần,
Nguyễn
thị huy dao trừ tố hận,
Xổ hàng
giang bạn điếu trầm nhân.
(Thế
loài dê chó không thiêng,
Thuế đòi
chẳng đoái nỗi riêng cảnh nghèo, Vung dao lý dịch hồn tiêu,
Dưới
sông Nguyễn thị hiểu nhiều lòng tôi)
Trần Thị
Hường : Người xã Hào Kiệt huyện Thiên Bản, năm 16 tuổi lấy chồng là Nguyễn
Huyến qua ba năm chưa có con chồng chết. Năm Gia Long thứ 7(1809) quan huyện
thấy có sắc đẹp muốn cưỡng bức đưa đi. Nàng dùng kế hoãn binh sau khi giỗ
chồng, viết lại bức thư để lại gửi cho nhà chồng và nhà đẻ rồi vào miễu Trấu
nhảy xuống giếng sau tự trầm. Thư rằng: “Phụ mẫu chi quan dục cưỡng nhi, tự gia
thụ giáo nhất phu tuỳ, thử sinh vi tận nhiên vô lộ, lâm sứ tầm phương khứ vọng
quy. Vọng quy nguyện dĩ toàn thê phận, tuyền hạ đồng kiên bất quý hài, nhược
ngộ Diêm quân ưng tố sự, phân minh thủy mạt tại trần ai. (Phụ mẫu chi quan muốn
lấy con, một chồng được dạy tựu gia môn, kiếp này chưa hết nhưng không lối, vào
miếu tìm nơi trở lại vườn. Lại vườn cho vẹn đạo theo chồng, không thẹn ngang
vai dưới suối vàng. Trước mặt Diêm vương bày tỏ nỗi, thế gian oan ức lệ muôn
hàng. Minh Mệnh năm đầu (1820) được ban biển vàng có chữ “Thiên cổ hy kỳ” (Từ
xưa hiếm lạ).
Phạm Thị
Ninh : Người xã Cao Phương huyện Thiên Bản, lấy chồng là Vũ Đình Nhuệ một năm
chưa trọn thì bố mẹ chồng chết rồi chồng cũng chết. Nàng ở vậy thờ phụng ông bà
của chồng cũng không chịu đi bước nữa, mặc dầu nàng cũng đẹp gái mà chưa có
con, lo việc chôn cất cải tang bố mẹ và chồng chu tất. Năm Minh Mệnh 11 (1831)
có biển vàng khen “Trinh hiếu khả phong” còn cho 50 lạng bạc dưỡng lão. Sau dân
làng bầu hậu vào chùa.
Vũ Thị
Thận : Người xã Hoành Nha huyện Giao Thủy. Năm 16 tuổi lấy chồng là Cao Xuân
Tân, năm 20 tuổi, chồng con đều chết cả, thị ở vậy nuôi mẹ chồng. Nhiều người
thấy thị xinh đẹp nết na muốn hỏi nhưng thị kiên quyết từ chối. Mẹ chồng cũng
ngọ ý bảo thị tùy theo, thị nói: Gái chỉ một chồng, người không phải là giống
lợn. Năm Tự Đức thứ 22 (1850) thị ngoài 50 tuổi, quan tỉnh đề tấu được trên
chuẩn cấp 20 lạng bạc và chữ: “Nhật nguyệt kính huyền”. (Treo gương nhật
nguyệt).
Trần Thị
Quân : Người xã Phú ốc huyện Mỹ Lộc. Năm 15 tuổi lấy chồng, năm sau sinh được
một trai, quyền môn nhiều kẻ nhòm ngó với ý lấy chồng hèn yếu, thị đã kiên
quyết không theo. Lúc con được hơn một tuổi chồng chết thị vẫn nhất mực như cũ.
Năm Thành Thái thứ 7 (1896) được trên ban 15 lạng bạc và biển vàng có chữ:
“Tiết hạnh khả phong”.
Ngô Thị
Huy : Người xã Đò Quan huyện Nam Chân, năm 16 tuổi lấy chồng là Trần Khắc Tần.
Vợ chồng nhà nghèo, yêu quý nhau được ba con trai. Quan Tri huyện thông lưng
với tên xã trưởng lừa bắt thị đem về huyện, đem lời dụ dỗ lấy hắn thì chồng con
vẫn no ấm mà mình được hiển vinh. Thị từ chối nhưng hắn cố ép làm nhục, thị
dùng ghế đập chết quan huyện, đêm trốn về đưa chồng con xuống thuyền bảo em
chồng chở đi lánh nơi xa, còn thị quay lại giết chết cả nhà tên xã trưởng Lý
Hùng có 6 người lính huyện vây thị định bắt, thị dùng dao dài đâm chết được ba
tên sau đó lấy dao ngắn tự sát. Bấy giờ là năm thứ 41 niên hiệu Cảnh Hưng. Năm
Gia Long thứ 2 có chiếu phong tám chữ “Bất thụ cường quyền, lực phù chính đạo”
(Quyết không chịu cường quyền, ra sức phò chính đạo) treo ở đình làng và cho
người trong họ 50 lạng bạc sai dựng miếu thờ trên nền nhà cũ.
Trần Thị
Sửu : Người xã Dịch Diệp huyện Trực Ninh, lấy chồng họ Phạm, năm 17 tuổi sinh
được một trai, năm 19 tuổi chồng chết. ở một mình nuôi con thành đạt. Con bà
tên là Phạm Vũ Mẫn làm quan án sát Nam Định.
Đinh Thị
Yến : người xã Gia Trạng, Phan Thị Hiệp người xã Dương Hồi, Vũ Thị Viễn tại xã
Hưng Lộc đều thuộc huyện Đại An(1). Ba thị này đều chồng chết ở vậy nuôi con,
phụng dưỡng cha mẹ chồng, đến tuổi già vẫn không có tiếng xấu. Tỉnh thần tâu
lên vua Tự Đức đều được ban tiền bạc khuyến khích.
[Chú thích : (1) Huyện Đại An: Xã Gia Trang, xã Dương Hồi nay thuộc
về miền hạ huyện ý Yên. Xã Hưng Lộc nay thuộc miền thượng huyện Nghĩa Hưng.]
Đỗ Thị
Tâm : Người xã Nguyệt Mại huyện Thiên Bản, 16 tuổi lấy chồng, 20 tuổi chồng
chết, nàng ở một mình dạy con học hành. Năm Kiến Phúc Giáp Thân (1893) con nàng
đỗ Cử nhân, năm Thành Thái thứ 4 (1883) thi hội vào tới tứ trường.
Hoàng
Thị Cúc : Người xã Khang Cù huyện Nam Chân. Năm Thị Cúc 15 tuổi lấy chồng người
cùng làng là Lê Văn Tố. Nhà nghèo hai người lấy nhau được 6 năm, sinh được 4
con trai. Năm Thị Cúc 21 tuổi, chồng đi sang bên Bắc quốc học nghề, chồng đi
được 6 tháng thì thị để con cho bố mẹ đẻ rồi sang bên Bắc quốc, làm con nuôi
một bà cụ cũng có một con gái, làm hàng ăn lấy Lê Văn Tố. Văn Tố không biết hai
người lấy nhau sinh được 3 con, tức qua 5 năm Văn Tố mới về quê làm nghề thuốc
bắc. Văn Tố gặp lại vợ, nghi hoặc vợ, định đuổi vợ đi, sau vợ nói rõ sự tình,
Văn Tố mới hối hận không đuổi vợ đi nữa. Huyện quan biết việc, đề tấu vua Cảnh
Hưng,
được cho bức hoành phi có bài thơ của Ngô Khắc Cẩn người xã Lộng Điền huyện ý
Yên đỗ Hương cống thời Cảnh Hưng khoa Nhâm Ngọ :
Nhất
niệm tòng phu bất cảm vi,
Hùng tâm
vị quý dữ nam nhi,
Vãn lai
đãn uý sơn khê hiểm,
Bắc quốc
hà nhân hữu thử kỳ.
(Theo
chồng sau trước một niềm,
Lòng
hùng không thẹn sự hiềm nữ nhi,
Núi rừng
bao độ hiểm nguy,
Con trai
Bắc quốc so thì cũng thua).
NGHỊCH TẶC
Vũ Đình Dung: Người xã Ngân Già huyện Nam Chân (nay là xã Gia Hoà huyện
Nam Trực) năm Cảnh Hưng Canh Thân (1740) hắn cùng Đoàn Danh Chấn tụ hội, chúng
khởi loạn. Nơi đây không có đồn luỹ, lợi dụng đầm lầy thủ hiểm, hành quân không
có trận pháp, khi ra trận cầm song đao liều chết xông vào chém giết, quan quân
triều đình nhiều phen điêu đứng. Các vùng Nam Chân, Đại An, Mỹ Lộc,, Thiên Bản
đều bị chùng khống chế cả. Trịnh Doanh bực bội đem quân thân chinh, đến giữa
mùa đông mới dẹp được. Sau đó đổi tên Ngân Già ra Lai Cách.
Vũ Huy Lục:
Người xã Duyên Hưng huyện Nam Chân, khoảng năm Gia Long thời Nguyễn giặc tự
xưng chức chỉ huy sứ, do vậy có tên là chỉ Sáu. Hắn cùng người xã Ngọc Tỉnh là Nhị
Ngọc, xã Liên Tỉnh là Tham Luận giúp đỡ lẫn nhau để quấy phá. Triều đình đem
quân bắt được Ngọc Luận ngay, còn Lục thì chống nhau với quan quân đến hơn mười
năm, đánh qua hơn 60 trận. Thế cô hắn chạy về Hưng Hoá, Ninh Bình, rồi dần dần
bị người nhà hôn khế lập mẹo bắt dưới sự chỉ huy của Đội Lực tại xã Nguyệt Mại
nộp lấy thưởng.
Trần Văn Hiệp: Người xã Đò Quan huyện Vọng Doanh. Vào quang niên hiệu Vĩnh
Khánh, quan trấn thủ sở tại thu thuế quá lạm, lại không thương dân nghèo, đánh
đập họ. Họ liền tụ hội suy tôn Văn Hiệp làm đội trưởng. Bấy giờ dân chúng cả
vùng Đại An, Vọng Doanh đều lũ lượt đi theo tới hơn hai ngàn người. Đánh qua
hai trận, các đồn lũy của quan triều đều bị phá tan, nhưng Văn Hiệp không ham
đánh hắn tuyển lấy hơn 500 người vượt rừng về đất Thanh Hoá làm giặc cỏ nên
không bị quân Trịnh đánh dẹp. Tại Thanh Hoá hắn thỉnh thoảng chụp xuống các nơi
đồn luỹ, thu lợi rồi tản mát rút lui. Năm ngoài 70 tuổi hắn cùng vợ con sang
đất Ai Lao.
Lương Vũ Toàn: Người xã Mai Sơn huyện ý Yên. Năm Cảnh Trị thời Lê, do nhà
bị quan bản huyện mua đất không trả tiền. Vũ Toàn vì thiếu phải bán ra chân núi
Phương Nhi mua gà thả ở đó. Sau một tháng quan huyện người cùng họ là Lương
Xuân Quang không trả tiền, làm cho Trần Suy dẫn con đến đòi tiền đánh Vũ Toàn,
Vũ Toàn bị thâm tím khắp người đến huyện hỏi tiếp, Xuân Quang nói ta không trả
thì ngươi làm được gì. Vũ Toàn về núi được vợ con chăm cho khỏi hẳn bán hết gà
trả nợ, rồi cùng gia đình 6 người cầm dao phục ở vườn sau nơi tư thất nhà quan
nhân đêm tối vào giết hết cả nhà hơn 10 người rồi về. Hắn đi tuyên truyền tụ
hội được quãng 200 người vây phá đốt trụi dinh huyện rồi rút về vùng núi Gia
Viễn.
Lê Văn Quý:
Người xã An Thái huyện Thiên Bản. Vào năm Hồng Phúc thứ 2
(1574),
gặp năm đói kém mất mùa, dân chúng nhiều người bị chết, trong khi ấy quan lại
thì vứt bỏ phao phí thức ăn trôi sông phơi núi. Văn Quý tụ hội được hơn 100
người vây lị sở bắt giết huyện quan Lã Duy Trinh và tùy tùng hơn 60 người.
Thanh thế lớn dần hắn đi đánh phá các nhà giàu có lấy lương thực chia cho dân.
Hai tháng sau lại đánh cả các vùng Bình Lục, Thanh Liêm triều đình nhiều lần
bại trận. Trịnh Tạc cử đại quân sai quan trấn thủ Nguyễn Văn Huyên đánh dẹp,
Văn Quý bị thua chạy về nhà anh ruột Văn Phú, Văn Phú lừa bắt trình quan, khi
đến dinh quan Văn Phú lẩn về, Văn Quý bị hành tội.
Nguyễn Duy Cần: Người xã Cốc Thành huyện Đại An. Duy Cần nhà nghèo hiếu
học, lại có sức khoẻ, nhưng Duy Cần nối chí ông cha đi dạy học cũng tạm đủ ăn,
khi thấy ai nghèo thiếu Duy Cần bảo cứ cho con cháu ăn không lấy công, ai cũng
quý mến. Sau có bố vợ vợ lẽ của Duy Cần giàu có khuyên Duy Cần tụ quân, qua một
năm số người theo được hơn 400 người. Hắn bèn đi đánh phá dinh lũy của phủ và
các nhà giàu, nhưng rồi lại tản đi hết không có trại quân, do thế qua hai năm
triều đình vẫn không dẹp được. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1823) thì bị triều đình vây
lớn đánh giữ, vợ cả và con vợ cả đều bị quan quân bắt giết, hắn cũng bị thương
nặng nhưng được vợ thứ Hồ Thị Huyền ôm xuống thuyền nhân đêm trốn ra biển cùng
con trai gái 5 người. Đinh Văn Thuần, người xã Cát Đằng huyện Vọng Doanh, đỗ
giám sinh thời Lê là thầy dạy Nguyễn Duy Cần, khi nghe tin học trò thất trận,
ông có bài thơ: “Văn môn sinh Dương Cần bại thương, dữ thê tị khứ”:
Thế
thượng tòng lai hữu bất bình,
Tòng lai
hà hữu cảm quyên sinh,
Di cao
bồi hạ song phi kiếm,
Giải
khốn phù nguy lưỡng thủ kình.
Thượng
mã vọng dân duy ổn lạc.
Thứ thê
bão tị chí ân tình.
Ư tư ngã
tại thùy đồng thuyết, Liễu dĩ tâm thi uý lão hình !
(Nghe
được việc học trò Duy Cần bại trận bị thương vợ ôm trốn nạn liền viết:
Từ xưa
đời lắm bất bình,
Từ xưa
ai dám quyên sinh mà làm,
San cao
bồi thấp hai gươm,
Phò nguy
giải khốn quyết đem sức mình.
Xông pha
vì cứu sinh linh,
Vợ ôm
chạy nạn ân tình nặng sâu.
Còn ta
ai hiểu ta đâu,
Tuổi già
ngâm ngợi đỡ sầu chốn quê).
Ngô Văn Liên: Người xã Dương A huyện Nam Chân, năm Hồng Thuận nguyên niên
(1509) vợ đi buôn bán ở rừng về, mộc nhĩ củi thổi, tại nhà có mẹ già và
em gái.
Văn Liên để một con trưởng ở nhà trông coi mẹ cô và vườn đất, còn vợ cùng 8
người trên thuyền lênh đênh bán chác, nhà cũng gọi tạm đủ ăn. Tháng 7 năm ấy
quan sở tại đánh thuế quá nặng, Văn Liên xin khất giảm, tên quan Hoàng Văn Thái
không chuẩn, sai lính đến phá thuyền. Vô kế khả thi, Văn Liên liền đi kéo vó
tép kiếm ăn, ít lâu sau Văn Liên bị bắt giam, khi trốn về Văn Liên biết mẹ và
em bị lính huyện cùng lý trưởng đã đánh chết, Văn Liên uất ức bàn với vợ, vợ
chồng Liên đem hết con cái lên mạn châu Đà Bắc, lấy vợ cho con lớn, uỷ thác con
lớn nuôi đỡ các em để vợ chồng về quê làm mướn, khi nào làm được nhà ở yên ổn ở
quê sẽ về. Nhưng vợ chồng làm thuê cho một cái thuyền lạ chở hàng về Dương A,
nhân đêm lần vào huyện chém chết Văn Thái cả nhà cùng quan lại tới hơn 30 tên,
nhưng bị quan quân đuổi gấp, cả hai vợ chồng nhảy xuống sông tự trầm. Nguyễn
Khản người xã Đông Duy huyện Vọng Doanh đỗ giám sinh khoa Quý Dậu niên hiệu
Cảnh Hưng đời Lê quan đại lý Tự khanh, khi qua đất Dương A biết chuyện thì viết
bài Hạ hộ nan ngôn:
Trú đạo
vi quan cổ hữu ngôn,
Văn Liên
bất giải phú quyền môn,
Thế gian
sơ kiến hà vô khấp,
Bần khổ
nan minh thủy mạt hoàn.
(Nhà hèn
khó nói:
Các quan
là lũ cướp ngày,
Giàu
sang vẫn thế Liên hay chưa tường,
Sinh ra
là khóc rõ ràng,
Khó
nghèo bày tỏ nỗi nàng sao xong).
Tống Thị Thanh: Người xã Phương Khê huyện Tây Chân, nhà nghèo, mẹ bị loà
gần chỗ cất vó có nhà một ông đồ Đỗ Văn Tâm dạy học, cô tranh thủ lúc rỗi xem
trẻ viết học nên trở thành người biết đọc, viết khá thông thạo. Ông đồ mến yêu
thị thường gửi tiền gạo về nuôi mẹ thành ra thị có chửa với ông đồ lúc nào
không rõ, năm 20 tuổi đẻ được một con trai đặt tên là Đỗ Tống Hợp. Khi Đỗ Tống
Hợp lên 3 tuổi thì ông đồ mất, thị mất chỗ nhờ song vợ ông đồ vẫn gửi tiền gạo
cho bé, tất nhiên là chỉ chút ít. Một lần quan khâm sai của nhà vương qua thấy
cô đẹp gái muốn ve vãn bèn cùng quan sở tại lý dịch mưu ép cô lấy hắn, cô không
chịu chúng đã bắt mẹ cô bỏ rọ buông sông, cô giận ôm con đi gửi vợ ông đồ rồi
nhân đêm giết chết tên lý trưởng Đặng Hàn, quan huyện Nguyễn Thế Phúc và đồng
loã, tất cả 6 tên, sau đó lên chiếc thuyền nhỏ ra sông đánh chìm tự tận. Nguyễn
Văn Khôi người xã Yên Cừ huyện ý Yên, đỗ Hương cống khoa Kỷ Dậu niên hiệu Hồng
Đức, năm sau đi qua biết chuyện có thơ vịnh :
Tán
Phương Khê Tống gia nữ :
Hữu
quyền hữu thế khởi vô nhân,
Tống thị
gia bần bất cố lân
Tương
mẫu đu giang hà thái nhẫn
Khuyến
nhi đồng tịch vọng lưu ân
Cổ lai
vị kiến ngu như thử
Hào bá
đương tư trí quán quần
Nhất
kiếm trừ gian thiên địa bạch,
Giang
châu hận sự thượng truyền vân.
(Cô gái
họ Tống đất Phương Khê:
Có quyền
có thế những mang tâm,
Không
đoái thương chi Tống thị bần,
Đem mẹ
buông sông sao lại nỡ,
Khuyên
con cùng chiếu thật vô nhân,
Xưa nay
có kẻ ngu như vậy,
Sang
trọng gờm ai trí quán quần,
Lưỡi
kiếm trừ gian trời đất tỏ,
Mối hờn
còn mãi xóm giang tân).
Cao Thị Hán: Người xã Lê Xá huyện Thượng Nguyên. Cô nhà nghèo nhưng hiếu học lại đẹp
gái, cô có yêu một người họ Lê, nhưng bố mẹ còn chần chừ chưa quyết. Một nhà
trưởng giả cùng huyện ở xã Ô Mễ giàu sang đến hỏi, ông bà hỏi cô, cô nói đã yêu
người học trò họ Lê rồi, bởi ông bà lại sợ quyền chức khuyên con đồng ý lấy con
trưởng giả họ Trần, nhưng cô quyết từ. Tên lý trưởng sở tại họ Bùi thúc thuế dữ
quá, số tiền thuế lớn gấp mười lần giá trị đất đai nhà ở, thế cùng ông Nguyễn
khuyên con cố gắng. Cô biết việc tính thượng đòi láo là mẹo tên Bùi nên cô giận
lắm, tiếp đến lính lại bắt cả nhà cô, bố mẹ, anh em 6 người giam lại, cô đến
bàn với tên lý Bùi xin trên tha về để cô đi lấy chồng, sau nửa tháng nhà sẽ trả
hết nợ, tên Bùi hý hửng trúng mẹo, sẽ được món tiền thưởng hậu của nhà trưởng
giả nên xin quan huyện thả về. Hôm sau cô đi cướp được một cái thuyền loại vừa,
chở cha mẹ anh em trốn về xã Động Xuyên huyện Thanh Liêm, còn cô mang kiếm đến
giết vợ chồng lý Bùi và cả nhà tên trưởng giả hơn 10 người. Được sự giúp sức
của ba cô bạn Nguyễn Thị Hiền, Đào Thị Hương, Mai Thị Huệ xông vào giết được 6
tên lính rồi xuống thuyền nhỏ tìm lối ra sông to trốn thoát về đất Phương Trà
huyện Gia Viễn. Không lâu Trần Thuỵ, người xã Độc Bộ huyện Đại An, đỗ Nhị giáp
Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1529) năm Minh Đức, quan Hàn lâm Hiệu thảo, lúc qua có
viết một vần thơ:
Thượng
Nguyên Lê Xá tứ mỹ nhân,
Bất mãn
tương đao sát đạo quần,
Hoán
giới quyền môn nghi tác phúc,
Lôi đình
giáng hoạ tốc lai vân.
(Thượng
Nguyễn Lê Xá bốn cô, Bất bằng tìm giết lũ rồ chẳng thương,
Quyền
môn mau phải suy lường,
Trên
trời giáng hoạ tỏ tường không lâu).
(Hết tập
Thượng)
TÂN BIÊN NAM ĐỊNH TỈNH ĐỊA DƯ CHÍ LƯỢC
Tập Hạ
PHONG TỤC
(Tất là thiếu thốn rất nhiều, bản này chỉ chép những điểm
biết được trong thời hạn 8 tháng).
Về việc
chép phong tục này đáng tiếc là hơi muộn, vì do tân trào xô đẩy làm cho cựu lệ
đắm chìm, cưỡi ngựa xem hoa hẳn là có sự sai cũng thường. Nhiều khi có tục lệ
tốt đẹp, là quan phụ mẫu không nghĩ khơi dậy mà ham thói lạ kiểu gợi tình,
thích chuyện người điều bỏ lễ, quên đi nếp nhớ ơn tiên tổ, lời ghi việc mở
mang, trên đã bỏ rơi dưới theo từ tạ, cho là không hợp thời nghĩ chẳng nên nhắc
lại, cổ hủ quê mùa, ngây ngô man rợ, quanh chốn mái tranh nhãng sớm lúc nào
càng hay !
Đại lược xin kê ra dưới đây:
Chiều 30
tết, chiều ngày trừ tịch, bỏ hết chân nhang trên bàn thờ đốt đi, nhưng bớt lại
một cái chân nhang đẹp nhất, đốt thêm tro bỏ đầy vào, cắm chân nhang cho nghiêm
rồi đặt lên bàn thờ, sau khi đã quét nơi thờ tự sạch sẽ. Ra bãi tha ma thắp
hương tiên tổ và thân thích rồi về, dựng cây nêu ở phía trước nhà, dán câu đối
treo tranh ảnh, quét trong nhà ngoài sân khắp chốn, trả các nợ nần, sửa lại
cổng khoá then, sắp đặt nơi an nghỉ cho ông bà cha mẹ nghiêm trang ấm áp, làm
cơm đặt ở nơi thờ thổ công, gia tiên, đặt vàng hương, ra sân thắp hương lễ thổ
thần. Vào nhà kê bàn giữa nhà đặt lễ tiễn ông Đương niên cũ, và sắp lễ chuẩn bị
đón ông Đương niên mới dưới chữ “Thiên quan tích phúc” (Quan nhà trời cho
phúc).
Cấm kị:
Không làm chuồng xí, tưới bẩn thỉu phía đông, dễ bị ô uế nguồn nước, hướng nam
cũng vậy. Phải thông cống rãnh không để ứ đọng. Cổng không làm thông vào gian
giữa nhà chính mà chỉ nên đi một cổng hoặc có cổng phụ ra ngoài đồng, phải cài
then khoá chặt chẽ. Không thắp hương mả mới, không thờ vong nhân chưa đủ ba năm
ở nơi vốn thờ gia tiên, có đại tang chưa mãn không nên đến nhà ai từ chiều 30
tết đến hết mồng 3 năm mới. Không nên hà tiện quên treo đèn trước cửa nhà và
trước bếp. Đốt pháo phải chú ý để xa nhà, chiều 30 và lúc giao thừa đốt pháo
nên treo lên một cái cần ngoài sân mà đốt, nên đốt pháo tép cho có nhiều tiếng
lại ít gây hoả hoạn, không cho trẻ con chơi pháo. không nên để cho bếp nước ô
uế ruồi nhặng tối tăm. Nuôi lợn gà ở riêng một góc vừa phải ăn nước giếng khơi,
không tụ hội cờ bạc, không đi đâu khi đã hết giờ Tuất (từ 10 giờ tối trở đi là
không nên đi đâu nữa) và phải xem xét cổng trước sau then khoá cẩn thận. Không
tụ hội ăn uống nhiều người khề khà say sưa không dứt. Làng phải thắp đèn ở các
nơi khuất khúc.
Giao thừa:
Trước khi giờ Tý đến làm lễ đón Đương niên mới, đến đầu giờ Tý thì xong. Đốt
pháo rồi đặt lễ gia tiên, đặt nên thì vừa đúng lúc giao thừa, đến giữa giờ Tý
thì ăn uống nếu là hương hào thì ra xông đền hay túc trực ở đền tuỳ ý, nhưng
sau khi đã sắp xếp việc nhà đầy đủ. ở đền lễ cũng tương tự như ở nhà do ông thủ
từ lo lắng, chùa miếu tĩnh am đều thế. Từ đền họ cũng phỏng theo đền miếu mà
dùng lễ, nơi công cộng thì có chiêng trống chuông mõ, mà nhà thì giản lược đi
thôi. Đốt hương thì dùng số lẻ, vì số lẻ thuộc dương chủ về sinh sản phát đạt.
Lễ bái xong ăn uống trọn thì phải nghỉ ngơi, nhà tư thì từ đầu giờ Thìn mới nên
mở cửa vì lúc ấy đang có khí tiết trung hoà (Thìn thuộc thổ, thổ sinh vạn vật)
mới nên xuất hành. Nước ta ảnh hưởng văn hoá Bắc Quốc cũng có tục kiêng ngày
thụ tử sát chủ… Ngày giờ sung với tuổi mình như Thìn Tuất, Sửu Mùi, Dần Thân,
Tị Hợi, Tý Ngọ, Mão Dậu. Phương thì có phương tài thần hỷ thần mới nên dùng,
còn kị đi phương ngũ quỷ.
Mồng một:
Là con gái con trai, cháu nội cháu ngoại đều đến bái niên (mừng tuổi) ông bà
cha mẹ, không phân biệt chính thứ xa gần, xong xuôi mới về đi đến việc khác,
nhưng đối với tuổi mình ngày này cũng tốt, không thì kén chọn ngày sau. Lúc
xuất hành là lúc đi ra ngoài đi hái lộc rồi về, hái lộc ở nơi sạch sẽ và lại là
nơi hoang hoá không thuộc một nhà cai quản, rồi đi bái niên những nơi chính
yếu. Sau đó về cử người ra lễ Thành hoàng ngoài đền, rồi về nhà lễ tiên tổ tại
gia trước giờ Ngọ, hoặc phân công ai có vị trí chính thứ lễ tại gia, lễ trưa
ngày đầu năm là không thể thiếu được với người chủ gia đình, sau đó mới đi chúc
tết anh em xa gần tuỳ ý. Lệ bái niên xưa mừng ai chỉ có bằng tiền mà chỉ có một
đồng, lấy ý chỉ có một vốn mà sinh, nó mới tròn trặn và đi lối nào thì lại về
lối ấy, nếu bái niên người nhiều tuổi thì mừng mười đồng, trăm đồng với ý mọi
sự đầy đủ vẹn cả trước sau.
Ngày mồng hai thì đi chúc tết tiếp, hoặc lễ bái cầu phúc đầu năm xin xăm
đoán quẻ, chơi bời cảnh vật đón xuân. Bái niên ông trưởng tộc coi giữ từ đường,
thầy học.
Mồng ba, bốn, năm thì hoá vàng đưa tiễn tiên tổ, riêng đồ lễ ông táo thì đến
ngày 22 tháng chạp mới đốt. Mời anh em đến ăn uống rủ nhau đi hội. Từ ngày 2
đến ngày 10 chọn ngày tháng tốt tế tổ ở từ đường, từ ngày 10 đến 20 thì chọn
ngày tốt cử xuân tế ở đền miếu, từ ngày 5 đến 25 chọn ngày lễ giải hạn dâng sao
ở nhà và lễ cầu thân giải hạn ở đền chùa, lễ giải hạn ở nhà thì tháng nào cũng
phải lễ vì sao chiếu mệnh, mỗi tháng xuống hạ giới một lần. Bỏ cây nêu thì chọn
ngày tốt của tuần đầu của tháng Giêng để bỏ (tuần có 10 ngày, tháng có 3 tuần:
Tuần đầu, tuần giữa, tuần cuối). Ông Táo là vị thần được thượng đế phân công
cai quản ở một nhà, cũng là người coi giữ cảnh thổ của gia đình ấy, khi lễ bái
phải kêu với ông Táo trước, để ông biết rõ ý định của gia chủ rồi mới lễ gia
tiên. Nếu nhà nào có lễ tiền chủ thì phải cất riêng một nơi ở sân vườn để lễ
cúng như cúng thổ thần vậy. Thường thì vào chiều ngày 22 tháng chạp, lễ tế ông
Táo, để sáng 23 ông Táo lên chầu trời, bày tỏ mọi sự tại gia hạt cai quản, đến
trưa ngày 30 thì ông Táo đã có mặt ở nhà rồi. Lễ ông Táo thì thường dùng mũ,
áo, vàng, hia, cá chép và cây mía để làm gậy, lúc khát nước lại còn ăn được, từ
trưa ngày 14 đến hết đêm rằm tháng Giêng có lệ treo đèn kết hoa gọi là hội hoa
đăng. Đèn có nhiều loại, loại đèn kéo quân, đèn phụng tổ phụng thần thì có các
chữ: “Phong điều vũ thuận, hải yến hà thanh, tứ thông bát đạt, nhất bản vạn
lợi…” (Gió hoà mưa thuận, biển lặng sông trong, bốn phương thông tám ngả suốt,
một vốn muôn lời). Đèn chúc nhau có các chữ : “Nội an ngoại thuận, bách phúc
lai thành, nhân khang vật tịnh, lãi thiếu bình an” (Trong ấm ngoài êm, mọi phúc
đều nên, người yên của tốt, già trẻ yên vui…). Đèn kéo quân thì để chơi, đèn
phụng thần đến hết ngày thì hoá giá. Ai mua được thì khao làng, đèn chúc nhau
thì đêm 14 đem đi mừng đi đến tận nhà treo ở cửa.
Lệ bói
đầu năm từ mồng một đến mồng bảy, mồng một gọi là ngày gà, 2 là ngày chó, 3 là
ngày lợn, 4 là ngày dê, 5 là ngày trâu, 6 là ngày ngựa, 7 là ngày người. Các
ngày này nếu trời đẹp tốt là thứ ấy đẹp, âm u mưa gió là ngày xấu. Vào ngày 7
nếu gặp ngày đẹp trời là người khoẻ mạnh, tụ hội con cháu uống rượu bách giải
để trừ dịch lệ.
Còn đốt
pháo để xua đuổi tà ma. Cắm cành đào là bùa trừ quái dị.
Yến Lão:
Thường đến 60 tuổi thì lên lão, không kể lão ông lão bà chọn vào ngày tốt của
tháng 2 kết nạp, chọn cụ nào cao tuổi nhất kể là cụ ông làm trưởng, cụ bà làm
phó, nhưng còn minh mẫn làm trưởng hội phó hội, ba năm tổ chức yến lão một lần,
có nơi mỗi năm một lần. Về ngày có nơi lại chọn yến lão vào tháng giêng hay
tháng tám. Cỗ thì phân ra 60 đến 69 một mâm, 70 đến 79 một mâm, 80 đến 89 một
mâm, từ 90 trở lên mỗi cụ một mình một mâm. Cỗ nhất dành cụ cao niên nhất, cỗ
nhì biếu hào mục. Xã phải trích ruộng để làm lễ trước.
Văn hội:
Ai có chức sắc nhất mà có khoa mục nhiều tuổi nhất thì làm hội trưởng, nếu
không minh mẫn thì bầu một người kém hơn làm đồng hội trưởng. Võ hội cũng thế.
Hội tế bần:
Ai có văn học nhiều tuổi mà đứng đắn nhất sẽ làm hội trưởng, hội khuyến học
cũng thế. Hội văn, võ, tế bần, khuyến học, xã phải trích ruộng làm lễ cũng như
hội lão. Các phần ruộng này không phải nạp thuế cho người quốc gia. Nhưng sau
này thì khác.
Ruộng tế
thành hoàng ở đền, mỗi làng xã chỉ để có một đền, tuỳ theo lệ cũ không phải nạp
thuế, còn ruộng phật tự… đều phải nạp thuế công không quyên miễn. Ruộng tế Thần
nông là ruộng để riêng theo lệ từ thời Lý, mỗi năm đến ngày thì làng lấy đó làm
vốn mà làm.
Cứ đến
ngày 1 tháng 2 là tiết Trung hoà, các nơi ở trong nước tế thần Câu Mang, nhà
nước ban nông thư do nông quan soạn thảo.
Lệ Đông
chí đến, kể từ Đông chí đến ngày thứ 106 là Thanh Minh, dân gian đi dẫy cỏ đắp
lại phần mộ đã cải táng, thắp hương và tế lễ ở nhà thờ để truy tư. Thực ra lúc
sống kèn cựa, mưu tính chống phá lẫn nhau, cuối rốt “trăm năm còn có gì đâu,
chẳng qua nấm mộ cổ khâu (đống đất cũ) xanh rì” rồi “nhật chí hồ ly niên trủng
thượng, dạ lai nhi nữ tiếu đăng tiền” (sáng ra cáo ngủ trong hầm mộ, đêm về
trai gái trước đèn cười). Trước Thanh Minh một ngày là tiết Hàn thực.
Sau tiết
Lập Xuân ngày Mậu thứ 5 là Xuân xã, sau tiết Lập Thu ngày Mậu thứ 5 là Thu xã,
dân gian vẫn có lễ bái tiên tổ. Mồng 3 tháng 3 gọi là tiết Thượng tị.
Ngày
Canh thứ ba sau ngày Hạ Chí là tiết Sơ Phục, ngày Canh thứ tư là ngày Trung
Phục, sau ngày Lập Thu gặp ngày Canh là ngày Mạt Phục. Tháng tư có lúa gọi là
tiết Mạch Thu, ngày 8 tháng 4 sinh Phật Thích Ca lễ ở chùa.
Ngày 5
tháng 5 gọi là tiết Đoan Dương, dân gian đi hái thuốc lá đem về để dùng dần,
hoặc còn dùng cả ngày 6 tháng 6 (tiết Thiên Huống). Lệ cổ mỗi khi đến ngày Đoan
Dương thì lấy xương bồ thái lát ngâm rượu uống để giải ôn dịch do vậy còn gọi
là ngày tiết Xương Bồ, cũng gọi là tiết Thiên Trung (giờ Ngọ ngày 5 tháng 5).
Mỗi khi
vào đầu mùa hạ, thường thấy ở đền miếu lập đàn chuẩn bị minh khí lễ giải trừ ôn
dịch, ngày thì chọn ngày tốt có trực trừ, khao tiễn thì có thuyền bè, quần áo,
vàng tiền, có khi tới ba ngày ba đêm thật là một sự lú lẫn. Các nhà thường dùng
lá ngải khô tán với bột thương truật, xương bồ, quế chi, xuyên khung, bạch chỉ
rải rắc khắp nơi chỗ ở để tịch uế thì còn có lý. Mồng 5 tháng 5 chế bài thuốc
Bồ đề hoàn để lâm thời thì dùng, bài thuốc khí vị ít công phạt cảm mạo phong
hàn, sốt rét, ngã nước, nôn mửa bụng đau hoặc do ăn uống đau bụng đều dùng
được. Các nhà nghèo thiếu cũng có năng lực dự trữ, ấy là việc tốt.
Ngày rằm
tháng bảy, tương truyền người ở trên đời không mấy ai là có đạo đức tròn vẹn,
không tội nhiều thì ít đều vướng ngục hình, ngày này được tha về đoàn tụ với
con cháu… nên tục có lễ cơm canh, đốt vàng mã, nhưng phải có cấp phó qua sự
kiểm duyệt của Vũ lâm sứ giả, nhà phật gọi là tiết Vu Lan.
Mồng bảy
tháng bảy (thất tịch). Tục tề hài ký: ở phía đông Thiên hà có Chức Nữ là cháu
của vua trời, một mình chăm chỉ dệt vải không nghỉ ngơi để trang điểm được, vua
thương cô quạnh, bèn gả cho Khiên Ngưu Lang ở phía tây Thiên hà. Từ khi hai
người lấy nhau, Chức Nữ sinh ra lười biếng rồi bỏ việc. Vua giận bắt trở lại
phía đông, duy chỉ có đêm mồng bảy tháng bảy thì cho quạ bắc cầu để cho hai
người gặp nhau ở bên tây bờ, anh chị gặp nhau tự tình thương khóc như mưa gió,
con gái ngày xưa có lệ khất xảo (xin khéo) dùng kim khâu hàng ngày hướng về
phía mặt trăng xâu chỉ, có khi dùng kim chín lỗ, chỉ 5 sắc để xâu, xâu được là
được khéo, làm ăn có việc nhiều. ở nơi thành thị đêm 7 tháng 7 hay có lệ này.
Tiết
trung thu (ngày 15 tháng tám âm lịch): Các nhà đặt lễ trông trăng ngoài sân, ở hiên
treo đèn các kiểu chơi bời, ăn uống, thưởng nguyệt, nếu trời có nhiều mây hay
mưa gió thì đầu năm năm tới có nhiều mưa gió trở ngại đến việc trồng cấy.
Mồng 9
tháng 9 (trùng cửu) có tục kéo nhau lên núi rừng, tìm nơi sạch sẽ hữu tình uống
rượu cúc (rượu có hoa cúc, mộc tặc, màn kinh, xuyên khung, xương bồ, thương
truật, phòng phong, cam thảo) ngâm thơ hay chơi bời nơi đền chùa thư giãn. Tục
truyền ở đất Nhữ Nam có Hoàn Cảnh thường theo Phí Trường Phòng đi chơi, hôm
mồng 9 tháng 9, Phòng bảo Cảnh hôm nay nhà ngươi có nạn, nếu khâu túi mang thù
du và bình rượu cúc lên núi uống thì sẽ tránh được. Cảnh nghe theo đi, đến
chiều về nhà bị thất hoả, gia súc chết hết, Phòng nói thế là qua rồi!
Vào
tháng 9 chọn ngày tốt làm lễ tế thần tổ… có cơm mới gọi là tiết Thường Tân. Bài
thơ của ông Bùi ái người xã Đông Duy huyện Vọng Doanh đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ
(1834) là Thường tân tiết:
Mỗi
phùng tân mễ sơ thung đắc,
Hựu
thiết đường trung phụng tổ thần,
Nhân thế
đương tri vô cố bản,
Thuỳ
quan hậu duệ hưởng thâm ân”.
(Tiết
cơm mới:
Mỗi khi
gạo mới giã xong,
Thổi cơm
dâng trước bát nhang tổ thần,
Nếu đời
không nghĩ xa gần,
Gốc quên
con cháu hưởng ân khó lòng).
Tế Khổng Tử: Ngày sinh 17 tháng 8, ngày mất 18 tháng 2, tế xuân thu thường chọn vào
ngày sinh ngày mất và kết hợp với tế hương hiền. Có nơi chọn vị khai khoa để
tế, thường tế tam sinh ở văn chỉ miếu. Các xã tổng huyện tỉnh ở đâu cũng có nơi
thờ.
Tế ở Võ miếu: Thời xưa thường thờ Quan công, song từ thời Trần trở về sau
thì hay thờ Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, còn thờ võ quan sở tại.
Y miếu:
Thời cổ thường 15 tháng 2 tế Thần Nông, 11 tháng 3 tế Ngô Bản dùng lễ tam sinh,
đến thời Lê mạt thì chỉ tế Thần Nông và ông Hải Thượng. Ông Hải Thượng có ngày
sinh và ngày mất.
Một số
nơi có đền thờ tổ nghề thợ mộc. Ông này quê ở nước Lỗ cuối thời Xuân Thu tên là
Công Thâu Ban. Lễ thường vào ngày 16 tháng 6. Còn ở vùng ta thì thờ ông Ninh
Hữu Hưng tướng thời Đinh Lê, tại xã Ninh Xá huyện Vọng Doanh có đền thờ. Thợ nề
thờ tổ cũng thờ ông Lỗ Ban. Ông Đỗ Hựu người xã Đại Nhiễm huyện ý Yên đỗ Tam
giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất năm Hồng Đức thứ 9 (1478) có bài kiến
nhân tự mộc tượng Lỗ Ban công nhân tác nhất luật dĩ chí:
Phụ mộ
vô tri tháp xổ hương,
Thổ
trùng hựu chí kiến cao đường.
Bắc
phương Lỗ quốc Công Thâu tử,
Nam địa
tòng lai vị kiến khuông,
Vạn lý
khởi năng lưu ngữ giáo,
Thiên
niên hà vọng thiếp ân dương.
Đinh thì
Ninh tướng công do tại,
Quảng bá
dân gian tức khả tường!
(Thấy
người thờ ông thợ mộc Lỗ Ban nhân viết một vần :
Mồ cha
chẳng cắm nén hương chi,
Đống mối
đền cao giục dựng đi.
Bắc quốc
Lỗ Ban từ thuở trước,
Nam châu
nào thấy giúp cho gì.
Đường xa
sao để lời dăn dạy,
Ngàn
thuở không hòng lộc tí ti.
Ninh
tướng thời Đinh công rất lớn,
Cùng
nhau quảng bá hướng quy y).
Tháng
một, tiết Đông Chí có lệ hội cả họ đắp mộ thắp hương tế tổ, các việc hôn thú
thì đủ 6 lễ mới thành, còn việc chôn cất thì theo gia lễ Thọ Mai. Ngoài ra có
việc vui việc buồn thì thường cả chòm xóm túm lại cùng lo, rất là đầm ấm.
Tháng
chạp ở từ đường, đền miếu, chùa chiền thường chọn ngày tốt để lễ tất niên, các
người đi làm xa về thì lễ tạ ơn tổ nghề. Còn các việc cờ quạt, rước tế, giao
hiếu là tục riêng của từng vùng tuỳ theo sự thờ tự Thành hoàng của họ.
Dân gian
có tục xem ngày tốt xấu, nghiệm thuỷ triều thời tiết để làm các việc, khởi sự
thì kiêng ngày thụ tử sát chủ, thập ác đại bại, thần hào quỷ khốc ; làm nhà,
làm tổ chuồng nuôi gia súc gia cầm, còn kiêng không phòng, ly sào, cô thần quả
tú. Cưới vợ, về nhà mới chuyển chỗ ở, kê giường nằm, nhận việc chữa bệnh đều
thế cả. Các việc lớn như xây nhà mới, cưới vợ còn kiêng cả kim lâu. Mai táng
ngoài việc kiêng thụ sát… còn kiêng tang tam sát, trùng tang, trùng phục. Kiêng
ngày xấu còn tìm ngày tốt như Thiên nguyệt đức, thiên địa giải, giải thần,
hoàng đạo, thiên thành thiên hỷ… Phạt mộc còn kiêng Lỗ Ban sát, phủ đầu sát…
Lợp nhà cất nhà, làm bếp còn kiêng các ngày hoả, dạy học kiêng ngày sát sư,
phản sư. Còn các việc cũng có ngày kiêng kị cả đã chép rõ trong sách Ngọc hạp
rồi.
Ở Trung
Hoa, rồi Việt Nam, quan niệm người ta có định mệnh, muốn hiểu rõ phải thấu hiểu
âm dương ngũ hành tuần hoàn sinh khắc, người thì dựa vào thời điểm lọt lòng mẹ,
việc khác thì xem khắc ứng. Rồi mất đi con cháu được thịnh vượng hay không cũng
có tiền định cả, muốn dùng địa lý để mả cũng khó mà đạt được ý trời. Đó là tục
cổ, còn từ cuối thời Lê và nhất là sang triều ta, đạo Gia Tô truyền vào nội
địa, dần dần phai mờ đi các tục lệ xưa cũ, nhưng gần đây các giáo sỹ phương Tây
cũng đi sâu nghiên cứu tục lệ phương Đông, hầu như đã làm quan niệm vô quân vô
phụ lung lay rồi thì phải. Đặng Kim Toán người xã Hành Thiện huyện Giao Thủy,
đỗ Phó bảng ân khoa Mậu Thân (1848), khi lập tổng Lạc Thiện có viết bài “Lạ
thay”: Lạ thay con tạo khéo trêu ngươi, Vô phụ vô quân cũng giống người, Một
cõi Tây Thiên chưa đắc ý, Còn sang Đông độ dạo qua chơi. Ngẫm xem không gốc rồi
khô ngọn, Mà đã quên thân chắc mất nòi.
Ăn uống
cái gì mê muội vậy, Chết trong trường dạ gỡ sao ôi!
Về hội
hè lớn từ xưa, có lệ tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ. Cha tức ông Trần Quốc
Tuấn lấy dân làm gốc đánh thắng Bắc quốc, mẹ tức là bà chúa Liễu có gương làm
con, làm vợ, làm mẹ rủ lòng nhân từ giúp đỡ người lúc khó khăn. Nhiều vùng
trong nước cũng đều hâm mộ. Trên đây là đại yếu một số điều, còn những nét đặc
thù xin chép ở dưới hoặc bổ sung nghĩa cho trên.
Ở huyện
Đại An: Các xã Quỹ Nhất, Bình Hải, Sỹ Hội, Tổng Sỹ Lâm, xã Đồi Trung tổng Đồi
Trung, xã Phạm Xá tổng Thanh Khê, xã Đông Cao thượng tổng Trạng Vĩnh có lệ yến
lão. Đàn bà đến 65 tuổi, đàn ông đến 60 tuổi, theo lệ hàng năm lý dịch trong xã
chuẩn bị áo quần hia mũ mang đến từng nhà, ông lý đưa biếu các cụ, mời các cụ
lên kiệu, rước ra nơi đình làng làm lễ vào hội lão, xã trưởng cùng các chức
dịch dùng rượu chúc các cụ và đọc bài chúc thọ trước, sau đó đến ông hội trưởng
hội lão chúc mừng, từ năm sau trở đi không rước nữa, mà hàng năm duy trì lệ
rước ra đình chỉ các cụ từ 70 tuổi trở lên, mới được làng rước đi rước về. Lời
chúc :
Xin mừng
cho lão tới tuần, cả nhà vui vẻ ngày xuân tốt lành, bao năm nay bước tới đình,
cho làng chúc tụng lão thành cao niên, nắng sương từng trải đã quen, dựng xây
điền sản cháu con vui vầy. Cúc vàng dâng chén xin say, góp cùng ngõ xóm mỗi
ngày thêm tươi. Mỗi năm thêm một tuổi trời, nghiệm qua suy tới đứng ngồi dạy
con, gió xuân tràn ngập gia môn, lại còn ấm cả hương thôn quê mình!
Xã Trạng
Vĩnh tổng Trạng Vĩnh và các xã Giáo Phòng, Quỹ Nhất, Bình Hải, Sỹ Lâm tổng Sỹ
Lâm rất trọng văn học, những ai theo học thì được miễn trừ các thứ sai dịch, ai
thi đỗ lên hương ẩm, vào nhất nhị trường thứ vị đều được ở trên lý trưởng.
Xã Đồng
Bạn tổng Cổ Liêu có tục mùa xuân tế thần. Trai tráng đua nhau đi bắt chim quốc
nấu chín dâng lên khi ăn cỗ, ai gắp được đầu thì năm này sẽ làm ăn phát đạt.
Chuyện kể rằng thần khi xưa tị nạn, giặc không tìm được, bỗng có con quốc bay
lên, bọn chúng mới đoán rằng nơi đó có người, bèn bao vây bắt được thần. Do thế
bắt quốc là để rửa hận cho thần, lúc lễ bái tất không thể thiếu được.
Tại xã
Tam Đăng tổng Đồi Trung có kho thóc dựng trên khu đất 2 mẫu 5 sào, do các nhà
khá giả làm thiện góp vào, khi có ai thiếu thốn khốn nguy thì lấy ra để cấp đỡ
hay cho vay, năm Tự Đức có biển khen nhưng rồi sau bị bọn tả đạo đốt cháy cả.
Nay chỉ còn ruộng cấp đỡ cho người đi lính.
Ở xã Đồi
Tam, Dương Hồi, cổ truyền có tục thờ vua Đinh, chuyện kể năm xưa dân sở tại
theo vua Đinh đi đánh giặc, thế rồi hàng năm cứ đến ngày 16 tháng 8 là ngày
sinh của Tiên đế, thì ngày 15 trẻ em hai xã chặt trúc ở miếu sau đền, chia ra
hai bên tập trận cờ lau ước độ nửa ngày. Đến ngày chính kị thì hai xã cùng lo
việc. Trong đền có câu đối:
Chân
vương nhất thống lưu loan giá, Cổ miếu trùng tân xướng phượng đầu
(Vị
vương chân chính thống nhất đất nước từng lưu lại dấu vết xe loan. Ngôi miếu cổ
sửa mới lại trên khu đất có hình đầu con phượng).
Bài nói
về đất Đồi quê hương của Tam Đăng học sỹ Phạm Văn Nghị, ông tên hiệu là Nghĩa
Trai đỗ Tiến sĩ năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) là bài Nguồn gốc làng tôi(1):
Khi nhàn
tựa cửa nghỉ ngơi,
Hỏi xem
nguồn gốc làng tôi ai tường.
Từ khi
vua Triệu khai cương(2),
Đất Đồi
là xứ trung phương có người,
Con
đường thiên lý ngược xuôi,
Dòng
sông lên xuống chảy trôi theo mùa.
Miễu Tre
rừng Sở gò Mua,
Đầm Đa
bờ Cói sớm trưa đi về.
Bắc Hà
mười họ là quê(3),
Tạ Đồ
Đồng Phạm Dương Lê Nguyễn Trần,
Gặp khi
quân Hán tranh phân,
Nam cư
các cụ dời chân đất Đồi.
Mở làng
mở chợ một hồi.
Đồi
Trung Thượng Hạ Bắc rồi lại Nam,
Năm khu
vốn cũng một làng,
Gái trai
trồng cấy vỡ hoang mở đường,
Cùng
nhau giúp đỡ lo lường,
Tính
vuông mỗi phía dặm trường tám dư.
Hán Ngô
Ngụy Tấn Tống Tề,
Tuỳ
Đường kế tiếp khó bề ở ăn,
Chống
quân đô hộ tham tàn,
Lê
Phương Nguyễn Chấn Trần An vẫy vùng,
Tuỳ Văn
đế Đường Trang tông,
Đinh Lâm
Tạ Thái đều cùng nổi danh,
Đến Tiên
Hoàng có Nguyễn Thanh,
Phạm Hoà
Dương Thiệp tài lành đáng khen,
Tiên
phong vệ uý chịu liền,
Thành
hoàng các xóm năm miền thờ chung,
Tiếp Lê
Lý Trần thuộc Minh,
Còn ba
bốn vị liều mình bởi dân.
Đồng An
Đồ Quý Phạm Lâm,
Năm mươi
đinh tráng đầu quân cánh Chằm,
Dẹp tặc
đảng đánh loạn thần,
Xóm thôn
nhớ đức dụng lên đền thờ,
Sông dài
một dải quanh co,
Bốn mùa
tám tiết mận mơ xanh vàng,
Che nơi
phủ lị huyện đường(4),
Trần Lê
đông đúc các vùng chen vai,
Cuối Lê
trụ sở chuyển dời,
Ra nơi
Trạng Vĩnh(5) chỗ thời gần sông,
Chỉ còn
đất chật người đông,
Cảnh nhà
nghèo túng vẫn cùng bán buôn,
Thủa xưa
họ Tạ họ Điền,
Họ Lư họ
Nguyễn kế truyền quận công(6),
Thời Lê
nổi tiếng anh hùng,
Ba trăm
năm trước non sông nhớ người,
Biết bao
cuộc thế biến dời,
Đất quê
vẫn thế tình đời khác xưa,
Nói ra
biết có ai ưa,
Không
thì ai hiểu xa xưa chuyện nhà,
Đôi lời
thôi cũng gọi là,
Để cho
lũ trẻ ngâm nga lúc nhàn.
Hai xã
này hằng năm có lệ ngày 4 tháng giêng kị ông tổ Phúc An, ngày 5 tháng 5 ngày
các tổ từ Bắc Hà về lập ấp, ngày 20 tháng giêng kỉ niệm dân xã theo vua Đinh đi
dẹp giặc, thường dùng lễ tam sinh rước kiệu từ đền vua Đinh ra tế các tiên linh
xưa theo vua Đinh thờ ở phía đông làng Tam Đăng, rồi rước vào chùa Lở quay trở
về quay trở về đền lễ tổ lễ vua Đinh, mọi người đều đến góp tiền gạo, ăn cơm ở
sân đền rất là vui vẻ.
[Chú thích : (1) Nguyên văn là thơ Nôm.
(2) Vua Triệu: ở đây chỉ Triệu Vũ đế.
(3) Bắc Hà: Đây chỉ mạn Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Mười họ về đất Đồi
vào quãng năm 111 trước công lịch kỷ nguyên.
(4) Phủ lị huyện đường: Nói địa điểm vườn huyện, cánh đồng màu phía
tây nam làng Tam Quang xã Yên Thắng huyện ý Yên hiện nay. Khu này ước mỗi chiều
600 mét.
(5) Trạng Vĩnh: Tên làng nay thuộc xã Yên Phúc huyện ý Yên.]
(6) Thời Lê Trung Hưng các vị Quận công này đã đóng góp nhiều trong
việc tu sửa đền chùa, đắp xây cầu cống trong vùng, làng thôn có đường có ao
trải dài theo hướng đông tây từng dong cũng khá đẹp mắt.]
Xã Độc
Bộ tổng Thanh Khê có lệ thờ thần, thần tên là Triệu Quang Phục, bị Lý Phật Tử
đuổi đến ác Hải, cùng đường ngài lội cả ngựa đi xuống biển. Nay hễ đến ngày 13
tháng 8 thì rước kiệu lên thuyền (nhiều thuyền kết lại thành bè lớn) trở ra ngã
ba sông tế một tuần, gọi là tam kỳ. Tế xong rước về miếu lại tế tạ.
Ba xã
Thôi Ngôi, Tướng Loát, Hạc Bổng ở tổng Kim Tông có tục thờ thần, tế lễ thì
kiêng hát xướng, đàn nhị, chiêng trống. Truyền rằng vào năm Thành Thái thứ 2 có
nhà ông họ Đoàn ở xã Thôi Ngôi sinh được 2 trai một gái, một hôm ba trẻ đi chăn
trâu cho người ở Nhuế Dụê, bỗng có một đám con hát đi tới, hát xướng trống
phách làm cho trâu sợ chạy lồng lên, một trẻ về đến Hạc Bổng chết, một trẻ về
đến Tướng Loát thì chết, một trẻ gái về đến Thôi Ngôi thì chết. Trời mưa gió,
mối đùn lên thành mộ, bấy giờ là ngày 12 tháng 7. Ba xã bỗng nhiên tật dịch xảy
ra, người của không yên, đến lễ ở đền Chương Đức đại vương thì biết rõ chuyện
bèn lập 3 nơi 3 ngôi miếu để thờ, hễ tế lễ thì kiêng ca nhạc đàn sáo chiêng
trống.
Hạc Bổng
Tướng Loát tổng Kim Tông có lệ rước thần, thần vốn là con trai con gái ông Ngô
Miễn thời Hồ, dưới thời Trần con trai là Lê Quý Duật theo Đặng Dung đi giúp
Trần Quý Khoáng chống Minh. ở trên đê có ngôi miếu thờ ông chú của thần, hàng
năm dân làng rước thần lên lễ miếu mãnh, gọi là lễ vọng tổ. Nay mộ thân mẫu
thần và mộ của thần vẫn còn.
Xã Ngọc
Chấn tổng Ngọc Chấn có tục thờ thần thác danh là Tam Đầu Cửu Vĩ bát hải long
vương. Thần vốn tên là Đặng Dung xưa kia từng đóng quân ở khúc đê này để ngăn
quân Minh vào Thanh Nghệ và cứu dân Ngọc Chấn bị nạn lụt vỡ đê, mỗi khi đến
ngày đại lễ thì dân xã chèo thuyền tập trận giả để kỉ niệm ở trên sông Hát. Dân
các vùng hai bên sông đều tụ hội rất đông về lễ bái, do khúc sông này giống như
dàm con ngựa nên gọi là cửa Mờm và đền cũng gọi là đền Mờm. Hiện đền có bài thơ
của Đặng Dung khắc gỗ sơn son thiếp vàng “Kim Tông quân thứ chu trung cảm tác: Tân Mão niên thất nguyệt” :
Tinh kỳ
nghiêm lập thủy lưu trường,
Thân ỷ
thuyền lan vọng cố hương,
Dân tán
quốc nguy thuỳ nhiệm trọng,
Binh cơ
lợi độn vị năng lường!
(Trong
thuyền nơi đóng quân trên sông Mờm cảm xúc viết, tháng 7 Tân Mão (1411):
Cờ tinh
nghiêm chỉnh nước trôi dài,
Quê cũ
bên thuyền ngóng chờ hoài,
Dân tán
nước nguy ai gánh vác,
Việc
quân thắng bại biết chưa rồi)
và “Hồng
Đức niên ngự chế đối liên”:
Tiêm cừu
Nam quốc thần do phụ,
Đãn hận
Bắc xâm nhãn vị thanh.
(Câu đối
của vua Lê Hồng Đức:
Diệt thù
vì nước Nam ta, lúc hoá về trời thần vẫn giúp ;
Còn giận
với quân Bắc nọ, trông đang vướng mắt phải lo trừ).
Xã Thanh
Khê tổng Thanh Khê có tục đi làm lái lợn, khi mang lợn đi chợ thì dùng vợ làm
con mồi, gọi vợ là chị cả, nhưng tối về thì gọi vợ là em tôi. Bùi Huy Phan
người xã Thân thượng huyện Đại An đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp
Thìn (1844) có thơ giễu:
Em tôi
chị cả khác chi nhau,
Vì lợn
lừa ai khéo đặt câu,
Chớ bảo
tổ tiên xưa đã thế,
Mình
cười sao nỡ để ai đau!
Tục
phường Giáo Phòng tổng Sỹ Lâm có lệ làm đèn hoa để mừng nhau. Nhà ai có việc
dân mang đèn đến mừng treo vào cột từng chuỗi sáng rực, thường những đèn này đã
đủ dầu thơm cháy được ba ngày ba đêm.
Tử Vinh
có đền thờ Sơn Quân, hàng năm cứ đến 10 tháng Giêng lấy tre giấy làm một con hổ
đực to, đem đến đền đặt ở bàn giữa phụng sự, đợi đến ngày 21 cùng tháng thì
khênh ra cánh đồng đốt đi. Tương truyền vào thời Lê Sơ, có một con hổ cái,
thường đến làng lồng lộn khắp nơi phá phách nhà cửa ngô lúa, không ai trừ được.
Sau lập đàn cầu Thiên Quan, được chỉ giáo Sơn Quân sống đã lâu năm, không kiếm
được chồng, nếu làm con hổ đực lễ đốt đi thì Sơn Quân sẽ không đến phá phách
nữa.
Xã Vỉ
Nhuế có tục thờ nữ thần. Thần tên là Phạm Tiên Nga, quê bố ở xã La Ngạn, quê mẹ
ở thôn Nhuế Duệ xã Vỉ Nhuế, bố mẹ dời xuống làng Trần Xá xã Vỉ Nhuế sinh ra
thần. Khi thần lớn lên thì thân sinh nối nhau về trời, thần không lấy chồng ở
một mình phụng sự đủ lễ. Thần nghĩ nhà khá giả không có chồng con, liền đem
tiền của cấp đỡ làng xã, xây dựng đền chùa cầu cống đường xá, khơi sông ngòi
cứu giúp người nghèo thiếu, rồi thần đến xã Đồi Trung, lập một ngôi chùa ở bên
bờ sông Đào Khê tu hành, lễ phật, qua 6 năm thì về ở đất thân sinh ở cũ để về
trời. Khi về trời rồi sở tại nhớ ơn dựng đền thờ, được thần giáng bút xưng là
con gái Ngọc Hoàng. Thời Lê Cảnh Trị có sắc phong đệ nhất giáng sinh tầm thanh
cứu khổ, Phạm gia lệnh nữ bản cảnh tôn thần, các đời sau này thì phong đệ nhất
giáng sinh Liễu Hạnh công chúa. Nay mỗi khi đến ngày kị thì ở La Xuyên, Cát
Đằng của huyện Vọng Doanh, cũng rước xuống các đền Vỉ Nhuế, Nhuế Duệ, Đông La,
Đồi Trung bái tổ.
Xã Quần
Liêu tổng Hải Lạng: Xã này do người của họ ông Võ Tố là Võ Thành lập ra, đền
thờ sắc phong do vua ban cấp cho ông Võ Thành hãy còn. Ban đầu không có ai theo
Gia Tô, sau có một số người ép buộc ông và vận động vợ con ông theo Gia Tô để
ép ông. Thế không sao được ông phải mang gia phả thần sắc trơ trọi một mình
sang ở tại phường Giáo Phòng không dám trở lại nữa. Ông có giảng với vợ con và
người họ về việc tổ tiên khai khẩn, mà họ vẫn phá nơi thờ, trả lời hãy quên đi.
Đó là việc năm Quý Dậu thời Tự Đức xã Quần Liêu lập nhà thờ chúa Gia Tô. ở Giáo
Phòng cũng bị bọn trở mặt xã Quần Liêu đe doạ quấy rối, sau có người họ Võ quê
gốc ở Cổ Liêu tổng Cổ Liêu, đón ông về đất tổ nuôi dưỡng, lấy một vợ 30 tuổi
cũng được 5 người con trai rất hiếu thảo. Đỗ Huy Liệu đỗ Giải nguyên khoa Đinh
Mão (1867) người xã La Ngạn huyện Đại An có thơ gửi ông Võ Tố “Ký Võ Tố công”:
Diệc tự
thiên bài khởi tự công,
Thủ trì
nhất phiến ngự tây phong,
Thê nhi
dĩ thử ưng tu cải,
Khổ hải
hà năng đãi khả phòng.
(Gửi ông
Võ Tố :
Vốn tự
trời bày chẳng phải ông,
Giơ tay
cầm quạt chống tây phong,
Vợ con
đã thế thay đi vậy,
Biển khổ
mong chi có thể phòng).
Thời ấy
những người như ông Võ không có nhiều, dù vậy trong việc truyền đạo của thánh
Gia Tô không phải là nơi nào họ cũng nghe răm rắp.
Ở huyện
Vụ Bản, tại xã Bảo Ngũ tổng Bảo Ngũ có lệ để học điền, vào thời Lê có 3 mẫu,
sang thời Nguyễn chỉ còn 2 mẫu 5 sào. Hằng năm vào ngày 15 tháng giêng ông hội
trưởng văn hội cùng xã trưởng và một số người tụ hội ở đình ra đề bài cho học
trò, trò nào ưu sẽ được một cái áo xanh da trời và một thùng thóc, kém thì chỉ
có một cái áo, còn dốt thì không có gì.
Xã Dương
Lai tổng Trình Xuyên, xã trưởng để một nơi đất rộng 2 sào làm ba gian nhà, hằng
năm quyên các nhà khá giả giàu có để xây dựng nghĩa thương, thời Lê có trữ tới
250 thùng, các năm đầu cho vay lấy lãi một phân mười một năm, về sau vừa cho
vay vừa cấp không cho nhà quá túng, những năm quân Thanh xâm lược vẫn duy trì
được, sang thời Nguyễn bị bọn tả đạo phá đốt lúa cháy rụi. Gần đây có dựng lại
nhưng vốn còn ít lắm.
Xã Khổng
Trạch tổng Hào Kiệt có lệ trích một phần mười số thóc công để bổ sung vào quỹ
thương, kết hợp với 2 mẫu ruộng lúa để cứu giúp cũng sung vào nghĩa thương. Gặp
năm đói kém thì cấp đỡ dân, hoặc nộp tô nộp sưu thay cho các nhà túng bần hàng
năm.
Ở xã An
Thái, Vân Cát tổng Đồng Đội có tục thờ nữ thần Lê Thị Thắng được phong là Mã
Vàng công chúa ngày hội ngày thường lễ bái, thường có tục lên đồng, phụ nữ mặc
áo quần nhiều màu sặc sỡ nhảy nhót ở trước nơi thờ. Thời Lê tuy đã có, song
sang đầu thời Nguyễn thì thịnh hơn, gần đây tuy có kém nhiều mà vẫn không bỏ
tục cũ.
Các xã
An Triền (Yên Duyên) tổng An Cự, Bất Di tổng Bảo Ngũ, Cao Hương tổng Hào Kiệt
có tục bé xé ra to, hay đưa nhau đi kiện cáo nơi cửa quan, mặc dù biết bên bị
bên nguyên đều tổn hại mà không chịu việc nhường nhịn nhau.
Vùng các
xã Dư Duệ, Phú Thứ, Côi Sơn tổng Đăng Côi có tục hay chắn đường gây sự với
người tứ xứ lúc lạ lẫm đi qua để lấy đồ. Vào thời Lê mạt nơi đây hay có những
vụ chém giết nhau, sang thời Nguyễn tuy có giảm bớt nhưng gần đây lại trỗi dậy.
Ở Bách
Cốc tổng Trình Xuyên có 8 điều kiêng: Không nhờ Bách Cốc tham quan, không vào
Bách Cốc xóm làng quanh co (đường xóm có nhiều ngõ khó coi đồ vật mang theo),
không chơi Bách Cốc ỡm ờ (lời chào hỏi chỉ bảo không thật), không bạn Bách Cốc
lúc phò lúc vui (lúc vui thì bạn chơi, lúc buồn thì bạn tránh), không ăn Bách
Cốc gạo hôi (cũng như Chợ Chùa thường vảy nước vào gạo để bán, lúc chào thì đưa
gạo tốt, lúc đong thì để gạo xấu vào để lừa), không mua Bách Cốc con người trở
tay (mua bán thường bị lừa cả với người già), không vợ Bách Cốc lời hay (gái
Bách Cốc lười biếng ỷ lại cho chồng), không ở Bách Cốc riêng tây khó lường (Vào
ở đất Bách Cốc, nếu nghèo thì còn ở được, nếu khá giả thì bọn xấu bàn mưu đánh
đổ), tám điều Bách Cốc nên kiêng, đất lề quê thói xưa thường ít thay.
Xã Vân
Cát tổng Đồng Đội và xã Thái Tuyến tổng Bảo Ngũ. Có lệ cùng nhau phụng sự Thánh
Mẫu ở phủ Cố Trạch, họ ước với nhau cứ tới ngày kỵ mẫu 3 tháng 3 thì tới làm
lễ, ngày 7, 8, 9 thì cùng nhau bàn việc lễ bái. Năm Tự Đức Đinh Tỵ (1857) người
làng Vân Cát là Vân Song cư sĩ có viết:
Bồng Hồ
nào phải xa đâu,
Dấu xưa
tốt đẹp thực là nơi đây,
Ngôi đền
cao ngất mây bay,
Non xanh
như vẽ trông đầy cỏ cây,
Thiêng
liêng còn đến hôm nay,
Khói
nhang thờ phụng tháng ngày đông vui, Nghiêm trang khi bước tới nơi,
Vọng cầu
ai dám buông lơi kính thành.
Làng ta
lân cận mái tranh,
Với nơi
sở tại cũng tình anh em,
Lấy tâm
lấy lẽ duy xem,
Lại qua
gần gũi thân quen là thường,
Thần
minh soi xét thiện lương,
Ban cho
phúc lộc thọ trường trăm năm.
Khắc bia
đá để điều răn,
Làm gương
mãi mãi xa gần soi qua.
Xã An
Thái có tục hội Hoa Trượng: Truyền rằng Trịnh Thái Phi đến cầu ở đền Mẫu, được
ứng nghiệm rõ rệt, lúc ấy xã dân đang đắp đê, khơi nước kinh thành, Phi muốn tạ
ơn bèn miễn sưu dịch cho dân về hết, bỏ mai cuốc dùng gậy dương biển kéo chữ
“Thánh cung vạn tuế, Mã Vàng công chúa, thái bình ca xướng, quốc thái dân an,
sở cầu như ý, vạn thế phúc thần, dân lại dĩ an” để đáp lễ đang trong ngày kị.
Từ đó thành lệ của đền Vân Cát, đến thời Tự Đức thì Vân Cát ít người không lo
được bèn giao cho đền Tiên Hương, đến nay Tiên Hương vẫn giữ lệ này.
Lệ của
sư chùa Tiên Sơn ở trên núi Gôi thuộc tổng Đăng Côi : Truyền rằng vào thời Lý
sư Tế Sinh chùa Phúc Lâm xã Đồi Trung huyện Đại An, tiết đoan ngọ đi hái thuốc
lên núi Gôi, nghỉ trưa mơ thấy Phật Bà cho nắm cúc, nắm quất, sư tỉnh lại thấy
tay vẫn còn cầm bèn thắp hương lễ tạ rồi về. Mấy năm sau sư Tế Sinh lên ở chùa
núi Gôi, song cứ đến mồng 5 tháng 5 thì dẫn các đệ tử về lễ ở chùa Đồi. Từ đó
thành lệ năm nào các sư ở chùa Gôi cũng dẫn ước năm mười vị sư và các tín đồ
hàng trăm trở lại bái tổ trước tượng phật Bà, từ sáng mồng năm đến sáng mồng
sáu mới về. Chùa Gôi vốn là do sư chùa Đồi mở cảnh, hội chùa Đồi và chùa Gôi
đều vào tháng 8, sáng 14 rước ảnh vẽ trên gỗ phật Bà từ Gôi về Đồi, rồi sáng 15
lại rước từ Đồi về Gôi, chùa Gôi to có nhiều toà chồng diêm, hành lang tả hữu
liên tiếp tượng phật có tới vài trăm pho, còn có tượng thập điện rất uy nghi.
Xã Liên
Xương thuộc tổng Hoàng Lão có tục thi vật, thôn Bách Cốc, thôn Phú Lão tổng
Hoàng Lão có lệ múa rối, Lai Xá tổng Hiển Khánh có phường con gái hát chuốc
rượu để mừng đại lễ, phường có từ năm đến mười người đủ đàn sáo nhị trống
phách, hát xướng các bài ca ngợi tuỳ sự việc trong đám, thời Lê có Nguyễn Thị
Thục được tuyển vào phủ Trịnh Sâm, thời Gia Long có Bùi Thị Hoa được kén vào
Huế.
Ở huyện
Vọng Doanh : Đây là một huyện nghèo, dân trong hạt nhiều nơi không thuần, điêu
ngoa như dân Lỗ Xá, vu cáo như Hoằng Nghị, trộm cướp như Cao Bồ, An Lộc và một
số nơi có đạo thiên chúa… còn thì phần lớn cần kiệm hiếu học.
Ninh Xá
có lệ kéo lửa thổi cơm thi và lễ hiến xảo các đồ mộc lên đền thờ tổ nghề. Cát
Đằng có lệ rước tổ nghề sơn, thi làm đồ khéo và thi vật.
Tống Xá
có tục không truyền nghề cho con gái, ai tiết lộ nghề cho người ngoài thì phải
phạt đuổi khỏi làng.
Lũ Phong
có tục 15 tháng 3 mở hội tế thần tạ ơn, đinh tráng mặc áo nhiều màu cầm gậy hoa
dương cao các chữ “Vạn thọ vô cương, thiên thu hương hoả, lão thiếu quân an,
điền hoà phong nẫm”, ba năm một lần rước về Ninh Xá thượng.
Mỹ Dương
có lệ tế thần, thi lợn thi gà, ai thắng được thưởng một sào ruộng cấy suốt đời
và một thùng thóc nếp, một cặp bánh dày giò nặng hai cân.
Đô Quan
có tục đấu cờ tướng, ai thắng được thưởng bộ quân cờ và một thùng
thóc
nếp.
Ổi Lỗi
có tục múa rối nước và hát thi khúc hát nhân hoà thần giáng phúc, ai nhất sẽ
được thưởng bộ áo quần màu đỏ và một con gà trống. Khúc hát này có 60 câu đều
là ca ngợi cảnh vua anh minh, quan chính trực, gió hoà mưa thuận, dân được mùa
no ấm yên vui dưới đời thái bình thịnh trị.
Cát
Đằng, Văn Cú, La Xuyên, Ninh Xá cũng như vùng tổng Yên Trung của Đại An, ai
nghèo khó thì còn yên ổn, nếu có sự khá giả thì tụ tập bàn mưu đánh đổ. Người
xưa có câu: “Cơm nước cáy ngáy kho kho, cơm thịt bò lo ngay ngáy”.
Xã Vũ Xá
có đền thờ Nam Quân đô đốc phủ tả đô đốc Bái quận công Lê Viết Duệ (1602 –
1678) thời Lê Trịnh, đương thời có công giúp dân khốn khó, lúc mất ngày 15
tháng 6 dân dựng đền nhớ ơn. Các nơi được ông cứu hộ, đều trồng kiệu rước về
Khả Lang lễ bái một đêm, sáng 16 tháng 6 mới rước trở lại đền tư. Lê Bá Cẩm
người xã Tiêu Bảng huyện ý Yên, đỗ Hương cống năm Cảnh Hưng Nhâm Ngọ (1762) có
đề bài thơ ở đền là “Vũ Xá Lê công từ” :
Lê triều
Vũ Xá Bái Quận công,
Chung
thuỷ nhất tâm bất cải tòng,
Dữ quốc
trung trinh quan hữu nhất,
Đối dân
nhân hậu thế vô song.
Đồng
liêu uý trực tầm phương hại,
Hạnh đắc
đương vương kiến lý cùng.
Chư xứ
mỗi phùng sinh kị nhật,
Tề lai
đính đới bái tư công.
(Đền Lê
công ở Vũ Xá :
Triều Lê
Vũ Xá Bái Quận công,
Sau
trước đều không đổi tấm lòng,
Với nước
trung trinh quan có một,
Cùng dân
nhân hậu tướng vô song,
Sợ oai
liêu hữu tìm phương hại(1),
May có
đương(2) vương hiểu lẽ cùng.
Các sứ
hoá sinh khi tới tiết,
Đều về
cầu đảo nhớ ơn ông).
[Chú thích : (1) Liên hữu: bạn cũng làm quan.
(2) Đương vương: vị vương đương thời, chỉ Trịnh Tạc. Hiểu lẽ cùng:
hiểu thấu được Lý Viết Duệ mất.]
Về phong
tục của huyện Phong Doanh(1), Hà Trọng Phả người xã Nguyệt Lãng huyện ý Yên đỗ
Cử nhân năm Giáp Thân (1883 - 1884) niên hiệu Kiến Phúc có viết:
Học hành
thì tổng Bồng Xuyên,
Thượng
Đồng tự cổ vài miền cũng hay,
Trộm
cướp Ngô Xá cả ngày,
Ghét
ghen An Lộc còn đây Cát Đằng,
Mỹ Dương
chớ nghĩ hữu bằng,
Vũ Xá
bới việc nên chăng lui lời(2).
[Chú thích : (1) Huyện có 7 tổng, lời của Trọng Phả có tính khái
quát.
(2) Câu nói dân Vũ Xá hay bới việc vu vạ để đánh người cứop của.]
Huyện ý
Yên: Các xã Phú Khê, Dũng Quyết, An Tố, Xuất Cốc, Hưng Nhị, Lật Điền, Nguyệt
Lãng, Lạc Chính có lệ để học điền. Chuế Cầu, Dương Hồi, Bình Cách, Thọ Cách có
tục để ruộng nghĩa thương. Vạn Điểm, Mặc Tử có ruộng tế bần. Nói chung là một
huyện nghèo, xưa có câu “nhân bần trí đoản” (nghèo thì sự suy nghĩ nông cạn)
cho nên ít người ở xa tới để giao lưu.
Hội chùa
Ngô Xá : có lệ 15 tháng Giêng dân tứ xứ đến thắp nhang cầu phúc, hái chiếc lá
để bói xem việc cả năm. Ai đi làm khá giả thì về đem tiền cũng vào việc tu sửa.
Hội chùa
Dưỡng Hối : Ngày 5 tháng giêng có lệ bói quân cờ. Trong chùa có bộ quân cờ đá,
ai lễ vua Trần rồi thì ra nhặt lấy một quân rồi vào xem quẻ, dân tứ xứ kéo đến
khá đông.
Lạc
Chính, Dưỡng Hối dân tục không thuần hay sinh nhiều chuyện bất nhân. Huyện Nam
Trực: Trí An thuộc Cổ Nông có lệ thi lợn lệ, ai thắng sẽ được cấy 3
sào
ruộng mãn đại.
Bằng
Hưng tổng Duyên Hưng có lệ lan nhai. Phàm con gái đi lấy chồng thì nhà trai xã
khác phải nộp cho xã nem trăm gói, rượu trăm chén để đãi dân.
Xã Thọ
Tung tổng Cổ Gia có tục thờ phụ quốc tướng quân Bùi Ngọc Oánh, mỗi khi năm mới
dân tứ xứ hay tới xin thơ giáng bút có nhiều linh dị. Ngày kị có lễ tạ ơn, các
nhà đều góp gạo nếp gạo tẻ đồ xôi làm bánh dâng lên và hưởng lộc, nhờ công thần
giúp tiền chiêu dân khẩn thêm đất rừng cầy cấy.
Phần lớn
các xã trong huyện đều chuộng học hành, có để học điền nhiều ít. Thường nghĩ
đến việc thiếu đói, nên cũng có ruộng tế bần, song có một số nơi chú trọng duy
trì, có phần nhiều chỉ là ghi trong hương lệ.
Các xã
Bái Dương, Tang Trữ, Hiệp Luật, Cổ Lũng cứ đến 10 tháng Chạp thì làm gỏi cá
trắm, kho cá rô để tế Thành hoàng ở miếu.
Sa Lung
là tổng đông dân: Dao Cù có nhiều quan lại, Tây Lạc chăm chỉ học hành, nhưng
nói chung trong tổng hay kiện cáo quấy phá, thường thì việc nhỏ cũng gây sự đưa
nhau lên quan.
Xã Gia
Hoà người dân vốn ưa chém giết nằm ở tổng Thi Liệu. Xã này vốn là trại Vu Điền,
thời Trần gọi là Ngân Điền, đến thời Lê Sơ gọi là Ngân Già, khi triều đình dẹp
xong giặc cướp thì đổi ra xã Lai Cách, xã bị quân quan chém giết gần hết. Năm
Cảnh Hưng 15 (1755) ông Nguyễn Thành Hoá đưa dân xã Cố Đế xuống ở, xã mới có
nhiều
người
lên, bèn đổi làm xã Gia Ngân, rồi sau đổi thành Gia Hoà, nhưng địa phương vẫn
quen gọi tên làng Cà từ Lê sơ trước. Dù vậy cái tính ngông cuồng của làng này
vẫn chưa đổi được.
Xã Vân
Chàng có tục thi xôi trong ngày tế tổ ở đình, các giáp đua nhau mang cây xôi ra
khoe, ai nhất sẽ được ban tấm vải đỏ trùm tượng, lệ là phải ngon và nhiều, cả
tổng Thi Liệu đến xem mỗi người đều góp chút tiền để thưởng.
Xã Đồng
Côi tổng Thi Liệu : Phàm vợ chồng lấy nhau khi chưa có con thì đem hoa quả,
bánh dày, bánh khúc ra lễ ở đền rồi khoản đãi người làng. Bánh đãi dân gọi là
“bánh cầu tự”.
Lễ tạ ơn
của Làng Cà : Thời Lê mạt triều đình làm cỏ dân làng vì tội phản nghịch, năm
Cảnh Hưng trước có Nguyễn Thành Hoá, sau có ông Nguyễn Huấn quan đô đốc người
Tân Cốc Bắc Ninh đến, hai ông chiêu dụ dân tới phục hoá cấy trồng, nay có lệ
xôi vò gấc đưa lễ 2 ông Nguyễn, địa phương gọi lễ này là lễ tạ ơn vào tháng Chạp
ngày tốt.
Xã Cổ
Gia tổng Cổ Gia trước đây có ruộng tế bần kho lúa để cấp cho người nghèo khó.
Năm Duy Tân thứ 7 (1914) có ý của quan huyện cấp thóc cho cùng đinh. ở Ngưu Trì
cũng có lệ này, nhưng lại lấy hoa lợi của ruộng thần từ phật tự để cấp.
Xã Xối
Tây tổng Liên Tỉnh có lệ vọng. Ai sinh con trai thì làm hai thúng oản mang đến
nơi đình trung để mời các vị trong làng mà ghi ngôi thứ.
Xã Đỗ Xá
tổng Đỗ Xá có tục đua thuyền. Xã Cổ Chử tổng Đỗ Xá có tục diễn vai hề, múa rối
ba năm một lần.
Ở các
nơi như cố bản tổng Đô Liệu, xã Lạc Chính tổng Bái Dương, xã Thọ Tung tổng Cổ
Gia thường hay có nhóm họp bàn nhau đi làm điều bất thiện. Các nơi theo đạo Gia
Tô như trang Hưng Nhượng thượng, hạ, trang Duyên Hưng tiền, hậu, xã Nam Hưng và
các nơi có ít dân đạo như xã Bách Tính, Thứ Nhất, Cổ Gia, Ngưu Trì, Lạc Na, Gia
Hoà, Kinh Lũng, Thi Nam, Sa Trung, Sa Lung, Hà Liễu, Tây Lạc, Yên Lung, Hiệp
Luật, Nam Trực, Đạo Quỹ, Ngoại Đê, Phù Ngọc, Trùng Khánh, Xối Tây, Xối Thượng,
Xối Trì, Liên Tỉnh nhiều khi hay gây sự cậy thế bắt nạt dân lương.
Các nơi
như Đông Kĩa, Gia Hoà, Thạch Cầu, có tục tập luyện võ cốt để lấy giải thưởng
trong tiết xuân tế Thành hoàng chứ không thượng võ.
Huyện
Trực Ninh : Phần lớn dân ở Trực Ninh là gốc ở mạn bắc huyện Đại An xuống đây
lập ấp, họ rước chân nhang vua Triệu về thờ chung với tổ tiên, các nơi này có
tục làm bánh trưng, bánh dày lớn ăn với ruốc thịt lợn để thi, ai được nhất sẽ
được miễn thuế thân năm ấy.
Cổ Lễ,
Quỹ Đê có Văn miếu thờ khổng Tử, xuân thu tế lễ cùng với hương hiền, cả huyện
ít nơi sánh được.
Ở Ngọc
Giả, Cát Hạ, Đàm Xuyên, An Lãng : Hương lệ quy định ai theo học thì được miễn
sai dịch, đỗ đạt rước mừng long trọng, còn Cát Hạ ai học thì làng chu cấp cho
học phí và tiền giấy bút. Đỗ cao thì xã chi ngàn quan lấy từ tiền quyên tại các
nhà, đỗ thấp thì tuỳ giảm. Các xã Ninh Cường, Cát Chử, Liễu Đê có lệ mời thày
dạy con em trong hạt, Liễu Đê 1 trường, Cát Chử 1 trường, Ninh Cường 2 trường.
ở Cát Chử có lệ mùa xuân mời học quan về chấm bài chia ra làm ba loại lớn, vừa,
bé, ai giỏi thưởng 1 sào ruộng, vừa khá được 1 thùng thóc dự hay 1 thùng thóc
tẻ thường, cả ba loại đều có 1
cặp bánh
dày nặng 2 cân. Từ khi nước nhà không yên, tả đạo hoành hành, lòng người chán
ngán, lệ tuy chưa bỏ hết, nhưng Cát Chử thì thôi lệ mời quan, nhà học không mời
thày nữa bỏ hoang, riêng ở Ninh Cường thì lương dân còn hai nhà học có thầy,
giáo dân còn hai nhà học có thầy, nhưng lương dân thì có cơ phế bỏ.
Ở Cổ Lễ,
Quỹ Đê, Ninh Cường, Cát Chử, Liễu Đê trước có Võ chỉ thờ Trần Hưng Đạo, nhưng
gần đây cũng phế bỏ.
Ở Cát
Chử có y miếu, Thọ miếu. Y miếu thờ ông Hải Thượng, Thọ miếu thờ Thọ tinh, tại
hai miếu này có phối thờ người sở tại, gần đây lễ có phần nhạt nhẽo. Y miếu lễ
cá chép, Thọ miếu lễ hoa quả, xôi oản đều vào tháng hai chọn ngày lành.
Ở Hương
Cát có tục thờ thần, nuôi gà chọi tế xuân, ba năm một lần, ai hơn thì được xã
miễn cho một suất thuế, lại được thưởng cho một sào lúa cấy suốt đời. Xã có
miếu thờ Khổng Tử, các người thi đỗ và phối thờ các thày đồ dạy con em trong
xã. Lệ cổ ai dạy học trò, xã làm nhà cho thày ở, trích ruộng 2 mẫu để vợ con
thầy cấy không phải chịu thuế, ai có con học thì tuỳ tâm biếu gì thì thày nhận
chứ không phải đóng học phí. Việc cấy ruộng phần lớn do các nhà làm giúp.
Phương
Để thuộc tổng Phương Để được tục ba năm mở hội một lần, người hai thôn chia
thành hai bên địch ta đánh trận giả từ sáng đến trưa.
Về lệ
thờ thần, thờ thì 3 năm mở hội một lần, hay 1 năm một lần mở hội rước thánh ca
hát cung phụng, nhưng ở Phượng Tường thì chèo thuyền, Hàn Xuyên thì đấu vật,
còn ở Cát Chử lại đánh cờ giật giải, ba nơi có tục giao hiếu với nhau, thờ một
vị thần nhưng hình thức tổ chức lại khác.
Ở Tuân
Lục tổng Thần Khê, ba năm một lần vào đám có lệ đá bóng, bóng làm bằng vải thêu
5 màu.
Ở Lương
Hàn tổng Văn Lãng phụng thờ Nguyễn Minh Không ba năm rước thần một lần. Giáp
nào thắng được, ba năm làm ăn lợi lớn.
Lệ khánh
lão: Các xã Cát Chử, Quỹ Đê, Trường Hải, Duyên Bình, An Lãng, Liễu Đề, Lạc
Quần. Ăn uống có nơi sang trọng làm cỗ ruộng tốt. Lệ mở vào dịp tế thần mùa
xuân, cứ đến tuổi 60 thì được dự. 50 gọi là lão 5 người một cỗ, 70 trở lên bốn
người một cỗ, 80 trở lên mỗi cụ một cỗ mà có thêm 3 quan tiền.
Lệ cưới
gả: trai gái làng lấy nhau thì nộp cheo 3 quan với Cát Chử, 5 quan với Hàn
Xuyên, 1 quan với Cống Khê. Nếu con gái lấy chồng làng khác thì phải nộp gấp
đôi số nói trên.
Lễ tang:
Để làng cử người lo việc phải nộp số tiền sau, nếu không muốn làm cỗ đãi. Có lễ
ở giữa đường thì nộp 2000 quan, có lễ rước lên xe thoi thì 1000 quan, chỉ có lễ
an táng thì 800 quan. Tức là đủ cả giữa đường, lên xe an táng thì mất nhiều,
còn thì bớt đi, đối với lệ làng Cát Chử. Có ba hạng: hạng một có bánh dầy biếu
tất cả hương thân hương hào hương dịch, hạng hai có xôi thịt rượu để biếu các
vị, hạng ba nộp 10 quan tiền, đó là lệ làng Hàn Xuyên.
Huyện
Giao Thuỷ: Đại thể con người có nhiều điều nhân hậu trọng tiết nghĩa, nếu không
vì việc công thì không tới chỗ công nha, còn hào mục thì càn rỡ đã thành nếp,
chỉ có văn thân thì trung chính nhưng thế kém.
Văn học
chú trọng thì có Hành Thiện, vũ dũng thì Trà Lũ, Thượng Phúc, Kiên Lao. Điêu
toa kiên tụng bất hảo thì Hạc Châu, Thượng Phúc, Lạc Nghiệp, Hoành Đông.
Tục ngữ
: Văn học Hành Thiện, đơn kiện Hạc Châu, tém mép lái trâu, Sa Cao Liêu Phú (2
xã này hay dối trá). Luôn miệng rao chó, Liên Thuỷ Bùi Chu, chè thuốc phong
lưu, kìa làng Hà Cát (bán hết ruộng rồi, không trông vào đâu mà giữ thói phong
lưu). Cờ bạc dài rạc, kìa xã Tương Đông, vu khống Phú Nhai, cướp bơi Vạn Lộc.
Đầu trọc Dũng Trí, cùng chú Thượng Miêu, đừng có tập theo, mà đi ăn trộm!
Thượng Phúc Lạc Nghiệp, Trà Lũ Kiên Lao, Lục Thuỷ hùa vào, một tàu bất hảo, đấu
vật Lạc Đạo, Đạo Nghĩa lao nhao, Thuỷ Nhai Ngọc Tỉnh, Liêu Thượng còn tính, bỡn
khúc thanh bình. Gái hát thâu canh, Giáo Phòng Hoành Nhị. Cày cấy chăm chỉ, thì
nghĩ Lạc Nông. Đi đêm phải phòng, Hoành Đông Khiết Củ. Nếu nghe tôi nhủ, chớ có
coi thường, nhớ kỹ sau lường, có đường trở lại. Cũng cần biết phải, mà hãi cơ
trời, là vận là thời, muôn đời không đổi.
Huyện Mỹ
Lộc: Lễ rước ở miếu Trần: Cứ đến chiều ngày 14 tháng 2 thì các nơi đến Bảo Lộc,
Lựu Phố, Hậu Bồi, Đệ Tứ, Phương Bông, chùa Tháp, Cố Trạch đều chồng kiệu để
sáng 15 rước cả vào sân miếu, thứ tự như sau: Một là chùa Tháp, hai là Bảo Lộc,
ba là Lựu Phố, bốn là Cố Trạch, năm là phương Bông, sáu là Đệ Tứ, bảy là Hậu
Bồi. Bảy nơi này kiệu đến trước cũng phải đỗ ở ngoài cổng, mỗi nơi đến rước
kiệu vào sân rồng và đặt lễ tế xong ra thì nơi khác mới vào. Nơi nào lễ xong
thì về ngay. Ngày giỗ Thái Tông lệ cũng như trên. Lễ dùng cá Triều Đẩu (cá quả)
cá hoá long (cá chép), trâu dê lợn là chính, còn là phụ cho thêm đẹp mà thôi.
Sáng ngày 16 thì lễ tạ ở cả mọi nơi, nhưng tại miếu trần lễ trước, buổi chiều
bảy nơi kia mới lễ. Lễ vua Thái Tông thì từ 30 tháng 3 đến 2 tháng 4.
Giỗ
thành hoàng ở đền Tức Mặc: Sáng mồng 4 chồng kiệu, trưa mồng 4 rước về miếu
Trần, tối rước hoàn cung, sáng mồng 5 chính lễ, mồng 6 lễ tạ đều ở tháng giêng
cả. Giỗ dùng lễ tam sinh. Thành hoàng thì có 3 vị thờ ở hai nơi, nhưng chỉ rước
ở một nơi là Lê Phụ Trần và Cao Mang. Còn bà Thục Côn thì không rước đi đâu.
Giỗ An
Sinh Vương ở đền Bảo Lộc: Chiều 30 tháng 3 ở đền Cố Trạch chồng kiệu, sáng 1
tháng 4 rước về Bảo Lộc, đến 2 tháng 4 rước về Cố Trạch lễ tạ, chiều 2 tháng 4
ở Bảo Lộc cũng lễ tạ. Lễ Thánh Mẫu cũng vậy.
Giỗ Hưng
Đạo Vương ở đền Cố Trạch: Chiều 19 tháng 8 tại các nơi như Hữu Bị, Đệ Nhất, phố
Nam Mỹ, rước đến trước, sáng 20 tháng 8 các nơi Hậu Bồi, Đệ Tứ, Phương Bông lễ
trước, Hữu Bị, Đệ Nhất, Nam Mỹ, Tức Mặc lễ sau, đến chiều 20 thì tản hết. Ngày
21 tháng 8 lễ tạ. Lễ thì đều dùng tam sinh hoa quả để lễ. Hiện nay miếu Trần có
3 mẫu ruộng, Bảo Lộc 3 mẫu, Cố Trạch 2 mẫu, hai miếu thành hoàng mỗi nơi 1 mẫu,
không còn được như trước. Đền Bảo Lộc và Cố Trạch có lệ quốc tế, 3 năm một kỳ
vào ngày 20 tháng 8, do Tổng đốc chịu thay.
Mồng 1
tháng 8 huyện tế Long vương ở bờ sông Hữu Bị, có hình nhân nữ 5 người, vàng bạc
và lễ tam sinh. Tế xong thì hình nhân đốt đi còn lễ sinh quẳng hết xuống chỗ
cửa Vường.
Tức Mặc
có lệ 15 tháng giêng đấu vật ở miếu Trần, Thượng Lỗi có lệ thi xôi ngày 5 tháng
giêng. Đền Tức Mặc có lệ tế quan vào ngày 5 tháng giêng, tế nữ quan vào ngày 6
tháng giêng tại nơi thờ bà Thục Côn. Phụ Long, Đệ Nhì có lệ thi chèo thuyền vào
ngày 18 tháng 7. Phương Bông và Đệ Tứ hát bài bông(1), đánh cờ, bói cá vào ngày
10 tháng 3,
ngày này
có lệ hát nữ “Thái bình an lạc” buổi tối, ai hơn sẽ được thưởng một mâm xôi đỗ
xanh và 10 quan tiền.
Phù
Hoa(2) có lệ tế tạ ân vào tiết tháng 10, chọn ngày tốt, dùng gạo nếp mới lễ
Thái
Tông và Nguyên Phi. Bài hát có câu:
Nhớ thuở
ấy bà phi mở chợ,
Trên bắc
cầu dưới có thuyền đi
Bốn
phương tụ hội tuỳ nghi,
Để cầu
con cháu đều thì yên vui,
Mỗi năm
đến tháng Mười mở hội,
Người
đua nhau lui tới bán buôn,
Còn xem
dân xã bơi thuyền,
Bói cơm
bói cá cùng chuyền tay nhau(3).
Bài hát
tại lễ tế thần ở đền chợ Phù Hoa.
[Chú thích : (1) Bát dật: Dật là số hàng và số người đều bằng nhau,
ban đầu có 6 hàng 6 người, sau này mới có 8 hàng 8 người. Múa hát ca ngợi công
lao của thiên tử mới dùng. Phương Bông và Đệ tứ đều thờ Thái Tông và Quang Khải
thời Trần. Bài Bông ở đây có 8 đoạn mỗi đoạn có 8 câu ca ngợi sự thay trời trị
nước, nhân từ bác ái, tạo dựng cơ nghiệp không phải là dễ của Thái Tông, dân
chúng được hưởng ân sâu mãi mãi.
(2) Phù Hoa: Nay đổi là
Phù Nghĩa thuộc xã Lộc Hạ thành phố Nam Định.
(3) Cúng cơm nếp, cúng
xong mang xuống không có bụi, cúng cá sống cúng xong cá không chết thì làm ăn
chuyển sang vận mới.]
Xã Vị
Khê tổng Bách Tính có tục tế tổ lập làng là ông Nguyễn Công Thành ngày 22 tháng
Chạp năm Mậu Tuất, ngày sinh ngày hoá ông Hổ Mang 10 tháng 7 và 2 tháng giêng,
ngày Tô Trung Tự tướng thời Lý mạt dạy dân trồng hoa, 10 tháng giêng, ngày ông
Tô mất 4 tháng giêng. Ngày 15 tháng 8 Hoằng Định thứ 10 (1610) Bình An Vương về
tái lập làng, ngày sinh hoá của sư Tâm Hảo 23 tháng chạp, 12 tháng 9. Trong các
ngày lễ trên thì ngày sinh hoá sư Tâm Hảo là trọng vọng nhất, ngày này cả xã
mỗi nhà phải đóng một đấu gạo nếp, đấu gạo tẻ, để chủ nhà ăn tại đình và mang
phần về. Ăn ở đình gọi là ẩm phúc, mang về nhà gọi là thụ phúc. Hiện nay ở chùa
còn bia nói việc sư Tâm Hảo. Nhưng đông đúc hơn có người tứ xứ tụ hội thì ngày
kị ông Hổ Mang, làm lễ ở trên đê hướng về phía cửa biển, khi tế chèo thuyền để
tế. Tiết Khánh Hạ 22 tháng chạp có lễ thịt cá, đánh cờ, ca hát, thổi cơm thi,
múa rồng lân, bắt đầu từ tối 20 đến hết ngày 22.
Xã Mai
Xá tổng Hữu Bị có tục thờ nữ tướng làm thuốc thời chống Minh, sách thuốc tuy
còn truyền nhưng người lại chuộng lễ thần xin đơn thuốc.
Đền xã
Cao Đài tổng Cao Đài ngoài việc thờ Trần Quang Khải, công chúa Phụng Dương, còn
thờ tướng Triệu Trung người Tống đánh Nguyên ở trận Hàm Tử, ngoài xã Cao Đài ra
cả tổng vẫn còn một số nơi thờ. Câu đối của Hà Quang Phan người thôn Sở Thượng
huyện Vọng Doanh đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879) thời Tự Đức, làm quan Tri huyện
Tiên Lãng, nói về Triệu Trung:
Thệ bất
đới thiên Triệu tướng huy đao, Hàm Tử Nguyên binh do thức diện; Sơ cư thử địa
Trần triều thi huệ, Cao Đường lão ấu thượng tư công.
(Không
đội trời chung, tướng Triệu vẫy đao, Hàm Tử quân Nguyên còn nhớ mặt;
Đất này
vừa ở, triều Trần làm đức, Cao Đường già trẻ vẫn ghi công).
Thượng
Nguyên tứ vật: Vật ẩm Cao Đường tỉnh (không nên uống nước giếng ở Cao Đường),
vật thính Thận Vi (không nghe lời người Thận Vi nói, có nhiều sự tráo trở), vật
thú Lữ Điền thê (không lấy vợ ở Lữ Điền, bởi lòng không ngay thẳng), vật giao
Hư Tả hữu (không kết bạn cùng người quê Hư Tả).
Hải Hậu
là huyện mới lập nên vốn thuộc đất Trực Ninh có 2 tổng và 7 xã phía nam Giao
Thủy, từ năm Đồng Khánh thứ ba, lị sở đặt tại xã Quần Phương Hạ ban đầu đắp luỹ
đất trên khu đất mỗi chiều ước 30 trượng nơi quan trưởng làm việc có 4 ngôi,
nơi lính đến trú 3 ngôi, trại lệ 1 ngôi, nhà lao một ngôi đều lợp bổi ở trong
luỹ cả. Dân tục thuần phác, sinh sống no đủ có phần xa hoa, có lệ thờ thần
Triệu Quang Phục, An Dương Vương, ba năm một lần mở hội, ở chùa thờ Nguyễn Minh
Không. Vào đám thì ca hát chèo thuyền, đánh cờ, thi lợn thi gà, thi xôi thi
thơ, ai hơn có thưởng múa rồng múa lân, rước thần tế trên sông. Ngạn ngữ: Xứ
Nam Quần Anh, xứ Thanh Bồng Hải là nói về việc trù phú văn minh.
Lễ cưới
lễ tang tổng lý sách nhiễu có nhiều phiền trọng, triều đình đã ban chỉ dụ cách
chức quan lại huyện tổng hương chức, nhưng do các nhà khá giả biếu xén nịnh hót
làm hư, thế nhưng nay đã giảm nhiều.
Tổng
Kiên Trung có nhiều người thi đỗ quan văn quan võ, tổng lý dịch giàu có vì từ
công điền công thổ, nên sinh ra nhiều kiện tụng. Trà Hải trung có lệ thi gà để
lễ thần, nhà ai lễ rồi đưa chân ra thi, các giáp lễ rồi đưa chân ra thi, ai hơn
được thưởng 3 quan, giáp hơn được thưởng 2 quan. Hà Lạn thờ thần hàng năm vào
ngày 8 tháng giêng có tục đấu vật thi chạy ở trước miếu Đô nguyên soái.
Tổng
Ninh Nhất : 5 xã An Lễ, An Nhân, An Nghiệp, An Phong, An Trạch có lệ giao lân,
vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì luân phiên rước thần tập trung về một xã lễ
hội đồng, phường hát con gái, con trai đua nhau hát khúc “thiên hạ thái bình”,
“dân trung an thái”, “tứ dân lạc nghiệp”, “võ văn cạnh khởi”, “lão thiếu quân
an” thâu đêm, ngày xuân vui vẻ. Đều lấy sự hoà hiếu làm cốt yếu, nếu ai vô ý
gây nên xích mích hoặc ẩu đả, hoặc lớn hơn thì sẽ bị phạt 20 quan tiền 100 đấu
nếp, rồi giải lên quan trên phân xử.
Ấp Phú
Lễ tổng Ninh Mỹ : mỗi khi nhà hiếu đến báo với lý dịch thì phải nộp một con lợn
hai người khiêng nặng và một gánh nặng gạo nếp xã sẽ cử người ra lo việc lại
còn ăn uống.
Xã Thanh
Trà tổng Quế Hải : Mỗi khi có việc tang chỉ nạp 30 quan xã sẽ đốc người lo việc
tất cả kèn trống, lễ bái chôn cất, ai vì tham ăn sách nhiễu, xã phạt 3 quan và
1 mâm xôi gà lễ tạ quá ở miếu Thành hoàng. Nếu gia chủ biếu xôi thịt còn nóng
xin chia, xã sẽ bớt đi từ 5 quan đến 10 quan hoặc hơn, xã không yêu cầu lễ
biếu. Gần đây có một số nơi đã học tập theo.
Còn lệ
treo cưới thì vẫn còn nặng nề (lan nhai lễ): Tổng Quế Hải thì 500 viên gạch và
2 mâm xôi, tổng Tân Khai thì 1000 gạch và 1 mâm xôi thịt, tổng Quần Phương thì
1 con lợn 1 gánh gạo nếp, tổng Kiên Trung thì 1000 quan, Tổng Ninh Mỹ thì 500
quan, Ninh Nhất thì 1000 gạch và 2 mâm xôi thịt. Đó là nói về đại thể của từng
tổng.
Dân xã
có nhiều người đọc sách “Hải Thượng Tuệ Tĩnh”, ưa dùng thuốc Nam thuốc Bắc,
nhiều nhà ghi chép quyển sách có các bài gia truyền rất công hiệu. Vào các
thế hệ
trước đây khẩu hiệu “Nam dược trị Nam nhân” đã được quảng bá không khác gì Liêu
Hải tân ấp của huyện Đại An. Nếu coi về đại thể, thì chỉ có 2 huyện Đại An, Hải
Hậu là phong trào tự liệu, còn các huyện khác thì chỉ có nhà chuyên môn vùng vẫy.
TÔN GIÁO
Việc
giáo hoá rất cần để duy trì đạo làm người, củng cố lòng hướng thiện, từ xưa
nước ta thường theo Khổng giáo, Phật giáo, theo là tuỳ tâm không ai bắt bẻ, từ
quãng niên hiệu Nguyên Hoà (1533 – 1548) các giáo sỹ phương tây qua lại truyền
đạo, như Giao Thủy có Bùi Chu, Nam Chân có Ninh Cường, Đại An có Vĩnh Trị, tự
xui giục nhau đến triều ta mới thịnh hành, tả ngạn sông hồng có giáo sỹ người
Tây Ban Nha, hữu ngạn có giáo sỹ người Pháp Lan Tây, nhân dân sở tại ngày càng
xô vào mê muội khó điều cảnh tỉnh, Hoàng thượng đã có chỉ dụ song trở nên vô
nghĩa. Đã có người gốc Pháp làm quan ở đất Việt đọc câu Kiều:
“Ma dẫn
lối quỷ đưa đường,
Lại tìm
những chốn đoạn trường mà đi”.
Tại tỉnh
lị : Theo giáo 3 phần, lương 7 phần, nhà thờ mới có Định Tân 1, Nam Xuyên 1.
Đại An:
Theo giáo 1 phần, lương 2 phần, nhà thờ có 4 chánh sứ là Vĩnh Trị, Quần Liêu,
Lạc Đạo, Quỹ Nhất, xứ phụ thuộc 5 là: Quảng Nạp, Lý Nghiã, Giáo Phòng, Giáo
Lạc, Nghĩa Trang.
Vụ Bản:
Theo lương 7 phần, theo giáo 3 phần. Nhà thờ chánh sứ 3 nơi là: Trình Xuyên,
Đại Lộc, Xuân Bảng, phụ thuộc có 2 nơi là Đồng Đội, Phú Thứ.
Nam
Trực: Theo lương 7 phần, theo giáo 3 phần. Nhà thờ chánh sứ 2 nơi là :
Đồng
Thượng, Cổ Bi, phụ thuộc 1 nơi là Dương A giáp giáo.
Ý Yên:
Theo lương 9 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ có 1 nơi ở Lỗ Xá.
Phong
Doanh: Theo lương 9 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ 2 nơi là Ngô Xá, An Lộc.
Giao
Thủy: Theo lương 2 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ chánh sứ có 2 nơi là: Bùi
Chu, Phú Nhai. Hằng năm tháng 3, tháng 6 có hai lễ lớn, giáo dân các nơi đổ về
rất là đông đúc trở thành hội lớn.
Trực
Ninh: Theo lương 3 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ chánh sứ có 4 nơi là: Ninh
Cường, Trung Lao, Trung Hoà, Tân Lác và 8 nơi phụ là: Ninh Cường, trại Lác Môn,
Nam Lạng, An Lãng, Hạ Đồng, Ngọc Giả, Trung Hòa, Cát Hạ.
Mỹ Lộc:
Theo lương 3 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ chánh sứ có 2 nơi là: Báo Đáp và
Bảo Long.
Hải Hậu:
Theo lương 3 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ chánh sứ có 3 nơi là: Thượng Điền,
giáp Đông Biên (xã Hạ), giáp Trung Thành (Kiên Trung). Nơi phụ thuộc 2 là: giáp
giáo tả và giáp giáo hữu của Liên Phú (xã Thượng).
Trong
tỉnh vốn có từ cổ : Tỉnh, huyện, tổng, xã đều có văn miếu chỉ thờ khổng Tử và
các tiên nho bản xứ, đền thờ các tướng các vị có công với dân với nước, cùng
các chùa quán thờ phật thờ tiên, nhưng cuối thời Lê khi đạo Gia Tô dấy lên
nhiều nơi đã bị họ phá bỏ đi do bọn xấu xui giục. Đến nay đến cả nơi toàn lương
cổ tích cũng không nguyên vẹn.
CỔ TÍCH
Văn miếu
phía tây thành tỉnh dựng lên vào cuối năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) ở địa phận xã
Gia Hoà, gồm có 3 toà: Toà giữa chữ đinh thờ Khổng Tử và tứ phối, toà bên trái
thờ 72 ông hiền, toà bên phải thờ các vị đỗ đại khoa trong tỉnh, tất cả đều
bằng thạch vị.
Miếu hội
đồng cũng ở ngoài thành, bên bắc trên địa phận xã An Trạch, mỗi khi đến ngày
tốt tháng giêng thì rước ở các nơi về tế, do quan đại nhiệm chỉ huy. Trên đặt
bát đá thờ thiên quan cao ước 2 thước rưỡi, kính ước 2 thước, dưới có bát nhang
Thành hoàng, tả có bát nhang thổ địa, hữu là bát nhang thuỷ bá, bàn thứ 3 ngoài
cùng là bát công đồng. Khi rước ở các đền về kiệu để ngoài sân, trên kiệu đều
có bát nhang, bồi tế rút mỗi bát nhang trên kiệu một chân hương cắm vào bát
nhang công đồng trong miếu, rồi quan trấn thủ mới bước vào chủ tế. Lễ dùng tam
sinh hoa quả. Miếu này được dựng từ năm Gia Long thứ 4, trung gian gặp nạn binh
hoả, nay đã sửa lại nhưng không được như xưa.
Đàn xã
tắc, dựng ở ngoài thành phía tây, tại địa phận xã Năng Tĩnh, xây bằng gạch có
bát nhang và bệ thờ đều bằng đá, cũng dựng từ năm Gia Long thứ 4 (1805), năm Minh
Mệnh 16 (1835) lại xây cho to thêm, trung gian bị giặc phá tán, năm Thành Thái
thứ 2 (1890) đã sửa lại nhưng kém trước.
Văn miếu
của huyện Mỹ Lộc ở địa phận xã Liễu Nha: Xưa kia văn miếu này do Trần Thái Tông
dựng lên ở trang Hoa Nha, trong có 3 ngôi nhà, nhà giữa hai nhà bên cũng tựa
như văn miếu Gia Hoà sau này nhưng ở chính tẩm thì có tượng Khổng Tử và Tứ phối
đều bằng đá, ngoài ra là thạch vị, trung quanh miếu có xây tường mở ra ba cổng,
ba cổng đều có cột hoa biểu. Thời lê lấy đó làm Văn từ của phủ Xuân Trường, đầu
niên hiệu Gia Long trấn tế ở đó, năm Minh Mệnh thứ 4 mới tế ở nơi mới xây tại
xã Gia Hoà. Nay là Văn miếu của huyện, đến khoảng giữa triều ta cũng bị giặc
phá, đã sửa lại nhưng nhỏ đi nhiều. Ông Đỗ Văn Thố người xã Lạc Chính huyện ý
Yên, đỗ Cử nhân khoa Bính Tuất thời Tự Đức làm quan án sát Thái Nguyên, khi có
việc qua đây viết một bài thơ Vãn Trần đại Hoa Nha văn miếu:
Trần sơ
dĩ tạo thử văn từ,
Thạch
tượng do truyền nhất đại cơ,
Ngoã ốc
tam toà môn tự cách,
Chư hiền
lưỡng trí đối quan hô,
Khuyển
dương hà nhẫn tương tâm hoại,
Công phá
thành đôi tụ thử cư,
Tà
nguyệt xổ thanh ô hoán hiểu,
Cự hồi
thủ bái ngoại hương lư.
(Viếng
văn miếu triều Trần ở Hoa Nha:
Đầu Trần
đã dựng văn từ,
Vẫn
truyền tượng đá cơ đồ khá to,
Chữ môn
lợp ngói ba toà ,
Ông hiền
hai dãy đối thờ nghiêm trang, Chó dê sao nỡ phá toang,
Nay
thành hang chuột một phương lạnh lùng, Sáng rồi quạ réo dưới trăng,
Vội về
cắm mấy chân nhang phía ngoài).
Miếu
thành hoàng tại phía tây thành tỉnh ở đất Gia Hoà có ba toà theo kiểu chữ tam,
có hành lang tả hữu, thờ Bố Cái đại vương và hai tướng của vương người sở tại
Nguyễn Duy Thiện, Lân Thụy Phong, thời Minh Mạnh có sửa lại.
Đàn Tiên
Nông xây bằng gạch đá mỗi chiều 10 trượng, có 5 bậc, chỗ để bát nhang cao 1
trượng, nền đàn cao 2 thước rưỡi, ở bên ngoài thành phía nam thuộc địa phận xã
Năng Tĩnh, năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) có xây 1 cái lầu để trùm lên trên bát
nhang, lầu hình vuông đều bằng đá, cao 1 trượng 5 thước, vuông phía dưới 1
trượng 1 thước.
Võ miếu
dựng lên ở địa phận phố Năng Tĩnh, vào năm Gia Long thứ 10 (1811) thờ Trần Hưng
Đạo, cũng xây kiểu chữ môn. Chính miếu xây kiểu chữ nhị, trong 3 gian, ngoài 5
gian. Niên hiệu Thành Thái năm thứ 2, thờ thêm 20 vị có công giữ đất Nam Định,
tất cả đều là thạch vị, câu đối khắc ở cổng miếu của Nguyễn Văn Toại, người xã
Nguyệt Mại huyện Vụ Bản, đỗ Phó bảng khoa Đinh Mùi (1907):
Trần
vương trục Bắc phương giữ quốc công cao thần hữu miếu, Chấp tướng thủ Nam thổ
vị dân chiến tử nghĩa đương truyền. (Trần vương đuổi quân Nguyên, với nước công
to thần ở miếu; Nam thành hai chục tướng, vì dân liều chết nghĩa nên ghi).
Phía
đông thành, nơi kho lương cũ của tỉnh có đền thờ vị thiên tiên phu nhân. Đền có
hiệu là Nguyên thương linh từ, còn bia đá năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) ghi việc.
Đền Sùng
Linh : Đền ở phố Tiền Môn thờ ông Nguyễn Chí Thành người ở Đàm Xá. Từ cổ đã có,
năm Gia Long, Minh Mệnh đều sửa lại. Hàm Nghi năm đầu (1855) bị bọn tả đạo tàn
phá, dân phố bèn rời về phố Tả Trường nên rước thánh giá thờ ở chỗ đồn Thủy.
Năm Thành Thái thứ 3 (1891) mới xây lên ở phố tả Trường.
Đền Bản
Tỉnh : Đền dựng lên ở xã Năng Lự. Tháng 5 năm Bính Ngọ (1426) thời thuộc Minh,
con thứ ông Trần Lựu là Trần Oánh cùng mẹ đẻ là Phạm Thị Hương, đưa 6 gia đình
từ Kiện Khê về xã Dương Xá huyện Mỹ Lộc lập trại ở với nhau lúc đầu làm nghề
đánh cá. Tháng 11 năm ất Mão (1435) niên hiệu Thiệu Bình, con vợ thứ của Tể
tướng Lê Sát là Lê Minh, Lê Đồng cùng cả bọn hơn 50 người từ đất Trì Đông Gia
Viễn về cư ngụ rồi đổi ra họ Lâm, mới lập miếu thờ Thủy Tinh công chúa, đặt tên
ở của mình là trang Năng Lự. Lúc đó dân trong trang có quãng 140 người. Thuỷ
Tinh công chúa vốn tên là Lương Thái Tần quê ở Kiện Khê Thanh Liêm, năm Đinh
Dậu (1297) lấy Phạm Ngũ Lão, làm vợ bé, sinh được 4 trai 1 gái, ngày 2 tháng
giêng phu nhân mất, đang niên hiệu Đại Trị năm đầu (1358) có mộ để ở núi Nhân
Tập nơi quê sinh, duệ hiệu thờ là Đệ nhị phu nhân Thủy Tinh công chúa. Năm
Thành Thái Đinh Mùi (1907) lính lệ trong tỉnh và thiện tín rước thần vị Bạch
Hoa công chúa từ phố Vĩnh Lạc về làm một gian ở phía trái hậu cung đền thờ bà
Thủy Tinh để thờ. Bạch Hoa vốn là con gái của Vệ uý coi kho triều Nguyễn,
Nguyễn Kế Hưng, vì thấy cha mình chống giặc thế nguy bèn cầm đao xông vào tham
chiến bị chết. Ngày hoá của Kế Hưng và Bạch Hoa 22 tháng 10, được triều ta
phong là Công chúa coi kho (Giám thương công chúa), bà có tên thật là Nguyễn
Thị Trinh.
Hội quán
Phúc Triều Huệ ở phố Vĩnh Ninh trước đã có nhưng nhỏ, đến quãng năm Quang Tự
Canh Dần (1890) thì xây to lên. Trong thờ Thiên Hậu, Hà Bá và Quan Công. Vào
các ngày rằm tháng giêng, thanh minh, trùng cửu là đông nhất, cuối năm ngày 30
có treo đèn lồng, mồng 2 năm sau thì đấu giá, ai mua được thì làm lễ mừng và
khao hạ ở nhà. Câu đối thờ khắc gỗ:
Tống đại
thăng thiên, tái tịch Mân cương trưng thánh tích; Thanh triều phong hậu, biện
hương di điểu đáp thần hưu. (Thời Tống lên trời, sách vở đất Mân nêu dấu thánh;
Triều Thanh phong hậu, tin chim một nén trả ơn thần). Cùng năm Quang tự còn xây
trường học.
Hội quán
Việt Đông ở phố An Lạc. Hội quán Phúc Triều Huệ và Việt Đông đều do Hoa Kiều
dựng lên, làm nơi tụ hội bàn việc và lễ bái của họ. Hội quán Việt Đông có sau
hội quán Phúc Triều Huệ, xây dựng theo kiểu hiện nay là do Ma Chính Tráng khởi
sướng, tại quả chuông gang khắc chữ năm Đạo Quang thứ 4 (1824) khánh thành. Câu
đối tại gian giữa:
Lịch kỷ
phiên lai vàng hoá cư, Gia Khánh sơ niên dân hữu hội; Tòng thử hậu ưu hoan tụ
thủ, Nam châu thiên tải sự nghi truyền . (Từng bao phen buôn bán lại qua, Gia
Khánh, năm đầu dân mới hội; Nay về sau vui buồn gặp gỡ, Nam châu ngàn thuở việc
nên truyền).
Trường
thi, ở địa phận xã Năng Tĩnh thuộc phía tây thành, chu vi 214 trượng, có tường
cao 5 thước, cả trong nhà có 21 toà nhà, năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) mới dựng
nên, dần bị hư hỏng, năm Thành Thái thứ 2 sửa lại nhưng vẫn kém lúc trước. Nhà
học ở phía tây ngoài thành, dựng lên từ năm Minh Mệnh 17 (1836), sau bị hỏng,
năm Thành Thái thứ 2 (1890) rời về xã Đông Mặc.
Huyện lị
Mỹ Lộc : Trước ở địa phận xã hữu Bị về khuôn mẫu thành huyện cũng không kém
Xuân Trường có chợ, có bến đò. Năm Gia Long 15 (1816) dời đến xã Đông Mặc ở
phía bắc thành tỉnh, thành bao bằng lũy tre không có hào sâu, bên trong rộng
ước 7, 8 sào, có xây miếu thổ thần.
Huyện lị
Thượng Nguyên : Thời Trần vốn là huyện Thượng Hiền, sau tránh tên Nguyễn Hiền
đổi ra Thượng Nguyên, trước phủ kiêm lý, năm Minh Mệnh thứ 13 (1832) đặt phân
phủ. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) bỏ phân phủ cho huyện Mỹ Lộc kiêm nhiếp. Huyện lị
đặt ở xã An Lá, năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) rời về xã Đặng Xá. Năm Minh Mệnh 13
đặt làm phân phủ, nay cho huyện Mỹ Lộc quản trị có một phần, bèn bỏ lị sở ấy.
Nhưng vẫn còn chợ còn phố buôn bán đông vui.
Đền thờ
Hưng Đạo Vương ở phố đồng Lạc đã có từ lâu, năm Tự Đức 21 (1868) Hiệp biện Đặng
tướng công sửa lại, nay trở thành nơi lễ bái cầu vọng của tứ dân rất là đông
đúc.
Ngã ba
Hoàng giang : ở về phía tây bắc thành vài dặm, thời Lê xưa thường đóng quân, có
đồn binh, có kho lương, ngoài có hào lũy bao bọc, rộng ước 10 mẫu. Thơ của
Nguyễn Du:
Cổ lai
vị kiến thiên niên quốc,
Thành
lũy không lưu bách chiến danh
(Xưa nay chưa có triều đại nào đứng vững được
ngàn năm, nơi thành lũy luống còn để lại tiếng từng trải qua việc đánh nhau
trăm trận) trong bài Vị Hoàng doanh xiết bao nỗi niềm hoà cổ. Nay còn ngôi miếu
bách linh và miếu giang bá.
Cột cờ
thành Nam Định : ở phía nam điện Kính Thiên, năm Minh Mệnh 14 dựng lên, cao 6
trượng, chân có 3 bậc, bậc dưới mỗi bề 4 trượng có bậc thang 10 cấp ở hai phía
đông tây. Bốn mặt mở ra bốn cửa, trên khuôn cửa đông có chữ “nghinh húc” (đón
bóng mặt trời buổi sớm), cửa tây có chữ “tường quang” (ánh sáng lành), cửa bắc
có chữ “cửu an” (yên ổn lâu dài) cửa đi vào trong thân cột cờ ở bên nam có chữ
“hướng minh” (trông về phía nam sáng sủa), bên trong cửa này thờ bà chúa cột
cờ, đi trên cao có đường trôn ốc 54 bậc, bên đường xoáy có cửa tò vò để lấy ánh
sáng đi lại trông ra.
Chùa
Thánh Ân : chùa xưa có tên là chùa Thiên Thủy ở địa phận xã Vị Xuyên huyện Mỹ
Lộc, tương truyền trước không tại nơi này nhưng vẫn ở trong xã. Câu đối:
Lý Trần
cố sự thiên thu tại,
Thiên
Thủy tiền công vạn thế tồn
(Từ thời
Lý Trần, việc cũ ngàn năm còn để dấu;
Hiệu
chùa Thiên Thủy, công xưa muôn thủa vẫn ghi truyền).
Nay hãy
còn bia đá chuông đồng làm năm Cảnh Thịnh thứ 6 (1789).
Đền
Thánh Bà : Đền ở xã Vị Xuyên huyện Mỹ Lộc thờ ông Đoàn Thượng, bà Dương Thị Mỹ
và con là Đoàn Văn, Đoàn Vũ. Bà Mỹ lánh nạn về đây khuyên dân dấy nghề thủ
công, mở chợ, sửa chùa từ cuối thời Lý. Câu đối viết năm Minh Mệnh nguyên niên
của hội văn 4 giáp cúng tiến:
Tế phong
vũ dĩ gia môn, đại hưng mộc nghệ; Túc y lương cầu sừ cúc, quảng khuyến thiết
công (Che mưa gió có cửa nhà, dấy nghề làm mộc, ; Đủ áo cơm cần cày quốc,
khuyên mở việc rèn). Cả chùa và đền đều là cổ tích của huyện.
Đền thợ
mộc : Đền thuộc phố An Lạc, do đám thợ mộc ở huyện Vọng Doanh dựng lên từ thời
Minh Mệnh. Đến năm gần đây thì do đám họ Thái ở Tương Dương, họ Vương ở xã Minh
Hương tu sửa lại(1).
[Chú thích : (1) Tương Dương: ở Nghệ An. Xã Minh Hương, làng Hoa
Kiều ở Nam Định.]
Đền hàng
Bạc: ở phố Đồng Lạc được dựng to từ niên hiệu Gia Long, thờ ba vị thánh tổ họ
Nguyễn, họ Dương, họ Trần. Câu đối:
Dương,
Trần, Nguyễn thị tam nhân, Đông Sơn tị nạn; Ngân tượng sơ lai thập ốc, Nam địa
thành hương
(Dương,
Trần, Nguyễn thị 3 ông từ đất Đông Sơn (2) về lánh nạn; Thợ bạc 10 nhà mới đến,
ở vùng Nam địa lập lên làng).
[Chú thích : (2) Đông Sơn: Tên huyện tỉnh Thanh Hoá. Nam địa: tức
Nam Định. Đền thuộc phố Hàng Rượu, sửa gần đây vào năm Thành Thái thứ 17
(1904).]
Chùa
Viên Quang : Chùa thuộc thôn Đoài xã Dương Xá khi Trần Oánh (con của Trần Lựu)
năm Bính Ngọ (1426) tìm nơi ở tị nạn, dần mới cải thành Năng Lự (còn phải lo),
gần đây bèn đổi ra Năng Tĩnh (đã yên ổn). Chùa thờ Nguyễn Minh Không, trước mặt
có sông nhỏ chảy về phía đông nam, bên phải, bên trái, phía trước chùa có hai
cây cầu đá xe ngựa qua lại được.
Đền Hàng
Quỳ: Do dân làng Kiêu Kị xuống đây từ niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843). Năm
Thành Thái thứ 14 sửa to lên, nay có ước 20 nhà.
Đền Hàng
Tiện: Người làng Nhị Khê xuống đây từ thời Cảnh Hưng, ban đầu có 8 nhà gồm họ
Đinh, Trần, Nguyễn, Đỗ, Lê Duy, Lê Trọng, Bùi, Lý. Đền thờ Huệ Đức tôn thần.
Ngày xuống đây là ngày 25 tháng 10 lấy ngày này làm ngày giỗ tổ. Ngày này có
tục dâng đồ khéo.
Đền
Giếng: Phố Đồng Lạc huyện Mỹ Lộc thờ Lưu Quang Trương và thờ Thiên Hậu, thổ
địa, do người Hoa từ Nghệ An ra ở dựng nên từ năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749) họ
buôn thuốc bán vải là chính, một số người làm mộc làm mã.
Đền Hàng
Lọng phố Đinh Trung thờ ông Bùi Công Hành quê ở Quất Động, làm quan thời Lê, đi
sứ Bắc quốc, khi về dạy dân Ngũ Xá làm lọng. Đền xây từ niên hiệu Thiệu Trị 2
(1842), đến Tự Đức Đinh sửu thì làm to lên, do các họ Lê, Hoàng, Trịnh khởi
xướng, dân này đều gốc ở Quất Động, ngày khánh hạ 4 tháng 10.
Đền Hàng
Thêu : Cũng thờ ông Bùi Công Hành, nhưng dân đây đến làm nghề từ năm Thiệu Trị
6 (1846) do quan phủ Thường Tín Ngô Văn Bạch xướng khởi việc thiên di. Ngày lễ
4 tháng 6. Hàng năm mồng 10 tết có tục hiến xảo, có thưởng.
Đền Hàng
Thiếc: Thờ ông Nguyễn Hữu Mật làm tổ nghề, giỗ ngày 2 tháng giêng, do người ở
vùng Hồ Tây Thăng Long về từ thời Cảnh Hưng, trước đền ở xã An Trạch đến năm Tự
Đức mới chuyển về đây.
Nghĩa
địa Hoa Kiều, ở đất thôn Trọng Đức, từ Cảnh Hưng đã có nhưng chưa xây, đến năm
Đồng Trị 10 (1871) ông Vệ Thuật Nông quyên khuyến dựng lên cho có lối có cổng
bề thế.
Miếu thờ
Lệ Trinh nguyên phi: ở xã Phù Nghĩa, nơi này còn tượng. Xưa bà ở đây bắc cầu,
mở chợ, sửa chùa, nơi ở gọi là cung Lan Hoa, chợ gọi tên là Phù Hoa, triều ta
đổi tên ra Phù Nghĩa nằm trong tổng Đông Mặc.
Đền Khải
thánh : Đền thuộc xã Bảo Lộc, nay đổi ra xã Hà Lộc thuộc tổng Hữu Bị nằm ở bên
bờ sông Liêm, bên phải có lăng thờ. Câu đối của Đinh Đăng Khôi người xã An Cừ
huyện ý Yên đỗ Hương cống khoa Kỷ Dậu (1489) niên hiệu Lê Hồng Đức:
“Thử địa
vi khánh phụ sở cư, thiên cổ do truyền thang ấp xứ; Kim thiên kế tiền nhân chi
kiến, vạn niên do lại Lộc hương an” (Đất này nơi thánh phụ ở năm xưa, ngàn thuở
vẫn nêu thang ấp đó ;
Ngày nay
nối tiền nhân từng dựng đặt, muôn năm nhờ cậy lộc hương đây).
Tương
truyền nơi đây là đất tân bồi, khi thánh phụ ở bèn chiêu dân lập ấp gọi tên là
ấp An Lạc.
Đền Quốc
tế : Đền thuộc xã Tức Mặc tổng Đông Mặc xưa là từ đường họ Trần, niên hiệu
Thiệu Long thứ 5 dựng cung Trùng Quang, rồi lại dựng cung Trùng Hoa. Thời thế
đổi thay, cung thất không còn, bảo lưu được đến nay có gia từ và nơi ở cũ của
Hưng Đạo thân vương Quốc Tuấn. Tự Đức năm thứ 6 sửa lại nhưng chỉ chú trọng nơi
gia từ, niên hiệu Thành Thái, Trần Trọng Hàng khuyến giáo sửa nội điện, phía
trước nội điện xây phương đình, bên ngoài dựng tế đường và hành lang đông tây.
Năm Duy Tân nguyên Tổng đốc Phạm Văn Toán tu sửa ngũ môn lâu. Cũng năm Thành
Thái, Trần Trọng Hàng nhân theo lệ tu sửa của tỉnh hiến trước, tu sửa đền thờ
Hưng Đạo vương
kiểu
cách tương tự gia từ, nhưng bề thế kém hơn, hành lang không có, mà chỉ dựng 5
gian cho thủ từ ở lui lại phía trái.
Miếu
thành hoàng : Thành hoàng của xã có bà Phạm Thị Thục Côn và Lê Phụ Trần. Tương
truyền xã Tức Mặc thờ bà Thục Côn vì có công theo Trưng Vương chống Hán, Lê Phụ
Trần lấy công chúa Chiêu Thánh dựng nhà ở thôn Thượng Lỗi, đền chính thờ ông
Phụ Trần bị lụt lớn nước xoáy sụt xuống đầm, nay thờ phụng vào đền thờ Hưng Đạo
thân vương. Nơi thờ bà Thục Côn thuộc thôn Tráng Kiện, trước thời Trần vùng này
gọi là xã Khang Kiện, khi vua Trần ở đây mới đổi ra xã Tức Mặc, Khang Kiện xẹp
lại thành tên thôn.
Chùa Phổ
Minh: Chùa ở xã Khang Kiện do Mai Thị ở Hồng Châu về đây, rồi dựng lên trên khu
miếu có thế đất hình lực sỹ, phải có nghiên bút, trái có cờ kiếm, sau có cửu
tinh thổ phụ(1), minh đường nước chảy vòng vo. Khi Không Lộ đắc đạo sang Bắc
quốc khuyến giáo đồng đỏ được 1 túi, về đúc An Nam tứ khí, chùa này được sư để
cái vạc nặng ngàn quân. Thời Trần vua Nhân Tông sửa lại xuất gia cư trú. Lúc
vua mất Anh Tông xây toà tháp cao 14 tầng gồm 53 thước, chân mỗi bề 10 thước để
cất xá lị. Thời Tây Sơn, quan trấn thủ tên là Túc địa phương phá đỉnh tháp lấy
hồ lô bằng đồng, khi phá tới tầng thứ ba nơi hòm đá, thì thấy có một vật hình
dải lụa đỏ bay lên trời, bèn không phá nữa, còn vạc thì vào thời Hồ mạt quân
Minh phá ra đúc vũ khí. Nay còn tượng Nhân Tông nhập nát bàn và Pháp Loa, Huyền
Quang thờ trong nội điện. Tương truyền từ khi đào sông Vị Hoàng tháp ấy tự dưng
nghiêng đi, ngôi vua cũng dần dần suy đi đến sụp đổ. Bài “Nhàn ngâm” của Trần
Nhân Tông:
Quan Âm
kiều thượng trụ hoa hương,
Vọng
Nguyệt lâu trung sử khách lương,
Khang
kiện thiên bồi thuyền dạ bạc,
Vĩnh an
địa tịch tự chiêu hường.
Thủy
nhai kinh niệm ngư lai thính,
Sơ điểm
chung thanh điểu cận tường.
Thanh
đạm đinh ninh vô hệ lụy,
Nam hiên
thuấn tức thập niên trường.
(Lời
ngâm lúc nhàn (1303):
Cầu Quan
Âm hoa bưởi thơm,
Trong
lầu Vọng Nguyệt tự nhiên nhẹ người,
Neo
thuyền đêm dạo bước chơi,
Nơi đây
yên ổn lâu dài của ta.
Niệm
kinh cá dỏng tai nghe,
Khua
chuông chim ở chốn xa bay về.
ở ăn
thanh đạm không nề,
Hiên Nam
thấm thoát đã vừa mười năm).
Bài đề
“Phổ Minh thủy tạ”:
Huân tận
thiên đầu mãn toạ hương,
Thủy lưu
sơ khởi bất đa lương,
Lão dung
ảnh lý tăng quan bế,
Đệ nhất
thiền thanh thu tứ trường.
(Đề thủy tạ ở khu chùa Phổ Minh của vua Minh
Tông:
Đốt
hương thơm nức trong nhà,
Triều
lên chẳng thấy gì là lạnh thân,
Phòng
tăng cài chặt cửa ngăn,
Đa già
trùm bóng thêm phần âm u,
Tiếng ve
vừa mới kêu thu,
Tiết
trời xem có ý như quá dài).
[Chú thích : (1) Cửu tinh thổ phụ: Đất hình chín ngôi sao, có thể
là 9 đống đất nằm rải rác, nay những đống đất đấy không còn, do bị san ra vào
quãng thập kỉ sáu bảy mưoi của thế kỉ 20.]
Phụ Long
kênh sống : Nhà Trần dựng hành cung ở quê hương Tức Mặc, phía đông nam Tức Mặc
là xã Phụ Long, từ Phụ Long đến sông Vị Hoàng, xưa kia là một dải đất bằng, chỉ
có con ngòi nhỏ từ trang ổ Gà chảy đến cầu Vĩnh Tế thuộc địa phận Đệ Tam Văn
Hưng, vòng ra phía sau Tức Mặc, chảy qua Gia Hoà ra kênh Tiểu Cốc. Do nhà Trần
bội ước, nên thày địa lý phương bắc bèn xui đào một dòng sông từ địa phận Khoái
Đồng đất Vị Hoàng để cho thuyền ngự đến cố cung Tức Mặc được dễ dàng. Không ngờ
làm đứt long mạch, cơ nghiệp nhà Trần liền suy từ đó. Sông này thuộc phố Định
Trung ở trước cửa trại Giám binh, thường gọi là Bến Ngự, năm Thành Thái thứ 6
(1894) bị phù sa bồi lấp. Dân gian có câu:
Hỏi thăm
Tức Mặc mà chơi,
Nhà Trần
thuở ấy mấy đời đế vương, Nếu không kênh sống cắt ngang, Ngàn năm lũy đá thành
vàng khôn lay.
Đền
thành hoàng xã Cao Đường huyện Thượng Nguyên, đền dựng lên trên tư ấp của ông
Trần Quang Khải, sau khi ông mất. Hiện còn bài vị linh ứng tứ triều nguyên lão
Thượng tướng Thái sư định sách đại vương, Phụng Dương công chúa tôn linh và thờ
phụ người Tống theo về Nam triều là Triệu Trung, bài vị đề là Tống triều hiệu
trung trợ thuận, nhân từ tế chúng, đức hậu khai minh, Triệu công sắc phong Ngự
bắc tướng quân tôn thần. Khu đền ở trong miễu dẻ, có lệ quốc tế.
Đền thờ
Lữ Suý xã Quang Liệt huyện Mỹ Lộc, một sứ quân theo vua Đinh. Ông Lữ(1) về đây
mở thêm đất được dân chúng tri ân, nay còn sự tích chữ Nôm:
Thanh
nhàn tựa án hiên tây, Ngẫm xem thế sự đời này đời sau, Thoạt tiên có làng Sét
đâu,
Vì chưng
bãi bể hoá dâu đó mà. Bên đông thì giáp sông Đà,
Bên tây
Nguyễn Xá nay là Huệ thôn, Bên nam giáp với làng Bườn,
Chân
Ninh đất bắc đường liền cũng xa. Ruộng tư điền cũ kể ra,
Có năm
trăm mẫu đấy mà ít đâu, Vì chưng sông lở ngày sâu,
Vào
trong đê nữa hết hầu vài trăm,
Còn công
điền được bao lăm,
Một ngàn
có lẻ vài trăm đó mà,
Linh
tinh cư thổ kể ra,
Đồng dân
tất cả được và trăm linh.
Đoạn này
khai sáng phân minh,
Quê
người tên họ thực tình không sai,
Hỏi ông
tị tổ là ai,
Rằng ông
Lã sứ lúc ngoài bốn mươi,
Thày trò
tất cả năm người,
Xuống
đây lập ấp quê thời gần Mơ,
Hỏi rằng
người xuống bao giờ,
Rằng thì
Đinh thị khai cơ ban đầu,
Mười hai
sứ quân tranh nhau,
Người
cùng Đinh chúa ra mầu triệu cơ,
Tiền Lê
cho đến bây giờ,
Thần
phong thái ấp miếu thờ còn đây.
Khai
điền địa phá các cây,
Lập làng
xóm ở tới nay còn truyền,
Cũng tên
Quang Liệt như trên,
Tục danh
là Sét miệng truyền là bia,
Tụ người
nọ họp người kia,
Sở cư
thành ấp như chia non Kỳ.
Thiên
thành đất cũng dị kỳ,
Địa linh
nhân kiệt điền trì hứa đa(2),
Đất tuy
lở người càng gia(3),
Người
gần sông lở chạy mà vào trong,
Của cũng
nhiều người cũng đông,
Thờ thần
kính phật mà công đức nhiều,
Nào mở
chợ nào bắc cầu,
Quy mô
nhất thống ra mầu cựu dân,
Chia làm
bốn giáp sự thần,
Cùng
nhau giúp đỡ có phần vui thay.
Miếu thờ
tranh vách tạm gây,
Lý triều
sùng phụng càng ngày càng gia(4), Mời thày lý học tàu ra,
Bính
trông Nhâm hướng phát khoa lại giàu.
Dân ta
từ đấy ơn sâu,
Rồi hai
chùa đó cũng hầu mở ra,
Đến nhà
Trần càng nguy nga,
Ruộng
thần từ đó kể là bao nhiêu,
Hai mươi
bốn mẫu chưa nhiều,
Chỉ ban
tứ tính Trần đều như ai,
Thái
bình vô sự còn dài,
Hỏi
người tri thức có ai biết cùng,
Non sông
vui thú vẫy vùng,
Đều là
dòng giống Lạc Hồng nối noi.
Lưu
truyền để mãi ngàn đời,
Làm
gương cho chúng ta ngồi mà trông,
Biết là
có tổ có tông,
Biết
người làng Sét có công đức nhiều.
Lời quê
chắp nhặt đôi điều,
Xin ai ở
đất bản tiêu chớ nhầm.
[Chú thích : (1) Lữ Suy: Hay là Lã Suy tức Lã Tá Đường.
(2)Điền trì hứa đa: Ruộng ao có nhiều.
(3)Người càng gia: Người càng nhiều.
(4)Càng Gia: càng thêm.]
Đền thôn Đông Nhuệ ở xã Lê Xá(1) tổng Cao Đường huyện Thượng
Nguyên, thờ khai quốc công thần triều Lê là Lê Lai, Lê Khôi. Hiện nay dư duệ
của các ông còn ở rải rác khắp tổng.
[Chú thích : (1) Lê Xá: Theo tộc phả họ Lê ở thôn Dồi, thì xưa đất
này có tên là Liễu Trang, khi họ Lê ở Thụy Nguyên ra đây ở đông mới đổi ra Lê
Xá. Xã Lê Xá có bốn thôn là Lê Xá, Vị Tục, Đồng Nhuệ, Khả Lực.]
Chùa
Miễu : Chùa thuộc thôn Mỹ Tục(1) xã Đặng Xá huyện Thượng Nguyên, chùa nhỏ ở gò
đất cao này nay còn bài vị có chữ: “Thánh đồng Nguyễn Thế Tăng linh vị”, bài vị
bằng đất nung thờ ở trên ngai, nhiều người qua lại cầu cúng, xem chừng cũng có
linh khí.
[Chú thích : (1) Mỹ Tục: Vốn xưa là Vị Tục (thường gọi là Tuộc).
Đông Nhuệ (tên Nôm là Dồi). Khả Lực (tên Nôm là Sức).]
Tại Liêm
thôn huyện Thượng Nguyên có dòng họ Phạm là dư duệ của Lê triều đại nguyên soái
Lai Quận công Phạm Công Khoái, hiện có đền thờ. Câu đối:
Khu
hoạch khởi vô tài, vạn lý giang sơn tằng lịch duyệt; Công danh nguyên hữu phận,
cửu trùng vũ lộ hỷ vinh triêm”
(Vạch
chia bờ cõi nếu không tài, muôn dặm non sông chân dẫm khắp; Giành giật công
danh là có phận, chín trùng mưa móc thầm ơn to).
Lăng vua
Trần Minh Tông : Lăng này thuộc trang Vạn Kiếp, nay là xã Vạn Diệp tổng Đồng
Phù huyện Thượng Nguyên. Khu vực này rộng tới ba mẫu cây cối um tùm. Mỗi khi
đến ngày giỗ 19 tháng 2 dân địa phương thổi một niêu cơm, một đĩa muối vừng đặt
lên trước tượng.
Đền
Trung Tấn vương : Vương người xã An Lá tổng Hư Tả huyện Thượng Nguyên, đem quân
giúp vua Đinh thống nhất đất nước, được tước Kiến Nghĩa hầu và xã quê làm thực
ấp. Khi Lê Hoàn cướp ngôi, ông tổ chức quân chống lại, hơn một năm thì bại
chết. Xã lập đền thờ, vua Lý Công Uẩn phong là Trung Tấn vương thượng đẳng phúc
thần.
Xã Đồng
Phù tổng Đồng Phù: Thờ Quế Hoa công chúa tên là Trần Thị Ngọc Chân, con viên
Thái thú triều Lê. Ban đầu nhỏ bé, từ quãng năm Cảnh Trị thì xây to lên, nay
đền và lăng tẩm đều to rộng. Mỗi năm cứ ngày 10 tháng 3 dân hai xã Vô Hoạn Đồng
Phù sắp
đặt loan giá, lễ rước, ca hát, đánh cờ, kéo chữ. Thập phương tụ hội chiêm bái
khá đông. Mất ngày 13 tháng giêng thọ 21 tuổi.
Đền Đức
Vua xã Ngô Xá tổng Bách Tính huyện Mỹ Lộc thờ Trần Minh Tông mở ấp ở Ngô Xá,
sau Trịnh Kiểm đánh Mạc qua đây cấp tiền khuyên dân chăm chỉ cấy cầy và địa
phương ứng nghĩa.
Đền Vọng
Vân xã Bảo Long huyện Mỹ Lộc. Cuối thời Lý dân cư trôi dạt, đất đai hoang hoá,
có lần Trần Nhân Tông vi hành đến khu rừng này nghỉ ngơi, vua liền ban tiền
thờ. Câu đối của Dương Bật Trạc người xã Cổ Lễ huyện Trực Ninh, đỗ Tam giáp
Tiến sĩ khoa ất Mùi (1715) thời Lê quan án sát sứ Lạng Sơn:
Vọng như
phụ mẫu sinh thành đức,
Vân đáo
hoà cốc lẫm thương doanh.
(Trông
như cha mẹ sinh thành, công to siết kể; Mây đến gió mưa hoà thuận, thóc chứa
đầy bồ).
Đền thờ
tổ xã Vị Khê huyện Thượng Nguyên: Đền thờ ông Nguyễn Công Thành, tiên phong tả
tướng của Ngô vương về chiêu dân lập ấp mở chợ. Thời Lý có thái uý Tô Trung Tự
dạy dân trồng hoa. Thời Lê mạt có Bình An vương và vương nữ Trịnh Thị Tâm Hảo
tái lập làng. Qua các đời hãy còn bảo lưu. Câu đối:
Lý đại
hữu hoa thôn, cố phả do Truyền Tô thái uý ; Lê triều tái lập xã, bi văn thượng
ký Trịnh vương gia. (Thời Lý có làng hoa, phả cũ vẫn truyền Tô Thái uý ; Triều
Lê tái lập xã, văn bia còn chép Trịnh vương gia).
Mộ Huy
Tĩnh hoàng hậu : Hoàng hậu người ở Cao Môn lấy vua Trần Nhân Tông, được ít lâu
hậu về sửa chùa đệ nhị đô ở xã Đệ Nhị huyện Mỹ Lộc tu hành, vì hậu không có con
nên dân làng xây mộ ở trước chùa, nay có 10 mẫu ruộng làm giỗ vào ngày 1 tháng
5. Ban đầu có mỹ tự là Huy Tĩnh cung phi, lúc mất truy phong Huy Tĩnh hoàng
hậu.
Đền thôn
Miễu xã Đệ Nhất huyện Mỹ Lộc: Đền thờ ông Nguyễn Xuân Bình còn có tên là Dũng
Dược tướng vua Hùng thứ 18 có công đánh Thục lấy con gái vua là công chúa Quang
Mỹ và Phạm Ngộ, Vĩnh Hựu, Uy Linh tướng thời Trần đóng quân bảo vệ quê vua. Nay
có tượng thờ rất là cung kính. Tại ngoài Miễu có miếu thờ công chúa Quang Mỹ
còn câu đối: Khuê lý nhân từ thiện hạ hữu, nữ trung quang kiếm thế gian hy.
(Tại nơi khuê các tỏ nhân từ, thiên hạ có nhiều gương nghĩa khí; Trong đám quân
thoa cầm gươm giáo, thế gian hiếm thấy bậc kiên cường).
Đền thôn
Đông Mỹ xã Mỹ Lộc huyện Mỹ Lộc thờ tướng Đại Hành từng theo
Hưng Đạo
vương đánh giặc Nguyên. Đền có câu đối:
Phương
lưu Mỹ ấp sinh tiền tướng,
Vận dực
Đông A tử hậu thần.
(Nơi
Nguyễn ấp vị tướng sinh ra, tiếng thơm còn mãi nơi quê quán; Giúp Đông A công
thần rực rỡ, mất rồi dân nhớ vẫn tôn thờ).
Thôn
Đồng Mai thì thờ Cao Mang họ Lư, có tượng thờ rất là long trọng. Câu đối:
Lư gia
đông xuất anh hùng tướng,
Trần Đại
Nam phù thánh triết vương.
(Vị tướng họ Lư anh hùng, sinh ở Đông Sơn thuở
nọ ;
Giúp vua
nhà Trần thần thánh, tại miền Nam hải chuyện xưa kia).
Chùa
Viên Thông : Chùa thuộc xã Vĩnh Trường huyện Mỹ Lộc. Thời cổ gọi là chùa Viên
Nguyệt thuộc xã Vĩnh Ninh, đến thời Trần đổi ra xã Vĩnh Bình, thời Lê đổi là
Vĩnh Trường. Tương truyền do sư Thủy Vân ở Bích Sơn Gia Viễn về mở cảnh vào
thời Lý sơ sư vốn là tướng can gián của Lý Công Uẩn, mới từ giã gia đình về
Bích Sơn có tên là Nguyễn Thế Huy, vì ông có lời khuyên ngăn trung trực, sau
nghĩ ở thì sẽ mắc vạ, bèn cho con đổi ra họ Chu về ở Yên Mô, còn ông thì tìm
nơi non sâu ẩn tích. Câu đối cửa chùa:
Xã hiệu
Vĩnh Trường, cổ tác Vĩnh Ninh tồn thạch ký ; Tự danh Viên Nguyệt, kim vi Viên
Thông tự Lê sơ.
Đền thờ
Trung Vũ vương : Tại xã Lựu Phố tổng Đệ Nhất ban đầu gọi là Lựu Viên, nơi ông
Trần Thủ Độ ở bới việc cho họ Trần kế nghiệp họ Lý. Nơi đây còn thờ công chúa
Bạch Hoa là con gái Trần Thuận Tông và bố con thám hoa Hà Nhân Giả.
Xã Mai
Xá tổng Hữu Bị nơi thờ bà họ Đào, giữ chức quân trung điều hộ thời Bình Định
vương chống quân Minh. Dân địa phương nhờ cậy bà giúp tiền gạo, chữa bệnh tật.
Lúc hoá có sắc phong là thánh mẫu.
Xã Đệ
Tam thờ hai anh em họ Nguyễn là Bá Thành và Trọng Thực theo ông Trần Lãm, sau
giúp vua Đinh, thời Lê được phong làm thành hoàng làng. Bên phải đền là chỗ ở
cũ của hai bố mẹ các ông.
Xã Phụ
Long tổng Đông Mặc thờ Bố Cái đại vương và ông Lê Nghĩa Thành, Trịnh Công Dụng,
làm thành hoàng làng. Bên phải có văn chỉ của xã, thời Tự Đức bị giặc phá, nay
chỉ còn đền. Ngày hai ông ứng nghĩa mồng 6 tháng chạp, ngày ông Nghĩa Thành mất
14 tháng 7, ông Công Dụng mất 12 tháng 8, đều dùng lễ tam sinh, có lễ thiên
quan và rước vào đền xã Gia Hoà năm Tý Ngọ, ở xã Gia Hoà rước vào Phụ Long vào
năm Mão Dậu. Thời Lê thì năm nào cũng rước, cứ năm dương thì Gia Hoà rước
trước, năm âm thì Phụ Long rước trước.
Đền thôn
Giáp Tư xã Trực Chính huyện Nam Trực : Xã này thời Lý có tên là xã Thử Giã
(cánh đồng chuột). Thần là con gái, mới chín tuổi đã tham gia chống giặc, khi
chết được phong là Bình Khôi công chúa. Thơ của ông nghè Phạm Kim Kính quê ở
thôn Cổ Sư Vụ Bản: “Tứ Giáp thôn”:
Lý mạt,
Trần sơ thương khách chí,
Tri an
thủy quyết lập gia cư,
Dương Lê
Đoàn Nguyễn lâm biên trụ,
Trần
Phạm Bùi Hoàng thủy thượng du.
Thiết
miếu y quang dân hoạch cát,
Phụng
thần tư đức đế ban thư.
Vu kim
khuất chỉ ngũ bách tải,
Bất kiến
hà nhân thuyết cổ thì.
(Thôn
Giáp Tứ :
Đầu
Trần, cuối Lý do thương khách,
Đến thấy
yên vui ở ấp này,
Trần
Phạm Bùi Hoàng trên nước ngụ,
Dương Lê
Đoàn Nguyễn ẩn rừng cây.
Lập đền
cầu đảo dân cư thịnh,
Nhớ cũ thờ
thần có sắc mây.
Bấm đốt
trăm năm xuân sắc đổi,
Nào ai
còn nhắc việc xưa đây).
Nay có
lệ mở hội ngày 8 tháng 2.
Chùa Đại
Bi : Chùa toạ lạc tại thôn Giáp Ba xã Trực Chính, thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh. Vào
thời Lý thiền sư dựng nên ngôi chùa này, nay cả xã Trực Chính, Vân Chàng đều
phụng sự, mở hội vào các ngày từ 20 đến 24 tháng giêng, có lệ ném cầu, múa rối
bơi thuyền, các nơi đổ về lễ bái cũng đông. Sở tại có câu:
Giàu
nghèo cũng cứ chơi xuân,
Thắp
hương cầu phúc bước chân vui vầy,
Thứ nhất
thì hội phủ Dày,
Vui thì
vui vậy không tày chùa Bi.
Văn từ
huyện Nam Trực ở xã Cổ Nông tổng Cổ Nông, thờ Khổng Tử ở giữa, bên phải thờ Chu
Văn An, Trương Hán Siêu, bên trái thờ hương hiền có Lê Hiến Giản, Lê Hiến Tứ,
Nguyễn Khắc Thận, Ngô Bật Lượng…
Xã
Thượng Lao huyện Nam Trực có đền thờ Lê Hiến Giản, Hiến Tứ thời cuối Trần, hai
ông thường hiển linh giáng bút tiên tri dân sự, được cả vùng ngưỡng vọng. Sinh
thời ông Hiến Giản có đào một con sông, phía trên tiếp với Tương Nam sông Tân
Khai, phía dưới tiếp với sông Dõng chỗ Liễu Đê, dài như thế mà chỉ có một ngày
là xong, nước chảy ra đỏ như máu, trâu ngựa đi qua đều bị chết đuối. Người
đương thì gọi là “sự lạ sông Đào”.
Dưới
thời Quang Trung những người đi theo ông ta không phải là ít, ở vùng Nam Chân
cũng có hơn 10 vị, nhưng sống ở nơi quan lại sở tại hà khắc, mà lại có điều
nhân đức, thì phải kể đến Anh dũng tướng quân tước Hai Khoan tử Trần Công tên
tự Bá Hai ở thôn Nho Lâm xã đồng Quỹ huyện Nam Chân. bài của Tam giáp Tiến sĩ
Khiếu Năng Tĩnh người Chân Mỹ, Đại An, quan Quốc Tử giám Tế tửu thời Nguyễn
viết: “Nho Lâm thôn”:
Lê triều
Bảo Thái nhị niên,
Trần
công Minh Đạt nam thiên khả bình,
Tị sưu
tầm chí lâm đình,
Thủy li
hà chính hựu kinh nô hình,
Mạt thì
sung nhập quân doanh,
Tòng tư
tịch hữu thôn danh biệt hàng.
Nhân cư
hương ấp bất trường,
Thất
tuần dĩ đạo cổ thường vị đa,
Đế vương
lịch đại câu qua,
Cố quan
thế sự thán ta nhất từ.
(Thôn
Nho Lâm : Triều Lê Bảo Thái thứ 2 (1721),
Trần
công Minh Đạt đến nơi đất này,
Tránh
sưu trú ở rừng cây
Mới qua
khổ thuế lại hay tội nhờ(1),
Cuối
thời đánh dẹp trở về,
Có tên
thôn gọi làng Nho biệt hàng(2),
Người ta
mấy kẻ cửu trường
Bảy mươi
đã nói tuổi thường hiếm hoi
Đế Vương
như ngựa chạy rồi,
Than
phiền những chuyện trên đời oái oăm).
[Chú thích : (1) Tội nhờ: Đến ở khai khẩn nhưng chưa có tên làng,
thì phải chịu việc phục dịch tên làng chính ngạch.
(2) Đến khi họ Trần có người làm nên thôn mới có trước bạ riêng rẽ
không bị nô lệ nữa.]
Miễu lớn
thiêng liêng : Tự cổ vẫn còn đến nay um tùm rừng cây xanh tốt, ai vào nghỉ ngơi
cũng thấy mát mẻ, nếu tuỳ tiện chặt phá thường gặp sự không yên, lại phải đền
để tạ lễ Lâm lý tôn thần, Cơ Trí An, Thứ Nhất, Thanh Khê, Y Lư, Tam Trữ, Cổ
Tung. Phần lớn các miễu này là cồn đất cao, chỗ vài chục mẫu, chỗ năm sáu mẫu.
Trúc
xanh đồng bằng : Tại xã Cổ Gia phía sau đền thờ quan trạng có một cái miễu trúc
rộng ước 5 mẫu, cây cối xanh tốt, lác đác có mấy cây trúc trắng.
Huệ Tộ
đại thánh thiền sư : Tại thôn Giáp Nhất xã Trực Chính (1) tại dòng họ Bùi có
người 50 tuổi xuất gia năm Đinh Dậu (1573 - 1577) niên hiệu Gia Thái triều Lê
đắc đạo ở Tây Thiên, lội nước trèo non ví như chim bay. Sư trú tại chùa Tuỳ
Hồng xã Cổ Tung, dựng quán Thừa lương, viết Kế Đăng Lục được vua Thần Tông tôn
danh hoà thượng. Niên hiệu Dương Hoà, sư lên hoả đàn tự thiêu, tại chỗ Cổ Tung
Trực Chính giáp nhau có một cồn đất, sở tại gọi đó là cồn Thánh hoá. Nay ngoài
Thanh Khê, Đô quan, Đông Cao… cũng có đền tượng thờ, được dân tín ngưỡng. Ngày
kị 10 tháng giêng.
[Chú thích : (1) Trực Chính: Tên cổ là Thanh Đàm, thời Trần đổi là
Chân Đàm thời Lê đổi là Chân Nguyên, nay là Trực Chính gồm Giáp Nhất, Giáp Ba,
Giáp Tư. (Đại Bi tự thánh tổ thực lục).]
Xã Thanh
Khê vào thời vua Lý có cô gái họ Vũ tên tự là Phương Dung, lúc cha mẹ sinh nàng
ra khí lành toả khắp nhà, nàng đi tới đây có đám mây như cái dù che, nắng thì
râm lại mưa thì tạnh hẳn. Sau là nguyên phi của vua Lý, có đền thờ còn câu đối:
Việt tự
Lý triều thiên tích tộ,
Nguyên
tòng Vũ thị địa chung linh.
(Kể tự
Lý triều trời để phúc,
Vốn dòng
Vũ thị đất linh thiêng).
Chợ chùa
Đại Bi : Thuộc xã Trực Chính, tương truyền thiền sư Từ Đạo Hạnh khi đỗ khoa
Bạch Liên rồi về gặp thiền sư Không Lộ, hai ông ra bãi đất trống thắp hương làm
lễ kết nghĩa anh em. Hiện còn bãi đất cao có bát nhang đá. Lời khen:
Chùa Bi
gần với đền Gin,
Đất
thiêng như vẽ mấy ngàn mùa xuân,
Thành
Nam thứ nhất Nam Chân,
Đường
Vàng sông Ngọc quan dân tốt lành,
Thiền sư
đại tướng nêu danh,
Để ơn
mưa móc mái tranh dồi dào,
Hoá sinh
đều có công cao,
Giữ gìn
thờ tự nói sao hết lời!
Đây là
nơi mẹ thiền sư ở.
Xã Hiệp
Luật tổng Bái Dương, có đền thờ sứ quân Kiều Công Hãn. Cuối thời Ngô ông Kiều
chiếm cứ Phong Châu tự xưng Kiều Tam chế, bị Đinh Bộ Lĩnh đánh bại. Chạy về
phương Nam muốn cùng Phạm Bạch Hổ mưu việc đánh trả. Nhưng tìm đến Phạm thì
biết ông Phạm đã theo Đinh công, ông Kiều bèn thúc ngựa chạy đến chợ Bái Dương,
gặp một bà già mời ông ăn uống no say. Ông bèn cởi áo chiến quẳng cho bà già
rồi chạy ra cái cồn đất gần đó tự vẫn. Đến khi Lê Hoàn chống Tống, ông hiển
linh giúp đỡ được Lê Hoàn ban tiền cho dân lập đền thờ và trừ miễn công dịch.
Nay bốn xã Hiệp Luật, Bái Dương, Cổ Lũng Tang Trữ đều tôn thờ.
Xã Lạc
Đạo tổng Đỗ Xá có đền thờ Trần sứ quân. Sứ quân tên là Công Lãm, vốn người nhân
đức, làm tướng thời Ngô trấn thủ của biển Kỳ Bố tự xưng Trần Minh Công, nuôi
Đinh Bộ Lĩnh quê ở Hoa Lư làm nghĩa tử cho cai quản tất cả quân lính rồi đi
chơi sơn thủy. Lần đến xã Lạc Đạo thấy có khu đất đẹp bèn cho dân tiền xây dựng
nhà ở. Khi mất sở tại chôn ông ở Mả Râm, Đinh Tiên Hoàng sai người tu sửa to
nơi ở thành đền đặt lệ quốc tế. Đời sau đều tặng phong tôn kính, ở trong huyện
có xã Vân Cù, ở Thái Bình có Kỳ Bố, Bồ Xuyên hằng năm đều chồng kiệu rước về
Lạc Đạo vào đám ba năm một lần, chính kị vào ngày10 tháng 10.
Đền Quy
Phú: Thờ Trình Thị Cực người xã Từ Quán (nay là xã Từ Quán tổng Nghĩa Xá) lấy
chồng là Nguyễn Hinh ở thôn Quán Nhi. Giận chồng bị thái thú Tô Định giết chết
bèn khởi quân theo Trưng Trắc đánh quân Hán. Bại trận Trình Thị bèn nhảy xuống
biển chỗ Để Sơn Diễn Châu, xác trôi về đến xóm Đông Quy Cực, sở tại kéo lên an
táng, rồi đổi chữ Cực thành chữ Phú. Ngày mất 8 tháng 2 năm Qúy Mão. Quan huyện
lệnh huyện Giao Thủy Nguyễn Văn Duệ thời Lê sơ, lúc sửa đền có đề thơ:
Hoàng bà
dũng lược sự do truyền,
Hương
hoả truy tư tại Quán thôn,
Trình
Thị bản do phu tử hận,
Trưng
Vương tự tướng diệc đồng thuyền. (Hoàng bà dũng lược việc còn truyền, Hương
khói truy tư ở Quán thôn,
Trình
Thị giận điều chồng chết uổng,
Trưng
Vương khởi nghĩa cũng trên thuyền).
Đền xã
Thụy Thỏ huyện Nam Trực: Thờ Mậu Thìn khoa Tiến sĩ Đông các Đại học sỹ Vệ Thụy
hầu Đặng Phi Hiển, lúc sống liêm chính, đánh giặc gìn giữ cõi tây, mặt bắc, lúc
thác hiển linh, thường giáng bút cho thơ chữ Hán, chữ Nôm tuỳ theo người lễ
hiểu được, sự tiên chi của thần quả là không thể lường hết được. Dân đi thuyền
buôn bán Bắc Nam, người sở tại có sự khó thảy được thần chỉ bảo rõ rệt, đều
thiên về hướng thiện, thời vua Nguyễn Thiệu Trị đã được ban chữ:
Thế đại
canh thiên từ nhược tại,
Nhân tâm
hoán cải đức trường lưu.
(Thời
cuộc đổi thay đền vẫn thế,
Lòng
người biến cải đức còn ghi).
Thích Ca
hoá thân : Thời Lê ngưỡi xã Liên Tỉnh tên là Đặng Đức Long cày ở Đồng Vối thấy
một phiến đá vuông ước một thước trên có 21 pho tượng vây xung quanh tượng Phật
Thích ca. Đặng nhân thế bèn trên đất ấy dựng một nơi thờ gọi tên là chùa Bồ Đa,
phía trước cửa chùa bốn mùa đọng nước cây cỏ xanh tươi. Chỗ cây trũng xuống vẫn
không lấp đầy đất được. Bài thơ của Tam giáp Tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên hiệu
Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) người xã Thuỵ Thỏ Nam Trực : Bồ Đa Tự :
Văn đạo
thiền quan sắc thị không,
Bồ đa ao
địa bán đài phong,
Phiên
phiên hiện thế cao đê thạch,
ẩn ẩn
năng ngôn hiểu mộ chung,
Minh
kính đài lưu hồ phiến thuỷ,
Kim liên
hương khởi thụ vi phong,
Phượng
tường duy cốt đô như thử,
An vấn
nhân công dữ hoá công?
(Chùa Bồ
Đa(1):
Nghe nói
cửa thiền chuyện sắc không,
Bồ Đa
đất trũng nửa rêu phong,
Chuông
kình sớm muộn ra công đấm,
Tượng đá
lô nhô trước mắt trông.
Gương
sáng hãy còn hồ nước gợn,
Sen vàng
khói toả lá cây vòng,
Phượng
bay để cốt đều như thế,
Đừng hỏi
nhân công với hoá công?).
[Chú thích : (1) Chùa thuộc thôn Trung Vượt xã Nam Trung. Nay tại
chùa này có tượng ông bà ông Đặng Đức Long thờ ở bái đường, thổ dân gọi là ông
bà ông hậu Long.]
Cóc bạc
chùa Đông Minh : Vào quãng thời Đinh có người Phương Bắc tên là Đông Minh qua
xã Tử Giá (thời Trần đổi ra là Vĩnh Hưng, Nguyễn mạt đổi ra là Hưng Đễ, niên
hiệu Thành Thái 1 (1889) tách một phần ra lập xã Hưng Nghĩa) thấy một khu đất
rộng rãi, cây cối um tùm tĩnh mịch mát mẻ, phía trước có 2 giếng hình mắt rồng,
bèn lập một ngôi chùa lấy tên là Đông Minh làm hiệu. Trong chùa có con cóc đá
dài 2 thước rất là thiêng liêng, chẳng ai dám động. Cuối thời Lê người phương
Bắc đến chỉ vào con cóc bảo: “Tổ tiên ta để người ở đây đã lâu, trong bụng có
chứa kim khí đưa trả cho ta không được giấu giếm”. Bỗng nhiên cóc nghiến răng
kèn kẹt, bụng vỡ tung ra trăm lạng bạc. Người khách ấy lấy bạc rồi sửa lại chùa
tế lễ mới từ giã. Sư trụ trì sợ mất dấu vết bèn thuê người tạo một con cóc gốm
thay vào. Bài Chùa Đông Minh của Tiến sĩ Thụy Thỏ Đặng Phi Hiển:
Cổ
thuyết Tống nhân tị nạn thời,
Giá
trang trạch địa kiến liên đài.
Sơ lưu
dị thạch tàng thâm ốc,
Hậu duệ
tầm quan phỏng cựu trai,
Can phủ
sậu tuỳ ngân khách khứ,
Tinh
thần phân phó ngoã thiềm lai,
ư kim mộ
đạo tha phương chí,
Bất cảm
ty hào uý ngộ tai
(Tống
nhân tị nạn tới đây(2),
Giá
Trang(3) chọn đất dựng ngay ngôi chùa,
Nhà sâu
đá lạ giấu thừa,
Cháu sau
tìm lại hỏi đưa khấn đòi,
Ruột gan
theo khách đi rồi,
Tinh
thần cóc ngói còn ngồi chốn thiêng.
Nơi xa
mộ đạo thắp nhang,
Tơ hào
chẳng dám coi thường chuyện xưa).
[Chú thích :
(2)Tống nhân: Người nước Tống, tức người Trung Quốc, tương đương
thời Đinh ở Việt Nam.
(3)Giá Trang: Tức xã Tử Giá, tên Nôm là làng Mía.]
Khánh đá chùa Kim Khai : dưới triều Trần, tại thôn Đông Khánh
thượng xã Bách Tính đào giếng được một tảng đá to dài ước 10 thước, gõ vào kêu
như tiếng chuông. Dân thôn bỗng nhiên tật dịch, đến lễ ở chùa Đông Minh biết
được khánh đó có từ thời Lý, đào tiếp thì thấy có bia cổ ghi Long Phù nhị niên
(1102) Nhân Tông hoàng đế tạo, dân thôn bèn nhặt nhạnh đá vỡ gạch dư, đóng tiền
góp gạo mua sắm thêm, dựng nên ngôi chùa trước có 5 gian, sau có chuôi vỗ 5
gian tiếp với lầu khánh lầu chuông, lại thêm hành lang tả hữu gồm 6 gian, tất
cả đều sơn son thiếp vàng, mới đặt tên là Kim Khai tự. Ngày khánh thành được
vua Anh Tông cấp cho 200 lạng bạc.
Đến đầu
thời Cảnh Hưng dân sở tại theo Gia Tô, nên chùa cảnh bị đập phá. Qua lại không
ai không rơi nước mắt. Có thơ ghi:
Tạo
thành nghi tự bích sơn lai,
Xuất
tỉnh y niên khánh nhất mai.
Hương bỉ
cự lôi kinh diệm hoả,
Hình lưu
sơ nguyệt bán thương đài.
Phật
tương bảo khí tuỳ yên một,
Nhân
tích kim thanh bạn thủy nhai.
Đáo xứ
nhận phi thiên tử trạch,
Khanh
khanh thuỳ thị hữu tâm tai?
(Vốn từ
núi biếc tạo tên chăng,
Đào
giếng lôi lên chiếc khánh bằng,
Như sấm
kêu vang từ chớp lửa,
Tựa
trăng đầu tháng nửa rêu phong,
Phật cho
vật báu theo hương biến,
Người
tiếc lời vàng quẳng bến trong.
Thiên tử
dấu xưa đành chẳng nói,
Bong
bong nào biết có ai không).
Tháp cổ
ở Thanh Khê : Xã Thanh Khê tổng Thi Liệu có ngôi chùa, bên chùa có cây đa to chu
vi có tới vài trượng chẳng biết tự bao giờ. Năm Tự Đức Mậu Dần (1878) người
làng đem búa chặt thì nghe thấy tiếng rên rỉ có tiếng yếu ớt. Người làng cho là
yêu quái càng thêm quyết tâm chặt, sư cũng không thể ngăn nổi. Đến lúc cây đổ,
bên trong bật vỡ ra một ngôi tháp cổ vuông ước một thước, gạt hết vết mốc thấy
có hàng
chữ:
“Dương Hoà thất niên Đàm công danh Phúc Thụ, hiệu Huệ Văn thần đồng bồ tát”,
trong có bình sành chứa tro xương. Mọi người hối hận nhưng sự đã muộn, chim
chóc bay vòng tiếng kêu ai oán. Sư bản tự bèn xướng suất các cố lão lấy gạch đá
xây phong thành am. Sư rơi nước mắt nói: “Sống chết của người rõ rệt có thế, cả
đời tu tỉnh nào được cái gì”. Rồi viết bài tứ tuyệt:
Y bỉ hà
nhân tai
Di am
tàng xá lị
Sinh vi
hữu đạo tăng,
Tử vi vô
tự quỷ
(Thương
ôi đời biết ai đâu,
Để am xá
lị chắc nào được yên,
Sống làm
sư đạo đã nên,
Chết
thành con quỷ người quên cúng thờ).
Chùa Mục
Đồng ở ngoài nội cỏ : Tại thôn Tạ Xá xã Liên Tỉnh có ngôi chùa nhỏ, nhà gạch
tường quét vôi, bên trong trải được ước nửa cái chiếu. Tương truyền từ thời Lê
sơ, bọn trẻ trâu nhặt được pho tượng bằng đồng ước cao 3 tấc, mới nhân tạo ngôi
chùa đặt tượng và bát nhang thờ, có một cửa ra vào mà không hề có cửa sổ hay lỗ
thông hơi, thờ phụng xem ra cũng nhiều linh dị, già trẻ thường tới đốt nhang.
Cuối Tây Sơn giặc lấy mất tượng đồng, chỉ còn bát nhang mà khí thiêng vẫn không
đổi. Bài “ Bái Mục đồng dã tử” của Đại An Đông La Kỷ Mão Đình nguyên Đỗ Huy
Liệu:
Khả quái
ngưu nhi khởi dã thiền,
Hữu linh
tự cổ diệc đa yên.
Lê sơ
thủy kiến nhân suy vọng,
Trịnh
mạt tương di khí bất thiên.
U hiển
nan tri thần phật sự,
Vãng lai
nguyện đắc thính văn tiền.
Hồi đầu
khả miễn kim ngôn bạch,
Trùng
phỏng thành tâm thiểu dĩ điền.
(Cũng lạ
trẻ trâu dựng cửa thiền,
Mà
thiêng xưa đã mấy nơi liền.
Đầu Lê
mới tạo người tôn kính,
Cuối
Trịnh hầu dời khí vẫn nguyên.
U hiển
khó hay điều phật thánh,
Lại qua
xin rõ chuyện đường tiền(1).
Quay về
lĩnh hội câu vàng dạy,
Trở lại
thành tâm chút báo đền).
[Chú thích : (1) Đương tiền:
Sắp tới, bước đi thì gặp phải.]
Cây trò ở miếu Thượng Đồng : Bên phải phía trước miếu thờ ông Long
Kiều có cây chò chỉ, đứng xa vài ba dặm vấy thấy um ùm cao ngất, trước đây đã
mấy lần nước to xoáy thành đầm vực ở chung quanh gốc chò, mà chò vẫn không đổ.
Thần báo mộng cho dân lấy gạch đá đổ nhiều ở chung quanh và đóng kè giữ lấy,
thủy thần hũng dữ dâng nước làm bão kéo đổ vẫn không thành sự. Năm Tự Đức thứ 9
(1856) đang cuối mùa thu gió bão ập tới, trong cơn nước xoáy gió gào có tiếng
chiêng trống rầm rĩ, ai cũng nghe thấy mà chẳng dám ra. Sáng hôm sau trời đất
trở lại yên ổn, mọi người ra xem thấy gốc chò và ngọn cành đều có vết rìu búa
chặt, cành thì gẫy hết, cá tôm rơi xác chết cũng khá nhiều, mà phần nhiều đều
bị nốt dao chém. Thần lại báo mộng cho dân đào sâu ruộng xung quanh cây xây
chắc to để phòng thủy thần cướp phá.
Bài “Cây
chò Thượng Đồng” của Phó bảng khoa Tân Sửu (1841) Đỗ Huy Uyển người xã La Ngạn
huyện Đại An :
Long
Kiều miếu tiền hữu chò thụ
Kỷ bách
niên lai xổ mẫu âm,
Tiên giả
thủy thần tham dục thủ,
Hậu nhân
thổ chủ lực đa truân,
Bính
Thìn phong vũ xâm chàng phạt,
Thánh
tướng anh linh ngự phủ cân.
bất tri
thử sự thùy năng giải,
Mục kiến
phi ngoa bút tự trần.
(Cây Chò
trước miếu Long Kiều,
Bóng
trùm vài mẫu bao nhiêu đời rồi,
Lòng
tham thần nước không ngơi,
Thành
hoàng chống cự chẳng rời mối lo.
Năm Bính
Thìn gió bão to,
Giáo
gươm thánh tướng chém bừa cá tôm.
Hiểu sao
cho rõ nguồn cơn,
Quả tôi
mắt thấy bút biên việc này).
Minh
Không di tích : Sư Nguyễn Chí Thành quê ở Điềm Xá Gia Viễn thường câu cá tại
núi Tai Mèo, rồi chèo thuyền ra cửa biển Thần Phù, để thẳng đến Tây Chân đi
bán, thường gánh đá một bên cho cân với cá, đi đường đá bị rơi sư đạp viên đá
ra viên đá vỡ còn dấu tại xã Liên Tỉnh xã Tương Đông. Thơ của Dương Bang Bảng
người xã An Cừ huyện Thanh Liêm, 33 tuổi đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân niên
hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) đổi quốc tính gọi là Lê Tung. Từng đi sứ, quan Lễ
bộ Thượng thư , quốc tử giám tế tửu tước Đôn thư bá. Thọ 63 tuổi, tác phẩm có
khá nhiều thơ văn rải rác tại khắp nơi. Bài “Kiến Liên xã thuyết đáo Nguyễn
thiền sư nhân tác thi sĩ lưu vu tự bi chi hậu”:
Miêu
lĩnh thuyền hành xuất hải tần,
Thần phù
bắc hướng đáo Tây Chân,
Bộ trình
đảm thạch lưu Liên xã,
Khứ mãi
lai cư hữu toạ ngân,
Tây Lạc
thị chiền dân thượng ký,
Quần Hàn
cổ sát ấp tôn thân.
Lý triều
chư xứ phương danh tại,
Linh khí
y nhiên mục tự tân.
(Thấy
người xã Liên Tỉnh tới nơi Nguyễn thiền sư, nên làm bài thơ khắc vào mặt sau
bia chùa:
Núi Mèo
ra biển cửa Thần Phù,
Thuyền
hướng Tây Chân chở lướt đi,
Liên
Tỉnh đá rơi đường chẳng mất,
Chỗ ngồi
bán cá vết như y,
Chợ nơi
Tây Lạc dân còn nhớ,
Chùa đất
Quân Hàn nghĩa vẫn ghi.
Triều Lý
các nơi di tích ấy,
Khí
thiêng nêu đậm buổi tu trì).
Bà vú họ
Lê : ở xã Thứ Nhất có người con gái họ Phạm lấy chúa Trịnh sinh ra Thuyên quận
công. Lúc Phạm thị sinh thuyên quận, thì Thuyên quận cứ khóc cứ liên tiếp thuốc
thang không khỏi, ở xã Bách Tính có Lê thị đi qua bế thì nín lặng. Khi bà Lê
thị mất chúa sai người lập đền thờ ở xã Thứ Nhất, có tế khí và văn bia ghi
việc. Nay ở xã Bách Tính còn mộ Lê thị và ruộng tế tự.
Bia ở
đền thờ sứ quân Kiều Công Hãn tại xã Hiệp Luật, vốn là xây ở vách tiền đường.
Năm Tự Đức thứ 3 (1850) sửa lại đưa ra ngoài, chẳng thấy có chữ gì cả, nhưng
kiểu cách bia văn tự rõ rệt vị trí trán diềm chân, không phải là đá tự nhiên.
Mộ cổ :
ở Dao Cù có mộ ông Tiến sĩ họ Phạm còn đền thờ ở Hoàng Xá Đại An. ở Thanh Khê
có mộ Nguyễn tướng quân. ở Cổ Tung có mộ Tiến sĩ Phạm Khắc Thận còn bia. Bài
“Điếu Cổ Tung Tiến sĩ Phạm công Khắc Thận” của Phó bảng khoa Tân sửu triều cuối
Nguyễn Đông La Đỗ Huy Uyển:
Đương
thì Tiến sĩ phụ thân vương,
Phó sứ
cầu phong bất thiểu mang,
Vạn Kiếp
binh cơ vô lự viễn,
Thiên
niên trung nghĩa hữu kỳ chương,
Loạn
quân nguyện tử kim tồn mộ,
Triều
nghị tiền sinh cổ diệc thường.
Quá thử
thỉnh trần tâm xổ ngữ,
Cung mông
vi ý thấu tuyền hương.
(Bấy giờ
Tiến sĩ giúp quân vương,
Phó sứ
cầu phong chẳng dễ dàng,
Đánh
giặc khinh thường quân Vạn Kiếp, Trung trinh còn biển chốn quê hương.
Loạn
quân liều chết bia ghi mộ,
Triều
nghị(1) bình sinh việc cũng xoàng.
Ai điếu
qua đây đôi chữ để,
Cúi mong
soi xét tới can trường).
[Chú
thích : (1) Triều nghị: Các quan trong
triều bàn bạc.]
Đền Tống
Hậu : Thờ vị hoàng hậu thời Tống. Đền dựng nên từ thời Lê do người buôn bán ở
Quỳnh lưu cư trú thờ tự, đến thời Lê Trịnh cũng có một số dân Quảng Đông ở, họ
lấy vợ người sở tại rồi không đi đâu nữa. Đông la Cử nhân triều Nguyễn Đỗ Huy
Cảnh có thơ vịnh “Ninh Cường Tống Hậu từ”:
Mạc
triều càn hải tứ gia nhân,
Sơ dĩ
thương lai kiến nhất lân,
Bốc trúc
mẫu từ tư hữu bản,
Hoa
hương chí đảo đắc ban ân,
Bắc
khách cửu cư mưu thú thiếp,
Nam nhân
diệc phụng khởi phương thần.
Thanh
đài cố sắc chiêm giai kính,
Giang
thị đồng lưu vạn thế xuân.
(Đời Mạc
bốn nhà ở Càn hải(2),
Buôn bán
thành ra có một làng,
Thờ Mẫu
lập đền do nhớ gốc,
Mong phò
thường nghị tới dâng nhang,
Lại còn
khách Bắc tìm đôi lứa,
Đến lễ
dân Nam chẳng rẽ riêng(3).
Dấu cổ
rêu xanh càng thấy thú,
Cùng
sông cùng chợ mãi thiêng liêng).
Sở tại
những người theo Gia Tô cũng nhiều lúc ra đền chùa lễ bái. Ông Đinh Duy Tú tổng
sư tổng Ninh Cường có dặn con cháu rằng:
Tu đâu
cho bằng tu nhà,
Thờ cha
kính mẹ mới là tu thân,
Rồi ra
đền lễ hương thần(4),
Xưa kia
khẩn đất cứu dân giúp đời!
[Chú thích: (2)Càn hải : nay là xã Phượng Cần, huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An.
(3)Đền này không riêng người ngụ cư lễ mà bản địa cũng đến lễ.]
(4)Hương thần tức Thành hoàng có công với dân chúng trong xã.
Văn chỉ hàng huyện: Tại xã Lịch Đông tổng Thần Khê, từ thời nhà
Trần, đã được dựng lên, chính giữa xây một ngôi miếu chữ đinh, sau một gian
dựng tượng Văn Tuyên vương bằng đá, trước ba gian, gian giữa thờ tứ phối thập
triết, hai gian bên thờ hương hiền. Hàng năm huyện quan và văn thân hàng huyện
tổ chức tế lễ long trọng. Thời Lê vẫn theo lệ ấy, nhưng từ giữa thời Nguyễn
người Tây sang xâm lược, tả đạo lấn chân khiến cho lạt vắng dần đi. Thơ của Trần Xuân Dục người xã Duyên Lãng đỗ Cử nhân khoa
Tân Mão năm Thành Thái thứ 3 (1891) có viết:
Thùy sử
như kim mỗi chí tư,
Thiên da
hà nhẫn bất lân dư.
Tây
phong suy tấu đông phong khứ,
Tòng thử
thôn trang mãn oán từ”.
(Ai lại
xui nên nỗi nước này,
Trời
chăng sao nỡ chẳng thương đây,
Tây
phong thổi bạt đông phong chạy,
Thôn ấp
bao lời tỏ đắng cay).
Miếu hai
ông Tiến sĩ họ Đào : Miếu dựng lên ở xã Cổ Lễ tổng Trung Lao từ sau khi con ông
mất, con cháu thờ tại nơi ở cũ, cuối thời Trần văn thân mới dựng lên ở bên
chùa, có lệ quốc tế do quan thủ hiến địa phương đại nhiệm, thể chế hơi nhỏ. Khi
vua Minh Mệnh Bắc tuần có cất tiền sức địa phương xây dựng to lên để thờ hai
ông cho long trọng. Hiên có câu đối:
Kim âu
xã tắc quân thần nghĩa,
Thạch mã
sơn hà phụ tử binh.
(Xã tắc
vững âu vàng, vốn bởi vua tôi giữ nghĩa;
Non sông
chồn ngựa đá, còn nêu phụ tử chi binh).
Bài “Quá
nhị đào công miếu nhân thi” của Phó bảng năm Tân Sửu (1841) niên hiệu Thiệu Trị
Đỗ Huy Uyển người xã La Ngạn huyện Đại An:
Minh
Mệnh niên gian đế Bắc tuần,
Ban tiền
hương miếu lệ hương nhân,
Nhược vô
học đạo thùy vi biện,
Tà chính
an năng tự khả phân.
Tang hải
hàn tâm bất viễn lâm,
Hoá nhi
đa hý cổ nhi câm
Tích thì
cân mãn anh hùng lệ
Tiền lộ
dân gian lịch thụ truân.
(Qua
miếu hai ông Đào nhân đề:
Khoảng
năm Minh Mệnh vua ra Bắc,
Khích lệ
ban tiền sửa miếu thờ,
Không
học lấy đâu chia thật giả,
Khuyên
người chăm chỉ việc thi thư.
Rùng
mình dâu biển đến nơi rồi,
Con tạo
làm sao quá mải chơi,
Mấy đọ
anh hùng khăn đẫm lệ,
Dân gian
còn khổ đến bây giờ).
Lúc này
ông đang Biện lý bộ hộ.
Chùa cổ
Thanh Quang : Chùa toạ lạc tại xã Phương Để, do người Tống di cư dựng nên khi
lánh nạn giặc Nguyên. Đến quãng niên hiệu Quang Bảo làm to lên, có một toà bảo
điện, trước sau phải trái nhà mái tiếp nhau, quy chế mộc mạc nếp cổ. Trong chùa
có hai cái choé, thân nhô hình rồng nổi, lại có một cái choé khác thân có chữ
phật, có lẽ do người Bắc quốc để lại. Còn có khánh đồng thời Lê mạt năm Cảnh
Hưng thứ 7, chuông đồng năm Gia Long thứ 18 ghi chép người công đức.
Cầu ngói
thôn Kênh xã Mạt Lăng tổng Trung lao, tương truyền dựng từ thời Lý, kéo dài 7
gian, rường cột, bức bàn đều bằng gỗ lim, xe ngựa xe, bò đi qua vẫn tránh người
qua lại được. Gian giữa kéo ngang 13 thước để thuyền lớn có thể đi qua được.
Bên đây bên kia có hai quán để nghỉ ngơi tại mé đường, trong quán còn bia Quang
Thuận thứ 2, bia Cảnh Trị thứ 4, Gia Long nguyên niên ghi việc tu sửa.
Đền Báo
Ân : Đền xây nên trên nơi ở cũ tại thôn Miễu xã Mạt Lăng, thờ ông Trần Nhật
Duật và mẫu thân ông là vương phi Vũ Thị Vượng, tức vợ và con của Trần Thái
Tông hãy còn mộ táng.
Xã Nam
Lạng có đền thờ bà Hoàng Thị Đậu, người xã Đắc Thắng huyện Thiên Bản về đây cho
dân tiền dựng nhà ở dạy nghề dệt chiếu cói. Thời Lê sơ được ban công tiền tu
sửa và chữ “Nhất đức cách thiên” (Sự nhân đức cảm thấu tới trời), câu đối:
Chí đức
tứ dân tiền, tụ chúng lai cư tuy vãng sự.
Hiếu
sinh khuyến chức tịch, nhưỡng thuần đồng ấp diệc kim mưu.
(Chí đức
giúp dân tiền, chiêu tập thành làng, việc đã trở thành câu chuyện cổ; Hiếu sinh
dạy dệt chiếu, hài hoà cùng ở để người cai tri nhớ hôm nay).
Lị sở
huyện trực Ninh : Huyện này vốn là một phần của đất huyện Tây Chân, huyện Tây
Chân triều Lý thuộc phủ Hải Thanh, đời Trần đổi ra Thiên Thanh, đến đời Trần
Thánh Tông đổi ra Thiên Trường, năm Vĩnh Lạc thứ 5 thời Minh đổi ra Phụng Hoá,
thời Lê lại lấy tên là Thiên Trường, đến Tự Đức 11 đổi ra Xuân Trường. Năm Minh
Mệnh 14 lấy các xã phía Nam sông Phù Kim (nay là Phù Ngọc) đặt Chân Ninh, phía
bắc sông Phù Kim vẫn giữ tên Nam Chân và đến Tự Đức 32 (1789) thì lệ vào phủ
Nghĩa Hưng, nhưng lại lấy huyện Phong Doanh huyện ý Yên lệ vào tỉnh Ninh Bình.
Lị sở huyện Trực Ninh chỉ có luỹ đất rào thưa bao bọc lấy ước mẫu rưỡi, trước
gọi Chân Ninh, năm Thành Thái thứ 2 (1890) đổi ra Trực Ninh, ban đầu lị sở ở
phía nam Cồn Cát thuộc xã Cát Chử, cuối đời Minh Mệnh rời về phía tây Cồn Cát
đến năm Tự Đức lại quay về chỗ nam Cồn Cát. Nơi này trông ra sông Nhị, bên trái
và phải đều có sông ngòi lưu thông nước. Phía tây lị sở có nhà học rộng ước 3
sào để quan huấn học cư trú khuyến học, trong nhà học cũng thiêt lập nơi thờ
Khổng Tử và Chu Văn An. Phía đông lị sở có xây võ chỉ trên khu đất ước 2 sào và
ruộng 5 mẫu, giao cho giám binh xướng suất lễ bái Trần Hưng Đạo khuyến thưởng
các sắc binh. Từ thời Minh Mệnh đến nay dân cư cày cấy buôn bán, một vùng đông
đúc vui vẻ hẳn lên ai cũng trông rõ.
Chùa Bảo
Quang xã Lương Hàn huyện Trực Ninh : Chùa thờ hai vị thiền sư Không Lộ và Giác
Hải. Tương truyền thời Lý hai vị đã tới nơi này mở cảnh, về sau hai vị Tế Mỹ
thiền sư, Tân Lang thiền sư là học trò của Không Lộ, định cư trở thành tổ đệ
nhất đệ nhị của chùa này. Nay chùa có ngày lễ tổ 20 tháng chạp và 14 tháng 2 là
ngày kị hai vị Tế Mỹ, Tân Lang. Trước đây có bốn pho tượng đá bốn vị, đến thời
Lê mạt bị giặc đốt, chùa cháy tượng hỏng, thời Nguyễn sơ làm lại bốn vị tượng.
Thời Lê sơ quan thủ hiến Sơn Nam đã ban tiền tu sửa(1).
[Chú thích : (1) Chùa này hãy còn một quả chuông niên hiệu Chính
Hoà 15(1694) có bài minh của tiểu tăng Pháp Hiển soạn (giáp Tứ xã Quần Hàn
huyện Tây Chân phủ Thiên Trường.]
Văn từ
của phủ : Tại điạ phận xã Thái La tổng Bảo Ngũ, chung quanh xây gạch, gác gỗ
lim lợp ngói vẩy, có tượng thờ. Tượng tiên thánh áo mũ, quan Đại tư khấu, tượng
tiên hiền mặc triều phục, có chính từ, có tả hữu vu, tương truyền hình đồ nghi
vệ lấy mẫu ở Bắc quốc đem về. Ngoài sân hai bên cổ thụ râm mát cao hằng trăm
thước, hoa hương các mầu chen nhau khoe sắc. Bài của Tân Sửu khoa Phó bảng Đông
La Đô Huy Uyển Nghĩa Hưng Văn Từ :
Nhân
sinh thức tự khởi dung vô,
Khuyến học
tòng lai bất ngã ngô,
Tiên
thánh tiên hiền giai trí tượng,
Bắc
phương bắc phục thuật di đồ,
Môn hình
chuyên ngoã phong quang hảo,
Thụ ấm
thanh tiên quảng đại cơ
Diệc thị
tồn hồ lưu huấn hậu
Quân
thần phụ tử vịnh thi thư.
(Văn từ
phủ Nghĩa Hưng:
Người đời
biết chữ há nên chăng,
Khuyến
học ta ngô vẫn đạo hằng,
Tiên
thánh tiên hiền coi có tượng,
Bắc
phương bắc phục kiểu đều cùng.
Chữ môn
gạch ngói đều to rộng,
Bóng mát
cây hoa thấy nhẹ lòng.
Gìn giữ
dạy cho người nối tiếp,
Quân
thần phụ tử nếp gia trung).
Ở xã
Hiển Khánh có đền thờ vua Lý Nhân Tông.
Xã Lại
Xá tổng Hiển Khánh có đền thờ Trung Vũ vương Trần Thủ Độ. Câu đối của Phạm Văn
Hài người xã Tam Đăng đỗ Cử nhân năm Tự Đức Kỷ Mão:
Phả
thuyết cựu thì doanh, Trung Vũ trí lương phòng Bắc tặc.
Mục tiền
Trần thúc miếu, anh hùng hữu phận trấn Nam phương.
(Phả vẫn
truyền rằng, Trung Vũ vương doanh trại thuở xưa, đồn trú quân lương chống Bắc ;
Mắt đang trông thấy, Trần thúc phụ miếu đền còn đó, anh hùng trấn giữ cõi Nam).
Xã Đồng Kĩa tổng Trình Xuyên có Lăng ông Bùi Vũ Tương, làm quan thời Lê mạt, có
ngựa đá người đá, tường vây bề thế to lớn, bia ghi chép việc tế lễ tên người
thiện tín ở bốn phía. Bài “Bùi Vũ công lăng” của Đỗ Huy Cảnh đỗ Cử nhân Hộ lý
Tuần phủ người xã La Ngạn huyện Đại An thời Nguyễn:
Vũ công
từ ái thế vô song,
Lê mạt
vi quan biểu nhất trung.
Sinh
giải phương dân bần nhược bệnh,
Tử năng
huấn hậu hiếu thuần phong.
Nhị hằng
nhân mã cư lương địa,
Thiên tự
phân minh giáo lễ cung.
Kham
thán nhi tôn thường vọng ngoại,
Khởi do
thế đạo đảo huyền trưng.
(Vũ công
từ ái thật vô song,
Lê mạt
làm quan giữ chữ trung,
Sống
giúp khó nghèo dân nhớ mãi,
Hoá
gương hiếu nghĩa dạy ghi lòng.
Hai hàng
người ngựa lăng quê quán,
Ngàn chữ
phân minh nếp lễ cung.
Đáng
tiếc cháu con hay hướng ngoại,
Cuộc đời
điên đảo khiến nên chăng).
Tại xã
Tiên Hương có ngôi mộ cổ, bốn phía cây cối xanh tốt um tùm chầu lại, không khí
mát mẻ, cảnh sắc u tịch, tương truyền là mộ công chúa Liễu Hạnh, có bia đá nhỏ,
mộ chí không còn chữ. Nhân dân trong vùng, làng xóm các nơi mỗi khi có tật bệnh
thường ra đó hái lá bẻ cành đào gốc rễ cây về sao sắc uống, khỏi bệnh rất
nhiều. Thường thì ai muốn hái là đến mộ thắp hương, chắc chắn sẽ khỏi, nếu
không thắp hương buông lời nhạo báng thường bị ốm đau, đem lễ đặt bên xám hối
thì lại như xưa. Lễ thì chỉ có hương hoa trầu nước chứ không cần phải gì cả.
Chuyện kể rằng có con một vị đại quan vào mộ nghịch ngợm, trở về đau ốm, liền
cho tuỳ tòng đặt lễ rất to khấn vái kiêu ngạo, trở về quan ông quan bà cũng về
sốt rét từng cơn, thuốc men không khỏi nữa. Thân sinh quan ông bốc đồng phán
bảo, quan ông phải gượng lên xe thân hành dùng lễ trầu nước sám hối, bệnh tật
khỏi tức thời, về tới nhà cả vợ con đều khỏi. Đến thời Minh Mệnh quan bản huyện
có sai người lấy gạch xây viên khu mộ và mộ, lại xây bệ gạch nhỏ cho người đặt
lễ. Tại cổng cột có câu đối:
Hoa thảo
sao chiên năng liệu bệnh,
Kính
thành tuỳ phục tức an khang”.
(Lấy cỏ
hoa sao sắc mà dùng, bệnh tật xem ra đều khỏi cả ;
Lòng
thành kính tới nơi cầu vọng, uống vào chắc hẳn sẽ yên lành).
Ở xã Lại
Xá có ngôi mộ cổ, khu đất rộng quãng một mẫu, mộ và đất đều có đá xây vây, có
cột gạch ở lối cổng vào. Tương truyền là lăng bà chúa không biết rõ sự tích đầu
đuôi ra sao cả. Gia phả họ Lê Tung (Dương Bang Bản quê ở xã An Cừ Thanh Liêm,
đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân niên hiệu Hồng Đức thứ 15) chi bính ở Lại Xá viết
bài thơ do Lê Tung vịnh: “Lại xá cổ mộ:
Bất tri
cổ trủng tự hà thì, Thạch hạn do tồn tứ bích vi, Chính trí nhất lô hoàng thỏ
chiếu, Biên bao tam diện bạch ô khuy. Cát đằng vi tản thâm canh ám, Dung thụ
thành gia đại vũ khi. Thanh điểu vãng lai tần báo tín, Thiên niên thường tại
chấn linh uy. (Mộ cổ Lại Xá:
Chẳng
hay mộ cổ tự bao giờ, Vây đá còn đây bốn mặt trơ, Soi một bát nhang con bạch
thỏ, Nhòm bao ba mặt cái kim ô. Đêm khuya che tán lùm dây sắn, Mưa nắng hề chi
dưới gốc đa, Qua lại chim xanh thường mách lẻo, Ngàn năm vẫn đó tiếng thiêng
ghê).
Ở Vân
Côi tổng Vân Côi, ở Nguyệt Mại tổng Trình Xuyên hạ đều có đền thờ Lã Gia. Tương
truyền La Giã(1) quê ở Hoằng Hoá Thanh Hoá, bố tên là Lã Cát, mẹ là Trần Thị Lan.
Lớn lên Lã Gia theo bố về ở Bùi Trung tổng Hiển Khánh sau làm quan tể tướng nhà
Triệu, lúc bại trận bị quân Hán đuổi chạy về đến núi Gôi thì chết, có ngày hội
vào 10 tháng 7. Có lệ đấu vật, rước từ Vân Côi đến Nguyệt Mại năm nay, thì sang
năm lại rước từ Nguyệt Mại đến Vân Côi, cả hai nơi đều rước về Bùi Trung, qua
đền bà hàng nước ở Vân Côi rồi rước về lễ tạ.
[Chú thích : (1) Lã Gia (năm 111 trước công nguyên). Hán thư: Lã
Gia bại trận bị bắt ở huyện Hoạch Gia. Sở dĩ gọi tên Hoạch Gia là vì nơi này
từng bắt được tể tướng Lã Gia, như vậy Lã gia bị bắt ở Trung Quốc tại phía bắc tỉnh thành Quảng Đông hiện nay.]
Ở Vân
Cát (xưa là An Thái) có ông Lê Đức Chính lấy vợ là Trần Thị Phúc. Ông bà chuyên
làm việc thiện, năm 40 tuổi mới sinh được một trai là Đức Lâm, sau bà Trần lại
có thai, sau 10 tháng mà vẫn chưa sinh, đến ngày Giáp Dần tháng 3 năm Thiên Hựu
thứ nhất (1557) đang lúc buồn rầu, ông Lê mơ thấy lên thiên đình, thấy có lực
sỹ nói với
ông con
gái thứ hai của Ngọc đế tên là nàng Quỳnh, vì đánh rơi chén ngọc nên bị khiển
trách đày xuống cõi trần. Khi ông tỉnh lại được một lát thì bà sinh một gái,
không khác cô gái trong mơ ông bèn đặt tên là Thắng hiệu là Giáng Tiên. Thắng
là hơn kẻ tầm thường, Giáng Tiên là nói việc trong mơ. Lớn lên lấy chồng người
cùng làng tên là Trần Duy Đào, sinh được một gái. Năm 21 tuổi ngày 3 tháng 3
Giáng Tiên vô bệnh giã cõi đời, gia đình đẻ và bên chồng phiền muộn đem mai
táng ở cồn Cá Chép (1). Song Giáng Tiên đôi lần vẫn hiện về uý lạo cha mẹ rằng
người ta có số không thể trốn tránh được, lại thường hiện ra chỉ bảo người thôn
làm thiện, phương dân liền đem hoa hương đến tư thất lễ bái, đến năm Cảnh Trị
thì xây to lên và sự linh ứng cũng lẫy lừng. Từ đó cứ vào tiết tháng 3 từ mồng
1 đến mồng 10 các làng thôn đều đổ về lễ bái cầu đảo thấy sự linh thiêng rõ
rệt. Thời Lê có sắc phong Liễu Hạnh công chúa, rồi Tề gia trị quốc, diệu hoá
anh linh, phổ tế chân tiên Mã Vàng công chúa. Nay có Cử nhân khoa Tân Mão Trần
Bình Hành là dư duệ của công chúa vậy.
[Chú thích : (1) Cồn Cá Chép: Tức nơi có lăng đá hiện nay. Lăng đá
xây năm 1938 do Xuân kinh phổ hoá Đào chi đệ tử Lê Thị Tâm Linh, Lê Thị Tâm
Hảo, Lê Thị Tâm Kính và cả hội (theo bia ở lăng).]
Đền xã
Bối Tuyến (2) (năm Gia Long đổi ra Bồi La) thờ Cường Bạo đại vương. Chuyện kể
rằng vào thời Ngô vương ở trại Hoàng Quất có ông Phùng Duyệt có vợ là Bạch Thái
làm thuốc nam sinh sống, ngoài 60 tuổi ông Duyệt trong đêm mưa gió mơ thấy có
người xin đến làm con. Ngày 3 tháng chạp năm Tân Sửu (941) bà Thái sinh được
một con trai đặt tên là Bạo. Năm Bạo 3 tuổi thì bố mất, 9 tuổi vì nhà nghèo quá
Bạo phải đi ăn trộm nuôi mẹ, bà Thái buồn rầu sinh bệnh mà mất. Vua Đinh nghe
tiếng triệu vào triều, cho quan chức, khi giàu có ông Bạo đem tiền của giúp đỡ
quê hương. Một lần ra đồng xem lúa bị sét đánh chết mối đùn thành mộ. Vua Lê
Đại Hành ban sắc phong là nhân từ hiếu thuận tế an dân Cường Bạo đại vương cùng
500 lạng bạc cho con cháu, lại cho binh lính xây đền thờ tại nơi ở cũ. Năm
Thành Thứ 4 (1892) ông hiển thánh để dấu chân bên mộ, được quan sở tại đề tấu
được vua ban chữ “Vạn cổ linh từ”. Bài của Thanh Liêm An Cừ Tiến sĩ Lê Tung:
Tằng văn
kim thủy đáo linh từ,
Cửu
ngưỡng Phùng công quả hữu dư,
Sơn thủy
trát doanh phù đế thống,
Quất
hương đế cấp khuyến canh sừ.
Nhân hoà
Đinh đại thiên phương chấn,
Đố kị
Lôi công đạo phủ trừ,
Tứ
nguyệt mỗi phùng sơ thập nhật,
Hương
hoa tề hội tại ư tư.
(Nghe
lâu nay mới tới đền,
Phùng
công có thật ở trên đời này,
Đóng
quân non nước còn đây,
Quất
hương giúp khó khuyên cày tự lo.
Thời
Đinh nhân đức tiếng to,
Thiên
Lôi rình trộm đánh cho một rìu.
Mồng
mười tháng bốn vẫn lưu,
Hương
hoa tụ hội dân vào cầu xin).
[Chú thích : (2) Khi ông Cường Bạo làm quan mới đổi Hoàng Quất ra
Bối Tuyên.]
Đền Tam
Danh [Tam Ranh] : ở xã Bảo Ngũ có nhà đẻ ra được ba anh em, chân tay thân thể
khuyết lẹm, hình hài đáng sợ, cha mẹ bèn đem chôn đi mỗi đứa một chỗ. ít lâu
sau thấy có linh ứng, thầy phù thủy bèn rước về thờ.
Tại xã
Bảo Ngũ, họ nhà Ngô có ngôi mộ tiên tổ, do vị Phong Thủy tiên ông đặt cho tại
khu miếu cấm thôn Thông Khê xã Đồng Đội, đời sau sinh được gái là Ngô Thị Ngọc
Đài. Ngọc Đài có sắc đẹp thông minh hát hay, ban đầu lấy Tráng quận công có một
con trai, Tráng quận công mất, Trịnh Thành tổ thấy có tư sắc tuyển vào cung, bà
sinh ra con trai là Văn Tổ và Nghị Tổ. Lần về quê bà xin chúa miễn cho xã Đồng
Đội xã Bảo Ngũ tô thuế. Hiện còn bia và sắc.
Miếu Bảo
Ngũ thờ Điền quận công, ông là em trai của Ngô thái phi. Niên hiệu Vĩnh Khánh
(1729 – 1732), đê Kim Tông bị vỡ, ông vâng mệnh đem quân đi đắp, cả vùng Đại An
nhiều chỗ xung yếu, hễ đắp vào rồi thì có cá to dài cả trượng xô cứ đâm vào cho
vỡ ra. Ông liền ngồi trên thuyền quan sát, khi đền trước miếu Đặng thủy thần đê
Kim Tông thì thuyền bỗng quay tròn không đi được muốn úp sấp, rồi thì phía
trước có chiến thuyền cờ quạt xông lại gây chiến. Điền quận công vốn tinh thông
pháp thuật, liền chống kiếm dẫm lên cái chén niệm chú, thúc quân tiến lên đánh
dẹp, ước độ một canh thì chiến thuyền đều biến đi cả. Lát sau ông và mọi người
lại thấy cá rùa lớn bé quấy phá đê mới, ông giận sai lấy vôi sống giáo dài đâm
giết, lại đóng cọc gỗ tre đóng sâu đan chéo rồi đắp đê mới yên ổn, cá to, rùa
giải chết nổi rất nhiều, ông sai vớt lên xào nấu ăn mừng. Khi về nhà bỗng nhiên
ông bị sốt rét rồi chết, vua ban sắc phong lập đền thờ có câu đối ngự chế:
Phụng mệnh
bất tín vu, duy dĩ bảo đê vô đạn hiểm ;
Vong
thân năng đắc sự, nhật tư quyết thắng khởi ưu hiềm”. (Vâng mệnh chẳng tin đồng,
cốt giữ được đê dù vất vả ; Quên mình cho được việc, đã làm quyết thắng gạt lo
phiền).
Chẳng
bao lâu ở trong miếu có người tự xưng là Điền quận nói : “Ta bị thủy thần độc
thủ xin chị cấp cho quân mã thuyền chiến để báo thù”. Thái phi liền làm minh
khí đốt đi hôm trước thì hôm sau ở quãng sông trước cửa đền Kim Tông thấy có
rât nhiều thuyền bè cờ quạt đánh nhau, nước nổi sóng lớn, gió cuốn mịt mù, cá
tôm thuộc thủy tộc chết nổi, hoặc thân nát bét, hoặc mất đầu rất nhiều.
Thôn
Bích có miếu thờ Hậu Tắc (thôn Bích Cốc tổng Phù Lão). Miếu xây trên khu đất
cao, nơi thờ có một bát nhang, trên có cái lầu tám mái chụp lên, lầu bốn mặt
trống trải, nền lầu mỗi chiều hơn 1 trượng. Có 5 bậc gạch mới bước lên lầu,
biểu tượng ngũ hành. Bốn phía khu đất miếu có tường vây quanh mỗi chiều bốn
trượng, tường vây mở ra bốn cửa. Hai bên cửa có câu đối, tất cả 12 cột hoa
biểu, đầu cột đều có quả dành.
Xã Phú
Lão tổng Phú Lão có đền thờ Phạm điện suý triều Trần, tương truyền đương thời
ông từng đóng quân xây kho thóc tại nơi này. Câu đối của An Cừ Tiến sĩ Dương
Bang Bản thời Lê sơ:
Kháng
Nguyên kiến túc thương phụng thượng tướng quân vi trúc luỹ ; Tế cấp ban tiền
bạch, thắng hồi Hoàng Lão thiết hoan diên.
(Chống
Nguyên xây dựng kho lương, vâng mệnh tướng quân rào luỹ trúc ;
Cứu khó
giúp cho tiền vải, thắng qua Hoàng Lão tiệc ăn vui).
Phú Lão
thời Trần về trước gọi là Hoàng Lão, từ nửa thời Trần về sau gọi là Trúc Khố
(Kho), thời Lê đổi ra Phú Lão. Bài “Xã Trúc Khố” của Đại An Đông La Cử nhân Đỗ
Huy Cảnh:
Xã danh
Trúc Khố tự Trần thời,
Phạm
tướng đồn lương nhật vãng lai,
Túc trữ
dĩ phòng quân tất dụng,
Trúc vi
duy ngự tặc lâm tai.
Bất tri
cựu trạch kim hà phụ,
Đãn kiến
điền từ cổ lệ khai.
Thành
giả vi thần nhân thị trọng,
Thử
trung dung hạ tức vong hồi.
(Xã Trúc
Khố tự thời Trần,
Đồn
lương tướng Phạm nhiều lần qua đây,
Thóc
dành quân dụng cho hay,
Tre vây
chống giặc cách này phòng xa,
Đất xưa
nhìn kỹ chẳng ra,
Mắt
trông đền cổ dân ta tôn sùng.
Là thần
bởi việc thành công,
Bóng đa
tránh nắng quên không trở về).
Huyện lị
Đại ác : Vốn đầu ở xã Đông Ba rồi dời về xã Đồi Trung. Nay tại xã Đông Ba (La
Ngạn, Vỉ Nhuế) còn tên xóm Dinh, phía bắc có khu đất Vườn Kho, Cánh Khảo, Ngõ
Vua nơi có điện Kính Thiên còn rất nhiều gạch; Phía nam có khu đất của Dinh,
luỹ Thành. Nơi xã Đồi Trung (phía tây xã Đồi Trung tổng Đồi Trung) có đất Vườn
Huyện, Nền Xá, cánh nhà Học nơi có mộ phát tích của họ Vũ nhà ông Lộng Điền
Tiến sĩ Vũ Huy Trác(1). Câu đối ở tường miếu mộ:
Vũ gia
bất cải tiên khai mộ,
Huyện sở
do lưu thủy định cơ.
(Họ Vũ
không đổi thay ngôi mộ tổ tiên đất cũ; Đất Huyện nên nhớ mãi, nơi nhà mới ở họ
ta).
[Chú thích : (1) Vũ Huy Trác: Nay còn nơi thờ ở thôn Lộng Điền xã
Nghĩa Đồng huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. Trong có tranh vẽ ông nghè Vũ bằng
vải.]
An Trung
cổ tự : Chùa có hiệu là Phúc Lâm cổ tự, tương truyền xây dựng từ thời Triệu Đà
trên ấp Đào Khê, tiền đường một bên có tượng Đức Ông, một bên là tượng ông Văn
Giang người lập ấp Đào Khê. Các đời vua chúa đóng góp nhiều tiền tu sửa cho to,
nay bia cổ to có hơn chục cái, chuông to có niên hiệu Thuần Phúc cao 2 thước
rưỡi không kể quai treo chữ nêu Mạc Tuyên tông đệ nhất cung cúng 10 lạng bạc,
Tuy quận công họ Tạ cúng 5 lạng bạc. Thời Lê Chân Tông chúa Nguyễn tới núi Dục
Thúy đêm nghe thấy tiếng chuông, hỏi ra cho là lạ, chúa đến xem nói, sở tại sợ
bèn đục lỗ thủng hai bên để giảm bớt tiếng kêu, khi nội loạn dân bèn khiêng
quẳng xuống giếng phía bắc chùa. Hằng năm chùa mở hội vào mồng một tháng hai,
sư các nơi trong phủ về tụng kinh lễ bái, dân chúng đem cúng tiền gạo dâng
hương hoa kể có hàng vạn. Câu đối nơi thượng điện:
Cổ tự vi
tri hà nhật tạo,
Chinh
Chiêm Phật Mã Lý thời lai.
(Chùa
xưa chẳng biết năm nào dựng,
Thời Lý
Phật Mã đánh Chiêm qua).
Chùa
Đỉnh Minh(1): Tại xóm Trung xã La Ngạn, có bài vị và tượng thờ vợ chồng ông Lê
Phụ Trần tướng thời Trần, xưa đã về đây ở và giúp dân chấn hưng làng xã. Trong
chùa có bia ghi việc.
[Chú thích : (1) Đỉnh Minh: Cái vạc khắc chữ. Chùa thuộc xã La Ngạn
tổng Vỉ Nhuế huyện Đại An.]
Đá lớn
xã An Hạ : Trong xã có phiến đá dài 12 thước rộng 7 thước 5 tấc, hình cái dép
có lỗ xâu quai, còn vết chân dẫm rõ lốt các ngón chân và gót chân. Vào thời Tây
Sơn năm Tân Dậu (1801) ban ngày không mưa có tiếng sét lớn đánh vỡ một góc dài
ước thước rưỡi. Thơ vịnh của Nguyễn triều Tân Sửu khoa Phó bảng Đại An Đông La
Đỗ Huy Uyển: “Minh Không lý tích:
Lý gia
Điềm Xá thiền sư,
Đảm ngư
tương mãi khứ quy quá thì,
Kim tồn
nhất lý do di,
Tại An
Hạ xã cổ hy vi kiều,
Giang
tây Yên Vệ lộ điều,
Hữu di
nhất thạch diệc triều đồng phương.
Thôn
trung phạn vũ tự tường,
“Minh
Không cổ tích” niên trường kế thiên!
(Vết dép
sư Minh Không:
Quê Điềm
Xá Nguyễn thiên sư,
Lý triều
bán cá đi về qua đây,
Đánh rơi
chiếc dép chốn này,
Đá cầu
An Hạ đêm ngày thấy luôn,
Tây sông
Yên Vệ đầu thôn,
Cũng rơi
chiếc dép đều trên một đường.
Chùa
làng còn chữ nêu tường
“Minh
Không lý tích” dễ thường ngàn thu).
Miếu cầu
phong ở Đại An: Miếu này thuộc xã Đại An (sau đổi ra Thụ Triền, năm Thiệu Trị
thứ 3 (1843) đổi ra Thụ ích thuộc tổng Thanh Khê), có gác ba tầng nên gọi là
đền Tam Toà, thờ Long vương và Phong bá, thuyền bè qua lại đều vào dâng hương
cầu đảo. Thơ của Tự Đức Kỷ Mão khoa Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân đệ nhất danh,
quê ở Đông La Đại An Đỗ Huy Liêu:
Bất tri
thị phủ tự Trần thì,
Nhất các
tranh vanh cận thủy my,
Phong bá
thủy thần tương tế hộ,
Vãng lai
hương khách đính hương kỳ”.
(Tự thời
Trần có phải chăng?
Chênh
vênh một góc trên vùng bãi sông.
Thủy
thần phong bá chung lưng,
Giúp cho
thương khách một lòng kính tin).
Cô gái
Đồi Hạ : Cô này nhà có hai chị em, cô lớn tên là Trần Thị Đanh, cô nhỏ tên là
Trần thị Ngọc, bố của hai cô lấy mẹ của hai cô đẻ được hai gái, rồi ông xuống
Đào Khê ở với người anh ruột đi làm thuê. Nhà nghèo một hôm cô Ngọc đi bắt cáy,
thấy cây sung ở bờ sông nơi đất phía đông chùa Phúc Lâm có hoa, cô hai lấy ăn
vào rồi trở lên rất đẹp. Niên hiệu Vĩnh Tộ thời Lê Thần Tông cả hai cô đều lấy
thủy quận công Lê Hoằng Nghị sinh được mười người con trai, nay họ Trần ở xã An
Hạ (Đồi Hạ) tổng An Trung thượng đều là con của bà Trần Thị Đanh cả. Con bà
Đanh vốn họ Lê, song vì họ Trần An Hạ không có ai là con trai cả, nên ông Lê
mới cho 4 con trai bà Đanh theo họ Trần. Ông Lê đem tiền sửa đền chùa xã Đồi Hạ
xã Đồi Trung, được dân xã Đồi Trung tạc tượng ba ông bà thờ ở nhà tổ. Nay ba
ông bà còn mộ xây ở tây nam chùa, cổng tường vây có câu đối:
Tu tự
đắc dân lưu thạch tượng,
Tế dân
nội tự hữu duyên phần.
(Sửa
chùa dân chúng tri ân, tạc ngôi tượng đá; Giúp dân chùa làng nhớ đức, xây dựng
mồ cao.
Trúc đá
làng Tam Đăng: Phía tây làng có khu miếu trúc rộng hơn chục mẫu, cây to dài từ
10 đến 15 thước rất đẹp, dựng nhà thường chọn loại to dài óng để làm ruỗi, trúc
cứng cây ít bị cong vẹo. Cây thường xanh tốt bốn mùa, thấy có linh khí rõ rệt,
phía bắc có chùa Lở, phía tây có đền Vua, phía nam nhà dạy học của ông Phạm và
chùa Đồi, dân làng thường chặt bán cho người đóng giường làm nhà. Ba năm mở hội
đền Vua thì chặt cây nhỏ làm gậy để cho trẻ tập trận cờ lau, lau thì mọc nhiều
ở cánh ruộng phía bắc đền. Quãng niên hiệu Chiêu Thống trở đi, trúc bỗng nhiên
lụi hết, đến năm Minh Mệnh 16 (1835) trúc mới mọc lại xanh tốt như xưa.
Văn từ
nơi sở lị cũ : Tại xã Đồi Trung tổng Đồi Trung phía tây nơi huyện sở cũ, khu
đất này rộng ước 6 sào, bao quanh có tường mở ra ba cổng, có 10 cột hoa biểu,
chính giữa có một lầu đá 8 mái thờ 5 pho tượng đá, bốn lầu gạch chia ở hai bên
thờ các ông hiền đều có thạch vị, tả hữu hành lang 10 gian, hành lang bên phải
có 10 bia ghi các vị hương hiền và người công đức, hành lang bên trái có hai
bát nhang đá, một bát thờ 72 vị hiền, một bát thờ các đệ tử có hai thạch vị(1).
Cả năm đôi lần lễ bái lá rụng rêu che, đa si phủ bóng bốn mùa, tuy có vẻ hoang
lương mà bề thế vững chắc. Tự Đức Kỷ Mão khoa Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân đệ
nhất danh Đông La Đỗ Huy Liêu viết bài “Cổ lị văn từ”:
Đại An
cổ lị hữu văn từ,
Mục kiến
thanh đài cái thạch lư.
Nhất
tháp nguy nhiên chư thánh tượng,
Tứ lâu
tĩnh trấn liệt hiền sư,
Xổ hàng
ngoã ốc bi minh tại,
Thập vị
hương nho tính tự dư.
Nhược
bất hướng tha khi cựu tục,
Vạn niên
Nam quốc vĩnh tôn tư.
(Nơi lị
sở Đại An thuở trước,
Còn văn
từ còn cả thạch lư (2),
Trang
nghiêm một tháp thờ chư thánh,
Ngạo
nghễ bốn lầu kính hiền sư,
Nhà ngói
hai hàng bia khắc chữ,
Hương
nho mười vị họ tên dư (3).
Nếu
không hướng ngoại coi khinh gốc,
Non nước
người Nam vững vạn thu).
[Chú thích : (1) Thạch vị: Bài vị bằng đá, phiến đá viết tên hiệu
người được thờ.
(2)Thạch lư: Bát nhang đá.
(3)Họ tên dư: Đủ cả họ tên.]
Đền Vọng
Trung tổng Vỉ Nhuế, đền Đông Khê tổng Thanh Khê, đều thờ ông Trần Khánh Dư. Ông
Trần là người khẩn đất ban đầu, sau có hai tướng của ông Trần là ông Bùi, ông
Nguyễn kế tục sự nghiệp. Thời Lê sơ đã có sắc phong, cấp công khố mở to nơi thờ
tự, theo lệ cổ thường vào cuối năm chọn ngày tốt làm tiết khánh hạ, cứ năm nay
Vọng Trung rước tới Đông Khê, thì sang năm Đông Khê lai rước tới Vọng Trung, cứ
bốn năm một lần quan phủ về tế, năm này dân hai nơi đều góp gạo ăn cơm ở sân
đền, nên hai đền này đều có một cái phong đình 5 gian, ở phía trước sân đình
mái cong, trống bốn phía để đặt các mâm cơm cho mọi người trong xã ăn uống,
ngoài phong đình có hai dãy giải vũ, mỗi bên 5 gian cũng để phục vụ ăn uống,
giải vũ xây kín ba mặt, còn mặt trong trông ra sân thì để trống. Cùng hương vị
với đền có 5 gian là nhà bếp, trước bếp có ao để rửa. Tương truyền thời Lê có
lệ bốn năm một lần cử người về đền Thượng Duy Tiên lễ tổ, sang thời Nguyễn thì
bỏ lệ ấy. Đất ruộng tế tổ có mỗi đền một mẫu, thời cuối Lê cả hai đền đều bị
tàn phá, Nguyễn sơ lấy bớt ruộng tế lệ, rồi quan lại sách nhiễu, do thế đền thì
nhỏ đi, người thì quên nhãng hướng ngoại, chẳng lẽ không còn xuân thu qua lại?
Mộ cổ Vỉ
Nhuế: Tại xã Vỉ Nhuế, ở phía bắc có miễu cây um tùm, phía đông miễu có ngôi mộ
từ dưới lên trên đều ghép bằng đá, trên mặt có lan can, giữa có bát nhang tục
gọi là mộ quan hầu, không rõ từ đời nào. Ai kính cẩn cầu sẽ được âm phù, ai phỉ
báng tất thấy sự trừng phạt, không ai dám động đến.
Lâm
giang thủ tướng : Năm Lê Đại Bảo thứ 2 (1441) nước lớn ở núi Đồng Cổ, cây cối
đổ gẫy khá nhiều, có cây trôi về đến bến Hưng Nghĩa, tổng Hải Lạng rồi không đi
nữa. Có người kéo lưới vướng phải kéo đi chỗ khác, nhưng lại trôi lại chỗ cũ,
một đêm mưa gió, sấm sét dữ dội, cây gỗ bỗng đứng dựng lên ai lay cũng không
nổi. Trong làng dân chúng không yên, hôm sau thấy trên đầu gỗ có người mặc áo
đỏ tự xưng là Phạm Cự Lượng từng đóng quân ở nơi này, bảo kéo gỗ tạc tượng mà
thờ thì sẽ yên lành. Đời sau có sắc phong là “Lê triều công thần Phạm tướng
quân gia phong Lâm giang thủ tướng tôn thần”.
Thủy
thần dị truyện : Thần vốn tên là Đặng Dung, thờ tại bờ sông Mờm thuộc xã Ngọc
Chấn tổng Ngọc Chấn, thần là tướng thời hậu Trần, từng đóng quân chặn quân Minh
và cứu thổ dân bị lụt lớn vỡ đê. Thần thác danh thủy thần, được vua Hồng Đức
phong là Bát Hải Long vương bảo quốc hộ dân Đặng tướng quân thượng đẳng phúc
thần, có lệ quốc tế, phàm cầu nắng cầu mưa cầu phúc giải tai đều linh ứng rõ
rệt. Thời Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ nhất, vua tụ tướng đánh Chiêm Thành,
qua đền mơ thấy thần dâng kiếm, mùa xuân năm sau thắng giặc trở về ban tiền xây
to đền. Thời Tự
Đức khi
Bắc thành trở thóc vào Huế, ban chiếu phong cho Đông Hải đại vương và Kim Tông
thủy thần bảo vệ thuyền biển, khi thuyền đến chỗ đền Tiên Thanh Hoá, thần Kim
Tông nổi bão đánh chìm hết, thần Đông Hải báo mộng cho Tự Đức, Tự Đức nổi giận
sai quan về cưa chân nhang án chính vị, đem kê gạch để phạt tội. Tháng 7 năm
Thành Thái thứ 2 (1890) nước to đẩy hoả thuyền của người Pháp vào bãi, quan phủ
Lê Huy Phan đốc người kéo không nổi, ông vào đền cầu đảo xin thần giúp đỡ cho
dân khỏi vạ, nửa đêm thần nổi gió dâng nước đẩy thuyền ra sông. Lại nói trước
đền có quãng sông ngang, năm nào cũng có cá to đến trước đền, vùng vẫy có khi
một ngày, có khi hai ba ngày mới đi mà không phá hại gì cả. Việc này hay vào
ngày đại lễ hoặc khánh hạ, mấy năm gần đây thì không thấy nữa. Tới quãng năm
Duy Tân có đôi lần tả đạo phỉ báng, vào ngày lễ rước thần, thần cho xoay kiệu
chạy xéo tan hết lạc ngô để trừng phạt, do đó tả đạo cũng có phần nào nhụt bớt
càn rỡ.
Miếu ông
Đô : Ông Đô tức Hà đê đô uý hay còn gọi là quận Điền, thời Lê Vĩnh Khánh ông
đốc việc đắp đê thuộc các tổng, Ngọc Chấn, Thanh Khê, Vỉ Nhuế, Hải Lạng, công
của ông rất lớn, nên khi ông bị ốm mất, triều đình cử ông Lê Văn Trinh chức hà
đê đô uý thay ông quận Điền, xuất công khố xây 10 ngôi miếu ở các thôn ven đê
thờ quận Điền, các đời đều có sắc phong.
Đá trôi
làng Điềng : Tại khu Điềng xã Vụ Sài có một con cừ chảy từ sông Trạng Vĩnh vào,
năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) bỗng có tảng đá nổi dài 4 thước rộng 3 thước theo
con cừ trôi vào, dân làng không yên mà lại có câu đồng dao:
Làng
Điềng có Ninh Xuyên hầu,
Sao
không cầu khấn đi chầu chốn đâu,
Đá trôi
là dấu khởi đầu,
Nơi ngồi
trị thủy chưa lâu đấy mà.
Vụ Sài
thủy bá tên ta,
Dựng đền
thờ tự ắt là sẽ yên.
Dân làng
nghe theo quả thấy người của tốt lành.
Đông Cao
thần cầu : Tại xã Đông Cao tổng Trạng Vĩnh có một dòng nước chảy quanh co bọc
lấy một gò đất cây cối um tùm, chim chóc tụ hội, nhiều năm làng thôn ngập lụt
lại phải đi thuyền ra đó trú ngụ. Vào thời Lê trung hưng bỗng thấy ba quả cầu
theo thủy triều trôi vào bên gò, dân xã mơ thấy thổ thần báo mộng đó là dư cốt
của long tử thứ tư bị trời phạt, vì năm trước cứu dân khỏi lụt, nên dựng đền
thờ để báo lại. Dân xã bèn xây đền lên để thờ, mỗi khi có lụt hạn, thì đem ba
quả cầu ra để ném vào cái giếng trước đền, ước vài ba ngày tất có ứng nghiệm.
Đất vùng này vốn là do dòng cả họ Ngô, dòng dõi ông Ngô Quý Duật, thời Trần
khai khẩn, nay còn dư duệ. Theo tộc phả lúc đầu gọi là Bãi Cáy, khi họ Ngô đến
ở mới có tên Đông Cao.
Ông Đỗ
Tiến sĩ : Ông tên là Đỗ Công Hoan người xã Lương Xá hạ tổng Tử Vinh, đỗ Tiến sĩ
thời Lê, quan Đốc trấn Cao Bằng vì có việc sai lầm bèn bị biếm lên trấn thủ ở
Luân Châu Hưng Hoá, đánh phỉ bị chết người nhà và lính tráng đem ông về an táng
tại một gò cao trong xã. Một đêm ba mặt thụt xuống thành ruộng dược mạ, người
nhà gieo nhổ thì được, ai nhổ trộm đều bị tai vạ. Tại xã Nhân Trạch gần đó
(thuộc tổng Đồi Thượng) là nơi dinh thự của ông Đỗ, trước dinh có ao sen, ai
xuống hái lá sen hay bắt cá
đều
không dùng được, lúc hái thì tươi mang lên bờ thì lá thối, bắt cá thì tươi mang
về nhà bán thì cá ươn, còn người thì ốm, nếu sám hối thì khỏi.
Chùa cổ
Phúc Chỉ : Xã này trước gọi là xã Phúc Long, đến Minh Mệnh đổi ra Phúc Chỉ
thuộc tổng Cổ Liêu. Thời Trần ông Trần Nhật Duật về đây lập ấp dựng chùa đặt
tên là ấp Lâm Thị, thần có chơi tứ bạch là: Bạch liên, bạch thạch, bạch đơn,
bạch trúc nay hãy còn di tích. Lệ thờ thần cứ ba năm một khoá các nơi phụ cận
đều chồng kiệu rước về sân chùa, sở tại chọn trai gái thanh tân đứng trên đẳng
có lan can múa quạt hát mười bài nói về ý nguyện của thần, gọi là “hát giai”.
Đền xã
Độc Bộ : Đền làm kiểu 8 mái ở phía trước toà chữ đinh. Toà chữ đinh thì chuôi
vồ ba gian, tiền đường 5 gian đều làm mái cong, toà 8 mái cũng mái cong nhưng
bốn mặt trống trải, nền mỗi chiều 3 trượng có đục rồng phượng rất tinh xảo.
Truyền rằng tiền triều không có phương đình phía trước, đến thời Mạc mới dựng
lên. Đền thờ vua Triệu Quang Phục khi thua trận chạy về tự trầm ở cửa đại ác.
Tương truyền tại xã Phù Sa đền thờ Lý Phật Tử, trước đây Phật Tử dùng mẹo cho
con trai là Nhã lấy con gái vua Triệu là Cảo, rồi lừa lấy đâu mâu, vua Triệu
mất vũ khí bại trận chết ở cửa biển này, sau Phật Tử đường cùng cũng chết ở cửa
biển ấy, dân xã mới lập đền thờ Phật Tử. Một hôm sắp đến ngày giỗ vua Triệu,
bỗng có gió bão sấm sét, đều nhằm vào đền Phật Tử mà đánh, sáng ra tan nát cả,
sở tại sợ không dám làm lại nữa, nay xã này chỉ có đền thờ con gái vua Triệu
không có nóc thôi. Gần đó có đền thờ Ngô Nhật Khánh.
Ba rồng
đội thuyền: Khi quân Tống sang đánh Việt Nam, vua Lê Đại Hành sai Phạm Cự Lượng
đem hơn 100 chiến thuyền đóng cọc ở chỗ núi Non Nước. Thuyền vua đi đến đấy
không tiến được, lại thấy có ba con rồng chui vào trong động dưới chân núi, vua
hỏi thổ dân thì biết trong thờ thiên phủ, địa phủ, thủy phủ mới vào lễ, trở ra
thấy ba con rồng đội thuyền vua tiến ra biển, vua bèn sai rút chân nhang 3 cái
ở ba bát nhang cắm vào bát nhang mới đưa thờ ở đầu thuyền, từ đó thuyền đi đến
đâu cũng đều thuận lợi.
Xã Hưng
Thịnh tổng Hải Lạng có đền thờ ông Tiến sĩ Phạm Đạo Bảo đỗ năm Hồng Đức thứ 18
(1487) quan trấn thủ Nghệ An. Anh họ là Phạm Đạo Phú đỗ Tiến sĩ năm Hồng Đức 21
(1490) quan hình bộ tả Thị lang, dự vào hội Tao đàn nhị thập bát tú. Mộ của hai
ông đều để ở xứ Đồng Tân, mộ tổ họ Phạm để ở xã Dao Cù hãy còn mộ chí. Tương
truyền vốn gốc ở xã Đông Ba, sau dời về Hoàng Xá rồi sau mới về Hưng Thịnh
nhưng đều ở trong huyện cả, ở Đông Ba thì thờ phối, ở Hoàng Xá thì có đền thờ
sau đền vua Triệu, ở Hưng Thịnh có đền ở giáp chùa, gần đây do ông Hoàng giáp
Tam Đăng Phạm Nghĩa trai xướng suất tu sửa. Lại có chuyện khi Đạo Bảo vinh quy
về Hoằng Xá, dân sở tại hỗn xược với ông, ông liền đem nghiên bút quẳng vào một
cái ao ở phía bắc làng chúc rằng:
Dân này
là lũ bất nhân,
Coi
khinh học tập bút văn khoa trường,
Từ nay
cứ chốn thôn hương,
Cúi
trông nhật nguyệt soi tường nỗi riêng.
Rồi ao
ấy đầy lấp thành đống đất cao, sở tại bèn xây lên một cái miếu thờ, nay có cây
ruối to cằn cỗi không ai biết từ thời nào trong khu đồng cát Phạm Xá.
Xã Liêu
Hải tổng An Trung hạ: Xã này vốn là do dân ở xã Cổ Liêu tổng Cổ Liêu dời xuống,
dân xã có đền thờ vua Triệu, tiền đường bên trái thờ ông Hải Thượng, bên phải
thờ các vị tổ vốn quê ở Cổ Liêu. Phong tục thuần phác tự cày cấy dệt vải và
chữa bệnh, ông tổ nghề thuốc của xã là Dương Đình Ngạn, tác phẩm của ông cuối
Cảnh Hưng đã được ông nghè Lộng Điền Vũ Huy Trác cho in mộc bản với tên sách là
“Nam dân nam dược”.
Điện
Hoàng Long ở xã Hoàng Đan tổng Hưng Xá, thờ bà Nguyễn Thị Phương Dung, tên huý
là Ngọc Bạch vốn quê ở Hoàng Đan, chầu hầu vua Lê Thần Tông sinh ra Chân Tông,
còn bia Chính Hoà, hằng năm có lệ quốc tế. Bài của Hà Quang Phan người thôn Sở
Thượng tổng Thượng Đồng đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão niên hiệu Tự Đức: “Quá Hoàng
Long điện”:
Hoàng
Đan quả hữu địa linh phầu,
Sắc tứ
phương dân kiến bảo lâu.
Kế tự
phi quan Thanh tặc phá,
Thường
tu do ức bạch xà khâu,
Đại bi
ký lệ chư điền tất,
Tiểu báo
nan thù cố nghĩa châu.
Bần bạc
diệc tiền tiên tố ấp,
Tư
nguyên túc giáo hậu lai mâu
(Qua
điện Hoàng Long:
Hoàng
Đan đất có thiêng chăng,
Trên sai
dân dựng đền rồng nghiêm trang,
Giặc
Thanh phá vẫn cúng dường,
Sửa luôn
rắn trắng bồi thường vốn to(1),
Bia ghi
ruộng tế lệ thờ,
Nhận làm
gọi báo tóc tơ nghĩa dày.
Dù nghèo
quê tổ ta đây,
Nhớ
nguồn dạy kẻ sau này soi xem).
[Chú thích : (1) Tương truyền bấy giờ hoàng thân có người bị bệnh
phong chữa mãi chưa khỏi, thầy thuốc nói phải có con rắn trắng chế thuốc mới
công hiệu. Sở tại đào ở khu đất gò Bạch Xà kiếm được rắn, vua trả cho dân 1000
lạng vàng, dân không dám nhận, bà Ngọc Bạch nói cứ nhận để làm vốn tu sửa đền
ta.]
Chùa
Bình Phong thuộc địa phận thôn Giáp Ba xã Mĩ Dương Đông Mạc chùa ở trên núi Bảo
Đài bên chùa có suối nước trong từ sườn núi chảy ra rót vào một cái giếng đá
đêm ngày không bao giờ cạn, mới gọi Nôm là chùa Suối. Còn có một cây thông vẩy
cao hơn 20 thước, có cây mã chiên, cây cối xay, cây mền tên, cỏ dùi trống, cây
quan âm… được sư Thanh Tuyền thường dùng để chữa bệnh. Bên chùa có ngôi miếu
thờ thị nội cung tần Mai Thị Ngọc Tiến, sách phong là Chiêu Dung nguyên phi
triều Lê, vì chùa này bà đã có công tu sửa, hiện còn bia dựng năm Bính Dần thứ
bảy (1686) Chính Hoà ghi việc. Bài núi Bảo Đài của Lê triều Thánh Tông Giáp
Thìn khoa Tiến sĩ Thanh Liêm An Cừ Dương Ban Bản:
Lý đại
Nhân Tông kiến thử đài,
Nham yêu
đinh tự giáp tuyền nhai,
Lưỡng
hàng thuý liễu triều phong quán,
Nhất cá
băng hồ chiếu tịnh trai.
Tứ pháp
hộ dân phong nẫm tuế,
Chư tăng
ngưỡng vọng thái hoà khai.
Lão quy
túc dĩ linh nhân lạc,
Vụ tế
dương trường thiểu khách lai.
(Đời Lý
Nhân Tông dựng bảo đài,
Chữ đinh
sườn núi suối chia hai,
Đôi hàng
liễu biếc chầu phong quán,
Một vũng
gương trong thấy tịnh trai,
Tứ pháp
giúp dân nhiều thóc gạo,
Chư tăng
cầu nước sống yên vui.
Tuổi già
về ngụ đâu hơn nữa,
Khói
lượn đường lên khách ít rồi(2)).
[Chú thích : (2) Khói luợn đường lên: Nói đường lên núi quanh co,
buổi chiều thấy khói núi lởn vởn che phủ, có khí độc nên ít người qua lại.]
Đền thờ
tổ nghề mộc ở xã Ninh Xá tổng Cát Đằng thờ ông Ninh Hữu Hưng người ở Gia Viễn,
làm tướng giữ chức công tượng giám sát thời Đinh Lê. Ông Ninh có công khẩn đất
lập ấp Thiết Lâm, sau mới đổi ra Ninh Xá. Khi lễ có tục kéo lửa, đời sau phong
là Dinh điền sứ phúc thần, nay cả xã La Xuyên cũng thờ ông này. Thời Nguyễn dân
xã Trường Yên đã ra cúng tiền đục tượng giám mã, ngựa voi cây đèn đều bằng đá
đặt ở sân đền.
Đền thờ
tổ nghề rèn đúc, xã Tống Xá tổng Vũ Xá thường gọi là đền Thánh tổ, tổ tên là
Nguyễn Chí Thành sinh tại chùa Hàn Lý huyện Vĩnh Lại tỉnh Hải Dương. Lúc nhỏ
tới học sư Giác Không là sư phụ, sư Giác Hải ở chùa Yên Phúc xã Yên Vệ phủ Gia
Khánh, ông được Giác Không cho hiệu là Không Lộ có biệt hiệu là Minh Không, năm
24 tuổi ông cùng hai học trò đến mở cảnh động tại Tiên An xã Trường Yên, năm 43
tuổi ông tới động Hoa Lư, mở nghề rèn nhưng không thành, sau lại về ở chùa Tống
Xá rồi dạy dân làm nghề rèn sắt đúc đồng, nay có khu đất cánh đồng Cầu Hố là
nơi ông lấy đất làm khuôn mẫu. Ông mất năm Giáp Tuất (1154) tại vạn Giao Thủy,
được triều Lý phong quốc sư phúc thần. Năm Bính Dần (1206) niên hiệu Trị Bình
được cấp 500 quan tiền công và 50 mẫu ruộng thờ.
Đền Thánh
tổ nghề sơn xã Cát Đằng tổng Cát Đằng : Tổ tên là Ngô Đức Dũng quan Huyện doãn
huyện Từ Sơn và em trai là Ngô Ân Ba quan đô đầu trong huyện, đời Trần Thuận
Tông (1390) đem nghề sơn học được về dạy dân Lư Châu tức Cát Đằng sau này. Ông
Đức Dũng mất ngày 12 ông Ân Ba mất ngày 14 cùng tháng giêng triều vua Lê. Hằng
năm sở tại có tục “hiến xảo” lên nơi thờ, do vậy ở đền hiện nay còn rất nhiều
thứ đẹp.
Đền thờ
tổ nghề dệt lụa Ngô Thị Hoa người ở Dâm Đàm Thăng Long lấy chồng là Mộc Dịch
làm hương sư tại xã Ngô Xá tổng Ngô Xá, thời vua Lê Đại Hành. Ngày kỵ 15 tháng
11 năm Hưng Thống Canh Dần (990), tại đền xã Ngô Xá có tranh lụa hình bà. Nay
các xã Bô Cô, Ngô Xá, Đông Biểu đều có đền thờ.
Xã Đô
Quan tổng Thượng Đồng, có đền thờ thân vệ tướng quân Trần Nhân Trứ thời Trần.
Xã này trước có tên là phường Quán Đổ, đền thờ nguyên sơ bằng đá, có đồ thờ
bằng đá, tượng đá. Tương truyền thời Minh sang xâm lấn nước ta, chúng chất củi
và thuốc súng phá đền, nay chỉ còn có bệ đá hoa sen và đôi cây đèn đá. Xã này
khi xưa có nghề đục đá song đều do thợ đá An Hoạch dạy cả, hiện nay có họ Hoàng
là gốc ở An Hoạch ở lại.
Thành Cổ
Lộng : Thành ở địa phận xã Bình Cách tổng Điều Hộ, mỗi chiều rộng ước 2 dặm,
hình vuông, do tướng Minh là Mộc Thạch đắp lên ở cuối thời Trần, phía tây nam,
phía nam có sông Kinh Thanh và sông Thiên Phái (sông Bo) có nước đổ ra sông
Đáy. Thành có hai lớp, ngoài cao 2 trượng rộng 3 trượng, trong cao 2 trượng 5
tấc, rộng 4 trượng, mở ra bốn cửa, bốn góc và trên bốn cửa đều có lầu quan sát,
thời ấy quân giặc ngủ không có màn nên tối đến tránh muỗi thì đều rúc vào bao
gai. Bấy giờ có người Chuế Cầu tên là Lương Thị Nguyệt cùng chồng là Đinh Tuấn,
do chúng quen bà nên thường mượn bà thắt tụi hộ, nhân thế bà liên lạc với quân
của Lê vương thắt túi đập chết quẳng xuống sông. Ông Phạm Văn Nghị, đỗ Hoàng
Giáp năm Mậu Tuất (1838) quê ở Tam Đăng có bài thơ:
Văn đạo
Kinh Thanh khải chiến trường,
Hà nhân
thiện dụng kết nang phương,
Địa dư
cố luỹ khi đông tuyết,
Giang
thặng hàn ba điếu tịch dương.
Nan khởi
cổ nhân đàm thắng phụ,
Cơ tồn
cố lão vấn hưng vương,
Huề nhi
đáo thử linh thùy hứng,
Tây lĩnh
y y thụ sắc thương.
(Kinh
Thanh xưa vốn chiến trường đây,
Thắt túi
khen ai đặt mẹo này,
Luỹ đất
còn trơ trời giá rét,
Sóng
sông vẫn viếng ráng chiều bay,
Khó tìm
người trước bàn hơn kém,
Chỉ với
ông già chuyện dở hay.
Cùng trẻ
đi chơi ai cảm hứng,
Xa trong
xanh ngắt cảnh non tây).
Thành
còn có tên là Bô Cô, nay vết thành cũ vẫn còn và có cả đấu đong quân.
Ở xã Mai
Sơn thuộc tổng Bố chính, có cái lăng cổ, tương truyền là mộ của Nguyên phi Lệ
Trinh đời Trần Thái Tông, có cả miếu thờ Thái Tông.
Xã Dương
Xá tổng Yên Cừ có chùa cổ, chùa ở chân núi Hổ Phục, trong có tượng đá hai bà
Lương Thị Ngọc Vinh, Ngọc Phú thời Lê có công tu sửa đền Sơn Trương. Hai bà này
sau lại về sửa chùa xã Nhân Trạch tổng Đồi Thượng huyện Đại An, nay hãy còn bia
đá khắc chữ nêu việc cả ở hai nơi.
Đền xã
Chuế Cầu tổng Mặc Tử : Cuối thời Trần quân Minh sang cướp nước ta, Mộc Thạnh
đắp thành Bô Cô, bà Lương Thị Minh Nguyệt cùng chồng mở hàng bên thành, bí mật
bày kế báo với quân của Lê vương. Vương cho Lê Thạch, Lê Lễ tiến hành. Khi luận
công bà được phong là Kiến quốc trinh liệt phu nhân, chồng được phong là
Kiến
quốc trung dũng tướng quân, cho ruộng thờ trăm mẫu. Phu nhân lại muốn khai khẩn
đất hoang, Lê tổ cho một con ngựa lội ruộng một ngày, lấy dấu chân làm tiêu nơi
nào có vết chân ngựa đi tới thì dân xã Chuế Cầu tới đó mà khẩn, phàm khẩn đất
phải đợi mùa khô đốt cỏ mới cày, vì thế mới gọi là “ruộng gio” khi mất vua ban
sắc phúc thần cho dân lập đền thờ xây mộ bốn mùa cúng tế. Thơ của Thánh Tông
Giáp Thìn khoa Tiến sĩ An Cừ Lê Tung: “Chuế Cầu Lương gia nữ” :
Chuế Cầu
Trần mạt Lương Minh Nguyệt,
Thiết tứ
thành biên diệc khả khoa,
Kích tặc
kết nang thâm lợi hại,
Phao
giang lưu tắc khởi ngôn ngoa.
Luận
công mã tích tiêu điền tại,
Trước mộ
hương thần diệu cổn hoa,
Bắc
khách mỗi văn hàn chí cốt,
Bất tri
tòng thử hữu lai da ?
(Chuế
Cầu cuối Trần Lương Minh Nguyệt, Mở quán bên thành mẹo đáng khen. Thắt túi đánh
Minh sao kế hiểm,
Ném sông
dòng tắc việc ai quên,
Nêu công
nhận ruộng nơi chân ngựa,
Xây mộ
ban phong sáng miếu đền.
Bắc
khách nay nghe còn lạnh gáy,
Lại sang
chưa rõ ý bề trên(1)).
[Chú thích : (1) Nói bề trên (tức quân Minh) chưa biết bao giờ lại
sang đất nước này.]
Thành phủ Xuân Trường: Thành rộng 26 trượng, dài 27 trượng, có hào rộng 3 trượng luôn giữ mực nước mùa cạn được 5 thước. Ngoài hào cách 2 trượng đều trồng tre gai và tầm song dày 10 thước. Mở ra hai cửa, bên trong có phủ nha hai dãy, mỗi dãy 10 gian nhà xây lợp ngói, bên phải có học đường bên trái có trại lính, sau có nhà tù và trại lính lệ, đều thuộc địa phận xã Ngọc Cục tổng Hành Cung, tây bắc giáp đại hà, tây nam giáp giang phận Hành Cung. Văn miếu ở phía đông nam tại xã Thượng Phúc, vốn dựng ở xã Tương Nam gần thành phủ cũ, do gần đê sông quá nên mới dời đến chỗ này. Sông thì có con sông nhỏ từ Bùi Chu chảy về Hành Cung (Minh Mệnh 4 đổi ra Hành Thiện) rồi chia ra hai nhánh, một nhánh ra Hành Thiện, An Hành chảy vào cửa sông An Hành, một nhánh vòng ở phía đông thành phủ chảy lên phía bắc, lại quanh về phía nam trước phủ rồi mới tụ mà dừng lại. Từ thời Lê triều về trước phủ lị ở đất huyện Nam Trực, đến năm Gia Long thứ 7 thì dời đến xã Kênh Đào, năm Minh Mệnh thứ 10 thì dời đến xã Tương Đông nay gọi là Tương Nam thuộc hữu ngạn đại hà, tiếp theo lại dời hai lần nhưng đều ở địa phận xã Tương Nam. Do nước sông cứ xối vào nên năm ất Dậu (1885) niên hiệu Hàm Nghi định rời nhưng nhiều việc rối nên chỉ tạm trú ở học đường, của phủ, cách phủ lị hơn 150 trượng. Thành Thái thứ 4 (1892) mới dời về xã Ngọc Cục thì nền nếp cũ đã hỏng hết. Còn chỗ tạm trú nói trên thì có một đội quân khác tới đó đồn trú. Nói về sự tồn tại của phủ ngoài văn miếu ra, thì vềt tích đều không bảo lưu được. Thơ của ông Đặng Hữu Dương người xã Hành Thiện huyện Giao Thủy, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu (1889), thơ nôm :
Nay chuyển mai dời mấy đổi thay,
Cơ trời vận nước khó lo hay!
Phòng ngừa để khốn thôn dân đấy,
Quan lại đều nhờ kiếm chác đây,
Chống giặc chưa đi toan lối rút,
Mặt vênh mà đến lụy ông tây ?
Tổ tiên đã bỏ không thờ nữa,
Cơ nghiệp ngàn xưa cũng dễ bay !
Cống Vành : ở Trà Lũ trung có một con sông chảy tới cống Lạc Quần, đến cống Tàu Hội Khê là do Ba Vành khơi nên. Do năm Minh Mệnh thứ 7 (1827) giặc Ba Vành dấy quân ở Trà Trung thế rất mãnh liệt, đặt ra câu ca :
Trên trời có ông sao Tua,
Ở dưới hạ giới có ông Ba Vành.
Sở tại không chế ngự nổi. Năm thứ 8 (1828) quan quân triều đình tới đàn áp, Ba Vành không có đường rút bèn sai đào con sông này cho thông cống Tàu mà rút ra biển, nhưng Ba Vành bị trúng đạn nên việc không thành, thế rồi sông ấy nước chảy không cách chặn lấp, dân ta phải đặt cái cống ngăn mặn và trừ nước úng.
Chùa Thần Quang : Chùa thuộc xã Hành Cung huyện Giao Thủy, thường gọi là chùa Keo, nay còn một số bia đá thời Lê, tuy không có cảnh núi non hùng vĩ, nhưng cũng là một dấu vết đẹp ở miền ven biển. Chùa thờ ông Không Lộ. Không Lộ, Giác Hải, Từ Đạo Hạnh đều ở thời vua Lý sơ. Không Lộ tên chính là Nguyễn Chí Thành người xã Điềm Xá huyện Gia Viễn cùng Nguyễn Viết Y người xã Loa Điền Hải Thanh kết bạn với nhau, Chí Thành đạo hiệu là Không Lộ, Viên Y đạo hiệu là Giác Hải, sau gặp sư Từ Đạo Hạnh người Yên Lãng cùng sang Tây Trúc học đạo đều thành. Không Lộ, Giác Hải về chùa Diên Phúc, Đạo Hạnh về chùa Thiên Phúc. Quãng năm Minh Đạo (1042 – 1043) Không Lộ về Hành Cung Giao Thủy dựng chùa để ở, rồi sang Biện kinh nhà Tống bên Bắc quốc khuyên giáo đồng được lưng túi về, đúc tượng phật Quỳnh Lâm cao 2 trượng, chuông Phả Lại hơn vạn cân, vạc Phổ Minh hơn vạn cân còn dựng tháp Báo Thiên cao 9 tầng. Thời ấy vua Lý Nhân Tông nghe thấy tiếng con tắc kè kêu trong nội điện mà mắc bệnh, quan đại thần trong triều cử 50 người đi rước Không Lộ lên Thăng Long chữa vua khỏi bèn cho Không Lộ hiệu Quốc sư, Giác Hải được họ vua. Vua vốn là Từ Đạo Hạnh đắc đạo ở chùa Thiên Phúc đầu thai vào hoàng cung làm con Sùng Hiền hầu, có tên là Dương Hoán, vua Nhân Tông mất, Dương Hoán kế vị tức vua Thần Tông, năm Bảo Tự (1133 – 1138) mắc bệnh hoá hổ, hai sư lên chữa khỏi được vua ban ruộng các xã phụ cận và dân phục vụ. Vua Thần Tông mất, vua Anh Tông cho Hữu tư về Giao Thủy sửa hai chùa Nghiêm Quang, Viên Quang và chỗ hai sư ở. Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất (1154) sư Không Lộ mất ở chùa Nghiêm Quang thọ 79 tuổi, ngày 9 tháng giêng năm Mậu Dần (1158) sư Giác Hải mất tại chùa Viễn Quang thọ 75 tuổi, đều được nước xây tháp để thờ và có lệ quốc tế.
Xã Xuân Hi, Xuân Bảng tổng Thủy Nhai thờ thành hoàng là Ngô Miễn người ở Bắc Hà, quan Hành khiển thời Hồ, nhiều người hàng quân Minh, ông chống quan không nổi nhảy xuống biển Kỳ La tự trầm, phu nhân Nguyễn Thị Thanh cũng nhảy theo. Khi Lê công diệt xong quân Minh phong ông và phu nhân trung quân minh kính, trị hải
phong công, bản cảnh thành hoàng trung đẳng phúc thần. Đương thời Ngô Miễn đã đem dân sứ Bắc xuống mở đất lập ấp làng, nay dân nhớ ơn lập đền thờ hãy còn văn bia ghi thần tích.
Tảo Sinh đại vương : Ông tên thật là Trịnh Quang, cha là Trịnh Thành, mẹ là Trần Thị Hưng quê ở xã Đông Mặc huyện Mỹ Lộc. Vào thời Lê ông làm tướng trấn hải ở Sơn Nam, thấy vùng đất Giao Thủy rộng rãi bèn xin trên khai khẩn lập ấp, gọi là ấp Liêu Phú. Sau ông có bốn con trai, ông đặt cho bốn họ và chia ấp ra 4 khu cho quản, con trưởng là Trịnh Bình ở khu Liêu Tây (nay là Văn Phú), con thứ hai là Nguyễn Hoà ở khu Liêu Thượng, con thứ ba là Trần Hiếu ở khu Liêu Hạ (nay là Đông An), con thứ tư là Cao Thuận ở khu Liêu Đồng. Khi già cả, ông dẫn mấy cháu nội về quê cũ rồi mất ở quê, thọ 105 tuổi. Đời Lê có sắc nêu chữ là “Khẩn điền lập ấp giáo hiếu nhưỡng thuần Tảo Sinh đại vương trung đẳng phúc thần” và các con là “Liêu Thượng điền chủ phúc thần”, “Liêu Hạ điền chủ phúc thần”, “Liêu Đông điền chủ phúc thần”. Thơ nói việc của Đông La Nguyễn triều Cử nhân Đỗ Huy Cảnh:
Nghĩa sự tiên nhân mãnh miễn thi, Khứ hàm khẩn thổ tối hy kỳ, Quán cư Mặc ấp lai xưng trấn, Chiêu lập Liêu châu cấp tứ nhi, Trịnh Nguyễn Trần Cao tòng cổ chế, Bình Hoà Hiếu Thuận giáo kim vi, Ngưỡng chiêm lệnh tộc hà như giả, Nghi ký tòng đầu thạch dĩ bi.
(Việc nghĩa ngươì xưa vẫn gắng làm, Khai hoang ngăn mặn mấy gian nan. Quê nơi Đông Mặc khi đi trấn, ấp lập Liêu Châu cấp bốn con. Trịnh Nguyễn Trần Cao theo lệ cổ, Bình Hoà Hiếu Thuận dạy nay nên. Công lao chép rõ vào bia đá, Giàu có ai như thử hỏi xem).
Nhà thờ đạo Gia Tô ở Bùi Chu, trên đất tổng Thuỷ Nhai, nhà cửa to rộng, kiểu cách đẹp sáng, ăn ở nghỉ ngơi hay ẩn tích đều thuận lợi, có vị cố đạo người ý pha nho ở đó.
Nhà thờ đạo Gia Tô ở Phú Nhai, cũng thuộc tổng Thủy Nhai. Ban đầu vì đạo này có tiền quy tụ dân chúng, giúp đỡ họ về sinh kế, nên họ đi theo. Nhưng chẳng có đạo nào hay ông chủ nào giúp đỡ mà không có điều kiện gì, ai cũng hiểu cái hom đó, chỉ có rúc vào thì dễ mà chui ra thì rất khó, chẳng khác gì khi xưa có câu:
Chót vì tay đã nhúng chàm,
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Tỉnh ta là tỉnh có nhiều người theo ngoại đạo, vốn gốc đạo thì hay, song những người truyền đạo không tuân theo nguyên sơ ý tốt mà thường phục vụ quan lại đương thì, do vậy đi tu cũng hiểu là đi làm quan vậy. Sự bừng tỉnh của các thân sỹ ưu thời mẫn thế, khuyên người nên tự cường tự tiến, không lệ thuộc ai thì hay hơn. Cũng trên dải đất duyên hải, còn có nhà thờ Ninh Cường, nhà thờ Phát Diệm là hạng cổ tích nổi tiếng.
Trà Lũ thờ tổ: Tại hai xã Trà Lũ Trung, Trà Lũ Bắc tổng Trà Lũ, đều có đền thờ đương cảnh cảnh thành hoàng, Trà Trung có 4 họ, Trà Bắc có 7 họ đều có từ đường. Ba năm một lần họ vào đám, rước thành hoàng, các tổ đến tụ hội ở đình, rồi rước ra sông, hai thuyền rồng và mười một thuyền to, cùng hai thuyền chỉ huy, lần lượt bơi đi bơi lại ước 10 dặm rồi lễ tạ trời và thủy thần tạ tổ. Trên chỉ, các hương dịch, hương thân, hương lão, mọi người đều tới bến ăn uống, xem hát các bài ca tụng công ơn tổ khai khẩn, đánh cờ, thi thơ, thi viết chữ, thi nghề thủ công hoặc hiến xảo rất là vui vẻ, ngày thứ ba các nhà thắp hương lễ tổ nhà mình , năm xưa theo ấp tổ khai sáng đất đai. Cả hai xã mỗi xã có 5 mẫu ruộng cho cấy thuê lấy tô làm phần thưởng, cho việc thi nói trên. Các lệ này đều tổ chức vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Phương Giang linh từ : Đền vốn ở Lác Môn, có con sông bắt nguồn từ sông Nhị, chảy qua huyện Giao Thủy, ngã ba giáp huyện Trực Ninh, chảy ra biển, chỗ giáp biển gọi là Lác Môn. ở Quần Phương, Quỳnh Phương đều có đền thờ, đền thờ bố mẹ con bà Dương thái hậu. Năm Tường Hưng thứ 2 (1279) vua Tống là Bính, thừa tướng đồng thiêm khu mật viện sự là Lục Tú Phu, Việt quốc công Trương Thế Kiệt. Trương Hoằng Phạm từ cảng Triều Dương ra biển đến Nhai Sơn, Thế Kiệt buộc hơn ngàn thuyền lớn lại theo hàng chữ nhất thả neo xuống biển làm thành để chống lại không nổi, Tú Phu cõng vua nhảy xuống biển tự trầm, Thế Kiệt chết đuối, Mẫu đem Quách hoàng hậu và hai công chúa, trên thuyền trôi dạt tới cửa Càn Hải huyện An Sơn, thủ phủ Diễn Châu vào nương thân ở chùa Quy Sơn, sau lại nhảy xuống biển tự trầm cả. Bấy giờ là ngày 7 tháng giêng (năm 1280). Năm Hưng Long 19 (1311) vua Trần Anh Tông ban sắc, tiền ruộng khuyên dân thờ tự.
Đê thời Hồng Đức: Tương truyền thời cổ vùng ven biển chưa có đê bồi gì cả, thường thường bị nạn nước biển tràn vào phá hoại, thiệt hại người của không sao kể được. Thời Lê niên hiệu Hồng Đức vua ra lệnh xuất công khố đắp lên phía bắc từ Quảng Yên qua Hải Dương Nam Định Ninh Bình Thanh Hoá đến Nghệ An. ở tỉnh ta còn đoạn Kiên Trung Hà Lạn là trông thấy rất rõ như những núi đất kéo dài, sau này do phương quan mở ruộng cho phép tuỳ tiện xâm phá, hoá ra nạn lụt từ cuối Lê đến nay nhiều phen lại dữ tợn. Bài “Hồng Đức đê” của Thiệu Trị Tân Sửu khoa Phó bảng Đông La Đỗ Huy Uyển:
Hồng Đức đê, Hồng Đức đê,
Tiền nhân ngự thủy trúc đê hề,
Trúc đê hề, trúc đê hề,
Vị thuế di đê thuế hữu thê,
Thuế hữu thê, thuế hữu thê,
Quan nang vô để khởi nan kê,
Khởi nan kê, khởi nan kê,
Tòng lai bần tử sự thường đa!
(Hồng Đức đê, Hồng Đức đê,
Ngăn nước người xưa đắp đê chừ,
Đắp đê chừ, đắp đê chừ,
Vì thuế san đê thuế có thang ư,
Thuế có thang ư, thuế có thang ư,
Túi quan không đáy đâu phải chuyện mơ hồ,
Đâu phải mơ hồ, đâu phải mơ hồ,
Từ xưa nghèo mà đến chết sự thường chẳng nên ngờ).
Chùa Phúc Lâm ở xã Quần Phương thượng tổng Quần Phương, truyền rằng do người Bắc quốc dựng nên. Trước sau phải trái chính giữa có 5 toà. Ban đầu thờ Nam Hải Quan âm bồ tát vào thời Lê mạt có nhiều quan lại Thăng Long khi tuần thú, văn thân nhàn tản tới ngoạn cảnh. Ông Hoàng giáp triều Nguyễn quê ở Tam Đăng tên là Phạm Nghị đã có công tu sửa chùa này.
Chợ Đông Biên ở xã Quần Phương hạ tổng Quần Phương tương truyền do ông Hồ Tân người ở Đông Triều về đây tụ dân buôn bán thành chợ từ thời Mạc. Là một chợ lớn các thứ sản vật núi rừng xa xôi cũng được đưa về đây để đổi lấy hải sản mang đi, thời Lê mạt có hơn tới 50 gian lợp ngói.
KHÍ TIẾT
Đại để tỉnh ta khí tiết bốn mùa thể hiện rõ rệt không như các tỉnh nam phần, mùa xuân khí hậu ôn hoà cỏ cây tươi tốt, mùa hè rất là nóng nực, nước sông dâng cao, mưa gió sấm sét dữ dội, mùa thu mưa dầm gió bão, nước biển đổ vào làm cho hải dân mất người thiệt của đổ nhà, hoặc còn cuốn hết ra khơi xoá bỏ làng xã, đến đông hanh hao cây cối xanh tươi trở nên vàng úa, có loài tro cành khô nhựa.
Về rét buốt thì gần biển rét hơn, xa biển đỡ. Nghề nông là chính, cuối hạ sang thu nước biển cao dần, phải lo đắp đê phòng trước nước mặn tràn vào. Ruộng vụ thu nhiều hơn vụ hè, nhiều khi thất bát có khi mất cả.
CA DAO TỤC NGỮ
Thật ra thì rất nhiều, do biên giả tập hợp được ít lại chưa có công phu sắp xếp, vì thế tạm chép để tham khảo:
Lưỡi người ta vốn không xương
Nên cơ đắc thất cũng thường từ đây
Lòng người ta lúc vơi đầy
Chớ rằng kết ngãi bao ngày nặng sâu
Cha con còn phải xa nhau
Vợ chồng chia ngả trước sau dứt tình
Đất trời bao sự bất bình
Chắc ai giữ chọn lòng thành với ai
(Tiếng ca dân chài Giao Thủy).
-Nam Chân thất cổ, phong tục chân thành. Giao Thủy lục hoành, điền tài phú dụ. (Nam Chân có các làng Cổ Tung, Cổ Nông, Cổ Gia, Cổ Giả, Cổ Lũng, Cổ Chử, Cổ Lễ, tính người thật thà, ăn ở trung hậu. ở Giao Thủy các làng Hoành Đông, Hoành Nha, Hoành Lộ, Hoành Nhị, Hoành Tam, Hoàng Tứ đều là nơi đất tốt, cấy cày có nhiều gạo ngon, nông dân no đủ).
-Bảy làng Cà, ba làng Hóp, không bằng cái chóp làng Cổ Gia, (Làng Cà tức Gia Hoà ở Nam Trực, làng Hóp tức Báo Đáp ở Thượng Nguyên, Cổ Gia đồng đất rộng rãi).
-Đói sang Bắc, chạy giặc về Nam.
- Bao giờ sông Vị cạn khô, kho vua lúc ấy mới lo thiếu tiền.
- Lẫm vàng chùa Cóc, lẫm thóc Đô Quan (xem phần cổ tích ở trên, lẫm thóc Đô Quan: Tương truyền xưa có ông quan Thân vệ Trần Nhân Trứ ở Đô Quan Vọng Doanh đánh cờ với Trần ích Tắc, ích Tắc thua cờ gán đất đồng Mía, đồng Cà, đồng Cồn cho Nhân Trứ, nên đất tuy thuộc Tân Chân mà do người phường Quán Đổ (sau mới đổi ra Đô Quan) quản lý. Khi Quán Đổ Vọng Doanh đổi ra Đô Quan thì đất Quán Đổ Tây Chân cũng đổi theo
- Đàn bà Thượng Nông, đàn ông Cổ Chử. (Nói hai nơi này ăn nói khoe khoang dối trá không thể tin được).
- Được cánh đồng Sòng, no lòng thiên hạ (Đồng Sòng thuộc xã Tây Lạc, đất cao lại chua, tương truyền sư Không Lộ ăn cá đổ dấm thừa ra đó, năm nào có nhiều mưa cày cấy được, thì mới có thóc thu hoạch nên mới có câu này).
- Giàu Phương Để, phong thế Trí An (xã Phương Để Trực Ninh nhiều nhà giàu có, còn Trí An nhiều điều sang trọng phô trượng).
- Một giỏ cá mua, không bằng cái cua ao Láng (tại xứ Hậu Đồng xã Trí An có cái ao Láng có giống cá cua ăn rất thơm ngon).
- Văn quan phủ, phú quan Nghè, kinh nghĩa chỉ huy, thì quan Hoàng giáp (quan Tri huyện Phạm Công Thái có văn tài, quan nghè Bái Dương Ngô Thế Vinh có nhiều bài phú rất hay, thời ấy thơ văn bác học, lời lẽ sâu sắc thì ai cũng suy tôn Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị).
- Vui chơi qua đất Quần Phương, xã Trung thợ mộc các nàng theo chân. Vợ chồng chọn áo may quần, tìm vào xã Thượng an tâm trông chờ, Đắp rồng phượng kén thợ nề, hỏi thăm người xã Phương Đề mà nhờ.
- Rượu Đông Cường, đường xã Trung (ở Đông Cường có tục bán rượu giả dối, lúc nếm rất ngon, nhưng mang về thì nhạt như nước lã. Xã Trung đường xá bùn lầy nhớp nháp chẳng ai muốn đến).
- Lắm quan xã Hạ, lắm vạ xã Trung, lắm anh hùng xã Thượng (xã Hạ có mấy vị quan thi đỗ, xã Thượng có lắm cường hào, còn xã Trung thì hay bới móc vu cáo kiện tụng nhau sinh ra lắm tai vạ do quan sở tại sách nhiễu).
- Cai xã Hạ như rạ Tứ Trùng, nhất trường xã Trung như sung Hai giáp. (Xã Hạ lắm cai như rạ ở đất Tứ Trùng, đỗ nhất trường người xã Trung nhiều như sung Giáp nhị ý nói nhiều).
- Quanh năm vất vả làm ăn, thuế ao thuế ruộng thuế thân thuế vườn, ngày làm dạ đã không yên, đêm nằm sốt ruột trống dồn thâu canh, thân người ngày một mỏng manh, quan trên quỷ dữ vẫn rình ở bên.
- Bao giờ biển nổi cát vàng, thì miền Nam hạ chật đường ngựa xe.
- Bao giờ Phạm Pháo có đình, Phương Đê có chợ thì mình lấy ta. Nỗi nàng khó nói cho ra, muốn chia phải trái quan nha cũng hèn.
- Dối chồng ngấm ngầm theo ma, không nuôi không đẻ nói cha phần hồn.
- Quyền mày cứ ngỡ quyền vua, quyền cha quyền mẹ cũng thua quyền chồng.
- Vui đâu cho bằng vui nhà, có con có vợ mới là thật vui. Dạy con nhủ vợ mọi lời, gốc kia vững chắc thì chồi mới xanh.
- Tu là trốn chúa lộn chồng, có chi nhân đức tôn sùng ngẩn ngơ
-Bao phen biển tiến biển lui, chúa thiêng quan giỏi đứng ngồi nơi đâu, biết bao nông nỗi buồn đau, nào ai tế độ siêu cầu cho ai?, ở ăn chưa kịp yên vui, chúa quan đâu đã đứng ngồi ngay bên, muôn vàn đóng góp không tên, rằng cho phần xác phần hồn thảnh thơi!.
-Ngồi buồn kể chuyện vui ghê, trời sinh mỗi đất mỗi nghề làm ăn, Đông Mặc bán mướp nước ngâm, Thượng Lỗi cấy muống trong chằm phân tươi. Làng Lốc bán bụt bán trời, với làng Tức Mặc cùng ngồi chiếu trong, bánh cuốn Kênh mỏng mòng mong, đấu cám Phù Nghĩa chưa đong đã đầy. Vải Bần khổ rộng gang tay (Mai Xá), gáo rượu làng Vọc (Thành Thị) to thay quả cà. Tốt vàng thì nhất liễu Nha, trống kèn Phù Mỹ tò te tang bồng. Làng Kênh đuổi tép tứ tung, Mỹ Trọng san sát ra đồng coi dưa, Trực Ninh lừa lọc mới ghê, Kim Lũ đắp nước giữ đê hãi hùng. Lựu Phố bán thuốc bồng bông, Như Thức chàng đục ra công dối người. Hữu Bị gánh nước đời đời, Vị Hoàng chạy úng tả tơi lạc bầu. Phụ Long hàng gạo vùi đầu, Năng Tĩnh cướp trộm đêm thâu chịu đòn. Chợ Trời Cửa Bắc đâu hơn, hàng trắng buôn bán suốt đêm hôm không ngừng, đò Chè đò Bái tưng bừng, muốn vui thì giắt lưng ong lên thuyền, sáo đàn ca hát liên thiên, Hàng Đồng, Hàng Tiện hay bên cột cờ. Hàng Đồng Hàng Giấy Hai Cơ, Văn nhân phố Khách vật vờ hỏi han, hết tiền còn phải nhừ đòn, quan nha đạo tặc hết hồn về quê. Vị Dương hay xuống Gia Hoà, ở ăn dù có là nhà chẳng an. Làng La lắm của lắm con, Phú ốc ghét bụt yêu đương chúa Lời. Thương ôi ma bế thì cười, quê hương xây cái mả ai hãi hùng, tổ tiên chẳng nghĩ tôn sùng, theo phường dê chó mà hòng thăng thiên.
-Chợ Viềng một dải bờ sông, bán mua chắc hẳn tay không trở về, nỡ đâu nói xấu thôn quê, làng vua đất huyện chẳng hề hơn ai!
-Chê chồng mà lại dâm ô, Vị Khê Ngô Xá dẫu cho chớ mần, Lã Điền Vấn Khẩn Đồng Vân, gia truyền một thói đừng lầm ai ơi. Con trai Giang Tả chớ vời, bất nhân có cái giống người đấy thôi.
-Chết dâu chết rể không bằng Phương Để đến nhà, cháy cửa cháy nhà không bằng Cẩm Hà tới chơi. (Nói về cái tục keo bẩn).
-Hàng Ninh Cường, đường Cát Giả, mả Quần Anh (nói về cái kiểu cách hẹp
hòi).
-Dẫu có tiền vạn linh, không lấy được gái trinh Cát Chử.
-Tình tình có thóc thì phơi, Trực Ninh đổ thuế thì trời đổ mưa.
-Hương Cát mặc áo bồ nâu, hàng xáo Cát Chử bụi đầu kêu ai, Văn Lãng phong phanh áo dài, ruộng nương cũng lắm đi hai ba ngày, Lịch Đông thì lắm buôn chay, Xối Đông đóng đất tầy tầy lấm ghê, Trung Lao đan thúng ngồi lê, Hạ Đồng đan lưới tay vê cả ngày.
-Gió to bão lớn luôn ngày, đổ nhà mất lúa chẳng hay vội vàng, nghe chuông chân đã sẵn sàng, áo thâm lũ lượt không màng mẹ cha, đi cầu đi hát ê a, nghiêm trang sau trước theo ma ỡm ờ, dạy sao cho được bây giờ, gọi sao cho tỉnh còn chờ kiếp sau.
-Chiêng Sòng, cồng Đáy, mõ Trung Khê (nói sự trội hơn các nơi khác).
-Đồn rằng kẻ chợ lọc lừa, sánh sao được với chợ thưa làng Dần hay về đất Thứa mà thăm, nộp tiền mãi lộ nộp thân đi đường. (Chợ Dần thuộc xã Bảo Ngũ tổng Bảo Ngũ, Thứa tức xã Phú Thứ tổng Vân Côi).
-Đinh Trình Xuyên, điền Phú Lão (nói số nhiều).
-Khôn làng Mại, dại làng Kĩa (Nguyệt Mại, Đồng Kỹ đều thuộc tổng Trình
Xuyên hạ).
-Văn Kim Lũ, vũ Cao Hương.
-Mả táng hàm rồng, lấy chồng Tiên Hương.
-Đói ăn đành phải tranh nhau, no ăn cũng chẳng trước sau chịu nhường, này Vân Cát này Tiên Hương, xưng con thánh mẫu họ hàng Trần Lê?
-Bánh dầy làng Gôi, mâm xôi làng Báng (nói tục lệ phiền trọng, nhân dân phục vụ vất vả).
-Bản An Duyên, Thượng Nguyên An Lá (nói hai nơi này xa nhau mà lại giống nhau cái dối trá).
Thuốc cam Vân Cát, con hát Thi Liệu.
Chơi với kẻ Dần, nó lần mất ruột, chơi với Châu Bạc, nó vạc đến xương.
-Chơi với phường Mai, chẳng tai cũng hại, chơi với Nguyệt Mại, chẳng hại cũng tai (phường Mai hát Mai xá, Mai Xá và Nguyệt Mại là kẻ gian trá trơ tráo).
-Chơi với Cố Đế, mất cả rế cùng mâm (ý nói Cố Đế là bọn tham lam dù rế rách chổi cùn cũng không tha).
-Mồng một chơi cửa chơi nhà, mồng hai chơi điếm, mồng ba chơi đình, mồng bốn chơi chợ Quả Linh, mồng năm chợ Trình mồng sáu non Côi, bỏ qua mồng bảy ra thôi, bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng, ngày xuân lễ thánh mua hàng, dắt nhau vui vẻ có nàng có anh. Sớm ngày mồng chín vào Thanh, mồng mười trở lại thì quanh vào Đồi. Quê ta thờ mẫu ba đời, thủy chung xin cứ như lời tôi khuyên.
-Cô kia thắt dải lưng xanh, có về Trang hạ với anh thì về. Chẳng về Trang hạ làm chi, ao chua nước mặn, gạo thì ăn đong, thương anh em để trong lòng, đói cơm rách áo còn hòng nỗi chi.
-Đồn rằng đám Xứng vui thay, xem hết cả ngày chỉ thấy những rơm. (Đắc Lực tục gọi là làng Xứng, có tục thờ thần lễ bái làm các đồ chim muông bằng rơm rất khéo léo).
-Trình Xuyên, Cốc Gạo, Dương Lai, áo nái mặc ngoài áo vải mặc trong, khoe ra vẻ thúy sắc hồng, nào hay tấm lòng có giống thế chăng?
-Nhất đẹp là gái làng Cầu, khéo ăn khéo nói khéo hầu mẹ cha, chiều chồng cư xử thuận hoà, xưa nay nổi tiếng nết na gốc trời!
-Nghèo thì còn tạm yên thân, giàu sang khó giữ được phần hẳn hoi. Nay khao mai hạ thiệt thòi, nào ai có hiểu khổ nỗi tôi khốn cùng (tại tổng Tử Vinh và một số nơi có lệ ai làm kì hào sẽ phải khao hạ mọi người, hễ kêu được thì ăn thì vui vẻ, bằng không họ lại mưu lật đi bầu kẻ khác, do vậy được chức cũng khổ).
-An Trung với lại Cốc Dương, hay kéo cả làng ăn vạ đánh hôi, lỡ thôi phải chịu thiệt thòi, bước mau ra khỏi cho rồi mới nên (An Trung tổng An Trung, Cốc Dương tổng Vỉ Nhuế đều thuộc huyện Đại An).
-Lỡ chân đến đất Cao Bồ, bước mau qua khỏi đỡ lo vào mình. (Cao Bồ thuộc tổng Ngô Xá có nhiều trộm cướp).
-Ai về An Lộc mà coi, điêu toa không thiếu những người cổ kim, tham toà còn thói ngu ngoa, theo quân dê chó bỏ luôn tổ đường (tổng An Lộc thuộc huyện Vọng Doanh).
-Chớ thăm chi tổng Thượng Đồng, đất quê ăn nói càn rông đủ điều, người mà như thú chạy theo, có nhiều mất nhiều có ít cũng lo.
-Đừng vào vùng núi ý Yên, huyện Yên nào có được yên nỗi gì, lòng người điên đảo khó suy, chẳng nề nhân quả khắc kỳ ra sao.
Em là con gái Thượng Đồng,
ăn cơm nửa bữa, ngủ chồng nửa đêm.
sông dạ cũng như sông ao,
ai dò cho được sâu nông thế nào.
Theo cha theo mẹ rụt rè,
theo trai theo gái chẳng e sớm chiều.
Lời quê nghe lắm chán rồi,
người lời vừa nói chân rời đi ngay.
Đừng tham cua rốc ốc nhồi,
đem con mà gả cho người đồng chiêm.
-Em ngồi dệt chiếu đêm ngày, vú không có sữa con day đường nào, nghe chuông đánh ở lầu cao, không đi mắc tội xưng sao hết lời.
-Tổ chim quạ ở trên cành, con gà đến ở có lành được đâu, tranh mà không nghĩ trước sau, chung qui bán xới còn đâu cửa nhà.
-Làm người phải có mẹ cha, có làng có nước cũng là anh em, lỡ nào giở thói ngu ngoa, vong ân bội nghĩa vu oan cho người.
-Giàu sang có giữ được đâu, để cho con cháu nỗi đau tội tình, khư khư ôm lấy đầy bình, bỗng nhiên một sớm tan tành khói mây. Ai còn trông lại ta đây, bởi xưa riết ráo thì nay cô hàn.
-Làng Bo lòng cũng bo bo, không ăn người được không cho trở về.
SỐ ĐINH
Thành phố: Nội tịch 424 người, ngoại tịch có3994 người. Phụ: Hiện tại người Nam có 23355 người, người Thanh 1073 người.
Đại An: Nội tịch 9539 người, ngoại tịch có 10834 người. Phụ: Chức sắc được miễn sưu thuế có 262 người, lão nhiêu 1884 người, hoàng đinh 11624 người. Thực số bốn dân cả hạt: Sỹ 650 người, nông 21950 người, công 310 người, thương 200 người.
Vụ Bản : Nội tịch 8024 người, ngoại tịch 12823 người. Phụ: Chức sắc được
miễn sưu dịch : 186 người, lão nhiêu 2665 người, hoàng đinh 419 người. Thực số bốn dân cả hạt: Sỹ 1200 người, nông 17573 người, công 1000 người, thương 200 người.
Nam Trực: Nội tịch 756 người, ngoại tịch 15029 người. Phụ: chức sắc được miễn sưu 549 người lão nhiêu 2636 người, hoàng đinh 7890 người. Thực số bốn dân cả hạt: Sỹ 1889 người, nông 13882 người, công 2250 người, thương 4570 người.
Trực Ninh: Nội tịch 9442 người, ngoại tịch có 17811 người. Phụ: chức sắc được miễn sưu 257 người, lão nhiêu có 2680 người, hoàng đinh 2050 người. Thực số bốn dân cả hạt: Sỹ 780 người, nông 25970, công 140 ngưòi, thương 360 người.
Phong Doanh: Nội tịch 3190 người, ngoại tịch 4210 người. Phụ: Chức sắc 49 người, miễn sưu có 260 người, lão nhiêu 750 người, hoàng đinh 244 người. Thực số bốn dân cả hạt: Sỹ 550 người, nông 8000 người, công 150 người, thương 90 người.
Ý Yên: Nội tịch 3960 người, ngoại tịch 7830 người. Phụ: Chức sắc 39 người, miễn sưu 642 người, lão nhiêu 1100 người, hoàng đinh 455 người. Thực số bốn dân cả hạt: Sỹ 722 người, nông 12860 người, công 300 người, thương 281 người.
Mỹ Lộc: Nội tịch 5290 người, ngoại tịch 12480 người. Phụ: Chức sắc được miễn sưu 284 người, lão nhiêu2720 người, hoàng đinh 380 người. Thực số bốn dân cả hạt: Sỹ 3%, nông 95%, công thương đều 2%.
Giao Thủy: Nội tịch 11950 người, ngoại tịch 22010 người. Phụ Chức sắc 218 người, được miễn sưu dịch 1751 người, lão nhiêu 3020 người, hoàng đinh 3195 người. Thực số bốn dân cả hạt: Sỹ 2%, nông 92%, công thương đều 3%.
Hải Hậu: Nội tịch 5765 người, ngoại tịch 15765 người. Phụ: Chức sắc được miễn sưu dịch 69 người, lão nhiêu 2529 người, hoàng đinh 1008 người. Thực số bốn dân cả hạt: Sỹ 50 người, nông 22212 người, công 162 người, thương 100 người.
THƯƠNG MẠI
Tại thành phố: Hoả thuyền của người Tây có thuyền hiệu Bồ Đà, Đa Bô. Hoả thuyền của người Bắc có thuyền hiệu Long Môn, Giang Môn, Bảo An, Thái An, Trấn An, Tràng An, Tân Xương, Trấn Ninh, Kim Hằng. Hoả thuyền của người Nam do công ty Bạch Thái Bưởi có thuyền hiệu Phi Long, Phi Phượng, Phi Lân, Phi ưng, Phi Hùng, Phi Hổ, Ngô Đồng, Khâm Sai, Quảng Hoá, Thái Sinh, Thăng Long, Khoái Tử Long. Các thuyền này chở khách chở hàng, đi gần tới Xuân Trường, Trực Ninh, Hải
Hậu, Kim Sơn, Ninh Bình, Nho Quan đi xa tới Ninh Giang, Kiến An, Hưng Yên, Hải Phòng, Hà Nội và thuộc các tỉnh thượng du, còn các thuyền ở phía Nam ra vào thuyền mành, thuyền đinh, qua lại ngày có trăm cái. Xe chở đi đường bộ của người Tây, người Nhật, người Bắc, người Nam do công ty Bạch Thái và các hàng ngồi có hiệu ở trong phố.
Hàng hoá gồm có : Thóc gạo, ngô đậu, mỳ khoai, cá tôm, mắm muối, thuốc tây, thuốc bắc, chè rượu, thuốc lào thuốc lá, trầu cau, hoa quả, cầm thú… đó là các thức ăn uống. Tơ lụa, nhiễu the, đoạn vóc, vải gai… đó là các đồ may mặc. Đồng thiếc, sắt thép, gốm, gỗ, tre, giấy bút, cói, dầu đèn, da thuộc, sừng xương… đó là các đồ nhật dụng.
Phố buôn có 4 phố : Chợ Rồng phố Nam An, chợ Phượng phố Định Trung, Chợ Đò Định phố Định Tân, Chợ Vị Hoàng phố Định Hữu. Đó là 4 phố chính còn có các phố lẻ tẻ phụ cận thì mỗi hàng một phố.
Tại huyện Đại An : Chợ hạng lớn có 2 chợ chợ Đồi, chợ Hải Lạng.
Chợ hạng trung có 8 chợ: Chợ Trạng Vĩnh, chợ Đông Cao thuộc tổng Trạng Vĩnh. Chợ Quần Liêu ở tổng Hải Lạng. Chợ Giáo Phòng, chợ Giáo Dục, chợ Văn Lâm thuộc tổng Sỹ Lâm. Chợ Yên Trung ở An Trung thượng, chợ Vĩnh Trị thuộc tổng Ngọc Chấn. Các chợ này đều trên bến dưới thuyền, các nơi vãng lai mua bán củi, đóm, than, dầu, cá tôm, muối ,mắm, vải vóc, nồi niêu, bát đĩa , nấm măng, ngô khoai thóc gạo, thuốc men… thường dùng hàng ngày không thiếu thức gì.
Chợ nhỏ có 15 chợ: Chợ Đông Ba hạ, chợ Trang Túc thuộc tổng Thượng Kỳ. Chợ Nhân Hậu tổng Hải Lạng. Chợ Cổ Liêu tổng Cổ Liêu. Chợ Đào Khê, chợ Liêm Hải, chợ Tân Liêu tổng An Trung hạ. Chợ Tử Vinh, chợ Mậu Lực, chợ Lương Xá hạ tổng Tử Vinh. Chợ Thôi Ngôi tổng Ngọc Chấn. Chợ Thanh Khê tổng Thanh Khê. Chợ Vỉ Nhuế, chợ Quảng Nạp tổng Vỉ Nhuế. Chợ Vụ Sài tổng Trạng Vĩnh.
Tại huyện Vụ Bản : Chợ hạng lớn có 2 chợ: Chợ Dư Duệ hay bán trâu bò, chợ Tiên Hương (tục gọi là chợ Phủ hay chợ Viềng) thường họp vào ngày 8 tháng giêng, bốn phương tụ hội mua bán đủ các loại, thường có thịt bò.
Chợ nhỏ có 13 chợ: Chợ La Xá, chợ Nhân Nhuế ở tổng La Xá. Chợ Hiển Khánh thuộc tổng Hiển Khánh. Chợ Hào Kiệt, chợ Lương Kiệt thuộc tổng Hào Kiệt. Chợ Vĩnh Lại (Si) tổng Hổ Sơn. Chợ Quả Linh thuộc tổng Trình Xuyên hạ. Chợ Trình Xuyên, chợ Tân Cốc ở tổng Trình Xuyên Thượng. Chợ Đại Đê, chợ Võng Cổ ở tổng An Cự. Chợ Bảo Ngũ thuộc tổng Bảo Ngũ. Chợ Mỹ Côi thuộc tổng Vân Côi.
Tại huyện Nam Trực: Chợ hạng lớn có 3 chợ: Chợ Bách Tính nơi huyện lị hay mua bán trâu bò, lợn gà các thức nuôi ăn… vải vóc thuốc men và các đồ xây dựng, chất đốt. Chợ Vân Chàng: Chợ họp ở trước đền nơi bãi tha ma, phiên chính là ngày 8 tháng giêng. Chợ Thi Nam: Có lò mổ trâu bò thuộc da đưa bán.
Chợ nhỏ có 20 chợ: Chợ Hưng Đễ, chợ Thượng Nông, chợ Tương Nam thuộc tổng Cổ Nông. Chợ Hiệp Luật, chợ Thạch Cầu, chợ Đồng Qũy thuộc tổng Bái Dương. Chợ Phù Ngọc, chợ Ngọc Tỉnh thuộc tổng Duyên Hưng. Chợ Tây Lạc, chợ Vân Cù thuộc tổng Sa Lung. Chợ Ba Lưu, chợ Gia Hoà, chợ Trực Chính thuộc tổng Thi Liệu. Chợ Lạc Đạo,chợ Cao Lộng, chợ Đồng Lư, chợ Dương A. Chợ Cổ Gia, chợ Thứ Nhất tổng Cổ Gia. Các chợ này có các thứ buôn từ thành phố về bán như thuốc
men, dầu nến, còn sở tại thì thóc gạo thịt cá, vải lụa, tơ vóc, đậu nành, tương mắm, rau dưa, khoai sắn…
Tại huyện ý Yên : không có chợ lớn.
Chợ nhỏ có 9 chợ: Chợ Ngọc Chuế, chợ Chuế Cầu, chợ Mực tổng Mặc Tử. Chợ Sở tổng Hưng Xá. Chợ An Hoà, chợ Thanh Nê(Nề) tổng Yên Cừ. Chợ Vạn Điểm thuộc tổng Phùng Xá. Chợ Lạc Chính, chợ Nguyên Bố thuộc tổng Phú Khê.
Tại huyện Phong Doanh : Chợ lớn 2 chợ: Chợ Lũ Phong(Sú), chợ Vũ Xuyên bán trâu bò gà lợncác thứ dân dụng đầy đủ.
Chợ nhỏ 4 chợ : chợ Hưng Thượng tổng An Lộc.Chợ Thượng Đồng tổng Thượng Đồng.Chợ Ngô Xá(Ngò) tổng Ngô Xá.Chợ Phong Xuyên tổng Bồng Xuyên.
Tại huyện Giao Thuỷ : chợ lớn có 4 chợ: chợ Hành Thiện ngày nào cũng họp cả ngày, bán mua đầy đủ các thứ thường dùng không khác gì thành phố, chợ Trà Lũ Trung, chợ Cát Xuyên, chợ Kiên Lao 5 ngày một phiên đầy đủ các thứ quý bán.
Chợ nhỏ 26 chợ: chợ An Phú, chợ Liêu Đông, chợ Hạ Miêu thuộc tổng Cát Xuyên. Chợ Lạc Quần, chợ Kiên Lao tổng Kiên Lao.Chợ Diêm Điền, chợ Duyên Thọ, chợ Đan Phượng, chợ Hoành Nha, chợ Hoành Nhị, chợ Hoành Đông, chợ Quất Lâm, chợ Ngô Đồng thuộc tổng Hoành Nha. Chợ Bùi Chu, chợ Phú Nhai thuộc tổng Thuỷ Nhai. Chợ Thanh Hương, chợ Đại Đồng thuộc tổng Hà Cát. Chợ Trà Lũ Bắc, Chợ Lạc Thiện, Thiên Thiện, chợ Thọ Vực, chợ Khê thuộc tổng Trà Lũ.
Tại huyện Mỹ Lộc : chợ nhỏ có 8 chợ: chợ Quang Xán thuộc tổng Như Thức. Chợ Đệ Nhất tại tổng Đệ Nhất. Chợ Thượng Hữu thuộc Đồng Phù. Chợ Đặng Xá, chợ Tiểu Liêm thuộc tổng Cao Đài.Chợ Bách Lộc thuộc tổng Bách Tính. Chợ An Lá thuộc tổng Giang Tả. Các chợ này bán đầy đủ lâm hải thổ sản và các chế phẩm thường dùng.
Tại huyện Trực Ninh : chợ lớn 1chợ: chợ Trung Lao, các thứ sản vật dân dụng đều có đủ cả. Chợ nhỏ có 12 chợ: chợ Nam Lạng, chợ Quần Lạc thuộc tổng Văn Lãng. Chợ Lịch Đông thuộc tổng Thần Lộ. Chợ Phương Để(Đáy) thuộc tổng Phương Để. Chợ Ninh Cường thuộc tổng Ninh Cường. Chợ Hương Cát, chợ Cát Chử nội, chợ Ngọc Giả thuộc tổng Ngọc Giả Thượng. Chợ Trung Hoà thuộc tổng Ngọc Giả Hạ. Chợ Duyên Lãng, chợ Quỹ Đê, chợ Liễu Đê thuộc tổng Duyên Hưng Hạ.
Tại huyện Hải Hậu : Chợ lớn 3 chợ : chợ Lương Quần Phương thượng có bán vải lụa tơ tằm, chợ Cồn Quần Phương hạ, chợ Đông Biên. Các chợ này bán đủ các thứ hải sản, các chế phẩm hải sản và lâm sản dân dụng.
Chợ hạng trung 3 chợ : Chợ Cầu Đôi Kiên Trung, chợ Đền Quần Phương thượng, chợ Thượng Trại.
Chợ nhỏ 18 chợ : Chợ Hà Lạn, chợ Lạc Nam, chợ Hà Quang, chợ Giáp Trung Thành thuộc tổng Kiên Trung. Chợ Quần Phương, chợ Trung trại, chợ Quần Phương hạ trại, chợ Phú Văn Nam, chợ Ninh Mỹ, chợ Cồn Tròn thuộc tổng Ninh Mỹ. Chợ An Lạc, chợ An Nghiệp, chợ An Trạch, thuộc tổng Ninh Nhất. Chợ Văn Lý, chợ Thương Điền thuộc tổng Tân Khai. 2 chợ Quần Phương Trung, 2 chợ Quần Phương hạ thuộc tổng Quần Phương. Các chợ này nói chung đều có bán chiếu thổ sản.
NGHỀ THỦ CÔNG
Nghề bạc, nghề thiếc, chạm khắc, vàng trang sức, thêu vẽ, đàn trống và nhạc khí, khảm đục ốc trai, xà cừ đều ở tại thành phố.
Đồng, gang, rèn sắt khắp nơi đều có. Nam Trực có Đồng Qũy(1), ý Yên có Vạn Điểm, Mỹ Lộc có Vô Hoạn, Phong Doanh có Tống Xá.
[Chú
thích : (1) Nói về nơi có nhiều nhất, tại thành phố có và các nơi có chỉ là nơi
tập trung hay có ít quy mô nhỏ.]
Thợ kim hoàn ở thành phố và các nơi đều có. ở Trực Ninh có Cát Chử nội, Xối
Đông.
Nghề rèn sắt ở thành phố và các nơi đều có. Tại Nam Trực có Vân Chàng, tại Vụ Bản có Bảo Ngũ.
Thợ mộc: ở thành phố và các nơi đều có. Phong Doanh có Ninh Xá, La Xuyên là nổi tiếng. Ngoài ra còn Mỹ Lộc có Đông Mặc. Giao Thủy có Hoành Nha, Trà Lũ. Nam Trực có Vũ Lao, Thứ Nhất, Cao Lộng. Vụ Bản có Vụ Nữ. ý Yên có Quang Điểm. Đại An có Đồng Bạn.
Thợ nề: Nam Trực có Vũ Lao, Lạc Đạo, Xối Tây. Vụ Bản có Tân Cốc. ý Yên có Quang Điểm. Đại An có Phúc Chỉ. Mỹ Lộc có An Cổ.
Thợ cưa: Trực Ninh có An Lãng. Vụ Bản có La Xá.
Thợ Đá: Vụ Bản có Thái La. ý Yên có Kinh Thanh. Trực Ninh có Nam Lạng.
Phong Doanh có Đô Quan.
Thợ sơn: Thành phố và các nơi lác đác không tinh xảo. Phong Doanh có Cát Đằng, có đền thờ tổ nghề. Mỹ Lộc có Hậu Bồi, Vụ Bản có Hổ Sơn Ngọ Trang.
Đan cót: Vụ Bản có Vĩnh Lại (Cổ Sư).
Dệt chiếu: Giao Thủy có Trà Lũ, Phú Nhai, Lạc Quần, Xuân Dục. Hải Hậu có Lạc Nam, An Đạo. Trực Ninh có Nam Lạng. Đại An có Tịch Nhi, Nhân Hậu, Hà Dương đoài, Tân Liêu, Liêu Hải, An Thịnh, Thụ ích, Đồng Tĩnh.
Dệt vải: Thành phố và các nơi đều có mà không nổi tiếng. Giao Thủy có Bùi Chu, Hành Thiện. Vụ Bản có Quả Linh. Nam Trực có Bái Dương, Hiệp Luật, Xối Thượng, Tương Nam. Mỹ Lộc có Trung Quyên, Quang Xán, Mai Xá.
Dệt lụa: Giao Thủy có Lạc Nghiệp. Trực Ninh có Phương Để. Phong Doanh có Ngô Xá. Hải Hậu có Quần Phương thượng, Quần Phương Trung và Quần Phương hạ.
Nghề gối mây: Giao Thủy có Thuận An. Hải Hậu có Hà Nam. Trực Ninh có Ninh Cường. Mỹ Lộc có Dị Sử. Vụ Bản có Tiên Hào.
ươm Tơ: Nam Trực có Đông Thượng, Quy Phú. Hải Hậu có Quần Phương thượng và trung.
Đan lưới gai: Giao Thủy có Chuỳ Khê, Lãng Lăng. Vụ Bản có Võng Cổ. Trực Ninh có Hạ Đồng. Mỹ Lộc có Bảo Long. ý Yên có dũng Quyết. Đại An có Hưng Thịnh. Phong Doanh có Phong Xuyên.
Đan bao cỏ: Nam Trực có Đô Quan, Bách Tính, Hạ trại. Hải Hậu có Kiên Lao, giáp Trung Thành.
Rèm tre: Nam Trực có Đỗ Xá.
ép dầu nam: Đại An có Tử Vinh.
Đồ tre như giường kỷ các đồ tre: Đại An có Lương Xá thượng, hạ.
Lược trải đầu: Nam Trực có Liên Tỉnh. Đại An có Dương Hồi.
Quạt giấy: Giao Thủy có Kiên Lao. Hải Hậu có Kiên Trung, giáp Hưng Nghĩa.
Thuyền tre gỗ : Giao Thủy có Trà Lũ trung. Hải Hậu có ba xã Quần Phương thượng, trung, hạ.
Thợ may : Các nơi đều có, nhưng ở thành phố thì khéo hơn vì có nhiều người ăn diện. Vụ Bản có Yên Duyên. ý Yên có Tu Cổ. Hải Hậu có ba xã Quần Phương thượng, trung, hạ.
Dệt màn : Trực Ninh có Dịch Diệp.
Lồng bàn : Trực Ninh có Lương Hàn.
Thợ nhuộm : Mỹ Lộc có Báo Đáp. Giao Thủy có Kiên Lao. Hải Hậu có 3 xã Quần Phương thượng, trung, hạ.
Thợ vẽ : Vụ Bản có Đồng Văn. Đại An có chợ Đồi.
Thợ cối : ý Yên có Bình Lương. Mỹ Lộc có Cao Đài.
Thợ làm mã : ở thành phố và một số nơi cũng có nhưng không khéo. Tục có câu “Thứ nhất thì tội hàng hoa, thứ nhì hàng mã, thứ ba hàng vàng”. Khéo hơn thì Đại An có chợ Đồi. Mỹ Lộc có Liễu Nha.
Làm lọng : ở thành phố có nhiều, các nơi khác gần như không có.
NGHỀ TRỒNG DÂU NUÔI TẰM
Từ triều Lê sơ đã giao việc đốc cho xã trưởng các xã, gần đây có phần kém hơn ngày trước.
Tại huyện Đại An : Đông Cao có 30 mẫu dâu. An Hạ có 10 mẫu dâu. Mậu Lực có 20 mẫu. Lương Xá có 10 mẫu. Tử Vinh có 15 mẫu.
Tại huyện Nam Trực : Lác đác ở các xã Trí An, Bách Tính, Hưng Đễ, Đô Quan có ước 34 mẫu dâu.
Tại huyện Giao Thủy : Lác Đác ở các xã Ngọc Cục, Nghĩa Xá, Thượng Phúc, Tang Điền có ước 96 mẫu dâu.
Tại huyện Mỹ Lộc : Lác đác ở các xã An Thuần, Lã Điền, Phú Hào, Bách Lộc, Trừng Uyên, Ngô Xá có ước 30 mẫu.
Tại huyện Trực Ninh : Tại các xã Phương Để, Lộ Xuyên, Lộng Khê, An Trung có quãng 20 mẫu.
Tại huyện Hải Hậu : Lác đác khắp các xã quãng 250 mẫu.
Ở ý Yên, Phong Doanh, Vụ Bản cũng có nhưng không nhiều.
NGƯ NGHIỆP
Nước ta nơi nào là đồng chiêm thì đều có người sống bằng nghề đánh cá. Thời Lý họ Trần tại Tức Mặc làm giàu từ nghề cá, vả lại ăn uống hàng ngày dùng mắm, do vậy nghề cá không đâu là không chú ý.
Cá biển : Giao Thủy có Quất Lâm, Hải Huyệt, Sa Châu thường dùng vôi trát vào thuyền để ra biển. Đại An có hai phường Thuận Hậu. Hải Hậu có Xuân Hà, Thương Điền, Quần Phương hạ trại, hay làm thuyền đan lưới ra biển bắt cá.
Cá sông : Giao Thủy có Hoành Nha, An Phú, Kiên Lao thường ở trên thuyền làm nghề đánh lưới. Đại An có Phù Đô, Giáo Phòng, Trạng Vĩnh, và phường An Tĩnh. Trực Ninh có Tân Lác lý, Lác Môn, Trung Hoà, Cát Chử nội, đều có phường Thủy Cơ. Vụ Bản ở phường thuỷ cơ Võng Cổ.
THỔ SẢN
Ngoài những thứ lúa tám, dự nếp, tẻ… ngô đậu, kê khoai… các thứ gia vị thì
có:
Dưa : Dưa hấu, dưa chuột, dưa bở… mướp bí, còn một số loại dưa khác. Khoai sọ, mài các loại. Hoa qủa: Mít mơ hồng mận đào vải nhãn cam chanh quất chấp, lựu na, chuối các loại, dừa cau, muỗm bưởi, kỳ đà, phật thủ. Hoa: Sen cúc, tử vi, tường vi, hải đường, ngọc lan, dạ hương, nhài huệ, lan… hồng cúc thược dược, phù dung, thủy tiên, ngọc trâm, mẫu đơn.
Rau ăn : Muống rau rút, cần, ngổ, răm vừa ăn làm gia vị lại làm thuốc, tía tô, kinh giới, bạc hà, dấp cá, mùi, thì là, lá lốt, hành, tỏi, gừng, riềng, cải các loại, rau khúc, ớt, tiêu.
Cây làm thuốc thông thường: ngoài các gia vị kể trên còn dùng cây sung, cây duối, cây găng, mềm tên, bưởi bung, ổi, đu đủ, hương nhu, trầu cau, dây lá thiên lý, lá bàng biển, cà độc dược, cây cải dại, rau diếp dại, bồ bồ, dành dành, địa liền, tóc tiên, thầu dầu tía, cấy bấn, đinh lăng, cây đau xương, cây cơm nếp, cứt lợn, cây lức, cây khế, cây thị, hoàng đằng, nhọ nồi, củ gai, bán hạ, thài lài tía, cây quan âm, cây cối xay, cây gấc, cây lạc tiên, cây táo chua, cây vông nem, lá mơ, cỏ gà, cây chỉ thiên…
Các loài thủy sản: Cá chép, trôi, trắm, chày diếc… cá rô, cá quả, trê… lươn, chạch…ba ba, rùa, giải… cá chim, thu… tôm tép, cua cáy, rạm…
Các loài chim: Gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu, cuốc, cò, âu, mòng két, sáo, sẻ, vàng anh, vẹt, khiếu…
Các loài thú: Trâu, bò, ngựa, dê, lợn, chó, mèo, khỉ…. Không riêng gì thực
phẩm còn kéo cày kéo xe như trâu bò ngựa với miền tây tỉnh.
MỘT SỐ ĐẶC SẮC CỦA ĐỊA PHƯƠNG
Giao Thủy : Xã Ngọc Cục có rau Quan Âm. Xã Ngọc Cục và xã Thọ Vực có cam đường. Liêu Đông có hồng không hạt. Hà Cát và Lạc Thiện có rươi.
Vụ Bản : Bách Cốc và Trang Đồng Văn có vải ngọt. Trang Nghiêm và Yên Thái có bách nhãn lê.
Trực Ninh : Cát trung, Cát hạ, Ninh Cường, Cát Chử, Lác Lý, Lác Môn đều có rươi, sứa, cá chạch, tôm. Lộng Khê có trầu không, Cát Chử có loại cam ngon.
Đại An : Các xã ven biển của tổng Sỹ Lâm có cua biển, cá chạch, cá chim, sứa,
rươi.
ở Giao Thủy : Dũng Trí, Thuận An có nhiều ngô, ước 90 mẫu. Hành Thiện có khoai nước 100 mẫu. Quất Lâm, Văn Trì, Liên Trì trồng dưa hấu ước 10 mẫu.
ở\ Mỹ Lộc : Ven sông có trồng ngô gồm 330 mẫu.
ở Trực Ninh : Tại hai tổng Phương Để, Ninh Cường có trồng nhiều kê, ngô và rau diếp.
ở Hải Hậu : Trồng hành ước 60 mẫu, rau các loại ước 100 mẫu, dừa có hơn 10 mẫu, tại Ninh Nhất và Quần Phương.
ở Đại An : Ngô nếp ước 880 mẫu, khoai nước 3000 mẫu, Hải Lạng, Nhân Hậu, Hưng Thịnh các vùng ven sông có nhiều.
ở Nam Trực : Khoai nước có 1250 mẫu. Đậu nành 26 mẫu, ngô 700 mẫu. Rau các loại 100 mẫu. Dưa 100 mẫu, mía đỏ 50 mẫu, thuốc lào thuốc lá 50 mẫu. Cau 30 mẫu, cây cảnh các loại ước 160 mẫu, dừa 20 mẫu.
ở Vụ Bản : Ngô ước 1500 mẫu, khoai ước 1600 mẫu. Bông 20 mẫu.
ở ý Yên : Ngô ước 100 mẫu, bông 170 mẫu.
ở Phong Doanh : Khoai 100 mẫu, đậu nành 50 mẫu, bông 30 mẫu, cây cảnh ước 20 mẫu, dừa 10 mẫu.
ở ngoài thành phố : Tại phố Định Trung có một số cây lim, ngoài ra rải rác có tre, nứa, vầu và xoan giổi các loại.
ở Xuân Trường : Tại bãi sông vùng Hoành Nha, Trà Lũ, Bùi Chu có chồng cây to để lấy gỗ.
ở Vụ Bản : Tại ven bờ sông Vĩnh Lại có một số cây xoan tre.
ở Nam Trực : Vùng bãi sông Tương Đông Quy Phú có tre luồng và cây lấy gỗ, ngoài ra ven sông Đồng Côi Cổ Chử cũng có tre trúc.
ở Hải Hậu : Trồng tre luồng, xoan lim vùng ven sông chợ Đông Biên, chợ Cồn Trung Kiên.
KHAI KHẨN
Thời Lê Hoàn có Ninh Hữu Hưng người ở Chi Phong Gia Viễn khẩn đất Thiết Lâm mở ấp Ninh Xá (Phong Doanh).
Thời Lê Hoàn có bà Hoàng Thị Đậu người ở Đắc Lực Vụ Bản lập ấp ở Đồi Thượng (Đại An).
Thời Trần có Trần Khánh Dư Thiên tử nghĩa nam mở ấp Đông Khê Vọng Trung (thuộc Đại An).
Thời Trần có Chiêu Văn vương Nhật Duật mở ấp Lâm Thị (Đại An).
Thời Hồ có Ngô Miễn người Bắc Hà xuống mở ấp Nhật Hy (Giao Thủy).
Thời Trần có mạt con ông Ngô Miễn là Ngô Quý Duật mở ấp Tướng Loát (Đại An).
Thời Lê sơ có Bùi Ngọc Oánh ở đất Thọ Tung mở thêm đất phía đông xã. Nay thuộc Nam Trực.
Thời Lê Trịnh có các họ ở Vụ Bản xuống lập ấp Diêm Điền (Giao Thủy).
Thời Lê Trịnh có các họ Trần Hoàng mở thêm đất Quy Phú (Nam Trực), sau hai ông lại về Nghi Tàm (Hà Nội).
Thời Lê Trịnh có Trịnh Thị Tâm Hảo mở lại làng Vị Khê (Mỹ Lộc).
Thời Lê Trịnh có họ Đàm, họ Nguyễn quê ở Trung Lập Vĩnh Bảo xuống mở thêm đất Ninh Cường (Trực Ninh).
Thời Lê sơ có Lương Thị Minh Nguyệt mở thêm đất ruộng tro ở Ngọc Chuế (ý Yên).
Thời Nguyễn có Nguyễn Công Trứ quan dinh điền sứ lập tổng Hoành Thu (Giao Thủy), tổng Ninh Nhất (Trực Ninh).
Thời Nguyễn có ông Đặng Ngọc Toán quê ở Hành Thiện mộ dân lập tổng Lạc Thiện (Giao Thủy).
Thời Nguyễn có ông Phạm Văn Nghị quê ở Tam Đăng lập tổng Sỹ Lâm (Đại
An).
Thời Nguyễn có ông Đỗ Tông Phát quê ở xã Quần Phương hạ lập tổng Tân Khai, Quế Hải (huyện Hải Hậu).
Gần đây khẩn thêm : ở Đại An: Vùng ngoại đê ven biển thuộc tổng Sỹ Lâm, đất trồng cói có khoảng 200 mẫu, chưa trồng được có khoảng 100 mẫu. ở Nam Trực: Vùng bãi sông Nhị thuộc thôn Cửu An. ở Giao Thủy: Tại địa phận tổng Lạc Thiện 14 ấp đã thành điền khoảng 4500 mẫu, chưa thành điền khoảng 1900 mẫu. ở Hải Hậu: ở ấp Xuân Thủy ước 3800 mẫu, Phú Lễ, Phú Văn nam ước 1000 mẫu, ấp Phúc Hải ước 350 mẫu, xã Xuân Hà ước 2000 mẫu đương khẩn.
Phụ chép các trưng chủ khẩn đất thời gần đây : Thời Đồng Khánh có người ở Nghĩa Xá (Giao Thuỷ) lập trại Xuân Hoà ở bãi sông. Khu trại Lác Mô (Trực Ninh) trước chỉ là vùng bờ biển, sau có mấy người ở vùng Tương Đông xuống khẩn đất, sinh sôi dần ra, thành một ấp, rồi tiếp theo lại khẩn lại lập phường Lác Môn. Thời Tự Đức người ở trại Đoàn Thái, Lâm Văn Khoát đem 50 đinh và một số phụ theo Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ khẩn đất lập Tân Lác Lý. Thời Thành Thái người xã Đại An (Vụ Bản) đăng ký khẩn đất ven sông lập thôn Cửu An. Vốn ở tổng Thượng Kỳ (Đại An) có khu đất hoang, có người ở huyện Nam Trực tên là Bùi Văn Châu chiêu dân khẩn đất lập xã Cốc Thành, dần dần đông người đến ở, nay số đinh đã tới 500, ruộng có tới 750 mẫu. ở xã Quần Liêu tổng Hải Lạng (Đại An) có một vùng đất hoang. Năm Thành Thái có người trong xã là Trần Ngọc Quế chiêu dân đã có ít đất tư ở đó rồi, di hẳn đến ở khai thêm lập trại Liêu Ngạn. Thời quan Dinh điền Doãn Khuê, có người đến lập trại Thư Điền gần thôn Tây Thành Nguyễn Vĩnh, xã Giao Lạc Trần Hữu Công, xã Ân Phú Lại Trình, xã Văn Giáo Lại Thế Vĩnh, trại Sỹ Hội Trần Văn Thiện, trại Văn Lâm Đinh Văn Thùy, trại Chỉ Thiện Vũ Đình Sỹ, trại Quần Phương Đỗ Như Sơn, trại Thiên Bình Đào Văn Long, ấp Thành An Đoàn Văn Tuân, xã Đồng Quỹ Trần Ngọc Quang, thôn An Lạc Tô Văn.
RUỘNG MUỐI
Huyện Giao Thủy : Có khu đất thuộc xã Quất Lâm ruộng có hơn 90 mẫu. Số người làm muối kể cả nam nữ lão ấu hơn 400. Tại cồn Bạch Long ven biển tổng Hoành Nha có khu khoảng hơn 100 mẫu làm muối được chưa có ai đến ở làm.
Huyện Hải Hậu : Tại 6 xã thuộc tổng Tân Khai và Cồn Tròn hạ trại tổng Ninh Mỹ, các nơi này gần biển có ruộng muối khoảng 1200 mẫu. Số người làm nghề phơi muối có 1850 người chính và 200 người phụ.
CÔNG SỞ
Việc xây dựng đều do bộ công tài quyết ở trung ương và cơ quan công chính đảm trách ở tỉnh.
Công sở của quan Tây:
Toà chánh sứ.
Toà trị sự: Có phó công sứ, nam chính chưởng ấn, tham biện thành phố.
Toà án tây.
Sở Ngân khố.
Sở Trước bạ.
Sở Thương chính
Sở Điện báo.
Sở Lục lộ.
Sở Dục anh bảo sản.
Sở Liệu bệnh.
Trường Pháp Việt: Có trường con gái, trường con trai, trường kỹ nghệ.
Sở Hội học: Dành cho quan Tây học tiếng Việt và xem sách Tây phương.
Sở Binh quan: Như tam hoa quan, ngũ hoa quan.
Trại lính: Có lính khố xanh, khố đỏ và các hạ cơ binh.
Sở Đề lao.
Sở Sen đầm.
Sở Giám thành.
Các công sở ở phủ, ở huyện.
Toà đại lý Lạc Quần.
Sở điện báo Văn Lý (Hải Hậu).
Nhà tắm Quất Lâm (ở Giao Thủy).
Đồn Tam toà (ở huyện Đại An).
Trường Pháp Việt tại các phủ huyện.
Công sở của các quan Nam:
Dinh tổng đốc, khi cần có đặt thêm chức Hộ đốc.
Quan Bố chính.
Quan án sát.
Quan Đốc học.
Tại phủ huyện có các công sở của tỉnh thu nhỏ lại.
BƯU CHÍNH
Thời xưa cứ theo lệ chuyển đệ văn thư, trên các lộ đặt các trạm, ước nửa ngày đường đi bộ đặt một trạm. Tại trạm có chức dịch mục một người, trạm to đặt hai
người và dịch phu từ 4 đến 6 người, thường trang bị ngựa từ 3 đến 5 con. Gần đây thì gọi là ty hành nhân điều khiển các người ở nhà dây thép.
Cơ quan Điện báo tỉnh và thành phố.
Điện báo Giao Thủy, do toà Đại lý Lạc Quần điều khiển.
Điện báo Hải Hậu: Do Đại lý Lạc Quần và đồn trưởng đồn thương chính Văn Lý giải quyết.
Nhà dây thép Giao Thủy 6 nơi: Nhà Ngọc Cục, nhà Bùi Chu, nhà Lạc Quần, nhà Quất Lâm, nhà Nam Điền, nhà Ngô Đồng.
Nhà dây thép ý Yên một nhà ở Cát Đằng.
Nhà dây thép Trực Ninh 3 nhà: Nhà Cát Chử, nhà Thần Lộ, nhà Ninh Cường.
Nhà dây thép Mỹ Lộc: Nhà Đặng Xá, nhà Bảo Long.
Nhà dây thép Nam Trực có 2 nơi: Nhà Tuy Phú, nhà Kinh Lũng.
Nhà dây thép Vụ Bản có 3 nhà: Nhà Phố Phủ, nhà Hải Lạng, đồn Tam Toà.
Nhà dây thép Hải Hậu có 3 nhà: Nhà huyện lị (ở Quần Phương hạ), Nhà chợ Cồn, nhà Hà Lạn.
ĐỒN PHÒNG
Trước đây không kể nơi quân phòng thành, ngoài thành có thủy binh đồn, ở phủ huyện không kể quân ở tại chỗ tại bờ biển ngã ba tư sông đều lập đồn phòng xem xét, ví như đồn Bình Hải, đồn Bô Cô, đồn Hữu Bị, đồn Ngô Đồng, đồn Hoàng Đan, tất cả đều do quan Đề Đốc tài quyết, gần đây thì do quan Binh chính phân lập.
Tại Giao Thủy có đại lý Lạc Quần, nhà tắm Quất Lâm.
Tại ý Yên có đồn Trầm Phương.
Tại Đại An có đồn Tam Toà ở thôn Thụ ích có một quan Tây, nhất hoa quan phòng giữ.
Ty rượu ty thuốc
Rượu và thuốc phiện từ xưa vua Lý Nhân Tông, rồi các đời sau vua Lê, Nguyễn đều có chiếu chỉ ngăn cấm phạt giữ. Song gần đây do việc quan lưu buôn bán với bên ngoài, các thương cảng thương nhân do lợi dụng nên trở thanh không ngăn cấm được. Đó là một điều đáng tiếc mà chẳng còn phép giữ nữa.
Tại thành phố, rượu một ty lớn ở phố Đa Bô, ba ty trung ở phố Ca Rô, Nam Long, Định Tả. Tại các phố nhỏ có 190 ty. Nha Phiến: 1 ty lớn ở sở thương chính. Các ty nhỏ 35 nơi.
Tại huyện Đại An: Rượu có 3 ty lớn ở Phố Phủ, đồn Tam Toà, chợ Giáo Phòng. Tại các tổng xã đều có 95 nơi. Nha Phiến đều là các ty nhỏ 15 nơi.
Tại huyện Vụ Bản: Rượu và nha phiến có 2 ty lớn ở Phố huyện và Hào Kiệt.
Các ty nhỏ có 105 nơi.
Tại huyện Nam Trực: Rượu và nha phiến có 2 ty lớn tại chợ Bách Tính và Giáp Ba xã Trực Ninh. Các ty nhỏ tại các xã có 150 nơi.
Tại huyện ý Yên: Rượu và nha phiến: 1 ty lớn ở huyện lị. Các ty nhỏ tại các tổng xã 20 nơi.
Tại huyện Phong Doanh: Rượu và nha phiến: 1 ty lớn ở Thượng Đồng. Các ty nhỏ ở các tổng xã 25 nơi.
Tại huyện Mỹ Lộc: Rượu và nha phiến có 4 ty lớn, tại Mỹ Trọng, Đệ Tam, Đặng Xá và Đồng Phù. Các ty nhỏ tại các tổng xã 75 nơi.
Tại huyện Trực Ninh: Rượu và nha phiến có 2 ty lớn: Tại Ninh Cường và Cát Chử nội. Rượu các ty nhỏ ở các tổng xã 150 nơi. Nha phiến các ty nhỏ có 10 nơi.
Tại huyện Giao Thủy: Rượu và nha phiến: Ty lớn 5 nơi tại Ngọc Cục, Trà Lũ, Kiên Lao, Ngô Đồng, Quất Lâm. Các ty nhỏ ở tổng xã 225 nơi.
Tại huyện Hải Hậu: Rượu và nha phiến có 3 ty lớn: Tại chợ Đông Cường, chợ Cồn và Hạ trại. Ty rượu nhỏ tại các xã có 160 nơi, nha phiến các ty nhỏ tại huyện lị và các xã có 29 nơi.
NHA THƯƠNG CHÍNH
Nước ta từ thời Lý sơ đã đặt ra lục thương thuế, còn thủy thương thuế thì từ niên hiệu Gia Long(1). Việc thuế này song hành với việc vẽ bản đồ thống nhất của quốc gia và hệ thống đơn vị hành chính, không khu biệt núi rừng xa xôi, biển khơi mới có. Đó là việc nên làm để phòng ngừa sự biến cố của phép vua thua lệ làng mà tiền triều từng giẫm lên nhau sai sót ví như việc đặt các vùng tự trị.
[Chú
thích : (1) Lục thương thuế: Thuế trên bộ. Thủy thương thuế: Thuế ở dưới thuyền
hộ khi cập bến.]
Sở thương chính thành phố: 1 nơi.
Toà thương chính Giao Thủy: 4 nơi gồm: Lạc Quần, Ngô Đồng, Quất Lâm 2
nơi.
Toà thương chính Đại An: 2 nơi gồm: Hải Lạng và thương chính xưởng muối (có 3 chi nhánh muối).
Toà thương chính Hải Hậu 25 nơi. Gồm: Xuân Hà 5 nơi, Kiên Chính, Quần Phương, Hạ trại đều 4 nơi, Thương Điền 3 nơi, Văn Lý, Tam Điền, Hoà Định đều 2 nơi, Lục Phương, chợ Cồn, Doanh Châu đều 1 nơi.
ĐỊNH THUẾ CHÍNH NGẠCH
Thuế đinh điền là chính ngạch, thuế khai mỏ, muối, rượu, thuốc, lâm hải sản là ngoại ngạch, buôn bán là thương ngạch đều do bộ công chỉ đạo.
Thuế chính ngạch thì đinh chia làm 2 hạng, điền chia làm 3 hạng, đất chia 4 hạng. Dưới đây là định thuế chính ngạch:
Huyện Đại An: 142.300 đồng.
Huyện ý Yên: 60.200 đồng.
Huyện Phong Doanh: 45.000 đồng.
Huyện Mỹ Lộc: 82.500 đồng.
Huyện Vụ Bản: 142.605 đồng.
Huyện Nam Trưc: 95.400 đồng.
Huyện Trực Ninh: 125.300 đồng.
Huyện Hải Hậu: 90.300 đồng.
Huyện Giao Thủy: 152.620 đồng.
HỆ THỐNG QUAN LẠI
Trước khi có sự bảo hộ của nhà nước Pháp:
Tỉnh đường: Có chức tổng đốc (hoặc đặt thêm chức hộ lý tổng đốc từ 1 đến 2 vị), Bố chính, án sát và quan Đốc học.
Phiên ty: Thông quan, Kinh lịch (bát phẩm 8 vị, cửu phẩm 7 vị) thư lại 35 vị.
Niết ty: Thông phán, Kinh Lịch (Bát phẩm 2 vị, cửu phẩm 4 vị) thư lại 25 vị.
Học nha: Tự thừa, hiệu sinh (2 vị).
Đề đốc: Cơ binh tránh phó lãnh binh 2 vị, tác chiến lãnh binh 1 vị, thủy vệ chánh phó lãnh binh 2 vị. Cơ binh có 8 cơ: Cơ Hùng Tiền, cơ Hùng Hậu, cơ Hùng Tả, cơ Hùng Trung, cơ Tiệp Tiền, cơ Tiệp Hậu, cơ Tiệp Tả, cơ Tiệp Trung. Mỗi cơ 10 đội, mỗi đội 50 người. Mỗi cơ có chức chánh quản cơ và phó quản cơ, mỗi đội có 1 suất đội, 5 đội trưởng, 10 ngũ trưởng, cơ có 1 điển bạ và 10 thư lại. Thủy binh có 3 vệ, mỗi vệ 3 đội, mỗi đội 50 người. Mỗi vệ có chánh phó quản vệ là 2 người, mỗi đội có 1 suất đội, 5 đội trưởng, 10 ngũ trưởng, mỗi vệ có 1 điển bạ và 10 thư lại. ở Nam Định có tả vệ gồm 500, chia làm 10 đội. Có chức chánh phó quản vệ (2 người), chức suất đội, chức đội trưởng (5 người), chức ngũ trưởng (10 người), chức điển bạ, chức thư lại (10 người). Và ba đội tuần thành, 3 đội pháo thư đều do chức Thành Thủ uý điều khiển, 6 đội này mỗi đội có 1 chức suất đội, 5 vị đội trưởng, 10 vị ngũ trưởng, 1 vị thư lại. Cả 6 đội này có 1 chức điển bạ.
Tại phủ: Có chức Tri phủ (lúc cần thì đặt thêm chức thương tá (bang tá) từ 1 đến 2 vị), chức Giáo thụ, chức lại mục, chức thông lại 6 vị (lúc cần có thể đặt thêm 1 hay 2 vị nữa. Dưới thông lại thường đặt 4, 5 vị phụ ngạch), chức lệ mục, còn có lệ binh 40 người, trú phòng đội có 1 đội trưởng và 10 người lính (có khi hơn hoặc kém, ví như phủ Nghĩa Hưng có tới 20 người).
Tại huyện: Có chức Tri huyện, chức Huấn đạo, chức lại mục đều 1 người, chưc thông lại 4, 5 người, chức lệ mục 1 lãnh đạo lệ binh 20 người. Trú phòng (nhiều ít do phủ bố trí).
Sau khi có sự bảo hộ của nhà nước Pháp: Tỉnh đường: Tổng đốc, án sát, Đốc học.
Phiên ty: Thông phán 1 viên bát phẩm 1 viên, cửu phẩm 2 viên, thư lại 6 viên.
Niết ty: Kinh lịch 1 viên, bát phẩm 1 viên, cửu phẩm 2 viên, thư lại 6 viên.
Học nha: Hiệu sinh 1 viên.
Phiên đường: Hậu binh 7 người. Lệ mục 1 người.
Niết đường: Hâụ binh 5 người. Lệ mục 1 người.
Học đường: Hậu binh 3 người.
Phòng thành: 1 viên.
Tại phủ: Tri phủ, Giáo thụ, lại mục (đốc các việc chỉ đạo lại lệ làm việc), thông lại 3 viên (giữ việc binh lương, xét việc kiện tụng tội phạm, đê đường…). Lệ mục 1 viên (đốc thúc lính lệ làm việc sai phái…), lính lệ 7 người, lính phòng thủ 10 người.
Tại huyện: Tri huyện, Huấn đạo, lại mục, thông lại 3 vị, lệ mục, lính lệ 6 người, cơ binh phòng thủ 7 người.
BINH NGẠCH
Khi triều ta thống nhất đất nước, tuyển lính cứ 1 đinh thì lấy 1, Nam Định cũng nằm trong điều lệ này, đều do binh bộ đặt ra. Gần đây thì tuyển mộ tuỳ theo, lâm thời quyết định công việc. Dưới đây là hiện trạng lính tráng đang làm việc của từng huyện:
Đại An: Các sắc binh gồm 442 người: Quân đội dự bị có 216 người. Pháo binh 7 người, lính khố đỏ 117 người, lính khố xanh 80 người, lính cơ 8 người, cảnh sát 8 người, lính sen đầm 2 người, lính thương chính 3 người, lính trạm 1 người.
Phong Doanh: Các sắc binh 214 người: Lính khố đỏ 39 người, lính khố xanh 24 người, dự bị 61 người, lính bạch lô 1 người, lính cơ 1 người, lính đầm sen 1 người, lính huyện lệ 6 người, lính tỉnh hậu 2 người.
Ý Yên: Các sắc binh gồm 294 người: Khố đỏ 129 người, lính khố xanh 70 người, lính dự bị 84 người, lính lệ 7 người, lính trạm 4 người.
Vụ Bản: Các sắc binh gồm 286 người: Khố đỏ 177 người, lính khố xanh 64 người, lính cơ 9 người, lính bạch nô 4 người, cảnh sát 7 người, lính lệ 10 người, lính trạm 10 người, lính tỉnh hậu 5 người.
Mỹ Lộc: Các sắc binh có 484 người: Khố xanh 194 người, khố đỏ 214 người, cảnh sát 5 người, pháo binh 13 người, lính cơ 52 người, lính bạch nô 4 người, lính thương chính 2 người.
Nam Trực : Các sắc binh có 412 người: Khố đỏ 183 người, khố xanh 67 người, sen đầm 2 người, cảnh sát 6 người, lính dự bị 113 người, lính thương chính 5 người, tỉnh lệ 2 người, huyện lệ 8 người, pháo thủ 2 người, lính trạm 5 người, lính cơ 19 người.
Trực Ninh : Các loại lính gồm 483 người: Khố xanh 101 người, khố đỏ 221 người, lính dự bị 153 người, lính cơ 8 người.
Giao Thủy : Các loại lính gồm 791 người: Khố đỏ 399 người, khố xanh 100 người, dự bị 261 người, cảnh sát 1 người, lính bạch nô 7 người, lính trạm 7 người, lính lê 7 người, lính thương chính 6 người, lính cơ 3 người.
Hải Hậu : Các loại lính 385 người: Khố đỏ 108 người, khố xanh 107 người, quân dự bị 131 người, pháo thủ 14 người, lính cơ 6 người, sen đầm 1 người, cảnh sát 2 người, lính bạch nô 8 người, thủy binh 2 người, lính lệ 6 người.
(Hết tập Hạ)
Mục lục
Tập Thượng
Tựa
Diên cách
Cương vựa
Điền thổ
Sông núi
Hương lộ, quan lộ
Cầu
Đường thuỷ
Đê bối
Danh thần, danh tướng
Đàn bà tiết nghĩa
Nghịch tặc
Tập Hạ
Phong tục
Tôn giáo
Cổ tích
Khí tiết
Ca dao tục ngữ
Số đinh
Thương mại
Nghề thủ công
Nghề trồng dâu nuôi tằm
Ngư nghiệp
Thổ sản
Khai khẩn
Ruộng muối
Công sở – Bưu chính
Đồn phòng
Ty rượu – Ty thuốc
Nha Thương Chính –
Định thuế chính ngạch
Hệ thống quan lại
Binh ngạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét