Ngày 18 tháng 11 năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 72/CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính các huyện Quan Hóa, Như Xuân, Đông Sơn, Thiệu Yên thuộc tỉnh Thanh Hóa. Với Nghị định này, cùng với việc thành lập các huyện Mường Lát, Quan Sơn tách ra từ huyện Quan Hóa, Thiệu Hóa tách ra từ huyện Thiệu Yên và Đông Sơn, huyện Như Thanh cũng ra đời trên phần đất tách ra từ huyện Như Xuân. Đây là những huyện có tuổi đời trẻ nhất trong số các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Thanh Hóa. Nếu tính đến thời điểm 1/7/2025, ngày xóa bỏ cấp huyện, các huyện này tồn tại vỏn vẹn có 30 năm, một tuổi đời không nhiều đối với đơn vị hành chính cấp huyện.
Huyện Như Thanh giáp huyện Triệu Sơn về phía bắc, huyện Tĩnh Gia và Nông Cống về phía đông, huyện Như Xuân và Thường Xuân về phía tây và tỉnh Nghệ An về phía nam. Huyện có tên Như Thanh là được ghép từ đầu của hai địa danh: Như Xuân và Thanh Hóa. Vì thế, nói một cách hình ảnh, Như Thanh chính là người con của huyện Như Xuân và tỉnh Thanh Hóa, cả về danh xưng và tuổi đời.
Như Thanh có diện tích 588,11km2, dân số là 106.690 người (năm 2022) với 4 dân tộc Kinh, Mường, Thái, Thổ, trong đó dân tộc Mường chiếm 23,43%, dân tộc Thái chiếm 19,21%, dân tộc Thổ chiếm 0,58%, còn lại là dân tộc Kinh. Trước khi sắp xếp chính quyền địa phương 2 cấp, Như Thanh có 13 đơn vị cấp xã và thị trấn Bến Sung.
Là đơn vị hành chính mới được thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Như Xuân, Như Thanh có lịch sử hình thành và tên gọi giống như huyện Như Xuân. Là huyện miền núi nhưng chỉ cách trung tâm tỉnh lỵ Thanh Hóa 35km, có đường giao thông thuận tiện, được quy hoạch trong vùng kinh tế động lực Nam Thanh – Bắc Nghệ nên so với các huyện miền núi khác Như Thanh có nhiều lợi thế để phát triển. Với cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, văn hóa tộc người độc đáo và phong phú, nhiều giá trị văn hóa được bảo tồn đã tạo cho Như Thanh lợi thế trong phát triển du lịch. Không chỉ cùng chung quyền sở hữu với huyện Như Xuân báu vật thiên nhiên là vườn Quốc gia Bến En, trên phần đất Như Thanh phần địa giới của vườn Quốc gia còn có nhiều hang động, di tích tâm linh, hồ đập nổi tiếng.
Về tự nhiên núi sông của huyện Như Thanh có thể kể đến núi Lâm Động tại xã Thanh Kỳ, núi Voi xã Yên Thọ, núi Nam xã Xuân Du. Rừng núi Như Thanh cũng là nơi bắt nguồn các con sông lớn của huyện Quảng Xương và Tĩnh Gia là sông Yên và sông Bạng. Đặc biệt, Như Thanh có hồ sông Mực nằm giữa Vườn Quốc gia Bến En rộng tới 2.000ha, có hơn 100 đảo nhô lên trên mặt hồ trong xanh, soi bóng xuống hồ là các cánh rừng nguyên sinh xanh mát với hệ động thực vật phong phú đã biến hồ sông Mực thành cảnh quan sinh thái tuyệt mỹ làm say lòng người.
Vườn Quốc gia Bến En vừa có giá trị sinh thái đặc biệt, đồng thời là tài nguyên du lịch quý hiếm. Khi đến nơi đây, ngồi trên thuyền thả trên mặt hồ ngắm nhìn rừng xanh, nước xanh, trời xanh ta như đang lạc vào tiên cảnh. Khí hậu ở đây rất mát mẻ do rừng xanh bao quanh hồ nước. Cùng với hệ sinh thái hồ, đảo, rừng và sự đa dạng sinh học, Bến En còn có dãy núi đá vôi, với hệ thống hang động đẹp còn giữ được nét đẹp nguyên sơ như hang Ngọc, hang Cận. Với cảnh quan vừa hùng vĩ vừa nên thơ nên Bến En được mệnh danh là “Hạ Long trên cạn” của xứ Thanh. Không chỉ có cảnh quan tuyệt đẹp được thiên nhiên ban tặng, Bến En còn là không gian văn hóa tộc người rất độc đáo. Đến Bến En ta không chỉ được đi thuyền ngắm cảnh trên sông Mực, tham quan các đảo, hang động mà còn có dịp trải nghiệm tại các làng bản, tìm hiểu cuộc sống của cư dân bản địa và giao lưu văn hoá với người dân ở đây. Hiện nay, tập đoàn Sun Group đang triển khai dự án đầu tư xây dựng nơi đây thành một quần thể khu du lịch nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí đẳng cấp với nhiều hạng mục, nếu hoàn thành sẽ trở thành điểm đến hàng đầu của du lịch quốc gia.
Nằm trong vùng đệm Vườn Quốc gia Bến En thuộc làng Xuân Tiến, xã Như Thanh là hang Ngọc. Đây là hang núi hoang sơ nằm ngay chân núi, ngoài cửa hang có dòng suối chảy qua với những khối đá cuội lớn lạ mắt. Đi qua cửa hang sẽ có hai ngách để vào trong. Hang có độ sâu khoảng 700m, chỗ rộng nhất có chiều dài 80m, rộng 8m, cao 2,5m. Hang Ngọc là động đá vôi do thời gian bào mòn tạo thành mang vẻ đẹp nguyên sơ, trên vòm và vách hang có những nhũ đá tự nhiên mang nhiều hình thù kỳ thú, ở mỗi góc nhìn ta lại thấy những hình thù khác nhau. Phần ngoài hang rất rộng, vòm trần như chiếc bát úp khổng lồ, nhũ đá tỏa xuống tua tủa trông như trên tiên giới. Ngay chính giữa hang là khối thạch nhũ rất lớn trông lấp lánh như ngọc nên được gọi là Hòn Ngọc và hang cũng được gọi là hang Ngọc. Trong lòng hang có một dòng suối nước trong vắt, mát lạnh, quanh năm không bao giờ cạn. Truyền thuyết dân gian và tín ngưỡng của người dân nơi đây lưu truyền, khi tắm nước hang Ngọc, con người sẽ được gột rửa hết tội lỗi và bụi trần.
Không chỉ có thiên nhiên hoang sơ và hấp dẫn, Như Thanh còn là vùng đất gắn với lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Tại các xã Như Thanh, Xuân Du, Thanh Kỳ…vẫn còn nhiều dấu tích, truyền thuyết gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Bình Định Vương Lê Lợi đã trú quân nơi đây khi chuyển hướng chiến lược đánh vào Nghệ An.
Đền Khe Rồng còn gọi là đền Đức Ông nằm bên bờ khe Rồng thuộc xã Như Thanh, là nơi thờ Mẫu Tam phủ gồm Đệ nhất phủ Liễu Hạnh, Đệ nhị phủ Thượng Ngàn, Đệ tam phủ Thủy cung. Tuy nhiên, đây là di tích gốc thờ một vị tướng có công trong khởi nghĩa Lam Sơn được tôn danh là Đức Ông. Theo sử cũ ghi lại, theo kế hoạch của tướng quân Nguyễn Chích, Lê Lợi đã tiến quân vào chiếm Nghệ An để làm bàn đạp tiến ra Bắc quét sạch quân Minh. Theo truyền thuyết, trên đường hành quân, một vị tướng đã ốm và mất tại vùng đất này. Sau khi lên ngôi, nhà vua đã cho lập đền thờ để ghi nhớ công lao của vị tướng đã mất. Trải qua biến thiên của thời gian, ngôi đền xưa đã không còn, di vật còn lại là chiếc khánh đá nhỏ có chạm hoa văn, chân tảng, gạch ngói nằm rải rác tại nền cũ. Hiện nay đền thờ Đức Ông đã được xây dựng mới có quy mô 3 gian 2 chái theo thức kiến trúc truyền thống và một số công trình khác trong không gian của đền như cổng tam quan, chùa Long Khê. Lễ hội đền Đức Ông được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 1 tháng giêng và mồng 1 tháng 03 âm lịch.
Đền thờ Bạch Y công chúa nằm ở xã Mậu Lâm là nơi thờ Bạch Y công chúa hay còn gọi là Bạch Y thần nữ, còn có tên gọi khác là đền Hạ Bồng, một địa danh được người Mường khai phá và đặt tên làng từ giữa thế kỷ 19. Đền còn được gọi là đền bà Chúa Thượng Ngàn. Theo tín ngưỡng dân gian của đồng bào miền núi Thanh Hóa, Bạch Y công chúa chính là phân thể của bà Chúa Thượng Ngàn, người cai quản vùng rừng núi. Đây chính là tín ngưỡng lưỡng giao phối thờ của người Việt - Mường trong đời sống tâm linh. Tuy nhiên, hạt nhân của hiện tượng độc đáo này là xuất phát từ nhân vật lịch sử có công phò vua giúp nước. Theo truyền thuyết, người có thần hiệu Bạch Y thần nữ là nhân vật có thật đã từng cứu Lê Lợi thoát khỏi sự truy đuổi của giặc Minh (hiện được phối thờ ở Lam Kinh). Ngôi đền xưa chỉ nhỏ 2 gian, làm bằng luồng lợp tranh, phía ngoài đặt tượng hộ pháp, đã bị hủy hoại trong kháng chiến chống Pháp. Hiện vật chỉ còn lại long ngai thần Bạch Y, bát hương, chuông đồng, kiếm thờ, một số đồ thờ cúng khác. Đặc biệt hiện còn 4 đạo sắc của các đời vua Thành Thái và Khải Định từ 1905-1925 đã sắc phong thần cho Thần Nữ. Trong những năm 2014 đến 2016, đền Bạch Y công chúa được đầu tư xây dựng mới. Đền xây dựng có kiến trúc chữ Đinh với tiền đường và hậu cung thông nhau. Hệ thống ban thờ 4 cấp nối từ nhà tiền đường đến hậu cung, cao nhất là ban thờ Thượng thiên Thánh Mẫu, ban thứ hai thờ Bạch Y Thượng Ngàn thánh Mẫu, ban thứ ba thờ Công đồng và ban dưới cùng thờ Thủy phủ. Ở gian Tiền đường, bên trái là ban thờ đức Thánh Trần, bên phải là ban thờ Mẫu. Hàng năm vào ngày 18 tháng giêng âm lịch tại đền thờ diễn ra lễ hội rước linh vị Bạch Y công chúa và các hoạt động văn hóa của nhân dân địa phương.
Nói đến di tích của Như Thanh không thể không kể đến Na Sơn động phủ nằm ở xã Xuân Du, nơi thờ Mẫu nổi tiếng linh thiêng, điểm không thể bỏ qua trong hành trình lễ hội “lên rừng xuống biển”, một phong tục cầu may đầu năm của người dân xứ Thanh. Phủ Na là nơi thờ Mẫu, trong đó thờ cả thiên thần và nhân thần là: mẫu Âu Cơ, mẫu Thượng Thiên, mẫu Thượng Ngàn và Bà Triệu. Không chỉ thế, điều thú vị là dấu ấn tín ngưỡng nguyên thủy của người Mường cũng song song tồn tại nơi đây, đó là tín ngưỡng thờ mẹ Âu Cơ, chúa Cửa Rừng và thánh Tản Viên. Có thể thấy thần điện ở Phủ Na là sự hòa phối, giao thoa của hệ tín ngưỡng Việt - Mường. Theo nghiên cứu, các công trình kiến trúc của phủ Na hiện nay được xây dựng vào thời nhà Nguyễn (1909). Về mặt kiến trúc, Phủ Na bao gồm nhiều hạng mục công trình được bố trí theo thế núi và không gian rộng lớn nơi đây. Ngoài cùng là đền Cô Ba (đền đón), đi qua cây cầu nhỏ là vào khu vực chính điện. Chính điện được kiến trúc theo lối kiến trúc truyền thống hình chữ Tam thờ Mẫu và Đức Ông (gồm 3 cung Đệ nhất, Đệ nhị và Hậu cung) được bài trí các ban thờ cúng uy nghi, đẹp mắt. Nằm sâu trong phía trong, sát với vách núi là đền thờ bà Chúa Thượng và đền thờ Cô Chín, nơi đây có giếng Tiên với dòng thác nhỏ chảy từ trên đỉnh núi xuống nước trong vắt, mát rượi quanh năm. Trong không gian với Phủ Na là công trình hạt nhân còn có các công trình kiến trúc tín ngưỡng phụ cận như: đền Quan Hoàng, lầu Cô, lầu Cậu. Vẻ đẹp trong quy mô kiến trúc, độc đáo trong tín ngưỡng thờ cúng dân gian cùng với phong cảnh sơn thủy hữu tình và hệ thống đền miếu quy tụ ở bên sườn Na Sơn hùng vĩ đã tạo nên cho Phủ Na thành một quần thể di tích lớn và có giá trị. Đến Phủ Na, ngoài việc được thỏa mãn các nhu cầu mang tính tín ngưỡng tâm linh, còn có thể kết hợp thưởng ngoạn cảnh quan sinh thái với núi non trùng điệp. Cùng với Phủ Na là lễ hội Phủ Na mỗi năm hai lần, lần một kéo dài từ tháng 1 đến tháng 2 âm lịch hằng năm và lần hai từ mồng 1 đến ngày 16 tháng 8 âm lịch. Theo tín ngưỡng dân gian, hằng năm cứ mỗi độ xuân về, đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương lại trở về trẩy hội Phủ Na, vừa để thắp hương tưởng nhớ những người có công với đất nước, đồng thời mong muốn cầu nguyện cho một năm mới quốc thái dân an, mùa màng tốt tươi, mọi người may mắn, an lành, gia đình khoẻ mạnh. Ngoài các phần nghi thức khai hội của chính quyền địa phương, điểm nhấn của lễ hội Phủ Na là các hoạt động tế lễ mang tính tín ngưỡng thờ Mẫu như: rước bóng, rước kiệu, lễ tế Tứ Phủ, lễ tế Bà Triệu của bản đền, bản hội và tín đồ thập phương. Ở phần hội, các hoạt động văn hóa văn nghệ, các trò chơi dân gian cũng được tổ chức góp phần làm cho lễ hội thêm sinh động và hấp dẫn.
Đền Phủ Sung nằm ở xã Như Thanh nơi thờ mẫu Tam phủ gồm: Thượng ngàn Thánh Mẫu, Thiên tiên Thánh Mẫu và Thoải cung Thánh Mẫu. Đền phủ Sung được xây dựng năm Thành Thái thứ 9 (1897), trải qua thời gian đã bị hủy hoại thành phế tích. Trong những năm 2011-2015 bằng nguồn kinh phí chống xuống cấp và các nguồn tài trợ, địa phương đã tiến hành xây dựng lại nhà từ đường và một số hạng mục. Hiện nay đền có 5 gian thờ Tam tòa Thánh mẫu và phối thờ các vị thần núi, thần sông. Cách bài trí nội thất đồ thờ là theo văn hóa truyền thống. Ngoài cùng là nghi môn, tiếp đến là sân đền có diện tích 210m2, ba phía có tường rào được xây bằng gạch. Nhà bái đường có 5 gian, 4 vì, 2 mái theo thức kiến trúc cổ truyền. Việc bố trí nơi thờ tự trong bái đường được bố trí ở gian giữa, nơi có hai câu đối treo trên hai cột. Bệ thờ được xây thành 3 bậc, trên cùng thờ mẫu; bệ thứ hai có một bát hương, hai cây đèn và một lư hương bằng đồng; bệ thứ ba có một bát hương ở giữa và hai ống hương đồng hai bên. Hiện ngôi đền còn lưu giữ được một số hiện vật gốc có giá trị như lư hương đồng hình tròn thời Nguyễn, hai ống hương bằng đồng, một con chó đá, mười hai hòn đá tảng.
Cùng với các di tích lịch sử văn hóa, Như Thanh còn có di tích lịch sử - cách mạng là lò cao kháng chiến Hải Vân nằm trong khu căn cứ cách mạng Đồng Mười. Di tích cách mạng này gắn với tên tuổi giáo sư Trần Đại Nghĩa và kỹ sư Võ Quý Huân. Lò cao bắt đầu được xây dựng vào năm 1949 để sản xuất gang, thép cho quân giới chế tạo súng đạn phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Mùa thu năm 1949, lò bắt đầu được xây dựng. Sau 15 tháng gian khổ vận chuyển hàng trăm tấn máy móc và nguyên liệu từ Nghệ An ra, Ninh Bình vào, đến tháng 9 năm 1951, lò cao thứ nhất được hoàn thành, tiếp đó lò cao thứ hai được xây dựng. Ngày 19/12/1951 mẻ gang đầu tiên ra lò, đánh dấu bước trưởng thành của ngành công nghiệp phục vụ kháng chiến kiến quốc. Trong ba năm, từ tháng 9 năm 1951 đến tháng 12 năm 1954, cán bộ, công nhân quân khí đã nêu cao ý chí kiên cường, vượt mọi khó khăn, thiếu thốn, vất vả để cho ra lò 500 tấn gang, góp phần đáng kể vào việc chế tạo vũ khí phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cuối năm 1953, quân Pháp phát hiện được cơ sở cơ khí của ta ở đây nên đã cho máy bay bắn phá ác liệt. Để tiếp tục sản xuất, lò được chuyển vào lắp đặt hoàn chỉnh trong lòng hang núi đá Đồng Mười và lấy tên là Lò cao Hải Vân để kỷ niệm chiến thắng to lớn của quân ta tại đèo Hải Vân (Đà Nẵng). Sau chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, đến tháng 12/1954, lò cao Hải Vân ngừng hoạt động. Ngày nay, toàn bộ núi và hang Đồng Mười, nơi có lò cao Hải Vân, là di tích lịch sử - cách mạng còn được bảo tồn tương đối nguyên vẹn cả về cảnh quan thiên nhiên và di tích. Hiện nay tại di tích còn lò ủ gang (lò đứng/lò cao), “trái tim” của cỗ máy sản xuất gang từ những năm 50 của thế kỷ trước. Bước qua cửa hang là một không gian rộng, thoáng. Lò ủ nằm ở cuối hang chính, sát với vách đá và cao gần chạm trần hang. Lò được cấu trúc thành 5 tầng theo kiểu hình trụ tháp, mặt trong lát gạch chịu lửa, mặt ngoài bọc sắt. Lò được đặt trên 4 trụ sắt hình chữ Y, đỉnh được neo giữ vào trần hang bằng dây thép và cọc sắt, miệng lò vẫn còn lỗ thoát khí và thoát khói. Đặc biệt, trên các vách hang còn nhiều câu khẩu hiệu: “Đào sâu nhớ kỹ, kiểm điểm thành tích, viết tự thuật đầy đủ cụ thể”; “Đề cao tương trợ, đẩy mạnh sản xuất, giúp nhau kiểm điểm lấy thành tích, viết tự thuật tốt”... Ngày 18/4/2013, Lò cao kháng chiến Hải Vân đã được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Cùng với các di sản văn hóa vật thể, vùng đất Như Thanh còn lưu giữ các di sản văn hóa phi vật thể rất độc đáo như lễ múa cây bông, trò chơi tung còn, trò đẩy gậy.
Lễ múa cây bông của cộng đồng người Thái ở bản Mó Một, xã Xuân Du (lễ hội Séc Booc Mạy) có từ xa xưa. Hàng năm vào ngày mồng 10 Tết, người Thái ở bản Mó Một lại tổ chức lễ hội với ước mong được thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, sức khỏe dồi dào, bản làng yên vui. Lễ vật để cúng là những sản vật tự nhiên, đặc biệt có một con lợn do chính nhà thầy Mo nuôi và chăm sóc trong một năm. Cúng lợn có ý nghĩa quan trọng trong lễ hội bởi con lợn sẽ mở đường dẫn âm binh lên mường Trời để bẩm báo với Pó Then (Trời) về việc Mo Mùn dưới Mương Piêng (trần gian) đã làm được nhiều việc tốt, thay mặt cho người Mương Piêng xin cảm tạ Pó Then không để cho các dịch bệnh đi xuống mường dưới và ban cho mường dưới được mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt. Ngoài ra, lễ vật còn có một mâm xôi, một con gà, rượu 4 mâm 4 chai, mỗi mâm 2 quả trứng gà và 1kg gạo, 4 khăn vuông của người Thái, nến bằng sáp ong, 4 cái kiếm và một số đồ trong túi của thầy Mo, 4 cái đệm ngồi của người Thái dệt, 4 khăn piêu, 4 cái ô tự làm. Trong lễ cúng có 4 thầy cúng được thầy Mo mời đến dự, dựng cây hoa (cây bông) giữa nhà và 1 hũ rượu cần để trước cây hoa. Cây bông được làm bằng tre hoặc luồng, hoa cây bông, cây dâu, cây sắn, cây chục bục với các hình chim, thú, dụng cụ lao động sản xuất. Tùy thuộc vào thế hệ nhà Mo mà cây bông được làm 3, 5, 7, 9 tầng. Hiện nay, cây bông trong lễ hội được làm 9 tầng, với hàng ngàn hoa. Mỗi cây bông được ví như một số phận con người, mỗi bông hoa là một mùa vụ. Trên cây hoa có 1 dây dài vắt từ bàn thờ Mo Mùn đến đỉnh cây hoa gọi là “sái mương” và khi kết thúc lễ hội thầy Mo sẽ đưa cây hoa lên mường trời tặng Pó Then. Khi đã sửa soạn lễ xong, thầy Mo bắt đầu hành lễ, cúng rước thần linh, thần đất, thần nước, thần sông, thần núi, thần đồi, để báo cáo tổ tiên và các đấng bề trên về chứng cho lòng thành của dân làng, giúp xua đuổi quỷ dữ, tà ma và phù hộ mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu để dân làng được ấm no, hạnh phúc. Thầy Mo cũng không quên xin Pó Then cấp sắc (thăng chức) cho Mo Mùn để Mo Mùn có thể diệt trừ tà ma, ác quỷ, thần trùng. Sau khi phần lễ kết thúc, phần hội diễn ra với cây bông là vật trung tâm. Bên cây bông, điệu múa khăn, múa kiếm, múa ô, nhảy sạp được các cô gái, chàng trai trình diễn một cách điêu luyện, các trò diễn như lễ cầu mưa, đi cày, đi cấy, trỉa hạt, gặt lúa, giã gạo hay như bắt cá, trồng bông, dệt vải, thêu thùa, quay tơ... được tái hiện lại một cách sinh động.
Trò đẩy gậy là môn thể thao dân gian truyền thống của đồng bào các dân tộc ở huyện Như Thanh. Cơ sở vật chất, dụng cụ cho môn chơi này rất đơn giản. Để tổ chức thi đấu môn thể thao này chỉ cần có gậy thi đấu làm bằng loại gỗ tốt hoặc tre già có chiều dài 2m, được sơn 2 màu khác biệt (thường sơn màu đỏ - vàng hoặc đỏ - trắng); thân gậy được làm nhẵn và có đường kính bằng nhau (khoảng 5cm). Sân thi đấu là một vòng tròn có đường kính 5m, có vạch giới hạn rộng 5cm. Trọng tài môn này thường mặc trang phục đồng bào dân tộc hoặc trang phục màu đen có thắt lưng bằng vải đỏ. Sau khi có khẩu lệnh “cầm gậy”, người chơi mới được phép cầm gậy. Trọng tài một tay cầm chính giữa gậy, hô “chuẩn bị”, sau đó thổi một hồi còi phát lệnh cho hiệp đấu bắt đầu, đồng thời buông tay cầm gậy ra. Theo quy định người nào bị đẩy ra khỏi vòng tròn trước là thua cuộc. Mỗi cuộc thi đẩy gậy thường diễn ra từ 2-3 hiệp (không hạn chế thời gian). Đẩy gậy là môn thể thao dân tộc kết hợp giữa sức khỏe và sự khéo léo của người chơi, sức mạnh là yếu tố cơ bản quyết định sự thắng thua, nhưng bên cạnh đó những yếu tố quan trọng như: tâm lý, kỹ thuật, kinh nghiệm thi đấu, sự dẻo dai cũng là yếu tố không thể thiếu. Trong các dịp lễ hội, lễ trọng của làng bản, đẩy gậy không chỉ dừng lại là trò chơi, mà nó còn là một diễn ngôn nhằm biểu dương sức mạnh về thể chất của cộng đồng dân cư
Trò tung (ném) còn là trò chơi dân gian gắn liền với đời sống sinh hoạt và lao động của dân tộc Thái, Mường ở huyện Như Thanh. Trò chơi này thường được tổ chức vào dịp đầu năm mới, đặc biệt là trong các dịp lễ hội. Đây là dịp để đồng bào vui chơi, giao lưu kết bạn, thậm chí giao duyên với sự tham gia của đông đảo các nam thanh, nữ tú. Để thực hiện trò chơi tung còn chỉ cần có quả còn, cây nêu và sân bãi rộng. Sân tung còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây nêu bằng tre, trên đỉnh cột buộc một “vòng còn” hình tròn đường kính 40 - 50cm, một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Quả còn hình cầu, to bằng nắm tay trẻ nhỏ, bên trong nhồi thóc và hạt bông, có các tua vải nhiều màu trang trí. Chơi tung còn phải có hai đội, một đội nam và một đội nữ, hoặc hỗn hợp nam, nữ mặc sắc phục truyền thống của dân tộc mình, lấy cây nêu làm ngăn cách, nhìn hướng vào nhau. Số lượng người chơi ở mỗi đội không hạn chế. Mỗi đội được làm hai quả còn và đều muốn quả còn của mình đẹp nhất, rực rỡ nhất. Mở đầu cuộc chơi là phần nghi lễ, thầy Mo dâng hai quả còn làm lễ giữa trời đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no ấm. Sau phần nghi lễ, thầy mo cầm hai quả còn đã được “ban phép” tung lên cho mọi người tranh cướp, khai cuộc chơi ném còn. Người chơi đứng đối mặt với nhau qua cây còn, tung quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột là thắng cuộc. Tung còn là trò chơi hấp dẫn nhất của trai gái trong dịp hội xuân, hội làng, dịp lễ lớn của Mường, của đất nước. Trong dịp xuân mới, cuộc chơi thường kéo dài suốt mấy ngày hội và khi bóng chiều xuống dần, họ lại cùng nhau quây quần nâng chén rượu nồng chúc nhau khỏe mạnh, hạnh phúc, nhà nhà đầy thóc, đầy ngô, lợn gà đầy chuồng. Trước khi khép hội, thầy mo rạch quả còn lấy hạt thóc, hạt bông bên trong tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người ta quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn. Hội tung còn đầu xuân còn là hội của tình yêu đôi lứa, nhiều đôi trai gái nên vợ chồng cũng bắt nguồn từ tham gia trò chơi này.
Chợ Bến Sung nằm ở trung tâm xã Như Thanh, được xây dựng sau khi thành lập Thị trấn Bến Sung năm 2002. Chợ là đầu mối giao thương không chỉ của nhân dân trong huyện mà điểm trao đổi hàng hóa của vùng rừng Như Thanh, Như Xuân và đồng bào dưới xuôi lên đây. Vì vậy, đây không chỉ là nơi buôn bán, giao thương hàng hóa mà còn là nơi giao lưu văn hóa đa sắc màu giữa các tộc người. Chợ được xây dựng quy mô, kiên cố, các mặt hàng được chia thành từng khu chuyên biệt. Chợ bán rất nhiều mặt hàng, từ đồ gia dụng, dân dụng, may mặc,… cho đến lương thực, thực phẩm. Đặc biệt, hàng hóa ở chợ mang đậm màu sắc của núi rừng, đó là các sản vật đặc sản của vùng rừng núi Như Thanh, Như Xuân như: mật ong, thuốc nam, măng, rau sắng, chuối, các loài thủy sản sông suối, đặc biệt là cá sông Mực. Chợ cũng có những gian hàng bán các sản phẩm do người Mường, người Thổ sản xuất như: thổ cẩm, vải vóc, đồ dùng cá nhân, dụng cụ gia đình, công cụ sản xuất. Khi đến thăm chợ, ngoài việc mua được những món hàng hóa mang đậm bản sắc vùng miền, người đi chợ còn được ngắm nhìn những bà, những cô bán hàng mang trên mình những bộ trang phục, trang sức truyền thống đầy sắc màu, được nghe giọng nói, câu hát bằng đúng chất giọng của đồng bào dân tộc Mường, Thổ
Làng du lịch cộng đồng Roọc Răm ở xã Yên Thọ là ngôi làng cổ, nằm trong vùng đệm của Vườn Quốc gia Bến En, nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc Thái, Mường. Đây cũng chính là địa điểm diễn ra lễ hội kin chiêng boọc mạy, di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, vô cùng đặc sắc. Làng Roọc Răm còn nổi tiếng với di tích đền Cấm linh thiêng gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hiện nay dự án làng du lịch cộng đồng Roọc Răm đang trong giai đoạn hình thành. Khi đi vào hoạt động, làng du lịch sẽ mang đến cho du khách sản phẩm du lịch sinh thái, trải nghiệm đậm chất văn hóa bản địa. Đến đây du khách được tham gia các hoạt động sinh thái gắn liền với núi rừng, tham quan danh thắng tự nhiên, trải nghiệm cuộc sống thường ngày của các gia đình dân tộc Thái, Mường, cũng như tìm hiểu về truyền thống văn hóa của người dân bản xứ thông qua các hoạt động sinh hoạt thường ngày và lễ hội văn hóa dân gian. Đặc biệt, lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy của người Thái ở đây đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2018.
Thực hiện cuộc cách mạng sắp xếp đơn vị hành chính và tinh giản tổ chức bộ máy, sau 30 năm ra đời, tồn tại và phát triển đến nay huyện Như Thanh không còn. Từ 1/7/2025, 13 xã và 1 thị trấn, Như Thanh sẽ còn 6 xã là: Như Thanh, Xuân Du, Mậu Lâm, Yên Thọ, Thanh Kỳ và xã Xuân Thái.
Là vùng miền núi thấp, chuyển tiếp giữa miền núi cao và đồng bằng nam Thanh Hóa, Như Thanh không chỉ có những lợi thế về cảnh quan thiên nhiên, văn hóa tộc người phong phú mà còn nằm trong khu vực kinh tế động lực Nam Thanh - Bắc Nghệ. Dù huyện Như Thanh không còn nhưng vùng đất mang tên Như Thanh vẫn còn đó, cảnh quan thiên nhiên đặc sắc vẫn còn đó, những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các tộc người vẫn còn đó để vùng đất này tự tin vào tương lai tươi sáng của mình.
Ps: Hồ sông Mực ở vườn QG Bến En


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét