I/ BẮC THUỘC LẦN I
Thời kỳ
Bắc thuộc lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 218 TCN hoặc 179
TCN hoặc 111 TCN đến năm 39, dưới sự cai trị của phong kiến Trung Quốc.
KỶ THUỘC TÂY HÁN
Chuyên mục: Bắc thuộc lần I
Tân Mùi,
[110 TCN], (Hán Nguyên Phong năm thứ 1). Nước Việt ta đã thuộc về nhà Hán. Nhà
Hán cho Thạch Đái làm Thái Thú 9 quận. (Chế độ nhà Hán lấy châu lãnh quận, trừ
hai quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ đều ở giữa biển, còn 7 quận thuộc về Giao Châu, Đái
làm châu Thái thú63. Thời Tây Hán, trị sở của Thái Thú đặt tại Long Uyên, tức
là Long Biên, thời Đông Hán đặt tại Mê Linh tức là Yên Lăng64. Đến khi Đái
chết, Hán Chiêu Đế lấy Chu Chương thay. Đến cuối đời Vương Mãng, châu mục Giao
Châu là Đặng Nhượng cùng các quận đóng chặn bờ cõi để tự giữ. Tướng nhà Hán là
Sầm Bành vốn quen thân với Nhượng, gửi thư cho Nhượng bày tỏ uy đức của nhà
Hán. Thế rồi [Nhượng] bảo Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và Thái thú các quận
là bọn Đỗ Mục sai sứ sang cống hiến nhà Hán. Nhà Hán đều phong cho những người
ấy tước hầu. Bấy giờ là năm Kỷ Sửu thời Hán Quang Vũ năm Kiến Vũ thứ 5 [29].
Tích Quang người quận Hán Trung, khi ở [1b] Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy dân. Lại
lấy Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân. Diên là người Uyển [huyện]. Tục người Cửu
Chân chỉ làm nghề đánh cá, đi săn, không biết cày cấy. Diên mới dạy dân khai
khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng, trăm họ no đủ. Dân nghèo không có sính lễ
cưới vợ, Diên bảo các trưởng lại trở xuống bớt bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một
lúc lấy vợ có đến 2.000 người. Diên coi việc được 4 năm thì bị gọi về. Người
Cửu Chân làm đền thờ. Những người đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong tục văn
minh của đất Lĩnh
Kỷ Hợi,
[39], (Hán Quang Vũ Lưu Tú, Kiến Vũ năm thứ 15) . Thái thú Giao Chỉ là Tô Định
chính sự tham lam tàn bạo, Trưng Nữ Vương dấy binh đánh.
Trở lên
là [kỷ] thuộc nhà Hán, từ năm Tân Mùi đến năm Kỷ Hợi, cộng 149 năm [110 TCN -
39].
(Nguồn: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
TRIỆU VŨ VƯƠNG - TRIỆU ĐÀ
Chuyên mục: Nhà Triệu
Vũ Đế Ở
ngôi 71 năm [207 - 136 TCN], thọ 121 tuổi [256 - 136 TCN].
Họ
Triệu, nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại Tần, chiếm giữ đất Lĩnh
Họ Triệu,
tên húy là Đà, người huyện Chân Định1 nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở
tỉnh Quảng Đông)2 .
Giáp
Ngọ, năm thứ 1 [207 TCN] , (Tần Nhị Thế năm thứ 3). Vua chiếm lấy đất Lâm Ấp3
và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vương.
Trạng
Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa Qua Các Triều Đại Phong Kiến Việt
Ất Mùi,
năm thứ 2 [206 TCN] , (Tây Sở Bá Vương Hạng Tịch năm thứ 1; Hán Vương Lưu Bang
năm thứ I). Năm ấy nhà Tần mất.
[1b]
Đinh Dậu, năm thứ 4 [204 TCN] , (Sở Hạng Tịch năm thứ 3; Hán Lưu Bang năm thứ
3). Mùa đông, tháng 10, ngày 30, nhật thực. Tháng 11, ngày 30, nhật thực.
Mậu
Tuất, năm thứ 5 [203 TCN] , (Sở Hạng Tịch năm thứ 4; Hán Lưu Bang năm thứ 4).
Mùa thu, tháng 7, sao Chổi mọc ở khu vực sao Đại Giác.
Kỷ Hợi,
năm thứ 6 [202 TCN] , (Hán Cao Đế năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2, Hán Vương lên
ngôi hoàng đế. Năm ấy Tây Sở mất.
Quý Mão,
năm thứ 10 [198 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 9). Vua sai hai sứ coi giữ hai quận
Giao Chỉ và Cửu Chân.
Ất Tỵ,
năm thứ 12 [196 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 11) Nhà Hán đã định được thiên hạ, nghe
tin vua cũng đã xưng vương ở nước Việt, mới sai Lục Giả sang phong vua làm Nam
Việt Vương, trao cho ấn thao4 và con so bổ đôi5 , thông sứ với nhau, bảo vua
giữ yên đất Bách Việt, chớ cướp phá. Khi sứ đến, vua ngồi xổm mà tiếp Lục Giả.
Giả nói: "Vương vốn là [2a] người Hán, họ hàng mồ mả đều ở nước Hán, nay
lại làm trái tục nước mình, muốn chiếm đất này làm kẻ địch chống chọi với nhà
Hán, há chẳng lầm hay sao? Vả lại, nhà Tần mất con hươu6 , thiên hạ đều tranh
nhau đuổi, chỉ có Hán Đế khoan nhân yêu người, dân đều vui theo, khởi quân từ
đất Phong Bái mà vào Quan Trung trước tiên để chiếm giữ Hàm Dương, dẹp trừ hung
bạo. Trong khoảng 5 năm, dẹp yên loạn lạc, bình định bốn biển, đó không phải là
sức người làm nổi, tức là trời cho. Hán Đế nghe vương làm vua ở đất này, từng
muốn quyết một phen được thua, nhưng vì dân chúng lao khổ vừa xong cho nên phải
bỏ ý định, sai sứ mang ấn thao cho vương, đáng lẽ vương phải ra ngoài giao7
nghênh đón bái yết để tỏ lòng tôn kính. Nay đã không làm thế, thì nên sắm lễ mà
tiếp sứ giả mới phải, sao lại cậy dân Bách Việt đông mà khinh nhờn sứ giả của
thiên tử? Thiên Tử nghe biết, phát binh sang hỏi tội, thì vương làm thế
nào?". Vua ra dáng sợ hãi, đứng dậy nói: "Tôi ở đất này lâu ngày [2b]
quên mất cả lễ nghĩa". Nhân hỏi Giả rằng: "Tôi với Tiêu Hà, Tào Tham
ai hơn?"8 Giả nói: "Vương hơn chứ". Lại hỏi: "Tôi với vua
Hán ai hơn?". Giả nói: "Hán Đế nốiũ Đế Tam Vương, thống trị người Hán
kể hàng ức vạn người, đất rộng hàng muôn dặm, vật thịnh dân giàu, quyền chính
chỉ do một nhà, từ khi trời đất mở mang đến nay chưa từng có. Nay dân của
vương, chẳng qua mười vạn ở, ở xen khoảng núi biển, chỉ ví như một quận của nhà
Hán, ví với Hán Đế sao được?". Vua cười và nói: "Tôi lấy làm giận
không được nổi dậy ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?" Giả ngồi im
lặng, sắc mặt tiu nghỉu. Bèn giữ Giả ở lại vài tháng. Vua nói: "Ở đất Việt
này không ai đủ để nói chuyện được. Nay ông đến đây hàng ngày tôi được nghe
những chuyện chưa từng nghe." Cho Giả đồ châu báu giá nghìn vàng để làm vật
bỏ bao. Đến khi Giả về, lại cho thêm nghìn vàng nữa.
[3a]
Bính Ngọ, năm thứ 13 [195 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 12). Mùa hạ, tháng 4, vua
Hán băng.
Canh
Tuất, năm thứ 17 [191 TCN], (Hán Huệ Đế Doanh năm thứ 4). Mùa hạ, nhà Hán dựng
Nguyên Miếu ở phía bắc sông Vị.
Quý Sửu,
năm thứ 20 [188 TCN], (Hán Huệ Đế năm thứ 7) Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng
một, nhật thực. Mùa hạ, tháng 5, nhật thực, mặt trời bị che khuất hết. Mùa thu,
tháng 8, vua Hán băng.
Ất Mão,
năm thứ 22 [186 TCN], (Hán Cao Hậu Lữ Trĩ năm thứ 2). Mùa hạ, tháng 6, ngày 30,
nhật thực.
Đinh Tỵ, năm thứ 24 [184 TCN], (Hán
Cao Hậu năm thứ 4). Nhà Hán cấm nước Nam Việt mua đồ sắt ở cửa quan. Vua nói:
"Khi Cao Đế lên ngôi, ta cùng thông sứ chung đồ dùng. Nay Cao Hậu nghe lời
gièm pha, phân biệt đồ dùng Hán, Việt. Việc này tất là mưu kế của Trường Sa
Vương9 muốn dựa uy đức của nhà Hán mưu lấy nước ta mà làm vua cả, tự làm công
của mình".
[3b] Mậu Ngọ, năm thứ 25 [183 TCN],
(Hán Cao Hậu năm thứ 5). Mùa xuân, vua lên ngôi hoàng đế, đem quân đánh Trường
Sa, đánh bại mấy quận rồi về.
Canh Thân, năm thứ 27 [181 TCN], (Hán
Cao Hậu năm thứ 7). Nhà Hán sai Lâm Lư hầu Chu Táo sang đánh Nam Việt để báo
thù việc đánh Trường Sa. Gặp khi nắng to ẩm thấp, bệnh dịch phát, bèn bãi quân.
Vua nhân thế dùng binh uy và của cải để chiêu vỗ Mân Việc và Âu Lạc ở phía tây
(tức là Giao Chỉ và Cửu Chân), các nơi ấy đều theo về, từ đông sang tây rộng
hơn vạn dặm. Vua ngồi xe mui vàng, dùng cờ tả đạo10 , cho là nghi vệ ngang với
nhà Hán.
Tân Dậu, năm thứ 28 [180 TCN], (Hán
Cao Hậu năm thứ 8). Mùa thu, tháng 7, Cao Hậu băng, các đại thần đón Đại vương
Hằng lên ngôi, tức là Văn Đế.
Nhâm Tuất, năm thứ 29 [179 TCN], (Hán
Văn Đế Hằng năm thứ 1). Vua Hán vì thấy mồ mả tổ tiên của vua đều ở Chân Định
[4a] mới đặt người thủ ấp để trông coi, tuế thời cúng tế, gọi các anh em của
vua cho làm quan to, ban cho hậu. Vua Hán hỏi Tể tướng Trần Bình có thể cử ai
sang sứ Nam Việt được, Bình nói: "Lục Giả thời Tiên đế đã từng sang sứ Nam
Việt". Vua Hán gọi Giả cho làm Thái trung đại phu, lấy một người yết giả11
làm phó sứ, đem thư sang cho vua. Thư nói: "Kính hỏi thăm Nam Việt Vương
rất lao tâm khổ ý. Trẫm là con vợ lẽ của Cao Đế, phải đuổi ra ngoài làm phiên
vương ở đất Đại, vì đường sá xa xôi, kiến thức hẹp hòi quê kệch, nên chưa từng
gửi thư. Cao Hoàng Đế lìa bỏ bầy tôi, Hiếu Huệ Hoàng Đế qua đời, Cao Hậu tự lên
trông coi việc nước, không may có bệnh, người họ Lữ chuyên quyền làm bậy, một
mình khống chế ngự được, mới lấy con người họ khác nối nghiệp Hiếu Huệ Hoàng
Đế. Nhờ anh linh tông miếu và sức lực của các công thần, đã giết hết bọn ấy.
Trẫm vì các vương hầu và quan lại không cho từ chối, không thể không nhận, nay
đã lên ngôi. Mới rồi nghe nói vương có gửi thư cho tướng [4b] quân Lâm Lư hầu,
muốn tìm anh em thân và xin bãi chức hai tướng quân ở Trường Sa. Trẫm theo thư
của vương, đã bãi chức tướng quân Bác Dương hầu rồi, còn anh em thân của vương
hiện ở Chân Định, trẫm đã sai người đến thăm hỏi và sửa đắp phần mộ tiên nhân
của vương rồi. Ngày trước nghe tin vương đem quân đánh biên giới, cướp phá mãi
không thôi, dân Trường Sa khổ sở mà Nam Quận khổ nhất, nước của vương há được
lợi riêng hay sao? Tất phải chết nhiều quân lính, hại các tướng lại tài giỏi,
làm cho vợ góa chồng, con mồ côi, cha mẹ mất con, được một hại mười, trẫm không
nỡ làm thế. Trẫm muốn phân định đất phong xen kẽ để chế ngự lẫn nhau12 , đem
việc ra hỏi, bọn quan lại đều nói: "Cao Hoàng Đế sở dĩ lấy Trường Sa làm
địa giới, vì [quá chỗ đó] là đất của vương, không nên tự tiện thay đổi".
Nay dù lấy được đất đai của vương cũng không đủ lớn thêm, lấy được của cải của
vương cũng không đủ giàu thêm, cõi đất từ Ngũ Lĩnh về nam, vương cứ việc trị
lấy. Tuy vậy, vương xưng là [5a] đế, hai đế cùng lập mà không có xe sứ thông
hiếu, thế là tranh nhau. Tranh mà không biết nhường thì người có nhân không
làm. Trẫm nguyện cùng vương đều bỏ hiềm trước, từ nay trở đi thông hiếu như
xưa. Vì vậy mới sai Lục Giả sang đưa tờ dụ, để tỏ với vương bản ý của trẫm.
Vương cũng nên nghe theo, chớ làm những việc cướp phá nữa. Nhân gửi biếu vương
50 chiếc áo bông thượng hạng, 30 chiếc áo bông trung hạng, 20 chiếc áo bông hạ
hạng. Mong rằng Vương hãy nghe nhạc tiêu sầu và thăm hỏi nước láng giềng".
Khi Giả đến, vua tạ lỗi nói:
"Kính vâng chiếu chỉ, xin làm phiên vương, giữ mãi lệ cống". Rồi đó
vua hạ chiếu rằng: "Trẫm nghe: hai người hùng không đứng cùng nhau, hai
người hiền không ở cùng đời. Hoàng Đế nhà Hán là bậc thiên tử hiền tài, từ nay
ta triệt bỏ xe mui vàng và cờ tả đạo là nghi chế của hoàng đế". Nhân viết
thư rằng: "Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà, mạo muội đáng chết, hai lạy
dâng thư lên hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là lại cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho
ấn [5b] thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng Đế lên ngôi, vì nghĩa không nỡ
tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu. Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa
- Di, ra lệnh không cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng bằng sắt và đồng; ngựa,
trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực, không cho con cái. Lão phu ở đất hẻo
lánh, ngựa, trâu, dê đã già. Tự nghĩ nếu không sắm lễ vật cúng tế, thì tội thực
đáng chết mới sai nội sử Phan, trung úy Cao, ngự sử Bình, ba bọn dâng thư tạ
lỗi, nhưng đều không thấy trở về. Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu
bị đập phá, anh em họ hàng đều bị giết. Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng:
"Nay bên trong không được phấn chấn với nhà Hán, bên ngoài không lấy gì để
tự cao khác với nước Ngô". Vì vậy mới đổi xưng hiệu là đế, để tự làm đế
nước mình, không dám làm điều gì hại đến thiên hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả
giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt, khiến cho việc sai người đi sứ không thông.
Lão phu trộm ngờ là vì Trường Sa Vương gièm [6a] pha, cho nên mới đem quân đến
đánh biên giới. Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi, những vẫn
phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm không yên chiếu, ăn không biết ngon, mắt không
trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống, chỉ vì không được làm tôi nhà
Hán mà thôi. Nay may được bệ hạ có lòng thương đến, được khôi phục hiệu cũ, cho thông sứ như
trước, lão phu dù chết xương cũng không nát. Vậy xin đổi tước hiệu, không dám
xưng đế nữa. Kính cẩn sai sứ giả dâng một đôi ngọc bích trắng, 1.000 bộ lông
chim trả, 10 sừng tên, 500 vỏ ốc màu tía, 1 giỏ cà cuống, 40 đôi chim trả sống,
2 đôi chim công. Mạo muội liều chết, hai lạy dâng lên hoàng đế bệ hạ".
Lục Giả
đem thư ấy về báo, vua Hán rất mừng. Từ đấy Nam Bắc giao hảo, thôi việc binh
đao, dân được yên nghỉ.
Quý Hợi,
năm thứ 30 [178 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 2). Mùa đông, tháng 10, ngày 30, nhật
thực.
[6b]
Giáp Tý, năm thứ 31 [177 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 3). Mùa đông, tháng 10, ngày
30 nhật thực. Tháng 11, ngày 30, nhật thực.
Tân Tỵ,
năm thứ 48 [160 TCN], (Hán Văn Đế Hậu Nguyên, năm thứ 4). Mùa hạ, tháng 4, ngày
30, nhật thực.
Giáp
Thân, năm thứ 51 [157 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 6, vua Hán
băng, có chiếu dặn để tang ngắn. Mùa thu, tháng 9, sao Chổi mọc ở phương tây.
Ất Dậu,
năm thứ 52 [156 TCN], (Hán Cảnh Đế Khải, năm thứ 1). Nhà Hán chiếu sai các quận
quốc dựng miếu Thái Tông.
Bính
Tuất, năm thứ 53 [155 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 2). Mùa đông, tháng 11, có sao
Chổi mọc ở phương tây.
Đinh
Hợi, năm thứ 54 [154 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, có
sao Chổi đuôi dài mọc ở phương tây. Tháng ấy, ngày 30, có nhật thực.
[7a] Mậu
Tý, năm thứ 55 [153 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 4). Mùa đông, tháng 10, ngày 30,
nhật thực.
Quý Tỵ,
năm thứ 60 [148 TCN], (Hán Cảnh Đế Trung Nguyên năm thứ 2). Mùa hạ, tháng 4, có
sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Mùa thu, tháng 9, ngày 30, có nhật thực.
Giáp
Ngọ, năm thứ 61 [147 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa thu, tháng 9, có sao
Chổi mọc ở phía tây bắc. Tháng ấy, ngày 30, nhật thực.
Ất Mùi,
năm thứ 62 [146 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 4). Mùa đông, tháng 10, ngày 30,
nhật thực.
Đinh
Dậu, năm thứ 64 [144 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, ngày 30,
nhật thực. Bấy giờ vua sai sứ sang nhà Hán thì xưng là vương, giữ lễ triều yết
cũng như các nước chư hầu, ở trong nước thì theo hiệu cũ [đế].
[7b] Mậu
Tuất, năm thứ 65 [143 TCN], (Hán Cảnh Đế Hậu Nguyên, năm thứ 1). Mùa thu, tháng
7, ngày 30, nhật thực.
Canh Tý,
năm thứ 67 [141 TCN], (Hán Cảnh Đế [Hậu Nguyên] năm thứ 3). Mùa đông13 , tháng
10, mặt trời, mặt trăng đều sắc đỏ. Tháng 12, sắc mặt trời đỏ tía, năm sao đi
ngược chiều ôm lấy chòm sao Thái Vi; mặt trăng đi xuyên vào Thiên Đình (Thiên
Đình tức là 10 ngôi sao cung viên Thái Vi ở góc hữu sao Long Tinh, ở khoảng sao
Dực sao Chẩn; ấy là cung của thiên tử; tòa của ngũ đế).
Mùa
xuân, tháng giêng, vua Hán băng.
Nhâm Dần, năm thứ 69 [139 TCN], (Hán
Vũ Đế Triệt, Kiến Nguyên năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 30, nhật thực.
Mùa hạ, tháng 4, có sao to bằng mặt trời mọc ban đêm.
Quý Mão, năm thứ 70 [138 TCN], (Hán
Kiến Nguyên năm thứ 3). Mùa thu, tháng 7, sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Tháng 9,
ngày 30, nhật thực.
Giáp Thìn, năm thứ 71 [137 TCN], (Hán
Kiến Nguyên, năm thứ 4). Vua băng, thụy là Vũ Đế. Cháu là Hồ lên nối ngôi. (Về
sau, nhà Trần [8a] phong là Khai Thiên Thể Đạo Thánh Vũ Thần Triết Hoàng Đế).
Lê Văn Hưu nói: Đất Liêu Đông không có
Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngô Cối
không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người
Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc
vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay
hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta
mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão
phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to
lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững
bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi
bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể [8b] lại
ngấp nghé được.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Truyện [Trung
Dung] có câu: "Người có đức lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống
lâu". [Vũ] Đế làm gì mà được như thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu
trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ
ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh
em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con
cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: "Biêt khiêm
nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua". V
chính hợp câu ấy.
(Nguồn: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
TRIỆU VĂN VƯƠNG - TRIỆU HỒ
Chuyên mục: Nhà Triệu
Văn
Vương Ở ngôi 12 năm, thọ 52 tuổi.
Vua lấy
nghĩa để cảm nước láng giềng, đánh lui địch, yên biên cảnh, cũng gọi là bậc vua
có ý muốn thịnh trị vậy.
[9a] Tên
húy là Hồ, con trai Trọng Thủy, cháu Vũ Đế.
Bính
Ngọ, năm thứ 2 [135 TCN], (Hán Kiến Nguyên năm thứ 6). Mùa thu, tháng 8, có sao
Chổi mọc ở phương đông, đuôi dài hết trời.
Mân Việt
Vương Sính xâm lấn biên ấp nước ta. Vua giữ ước với nhà Hán, không tự tiện dấy
quân, sai người đem thư nói việc đó với nhà Hán. Nhà Hán khen là nghĩa, vì vua
mà phát đại binh, sai Vương Khôi xuất quân từ Dự Chương, Hàn An Quốc xuất quân
từ Cối Kê, để đánh Mân Việt.
Hoài Nam
Vương [Lưu] An dâng thư can rằng:
"Việt
là đất ở ngoài cõi. Dân cắt tóc vẽ mình, không thể lấy pháp độ của nước đội mũ
mang đai mà trị được. Từ thời Tam đại thịnh trị, người Hồ, người Việt đã không
nhận chính sóc, không phải là vì mạnh mà không hàng phục được, uy không chế ngự
được, mà vì đất ấy không thể ở được, dân ấy không thể chăn được, không bõ làm
phiền đến Trung Quốc vậy. Nay họ đánh lẫn nhau mà bệ hạ phát quân đến cứu, thế
là trái lại đem Trung Quốc mà [9b] phục dịch di dịch vậy.
Vả người
Việt khinh bạc, tráo trở, không theo pháp độ, không phải mới có một ngày. Nay
mới không vâng chiếu mà cất quân đi đánh giết, thần sợ sau này việc binh cách
không biết đến lúc nào thôi. Vừa rồi mấy năm liền không được mùa, sinh kế của
dân chưa lại như cũ, nay phát binh lấy lương, đi mấy nghìn dặm lại thêm rừng
sâu tre rậm, nhiều rắn độc thú dữ, tháng hè mùa nắng, các bệnh thổ tả hoặc loạn
phát ra luôn, tuy chưa từng ra quân đọ kiếm mà chết chóc tất đã nhiều rồi. Thần
nghe rằng sau việc quân lữ, tất là mất mùa, là bởi cái khí sầu khổ phá sự điều
hòa của khí âm dương, cảm đến tinh khí của trời đất, tai biến do đấy mà sinh
ra. Bệ hạ đức sánh trời đất, ơn đến cỏ cây, một người đói rét không được hưởng
trọn tuổi trời mà chết, bệ hạ cũng lấy làm thương xót trong lòng. Hiện nay
trong nước không có tiếng chó sủa báo động mà khiến quân lính phải dãi dầu
[10a] ở đồng nội, ngấm ướt ở núi hang, khiến dân ở biên cương phải đóng cửa sớm
mở cửa muộn, bữa mai không kịp bữa hôm, thần An trộm xin bệ hạ thận trọng việc
đó.
Vả người
Việt nhân tài vật lực yếu mỏng không biết đánh bộ, lại không biết dùng xe ngựa
cung nỏ, thế mà không thể đem quân vào được, là vì họ giữ được đất hiểm, mà
người Trung Quốc thì không quen thủy thổ.
Thần
nghe ở đường sá người ta nói rằng: Mân Việt Vương bị em là Giáp giết chết, Giáp
cũng đã bị giết rồi, dân nước ấy chưa thuộc về ai. Nếu bệ hạ sai trọng thần đến
nơi thăm hỏi, ban đức cấp thưởng để chiêu dụ họ, thế tất họ sẽ dắt trẻ dìu già
theo về thánh đức. Nếu [bệ hạ] không dùng đất ấy làm gì, thì nước đã làm cho
còn, dòng đã tuyệt khiến nối lại, phong làm vương hầu, như thế tất họ phải đem
mình làm tôi, đời đời nộp cống. Bệ hạ chỉ dùng cái ấn vuông một tấc, dây thao
một trượng hai, mà trấn vỗ được đất ngoài, không phải nhọc mệt tên lính nào,
không phải cùn một chiếc giáo nào, mà uy đức đều được cả. Nay đem quân [10b]
vào đất họ, họ tất sợ hãi, trốn vào rừng núi; nếu ta bỏ về, thì họ lại họp đàn
tụ lũ, nếu ta ở để giữ, thì hết năm này sang năm khác, quân lính mệt mỏi, lương
thực thiếu hết, một phương có việc gấp, thì bốn mặt đều sợ. Thần sợ rằng biến
cố sẽ sinh, gian tà sẽ nổi, đều là bắt đầu từ đấy cả.
Thần
nghĩ rằng: quân của thiên tử chỉ đi đánh kẻ dưới phạm lỗi, chứ không đi đánh
nhau để tranh giành, vì là không ai dám đọ sức. Nếu người Việt làm liều chống
lại quan chấp sự mà trong quân kiếm củi đẩy xe có kẻ nào không về đủ thì dù có
chém được đầu của Việt Vương, thần cũng lấy làm xấu hổ1 . Bệ hạ lấy chín châu
làm nhà, sinh dân đều là thần thiếp cả, đất của di địch nào có đủ làm nhàn hạ
được một ngày mà phải phiền đến ngựa đổ mồ hôi mệt nhọc? Kinh Thi có câu:
"Đạo vương tin thực, đất Từ theo về". Ý nói vương đạo rất lớn mà
phương xa mến phục. Thần An trộm lo rằng tướng lại đem 10 vạn quân đi chỉ làm
cái trách nhiệm của một người [11a] sứ giả mà thôi."
Khi ấy
quân nhà Hán chưa qua đèo, Mân Việt Vương đã phát binh giữ chỗ hiểm để chống
cự. Em Mân Việt Vương là Dư Thiện cùng với người trong họ bàn nhau rằng:
"Vì vương tự tiện đem quân đánh Nam Việt không xin phép nhà Hán, cho nên
nhà Hán đem quân đến đánh. Quân Hán nhiều và mạnh, dù may mà mình có đánh được
chăng nữa sau họ lại kéo sang nhiều hơn, chung quy nước cũng bị diệt, chi bằng
giết vương để tạ lỗi với nhà Hán mà xin bãi binh". Bèn giết Sính, sai sứ
đem đầu nộp cho Vương Khôi. Khôi liền cho đóng quân lại, bảo cho Hàn An Quốc,
rồi sai sứ mang đầu Sính chạy về báo. Vua Hán sai Trang Trợ sang tỏ ý cho vua
biết. Vua rập đầu nói: "Thiên tử vì quả nhân đem quân giết vua Mân Việt,
quả nhân dù chết cũng không báo đáp được ân đức ấy". Mới sai thái tử là
Anh Tề sang nhà Hán làm con tin. Nhân bảo Trợ rằng: "Nước tôi mới bị cướp,
sứ giả cứ về trước, quả nhân đang ngày đêm sắm sửa hành trang để vào triều kiến
thiên tử". Trợ về rồi, bầy tôi đều can [11b] vua rằng: "Quân nhà Hán
giết [Mân Việt Vương] Sính là có ý muốn cảnh cáo nước Việt ta. Vả lại tiên đế
đã nói thờ nhà Hán cốt không thất lễ thì thôi. Tóm lại chớ nên tin lời nói
khéo, vào chầu vua Hán thì không về được nữa, đó là thế mất nước đấy." Vua
bèn nói thác là có bệnh rồi không sang yết kiến nữa.
Đinh
Mùi, năm thứ 3 [134 TCN], (Hán Nguyên Quang, năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, ngày
30, nhật thực.
Giáp
Dần, năm thứ 10 [127 TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, ngày
30, nhật thực.
Ất Mão,
năm thứ 11 [126 TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 3). Vua ốm nặng, Thái tử Anh Tề ở
Há
Bính
Thìn, năm thứ 12 [125 TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 4). Vua mất, thụy là Văn
Vương. Con là Anh Tề nối ngôi.
[12a] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Văn Vương giao thiệp với nước láng giềng phải đạo, nhà
Hán khen là có nghĩa, đến mức dấy binh đánh giúp kẻ thù; lại biết nghe lời can,
thác bệnh không sang chầu nhà Hán, giữ phép nhà để mưu cho con cháu, có thể gọi
là không xấu hổ với ông nội.
(Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
TRIỆU MINH VƯƠNG - TRIỆU ANH TỀ
Chuyên mục: Nhà Triệu
Minh
Vương Ở ngôi 12 năm.
Vua
không cẩn thận mối vợ chồng, gây thành loạn cho quốc gia, không có gì đáng
khen.
Tên húy
là Anh Tề, con trưởng của Văn Vương.
Đinh Tỵ,
năm thứ 1 [124 TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 5). Lấy Lữ Gia làm Thái phó.
Kỷ Mùi,
năm thứ 3 [122 TCN], (Hán Nguyên Thú năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 5, ngày 30, nhật
thực.
Nhâm
Tuất, năm thứ 6 [119 TCN], (Hán Nguyên Thú năm thứ 4). Mùa xuân, sao Chổi mọc ở
phía đông bắc. Mùa hạ, sao Chổi dài mọc [12b] ở phương tây.
Ất Sửu,
năm thứ 9 [116 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 1).
Mậu
Thìn, năm thứ 12 [113 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 4). Trước kia vua làm thế
tử, sang làm con tin cho nhà Hán ở Trường An, lấy con gái người họ Cù ở Hàm
Đan, sinh con tên là Hưng. Đến khi lên ngôi, giấu ấn của tiên đế đi, dâng thư
sang nhà Hán xin lập Cù thị làm hoàng hậu, Hưng làm thế tử. Nhà Hán mấy lần sai
sứ giả sang khuyên vua vào chầu. Vua sợ vào yết kiến phải theo pháp độ nhà Hán
ngang với các chư hầu ở trong, cố ý cáo ốm không đi, bèn sai con là Thứ công
vào làm con tin. Năm ấy vua mất, thụy là Minh Vương. Con là Hưng nối ngôi.
TRIỆU AI VƯƠNG - TRIỆU HƯNG
Chuyên mục: Nhà Triệu
Ai Vương
Ở ngôi 1 năm [112 TCN].
[13a]
Mẫu hậu ngang nhiên dâm loạn, quyền thần chuyên chính, vua hèn tuổi trẻ, giữ
nổi thế nào được.
Tên húy
là Hưng, con thứ của Minh Vương.
Năm ấy, vua
đã lên ngôi, tôn mẹ là Cù thị là thái hậu.
Trước
kia, thái hậu chưa lấy Minh Vương, đã từng thông dâm với An Quốc Thiếu Quý
người Bá Lăng. An Quốc là họ, Thiếu Quý là tên. Năm ấy nhà Hán sai An Quốc
Thiếu Quý sang dụ vua và thái hậu vào chầu, như đối với các chư hầu ở trong,
lại sai biện sĩ là bọn Gián nghị đại phu Chung Quân tuyên dụ, dũng sĩ là bọn
Ngụy Thần giúp việc, vệ úy Lộ Bác Đức đem quân đóng ở Quế Dương để đợi sứ giả.
Khi ấy vua còn ít tuổi, Cù hậu là người Hán, Thiếu Quý đến, lại tư thông. Người
nước biết, phần nhiều không theo thái hậu. Thái hậu sợ loạn nổi, muốn dựa uy
nhà Hán, nhiều lần khuyên vua và các quan xin nội phụ nhà Hán. [13b] Bèn nhờ sứ
nhà Hán dâng thư, xin theo như các chư hầu ở trong, cứ 3 năm một lần vào chầu,
triệt bỏ cửa quan ở biên giới. Vua Hán bằng lòng, ban cho vua và tướng Lữ Gia
ấn bằng bạc và các ấn nội sử, trung úy, thái phó, còn các chức khác được tự đặt
lấy. Bỏ hình phạt cũ thích chữ, cắt mũi, dùng pháp luật nhà Hán như các chư hầu
ở trong. Các sứ giả đều ở lại để trấn giữ vỗ về1 .
Kỷ Tỵ,
năm thứ 1 [112 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 5). Vua và thái hậu đã sửa soạn
hành trang lễ vật quý giá để vào chầu. Bấy giờ Tể Tướng Lữ Gia tuổi đã nhiều,
làm tướng trải ba triều, người trong họ làm trưởng lại đến hơn 7 chục người,
con trai đều lấy con gái vua, con gái đều gả cho con em vua và người tôn thất,
cùng thông gia với Tần Vương ở quận Thương Ngô, trong nước rất được lòng dân
hơn cả vua. Gia nhiều lần dâng thư can vua, vua không nghe, nhân thế có lòng
muốn làm phản, thường cáo ốm không tiếp [14a] sứ giả nhà Hán. Các sứ giả nhà
Hán đều chú ý đến Gia, nhưng thế chưa thể giết được. Vua và thái hậu cũng sợ
bọn Gia khởi sự trước, muốn nhờ sứ giả nhà Hán trù mưu giết bọn Gia. Bèn đặt
tiệc rượu mời sứ giả đến dự, các đại thần đều ngồi hầu rượu. Em Gia làm tướng,
đem quân đóng ở ngoài cung. Tiệc rượu mới bắt đầu, thái hậu bảo Gia rằng:
"Nam Việt nội thuộc [Trung Quốc] là điều lợi cho nước, thế mà tướng quân
lại cho là bất tiện là tại sao?", cốt để chọc tức sứ giả. Sứ giả còn đương
hồ nghi, chần chừ chưa dám làm gì. Gia thấy tai mắt họ có vẻ khác thường, lập
tức đứng dậy đi ra. Thái hậu giận, muốn lấy giáo đâm Gia, vua ngăn lại. Gia bèn
ra chia lấy quân lính của em dẫn về nhà, cáo ốm không chịu gặp vua và sứ giả,
ngầm cùng các đại thần mưu làm loạn. Vua vốn không có ý giết Gia, Gia cũng biết
thế, vì vậy đến mấy tháng không hành động gì. Thái hậu muốn một mình giết Gia
nhưng sức không làm nổi. [14b] Vua Hán nghe tin Gia không nghe mệnh, mà vua và
thái hậu thì cô lập, yếu ớt không chế ngự nổi, sứ giả thì nhút nhát không quyết
đoán, lại thấy vua và thái hậu đã nội phụ rồi, chỉ một mình Lữ Gia làm loạn,
không đáng dấy quân, muốn sai Trang Sâm đem 2 nghìn người sang sứ. Trang Sâm
nói: "Lấy sự hòa hiếu mà sang, thì vài người cũng đủ, lấy vũ lực mà sang,
thì 2 nghìn người không làm gì được". Sâm từ chối không nhận. Vua Hán bèn
bãi chức Sâm. Tướng Tế Bắc cũ là Hàn Thiên Thu hăng hái nói: "Một nước
Việt cỏn con, lại có vương và thái hậu làm nội ứng, chỉ một mình thừa tướng Lữ
Gia làm loạn, xin cấp cho 3 trăm dũng sĩ, thế nào cũng chém được Gia về
báo". Bấy giờ nhà Hán sai Thiên Thu và em Cù thái hậu là Cù Lạc đem 2
nghìn người tiến vào đất Việt. Lữ Gia bèn hạ lệnh cho trong nước rằng:
"Vua còn nhỏ tuổi, thái hậu vốn là người Hán, lại cùng với sứ giả nhà Hán
dâm loạn, chuyên ý muốn nội phụ với nhà Hán, đem hết [15a] đồ châu báu của Tiên
Vương dâng cho nhà Hán để nịnh bợ, đem theo nhiều người đến Trường An rồi bắt
bán cho người ta làm đầy tớ, chỉ nghĩ mối lợi một thời, không đoái gì đến xã
tắc họ Triệu và lo kế muôn đời". Bèn cùng với em đem quân đánh, giết vua
và thái hậu, cùng tất cả bọn sứ giả nhà Hán, rồi sai người đi báo cho Tần Vương
ở Thương Ngô và các quận ấp, lập con trưởng của Minh Vương là Thuật Dương hầu
Kiến Đức làm . Vua bị giết, tên thụy là Ai Vương.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Tai họa của Ai Vương, tuy bởi ở Lữ Gia mà sự thực thì gây mầm
từ Cù Hậu. Kể ra sắc đẹp đàn bà có thể làm nghiêng đổ nước nhà người ta thì có
nhiều manh mối, mà cái triệu của nó thì không thể biết trước được. Cho nên các
tiên vương tất phải đặt ra lễ đại hôn2 , tất phải cẩn thận quan hệ vợ chồng,
tất phải phân biệt hiềm nghi, hiểu những điều nhỏ nhặt, tất phải chính vị trong
ngoài, tất phải ngăn ngừa việc ra vào, tất phải dạy đạo [15b] tam tòng, thì sau
đó mối họa mới không do đâu mà đến được. Ai Vương ít tuổi không thể ngăn giữ
được mẹ, Lữ Gia coi việc nước, việc trong việc ngoài lại không dự biết hay sao?
Khách của nước lớn đến, thì việc đón tiếp có lễ nghi, chỗ ở có thứ tự, cung ứng
có số, thừa tiếp có người, sao đến nỗI để thông dâm với mẫu hậu? Mẫu hậu ở thẳm
trong cung, không dự việc ngoài: khi nào có việc ra ngoài, thì có xe da cá, có
màn đuôi trĩ, cung tần theo hầu, sao để đến nỗi thông dâm với sứ khách được?
Bọn Gia toan dập tắt lửa cháy đồng khi đang cháy rực, sao bằng ngăn ngay cái cơ
họa loạn từ khi chưa có triệu chứng gì có hơn không? Cho nên nói: Làm vua mà
không biết nghĩa Xuân Thu tất phải chịu cái tiếng cầm đầu tội ác; làm tôi không
biết nghĩa Xuân Thu tất mắc phải tội cướp ngôi giết vua, tức như là Minh Vương,
Ai Vương và Lữ Gia vậy.
(Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
II/ BẮC THUỘC LẦN II
Thời kỳ
Bắc thuộc lần thứ hai trong lịch sử Việt
Thời kỳ
Bắc thuộc lần thứ 2 kéo dài khoảng 500 năm.
KỶ THUỘC ĐÔNG HÁN
Chuyên mục: Bắc thuộc lần II
Quý Mão, [Trưng Vương, năm thứ 4],
[43], (Hán Kiến Vũ năm thứ 19). Mùa xuân, tháng giêng, Trưng Nữ Vương cùng em
gái là Nhị chống cự lại với quân nhà Hán, [3b] thế cô, đều thua chết. Mã Viện
đuổi theo đánh quân còn sót là bọn Đô Dương. Đến huyện Cư Phong thì [bọn Đô
Dương] đầu hàng, [Viện] bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán.
(Cột đồng tương truyền ở trên động Cổ Lâu68châu Khâm. Viện có câu thề:
"Cột đồng gãy thì Giao Châu diệt". Người Việt ta đi qua dưới cột ấy,
thường lấy đá chất vào, thành như gò đống, vì sợ cột ấy gãy. Mã Tổng nhà Đường
lại dựng hai cột đồng ở chỗ cũ của nhà Hán ghi công đức của Mã Viện để tỏ ra
mình là dòng dõi của Phục Ba, nay chưa rõ ở chỗ nào. Hai sông Tả Giang, Hữu
Giang mỗi nơi có một cột). Viện thấy huyện Tây Vu có 3 vạn 3 nghìn hộ, xin chia
làm hai huyện Phong Kê và Vọng Hải, vua Hán nghe theo. Viện lại đắp thành Kiển
Giang ở huyện Phong Khê. Thành đắp tròn như hình cái kén, cho nên lấy [chữ
Kiển]69làm tên. Nước Việt ta lại thuộc vào nhà Hán. Ba năm sau, Viện trở về.
Người địa phương thương mến Trưng Nữ Vương, làm đền thờ phụng (đền ở xã Hát
Giang, huyện Phúc Lộc70, ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có).
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Họ Trưng giận
thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà [4a] quốc thống nước ta cơ
hồ được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà
sau khi chết còn có thể chống ngăn tai họa. Phàm gặp những việc tai ương hạn
lụt, đến cầu đảo không việc gì là không linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. Vì
là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất không
vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách
cương trực chính đại ấy ư ?
Giáp Thìn, [44], (Hán Kiến Vũ năm thứ
20). Từ đây về sau, trải các đời Hán Minh Đế, Chương Đế, Hòa Đế, Thượng Đế, An
Đế, gồm 5 đời, cộng 82 năm, duy thời Minh Đế có Lý Thiện người huyện Nam Dương
làm Tháu thú Nhật Nam, làm việc chính sự có ân huệ yên dân, khiến cho người
khác phong tục cũng mến chuộng tìm đến. Sau Thiện đổi làm Thái thú Cửu Chân.
Bính Tý, [136], (Hán Thuận Đế Bảo, Vĩnh
Hòa năm thứ 1). Thái thú Chu Xưởng cho là Giao Châu ở ngoài chín châu [4b], ở
rìa Bách Việt, dâng biểu xin đặt phương bá71. Vua Hán để cho Xưởng làm Thứ
sử72, cai quản các quận huyện.
Đinh Sửu, [137], (Hán Vĩnh Hòa năm thứ
2). Người man ở huyện Tượng Lâm, quận Nhật
Mậu Dần, [138], (Hán Vĩnh Hòa năm thứ
3). Mùa hạ, tháng 5, Thị ngự sử Giả Xương cùng với các châu quận hợp sức đánh
bọn Khu Liên không được, bị Khu Liên vây đánh hơn một năm, binh lương không thể
tiếp tế được. Vua Hán gọi các công khanh và thuộc lại bốn phủ để hỏi phương
lược, các quan đều bàn nên sai tướng phát 4 vạn quân của bốn châu Kinh, Dương,
[5a] Duyện, Dự đi đánh. Lý Cổ bác đi, nói rằng: "Các châu Kinh, Dương giặc
cướp tụ họp chưa tan; Trường Sa, Quế Dương đã nhiều lần bị thu thuế bắt lính,
nay lại làm rối động, ắt lại sinh họa nữa. Người các châu Duyện, Dự phải đi xa
muôn dặm, chiếu thư thúc bách, tất phải bỏ trốn. Nam Châu73thì trời nắng nực,
ẩm thấp lại thêm lam chướng dịch lệ, 10 phần phải chết đến 4, 5 phần. Đường xa
muôn dặm, quân lính mỏi mệt, đến lúc tới Lĩnh
Giáp Thân, [144], (Hán Kiến Khang năm
thứ 1). Mùa thu, tháng 8, vua Hán mất. Mùa đông, tháng 10, người Nhật
Canh Tý, [160] (Hán Hoàn Đế Chí,
Nguyên Gia năm thứ 2). Mùa đông, tháng 11, người quận Cửu Chân lại đóng giữ
quận Nhật
Mậu Ngọ,
[178], (Hán Linh Đế Hoành, Quang Hòa năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4, người trong
châu và bọn Man Ô Hử74làm loạn đã lâu, mục [6b] thú là Chu Ngung không ngăn
được, người châu là bọn Lương Long nhân đấy dấy binh đánh phá quận huyện, quân
đến vài vạn người.
Tân Dậu,
[181], (Hán Quang Hòa năm thứ 4). Vua Hán sai Huyện lệnh Lan Lăng là Chu Tuấn,
người Thượng Ngu quận Cối Kê, sang cứu Ngung. Đường đi qua quê nhà, Tuấn mộ
thêm gia binh cùng với binh đem đi theo cộng 5 nghìn người, theo hai đường tiến
vào. Trước hết xem xét hư thực, tuyên dương uy đức để lay động lòng người rồi
quân bảy quận75tiến bức, giết được Lương Long, kẻ đầu hàng đến vài vạn người.
Giáp Tý,
[183], (Hán Trung Bình năm thứ 1). Đồn binh người châu bắt Thứ sử Chu Ngung
giết đi, sai người đến cửa khuyết kể tội trạng của Ngung. Vua Hán nghe tâu,
xuống chiếu chọn kỹ quan lại có tài. Hữu ty tiến cử Giả Tông là người Liêu
thành Đông Quận làm Thứ sử (Tông trước làm Ngự sử). Trước đây những người làm
Thứ sử thấy [7a] đất châu có các thứ ngọc trai, lông trả, tê, voi, đồi mồi,
hương lạ, gỗ tốt, nhiều người không liêm khiết, vơ vét của cải cho đầy, rồi lại
xin đổi đi, cho nên lại dân đều làm phản cả. Kịp khi Tông đến bộ76, xét hỏi
tình trạng làm phản, người ta đều nói rằng chính lệnh trước thuế má nặng quá,
trăm họ không ai không khốn khổ túng thiếu, Kinh sư thì xa, không biết tố cáo
vào đâu, dân không sống nổi, nên tụ họp nhau để chống, chứ không thực sự làm
phản. Tông mới sai người chia đi các nơi để khuyên dỗ, khiến đều yên nghiệp làm
ăn, dụ dỗ những kẻ lưu vong, tha bớt thuế khóa. Rồi giết kẻ bạo ngược đầu sỏ,
chọn quan lại tốt cho giữ quận huyện. Trăm họ được yên, trên đường ngõ người ta
có câu rằng: "Giả phụ lai vãn, sử ngã tiên phản. Kim kiến thanh bình, bất
cảm phục bạn". (Bố Giả đến muộn, khiến ta phản trước; Nay thấy thanh bình,
không dám phản nữa). Tông coi việc 3 năm, được gọi về làm chức Nghị Lan. Lý
Tiến thay. (Lý Tiến là người Giao Châu ta).
[7b]
Bính Dần , [186], (Hán Trung Bình năm thứ 3)77
Lê Văn Hưu nói: Xem sử đến thời nước
Việt ta không có vua, bị bọn thứ sử người Bắc tham tàn làm khổ. Bắc Kinh đường
xa, không biết kêu vào đâu, bất giác xen lẫn cảm thương hổ thẹn, muốn tỏ lòng
thành như Minh Tông nhà Hậu Đường, thường thắp hương khấn trời: xin trời vì
nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà, để khỏi bị người phương
Bắc cướp vét.
Trở lên
là thời thuộc Hán, từ năm Quý Mão đến năm Bính Dần, tất cả 144 năm [43- 186].
(Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
KỶ SĨ VƯƠNG - SĨ NHIẾP
Chuyên mục: Bắc thuộc lần II
Sĩ Vương
Ở ngôi 40 năm, thọ 90 tuổi.
Vương là
người khoan hậu khiêm tốn, lòng người yêu quý, giữ vẹn đất Việt để đương đầu
với sức mạnh của Tam quốc, đã sáng suốt lại mưu trí, đáng gọi là người hiền.
[8a] Họ
Sĩ, tên húy là Nhiếp1 , tự là Ngạn Uy, người huyện Quảng Tín, quận Thương Ngô.
Tổ tiên người Vấn Dương nước Lỗ, hồi loạn Vương Mãng ở Bắc triều, tránh sang ở
đất Việt ta, đến vương là sáu đời. Cha là Tứ, thời Hán Hoàn Đế làm Thái thú
Nhật
Đinh
Mão, năm thứ 1 [187], (Hán Trung Bình năm thứ 4). Vương có ba em trai tên là
Nhất, Vĩ3 và Vũ. Bấy giờ Thứ sử Chu [8b] Phù bị giặc Di giết chết, châu quận
rối loạn, vương bèn dâng biểu cử Nhất làm Thái thú Hợp Phố, Vĩ làm Thái thú Cửu
Chân, Vũ làm Thái thú Nam Hải. Vương độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng
kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn
sang nương tựa có hàng trăm người.
Canh
Thìn, năm thứ 14 [200], (Hán Hiến Đế Hiệp, Kiến An năm thứ 5). Thứ sử Lý Tiến
dâng lời tâu lên vua Hán rằng: "Khắp cả thiên hạ đều là bề tôi của vua,
thế mà nay làm quan ở triều đình đều là sĩ phu ở Trung Châu4 cả, chưa từng
khuyến khích người xa". Lời lẽ thiết tha cảm động, lại viện dẫn nhiều bằng
chứng. Vua Hán xuống chiếu cho người châu ta ai được cử hiếu liêm mậu tài thì
cho phép được bổ trưởng lại trong châu, không được bổ ở Trung châu. Tiến lại
dâng sớ nói: "Người được cử làm hiếu liêm xin cho được như bác sĩ ở mười
hai châu, căn cứ theo nhân tài mà đối xử". [9a] Nhưng hữu ty sợ rằng người
phương xa khoác lác mà chê bai bắt bẻ triều đình, nên không chuẩn cho. Bấy giờ
người nước Việt ta là Lý Cầm làm túc vệ ở đài, bèn rủ người đồng hương là bọn
Bốc Long 5, 6 người, giữa ngày đầu năm các nước triều hội, đến quỳ lạy ở sân
điện tâu rằng: "Ơn vua ban không đều". Hữu ty hỏi vì cớ gì? Cầm nói:
"Nam Việt ở xa không được trời che, đất chở, cho nên mưa ngọt không xuống,
gió mát không đến". Lời ý khẩn thiết đau đớn. Vua Hán xuống chiếu an ủi,
lấy một người mậu tài nước ta làm Huyện lệnh Hạ Dương, một người hiếu liêm làm
Huyện lệnh Lục Hợp (Cầm là người Giao Châu). Sau Lý Cầm làm quan đến Tư lệ hiệu
úy, Trương Trọng làm Thái thú Kim Thành. Như thế nhân tài nước Việt ta được
cùng tuyển dụng như người Hán là mở đầu từ Lý Cầm, Lý Tiến vậy. (Trọng người
quận Nhật Nam, khi trước đến Lạc Dương, gặp hội lớn tết Nguyên Đán, Tấn Minh
Đế5 hỏi: "Ở quận Nhật Nam hướng về phía bắc để trông mặt trời phải
không?" Trọng đáp rằng: "Nay trong các quận, có quận gọi là Vân Trung
(trong mây), là Kim Thành (thành vàng), không hẳn phải có thật. Còn như phong
khí ấm áp, mặt trời đứng bóng trên đầu sinh dân [9b] thì vẫn có thế". Xét:
Khoảng niên hiệu Nguyên Gia [424-454] đời Tống Văn Đế, [quân Tống] đi đánh Lâm
Ấp ở phương nam, tháng năm, dựng nêu để đo bóng, thấy mặt trời ở về phía bắc
cây nêu 9 tấc 1 phân6 Giao Châu thì bóng ở về phía nam cây nêu 3 tấc 3 phân.
Giao Châu cách Lạc Thủy hơn 6,7 nghìn dặm. Chỗ dựng nêu tính đường dây thẳng
thì nên bớt đi nghìn dặm. Năm Khai Nguyên thứ 12 [724] thời Đường, đo ở Giao
Châu vào ngày hạ chí, bóng ở phía nam cây nêu 3 tấc 3 phân, cũng giống số đo
năm Nguyên Gia. Sách Luận Hành của Vương Sung nói: "Quận Nhật
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Người quân
tử đối với lời nói không thể cho qua được. Ngày xưa Tông Miệt85nếu không có lời
nói thì cùng với cỏ cây mục nát mà thôi. Lý Cầm không có lời nói thì sao được
dùng ở đời, mà người tài giỏi của nước Việt ta, người phương bắc làm sao biết
được? Lời nói không thể cho qua là vì vậy. Tuy nhiên, đây chỉ nói riêng về nhân
tài thôi, còn như Nhan [Hồi], Mẫn [Tử Khiên] thì không nói thế được.
[10a] Đinh Hợi, năm thứ 21 [207],
(Hán Kiến An năm thứ 12). Viên Huy nhà Hán gửi thư cho Thượng thư lệnh là Tuân
Úc rằng: "Giao Châu Sĩ phủ quân7 đã học vấn sâu rộng lại thông hiểu chính
trị, trong thời buổi đại loạn, giữ vẹn được một quận hơn 20 năm, bờ cõi không
xảy ra việc gì, dân không mất nghiệp, những bọn khách xa đến trú chân8 đều được
nhờ ơn, dẫu Đậu Dung giữ đất Hà Tây cũng không hơn được. Khi việc quan có chút
nhàn rỗi thì chăm xem các sách thư, truyện. Phàm những chỗ biên chép không rõ
ràng trong sách Xuân Thu Tả thị truyện, [tôi] đem hỏi, đều được ông giảng giải
cho những chỗ nghi ngờ, đều có kiến giải của bậc thầy, ý tứ rõ ràng, chặt chẽ.
Lại như sách Thượng thư, cả cổ văn và kim văn, những ý nghĩa to lớn, ông đều
hiểu biết tường tận, đầy đủ. Anh em ông làm quan coi quận, hùng trưởng một
châu, ở lánh ngoài muôn dặm, uy tín không ai hơn. Khi ra vào thì đánh chuông
khánh, uy nghi đủ hết; kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ9 đi sát
bánh xe để đốt hương thường có đến mấy mươi người; vợ cả, vợ lẽ đi xe che kín,
bọn con em cưỡi ngựa dẫn quân theo [10b] hầu, người đương thời ai cũng quý
trọng, các man di đều sợ phục, dẫu Úy Đà cũng không hơn được". (Huy bấy
giờ ngụ ở Giao Châu). Sau vua Hán sai Trương Tân làm Thứ sử. (Tân nhận chức năm
Kiến An thứ 6 [221] thời Hán). Tân thích việc quỷ thần, thường đội khăn đỏ, gảy
đàn, đốt hương, đọc sách Đạo giáo, nói rằng có thể giúp việc giáo hóa, [sau] bị
tướng là Khu Cảnh giết, châu mục Kinh Châu là Lưu Biểu sai Huyện lệnh Linh Lăng
là Lại Cung thay Tân. Vua Hán nghe tin Tân chết, gửi cho vương [Sĩ Nhiếp] bức
thư có đóng dấu ấn nói rằng: "Giao Châu ở cõi xa, một dải sông biển ở phía
nam, ơn trên không truyền đến, nghĩa dưới bị nghẽn tắc, thế mà nghịch tặc Lưu
Biểu lại sai Lại Cung dòm ngó đất Nam10 , nay cho khanh làm Tuy Nam trung lang
tướng trông coi bảy quận, lĩnh Thái thú Giao Châu như cũ". Vương sai thuộc
lại là Trương Mân mang đồ cống sang kinh đô nhà Hán. Bây giờ thiên hạ loạn lạc,
đường sá đứt nghẽn, nhưng vương vẫn không bỏ việc nộp cống. Vua Hán lại xuống
chiếu cho làm An Viễn [11a] tướng quân, phong tước Long Độ Đình hầu. Sau Thái
thú Thương Ngô là Ngô Cự bất hòa với Cung, đem binh đánh đuổi, Cung chạy về
Linh Lăng.
Canh
Dần, n thứ 24 [210], (Hán Kiến An năm thứ 15). Ngô Vương là Tôn Quyền sai Bộ
Chất làm Thứ sử Giao Châu. Khi Chất đến, vương đem anh em đến vâng theo mệnh
lệnh. Ngô Vương cho vương làm Tả tướng quân. Sau vương sai con là Ngẩm11 làm
con tin ở nước Ngô, Ngô Vương cho làm Thái thú Vũ Xương. Các con của vương ở
Nam đều cho làm Trung lang tướng. Vương lại dỗ bảo thổ hào ở Ích Châu là bọn
Ung Khải đem dân chúng trong quận phụ thuộc xa với nước Ngô ở miền đông. Ngô
Vương càng khen, thăng làm Vệ tướng quân, tước Long Biên hầu. Vương thường sai
sứ sang nước Ngô dâng các thứ hương liệu, vải mịn, kể số hàng nghìn. Các thứ
quý lạ như ngọc trai, ốc lớn, lưu ly, lông trả, đồi mồi, sừng tê, ngà voi [11b]
cùng các thứ quả lạ như chuối, dừa, long nhãn, không năm nào không tiến, lại
cống ngựa hàng mấy trăm con. Ngô Vương viết thư ban cho rất hậu để yên ủi và
đáp lại.
Lê Văn Hưu nói: Sĩ Vương biết lấy
khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ, được người thân yêu mà đạt đến quý
thịnh một thời. Lại hiểu nghĩa, thức thời, tuy tài và dũng không bằng Triệu Vũ
Đế, nhưng chịu nhún mình thờ nước lớn, để giữ vẹn bờ cõi, có thể gọi là người
trí. Tiếc rằng con nối không gánh vác nổi cơ nghiệp của cha, để cho bờ cõi nước
Việt đã toàn thịnh mà lại bị chia cắt, đáng buồn thay !
Bính
Ngọ, năm thứ 40 [226], (Hán Hậu Chúa Thiện, Kiến Hưng năm thứ 4; Ngô Tôn Quyền,
Hoàng Vũ năm thứ 5). Vương mất. Trước vương ốm, đã chết đi 3 ngày, người tiên
là Đổng Phụng cho một viên thuốc hòa vào nước ngậm, rồi đỡ lấy đầu mà lay [12a]
động, mộc chốc lát mở mắt động tay, sắc mặt bình phục dần dần, ngày hôm sau
ngồi dậy được, 4 ngày lại nói được, rồi trở lại bình thường. (Phụng tên tự là
Xương Dị, người huyện Hầu Quan, sự tích có chép trong Liệt tiên truyện. Hầu
Quan là tên huyện, thuộc Phúc Châu).
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nước ta thông
thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức
ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?
Con không hiền là tội của con thôi. Tục truyền rằng sau khi vương chết đã chôn,
đến cuối thời nhà Tấn đã hơn 160 năm, người Lâm Ấp vào cướp, đào mộ của vương,
thấy mình mặt vẫn như sống, cả sợ lại đắp lại, người địa phương cho là thần,
làm miếu để thờ gọi là "Tiên Sĩ Vương". Có lẽ là khí tinh anh không
nát, cho nên thành thần vậy. (Đền thờ tại thành cũ Long Biên12 )
[12b]
Trở lên là [kỷ] Sĩ Vương, từ năm Đinh Mão đến năm Bính Ngọ, tất cả 40 năm
[187-226].
(Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
KỶ THUỘC ĐÔNG NGÔ
Chuyên mục: Bắc thuộc lần II
Đinh
Mùi, [227], (Hán Kiến Hưng năm thứ 5; Ngô Hoàng Vũ năm thứ 6), Vua Ngô nghe tin
Sĩ Nhiếp mất, thấy Giao Châu ở xa cách, mới chia từ quận Hợp Phố trở về bắc
thuộc vào Quảng Châu, cho Lữ Đại làm Thứ sử; từ quận Hợp Phố trở về nam thuộc
vào Giao Châu, cho Đái Lương làm Thứ sử. Lại sai Trần Thì làm Thái thú thay Sĩ
Nhiếp. Đại ở lại Nam Hải. Lương và Thì cùng lên đường. Đến Hợp Phố nghe tin ở
Giao Châu con Sĩ Nhiếp là Huy đã tự làm Thái thú, đem tông binh ra chống cự.
(Cuối thời nhà Hán, tôn thất nổi loạn, người
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Từ xưa hễ
giết bề tôi can ngăn thì chưa từng không mất nước. Nước Trần giết [1b] Tiết Dã,
nước Tề giết Cô Huyên, việc nước Trần, nước Tề đáng làm gương soi, lấy đó làm
răn. Thế mà còn có người giết bề tôi căn ngăn như Sĩ Huy, nối nghiệp chưa kịp
quay gót mà đã phải chết là đáng lắm.
Anh của Lân là Trị và con là Phát lại
họp tông binh đánh Huy. Huy đóng cửa thành để giữ. Bọn Trị đánh mấy tháng không
hạ được thành, bèn giảng hòa và đều bãi binh. Kế đó Lữ Đại vâng chiếu nước Ngô
đánh Huy, đem quân từ Quảng Châu, ngày đêm đi gấp đến Hợp Phố, cùng với Lương
đều tiến, dụ con của Sĩ Nhiếp là Trung Lang Tướng Khuông1 bảo Huy ra chịu tội,
tuy mất chức quận thú, nhưng bảo đảm không có lo ngại gì khác. Đại theo Khuông
đến sau. Anh Huy là Chi, em Huy là bọn Cán, Tụng sáu người cởi trần2 đón Đại.
Đại mặc áo thường3 đi thẳng đến quận trị. Sáng hôm sau, Đại bày màn trướng, mời
anh em Huy theo thứ tự đi vào. Tân khách đầy nhà, Đại đứng dậy cầm phù tiết đọc
tờ chiếu kể tội Huy, tả hữu trói quặt [2a] [anh em Huy] đưa ra ngoài, đem chém
cả, lấy đầu đưa về Vũ Xương.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Sĩ Huy cha
mất không xin mệnh mà đã tự lập, lại đem quân chống mệnh, theo nghĩa thì phải
đánh. Nhưng Lữ Đại đã dụ [Huy] ra hàng mà lại giết đi là trái lẽ. Giữ điều tin
là báu của nước. Huy đã hàng cứ trói giải về Vũ Xương, khiến cho việc sinh sát
được quyết ở trên, mà uy tín lan xuống kẻ dưới, há chẳng hay hơn ư? Tôn Thịnh
nói: "Hòa với người phương xa, được lòng người ở gần, không gì hay hơn chữ
Tín". Lữ Đại giết kể đầu hàng để cầu công, người quân tử lấy làm chê cười,
xem thế mới biết họ Lữ không được lâu là phải lắm.
Nhất, Vĩ và Khuông sau mới ra hàng,
được Ngô Vương tha tội, cùng với con tin của Sĩ Nhiếp là Ngẩm, đều giáng làm
thứ nhân. Được vài năm, Nhất và Vĩ có tội bị giết, duy có Khuông ốm chết trước.
Đến khi Ngẩm chết, đại [2b] tướng của Huy là Cam Lễ và Hoàn Trị đem lại dân
đánh Đại, Đại đánh tan được. Bấy giờ mới bỏ Quảng Châu, đặt lại Giao Châu như
cũ. Đại tiến đánh quận Cửu Chân, chém và bắt được kể hàng vạn người.
Tân Hợi,
[231], (Hán Kiến Hưng năm thứ 9; Ngô Hoàng Vũ năm thứ 3). Người man Ngũ Khê ở
Vũ Lăng nước Ngô làm phản. Ngô Vương cho là đất miền
Mậu
Thìn, [284], (Hán Diên Hy năm thứ 11; Ngô Vĩnh An năm thứ 1)9 . Người Cửu Chân
lại đánh hãm thành ấp, châu quận rối động. Ngô Vương cho Hành Dương đốc quân đô
úy Lục Dận (có sách chép là Lục Thương) làm Thứ sử kiêm hiệu úy. [4a] Dận đến
nơi, lấy ân đức tín nghĩa hiểu dụ, dân ra hàng phục đến hơn 3 vạn nhà, trong
châu lại yên. Sau, người con gái ở quận Cửu Chân là Triệu Ẩu tập họp dân chúng
đánh chiếm các quận huyện (Ẩu vú dài 3 thước, vắt ra sau lưng, thường ngồi trên
đầu voi đánh nhau với giặc). Dận dẹp yên được. (Sách Giao Chỉ chí chép: Trong
núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài 3 thước, không lấy chồng,
họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày
mũi cong10 , ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần)102.
Quý Mùi,
[263], (Hán Viêm Hưng năm thứ 1, Ngô Vĩnh An năm thứ 16)11 . Mùa xuân, tháng 3,
lúc trước nhà Ngô lấy Tôn Tư làm Thái thú Giao Châu, Tư là người tham bạo, làm
hại dân chúng. Đến đây vua Ngô sai Đặng Tuân đến quận. Tuân lại tự tiện bắt dân
nộp 30 con công đưa về Kiến Nghiệp. Dân sợ phải đi phục dịch đường xa, mới mưu
làm loạn. Mùa hạ, tháng 4, quận lại là Lữ Hưng giết Tư và Tuân, xin nhà Tấn đặt
Thái thú và cho binh. (Xét sách Cương mục chép là xin nhà Ngụy đặt quan, nhưng
đến năm sau. Ngụy nhường ngôi cho Tấn, thì Ngụy cũng tức là Tấn). Các quận Cửu
Chân, Nhật
(Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
THUỘC LƯỠNG TẤN
Chuyên mục: Bắc thuộc lần II
Giáp Thân, [264], (Ngụy Tào Hoán Hàm
Hy năm thứ 1, Ngô Tôn Hạo Nguyên Hưng năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, nhà Ngô
tách Giao Châu, đặt Quảng Châu. Bấy giờ Ngô đã phụ vào Tấn. Nhà Tấn cho Lữ Hưng
làm An Nam tướng quân đô đốc Giao Châu chư quân sự, cho Nam Trung giáp quân là
Hoắc Dặc xa lĩnh1 Thứ sử Giao Châu, cho được tùy nghi tuyển dụng trưởng lại.
Dặc dâng biểu tiến cử Thoán Cốc (có sách chép là Phần Cốc) làm Thái thú, đem
thuộc lại là bọn Đổng Nguyên, Vương Tố đem quân sang giúp Hưng, nhưng chưa đến
nơi thì Hưng đã bị công tào là Lý Thống giết. Cốc cũng chết (có sách chép Cốc
ốm chết).
Ất Dậu,
[265], (Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm, Thái Thủy năm thứ 1, Ngô Cam Lộ năm thứ 1), Vua
Tấn sai Mã Dung người Ba Tây thay Hưng. Dung ốm chết. Dặc lại sai Dương Tắc
người Kiện Vi thay Dung làm Thái thú.
[5a] Mậu
Tý, [268], (Tấn Thái Thủy năm thứ 4, Ngô Bảo Đỉnh năm thứ 3). Nhà Ngô lấy Lưu
Tuấn làm Thứ sử. Tuấn cùng với Đại đô đốc Tu Tắc2 và Tướng quân Cố Dung trước
sau 3 lần đánh Giao Châu. [Dương] Tắc đều chống cự và đánh tan được cả. Các
quận Uất Lâm, Cửu Chân đều theo về Tắc. Tắc sai tướng quân là Mao Linh3 và Đổng
Nguyên đánh quận Hợp Phố, giao chiến ở Cổ Thành (tức là thành quận Hợp Phố),
đánh tan quân Ngô, giết Lưu Tuấn và Tu Tắc, binh tan chạy về Hợp Phố, Dương Tắc
nhân đó dâng biểu cử Mao Linh làm thái thú Uất Lâm, Đổng Nguyên làm Thái thú
Cửu Chân.
Kỷ Sửu,
[269], (Tấn Thái Thủy năm thứ 5, Ngô Kiến Hành năm thứ 1). Mùa đông, tháng 10,
nhà Ngô sai Giám quân Nhu Phiếm, Uy Nam tướng quân Tiết Hủ và Thái thú quận
Thương Ngô người Đan Dương là Đào Hoàng theo đường Kinh Châu sang; Giám quân Lý
Đỉnh, Đốc quân Từ Tồn theo đường biển Kiến An sang, đều hội ở Hợp Phố để đánh
[Dương] Tắc (Lý Đỉnh có sách chép là Lý Húc).
Tân Mão,
[271], (Tấn Thái Thủy năm thứ 7, Ngô Kiến Hành năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 4, Ngu
Phiếm, Tiết Hủ, Đào Hoàng chống nhau với Tắc, đánh nhau [5b] ở sông Phần4 Đào
Hoàng thua, lui về giữ Hợp Phố, chết hai tướng. Hủ giận bảo Hoàng: "Ngươi
tự dâng biểu xin đi đánh giặc mà để chết mất hai tướng thì trách nhiệm ở
đâu?" Hoàng nói: "Hạ quan không được làm theo ý mình, quân sĩ không
hòa thuận, cho nên đến nỗi thua như thế". Hũ chưa nguôi giận, muốn đem
quân trở về. Đêm ấy, Hoàng đem mấy trăm quân đánh úp Đổng Nguyên, lấy được của
báu, chở thuyền đem về. Hủ bèn tạ lỗi, cho Hoàng lĩnh chức Tiền bộ đô đốc Giao
Châu. Hoàng lại theo đường biển, nhân khi bất ngờ, tiến thẳng đến châu. Nguyên
chống cự. Các tướng muốn đánh, Hoàng ngờ bên trong chỗ cầu gãy có phục binh,
bèn dàn riêng một đội quân giáo dài ở đằng sau. Quân hai bên vừa mới giao
chiến, Nguyên giả cách lui, Hoàng đuổi theo, phục binh quả nhiên kéo ra. Quân
giáo dài quay lại đánh, phá tan bọn Nguyên, giết Nguyên [tại trận], lấy những
thuyền chở hàng hóa báu vật và mấy nghìn tấm thổ cẩm cướp được trước đây đem
cho tướng giặc Phù Nghiêm là Lương Tề5 . Tề đem [6a] hơn vạn người đến giúp
Hoàng. Bấy giờ Dương Tắc lấy tướng của mình là Vương Tố thay Nguyên. Dũng tướng
của Nguyên là Giải Hệ cùng ở trong thành. Hoàng sai em [của Hệ] là Tượng viết
thư gửi cho Hệ, lại sai Tượng ngồi xe ngựa, đánh trống thổi sáp, dẫn đường cho
mình đi theo. Bọn Tố bảo nhau rằng: "Tượng như thế, Hệ tất có ý bỏ bọn ta
để đi theo". Bèn giết Hệ. Bọn Hủ và Hoàng bèn đánh lấy châu. Nhà Ngô nhân
đó dùng Đào Hoàng làm Thứ sử. Hoàng là người có mưu lược, chu cấp kẻ nghèo
khốn, ưa bố thí, được lòng người, ai ai cũng vui lòng giúp việc, đến đâu cũng
có công trạng. Trước đây vua Tấn cho Dương Tắc làm Thứ sử Giao Châu, Mao Miện6
làm Thái thú, ấn thao chưa gửi đến mà Tắc và Miện đã thua chết rồi. Nhân đó vua
Tấn truy tặng Tắc, Miện, Tùng, Năng (Tùng, Năng không kê cứu được7 ) tước Quan
nội hầu. Công tào quận Cửu Chân là Lý Tộ giữ quận mà phụ theo nhà Tấn, Hoàng
sai tướng đi đánh, không được. Cậu của Tộ là Lê Hoàn (có sách chép là Lê Minh)
theo quân [của Hoàng], khuyên Tộ hàng, Tộ gay gắt trả lời: "Cậu [6b] là
tướng nước Ngô, Tộ là bề tôi nước Tấn, chỉ có thể dùng sức mà đối xử với nhau
thôi". Quân của Hoàng phải đánh, giờ lâu mới hạ được thành.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bề tôi giữ
đất, nếu ai cũng có lòng như lòng Lý Tộ thì có thể gọi là với chúa mình thờ.
Vua Ngô cho Đào Hoàng làm Thứ sử trì
tiết đô đốc Giao Châu chư quân sự. Dưới thời các tướng quân châu mục trước kia,
các quận Vũ Bình, Cửu Đức, Tân Xương, địa thế hiểm trở, người Di Lão hung tợn,
đã mấy đời không chịu thần phục, Hoàng đi đánh, dẹp yên được, mở thêm đất, đặt
3 quận, và hơn 30 huyện ở các nước phụ thuộc với quận Cửu Chân8 . Sau vua Ngô
lấy Hoàng làm Đô đốc Vũ Xương, cho Thái thú Hợp Phố là Tu Nguyên9 thay. Dân địa
phương đến hàng nghìn người xin lưu Hoàng lại, bởi thế cho Hoàng trở về nhiệm
sở cũ. Sau vua Ngô hàng nhà Tấn, tự tay viết thư sai Mã Tức Dung10 khuyên Hoàng
quy thuận [nhà Tấn]. Hoàng khóc mấy ngày, rồi sai sứ mang ấn [7a] thao về Lạc
Dương. Vua Tấn xuống chiếu cho phục chức, phong cho Hoàng tước Uyển Lăng hầu,
lại đổi làm Quán quân tướng quân. Hoàng ở châu 30 năm, tỏ ra người có ân có uy,
được người địa phương yêu mến. Đến khi chết, cả châu khóc thương như mất cha mẹ
hiền. Vua Tấn lấy Viên ngoại lang tán kỵ thường thị là Ngô Ngạn làm Đô đốc thứ
sử. Khi Hoàng mới mất, các thú binh ở Cửu Chân làm loạn, đuổi Thái thú, người
cầm đầu là Triệu Chỉ vây quận trị, Ngạn dẹp yên cả. Ngạn giữ chức 25 năm, ân uy
rõ rệt, dân trong châu yên ổn, sau dâng biểu xin cho người thay. Vua Tấn cho
Viên ngoại lang tán kỵ thường thị là Cố Bí thay. Bí là người ôn hòa, nhã nhặn,
cả châu yêu mến, không được bao lâu thì mất. Người trong châu cố ép con của Bí
là Tham trông coi việc châu. Sau Tham chết, em là Thọ trông coi việc châu,
người châu không nghe. Thọ cố nài, bèn được coi việc châu. Rồi giết trưởng lại
là bọn Hồ Triệu, lại toan giết đốc quân dưới trướng [7b] là Lương Thạc. Thạc
chạy thoát được, dấy binh đánh, bắt được Thọ. Mẹ Thọ sai lấy thuốc độc giết
chết. Thạc bèn chuyên quyền (có sách chép là cả mẹ của Thọ cũng bị giết bằng
thuốc độc), nhưng sợ dân tình không theo, bèn cho con trai của Hoàng là Uy
[đang làm] Thái thú Thương Ngô về lĩnh chức Thứ sử [Giao Châu]. Uy ở chức rất
được lòng dân, được 30 năm11 thì chết. Em trai Uy là Thục, con trai [của Uy] là
Tuy12 nối nhau làm thứ sử. Từ Cơ đến Tuy bốn đời đều làm Thứ sử. Cơ là ông nội
của Hoàng13 .
Mậu Dần,
[318], (Đông Tấn Nguyên Đế Tư Mã Duệ, Đại Hưng14 năm thứ 1). Mùa đông, tháng
10, vua Tấn xuống chiếu cho Thứ sử Quảng Châu là Đào Khản làm Đô đốc Giao Châu
chư quân sự.
Nhâm
Ngọ, [322], (Tấn Vĩnh Xương năm thứ 1). Vương Đôn nhà Tấn lấy Vương Lượng làm
Thứ sử, sai đánh Lương Thạc. Thạc đem quân vây Lượng ở Long Biên.
[8a] Quý
Mùi, [323], (Tấn Minh Đế Thiệu, Thái Ninh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, Đào
Khản sai quân đi cứu Vương Lượng, chưa đến nơi thì Lương Thạc đã lấy được Long
Biên rồi. Thạc đoạt lấy cờ tiết của Lượng, Lượng không cho, Thạc bèn chặt tay
trái của Lượng, Lượng nói: "Chết còn không tránh, chặt cánh tay thì làm
gì?". Được hơn 10 ngày thì Lượng chết. Thạc châu, hung bạo mất lòng dân.
Đào Khản sai tham quân là Cao Bảo sang đánh, chém chết Thạc. Vua Tấn cho Khản
lĩnh chức Thứ sử Giao Châu, thăng hiệu là Chinh
Quý Sửu,
[353], (Tấn Mục Đế San, Vĩnh Hòa năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, Nguyễn Phu nhà
Tấn làm Thứ sử Giao Châu. Phu đánh [8b] nước Lâm Ấp15 , phá được hơn 50 lũy.
(Trước đây nhà Tấn khi đã bình được nhà Ngô, trưng binh ở Giao Châu16 , Thứ sử
Giao Châu là Đào Hoàng dâng thư nói: "Giao Châu ngoài cách Lâm Ấp chỉ vài
nghìn dặm17 . Tướng Di [Lâm Ấp] là Phạm Hùng đời đời trốn tránh làm giặc, tự
xưng vương, nhiều lần đánh phá trăm họ. Vả lại [nước ấy] liền với nước Phù
Canh
Thìn, [380], (Tấn Vũ Đế19 , Xương Minh, Thái Nguyên năm thứ 5). Mùa đông, tháng
10, Thái thú Cửu Chân là Lý Tốn chiếm châu làm phản.
Tân Tỵ,
[381], (Tấn Thái Nguyên năm thứ 6). Thái thú Giao Châu là Đỗ Viện chém được Lý
Tốn, trong cõi lại được yên, thăng cho Viện làm thứ sử Giao Châu14 . (Viện
người Chu Diên nước ta. Sách Giao Chỉ chí chép vào mục nhân vật nước ta, xếp
sau Sĩ Nhiếp).
[9a] Kỷ
Hợi, [399], (Tấn An Đế Đức Tông, Long An năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 3, vua
nước Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật
Tân Hợi,
[411], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Thái thú quận Vĩnh Gia là Lư
Tuần chạy sang [Giao Châu]. Trước đó, khi Thứ sử Đỗ Viện chết (có sách nói Viện
vốn người Kinh Triệu, ông là Nguyên, làm Thái thú Hợp Phố, nhân đó Viện mới đến
ở Giao Chỉ), vua Tấn cho con là Tuệ Độ thay làm Thứ sử. Chiếu thư chưa đến nơi,
Tuần đã đánh phá Hợp Phố, tiến thẳng đến Giao Châu. Tuệ Độ đem các quan văn võ
ở châu với Tuần ở Thạch Kỳ20 , đánh tan được. Quân của Tuần sống sót khoảng 2
nghìn người. Dư đảng của Lý Tốn là bọn Lý Thoát kết tụ với dân Lý, Lạo hơn 5
nghìn người để ứng theo Lư Tuần, ngày Canh Tý kéo đến bờ nam Long Biên. Tuệ Độ
bỏ hết gia tài để thưởng quân sĩ, cùng Tuần giao chiến, ném đuốc đuôi trĩ đốt
thuyền bè của Tuần, cho bộ binh áp bờ sông bắn xuống. Thuyền của Tuần cháy hết,
[9b] bèn tan vỡ. Tuần biết thế nào cũng chết, bỏ thuốc độc cho vợ con chết
trước rồi gọi các nàng hầu con hát hỏi rằng: "Ai có thể theo ta?"
Phần nhiều đều trả lời: "Con sẻ, con chuột còn tham sống, chết theo thì
khó lắm". Cũng có người nói: "Quan còn phải chết, chúng tôi há lại
muốn sống". Tuần bèn giết hết những kẻ không chịu chết theo, rồi gieo mình
xuống sông mà chết. Tuệ Độ sai nhặt xác đem chém đầu, cùng với vợ con của Tuần
và bọn Thoát, đều lấy đầu đóng hòm đưa về Kiến Khang21 .
Quý Sửu,
[413], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 2, vua nước Lâm Ấp là Phạm Hồ
Đạt cướp quận Cửu Chân. Tuệ Độ đánh chém được.
Ất Mão,
[415], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 11). Mùa đông, tháng 12, quân Lâm Ấp cướp Giao
Châu. Tướng châu đánh bại được.
Canh
Thân, [420], (Tấn Cung Đế Đức Văn, Nguyên Hy năm thứ 2; Tống Vũ Đế Lưu Dụ, Vĩnh
Sơ năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, Tuệ Độ đánh Lâm Ấp, phá được, chém giết đến
quá nửa. Lâm Ấp xin hàng, Tuệ Độ cho. Những người trước sau bị [Lâm Ấp] cướp
bắt [10a] đều được trả về cả. Tuệ Độ ở Giao Châu, mặc áo vải, ăn cơm rau, cấm
thờ nhảm, sửa nhà học, năm đói kém thì lấy lộc riêng để chẩn cấp, làm việc cẩn
thận chu đáo cũng như việc nhà, lại dân sợ mà yêu. Cửa thành đêm vẫn mở, ngoài
đường không ai nhặt của rơi. Khi Tuệ Độ chết, tặng chức Tả tướng quân, cho con
là Hoằng Văn làm Thứ sử. Năm ấy nhà Tấn mất.
(Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
THUỘC TỐNG, TỀ, LƯƠNG
Chuyên mục: Bắc thuộc lần II
Đinh
Mão, [427], (Tống Văn Đế Nghĩa Long, Nguyên Gia năm thứ 4). Mùa hạ, tháng 4,
ngày Canh Tuất, vua Tống gọi Hoằng Văn về làm Đình Úy, cho Vương Huy Chi làm
Thứ sử. Bấy giờ Hoằng Văn đang ốm, cố ngồi xe lên đường, có người khuyên chờ
khỏi ốm hãy đi. Hoằng Văn nói: "Nhà ta ba đời cầm phù tiết, thường muốn
đem mình sang chầu sân vua, huống chi nay lại được gọi về". Bèn cứ đi,
chết ở Quảng Châu.
Tân Mùi,
[431], (Tống Nguyên Gia năm thứ 8). Vua nước Lâm Ấp là Phạm Dương Mại cướp phá
quận Cửu Chân, bị quân châu đánh lui.
[10b]
Nhâm Thân, [432], (Tống Nguyên Gia năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 5, vua Lâm Ấp là
Phạm Dương Mại sai sứ sang cống nước Tống, xin lĩnh Giao Châu. Vua Tống xuống
chiếu trả lời vì đường xa không cho.
Lê Văn
Hưu nói: [Dù khỏe như] Bôn và Dục126mà lúc còn thơ ấu cũng không thể chống nổi
người què, người thọt đã tráng niên. Nước Lâm Ấp thừa lúc nước Việt ta không có
vua, đến cướp Nhật Nam và Cửu Chân rồi xin quản lĩnh cả [Giao Châu], có phải
bấy giờ nước không thể chống nổi nước Lâm Ấp ấy đâu! Chỉ vì không có người
thống suất mà thôi ! Thời không bĩ mãi, tất có lúc thái. Thế không khuất mãi,
tất có lúc duỗi. Lý Thái Tông chém đầu vua nước ấy là Sạ Đẩu, Lý Thánh Tông bắt
vua nước ấy là Chế Củ, bắt làm tù dân nước ấy 5 vạn người, đến nay vẫn còn phải
chịu làm tôi tớ, cũng đủ để rửa được mối hận thù hổ thẹn của mấy năm ô nhục
này.
[11a]
Bính Tý, [436], (Tống Nguyên Gia thứ 13)1 . Mùa xuân, tháng 2, vua Tống sai Thứ
sử Giao Châu là Đàn Hòa Chi đánh Lâm Ấp. Trước kia, vua Lâm Ấp là Phạm Dương
Mại tuy sai sứ sang cống, nhưng vẫn không thôi việc cướp bóc, cho nên vua Tống
sai Hòa Chi đi đánh. Bấy giờ người quận Nam Dương là Tông Xác, nếp nhà đời đời
Nho học, riêng Xác thích việc võ, thường nói: "Muốn cưỡi gió lớn mà phá
sóng muôn dặm". Đến khi Hòa Chi đi đánh Lâm Ấp, Xác hăng hái xin đi theo
quân. Vua Tống cho Xác làm Chấn vũ tướng quân. Hòa Chi sai Xác làm tiên phong.
Dương Mại nghe tin quân Tống sang, sai sứ dâng biểu xin trả lại những người dân
Nhật
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Có tài hữu
dụng thì không thể không đem ra thi thố, há câu nệ vì thói đời [12a]4 hay sao?
Người ta lập chí mỗi người một khác. Người có chí về đạo đức thì công danh
không thể động được lòng, người có chí về công danh thì phú quý không thể động
được lòng. Chí của Tông Xác có lẽ ở công danh chăng ? Ngày trở về nhà, tài vật
không lấy một thứ gì, đó thực sự là phú quý không thể động được lòng. So với
người có chí về đạo đức, cố nhiên không thể kịp, nhưng so với người có chí về
phú quý thì hạng ấy còn kém xa.
Đinh
Sửu, [437], (Tống Nguyên Gia năm thứ 14). Mùa đông, tháng 10, ngày Nhâm Ngọ,
Đàn Hòa Chi bỏ quan về.
Mậu
Thân, [468], (Tống Đế Úc5 , Thái Thủy năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 3, Thứ sử Lưu
Mục ốm chết. Người châu là Lý Trường Nhân giết những bộ thuộc của châu mục đem
từ Trung Quốc sang rồi chiếm giữ châu làm phản, tự xưng là Thứ sử.
Mùa thu,
tháng 8, vua Tống lấy Nam Khang tướng là Lưu Bột làm Thứ sử Giao Châu. Bột đến,
bị Trường Nhân [12b] chống cự, không bao lâu thì chết. Tháng 11, Lý Trường Nhân
sai sứ xin hàng và tự hạ xuống chức Hành Châu sự1 . Vua Tống y cho.
Kỷ Mùi,
[479], (Tống Thuận Đế Chuẩn, Thăng Minh năm thứ 3; Tề Cao Đế Tiêu Đạo Thành,
Kiến Nguyên năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, ngày mồng 1, có nhật thực.
Mùa thu,
tháng 7, vua Tề lấy Lý Thúc Hiến làm Thứ sử Giao Châu. Thúc Hiến là em con chú
con bác của Trường Nhân. Trước đó khi Thứ sử Trường Nhân chết, Thúc Hiến thay
lĩnh việc châu, vì thấy hiệu lệnh chưa được thi hành cho nên sai sứ sang xin
nhà Tống cho giữ chức Thứ sử. Nhà Tống lấy Thái thú Nam Hải là Thẩm Hoán làm
Thứ sử Giao Châu, cho Thúc Hiến làm Ninh Viễn quân tư mã, giữ chức Thái thú hai
quận Vũ Bình và Tân Xương6 . Thúc Hiến đã được mệnh lệnh của triều đình [nhà
Tống], lòng người phục theo, bèn đem quân giữ nơi hiểm, không chịu thu nạp Thẩm
Hoán. Hoán lưu lại ở Uất Lâm, rồi chết. Vua Tề bèn cho Thúc Hiến làm Thứ sử, vỗ
yên đất phương
[13a]
Giáp Tý, [484], (Tề Vũ Đế Di, Vĩnh Minh năm thứ 2). Lý Thúc Hiến nhận mệnh xong
liền cắt đứt việc cống hiến. Vua Tề muốn đánh.
Ất Sửu,
[485], (Tề Vĩnh Minh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính Thìn, vua Tề
lấy Đại tư nông Lưu Khải làm Thứ sử, phát binh các quận Nam Khang, Lư Lăng,
Thủy Hưng đi đánh Lý Thúc Hiến. Thúc Hiến sai sứ xin bãi binh, dâng 20 cỗ mũ
đâu mâu toàn bằng bạc cùng dải tua bằng lông công. Vua Tề không cho. Thúc Hiến
sợ bị Khải đánh úp, mới đi đường tắt từ Tương Châu sang chầu vua Tề, Khải bèn
vào trấn.
Canh
Ngọ, [490], (Tề Vĩnh Minh năm thứ 8). Mùa đông, tháng 10, Thứ sử là Phòng Pháp
Thặng (thay Lưu Khải) chỉ thích đọc sách, thường cáo ốm không làm việc, vì thế
trưởng lại7 là Phục Đăng Chi được chuyên quyền [13b] thay đổi các tướng lại mà
không cho Pháp Thặng biết. Lục sự là Phòng Tú Văn mách với Pháp Thặng. Pháp
Thặng cả giận, giam Đăng Chi vào ngục hơn 10 ngày. Đăng Chi hối lộ nhiều cho Thôi
Cảnh Thúc, là chồng của em gái Pháp Thặng, nên được thả ra, rồi đem bộ khúc
đánh úp châu trị, bắt Pháp Thặng, bảo Thặng rằng: "Sứ quân đã có bệnh, thì
không nên khó nhọc", rồi giam ở một nhà riêng. Pháp Thặng không có việc
gì, lại gặp Đăng Chi xin đọc sách. Đăng Chi nói: "Sứ quân ở yên còn sợ
phát bệnh, há lại còn xem sách?", bèn không cho, rồi tâu [với vua Tề] là
Pháp Thặng bị bệnh động tim, không thể coi việc được. Tháng 11, ngày Ất Mão,
vua Tề cho Đăng Chi làm Thứ sử. Pháp Thặng về đến Ngũ Lĩnh thì chết.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Phòng Pháp
Thặng ham đọc sách mà bviệc quan đến nỗi kẻ trưởng lại nhân đó chuyên quyên,
thay đổi tướng lại, đó là cái lỗi nghiện sách quá. Còn như giam [Đặng Chi] vào
ngục mà [14a] trừng trị, thế là biết sửa lỗi rồi. Đến như nghe lời thỉnh thác
[của em rể] mà bỏ qua không hỏi đến nữa, thì lỗi ấy to lắm, bị [Đặng Chi] đánh
úp lại là đáng, không chết là may. Cho nên phàm việc gì quá mức trung thì chưa
từng không tai hại vậy.
Nhâm
Ngọ, [502], (Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, Thiên Giám năm thứ 1). Năm ấy nhà Tề mất.
Ất Dậu,
[505], (Lương Thiên Giám năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, Thứ sử Giao Châu là Lý
Nguyên Khải chiếm châu làm phản, Trưởng sử là Lý Tắc dẹp được (trước Nguyên
Khải thay Đăng Chi làm Thứ sử, cho là nhà Lương được nhà Tề nhường ngôi, chưa
có ân uy gì, nhân đó giữ châu làm phản. Đến đây Tắc đem tông binh đánh Nguyên
Khải, giết được).
Bính
Thân, [516], (Lương Thiên Giám năm thứ 15). Mùa đông, tháng 11, [vua Lương]
xuống chiếu cho Lý Tắc làm Thứ sử, Tắc lại chém Lý Tông Lão là dư đảng của
Nguyên Khải, lấy đầu chuyển về Kiến Khang, châu lại yên.
[14b],
Trở lên thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, từ năm Đinh Mùi đến năm Canh Thân,
cộng 314 năm [227 - 540].
(Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
III/ BẮC THUỘC LẦN III
Thời kỳ
Bắc thuộc lần thứ ba trong lịch sử Việt
Thời kỳ
này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm nước Vạn Xuân, bức hàng Hậu
Lý Nam Đế, kéo dài cho đến khi Khúc Thừa Dụ tiến vào Đại La, giành quyền cai
quản toàn bộ Tĩnh Hải quân năm 905 - thời Đường Ai Đế, ông vua bù nhìn trong
tay quyền thần Chu Ôn.
THUỘC TUỲ
Chuyên mục: Bắc thuộc lần III
Quý Hợi,
[603], (Tùy Nhân Thọ năm thứ 2). 1 Lưu Phương bắt được tướng cũ của Hậu
Ất Sửu,
[605], (Tùy Dạng Đế Quảng, Đại Nghiệp năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, Lưu
Phương mới dẹp yên nước ta, bầy tôi nhà Tùy có người nói nước Lâm Ấp có nhiều
báu lạ. Vua Tùy bèn cho Phương làm Hoan Châu đạo hành quân tổng quản, đi kinh
lược nước Lâm Ấp. Phương sai bọn thứ sử Khâm Châu là Nịnh Trường Chân đem quân
bộ và quân kỵ hơn một vạn xuất phát từ Việt Thường2 . Phương thân dẫn bọn đại
tướng quân Trương Tốn đem thủy quân xuất phát từ quận Tỷ Cảnh (huyện của nhà
Hán, thuộc quận Nhật
[2a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lâm Ấp
tự chuốc bại vong là có nguyên do. Từ khi Phạm Hồ Đạt đánh chiếm Nhật
Mậu Dần
, [618], (Đường Cao Tổ Lý Uyên, Vũ Đức năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4, Thứ sử Khâm
Châu là Nịnh Trường Chân đem đất Uất Lâm và Thủy An phụ theo Tiêu Tiển. Thái
thú Hán Dương là Phùng Áng đem đất Thương Ngô, Cao Yếu, Châu Nhai, Phiên Ngung
phụ theo Lâm Sĩ Hoằng. Tiển và Sĩ Hoằng đều sai người sang chiêu dụ Thái thú
Giao Châu là Khâu Hòa, Hòa không theo. Tiển sai Trường Chân đem quân Lĩnh
(Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
THUỘC ĐƯỜNG
Chuyên mục: Bắc thuộc lần III
Nhâm
Ngọ, [622], (Đường Vũ Đức năm thứ 5). Trước đây, cuối thời nhà Tùy, Khâu Hòa
làm Thái thú Giao Châu, cậy uy thế của nhà Tùy, thường đi tuần các khe động ở
biên giới, ở châu hơn 60 năm, Lâm Ấp và các nước2 tặng cho Hòa những ngọc minh
châu, sừng tê văn và vàng bạc của báu, cho nên Hòa giàu như vương giả. Năm này
nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam đô hộ phủ3 .
[3b] Mậu
Tý , [628], (Đường Thái Tông Thế Dân, Trinh Quán năm thứ 2). Tông thất nhà
Đường là Lý Thọ làm Đô đốc Giao Châu tham ô phải tội. Vua Đường thấy Thứ sử
Doanh Châu là Lư Tổ Thượng có tài gồm văn võ, gọi vào triều, dụ rằng:
"Giao Châu đã lâu không được người giỏi, các đô đốc trước sau đều không
xứng chức. Khanh có tài lược dẹp yên biên giới, hãy vì ta sang trấn đất ấy, chớ
lấy đường xa mà từ chối". Tổ Thượng lạy tạ, rồi lại hối, lấy cớ đau ốm mà
từ chối. Vua Đường sai Đỗ Như Hối bảo cho Tổ Thượng biết ý vua. Tổ Thượng vẫn
cố từ. Lại sai Chu Phạm là anh vợ của Tổ Thượng đến dụ rằng: "Người thường
đã hứa với nhau còn biết giữ chữ tín, khanh đã hứa trước mặt trẫm, há trái lời
hay sao? Nên sớm lên đường, sau ba năm tất gọi về, trẫm không nuốt lời".
Tổ Thượng trả lời rằng: "Đất Lĩnh
[4a] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua sai bề tôi lấy lễ, bề tôi thờ vua lấy trung. Đường
Thái Tông sai bề tôi không chịu đi, dỗ đến hai lần, có thể gọi là có lễ. Tổ
Thượng được vua sai lại tránh khó nhọc, thế là thất tiết; đã nhận rồi lại hối,
thế là thất tín; lời nói giận dỗi, thế là thất lễ. Thái Tông giết đi, tuy là
quá, song Tổ Thượng đủ ba lỗi ấy, thì tội ra sao?
Ất Mùi ,
[635], (Đường Trinh Quán năm thứ 9). Tông thất nhà Đường là Lý Đạo Hưng làm Đô
đốc Giao Châu vì bệnh chướng khí chết ở nơi làm quan.
Đinh Hợi
, [687], (Đường Trung Tông Triết, Tự Thánh năm thứ 4). Mùa thu, tháng 7, các hộ
người Lý ở Lĩnh Nam theo như lệ cũ nộp nửa thuế, Đô hộ Lưu Diên Hựu bắt phải
nộp cả. Các hộ người Lý mới oán giận, mưu làm loạn. Lý Tự Tiên làm [4b] chủ
mưu, Diên Hựu giết đi. Dư đảng là bọn Đinh Kiến họp quân vây phủ thành. Trong
thành binh ít không chống nổi, đóng cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện. Đại
tộc ở Quảng Châu là Phùng Tử Do muốn lập công, đóng quân không đến cứu, Kiến
giết Diên Hựu. Sau Tư mã Quế Châu là Tào Trực Tĩnh4 đánh giết được Kiến.
Nhâm
Tuất, [722], (Đường Huyền Tông, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). Tướng giặc là
Mai Thúc Loan5 chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm
Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn6 . Vua Đường sai nội thị tả giám môn vệ
tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là Nguyên Sở Khách7 đánh dẹp yên được.
Mậu
Tuất, [758], (Đường Túc Tông Hanh, Chí Đức năm thứ 3)ường đổi An Nam Đô Hộ Phủ
làm Trấn
Đinh Mùi
[767], (Đường Đại Tông Dự, Đại Lích thứ 2). [Người] Côn Lôn8 , Chà Bà9 đến
cướp, đánh lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô úy châu
Vũ Định là Cao Chính Bình. Quân cứu viện đến, đánh tan quân Côn Lôn, [5a] Chà
Bà ở Chu Diên. Bá Nghi đắp lại La Thành10 . Khi ấy có người tiết phụ họ Toàn11
là mẹ của Đào Tề Lượng ở Giao Châu, thường lấy trung nghĩa dạy Lượng, nhưng
Lượng ngoan cố không chịu nghe, mới dứt tình với con, tự cày lấy mà ăn, dệt lấy
mà mặc, người trong làng xóm đều noi theo. Vua Đường xuống chiếu cho 2 người
đinh đến hầu nuôi, sai quan bản đạo bốn mùa đến thăm hỏi.
Mậu
Thân, [768], (Đường Đại Lịch năm thứ 3). Nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam Đô
Hộ Phủ.
Giáp Tý,
[784], (Đường Đức Tông Quát, Hưng Nguyên năm thứ 1). Người quận Cửu Chân là
Khương Công Phụ làm quan thời Đường, đậu tiến sĩ, bổ làm Hiệu Thư Lang. Vì có
bài chế sách hơn người, cho làm Hữu thập di Hàn Lâm học sĩ, kiêm chức Kinh
triệu hộ tào tham quân, từng xin giết Chu Thử, vua Đường không nghe. Không bao
lâu Kinh sư có loạn, vua Đường từ cửa Thượng Uyển đi ra, Công Phụ giữ ngựa lại
can rằng: "Chu Thử từng làm tướng ở đất Kinh đất Nguyên, được lòng quân
lính, [5b] vì Chu Thao làm phản nên bị vua cất mất binh quyền, ngày thường vẫn
uất ức, xin cho bắt đem đi theo, chớ để cho bọn hung ác đón được". Vua
Đường đương lúc vội vàng không kịp nghe, trên đường đi lại muốn dừng lại ở
Phượng Tường để nương nhờ Trương Dật. Công Phụ can rằng: "Dật tuy là bề
tôi đáng tin cậy, nhưng là quan văn, quân đột kỵ ở Ngư Dương do ông ta quản
lĩnh đều là bộ khúc của Chu Thử. Nếu Thử thẳng đến Kinh Nguyên làm loạn, thì ở
nơi ấy không phải kế vạn toàn". Vua Đường bèn đi sang Phụng Thiên. Có
người báo tin Thử làm phản, xin vua phòng bị. Vua Đường nghe lời Lư Kỷ xuống
chiếu cho quân các đạo đóng cách xa thành một xá12 , muốn đợi Thử đến đón. Công
Phụ nói: "Bậc vương giả không nghiêm việc vũ bị thì lấy gì để oai linh
được trọng. Nay cấm binh đã ít người mà quân lính người ngựa đều ở bên ngoài,
thần lấy làm nguy cho bệ hạ lắm". Vua Đường khen là phải, cho gọi hết vào
trong thành. Quân của Thử quả nhiên kéo đến, đúng như lời của Công Phụ. Vua
Đường bèn thăng cho Phụ làm Gián Nghị Đại Phu, Đồng trung thư môn hạ bình
chương sự13 . Sau [6a] vì việc can vua chôn cất công chúa Đường An quá hậu,
trái ý vua, Lục Chí tâu gỡ cho, nhưng không được, cuối cùng vẫn phải xuống chức
làm Thái tử tả thứ tử, lại bị biếm là Tuyền Châu biệt giá. Đường Thuận Tông lên
ngôi, cho làm Thứ sử Cát Châu, chưa đến nơi nhận chức thì chết. Em là Khương
Công Phục cũng đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Bắc bộ thị lang14 .
Tân Mùi,
[791], (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính
Bình làm việc quan bắt dân đóng gópMùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc
Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc)176là Phùng Hưng dấy binh vây phủ.
Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn là nhà hào phú, có sức khỏe,
có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-780] đời Đường Đại
Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên
cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu
ngày không thắng được. Đến đây dùng [6b] kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem
quân vây phủ. Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Hưng nhân đó
vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết. Con là An tôn xưng làm Bố Cái
Đại Vương (tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái, cho nên lấy [Bố Cái] làm hiệu). Vương
thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở phía tây phủ đô hộ, tuế
thời cúng tế (tức là Phu hựu chương tín sùng nghĩa Bố Cái Đại Vương. Đền thờ
nay ở phường Thịnh Quang15 , ở phía đông nam16 ruộng tịch điền).
Tháng 5,
ngày Tân Tỵ, nhà Đường đặt quân Nhu Viễn ở phủ trị. Mùa thu, tháng 7, ngày Canh
Thìn, nhà Đường lấy Triệu Xương làm đô hộ. Xương vào cõi, lòng dân bèn yên.
Xương sai sứ dụ An, An đem quân hàng. Xương đắp thêm La Thành kiên cố hơn
trước, ở chức 17 năm, vì đau chân xin về. Vua Đường chuẩn cho, lấy Lang trung
bộ Binh là Bùi Thái thay Xương.
Quý Mùi,
[803], (Đường Trinh Nguyên năm thứ 19). Đô đốc Bùi Thái sai lấp bỏ những hào
rãnh ở trong thành, hợp làm một [7a] thành17 . Tướng ở châu là Vương Quý Nguyên
đuổi Bùi Thái đi. Vua Đường vời Xương hỏi tình trạng. Xương đã ngoài 70 tuổi,
mà tâu việc rõ ràng. Vua Đường cho là giỏi, lại sai làm Đô hộ Giao Châu. Xương
đến, người trong châu đều mừng, loạn bèn yên.
Mậu Tý,
[808], (Đường Hiến Tông Thuần, Nguyên Hòa năm thứ 3). Trương Chu làm Đô hộ Giao
Châu (trước Chu làm Kinh lược phán quan, đến nay thăng làm Đô hộ), đắp thêm
thành Đại La, đóng 300 chiếc thuyền mông đồng (loại thuyền ngắn), mỗi thuyền có
25 chiến thủ, 23 tay chèo, thuyền chèo ngược xuôi, nhanh như gió. Lại đắp hai
thành ở châu Hoan, châu Ái, vì các thành ấy trước bị Hoàn Vương (vua Chiêm
Thành) phá hủy.
Kỷ Hợi,
[819], (Đường Nguyên Hòa năm thứ 14). Mùa đông, tháng 10, Đô hộ là Lý Tượng Cổ
vì tham bạo hà khắc mất lòng dân chúng. Tướng của Cổ là Dương Thanh đời đời làm
tù trưởng Man, khoảng niên hiệu Khai Nguyên [713-742] nhà Đường làm Thứ sử Hoan
Châu18 , [7b] Tượng Cổ vẫn kiêng dè, gọi cho làm nha tướng, đến đai sai đi đánh
người Man ở Hoàng Động. Thanh nhân thấy lòng người oán giận Tượng Cổ, đang đêm
trở về đánh úp châu, chiếm được, giết Tượng Cổ (Thanh là người Giao Châu, Tượng
Cổ là người tôn thất nhà Đường). Vua Đường sai Quế Trọng19 đánh Dương Thanh mà
không thắng. Thanh vào trong người Man Lạo làm loạn, cướp phá phủ thành, Đô hộ
Lý Nguyên Gia đánh không được, dụ không đến. Do đấy người Man Hoàng Động dẫn
Hoàn Vươngvào cướp.
Giáp
Thìn, [824], (Đường Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4). Mùa đông, tháng 11,
Lý Nguyên Gia21 thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu
nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay. (Bấy giờ
Nguyên Gia dời phủ trị22 đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người
thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có
người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Đến đời Hàm Thông [860-874], Cao Biền
đắp thêm La Thành, đúng như lời người ấy. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở
ngoài thành Đông Quan ngày nay, gọi là La Thành, sau Cao Biền đắp thành hiện
nay, thành bên ngoài cũng gọi là La Thành).
[8a] Mậu
Thân, [828], (Đường Văn Tông Hàm, Thái Hòa năm thứ 2). Đô hộ Hàn Ước đánh Vương
Thăng Triều ở Phong Châu, thắng được, sau bị Dương Thanh đuổi, chạy về Quảng
Châu.
Tân Dậu,
[841], (Đường Vũ Tông Viêm, Hội Xương năm thứ 1). Vua Đường xuống chiếu lấy Vũ
Hồn làm Kinh lược sứ thay Hàn Ước.
Quý Hợi,
[843], (Đường Hội Xương năm thứ 3). Kinh lược sứ Vũ Hồn bắt tướng sĩ đắp sửa
thành phủ, tướng sĩ làm loạn, đốt lầu thành, cướp kho phủ. Hồn chạy về Quảng
Châu. Giám quân là Đoàn Sĩ Tắc vỗ yên được quân làm loạn.
Bính Dần
, [846], (Đường Hội Xương năm thứ 6). Người Nam Man23 vào cướp. Vua Đường sai
Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Hựu24 đem quân các đạo lân cận đánh dẹp được.
Đinh
Sửu, [857], (Đường Tuyên Tông Thầm, Đại Trung năm thứ 11). Mùa hạ, tháng 4, nhà
Đường lấy Hữu thiên ngưu vệ đại tướng quân [8b] là Châu Nhai25 là Kinh lược sứ
Giao Châu.
Mậu Dần,
[858], (Đường Đại Trung năm thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng, vua Đường lấy Khang
Vương phó26 là Vương Thức làm Giao Châu kinh lược đô hộ sứ. Thức là người có
tài lược, đến phủ sai trồng cây táo gai27 làm rào, bên ngoài đào hào sâu để
thoát nước trong thành, bên ngoài hào trồng tre gai, giặc không thể xâm phạm
được, kén chọn dạy bảo quân lính rất tinh nhuệ. Không bao lâu, người Nam Man (tức
Nam Chiếu) kéo đến đông, đóng ở bến đò Cẩm Điền, cách châu độ nửa ngày đường. Ý
tứ của Thức vẫn an nhàn như thường, sai người phiên dịch đến dụ, bày tỏ lợi
hại, chỉ một đêm người Man lại kéo đi, sai người đến từ tạ nói: "Chúng tôi
chỉ đến bắt bọn người Lạo làm phản, chứ không phải đến cướp".
Lại có
Đô hiệu La Hành Cung (Đô hiệu cũng như Đô tướng) chuyên quyền ở phủ đã lâu,
quân tinh nhuệ dưới cờ đến 2 nghìn người mà ở phủ đô hộ chỉ có vài trăm quân
gầy yếu. Thức đến phủ, đánh trượng vào lưng [Hành Cung] rồi đuổi ra nơi biên
viễn.
Trước
đó, Đô hộ là Lý Trác làm chính sự tham [9a] lam tàn bạo, mua hiếp bò ngựa của
người Man, mỗi chỉ trả cho một đấu muối, lại giết tù trưởng Man là Đỗ Tồn
Thành, dân Man oán giận, dẫn đường cho người Nam Chiếu đến lấn cướp biên giới.
Đất Tây Nguyên, Đào Lâm, thuộc Phong Châu, từ xưa vẫn có quân phòng đông28
6.000 người, tù trưởng Man Động Thất Quán bên cạnh là Lý Do Độc, thường giúp đỡ
việc đóng giữ và thu tô thuế. Viên Tri Châu Phong Châu (không rõ họ tên) nói
với Tác xin bỏ quân đóng thú, chuyên ủy cho Do Độc ngăn phòng. Từ đó Do Độc thế
cô, không thể đứng vững được. Thác đông tiết độ của Nam Chiếu (Thác đông: ý nói
khai thác cõi đông; Giao Chỉ ở phía đông nước Nam Chiếu, cho nên đặt chức ấy)
gửi thư sang dụ Do Độc, đem con gái gả cho con trai của Do Độc, bổ làm Thác
đông thác nha29 . Do Độc bèn đem dân chúng làm tôi nước Nam Chiếu. Từ đấy Giao
Châu mới có mối lo về người Man [Nam Chiếu].
Tháng 5
năm ấy, người Man [Nam Chiếu] đến cướp, Thức đánh lui được.
Mùa thu,
tháng 7, có bọn dân xấu nhiều lần nổi loạn, nói phao rằng: "Nghe đồn Kinh
lược sứ Châu Nhai (Châu Nhai ở Quảng [9b] Châu)30 sai quân Hoàng đầu (quân bịt
đầu bằng khăn vàng) vượt biển sang đánh úp châu ta". Rồi bọn họ đang đêm
kéo nhau đến vây thành, đánh trống reo hò: "Xin đuổi Thức về để chúng tôi
đóng ở thành này chống giữ quân Hoàng đầu phía Bắc". Lúc ấy Thức đang ăn,
có người khuyên nên tránh đi. Thức nói: "Tôi động chân một chút thì thành
này vỡ ngay". Rồi cứ thong thả mà ăn, ăn xong, mặc áo giáp dẫn tả hữu lên
mặt thành, dựng cờ đại tướng ngồi mà trách mắng. Bọn làm loạn quay đầu bỏ chạy.
Ngày hôm sau, Thức sai bắt giết hết.
Bấy giờ
đói kém loạn lạc liên tiếp, 6 năm không nộp thượng cung (thượng cung là tiền,
lụa nộp sang Kinh sư để cho vua [Trung Quốc] chi dùng), trong quân không có
khao thưởng. Thức bắt đầu sửa sang việc thuế khóa, khao thưởng quân lính. Chiêm
Thành, Chân Lạp đều thông sứ trở lại.
Canh
Thìn, [860], (Đường Ý Tông Thôi, Hàm Thông năm thứ 1). Mùa xuân, giặc ở Chiết
Đông là Cừu Phủ làm loạn. Nhà Đường bàn chọn tướng đi đánh dẹp. Hạ Hầu Tư nói:
"Vương Thức tuy là con nhà nho, nhưng trước ở An Nam đã từng uy phục được
cả người Hoa và người Di, [10a] cõi xa đều nghe danh tiếng, có thể đảm nhiệm
được". Vua Đường bèn gọi Thức về trao cho chức Chiết Đông quan sát sứ.
Mùa
đông, tháng 12, ngày Mậu Thân, người thổ man dẫn quân Nam Chiếu hợp lại hơn 3
vạn người, nhân khi sơ hở đến đánh chiếm phủ [trị] của châu ta. Đô hộ Lý Hộ
cùng với viên giám quân chạy về Vũ Châu.
Tân Tỵ,
[861], (Đường Hàm Thông năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng vua Đường xuống chiếu
phát quân Ung Quản31 và các đạo lân cận sang cứu Lý Hộ, đánh lại
[10b]
Nhâm Ngọ, [862], (Đường Hàm Thông năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, Nam Chiếu lại
vào cướp phá. Vương Khoan mấy lần sai sứ cáo cấp. Vua Đường sai Hồ Nam quan sát
sứ trước là Sái Tập thay thế, đem binh các đạo Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh,
Tương, Đàm, Ngạc, hợp lại được 3 vạn, giao cho Tập để chống cự. Thế quân đã
mạnh, quân Man bèn rút lui.
Mùa hạ,
tháng 5, Lĩnh Nam tiết độ là Sái Kinh thấy Tập đem quân các đạo đến chống cự
với quân Man, sợ Tập lập được công, có ý ghen ghét, nhân đó tâu rằng: "Bọn
Nam Man đã trốn xa, biên giới không đáng lo nữa. Kẻ vũ phu cầu công, xin càn
quân đóng thú, tổn phí quân lương và chuyên chở, vì góc lánh đường xa khó bề
kiểm soát, nên tha hồ làm việc gian trá. Xin bãi quân đóng giữ, cho đạo nào lại
về đạo ấy". Vua Đường nghe theo. Tập nhiều lần tâu rằng: "Bọn người
Man rình lúc sơ hở đã lâu, không thể không phòng bị, xin lưu lại 5 nghìn thú
binh". Vua Đường không nghe, Tập cho là giặc Man [Nam Chiếu] ắt lại đến,
mà quân lính và lương thực đều thiếu, trí lực [11a] hai mặt đều quẫn, mới làm
tờ sớ "Thập tất tử trạng" [10 tình trạng ắt phải chết] trình lên tòa
Trung thư. Nhưng tể tướng thời bấy giờ tin lời Sái Kinh, cuối cùng vẫn không
xét đến.
Mùa thu,
tháng 7, Sái Kinh ở trị sở, chính lệnh hà khắc thảm độc, cả cõi đều oán, bị
quân sĩ đuổi, phải biếm làm Tư hộ Nhai Châu, không chịu đi nhận chức, vua Đường
xuống sắc bắt phải tự tử.
Mùa
đông, tháng 10, bọn Man Nam Chiếu 5 vạn người đến cướp, Tập cáo cấp. Vua Đường
sai lấy quân hai đạo Kinh
Quý Mùi,
[863], (Đường Hàm Thông năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Ngọ, quân
Nam Chiếu đánh chiếm phủ thành, tả hữu của Tập [11b] đều chết hết. Tập chạy bộ,
cố sức đánh, người trúng mười mũi tên, muốn xuống thuyền của giám quân nhưng
thuyền đã đi xa bờ, bèn nhảy xuống biển chết, cả nhà 70 người. Liêu thuộc là
Phàn Xước đem ấn tín binh phù của Tập sang sông trước, được thoát. Tướng sĩ các
châu Kinh
Tháng 6,
bỏ An Nam đô hộ phủ, đặt chức Hành Giao Châu ở trấn Hải Môn34 , cho Hữu giám
môn vệ tướng quân là Tống Nhung giữ chức Hành Giao Châu thứ sử, cho Vũ Nghĩa
tiết độ sứ35 là Khang Thừa Huấn kiêm lĩnh chức Lĩnh Nam cập chủ quân hành
doanh36 .
Mùa thu,
tháng 7, lại đặt An Nam đô hộ phủ ở Hành Giao Châu, cho Tống Nhung làm Kinh
lược sứ, đem quân Sơn Đông một vạn người đến trấn giữ. Khi ấy quân các đạo của
nhà Đường đến cứu viện, đều đóng lại ỡ Lĩnh Nam không tiến, hao phí lương thực,
vận chuyển, người Nhuận Châu là Trần Bàn Thạch dâng sớ xin đóng loại thuyền
nghìn hộc để chở gạo từ Phúc Kiến đi đường biển, không đầy một tháng thì đến
Quảng Châu. Vua Đường nghe theo, lương ăn của quân lính nhờ đó được đầy đủ.
Nhưng [12b] bọn quan lại mượn tiếng thuê thuyền để cướp đoạt thuyền của người
buôn, vứt hàng hóa của họ lên bờ: khi thuyền ra biển có chiếc nào bị sóng gió
làm chìm đắm thì bắt giam cương lại37 và chủ thuyền để bắt đền số gạo bị mất,
[vì thế] người ta rất khổ sở.
Giáp
Thân, [864], (Đường Hàm Thông năm thứ 5). Vua Đường cho Tổng quản38 kinh lược
sứ là Trương Nhân kiêm coi giữ việc Giao Châu, tăng thêm quân ở trấn Hải Môn
cho đủ số 2 vạn 5 nghìn người, sai Nhân tiến quân lấy lại phủ thành.
Mùa thu,
tháng 7, Nhân dùng dằng không dám tiến. Hạ Hầu Tư tiến cử Kiêu vệ tướng quân là
Cao Biền thay, bèn cho Biền làm Đô hộ tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ, bao
nhiêu quân sĩ của Nhân đều trao cho Biền cả. Biền tiểu tự là Thiên Lý, cháu của
Nam Bình Quận Vương [Cao] Sùng Văn, đời đời coi giữ cấm binh. Biền đổi chí vào
việc học, thích bàn luận việc xưa nay, người trong quân đều [13a] khen ngợi.
Lúc còn ít tuổi, theo giúp Chu Thục Minh. [Một hôm] có hai con diều sóng đôi
bay qua, Biền giương cung nhắm bắn, khấn rằng: "Nếu ta sau này được quý
hiển thì phải bắn trúng" rồi bắn một phát tên trúng cả hai con. Mọi người
cả kinh, nhân đó gọi là "Lạc điêu thị ngự sử" [quan thị ngự sử bắn
rơi chim điêu]. Sau Biền được thăng dần đến chức Hữu thần sách đô ngu hầu.
Người Đảng Hạng làm phản, Biền đem hơn 1 vạn cấm binh đến đóng ở Trường Vũ,
nhiều lần lập công, thăng chức Tần Châu phòng ngự sử, lại có công nữa. Bấy giờ
Nam Chiếu chiếm đất ta, cho nên sai Biền sang thay [Trương Nhân].
Ất Dậu ,
[865], (Đường Hàm Thông năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, Cao Biền sửa quân ở trấn
Hải Môn chưa tiến. Giám quân là Lý Du ghét Biền muốn tống đi, nhiều lần giục
Biền tiến quân. Biền đem hơn 5 nghìn quân vượt biển đi trước, hẹn Duy Chu đem
quân ứng viện. Biền đi rồi, Duy Chu cầm quân còn lại không tiến phát. Tháng 9,
Biền đến Nam Định39 , Phong Châu, quân Man gần 5 vạn đương gặt lúa, Biền ập đến
[13b] đánh tan, chém được bọn Trương Thuyên, thu lấy số lúa đã gặt dùng để nuôi
quân.
Bính
Tuất, [866], (Đường Hàm Thông năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu thăng chức
cho Đoàn Tù Thiên làm Tiết độ sứ Thiện Xiển (Thiện Xiển là đô khác của Nam
Chiếu, ở tây bắc Giao Châu)40 , sai Trương Tập41 giúp Tù Thiên đánh Giao Châu,
cho Phạm Nật Ta làm Đô thống phủ ta, Triệu Nặc Mi làm Đô thống Phù Da42 . Giám
trận nhà Đường sai Vi Trọng Tể đem hơn 7 nghìn quân đến Phong Châu. Biền được
thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tờ tâu thắng trận gửi
đến trấn Hải Môn, Duy Chu đều giấu đi. Mấy tháng không có tin tức, vua Đường
lấy làm lạ mới hỏi Duy Chu. Duy
Trước
đó, Trọng Tể sai tiểu sứ là Vương Tuệ Tán, Cao Biền sai tiểu hiệu là Tăng Cổn
cùng mang thư báo thắng trận về nhà Đường, đến giữa biển, trông thấy cờ quạt
kéo sang phía đông, hỏi những thuyền đi trên biển thì họ nói đó là quan Kinh
lược sứ và Giám quân mới đến. Hai người bàn nhau rằng: "Duy Chu thế nào
cũng cướp lấy tờ biểu và giữ chúng ta lại". Bèn nấp ở hải đảo chờ Duy Chu
đi qua rồi mới đi gấp về kinh sư. Vua Đường được tờ tâu cả mừng, liền thăng cho
Biền làm Kiểm hiệu Công bộ thượng thư, sai Biền đi đánh người Man. Biền về đến
trấn Hải Môn thì quay lại.
Án Quyền
là người ngu hèn, việc gì cũng xin lệnh của Duy Chu. Duy [14b]
Tháng
11, ngày Nhâm Tý, vua Đường xuống chiếu cho các lộ quân Giao Châu, Ung Châu,
Tây Châu43 phải giữ bờ cõi, không tiến đánh nữa; đặt Tĩnh Hải quân ở Giao Châu,
lấy Biền làm Tiết độ sứ. (Từ đây cho đến đời nhà Tống, An Nam gọi là Tĩnh Hải
quân tiết trấn Từ khi Lý Trác xâm phạm quấy nhiễu, khiến cho người Man [Nam
Chiếu] gây họa đến gần 10 năm, đến đấy mới yên. Cao Biền giữ phủ xưng vương44 ,
đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao [15a] 2 trượng
6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ45
trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc46 , lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ
nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước;
cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian47 .
Lê Văn Hưu nói: Một Lý Trác tham bạo
mà dẫn đến mười mấy năm bị tai họa người Man, huống chi lại có kẻ bạo ngược hơn
cả Lý Trác nữa. Một Cao Biền đốc suất bộ thuộc mà chém được vài vạn quân giặc
mạnh, huống chi lại có người giỏi hơn Cao Biền nữa! Cho nên Trác không thể bảo
toàn được mình, mà Cao Biền thì giữ thành xưng vương, người khéo trị nước phải
nên cẩn thận việc chọn người.
Đinh
Hợi, [867], (Đường Hàm Thông năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, Cao Biền đi
tuần thị đến hai châu Ung, Quảng thấy đường biển có [15b] nhiều đá ngầm làm đắm
thuyền, vận chở không thông, bèn sai bọn Nhiếp trưởng sử Lâm Phúng, Hồ Nam
tướng quân Dư Tồn Cổ đem quân bản bộ và thủy thủ hơn nghìn người đến đục đá
khai đường, bảo rằng: "Đạo trời giúp người thuận, thần linh phù kẻ ngay.
Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu mình không theo lòng riêng thì có gì
khó. Các đô hộ thời trước không khao thưởng quân sĩ, giữ phép không vững, làm
sai lời hứa, trái ước hẹn, mưu lợi riêng, cho nên mọi người đều trễ biếng. Nay
ta không như thế, chỉ cốt làm cho xong việc của nhà vua mà thôi". Biền nói
xong, bọn Phúng vâng lệnh đi ra. Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 5, khởi công khơi
đào, trong khoảng hơn 1 tháng, gần được thông suốt, duy ở quãng giữa có hai chỗ
đá lớn quanh co chắn ngang đến mấy trượng, đục xuống thì quằn đục, dùng búa thì
gãy cán, người làm việc cả ngày nhìn nhau, công việc cơ hồ bỏ dở. Ngày 26 tháng
5, đương ban ngày bỗng nhiên mây dồn, gió nổi dữ dội, trông vào rừng tối như
đêm, [16a] ngửa bàn tay không nhìn thấy, chốc lát hàng trăm tiếng sét nổ vang
trời ở chỗ đá lớn, chỉ trong khoảnh khắc trở lại bừng sáng. Người làm việc chạy
tới xem thì thấy các khối đá đã bị tan nát cả. Về phía tây lại gặp hai chỗ đá
lớn dựng đứng, người làm cũng phải chịu bó tay.
Ngày 21
tháng 6 lại có sét đánh như trước, chỉ trong một lúc đá lớn đều bị tan vụn cả.
Kênh bèn đào xong, vì thế gọi là kênh Thiên Uy48 .
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Việc Cao Biền
đào kênh sao mà kỳ dị thế? Đó là việc làm hợp lẽ49 , cho nên được trời giúp.
Trời là lẽ phải. Đất có chỗ hiểm, chỗ bằng, đó là lẽ thường. Sức người có thể
vượt hiểm được, đó cũng là lẽ thường. Nếu hiểm mà không vượt được thì trời phải
nhờ đến tay người làm gì? Vua Vũ trị thủy, nếu không hợp lẽ thì trời đâu mà tác
thành được? Đất do đâu mà bằng phẳng được? Công hiệu đến mức rùa sông Lạc hiện
điềm lành, thế không phải là trời [16b] giúp ư ? Xem như lời của Biền nói:
"Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu không theo lòng riêng thì có gì
khó". Lòng thành phát ra từ lời nói, thì lời nói ấy há chẳng là thuận ư ?
Lòng tinh thành thực cảm thông đến cả vàng đá, huống nữa là trời? Việc gì trời
đã giúp sức là thuận. Kinh Dịch nói: "Giữ điều tín mà nghĩ điều thuận, thì
trời sẽ giúp cho, đều tốt cả, không có điều gì bất lợi". Thế thì việc sét
đánh đá lớn để giúp chẳng có gì là lạ cả.
Mậu Tý,
[868] (Đường Hàm Thông năm thứ 9). Mùa thu, tháng 7, vua Đường lấy Cao Biền làm
Hữu kim ngô vệ đại tướng quân (có sách chép là Kiểm hiệu thượng thư bộc xạ),
đến đời Đường Hy Tông năm Ất Mùi niên hiệu Càn Phù năm thứ 2 [875] đổi làm Tây
Xuyên tiết độ sứ. Biền thấy cháu gọi bằng ông họ là Cao Tầm trước làm tiên
phong, xông pha tên đạn, được quân lính phục theo, bèn dâng biểu tiến cử Tầm
thay mình trấn giữ đất ta. Vua Đường nghe theo. [Cả Biền và Tầm] ở trấn cộng 13
năm; Biền [17a] từ năm Bính Tuất đến năm Giáp Ngọ niên hiệu Hàm Thông
[866-874], Tầm từ năm Ất Mùi đến năm Mậu Tuất niên hiệu Càn Phù (875-878).
Canh Tý,
[880], (Đường Hy Tông Nghiễm, Quảng Minh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, quân ở
phủ Đô hộ làm loạn, Tiết độ sứ Tăng Cổn bỏ chạy khỏi thành (Cổn thay Biền, có
tiếng là người biết vỗ dân50 , người [trong châu] gọi là Tăng thượng thư; Cổn
từng soạn sách Giao Châu ký, 1 thiên). Các đạo quân nhà Đường đóng giữ Ung Quản
thường tự ý bỏ về luôn.
Ất Sửu,
[905], (Đường Ai Đế Chúc, Thiên Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, ngày Mậu
Tuất, Chu Toàn Trung nhà Đường thấy Giao Châu tiết độ sứ đồng bình chương sự
Chu Toàn Dục là người ngu đần chất phác, không có tài năng gì, tự xin bãi đi.
Toàn Dục là anh Toàn Trung.
Trở lên
là [kỷ] thuộc Tùy, Đường, từ năm Quý Hợi đến năm Bính Dần, cộng 304 năm
[603-906].
Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
THUỘC NGŨ ĐẠI
Chuyên mục: Bắc thuộc lần III
Đinh
Mão, [907], (Đường Thiên Hựu năm thứ 4; Lương Thái Tổ Chu Toàn Trung, đổi tên
là Hoảng, Khai Bình năm thứ 1). Nhà Lương cho Quảng Châu tiết độ sứ là Lưu Ẩn
kiêm chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, tước Nam Bình Vương. Khi ấy, Ẩn chiếm giữ
Phiên Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo213chiếm giữ châu trị, xưng là Tiết độ
sứ, có ý mưu đồ lẫn nhau. Năm ấy nhà Đường mất.
Tân Mùi,
[911], (Lương Càn Hóa năm thứ 1). Nam Bình Vương nhà Lương là Lưu Ẩn chết, em
là Nham lên thay.
Đinh
Sửu, [917], (Lương Mạt Đế Hữu Trinh, đổi tên là Chẩn, Trinh Minh năm thứ 3).
Quảng Châu tri lưu hậu nhà Lương là Lưu Nham đặt quốc hiệu là Hán (tức Nam
Hán214), niên hiệu Càn Hanh năm thứ 1. Khúc Hạo sai con là Thừa Mỹ làm Hoanảo
sứ sang Quảng Châu để thăm dò tình hình [Nam Hán] hư thực thế nào. Hạo chết,
Khúc Thừa Mỹ lên thay1 .
Kỷ Mão,
[919], (Lương Trinh Minh năm thứ 5). Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang nhà Lương xin
được lĩnh tiết việt, nhà Lương trao cho. Vua [Nam Hán] cả giận (vua Hán trước
tên là Nham, đổi là Thiệp, lại đổi là Cung, vì có điềm rồng trắng hiện, nên đặt
tên ấy. Năm Tấn Thiên Phúc thứ 6 [941], tự cho chữ Cung là không lợi, lại đổi
[18a] là Nghiễm2 ).
Quý Mùi,
[923], (Lương Long Đức năm thứ 3; Đường Trang Tông Lý Tồn Húc, Đồng Quang năm
thứ 1). Năm ấy nhà Lương mất.
Mùa thu,
tháng 7, vua Hán sai kiêu tướng là Lý Khắc Chính3 đem quân sang đánh Giao Châu4
, bắt được Tiết độ sứ là [Khúc] Thừa Mỹ đem về, [Khắc Chính] lấy bộ tướng của
mình là Lý Tiến thay thế. Lý Khắc Chính ở lại giữ Giao Châu, bị tướng của Khúc
Hạo là Dương Đình Nghệ5 người Ái Châu đánh đuổi. Vua Hán trao cho Đình Nghệ
tước vị, lấy Lý Tiến làm thứ sử Giao Châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành,
bảo tả hữu rằng: "Dân Giao Chỉ hay làm loạn, chỉ có thể ràng buộc (ki mi)
mà thôi".
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lưu Nghiễm
đương lúc triều đình phương Bắc rối loạn, nhờ nghiệp cũ của anh6 mà dựng nước,
đặt niên hiệu, cùng với Khúc Hạo tranh bá, rồi bắt Thừa Mỹ, lấy Giao Châu, hùng
[18b] cứ một phương, cùng xuýt xoát với các nước tiếm ngôi ở Bắc triều. Cho
nên, Tiền Ngô Vương nổi lên, tuy giết được con, phá được quân [của Nghiễm],
nhưng không giữ được đất, quốc thống họ Lưu kéo dài không dứt, mãi đến khi Tống
[Thái] Tổ dấy lên thì đất ấy mới nhập vào nhà Tống.
Tân Mão,
[931], (Đường Minh Tông Tự Nguyên, Trường Hưng năm thứ 2). Mùa đông, tháng 12,
Dương Đình Nghệ nuôi 3 nghìn con nuôi, mưu đồ việc khôi phục. Lý Tiến biết, sai
chạy ngựa báo cho vua Hán. Năm ấy, Đình Nghệ đem quân vây Tiến. Vua Hán sai
Thừa chỉ Trần Bảo đem quân sang cứu, chưa đến nơi, thành đã mất. Tiến trốn về
nước. Bảo đến vây thành, Đình Nghệ đưa quân ra đánh, Bảo thua chết. Từ đó Đình
Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, trông coi việc châu.
Bính
Thân, [936], (Đường Phế Đế Tông Kha, Thanh Thái năm thứ 3, Tấn Cao Tổ Thạch Kim
Đường, Thiên Phúc năm thứ 1). Năm ấy nhà [Hậu] Đường mất.
[19a]
Đinh Dậu, [937], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, nha tướng của
Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn (Cương mục [Trung Quốc] chép _____)7 giết Đình Nghệ
để thay chức.
Mậu Tuất, [938], (Tấn Thiên Phúc năm
thứ 3). Mùa đông, tháng 12, nha tướng của Đình Nghệ là Ngô Quyền từ Ái Châu cất
quân đánh Công Tiễn. Công Tiễn sai sứ sang đút lót để cầu cứu với nhà Hán. Vua
Hán là Cung muốn nhân khi nước ta có loạn chiếm lấy nước, bèn cho con là Vạn
Vương Hoằng Tháo8 làm Tĩnh Hải quân độ sứ, đổi tước phong là Giao Vương, đem
quân sang cứu Công Tiễn. Vua Hán tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh
viện. Vua Hán hỏi kế ở Sùng văn sứ là Tiêu Ích, Ích nói: "Nay mưa dầm đã
mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt,
không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều
người hướng đạo rồi sau mới nên tiến". Vua Hán không nghe, sai Hoằng Tháo
đem chiến thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh [19b] Quyền, nhưng Quyền
đã giết Kiều Công Tiễn rồi.
Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo
các tướng tá rằng: "Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến,
quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng,
đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá
được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế
được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt9
đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong
hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát". Định
kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển. Khi nước triều lên, Quyền sai
người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo
quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều
rút, cọc nhô lên, Quyền bèn tiếng quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu.
[Quân Hoằng Tháo] không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền
đều mắc [20a] vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nữa.
Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Hán thương khóc,
thu nhặt quân lính còn sót rút về. Vua Hán cho tên Cung đáng ghét là vì vậy
(Lưu Cung tức là Lưu Nghiễm).
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lưu Cung tham đất
đai của người, muốn mở rộng bờ cõi, đất đai chưa lấy được mà đã hại mất đứa con
của mình và hại cả nhân dân, tức như Mạnh Tử nói: "Đem cái mình không yêu
mà hại cái mình yêu" vậy chăng?
(Nguồn:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
IV/ BẮC THUỘC LẦN IV
Sau khi
chiếm được Đại Việt, quân Minh chia nước ta thành quận huyện để cai trị. Chúng
bắt nhân dân ta làm tôi tớ, thuế má lao dịch nặng nề, cuộc sống vô cùng cực
khổ.
Ngày Mậu
Thân, tháng Giêng năm Mậu Tuất (7/2/1418), Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở hương
Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Có quân sư Nguyễn Trãi dâng sách
Bình Ngô nhằm thu phục lòng người, cháu nội của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán là
Trần Nguyên Hãn và nhiều nhân tài, hào kiệt các nơi tham gia.
Ngày
3/1/1428, nghĩa quân hoàn toàn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập nên
triều đại nhà Lê. Sử gọi là Hậu Lê để phân biệt với Tiền Lê 980-1009 do Lê Hoàn
sáng lập.
KỶ THUỘC MINH
Chuyên mục: Bắc thuộc lần IV
Giáp
Ngọ, [1414], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng, Trương Phụ và
Mộc Thạnh nhà Minh chiêu dụ, vỗ về Tân Bình, Thuận Hóa, chia đặt quan cai trị
để cùng làm việc với thổ quan, khám xét nhân khẩu, gộp làm sổ hộ.
[25a]
Phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan, nhưng Chiêm Thành vẫn có trưởng lộ chiếm giữ cai
trị, nên nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi.
Quan lại
ở kinh lộ, những ai lánh giặc đi theo Trùng Quang Đế đến Hóa Châu, đến đây
người thì mang cả nhà chạy sang nước Lão Qua, người thì chạy sang Chiêm Thành,
còn người trong nước từ đấy đều làm thần thiếp cho người Minh cả.
Mùa hạ,
tháng 4, tổng binh Trương Phụ, Mộc Thạnh, Binh bộ thị lang Trần Hiệp của nhà
Minh đem trùng Quang Đế, Nguyễn Súy và Đặng Dung về Đông Quan. Quan lại các
phủ, châu, huyện sắm lễ vật cùng trướng vẽ cờ thêu đến mừng. Sai người giải về
Yên Kinh.
Trùng
Quang Đế đ đến nửa đường nhảy xuống nước chết. Súy thấy Trùng Quang Đế đã nhảy
xuống nước chết, ngày ngày chơi cờ với viên chỉ huy coi giữ mình, thành quen,
mới lấy bàn cờ đánh hắn ngã xuống nước chết, Súy cũng nhảy xuống nước chết. Quốc
thống từ đấy thuộc về nhà Minh.
Mùa thu,
tháng 7, [25b] Trương Phụ nhà Minh ra lệnh cho các phủ, châu, huyện, phàn quân
nhân bắt được tôi tớ, cùng đàn bà con gái trốn đi xứ khác thì giải về cửa quân.
Bọn quan lại chìu ý cấp trên bắt nhiều dân nghèo xiêu tán giải nộp.
Tháng 8,
Trương Phụ, Mộc Thạnh và Trần Hiệp trở về bắc, chia quân trấn giữ.
Tháng 9,
Hoàng Phúc nhà Minh truyền bảng cho các phủ, châu, huyện dựng Văn Miếu và các
đàn thờ thần xã tắc, thần gió, thần mây, thần núi, thần sông và những thần không
ai thờ cúng để tế lễ thường xuyên.
Nhà Minh
cấm con trai, con gái không được cắt tóc; phụ nữ mặc áo ngắn, quần dài, đồng
hóa theo phong tục phương bắc.
Mùa
đông, tháng 10, nhà Minh mở học hiệu và sức tìm tòi những người nho học, thầy
thuốc, thầy tướng số, nhà sư, đạo sĩ, hạ lệnh cho các phủ, châu, huyện lấy lễ
mà thành tân thỉnh mời. Đó là làm theo lời của Hữu tham tri Bành Đạo Trường.
Nhà Minh
bắt khai số ruộng và đất trồng dâu, trưng thu lương thực, tơ tằm. Mỗi hộ 1 mẫu
thì bắt khai thành 3 mẫu. [26] Đến sau xét hộ khẩu tăng hàng năm, định số ruộng
mỗi hộ là 10 mẫu (nghĩa là mỗi mẫu chỉ có 3 sào, 10 mẫu thực ra chỉ có 3 mẫu).
Mỗi mẫu thu 5 thăng thóc, đất bãi mỗi hộ một mẫu thu 1 lạng tơ, mỗi cân tơ dệt
được 1 tấm lụa.
Ất Mùi,
[1415], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 13). Mùa thu, tháng 8, nhà Minh khám thu các mỏ
vàng, bạc, mộ phụ đãi nhặt vàng bạc và bắt voi trắng, mò trân châu. Thuế khóa
nặng, vơ vét nhiều, dân chúng điêu đứng. Bãi muối ven biển cấm dân mua bán
riêng, sai nội quan coi giữ cả. Lại đặt chức cục sứ và phó của từng bãi muối để
chia nhau trông coi. Các phủ, châu, huyện đêù đặt phó sứ ty Thuế khóa và sở Hà
bạc.
Phép lấy
muối của nhà Minh: Trước hết sai viên cục sứ và viên phó đốc thúc dân nấu muối,
mỗi tháng được bao nhiêu đưa tới ty Đề cử thu giữ. Các viên nội quan mộ người
buôn bỏ tiền ra lĩnh giấy khám hợp1378của ty Bố chính. Giấy khám hợp lớn [26b]
thì lấy 10 cân muối, giấy khám hợp nhỏ thì lấy 1 cân rồi mới được đem bán. Nếu
không có giấy [giấy khám hợp] thì [xử tội] như luật nấu lậu. Lạ cấm người đi
đường, lệ chỉ được đem 3 bát muối và 1 lọ nước mắm thôi.
Tháng 9,
Hoàng Phúc nhà Minh sai quan áp giải đích thân những bọn nho học, thầy thuốc,
thầy tướng số, nhà sư, đạo sĩ đưa về Yên Kinh trao cho quan chức rồi đưa về các
nha môn làm việc. Lại ra lệnh cho các quan ty sở tại cấp cho tiền đi đường và
ngưoời bạn tống, nếu không sẽ bị trừng trị; dọc đường phải cấp cơm ăn và tiền
đi đường.
Mùa
đông, tháng 10, Tổng binh nhà Minh là Trương Phụ giữ chức Chinh lỗ phó tướng
quân, lại sang trấn thủ.
Nhà Minh
mở đường thủy Vĩnh An, Vạn Ninh, đặt trạm đón chuyển đường thủy đến thẳng Khân
Châu. Lại đặt trạm chạy ngựa đến thẳng Hoàn Châu1379.
Bính
Thân, [1416], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 14). Mùa xuân, tháng giêng, nhà Minh bắt
đầu đưa những thượng quan văn võ và kỳ lão sang Yên [27a] Kinh, đổi trát văn
của Tổng binh mà dùng giấy vàng của bộ để thực thụ quan chức. Thăng Tham nhgị
Nguyễn Huân làm Tả bố chính sứ; Tri phủ Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung làm Tham
chính. Còn lại thì thăng chức Tri phủ, Đồng tri phủ, Tri châu, Đồng tri châu,
Tri huyện. Nhân đó, ban sắc rằng:
"Trước
kia bình định Giao Chỉ, các ngươi đã tỏ lòng thành, làm việc nghĩa, lòng hướng
về triều đình, trẫm khen ngợi lòng thành của các ngươi mà trao cho quan chức.
Từ khi nhận mệnh đến nay, đã biết tận tâm hết sức, hăng hái trung thành, quét
diệt phản nghịch, vỗ yên bờ cõi, cố gắng làm tròn chức phận, đã nhiều lần thăng
thưởng để biểu dương công trạng của các ngươi. Nay các ngươi đến cửa khuyết
triều cống, trẫm xét lòng thành, đánh nên khuyến khích. Nay đặc ân thăng cho
các ngươi làm chức mỗ... Các ngươi hãy cố gắng trung thành, cần mẫn hơn nữa,
kính cẩn giữ khí tiết của người bề tôi, úy lạo, vỗ về, khiến cho dân chúng đều
được yên nghiệp sinh sống, cùng hưởng phúc thái bình [27b] thì sẽ được trời che
chở, các ngơi sẽ được phúc lộc dồi dào nối đến đời con đời cháu, mà tiếng tốt
của các ngươi sẽ lưu truyền trong sử sách, mãi mãi không cùng".
Tháng 2,
Trương Phụ nhà Minh ra lệnh xét duyệt danh số thổ quân, lấy một phần ba số hộ
khẩu chia về c1c vệ, sở. Mỗi hộ định mức là 3 đinh. Từ Thanh Hóa trở vào
Mùa thu,
tháng 9, quân lính huyện Tân An nổi lên, Trương Phụ dẹp được.
Nhà Minh
chiêu dụ các quan cũ của triều trước, giả cách bổ đi các nha môn quân, dân làm
việc rồi chuyển đưa về Yên Kinh giữ lại. Bọn người bon chen, vốn không phải là
quan lại cũ, chưa được thực thụ quan chức, cũng hănh hái ra nhận, trong nước vì
thế trở nên trống rỗng. Ở được vài năm, thấy vất vả khổ sở, thỉnh thoảnh họ lại
trốn về.
Nhà Minh
bắt đầu đưa các thổ lại đi, [28a] người nào đủ 9 năm thì giữ lại nha môn ở Kinh
để làm việc, người nào chưa đủ năm thì cho về.
Đinh
Dậu, [1417], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 15). Nội quan nhà Minh là Mã Kỳ tâu rằng
Tổng binh Trương Phụ ở Giao Chỉ chọn lấy những thổ nhân mạnh khỏe can đảm làm
vi tử thủ1380, vua Minh nghi ngờ, gọi Phụ về, sai Phong Thành hầu Lý Bân với
chức Tổng binh Chinh Di tướng quân sang thay Phụ trấn giữ.
Nhà Minh
sai Giám sát ngự sử chia giữ việc tuần xét bắt đầu từ đấy.
Binh bộ
thượng thư nhà Minh là Trần Hiệp, lại giúp việc quân chính cho Tổng binh.
Nhà Minh
định lệ mỗi năm cống các nho học, sinh viên sung vào Quốc tử giám; Nhà phủ học
mỗi năm 2 tên, nhà châu học 2 năm 5 tên, nhà huyên học mỗi năm 1 tên. Sau lại
quy định nhà phủ học mỗi năm 1 tên, nhà châu học 3 năm 2 tên, nhà huyện học 2
năm 1 tên.
Bộ Lại
khám hợp, lệnh cho 2 ty Bố chính và Án sát cùng [28b] các châu, huyện, ở Giao
Chỉ, hẹn đến ngày mồng 1 tháng giêng sang năm đến kinh triều cận, không kể là
chức chánh hay chức tá, chỉ cần người giữ chức lâu năm, cho dẫn đầu, đưa các
quan lại cùng đi. Lại khám các hạng mục hộ khẩu, ruộng đất lương thực trong 3
năm, từ tháng 7 năm Giáp Ngọ, đến cuối tháng 6 năm này, làm thành sổ "tu
tri"1381dâng lên để kê xét.
Hoàng
Phúc sức cho các hào phú, thổ quan là bọn Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy
Trung, Đỗ Hy Vọng, Lương Sĩ Vĩnh, Dương Cự Giác đều phải đem người nhà sang Yên
Kinh phục dịch, xây dựng cung điện. Vua Minh nói là làm khó nhọc người phương
xa, ban cho ưu hậu rồi cho về.
1378
Giấy khám hợp: giấy chứnh nhận có đóng dấu, được cắt làm hai nửa, người được
phéo cầm một nửa, quan nhà giữ một nửa, để khi khám xét, có thể ráp lại xem
đúng con dấu hay không.
1379
Hoành Châu: thuộc phủ Nam Ninh, sau là Hoành Huyện, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
1380 Vi
tử thủ: là những người sung vào làm công việc ở nơi quan phủ. Ở đây, có lẽ Phụ
chọn những người khỏe mạnh, can đảm đem vào dinh thự của mình để sai khiến và
đề phòng bất trắc.
1381 Tu tri: có nghĩa "cần biết . Sổ "tu tri" có nghĩa là sổ ghi số hộ khẩu, ruộng đất, lương thực cần phải biết để nắm tình hình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét