Phan Bội Châu trong thời gian mười lăm năm
cuối đời, sống ở Huế (1925-1940), có để lại một cuốn Tạp ký. Lúc này ông không
còn tâm thế của người đứng đầu ra vận động nghiên cứu nước mà thiên về cái nhìn
của một công thức từng trải, đau lòng trước tình trạng lạc hậu của đất nước.
Dưới đây là một đoạn trong cuốn Tạp chí nói
trên, cụ Sào Nam nhận xét về không khí bùn bồ câu nhác thường thấy phổ biến ở
lễ hội của người Việt – miếng ăn quá to, người ta chỉ nghĩ đến ăn, tranh giành
ngôi thứ thứ hai cũng được ăn chỉ:
Tế có nghĩa là giao tế vì nó ở trong phạm
vi nghi lễ. Quá lắm thì xa xỉ, không đúng thì bủn bổ, đều chưa hợp lý.
Dân gian tế tự, nghi thức chưa đủ, mà còn
đùa bỡn vật mọn, cả nước như cuồng. Trước lúc chưa sinh thì Tiếng nói kỵ binh đòi
ăn tìm ăn. Nghe chiến hai tiếng “lễ Tất“, ai ai đều nhao nhao. Bưng mâm thì ăn
ngay trước cửa thần, thú rượu thì uống ngay trước mặt thánh. Đến khi yên tĩnh,
trên các quan viên, dưới đến bình dân, ngồi đứng lung tung. Sau khi uống một
cốc hai chén rồi, Giáp thì đánh Ất, Ất thì đánh Bính, Nậm Nỉ suy. Yên chí chia
thịt chưa đều thì đua sức đua hơi ngay ở đấy, để chia tôn ti, phân biệt thứ
bậc.
Trương Hữu Quýnh trong bài Tìm hiểu những
mặt giới hạn và tiêu cực trong di sản truyền thống của dân tộc ta cho biết đầu
thời Nguyễn, Gia Long từng có một đạo dụ liên quan đến tình trạng lễ lễ ở các
làng; this bắt đầu bằng một nhận xét:
Vào đám
hát đám đông thì vài đêm thứ bảy, ít nhất là vào tháng tám. Chèo thuyền hát
hỏng ăn xa hoa, tiêu không tiếc của, rồi lại đua thuyền múa rối, đủ mọi thứ trò
chơi. Lại kén lấy trai tơ gái trẻ đánh bài. Tưởng là thờ thần, thực sự là để
đồng lòng giáo dục. Ngân hết thì sinh ra đóng góp, cầm bán ruộng công.
Trong các tiểu thuyết của các nhà văn
tiền chiến, lễ hội cũng thường hiện ra như một khung cảnh ồn ào luộm thuộm và
mang nhiều tính cách tầm thường. Trong tiểu thuyết Lan và Hữu, nhà văn Nhượng
Tống sau miêu tả cảnh đi hội chen chúc tinh thần, lại đặc biệt hơn phiền muộn
về tình trạng nguy hiểm mất vệ sinh ở các chùa
Nếu tôi phải bồi thường ta bắt đi đầy thì
tôi ra Côn Đảo ba năm tôi không sợ bằng đầy tôi nơi cửa chùa Thiên Trù minh
bạch ba tháng hội.
Thực sự không khó khăn gì nhưng cần phải
chứng minh tính đúng đắn của các nhận xét trên. Báo chí thời nay cũng đã hé lộ
tình trạng tương tự được tìm thấy.
Vấn đề không phải chỉ là công việc tổ chức
luộm thuộm, người xe chen lấn ùn tắc, mà còn ở cảm giác dung tục mà con người
hiện nay mang tới lễ hội. Bỏ qua mức tối thiểu của kính thước, người ta đi chỉ
để yêu cầu lợi ích.
Hội Hùng thần mùa xuân năm 2002 thường được
ghi nhận làm việc ra một chiếc bánh giày 1,8 tấn - công việc này về sau đã được
đưa vào sách kỷ lục Guinnes. Nhưng đây là số phận của vật thiêng thiêng đó.
Ngày 9-3 âm lịch trên đường chuyển đến nơi hành hành lễ, chiếc bánh bị trăm
người xúm quanh xô đẩyg rút. Bà đi hội đã tự nhiên thụ lộc. Trong khoảng thời
gian hơn một giờ đồng hồ, từ 10 đến 11h30, chiếc xe hơi hơi hoàn toàn.
Báo Tiền Phong ra ngày 22-4-2002 cho biết
như vậy. Trang web này tôi chỉ đọc báo tiền phong riêng, ngoài ra không có bất
kỳ thông báo nào đưa ra sự kiện “hi hữu“ này. Về sau cũng không ai nhắc tới,
coi như không có.
VTN 2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét